Upload
others
View
8
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Sơ nét tìm hiểu
Đại Thủ Ấn 大手印
Mahāmudrā
*** Nội dung
1. Tổng quan về Đại Thủ Ấn.
2. Truyền thừa Đại Thủ Ấn.
3. Pháp học Đại Thủ Ấn.
3.1. Các loại Đát-đặc-la (怛特羅; S: Tantra).
1) Tác Đát-đặc-la (S: Kriyā-tantra)
2) Hành Đát-đặc-la (S: Caryā-tantra)
3) Du-già Đát-đặc-la (S: Yoga-tantra)
4) Vô thượng Du-già Đát-đặc-la (S: Anuttarayoga-tantra)
3.2. Các loại Quán đỉnh (灌頂; S: Abhiṣeka).
1) Quán đỉnh Bình (S: Kalābhiṣeka)
2) Quán đỉnh Bí mật (S: Guhyābhiṣeka
3) Quán đỉnh Trí tuệ (S: Prajñābhiṣeka)
4) Quán đỉnh Ngữ tôn quý (S: Caturthābhiṣeka)
3.3. Các dạng Đại Thủ Ấn.
1) Thực trụ Đại Thủ Ấn.
2) Không lạc Đại Thủ Ấn
3) Quang minh Đại Thủ Ấn
4. Pháp hành Đại Thủ Ấn.
4.1. Hành trì Đại Thủ Ấn nơi các tông phái.
1) Trường phái Gelug 2) Trường phái Kagyu.
3) Ý nghĩa thực và biểu tượng của tâm hành (= tinh thần).
Mắt Phật (Buddha Eyes)
- Bản tính tương đối : Là Tục đế 俗諦.
- Bản tính tuyệt đối : Là Chân đế 真諦.
- Vượt thoát đối đãi Nhị nguyên 二元.
4.2. Lộ trình tu tập Đại Thủ Ấn.
- Sáu pháp của Na-lạc-ba - Thiền chỉ & Thiền quán
1) Kiến (見; S: darśana) 2) Tu (修; S: bhāvanā)
3) Hành (行; S: caryā).
4.3. Những điểm chính của pháp tu Đại Thủ Ấn.
1) Quân bình 2) Buông xả 3) Tự nhiên.
4.4. Những kinh nghiệm trong tu tập Đại Thủ Ấn.
1) Kinh nghiệm về nhận thức trong tu tập Đại Thủ Ấn.
2) Kinh nghiệm về cảm nhận trong tu tập Đại Thủ Ấn.
3) Kinh nghiệm về nhầm lẫn trong tu tập Đại Thủ Ấn.
4) Kinh nghiệm về sai lầm trong tu tập Đại Thủ Ấn.
4.5. Tu tập Đại Thủ Ấn bằng nghịch cảnh.
4.6. So sánh tu tập Đại Thủ Ấn và Thiền tông.
1) Người hướng dẫn 2) Quá trình tu học
3) Phương tiện tu học.
Bài đọc thêm:
1. Tam thân. 1) Pháp thân 2) Báo thân 3) Ứng thân
- Đại thừa (Đại Chúng bộ // Thiền tông)
- Kim Cương thừa.
2. Mật tông Tây Tạng.
- Tạp Mật - Thuần Mật.
1) Phái Nyingma (Ninh-mã phái – Mũ đỏ)
2) Phái Kagyu (Ca-nhĩ-cư phái – Mũ đỏ)
3) Phái Sakya (Tát-ca phái – Mũ đỏ)
4) Phái Gelug (Cách-lỗ phái – Mũ vàng)
NBS: Minh Tâm 10/2020
1. Tổng quan về Đại Thủ Ấn.
Mahamudra - Wikipedia
Đại thủ ấn – Wikipedia tiếng Việt
Đại Thủ Ấn (大手印; S: Mahāmudrā; E: Great Seal, Great
Imprint), hay nói gọn là Đại Ấn 大印: Đây được cho là biểu tượng cho
“Thiền đốn ngộ Tây Tạng”, là một trong những giáo pháp cứu cánh của
truyền thống Kim Cương thừa (S: Vajrayāna), nhằm thành tựu cách
riêng cho hành giả về Giới-Định-Tuệ (= thành tựu về Đạo đức và Chân
lý nơi hành giả).
Đại Thủ Ấn được truyền dạy quan trọng trong tông phái Ca-nhĩ-cư
(迦爾居派; TT (Tây tạng): Kagyupa བཀའ་བ&ད་པ་; E: Kagyu) của Tây
Tạng.
Ý nghĩa Đại Thủ Ấn được phân tích như sau:
- Đại (大; S: Mahā): Lớn
- Thủ 手: Tự tay làm, đích thân làm // Tay (của Phật). Đồng nghĩa
với Trì 持: Cầm, giữ, nắm.
- Ấn (印; S: Mudrā): Con dấu (cái ấn) // Ấn hay Tâm ấn là dấu
chỉ trọng yếu cho sự chứng ngộ của hành giả đối với Không tính (空性;
S: Śūnyatā) và giải thoát khỏi sự bị động trong Luân hồi (輪迴; S:
Saṃsāra). Không tính và Luân hồi được xem là hai mặt không rời nhau.
Chữ Ấn còn có ý nghĩa biểu thị trí vô phân biệt Nhị nguyên của Phật, là
trí tối thượng, tối yếu, tối mật.
Theo đó, Đại Thủ Ấn được xem là giáo pháp lớn và trọng yếu về
chân lý – đó là chân lý Duyên khởi, giúp cho chính hành giả hiện thực sự
chứng ngộ Không tính và giải thoát Luân hồi. Chữ “Đại Thủ Ấn” có
nhiều nghĩa, có khi còn gọi là Đại Biểu Tượng, nhưng nghĩa trực tiếp
nhất chính là một trực nhận về thế giới và từ đây sử dụng như một bảo
ấn lớn để hợp nhất “Niết-bàn và Sinh tử”, đó là trực nhận được Bất Nhị
tính của vạn pháp. Đại Thủ Ấn với nghĩa này, như là một pháp đốn ngộ.
Bản chất của Đại Thủ Ấn (= Duyên khởi) là bao trùm vạn pháp: cả
bên ngoài, bên trong tâm, nơi chính bản thân chúng ta, và tất cả chúng
sinh.
2. Truyền thừa Đại Thủ Ấn.
Sơ đồ truyền thừa phái Ca-nhĩ-cư.
Giáo pháp Đại Thủ Ấn vốn xem biểu tượng đức Phổ Hiền (普賢;
S: Samantabhadra) là Bản sơ Phật, là hiện thân của Pháp thân [法身; S:
Dharmakāya, thuộc Tam thân (三身; S: Trikāya)], tức Chân lý. Dần về
sau đức Phổ Hiền được gọi là Dorje Chang Buddha (Phật Kim Cương
Trì 佛金剛持; S: Vajradhāra) là vị đã truyền Đại Thủ Ấn cho Đại
Thành Tựu giả (大成就者; S: Mahāsiddha) tên là Tilopa (Đế-la-ba).
Sau đó Tilopa tiếp tục truyền cho Naropa (Na-lạc-ba) ở Ấn Độ. Cho đến
khi Marpa (Mã-nhĩ-ba) được chân truyền giáo pháp này và mang về Tây
Tạng chỉ dạy cho Milarepa (Mật-lặc Nhật-ba).
Đạo sư Marpa, 1012-1097, nổi tiếng miền Nam Tây Tạng qua 3
lần đến Ấn Độ và bốn lần đi Nepal, đã mang về Tây Tạng nhiều giáo
pháp, trong đó nổi bật nhất là Đại Thủ Ấn. Đạo sư Marpa là thầy của
Milarepa còn được nhìn như là điển hình lý tưởng của trường hợp người
vừa tu vừa có vợ con, đồng thời vừa thành tựu Chánh pháp vừa lo những
trách nhiệm đối với trần gian.
- Lần đầu tới Ấn Độ, Marpa gặp Đạo sư Naropa và theo học suốt
16 năm. Theo lịch sử, Marpa theo học tất cả là 108 vị thầy, nhưng hai vị
thầy chính yếu là Naropa và Maitripa. Trở về Tây Tạng, Marpa dịch các
bản văn mang về ra tiếng Tây Tạng, sống đời của một nông dân và có
nhiều con với vợ là Dagmema.
- Lần thứ nhì từ Ấn Độ về, Marpa nhận Milarepa (1025-1135) làm
học trò sau khi đã thử thách thật gian nan người đệ tử mới này.
- Lần thứ ba đi Ấn Độ, Marpa gặp Đạo sư Atisha (980/90-1055) và
gặp lại bổn sư Naropa lần cuối. Marpa đã tiên tri ra việc tông phái Ca-
nhĩ-cư sẽ phát triển mạnh mẽ ở Tây Tạng, trong đó Milarepa đóng một
vai trò rất lớn. Các sách về cuộc đời Milarepa đã được dịch ra Việt ngữ
nhiều lần.
Mật-lặc Nhật-ba – Wikipedia
Milarepa - Wikipedia, the free encyclopedia
Riêng với Đạo sư Maitripa, đã truyền trực tiếp cho Marpa trực
nhận Bất Nhị tính (tính chất không phân biệt) của vạn pháp, đó là cứ tự
nhiên để tâm an trụ trong cái nhìn Bất Nhị này. Khi dòng chảy niệm
đứng lại, thì ý nghĩa hiện ra. Và tất cả mọi hành động và nỗ lực thiền
đều không cần thiết, bởi vì Thực tính của vạn pháp lúc nào cũng là Vô tự
tính.
Đó là:
Bất Nhị tính = Thực tính = Vô tự tính = Duyên khởi tính
Những kinh sách trọng yếu liên quan đến Đại Thủ Ấn gồm có:
- Trang Nghiêm Giải Thoát Đạo Luận.
- Câu Sinh Hòa Luận.
Tantra - Wikipedia
Đát-đặc-la – Wikipedia tiếng Việt
Hình ảnh Mạn-đà-la “Kim Cương giới”
Đát-đặc-la (怛特羅; S: Tantra) có nghĩa gốc là "tấm lưới dệt",
"mối liên hệ", "sự nối tiếp", "liên tục thống nhất thể". Đát-đặc-la còn
được xem là đồng nghĩa với Thành tựu pháp (成就法; S: Sādhana hoặc
Tantra).
Hai từ Sanskrit là Sādhana và Tantra cũng được dịch là Nghi quỹ
(儀軌), với nghĩa chung là luật tắc, luật lệ, quỹ phạm, tín ngưỡng truyền
thống. Nhưng trong Kim Cương thừa thì từ Sādhana thường được dịch
là Thành tựu pháp để chỉ những bài chú về những phép tu thiền định,
nhằm dẫn đến sự thành tựu viên mãn (= giác ngộ-giải thoát).
Những bài Thành tựu pháp thường thường trình bày các Thần thể
(S: Iṣṭadevatā, Sādhita; TT: Yidam) là hiện thân của những vị Phật hay
Bồ-tát siêu việt như (Văn Thù, Phổ Hiền, Địa Tạng, Đại Thế Chí, Quán
Thế Âm …) như là những thực thể mà hành giả có thể tiếp cận được và
cách thức thực hiện linh ảnh các vị đó. Trong Phật giáo Tây Tạng, đây là
phương pháp tu học phổ biến, nhưng luôn luôn cần sự hướng dẫn của
một vị Đạo sư (S: Guru). Mỗi hành giả sẽ được truyền tâm bằng một câu
Chân ngôn liên quan đến một vị Thần thể này hỗ trợ.
Phần thực hiện Thành tựu pháp bao gồm 3 phần là phần chuẩn bị,
phần chính và phần chấm dứt.
- Phần chuẩn bị thường là Quy y Tam Bảo (= nương tựa vào chân
lý Duyên khởi) và phát triển Bồ-đề tâm (= nhận thức giác ngộ về chân lý
Duyên khởi).
- Phần chính thường gồm có giai đoạn bắt đầu, giai đoạn tạo tác
linh ảnh của một Thần thể và giai đoạn xoá tan linh ảnh. Đó là lúc mà
hành giả trực nhận Không tính, Chân như (= như thật, lẽ thật, chân lý).
- Phần chấm dứt thường gồm có các lời chúc hay hồi hướng.
Đối với Phật giáo Tây Tạng thì việc tạo linh ảnh một Thần thể
không hề có tính huyền hoặc hay cầu xin một đấng nào bên ngoài. Đó
chỉ là phương pháp để tự đồng hoá với một nguyên lý năng lượng nơi
chính mình. Các vị Phật trong hệ thống Ngũ Trí Như Lai là những hình
ảnh cơ bản nhất của các linh ảnh đó.
Ngũ Trí Như Lai = Ngũ Phương Phật
Trong Phật giáo Tây Tạng, Đát-đặc-la trong nghĩa rộng nhằm chỉ
tất cả các kinh sách về nhiều ngành khác nhau (như Đát-đặc-la y học,
Đát-đặc-la thiên văn...). Ở nghĩa hẹp, Đát-đặc-la chỉ tất cả các sách vở
nói về phép tu thiền của Kim Cương thừa và cũng được dùng để chỉ
những phép tu thiền này. Phép tu thiền Đát-đặc-la có tính chất kinh
nghiệm cá nhân, và thường dựa trên ba khái niệm là: Nhân, Đạo, Quả.
- Nhân hay Căn (S: Hetu) Đại Thủ Ấn: Là nói đến đến tình trạng
ô nhiễm của chính hành giả và tất cả chúng sinh. Mặc dù mọi chúng sinh
luôn hiện hữu Phật tính (= Duyên khởi tính) và thanh tịnh từ vô thủy,
nhưng vì vô minh chấp ngã, ác nghiệp nhiễm ô sâu dày nên không nhận
ra. Đây chính là Nhân Đại Thủ Ấn hay Căn Đại Thủ Ấn.
- Đạo (S: Mārga) Đại Thủ Ấn: Là phương pháp thanh lọc con
người từ ô nhiễm đến thanh tịnh. Để thành tựu điều này, hành giả cần
hạnh ngộ bậc Thượng sư đã giác ngộ Đại Thủ Ấn, để hành thiền và
chứng đạt chân lý như Ngài. Đây chính là Đạo Đại Thủ Ấn.
- Quả (S: Phala) Đại Thủ Ấn: Là trạng thái thanh tịnh tuyệt đối
của hành giả chứng ngộ, là chứng ngộ Đại Thủ Ấn (= thành tựu giới-
định-tuệ) một cách hoàn toàn. Đây chính là Quả Đại Thủ Ấn.
Ba giai đoạn này được Đát-đặc-la chỉ bày trong vô số phương tiện
khác nhau. Người ta cho rằng khi Phật Thích Ca đã thể hiện Phật quả
qua dạng Pháp thân (S: Dharmakāya) thì Ngài đã hành trì Đát-đặc-la. Vì
vậy cũng có người xem đức Phật là người sáng lập Đát-đặc-la.
Truyền thống Tây Tạng chia Đát-đặc-la làm bốn loại tương úng
với căn cơ của từng người:
1) Tác Đát-đặc-la (S: Kriyā-tantra): Đó là Đát-đặc-la hành động
(= tác 作) nghi lễ. Hành giả tu tập Đát-đặc-la này kết đàn tràng, cúng
dường, đọc chú, bắt ấn nhưng chưa quán tưởng, tu tập thiền định.
2) Hành Đát-đặc-la (S: Caryā-tantra): Đó là Đát-đặc-la thực hành
tu luyện (= hành 行) hằng ngày, dành cho những hành giả tu tập nhưng
không cần hiểu rõ lý tột cùng.
3) Du-già Đát-đặc-la (S: Yoga-tantra): Đó là Đát-đặc-la luyện
tâm bằng phương pháp tu thiền.
4) Vô thượng Du-già Đát-đặc-la (S: Anuttarayoga-tantra): Đó là
phương pháp luyện tâm tột cùng, thành Phật ngay trong kiếp này, với
thân này.
Sự khác nhau giữa bốn cấp này xuất phát từ căn cơ của hành giả và
tính hiệu quả của các phép tu. Các tác phẩm quan trọng của Vô thượng
Du-già Đát-đặc-la là:
- Bí mật Tập hội Đát-đặc-la (S: Guhyasamāja-tantra).
- Hô Kim Cương Đát-đặc-la (S: Hevajra-tantra)
- Thời luân Đát-đặc-la (S: Kālacakra-tantra).
------------- Chú thích:
Trường phái Ninh-mã (TT: Nyingmapa) lại chia Vô thượng Du-già Đát-
đặc-la làm ba loại, là gốc của mọi phép tu:
- Ma-ha-du-già (S: Mahāyoga).
- A-nậu-du-già (S: Anuyoga).
- A-tì-du-già (S: Atiyoga).
Biểu tượng Đát-đặc-la ‘Nhị nguyên tính’
Ngoài ra, Đát-đặc-la còn nhắm tới việc vượt qua nhận thức Nhị
nguyên tính để đạt Nhất thể tính, là một sự kiện quan trọng. Nhị nguyên
tính có khi được Đát-đặc-la diễn tả bằng sự kiện nam tính (S: upāya,
khía cạnh Từ bi) và nữ tính (S: prajñā, khía cạnh Trí tuệ). Tuy nhiên, tại
phương Tây không ít người hiểu lầm, cho rằng tu tập Đát-đặc-la là thuần
túy liên hệ với tính dục nam-nữ.
Xem thêm:
- Truy tìm nguồn gốc tượng Phật "lạ" | Văn hóa | Thanh Niên
- Hình Tượng Phối Ngẫu Trong Kim Cang Thừa - Thư Viện Hoa ...
3.2. Các loại Quán đỉnh (灌頂; S: Abhiṣeka).
Abhiṣeka - Wikipedia Quán đỉnh – Wikipedia tiếng Việt
Quán đỉnh có nghĩa thông thường là rưới nước lên đầu, là một
nghi thức tôn giáo trong những buổi lễ long trọng. Trong Kim Cương
thừa, danh từ quán đỉnh được dùng chỉ những nghi lễ "Truyền lực" (TT:
Dbang-bskur), trong đó vị Đạo sư (S: Guru; TT: Blama) cho phép đệ tử
tu tập một Đát-đặc-la (Tantra).
Trong Vô thượng Du-già Đát-đặc-la, người ta kể bốn cấp quán
đỉnh từ thấp đến cao:
1) Quán đỉnh Bình (S: Kalābhiṣeka: Bình quán): Giúp hành giả
tịnh hóa ám chướng nơi Thân và thành tựu Hóa thân (Xin xem
Tam thân – Wikipedia tiếng Việt ở Bài đọc thêm bên dưới – Phần Quan
điểm Tam thân trong Kim cương thừa). Thân hành giả vốn bằng xương,
bằng thịt là nguồn gốc của Thân nghiệp khổ đau phiền não. Nếu thấy rõ
được điều này trong lễ truyền pháp quán đỉnh, hành giả có thể hiển lộ
được thân phàm phu của mình thành Thân giác ngộ. Nói cách khác,
hành giả đang gieo trồng hạt giống thành tựu Hóa thân Phật.
2) Quán đỉnh Bí mật (S: Guhyābhiṣeka: Mật quán): Giúp hành
giả tịnh hóa ám chướng nơi Khẩu và thành tựu Báo thân. Tất cả những
Khẩu nghiệp bất thiện và những lời vô nghĩa không biết dừng nghỉ của
hành giả được chuyển hóa thành Khẩu giác ngộ. Nói cách khác, hành giả
đang gieo trồng hạt giống thành tựu Báo thân Phật.
3) Quán đỉnh Trí tuệ (S: Prajñābhiṣeka): Giúp hành giả tịnh hóa
ám chướng nơi Ý và thành tựu Pháp thân. Tất cả những si mê [= Trần
sa hoặc 塵沙惑: Không nhận thức được Bản tính (= Duyên khởi tính)
các hiện tượng trong thế gian] do Ý nghiệp của hành giả được chuyển
hóa thành Tuệ giác ngộ, và Tự tính tâm (= nhận thức Tự tính) của chúng
ta hiển lộ vô biên không giới hạn. Nói cách khác, hành giả đang gieo
trồng hạt giống thành tựu Pháp thân Phật.
4) Quán đỉnh Ngữ tôn quý (S: Caturthābhiṣeka: Quán đỉnh “thứ
tư”): Giúp hành giả tịnh hóa các ám chướng Khí vi tế và thành tựu Thể
tính thân. Tất cả các si mê vi tế (= Vô minh hoặc 無明惑) của phân biệt
Nhị nguyên được chuyển hóa thành sự tỉnh thức Nguyên thủy - Trí tuệ
bản lai của quả vị giác ngộ. Nói cách khác, hành giả đang gieo trồng hạt
giống thành tựu Thể tính thân siêu việt.
Thông thường trong Quán đỉnh, vị Đạo sư đọc qua nghi quỹ (儀軌;
S: sādhana – đó là luật tắc tín ngưỡng truyền thống), và lần đọc này có
giá trị cho phép người đệ tử tu học nghi quỹ này. Sau đó, Đạo sư bình
giảng những điểm khúc mắc, khó hiểu, những bí truyền trong nghi quỹ
để bảo đảm sự tu tập chính tông, đúng đắn của đệ tử.
3.3. Các dạng Đại Thủ Ấn.
Đại Thủ Ấn lại được chia ra làm ba thứ:
1) Thực trụ Đại Thủ Ấn:
Hành giả trụ ở thực tướng, hợp với Trung đạo vô trụ, được khởi
xướng từ Tổ Long Thụ truyền cho ngài Đề Bà, ngài Đề Bà truyền cho
ngài Nguyệt Xứng, rồi lần lượt truyền đến ngài Mạch Tra Ba. Pháp này
không dựa theo quán Trung đạo bát bất, mà dùng bí quyết truyền khẩu
để chứng được trí Không.
2) Không lạc Đại Thủ Ấn:
Hành giả nương theo ba phương tiện là Tam muội như Da thủ ấn,
Pháp thủ ấn và Yết ma thủ ấn mà phát sinh niềm an lạc lớn, và ngay đó
mà tự chứng đương thể tức Không.
3) Quang minh Đại Thủ Ấn: Pháp này thuộc về bộ Vô
thượng Du-già của Mật thừa). Theo đó, hành giả cần trải qua pháp quán
đỉnh mới có thể tu tập. Quang minh Đại Thủ Ấn được chia làm hai giai
đoạn là Tiệm ngộ và Đốn chứng.
- Tiệm ngộ là đối với hành giả phổ thông, trước hết phải đầy đủ
bốn bậc quán đỉnh rồi dần dần mới dắt dẫn họ thụ trì Đại Thủ Ấn.
- Đốn ngộ là đối với những người đặc biệt lợi căn, vị Thượng sư
dùng tâm quán đỉnh và ở trong định gia bị (= hỗ trợ) cho họ, khiến trong
khoảnh gảy móng tay liền được ngộ.
Ngoài hai loại Tiệm và Đốn nói ở trên, còn có loại Đại Thủ Ấn tối
thượng, không cần phải tu các pháp quán đỉnh, mà chỉ nên cung kính lễ
bái, thừa sự thân cận bậc Thượng sư. Nhờ tâm lực cung kính tín thuận
tuyệt đối mà có thể chứng ngộ tức khắc: Đây chính là nghĩa tâm truyền
tối thắng của Đại Thủ Ấn.
4. Pháp hành Đại Thủ Ấn.
4.1. Hành trì Đại Thủ Ấn nơi các tông phái.
Hành trì Đại Thủ Ấn được tìm thấy trong các phái truyền thống
Kagyu, Gelug và Sakya của Phật giáo Tây Tạng.
- Trường phái Gelug và Kagyu có cả hai cấp độ tu tập theo Kinh
điển và Vô Thượng Du Già mật điển (S : Anuttarayoga). Hành giả tập
trung vào các cấp độ thông thường trong Kinh điển, và cấp độ hiện
tướng (tâm Quang minh) trong Vô Thượng Du Già mật điển.
Ở đây, Gelug nhấn mạnh vào pháp thiền về Không tính của tâm
thức, trong khi Kagyu nhấn mạnh vào pháp thiền về tâm thức chứng ngộ
Không tính vô niệm.
- Trường phái Sakya chỉ truyền thụ cấp độ Vô Thượng Du Già mật
điển.
1) Trường phái Gelug:
Tâm hành 心行 (= sự hoạt động của tâm, hoạt động tinh thần) có
hai bản tính:
- Bản tính tương đối là “Quang minh tính và Giác tính” gọi là hai
bản tính tinh yếu.
+ Quang minh tính (tính tạo tác hiện tướng) – tâm hành tạo tác ra
hiện tướng từ 6 trần cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tất cả đều đi
kèm với những cảm xúc khác nhau.
+ Giác tính (tính ý thức, tính tỉnh thức) – tâm hành tạo tác ra nhận
thức.
- Bản tính tuyệt đối của tâm hành là không có sự tồn tại độc lập
của hai bản tính tinh yếu này. Quang minh tính và Giác tính, tức hiện
tướng và nhận thức là không tách rời nhau.
2) Trường phái Kagyu.
Tâm hành có hai bản tính:
- Bản tính tương đối của tâm hành là “tính bất khả phân (bất nhị)
của sự tạo tác ra hiện tướng và hiện tướng”.
- Bản tánh tuyệt đối của tâm hành là “tính bất khả phân của Giác
tính và Không tính”. Trong đó, Không tính là một trạng thái tinh thần
vượt qua ngôn từ và khái niệm.
3) Ý nghĩa thực và biểu tượng của tâm hành.
Tâm hành của bậc giác ngộ bao hàm hai bản tính, có ý nghĩa tổng
quát sau :
1/.- Bản tính tương đối : Là Tục đế (俗諦 - tục: thế phàm, đế: lẽ
thật; P: Sammuti-sacca, vohara-sacca; S: Samvrti-satya, Prajnapti-
satya; E: Relative truth; F: Vérité relative). Tục đế có nghĩa là những
gì mà người thường đồng ý với nhau, là sự thật của thế tình, sự thật của
ngôn từ nhằm để bày tỏ khái niệm (ý niệm chung) các sự vật như sau:
Chế định: Ngôn từ đặt ra để xác nhận sự vật gì đó.
Mặc ước: Ngôn từ đặt ra để qui ước sự vật gì đó.
Thi thiết: Ngôn từ đặt ra để diễn đạt các sự vật gì đó.
Vì thế, Bản tính tương đối còn có thể gọi là Chân lý quy ước hay
Chân lý tương đối. Theo đó, Bản tính tương đối có các đồng nghĩa sau:
- Giả đế 假諦 (giả: không phải thật, hư ngụy).
- Thế đế 世諦 hay Thế tục đế 世俗諦 (thế = thế gian 世間: cõi
đời, thế tục 世俗: phong tục ở đời – theo luận Đại Tỳ-bà-sa).
- Tích môn 迹門 (tích: dấu vết, phỏng theo, môn: cửa – theo
Thiên Thai tông).
Bản tính tương đối được xem là lẽ thật tương đối của sự vật được
xác định bằng cái biết của 6 thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, … , Ý thức).
2/.- Bản tính tuyệt đối : Là Chân đế (真諦; chân: thật, không hư
vọng, đế: lý thật, lẽ thật; P: Paramattha-sacca; S: Paramartha-satya; E:
Ultimate truth; F: Vérité ultime). Chân đế có nghĩa là những gì dùng để
bày tỏ thực tại – sự thật hiện thực của mọi sự vật.
Vì thế, Bản tính tuyệt đối còn có thể gọi là Chân lý tuyệt đối, là
Chân lý tối thượng mà bậc giác ngộ đã chứng nghiệm. Theo đó, Bản
tính tuyệt đối có các đồng nghĩa sau:
- Thật đế 實諦 (thật: thực, không hư dối).
- Đệ nhất nghĩa đế 第一義諦.(đệ: thứ bậc, nhất: đứng đầu)
- Thắng nghĩa đế 勝義諦 (thắng: vượt hơn – theo luận Đại Tỳ-bà-
sa).
- Bản môn 本門 (bản: chính yếu, môn: cửa – theo Thiên Thai
tông).
- Chân như 真如 (như: không nhiễm ô).
Bản tính tuyệt đối được xem là lẽ thật tuyệt đối của sự vật được
xác định trên nền tảng Chân lý Duyên khởi 縁起, là nguyên lý nói lên sự
hình thành và biến dịch mọi sự vật tâm lý hay vật lý.
Buddha Eyes - Wisdom Eyes, Meaning, Buddhist Symbols ...
3/.- Biểu tượng tâm hành của bậc giác ngộ là hình ảnh Mắt Phật
(Buddha Eyes), thường được trang trí trên 4 mặt của các Bảo tháp (寶塔;
P;S: Stūpa). Đây là nơi tôn thờ ngọc xá lợi của Đức Phật hay của các
Thánh tăng.
- 2 mắt lớn ở hai bên tượng trưng cho Tục đế.
- 1 mắt tròn giữa 2 đầu mày tượng trưng cho Chân đế.
- Dấu chấm hỏi xoăn lại tượng trưng cho sự vượt thoát đối đãi Nhị
nguyên (二元; E: Dualism).
4.2. Lộ trình tu tập Đại Thủ Ấn.
Lộ trình tu tập về Ðại Thủ Ấn theo hai phương pháp:
1. Phương pháp “Sáu phép Du Già” của Naropa (Na-lạc-ba):
Phương pháp này rất phức tạp và nguy hiểm, hoàn toàn thuộc Mật giáo
với tên Na-lạc lục pháp (Sáu pháp của Na-lạc-ba).
2. Phương pháp “Thiền chỉ và Thiền quán”: Phương pháp này có
cách lối như Phật giáo Nguyên thủy và có nhiều điểm tương đồng với
pháp thiền của Thiên Thai tông 天台宗.
Bắt đầu bằng thực hành Thiền chỉ (禪止; P: Samatha bhāvanā; S:
Śamatha bhāvanā) và lấy đó làm căn bản; sau đó đạt tới bền vững hơn là
thực hành Thiền quán (禪觀; P: Vipassanā bhāvanā; S: Vipaśyanā
bhāvanā), nghĩa là an trụ và quán chiếu sinh động về Tự tính của vạn
pháp, nhằm biến chuyển mọi kinh nghiệm thành sự trực ngộ Không tính
(= tính chất không thực).
Có thể thấy rằng sự thật căn bản của vạn pháp, cho dù thuộc về nội
tâm như các cảm xúc phiền não hay thuộc về ngoại cảnh như hoa, cây,
núi, thành phố…, tất cả đều nằm trọn vẹn trong cùng một phạm trù rất
lớn là Không tính, tức Đại Thủ Ấn. Chân lý tối thượng Đại Thủ Ấn này
kỳ thực là cách nói khác của chân lý Duyên khởi, là điều duy nhất mà
chúng ta cần nhận ra. Nhận ra được chân lý ấy chính là giác ngộ!
Truyền thống Tây Tạng xem phép Đại Thủ Ấn dưới ba khía cạnh:
kiến, tu, hành.
1) Kiến (見; S: darśana): Được định nghĩa là tri kiến nhận ra rằng
thể tính đích thật của tâm là sự thống nhất giữa Không tính (tính chất của
vạn sự vật “có mà không thực là có” – E: emptiness) và Tịnh Quang tính
(= tính chất trong suốt, ngời sáng và thanh tịnh của tâm – E: luminosity).
Mỗi hiện tượng đều mang dấu ấn đặc biệt này.
2) Tu (修; S: bhāvanā): Đó là tu tập thiền. Mục đích quan trọng
nhất của tu tập thiền là trực nhận Thể tính (= Bản tính = Duyên khởi
tính) của tâm thức. Đó là một sự trực nhận rất tự nhiên không cần sự cố
gắng nào. Có hai cách để chuẩn bị phép thiền, đó là:
+ Bốn phép tu quán chiếu gồm:
1/. Sự quý báu khi có được thân người.
2/. Luật Vô thường.
3/. Nghiệp báo.
4/. Tính bất toàn của luân hồi.
+ Bốn phép tu đặc biệt gồm những Thành tựu pháp (S:
Sādhana – Xin xem lại mục 3.1) với những phương pháp thanh lọc
Thân, Khẩu, Ý.
3) Hành (行; S: caryā): Là hành động ứng dụng sau khi đã kinh
nghiệm trực tiếp Đại Thủ Ấn, dẫn đến một tâm trí tự tại, siêu việt các
quy ước thông thường.
Rangjung Dorje (Cát-mã-ba Nhưỡng-huýnh Đa-kiệt 攘迥多杰 –
1284-1339) viết về Đại Thủ Ấn như sau:
“1.- Điều gì phải thanh lọc ? Đó là tâm, bản tính của tâm là Không
tính, là Ánh sáng (chân lý).
2.- Ai thanh lọc ? Đó là hành giả thực hành phép tu kim cương
(vững vàng) của Đại Thủ Ấn.
3.- Cái gì được lọc bỏ ? Vô minh hiện tiền đang lừa dối con người.
Mong thay quả vị thanh tịnh, Pháp thân diệu dụng sẽ được thực
hiện! Đó là kiến giải đối trị Vô minh, là phép tu đích thật, đó là sự dẫn
đến hành động vô thượng. Mong thay tín tâm nơi ba điều đó luôn luôn
hiện diện.”
4.3. Những điểm chính của pháp tu Đại Thủ Ấn.
Đức Lạt-ma Kong Ka nói:
“Tu tập thiền Đại Thủ Ấn này, trước hết nên được một Đạo sư đức
hạnh đầy đủ khai thị cho. Mục đích của sự khai thị Đại Thủ Ấn là làm
cho người đệ tử Tỉnh thức Thanh tịnh và Tịch chiếu (*) về Tự tính (=
Bản tính).
Chỉ sau khi nhận ra “Giác tính không có gì bên trong” bẩm sinh
này, người đệ tử mới có thể tu tập đúng Đại Thủ Ấn. Cho đến khi đã làm
được như vậy, họ sẽ thấy khó thoát khỏi sự ràng buộc chủ-khách và đưa
tâm họ lên đến cảnh giới không phân biệt và không dính mắc, nghĩa là
hành giả biết buông xả những phân biệt, những suy nghĩ do thói quen
“chấp nhận cái này” và “từ chối cái kia” cho những sinh hoạt hàng
ngày.”
--------------
(*) Chú thích:
- Tỉnh thức (醒識; E: Awakening)
Tỉnh (醒): hết say mề, không mê muội.
Thức (識): nhận ra, nhận biết (chân lý).
Theo đó, Tỉnh thức là sự nhận biết về chân lý, hành giả không còn si mê nữa.
- Thanh tịnh (清淨; E: Purity): Có nghĩa hẹp là trong sạch và yên lặng. Hàm ý là nội tâm
‘rỗng lặng’ không dính mắc, không bị trói buộc.
- Tịch Chiếu (寂照; E: Nirvana-illumination; ultimate reality shining forth): Cái thể của
chân lý gọi là “tịch,” cái dụng của chân lý gọi là “chiếu.” – Chỉ cho sự chứng ngộ chân lý.
Bậc tu hành dứt được phiền não, trở nên tịch tĩnh và tâm trí chói rạng.
Có ba điều cốt yếu trong tu tập Đại Thủ Ấn, đó là quân bình,
buông xả, và tự nhiên.
1) Quân bình: Có nghĩa cân bằng thân, khẩu và ý. Cách cân bằng
là không bám chấp hay mãi nương tựa vào bất cứ gì. Đây là cách lối tối
thắng để thuần hóa thân và tâm.
2) Buông xả: Có nghĩa là thư giãn tâm nơi mọi sự vật, mọi ý
niệm, mọi suy nghĩ. Khi toàn thể thân và tâm trở nên thư giãn, hành giả
có thể ở trong trạng thái tự nhiên không gắng sức, tự nhiên không phân
biệt và không phân tán.
3) Tự nhiên: Có nghĩa là không ‘lấy hay bỏ’ bất cứ thứ gì; như
trong lời nói, hành giả không tạo ra một nỗ lực dù mong manh nhất
thuộc bất cứ loại nào. Hành giả để cho tâm thức tự ngừng lại hay trôi đi,
không trợ giúp cũng không hạn chế. Tu tập tự nhiên này là không dụng
công mà tự phát.
Những điều nói trên có thể tóm lược như sau:
Quân bình là không bám chấp cực đoan.
Buông xả là không gắng sức phân biệt hay phân tán.
Tự nhiên là không dụng công giữ hay bỏ.
Một cách diễn đạt khác, cốt lõi của tu tập Đại Thủ Ấn gồm hai điều
là ‘không dụng công và không sửa sai’. Tuy nhiên, nên biết không sửa
sai có nghĩa là gì ? Jetsun Milarepa đã giải thích rõ về điểm này:
“Về tu tập ‘không sửa sai’, nên hiểu ba điều:
1/. Nếu không sửa sai các tạp niệm và đam mê dục vọng, hành giả
sẽ rơi vào các cõi thấp hơn.
2/. Nếu không sửa sai (các chấp thủ như) Chiếu Sáng, Cực Lạc,
Không-phân-biệt, hành giả sẽ rơi vào Ba cõi Sinh tử Luân hồi.
3/. Với Tự tính nội tại (= Duyên khởi tính) là hành giả không cần
sửa sai.
Bất cứ lúc nào trong ngày, trong khi thiền hay sau khi thiền, nên cố
gắng không để mất Bản tính (= Duyên khởi tính). Nói cách khác, nên cố
gắng mang kinh nghiệm tu tập thiền vào các sinh hoạt hàng ngày. Hoàn
toàn có thể hiểu rằng hành giả có thể bị phân tán trong công việc làm
hàng ngày, như vậy là quên mất Bản tính, nhưng nếu hành giả luôn cố
gắng mang lại Tỉnh thức (= sự Chứng ngộ), và nếu thành công, Bản
tính sẽ lập tức hiện ra trở lại.
Vì thế hành giả nên cố gắng không để mất Tự Tỉnh thức dù ngày
hay đêm. Không nên thất vọng nếu không thể giữ Tỉnh thức sống động
cả ngày. Nỗ lực liên tục và kiên trì là chính yếu. Ai có thể làm như vậy
chắc chắn sẽ mở rộng Tỉnh thức nơi chính mình.
4.4. Những kinh nghiệm trong tu tập Đại Thủ Ấn.
1) Kinh nghiệm về nhận thức trong tu tập Đại Thủ Ấn.
Kinh nghiệm về nhận thức trong tu tập Đại Thủ Ấn gồm 2 điều
sau:
1/- Hãy giữ thân và tâm thư giãn và nhẹ nhàng, không gắng sức,
không lo âu và giữ thăng bằng. Điều này không nhằm phủ bác hay từ bỏ
tất cả mọi sinh hoạt, mà là nên thực hiện những hoạt động này một cách
linh hoạt, thư thả, và tự phát.
2/- Hãy đồng nhất mọi sự vật với Không tính-Bất sinh, chứng ngộ
trong tự nhiên và thư giãn.
- Thí dụ 1, diễn tả kinh nghiệm nhận thức về Đại Thủ Ấn:
Một tinh cầu như hư không mênh mông vô tận.
Tỉnh thức phổ hiện như trái đất rộng lớn.
Tâm vững vàng như núi.
Tỉnh thức tự ngộ trong sáng như ngọn đèn.
Thức thanh tịnh (= Trí), trong như pha lê và rỗng lặng không có ý
nghĩ phân biệt.
- Thí dụ 2, diễn tả kinh nghiệm nhận thức về Đại Thủ Ấn:
Như bầu trời không mây, tinh cầu rộng lớn và không chướng ngại.
Như đại dương không sóng, tâm vững vàng không ý nghĩ phân biệt.
Như ngọn đèn sáng trong đêm không gió, tỉnh giác trong sáng, vững
vàng.
2) Kinh nghiệm về cảm nhận trong tu tập Đại Thủ Ấn.
Trong tiến trình tu tập thiền định, hành giả sẽ gặp ba kinh nghiệm
chính về cảm nhận trong tu tập Đại Thủ Ấn. Đó là: Chiếu Sáng, Cực
Lạc và Không phân biệt.
1/. Trong kinh nghiệm Cực Lạc, một vài hành giả cảm thấy một
cảm giác sung sướng to lớn bao trùm toàn thân, và cảm giác không suy
giảm ngay cả trong nghịch cảnh, chẳng hạn như trong thời tiết cực lạnh
hay cực nóng. Một vài hành giả cảm thấy cả thân và tâm đều biến mất,
họ cực kỳ hân hoan – và thường bật cười. Một vài hành giả có thể cảm
thấy đầy hứng khởi và nhiệt tình, hoặc cực kỳ bình an, bằng lòng và
hạnh phúc. Sự ngây ngất xuất thần có thể trở thành rất to lớn và kịch liệt
đến độ hành giả có thể trở nên không ý thức về ngày và đêm.
Tuy nhiên, hành giả cần thận trọng rằng một vài kinh nghiệm về
hiện tượng Cực Lạc và Chiếu sáng (Tịnh Quang) có thể dẫn dắt hành
giả đến sai lầm và nguy hiểm, vì đó chỉ là những ào giác mà hành giả
không nên quan tâm.
2/. Trong kinh nghiệm Không phân biệt, một vài hành giả có thể
cảm thấy tất cả sự vật trở thành trống rỗng, hay có thể thấy sự trống rỗng
của thế giới; những hành giả khác kinh nghiệm tất cả sự vật là không có
tự thể, hay thân và tâm đều không hiện hữu; trong khi những hành giả
khác nữa thực sự hiểu chân lý Không (= không thực có).
Hành giả không nên xem một kinh nghiệm nào trong những kinh
nghiệm trên là hoàn hảo và đầy đủ, cũng không nên bám chấp vào bất cứ
kinh nghiệm nào. Trong các kinh nghiệm đó, kinh nghiệm Không phân
biệt là ít nguy hiểm và ít lỗi hơn hết.
Chỉ dẫn khẩu truyền tốt nhất trong tất cả những chỉ dẫn kinh
nghiệm cảm nhận trong tu tập Đại Thủ Ấn là: “Hãy ném đi toàn bộ
chấp trước và Bản tính sẽ lập tức hiện ra.”
3) Kinh nghiệm về nhầm lẫn trong tu tập Đại Thủ Ấn.
1/. Nếu hành giả tri giải sai lầm rằng Không tính như là sự đoạn
diệt của cả những đức hạnh và ác hạnh, mà không biết rằng Bản tính của
hiện hữu và Không tính là đồng nhất, và điều này bao gồm tất cả chân lý
(= sự thật) và luân lý, thì sự hiểu lầm này làm lạc mất cái Thấy của Đại
Thủ Ấn. Hơn nữa, nếu hành giả chỉ có một loại tri kiến nào đó về chân
lý Không này, nhưng không thể kinh nghiệm nó một cách thân thiết, thì
người đó cũng được xem như lạc mất sự chứng ngộ Đại Thủ Ấn.
2/. Nếu một hành giả không biết rằng trong Bản tính của sự tu tập
Đại Thủ Ấn (= Nhân), không khác với sự thành tựu Đại Thủ Ấn (= Quả),
thì họ có thể nghĩ rằng tu tập đi trước và Chứng ngộ đến sau, như vậy
Giác ngộ là sản phẩm của tu tập. Điều này có lẽ đúng ở bình diện phân
biệt hàng ngày, nhưng chừng nào còn quan tâm đến cái Thấy (= Chứng
ngộ), thì chừng ấy có thể nói là hành giả đã đi lạc đường.
3/. Nếu hành giả có thể tạo nỗ lực chân thật trong tu tập Đại Thủ
Ấn, mà thiếu hiểu biết vững chắc nơi giáo lý, thì chắc hẳn hành giả đang
ấp ủ che dấu một hy vọng rằng một ngày nào đó hành giả có thể có được
một giáo lý cao siêu hơn cả Đại Thủ Ấn. Đây cũng là một dấu hiệu lạc
mất Đại Thủ Ấn.
4/. Nếu hành giả không biết rằng cái chữa trị và cái được chữa trị,
trong Bản tính, là một, lại bám vào ý niệm cho rằng tu tập Pháp (= cái
chữa trị) và dục-vọng-phiền-não (= cái được chữa trị hay cái phải được
chữa trị), là hai đối tượng tuyệt đối khác nhau. Đây cũng là lạc mất cái
Thấy của Đại Thủ Ấn.
5/. Trong tu tập Đại Thủ Ấn, về phần của hành giả yoga, luôn luôn
có khuynh hướng cải chính nhiều lỗi. Ai thấy mình luôn luôn sửa các lỗi
thì hầu như đã đi lạc.
4) Kinh nghiệm về sai lầm trong tu tập Đại Thủ Ấn.
1/. Nếu hành giả tu tập Đại Thủ Ấn chỉ khép kín trong nỗ lực định
tâm, thì những hoạt động của tất cả sáu thức sẽ bị ngừng lại, hay lu mờ.
Đây gọi là tu tập kiểu “đóng băng” và là một khuynh hướng rất nguy hại
trong thiền Đại Thủ Ấn, mà hành giả cần phải tránh.
2/. Nếu hành giả tu tập Đại Thủ Ấn xao lãng Tỉnh thức trong sáng,
mà chỉ trụ trong Vô-phân-biệt, thì sẽ không nghe hay không thấy gì khi
tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Đây là lỗi lầm vì đã trở
nên trì độn.
3/. Nếu hành giả tu tập Đại Thủ Ấn xao lãng Tỉnh thức trong sáng
trong khoảnh khắc hiện tại kỳ diệu (tức khi niệm cuối đã qua, niệm kế
chưa đến), sẽ rơi vào lỗi trì độn.
4/. Nếu hành giả tu tập Đại Thủ Ấn có thể giữ Tỉnh thức trong sáng
nhưng lại nghĩ không có gì hơn nữa trong Đại Thủ Ấn thì cũng rơi vào
lầm lỗi.
5/. Nếu hành giả tu tập Đại Thủ Ấn chỉ tu dưỡng Cực Lạc, Chiếu
Sáng và Không phân biệt, mà không thấy ra Bản tâm (= quán chiếu, soi
sáng bản chất của tâm: thấy ra chân lý Duyên khởi), thì không thể coi là
tu tập đúng Đại Thủ Ấn.
6/. Nếu hành giả tu tập Đại Thủ Ấn mà phát triển sự ghét bỏ những
hiện tướng thì coi như đã sai lầm.
7/. Nếu hành giả tu tập Đại Thủ Ấn tập trung vào sự Tỉnh thức của
mình và tu dưỡng Tự tâm Thanh tịnh Tịch chiếu, như thế hành giả tu tập
Đại Thủ Ấn đúng. Tuy nhiên, nếu hành giả dụng công tập trung này có
khuynh hướng cản trở tính tự phát và tự do của tâm, thì sẽ khó khai mở
tâm giải thoát bao la. Vì thế, hãy không quên tu tập buông xả, tự do và
tự phát.
Vậy thì, thế nào là tu tập Đại Thủ Ấn đúng?
Đáp: Tâm bình thường [T.T.:Thal.Ma.Ces.Pa.] chính là tu tập
đúng; tức hành giả để cho tâm bình thường ở trong trạng thái tự nhiên
của nó.
- Nếu hành giả thêm hay bớt bất cứ cái gì cho tâm này, thì đó
không phải là tâm bình thường mà gọi là tâm phàm [T.T.: Yul.].
- Nếu hành giả không có chút ý định hay dụng công dù là mong
manh nhất để tu tập, lại cũng không bị phân tán phút giây nào, là tu tập
tâm tự nhiên đúng.
Vì thế, bao lâu còn có thể giữ được Tỉnh thức của mình, thì dù làm
gì, hành giả vẫn được xem là đang tu tập Đại Thủ Ấn.
4.5. Tu tập Đại Thủ Ấn bằng nghịch cảnh.
Sau khi nhận ra Bản tính (= Duyên khởi tính), nên tiến hành tu
tập cái gọi là những bài tập ứng dụng. Đó là hành giả nên ứng dụng một
vài hoàn cảnh đặc biệt để làm tăng thêm sự Chứng ngộ.
1/. Dùng phân tán và những tư tưởng phân biệt để tăng thêm
Chứng ngộ:
Nơi đây không có nghĩa là hành giả cố quán xét bản tính của
những tư tưởng phân biệt, cũng không thiền về Không tính, hay không
phải chú tâm đến sự phân tán của tâm, mà nhằm giữ Tỉnh thức trong
sáng một cách linh hoạt sống động về Bản tính của những tư tưởng phân
biệt. Sự Tỉnh thức này trong trạng thái tự nhiên của nó là Đại Thủ
Ấn. Nếu ban đầu có những khó khăn lớn, nên cố gắng vượt qua chúng
và hòa hợp những tư tưởng phân biệt vào chân lý.
2/. Dùng những phiền-não-dục-vọng để tăng thêm Chứng ngộ:
Đôi khi hành giả nên vì mục đích mà khởi động những phiền não
dục vọng, chẳng hạn như ái dục, oán hận, ganh tị…, và quan sát chúng
một cách sâu xa. Bạn không nên theo, bỏ, hay sửa sai chúng, mà một
cách rõ ràng và Tỉnh thức ở lại trong trạng thái thư giãn và tự nhiên.
Trong lúc ngủ ngon, bạn nên cố gắng hòa hợp Tỉnh thức với Vô thức mà
không gắng sức. Đây là cách tốt nhất để biến Vô thức thành Ánh sáng (=
Hiện thực).
3/. Dùng sự xuất hiện của ma quỉ để tăng thêm Chứng ngộ:
Bất cứ khi nào có ma quỉ đáng sợ xuất hiện, hành giả nên dùng
thiền Đại Thủ Ấn về sợ hãi. Đừng cố xua đuổi sợ hãi mà ở lại trên đó
một cách rõ ràng và thư giãn. Trong khi làm như thế, nếu ma biến mất,
hành giả nên thử một lần nữa triệu gọi ngay cả những con ma đáng kinh
sợ hơn và lại dùng Đại Thủ Ấn với chúng.
4/. Dùng bi mẫn và buồn phiền để tăng thêm Chứng ngộ:
Vì phân tích đến kỳ cùng, sự sống và luân hồi ám chỉ đau khổ,
hành giả nên có tâm đại bi vì tất cả chúng sinh. Khi chiêm nghiệm sự
đau khổ của con người, tâm đại bi sẽ khởi dậy, theo đó mà hành giả thực
hành thiền Đại Thủ Ấn về nó. Khi làm thế, cả Trí và Bi của hành giả sẽ
phát triển.
5/. Dùng bệnh tật để tăng thêm Chứng ngộ:
Bất cứ khi nào bị bệnh, hành giả nên thực hành thiền Đại Thủ Ấn
về bệnh ấy. Hành giả cũng nên quan sát thâm nhập Bản tính của bệnh
nhân và chứng bệnh, như thế sẽ loại trừ Nhị nguyên của chủ và đối
tượng.
6/. Dùng cái chết để tăng thêm Chứng ngộ:
Hành giả có thể tu tập Đại Thủ Ấn như đã được chỉ dẫn sẽ không
bị bối rối hay sợ hãi khi chết xảy ra. Rồi họ sẽ có thể đồng nhất, không
sợ hãi, tất cả những thị kiến và kinh nghiệm xảy ra trong quá trình chết.
Thoát khỏi bám chấp và những ước mong, lúc bấy giờ hành giả có thể
hợp nhất Ánh sáng Mẹ và Con (Nhị nguyên) thành một toàn thể vĩ đại.
4.6. So sánh tu tập Đại Thủ Ấn và Thiền tông.
Đại Thủ Ấn và Thiền tông đều nhấn mạnh việc Lấy tâm truyền tâm
// Minh tâm kiến tính // Tức thân thành Phật, nhưng trong đó cũng có vài
điểm sai khác nhau.
1) Người hướng dẫn:
Thiền tông sau khi tham ngộ phải nhờ thầy ấn chứng; còn Đại Thủ
Ấn thì cầu thỉnh Thượng sư gia trì bên ngoài mà quán tưởng hòa vào
tâm mình. Tức là: Thiền tông nương vào Bát Nhã đạo (con đường trí
tuệ) để cầu khai ngộ, còn Đại Thủ Ấn thì nương vào Mật chú đạo (con
đường Mật chú) để cầu gia trì.
2) Quá trình tu học:
Thiền tông cần tham thoại đầu, nhận biết Bản lai diện mục, chú
trọng việc đốn ngộ; Đại Thủ Ấn thì tu hành theo thứ lớp. Nói về tiến độ,
thì Thiền tông chỉ nêu lên con đường hướng thượng, cho đến khi hoát
nhiên khai ngộ; còn Đại Thủ Ấn thì nương theo Chuyên nhất Du-già, Li
hí Du-già, Nhất vị Du-già và Vô tu Du-già mới khế hợp chí đạo (= đạo
tột cùng).
3) Phương tiện tu học:
Thiền tông chỉ thẳng tâm người, không nhờ phương tiện, nhưng
công án của Thiền tông phần nhiều là những lời bí hiểm, nếu chẳng phải
là bậc lợi căn thượng trí, thì không có cách nào ngộ nhập; còn Đại Thủ
Ấn thì có nhiều phương tiện khéo léo để tu thân như: Gia hạnh, Chính
hạnh, Kết qui cho đến bảy chi tọa và quyền pháp v.v... cho nên có thể
phổ cập mọi căn cơ.
Ngoài ra, Hiển giáo cũng có Đại Thủ Ấn, tức là dùng kinh giáo để
chứng ngộ Không tính; nghĩa là người tu pháp, tâm chuyên chú ở một
cảnh, cứ như thế mãi mà được định, sau đó quán xét chỗ trụ (= vô sở
trụ) của tâm cho đến khi không còn chỗ tìm cầu, thì ngộ tâm chẳng thật
có, mà đạt tới cảnh giới Không trí giải thoát hợp nhất.
Xem thêm: - Đại Thủ Ấn
- Three Classifications of Mahamudra
- ĐẠI THỦ ẤN (Mahamudra) - Thich Tri Sieu
- CÁI NHÌN CỦA MỘT HÀNH GIẢ VỀ BỘ ĐẠI THỦ ẤN ...
- Những Điều Cốt Yếu của Pháp Tu Đại Thủ Ấn – CLB VĂN ...
- Cái nhìn của một hành giả về bộ đại thủ ấn( MAHAMUDRA )
- Lời Nguyện Đại Thủ Ấn Liễu Nghĩa (Karmapa III) | hongnhu ..
VIDEO
- DIỆU PHÁP ĐẠI KHÔNG THỦ ẤN
- THIỀN ĐẠI THỦ ẤN - THIỀN QUAN SÁT TÂM
- Đại Thủ Ấn ( Mahamudra ) - Thầy Thích Trí Siêu
Bài đọc thêm
1. Tam thân.
Trikaya - Wikipedia
Tam thân – Wikipedia tiếng Việt
2.1. Quan điểm Tam thân trong Đại thừa - Đại Chúng
bộ.
Tam thân (三身; S: Tri-kāya,) là một thuật ngữ được dùng trong Phật
giáo Bắc truyền (Đại Chúng bộ), là ba đặc điểm của một vị Phật – Bậc giác
ngộ. Đặc trưng đối với Phật Thích Ca, tam thân này như sau:
1) Pháp thân (法身; S: Dharma-kāya) = Tự tính thân (自性身, tên
gọi theo Pháp Tướng tông): Đó là Chân lý mà đức Phật Thích Ca đã khám
phá ra, là Nguyên lý Duyên khởi.
Pháp thân đồng nghĩa với:
- Phật pháp (佛法; S: Buddha-dharma)
- Phật tính (佛性; S: Buddhatā).
- Chân như (真如; S: Tathatā, Bhūtatathatā).
- Không tính (空性; S: Śūnyatā).
- Như Lai tạng (如來藏; S: Tathāgata-garbha).
Như Lai tạng còn được gọi là Bạch Tịnh thức hay Vô Cấu thức, là thể
chuyển hóa từ Tạng thức (藏識, hay còn gọi là A-lại-da thức 阿賴耶識; S:
Ālaya-vijñāna).
Pháp thân về sau phát triển thêm hai thân nữa là Báo thân và Ứng
thân như dưới đây.
2) Báo thân (報身; S: Sambhoga-kāya) = Thọ dụng thân (受用身,
tên gọi theo Pháp Tướng tông): Đó là Diện mạo của đức Phật Thích Ca có
32 tướng tốt hiển hiện lúc sinh thời.
3) Ứng thân (應身; S: Nirmāṇa-kāya) = Biến Hóa Thân (變化身,
tên gọi theo Pháp Tướng tông): Đó là Giáo pháp của đức Phật Thích Ca
giảng diệu hiện theo căn cơ của chúng sanh.
Tại Chánh Điện Chùa Trúc Lâm, thành phố Huế, có câu đối rằng:
“Trong hương kết mây lành Ba Thân lộ rõ / Hoa nở trình tướng báu Mười
Hiệu hùng tôn - Hương lí kết tường vân Tam Thân viên hiển / Hoa khai
trình diệu tướng Thập Hiệu hùng tôn - 香裡結祥雲三身圓顯 /
花開呈妙相十號雄尊.”
2.2. Quan điểm Tam thân trong Đại thừa - Thiền tông.
Đối với Thiền tông thì Tam thân Phật là ba cấp của Chân lý, nhưng liên
hệ lẫn nhau trong một thể thống nhất.
1) Pháp thân: Là tâm thức (= nguyên lý) của vũ trụ, nói lên tự tính
phát sinh tất cả, từ loài hữu tình đến vô tình. Pháp thân đó biểu hiện đặc
trưng là Đại Nhật Như Lai (大日如来; S: Vairocana).
2) Báo thân: Là tâm thức hỉ lạc của hành giả khi đạt Giác ngộ, Kiến
tính, ngộ được tâm chư Phật và tâm mình là một (= nhận thức).
3) Ứng thân: Là thân Phật hoá thành thân người, là Phật Thích-ca
Mâu-ni.
Mối liên hệ của Tam thân Phật theo quan điểm Thiền tông được thí dụ
như sau: Nếu xem Pháp thân là toàn bộ kiến thức y học, thì Báo thân là
chương trình học tập của một y sĩ và Ứng thân là y sĩ đó áp dụng kiến thức y
học mà chữa bệnh cho người.
Trong Thiếu Thất Lục Môn (少室六門, Taishō No. 2009) có giải thích về
Tam thân rằng:
“Phật có ba thân là Ứng thân, Báo thân, và Pháp thân; nếu chúng sanh
thường tạo căn lành, tức Ứng thân hiện; nếu tu trí tuệ tức Báo thân hiện;
hiểu rõ Vô Vi (= chân lý) tức Pháp thân hiện; thân bay cùng khắp mười
phương, tùy nghi cứu độ là Ứng thân Phật; thân đoạn trừ các hoặc, tu thiện
và thành đạo ở Tuyết Sơn là Báo thân Phật; thân không nói lời nào, không
thuyết lời nào, vắng lặng thường trú là Pháp thân Phật
Phật hữu Tam thân giả, Ứng thân Báo thân Pháp thân; nhược chúng
sanh thường tác thiện căn, tức Ứng thân hiện; tu trí tuệ tức Báo thân hiện;
giác Vô Vi tức Pháp thân hiện; phi đằng thập phương tùy nghi cứu tế giả,
Ứng thân Phật dã; đoạn cảm tu thiện Tuyết Sơn thành đạo giả, Báo thân
Phật dã; vô ngôn vô thuyết trạm nhiên thường trú giả, Pháp thân Phật dã -
佛有三身者、應身報身法身、若眾生常作善根、卽應身現、修智慧卽報身現、覺無爲卽法
身現、飛騰十方隨宜救濟者、應身佛也、斷惑修善雪山成道者、報身佛也、無言無說湛然
常住者、法身佛也”.
2.3. Quan điểm Tam thân trong Kim Cương thừa.
Trong Kim Cương thừa thì Tam thân là ba cấp của kinh nghiệm giác
ngộ.
1) Pháp thân: Là Bản tính của muôn vật. Tự tính này chính là Không
tính. Các giáo pháp Đại Thủ Ấn giúp hành giả đạt được kinh nghiệm về vô
tận tính của Pháp thân.
2) Báo thân: Là thân của sắc giới, là phương tiện tạm thời giúp hành
giả chứng ngộ được Không tính. Báo thân được xem là một dạng của "thân
giáo hoá." Các Báo thân xuất hiện dưới dạng Ngũ Như Lai, được xem là
phương tiện để tiếp cận với Chân như (= Chân lý Duyên khởi). Báo thân xuất
hiện dưới nhiều hình tướng khác nhau, tịch tĩnh (S: śānta) hay phẫn nộ (S:
krodha), có khi được trình bày với các vị Thần thể (TT: Yidam) hay Hộ pháp
(S: Dharmapāla).
3) Ứng thân: Là thân của sắc giới, là phương tiện tạm thời giúp hành
giả chứng ngộ được Không tính. Ứng thân là một dạng "thân giáo hoá" với
nhân trạng. Trong Kim cương thừa, Ứng thân hay được hiểu là các vị Bồ-tát
tái sinh.
Tam thân nêu trên không phải là ba trạng thái độc lập mà là biểu hiện
của một đơn vị duy nhất, thỉnh thoảng được miêu tả bằng thân thứ tư là Tự
tính (= Bản tính tự nhiên) thân (S: Svābhāvikakāya). Trong một vài Tantra,
thân thứ tư này được gọi là Đại Lạc thân (S: Mahāsukhakāya).
Trong Phật giáo Tây Tạng, người ta xem Thân, Khẩu, Ý của một vị Đạo
sư (S: Guru) đồng nghĩa với Tam thân nói trên, được biểu tượng bằng thần
chú OṂ-AH-HUNG (gọi theo tiếng Tây Tạng).
Xem thêm:
- Vairocana - Wikipedia
- Đại Nhật Như Lai – Wikipedia tiếng Việt
VIDEO - OM AH HUNG Meditation
- Om Ah Hum 嗡阿吽 - Mantra of Purification
- OM AH HUNG - Songs from the Rose Garden (with Madhu ...
- Om Ah Hum : Buddhist Powerful Meditation With Deep Voice ...
2. Mật tông Tây Tạng
Mật tông du nhập vào Tây Tạng muộn hơn Trung Quốc, vào khoảng
cuối thế kỷ thứ 8 bởi Đại sư Liên Hoa Sinh (蓮華生; S: Padmasambhava) và
tại đây Mật tông đã hòa nhập với Phật giáo Đại thừa sẵn có của Tây Tạng
nên còn gọi là Kim Cương thừa hay Lạt Ma giáo.
Dòng truyền thừa vào Tây Tạng xuất phát từ trung tâm Phật
học Vikramasila.
Dưới đây là các giai đoạn phát triển của Mật tông và cũng chính là các
giai đoạn tiệm tiến tu hành của một hành giả Mật tông theo Phật giáo Tây
tạng.
- Tạp Mật.
+ Sự bộ.
+ Hành bộ: Thai Tạng thừa (Garbhayāna).
- Thuần Mật.
+ Du già bộ: Kim Cang thừa (Vajrayāna).
+ Vô thượng Du già bộ: Thời Luân thừa (Kalachakrayāna).
1/. Sự bộ: còn gọi là Sự tục, là dạng lấy ngoại cảnh chính yếu để tu
hành, tức bao gồm uy nghi Mật pháp kiết Ấn, đọc tụng Chân ngôn, quán và
cúng dường Phật hay Bồ-tát hợp pháp trong phòng, tắm rửa, vào Phật
đường, mặc áo ngồi gia trì … , tất cả điều chiếu theo quy phạm nghiêm khắc
mà thực hành.
2/. Hành bộ: còn gọi là Hành tục, là dạng kiêm tu nội ngoại – nội
tâm và ngoại cảnh. Kinh Đại Nhật là cơ sở lý luận quan trọng. Hành bộ lấy
Bồ-đề tâm (tâm giác ngộ) làm nhân, lòng từ bi (lòng từ lớn) làm căn bản,
tùy theo trình độ căn cơ mà độ rộng khắp tất cả chúng sinh.
3/. Du-già bộ: còn gọi là Du-già tục, là dạng lấy lấy nội tu Du-già
làm chủ đạo. Xem việc quán tưởng nội tâm là quan trọng, là bước tiến xa
hơn trong việc thâm nhập tu tập, là cấp bậc cao mà hành giả cần phải có
những bước chuẩn bị tốt mới có thể tu tập được.
4/. Vô thượng Du-già bộ: còn gọi là Vô thượng Du-già tục, là dạng
mật pháp cao cấp nhất của Mật tông. Vô thượng Du-già bộ còn được phân
thành 3 loại là Phụ tục, Mẫu tục và Vô nhị tục thể hiện sự thấu triệt sâu sắc
các cấp bậc sinh khởi và cấp bậc tròn đầy của sự giác ngộ.
Ở Tây Tạng, đệ tử chỉ được thu nhận vào Mật tông thông qua một nghi
lễ khai ngộ (initiation) đặc biệt được tiến hành bởi một Lạt-ma (Sa môn:
người tu) có tên tuổi. Sau đó là việc kiết ấn (mudra), niệm chân
ngôn (mantra) và thiền định (meditation).
Sự hình thành các tông phái Phật giáo Tây Tạng diễn ra khoảng 400
năm do chính người Tây Tạng thành lập cho thích hợp với tinh thần và xã hội
của họ mà yếu tố huyền thuật hay thần thông đã từng gắn bó lâu dài với
người dân bản xứ. Để chống lại sự đàn áp của nhóm Bon-pa, Phật giáo Tây
tạng đã được tổ chức thành những môn phái, giáo hội, nhưng chính sự tổ
chức nầy đã đưa Phật giáo vào con đường suy vong.
Vì có nhiều giáo hội và tông phái, dần dần các tu sĩ đã trở nên lười
biếng, không giữ gìn giới luật và coi việc tu hành như một nghề nghiệp
hướng dẫn tinh thần cho quần chúng hơn là tu thân cầu giải thoát. Tệ hại
hơn nữa, các nghi thức hành lễ để suy gẫm lời Phật dạy đã biến thành cúng
vái, xin xỏ, lên đồng, nhập cốt, bùa chú thư phù … Các tinh hoa Phật pháp
được cất giữ không mang ra giảng dạy mà chỉ đề cao hình thức bề ngoài.
Các tu sĩ không chịu tu học mà chỉ đặt trọng tâm vào việc sắc tướng để được
phước. Truyền bá những chuyện mê tín hoang đường để lôi kéo tín đồ thay
vì giúp họ tu hành để được giải thoát giác ngộ. Họ còn cho phép các tu sĩ
được lấy vợ và được thừa kế tức là nếu cha là Lạt Ma thì con đương nhiên
cũng thành Lạt Ma khỏi cần tu học.
Ở Tây Tạng có rất nhiều tông phái, nhưng đại để có những tông phái
mà những vị tổ sư đã làm sáng danh Phật giáo Tây Tạng cho đến ngày nay,
có 4 bộ phái chính đó là 1) Nyingmapa, 2) Kagyupa, 3) Sakyapa, 4) Gelupa.
1) Phái Nyingma (Ninh-mã phái – Wikipedia - mũ đỏ):
Liên Hoa Sinh – Wikipedia
Padmasambhava - Wikipedia, the free encyclopedia
Sơ đồ truyền thừa phái Nyingmapa
Phái Nyingma được ngài Padmasambhava khai sáng, là vị đem Phật
giáo Mật tông từ Ấn Độ truyền sang Tây Tạng vào đầu thế kỷ thứ 7 sau CN.
Ngài Padmasambhava đem theo tất cả kinh Mật tông và đã dịch rất nhiều
kinh bằng tiếng Phạn qua Tây Tạng. Vì vậy mà hiện nay chỉ có ở Tây Tạng là
có đủ tất cả các kinh Mật tông. Ngài Padmasambhava đã truyền lại giáo lý
Mật Tông cho 25 người đệ tử và sự truyền thừa đó vẫn tiếp tục cho đến bây
giờ.
Ngài cũng là tác giả của cuốn sách “Tử Thư”, xây dựng tu viện Tang
Duyên (Samye) và được coi là Tổ sư của Phật giáo Tây Tạng. Vì thế Phật
giáo Tây Tạng không còn ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa nữa mà được xem
như là Phật giáo Mật tông đậm màu sắc lễ nghi, chú ấn, xuất quỷ nhập thần
rất phức tạp.
Theo truyền thyết thì ngài Padmasambhava đã hàng phục vị Thần Chủ
xứ Tây Tạng cùng nhiều quỷ thần khác để cho họ quy y theo Phật Pháp và
trở thành các vị Hộ Pháp tại các tu viện.
Xem thêm: - Tử Thư Tây Tạng
2) Phái Kagyu (Ca-nhĩ-cư phái – Wikipedia - mũ đỏ):
Marpa Chokyi Lodoe (1012-1097)
Sơ đồ truyền thừa phái Kagyu
Phái Kagyu được ngài Marpa Chokyi Lodoe khai sáng vào đầu thế kỷ
thứ 10 sau CN. Ngài Marpa là đệ tử của ngài Naropa, đã được truyền dạy Đại
Thủ Ấn theo 2 phương pháp:
- Sáu pháp Du Già: Phương pháp này rất phức tạp và nguy hiểm, hoàn
toàn thuộc Mật giáo.
- Thiền Chỉ Quán (Shiné-lhaktong): Phương pháp này có nhiều điểm
tương đồng với các pháp môn thiền quán của Thiên Thai, Tứ Niệm Xứ và
nhất là Thiền tông Trung Hoa.
Ngài Marpa đã truyền lại cho đệ tử là Milarepa. Ngài Milarepa (1040-
1123) đã truyền lại cho hai vị đệ tử là các ngài Gampopa, …, Gyalwang
Drukpa (1161 - 1211) và sự truyền thừa vẫn liên tục không gián đoạn cho
đến nay.
Tông phái này mang đậm bản sắc Tây Tạng nhất so với các tông phái
khác và không nắm giữ hoặc chi phối các quyền lực xã hội như phái Gelugpa
… Hiện nay, phái này vẫn còn là một môn phái bảo thủ mạnh nhất và họ
xem việc lập gia đình không cản trở đến sự tu hành.
Mật-lặc Nhật-ba – Wikipedia
Milarepa - Wikipedia, the free encyclopedia
Trong phái này có sự xuất hiện của Milarepa là bậc thánh giả và cũng
là nhà thơ vĩ đại của Tây Tạng. Ông nổi tiếng với tác phẩm Thập Vạn Ca
(100,000 bài ca). Trước khi theo Phật giáo, ông tu theo ma thuật để tìm giết
hại những kẻ thù của gia đình bằng cách làm cho nhà sập đè lên họ và làm
mưa đá rơi trên ruộng của họ. Sau đó nhận biết tội lỗi của mình nên đến tìm
gặp Đại sư Marpa để ngài giúp ông trả hết những ác nghiệp đã tạo bằng
cách gánh chịu những cực hình trong suốt 6 năm. Vào năm 44 tuổi thì ông
ngộ đạo rồi sống 39 năm còn lại như một nhà ẩn tu trên Hy-mã-lạp sơn gần
biên giới Nepal cho đến khi ông viên tịch vì uống sữa có pha thuốc độc của
một người ganh ghét ông.
Mahamudra - Wikipedia
Đại Thủ Ấn - Wikipedia tiếng Việt
Vị tổ thứ 9 của phái này, ngài Wang Tchuk Dorje Karmapa (1556-
1603) là tác giả tập Ðại Thủ Ấn (Mahamudra). Ðây là một tài liệu quý giá
nhưng giản dị, không dùng thi văn, kệ ngôn diễn tả nửa úp nửa mở mà nó
trình bày thứ lớp mạch lạc các tiến trình tu tập khảo sát nội tâm, để cuối
cùng giúp hành giả nhận ra bản tánh tức Ðại Thủ Ấn. Tu tập về Ðại Thủ Ấn
có hai phương pháp:
1) Theo 6 phép Du Già của Naropa.
2) Thiền Chỉ Quán (Shiné-lhaktong).
Phương pháp thứ nhất rất phức tạp và nguy hiểm, hoàn toàn thuộc
Mật giáo, phương pháp thứ hai có nhiều điểm tương đồng với các pháp môn
thiền quán của Thiên Thai, Tứ Niệm Xứ và nhất là Thiền tông Trung Hoa.
Đại Thủ Ấn được xem là bộ kinh cô đọng lại toàn vẹn tư tưởng của bộ Hoa
Nghiêm và bộ Đại Bát Nhã, hoặc cũng chính là bài Tâm Kinh Bát Nhã.
Tột cùng mà nói, mỗi người chúng ta, từ đời vô thỉ, đã có một tánh,
thường được gọi là bổn tánh (của tâm), và tánh này không khác với cái tánh
đạt được sau khi hoàn toàn giác ngộ. Tánh này được gọi là thực tánh Duyên
khởi của các Pháp hay Ðại Thủ Ấn.
Thực hành tu tập Ðại Thủ Ấn chính là thiền Quán về Ðại Thủ Ấn. Đó là
quán chiếu khảo sát nội tâm, nhằm loại trừ tất cả ảo tưởng và phú chướng
từ vô thỉ đã bao phủ dầy đặc bản tâm, nhằm thấy được bản tánh thanh tịnh
của thực tại, thoát khỏi mọi khái niệm về vật sở quán (nghĩ về cái của ta) và
thức năng quán (nghĩ về cái biết được).
Truyền thống tái sinh của các vị Karmapa thuộc phái Kagyu được khởi
đầu từ thế kỷ thứ 12 nghĩa là sớm hơn so với các vị Đạt-La Lạt-Ma gần ba
thế kỷ. Có thể nói họ là những người đầu tiên khởi xướng truyền
thống tái sinh tại Tây Tạng.
Gyalwang Drukpa - Wikipedia
Gyalwang Drukpa – Wikipedia tiếng Việt
Hiện nay, Gyalwang Drukpa là vị đứng đầu dòng truyền thừa Kagyu ở
Ấn Độ cũng như nhiều quốc gia khác. Ông thuộc chi phái Drukpa Kagyu và
được tin là hoá thân chuyển thế đời thứ XII .
3) Phái Sakya (Tát-ca phái – Wikipedia - mũ đỏ):
Khon Konchok Gyelpo (1034-1102)
Sơ đồ truyền thừa phái Sakya
Phái Sakya được ngài Khon Konchok Gyelpo khai sáng vào đầu thế kỷ
thứ 11 sau CN. Ngài Khon Konchok Gyelpo đã truyền lại giáo lý và các pháp
tu cho các đệ tử và sự truyền thừa vẫn liên tục không gián đoạn cho đến
nay.
Phái Sakya có những nét gần gũi hơn với đời sống thế tục. Sau khi
chế độ quân chủ sụp đổ, Tây Tạng không có chính quyền trung ương nên các
tăng sĩ của phái này đã nắm lấy chính quyền và truyền ngôi vị lại cho con
cháu. Hiện nay họ vẫn còn tồn tại nhưng đã từ lâu không còn nắm quyền cai
trị đất nước.
4) Phái Gelug (Cách-lỗ phái – Wikipedia - mũ vàng):
Je Tsongkhapa - Wikipedia
Tông-khách-ba – Wikipedia tiếng Việt
Sơ đồ truyền thừa phái Gelupa
Phái Gelug được ngài Tông-khách-ba (Je Tsongkhapa: 1357-1419)
khai sáng vào đầu thế kỷ thứ 15 sau TL. và sự truyền thừa vẫn liên tục
không gián đoạn cho đến nay. Đây là tông phái quan trọng nhất của Tây
Tạng hiện nay.
Tông-khách-ba là nhà tư tưởng lớn của Phật giáo Tây Tạng. Ngài là
một nhà cải cách và đã tiếp nối công việc hoằng pháp của Đại sư Atisha tức
là nghiêng về đạo đức, giới luật và giảm nhẹ ảnh hưởng của pháp thuật bằng
cách nhấn mạnh vào khía cạnh tâm linh.
Sự thành công nhanh chóng của ngài Tông-khách-ba là vì nhờ ông có
rất đông đệ tử, nhờ vào việc thành lập các tự viện và nhờ vào 16 bộ sưu tập
các tác phẩm Phật học. Ông chủ trương xét lại toàn bộ kinh điển và tổng kết
thành hai tác phẩm chính:
- Bồ-đề đạo thứ đệ (Lamrin Chenmo: Từng bước đến giác ngộ) trình
bày đầy đủ về sáu phép Ba-la-mật tiêu biểu cho đường lối tu tập Hiển giáo,
dựa theo tập sách Minh Đăng Thánh Đạo của ngài Atisha.
- Chân ngôn đạo thứ đệ (Ngagrim Chenmo) nói rõ những phương thức
công phu tiêu biểu cho đường lối Mật giáo.
Ngài là vị học giả luôn cố gắng tìm vị trí trung dung giữa những cực
đoan, tránh sự thiên lệch và đưa lại sự hòa giải giữa hai phái mũ vàng và mũ
đỏ. Trước khi mất, Ông di chúc lại cho hai đệ tử là Dalai Blama và Panchen
Blama tức là Đạt-Lai Lạt-Ma (Từ bi) và Ban thiền Lạt-Ma (Trí tuệ).
Đức Ban-Thiền Lạt-ma, Mao Trạch Đông và Đức Đạt-Lai Lạt-ma
Phái mũ vàng đã nắm quyền cai trị Tây Tạng cho đến năm 1950 khi Trung Cộng đánh chiếm đất Tây Tạng. Cả hai Ngài Ban Thiền và Đạt-Lai còn kẹt lại Tây Tạng. Tháng 4 năm 1959, sau chín năm bị giam lỏng ở Potala, Đức Đạt-Lai trốn
thoát và tỵ nạn tại Dharamsala tức Little L’hassa gần biên giới Tây Tạng và Ấn Độ cho đến ngày nay.
Trong khi Đức Đạt-Lai trốn được qua Ấn Độ, Ngài Ban-Thiền thứ 10, Lhundrup Choekyl Gyaltsen, còn bị kẹt lại và đã viết bài kiến nghị dài bảy mươi nghìn chữ để tố cáo cho thế giới về cảnh ngộ khốn cùng của đồng bào Tây Tạng dưới sự thống trị của Trung Cộng. Ngài đã bị đảng Cộng Sản Trung Quốc và Mao Trạch Đông lăng mạ và kết án 14 năm trong tù hay cấm cố tại nhà. Tháng 12 năm 1964, Ngài bị đưa đến Bắc Kinh dưới tội danh “phản cách mạng” và bị đánh đập tàn nhẫn. Năm 1978, sau khi được trả tự do, Ngài du hành khắp Tây Tạng và tiếp tục phê bình chính sách cai trị bạo tàn của Trung Cộng. Chẳng bao lâu sau đó, Ngài bị bắt trở lại và ngày 28 tháng giêng năm 1989, Ngài được nói là đã trút hơi thở cuối cùng trong hoàn cảnh rất bí mật, hưởng dương 51 tuổi.
Để tiếp tục truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, năm 1995 Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã chứng nhận Gendun Choekyi Nima là Đức Ban Thiền thứ 11, nhưng sau đó Bắc Kinh đã bắt cóc vị này cùng với cha mẹ và họ bị mất tích cho đến ngày nay. Trung Cộng sau đó tự chọn một cậu bé khác tên là Gyaltsen Norbu để ngồi vào chức vị Ban-Thiền Lạt-ma thứ 11, người mà hầu hết nhân dân Tây Tạng tẩy chay.
Mãi cho đến vị Đạt-Lai Lạt-ma thứ 5 là Lobsang Gyatso (La bốc tạng
Gia mục thố) thì việc chấn hưng mới được hoàn mãn. Tục lệ thừa kế bị loại
bỏ và nhiều kỳ thi về Phật học được tổ chức để gạt bỏ những người mượn áo
tu hành làm điều bất chính. Những kinh điển từ trước vẫn được cất kỹ thì
nay được mang ra truyền bá sâu rộng để khuyến khích phong trào tu học
trong nước. Mọi gia đình được khuyến khích gởi con cái vào các tu viện để
trở thành các vị Lạt Ma. Sau đó họ có thể lập gia đình và sống như một
người thường. Chỉ khi nào họ phát nguyện xuất gia thì mới được gọi là tu sĩ
(Trappa).
Vào thế kỷ 15, phái Gelug đưa ra một “luận thuyết” cho rằng các vị
Bồ-tát như Đức Quán Thế Âm, Di Lặc và chư Phật như Đức Phật A Di Đà chắc
chắn đã có hóa hiện ra những hóa thân để làm các vị giáo chủ mà hóa độ
chúng sinh. Những hóa thân tái sinh này được các vị cao tăng tìm kiếm và
xác nhận rất cẩn thận dựa trên những quy luật rất phức tạp do hội đồng lễ
nghi đề ra. Vai trò lãnh đạo của những vị hóa thân tái sinh này là nét đặc
thù của Tây Tạng trong suốt gần 5 thế kỷ qua. Tất cả 14 vị Đạt-Lai Lạt-Ma
đều xuất thân từ phái mũ vàng nhưng phái mũ đỏ vẫn được tôn trọng và vẫn
chiếm số đông.
Các vị Tổ sư khi thành lập mỗi một tông phái đều thể hiện những đặc
tính siêu việt của mình trong những yếu tố góp phần tạo nên đời sống thêm
phong phú cho Phật giáo Tây Tạng. Tuy các tông phái có sự khác biệt về việc
tổ chức tự viện, về màu sắc y phục, về các vị thần bảo hộ hay phương pháp
thiền định, nhưng họ luôn có sự tác động và vay mượn lẫn nhau. Sự nổi bật
của các vị Đạt-Lai Lạt-Ma đã làm cho nhiều người lầm tưởng rằng các Ngài là
những vị lãnh đạo của toàn thể nhân dân Tây Tạng. Nhưng trên thực tế, Tây
Tạng có rất nhiều tông phái khác nhau và mỗi phái có một vị lãnh đạo tinh
thần tối cao của riêng mình. Vì thế tuy đức Đạt-Lai Lạt-Ma được xem là
người lãnh đạo cao nhất của Tây Tạng về mọi mặt, nhưng mỗi một truyền
thống tông phái đều có một vị đứng đầu để dẫn dắt họ.
Tenzin Gyatso – Wikipedia
Đạt-lại Lạt-ma – Wikipedia tiếng Việt
(Tenzin Gyatso - 登珠嘉穆錯 - The 14th Dalai Lama)
Đối với Phật giáo trên khắp thế giới hiện nay, một phần ba thuộc về
Phật giáo Nam tông, hai phần ba thuộc Phật giáo Bắc tông. Trong khi đó,
Phật giáo Mật tông chỉ 1/30 số người Phật giáo vì giới hạn trong các nơi thưa
dân như Tây tạng, Bhutan, Nepal và Mông cổ. Mặc dù Đức Lạt-Lai Lạt-Ma chỉ
đại diện cho 1% tín đồ Phật giáo thế giới, nhưng với uy tín của ngài, người
Tây phương vẫn nhìn ngài như người đại diện cho toàn thể Phật giáo.
Cung điện Istana Potala, Lhasa – Wikipedia
Trong cuốn “Tây Tạng Huyền Bí” có diễn tả về cung điện Potala ở Tây Tạng trước khi quân Trung Cộng đánh chiếm đất nước này như sau :
“Tu thất của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma tọa lạc trên nóc điện Potala, vì theo phong tục bản xứ, không ai có quyền được ở chỗ cao hơn Ngài. Một cầu thang vĩ đại xây bằng đá rộng gần bằng một đường lộ đưa đến tư dinh của Ngài. Điện Potala là một tòa cung điện độc lập xây dựng trên một ngọn đồi. Đó là cơ quan đầu não để giải quyết tất cả mọi công việc chính trị và tôn giáo của xứ Tây Tạng. Đó là trung tâm của quốc gia, mục tiêu của tất cả tư tưởng, nguồn gốc của tất cả mọi hy vọng. Bên trong vòng thành của cung điện, trong những tòa nhà của Ngân Khố Quốc Gia, có dự trữ những khối vàng ròng, vô số những bao đựng đầy ngọc ngà châu báu và những bảo vật quý giá của thời đại cổ xưa nhất…Tiếp tục bước lên đến một điểm cao tột trên nóc điện, tại đây có những lăng tẩm của những vị Đạt-La Lạt-Ma của quá khứ, tức tiền thân của đức Đạt-La Lạt-Ma hiện tại.”
Phái mũ vàng và phái mũ đỏ
Trong các tông phái kể trên thì chỉ có phái Gelug còn gọi là phái mũ
vàng là các vị xuất gia, còn các phái Nyingma, Kagyu, Sakya gọi là 3 phái
mũ đỏ thì đa số là các vị cư sĩ .
Xem thêm: - Tibetan Buddhism - Wikipedia
- Phật giáo Tây Tạng – Wikipedia
- Lịch Sử Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng - Thư Viện Hoa Sen
- Lược Sử Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng | Blog Du Lịch Tây ...
VIDEO - Đại Cương Mật Tông Tây Tạng – Trí Siêu
- Tây Tạng Ngày Xưa - The Lost World Of Tibet (BBC)
- Mật Tông Có Phải Là Tà Giáo Không? - Thầy Thích Pháp Hòa
- Vấn đáp: Hiểu đúng về trường phái Mật tông | Thích Nhật Từ
- Vấn đáp: Phật Giáo Tây Tạng tại Trung Quốc - TT. Thích Nhật Từ
- Vấn đáp: Tại sao PHẬT GIÁO TÂY TẠNG thờ các vị THẦN ? | TT. Thích Nhật Từ