32

2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

  • Upload
    others

  • View
    4

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách
Page 2: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT2* Thử nghiệm Việt Nam hội nhập - Thách thức và cơ hội* Tái cơ cấu nền KH&CN: Đổi sao cho mới?* Quy định về việc cung cấp dịch vụ thử nghiệm thành thạo

KIẾN THỨC VÀ THÔNG TIN HỮU ÍCH8* HACCP và quản lý chất lượng thủy sản * Sáu phương pháp thử nghiệm công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh và người lớn SPIFAN được phê duyệt đến trạng thái Hành động cuối cùng* AOAC Quốc tế - Kỳ 2: ISO/IEC 17025 “Yêu cầu chung về năng lực phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn” – Phạm vi, tài liệu viện dẫn

TRANG HỘI VIÊN16* Bảo trì - Hiệu chuẩn phương tiện, thiết bị phòng thử nghiệm* VinaCert - Hướng đi hội nhập* Analytica Vietnam 2015 - Nơi hội tụ các công nghệ và giải pháp mới nhất của lĩnh vực phân tích, thí nghiệm

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM20* Sự nhiễm bẩn từ phòng thử nghiệm vào mẫu thử* Quản lý phòng thử nghiệm - Đạt được sự hợp tác, đồng thuận* Tầm quan trọng của CHELATE trong dinh dưỡng cây trồng* Sự nguy hiểm của vi khuẩn Clostridium botulinum

NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ26* Marie Curie - Từ cô bé làm thuê trở thành nhà khoa học vĩ đại* Những nhà khoa học nữ nổi tiếng nhất thế giới

Page 3: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

Trong tay Bạn là Bản tin số 2 Thử nghiệm và Đời sống. Để phục vụ Hội viên và Bạn đọc được tốt hơn, Bản tin rất mong muốn Hội viên và Bạn đọc cho ý kiến và gửi tin, bài về hoạt động thử nghiệm.Mọi ý tưởng, ý kiến đóng góp và sự hỗ trợ của Tổ chức, Doanh nghiệp và Cá nhân đều được trân trọng ghi nhận và nghiên cứu áp dụng để nội dung, hình thức của Bản tin được liên tục cải tiến.Chúng tôi trân trọng cảm ơn sự quan tâm, tin tưởng của quý vị. Rất mong Bản tin này sẽ trở thành người bạn thân thiết, có ý nghĩa đối với Hội viên và Bạn đọc.

Bản tin Thử nghiệm và Đời sống

Hội đồng cố vấn:1. TS Nguyễn Hữu Thiện - Chủ tịch Hội2. PGS.TS Phạm Xuân Đà – PCT Hội

3. KS Bùi Xuân Tuấn – PCT kiêm Trưởng Ban Kiểm tra4. KS Nguyễn Hữu Dũng – Tổng Thư ký Hội

Chịu trách nhiệm xuất bản: KS.Nguyễn Hữu Dũng – Tổng Thư ký HộiBiên tập: Huyền Trang, Hoài Anh

Thiết kế mỹ thuật: Bùi HuếThư từ cộng tác, tin bài xin gửi về:

Bản tin Thử nghiệm và Đời sống – Tầng 4, tòa nhà 130 Nguyễn Đức Cảnh, Tương Mai, Hoàng Mai, Tp. Hà Nội

Tel: 04 6683 9670 / Fax: 04 3634 3449 / Email: [email protected]: www.vinalab.org.vn

....................................................................................Giấy phép xuất bản số 13/GP – XBBT cấp ngày 11/02/2015

của Cục Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thôngKỳ hạn xuất bản: 1 kỳ/ 1 tháng

Số lượng in: 1000 bản/ kỳ.1

Page 4: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

HỘI CÁC PHÒNG THỬ NGHIỆM VIỆT NAM

Việt Nam đã gia nhập WTO. Bên cạnh đó, Cộng đồng kinh tế chung ASEAN (AEC) dự kiến thành lập cuối 2015 nhằm thúc đẩy các nước thành viên phát triển kinh tế, hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách thức không nhỏ.

Năm 2007, đánh dấu một mốc quan trong khi

Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Năm 2015, lại đánh dấu một mốc quan trọng khác với nền kinh tế nước nhà là cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ chính thức được thành lập. Mặt khác, từ 01/01/2015, Việt Nam áp dụng thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các Hiệp định Thương mại tự do giai đoạn 2015 – 2018. Và, cùng trong năm nay, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Hải quan Nga- Belarus cũng có cơ hội được ký kết…Khi trở thành thành viên của một tổ chức kinh tế quốc tế nào đó có nghĩa là, hàng hóa của các quốc gia

trong tổ chức đó được giao lưu tự do và được hưởng quy chế thuế xuất nhập khẩu đặc biệt, có thể tới mức 0%. So với năm 2007, khi mà hội nhập chưa tác động trực tiếp nhiều vào giao lưu hàng hóa thì năm nay, các Hiệp định được ký kết sẽ chắc chắn tác động ngay vào thị trường tiêu dùng trong nước. Người tiêu dùng có nhiều cơ hội được sử dụng các sản phẩm/dịch vụ có giá trị hơn, văn minh hơn nhưng ngược lại cũng có thể sẽ phải sử dụng những sản phẩm/ dịch vụ không tương xứng với đồng tiền mà người tiêu dùng bỏ ra. Hơn thế nữa, các nhà sản xuất trong nước nếu không chuẩn bị sẵn sàng thì sẽ thua ngay trên sân nhà.Bài viết này không đề cập đến chuyện sản xuất kinh doanh mà đề cập đến khía cạnh khác - Dịch vụ thử nghiệm. Khi hàng rào thuế quan bị gỡ bỏ, thì điều duy nhất còn tồn tại là hàng rào kỹ thuật. Công cụ để vận hành hàng rào kỹ thuật có hiệu quả lại là hoạt động thử nghiệm. Đơn cử, khi một lô hàng nhập khẩu vào

Việt Nam, nếu cơ quan chức năng Việt Nam muốn kiểm tra chất lượng lô hàng đó có đúng với công bố hay không? Hoặc có đúng với các quy định của Việt Nam hay không thì thử nghiệm lại là lực lượng chính để đảm nhận nhiệm vụ này. Khi đã hội nhập, các phòng thử nghiệm không thể cứ khăng khăng “Kết quả của Tôi đúng”; “Kết quả của tôi là chính xác nhất” mà phải tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế. Thử tự hỏi? Có bao nhiêu phòng thử nghiệm của Việt Nam hiện nay đủ bản lĩnh “chiến đấu” với các phòng thử nghiệm nước ngoài về “độ chính xác” của phép thử do mình cung cấp. Dù cho các phòng thử nghiệm này đều đã được công nhận ISO/IEC 17025 thì liệu họ có đủ tự tin để “tham chiến” hay không? Cần lưu ý, các phòng thử nghiệm nước ngoài khi được công nhận ISO/IEC 17025 đều phải sử dụng chất chuẩn/ chủng chuẩn được công nhận ISO/IEC Guide 34 và hằng năm đều phải tham gia

Nguyễn Hữu DũngTổng thư ký Hội VinaLAB

2

Page 5: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

THỬ NGHIỆM & ĐỜI SỐNG

các chương trình thử nghiệm thành thạo được công nhận ISO/IEC 17043 một cách dày đặc để đảm bảo kết quả thử nghiệm của các phòng thử nghiệm này có đủ độ tin cậy. Nếu chỉ xét trên hai điểm này thì hầu hết các phòng thử nghiệm của chúng ta đều “run tay” trước khi “tham chiến”. Như vậy, nếu các phòng thử nghiệm của chúng ta đều “run tay” thì khi cung cấp kết quả thử nghiệm để đánh giá chất lượng một lô hàng cũng sẽ “run tay” và như vậy, vô hình chung, các phòng thử đã gián tiếp triệt hạ nền sản xuất trong nước. Những năm gần đây, các phòng thử nghiệm tư nhân đã ra đời và hoạt động ngày một hiệu quả. Hiệu quả nhất của các phòng thử nghiệm tư nhân là tính năng động. Các phòng thử nghiệm này có chế độ đãi ngộ tốt, thu hút và giữ được lao động có trình độ, yêu nghề. Đảm bảo các nhân viên thử nghiệm sống được bằng nghề của mình, đây là yếu tố sống còn của một phòng thử nghiệm vì dù có thiết bị tối tân, hiện đại đến đâu khi con người không toàn tâm với công việc thì kết quả thử nghiệm không thể đảm

bảo được. Mặt hạn chế của các phòng thử nghiệm tư nhân không phải ở chỗ được đầu tư thấp mà là ở chỗ chưa được đối xử công bằng với các phòng thử nghiệm công lập. Vì các phòng thử nghiệm tư nhân đều được đầu tư đúng, đủ và hiệu quả nhưng cơ quan quản lý lại đánh giá

n ă n g lực của các phòng thử nghiệm này không bằng năng lực đúng của nó mà lại dựa trên một văn bản hành chính. Chưa có một phòng thử nghiệm tư nhân nào được chỉ định là phòng thử nghiệm trọng tài mà phòng thử nghiệm

trọng tài lại dựa vào sự chỉ định trong một Thông tư nào đó. Thiết nghĩ, muốn làm chủ cuộc chơi hội nhập, các phòng thử nghiệm phải đảm bảo tính năng động, nhậy bén với xu hướng phát triển và các vấn đề nảy sinh hằng ngày trong nước cũng như trên thế giới. Đồng thời, các phòng thửnghiệm này phải xây dựng, áp dụng duy trì và cải tiến liên tục các hệ thống quản

lý chất lượng đúng với chuẩn mực quốc tế.

Cùng với đó, các cơ quan quản lý phải

đảm bảo sân chơi công bằng cho các phòng thử nghiệm, không phân biệt sở hữu và tạo điều kiện cho các dịch vụ hỗ trợ đảm

bảo kết quả thử nghiệm như:

dịch vụ hiệu chuẩn, dịch vụ thử

nghiệm thành thạo, cung cấp chất chuẩn...

vv. đạt chuẩn mực quốc tế hoạt động được thuận lợi. Có như vậy, các phòng thử nghiệm của Việt Nam mới có cơ hội canh tranh trên thị trường quốc tế góp phần trợ giúp các doanh nghiệp sản xuất trong nước có khả năng cạnh tranh khi hội nhập.

3

Page 6: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

HỘI CÁC PHÒNG THỬ NGHIỆM VIỆT NAM

Phát biểu mở đầu cuộc gặp diễn ra tại trụ sở Bộ KH&CN, Bộ trưởng Nguyễn Quân cho rằng, nhiều năm qua, nền KH&CN Việt Nam đã được sự quan tâm lớn của Nhà nước và bản thân cộng đồng khoa học cũng có không ít nỗ lực nhưng vẫn còn nhiều mặt bất cập cản trở sự phát triển không chỉ riêng của ngành mà cả sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Nguyên nhân, theo Bộ trưởng, là do mặc dù đã đặt một chân vào kinh tế thị trường nhưng tư duy của chúng ta vẫn mang nặng dấu ấn của giai đoạn quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, kế hoạch hóa trước đây. “Có những đột phá như Nghị định 115 về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhưng sự hưởng ứng từ giới quản lý và ngay cả những người làm khoa học cũng chỉ ở mức độ khiêm tốn, khiến cho Nghị định chưa thật sự đi vào cuộc sống sau 10 năm thực hiện. Hay như Nghị định 80 về doanh nghiệp KH&CN được ban hành đã hơn bảy năm

nhưng không tạo ra đột biến nào về số lượng doanh ng-hiệp KH&CN”, Bộ trưởng dẫn chứng. “Khi những nỗ lực riêng lẻ nhằm đưa nền KH&CN Việt Nam thoát khỏi cái quán tính của một thời không đem lại kết quả như mong đợi, vấn đề tái cơ cấu toàn bộ hệ thống được đặt ra một cách cấp bách hơn bao giờ hết và việc chuyển đổi tư duy của những người lãnh đạo, quản lý và những người trực tiếp làm nghiên cứu, ứng dụng có ý nghĩa quyết định thành công của đề án tái cơ cấu”, Bộ trưởng Nguyễn Quân nhấn mạnh.Cần một tư duy mới: tự chủ cùng tầm nhìn dài hạn Tại cuộc trao đổi thẳng thắn với những lãnh đạo cao nhất của Bộ KH&CN, nhiều nhà khoa học đã chỉ ra những lối tư duy mà họ cho rằng cần từ bỏ. Họ đánh giá rằng dù đã qua nhiều lần đổi mới nhưng về cơ bản, hệ thống KH&CN của Việt Nam vẫn thuộc quyền sở hữu và chỉ huy tập trung của Nhà nước, bởi vậy

công việc tái cấu trúc sẽ phải đi theo hướng từ mô hình một nhà nước độc tôn làm KH&CN sang nền KH&CN tự chủ. Theo đó, trước hết cần thoát ly tư duy hành chính, mệnh lệnh vì nó khiến hầu hết các hoạt động phải tiến hành theo quy hoạch có sẵn, hoặc phải được đăng ký, xin phép. GS.TSKH Trần Xuân Hoài, Chủ tịch Hội đồng Khoa học- Viện Vật lý ứng dụng và Thiết bị khoa học, cho rằng tư duy này đi ngược với bản tính sáng tạo, tự do và tự chủ của khoa học và giờ là lúc phải đổi hẳn từ quản lý kiểu hành chính sang quản lý theo đặc thù. Còn GS.TS Dương Nguyên Vũ, Viện trưởng Viện John von Neumann – Đại học Quốc gia TP.HCM, người từng có nhiều năm làm nghiên cứu và quản lý khoa học ở nước ngoài, thì cho rằng cần loại trừ những tư duy có tính ngắn hạn, ăn xổi, ví dụ tư duy thương phẩm trong nghiên cứu khoa học. “Nghiên cứu khoa học là làm ra tri thức, tiền đề cho thương phẩm, chứ không phải làm ra thương phẩm.

Mới đây, Bộ KH&CN đã khởi động việc soạn thảo đề án tái cơ cấu nền KH&CN Việt Nam, một nhiệm vụ mà Bộ trưởng Nguyễn Quân nhận định là khó khăn nhưng rất quan trọng của Bộ trong năm 2015. Cuộc gặp gỡ với khoảng 30 nhà khoa học hôm 23/1/2015 vừa qua có thể coi là cuộc tiếp thu ý kiến giới khoa học đầu tiên của Bộ cho đề án dự kiến phải hoàn tất vào tháng Năm tới.

4

Page 7: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

THỬ NGHIỆM & ĐỜI SỐNG

Nếu tôi làm thương phẩm thì tôi phải có thêm kỹ năng bán hàng, đóng gói, phân phối…, mà đó không phải là những kỹ năng của người làm khoa học”, ông nói. Một tư duy ngắn hạn khác phổ biến ở Việt Nam mà GS.TS Dương Nguyên Vũ cho rằng cần được thay thế, đó là tư duy nghiên cứu theo đề tài, bởi nó dễ khiến nhà khoa học chỉ nghĩ đến mục tiêu đầu ra trước mắt hơn là có một tầm nhìn xa. “Nhà khoa học chỉ nên coi đề tài khoa học như một hướng nhỏ trong tầm nhìn. Họ phải là người có vai trò lãnh đạo, dẫn dắt tầm nhìn khoa học chứ không tùy thuộc vào việc ra đề tài của Bộ hay một quỹ nào đó,” ông nói. Tăng cường gắn kết KH&CN với giáo dục - đào tạo và sản xuất Theo GS.TS Vũ Cao Đàm, Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội, quá trình tái cấu trúc phải gắn kết khoa học và giáo dục. Ông nhận định, Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường nên không thể cưỡng được việc kết hợp nghiên cứu với đào tạo như xu hướng chung của thế giới. “Gần đây, tại Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam và Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã xuất hiện các đơn vị đào tạo sau đại học. Điều này cho thấy đang bắt đầu một quá trình tự tái cấu trúc rất ngoạn mục, và quá trình các viện hàn lâm tự biến thể không còn là điều lạ lẫm,” ông nói. Đồng tình với GS Vũ Cao

Đàm, GS Dương Nguyên Vũ cho rằng nghiên cứu khoa học có mối quan hệ mật thiết với đào tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học bởi các sinh viên cao học và nghiên cứu sinh là nguồn nhân lực quan trọng để giải quyết các vấn đề nghiên cứu đặt ra thông qua các luận án tốt nghiệp. Ba yếu tố nghiên cứu khoa học, đào tạo sau đại học, và đổi mới sáng tạo làm thành tam giác tri thức với trọng tâm là vai trò quản trị của viện nghiên cứu, chính là mô hình làm kim chỉ nam trong việc tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các viện nghiên cứu. Đề cao mối quan hệ giữa khoa học với sản xuất, PGS.TS Phạm Thành Huy, Viện trưởng Viện Tiên tiến KH&CN – Đại học Bách khoa Hà Nội, tin rằng tiềm năng hợp tác giữa các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp là rất lớn. PGS.TS Phạm Thành Huy đề xuất tăng cường hơn nữa những chính sách thu hút đầu tư của doanh nghiệp và tăng cường vai trò của R&D trong doanh nghiệp, chẳng hạn như quy định bắt buộc doanh nghiệp phải dành một tỉ lệ nhất định lợi nhuận sau thuế cho nghiên cứu khoa học. Mặt khác, ông đề nghị xây dựng chính sách khuyến khích các nhà khoa học đến làm việc tại doanh nghiệp. Qua cuộc tọa đàm, có thể thấy đa số các nhà khoa học kỳ vọng cuộc tái cơ cấu nền KH&CN Việt Nam sắp tới sẽ

đem lại thay đổi thật sự chứ không chỉ mang tính chất sửa sai là chính, “đổi” mà không “mới”, như đã diễn ra thời gian qua ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, cũng có những ý kiến bày tỏ thái độ dè dặt, với nhận định rằng thành công của tái cơ cấu KH&CN chỉ đến khi vai trò của KH&CN được Nhà nước chú trọng đúng mức, mà điều đó đòi hỏi Nhà nước phải tăng cường thẩm quyền, vai trò tự chủ của Bộ KH&CN, cùng tính hiệu lực của các chính sách KH&CN.

Nguồn: Tạp chí Tia sáng

5

Page 8: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

HỘI CÁC PHÒNG THỬ NGHIỆM VIỆT NAM

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

(Ban hành kèm Quyết định số 01/QĐ-VILA3 ngày 06 tháng 3 năm 2015 của Chủ tich Hội các phòng thử nghiệm Việt Nam)

Điều 1: Phạm vi:Quy định này quy định điều kiện, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức cung cấp dịch vụ Thử nghiệm PT được sự bảo trợ của Hội các phòng thử nghiệm Việt Nam - VinaLAB.Điều 2. Các từ viết tắt:2.1. Thử nghiệm PT: Thử nghiệm thành thạo;2.2. VinaLAB: Hội các phòng thử nghiệm Việt Nam;2.3. VPT: Chương trình Thử nghiệm PT của VinaLAB; Điều 3. Điều kiện đối với các tổ chức tham gia cung cấp dịch vụ thử nghiệm thành thạo:Các tổ chức cung cấp dịch vụ Thử nghiệm PT muốn tham gia cung cấp chương trình dưới sự bảo trợ của VinaLAB phải đáp ứng các yêu cầu sau:3.1. Là Hội viên tập thể của Hội VinaLAB;3.2. Có đơn đăng ký cung cấp dịch vụ thử nghiệm PT, cam kết tuân thủ các quy định của Hội và được Ban thường vụ Hội VinaLAB chấp nhận;3.3. Duy trì và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO/IEC 17043:2010 trong quá trình tổ chức chương trình. Ban Thử nghiệm PT của Hội sẽ tiến hành đánh giá trong trường hợp tổ chức chưa được công nhận ISO/IEC 17043:2010 hoặc khi cần đối với tổ chức đã được công nhận ISO/IEC 17043:2010.Điều 4. Quyền và nghĩa vụ tổ chức cung cấp dịch vụ thử nghiệm thành thạo: 4.1. Cung cấp dịch vụ thử nghiệm PT cho các phòng thử nghiệm đăng ký;4.2. Được đăng tải các chương trình PT trên web VinaLAB.org.vn;4.3. Được sử dụng logo của VinaLAB trên các biểu mẫu, báo cáo kết quả thử nghiệm thành thạo, các tài liệu sale tool và các văn bản thư tín;4.4. Được sử dụng hòm thư [email protected] (y là mã số của tổ chức cung cấp PT do VinaLAB cấp. y có giá trị từ 1-9) để giao dịch và được cung cấp mật khẩu hòm thư [email protected] để theo dõi;4.5. Được VinaLAB cấp mã chương trình Thử nghiệm PT theo quy định tại điều 5 của Quy định này;4.6. Được thu phí thử nghiệm PT theo phí công khai với VinaLAB;4.7. Chịu trách nhiệm về chất lượng mẫu Thử nghiệm thành thạo, chất lượng dịch vụ Thử nghiệm PT với khách hàng và VinaLAB;4.8. Thanh toán phí sử dụng logo VinaLAB cho Hội VinaLAB theo quy định sau:- 10% tổng giá trị chương trình PT cho VinaLAB - VinaLAB sẽ căn cứ trên báo cáo kết thúc của từng chương trình để tính phí sử dụng logo.Điều 5. Quy định về mã chương trình và hình thức đăng tải chương trình lên các phương tiện truyền thông của VinaLAB5.1. Các tổ chức cung cấp dịch vụ Thử nghiệm PT được VinaLAB cấp cho 01 mã quản lý bằng số thứ tự (bắt đầu từ 01 cho tới 09). Ban Thử nghiệm PT của VinaLAB sẽ căn cứ trên đơn đăng ký của các đơn vị gửi về để cấp mã số.5.2. Mã số chương trình Thử nghiệm thành thạoCác đơn vị tham gia cung cấp chương trình dưới sự bảo trợ của VinaLAB chịu trách nhiệm đánh mã số chương trình theo quy định như sau:

6

Page 9: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

THỬ NGHIỆM & ĐỜI SỐNG

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

Ký hiệuViết tắtViết tắt chương trình Thử nghiệm PT của hội VinaLAB

Mã quản lý do VinaLAB cấp cho các đơn vị cung cấp dịch vụ Thử nghiệm PT

Loại chương trình thử nghiệm thành thạo, được ký hiệu như sau:1: Chương trình lĩnh vực Cơ học.2: Chương trình lĩnh vực Dược3: Chương trình lĩnh vực Điện – Điện tử.4: Chương trình lĩnh vực Đo lường – Hiệu chuẩn.5: Chương trình lĩnh vực Hóa học.6: Chương trình lĩnh vực Sinh học.7: Chương trình lĩnh vực Thử nghiệm không phá hủy.8: Chương trình lĩnh vực Vật liệu xây dựng.Loại chương trình sẽ được xác định dựa vào chỉ tiêu tổ chức trong chương trình. Trong 1 chương trình có thể có nhiều loại chương trình, khi đó mã “L” sẽ được liệt kê cho tới khi hết các loại chỉ tiêu có trong chương trình.Năm tổ chức chương trình (chỉ ghi 2 số cuối của năm)

Số thứ tự của loại chương trình do tổ chức cung cấp dịch vụ PT quy định

NNN:

ZZZ:

VPT:

Y:L:

Màu sắc

Độ đục

pH

Kiềm tổng

TDS

TSS

Chỉ tiêu chất lượng nước uống

VPT.1.5.15.01 Định lượng Tháng 4/2014

3.000.0001

Tên chương trình

Mã chương trình

Chỉ tiêu

Loại chương

trìnhThời gian tổ

chứcPhí tham

dựTT

2 ... ... ... ... ... ...

5.3. Các đơn vị tham gia cung cấp chương trình chịu trách nhiệm lập danh mục chương trình theo cấu trúc như sau (ví dụ):

Điều 6. Quyền và nghĩa vụ của VinaLAB:6.1. Công khai, cập nhật các chương trình và phí Thử nghiệm PT được niêm yết trên trang web vinalab.org.vn;6.2. Đăng tải các chương trình Thử nghiệm PT trên các ấn phẩm của VinaLAB;6.3. Thỏa thuận với các tổ chức công nhận, các cơ quan chỉ định chấp nhận kết quả thử nghiệm PT của VinaLAB;6.4. Từ chối các đơn vị cung cấp dịch vụ Thử nghiệm PT không đủ điều kiện như đã nêu ở điều 3. Truất quyền tham gia tổ chức chương trình Thử nghiệm PT cho VinaLAB nếu phát hiện đơn vị cung cấp chương trình vi phạm các nguyên tắc tổ chức và quy định của VinaLAB;6.5. Cam kết chất lượng chương trình đối với khách hàng tham gia chương trình.

VinaLAB

7

Page 10: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

HỘI CÁC PHÒNG THỬ NGHIỆM VIỆT NAM

KIẾN THỨC VÀ THÔNG TIN HỮU ÍCH

“Phương thức phòng ngừa thay vì kiểm tra sản phẩm cuối” được nêu ra lần đầu vào năm 1930 với tên gọi là nguyên lý Prescott-Meyer-Wilson. Năm 1974, phương thức này được Bauman định nghĩa và gọi tên là HACCP, gần 60 năm sau, nó được triển khai trong thực tế trên khắp thế giới. Năm 2015 đánh dấu 25 năm HACCP vào Việt Nam, cũng là năm Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn lấy làm năm an toàn vệ sinh thực phẩm.

Sơ qua về sự ra đời và áp dụng của HACCP Đầu thập niên 1980, hai vấn đề gọi là nóng bỏng nhất trong các hệ thống kiểm soát thực phẩm Hoa Kỳ là Thanh tra chất lượng và Ý niệm (concept) HACCP. Quốc hội Hoa Kỳ đã yêu cầu Nha Ngư nghiệp Quốc gia (National Marine Fisherries Service, viết tắt là NMFS) triển khai một Dự

án có tên gọi là “Dự án Giám sát thủy sản mẫu” (Model Seafood Surveillance Project, viết tắt là MSSP) nhằm thiết kế một chương trình Thanh tra thuỷ sản bắt buộc dựa trên tiếp cận HACCP. Công việc được triển khai với sự hợp tác của FDA và Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ. Kết luận của dự án được Viện Hàn Lâm Khoa học nước này (NAS) đúc kết để đưa ra các khuyến cáo chính thức về đổi mới quản lý. Theo Dự án trên thì những mối nguy đối với người tiêu dùng đến từ ba nguồn chính: Vệ sinh nhà xưởng, vệ sinh thực phẩm và gian lận trong thương mại. Vì vậy hệ thống HACCP được thiết kế phải bao gồm tất cả các yếu tố khắc phục rủi ro từ cả ba nguồn ấy để tránh được tất cả các mối nguy cho người tiêu dùng. Mọi yếu tố liên quan đến độ an toàn của thuỷ sản đều được xem xét khách quan

và tỉ mỉ. Chúng được phân thành các nhóm theo xuất xứ: Từ môi trường, từ chế biến, từ lưu thông phân phối và từ trong cộng đồng người tiêu dùng. Mỗi nhóm lại được chia nhỏ ra hơn. Tiếp cận HACCP đã được Quốc hội Hoa Kỳ giao áp dụng đối với Nghề cá nước này vào cuối những năm cuối 1980. Thời gian này ở Canada cũng có đề xuất áp dụng một hệ thống quản lý chất lượng hải sản theo các chương trình quản lý chất lượng (QMP) dựa vào HACCP. Chỉ trong mấy năm sau, HACCP đã được áp dụng phổ biến trong nhiều nước, nhất là ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Thị trường Châu Âu nhất thể hoá đã sớm thống nhất việc áp dụng HACCP rất tiện lợi cho tìm sự tương đồng về tiêu chuẩn giữa các nước thành viên và cho việc ký các ghi nhớ (MOU) uỷ thác thanh kiểm tra

Lời BBT:Năm 1990, khái niệm HACCP xuất hiện tại Việt Nam thông qua các hội thảo do WHO & FAO tổ chức. Tuy nhiên, ngành thủy sản lại là ngành tiên phong trong việc áp dụng HACCP để làm công cụ đắc lực cho việc xuất khẩu thủy sản vào các thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Nhân dịp 25 năm HACCP vào Việt Nam, TS. Tạ Quang Ngọc - Nguyên Bộ trường Bộ Thủy sản có bài viết riêng cho bản tin VinaLAB. Ban Biên tập xin giới thiệu toàn văn bài viết này tới các Hội viên và bạn đọc.

HACCP và quản lý

chất lượng thủy sảnTS. Tạ quang Ngọc

Nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy sản

8

Page 11: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

THỬ NGHIỆM & ĐỜI SỐNG

KIẾN THỨC VÀ THÔNG TIN HỮU ÍCH

với các quốc gia bên ngoài. Tiếp cận HACCP đã được lồng ghép vào hệ thống tiêu chuẩn ISO lần đầu tiên trong Tiêu chuẩn ISO 9001, về sau này thành cốt lõi của ISO 22000 (Tiêu chuẩn này đã dịch chuyển vào Việt Nam và phiên bản gần đây là TCVN 22000:2005). Như vậy là, ngược hẳn với phương thức trước đây, dựa vào kiểm tra sản phẩm cuối và tiến hành thanh tra theo nguyên tắc truy ngược (ret-rospective) bây giờ là thực thi một chiến lược phòng ngừa, hay ngăn chặn (preventive) khi áp dụng HACCP dựa trên sự phân tích kỹ lưỡng các điều kiện chi phối quá trình hình thành sản phẩm. Cách nghĩ và làm đó cho một phương thức mới an toàn hơn mà chi phí lại thấp. Trong vi sinh vật, tiếp cận mới đó là kiểm soát tất cả các yếu tố liên quan tới sự lây nhiễm, sựtiềm phát và phát triển của các vi sinh vật trong thực phẩm trên mọi công đoạn của chuỗi sản xuất. Tiếp cận đó được gọi là Phân tích mối nguy và các điểm kiểm soát nóng (Hazard Analysis Critical Control Points), gọi tắt là tiếp cận HACCP. Nó áp dụng không chỉ cho các mối nguy vi sinh. Chúng tôi muốn nói tới ưu thế lớn của hệ thống áp dụng HACCP là ở chỗ nó tạo ra một phương thức để chủ động bảo đảm an toàn chất lượng, chủ động ngăn

chặn có tính hệ thống, có cấu trúc chặt chẽ, hợp lý và tổng hợp nhiều kiến thức.HACCP vào Việt Nam cùng đổi mới và hội nhập Thực hiện chủ trương đổi mới và hội nhập, đón những cơ hội mới về thị trường, HACCP đã được đưa vào Việt Nam với sự nỗ lực của ngành, sự khuyến khích của Nhà nước, sự hợp tác của cơ quan Tiêu chuẩn và quản lý chất lượng trong nươc, sự giúp đỡ, hợp tác của các tổ chức Quốc tế (UNDP, FAO, INFOFISH) và của những nước công nghiệp phát triển. Tiếp thu và giai đoạn đầu áp dụng HACCP đã thực hiện theo từng bước một cách bài bản suốt trong những năm 1990. Đầu tiên là tham gia tích cực vào “Chương trình tập huấn quốc tế về bảo đảm an toàn chất lượng của thuỷ sản và sản phẩm thuỷ sản” trong khuôn khổ dự án UNDP/FAO số hiệu INT 90/026 10/1988 - 01/1990. Sau đó,Trong hai năm 1991, 1992, Bộ Thủy sản đã chủ trì mở các lớp tập huấn trong nước về HACCP với số lượng người tham gia khoảng 300, bao gồm các nhà quản lý chất lượng thuỷ sản, trưởng ca, quản đốc các cơ sở sản xuất, cán bộ KCS và công tác tại các phòng thí nghiệm của doanh nghiệp chế biến khắp cả nước. Quan hệ ngoại giao Việt Nam - EU được thiết lập cuối tháng 11/1990 và đến tháng

7/1995 hai bên ký “Hiệp định khung Hợp tác, thiết lập các nguyên tắc cơ bản nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai phía”. Nhất thể hóa thị trường thực phẩm Châu Âu về việc quy định áp dụng HACCP là một sự kiện quan trọng trong 5 năm này liên quan đến khung pháp lý và điều kiện thực tiễn để chúng ta hội nhập về quản lý chất lượng thủy sản với Châu Âu và không lâu sau đó mở rộng ra thị trường Bắc Mỹ cũng như các nơi khác. Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam năm 1995 cũng tạo ra cú hích mạnh cho sự mở rộng này. Yêu cầu của EU lúc đó là: Các nước xuất khẩu cần quy định và thực thi các quy định an toàn chất lượng tương đương như các quy định tại EU (lấy HACCP là tiếp cận) và phải có một cơ quan quản lý chất lượng đủ thẩm quyền và năng lực (competent Authority). Năm 1994, Trung tâm An toàn chất lượng Thủy sản (NAFIQACEN) ra đời, cũng năm đó Thủy sản Việt Nam đã đứng một chân vào thị trường Châu Âu với 67 doanh nghiệp vào đó theo danh sách 2 (xuất vào và chỉ tiêu thụ ở nước đã nhập), rồi đến cuối thập niên 1990 đồng loạt vài chục doanh nghiệp đầu tiên vào danh sách 1 (hàng sau khi vào một nước thành viên có thể đi đến và tiêu thụ ở mọi nước thành viên khác), rồi hàng trăm doanh nghiệp tiếp

9

Page 12: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

HỘI CÁC PHÒNG THỬ NGHIỆM VIỆT NAM

KIẾN THỨC VÀ THÔNG TIN HỮU ÍCH

theo đó vào Châu Âu, Bắc Mỹ cũng như các quốc gia và châu lục khác một cách vững chắc.HACCP tăng tính dân chủ trong quản lý Ngoài những ưu thế về khoa học và kỹ thuật thì tính dân chủ trong quản lý là một đặc điểm lớn cần phải kể tới khi vận hành một hệ thống quản lý chất lượng cách tiếp cận và tư duy này. Sự đồng hành của người kiểm soát chất lượng với người làm ra sản phẩm trong suốt quá trình sản xuất và tiêu thụ, vai trò chủ động của do-anh nghiệp chế biến trong xây dựng và thực thi các GMP và QMP đã tạo ra sự bình đẳng và dân chủ đó. Đây là một yếu tố quan trọng liên quan đến đổi mới quản lý nhà nước và xã hội hóa các công việc quản lý. Thực tế những năm áp dụng HACCP vào thủy sản, doanh nghiệp cùng với sự chủ động của mình có những tiếng nói trọng lượng trong công việc quản lý chất lượng ở tầm doanh nghiệp, ngành và cả quốc gia. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) có vai trò hợp tác, phản biện và giám sát các công việc quản lý Nhà nước từ việc xây dựng và thực thi các quy định quản lý và kiểm soát chất lượng, nâng cao mức độ tin cậy của các chương trình bảo đảm vệ sinh và an toàn chất lượng thủy sản... Tuy nhiên không phải là không có những khó khăn, khúc mắc

và lúng túng khi vận hành hệ thống quản lý chất lượng kiểu này vào những sản phẩm cụ thể, cơ sở sản xuất cụ thể, một mô hình HACCP cụ thể. Để có hiệu quả, HACCP phải được áp dụng từ khâu xuất xứ của thực phẩm, một việc khó, thậm chí bất khả thi nếu có sự yếu kém trong quản lý thị trường, tại cửa khẩu và manh mún, phân tán trong sản xuất ban đầu (tàu thuyền, bến cá, ao nuôi, giết mổ, mua bán...). Thực tế này đã dàn trải khá lớn sức lực và làm giảm đi hiệu quả của cơ quan quản lý. Những nguyên lý HACCP có thể gắn kết dễ dàng vào các quy định về thủy sản cấp quốc gia, nhưng phải nhấn mạnh rằng HACCP liên quan đến tính đặc thù (Uniqueness) của sản phẩm và điều kiện làm ra sản phẩm, trong khi các văn bản pháp quy lại liên quan, các cơ quan chấp pháp lại đụng chạm đến các vấn đề chung (General), bao quát cho cả ngành, lĩnh vực. Mặt khác, HACCP đòi hỏi nhà chế biến có trách nhiệm lớn hơn, tuy nhiên cũng có thể có sự trì trệ của những nhà chế biến quen ỷ lại các cơ quan quản lý, các thanh tra viên và các phòng thí nghiệm có sẵn của Nhà nước. Ngoài ra, cũng có thể dẫn đến một nhận thức rằng HACCP làm giảm vai trò thanh tra giám sát và làm mất đi sự kiểm soát của cơ quan chấp pháp. Ở đây, tôi muốn nói thêm

về sự đồng thuận xã hội đối với mục tiêu bảo vệ người tiêu dùng. Việc này chỉ có thể thực hiện tốt khi các nhà quản lý đưa ra được những quyết sách đúng đắn dựa trên một bên là sự bức xúc về những vấn đề nóng trong dư luận xã hội và đòi hỏi nhiều khi quá khắt khe của thị trường nhập khẩu và một bên là các đánh giá có cơ sở khoa học của các nhà chuyên môn. Thường kết luận chuyên môn chậm trễ và có thể nói là yếu trọng lượng hơn nhiều so với sự lan truyền xã hội các gay cấn về chất lượng. Rõ ràng, các hệ thống HACCP được xây dựng chu đáo dựa trên sự đồng thuận xã hội sẽ giúp ích nhiều nhất cho mục đích bảo vệ người tiêu dùng.Đề xuất thay cho lời kết: Việc áp dụng HACCP lúc ban đầu chỉ đối với sản xuất kinh doanh thủy sản xuất khẩu, nay đã áp dụng rộng rãi cho nhiều ngành hàng và lĩnh vực khác có xuất xứ nông nghiệp cả xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Điều tốt nhất chúng ta cần làm năm nay là nhìn lại giai đoạn 25 năm qua để quản lý chất lượng và vệ sinh thực phẩm theo tư duy đó nhuần nhuyễn hơn, chủ động hơn. Đây cũng là một việc cần làm để góp phần cơ cấu lại ngành theo hướng nâng cao giá trị và bền vững, một chủ trương lớn đang được triển khai.

10

Page 13: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

Sáu phương pháp thử nghiệm công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh và người lớn SPIFAN được phê duyệt đến trạng thái Hành động cuối cùng

THỬ NGHIỆM & ĐỜI SỐNG

Những phương pháp: Vitamin B12, inositol, khoáng chất siêu vi lượng, nucleotide, vitamin A và E, và các axit béo trong công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh, trẻ em và người lớn– là những phương pháp đầu tiên hoàn thành toàn bộ quá trình xây dựng các tiêu chuẩn AOAC. Các phương pháp SPIFAN đã được chấp thuận cho trạng thái Hành động Cuối cùng như sau:• AOAC Official MethodSM 2011.10 Vitamin B12 trong công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh và người lớn bằng HPLC• AOAC Official MethodSM 2011.18 Myo-Inositol (tự do và kết dính như Phosphotidylinositol) trong công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh người lớn bằng LC/Pulsed Amperometry với Column Switching.• AOAC Official MethodSM 2011.19 Chromium, Selenium, và Molypden trong

công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh và người lớn bằng ICP/MS. • OAC Official MethodSM 2011.20 5’-Mononucleotides trong công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh và người lớn bằng sắc ký lỏng.• AOAC Official MethodSM 2012.10 Xác định đồng thời 13-cis và all-trans Vitamin A Palmitate (Retinyl Palmitate), Vitamin A Acetate (Retinyl Acetate) và Tổng Vitamin E (DL-α-tocopherol vàDL-α-Tocopherol Acetate) trong công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh và người lớn bằng sắc ký lỏng.• AOAC Official MethodSM 2012.13 Hàm lượng axit béo được đánh dấu trong sản phẩm sữa và công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh bằng GC.Nhằm thúc đẩy các phương pháp đến trạng thái Hành động cuối cùng, OMB đã xem xét một số yếu tố mà chúng đã

được nêu trong tài liệu hướng dẫn được xây dựng bởi nhóm. Những yếu tố này bao gồm: (1) phản hồi từ người sử dụng phương pháp, (2) so sánh với các Yêu cầu về Kết quả thực hiện Phương pháp, Tiêu chuẩn (Standard Method Performance RequirementSM (SMPR)) thích hợp, (3) kết quả từ việc xác nhận giá trị trong phòng thí nghiệm đơn, (4) khả năng tái lặp/ độ không đảm bảo và xác suất phát hiện, (5) tính sẵn có của các tài liệu tham khảo và (6) vấn đề an toàn. Ghi nhận cho thấy, các phương pháp trên đáp ứng thậm chí vượt quá các Yêu cầu về Kết quả thực hiện Phương pháp Tiêu chuẩn (SMPR), khả năng tái lặp là chấp nhận được và thông tin phản hồi từ người sử dụng là tích cực.

(Xem tiếp trang 12)

KIẾN THỨC VÀ THÔNG TIN HỮU ÍCH

Ngày 13/11/2014, Ban Phương pháp Chính thức (OMB) của Tổ chức quốc tế AOAC, dưới sự chủ trì của bà Shauna Roman đến từ Reckitt Benckiser (Thành phố Salt Lake, Utah, Mỹ), đã phê duyệt sáu Phương pháp thử nghiệm công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh và người lớn SPIFAN chính thức cho trạng thái Hành động cuối cùng. Trước đó, sáu phương pháp này ở Hành động Đầu tiên (First Action Official MethodsSM) là kết quả từ Hội thảo các bên liên quan AOAC (AOAC Stakeholder Panel) về sáng kiến công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh và người lớn (SPIFAN).

11

Page 14: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

HỘI CÁC PHÒNG THỬ NGHIỆM VIỆT NAM

KIẾN THỨC VÀ THÔNG TIN HỮU ÍCH

( Tiếp theo trang 11)Các phương pháp đến Hành động cuối cùng với sự hỗ trợ của AOAC và ISO/IDF sẽ được đề nghị với Codex như các phương pháp giải quyết tranh chấp Loại II. “Trạng thái Hành động Cuối cùng của những phương pháp này là một cột mốc quan trọng cho các sáng kiến của AOAC SPIFAN và toàn thể cộng đồng thử nghiệm công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh,” ông Darryl Sullivan đến từ Covance Laboratories và chủ tịch của SPIFAN cho biết. “Dự án này thực sự đã và tiếp tục là một nỗ lực hợp tác, cống hiến hàng giờ làm việc chuyên cần và cẩn thận của rất nhiều người. Các bên liên quan, các đối tác, các tình nguyện viên, các thành viên, và nhân viên của AOAC, tất cả đã cùng chung sức xác định một quá trình để thiết lập các tiêu chuẩn đồng thuận tự nguyện với kỳ vọng kết quả thực hiện phương pháp cao trong một nỗ lực để cung cấp các phương pháp tốt nhất cần thiết cho cộng đồng.”

Hoài Anh dịch(www.eoma.aoac.org)

Phạm vi “Trong trường hợp một phòng thử nghiệm (PTN) khẳng định tuân thủ theo, hoặc chứng nhận hoặc công nhận, một tiêu chuẩn cụ thể, cần phải làm rõ những gì mà sự phù hợp, chứng nhận, hoặc công nhận này được áp dụng. Các tuyên bố chính thức rằng các hoạt động đã được chứng nhận theo tiêu chuẩn ISO 9001, hoặc được công nhận với tiêu chuẩn ISO 17025 được gọi là “phạm vi”. ISO 9000 và GLP chỉ yêu cầu một mô tả ngắn gọn các hoạt động nằm trong phạm vi, nhưng tiêu chuẩn ISO/IEC 17025 thường yêu cầu một bản mô tả chi tiết cho những công việc cụ thể nằm trong phạm vi công nhận.” [Hướng dẫn của CITAC/Eurachem về chất lượng trong Hóa học phân

tích: Một tài liệu hỗ trợ công nhận (2002)]. Mở rộng phạm vi công nhận cho một phòng thử nghiệm thường sẽ yêu cầu một cuộc đánh giá lại bởi một chuyên gia đánh giá. Quyết định này cần được thực hiện thông qua các cuộc thảo luận giữa các PTN và các cơ quan công nhận. Thay đổi đáng kể các phương pháp trong phạm vi được xác định và được công nhận trước đây cũng có thể cần một cuộc tái đánh giá của chuyên gia đánh giá (ví dụ, trong trường hợp một phương pháp đã được cập nhật bằng cách sử dụng công nghệ hoặc kỹ thuật mới, hoặc loại nền mẫu nằm trong một phương pháp đã được mở rộng). Các cơ quan công nhận có thể bỏ qua đánh giá tại chỗ nếu cả hai bên đồng ý sửa đổi phương pháp là tương đối nhỏ và quá trình phân tích thay đổi không đáng kể. Tuy nhiên, PTN vẫn phải thông báo cho cơ quan công nhận về bản chất của việc sửa đổi, trích dẫn tài liệu tham khảo phương pháp tiêu chuẩn (nếu có) cùng với các tài liệu phương pháp nội bộ và xác nhận giá trị sử dụng bổ sung.

Kỳ 2: ISO/IEC 17025 “Yêu cầu chung về năng lực phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn” – Phạm vi, tài liệu viện dẫn

12

Page 15: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

THỬ NGHIỆM & ĐỜI SỐNG

KIẾN THỨC VÀ THÔNG TIN HỮU ÍCH

Một lần nữa, việc thực hiện các chương trình thử nghiệm thành thạo, khi chúng tương đối sẵn có, sẽ là một phần thiết yếu của nghiên cứu xác nhận giá trị sử dụng. Tại thời điểm này, cơ quan công nhận sẽ quyết định có cần đánh giá bổ sung hay không trước khi cấp phạm vi công nhận được sửa đổi. Trong mọi trường hợp, việc bổ sung một hay nhiều phép thử đòi hỏi phải đưa vào một hoặc nhiều chương trình thử nghiệm thành thạo tương đối sẵn có bao trùm các phép thử đó. Phạm vi công nhận có thể bao gồm phương pháp thử nghiệm/hiệu chuẩn đơn lẻ hoặc các phương pháp dựa trên kỹ thuật thử nghiệm. 1. Tiêu chuẩn này quy định các yêu cầu chung về năng lực thực hiện các phép thử và/hoặc hiệu chuẩn bao gồm cả việc lấy mẫu. Tiêu chuẩn này đề cập đến việc thử nghiệm và hiệu chuẩn được thực hiện bằng các phương pháp tiêu chuẩn, không tiêu chuẩn và các phương pháp do PTN tự xây dựng. Hầu hết các PTN sẽ cần đáp ứng tất cả các yêu cầu trong tài liệu này để được công nhận. Tài liệu này bao gồm các thử nghiệm bằng các phương pháp được công nhận ở các nước cũng như quốc tế như AOAC, Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), Dược

điển Hoa Kỳ (USP), Dược điển Châu Âu (EP), Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), Liên minh Quốc tế về Hóa học thuần túy và Hóa học ứng dụng (IUPAC), Ủy ban Quốc tế các Kỹ thuật Vi sinh thực phẩm (ICMSF), Tóm lược Phương pháp Kiểm tra vi sinh Thực phẩm (CMMEF), Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO), các phương pháp mới và phương pháp do PTN phát triển . Tài liệu được sử dụng cho tất cả các PTN của các công ty, PTN học thuật, PTN thuộc chính phủ, PTN thương mại, và PTN độc lập. “Việc xác nhận phương pháp tiêu chuẩn hoặc phương pháp hợp tác nghiên cứu không nên bị xem nhẹ, cho dù phả hệ của phương pháp hoàn hảo đến đâu - PTN phải tự chứng minh mức độ phê duyệt của một phương pháp là tương xứng với mục đích được yêu cầu và bản thân các PTN có thể tự xác minh được bất kỳ tiêu chí nào được tuyên bố”. [Hướng dẫn của CITAC/Eurachem về chất lượng trong Hóa học phân tích: một tài liệu hỗ trợ công nhận (2002)]. Một PTN có thể sử dụng một phương pháp nội bộ đã chứng minh được hiệu suất thực hiện ưu việt hoặc sử dụng công nghệ hiện đại hơn và đã được xác nhận thích hợp theo quy định trong tài liệu này. Tuy nhiên, các phương pháp phân tích

được quy định trong luật hoặc quy định phải được tuân thủ theo những yêu cầu nêu trên. Một khi chất phân tích đã được tách biệt riêng từ nền mẫu và được trình bày trong một môi trường tương đối sạch, chẳng hạn như dung môi, có thể có một phương pháp chung duy nhất để bao trùm việc đo lường một loạt các phân tích, cho ví dụ, sắc ký khí, hoặc UV-quang phổ tử ngoại khả kiến. Tài liệu của các phương pháp chung nên được thiết kế để có thể dễ dàng thích ứng với những thay đổi nhỏ có liên quan đến chiết, làm sạch hoặc đo lường chất phân tích khác nhau, ví dụ bằng cách sử dụng các bảng biểu. Các loại thông số có thể bị thay đổi như cỡ mẫu, số lượng và loại dung môi chiết, điều kiện chiết, cột sắc ký hoặc điều kiện tách, hoặc cài đặt bước sóng phổ. Giá trị của phương pháp này cho những phân tích bất thường là khi gặp phải một sự kết hợp chất phân tích/nền mẫu mới, thường có thể tích hợp kết hợp này trong một phương pháp chung đã có với xác nhận bổ sung thích hợp, tính toán độ không đảm bảo đo và tài liệu hướng dẫn. Như vậy, chi phí phát sinh được giảm thiểu so với việc phát triển một phương pháp hoàn toàn mới. Phương pháp cần xác định các kiểm tra cần thực hiện cho

13

Page 16: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

HỘI CÁC PHÒNG THỬ NGHIỆM VIỆT NAM

KIẾN THỨC VÀ THÔNG TIN HỮU ÍCH

các chất phân tích hoặc loạimẫu khác để kiểm tra giá trị phân tích.Thông tin đầy đủ phải được ghi lại để công việc có thể được thực hiện lại với cách thức tương tự sau đó. Trong trường hợp phân tích cụ thể sau đó trở thành một phân tích được dùng hàng ngày, một phương pháp cụ thể có thể được xác nhận và lưu văn bản. Có thể công nhận phân tích không được chạy hàng ngày và hầu hết các cơ quan công nhận sẽ có một chính sách để đánh giá các phương pháp này và mô tả chúng trong phạm vi hoặc kế hoạch công nhận của PTN. PTN có trách nhiệm chứng minh cho các nhà đánh giá rằng việc sử dụng những kỹ thuật này đáp ứng được tất cả các tiêu chí của tiêu chuẩn chất lượng có liên quan. Đặc biệt, kinh nghiệm, chuyên môn và đào tạo các nhân viên tham gia sẽ là yếu tố chủ yếu trong việc xác định các phân tích như vậy có thể được công nhận hay không. ”. [Hướng dẫn của CITAC/Eurachem về chất lượng trong Hóa học phân tích: một tài liệu hỗ trợ công nhận (2002)]. Kết quả tham gia các chương trình thử nghiệm thành thạo, khi chúng sẵn có, cho các chất phân tích được xét là yếu tố bắt buộc trong quyết định có công nhận các phân tích đó hay không. 2. Tiêu chuẩn này có thể áp

dụng cho tất cả các tổ chức thực hiện việc thử nghiệm và/hoặc hiệu chuẩn. Các tổ chức này bao gồm, ví dụ như các PTN bên thứ nhất, bên thứ hai, bên thứ ba và các PTN mà việc thử nghiệm và/hoặc hiệu chuẩn là một phần của hoạt động giám định và chứng nhận sản phẩm. Tiêu chuẩn này áp dụng cho tất cả các PTN không phụ thuộc vào số lượng nhân viên hay phạm vi hoạt động thử nghiệm và/hoặc hiệu chuẩn. Khi một PTN không thực hiện một hoặc nhiều hoạt động được qui định trong tiêu chuẩn này như lấy mẫu và thiết kế/phát triển các phương pháp mới, thì không cần áp dụng các yêu cầu thuộc các điều đó. Bởi vì, cả lấy mẫu và phương pháp là những thành phần quan trọng của việc đánh giá phân tích, các PTN phải lưu ý xem các bên khác có thực hiện các phần của thủ tục này có tuân thủ theo tài liệu này hay không. Ngoài ra, tài liệu này đề cập đến thành thạo trong việc tiến hành các phương pháp thử nghiệm và thường không dành cho các PTN nghiên cứu và/hoặc phát triển sản phẩm, trừ khi được chỉ định bởi khách hàng và/hoặc chương trình thành thạo để áp dụng cho một phương pháp thử nghiệm quan trọng đối với các chức năng này. 3. Các chú thích được đưa ra để làm rõ nội dung, các ví dụ

và hướng dẫn. Chú thích này không phải là các yêu cầu và không tạo thành một phần của tiêu chuẩn này. 4.Tiêu chuẩn này sử dụng cho các PTN trong việc phát triển hệ thống quản lý cho các hoạt động chất lượng, hành chính và kỹ thuật. Khách hàng của PTN, cơ quan có thẩm quyền và các tổ chức công nhận cũng có thể sử dụng tiêu chuẩn này để xác nhận hoặc thừa nhận năng lực của các PTN. Tiêu chuẩn này không được sử dụng với mục đích làm cơ sở chuẩn mực cho việc chứng nhận PTN. Chú thích 1: Thuật ngữ “hệ thống quản lý” trong tiêu chuẩn này có nghĩa là hệ thống chất lượng, hành chính và kỹ thuật dùng để điều hành hoạt động một PTN. Chú thích 2: Chứng nhận một hệ thống quản lý cũng thường được gọi là đăng ký.Tài liệu này dùng cho thực hành của hệ thống quản lý PTN. Nó bao trùm tất cả các PTN phân tích, bao gồm cả PTN liên quan với các công ty, PTN cơ quan chính phủ, các PTN của các tổ chức thương mại, và các PTN khoa học và độc lập. Nó không dành cho các PTN hiệu chuẩn. 5. Việc tuân thủ các qui định pháp lý và yêu cầu về an toàn trong hoạt động của các PTN không thuộc phạm vi tiêu chuẩn này. Mặc dù tuân thủ các yêu cầu về quy định và an toàn không

14

Page 17: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

THỬ NGHIỆM & ĐỜI SỐNG

KIẾN THỨC VÀ THÔNG TIN HỮU ÍCH

phải là một phần của công nhận nói chung, nhưng việc tuân thủ tất cả các quy định pháp luật, yêu cầu về an toàn và vệ sinh hóa học áp dụng được coi là một phần của hệ thống chất lượng của PTN. Sự an toàn của tất cả các nhân viên là trách nhiệm của lãnh đạo quản lý. Việc xử lý thích hợp và huỷ thải hóa chất, dung môi,.v..v.. là một vấn đề an sinh xã hội cũng như các vấn đề về thực hành tốt trong PTN và phải phù hợp với tất cả hoặc quy định áp dụng về sức khỏe và an toàn môi trường. Trong trường hợp không có hướng dẫn hoặc quy định cụ thể, cần thực hiện huỷ thải các vật liệu một cách thích hợp để bảo vệ môi trường và xã hội. Tối ưu nhất, tất cả các thử nghiệm và thủ tục kiểm tra nên không chỉ bao gồm các thủ tục trong sử dụng mà còn bao gồm cả việc huỷ thải tất cả các vật liệu phế thải an toàn. 6. Nếu các PTN và hiệu chuẩn tuân thủ các yêu cầu của tiêu chuẩn này thì PTN sẽ hoạt động theo một hệ thống quản lý chất lượng trong các hoạt động thử nghiệm và hiệu chuẩn đáp ứng được các nguyên tắc cơ bản của ISO 9001. Phụ lục A cung cấp bản tham chiếu chéo giữa tiêu chuẩn này với ISO 9001. Tiêu

chuẩn này bao gồm các yêu cầu về năng lực kỹ thuật không được đề cập trong ISO 9001. Chú thích 1: Có thể cần phải giải thích hoặc diễn giải một số yêu cầu trong tiêu chuẩn này để đảm bảo các yêu cầu được áp dụng một cách nhất quán. Hướng dẫn cho việc áp dụng trong các lĩnh vực cụ thể, đặc biệt là cho các tổ chức công nhận (xem ISO/IEC 17011) được

t r ì n h bày

trong Phụ lục B.

Chú thích 2: Nếu PTN mong muốn được công nhận một phần hoặc tất cả các hoạt động thử nghiệm và hiệu chuẩn thì PTN nên chọn một tổ chức công nhận hoạt động phù hợp với ISO/IEC 17011.Tài liệu viện dẫn Các tài liệu viện dẫn dưới

đây là rất cần thiết cho việc áp dụng tiêu chuẩn này. Đối với những tài liệu nêu rõ năm ban hành, chỉ áp dụng các bản được viện dẫn. Đối với những tài liệu không nêu rõ năm ban hành, cần áp dụng các bản mới nhất của tài liệu được viện dẫn (kể cả tất cả các bổ sung, sửa đổi nếu có).• ISO/IEC 17000, Đánh giá sự phù hợp – Thuật ngữ chung và định nghĩa• VIM, Từ vựng quốc tế về thuật ngữ chung và cơ bản trong đo lường, ban hành bởi BIPM, IEC, IFCC, IUPAC, IUPAP và OIML. Chú thích: Các tiêu chuẩn, hướng dẫn liên quan khác… về các chủ đề của tiêu chuẩn này được nêu trong danh mục tài liệu tham khảo. Một danh sách tài liệu tham khảo hữu ích được cung cấp trên trang web của AOAC (www.aoac.org)

trong phần Công nhận. Cách tiếp cận này đã được lựa chọn để đảm bảo rằng các tài liệu tham khảo mới nhất được xác định.

Nguồn: AOAC(Bản quyền thuộc về VinaLAB)

Kỳ sau: ISO/IEC 17025 “Yêu cầu chung về năng lực phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn” – Thuật ngữ và định nghĩa, Các yêu cầu về quản lý đối với tổ chức.

15

Page 18: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

Các phòng thử nghiệm Việt Nam hiện nay rất cần được cung cấp dịch vụ về đào tạo, bảo trì, hiệu chuẩn và tư vấn xây dựng Hệ thống Quản lý Phòng thử nghiệm ISO/IEC 17025:2005 nhằm tạo uy tín và chất lượng cho các kết quả thử nghiệm.

Hiện nay, các phòng thử nghiệm đóng vai trò rất

quan trọng trong lĩnh vực kiểm tra chất lượng. Đây là môt công việc vô cùng quan trọng, không thể thiếu được trong việc phát triển ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, bảo đảm an toàn sức khỏe toàn dân và bảo vệ môi trường. Đặc biệt, lĩnh vực kiểm tra chất lượng hỗ trợ một cách đắc lực đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập thị trường quốc tế. Vậy năng lực của các phòng thử nghiệm Việt Nam có đáp ứng được các đòi hỏi đó không? Như chúng ta đã biết, hệ thống phòng thử nghiệm Việt Nam phát triển một cách khá toàn diện và bền vững, đáp ứng cơ bản các nhu cầu của xã hội từ các phòng thử nghiệm của Nhà nước như các phòng thử nghiệm thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng - Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông Thôn…, cho tới các phòng thử nghiệm thuộc các tỉnh, thành phố (CASE, Chi Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Bình Thuận, Trung Tâm Kỹ Thuật và Quan Trắc Môi Trường Đồng Nai,…). Đặc biệt trong vòng 10 năm trở lại đây, các phòng thử nghiệm tư nhân đã đóng

một vai trò ngày càng quan trọng trong hoạt động kiểm tra chất lượng như: Công ty CP DV Khoa học Công nghệ Sắc Ký Hải Đăng, Phòng thử nghiệm công nghệ cao Hoàn Vũ, các phòng thử nghiệm của Công ty CP Chứng nhận và Giám định VinaCert,…Tất cả các chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực kiểm tra chất lượng đều nhận thức được rằng để cung cấp các kết quả tin cậy, ít nhất phòng thử nghiệm phải xây dựng cho mình các nền tảng :* Đội ngũ cán bộ kỹ thuật đủ số lượng, được đào tạo cơ bản và chuyên sâu.* Hệ thống trang thiết bị đặc biệt và các thiết bị đo lường phải ở trạng thái hoạt động tốt, chính xác.* Cần xây dựng hệ thống quản lý chất lượng thiết thực, hiệu quả. Hiện nay, ISO/IEC 17025:2005 là tiêu chuẩn quốc tế được áp dụng cho các phòng thử nghiệm tại Việt

Nam và hầu hết các quốc gia trên thế giới. Dịch vụ về đào tạo, bảo trì, hiệu chuẩn và tư vấn xây dựng Hệ thống Quản lý Phòng thử nghiệm ISO/IEC 17025:2005 trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Là thành viên của Hội các Phòng Thử nghiệm Việt Nam – VINALAB, Trung tâm Đào tạo và Phát Triển Sắc Ký (EDC-HCM) đã nắm bắt nhu cầu và xây dựng chiến lược lâu dài cung cấp các dịch vụ này cho các phòng thử nghiệm muốn tạo nên một mô hình hoạt động chuyên nghiệp, uy tín. EDC-HCM tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn cho các công nhân viên về sử dụng đúng các phương tiện thông dụng trong phòng thử nghiệm như tủ sấy, lò nung, máy lắc, máy ly tâm, bếp đun, đặc biệt là các phương tiện đo lường như các loại cân chính xác, các dụng cụ thể tích chính xác, máy đo pH,… Đồng thời, EDC-HCM thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo về bảo trì- hiệu chuẩn các phương tiện đo lường thông dụng nêu trên. Bên cạnh đó, EDC-HCM đầu tư xây dựng dịch vụ đo lường - hiệu chuẩn phương tiện kỹ thuật phòng thử nghiệm với đội ngũ cán bộ quản lý bảo trì - hiệu chuẩn có kiến thức chuyên môn sâu. Đặc biệt, EDC-HCM tạo điều

HỘI CÁC PHÒNG THỬ NGHIỆM VIỆT NAM

TRANG HỘI VIÊN

(Xem tiếp trang 17)

16

Page 19: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

THỬ NGHIỆM & ĐỜI SỐNG

TRANG HỘI VIÊN

kiện cho đội ngũ này thực hành, làm việc thành thạo trên các trang thiết bị phòng thử nghiệm. EDC-HCM đã đầu tư đầy đủ cơ sở vật chất và kỹ thuật cho lĩnh vực bảo trì - hiệu chuẩn; xây dựng hệ thống quản lý chất lượng lĩnh vực đo lường - hiệu chuẩn theo ISO/EDC 17025:2005 từ 2013 và được BoA đánh giá công nhận với ký hiệu PTN Vilas 714. Vừa rồi, EDC-HCM được BoA đánh giá mở rộng các thiết bị hóa lý như các thiết bị sắc ký, quang phổ, các thiết bị nhiệt,…Và đã được Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng cấp giấy chứng nhận đăng ký cung cấp dịch vụ kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường (số 157/TĐC-ĐL).

VinaLAB

(Tiếp theo trang 16)

HƯỚNG ĐI HỘI NHẬPBối cảnh thị trường mở cửa hiện nay cùng chủ trương và chính sách xã hội hóa các tổ chức/ doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp xác định hướng đi hội nhập, liên tục cải tiến đáp ứng và đứng vững trên thị trường cạnh tranh ngày càng cao.

Riêng lĩnh vực thử nghiệm đã được xã hội hội hóa

theo xu hướng phát triển; theo đó, ngoài việc hoạch định và đầu tư nguồn lực thì doanh nghiệp phải có phương pháp quản lý và công cụ cải

tiến hiện đại để liên tục cải tiến hoạt động của tổ chức. Tùy theo chức năng hoạt động và đặc trưng của đối tượng dịch vụ về lĩnh vực thử nghiệm mà mỗi doanh nghiệp sẽ lựa chọn và xây dựng các giải pháp phù hợp, khả thi để hoạt động và phát triển. Đồng hành với xu thế đón đầu của sự phát triển ngày càng cao và hiện đại, Công ty Cổ phần Chứng nhận và Giám định VinaCert (VICB) đã mở rộng thị phần và đã mạnh dạn đầu tư vào phòng thử nghiệm với rất nhiều thiết bị hiện đại tại Hà Nội và thành phố Cần Thơ nêu cao khẩu hiệu Từng

bước, từng bước vững chắc tự tin hội nhập ASEAN. Lãnh đạo công ty VinaCert hoạch định chiến lược thử nghiệm hàng hóa phục vụ các doanh nghiệp xuất khẩu như thủy sản, nông sản, các dạng sản phẩm sau thu hoạch và phục vụ các cơ quan quản lý nhà nước về thử nghiệm hàng hóa nhập khẩu một cách Chính xác - Tin cậy- Kịp thời- Chuyên nghiệp. Hệ thống phòng thử nghiệm hoạt động với sự đầu tư hoàn chỉnh về đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn sâu về chuyên ngành, chuyên nghiệp, trách nhiệm và tận tâm. Kiểm nghiệm viên có trình độ chuyên môn sau đại học ở các chuyên ngành Hóa

17

Page 20: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

học, Sinh học, Công nghệ thực phẩm, Chế biến thủy sản, Nuôi trồng thủy sản và Khoa học môi trường; cơ sở hạ tầng và hệ thống thiết bị thí nghiệm hiện đại cung cấp kết quả thử nghiệm đảm bảo chất lượng ổn định; đáp ứng rào cản kỹ thuật của các nước xuất-nhập khẩu. VinaCert duy trì dịch vụ chuyên nghiệp luôn hướng cùng doanh nghiệp tới sản phẩm có chất lượng với tiêu chí An toàn thực phẩm hàng đầu vươn tầm ra các thị trường trong khu vực và thế giới. Với hướng đi hội nhập của mình, VinaCert đã nỗ lực và trở thành tổ chức duy nhất tại Việt Nam được Hiệp hội công nhận các phòng thử nghiệm Hoa Kỳ (A2LA) công nhận đủ năng lực theo Tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17025:2005 - Yêu cầu chung về năng lực của Phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn - trong cung cấp dịch vụ thử nghiệm chất lượng sản phẩm hàng hóa. Kết quả thử nghiệm của VinaCert được chấp nhận toàn cầu thông qua dấu hiệu công nhận ILAC-MRA trên Phiếu kết quả thử nghiệm. “Một chứng nhận được chấp nhận ở mọi nơi” là mục tiêu hướng tới của thế giới đối với công tác quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Trong đó, thử nghiệm được sử dụng như một kỹ thuật chính trong việc chứng nhận sản phẩm, nhưng tại Việt Nam các phòng thử nghiệm vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu quốc tế về hệ thống trang thiết bị kiểm nghiệm, năng lực của kiểm nghiệm viên, quy mô của PTN, các chương trình thử nghiệm thành thạo,….Nắm bắt được xu thế toàn cầu hóa, VinaCert đã đổi mới nâng cấp hệ thống trang thiết bị kiểm nghiệm, nâng cao năng lực và đăng ký công nhận quốc tế. Một số Hệ thống được đầu tư nâng cấp:

Hệ thống Sắc ký khí ghép khối phổ (Gas Chromatography Mass Spectrometry - GC/MS); Hệ thống sắc ký lỏng ghép khối phổ (Liquid Chromatography – Mass Spectrometry); Hệ thống Quang phổ phát xạ;... Vận hành PTN là một phần mềm quản lý từ khi nhận mẫu đến khi trả kết quả cho khách hàng, đảm bảo kết quả thử nghiệm được cung cấp một cách khách quan, chính xác đồng thời nâng cao năng suất lao động. Việc Việt Nam là thành viên của Ủy ban Codex quốc tế từ năm 1989 và sự kiện Hội nghị Ban Kỹ thuật Codex Quốc tế về vệ sinh thực phẩm lần thứ 45 tổ chức ở Hà Nội đã cho thấy Cơ quan quản lý ở Việt Nam đã hiểu rõ vai trò và tầm quan trọng của việc xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Các cơ quan quản lý đã và đang thực hiện một cách có trách nhiệm trong việc hài hòa hóa các tiêu chuẩn và quy chuẩn đặc biệt sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO và luôn thực hiện các cam kết nêu trong hiệp định SPS/TBT của WTO. Song song với đó là sự xã hội hóa lĩnh vực hoạt động Khoa học Công nghệ tại Việt Nam đã có sự thúc đẩy nhanh vào phát triển lĩnh vực thử nghiệm ở doanh nghiệp cũng như thúc đẩy quá trình hội nhập. Lĩnh hội triết lý của văn hóa định hướng vào khách hàng và nhằm thỏa mãn cung-cầu trên thị trường ở lĩnh vực thử nghiệm, VinaCert xác định hướng đi đột phá với quyết tâm xây dựng kết quả thử nghiệm của mình có thương hiệu mang tầm quốc tế.

VinaLAB

VICB

VI

N A C E

RT

HỘI CÁC PHÒNG THỬ NGHIỆM VIỆT NAM

TRANG HỘI VIÊN

18

Page 21: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

THỬ NGHIỆM & ĐỜI SỐNG

TRANG HỘI VIÊN

ANALYTICA VIETNAM 2015

Thị trường Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào nhập khẩu, do đó cũng phải đối mặt với những thách thức ngày càng lớn của quá trình toàn cầu hoá. Vấn đề về quản lý chất lượng thực phẩm, dược phẩm và nước sạch hiện đang là những mối quan tâm chính của Chính phủ. Các chủ đề trên cũng là tâm điểm của “Triển lãm analytica Vietnam 2015”. Triển lãm diễn ra từ ngày 15 – 17 tháng 04 năm 2015, tại Trung tâm Hội chợ và Triển lãm Sài Gòn – 799 Đại lộ Nguyễn Văn Linh, Quận 7, TP. HCM.Hơn 100 doanh nghiệp trong nước và quốc tế đến từ 15 quốc gia sẽ giới thiệu những sản phẩm và giải pháp mới nhất trong các lĩnh vực: * Phân tích * Đo lường và Kiểm nghiệm/Quản lý Chất lượng* Công nghệ Thí nghiệm * Khoa học Sự sống và Công nghệ Sinh học Rất nhiều các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực đã đăng ký tham dự analytica Vietnam 2015 như: Merck, Tegent, Shimadzu, Water, Esco, Duran, Hornung, Eppendorf, Hà Phan, Thiết bị Sài Gòn (SISC), Kim Ngân (Kimteco.), Trung Sơn, Thăng Long, Hóa Việt, Hoa Ý, Tài Phát,... Đặc biệt phải kể tới các đoàn doanh nghiệp tại các Gian hàng quốc gia như Đức, Anh, Pháp (UbiFrance), Nhật Bản, v.v… là những quốc gia có nền khoa học công nghệ phát triển hiện đại nhất trên thế giới.Kết hợp với hoạt động triển lãm, analytica Vietnam 2015 còn tổ chức các sự kiện song hành mang tính chuyên môn cao như: * Hội nghị analytica Vietnam * Hội thảo về “Trao đổi công nghệ và các hoạt động hỗ trợ liên quan” * Diễn đàn dành cho Doanh nghiệp trưng bày * Buổi hướng dẫn “Phương pháp hiệu chuẩn trong phân tích công cụ sử dụng phần mềm R”* Buổi hướng dẫn “Sắc ký trao đổi ion hiện đại: Từ ion âm, dương vô cơ tiêu chuẩn đến Carbohydrates và Proteins” Sức mạnh tổng hợp đó mang đến một nền tảng kết nối các cơ hội kinh doanh và mạng lưới

làm việc hiệu quả giữa các chuyên gia, nhà khoa học cũng như các đơn vị trong nước và quốc tế trong ngành công nghiệp này. Triển lãm analytica Vietnam 2015 với sự hỗ trợ của Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NASATI), Hội các Phòng Thử nghiệm Việt Nam (VINALAB), Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Môi trường và Phát triển bền vững (CETASD) hứa hẹn sẽ là điểm hẹn lý tưởng cho các doanh nghiệp trong ngành cũng như những chuyên gia, nhà khoa học quan tâm tới lĩnh vực phân tích, thí nghiệm.

VinaLAB

19

Page 22: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

Kỳ 2:

Biên tập viên, Tiến sĩ Tanuja Koppal đã có cuộc trò chuyện cùng Tiến sĩ Alison Buchan – Phó Giáo sư về Vi sinh vật tại Đại học Tennessee, Knoxville. Nghiên cứu của bà tập trung vào vai trò của vi sinh vật trong môi trường tự nhiên. Bà cũng là giảng viên của chương trình sau đại học về Khoa học và Công nghệ gen của UT và Trung tâm Công nghệ môi trường sinh học của trường. Họ cùng nhau thảo luận về sự nhiễm bẩn từ phòng thử nghiệm vào mẫu thử.

“Chúng tôi luôn lo lắng về việc để các chất nhiễm bẩn đi vào môi trường nuôi cấy”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vi sinh Alison Buchan tại Đại học Tennessee, Knoxville cho biết. “Chúng tôi thường xuy-ên làm việc với các mẫu môi trường và sử dụng các công cụ phân tử để xác định các vi khuẩn có trong mẫu thử. Vì vậy, chúng tôi phải ngăn ngừa nhiễm bẩn trong không khí hoặc nhiễm bẩn axit nucleic từ mặt bàn thử nghiệm hoặc pipet đi vào mẫu phá hủy cộng đồng vi khuẩn tự nhiên mà chúng tôi muốn nghiên cứu.” Phòng thử nghiệm của tiến sĩ Buchan làm việc với rất nhiều mẫu nước lấy từ môi trường biển và ven biển và họ nghiên cứu thành phần vi khuẩn của các mẫu tự nhiên không chế tác. Bà Buchan cũng sử dụng vi khuẩn nuôi cấy thích hợp

với môi trường và nghiên cứu di truyền học và sinh lý học của chúng trong các phòng thử nghiệm. “Không có cách đúng nhất để thực hành các kỹ thuật vô trùng, và thường người ta có thiên hướng về một kỹ thuật nhất định,” Tiến sĩ Buchan nói. “Có lẽ cách lâu đời nhất và rẻ nhất để làm điều đó là sử dụng ngọn lửa trên bàn thử nghiệm để khử trùng vòng cấy, miệng ống nghiệm, vv. Chúng tôi sử dụng cách này trong phòng thử nghiệm, và nó vẫn khá phổ biến với rất nhiều nhà vi sinh. Nhưng với các phòng thử nghiệm lớn hơn, và trong công nghiệp, các kỹ thuật tinh vi hơn có thể được sử dụng nhưng liệu họ có tốt hơn không vẫn là vấn đề gây tranh cãi. Tủ an toàn sinh học kiểm soát luồng khí thường được sử dụng để giảm thiểu tiếp xúc với chất

gây nhiễm bẩn, nhưng chúng tôi sử dụng tủ vô trùng lam-ina vì các vi khuẩn biển mà chúng tôi làm thì không có khả năng gây bệnh”. Do các phòng thử nghiệm lo lắng về việc nhiễm bẩn axit nucleic từ các bề mặt làm việc hoặc thiết bị, tất cả các mẫu được xử lý trong tủ vô trùng dưới ngọn đèn tia cực tím để tiêu diệt bất kỳ lượng axit nucleic dư nào. “Chúng tôi rất cẩn thận cả ở hiện trường và trong phòng thử nghiệm khi xử lý các mẫu môi trường để đảm bảo không truyền vật liệu hoặc vi khuẩn từ tay vào mẫu”. Người mới đến làm việc ở phòng thử nghiệm phải trao đổi với người quản ý phòng thử nghiệm để tìm hiểu và chứng minh khả năng sử dụng các kỹ thuật vô trùng. “Chúng tôi có hướng dẫn cụ thể được thiết lập dựa vào các loại mẫu thử. Chúng

HỘI CÁC PHÒNG THỬ NGHIỆM VIỆT NAM20

Page 23: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

THỬ NGHIỆM & ĐỜI SỐNG

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

tôi luôn luôn sử dụng pipette có các bộ lọc ở phần đầu để tránh lây nhiễm chéo giữa các mẫu. Chúng tôi đeo găng tay, dùng kẹp vô trùng để thu thập và vận chuyển mẫu. Các mẫu được đông lạnh trong quá trình vận chuyển và khi được đưa vào phòng thử nghiệm”. Các phòng thử nghiệm còn hoạt động với các virus được gọi là thể thực khuẩn lây nhiễm vi khuẩn và phải đảm bảo rằng các thể thực khuẩn không gây nhiễm bẩn môi trường phòng thử nghiệm và môi trường cấy vi khuẩn.“Bất cứ khi nào chúng tôi cần nhân giống các thể thực khuẩn, chúng tôi thực hiện các quy trình kiểm soát thích hợp và làm việc trong một tủ sấy được làm sạch bằng chất tẩy rửa và đặt ở một phòng riêng biệt. Chúng tôi nhận thấy cách tốt nhất để giảm thiểu lây nhiễm chéo là chỉ định các khu vực cụ thể cho các hoạt động cụ thể. Trong phòng thử nghiệm chính, chúng tôi cấy vi khuẩn, sau đó

nhân giống chúng trong một phòng thử nghiệm phụ trợ, và những công việc liên quan đến phân tử như PCR lại được thực hiện ở một phòng thử nghiệm khác. Chúng tôi cũng phải đảm bảo sổ tay phòng thử nghiệm không là một nguồn gây nhiễm bẩn và có một khu vực riêng biệt cho việc lưu trữ hồ sơ”. Tiến sĩ Buchan tin rằng thực hành là cách tốt nhất để đảm bảo rằng không có gì gây nguy hiểm cho các mẫu và những gì bạn làm. “Hãy suy nghĩ thật kỹ về loại mẫu sử dụng, các công nghệ muốn nắm bắt và cách thức thực hiện công việc. Hãy suy nghĩ về không gian, thiết bị và tất cả các lựa chọn có thể. Bạn có thể bước vào phòng thử nghiệm và nghĩ rằng chỉ có một cách đúng, nhưng trong thực tế các khả năng là vô tận. Bạn cần phải dành nhiều thời gian điều tra xem điều gì là tốt nhất cho bạn và những người khác trong phòng thử nghiệm bởi việc trang bị thêm

thiết bị sẽ tốn khá nhiều công sức”. Tủ vô trùng Lamina: nên và không nên• Khi nhập tủ, lau sạch bề mặt với ethanol 70%• Đặt mẫu được đóng kín, xử lý vật liệu trong tủ và tiếp xúc với đèn UV trong 15 phút. • Sau khi xử lý mẫu xong, lau sạch bề mặt một lần nữa với ethanol 70%.• Giữ tủ hút đóng hoàn toàn khi không sử dụng• Luôn đeo găng tay• Làm việc sâu ít nhất 15 cm vào phía trong tủ, nhưng không được cho đầu vào tủKhông nên làm• Tạo sự hỗn loạn khí lưu đáng kể trong tủ với với các hành động nhanh• Cất giữ bất cứ thứ gì trong tủ• Hắt hơi hoặc ho về hướng tủ• Điều khiển tủ với đèn cực tím và cửa tủ mở

Theo “www.labmanager.com”

21

Page 24: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

HỘI CÁC PHÒNG THỬ NGHIỆM VIỆT NAM

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

Để một phòng thử nghiệm hoạt động trơn tru và có hiệu quả, nhà quản lý phòng thử nghiệm cần có những phương pháp để tạo ra sự đồng thuận và thống nhất cao trong nhóm làm việc, phát huy hết khả năng từng thành viên nhóm.

Là một nhà quản lý của một phòng thử nghiệm, bạn có ba sự lựa chọn khi một nhiệm vụ cần phải được thực hiện trong phòng thử nghiệm của bạn:1. Bạn có thể tự làm điều đó.2. Bạn có thể giao phó cho một người cụ thể.3. Bạn có thể giao cho một nhóm người (hai hoặc nhiều hơn) để hoàn thành nhiệm vụ. Sự lựa chọn cuối cùng yêu cầu một sự hợp tác thật hoàn hảo khi công việc phức tạp và yêu cầu chuyên môn từ nhiều kĩnh vực khác nhau. Đơn giản là vì một người không thể có tất cả thông tin hoặc các câu trả lời.

Tuy nhiên, chỉ đưa mọi người tập hợp lại với nhau không có nghĩa là họ sẽ phối hợp tốt và đạt được kết quả mong muốn. Theo kinhnghiệm được các nhà quản lý phòng thử nghiệm chia sẻ, có bảy bước các nhà quản lý cần phải làm để đảm bảo cho nhóm làm việc phát huy hết khả năng từng thành viên, có các cuộc thảo luận ý nghĩa, đưa ra các quyết định tốt nhất và cam kết quyết định được thực hiện một cách nhanh chóng: Bước 1: Thiết lập các sắc thái. Với vai trò lãnh đạo, bạn sẽ trở thành chất xúc tác cho sự hợp tác diễn ra. Là chất

xúc tác, bạn thiết lập sắc thái cho nhóm làm việc. Những người trong nhóm của bạn trông đợi để mô hình hóa các hành vi mà bạn tìm kiếm, do đó phải chú ý tới những gì bạn nói cũng như những gì bạn làm. Bước 2: Xác định rõ mục tiêu. Bất cứ khi nào bạn tập hợp mọi người lại với nhau (một trong hai mặt đối mặt hoặc gần như vậy), làm rõ các mục tiêu tổng thể (nếu nó là một trong một loạt các cuộc họp) cũng như các mục tiêu và tính khả thi của cuộc họp cụ thể. Bước 3: Tạo Danh mục các Khả năng. Một khi bạn đã lên các chủ đề, bài toán hoặc vấn đề, bạn phải mời thảo luận xung quanh chủ đề này. Thông thường, điều này bắt đầu với hình thức của “danh mục” những ý tưởng hay “động não” những ý tưởng mới. Bước 4: Tổ chức danh mục của bạn. Một khi bạn hoàn thành cuộc họp “động não” của bạn, bạn có thể tổ chức các ý tưởng theo một trong ba cách khác nhau:

(Xem tiếp trang 23)

22

Page 25: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

Chelate là những hợp chất đặc biệt đối với các dưỡng chất. Sẽ là rất lý thú để tìm hiểu xem những chelate tạo thuận lợi như thế nào cho việc hấp thu các dưỡng chất mà nếu như không thì những dưỡng chất ấy sẽ rất khó tiêu đối với cây trồng.

Chelates là những hợp chất làm tăng thêm số lượng

các dưỡng chất dễ tiêu cho cây trồng, đặc biệt là các chất vi lượng. Khi thiếu chelate trong dung dịch dinh dưỡng, cây trồng có thể sẽ bị thiếu các chất vi lượng then chốt, gây ức chế sinh trưởng trong những điều

kiện bất thuận. Vì vậy người trồng trọt phải đảm bảo chắc chắn rằng những hợp chất này có trong dưỡng chất mà họ dùng để canh tác thủy canh. Chữ “chelate” bắt nguồn từ chữ “chele” của Hy Lạp nghĩa là móng vuốt, một sự kết hợp mang tính thích ứng cao hơn bởi vì chelate hóa là một quá trình giống như sự nắm chặt và giữ lấy cái gì đó bằng móng vuốt. Vì vậy sẽ là rất lý thú để tìm hiểu xem những chelate tạo thuận lợi như thế nào cho việc hấp thu các dưỡng chất mà nếu như không thì những dưỡng chất ấy sẽ rất khó tiêu đối với

cây trồng. rất nhiều nguyên tố vi lượng tích điện dương dạng ion trong dung dịch, trong khi những lỗ hoặc những đường mở trên rễ và lá cây tích điện âm. Những nguyên tố này vì vậy mà không thể vào được bên trong cây bởi sự dính chặt của điện tích âm và điện tích dương; với việc thêm một chelate, những nguyên tố dạng ion sẽ được bao bọc và điện tích dương biến thành điện tích âm hoặc đẳng điện, sẽ cho phép nguyên tố đó đi qua lỗ này vào trong cây trồng một cách dễ dàng.

THỬ NGHIỆM & ĐỜI SỐNG

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

* Tổng hợp: Bạn có thể tóm tắt những gì đã được thảo luận bằng cách tổng hợp tất cả các ý tưởng vào một số ít các tiêu đề hoặc điểm nổi bật.* Sắp xếp: Bạn có thể nhóm các ý tưởng vào một vài danh mục có thể quản lý hoặc trong một dòng chảy cụ thể, ví dụ thời gian, quá trình, một cách liên tục, v.v.* Ưu tiên: Bạn có thể có nhóm thu hẹp một bể các ý tưởng vào một danh sách ưu tiên nhỏ hơn. Hoặc, bạn có thể kết hợp chúng. Ví dụ, đầu tiên bạn sắp xếp và sau đó ưu tiên các danh mục. Bước 5: Quyết định những ý tưởng theo đuổi. Hầu hết

thời gian, nhóm làm việc phải đối mặt với một sự lựa chọn trong số rất nhiều lựa chọn. Nếu nhóm quan tâm và có thời gian, có thể kết hợp, sáng tạo và tổng hợp các mục vào một ý tưởng tốt hơn. Nhóm xây dựng một sự đồng thuận cao nhất và phấn đấu để đạt được một quyết định phản ánh tốt nhất suy nghĩ của tất cả những người tham gia. Bước 6: Hành động. Nếu không có hành động, cuộc họp là một sự lãng phí thời gian của mọi người, do đó hãy chắc chắn rằng hành động phải được xác định cùng với một thời hạn và tên của ít nhất một người có trách nhiệm.

Bước 7: Thừa nhận thành công. Một sự công nhận cho những đóng góp cá nhân của từng người đến kết quả chung. Một số người muốn được thừa nhận công khai và một số khác muốn bạn thể hiện sự đánh giá cao của bạn một cách kín đáo hơn. Bất kể ra sao, cần dành thời gian để thừa nhận đóng góp của mỗi cá nhân theo cách mà họ muốn. Một nhà quản lý nói chung và quản lý phòng thử nghiệm nói riêng đều cần lưu giữ bảy bước này trong tâm trí khi làm việc nhóm để đạt được kết quả đáng kinh ngạc.

Theo “www.labmanager.com”

(Tiếp theo trang 22)

23

Page 26: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

HỘI CÁC PHÒNG THỬ NGHIỆM VIỆT NAM

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

Những chế phẩm chelate tổng hợp Hầu hết các loại phân bón thương mại đều bao gồm một hoặc nhiều chế phẩm chelate và các loại phân chất lượng cao đều hợp thành từ vài ba chế phẩm chelate như vậy. Chế phẩm chelate trong phân bón được xem như dấu hiệu bên cạnh những nguyên tố vi lượng mà chúng làm tăng tính dễ tiêu đối với cây trồng. Những chelate thường có vài ba điểm để tác động vào, chúng bắt giữ những nguyên tố vi lượng. Khi cần nguyên tố đã được chelate hóa, cây trồng tháo gỡ nguyên tố đó, ví dụ như sắt, từ chelate, còn bản thân chelate thì không bị hấp thụ mà được đẩy trở lại dung dịch. Hiệu lực của các nguyên tố được chelate hóa cũng lệ thuộc vào điều kiện pH môi trường dung dịch.Những chế phẩm chelate sinh học Ngoài những chế phẩm chelate tổng hợp ra, có những hợp chất, chúng xuất hiện một cách tự nhiên giống như acid fulvic với vai trò như những chế phẩm chelate tự nhiên. Cây trồng sinh trưởng một cách tự nhiên dựa vào acid fulvic và những chế phẩm chelate khác tìm thấy ngoài tự nhiên để có thể hấp thụ các nguyên tố vi lượng. Fulvic acid là kết quả của sự phân hủy chất hữu cơ thành mùn. Mùn đó được tác động bởi vi sinh tạo thành acid humic (C187H186O89N9S1). Acid humic ấy được chế biến tiếp

tục bởi vi sinh để tạo thành acid fulvic (C135H182O95N5S2). Giống như các chế phẩm chelate tổng hợp, acid fulvic hình thành 4 điểm kết nối với các nguyên tố mà nó chelate hóa, nhưng khác với những chế phẩm tổng hợp, nó có thể được hấp thụ vào bên trong cây trồng. Điều đó làm tăng thêm tính di động của dinh dưỡng trong cây. Những dưỡng chất được chelate hóa bởi fulvic acid có thể dịch chuyển tự do hơn chúng ngăn cản một số điều kiện (trạng thái) như sự thiếu canxi do bị cố định, chúng thường xảy ra đối với những dưỡng chất có tính di động thấp. - Acid fulvic có thể hiệu quả nhất khi môi trường sinh trưởng ở vùng rễ cao hơn hoặc thấp hơn ngưỡng tối ưu. Khác với các chế phẩm chelate tổng hợp, acid fulvic duy trì hiệu lực của nó ở những điều kiện như độ pH cao hoặc thấp. Trong những điều kiện đối nghịch như vậy, những cây trồng được cung cấp acid fulvic được ghi nhận là không có biểu hiện xốc hoặc thiếu hụt, vv…so với những cây trồng được cung cấp những chế phẩm chelate tổng hợp. Acid fulvic còn tăng cường cải thiện tính lưu động của các dưỡng chất khác nhau trong mô thực vật. Điều này không giới hạn đối với các loại phân khoáng nhưng cũng giúp cải thiện khả năng vận chuyển của các dịch cây khác. - Các aminoacid

thì hình thành những phạm trù khác của các chế phẩm chelate sinh học. Aminoacid có thể chức năng giống như những chế phẩm chelate nhờ vào sự tích điện dương và âm của chúng; sự tích điện ấy có thể tác động như cực bắc và cực nam của một nam châm. Khi chelate hóa aminoacid hình thành 5 điểm kết nối với các nguyên tố khoáng. Kết luận: Vì các chế phẩm chelate tăng khả năng hấp thu nhiều loại dưỡng chất sống còn đối với sự sinh trưởng khỏe mạnh của cây trồng, nên nhà nông cần tìm kiếm những dưỡng chất đáp ứng một dãy các hợp chất chelate. Điều này đảm bảo chắc chắn tính dễ tiêu của dinh dưỡng ở nhiều điều kiện khác nhau bao gồm cả những điều kiện trên hoặc dưới ngưỡng tối ưu.

Theo:”www.cuctrongtrot.gov.vn”

24

Page 27: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

Clostridium botulinum(C. botulinum) được E.van

Ermengem mô tả lần đầu tiên năm 1897 trong một vụ ngộ độc thực phẩm tại Ellezelles, Bỉ. C. botulinum là vi khuẩn kỵ khí bắt buộc, sinh bào tử và có khả năng di động. Khi tiến hành nhuộm Gram, vi khuẩn bắt màu Gram dương, có dạng thẳng hoặc hơi cong, kích thước chiều rộng 0,5-2 µm, chiều dài 1,6-22 µm. Khi gặp điều kiện sống bất lợi, bào tử của vi khuẩn C. botulinum chuyển sang dạng “nghỉ” và có thể tồn tại ở dạng này trong thời gian khoảng 30 năm hoặc hơn. Khi gặp được điều kiện thuận lợi, chúng lại phát triển bình thường và có khả năng sinh nhiều loại độc tố nhưng quan trọng nhất là độc tố thần kinh (neurotoxin). Có 7 loại độc tố thần kinh và được kí hiệu từ A đến G, trong đó các độc tố loại A, B, E, F gây bệnh ở người còn những độc tố loại C, D chỉ gây bệnh trên động vật. Độc tố loại G tuy phát hiện từ năm 1970 nhưng chưa xác định chắc chắn có

gây bệnh cho người hay động vật không. Trong các loại độc tố thì độc tố A được coi là độc nhất. Nó độc gấp 7 lần so với độc tố gây uốn ván, gây chết người với một lượng rất nhỏ. C. botulinum phân bố khắp nơi trong đất đặc biệt những nơi như đất vườn, nghĩa trang, nơi chăn nuôi gia súc, gia cầm. Trong các loại rau quả, kể cả mật ong cũng có thể chứa loại khuẩn này. Chúng cũng có trong ruột của các động vật nuôi trong nhà, ruột cá, đôi khi có cả trong ruột người. Do vi khuẩn này có nhiều trong tự nhiên nên rất dễ nhiễm vào thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển và bảo quản. Đặc biệt chúng có khả năng lây nhiễm và phát triển mạnh trong các loại thực phẩm như thực phẩm đóng hộp, xúc xích, lạp xưởng, sữa bột, phomat,… Hiện nay, phương pháp chuẩn để phát hiện độc tố của vi khuẩn C. botulinum là thử nghiệm trung hòa độc tố trên chuột. Tuy nhiên phương

pháp này mất nhiều thời gian, giá thành cao và đặc biệt ien quan tới vấn đề y đức về sử dụng động vật thí nghiệm. Vì vậy hiện nay, nhiều nước đã sử dụng kỹ thuật PCR để phát hiện vi khuẩn C. botulinum và các gen độc lực của chúng. Ưu điểm của kỹ thuật này là thời gian phân tích ngắn và có thể phát hiện được vi khuẩn C. botulinum mặc dù chúng đã bị “tiêu diệt” trong quá trình chế biến.

Nguồn: www.case.vn

Clostridium botulinum là vi khuẩn có khả năng sinh độc tố botulism cực độc trong điều kiện nhiệt độ 30-37oC. Botulism

là loại độc tố thần kinh, có thể gây tê liệt các bó cơ thần kinh đồng thời là nguyên nhân gây tử vong đối

với con người và nhiều loài động vật.

Máy PCR

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

THỬ NGHIỆM & ĐỜI SỐNG25

Page 28: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

HỘI CÁC PHÒNG THỬ NGHIỆM VIỆT NAM

NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ

Maria Sklodowska sinh ngày 7/11/1867 tại thủ đô Warsaw, Ba Lan. Khi còn nhỏ, Marie được đánh giá là một bé gái tò mò, sáng dạ và xuất sắc ở trường học. Marie luôn giữ vị trí đứng đầu ở trường trong những năm tháng đi học. Mặc dù vậy, những thành tích học tập có được không thể giúp Marie được nhận vào học ở Đại học Warsaw, ngôi trường chỉ dành cho nam sinh. Marie tiếp tục sự nghiệp học hành ở một “trường đại học chui” có các lớp bí mật dưới lòng đất. Marie và chị gái Bronya từng mơ ước du học để có tấm bằng chính thức nhưng họ không có khả năng chi trả học phí. Marie quyết định đi làm để hỗ trợ Bronya theo học y khoa. Trong gần 5 năm, Marie làm gia sư và giáo viên dạy trẻ để kiếm tiền trang trải chi phí. Thời gian rảnh, cô tiếp tục nghiên cứu, đọc sách về vật lý, hóa học và toán học. Năm 1891, Marie hiện thực hóa giấc mơ đến Paris, nơi cô theo học tại Đại học Sorbonne. Hai năm sau, Marie nhận bằng thạc sĩ vật lý và tiếp tục hoàn thành chương trình hóa học. Trong khoảng thời gian này, Marie được tham gia một

nghiên cứu về các loại thép và đặc tính từ của chúng. Cô được người quen giới thiệu với nhà vật lý học người Pháp Pierre Curie khi đang tìm k i ế m một địa điểm thích

hợp để thực hiện thí nghiệm. Khoa học trở thành cây cầu nối bén duyên cho hai nhà nghiên cứu. Không lâu sau đó, Marie chấp thuận lời cầu hôn của Pierre và bắt đầu được gọi bằng tên Marie Curie. Khám phá và tôn vinh Marie tham gia nghiên cứu cùng Henri Becquerel, một nhà vật lý học người Pháp, và bắt đầu tự tiến hành các

thí nghiệm riêng về tia urani. Bà phát hiện ra rằng, các tia sẽ không thay đổi bất kể điều kiện hay hình dạng của urani, và các tia này xuất phát từ cấu trúc nguyên tử của nguyên tố. Phát hiện mang tính đột phá ấy đã mở đường cho lĩnh vực vật lý nguyên tử, trong đó, Marie trở thành người đưa ra khái niệm phóng xạ để mô tả hiện tượng này. Bà cùng chồng phát hiện một nguyên tố phóng xạ mới và đặt tên là polonium vào năm 1898. Nguyên tố còn lại được gọi là radium. Năm 1902, Marie và chồng công bố kết quả lọc radium tinh khiết, đánh dấu sự tồn tại của nguyên tố quý này. Marie Curie đi vào lịch sử khoa học thế giới vào năm 1903 khi trở thành người phụ nữ đầu tiên nhận giải No-bel lĩnh vực vật lý. Cùng với chồng và nhà nghiên cứu Henri Becquerel, bà được vinh danh vì những cống hiến cho nghiên cứu phóng xạ. Tám năm sau, vinh dự tiếp tục đến với nhà nghiên cứu khi bà nhận được giải Nobel thứ hai, trở thành nhà khoa học đầu tiên nhận hai giải thưởng cao quý. Giải Nobel

Marie Curie, nhà vật lý và hóa học nổi tiếng với công trình nghiên cứu về phóng xạ, là phụ nữ đầu tiên và duy nhất nhận giải thưởng Nobel cao quý ở hai lĩnh vực vật lý và hóa học.

26

Page 29: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

THỬ NGHIỆM & ĐỜI SỐNG

NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ

hóa học ghi nhận những khám phá của Marie trong việc tìm ra hai nguyên tố hóa học radium và polonium. Những năm tháng cuối đời Năm 1914, Thế chiến I bùng nổ. Marie dành thời gian, tâm sức và nghiên cứu để hỗ trợ lĩnh vực y tế, đồng thời vận động sử dụng dụng máy chụp X-quang di dộng để điều trị cho người bị thương. Những năm tháng miệt mài làm việc và nghiên cứu với các chất phóng xạ có ảnh hưởng đến sức khỏe của Marie. Bà qua đời ngày 4/7/1934, với chẩn đoán do thiếu máu không tái tạo, có thể ảnh hưởng từ việc tiếp xúc trong thời gian dài với bức xạ. Năm 1995, tro xương của bà cùng chồng được đưa vào điện Panthéon ở Paris, nơi an nghỉ của của các vĩ nhân lịch sử và những người đã làm rạng danh cho nước Pháp. Marie trở thành người phụ nữ đầu tiên và duy nhất được an nghỉ tại đây.

Ngoài những cống hiến cho nghiên cứu khoa học,Marie còn là người thổi bùng đam mê khoa học các thế hệ sau. Tiếp nối sự nghiệp của cha mẹ, con gái của bà là Irène Joliot-Curie từng nhận giải Nobel về hóa học vào năm 1935.

Theo Biography

Lịch sử nhân loại đã từng ghi nhận công lao đóng góp của nhiều nhà khoa học nữ nổi tiếng. Họ là những phụ nữ có niềm đam mê khoa học cháy bỏng và đã cống hiến cho nhân loại những phát minh vĩ đại, làm thay đổi cuộc sống. Dưới đây là những nhà khoa học nữ với những phát minh nổi tiếng, được cả thế giới biết đến và tôn vinh.Hypatia (370 - 415)Nhà nữ toán học, thiên văn học và triết gia Hy Lạp tài năng này đã từng là người đứng đầu Trường Neoplatonic ở Alexandria. Tuy nhiên, bà phải chịu một số phận vô cùng bi thảm. Thời đại của bà diễn ra cuộc thanh trừng tà giáo của đạo Thiên Chúa. Một bộ phận dân chúng Thiên Chúa giáo đã kết tội bà theo tà giáo và giết hại. Ngày nay, các di sản của Hypatia giúp bà trở thành nhà nữ khoa học đầu tiên được công nhận trong lịch sử.

Marie Curie (1867-1934)Marie Curie, nhà hóa học người Pháp gốc Ba Lan, người đi đầu trong ngành tia X, hai lần được nhận giải Nobel (vật lý năm 1903 và hóa học năm 1911). Một trong những thành công của

Marie Curie là cùng chồng Pierre nghiên cứu các vật chất phóng xạ, đặc biệt là quặng Urani Uraninit. Năm 1903 hai vợ chồng bà được trao giải Nobel vật lý cho các nghiên cứu về bức xạ. Tám năm sau (1911) bà tiếp tục được trao giải Nobel về hóa học cho việc khám phá ra hai nguyên tố hóa học Radium và Polonium, bà cố

không lấy bằng sáng chế tiến

trình tách radium mà để cho các nhà n g h i ê n cứu tự do sử

d ụ n g nó. Marie

Curie là người phụ nữ

đầu tiên đoạt hai giải Nobel thuộc hai lĩnh vực khác nhau.

27

Page 30: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

HỘI CÁC PHÒNG THỬ NGHIỆM VIỆT NAM

NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ

Gertrude B. Elion (1918-1999)Gertrude B. Elion là nhà khoa học hóa sinh và dược học nổi tiếng người Mỹ, được trao giải Nobel sinh học và y học năm 1988. Có công tạo ra nhiều loại dược phẩm mới để điều trị các loại bệnh nan y trong đó có thuốc trị bệnh ung thư và AIDS. Ngoài ra, bà cũng được thưởng Huy chương Khoa học quốc gia năm 1991 và Giải thành tự suốt đời Le-melson-MIT Lifetime Achieve-ment (1997). Năm 1991 bà trở thành người phụ nữ đầu tiên được ghi danh trong tòa nhà danh tiếng quốc gia National Inventors Hall of Fame.

Jane GoodallLà nhà khoa học người Anh nổi tiếng trong lĩnh vực nhân

chủng học, phong tục học, chuyên gia về linh trưởng và là sứ giả hòa bình của Liên Hợp quốc. Bà là người sáng lập ra Viện Jane Goodall, bà có tới 45 năm nghiên cứu về các vấn đề tương tác xã hội và gia đình của loài tinh tinh, đặc biệt là tập quán của loài động vật này, có công lớn trong việc nghiên cứu bảo vệ loài tinh tinh trên quy mô toàn cầu. Rachel Carson (1907-1964)Rachel Carson, người Mỹ là nhà động vật học và sinh vật biển lỗi lạc của nhân loại. Bà để lại nhiều nghiên cứu khoa học và tác phẩm khoa học nổi tiếng, đặc biệt là một tác phẩm mang tên Silent Spring (mùa xuân thầm lặng) được xem là xuất phát điểm cho phong trào bảo vệ môi trường của nhân loại.Barbara McClintock (1902-1992)Barbara McClintock là một nhà nghiên cứu về di truyền học người Mỹ. Bà đề xuất khái niệm “chuyển vị gen”, một số chuỗi của ADN có thể di chuyển xung quanh những vị trí khác nhau trong bộ gen của một tế bào đơn lẻ. Các nhà khoa học ngày nay đã tận dụng chuyển vị gen để tạo ra và nghiên cứu các đột biến mới như vi khuẩn kháng kháng sinh.Dorothy Crowfoot Hodgkin (1910-1994)Nhà khoa học người Anh

Dorothy sử dụng kỹ thuật mới tinh thể học X-quang và những máy tính đầu tiên nhằm phát hiện cấu trúc phân tử của penicillin, vitamin B12 và insulin. Công trình của bà để vẽ bản đồ protein phức tạp đã được đón chào như một thành tựu vĩ đại.

Rosalind Franklin(1920-1958)Rosalind Franklin là nhà khoa học người Anh. Trong cuộc đua nhằm vẽ bản đồ cấu trúc AND, bà đóng nhân tố chính trong việc tìm ra mảnh ghép ADN cuối cùng nhờ các hình ảnh tinh thể học X-quang. Chính những dữ liệu chưa được công bố của bà đã giúp tìm ra bản chất xoắn ốc của phân tử.

Theo: “www.tuvanhotro.vn”

28

Page 31: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

CHƯƠNG TRÌNH THỬ NGHIỆM THÀNH THẠO - VinaLAB PT 2015 - Tổng hợp

Ghi chú: : Các chương trình VPT.1... do EDC tổ chức: Các chương trình VPT.2… do AoV tổ chức

* : Chương trình đã được công nhận Phí tham dự đã bao gồm chi phí gửi mẫu và VAT Các chương trình được tổ chức tuân thủ theo các yêu cầu của ISO/IEC 17043:2010

TT Mã số Tên chương trình Chỉ tiêu Loại chương trình Thời gian dự kiến Phí tham dự

CHƯƠNG TRÌNH THÁNG 4Lĩnh vực Hóa học

VPT.1.5.15.20Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng

nước uống

Màu sắc, Độ đục, PH, Độ kiềm tổng, Độ cứng, Độ cứng

Ca, TDS, TSS

1 Định lượng Tháng 4 2,500,000

Phân tích chỉ tiêu đánh giá độ ô nhiễm

nước thảiVPT.1.5.15.24

N_NH 4+ , Tổng N,

Tổng P, N_NO3-,

PO43-, Tổng dầu mỡ

Định lượng Tháng 4 2,500,000

VPT.1.5.15.25Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng thức ăn chăn nuôi

Ẩm, Đạm, Béo, Tro tổng số, Xơ, P

Định lượng Tháng 4 2,500,000

Định lượng Tháng 4 2,500,000

Định lượng Tháng 4 2,000,000

Định lượng Tháng 4 2,500,000

2

3

4

5

6

7

VPT.1.5.15.26

Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng

phân bón

Ẩm, N tổng số, P2O5 tổng số, P2O5 hữu hiệu, K2O tổng số,

K2O hữu hiệu

VPT.1.5.15.27 Phân tích Trifluraline trong thủy sản

Trifluraline

VPT.1.5.15.28Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng

thịt và thực phẩmĐạm, Ẩm, Béo, P,

Tro tổng, NaCl

Định lượng Tháng 4 2,500,000VPT.1.5.15.29Phân tích kim lọai trong thịt và thực

phẩmCa, Na, K, Fe, Cu, Zn, Cd, Pb, Hg, As

Page 32: 2 TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT - vinalab.org.vn · hôi nhập thế giới. Trước bối cảnh đó, Thử nghiệm Việt Nam sẽ có cơ hội lớn cũng như thách

VPT.1.5.15.30 Phân tích Vitamin C, Vitamin B2 trong nước

giải khát

Vitamin C, Vitamin B28 Định lượng Tháng 4 2,500,000

Phân tích kim loại nặng trong sữa

VPT.1.5.15.31 Cu, Fe, Zn, Cd, Pb, Hg, As, Sn, Mo

Định lượng Tháng 4 2,500,000

VPT.2.5.15.04Chỉ tiêu chất lượng trong sữa đặc có

đường

Hàm lượng chất khô, Hàm lượng chất béo, Độ axit, Protein, Đường Sacaroza, Canxi

Định lượng Tháng 4 4,000,000

Định lượng Tháng 4 4,000,000

Định lượng Tháng 4 4,000,000

Định lượng Tháng 4 3,000,000

9

10

11

12

13

14

VPT.2.5.15.05* Kim loại trong nước thải

Asen, Cadimi, Kẽm, Đồng, Magie, Canxi, Sắt, Chì, Mangan, Thủy ngân

VPT.2.5.15.73 Vitamin trong thức ăn chăn nuôi

Vitamin A, Vitamin D3, Vitamin E

VPT.1.6.15.21 Phân tích Vi sinh trong nước uống

Colifforms tổng số, E.coli tổng số,

Pseudomonas aeruginosa, Sulfite reducing clostridia,

Fecal streptococci

Định tính Tháng 4 3,000,000VPT.2.6.15.17* Vi sinh vật trong thủy sản

L.monocytogenes

Lĩnh vực Sinh học