32
MỤC LỤC A – MỞ ĐẦU.........................................1 B – NỘI DUNG.......................................2 I. Những bất cập, hạn chế của Luật phá sản năm 2004 và sự cần thiết ban hành Luật phá sản năm 2014. . .2 1. Những bất cập, hạn chế của Luật phá sản năm 2004.......2 2. Sự cần thiết ban hành Luật phá sản năm 2014...........6 II. Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật phá sản năm 2014 so với Luật phá sản năm 2004....7 1. Về việc xác định rõ ràng tình trạng “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán”............................ 7 2. Về chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.......................................... 8 3. Về thẩm quyền của Tòa án.........................11 4. Về Hội nghị chủ nợ...............................12 5. Về chế định quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản..................………………………………………………………………………13 6. Về việc thay đổi trình tự trong thủ tục phá sản...........14 7. Về quy định tiền lãi đối với các khỏan nợ...............15 8. Về tuyên bố phá sản theo thủ tục rút gọn..............15 9. Về bổ sung quy định về việc phá sản đối với tổ chức tín dụng 16 C – KẾT LUẬN......................................18 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................19

Bài viết về Phá sản

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Bài viết về Phá sản

Citation preview

Page 1: Bài viết về Phá sản

MỤC LỤC

A – MỞ ĐẦU...................................................................................................1

B – NỘI DUNG................................................................................................2

I. Những bất cập, hạn chế của Luật phá sản năm 2004 và sự cần thiết ban hành Luật phá sản năm 2014...............................................................2

1. Những bất cập, hạn chế của Luật phá sản năm 2004..........................2

2. Sự cần thiết ban hành Luật phá sản năm 2014....................................6

II. Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật phá sản năm 2014 so với Luật phá sản năm 2004............................................................7

1. Về việc xác định rõ ràng tình trạng “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán”.................................................................................7

2. Về chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản8

3. Về thẩm quyền của Tòa án..................................................................11

4. Về Hội nghị chủ nợ.............................................................................12

5. Về chế định quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản………………………………………………………………………13

6. Về việc thay đổi trình tự trong thủ tục phá sản..................................14

7. Về quy định tiền lãi đối với các khỏan nợ..........................................15

8. Về tuyên bố phá sản theo thủ tục rút gọn...........................................15

9. Về bổ sung quy định về việc phá sản đối với tổ chức tín dụng...........16

C – KẾT LUẬN.............................................................................................18

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................19

Page 2: Bài viết về Phá sản

A – MỞ ĐẦU

Pháp luật phá sản là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của pháp luật kinh doanh để giải quyết mối quan hệ nợ nần trong hoàn cảnh đặc biệt: khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Trên thực tế, thủ tục phá sản thường chỉ được biết đến như một thủ tục đòi nợ tập thể, trong đó vấn đề trong tâm là bảo vệ và đảm bảo công bằng cho các chủ nợ quyền lợi của các doanh nghiệp lâm và tình trạng phá sản chỉ là vấn đề cân nhắc phụ thuộc vào tâm điểm đó, thậm chí pháp luật phá sản còn thể hiện sự trừng phạt đối với chủ thể này. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, các nhà lập pháp cũng nhận thức được kinh doanh là hoạt động chứa tính rủi ro nên các con nợ cần được đối xử khoan dung hơn. Vì vậy, pháp luật phá sản hiện nay không chỉ đặt mục tiêu bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ mà đồng thời cũng bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Xoay quanh vấn đề này, Luật phá sản năm 2014 ban hành ngày 19 tháng 6 năm 2014 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2015, thay thế cho Luật Phá sản 2004 đã có những quy định mang tính hoàn thiện hơn cho pháp luật phá sản. Để hiểu rõ hơn về sự hoàn thiện của pháp luật phá sản, bài viết dưới đây xin phân tích đề tài: “Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật phá sản năm 2014 so với Luật phá sản năm 2004”.

1

Page 3: Bài viết về Phá sản

B – NỘI DUNG

I. Những bất cập, hạn chế của Luật phá sản năm 2004 và sự cần thiết ban hành Luật phá sản năm 2014

1. Những bất cập, hạn chế của Luật phá sản năm 2004Đến nay, Luật Phá sản năm 2004 đã không còn đáp ứng được nhu cầu

thực tế khi áp dụng nó vào thực tiễn đã bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập, làm cho công tác giải quyết các việc phá sản gặp nhiều khó khăn, tốn nhiều thời gian và gây thiệt hại tài sản của doanh nghiệp mở thủ tục phá sản. Như vậy, bài viết sẽ đánh giá những bất cập dựa trên một số tiêu chí sau:

a. Về việc xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản:

Điều 3, Luật Phá sản năm 2004 quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Đây là điều luật rất quan trọng để xác định Doanh nghiệp, Hợp tác xã rơi vào tình trạng phá sản, hay đã đủ điều kiện phá sản chưa. Tuy nhiên, điều luật này chỉ mang tính chất chung chung, thiếu chặt chẽ, chỉ là định tính, không phản ánh đúng thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp khi bị lâm vào tình trạng phá sản. Bởi, không phải cứ có nợ quá hạn là Doanh nghiệp, Hợp tác xã coi là lâm vào tình trạng phá sản được. Thực tế cho thấy, bất kỳ Doanh nghiệp, Hợp tác xã nào cũng vừa là con nợ, lại vừa là chủ nợ, thậm chí Doanh nghiệp, Hợp tác xã bị yêu cầu tuyên bố phá sản cũng có thể coi là chủ nợ với số tiền lớn hơn số nợ quá hạn mà Doanh nghiệp, Hợp tác xã phải trả cho các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản.

Mặt khác, đứng ở góc độ kinh tế và thực tiễn có thể thấy, Luật Phá sản năm 2004 đã đánh đồng khái niệm Doanh nghiệp, Hợp tác xã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn với khái niệm Doanh nghiệp, Hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.

Từ thực tế việc triển khai và thực hiện Luật Phá sản năm 2004 cho thấy, vì quy định chỉ mang tính chất chung chung, thiếu chặt chẽ và không có tiêu chí cụ thể nào để hướng dẫn, nên dễ dẫn đến việc một số doanh nghiệp khi căn cứ vào điều luật này đã “lạm dụng” quyền nộp đơn nhằm gây ảnh

2

Page 4: Bài viết về Phá sản

hưởng xấu đến danh dự, uy tín, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Trong nhiều trường hợp, các chủ nợ thay vì khởi kiện vụ án dân sự, kinh tế đòi nợ, họ lại làm đơn yêu cầu tòa án mở thủ tục phá sản để đòi nợ (thậm chí với một khoản nợ rất nhỏ) và tòa án không thể từ chối yêu cầu này. Điều này không những không giúp cải thiện số vụ việc phá sản mà còn làm cho doanh nghiệp thêm “cảnh giác” với Luật phá sản.

b. Về chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản: Điều 13, Luật phá sản năm 2004 quy định: “Khi nhận thấy doanh

nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó”.

Như vậy, chủ nợ có bảo đảm không được quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, quy định này là hòan toàn không hợp lý, bởi thủ tục phá sản là một phương thức đòi nợ đặc biệt. Việc không cho chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đã làm mất đi quyền lựa chọn phương thức đòi nợ hữu hiệu này của các chủ nợ có bảo đảm.

Điều 14, Luật phá sản năm 2004 quy định: “Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được lương, các khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì người lao động cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó”.

Đối với người người lao động, trong trường hợp Doanh nghiệp, Hợp tác xã nợ lương, nợ Bảo hiểm xã hội và các khoản nợ khác của người lao động, lúc này người lao động được xem như là chủ nợ không có bảo đảm và có các quyền, nghĩa vụ như chủ nợ không bảo đảm. Nhưng Luật phá sản năm 2004 lại quy định người lao động không được tự nộp đơn mà phải phải cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn để nộp đơn. Việc cử người đại diện cho người lao động được quy định trong Luật phá sản năm 2004 rất phức tạp, khó thực thi và gây ra nhiều phiền nhiều cho người lao động. Do đó, Luật phá sản năm 2004 vô hình chung đã hạn chế và gần như vô hiệu hóa quyền nộp đơn của người lao động trong doanh nghiệp.

3

Page 5: Bài viết về Phá sản

Điều 15 và Điều 19 Luật phá sản năm 2004 có quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản do không khách quan gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc có sự gian dối trong việc yêu cầu mở thủ tục phá sản thì tuỳ theo tính chất, mức độ mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, quy định này chưa rõ ràng vì không có tiêu chí cụ thể để xác định, thế nào là không khách quan hoặc như thế nào là gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín của Doanh nghiệp, Hợp tác xá bị yêu cầu mở thủ tục phá sản. Thực tế chưa có văn bản quy định những chế tài cụ thể để xử lý những hành vi nêu trên, và chính vì vậy, cũng ảnh hưởng đến tính hiệu lực của Luật Phá sản trong thực tiễn

c. Về vấn đề mở thủ tục phá sản: Đối với vấn đề mở thủ tục phá sản theo Luật phá sản năm 2004 thì chỉ

có doanh nghiệp ngoài quốc doanh (thường gọi là những công ty tư nhân) mới bị ràng buộc về nghĩa vụ yêu cầu mở thủ tục phá sản, còn đối với doanh nghiệp Nhà nước dường như nghĩa vụ ấy lại được ưu tiên xem đây là quyền lợi.

Đối với loại hình doanh nghiệp Nhà nước, việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản còn phụ thuộc vào những chủ sở hữu khác, chứ không đơn thuần chỉ là quyết định của chủ Doanh nghiệp, tức là phải được sự đồng ý và có ý kiến bằng văn bản của Bộ hoặc UBND cấp Tỉnh hoặc những cơ quan chủ quan của doanh nghiệp. Bản thân chủ doanh nghiệp, nếu có muốn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà chưa có ý kiến đồng ý của cơ quan quản lý hoặc cơ quan chủ quản cũng không thể nộp đơn được. Việc trì hoãn hay kéo dài việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía doanh nghiệp nhà nước, sẽ gây ảnh hưởng rất nhiều đến nguồn vốn đầu tư của nhà nước. Rõ ràng, doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ, nợ đến hạn không thanh toán được, nợ lương, nợ Bảo hiểm xã hội kéo dài mà không tuyên bố phá sản, lại tiếp tục kéo dài, duy trì bộ máy như vậy sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn kinh phí duy trì hoạt động. Tình trạng này diễn ra rất phổ biến với loại hình Doanh

4

Page 6: Bài viết về Phá sản

nghiệp Nhà nước. Bản thân chủ doanh nghiệp họ thường “né tránh” trách nhiệm bằng cách xin về hưu sớm, hoặc chờ sự điều chuyển đến nơi công tác mới, những người khác thay thế họ sẽ là những người giải quyết hậu quả.Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, mối ràng buộc phải yêu cầu mở thủ tục phá sản là tương đối lớn, tuy nhiên, khi đi vào thực hiện thì cũng không kém phần bất cập và vướng mắc.

d. Việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản: Điều 9, Luật phá sản quy định: “Đồng thời với việc ra quyết định mở

thủ tục phá sản, Thẩm phán ra quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản”.

Mục 5.1, chương I của Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005 của Toà án nhân dân tối cao thì quy định như sau: “Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và trong quá trình nghiên cứu hồ sơ việc phá sản, Thẩm phán phải có công văn gửi cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều 9 của LPS yêu cầu họ cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Trong công văn phải ghi rõ về yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ, tính chất của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản và yêu cầu cử người đại diện cụ thể (họ tên, tuổi, chức vụ, chuyên môn nghiệp vụ) tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản.Sau khi nhận được công văn về việc cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản, nếu thấy người được cử không đạt yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, thì Thẩm phán yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đó cử người khác thay thế”.

Điều 16 của Nghị định 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 quy định: “Đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán gửi văn bản đề nghị cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản tới cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan quy định tại Điều 15 của Nghị định này. Trong thời hạn 05 (năm) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của Thẩm phán, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản”.

Từ các quy định trên, cho thấy có sự mâu thuẫn giữa các văn bản hướng dẫn về việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Trên thực tế, việc

5

Page 7: Bài viết về Phá sản

phối hợp giữa Toà án và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thường bị chậm trễ do không cử được người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Tình trạng này đã dẫn đến việc không kịp thời thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản nên đã tạo ra lỗ hổng pháp lý cho doanh nghiệp tẩu tán tài sản.

e. Về xử lý tài sản của doanh nghiệp yêu cầu tuyên bố phá sản: Về việc thanh lý, thu hồi khoản nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã, cá

nhân nợ doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản (“con nợ”) theo như Luật phá sản năm 2004 thì chưa có quy định cụ thể. Do đó, có nhiều trường hợp phía con nợ gây khó khăn không chịu trả, kéo dài thời gian thu hồi nợ của doanh nghiệp. Nhưng tổ thanh lý tài sản cũng không có biện pháp gì khác để tiến hành thu khoản nợ này.

2. Sự cần thiết ban hành Luật phá sản năm 2014Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường

mà hậu quả của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh doanh. Phá sản không chỉ là sự xung đột lợi ích giữa con nợ mất khả năng thanh toán với các chủ nợ của nó mà còn dẫn đến sự xung đột với lợi ích của tập thể người lao động làm việc tại cơ sở của con nợ, đến lợi ích chung của xã hội, đến tình hình trật tự trị an tại một địa phương, vùng lãnh thổ nhất định nào đó.

Pháp luật phá sản là sự can thiệp có ý thức của Nhà nước vào hiện tượng này nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực của nó. Thông qua pháp luật phá sản, Nhà nước và Tòa án có thể can thiệp vào quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp với một cách nhìn hiện đại, năng động và hết sức mềm dẻo.

Tuy nhiên, khi áp dụng Luật Phá sản năm 2004 vào thực tiễn đã bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập, làm cho công tác giải quyết các việc phá sản gặp nhiều khó khăn, tốn nhiều thời gian và gây thiệt hại tài sản của doanh nghiệp mở thủ tục phá sản. Luật phá sản năm 2004, ngay từ việc xác định tiêu chí của Doanh nghiệp, Hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và việc yêu cầu mở thủ tục phá sản đã có rất nhiều bất cập và vứơng mắc như vậy, làm ảnh hưởng rất nhiều vào quá trình thực tiễn áp dụng. Dẫn đến tình trạng sau gần 10 năm

6

Page 8: Bài viết về Phá sản

thực thi Luật phá sản năm 2004, nhiều người đã phải thốt lên rằng “Luật phá sản năm 2004 lại tiếp tục phá sản”. Vì vậy, việc Luật phá sản năm 2014 được ban hành và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2015 là kịp thời và vô cùng cần thiết với thực tế hiện nay ở nước ta.

II. Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật phá sản năm 2014 so với Luật phá sản năm 2004

Ngày 19 tháng 6 năm 2014, Quốc hội đã thông qua Luật Phá sản năm 2014. Luật này có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2015, thay thế cho Luật Phá sản 2004. Theo đó, Luật Phá sản 2014 gồm 14 chương, 133 điều, với nhiều nội dung mới, được đánh giá là khắc phục được những điểm còn bất cập của Luật Phá sản năm 2004. Bài viết dưới đây, xin phân tích và đánh giá một số điểm mới tiêu biểu của Luật phá sản năm 2014 trên các tiêu chí sau:

1. Về việc xác định rõ ràng tình trạng “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán”

Khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản năm 2014 định nghĩa rằng: “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”. Như vậy, khác với Luật Phá sản năm 2004 chỉ quy định chung chung “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu coi là lâm vào tình trạng phá sản”, thì Luật Phá sản 2014 đã có những thay đổi theo hướng rõ ràng và cụ thể hơn.

Luật Phá sản năm 2014 không còn dùng khái niệm “lâm vào tình trạng phá sản” hay “không có khả năng thanh toán được” như trước mà dùng khái niệm “mất khả năng thanh toán” và “không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ” cho thấy, Luật Phá sản năm 2014 không yêu cầu việc xác định hay phải có căn cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán bằng bảng cân đối tài chính, mà chỉ cần xác định là có khoản nợ và đến thời điểm Tòa án quyết định việc mở thủ tục phá sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn không thanh toán thì Tòa án có thể ra quyết định mở thủ tục

7

Page 9: Bài viết về Phá sản

phá sản. Điều này cũng có nghĩa là, chỉ khi Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã đó mới bị coi là phá sản.

Tiêu chí “mất khả năng thanh toán” không phụ thuộc vào số lượng khoản nợ nhiều hay ít mà chỉ cần ít nhất một khoản nợ. Luật Phá sản năm 2014 không quy định giới hạn các khoản nợ, có nghĩa là bất kỳ khoản nợ nào, dù nợ lương, nợ thuế, nợ bảo hiểm xã hội, khoản nợ phát sinh từ hợp đồng... chủ nợ là cá nhân, cơ quan, tổ chức đều có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Việc bỏ từ “các” trong cụm từ “các khoản nợ” đã thể hiện rõ tiêu chí mất khả năng thanh toán không phụ thuộc vào số lượng khoản nợ mà chỉ cần một khoản nợ nêu trên.

Bên cạnh đó, Luật cũng quy định về thời hạn phải thanh toán là 03 tháng giúp các doanh nghiệp, hợp tác xã chưa có khả năng thanh toán có thể tìm các phương án khác để thanh toán nợ đến hạn trước khi bị coi là lâm vào tình trạng phá sản. Quy định này phù hợp với kinh nghiệm lập pháp của một số nước khi cho phép con nợ có thời hạn trễ hạn thanh toán sau khi chủ nợ có yêu cầu đòi nợ, đồng thời khắc phục tình trạng lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía các chủ nợ như quy định cũ.

2. Về chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

Luật Phá sản năm 2014 không quy định rải rác thành từng điều cụ thể như Luật phá sản năm 2004 nữa mà quy định gộp chung tại Điều 5 quy định về Người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đã khắc phục được những hạn chế còn tồn tại ở Luật phá sản năm 2004; theo đó:

- Những người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản gồm:+ Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền

nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

+ Người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp ở cơ sở, ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa

8

Page 10: Bài viết về Phá sản

vụ trả lương, các khoản nợ khác đến hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

Như vậy, nếu như ở Luật Phá sản năm 2004 quy định người lao động phải cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Đại diện người lao động được cử hợp pháp sau khi được quá nửa số người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã tán thành bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ ký đối với doanh nghiệp, hợp tác xã quy mô lớn, có nhiều đơn vị trực thuộc thì đại diện cho người lao động được cử hợp pháp phải được quá nửa số người được cử làm đại diện từ các đơn vị trực thuộc tán thành. Quy định này đã hạn chế quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động với tư cách là một chủ nợ đặc biệt. Vì vậy, tại Khoản 2 Điều 5 Luật phá sản năm 2014 đã quy định người lao động là một chủ thể có quyền trực tiếp nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà không cần thông qua người đại diện của họ. Đây là một điểm mới có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi, với tính chất đặc thù của quan hệ lao động thì tổ chức đại diện người lao động là công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở sẽ được luật trao quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

+ Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ đông phổ thông trở lên trong thời gian liên tục 06 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng thanh toán. Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu dưới 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng thanh toán trong trường hợp Điều lệ công ty quy định.

+ Thành viên hợp tác xã hoặc người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã, thành viên của liên hiệp hợp tác xã có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mất khả năng thanh toán.

Đây cũng là quy định mới của Luật Phá sản năm 2014 nhằm bảo vệ lợi ích cho chủ thể là thành viên hợp tác xã. Trước đó, Luật Phá sản năm 2004 chỉ quy định đại diện hợp pháp của hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với hợp tác xã.

- Những người có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản gồm:

9

Page 11: Bài viết về Phá sản

+ Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.

Đối với việc doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán tự nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì Luật Phá sản năm 2014 quy định là trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã. Luật Phá sản năm 2014 không quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp, hợp tác xã.

+ Chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ tịch hội đồng quản trị của công ty cổ phần, chủ tịch hội đồng thành viên của công ty TNHH hai thành viên trở lên, chủ sở hữu của công ty TNHH một thành viên, thành viên hợp danh của công ty hợp danh có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.

Trên thực tế, chủ doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thường né tránh việc nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản đối với mình. Vì vậy, để đảm bảo thực hiện quy định của Luật Phá sản năm 2014 về nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, khắc phục quy định, chế tài mang tính chung chung hình thức của Luật Phá sản năm 2004 thì khoản 5 Điều 28 Luật Phá sản năm 2014 đã quy định chế tài đối với chủ doanh nghiệp tư nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cổ phần, Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty TNHH hai thành viên trở lên, chủ sở hữu của công ty TNHH một thành viên, thành viên hợp danh của công ty hợp danh khi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán mà không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp chủ doanh nghiệp là con nợ gây thiệt hại sau thời điểm doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán do việc không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản gây ra thì còn phải bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của chủ doanh nghiệp tư nhân theo quy định tại khoản 5 Điều 28 của Luật Phá sản năm 2014 là bồi thường thiệt hại bằng tài sản cá nhân của chính chủ doanh nghiệp.

Tóm lại, Luật phá sản năm 2004 quy định về việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản như nghĩa vụ mà không hiểu đó cũng là quyền của các chủ

10

Page 12: Bài viết về Phá sản

thể. Còn Luật phá sản năm 2014 đã liệt kê cụ thể đối tượng nào có quyền và đối tượng nào có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Đây được coi là điểm mới mang tính nhận thức đúng hơn về việc pháp luật phá sản không chỉ bảo vệ quyền lợi của chủ nợ mà còn bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp, hợp tác xã rơi vào tình trạng phá sản.

Bên cạnh đó, Luật Phá sản năm 2014 quy định theo hướng mở rộng phạm vi và tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản để đảm bảo quyền lợi của mình.

Trước đây trong Luật Phá sản 2004, người lao động phải nộp đơn thông qua đại diện, thì trong luật mới, người lao động có quyền tự mình nộp đơn mà không cần phải thông qua đại diện.

Đối với công ty cổ phần, Luật Phá sản năm 2014 quy định cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn, trong Luật Phá sản mới vẫn giữ nguyên quy định này, đồng thời cũng cho phép cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu dưới 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn nếu điều lệ công ty có quy định.

3. Về thẩm quyền của Tòa ánPhù hợp với quy định của Luật tố tụng Dân sự năm 2004, Luật Phá sản

năm 2014, quy định thẩm quyền của Tòa án theo cấp, theo lãnh thổ.Nếu như Luật Phá sản năm 2004, quy định theo hướng doanh nghiệp,

hợp tác xã do cơ quan cấp nào cấp đăng ký kinh doanh thì do Tòa án cấp ấy có thẩm quyền giải quyết. Do đó, Tòa án cấp huyện chỉ có quyền giải quyết thủ tục phá sản đối với hợp tác xã do cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện cấp, còn doanh nghiệp, hợp tác xã do cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh cấp thì do Tòa án cấp tỉnh xử lý. Dẫn đến thực tế đa phần Tòa án cấp tỉnh giải quyết thủ tục phá sản đối với tất cả doanh nghiệp, liên hiệp hợp tác xã thành lập trên địa bàn, còn Tòa án cấp huyện chỉ giải quyết thủ tục phá sản đối với hợp tác xã. Việc căn cứ vào thẩm quyền đăng ký kinh doanh để quy định thẩm quyền giải quyết của Tòa án là hoàn toàn không phù hợp với các nguyên tắc pháp lý.

11

Page 13: Bài viết về Phá sản

Khắc phục những khiếm khuyết đó, Điều 8, Luật Phá sản năm 2014 quy định về thẩm quyền giải quyết phá sản của Tòa án nhân dân theo hướng loại trừ, tức là trừ những vụ việc phá sản có tình tiết đặc biệt (có yếu tố nước ngoài, có địa điểm ở nhiều quận huyện khác nhau, hoặc tòa cấp tỉnh lấy lên giải quyết) thì còn lại, Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với DN, HTX có trụ sở chính tại huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đó.

Để đảm đảm bảo tính khách quan, Luật Phá sản năm 2014 bổ sung quy định về trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi Thẩm phán trong quá trình giải quyết phá sản. Đồng thời, Luật cũng bỏ quy định “Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đó”. Vì theo quy định hiện hành, tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều bình đẳng và hoạt động trong khuôn khổ luật doanh nghiệp. Tòa án cấp huyện đương nhiên có thẩm quyền giải quyết vụ việc phá sản của doanh nghiệp này, trừ khi nó có tài sản ở nước ngoài hoặc người tham gia thủ tục phá sản ở nước ngoài.

4. Về Hội nghị chủ nợVề Hội nghị chủ nợ cũng có nhiều điểm mới, theo quy định của Luật

Phá sản năm 2014, điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ được quy định tại Điều 79, theo đó, chỉ căn cứ trên số nợ. Điều này có nghĩa là Hội nghị chủ nợ có thể hợp lệ khi chỉ cần một chủ nợ tham gia mà đại diện cho ít nhất 51% số nợ không có bảo đảm. Có thể thấy so với điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ trong Luật phá sản năm 2004, số chủ nợ tham gia hội nghị không phải là điêu kiện để hội nghị hợp lệ. Mặt khác, việc tham gia có thể là không trực tiếp.

Theo hướng này, điều kiện hợp lệ của hội nghị chủ nợ thông qua phương án thu hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã cũng quy định chỉ theo số nợ. Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ được thông qua khi có quá nửa tổng số chủ nợ không có bảo đảm có mặt và đại diện cho từ 65% tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành. Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ có hiệu lực ràng buộc đối với tất cả các chủ nợ. Như vậy,

12

Page 14: Bài viết về Phá sản

nghị quyết của Hội nghị chủ nợ có được thông qua hay không phụ thuộc vào số nợ mà không dựa vào số chủ nợ có mặt.

Luật Phá sản năm 2014 còn cho phép lập Ban đại diện chủ nợ thay mặt cho các chủ nợ thực hiện giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ, đề xuất với Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản về việc thực hiện Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ. Trường hợp Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản không thực hiện đề xuất thì Ban đại diện chủ nợ có quyền thông báo bằng văn bản với Thẩm phán phụ trách giải quyết phá sản.

Thời hạn thực hiện phương án hồi phục hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán sẽ do Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ quyết định. Nếu Hội nghị chủ nợ không quyết định được thời hạn chính xác thì thời hạn thực hiện phương án hồi phục hoạt động kinh doanh là không quá 3 năm kể từ ngày Hội nghị chủ nợ thông qua phương án hồi phục hoạt động kinh doanh.

5. Về chế định quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản

Luật phá sản năm 2014 thay thế quy định tổ quản lý, thanh lý tài sản bằng một chế định hoàn toàn mới là Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.

Nếu như ở Luật Phá sản 2004 quy định việc quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản do Tổ quản lý, thanh lý tài sản thực hiện được thành lập bởi quyết định của Thẩm phán đồng thời với quyết định mở thủ tục phá sản. Thành phần của Tổ quản lý, thanh lý tài sản gồm “Một chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm Tổ trưởng; Một cán bộ của Toà án; Một đại diện chủ nợ; Đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản; Đại diện công đoàn, đại diện người lao động, đại diện các cơ quan chuyên môn nếu cần thiết”.

Luật phá sản năm 2014 quy định về Quản tài viên được hiểu là người hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản. Có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (nhưng hải là Doanh nghiệp tư nhân hoặc Công ty hợp danh). Luật còn quy định cá nhân,

13

Page 15: Bài viết về Phá sản

doanh nghiệp được hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản, gồm: Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.

Quản tài viên là luật sư, kiểm toán viên, người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, kế toán, tài chính, ngân hàng và có kinh nghiệm 5 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo được cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên.

DN quản lý, thanh lý tài sản gồm: Công ty hợp danh có tối thiểu 2 thành viên hợp danh là quản tài viên, tổng giám đốc hoặc giám đốc của công ty hợp danh là quản tài viên; DN tư nhân có chủ DN là quản tài viên, đồng thời là giám đốc.

Như vậy, Luật Phá sản 2014 đã quy định quản tài viên; doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là một nghành nghề kinh doanh có điều kiện (Điều 12, 13). Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện nhiệm vụ (i) quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán; (ii) Đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không có người đại diện theo pháp luật; (iii) Báo cáo về tình trạng tài sản, công nợ và hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã, tham gia xây dựng kế hoạch phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán; (iv) yêu cầu Thẩm phán tiến hành một số công việc cần thiết.

Dễ nhận thấy, quy định mới này tạo ra sự khách quan, chuyên nghiệp trong quá trình quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, đảm bảo thực hiện đúng trình tự quy định của pháp luật. Việc xây dựng chế định chủ thể quản lý, thanh lý tài sản là cá nhân, pháp nhân là một bước thay đổi cơ bản trong Luật Phá sản 2014.

6. Về việc thay đổi trình tự trong thủ tục phá sảnNếu như Luật phá sản năm 2004 quy định thủ tục phá sản gồm bốn

bước cụ thể theo trình tự: Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, phục hồi, tuyên bố phá sản, thanh lý tài sản. Thì Luật phá sản năm 2014 quy định trình tự hai bước cuối ngược lại; nghĩa là việc thanh lý tài sản phải diễn ra sau khi Tòa án tuyên bố phá sản với doanh nghiệp, hợp tác xã. Quy định này, nhìn chung là phù hợp với pháp luật Dân sự hơn và thực tiễn chứng minh, việc thanh lý tài sản sẽ có căn cứ rõ ràng hơn khi có quyết định tuyên bố phá sản

14

Page 16: Bài viết về Phá sản

từ phía Tòa án. Đây là điểm mới được đánh giá là khoa học trong việc hoàn thiện quy định pháp luật phá sản.

7. Về quy định tiền lãi đối với các khỏan nợLuật Phá sản 2004 có quy định về xử lý các khoản nợ chưa đến hạn

nhưng lại chưa có quy định cụ thể về việc xác định khoản lãi đối với các khoản nợ chưa đến hạn và các khoản nợ mới phát sinh trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản. Như vậy, để tránh dẫn đến tình trạng áp dụng không thống nhất về việc tính các khoản lãi của các khoản nợ, Luật Phá sản năm 2014 đã bổ sung một số những quy định mới sau:

• Kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, các khoản nợ được tiếp tục tính lãi theo thỏa thuận nhưng được tạm dừng việc trả lãi.

Trường hợp Thẩm phán ra quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản trong trường hợp kể từ ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản đến trước ngày ra quyết định tuyên bố DN, HTX phá sản, nếu DN, HTX không mất khả năng thanh toán thì Tòa án nhân dân ra quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản; đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh trong các trường hợp: DN, HTX đã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh; DN, HTX không thực hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh; Hết thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh nhưng DN, HTX vẫn mất khả năng thanh toán thì việc tạm dừng trả lãi chấm dứt, các bên tiếp tục thực hiện việc trả lãi theo thỏa thuận.

• Đối với khoản nợ mới phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản đến thời điểm tuyên bố DN, HTX phá sản thì tiền lãi của khoản nợ đó được xác định theo thỏa thuận nhưng không trái với quy định của pháp luật.

• Kể từ ngày ra quyết định tuyên bố DN, HTX phá sản thì khoản nợ không được tiếp tục tính lãi.

8. Về tuyên bố phá sản theo thủ tục rút gọnĐây là một quy định mới thể hiện tính linh hoạt của Luật phá sản năm

2014 so với Luật phá sản năm 2004. Theo đó, trường hợp người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định tại Khoản 3, Khoản 4, Điều 5 Luật Phá sản 2014 mà doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, không còn

15

Page 17: Bài viết về Phá sản

tiền, tài sản khác để nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản thì nộp đơn ghi rõ yêu cầu Tòa án giải quyết phá sản theo thủ tục rút gọn.

Đơn yêu cầu mở thụ tục phá sản và các tài liệu kèm theo phải đúng quy định tại Điều 28 Luật Phá sản 2014 và có đầy đủ căn cứ chứng minh DN, HTX không còn tiền, tài sản khác để nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản.

Đối với trường hợp này, thủ tục phá sản được giải quyết nhanh chóng. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Tòa án thông báo cho người tham gia thủ tục phá sản về việc Tòa án giải quyết phá sản theo thủ tục rút gọn, Tòa án xem xét, tuyên bố DN, HTX phá sản hoặc tiếp tục giải quyết theo thủ tục thông thường và thông báo cho người tham gia thủ tục phá sản biết.

Xem xét đơn đề nghị, kiến nghị theo thủ tục đặc biệt, đây cũng là thủ tục mới mà Luật Phá sản năm 2004 không có.

Về thủ tục nộp đơn: Người tham gia thủ tục phá sản, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản. Về thẩm quyền xem xét đơn: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Về căn cứ xem xét: Tòa án xem xét đơn đề nghị, kiến nghị theo thủ tục đặc biệt khi có một trong hai căn cứ sau: 1. Có vi phạm nghiêm trọng pháp luật về phá sản; 2. Phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định tuyên bố phá sản mà Tòa án nhân dân, người tham gia thủ tục phá sản không thể biết được khi Tòa án nhân dân ra quyết định.

9. Về bổ sung quy định về việc phá sản đối với tổ chức tín dụngSo với Luật phá sản năm 2004, Luật phá sản năm 2014 bổ sung thêm

một chương VIII quy định về Thủ tục phá sản tổ chức tín dụng. Theo đó gồm các quy định cụ thể về áp dụng quy định về thủ tục phá sản tổ chức tín dụng; quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với tổ chức tín dụng; hoàn trả khoản vay đặc biệt; thứ tự phân chia tài sản; trả lại tài sản nhận ủy thác, nhận giữ hộ khi tổ chức tín dụng bị tuyên bố phá sản và thanh lý tài sản phá sản; giao dịch của tổ chức tín dụng trong giai đoạn kiểm soát đặc biệt; quyết định tuyên bố tổ chức tín dụng phá sản. Trong đó, có một số điểm đáng chú ý như sau:

16

Page 18: Bài viết về Phá sản

Về việc trả lại tài sản nhận ủy thác, nhận giữ hộ khi tổ chức tín dụng bị tuyên bố phá sản và thanh lý tài sản phá sản: Luật phá sản năm 2014 quy định trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố tổ chức tín dụng phá sản, chủ sở hữu tài sản ủy thác cho tổ chức tín dụng, gửi tổ chức tín dụng giữ hộ, giao tổ chức tín dụng quản lý thông qua hợp đồng ủy thác, giữ hộ, quản lý tài sản phải xuất trình giấy tờ chứng minh quyền sở hữu và hồ sơ, giấy tờ liên quan với cơ quan thi hành án dân sự để nhận lại tài sản của mìnhThứ sáu, về giao dịch của tổ chức tín dụng trong giai đoạn kiểm soát đặc biệt: Luật phá sản 2014 quy định về giao dịch bị coi vô hiệu nhằm ngăn chặn trường hợp doanh nghiệp cố tình tẩu tán tài sản trước phá sản, đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ của tổ chức bị phá sản. Tuy nhiên, đối với tổ chức tín dụng trong giai đoạn kiểm soát đặc biệt, các giao dịch tổ chức tín dụng được thực hiện dưới sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước là Ngân hàng nhà nước và đều là những giao dịch cần thiết cho việc đảm bảo khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng. Do đó, Luật phá sản 2014 quy định giao dịch của tổ chức tín dụng thực hiện trong giai đoạn Ngân hàng nhà nước áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt hoặc áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán dưới sự kiểm soát của ngân hàng Nhà nước sẽ không áp dụng quy định về giao dịch vô hiệu.

Về quyết định tuyên bố tổ chức tín dụng phá sản: Luật phá sản năm 2014 quy định Tòa án không áp dụng thủ tục Hội nghị chủ nợ và thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản lập xong danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ, bảng kê tài sản của tổ chức tín dụng, Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố tổ chức tín dụng phá sản. Quy định này nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết phá sản tổ chức tín dụng, đảm bảo quyền và lợi ích cho các chủ nợ của tổ chức tín dụng và phù hợp đặc thù của tổ chức tín dụng.

17

Page 19: Bài viết về Phá sản

C – KẾT LUẬN

Nhìn chung, những điểm mới của Luật phá sản năm 2014 đã phần nào đã linh hoạt hơn, bảo vệ lợi ích không chỉ với các chủ nợ mà còn bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp, hợp tác xã rơi vào tình trạng phá sản. Khắc phục được nhiều hạn chế, bất cập trong quy định của Luật phá sản năm 2004, Luật phá sản 2014 giúp cho quá trình áp dụng pháp luật phá sản vào đời sống hiệu quả hơn. Tuy mới chỉ có hiệu lực tính đến nay là 05 tháng nhưng nó đã đạt được những ưu điểm nhất định trong thực tiễn triển khai thể hiện ở khâu thủ tục linh hoạt hơn rất nhiều so với trước. Tuy vậy, chúng ta hãy cùng nhìn vào thực tiễn trong thời gian tới, để đánh giá xem những điểm mới của Luật phá sản năm 2014 đã phù hợp nhu cầu thực tiễn hiện nay chưa?

18

Page 20: Bài viết về Phá sản

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật phá sản năm 2004.

2. Luật phá sản năm 2014.

3. Nghị định số 05/2010/NĐ-CP quy định về việc áp dụng Luật phá sản đối với các tổ chức tín dụng.

4. Giáo trình Luật Thương Mại, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân.

5. PGS.TS Dương Đăng Huệ, Pháp luật phá sản của Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, 2005.

6. TS. Nguyễn Thái Phúc – Đại học Luật TPHCM, Luật phá sản năm 2004: Những tiến bộ và hạn chế.

19