Upload
lykiet
View
215
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
BAN QUẢN LÝ DỰ ÁN 11-P04-VIE
-----------------
Dự án
NGHIÊN CỨU THUỶ TAI DO BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
VÀ XAY DỰNG HỆ THỐNG THÔNG TIN NHIỀU BÊN THAM GIA
NHẰM GIẢM THIỂU TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG
Ở BẮC TRUNG BỘ VIỆT NAM (CPIS) Mã số: 11.P04.VIE
(Thuộc Chương trình thí điểm hợp tác nghiên cứu
Việt Nam - Đan Mạch 2012-2015)
BÁO CÁO KẾT QUẢ THỰC HIỆN NĂM 2013-2014
Nội dung 4: Bước đầu đánh giá tính dễ bị tổn thương tại xã Hưng Nhân,
Hưng Nguyên, Nghệ An và xã Yên Hồ, Đức Thọ, Hà Tĩnh
Nhóm nghiên cứu: WP5
Chủ dự án: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Giám đốc dự án: GS. TS. Phan Văn Tân
Người thực hiện: ThS. Nguyễn Phương Thảo
1
CHUYÊN ĐỀ 6
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG
TẠI XÃ HƯNG NHÂN, HƯNG NGUYÊN, NGHỆ AN VÀ
XÃ YÊN HỒ, ĐỨC THỌ, HÀ TĨNH
Người thực hiện: Nguyễn Phương Thảo
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam là một trong những quốc gia hứng chịu nhiều thiên tai nhất thế giới.
Xét về mức độ ảnh hưởng và số người bị ảnh hưởng bởi thiên tai, Việt Nam
đứng trong danh sách 15 nước rủi ro nhất thế giới (World Bank, 2010). Một
nghiên cứu ở miền Nam Việt Nam chỉ ra nhu cầu cấp thiết phải hiểu được khung
cơ chế và quá trình thích ứng ở địa phương (Bastakoti et al., 2014). Trong một
nghiên cứu khác ở lưu vực sông Mekong, biến đổi khí hậu (BĐKH) đã gây ra
những tác động mạnh mẽ tới chiến lược sinh kế của người dân nơi đây. Khoảng
10% số hộ gia đình từ bỏ sản xuất nông nghiệp do BĐKH và dưới 5% quyết định
di cư. Vì thế rất cần thiết phải đánh giá được tính dễ bị tổn thương của các cộng
đồng chịu ảnh hưởng bởi BĐKH.
Trong chuyên đề này, những đánh giá bước đầu về tính dễ bị tổn thương
của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh được xem xét sử dụng số liệu điều tra hộ gia
đình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá bước đầu tính dễ bị tổn thương của các hộ, chú trọng vào các hộ
nghèo ở hai địa bàn nghiên cứu thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm ra những nét chung trong chiến lược thích ứng của các địa phương
2
- Đánh giá mối quan hệ giữa tính dễ bị tổn thương của hộ nghèo và tác
động (tác động nhận thức) do BĐKH
- Phân tích các sinh kế thay thế của các hộ và chính quyền địa phương.
Tập trung vào hộ nghèo để tìm ra sinh kế thay thế của họ.
- Phân tích mối quan hệ với tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu với
tình trạng xã hội của các hộ, sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo do
BĐKH.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích và tổng quan tài liệu: phương pháp này được sử dụng
trong giai đoạn đầu giúp làm rõ cơ sở lý luận, xác định đề tài, hướng tiếp cận đề
tài hợp lý.
Phương pháp điều tra xã hội học: phỏng vấn hộ gia đình thôn 1, 2 xã Hưng
Nhân và thôn 5 xã Yên Hồ.
hương pháp thống kê, phân tích: được thực hiện trong giai đoạn tổng hợp,
thống kê số liệu thu thập bằng exel, phần mềm epidata và SPSS, thông qua số
liệu thống kê để có cơ sở phân tích, đánh giá các tiêu chí cần thiết trong quá trình
báo cáo.
3
PHẦN NỘI DUNG
1. Tính dễ bị tổn thương do BĐKH
Ủy ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC) trong bản báo cáo đánh giá thứ
ba đã định nghĩa tính dễ bị tổn thương do BĐKH là một hàm của 3 biến: sự phơi
lộ, tính nhạy và khả năng thích ứng. Định nghĩa này có thể áp dụng trong nghiên
cứu tính dễ bị tổn thương do lũ lụt. Reed et al. (2013) đã đưa ra ví dụ như sau:
Những ngôi nhà không kiên cố dễ bị phá hủy bởi lũ lụt hơn những ngôi nhà kiên
cố (tính nhạy), người nghèo có xu hướng sống ở những nơi rủi ro hơn (phơi lộ),
những hộ gia đình có thu nhập thấp thường khó để phục hồi hoặc di chuyển đến
những địa điểm an toàn hơn (khả năng thích ứng).
Kelly và Adger (2000) giả định rằng người nghèo không chỉ chịu ảnh
hưởng bởi những thảm họa mà còn bởi những điều kiện xã hội nơi họ sống.
Ngoài sự nghèo đói và bất bình đẳng, cơ chế thích ứng cũng nên được thêm vào
trong phân tích tính dễ bị tổn thương. Căn cứ vào nhận định của Kelly and
Adger, O’Brien et al. (2008) đã phân biệt hai phạm trù tính dễ bị tổn thương với
điểm kết thúc và điểm bắt đầu. Füssel và Klein (2006) đã phân biệt giữa các
đánh giá tính dễ bị tổn thương thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai. Thế hệ thứ hai
bao gồm các nhân tố phi khi hậu như sự đa dạng sinh kế, trình độ giáo dục, mạng
lưới xã hội. Tính dễ bị tổn thương là mọt hàm của xã hội, kinh tế, môi trường,
chính trị, công nghệ và mức độ phụ thuộc trong phân tích (Vincent, 2007).
Một trong những thách thức lớn nhất là xác định cách tiếp cận phù hợp với
các mối quan hệ phức tạp giữa các yếu tố khí hậu và các sức ép khác của đời
sống. Reed et al. (2013) đã nghiên cứu các cách tiếp cận đương thời và bình luận
về từng loại trong số đó. Có một cách tiếp cận dựa vào sinh kế rất khả thi để
đánh giá năng lực thích ứng của hộ gia đình. Mặc dù có rất nhiều ưu điểm nhưng
phương pháp này cũng có nhiều trở ngại để thực hiện, đó là thiếu sự linh hoạt. sự
4
tiếp cận với thị trường là chìa khóa trong cách tiếp cận này chứ không phỉa
những điều kiện về thời tiết, khí hậu. Đây cũng là một trở ngại trong đánh giá.
Một trong những đóng góp của Turner và Daily (2008) là đã bao hàm yếu
tố sinh thái và kinh tế trong các đánh giá về tính dễ bị tổn thương. Công cụ mà
họ đề xuất là những tính toán dựa trên giá cả không chính thức, thể hiện nhu cầu
bảo vệ trong một số điều kiện nhất định.
Các tác giả cho đến nay chưa đưa ra được một phương án thay thế khả thi
cho các cách tiếp cận hiện nay để tránh khỏi những hạn chế trong việc quá đề
cao nhận thức của từng bên liên quan như một nhân tố ảnh hưởng tới chiến lược
thích ứng. Mặc dù không thực sự là mới nhưng các tác giả đã hoàn toàn đúng
đắn trong việc đề cao nhu cầu phải có sự hiểu biết về cách các cá nhân đánh giá
những quan điểm khác nhau trong bối cảnh cụ thể của họ.
Việc sử dụng các chỉ số để đánh giá tính dễ bị tổn thương do BĐKH đang
được nhiều nhà nghiên cứu áp dụng để giải quyết vấn đề phức tạp trong các mối
quan hệ giữa BĐKH và các nhân tố khác. Ahsen và Warner (2014) với mục tiêu
đánh giá việc tính dễ bị tổn thương được quy định như thế nào bởi các yếu tố xã
hội và kinh tế - xã hội đã mô tả sự thay đổi ở vùng nông thôn Bangladesh. Năng
lực thích ứng bao gồm các dữ liệu về tỉ lệ mù chữ và tỉ lệ dân số tham gia vào
việc xây dựng đập. Tỉ lệ dân số sống dưới mức nghèo khổ là một trong những
nhân tố chính trong việc đánh giá tính nhạy. Độ phơi lộ được xác định bằng tỉ lệ
số hộ không có nơi trú ẩn. Do đó, các tác giả này đã đi đến kết luận tính nhạy và
sự phơi lộ đóng vai trò quan trọng nhất trong đánh giá tính dễ bị tổn thương. Một
trong những thuận lợi của việc sử dụng các chỉ số trong đánh giá là sự độc lập
với các dữ liệu thứ cấp, yếu tố mà thường bị thổi phồng lên nếu có các lỗi trong
đánh giá.
Các chỉ số đánh giá rủi ro cung cấp một công cụ khách quan nhưng chỉ
phản ánh được một thời điểm chứ không thể hiện được bức tranh toàn cảnh về
5
vấn đề và những quá trình ẩn sau tính dễ bị tổn thương của mỗi địa phương
(Vincent and Cull, 2014).
Nếu việc sử dụng chỉ số gặp những hạn chế về việc cung cấp một cái nhìn
toàn cảnh về những tác động lâu dài thì những cách tiếp cận khác có thể kết hợp
được giữa tính dễ bị tổn thương và khả năng phục hồi. Maru và các cộng sự
(2014) đã phát triển một khung đánh giá khép kín tính dễ bị tổn thương và khả
năng phục hồi bao gồm cả hai khía cạnh của các cuộc tranh luận về BĐKH đối
với những người sống ở vùng sâu vùng xa, đó là khả năng phục hồi đáng kể của
họ và tính dễ bị tổn thương cao đối với BĐKH (cả tính dễ bị tổn thương và khả
năng phục hồi đều cao). Ở Boswana, chính phủ đã quyết định đào lỗ khoan và
giới thiệu các chương trình định cư ở vùng sâu vùng xa dẫn đến sự gia tăng tính
dễ bị tổn thương. Mặc dù ý định là tốt, nhưng việc thiếu khả năng tiếp cận tài
chính và mất đất đã khiến cho cuộc sống của người dân địa phương trong các sa
mạc Kalahari trầm trọng thêm. Ngược lại, thổ dân ở miền trung Australia được
khuyến khích sử dụng kiến thức của chính họ trong quản lý cháy rừng. Các tác
giả nhấn mạnh sự khác biệt giữa các yếu tố ngắn hạn trước khả năng dễ bị tổn
thương so với khả năng phục hồi hệ sinh thái dài hạn. Mặc dù ít được thảo luận
trong bài viết, nhưng những quyết định bao gồm hoặc loại trừ của chính phủ đối
với người dân trong kế hoạch quản lý. Trong nghiên cứu về tính dễ bị tổn thương
ở Bắc Trung Bộ, chúng tôi áp dụng cách tiếp cận nhằm cố gắng thảo luận liệu
các hộ nghèo có bị rơi vào vòng luẩn quẩn của tính dễ bị tổn thương hay khả
năng phục hồi?
2. Tính dễ bị tổn thương do BĐKH ở miền Trung và miền Nam
Tính dễ bị tổn thương do lũ là một thiên tai phổ biến nhất mà dân cư
ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình phải đối mặt. WB chưa đưa ra một
định nghĩa chính xác trong các báo cáo của mình về các khía cạnh xã hội của
6
BĐKH. Các báo cáo của WB chỉ dựa vào phân biệt tính dễ bị tổn thương do lũ
nói chung với lũ nhanh (World Bank, 2010).
Với mục tiêu xác định tính dễ bị tổn thương do lũ một cách chính xác và
lập bản đồ những khu vực dễ bị tổn thương nhất ở Nghệ An, Veenstra (2013) đã
chỉ ra những thuận lợi của việc sử dụng chỉ số. Một trong những thách thức lớn
nhất là câu hỏi có nên sử dụng trọng số hay không. Sự phơi lộ, tính nhạy và thiếu
khả năng phục hồi là những tiêu chí chính trong phân tích – đây là một sự khác
biệt nhỏ so với định nghĩa của IPCC. Một cuộc điều tra hộ gia đình đã được tiến
hành để nghiên cứu về các khu vực bị ảnh hưởng, nhận thức của dân cư về nguy
cơ ngập lụt, khả năng sơ tán của người dân trong thời gian ngắn, và cuối cùng là
khả năng tiếp cận những hỗ trợ tài chính. Các hộ gia đình được hỏi để xác định
mức độ dễ bị tổn thương theo thang đánh giá từ 1 đến 5. Một đặc điểm mới trong
tính toán chỉ số tính dễ bị tổn thương do ngập lụt là bao gồm cả mức độ ngập lụt
theo những khu vực địa lí cụ thể. Mặc dù bao phủ khu vực nghiên cứu gồm 23
xã ở Nghệ An, nhưng kết quả cho thấy ít có sự phân dị giữa các xã.
Trong các thảo luận về thiên tai ở Quảng Bình, các tác giả Nguyen và
Coulier (2012) đã phát hiện một mối quan hệ thuận giữa số lượng thiên tai và các
tác động tiêu cực đối với sinh kế của hộ gia đình mặc dù xu hướng trên thực tế
không ổn định và không rõ ràng lắm (Hình 1). Tùy vào loại thiệt hại, tính dễ bị
tổn thương khác nhau giữa từng huyện. Xét về mức độ mất đất nông nghiệp, hai
huyện bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi thiên tai là Quảng Ninh.
Hình 1. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại (ha)
giai đoạn 1997 - 2010
7
Việc phát triển ở đồng bằng sông Cửu Long một cách có chủ ý để
giúp người dân địa phương chống lại miền Bắc Việt Nam trong chiến tranh
chống Mỹ và các dự án thủy lợi quy mô lớn đã gây ra biến đổi lớn về cảnh quan
và cuộc sống của người dân sống vùng đồng bằng (Miller, 2014). Sự can thiệp
vào hệ thống thủy văn, bao gồm xây dựng đập, sự gia tăng sản xuất lúa gạo đã
thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế chung và góp phần vào giảm tỷ lệ đói nghèo
ở vùng đồng bằng. Mặc dù có những dấu hiệu phát triển tích cực, song sự độc
canh và phụ thuộc cao vào việc tiếp cận nguồn nước trong mùa khô làm cho
nhiều hộ gia đình gia tăng nguy cơ rủi ro. Phù hợp với những gì đã được chứng
kiến từ các cuộc phỏng vấn được tiến hành trong khu vực nghiên cứu ở Bắc
Trung Bộ, các nghiên cứu khác nhấn mạnh vào xu hướng thất thường của giá
gạo đầu ra so với giá đầu vào, chỉ ra sự gia tăng nguy cơ liên tục trong trồng lúa
(Trần và các cộng sự, 2013). Một khi đất được phát triển để phù hợp với sản xuất
lúa thì sẽ không thể cải tạo để cho cây trồng khác năng suất cao hơn, như trà hay
cà phê (giai đoạn 2010-2012).
8
Phương pháp tiếp cận của Birkman (2011) đã tăng tính phức tạp trong việc phân
biệt giữa các chiên lược thích nghi và ứng phó. Chiến lược đối phó liên quan đến
một loại thiên tai cụ thể, trong khi thích ứng là một chiến lược có chủ ý để thay
đổi bối cảnh hiện tại và chỉ có thể khả thi trong trường hợp thay đổi thể chế. Ví
dụ việc xây dựng đê thường được coi là một dấu hiệu tích cực của việc thích
ứng, nhưng mặt khác, việc này làm giảm sản lượng và do đó các hộ gia đình phụ
thuộc vào cá cần thay đổi chiến lược sinh kế của họ (đồng bằng sông Cửu Long
là một trường hợp điển hình). Tương tự như vậy, việc chuyển sang hoạt động
kinh tế phi nông nghiệp được coi là một chiến lược đối phó tích cực với hầu hết
các nhà nghiên cứu, nhưng nếu các hộ gia đình không nắm vững các kỹ năng để
chuẩn bị cho các tình huống công việc mới họ sẽ không thể thay đổi sinh kế
(thích ứng) và họ phải đấu tranh để đối phó với điều kiện sống khó khăn.
Trong một nghiên cứu về chuyển đổi sử dụng đất ở tỉnh Nghệ An, Leisz và các
cộng sự (2011) kết luận, bất cứ chỉ thị nào mới của chính phủ quy định về việc
thay đổi phương pháp canh tác dưới do BĐKH thì cũng không bao giờ đạt được
sự thống nhất hoàn toàn. Các thôn, làng, ấp, bản có sự phản ứng khác nhau, và
trong những hoàn cảnh nhất định họ thậm chí từ chối đề nghị của chính phủ. Cho
dù kế hoạch của chính phủ được thực hiện theo các chỉ thị phụ thuộc vào mối
quan hệ giữa các thôn/làng và các quan chức địa phương. Người dân địa phương
coi các yếu tố thị trường cũng quan trọng như quy định của chính phủ.
3. Những điểm chung về tính dễ bị tổn thương và chiến lược thích ứng của
địa phương ở 2 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh
3.1. Giới thiệu địa bàn nghiên cứu
Tổng số có 470 hộ gia đình được phỏng vấn ở ba tỉnh (Nghệ An, Hà
Tĩnh và Quảng Bình), cụ thể hơn là ở ba xã. Mục đích chính là để thu thập dữ
liệu về các nguồn thu nhập (nông nghiệp và phi nông nghiệp), nhận thức của các
hộ gia đình dễ bị tổn thương và cách họ phản ứng với những thay đổi trong sản
9
xuất nông nghiệp. Nhìn chung, các hộ gia đình khó có thể nhớ chính xác thu
nhập của họ qua các năm và do đó, họ chỉ được hỏi về thu nhập của năm 2013.
Ngoài ra, để có được cái nhìn về sự thay đổi theo thời gian, ccác hộ được hỏi
xem liệu họ cảm thấy mình giàu hơn hay nghèo hơn từ năm 2008-2013.
Trong năm 2010, các hộ gia đình sống ở các vùng ven biển của tỉnh
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình phải hứng chiu hai loại hình thiên tai trái ngược
nhau: hạn hán trong tháng Sáu và tháng Bảy và hai trận lũ liên tiếp trong tháng
Mười. Đợt nóng từ ngày 12 - ngày 20 Tháng Sáu làm chết khoảng 30.000 ha lúa
hè thu. Lũ lụt do mưa lớn (800 - 1.658 mm) vào tháng Mười gây thiệt hại
nghiêm trọng ở ba tỉnh: hơn 155.000 ngôi nhà bị ngập và hàng ngàn người bị ảnh
hưởng, 66 người chết. Năm 2013, một cơn bão khác đổ bộ vào Quảng Bình.
Tại mỗi tỉnh, chúng tôi đã chọn một xã điển hình bị ảnh hưởng bởi
thủy tai để điều tra sự tác động. Xã Hưng Nhân (tỉnh Nghệ An), xã Yên Hồ (tỉnh
Hà Tĩnh) và xã Võ Ninh (tỉnh Quảng Bình) đã được lựa chọn để nghiên cứu.
Hưng Nhân là xã nằm hoàn toàn ngoài đê với địa hình bằng phẳng,
độ cao trung bình là 2,5m. Sinh kế chính của người dân ở đây là nông nghiệp.
Mưa lớn do bão cùng với địa hình thấp khiến cho lụt ở đây xảy ra rất thường
xuyên với đặc điểm nước dâng nhanh và rút cũng nhanh, thường chỉ trong 2
ngày. Trong trận lụt lớn gần đây nhất là vào năm 2010, lượng mưa trung bình
300mm làm nước sông Lam dâng nhanh và phá hủy gần như hoàn toàn diện tích
sản xuất nông nghiệp của xã. Về mặt hành chính, toàn xã Hưng Nhân có 9 thôn.
Trong đó, thôn 1 (74 hộ gia đình) và thôn 2 (114 hộ gia đình) là bị ảnh hưởng
nặng nhất do nằm ở khu vực địa hình thấp nhất. Hai thôn này hầu như năm nào
cũng bị lụt. Do đó, các nghiên cứu về khả năng thích ứng đã tập trung vào 2 thôn
này.
Trái với Hưng Nhân, Yên Hồ là một xã nằm hoàn toàn trong đê với địa
hình trũng thấp của huyện Đức Thọ. Mặc dù nằm trong đê nhưng xã này thường
10
xuyên bị ngập do hệ thống thủy lợi hoạt động kém. Tại Yên Hồ có 2 cống thoát
nước (Trung Lương và Đức Xá), tuy nhiên, sự hoạt động của chúng chưa đáp ứng
được nhu cầu thực tế. Điều này dẫn tới hiện trạng là nếu mưa lớn hơn 200mm thì
nước ở song Lam sẽ cao hơn nước bên trong đê (cao hơn khoảng 50mm). Do đó,
phải đóng cống Trung Lương và nước không thể thoát qua đó, và hiển nhiên sẽ
gây ra ngập lụt cục bộ. Thời gian ngập thường lâu hơn Hưng Nhân từ 3 – 6 ngày.
Yên Hồ có 6 thôn, trong đó thôn 5 (202 hộ) và thôn 6 (205 hộ) bị ngập nặng
nhất. So với các thong khác, hai thôn này nằm ở vị trí trũng nhất. Yếu tố này
cùng với sự hoạt động không hiệu quả của hệ thống thoát nước khiến cho 2 thôn
này trở thành vùng bị ngập thường xuyên nhất của vùng hạ lưu. Thôn 5 đã được
lựa chọn để nghiên cứu năng lực thích ứng cũng do nguyên nhân này.
3.2. Tính dễ bị tổn thương và những chiến lược thích ứng chung của các địa
phương
3.2.1. Hưng Nhân
Chính quyền xã Hưng Nhân hỗ trợ mỗi hộ nghèo để có được một khoản vay 10
triệu đồng không lãi suất trong 10 năm để xây dựng chòi làm nơi trú ẩn của trâu
bò. Năm 2013, xã Hưng Nhân nhận được sự hỗ trợ xây dựng 50 chòi từ huyện
Hưng Nguyên. Chính sách này cho phép mọi người, nhất là người nghèo bảo vệ
tài sản của họ trong thời gian lũ lụt.
3.2.2. Yên Hồ
Các hộ dần chuyển sang nuôi cá thay vì trồng lúa ở các ruộng trũng do hiệu quả
kinh tế cao hơn. Các hộ phải đào ruộng thành ao để nuôi cá, sau đó, khi hợp
đồng thuê đất 5 năm kết thúc họ lại phải lấp ao để trả lại ruộng cho xã. Điều này
đã gây ra những trở ngại cho người dân trong quá trình chuyển đổi sản xuất.
4. Tác động của BĐKH đối với người nghèo
Chúng ta có thể dự đoán những người dân bị ảnh hưởng sẽ có thể
phản ứng khác nhau với những nguy cơ từ khí hậu. Lũ lụt là nguy cơ đe dọa
chính từ BĐKH đối với các hộ nghèo. Họ thường phụ thuộc hoàn toàn vào việc
trồng lúa và do đó có nguy cơ bị ảnh hưởng nhiều hơn những gia đình giàu có
11
với nguồn thu nhập đa dạng. Hơn nữa, các hộ gia đình bị ảnh hưởng nhất bởi
biến đổi khí hậu có thể chọn không tham gia sản xuất nông nghiệp hoặc phải đối
mặt với giảm thu nhập theo thời gian. Tuy nhiên, chuyển sang hoạt động kinh tế
phi nông nghiệp gần như là không khả thi đối với các gia đình lao động phổ
thông (Birkman, 2011). Những gia đình quyết định từ bỏ sản xuất nông nghiệp
hầu như là người giàu và có các phương án khác để có thêm thu nhập theo ý
muốn.
Để đánh giá ảnh hưởng của tính dễ bị tổn thương tới thu nhập, điều
tra thực địa đã đề cập đến những câu dưới đây: 'Ông/bà đánh giá các yếu tố sau
ảnh hưởng tới sinh kế của mình như thế nào?”. Các hộ được được yêu cầu trả lời
theo thang điểm từ 0 (không có tác động) đến 10 (ảnh hưởng rất lớn) đối với tất
cả các yếu tố tác động, bao gồm lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn và bão. Chúng tôi
xác định thấp hơn 6 là tác động thấp từ những thay đổi khí hậu, từ 6 – 8 là tác
động trung bình, và lớn hơn 8 là tác động mạnh. Trọng tâm là người dân địa
phương tự đánh giá mức độ dễ bị tổn thương của mình như thế nào khi tiếp xúc
với các thảm họa tự nhiên chứ không phải là một câu hỏi về liên kết thiên tai với
sự thay đổi khí hậu. Thậm chí nếu mối quan hệ này rất khó để kiểm tra, nhận
thức của người dân về các yếu tố khí hậu là cơ sở cho những thảo luận sau này.
Bảng 1. Mối quan hệ giữa nhận thức về sự tác động của người dân với tình
hình thu nhập
12
Tác động khi hậu và mức độ nhu nhập, 2013
Tác động Loại hộ
Cận nghèo Nghèo Còn lại Tổng
Cao 23
18.55
17
13.71
84
67.74
124
Thấp 14
10.29
14
10.29
108
79.41
136
Trung bình 22
10.48
13
6.19
175
83.33
210
Tổng 59 44 367 470
Dữ liệu theo hàng phản ánh tỉ lệ số hộ tự đánh giá bị tác động mạnh
và là những hộ nghèo (tỉ lệ hộ nghèo là 1,6%.
Bảng tương tự dưới đây thể hiện dữ liệu của năm 2008 với tỉ lệ hộ
nghèo là 28%. Điều này có thể cho thấy rằng BĐKH có xu hướng gia tăng thu
nhập của các hộ.
Bảng 1. Mối quan hệ giữa nhận thức về sự tác động của người dân
với tình hình thu nhập
Tác động khi hậu và mức độ nhu nhập, 2008
Tác động Phân loại hộ
Cận nghèo Nghèo Còn lại Tổng số
Cao 10
8.40
23
19.33
86
72.27
119
Thấp 11
8.15
19
14.07
105
77.78
135
Trung bình 19
9.05
22
10.48
169
80.48
210
Tổng 40 64 360 464
Frequency Missing = 6
13
Kiểm soát các yếu tố tác động, chúng ta có thể so sánh tình trạng
kinh tế trong năm 2008 và 2013 cho hai thái cực tác động của các yếu tố khí
hậu(tác động thấp hoặc cao).
Bảng 3. Các hộ gia đình chịu tác động thấp từ những biến đổi khí hậu
Tỉ lệ hộ nghèo và không nghèo năm 2008 và 2013 chịu tác động thấp
Yếu tố kiểm soát = Thấp
Nghèo 2008 Nghèo hiện nay
Không nghèo 2008 Nghèo 2013 Tổng
Không nghèo 2008 99
94.29
6
5.71
105
Nghèo 2008 9
29.03
22
70.97
31
Tổng 108 28 136
Bảng số liệu trên cho thấy 29% số hộ nghèo năm 2008 đã trở nên “giàu” hơn, chỉ
có 6% hộ không nghèo trở thành nghèo vào năm 2013.
Bảng 4. Các hộ gia đình chịu ảnh hưởng mạnh do BĐKH
Bảng 4. Nghèo/không nghèo năm 2008 và 2013, các hộ chịu tác động mạnh
Yếu tố kiểm soát = Cao
Nghèo 2008 Nghèo hiện nay
Không nghèo 2013 Nghèo 2013 Tổng
Không nghèo 2008 70
81.40
16
18.60
86
Nghèo 2008 14
36.84
24
63.16
38
Tổng 84 40 124
Có thể thấy từ các bảng số liệu có 19% hộ trở thành nghèo và 37% hộ thoát
nghèo trong nhóm hộ đánh giá BĐKH là “tác động mạnh” là tỉ lệ cao hơn so với
14
những hộ đánh giá là “tác động thấp”. Ở một góc độ nào đó, có thể nhìn nhận
BĐKH vừa là một thách thức vừa là một động lực đối với các hộ trong hoàn
cảnh này.
5. Chiến lược thích ứng của hộ nghèo
Nhiều hộ gia đình đã bỏ trồng lúa và hoa màu trong giai đoạn 2008 -
2013. Tổng cộng có 45 hộ gia đình có sự thay đổi về nguồn thu nhập chính. Các
nhóm còn lại của 37 hộ gia đình có thu nhập chính từ các hoạt động kinh tế phi
nông nghiệp.
Quyết định thay đổi và mở rộng nguồn thu nhập không có tương
quan gì với tác động của biến đổi khí hậu hay sự thay đổi của tình trạng đói
nghèo. Trái với cách phản ứng thông thường, các hộ gia đình nghèo bị giảm thu
nhập do các thảm họa tự nhiên không sẵn sang từ bỏ cây lúa để tham gia vào các
hoạt động kinh tế phi nông nghiệp. Nhìn chung, họ tiếp tục các hoạt động nông
nghiệp và đầu tư nhiều tiền và lao động hơn vào canh tác lúa. Ít hơn 2/3 số hộ
gia đình bị ảnh hưởng nặng nề bởi các thảm họa tự nhiên (chịu tác động mạnh)
đã phản ứng bằng cách đầu tư nhiều thời gian hơn trong sản xuất nông nghiệp,
cụ thể là trồng lúa.
Việc thiếu khả năng tiếp cận với các nguồn lực tài chính là một trở
ngại nghiêm trọng đối với các hộ nghèo. Bỏ sang một bên vấn đề tiếp cận nguồn
vốn, 35% số hộ bị ảnh hưởng mạnh nhất sẽ đầu tư vào thiết bị sản xuất tốt hơn
và khoảng 85% đầu tư vào việc mua một chiếc thuyền nếu có cơ hội. Chỉ có 16%
số hộ gia đình bị ảnh hưởng nhẹ bởi biến đổi khí hậu thể hiện sự quan tâm đầu tư
hơn nữa về thiết bị sản xuất và hầu như không có nhu cầu mua thuyền.
Tiền hỗ trợ đóng một vai trò quan trọng trong các hộ nghèo và nếu và
nếu các hộ này không đảm bảo được nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài, họ có
nguy cơ bị ảnh hưởng xấu hơn các tình huống vốn đã không được đảm bảo trong
cuộc sống. Có 31 hộ đã phản hồi rằng thu nhập của họ trong năm 2013 thấp hơn
15
so với 2008, họ cũng không nhận được tiền hỗ trợ từ họ hàng, người thân bên
ngoài. Năm 2008, 358 hộ không nhận được hỗ trợ tài chính từ bên ngoài. Năm
2013, thêm 19 hộ không nhận được hỗ trợ tài chính từ bên ngoài, trong đó có 8
hộ trở nên nghèo hơn vào 2008, chiếm 10% số hộ nghèo.
Bảng 5. Sự thay đổi về tình trạng xã hội từ 2008 – 2013 và chuyển tiền năm
2013
Số tiền được nhận
Thay đổi trong giai đoạn 2008 –
2013
Không nhận được
tiền
Nhận được
tiền Tồng
Tốt hơn 28
73.68
10
26.32
38
Không nghèo – không thay đổi 265
80.55
64
19.45
329
Nghèo – không thay đổi 61
84.72
11
15.28
72
Kém hơn 31
100.00
0
0.00
31
Tổng số 385 85 470
Những hộ gia đình chịu tác động mạnh đang phải vật lộn để duy trì
mức sống. Họ cần nhận được nhiều sự hỗ trợ đáng kể từ chính quyền. Các hộ gia
đình phần lớn đều cho rằng họ chỉ nhận được một khoản cứu trợ thiên tai rất nhỏ
từ chính quyền.
6. Thảo luận
So sánh Bảng 1 và 2, chúng ta nhận thấy một xu hướng chung trong
việc tăng thu nhập từ năm 2008 đến năm 2013. Hộ nghèo giảm đi vào năm 2013
và nhóm hộ không nghèo tăng nhẹ. Hầu hết các hộ gia đình đều bị tác động tiêu
cực ngắn hạn từ thiên tai, chủ yếu là sự thiệt hại về lúa do thiên tai vào các năm
16
2008 và sau năm 2010. Về lâu dài, năm 2013 nhìn chung các hộ gia đình đều ở
tình trạng tốt hơn so với năm 2008.
Mặt khác, các nhóm hộ gia đình bị ảnh hưởng nhất chiếm một phần
tư tổng số hộ và là nhóm trải qua sự biến động thu nhập trong giai đoạn 2008 –
2013. Hai nhóm khác (hộ gia đình bị tác động thấp và trung bình) đã dần dần
thoát nghèo trong giai đoạn này. Các hộ nghèo bị ảnh hưởng mạnh do biến đổi
khí hậu ngày càng trở nên phụ thuộc vào nguồn thu từ tiền gửi về, tuy nhiên họ
cũng không chuyển đổi sang hoạt động kinh tế khác.
Manu et al. (2014) bình luận về những phản ứng với dễ bị tổn thương
theo định hướng ngắn hạn trái ngược với phản ứng của khả năng phục hồi của hệ
thống về lâu dài. Sự gia tăng phụ thuộc vào tiền viện trợ từ bên ngoài tạo tạo nên
các hiệu ứng tiêu cực về nguồn thu từ sản xuất lúa gạo. Về mặt này, các hộ dễ bị
tổn thương có những cách ứng phó ngắn hạn, các giải pháp mang tính cá nhân sẽ
khó khả thi trong dài hạn. Các hộ gia đình chịu tác động mạnh có xu hướng tiếp
tục phụ thuộc vào trồng lúa và coi đây như chiến lược sinh kế chính của họ trong
một môi trường nơi trồng lúa có thể là vấn đề lâu dài và không có kế hoạch rõ
ràng từ chính quyền địa phương về việc thay đổi chiến lược sinh kế trong tương
lai.
7. Kết luận
Mặc dù những thảm họa thiên nhiên đã được công nhận là một yếu tố
căng thẳng đối với những người dân địa phương bởi chính họ trong khu vực
nghiên cứu, nhưng phản ứng chung với những thay đổi khí hậu thì hoàn toàn
không rõ ràng. Các hộ gia đình chủ yếu bị ảnh hưởng bởi BĐKH không chuyển
cư, họ cũng không chuyển sang các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp khác.
Trong thực tế, họ dường như còn phụ thuộc hơn vào việc trồng lúa. Ngay cả khi
phương án này có thể không hợp lý, không hiệu quả. Nhưng nếu không như vậy
thì họ cũng không có một nghề hoặc một chiến lược sinh kế thay thế nào khả thi
17
và phù hợp. Nói đơn giản hơn, họ không biết làm gì để sống. Các hộ gia đình
nghèo thiếu kỹ năng để tìm kiếm việc làm mới, trong khi chính quyền địa
phương không có những định hướng, kế hoạch để thay đổi và hỗ trợ sự thay đổi.
Nói chung, các hộ gia đình trong nghiên cứu của chúng tôi cho đến
nay tốt hơn ngày hôm nay (năm 2013) so với trước đây (2008), mặc dù các hộ
gia đình thiệt hại kinh tế phải chịu đựng trong những thời điểm thảm họa thiên
nhiên ấn tượng. Nhưng những thay đổi khí hậu dường như để tăng sự chênh lệch
về thu nhập trong làng. Điều này có lẽ không phải là một tình hình chính phủ
Việt Nam là mong muốn nhìn thấy xảy ra.
Các cấp chính quyền đang thúc đẩy các chiến lược sinh kế thay thế,
nhưng sẽ khó mà có hiệu quả nếu chính phủ không thực sự hỗ trợ chuyển đổi từ
trồng lúa sang các phương án khác (Yên Hồ là một ví dụ). Việc cứu trợ thiên tai
do các nhà chức trách, các tổ chức xã hội là rất nhỏ so với thiệt hại kinh tế, vì
vậy các hộ gia đình giàu có phản ứng bằng cách tăng thu nhập phi nông nghiệp,
thậm chí nếu sự hỗ trợ chính thức để hỗ trợ việc chuyển đổi là không thực sự
thuận lợi. Các hộ gia đình nghèo bị mắc kẹt giữa một hệ thống với hầu như
không có bồi thường, khi các thảm họa tự nhiên đổ bộ vào vùng và một bên là
việc không có chiến lược sinh kế thay thế lâu dài.
Nhìn chung, các hộ gia đình trong nghiên cứu ở Nghệ An và Hà Tĩnh
hiện nay có tình trạng kinh tế - xã hội tốt hơn so với năm 2008, mặc dù họ đã
phải hứng chịu nhiều thiên tai và biến đổi của thời tiết. Nhưng BĐKH dường
như là yếu tố làm gia tăng sự chênh lệch về thu nhập trong làng. Điều này có lẽ
không phải là điều mà các cấp chính quyền mong muốn nhìn thấy xảy ra.
18
Tài liệu tham khảo
Ahsan, Md. N., Warner, J. 2014. The socioeconomic vulnerability index: A
pragmatic approach for assessing climate change led risks- A case study in the
south-western coastal Bangladesh, International Journal of Disaster Reduction,
8: 32-49
Bastakoti, R:C., Gupta, J., Babel, M.S., van Dijk, M.P. 2014. Climate risks and
adaptation strategies in the lower Mekong river basin, Regional Environmental
Change, 14: 207-219
Birkmann, J. 2011. First- and second-order adaptation to natural hazards and
extreme events in the context of climate change, Natural Hazards, 59: 811-840
Dang, H.L., Li, E., Nuberg, I, Bruwer. J. 2014. Farmers’ assessments of private
adapative measures to climate change and influential factors: a study in the
Mekong delta, Vietnam, Natural Hazards, 71: 385-401
Füssel HM, Klein RJT (2006) Climate change vulnerability assessments: an
evolution of conceptual
Thinking,Climate Change, 75:301–329
Kelly P.M., Adger W.N. 2000. Theory and practice in assessing vulnerability to
climate changeand
facilitating adaptation,Climatic Change, 47:325–352
Leisz, S.J., Ginzburg, R.F., Nguyen, T.L., Tran, D.V., Rasmussen, K. 2011.
Geographical settings, government policies and market forces in the uplands of
19
Nghe An, pp. 115-145.In Sikor, T, Nghiem, P.T., Sowerwine, J., Romm, J.
Uplands transformations in Vietnam, National University of Singapore,
Singapore
O’Brien K., Eriksen S., Nygaard L, Schjolden A. 2008.Why different
interpretations of vulnerability matter in climate change discourses,Climate
Policy, 7:73–88
Maru, Y.T., Smith, M.S., Sparrow, A., Pinho, P.F., Dube, O.P. 2014. A linked
vulnerability and resilience framework for adaptation pathways in remote
disadvantaged communities, Global Environmental Change, 28: 337-350
Miller, F. 2014. Constructing risk: multi-scale change, livelihoods and
vulnerability in the Mekong Delta, Vietnam, Australian Geographer, 45: 309-
324
Nguyen, T.T., Coulier, M. 2012. A preliminary analysis of disaster and poverty
data in Quang Binh province, Vietnam. UNDP, Hanoi
Reed, M.S., Podesta, G., Fazey, I, Geeson, N., Hessel, R., Hubacek, K., Letson,
D., Nainggolan, D., Prell, C., Rickenbach, M.G., Ritsema, C., Schwilch, G.,
Stringer, L.C., Thomas, A.D. 2013. Combining analytical frameworks to assess
livelihood vulnerability to climate change and analyse adaptation options,
Ecological Economics, 94:66-77
Thulstrup, A.W., Casse, T., Nielsen, T.T. 2013. The push for plantations:
Drivers, rationales and social vulnerability in Quang Nam province, Vietnam,
20
pp. 71-89. In O. Bruun and T. Casse (eds.), On the Frontiers of Climate and
Environmental Change, Springer-Verlag, Berlin Heidelberg
Tran, C.T., Huong, D.L., Minh, L.N. 2013. Who has benefited from high rice
prices in Viet Nam? Oxfam, IPSARD, Hanoi
Turner,R. K.,Daily,G. C. 2008. The Ecosystem Services Framework and Natural
Capital
Conservation, Environ Resource Economics, 39:25–35
Veenstra, J. 2013. Flood vulnerability assessment on a community level in
Vietnam, Bachelor thesis, University of Twente.
Vincent, K. 2007. Uncertainty in adaptive capacity and the importance of scale,
Global Environmental Change, 17: 12–24
Vincent, K., Cull, T. 2014. Using indicators to assess climate change
vulnerabilities: Are there lessons to learn for emerging loss and damage debates?
Geography Compass, 8: 1-12