31
TRƯỜNG ĐẠI HC BÁCH KHOA HÀ NI Vin Kinh Tế Qun Lý ----------o0o---------- BÀI TP LN KINH TDU KHÍ ĐỀ TÀI LCH SGIÁ DU VÀ PHÂN TÍCH CÁC YU TTÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ DU Giáo viên hướng dn Phm Cnh Huy Bmôn Kinh tế công nghip Sinh viên thc hin Hoàng Anh Dũng Hoàng Thành Quc Trn Qunh Anh Nguyn Thành Trung Phm ThMinh Huế Nguyn ThThu Hin HÀ NI - 2012

Báo cáo kinh tế dầu khí

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Báo cáo kinh tế dầu khí

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ N ỘI Viện Kinh T ế Quản Lý

----------o0o----------

BÀI TẬP LỚN KINH T Ế DẦU KHÍ ĐỀ TÀI

LỊCH SỬ GIÁ DẦU VÀ PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ DẦU

Giáo viên hướng dẫn Phạm Cảnh Huy Bộ môn Kinh tế công nghiệp Sinh viên thực hiện Hoàng Anh Dũng Hoàng Thành Quốc Trần Quỳnh Anh

Nguyễn Thành Trung Phạm Thị Minh Hu ế

Nguyễn Thị Thu Hiền

HÀ NỘI - 2012

Page 2: Báo cáo kinh tế dầu khí

1

MỤC LỤC CHƯƠNG 1 GIỚI THI ỆU TỔNG QUAN ........................................................................3

1.1 Các khái niệm cơ bản ................................................................................................3 1.2 Phân loại dầu mỏ .......................................................................................................4 1.3 Tầm quan trọng của dầu mỏ ....................................................................................4

CHƯƠNG 2 LỊCH SỬ GIÁ DẦU VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ DẦU ...6 2.1 Sự kiểm soát giá của các tổ chức xuất khẩu dầu mỏ ..............................................9

2.1.1 Giai đoạn trước năm 1973 ...................................................................................9 2.1.2 Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC có vai trò quan trọng trong đối với giá dầu thế giới từ năm 1973 ...............................................................................................9

2.2 Bất ổn chính trị trong khu vực...............................................................................15 2.2.1 Chiến tranh Yom Kippur - Lệnh cấm vận dầu ..................................................15 2.2.2 Các cuộc khủng hoảng ở Iran và Iraq................................................................15 2.2.3 Nội chiến ở Lybya năm 2011 ............................................................................18 2.2.4 Tình hình bất ổn chính trị trong năm 2012........................................................19

2.3 Các nhân tố tài chính như rủi ro cho các nhà đầu tư, tỷ giá đồng USD đã trở thành nguyên nhân chính khiến giá dầu tăng cao............................................................21 2.4 Chính sách của các quốc gia ...................................................................................23

2.4.1 Chính sách kiểm soát giá dầu nội địa của Mỹ ...................................................23 2.4.2 Chính sách xuất khẩu của Arab Saudi ...............................................................24

2.5 Một số yếu tố khác tác động đến giá dầu thế giới .................................................26 2.6 Tác động của tăng giá dầu đến nền kinh tế thế giới .............................................28

Page 3: Báo cáo kinh tế dầu khí

2

LỜI MỞ ĐẦU

Dầu hay còn được gọi là vàng đen, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Nó

mang lại nguồn lợi nhuận siêu ngạch khổng lồ cho các quốc gia và các dân tộc trên thế giới

đang sở hữu và trực tiếp kinh doanh nguồn tài nguyên quý giá này. Dầu chiếm một một tỷ lệ

lớn trong tiêu thụ năng lượng trên toàn cầu, dao động trong khoảng thấp nhất là 32% ở châu

Âu và châu Á lên mức cao là 53% ở Trung Đông. Các vùng địa lý khác tiêu thụ năng lượng

còn có: Nam và Trung Mỹ (44%), châu Phi (41%), và Bắc Mỹ (40%). Thế giới tiêu thụ 30 tỷ

thùng (4,8 km3) dầu mỗi năm, trong đó các nước phát triển tiêu thụ nhiều nhất, 24% lượng

dầu sản xuất năm 2004 được tiêu thụ ở Hoa Kỳ. Dầu có vai trò đặc biệt quan trọng không thể

thiếu để có thể thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì hầu hết mọi ngành kinh tế như:

Giao thông vận tải, điện lực, công nghiệp đều cần đến nó. Dầu cung cấp nguồn năng lượng

nhằm thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển: ngành thăm dò khai thác dầu phát triển thúc đẩy

các ngành vận chuyển, gang thép, đóng tàu, hóa học, tơ sợi phân bón, bột giặt, chất dẻo,…

phát triển. Nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu năng lượng nói chung và dầu nói riêng

ngày càng tăng. Dầu giữ vai trò chủ chốt trong quá trình thiết lập những sách lược chính trị

của các quốc gia. Với vai trò to lớn và ngày càng quan trọng của dầu như thế, việc dự đoán

trước được giá của dầu sẽ đem lại những lợi ích vô cùng to lớn, vì thế chúng em chọn đề tài

nghiên cứu “ LỊCH SỬ GIÁ DẦU VÀ PHÂN TÍCH CÁC Y ẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN

GIÁ DẦU TRÊN THẾ GIỚI ” để có cái nhìn tổng quát, rút ra các kinh nghiệm để có thể dự

báo tình hình giá dầu biến đổi như thế nào trong tương lai.

Page 4: Báo cáo kinh tế dầu khí

3

CHƯƠNG 1 GIỚI THI ỆU TỔNG QUAN

1.1 Các khái niệm cơ bản

Dầu mỏ hay dầu thô là một chất lỏng sánh đặc màu nâu hoặc ngả lục. Dầu thô tồn tại trong các

lớp đất đá tại một số nơi trong vỏ Trái Đất. Dầu mỏ là một hỗn hợp hóa chất hữu cơ ở thể lỏng

đậm đặc, phần lớn là những hợp chất của hydrocarbon, thuộc gốc alkane, thành phần rất đa

dạng. Hiện nay dầu mỏ chủ yếu dùng để sản xuất dầu hỏa, diezen và xăng nhiên liệu. Ngoài

ra, dầu thô cũng là nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu

như dung môi, phân bón hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường... Khoảng 88% dầu thô

dùng để sản xuất nhiên liệu, 12% còn lại dùng cho hóa dầu. Do dầu thô là nguồn năng lượng

không tái tạo nên nhiều người lo ngại về khả năng cạn kiệt dầu trong một tương lai không xa.

Do nhẹ hơn nước nên dầu xuất hiện lộ thiên ở nhiều nơi, vì thế loài người đã tìm thấy dầu

hằng ngàn năm trước Công Nguyên. Thời đó dầu thường được sử dụng trong chiến tranh. Còn

rất nhiều dấu tích của việc khai thác dầu mỏ được tìm thấy ở Trung Quốc khi dân cư bản địa

khai thác dầu mỏ để sử dụng trong việc sản xuất muối ăn như các ống dẫn dầu bằng tre được

tìm thấy có niên đại vào khoảng thế kỷ 4. Khi đó người ta sử dụng dầu mỏ để đốt làm bay hơi

nước biển trong các ruộng muối.

Mãi đến thế kỷ 19 người ta mới bắt đầu khai thác dầu theo mô hình công nghiệp, xuất phát từ

việc tìm kiếm một chất đốt cho đèn vì dầu cá voi quá đắt tiền chỉ những người giàu mới có khả

năng dùng trong khi nến làm bằng mỡ thì lại có mùi khó ngửi. Vì thế giữa thế kỷ thứ 19 một

số nhà khoa học đã phát triển nhiều phương pháp để khai thác dầu một cách thương mại. Năm

1852 một nhà bác sĩ và địa chất người Canada tên là Abraham Gessner đã đăng ký một bằng

sáng chế sản xuất một chất đốt rẻ tiền và đốt tương đối sạch. Năm 1855 nhà hóa học người Mỹ

Benjamin Silliman đề nghị dùng axit sunfuric làm sạch dầu mỏ dùng để làm chất đốt.

Người ta cũng bắt đầu đi tìm những mỏ dầu lớn. Những cuộc khoan dầu đầu tiên được tiến

hành trong thời gian từ 1857 đến 1859. Lần khoan dầu đầu tiên có lẽ diễn ra ở Wietze, Đức,

nhưng cuộc khoan dầu được toàn thế giới biết đến là của Edwin L. Drake vào ngày 27 tháng 8

năm 1859 ở Oil Creek, Pennsylvania. Drake khoan dầu theo lời yêu cầu của nhà công nghiệp

người Mỹ George H. Bissel và đã tìm thấy mỏ dầu lớn đầu tiên chỉ ở độ sâu 21,2 m.

Muốn khai thác dầu, người ta khoan những lỗ khoan gọi là giếng dầu. Khi khoan trúng lớp dầu

lỏng, dầu sẽ tự phun lên do áp suất cao của khí dầu mỏ. Khi lượng dầu giảm thì áp suất khí

cũng giảm, người ta phải dùng bơm hút dầu lên hoặc bơm nước xuống để đẩy dầu lên.

Page 5: Báo cáo kinh tế dầu khí

4

1.2 Phân loại dầu mỏ

Ngành công nghiệp dầu mỏ phân chia "dầu thô" theo khu vực mà nó xuất phát (ví dụ "West

Texas Intermediate" (WTI) hay "Brent") thông thường theo tỷ trọng và độ nhớt tương đối của

nó ("nhẹ", "trung bình" hay "nặng"); các nhà hóa dầu còn nói đến chúng như là "ngọt", nếu nó

chứa ít lưu huỳnh, hoặc là "chua", nếu nó chứa đáng kể lưu huỳnh và phải mất nhiều công

đoạn hơn để có thể sản xuất nó theo các thông số hiện hành.

Các thùng (barrel) tiêu chuẩn trên thế giới là:

• Hỗn hợp Brent, bao gồm 15 loại dầu mỏ từ các mỏ thuộc hệ thống mỏ Brent và Ninian

trong khu vực lòng chảo Đông Shetland trên biển Bắc. Dầu mỏ được đưa vào bờ thông

qua trạm Sullom Voe ở Shetlands. Dầu mỏ sản xuất ở châu Âu, châu Phi và dầu mỏ

khai thác ở phía tây của khu vực Trung Cận Đông được đánh giá theo giá của dầu này,

nó tạo thành một chuẩn (benchmark) đánh giá dầu.

• West Texas Intermediate (WTI) cho dầu mỏ Bắc Mỹ.

• Dubai được sử dụng làm chuẩn cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương của dầu mỏ

Trung Cận Đông.

• Tapis (từ Malaysia, được sử dụng làm tham chiếu cho dầu mỏ nhẹ Viễn Đông).

• Minas (từ Indonesia, được sử dụng làm tham chiếu cho dầu mỏ nặng Viễn Đông).

• Giỏ OPEC bao gồm:

o Arab Light Ả Rập Saudi

o Bonny Light Nigeria

o Fateh Dubai

o Isthmus Mexico (không OPEC)

o Minas Indonesia

o Saharan Blend Algérie

o Tia Juana Light Venezuela

OPEC cố gắng giữ giá của giỏ Opec giữa các giới hạn trên và dưới, bằng cách tăng hoặc giảm

sản xuất. Điều này rất quan trọng trong phân tích thị trường. Giỏ OPEC, bao gồm hỗn hợp của

dầu thô nặng và nhẹ là nặng hơn cả Brent và WTI.

1.3 Tầm quan trọng của dầu mỏ

Dầu mỏ là một trong những nhiên liệu quan trọng nhất của xã hội hiện đại dùng để sản xuất

điện và cũng là nhiên liệu của tất cả các phương tiện giao thông vận tải. Hơn nữa, dầu cũng

Page 6: Báo cáo kinh tế dầu khí

5

được sử dụng trong công nghiệp hóa dầu để sản xuất các chất dẻo (plastic) và nhiều sản phẩm

khác. Vì thế dầu thường được ví như là "vàng đen".

Tùy theo nguồn tính toán, trữ lượng dầu mỏ thế giới nằm trong khoảng từ 1.148 tỉ thùng

(barrel) (theo BP Statistical Review 2004) đến 1.260 tỉ thùng (theo Oeldorado 2004 của

ExxonMobil). Trữ lượng dầu mỏ tìm thấy và có khả năng khai thác mang lại hiệu quả kinh tế

với kỹ thuật hiện tại đã tăng lên trong những năm gần đây và đạt mức cao nhất vào năm 2003.

Người ta dự đoán rằng trữ lượng dầu mỏ sẽ đủ dùng cho 50 năm nữa. Năm 2003 trữ lượng dầu

mỏ nhiều nhất là ở Ả Rập Saudi (262,7 tỉ thùng), Iran (130,7 tỉ thùng) và ở Iraq (115,0 tỉ

thùng) kế đến là ở Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Kuwait và Venezuela. Nước khai

thác dầu nhiều nhất thế giới trong năm 2003 là Ả Rập Saudi (496,8 triệu tấn), Nga (420 triệu

tấn), Mỹ (349,4 triệu tấn), Mexico (187,8 triệu tấn) và Iran (181,7 triệu tấn). Việt Nam được

xếp vào các nước xuất khẩu dầu mỏ từ năm 1991 khi sản lượng xuất được vài ba triệu tấn. Đến

nay, sản lượng dầu khí khai thác và xuất khẩu hàng năm đạt vào khoảng 20 triệu tấn/năm.

Vì tầm quan trọng kinh tế, dầu mỏ cũng là lý do cho những mâu thuẫn chính trị. Tổ chức các

nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã sử dụng dầu mỏ như vũ khí trong cuộc xung đột Trung

Đông và tạo ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào năm 1973 và 1979.

Page 7: Báo cáo kinh tế dầu khí

6

CHƯƠNG 2 LỊCH SỬ GIÁ DẦU VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ DẦU

Giống như giá cả của các mặt hàng khác, giá dầu thô trải qua biến động khác nhau trong thời

gian thiếu hoặc thừa quá mức. Chu kỳ giá dầu thô có thể mở rộng qua nhiều năm, đáp ứng với

những thay đổi trong nhu cầu cũng như cung cấp của OPEC và không phải OPEC.

Nếu xem xét từ năm 1869, giá dầu thô trung bình tại Mỹ ( điều chỉnh cho lạm phát trong năm

2010 của đồng đô la) là $ 23,67 một thùng so với $ 24,58 cho giá dầu thế giới. Một nửa thời

gian giá dầu của Mỹ và thế giới dưới mức giá dầu trung bình 24,58 USD mỗi thùng.

Các kết quả sẽ khác đi nhiều nếu chỉ chỉ xem xét những số liệu từ năm 1970. Trong trường

hợp đó, dầu thô của Mỹ đã có mức giá trung bình là $ 34,77 một thùng. Giá dầu trung bình

của thế giới cao hơn một chút là 37,93 USD mỗi thùng..Khi Tổng thống hiện tại của Hoa Kỳ

nhậm chức, giá là 35,00 USD mỗi thùng. Đến cuối năm 2009 giá đã tăng gấp đôi, giá trung

bình năm 2009 là $ 56,35 và giá trung bình trong năm 2010 là $57.00

Page 8: Báo cáo kinh tế dầu khí

7

Từ biểu đồ thứ nhất có thể thấy giai đoạn trước năm 1973 giá dầu mỏ không có nhiều những

biến động đáng kể. Ngoài ra sự chênh lệch về giá trung bình nếu chỉ xét số liệu từ năm 1970

cho thấy sự biến đổi về giá dầu mỏ giai đoạn này là cao. Năm 1973 là năm mà xảy ra cuộc

chiến tranh xung đột giữa các nước hồi giáo Arab và nhà nước do thái Israel dẫn đến lệnh cấm

vận dầu mỏ ở các quốc gia này. Từ đó, có thể coi đây làm mốc để phân ra hai thời kỳ chủ yếu

của lịch sử dầu mỏ.

Điểm qua về tình hình giá dầu mỏ thế giới Giai đoạn trước Cấm vận. Giai đoạn này không có

nhiều biến động, giá dầu mỏ chỉ thay đổi đôi chút, không đáng kể so với mức thay đổi giai

đoạn sau năm 1973.

Từ năm 1948 đến cuối những năm 1960, giá dầu thô dao động từ $ 2,50 và $ 3,00. Giá dầu đã

tăng từ $ 2,50 năm 1948 lên khoảng 3,00 năm 1957. Khi đối chiếu với tỷ giá đô la năm 2010,

giá dầu thô dao động từ $ 17 và $ 19 trong hầu hết thời gian của thời kỳ này.

Từ năm 1958 đến 1970, giá vẫn ổn định gần mức $ 3,00 cho mỗi thùng, nhưng trong thực tế

giá dầu thô giảm từ $ 19 đến $ 14 một thùng. Giá dầu thấp hơn không chỉ bởi sự điều chỉnh

Page 9: Báo cáo kinh tế dầu khí

8

theo lạm phát theo năm 2010, mà còn bởi vì vào năm 1971 và 1972 các nhà sản xuất quốc tế

bị ảnh hưởng bởi sự yếu đi của đồng đô la. OPEC được thành lập vào năm 1960 với năm

thành viên sáng lập: Iran, Iraq, Kuwait, Saudi Arabia và Venezuela. Đến cuối năm 1971, sáu

quốc gia khác đã tham gia vào nhóm là: Qatar, Indonesia, Libya, Các Tiểu Vương Quốc Ả

Rập Thống Nhất, Algeria và Nigeria. Tuy nhiên phải đến năm 1973 khi có lệnh cấm vận dầu

mỏ tức là phải mất hơn một thập kỷ hình thành của nó, OPEC mới nhận ra khả năng ảnh

hưởng to lớn của nó với thị trường dầu mỏ thế giới.

Vậy tại sao từ những năm 1973 trở đi, giá dầu lại có những thời kỳ giá cao giá thấp chênh lệch

nhau đến như vậy chúng ta sẽ cùng nghiên cứu một số yếu tố tác động đến giá dầu mỏ thế giới

qua lịch sử giá dầu từ năm 1973 đến nay. Có 4 yếu tố chủ yếu tác động mạnh mẽ nhất đến giá

dầu mỏ là:

• Sự kiểm soát giá của các tổ chức xuất khẩu dầu mỏ.

• Tình hình bất ổn ở khu vực Trung Đông – Bắc Phi nơi có trữ lượng dầu mỏ lớn của thế

giới.

• Một số chính sách của các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ.

Page 10: Báo cáo kinh tế dầu khí

9

• Sự suy yếu của đồng đô la.

• Cuối cùng là một số các yếu tố không chủ yếu khác.

2.1 Sự kiểm soát giá của các tổ chức xuất khẩu dầu mỏ

2.1.1 Giai đoạn trước năm 1973

Trước năm 1973 bảy công ty dầu khí Mỹ - Anh – Hà Lan kiểm soát 98% trữ lượng dầu thô thế

giới và Mỹ là nước đứng đầu về khai thác – chế biến dầu, nên chính phủ Mỹ có đủ điều kiện

biến thị trường dầu mỏ thành nơi thực hiện chiến lược toàn cầu của họ. Mọi giá cả giao dịch

dầu thô trên thế giới đều quy định theo giá yết bảng ở Vịnh Mexic, giá này lại phục vụ cho

chính sách khuyến khích phát triển thăm dò – khai thác dầu khí ở Bắc Mỹ. Theo hệ thống giá

bán của CIF đồng nhất toàn cầu thì giá dầu tại bất cứ giếng dầu nào trên thế giới cũng được

tính theo công thức sau:

a + f = x + f1.

• a là giá dầu Mỹ từ vịnh Mexico ( theo chất lượng dầu)

• f là phí chuyên chở từ Vịnh Mexico về New York

• x là giá dầu của giếng x của một nươc nào bất kỳ trên thế giới có cùng chất lượng với

dầu Mỹ

• f1 là phí chuyên chở từ nơi x tới New York

Vì f1 lớn hơn rất nhiều f nên x bao giờ cũng thấp đáng kể so với a, do đó giá dầu nhẹ của Arab

Saudi chỉ ở mức 1,7 đến 1,8 đô/thùng. Hệ thống định giá này là nguồn gốc giá yết bảng. Nó có

tác dụng bảo đảm tính khống chế độc quyền của Mỹ trong lĩnh vực dầu khí, làm đình đốn

công nghiệp than đá, ngăn chặn công nghiệp nguyên tử, mở rộng quy mô và tốc độ bóc lột tài

nguyên đối với các nước ngoài Mỹ, tăng lợi nhuận cho các nước phát triển. Với tầm ảnh

hưởng to lớn của Mỹ về mọi mặt kinh tế, quân sự, chính trị trên thế giới nên thời kỳ này giá

dầu không có nhiều biến động mạnh. Vai trò của 7 công tỳ dầu khi là vai trò quyết định đến

giá dầu chung của thế giới, mỗi khi có biến động gây ảnh hưởng đến nguồn cung hoặc nguồn

cầu thì 7 công ty này vẫn có thể kiểm soát giá dầu theo ý định của mình.

2.1.2 Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC có vai trò quan trọng trong đối với giá dầu thế giới từ năm 1973

Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa, trong tiếng Anh viết tắt là OPEC (viết tắt của

Organization of Petroleum Exporting Countries).

OPEC là một tổ chức đa chính phủ được thành lập bởi các nước Iran, Iraq, Kuwait, Ả Rập

Saudi và Venezuela trong hội nghị tại Bagdad (từ 10 tháng 9 đến 14 tháng 9 năm 1960). Các

thành viên Qatar (1961), Indonesia (1962), Libya (1962), Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống

nhất (1967), Algérie (1969) và Nigeria (1971) lần lượt gia nhập tổ chức sau đó. Ecuador

Page 11: Báo cáo kinh tế dầu khí

10

(1973–1992) và Gabon (1975–1994) cũng từng là thành viên của OPEC. Trong năm năm đầu

tiên trụ sở của OPEC đặt ở Genève, Thụy Sĩ, sau đấy chuyển về Viên, Áo từ tháng 9 1965.

Các nước thành viên OPEC khai thác vào khoảng 40% tổng sản lượng dầu lửa thế giới và nắm

giữ khoảng ¾ trữ lượng dầu thế giới.

2.1.2.1 Tổ chức OPEC có khả năng điều chỉnh hạn ngạch khai thác dầu lửa của các nước thành viên và qua đó

có khả năng khống chế giá dầu. Hội nghị các bộ trưởng phụ trách năng lượng và dầu mỏ thuộc

tổ chức OPEC được tổ chức mỗi năm hai lần nhằm đánh giá thị trường dầu mỏ và đề ra các

biện pháp phù hợp để bảo đảm việc cung cấp dầu. Bộ trưởng các nước thành viên thay nhau

theo nguyên tắc xoay vòng làm chủ tịch của tổ chức hai năm một nhiệm kỳ.

2.1.2.2 Thành viên Hiện nay tổ chức này có 12 nước thành viên được liệt kê dưới đây với ngày tháng gia nhập.

• Châu Phi

� Algérie (tháng 7 năm 1969)

� Libya (tháng 12 năm 1962)

� Nigeria (tháng 7 năm 1971)

� Angola (tháng 1 năm 2007)

• Trung Đông

� Iran (tháng 9 năm 1960)

� Iraq (tháng 9 năm 1960) (không được đếm vào phần xuất khẩu của OPEC từ

năm 1998)

� Kuwait (tháng 9 năm 1960)

� Qatar (tháng 12 năm 1961)

� Ả Rập Saudi (tháng 9 năm 1960)

� Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (tháng 11 năm 1967)

• Nam Mỹ

� Venezuela (tháng 9 năm 1960)

� Ecuador (1973-1993, 2007)

• Cựu thành viên

� Gabon (Thành viên chính thức từ 1975 đến 1995)

� Indonesia (tháng 12 năm 1962 đến 2008)

• Thành viên tương lai

Bolivia, Canada, Sudan và Syria đã được OPEC mời tham gia.

Page 12: Báo cáo kinh tế dầu khí

11

2.1.2.3 Mục tiêu Mục tiêu chính thức được ghi vào hiệp định thành lập của OPEC là ổn định thị trường dầu thô,

bao gồm các chính sách khai thác dầu, ổn định giá dầu thế giới và ủng hộ về mặt chính trị cho

các thành viên khi bị các biện pháp cưỡng chế vì các quyết định của OPEC. Nhưng thật ra

nhiều biện pháp được đề ra lại có động cơ bắt nguồn từ quyền lợi quốc gia, thí dụ như trong

các cơn khủng hoảng dầu, OPEC chẳng những đã không tìm cách hạ giá dầu mà lại duy trì

chính sách cao giá trong thời gian dài.

Mục tiêu của OPEC thật ra là một chính sách dầu chung nhằm để giữ giá. OPEC dựa vào việc

phân bổ hạn ngạch cho các thành viên để điều chỉnh lượng khai thác dầu, tạo ra khan hiếm

hoặc dư dầu giả tạo nhằm thông qua đó có thể tăng, giảm hoặc giữ giá dầu ổn định. Có thể coi

OPEC như là một liên minh độc quyền (cartel) luôn tìm cách giữ giá dầu ở mức có lợi nhất

cho các thành viên.

2.1.2.4 Các biện pháp của OPEC theo thứ tự thời gian

• 14 tháng 9 năm 1960: thành lập tổ chức theo đề xuất của Venezuela tại Baghdad.

• 1965: Dời trụ sở về Wien. Các thành viên thống nhất một chính sách khai thác chung

để bảo vệ giá.

• 1970: Nâng giá dầu lên 30%, nâng thuế tối thiểu áp dụng cho các công ty khai thác dầu

lên 55% của lợi nhuận.

• 1971: Nâng giá dầu sau khi thương lượng với các tập đoàn khai thác. Tiến tới đạt tỷ lệ

quốc gia hóa 50% các tập đoàn.

• 1973: Tăng giá dầu tăng từ 2,89 USD một thùng lên 11,65 USD. Thời gian này được

gọi là cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, OPEC khai thác 55% lượng dầu của thế

giới.

• 1974 đến 1978: tăng giá dầu 5-10% hầu như mỗi nửa năm một lần để chống lại việc

USD bị lạm phát.

• 1979: Khủng hoảng dầu lần thứ hai. Sau cuộc cách mạng Hồi giáo giá dầu từ 15,5

USD một thùng được nâng lên 24 USD. Libya, Algérie và Iraq thậm chí đòi đến 30

USD cho một thùng.

• 1980: Đỉnh điểm chính sách cao giá của OPEC. Lybia đòi 41 USD, Ả Rập Saudi 32

USD và các nước thành viên còn lại 36 USD cho một thùng dầu.

• 1981: Lượng tiêu thụ dầu giảm do các nước công nghiệp lâm vào cuộc khủng hoảng

kinh tế và bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, do giá dầu cao, nhiều nước

trên thế giới đầu tư vào các nguồn năng lượng khác. Lượng tiêu thụ dầu thế giới giảm

11% trong thời gian từ 1979 đến 1983, thị phần dầu của OPEC trên thị trường thế giới

giảm xuống còn 40%.

Page 13: Báo cáo kinh tế dầu khí

12

• 1982: Quyết định giảm lượng sản xuất tuy được thông qua nhưng lại không được các

thành viên giữ đúng. Thị phần của OPEC giảm xuống còn 33% và vào năm 1985 còn

30% trên tổng số lượng khai thác dầu trên thế giới. Lượng khai thác dầu giảm xuống

đến mức thấp kỷ lục là 17,34 triệu thùng một ngày.

• 1983: Giảm giá dầu từ 34 USD xuống 29 USD một thùng. Giảm hạn ngạch khai thác

từ 18,5 triệu xuống 16 triệu thùng một ngày.

• 1986: Giá dầu rơi xuống đến dưới 10 USD một thùng do sản xuất thừa và do một số

nước trong OPEC giảm giá dầu.

• 1990: Giá dầu được nâng lên trong tầm từ 18 đến 21 USD một thùng. Nhờ vào chiến

tranh vùng Vịnh giá dầu đạt đến mức đề ra.

• 2000: Giá dầu đã dao động mạnh, vượt qua cả hai mức thấp và cao nhất trong lịch sử.

Nếu trong quý I, chỉ với 9 USD người ta cũng có thể mua được một thùng dầu thì trong

quý IV giá đã vượt trên 37 USD một thùng. Các thành viên của OPEC đồng ý giữ giá

dầu ở mức 22-28 USD/thùng.

• 2005: OPEC quyết định giữ nguyên lượng khai thác 27 triệu thùng. Các thành viên đã

nhất trí "tạm ngưng" không giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng.

2.1.2.5 Phân tích vai trò của OPEC Năm 1973 sau khi xảy ra cấm vận dầu mỏ của các nước OPEC kéo theo đó là sự gia tăng của

giá dầu thế giới, vai trò quyết định cuối cùng giá các loại dầu mỏ của 7 công ty của Mỹ, Anh ,

Hà Lan đã được chuyển sang OPEC nghĩa là phải đến 1 thập kỷ sau khi thành lập thì OPEC

mới nhận ra được vai trò quan trọng của mình. Cũng như 7 tổ chức kia, OPEC cũng muốn

kiểm soát giá dầu theo mục đích của mình là làm sao luôn bán được mức cao nhất và có thể

chiếm lĩnh thị phần cao nhất tuy nhiên với sự thay đổi của tình hình chính trị trên thế giới và

các chính sách không hợp lý của mình ,OPEC hiếm khi đạt được ý muốn kiểm soát giá dầu

của mình. Tuy OPEC vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi của giá dầu thế giới vì tổ

chức này dù sao vẫn là tổ chức của các nước xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất trên thế giới, nếu họ

giảm sản lượng của mình thì cũng kéo theo một hệ lụy là giá dầu tăng cao tuy nhiên có một

thực tế là các quốc gia này công nghiệp xuất khẩu dầu mỏ đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối

với nền kinh tế của họ, là nguồn lợi chính cho ngân sách quốc gia của họ. Chính vì thế cơ chế

thực thi của OPEC là không chặt chẽ để có thể điều chỉnh giá dầu theo ý muốn của mình. Cơ

chế thực thi duy nhất tồn tại trong OPEC là khả năng sản xuất của Arập xê-út vì thế sự quyết

định cuối cùng, quan trọng nhất hoàn toàn thuộc về thành viên này chứ không phải thuộc về

OPEC. Với công suất dự phòng đủ để có thể tăng mức sản xuất đến mức bù đắp các tác động

của mức giá thấp hơn, đem về doanh thu riêng của mình, Ả-rập Xê-út có thể thực hiện luật lệ

của riêng mình bằng cách đe dọa để tăng sản xuất đủ để giá cả trên thị trường sụp đổ. Trong

Page 14: Báo cáo kinh tế dầu khí

13

thực tế ngay cả điều này là cũng không phải một cơ chế thực thi OPEC trừ khi mục tiêu của

OPEC trùng hợp với những người Ả-rập Xê-út. Điều này là khác biệt so với giai đoạn trước

năm 1973 khi mà 7 công ty của Mỹ, Anh, Hà Lan có sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ trong

vai trò kiểm soát giá của mình. Từ năm 1974 đến 1978, giá dầu trên thế giới không có nhiều

biến động, dao động từ $ 12,52 một thùng lên 14,57 USD một thùng. Khi điều chỉnh về mức

lạm phát năm 2010, giá dầu thế giới có một thời gian suy giảm vừa phải. Trong thời gian đó,

sản lượng của OPEC tương đối ổn định, dao động từ 25 triệu thùng mỗi ngày đến 35 triệu

thùng mỗi ngày. Ngược lại, các nước không thuộc OPEC lien tục tăng sản lượng từ 25 triệu

thùng mỗi ngày lên 31 triệu thùng mỗi ngày. Trong giai đoạn giá tăng lên nhanh chóng từ

năm 1979 đến năm 1980, Bộ trưởng Dầu mỏ Saudi Arabia Ahmed Yamani liên tục cảnh báo

các thành viên khác của OPEC, giá cao sẽ dẫn đến việc giảm nhu cầu. Tuy nhiên những cảnh

báo của ông đã bị lờ đi. Giá cả tăng gây ra nhiều phản ứng trong người tiêu dùng: vật liệu cách

nhiệt tốt hơn trong ngôi nhà mới, gia tăng cách nhiệt trong nhiều căn nhà cũ, hiệu quả sử dụng

năng lượng trong quá trình công nghiệp, và xe ô tô với hiệu quả cao hơn. Những yếu tố này

cùng với một cuộc suy thoái toàn cầu gây ra việc giảm nhu cầu dẫn đến giá dầu thô thấp

hơn.Giá cao hơn vào cuối những năm 1970 là kết quả của việc thăm dò thành công và sản xuất

bên ngoài của OPEC tăng lên.

Từ 1980 đến 1986, các nước ngoài OPEC tăng sản lượng 6 triệu thùng mỗi ngày. OPEC đã

phải đối mặt với nhu cầu thấp hơn và lượng cung cao hơn từ bên ngoài tổ chức.

Từ năm 1982 đến 1986: OPEC cố gắng áp đặt hạn mức sản xuất đủ thấp để bình ổn giá.

Những nỗ lực này đã gặp thất bại liên tiếp khi rất nhiều thành viên của OPEC sản xuất vượt

quá hạn mức. Trong suốt khoảng thời gian này, Ả rập xê út đại diện như là nhà sản xuất cơ

động nhất có thể cắt giảm sản lượng nhằm nỗ lực cản sự xuống dốc của giá dầu. Vào tháng

8/1985, Ả rập xê út đã từ bỏ vai trò này. Họ gắn giá dầu với thị trường giao ngay và tăng sản

lượng từ 2 triệu thùng/ngày lên 5 triệu thùng/ngày vào đầu năm 1986. Giá dầu giảm dưới

15USD/thùng (theo giá năm 2006 là 20 USD) vào giữa năm 1986.Mặc dù giá dầu giảm nhưng

doanh thu của Ả rập xê út vẫn không đổi do sản lượng tăng đã bù đắp giá giảm. Vào tháng

12/1986, giá dầu đứng ở mức 18 USD/thùng.

Từ năm 1987 đến 1998: Giá dầu giảm từ mức 18 USD đầu năm 1987 xuống mức dưới 15

USD đầu năm 1988.

Giá dầu tăng mạnh từ năm 1988 đến 1990 (đạt trên 20 USD/thùng) do OPEC duy trì mức sản

lượng thấp. Tuy nhiên từ sau năm 1990, do OPEC tăng sản lượng liên tục và nhất là sau cuộc

chiến vùng vịnh giải phóng Kuwait, giá dầu bước vào giai đoạn giảm giá liên tục và ở mức

gần 15 USD năm 1994.

Từ năm 1990 đến năm 1997, mức tiêu thụ dầu thế giới tăng 6,2 triệu thùng/ngày. Mức tiêu thụ

của các nước châu Á đóng góp 300.000 thùng/ngày cho mức tăng thêm đó và góp phần làm

Page 15: Báo cáo kinh tế dầu khí

14

cho giá dầu tăng trở lại và tăng mạnh vào năm 1997. Sản lượng giảm sút của Nga cũng góp

phần vào sự tăng giá dầu. Giữa năm 1990 và 1996, sản lượng của Nga giảm trên 5 triệu

thùng/ngày. Sự tăng lên của giá dầu không kéo dài được lâu và kết thúc vào năm 1998 khi

OPEC đã làm ngơ hoặc đánh giá thấp tác động của khủng hoảng kinh tế châu Á. Vào tháng

12/1997, OPEC tăng hạn ngạch thêm 2.5 triệu thùng/ngày (10%) lên 27,5 thùng/ngày có hiệu

lực từ ngày 1/1/1998. Vào năm 1998, tiêu thụ dầu của châu Á Thái Bình Dương đã giảm lần

đầu tiên từ năm 1982. Giá dầu rơi vào vòng xoáy giảm giá khi mà mức tiêu thụ thấp hơn đi

liền với mức sản lượng cao hơn từ OPEC. Trước tình hình đó, OPEC đã cắt giảm hạn ngạch

1,25 triệu thùng/ngày vào tháng 4 và tiếp 1,335 triệu thùng/ngày vào tháng 7. Giá tiếp tục

giảm hết tháng 12/1998 và đứng ở mức 12 USD/thùng. Giá dầu lại tăng lại vào đầu năm 1999

khi OPEC tiếp tục cắt giảm sản lượng thêm 1,719 triệu thùng/ngày vào tháng 4. Tính từ đầu

năm 1998 đến đầu giữa 1999, sản lượng của OPEC đã giảm 3 triệu thùng/ngày và đã khiến giá

dầu tăng lên trên 25USD/thùng.

Giữa tháng 4 và 10/2000, OPEC 3 lần tăng hạn ngạch với tổng số 3,2 triệu thùng/ngày nhưng

ko đủ để ngăn đà lên giá dầu. Giá dầu bắt đầu giảm khi OPEC tăng sản lượng thêm 500.000

thùng/ngày bắt đầu từ 1/11/2000.

Vào năm 2001, nền kinh tế Mỹ yếu đi và sự gia tăng sản lượng của các nước ngoài OPEC đã

gây áp lực giảm giá dầu. Trước tình hình đó, OPEC một lần nữa liên tiếp cắt giảm sản lượng

và tính tới ngày 1/9/2001, OPEC đã cắt giảm 3,5 triệu thùng. Nếu không có cuộc tấn công

khủng bố vào ngày 11/9/2001, sự cắt giảm này của OPEC có thể đủ để làm cân bằng thậm chí

là đảo ngược xu thế.Trước cuộc tấn công khủng bố giá dầu đã sụt giảm. Giá dầu giao ngay

theo tiêu chuẩn của các nhà trung gian Tây Texas Mỹ đã giảm 35% vào giữa tháng 11. Trong

điều kiện bình thường, sự giảm giá dầu ở mức độ đó sẽ dẫn tới một đợt cắt giảm sản lượng của

OPEC nhưng với điều kiện chính trị không phù hợp, OPEC đã hoãn việc cắt giảm thêm đến

tận tháng 1/2002.

Sau tháng 1/2002, OPEC cắt giảm tiếp 1,5 triệu thùng/ngày và các nước ngoài OPEC cũng

tham gia việc cắt giảm sản lượng trong đó có cả Nga với mức cắt giảm cam kết là 462.500

thùng/ngày. Điều này đã đem lại kết quả mong muốn của OPEC khi mà giá dầu tăng lên mức

25USD/thùng vào tháng 3/2002.Vào giữa năm 2002, các nước ngoài OPEC đã khôi phục lại

mức sản lượng đã cắt giảm tuy nhiên giá vẫn tiếp tục tăng và dự trữ dầu của Mỹ đạt mức thấp

nhất trong 20 năm.Vào thời điểm cuối năm, dư cung không còn là vấn đề. Cuộc đình công tại

Venezuela đã khiến cho sản lượng dầu nước này giảm mạnh. Trước khi cuộc đình công diễn

ra, Venezuela chưa bao giờ có thể khôi phục lại mức sản lượng trước đó và đứng ở mức thấp

hơn 900.000 thùng/ngày so với mức kỷ lục 3,5 triệu thùng/ngày.

OPEC tăng sản lượng thêm 2,8 triệu thùng/ngày vào tháng 1 và tháng 2/2003. Vào ngày

19/3/2003, khi mà sản lượng dầu của Venezuela bắt đầu được khôi phục, cuộc tấn công quân

Page 16: Báo cáo kinh tế dầu khí

15

sự vào Iraq đã nổ ra. Trong khi đó, trữ lượng dầu ở Mỹ và các quốc gia OECD vẫn ở mức

thấp. Với sự phát triển mạnh của kinh tế, nhu cầu dầu từ Mỹ và các nước châu Á đã tăng một

cách chóng mặt. Sự giảm sản lượng ở Iraq và Venezuela được bù đắp bởi việc tăng sản lượng

ở các thành viên khác tuy nhiên vẫn khiến cho mức sản lượng dầu tiềm năng có khả năng sản

xuất giảm xuống. Vào giữa năm 2002, sản lượng dầu tiềm năng là 6 triệu thùng/ngày và giữa

năm 2003 đã giảm xuống dưới 2 triệu thùng.

Trong năm 2004 và 2005, công suất để sản xuất dầu ít hơn một triệu thùng mỗi ngày. Một

triệu thùng mỗi ngày là không đủ công suất để trang trải một sự gián đoạn nguồn cung từ hầu

hết các nhà sản xuất OPEC. Nhu cầu tiêu thụ dầu của thế giới giai đoạn này là rất lớn (trên 80

triệu thùng/ngày) là nguyên nhân chính dẫn tới việc giá dầu vượt quá khoảng giá 40-50

USD/thùng.

Một lý do mà OPEC cắt giảm sản lượng vào tháng 11/2006 và 2/2007 đó là việc dự trữ dầu

của các nước thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế. OECD

Sau một lần cắt giảm 4,2 triệu thùng / ngày của OPEC trong tháng 1 năm 2009 giá đã tăng

một cách ổn định cho nhu cầu tăng lên ở châu Á.

Có thể kết luận lại như sau. Từ sau năm 1973, OPEC chỉ đóng vai trò quan trọng chứ không

đóng vai trò quyết định cho giá dầu. Có nhiều lý do như : các quốc gia OPEC không đồng nhất

quan điểm khi có nhiều quốc gia không chấp hành và không thể chấp hành theo hạn ngạch của

OPEC, do sự cạnh tranh của các quốc gia xuất khẩu dầu ngoài OPEC, do sự suy giảm nhu cầu

khi tình hình kinh tế gặp khó khăn,…..

2.2 Bất ổn chính trị trong khu vực 2.2.1 Chiến tranh Yom Kippur - L ệnh cấm vận dầu

Từ năm 1972-1974: Vào năm 1972, giá dầu thô vào khoảng 3USD/thùng và cuối năm 1974 đã

tăng gấp 4 lần lên 12 USD. Cuộc chiến The Yom Kippur War bắt đầu bằng một cuộc tấn công

vào Israel bởi Syria và Ai cập vào ngày 5/10/1973. Mỹ và nhiều nước phương tây khác đã ủng

hộ Israel. Do đó môt vài quốc gia Ả rập xuất khẩu dầu đã áp đặt cấm vận dầu với các quốc gia

này. Sản lượng cắt giảm từ các nước Ả rập là 5 triệu thùng/ngày, trong khi các nước còn lai

tăng sản lượng lên 1 triệu thùng/ngày. Hao hụt sản lượng 4 triệu thùng/ngày kéo dài tới tháng

3/1974 và tổng cộng chiếm 7% sản lượng dầu thế giới.Khả năng gây ảnh hưởng và kiểm soát

giá dầu thô trong một số trường hợp đã chuyển từ Hoa Kỳ sang OPEC đã được minh chứng

sau Lệnh cấm vận dầu. Mọi thứ đã quá rõ rang khi giá cả tỏ ra cực kỳ nhạy cảm với sự thiếu

hụt trong nguồn cung, giá dầu đã tăng 400% trong sáu tháng ngắn ngủi.

2.2.2 Các cuộc khủng hoảng ở Iran và Iraq

Page 17: Báo cáo kinh tế dầu khí

16

Từ 1979 đến 1981: Các sự kiện xảy ra ở Iran và Iraq năm 1979, 1980 đã dẫn tới một chu kỳ

tăng giá tiếp theo của giá dầu. Cuộc cách mạng hồi giáo ở Iran đã gây nên tổn thất khoảng 2

đến 2,5 triệu thùng/ngày từ 11/1978 đến 6/1979.Có thời điểm quá trình sản xuất dầu gần như

đình trệ. Trong khi cuộc cách mạng ở Iran có vẻ là nguyên nhân dẫn tới sự tăng cao kỷ lục của

giá dầu sau chiến tranh thế giới thứ 2, thực tế thì tác động ko nhiều mà chủ yếu là các sự kiện

sau đó. Ngay sau cuộc cách mạng, sản lượng đã tăng lên 4 triệu/ngày.Vào tháng 9/1980, Iraq

tấn công Iran đang ở thế yếu. Đến tháng 11/1980, sản lượng của cả 2 nước là chỉ khoảng 1

triệu thùng/ngày thấp hơn năm trước đó 6,5 triệu thùng/ngày. Do đó sản lượng dầu thế giới

thấp hơn 10% so với năm 1979. Cuộc cách mạng hồi giáo Iran và chiến tranh Iran-Iraq làm

cho giá dầu tăng hơn 2 lần từ mức 14USD năm 1978 lên 35 USD/thùng năm 1981.Hơn ba

thập kỷ sau đó sản xuất của Iran chỉ đạt có hai phần ba mức độ dưới chính quyền của Reza

Pahlavi, Hoàng đế trước đây của Iran. Sản xuất của Iraq ngày càng tăng, nhưng vẫn còn dưới

một triệu thùng thời sản xuất đỉnh cao của nó trước khi cuộc chiến Iraq-Iran.

Nhìn vào biểu đồ sản xuất của Iran ở phía trên ta thấy trước cuộc cách mạng hồi giáo ở Iran

sản lượng nước này cung cấp cho thị trường thế giới luôn là mức từ 5 đến 6 triệu thùng dầu

một ngày tuy nhiên sau khi xảy ra cuộc cách mạng sản lượng tụt xuống dưới 1 triệu

thùng/ngày vào năm 1978. Khi sản lượng vừa mới được hồi phục lên 4 triệu thùng/ngày năm

Page 18: Báo cáo kinh tế dầu khí

17

1979 thì lại xảy ra xung đột với người hàng xóm Iraq làm cho sản lượng của nước này giảm

xuống gần nửa triệu thùng/ ngày, khiến cho giá dầu thời điểm này tăng lên nhanh chóng. Và

kể từ đó tới 2011 Iran vẫn chưa trở lại được mức sản lượng như hồi trước cách mạng hồi giáo.

Về phần Iraq, ngoài cuộc chiến xâm lược Iran kéo tụt lùi sản lượng của nước này xuống thì

còn 2 sự kiện khác khiến cho sản lượng nước này cũng bị suy giảm nghiêm trọng đó là cuộc

chiến tranh vùng Vịnh vào những năm 1990, 1991 và cuộc chiến với Mỹ năm 2003. Tuy nhiên

nếu như thời kỳ chiến tranh với Iran, việc sụt giảm sản lượng của Iraq cùng với Iran gây giảm

nguồn cung làm cho giá dầu tăng thế giới đột biến xấp xỉ 60 đô/thùng thì trong thời kỳ chiến

tranh vùng Vịnh và cuộc chiến tranh với Mỹ và Nato lại không gây ảnh hưởng quá nghiêm

trọng với giá dầu thế giới, giá dầu chỉ đạt ngưỡng 30 đô/thùng đó là vì sự gia tăng sản lượng

của các nước ngoài OPEC, sự vươn lên của nước Nga với nguồn dầu mỏ khí đốt phong phú kể

từ khi Liên Xô sụp đổ, là sự tiến bộ của Khoa học kỹ thuật làm cho việc sử dụng dầu mỏ với

hiệu năng cao hơn.

Sau đây là môt biểu đồ tổng kết giá dầu thế giới và các sự kiện xảy ra tại từ lệnh cấm vận dầu

mỏ và sau đó là các cuộc khủng hoảng của Iran và Iraq trong thập ky 70. Có thể thấy trong

thời kỳ này khi mà hai nước có trữ lượng sản xuất dầu mỏ lớn của OPEC xảy ra xung đột thì

kéo theo nó hệ quả là làm giảm một mức sản lượng lớn của OPEC gây gián đoạn nguồn cung

làm cho giá dầu mỏ thế giới dầu mỏ lúc này biến động vô cùng lớn.

Page 19: Báo cáo kinh tế dầu khí

18

2.2.3 Nội chiến ở Lybya năm 2011

Năm 2011 là một năm đầy biến động của thị trường dầu thế giới. Giá dầu đạt ngưỡng cao kỷ

lục. Giá dầu thô trên thị trường Niu Oóc (Mỹ) tăng tới hơn 100 USD/thùng, trong khi giá dầu

ở Luân Đôn (Anh) đã gần chạm mức 120 USD/thùng, mức cao nhất kể từ thời điểm bắt đầu

khủng hoảng tài chính toàn cầu tháng 9-2008.

Một trong những lý do đẩy giá dầu tăng nhanh là sản lượng khai thác dầu của Li-bi giảm. Ước

tính, kể từ khi xảy ra bạo loạn, sản lượng dầu của Li-bi đã giảm hơn một nửa. Bạo lực khiến

hàng nghìn nhân viên nước ngoài làm trong lĩnh vực dầu mỏ rời khỏi Li-bi. Trong khi đó,

chính quyền của Tổng thống Ca-đa-phi mất quyền kiểm soát ở nhiều vùng lãnh thổ thuộc miền

đông nước này, đẩy các mỏ khí đốt và dầu mỏ ở đây nằm dưới quyền kiểm soát của phe đối

lập. Lực lượng đối lập đã kiểm soát các cổng xuất khẩu dầu mỏ quan trọng Tô-brúc và Du-e-

ti-na, những nơi vận chuyển dầu và khí đốt qua các đường ống dẫn nằm sâu trong sa mạc Xa-

ha-ra. Tương lai của ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ của Li-bi bị đe dọa, bởi không biết

khi nào những chuyên gia nước ngoài có tay nghề cao có thể quay trở lại nước này. Với sản

lượng khai thác 1,8 triệu thùng/ngày, Li-bi xuất khẩu 90% lượng dầu khai thác, trong đó 80%

lượng dầu thô và nhiên liệu đi qua Địa Trung Hải để bán sang thị trường châu Âu, đứng đầu là

các nước I-ta-li-a, Pháp, Đức. 25% lượng dầu nhập khẩu của I-ta-li-a là từ Li-bi. Nhiều nước

Page 20: Báo cáo kinh tế dầu khí

19

Nam Âu như Áo, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, thậm chí cả Ai-len ở Tây Bắc Âu, những nước

đang bên bờ khủng hoảng tài chính, đều phải nhập khẩu dầu của Li-bi. Biến động chính trị và

bạo loạn ở Li-bi ảnh hưởng đáng kể tới đồng ơ-rô vốn đang suy yếu. Li-bi là nước sản xuất

dầu nhẹ và ngọt. Những mỏ dầu dưới vùng sa mạc cho loại dầu thô dễ dàng lọc thành dầu

đi-ê –zen và xăng có lượng lưu huỳnh thấp, khí đốt sạch hơn và ít gây ô nhiễm môi trường.

Mặc dù OPEC tuyên bố có đủ dự trữ thay thế lượng dầu thiếu hụt từ Li-bi, nhưng chất lượng

kém hơn nhiều. Việc sản suất dầu mỏ ở Li-bi bị ngưng trệ buộc các công ty dầu khí phải đưa

ra nhiều phương án, không đơn thuần là tìm nguồn bổ sung sản lượng dầu thiếu hụt. Theo ước

tính của IP Morgan, nhu cầu sử dụng dầu thô chất lượng tốt chiếm hơn nửa nhu cầu thế giới

năm nay. Các công ty dầu khí sẽ phải tìm nguồn dầu có chất lượng tương tự của Li-bi ở các

nước như Ni-giê-ri-a, An-giê-ri, hoặc vùng Biển Bắc để thay thế. Phương án này có thể làm

tăng giá các loại dầu chất lượng cao và các nhà máy lọc dầu sẽ phải giảm sản lượng do không

thể mua được dầu thô.

2.2.4 Tình hình bất ổn chính trị trong năm 2012

Năm 2011 giá dầu lửa trên thị trường thế giới tăng 11%, nhưng ngay từ khi bước vào năm

2012, năm “Con Rồng” thì giá dầu lửa thế giới tăng vọt. Tháng 1/2012 giá dầu tới 100

USD/thùng, mức kỉ lục trong 9 tháng trước đó. Tính tới ngày 24/2 giá dầu đã tăng tới 5%, kể

từ tháng 11/2011 khi vấn đề Iran căng thẳng tới nay giá dầu đã tăng tới 20%. “Cơn khát dầu

lửa” đã xảy ra ngay từ đầu năm Rồng. Ngày 24/2 giá dầu trên Thị trường giao dịch New York

giao hàng tháng 4/2012 tới 109,77 USD/thùng, trong khi đó tại Thị trường dầu lửa Biển Bắc

Luân Đôn giá dầu lửa giao hàng tháng 4/2012 tới 125,47 USD/thùng. Như vậy liên tục trong 7

ngày giao dịch trên hai thị trường này, gía dầu lửa liên tiếp tăng lên, lập kỷ lục mới kể từ ngày

4/5/2011. Nhu cầu dầu lửa phục vụ cho phát triển và phục hồi kinh tế thế giới không cao. Theo

Tổ chức tiền tệ quốc tế (IMF) ngày 24/1/2012 dự báo mức tăng trưởng kinh tế của các nước

phát triển trong năm 2012 chỉ ở mức 1,2%, giảm 0,7% so với mức dự báo hồi tháng 9/2011.

Mức tăng trưởng GDP năm 2012 của các nước đang trỗi dậy là 5,4% giảm 0,7% so với mức

dự báo tháng 9/2011. Ngay Trung Quốc, nước có nền tăng trưởng kinh tế cao nhất theo dự báo

cũng chỉ đạt mức trên 8%. Điều này cho thấy giá dầu tăng cao chủ yếu do những nguyên nhân

sau:

Một là, tình hình bất ổn ở Trung Đông, nhất là quan hệ Iran-Mỹ, Iran-Châu Âu và Iran –

Ixraen đã đẩy giá dầu tăng cao. dầu 2-Tình hình Liby vẫn chưa ổn định, nhất là các mỏ dầu

vẫn chưa khôi phục sản xuất và xuất khẩu. 3-Khả năng bù đắp lượng thiếu hụt dầu lửa của các

nước OPEC trong thời gian ngắn chưa đáp ứng được nhu cầu.

Lybi là nước xuất khẩu dầu lửa lớn thứ 3 Châu Phi và là nước đứng thứ 8 trong tổ chức OPEC,

thứ 15 trên thế giới. Sản lượng dầu hàng ngày tới 1,6 triệu thùng, trong đó 1,2 triệu dùng cho

Page 21: Báo cáo kinh tế dầu khí

20

xuất khẩu. Trong thời gian có chiến sự, xuất khẩu đã giảm 6%. Mỏ dầu lớn nhất của Lybi là

Nafoora đã phải ngừng sản xuất, hiện vẫn chưa khôi phục hoàn toàn. Sau khi phe đối lập giành

được quyền kiểm soát, tới nay các mỏ dầu lớn vẫn chưa khôi phục sản xuất và đưa ra xuất

khẩu. Dư luận thế giới cho rằng: “Nếu nhà cầm quyền không ngăn chặn được bất ổn chính trị

thì xuất khẩu dầu lửa sang các nước Phương Tây sẽ bị gián đoạn”.

Iran là nước xuất khẩu dầu lửa lớn thứ hai trong OPEC chỉ đứng sau Arap Xêut. Sản lượng

dầu một ngày trong tháng 1/2011 tới 3,72 triệu thùng. Nhưng do tình hình chính trị bất ổn đã

tác động mạnh mẽ tới sản lượng và xuất khẩu của Iran, nhất là mối quan hệ luôn căng thẳng

giữa Iran với các nước Châu Âu, Mỹ và Ixraen. Iran liên tiếp tiến hành các cuộc tập trận ở

Vùng biển Vịnh Hormus, đồng thời tuyên bố phong tỏa Vùng biển này. Đây là con đường

huyết mạch chuyên chở dầu lửa từ Vùng Vịnh sang Ấn Độ Dương, hàng năm chiếm tới 1/5

tổng lượng chuyên chở dầu lửa của thế giới. Đây cũng là con đường biển duy nhất chuyên chở

dầu lửa từ Trung Đông đi Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản.

Bởi vậy, Mỹ, Châu Âu và Ixraen phản ứng gay gắt như liên tiếp thực hiện trừng phạt kinh tế,

đông kết tài khoản của Iran, tiến hành cấm vận. Vừa qua Châu Âu tuyên bố kể từ ngày

1/7/2012 thực hiện chính sách cấm vận đối với Iran. Cùng với trừng phạt kinh tế, Mỹ, Châu

Âu còn áp dụng hành động quân sự, như đưa tàu sân bay, tàu chiến tuần tra ở Vùng biển

Hormus. Ixraen còn có kế họach tấn công vào cơ sở hạt nhân của Iran. Để trả đũa, Iran tuyên

bố cấm xuất khảu dầu lửa cho Châu Âu, đe dọa phong tỏa Vùng vịnh này đối với tàu thuyền

của Mỹ và EU.

Nhà kinh tế học hàng đầu của Cơ quan năng lượng quốc tế (IAEA) Fatih Birol nói: “Trung

Đông và Bắc Phi chiếm tới 35% trữ lượng dầu lửa thế giới và 25% lượng dầu thế giới chuyên

chở qua kênh đào Suez và Vịnh Hormus. Nếu tình hình chính trị bất ổn này ở Trung Đông và

Bắc Phi tiếp tục kéo dài, thì gía dầu thế giới sẽ tiếp tục tăng cao hơn nữa”.

Các nhà phân tích cho biết: Tháng 7/2011 khi tình hình giá dầu lên cao do tình hình chiến sự ở

Bắc Phi, Cơ quan năng lượng lần đầu tiên trong lịch sử đã phải tung ra lần thứ ba lượng dầu

dự trữ chiến lược với 60 triệu thùng để bình ổn thị trường. Đồng thời Arap Xêut cũng tung

lượng dầu lửa còn dư thừa ra thị trường, nên giá dầu đã hạ xuống. Nhưng năm nay khả năng

này hầu như không có, nhất là trong thời gian ngắn các nước thành viên OPEC chưa đủ thời

gian để bù đắp được lượng dầu lửa thiếu hụt của Iran và Lybi xuất khẩu sang các nước.

Trước tình hình này, ngày 27/2/2012, ông Taylor, Chủ tịch Tập đoàn dầu lửa lớn nhất thế giới

ViTol Group nói nếu tình hình căng thẳng quân sự giữa Ixraen – Iran tăng lên thì giá dầu ở Thị

trưởng Biển bắc có thể lên tới 150 USD/thùng năm nay.

Tập đoàn Morgan Chase ngày 28/2/2012 dự đoán giá dầu năm nay ở Thị trường Biển bắc có

thể tới 130 USD/thùng, còn Hãng Goldman Sachs dự đoán giá dầu năm nay tới 127,50

USD/thùng. Công ty chứng khoán Merrill Lynch dự đoán giá dầu Thị trưởng Biển bắc năm

Page 22: Báo cáo kinh tế dầu khí

21

nay tới 200 USD/thùng.Nếu giá dầu ở mức cao như dự đoán sẽ ảnh hưởng lớn tới tăng trưởng

và phục hồi kinh tế các nước. Kể từ đầu năm tới nay giá dầu bán lẻ ở Mỹ mỗi gallon đã tăng 3

cents, tới 3,65 USD/gallon, thời gian tới sẽ tới 4 USD – 5 USD/gallon, nếu giá dầu tăng lên 1

USD/thùng thì thu nhậpcủa gia đình My giảm tới 1,5 tỉ USD, như vậy đà phục hồi kinh tế ở

Mỹ bị tác động lớn. Các nhà kinh tế Trung Quốc nói: Khả năng chịu đựng rủi ro an ninh dầu

lửa của Trung Quốc rất thấp, gía dầu tăng là nhân tố cản trở lớn đối với nền kinh tế Trung

Quốc. Chỉ cần giá một thùng dầu thô trên thị trường thế giới tăng 1 USD thì Trung Quốc hàng

năm phải chi thêm tới trên 600 triệu USD do hậu quả này.

Theo dự đoán, mức tăng trưởng kinh tế của châu Âu năm 2012 tiếp tục tăng trưởng âm 0,3%.

Nếu giá dầu tiếp tục tăng cao thì kinh tế Châu Âu sẽ lâm vào tình trạng suy thoái lâu dài.

Rồng nay từ đầu năm đã “lên cơn khát dầu lửa” nghiêm trọng, liệu thế giới có thể hóa giải

được cơn khát dầu này không, hiện chưa có câu trả lời.

2.3 Các nhân tố tài chính như rủi ro cho các nhà đầu tư, tỷ giá đồng USD đã trở thành nguyên nhân chính khiến giá dầu tăng cao

Trước khi khủng hoảng tài chính quốc tế bùng phát toàn diện, giá dầu quốc tế đã đi theo chiều

hướng tăng đột biến. Từ năm 2002 – 2008, giá dầu từ mức 20USD/thùng lên 147USD/thùng.

Nhưng sau khủng hoảng, một lượng vốn lớn lại rút khỏi thị trường dầu thô, khiến giá dầu sụt

giá thê thảm. Đến ngày 12/2/2009, giá dầu thô trên thị trường New York rớt xuống mức thấp

nhất còn 33,98USD/thùng. Bắt đầu từ tháng 3/2009, cùng với sự xoa dịu nỗi lo về sự tiếp tục

xấu đi của tình hình kinh tế thế giới, thị trường dầu thô quốc tế với thị trường chứng khoán thế

giới đồng loạt đảo chiều, giá dầu cuối cùng đã tăng đột biến lên mức 80USD/thùng. Có thể

thấy, chiều hướng của giá dầu thô càng ngày chịu ảnh hưởng bởi nhân tố tài chính, dầu thô

đang trở thành một lựa chọn quan trọng của các nhà đầu tư, hoạt động tương hỗ giữa giá dầu

với thị trường cổ phiếu ngày một rõ rệt, thị trường chứng khoán tăng điểm thường sẽ củng cố

lòng tin cho các nhà đầu tư, đẩy giá dầu đi lên. Bắt đầu từ trung tuần tháng 3/2009, nỗi lo lắng

nền kinh tế thế giới lại rơi vào Đại suy thoái toàn cầu của các nhà đầu tư được giảm bớt, thị

trường chứng khoán toàn cầu bắt đầu đảo chiều mạnh mẽ, giá dầu cũng bắt đầu hồi sinh trở

lại, cuối cùng đã tăng giá gấp đôi. Trước mốc cao kỷ lục mới trong vòng 15 tháng của thị

trường New York , Cục dự trữ liên bang Mỹ FED giải thích rằng, “thị trường cổ phiếu tăng

điểm đã tăng cường lòng tin cho các nhà đầu tư, đẩy giá dầu đi lên duy trì liên tục trong 4

tuần”. Trái lại, xét về sự cung cầu của thị trường dầu thô quốc tế, do kinh tế thế giới phục hồi

tương đối chậm, hơn nữa lại đứng trước nhiều nhân tố bất xác định, nhu cầu dầu thô quốc tế

của thị trường chưa tăng lên đáng kể. Ngoài việc gia tăng thêm lòng tin cho các nhà đầu tư,

chiều hướng sụt giảm của tỷ giá đồng USD cũng là một nhân tố lớn khác đẩy giá dầu tăng cao.

Từ tháng 3/2009, cùng với sự suy giảm nhu cầu dùng đồng USD nhằm tránh rủi ro của các nhà

Page 23: Báo cáo kinh tế dầu khí

22

đầu tư, chiều hướng tăng giá của đồng USD trong cuộc khủng hoảng tài chính đã kết thúc, lại

rơi vào chiều hướng đi xuống. Từ đầu tháng 3/2009, tỷ giá đồng USD sụt giảm. Do đồng USD

là tiền tệ thanh toán trong thương mại hàng hóa của thị trường quốc tế, nên đồng USD liên tục

mất giá dã khiến cho thị trường dầu mỏ liên tục có những phản ứng dây chuyền. Thông

thường, khi USD mất giá, đối với những nhà đầu tư sở hữu các đơn vị tiền tệ mạnh khác, giá

dầu thô trở nên rẻ hơn, một số nhà đầu tư sẽ mua nhiều dầu thô, từ đó đẩy giá dầu tăng cao

hơn. Ngoài ra, chiều hướng mất giá lâu dài của đồng USD còn gây ra nỗi lo về lạm phát. Một

vài nhà đầu tư còn mong muốn đưa vàng và dầu thô trở thành “ngoại tệ mạnh”, dùng để giữ

giá trị của tài sản, chống sự xói mòn của lạm phát. Thị trường dầu thô quốc tế ngày càng “tài

chính hóa”, ảnh hưởng quan trọng tới an ninh năng lượng của thế giới và sự phục hồi kinh tế

toàn cầu. Đặc tính biến động cố hữu của thị trường tài chính đã khiến cho giá dầu biến động

càng nhiều hơn, gây bất lợi cho các nước nhập khẩu và xuất khẩu dầu. Giá dầu giảm mạnh sẽ

ảnh hưởng đến ngành vận chuyển, ngành chế tạo hay thâm chí cả chi phí kinh doanh nông

nghiệp, cuối cùng khiến các ngành nghề này đứng trước nhiều rủi ro không thể dự đoán, từ đó

ảnh hưởng bất lợi tới sự phục hồi kinh tế Tương lai gần, giá dầu cũng bị ảnh hưởng của Hoa

Kỳ và một số nước châu Âu bị thời tiết lạnh và từ chối trong dầu thô và trữ lượng dầu bị ảnh

hưởng. Tuy nhiên, nói chung, thời gian hiện nay khi nhu cầu toàn cầu về dầu thô giảm-mùa,

và điều hành nhiều nhà máy lọc tỷ giá tương đối thấp. Các tăng dầu thô trên thị trường quốc tế

"tài chính" và để an ninh năng lượng của thế giới và khôi phục kinh tế toàn cầu có tác động

lớn. Các đặc điểm cố hữu của các nhiễu loạn thị trường tài chính, do đó thường xuyên hơn bay

hơi giá dầu trên các nước xuất khẩu dầu mỏ và các nước nhập khẩu là bất lợi. Giá dầu tăng vọt

ngã, nó sẽ ảnh hưởng đến vận tải, sản xuất hoặc thậm chí nông nghiệp, các chi phí điều hành,

và cuối cùng để làm cho các ngành công nghiệp đối mặt với nhiều rủi ro không thể đoán trước

bên ngoài, và do đó ảnh hưởng tiêu cực về khôi phục kinh tế.

Xu hướng của đồng đôla Mỹ cũng góp phần làm ảnh hưởng đến xu hướng của giá dầu mỏ. Từ

khi dầu mỏ được định giá bằng đồng đôla Mỹ, một sự yếu đi của đồng đôla Mỹ có thể bắt

buộc những nhà xuất khẩu dầu mỏ tăng giá sản phẩm của họ, nhằm thu lại giá trị mất đi do

đồng đôla Mỹ mất giá khi xuất khẩu dầu, nếu đem qui đổi giá trị dầu xuất khẩu qua những

đồng tiền khác như Euro hay Yên Nhật chẳng hạn.

Như một hệ quả tất yếu, giá dầu được cho là sẽ giảm khi đồng đôla Mỹ trong xu thế tăng giá

so với các đồng tiền mạnh khác. Một đồng đôla Mỹ khi ở ngoài những sự kiện tài chính tiền tệ

thế giới thì nó sẽ không phải là đồng đôla Mỹ.

Page 24: Báo cáo kinh tế dầu khí

23

2.4 Chính sách của các quốc gia 2.4.1 Chính sách kiểm soát giá dầu nội địa của Mỹ

Từ 1973 đến 1981, giá dầu sẽ không tăng nhanh chóng như thế nếu chính phủ Hoa Kỳ không

áp đặt chính sách năng lượng trong thời kỳ Cấm vận dầu mỏ. Chính sách của Hoa Kỳ là áp đặt

kiểm soát giá dầu sản xuất trong nước. Kết quả rõ ràng nhất chính sách kiểm soát giá cả là

người tiêu dùng Mỹ chỉ phải trả giá dầu sản xuất trong nước bằng một nửa so giá dầu nhập

khẩu và các nhà sản xuất của Mỹ nhận được ít hơn so với giá thị trường thế giới. Trong thực

tế, ngành công nghiệp dầu khí trong nước đã trợ cấp cho người tiêu dùng Mỹ.

Vậy chính sách có đạt được thành quả của nó? Trong ngắn hạn, suy thoái kinh tế gây ra bởi

giá dầu thô tăng vọt giai đoạn 1973-1974 là hơi ít nghiêm trọng hơn với người tiêu dùng Mỹ

vì họ chỉ phải đối mặt với giá thấp hơn so với phần còn lại của thế giới. Tuy nhiên nó lại có

các ảnh hưởng khác.

Trong trường hợp không có chính sách kiểm soát giá cả, việc thăm dò và sản xuất chắc chắn

sẽ lớn hơn đáng kể. Người tiêu dung phải đối mặt với giá dầu tăng cao sẽ giảm mức tiêu thụ:

các phương tiện giao thông sẽ đạt hiệu quả cao hơn, nhà cửa và các tòa nhà thương mại đã

Page 25: Báo cáo kinh tế dầu khí

24

được cách nhiệt tốt hơn và hiệu suất sử dụng năng lượng trong công nghiệp sẽ lớn hơn trong

suốt thời gian này. Ngoài ra nhiên liệu thay thế cho dầu mò và khí đốt tự nhiên để phát điện đã

có thể xảy ra sớm hơnDo đó, Hoa Kỳ sẽ ít phụ thuộc vào nhập khẩu năm 1979-1980 và phản

ứng trong việc tăng giá trong thời kỳ bị gián đoạn cung cấp Iran và Iraq được ít hơn đáng kể.

2.4.2 Chính sách xuất khẩu của Arab Saudi

Trong bối cảnh sản lượng dầu, khí đốt ở Bắc Mỹ và các khu vực khác trên thế giới đang phục

hồi, việc giữ cho giá dầu ở mức vừa phải sẽ có lợi cho tất cả các quốc gia. Mỹ và các nước tiêu

thụ dầu hàng đầu khác nên khuyến khích Ả Rập Xê-út thể hiện vai trò của mình tích cực hơn..

Nhìn vào thực tế, giá dầu hiện tại thật phi lý với giá dầu WTI là 102,96 $/thùng, dầu Brent là

122,31 $/thùng ( ngày 16/4/2012) . Kể cả khi Iran tiếp tục bị áp đặt lệnh trừng phạt vì vấn đề

hạt nhân thì thế giới cũng không thể thiếu dầu đến vậy. Một số nước xuất khẩu dầu tiềm năng

khác có dư khả năng để lấp chỗ trống của Iran. Sản lượng dầu của Mỹ và Canada hiện tại và

cả trong tương lai gần đều đang ở mức cao kỷ lục. Hơn nữa, sản lượng dầu tiềm năng của Ả

Rập Xê-út có thể lên tới 12,5 triệu thùng/ngày, mức chưa từng có trước kia. Thế nhưng những

lo lắng về nguy cơ thiếu dầu vẫn còn dai dẳng. Mỹ và châu Âu đang tính đến một giải pháp

bất thường và không mấy cần thiết là lấy dầu từ những kho dự trữ dầu chiến lược của mình để

bình ổn thị trường. Trong một động thái hiếm có, mới đây, ông Naimi, Bộ trưởng Dầu mỏ Ả

Rập đã bảy tỏ sự thất vọng của mình trên tờ Financial Times rằng ông không thể hạ giá dầu,

dù cho nguồn cung có dồi dào và có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của quốc gia này. Có một

mâu thuẫn kép trong trường hợp này: Quốc gia xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới muốn hạ

giá dầu, song lại không có khả năng làm được điều đó. Tuy nhiên, có một điểm rõ ràng rằng

chìa khóa để giải quyết vấn đề này lại nằm ở chính nước này và phụ thuộc vào những thay đổi

dứt khoát trong phương thức nước này bán dầu ra thị trường. Tất nhiên mong muốn hạ giá dầu

của Ả Rập Xê-út không phải là không có cơ sở. Giá dầu tăng cao không phải là mong muốn

trong dài hạn của các nước xuất khẩu và cũng là tin xấu cho nền kinh tế toàn cầu. Thêm nữa,

quốc gia dầu mỏ này cũng có nhiều lý do chính trị để hạn chế tăng giá dầu bởi lẽ giá dầu cao

đồng nghĩa với việc khuyến khích một số nước nhập khẩu dầu tiếp tục nhập dầu từ Iran, như

vậy Tehran sẽ được trợ giúp những khoản tài chính khổng lồ. Trong bài báo ông Naimi chia

sẻ, Ả Rập Xê-út sẵn sàng tăng mức sản lượng dầu vốn đã rất lớn của mình lên mức kỷ lục

trong lịch sử 12,5 triệu thùng/ngày và các kho chứa dầu ở nước ngoài của nước này đã đầy ắp.

Thế nhưng, các quốc gia trên thế giới vẫn đang lo ngại về việc quốc gia này liệu có thể bù đắp

được toàn bộ lượng thiếu hụt không khi nguồn cung dầu từ Iran hoàn toàn biến mất khỏi thị

trường. Ả Rập Xê-út có lẽ không muốn bị xem như đang chủ động làm suy yếu hoạt động xuất

khẩu dầu của Iran nhưng những gì đang diễn ra có vẻ đúng như vậy. Đơn giản là Ả Rập Xê-út

đang cố ý kiềm chế sử dụng sức mạnh thị trường của mình. Kết quả này cũng giống như sự vụ

Page 26: Báo cáo kinh tế dầu khí

25

trước kia, vào thời điểm trước năm 1985 đó thị phần và doanh thu của Ả Rập Xê-út bị tụt dốc

mạnh bởi chính sách đặt giá cao của OPEC. Những năm trước thời điểm này, sản lượng dầu

của Ả Rập Xê-út đã sụt giảm từ mức cao kỷ lục 10,3 triệu thùng một ngày xuống còn có 3,6

triệu thùng cho nỗ lực bất thành đề bảo vệ mức giá do OPEC áp đặt. Kể từ đó, Ả Rập Xê-út

không muốn gắn chặt với việc áp đặt giá cả cứng nhắc nữa. Cuối cùng là Ả Rập Xê-út quyết

định tuân theo giá cả thị trường. Qua những bài phát biểu và tuyên bố trước báo giới, các quan

chức nước này thể hiện cho các nước xuất và nhập khẩu dầu thấy ý định của mình và cố gắng

lấy lòng thị trường, song quốc gia này cũng không hề chủ động trên thị trường mở. Trên thực

tế, Ả Rập Xê-út không cho phép nước khác mua bán lại dầu của mình hoặc bán dầu mà không

có những quy định hạn chế về việc bán lại. Nước này chỉ bán cho những nước là người tiêu

dùng cuối cùng như các quốc gia lọc dầu, tự xử lý dầu thô. Điều này đồng nghĩa với việc

nguồn dầu có sẵn nhưng sẽ không bán nếu các nước lọc dầu không có nhu cầu. Đáng lẽ, Ả

Rập Xê-út không nên cư xử giống kiểu các ngân hàng trung ương thỉnh thoảng lại tiến hành

đấu giá trái phiếu chính phủ. Lãi suất, trong trường hợp này là giá dầu, được quyết định bởi

kết quả đấu giá và các giao dịch trên thị trường thứ cấp. Suy cho đến cùng, Ả Rập Xê-út giống

hệt như là ngân hàng dầu trung ương của thế giới. Nếu Ả Rập Xê-út cho phép các nước khác

giao dịch dầu thô của mình, tức là để cho những người mua dầu bán lại cho bên trung gian

hoặc khách hàng tiêu thụ cuối khác thì nguồn cung dồi dào của nước này tự khắc sẽ làm giảm

giá dầu. Nhưng có vẻ quốc gia này lại sợ phải đóng vai trò chủ động trên thị trường lo sợ bị

buộc tội "ki ểm soát" giá dầu. Tuy vậy, thật sự là có rất nhiều khác biệt giữa một bên là "kiểm

soát" và bên kia là việc không gây ảnh hưởng lên thị trường. Trên thực tế, Ả Rập Xê-út không

có khả năng "kiểm soát" giá dầu dù cho nước này có đảm nhận mọi vai trò chủ động trên thị

trường mà chỉ là sự ảnh hưởng. Hình mẫu nhà độc quyền chèn ép khách hàng của OPEC đã ăn

sâu tới mức Ả Rập Xê-út không muốn được xem là gây ảnh hưởng tới giá dầu. Nước Mỹ và

các nước tiêu thụ dầu hàng đầu khác nên khuyến khích Ả Rập Xê-út thể hiện vai trò của mình

một cách tích cực hơn nữa. Thị trường dầu mỏ toàn cầu nếu được Ả Rập Xê-út sử dụng sức

ảnh hưởng chính đáng của mình sẽ ít biến động hơn và thế cân bằng cung cầu vững chắc hơn.

Và sẽ càng tốt hơn nếu Ả Rập Xê-út có thể điều hòa được giá cả thị trường. Trong bối cảnh

sản lượng dầu và khí đốt ở Bắc Mỹ và các khu vực khác trên thế giới đang phục hồi, việc giữ

cho giá dầu ở mức vừa phải sẽ có lợi cho tất cả các quốc gia. Một mức giá quá thấp sẽ triệt

tiêu sự mở rộng các nguồn cung mới, ngược lại mức giá quá cao cũng sẽ phá hủy sự phục hổi

kinh tế vốn đã mong manh. Mục tiêu giá của Ả Rập Xê-út nằm trong khoảng giao động quanh

mức 100 USD/thùng cũng chính là mức giá có lợi cho các nước công nghiệp. Ả Rập Xê-út nên

được ủng hộ, thậm chí là đang bị thúc giục trở thành người quyết định giá chứ không chỉ là

người tuân theo giá thị trường. Giá dầu nên được đưa ra thảo luận trong các cuộc họp của G-

20 và các cuộc nhóm họp quốc tế khác giống như các vấn đề lãi suất và tỷ giá hối đoái. Sẽ

Page 27: Báo cáo kinh tế dầu khí

26

không có một thị trường vận hành hiệu quả chừng nào nước xuất khẩu dầu lớn nhất vẫn còn

đứng bên lề. Đẩy Ả Rập Xê-út vào cuộc chơi sẽ không những tốt cho người dân Mỹ mà còn

gây bất lợi cho những giáo sỹ Tehran.

2.5 Một số yếu tố khác tác động đến giá dầu thế giới

• Những yếu tố ảnh hưởng đến công suất lọc dầu: Những nhân tố tự nhiên như bão,

động đất, sóng thần và sự cản trở nguồn nguyên liệu cho quá trình lọc dầu, đặc biệt là

ở những mỏ dầu ở vùng duyên hải. Chính những yếu tố này sẽ làm ảnh hưởng đến giá

sản phẩm liên quan đến dầu mỏ và trực tiếp ảnh hưởng lên chi phí lọc dầu. Ví dụ: Vào

năm 2005, khi bão Hurricane Katrina tấn công vào những giàn khoan dầu ở vịnh

Mêhicô, điều này đã có tác động ngay lập tức đến giá dầu trên thế giới. Gần đây nhất là

sự kiện sóng thần tàn phá tỉnh Fukushima của Nhật Bản, tiếp theo là khủng hoảng hạt

nhân leo thang. Nhiều nhà đầu tư cho rằng nếu khủng hoảng hạt nhân không thể kết

thúc cũng đồng nghĩa nhu cầu về dầu mỏ của Nhật sẽ giảm thấp, giá dầu sẽ hạ.Ở chiều

ngược lại, nếu người Nhật có thể dừng lại được cuộc khủng hoảng hạt nhân thì đi cùng

với nhu cầu tái thiết vùng bị tàn phá, nhu cầu về dầu mỏ sẽ gia tăng, giá dầu sẽ tăng

theo.

• Hoạt động mua bán trao đổi và đầu cơ tích trữ trên Thị Trường Giao Sau (TTGS)

xăng dầu cũng gây tác động lên giá xăng dầu. Giá cả dầu mỏ cũng bị ảnh hưởng thông

qua việc đầu cơ của những người giao dịch trên thị trường hàng hóa. Ví dụ: Vào năm

2008, giá dầu đạt mức 140 đôla/thùng. Nhiều dự đoán cho rằng những nhà đầu cơ đang

cố gắng đưa giá dầu lên và tạo ra bong bóng giá dầu, một mức giá không thể chứng

minh được. Đến sau năm 2009, giá dầu đã bốc hơi hơn 70% xuống còn 30 đôla/thùng

bởi vì nhu cầu về dầu là không tồn tại đến mức gây ra cơn sốt về giá dầu như thế.

• Chính sách thuế: Chính sách thuế khác nhau sẽ góp phần hình thành giá dầu khác

nhau. Chính sách thuế phụ thuộc vào chính sách từng quốc gia và có thể ở mức cao

đến 50%.

• Kinh t ế Trung Quốc: Những nhà đầu tư luôn quan sát những động tĩnh từ Trung

Quốc, quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế thần kỳ trong thập niên qua. Theo số liệu

nghiên cứu hiện tại Trung Quốc nhập khẩu khoảng 5 triệu thùng dầu mỏ mỗi ngày.

Nếu kinh tế Trung Quốc tiếp tục phát triển mạnh mẽ thì nhu cầu nhập khẩu dầu mỏ dự

kiến sẽ gia tăng thêm 500 ngàn thùng/ngày. Nhưng ngược lại, nếu tốc độ tăng trưởng

kinh tế Trung Quốc chậm hơn thì nhu cầu nhập khẩu tăng thêm mỗi ngày ước khoảng

400 ngàn thùng. Đây là dự đoán của nhà đầu tư để từ đó họ có quyết định cho mình.

Thậm chí những quyết định về chính sách tiền tệ như thông điệp nâng tỉ lệ dự trữ bắt

Page 28: Báo cáo kinh tế dầu khí

27

buộc của Ngân hàng trung ương Trung Quốc nhằm kiềm chế lạm phát, cũng ảnh

hưởng giảm đến cầu nhập khẩu về xăng dầu, ảnh hưởng giảm đến giá xăng dầu thế

giới.

• Địa lý: Thế giới đã thay đổi từ một ngày mùa hè năm 1858, với bãi khai thác dầu tại

Bang Pennsylvania nước Mỹ, dầu nhanh chóng trở thành nguồn năng lượng quan trọng

để phục vụ nấu nướng, sưởi ấm, chạy máy lạnh và vận chuyển. 150 năm sau, với vịnh

Mêhicô, để khai thác được dầu mỏ lên từ lòng đất đòi hỏi thời gian, kỹ thuật công nghệ

tân tiến và đối mặt với những hiểm nguy từ tự nhiên. Cùng với thời gian thì những

ngày tháng để khai thác dầu mỏ một cách dễ dàng đã qua, hay nói cách khác những mỏ

dầu ở những nơi thuận lợi để khai thác ngày càng hiếm.Con người với sự tài tình và

khéo léo của mình đã tìm ra những cách khác nhau vượt qua những khó khăn, để tiếp

cận với những nguồn dự trữ dầu ở khắp nơi trên thế giới, từ những vùng rất xa xôi đến

những vùng hoang sơ nguyên thủy. Nhưng để lấy được dầu lên từ những vùng như bắc

cực hoặc dưới lòng đại dương sâu thẳm thì không những gặp khó khăn về công nghệ,

mà con người còn phải đối mặt với những mối nguy hiểm từ tự nhiên. Vịnh Mêhicô là

một ví dụ tiêu biểu vùng địa lý như thế.

• ·Khoa học công nghệ: Công nghệ khai thác dầu mỏ có sự phát triển vượt bậc một số

năm trở lại đây, giúp con người có thể khai thác dầu từ những vùng khó khăn hơn.

Cùng với đó là sự phát triển trong hoạt động sản xuất, lọc dầu, xử lý môi trường khai

thác, bảo đảm an toàn cho công nhân khai thác cũng được nâng cao.Để dầu mỏ tiếp tục

phun ra từ Vịnh Mêhicô thì mỗi ngày tập đoàn BP phải chi ra hàng triệu đôla Mỹ, kể

cả việc sử dụng bom, hóa chất để khai thác dầu.

• Chi phí khai thác và lọc dầu mỏ: Nếu chi phí này cao hơn thì giá dầu sẽ cao hơn

• Sự căng thẳng trên thị trường dầu thế giới: Điều này xảy ra trong thời kỳ nguồn dự

trữ dầu xuống mức thấp.

• Tâm lý lo lắng về dầu mỏ: Tâm lý lo lắng về sự bất ổn của giá dầu trên toàn cầu được

xem là nguyên nhân lớn nhất làm phát sinh thêm chi phí, gây sức ép gia tăng của giá cả

dầu mỏ.

• Những yếu tố mang tính chính trị và kinh tế: Những yếu tố kinh tế nói chung có tác

động dài hạn lên giá dầu. Mặc dù, đối với vùng Trung Đông và vịnh Mêhicô chúng có

thể dẫn đến sự thay đổi của giá dầu ngay lập tức. Những nhân tố chính trị có ảnh

hưởng khác nhau. Một sự kiện được mong đợi có thể không tác động đến giá dầu

nhưng sự kiện không mong đợi lại có thể.

• Hạn chế liên quan đến pháp luật: Nếu một quốc gia thông báo cắt giảm hoặc cấm

việc thăm dò dầu mỏ trong một khu vực mà biết rằng cần một chi phí lớn hơn, như

vịnh Mêhicô chẳng hạn, giá cả dầu mỏ trên Thị trường hàng hóa sẽ bị tác động bởi sự

Page 29: Báo cáo kinh tế dầu khí

28

mất đi một nguồn cung về dầu mà lẽ ra sẽ có, điều này gây tác động đến giá xăng dầu

hiện tại.Theo một báo cáo được thực hiện bởi U.S. Energy Information Administration,

vịnh Mêhicô được cho rằng chiếm 30% việc sản xuất dầu của quốc nội. Luật hạn chế

việc sản xuất dầu ở vịnh sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung trong tương lai và dẫn đến giá

dầu cao hơn.

2.6 Tác động của tăng giá dầu đến nền kinh tế thế giới

Cơn sốc giá dầu thường có tác động giống nhau tới các nền kinh tế: làm giảm tốc độ phát triển

kinh tế và thậm chí dẫn tới suy thoái khi mà sản lượng nền kinh tế tăng trưởng âm; Làm tăng

tỷ lệ lạm phát. Các hành động kìm hãm giá dầu của các nước nhập khẩu như tăng thuế tiêu thụ

dầu sẽ làm lợi cho các nhà sản xuất dầu lớn hơn là cho chính phủ các nước này.

Theo tính toán của nhiều tổ chức thì nếu dầu tăng đều đặn trong một năm khoảng 10% sẽ làm

giảm tốc độ tăng trưởng của Mỹ và G7 khoảng 0,3-0,4% trong năm đó.

Rất nhiều cuộc suy thoái kinh tế trên thế giới khởi nguồn từ sự tăng giá của dầu:

Giai đoạn 1974-1975: Suy thoái kinh tế Mỹ và thế giới gây nên bởi sự tăng gấp 3 lần giá dầu

sau cuộc chiến tranh Yom Kippur và sự cấm vận dầu liền theo đó.

Giai đoạn 1981-1982: Suy thoái kinh tế Mỹ và toàn cầu gây nên bởi sự tăng giá dầu sau cuộc

cách mạng hồi giáo ở Iran năm 1979.

Giai đoạn 1990-1991: Suy thoái kinh tế Mỹ một phần do giá dầu tăng cao sau cuộc tấn công

của Iraq vào Kuwait màu hè năm 1990.

Năm 2001: Suy thoái kinh tế Mỹ và toàn cầu một phần do sự tăng giá mạnh của giá dầu vào

năm 2000 sau khủng hoảng năng lượng ở California và căng thẳng ở Trung Đông.

Giá dầu tăng mạnh từ năm 2007 đến nay (đạt mức kỷ lục 139,12 USD/thùng vào ngày

6/6/2008 và mức 136 USD/thùng ngày 13/06/2008) đã khiến sản xuất công nghiệp Mỹ chỉ

tăng 2,7% trong tháng 5 so với mức 4,8% năm ngoái. Nhật bản con số này tương ứng là 0,6%

và 8,3%.

Các nước như Brazil, Hàn Quốc và Singapore chứng kiến mức tăng từ 1-4% cuả ngành công

nghiệp trong khi con số này cùng kỳ năm ngoái là từ 12 đến 22%. Với châu Âu, sản xuất công

nghiệp giảm 0,1%. Anh và Mexico, hai nước xuất khẩu dầu, giảm tương ứng 1,9% và 4,7%.

Tất cả các nền kinh tế lớn ngoài Mỹ thuộc Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế OECD cùng

với Mêxicô chiếm 13,7% kim ngạch xuất khẩu của Mỹ. Các chỉ số tiêu biểu của các nền kinh

tế OECD tính trong xu hướng 6 tháng đã tăng trưởng 7,5% vào đầu năm 2004, trong khi đó

tháng 4/2008, các chỉ số này giảm 0,5%.

Như vậy rõ ràng giá dầu tăng cao đã ảnh hưởng tới rất nhiều nền kinh tế, làm giảm tốc độ tăng

trưởng công nghiệp. Và các ngành công nghiệp đã có cơ chế tự điều chỉnh bằng việc giảm sản

lượng và do đó giảm nhu cầu dầu.

Page 30: Báo cáo kinh tế dầu khí

29

Kết luận Giá dầu chịu tác động mạnh của quan hệ cung cầu: Trong ngắn hạn, cung tác động mạnh lên

giá dầu, một sự thay đổi nhỏ của cung cũng dẫn tới tác động mạnh tới giá. Thực tế sự cắt giảm

sản lượng dầu các năm 1974, 1979, 1990 và 2000 đã dẫn tới sự tăng giá mạnh do cầu chưa kịp

điều chỉnh.Về phía cầu, khi cầu tăng lên, gần nhất là giai đoạn hồi phục kinh tế toàn cầu 2003-

2004 sẽ dẫn tới sự tăng mạnh của giá dầu. Cung dầu là tương đối không co giãn trong ngắn

hạn, trừ khi OPEC dư thừa công suất sản xuất rất lớn, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu tăng lên.

Phản ứng phía cung phụ thuộc một phần vào quyết định sản lượng của OPEC: Mặc dù một vài

quyết định của OPEC xuất phát từ những yếu tố chính trị (như trường hợp giá dầu tăng gấp 3

lần năm 1973 và sự cấm vận dầu); OPEC luôn nhận thức được rằng sự tăng lên của giá dầu sẽ

đẩy nền kinh tế Mỹ và thế giới vào khủng hoảng và điều này sẽ quay ngược trở lại ảnh hưởng

tới họ nếu như cuộc khủng hoảng dẫn tới sự giảm mạnh của giá dầu. Các thành viên chính của

OPEC với trữ lượng lớn có động cơ khuyến khích các nước nhập khẩu dầu không đầu tư quá

nhiều vào sản xuất năng lượng vì điều này sẽ dẫn tới sự giảm phụ thuộc của các nước này vào

dầu mỏ. OPEC thường có hành động nhằm kiểm soát nguồn cung nhằm tránh sự tăng giá quá

mức và lâu dài vì điều này sẽ quay trở lại ảnh hưởng xấu tới OPEC trong trung hạn, và hiện

tại, công suất sản xuất dư thừa không quá lớn giữa các nước thành viên OPEC đã hạn chế khả

năng kiểm soát giá.Duy trì một liên minh kinh tế gắn kết là một điều khó khăn. Giá dầu tăng

cao thúc đẩy sản xuất ngoài liên minh đồng thời giảm cầu. Mỗi thành viên của liên minh đều

có động cơ để gian dối. Các thành viên lớn của liên minh sẽ không muốn cắt giảm sản lượng

và chứng kiến thị phần của mình giảm sút nếu như họ cân bằng phần tăng thêm ngầm của các

thành viên khác.Tuy nhiên, giá dầu ngày càng không thể kiểm soát bởi hành động của tất cả

các thành viên, mà bởi Ả rập xê út (sau đó là Tiểu Vương Quốc Ả rập Thống nhất). Hầu hết

các nước thành viên OPEC khác sản xuất hết công suất và thường vượt qúa hạn ngạch quy

định. Ả rập Xê út là nước duy nhất sản xuất thấp hơn nhiểu công suất thực tế. Giá dầu tăng lên

cao kỷ lục như hiện nay là do cầu quá mạnh chứ không phải do thiếu cung, tuy nhiên cũng bị

ảnh hưởng từ cung khi mà OPEC vẫn giữ sản lượng hạn chế và khả năng sẵn sàng sản xuất

thêm dầu ở mức thấp. Đồng USD trong xu hướng giảm giá đã thúc đẩy việc mua hàng hóa làm

tài sản phòng hộ chống rủi ro giảm giá đồng tiền, cũng làm cầu USD tăng lên. Thêm nữa USD

giảm giá khiến cho sức mua từ doanh thu bán dầu của các nước xuất khẩu giảm đi khi quy đổi

ra các đồng tiền khác, do đó các nước xuất khẩu có xu hướng tăng giá dầu theo tính theo USD.

Ngoài ra giá dầu không chỉ phụ thuộc vào cung cầu hiện tại mà còn phụ thuộc vào các dự đoán

cung cầu trong tương lai.

Page 31: Báo cáo kinh tế dầu khí

30

TÀI LI ỆU THAM KH ẢO

[1] TRANG PHÂN TÍCH KINH TẾ DẦU KHÍ http://wtrg.com

[2] TRANG BÁO ĐIỆN TỬ VNEXPRESS http://vnexpress.net/gl/ban-doc-

viet/2012/03/mong-manh-nhu-gia-xang-dau/

[3] BÁO ĐIỆN TỬ http://hoidoanhnghiep.ru/vietnamese/News/4637/Nhan-to-nao-day-

gia-dau-the-gioi-tang-cao.html

[4] BÁO ĐIỆN TỬ http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/bien-dong-nhu-gia-dau-the-gioi

[5] BÁO ĐIỆN TỬ http://www.tamnhin.net/Phantich/14457/Nam-2011-Thi-truong-dau-

mo-the-gioi-day-bien-dong-.html

[6] BÁO ĐIỆN TỬ TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ VIỆT NAM

http://www.petrolimex.com.vn/default.aspx

[7] BÁO ĐIỆN TỬ http://vef.vn/2012-03-14-2012-rui-ro-nao-tu-cu-soc-dau-mo-