147
1 LỜI NÓI ĐẦU Nền Y học cổ truyền nước ta có lịch sử lâu đời và phong phú gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng và giữ nước của dân tộc. Từ xa xưa, cha ông ta đã biết sử dụng nguồn dược liệu quí báu của đất nước để phòng và chữa bệnh. Trải qua hàng ngàn năm, ông cha ta đã đúc kết được pho kinh nghiệm từ thực tiễn cuộc sống về kiến tạo, khai thác, chế biến và sử dụng nguồn dược liệu song song với shình thành của pho lý luận về y lý, phương thuốc, phương pháp bào chế, chế biến thuốc. Những danh y nổi tiếng đã xuất hiện sáng chói, xuất chúng trong suốt quá trình phát triển của lịch sử dân tộc như: Nguyễn Bá Tĩnh ( Tuệ Tĩnh, thế kỷ 13), Trần Nguyên Đào (thế kỷ 14), Nguyễn Trực (thế kỷ 15), Hải Thượng Lãn Ông (Lê Hữu Trác - thế kỷ 18) và hàng chục danh y khác như Chu Văn An, Hoàng Đôn Hoà, Nguyễn Đình Chiểu .... Từ khi nước ta giành được độc lập năm 1945, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là " y học hiện đại kết hợp chặt chẽ với y học cổ truyền ". Chính phủ mà trực tiếp là Bộ Y tế không ngừng mở rộng và phát triển y học cổ truyền, trân trọng các phương thuốc cổ truyền, bào chế thuốc theo phương pháp của y học cổ truyền. Pho kiến thức về y lý, phương thuốc, vị thuốc và cách bào chế thuốc đã được các nhà y học phương đông từ cổ chí kim tập hợp đến nay với một khối lượng khổng lồ. Việc hiểu biết về đông dược là một yêu cầu bắt buộc đối với các thầy thuốc y học cổ truyền. Thuốc là một trong những vũ khí quan trọng nhất mà thầy thuốc cần có để phòng và tiêu diệt bệnh tật cho người bệnh và cộng đồng. Học môn bào chế và chế bi ến đông dược, các thầy thuốc tương lai cần nắm vững những kiến thức cơ bản về đặc điểm, phương pháp bào chế, tính dược và công năng chủ trị của vị thuốc. Đặc biệt là hiểu biết về vị thuốc dưới ánh sáng của khoa học hiện đại. Mỗi một vị thuốc chỉ chứa một hàm lượng mỗi hoạt chất là rất nhỏ bé, nhưng bào chế đã tạo ra cho nó sự vĩ đại trong việc vai trò của người phòng bệnh, chữa bệnh và nâng cao thể trạng của con người.

Bào chế

Embed Size (px)

Citation preview

1

LỜI NÓI ĐẦU

Nền Y học cổ truyền nước ta có lịch sử lâu đời và phong phú gắn liền với cuộc đấu

tranh xây dựng và giữ nước của dân tộc. Từ xa xưa, cha ông ta đã biết sử dụng nguồn

dược liệu quí báu của đất nước để phòng và chữa bệnh.

Trải qua hàng ngàn năm, ông cha ta đã đúc kết được pho kinh nghiệm từ thực tiễn

cuộc sống về kiến tạo, khai thác, chế biến và sử dụng nguồn dược liệu song song với sự

hình thành của pho lý luận về y lý, phương thuốc, phương pháp bào chế, chế biến thuốc.

Những danh y nổi tiếng đã xuất hiện sáng chói, xuất chúng trong suốt quá trình phát

triển của lịch sử dân tộc như: Nguyễn Bá Tĩnh (Tuệ Tĩnh, thế kỷ 13), Trần Nguyên Đào

(thế kỷ 14), Nguyễn Trực (thế kỷ 15), Hải Thượng Lãn Ông (Lê Hữu Trác - thế kỷ 18)

và hàng chục danh y khác như Chu Văn An, Hoàng Đôn Hoà, Nguyễn Đình Chiểu....

Từ khi nước ta giành được độc lập năm 1945, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là

" y học hiện đại kết hợp chặt chẽ với y học cổ truyền ". Chính phủ mà trực tiếp là Bộ Y

tế không ngừng mở rộng và phát triển y học cổ truyền, trân trọng các phương thuốc cổ

truyền, bào chế thuốc theo phương pháp của y học cổ truyền.

Pho kiến thức về y lý, phương thuốc, vị thuốc và cách bào chế thuốc đã được các nhà

y học phương đông từ cổ chí kim tập hợp đến nay với một khối lượng khổng lồ. Việc

hiểu biết về đông dược là một yêu cầu bắt buộc đối với các thầy thuốc y học cổ truyền.

Thuốc là một trong những vũ khí quan trọng nhất mà thầy thuốc cần có để phòng và tiêu

diệt bệnh tật cho người bệnh và cộng đồng.

Học môn bào chế và chế biến đông dược, các thầy thuốc tương lai cần nắm vững

những kiến thức cơ bản về đặc điểm, phương pháp bào chế, tính dược và công năng chủ

trị của vị thuốc. Đặc biệt là hiểu biết về vị thuốc dưới ánh sáng của khoa học hiện đại.

Mỗi một vị thuốc chỉ chứa một hàm lượng mỗi hoạt chất là rất nhỏ bé, nhưng bào chế

đã tạo ra cho nó sự vĩ đại trong việc vai trò của người phòng bệnh, chữa bệnh và nâng

cao thể trạng của con người.

2

Giáo trình gồm bốn chương với nội dung như sau:

Chương 1: Đại cương bào chế đông dược

Chương 2: Thủ thuật và kỹ năng bào chế và chế biến đông dược

Chương 3: Chuyên luận bào chế, chế biến vị thuốc

Chương 4: Một số dạng đông dược thường dùng

Lần đầu tiên biên soạn, chúng tôi không tránh khỏi những khiếm khuyết.

Mong được sự đóng góp của độc giả để giáo trình ngày càng được hoàn thiện.

Hà Nội, ngày 04 tháng 09 năm 2010

DS. Nguyễn Thị Hải

TS. Nguyễn Văn Quân

3

CHƯƠNG I

ĐẠI CƯƠNG BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC

(4 tiết)

MỤC TIÊU

1. Trình bày được khái niệm cơ bản và bản chất của bào chế, chế biến thuốc

2. Hiểu, phân tích và trình bày được mục đích của bào chế, chế biến thuốc

3. Nắm vững và trình bày được các yêu cầu của bào chế đông dược

4. Trình bày được mối quan hệ giữa bào chế thuốc và thất tình hoà hợp

NỘI DUNG

I – KHÁI NIỆM VỀ BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC.

1.1. Định nghĩa

Theo y học hiện đại:

Bào chế học là môn khoa học chuyên nghiên cứu về kỹ thuật điều chế các dạng

thuốc nhằm mục đích phòng và chữa bệnh cho người

Môn bào chế cung cấp những kiến thức và kỹ năng cơ bản về kỹ thuật điều

chế, kiểm tra, bảo quản các dạng thuốc.

Tuy nhiên, bào chế đông dược không chỉ bao gồm các dạng thuốc mà còn bao

gồm cả các vị thuốc.

Bào chế đông dược là sử dụng chế hoá cơ học, chế hoá lý hoá hoặc sinh

tổng hợp nhằm thay đổi hình dạng, lý tính, dược tính của các nguyên liệu có

nguồn gốc tự nhiên từ động vật, thực vật hoặc khoáng vật để đáp ứng yêu cầu

của quá trình sản xuất, bảo quản, kinh doanh, nâng cao hiệu quả phòng bệnh,

điều trị bệnh và nâng cao thể trạng con người.

4

Bản chất của bào chế chủ yếu gồm chế hoá lý hoá và chế hoá cơ học.

Bản chất chế hoá cơ học là lực tác động như: Thái, bào, tán, rây... nhằm thay

đổi hình dạng, kích thước, hình dáng, bề mặt tiếp xúc, hình khối v.v.. của thuốc

Bản chất chế hoá lý hoá là quá trình tác động của các yếu tố vật lý như nhiệt

độ, áp suất, ánh sáng kèm theo đó là các quá trình hoá học xảy ra (pH, thuỷ phân,

bay hơi, thăng hoa, loại trừ, tổng hợp v.v..). Hoả chế, thuỷ chế, thuỷ hoả hợp chế,

rán dầu, khúc, chế sương thuộc chế hoá lý hoá. Nó bao gồm các phương pháp bào

chế như: Sao trực tiếp, sao có thêm chất trung gian truyền nhiệt, trích ( tẩm rượu,

giấm, gừng, mật, muối, đồng tiện, nước vo gạo, hoàng thổ, nước đậu đen...), thuỷ

phi (nghiền dược liệu trong nước), thuỷ bào, hơ, chích, đốt, lùi, nung, sắc, ngâm,

hãm, hầm, nấu, đồ, chưng, ủ, làm trong v.v...

Tuy nhiên trong quá trình bào chế, hai cơ chế chế hoá lý hoá và chế hoá cơ

học thường được sử dụng xen kẽ với nhau.

Nói chung bào chế, chế biến thuốc là công việc biến đổi tính chất thiên nhiên

của dược liệu thành những vị thuốc có giá trị phòng bệnh và trị bệnh tốt nhất

Tóm lại: Chế biến thuốc cổ truyền là phương pháp tổng hợp của việc dùng

nước - lửa, phụ liệu để làm cho vị thuốc từ trạng thái thiên nhiên trở thành trạng

thái có thể sử dụng để phòng, trị bệnh và nâng cao thể trạng cho con người.

1.2. Nội dung nghiên cứu môn bào chế

Nội dung nghiên cứu của môn Bào chế Đông dược là tất cả những vấn đề đặt

ra trong quá trình chế biến của các dược liệu thành các chế phẩm và dạng thuốc,

sao cho các thành phẩm đó dễ bảo quản, kinh doanh, tiện sử dụng và phát huy tối

đa phòng bệnh và chữa bệnh

Như vậy, nội dung nghiên cứu của môn bào chế là rất rộng và dựa trên các vấn

đề cơ bản sau đây:

- Nâng cao kỹ thuật trên cơ sở cải tiến phương pháp bào chế cổ điển dựa trên

những thành tựu của khoa học, công nghệ

- Nghiên cứu triển khai từ qui mô phòng thí nghiệm đến qui mô công nghiệp

5

- Nghiên cứu để tìm ra các tác dụng mới, các dạng thuốc mới, bảo quản thuốc

tốt hơn.

- Nghiên cứu về kiểm nghiệm và bảo quản các dạng thuốc nhằm bảo đảm chất

lượng thuốc.

1.3. Mối liên quan giữa môn bào chế với các môn khoa học khác

Bào chế học là môn khoa học ứng dụng, vì vậy đòi hỏi người ứng dụng phải có

những kiến thức các môn khoa học cơ bản và các môn học chuyên môn nghiệp vụ

khác. Có thể khẳng định rằng Bào chế học là tổng hợp những phát minh có giá trị

của các ngành khoa học kỹ thuật khác. Mối liên quan giữa bào chế với các môn

khoa học khác được thể hiện qua sơ đồ sau:

II - MỤC ĐÍCH BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC.

2.1. Làm thuốc sạch và đảm bảo vệ sinh an toàn dược phẩm

Các tạp chất vô cơ và hữu cơ lẫn lộn trong dược liệu cần phải loại bỏ bao gồm:

nấm mốc, mối mọt, cát, sỏi, đất, xác thực vật chết v.v.....

Các loại không phải là dược liệu (tinh chế dược liệu) và những thành phần hoá

học được đưa vào khi trồng trọt và bảo quản thuốc men; các vi sinh vật luôn phải

loại trừ trong quá trình sơ chế, bào chế, chế biến dược liệu và thuốc.

Bỏ bớt các bộ phận không cần thiết của dược liệu để vị thuốc tinh khiết hơn,

Vật lý,

toán,

Hóa lí,

Hóa hữu cơ,

Hóa phân tích,

Hóa dược,

Quản lý dược,

Kinh tế

Bảo quản

Vi khuẩn học,

Độc chất học

Sinh hóa học,

Dược lí học

Thực vật,

Dược liệu,

Phương tễ,

Công nghiệp

dược

Bào chế

6

lựa chọn được đúng bộ phận dùng: Mạch môn bỏ lõi; Ve sầu bỏ đầu, chân; Ngưu

tất bỏ đầu, Kim anh bỏ hạt, Bỏ vỏ tang bạch bì, bỏ rễ phụ tử......

Hơn nữa, trong cùng một dược liệu có thể phải tách ra các bộ phận dùng khác

nhau với tác dụng thậm chí trái ngược nhau như Ma hoàng (rễ và thân), Trắc bá

diệp (lá và hạt); Câu kỷ tử (vỏ rễ và quả)....

Ngoài ra để dễ sử dụng, tránh được các mùi vị khó chịu, giúp cho việc chiết

xuất (hãm, ngâm, sắc...) thuận lợi, nâng cao chất lượng dược liệu, chất lượng

thuốc và hiệu quả điều trị.

2.2. Tạo vị thế hàng hoá đặc biệt cho thuốc

Thuốc là hàng hoá đặc biệt. Việc bào chế, chế biến thuốc giúp đạt những tiêu

chuẩn qui định.

- Tạo ra vị thuốc có hình dáng, màu sắc đẹp, mùi vị thơm ngon hơn;

- Tạo tính hấp dẫn của vị thuốc, tính tiện lợi, tính hiệu quả trong việc sử dụng

và lưu chuyển.

- Xây dựng vị thế cho thuốc cao hơn trong lòng ngưòi tiêu dùng, thoả mãn nhu

cầu của người tiêu dùng, biến nó trở thành một hàng hoá đặc biệt trên thương

trường, có tính cạnh tranh cao, được y học hiện đại công nhận.

Ví dụ: Nhân xâm đóng hộp, Tam thất, Linh chi tán, Lục vị ẩm, một số chế

phẩm khác

Có thể phân chia vị thuốc đến kích thước, hình dáng hợp lý, tiện lợi, phù hợp

với thói quen người tiêu dùng. Ví dụ: Thuốc dạng phiến, dạng khúc, dạng bột...

2.3. Tạo ra tác dụng chữa bệnh mới cho thuốc.

Bào chế, chế biến một số vị thuốc có thể thay đổi tác dụng tạo ra các tác dụng

mới ngoài tác dụng vốn có của nó. Ngoài ra còn một số thuốc khi ở dạng nguyên

liệu thì không có tác dụng trị bệnh, chỉ có tác dụng trị bệnh và đưa làm thuốc sau

khi đã bào chế theo phương pháp riêng. Đó chính là biện pháp làm tăng hoặc giảm

tính âm, tính dương của thuốc.

7

Ví dụ:

- Bồ hoàng sống có tác dụng hoạt huyết, thán sao có tác dụng chỉ huyết.

- Táo nhân, Tâm sen để sống gây mất ngủ; sao đen có tác dụng an thần gây ngủ.

- Sài hồ có tác dụng (khuynh hướng) thăng đề, sau khi chế với dấm có tác dụng

giáng.

- Sinh địa (sống) vị đắng, ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt lương huyết;

sau khi chế biến thành Thục địa. Thục địa này có vị ngọt, tính ôn, có tác dụng bổ

âm, bổ huyết (thay đổi cả khí và vị).

- Tóc chỉ làm thuốc cầm máu sau khi đốt tồn tính.

- Mẫu lệ, Cửu khổng, Trân châu mẫu nung hoặc tôi trong dấm có tác dụng cố

tinh sáp niệu.

- Xuyên sơn giáp sao cách cát hoặc nướng đến khi chín phồng đều được dùng

để hoạt huyết, giải độc, tiêu mủ.

- Thạch cao sống có tác dụng sinh tân chỉ khát, thanh nhiệt tả hoả nhưng sau

khi nung chủ yếu chỉ được dùng ngoài.

2.4. Tăng hiệu lực chữa bệnh của thuốc

Đây là mục đích trọng tâm của bào chế.

Theo lý luận chung, các chứng bệnh sinh ra đều xuất phát từ yếu tố nội thương

hoặc ngoại thương hoặc bất nội ngoại thương có liên quan đến các tạng phủ, vinh

vệ, khí huyết, đường kinh lạc, vùng bị bệnh..... không vượt quá qui nạp của âm

dương ngũ hành. Nhiều phương pháp chế biến thuốc khác nhau, phụ liệu khác

nhau để tăng tác dụng (hiệu lực) của thuốc và tạo cho thuốc có màu sắc, mùi vị

tương ứng với hành trong thuyết ngũ hành. Đây là giải pháp nhằm tăng tính quy

kinh của vị thuốc.

- Tăng tác dụng của thuốc ở tỳ, vị thì chế biến để vị thuốc có màu vàng, vị

ngọt, mùi thơm. Để tăng tác dụng kiện tỳ: Chế biến thuốc sao vàng, sao với Cám

gạo, sao với Hoàng thổ, Bích thổ, nước vo gạo, chích Mật ong, chích đường, chích

8

nước Cam thảo...Ví như tăng tác dụng kiện tỳ của Bạch truật thì chế với cám,

hoàng thổ hoặc sao vàng. Hoài sơn sao vàng; Hoàng kỳ trích mật....

- Tăng tác dụng của thuốc ở thận, bàng quang thì chế biến để vị thuốc có màu

đen, vị mặn. Qui kinh Thận: Chế biến thuốc với nước Muối, nước Đậu đen. Ví dụ

: Tăng tác dụng bổ thận của Hà thủ ô thì chế biến với nước đậu đen, Đỗ trọng và

Cẩu tích với muối.; Thục địa chưng; Hoa hoa thán và Trắc bách diệp thán sao để

cầm máu với ý nghĩa “đen chỉ huyết”....

- Tăng tác dụng của thuốc ở phế thì chế để vị thuốc có vị cay, màu trắng. Qui

kinh Phế: Chế biến thuốc với nước Gừng, nước Phèn chua, nước Cam thảo... Ví

dụ: Bán hạ, đẳng sâm chế dịch nước gừng. Rễ dâu bóc lấy vỏ, bỏ vỏ ngoài tạo

Tang bạch bì...

- Tăng tác dụng của thuốc ở tâm thì chế biến để vị thuôc có vị đắng, màu đỏ.

Qui kinh Tâm: Chế biến thuốc với nước Đồng tiện.

- Tăng tác dụng của thuốc ở can, đởm thì chế biến để vị thuốc có vị chua, màu

xanh. Qui kinh Can: Chế biến thuốc với Dấm. Ví dụ Hương phụ, Sài hồ, Huyền hồ

chế dấm....

Trên đây chính là phương pháp tăng tính qui kinh của vị thuốc, làm cho tác

dụng và chỉ định chữa bệnh của vị thuốc được mở rộng.

- Để dẫn thuốc phía trên để thăng đề, cần chế biến thuốc với rượu (như chế

Xuyên khung, Đại hoàng, Thăng ma...)

Một số chú ý quan trọng:

a/ Việc sử dụng các phụ liệu để chế biến thuốc phải phù hợp với tính qui kinh

bản thân vốn có của thuốc, không bừa bãi làm thay đổi tính chất qui kinh. Ví dụ:

Bạch truật qui vào kinh tỳ, vị. Chế biến để tăng tác dụng kiện tỳ vị, không thể chế

biến để bổ can thận.

b/ Việc sử dụng các phụ liệu để chế biến thuốc phải phù hợp với tính qui kinh

bản thân vốn có của thuốc, không bừa bãi làm thay đổi tính chất qui kinh.

Ví dụ: Bạch truật qui vào kinh tỳ, vị. Chế biến để tăng tác dụng kiện tỳ vị,

9

không thể chế biến để bổ can thận.

c/ Người ta thường không dùng các phụ liệu làm ảnh hưởng tới tác dụng của

thuốc.

Ví dụ: Thuốc bổ thận dương tẩm Cam thảo sẽ hạn chế các thuốc đó qui kinh

thận; Ngưu tất là thuốc cố hạ, đi xuống phía dưới cơ thể nếu tẩm với nước Cam

thảo là thuốc cố trung sẽ làm cho Ngưu tất không phát huy tác dụng ở hạ tiêu.

d/ Có thể làm giao tính qui kinh của vị thuốc.

Ví dụ: Để giúp cho tâm thận giao nhau thì chế Hoàng liên với nước Nhục quế

hoặc ngược lại và nhằm mục đích dẫn dương vào âm, để tâm thận giao nhau giúp

vị thuốc có thêm tác dụng an thần gây ngủ.

e/ Để tăng thêm “vị” cho các thuốc về khí, về dương như thuốc bổ khí kiện tỳ,

thuốc bổ thận dương ... thường phải chế biến về vị.

Ví dụ: - Thuốc bổ thận dương thường tẩm thêm với muối ăn có “vị mặn” để

chúng có đủ cả khí lẫn vị cho thận làm cho tăng tác tác dụng của chúng đối với thận.

- Các thuốc bổ khí kiện tỳ cần bổ sung thêm vị nên chúng thường được chích

Mật ong, chích đường, sữa để có thêm vị ngọt.

Như vậy, khí và vị thường hỗ trợ nhau để tăng sức cho vị thuốc

2. 5. Giảm độc tính và tạo đường dùng mới cho thuốc

Hầu hết các dược liệu độc phải bào chế để giảm độc trước khi dùng cho người

bệnh.

Thuốc độc trong y học cổ truyền được chia làm hai loại: Loại có tác dụng

mạnh gây nguy hiểm đến tính mạng người dùng (tương đương như độc bảng A và

các thuốc gây nghiện) như Phụ tử, Hoàng nàn, Mã tiền... và loại khác gây kích

ứng ngứa, nôn... như Bán hạ, Nam tinh, Ráy...

Giảm độ độc tức là giảm mức độ độc gây nguy hiểm cho tính mạng, hoặc gây

kích ứng gây ngứa, buồn nôn.v.v... cho người sử dụng.

Muốn đạt điều đó, người ta phải sử dụng các phương pháp chế biến như:

10

2.5.1. Hoả chế

Dùng nhiệt độ để giảm độc tính của vị thuốc

Ví dụ: Sử dụng nhiệt độ cao từ 200˚C - 250˚C để phân huỷ chất độc trong

dược liệu như đối với Mã tiền..., sấy ở nhiệt độ trên 190˚C Bán hạ sẽ mất vị ngứa.

Chất độc bị phân huỷ theo 3 cơ chế sau:

- Nhiệt phân: Do độ cao phân huỷ một số thành phần hoá học cấu tạo nên vị

thuốc; các chất khác nhau sẽ bị phân huỷ ở mức độ khác nhau; men sinh học bị

giảm hoặc mất hoặt tính khi nhiệt độ tăng cao tới 100C.

- Bay hơi: Một số chất dễ bay hơi như tinh dầu, một số chất có cấu tạo ester

- Thăng hoa: Antranoid, một số chất trong nhóm alcaloid (cafein...)

2.5.2. Thuỷ chế

Dùng nước hoặc phụ liệu ngâm, tẩm.... vị thuốc sẽ hạn chế được tác dụng bất

lợi theo cơ chế loại trừ hoặc thuỷ phân.

- Loại trừ: Sử dụng nước hoặc dịch phụ liệu hoà tan hoạt chất độc và một số

thành phần khác.

Độ tan của thành phần hoá học phụ thuộc vào độ pH của dịch ngâm. Alcaloid

dạng muối tan trong dịch có pH acid, coumarin tan tốt trong dịch có pH kiềm.

Ví dụ: Dịch ngâm nước vo gạo làm giảm hàm lượng alcaloid độc trong Hoàng

nàn, giảm ngứa của Ráy, giảm tanin và antranoid trong Hà thủ ô đỏ.

- Thuỷ phân: Nhiều thành phần có cấu trúc dễ bị thuỷ phân bởi nước (khi

ngâm hoặc ủ) thành chất khác.

Ví dụ: Thông qua các phương pháp bào chế, chất Aconitin trong Ô đầu (độc

bảng A) bị thuỷ phân thành Benzoylaconin có độ độc giảm 400 - 500 lần so với

Aconin, riêng Aconin có hàm lượng giảm 1000 - 2000 lần.

Sau khi bào chế sẽ tạo thêm hai vị thuốc mới là Phụ tử gồm Bạch phụ tử và

Hắc phụ tử (độc bảng B).

11

2.5.3. Thuỷ hoả hợp chế:

Ở nhiệt độ cao có dịch phụ liệu (chưng, cất, nấu.... để giảm nhanh độc tính) dễ

chuyển hoá thành phần chất độc trong dược liệu như đối với Phụ tử, Bán hạ.

Các phụ liệu được sử dụng bào chế với các vị thuốc độc để giảm độc như Cam

thảo, Đậu đen, Đậu xanh, Magie clorid ( MgCl2), nước đảm ba...;

Các phụ liệu dùng bào chế để giảm vị ngứa trong thuốc như nước vôi, nước

Tro bếp, Gừng tươi , nước vo gạo, nước phèn chua..;

Các phụ liệu dùng bào chế để làm giảm tác dụng gây nê trệ, đầy bụng như Sa

nhân, Sinh khương, rượu;

Các phụ liệu dùng bào chế để làm giảm tác dụng gây táo bón như nước vo gạo,

Mật ong.

Tuy nhiên, chế biến không hợp lý có thể làm giảm hoạt chất dẫn tới làm giảm

chất lượng vị thuốc và giảm hiệu lực chữa bệnh của thuốc.

2. 6. Giảm tác dụng không mong muốn của thuốc.

Một số vị thuốc có thành phần hoá học gây tác dụng không có lợi cho người

bệnh như antranoid, saponin triterpenic, chất nhầy ... Các chất này thường gây ỉa

chảy ở người đang rối loạn tiêu hoá, một số tinh dầu gây kích ứng dạ dày. Thậm

chí một số chất gây tác dụng ngược lại với tác dụng của hoạt chất. Việc chế biến

có thể làm giảm hoặc mất tác dụng này là cần thiết để tăng hiệu lực trị bệnh, tăng

độ an toàn cho người bệnh.

Ví dụ: Quyết minh tử dùng sống sẽ gây ỉa chảy, liều cao có thể tả hạ, sau khi

sao vàng thì thuốc có tác dụng nhuận hạ và giáng áp, sao cháy có tác dụng an thần.

Đó là do quá trình sao thuốc, một số hoạt chất mang tính dương, dạng ô xy hoá,

tồn tạo tự do. Dạng này, các hoạt chất có tác dụng kích thích thành ruột. Sau khi

sao, chúng chuyển sang dạng khử, dạng liên kết và mang tính âm nên giảm hoặc

mất tác dụng kích thích thành ruột.

Mỗi vị thuốc thường có nhiều tác dụng khác nhau, trong bệnh cảnh của người

12

bệnh này thì nó là tốt, nhưng trong bệnh cảnh của bệnh nhân khác trở thành tác

dụng bất lợi, chế biến có thể làm giảm tác dụng bất lợi này.

Ví dụ: Thục địa bổ âm, bổ huyết sinh tân dịch. Khi dùng cho người bệnh tâm,

tỳ hư thì sẽ gây đầy chướng bụng, rối loạn tiêu hoá. Nếu sao khô thì sẽ hạn chế tác

dụng này (giảm bớt tuỷ trong thuốc để tránh hiện tượng tương thừa).

Bạch truật có tác dụng kiện tỳ táo thấp. Khi dùng cho người âm hư nội nhiệt,

nếu chế với nước vo gạo sẽ giảm tính " ráo" của thuốc.

2.7. Thay đổi tính (khí) vị, từ đó thay đổi tác dụng của thuốc

Tính vị là hai đặc trưng của vị thuốc và biểu hiện xu hướng và cường độ tác

dụng của thuốc. Các yếu tố có thể gây ra thay đổi khí vị của thuốc như nhiệt độ

(sao, nướng...), phụ liệu (tính chất của phụ liệu...)

- Tăng tính ấm, giảm tính hàn bằng phương pháp hoả chế, thuỷ hoả hợp chế

hoặc dùng các phụ liệu tính ôn như sa nhân, gừng, rượu...

Ví dụ: Sinh địa vị đắng, hơi hàn, tác dụng thanh nhiệt lương huyết. Thục địa

(chế từ Sinh địa) vị ngọt, tính hơi ôn, tác dụng bổ âm, bổ huyết.

- Giảm tính đại nhiệt, đại hàn có thể chế bằng cách ngâm trong dịch nước vo

gạo, nước cam thảo hoặc sao đen...

2. 8. Ổn định tác dụng của thuốc

Phương pháp sao, sấy khô (nhiệt độ khoảng 50 - 70C) làm giảm độ ẩm tránh

phân huỷ thành phần hoạt chất của thuốc và tiêu diệt được men, nấm mốc gây hại

cho thuốc.

Ví dụ: Hoa hoè sao qua, có thể hạn chế sự phân huỷ Rutin trong hoa, duy trì tốt

tác dụng lương huyết, hạ huyết áp.

Tương tự đối với vị thuốc Hoàng cầm

Ngoài ra, để ổn định các dược liệu có chứa Glycozid (tránh Enzym tác động

xấu), người ta thường áp dụng phương pháp này.

13

2. 9. Giảm tính bền vững cơ học, tăng khả năng giải phóng hoạt chất

Điều đó có nghĩa là tăng hiệu lực của thuốc, thuận lợi cho việc sử dụng.

Ví dụ: Cửu khổng, mẫu lệ nung ở nhiệt độ cao (vô cơ hoá) để tán bột.

Nhiệt độ có thể làm giảm độ bền cơ học.

2.10. Bảo quản thuốc được tốt hơn

Do qua chế biến, thuốc có thể tránh được mối mọt, men mốc. Cụ thể:

- Làm khô hoặc giảm độ ẩm của vị thuốc.

- Làm thay đổi tính chất của một số thành phần hoá học dễ gây nấm mốc như

pectin, chấy nhầy, tinh bột, chất đường, chất béo... và diệt nấm mốc

- Diệt men (làm mất hoạt tính của men ở nhiệt độ cao) có trong thuốc để ổn

định thuốc. Ví dụ: Nhiệt độ cao làm mất hoạt tính của men glycosidase, bảo vệ

thành phần glycosid

- Tạo thành lớp bảo vệ (Hoàng kỳ chích mật ta được ra lớp màng caramen hoá

ở bên ngoài tạo thành lớp bảo vệ ngăn hạn chế vi khuẩn, ký sinh, côn trùng xâm

nhập).

III. MỘT SỐ YÊU CẦU CỦA BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC

3.1. .Các yêu cầu cơ bản của bào chế, chế biến đông dược

* Theo Trần Gia Mô (1562) đời Minh (Trung Quốc) có nói:" Bào chế cốt ở chỗ

vừa chừng, non quá thì khó kiến hiệu, già quá thì mất khí vị".

Do đó, người bào chế phải thực hiện bào chế đúng kỹ thuật, thích hợp.

* Phải đảm bảo hình thức mẫu mã, chất lượng (phẩm chất) sản phẩm.

* Người bào chế phải nắm vững về tính dược của thuốc, tương tác thuốc, tương

tác giữa thuốc và phụ liệu, yêu cầu trạng thái phẩm chất của từng sản phẩm (vị

thuốc, bài thuốc) đáp ứng yêu cầu điều trị.

3.2. Các trường hợp tương tác của dược liệu cần nhớ trong quá trình bào

chế cũng như sử dụng thuốc

14

3.2.1. Đơn hành

Dùng riêng một vị thuốc cũng có thể phát huy được hiệu quả chữa bệnh của

nó. Ví dụ bài Độc sâm thang

3.2..2. Tương tu (tác dụng hiệp đồng)

Nhiều vị thuốc có tính vị tương tự nhau, khi phối hợp thì tác dụng điều trị tốt

hơn.

- Kim ngân hoa phối hợp với Liên kiều tăng tác dụng sức thanh nhiệt, giải độc

dùng tốt hơn trong các bệnh mụn nhọt, mẩn ngứa, dị ứng...

- Sinh địa phối hợp với Huyền sâm sẽ làm tăng tác dụng lương huyết, chỉ

huyết, tư âm.

- Hoàng liên dùng cùng Liên tâm tăng tác dụng thanh tâm hoả.

- Đại hoàng dùng cùng Mang tiêu tăng tác dụng tả hạ lên nhiều lần so với dùng

riêng từng vị.

- Hoàng bá dùng cùng Tri mẫu thì tác dụng tư thận giáng hoả được chắc chắn.

- Hoàng kỳ dùng cùng Bạch linh làm tác dụng bổ ích tỳ khí được tăng cường.

- Đại hoàng dùng cùng Hoàng cầm làm tăng tác dụng tiết nhiệt.

- Bạch truật phối hợp với hoàng cầm để tăng hiệu lực an thai

- Thương truật phối hợp với Hoàng bá để tăng tác dụng thanh nhiệt táo thấp.

- Hoàng kỳ phối hợp với phòng phong tăng công hiệu củng cố vệ khí

- Bán hạ giúp sài hồ dẫn thuốc vào kinh thiếu dương

- Hương phụ giúp đào nhân để tán ứ huyết giảm đau....

3.2.3. Tương uý

Vị thuốc này ức chế độc tính của vị thuốc kia

Ví dụ: Bán hạ uý Sinh khương.

Bản thân Bán hạ có độc, uống gây ngứa cổ muốn kêu to, nôn lợm.

Bán hạ dùng với Sinh khương thì Sinh khương làm mất tính kích thích họng

của Bán hạ, đồng thời làm hết tác dụng phụ của Bán hạ như buồn nôn, lợm giọng,

15

trừ đờm. Chính vì vậy, trong chế biến người ta dùng Sinh khương để chế Bán hạ

(Khương bán hạ).

- Nhân sâm uý Ngũ linh chi;

Tuy nhiên, dùng Đảng sâm phối ngũ với Ngũ linh chi sẽ có tác dụng ích khí

kiện tỳ, hoá ứ hành trệ để chữa viêm teo dạ dày mạn kèm sa niêm mạc dạ dày (thể

tỳ hư huyết ứ) đều thu kết quả cao.

- Hoàng liên (vị hàn) phối hợp với Nhục quế (vị nhiệt), tuy đối lập nhau nhưng

lại có tác dụng giao lưu giữa tâm và thận.

- Đinh hương uý Uất kim;

Mang tiêu (Nha tiêu, Huyền minh phấn) uý Tam lăng, Lưu huỳnh

Thuỷ ngân uý Thạch tín, Ba đậu ;

Ô đầu (thảo ô) uý Tê giác;

Lang lộc uý Mật đà tăng;

Quan quế uý Thạch chi

Tuy nhiên có một số tương uý vẫn dùng được như Phòng phong và Hoàng kỳ

nhằm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể.

Tương uý hay được áp dụng trong việc bào chế thuốc độc và ngay trong điều

trị bệnh.

3.2.4. Tương ác

Là vị thuốc này kiềm chế tính năng, tác dụng của vị thuốc kia.

Ví dụ: Hoàng cầm vị đắng tính hàn tương ác Sinh khương vị cay tính ấm

Khi dùng chung tính hàn của Hoàng cầm sẽ kiềm chế tính ấm của Sinh

khương....

Sa sâm ố Phòng phong;

Sơn thù ố Cát cánh

3.2.5. Tương sử

Là tổ hợp tác dụng hiệp đồng của hai vị thuốc khác nhau về tính vị. Ví dụ: Hoàng

16

Liên vị đắng tính hàn tương sử Ngô thù vị cay tính ấm chỉ nôn; Mộc hương vị cay tính

ấm tương sử với hoàng liên vị đắng tính lạnh

- Liên kiều vị đắng tính hàn tương sử (dùng chung) Ngô thù du vị cay tính ấm để

chỉ nôn (cầm nôn) tăng lên. Đó chính là do chúng có khả năng hạn chế tiết dịch nước

bọt và dịch vị. Trên cơ sở đó có thể chữa chứng ợ chua của bệnh đau dạ dày.

- Hoàng kỳ dùng cùng Bạch linh làm tác dụng bổ ích tỳ khí và lợi tiểu được

tăng cường.

- Đại hoàng dùng cùng Hoàng cầm làm tăng tác dụng tiết nhiệt.

- Xuyên khung, thương truật giúp Ô dược thuận

3.2.6. Tương sát

Là sự triệt tiêu tính độc của nhau. Chủ yếu áp dụng để giải độc.

Phòng phong trừ độc của Thạch tín,

Đậu xanh trừ độc của Ba đậu.

Ngũ vị tử sát Ô đầu; dùng chung tạo ra chất độc mới

Bạch chỉ sát Hùng hoàng

Hoạt thạch sát Hùng hoàng....

Vì vậy, vận dụng tương sát để giải độc khi bị ngộ độc Asen hoặc Ba đậu...

3.2.7. Tương phản

Là tổ hợp tương tác giữa hai vị thuốc gây ra phản ứng không tốt hoặc gây

thêm độc tính cho cơ thể.

Hai vị thuốc khi dùng riêng thì lành, dùng chung thì phản nhau mãnh liệt.

Các cặp vị thuốc tương phản cần ghi nhớ.

Ba đậu phản Khiên ngưu (Hắc sửu, Bạch sửu);

Cam thảo phản Cam toại; Đại kích, Nguyên hoa, Hải tảo.

Hải tảo, Bạch cập phản Bán hạ;

Bối mẫu, Qua lâu nhân, Bán hạ, Bạch cập, Bạch liễm phản Ô đầu;

Đại kích phản Nguyên hoa.

17

Các loại sâm (Nhân sâm, Sa sâm, Đan sâm, Huyền sâm, Khổ sâm...) và các vị

thuốc Tế tân, Bạch thược đều phản khắc vị Lê lô (Veratrum nigrum).

Về nguyên tắc các vị thuốc tương phản nhau thì không thể dùng chung với

nhau được.

Điều đó cần hết sức chú ý và nắm vững.

Ví dụ: Dùng Tế tân với Lê nô sẽ gây mù mắt cho người bệnh, hoặc Nguyên

hoa là vị thuốc có khả năng lợi thuỷ nhưng khi dùng với Cam thảo không những

không có tác dụng lợi thuỷ mà lại làm tăng tính độc của Nguyên hoa.

Ngũ vị tử khi dùng chung với Ô đầu sẽ tạo ra chất độc mới có hại.

Tuy nhiên, trong thực tế một số người có kinh nghiệm đã lợi dụng tính chất

tương phản của một số vị thuốc để chữa bệnh.

Ví dụ: Cam thảo phản Cam toại song người ta đã dùng chính hai vị thuốc này

(trong bài Cam toại tán) với mục đích trục đờm ẩm.

Tóm lại, khi tiến hành phối hợp các vị thuốc trong một đơn thuốc cần lưu ý tới

bảy tình huống trên. Cần khai thác mặt tốt của chúng vào việc chữa bệnh và chế

biến thuốc; đồng thời phải hết sức tránh các trường hợp tương phản, tương ác.... để

tránh các hậu quả có thể xảy ra khi dùng thuốc cũng như tác dụng kém của thuốc

Trong thực tế nên phối ngũ thuốc theo tương tu, tương sử, nếu có vị độc phải

khử độc dùng phép tương ố (tương ác), tương sát, tương uý (huý).

CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1: Phân biệt đúng / sai các câu hỏi sau bằng cách koanh tròn vào chưa A cho

câu hỏi đúng và chữ B cho câu hỏi sai?

1. Hoa hòe khi hái về cần phải phưoi và sao ngay ở nhiệt độ dưới 100 C . A - B

2. Không có phương pháp bào chế Thảo quyết minh để thuốc có tác dụng nhuận

hạ ………………………………………….......……………………………..A - B

Câu 2: Trình bày các tiêu chuẩn của thuốc sạch

Câu 3: Trình bày các cơ chế làm giảm độc tính của thuốc

18

Câu 4: Trình bày các phương pháp nhằm tăng tính qui kinh của thuốc

Câu 5: Tại sao Bào chế giúp tăng vị thế của thuốc trong lòng người tiêu dùng.

Câu 6: Phân biệt sự khác nhau sử dụng thất tình hoà hợp trong bào chế và trong

kê đơn thuốc

Câu 7: Mục đích của Hoàng kỳ chích Mật ong?

Câu 8: Kể tên các thuốc sau khi bào chế cho tác dụng ngược lại tác dụng ban đầu

vốn có của nó.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Trung Hoà, Đông y toàn tập, Nhà xuất bản Thuận Hoá năm 2000

2. Nguyễn Xuân Sinh, Phùng Hoà Bình, Dược học cổ truyền – Giáo trình

Đại học Dược Hà Nội, NXB Y học 1999 và 2006

3. Đỗ Tất Lợi, Các cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – NXB Y học năm 2000

19

CHƯƠNG II

THỦ THUẬT VÀ KỸ NĂNG

BÀO CHẾ VÀ CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC

BÀI 1

DỤNG CỤ CHẾ BIẾN THUỐC VÀ TIÊU CHUẨN THUỐC CHÍN

(1 Tiết)

MỤC TIÊU

1. Trình bày được các dụng cụ bào chế thông thường

2. Trình bày được các dạng thuốc

3. Nắm vững và trình bày được các tiêu chuẩn thuốc chín, nhất là tiêu chuẩn

cảm quan

NỘI DUNG

1. Các dụng cụ bào chế thông thường.

Các dụng cụ thông thường bao gồm:

- Bàn chải (lông, tre, đồng):

- Rây

- Giần, sàng

- Chõ dùng để đồ thuốc

- Dao thái (thép, đồng, tre, nứa)

- Cóng

20

- Dao cầu dùng để thái thuốc

- Chảo dùng để sao thuốc. Chảo to có thể dùng để chưng thuốc

- Dao bào

- Siêu (đất, men ) càng tốt dùng để sắc thuốc

- Cối, chày dùng để tán thuốc

- Thuyền tán dùng để tán thuốc

Trong sản xuất công nghiệp hiện đại, các dụng cụ chế biến thuốc đang được cơ

giới hoá với công nghệ cao như dùng máy nghiền, máy sàng, hệ thống chiết xuất

... và nhiều sản phẩm đã mang màu sắc của thuốc hiện đại.

2. Các dạng thuốc đông dược hiện nay

Nó bao gồm dạng bào chế ở thể rắn và dạng thuốc bào chế ở thể lỏng

2.1. Dạng thuốc ở thể rắn bao gồm

- Thuốc phiến (dùng phổ biến nhất)

- Chè thuốc

- Thuốc sắc

- Thuốc cốm

- Thuốc tán (thuốc bột)

- Thuốc hoàn (cứng, mềm)

- Viên nang (cứng, mềm)

- Viên bao phim (có đường, không có đường)

- Đơn

- Thuốc đĩnh

2.2. Dạng thuốc ở thể mềm và lỏng bao gồm :

- Rượu thuốc

- Cao dán

- Cao thuốc

- Thuốc đạn

21

- Thuốc cao xoa

- Dầu thuốc

Gần đây đã thấy xuất hiện dạng thuốc viên nén (uống, ngậm), viên nang cứng

và mềm (capsul), thuốc dạng khí dung, dạng tiêm mà thành phần là dược liệu.

3. Tiêu chuẩn thuốc chín (đã chế biến)

Thuốc chín có thể dùng điều trị trực tiếp cho người bệnh dưới dạng thuốc

thang, thuốc chè và các dạng bán thành phẩm khác.

Tiêu chuẩn dựa vào cảm quan và một số chỉ tiêu:

- Kích thước: Phải hợp lý về độ dày, chiều rộng, chiều dài tuỳ thuộc vào cấu

tạo và đặc tính tự nhiên của vị thuốc.

- Màu sắc, mùi vị: Phải đặc trưng cho mỗi vị thuốc, mỗi phương pháp chế

biến...

- Tỉ lệ vụn nát không quá 15% so với khối lượng thuốc.

- Độ ẩm tối đa khoảng 10 - 15% (cá biệt 7% hoặc 18%)

- Tiêu chuẩn kiểm nghiệm hoá học: Theo tiêu chuẩn ngành hoặc cơ sở

Theo tổ chức Y tế thế giới, thuốc y học cổ truyền cần có một số tiêu chuẩn sau:

+ Tên khoa học cây thuốc, người và cơ sở xác định tên cây.

+ Bộ phận dùng;

Nơi thu hái cây thuốc (vùng sinh thái, khí hậu...);

Cơ sở chế biến khi thu hoạch;

Tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, tồn dư một số chất vô cơ;

+ Về hoá học: Định tính, định lượng thành phần hoá học đặc trưng, chất điểm

chỉ (hoạt chất hoặc không phải là hoạt chất).

CÂU HỎI

Câu 1. Trình bày các dụng cụ thô sở sử dụng trong bào chế

Câu 2: Trình bày tiêu chuẩn thuốc chín

22

BÀI 2

PHỤ LIỆU

(2 tiết))

MỤC ĐÍCH

1. Hiểu và trình bày được vai trò của từng phụ liệu trong bào chế, chế biến

vị thuốc

2. Trình bày được mục đích sử dụng các phụ liệu trong bào chế, chế biến

vị thuốc

NỘI DUNG

1. Định nghĩa

Phụ liệu là những chất có thể là nước, thuốc hay dung dịch có tác dụng cơ bản làm

giảm độc tính hay tính mãnh liệt của thuốc hoặc giảm tác dụng không mong muốn

hoặc hiệp đồng tác dụng với vị thuốc cần chế biến.

Như vậy những chất trơ không có tác dụng phòng và chữa bệnh thì chỉ gọi là chất

trung gian, chất màu, tá dược trơ..v.v.. mà thôi.

Các tỷ lệ giữa thuốc và phụ liệu được trình bày trong tài liệu này là tỷ lệ thật về

khối lượng giữa dược liệu với chất tạo nên phụ liệu.

Ví dụ : Ðại phúc bì (thịt quả cau) ngâm ngập trong nước sắc Cam thảo tỷ lệ

100:2 ; tức là ngâm 100 gam Ðại phúc bì trong nước sắc chứa đủ 2 gam Cam thảo.

2. Các phụ liệu

2.1.1 Rượu

Tính vị qui kinh: Vị cay, ngọt, tính nhiệt có độc;

Tác dụng: Thông huyết mạch (dãn mạch ngoại biên, giảm thân nhiệt), tán thấp

khu phong.

23

Thành phần hoá học: Alcol ethylic và một số chất thơm.

Mục đích sử dụng:

- Giảm tính lạnh, tăng tính ấm, tăng tác dụng thăng đề của thuốc; dẫn thuốc lên

bộ phận phía trên cơ thể (thượng tiêu) và ra ngoài bì phủ, vào phế.

- Tăng sự hấp dẫn của thuốc,

- Tăng tính hoà tan của một số hoạt chất trong dược liệu vào Rượu sau đó tan vào

thuốc sắc ( tăng sự hấp thu thuốc). Bởi lẽ, Rượu là một dung môi hữu cơ dễ hoà tan

các thành phần hoá học.

- Bảo quản thuốc: Do có khả năng làm đông vón một số thành phần dễ gây

nấm mốc như chất nhày, pectin...

Áp dụng: Vỏ Núc nác, Hoàng liên, Hoàng bá, Hoàng cầm, Bạch thược (dưỡng

huyết điều kinh), Xuyên khung, Đương qui...; Đại hoàng phiến; Đảng sâm phiến;

Địa cốt bì; Cẩu tích, Đương qui phiến; Hoàng cầm phiến, Hoàng kỳ phiến, Ngưu

tất phiến, Thăng ma phiến, Sài hồ phiến, Ba kích...

1.2.2. Gừng:

Tính vị qui kinh: Vị cay, tính ôn, vào tỳ, vị, phế kinh;

Tác dụng: Phát tán phong hàn, ôn trung hoà vị, chỉ nôn.

Thành phần hoá học: Gừng chứa tinh dầu, chất cay, nhựa, tinh bột.

Mục đích:

- Làm giảm tính hàn (Trúc lịch..), tăng tính ấm vị thuốc (Sinh địa), làm cho vị

thuốc chủ thăng chủ tán tức đưa khí vị của thuốc lên thượng tiêu hoặc ra phần biểu

do tác dụng gây giãn mạch của Gừng.

- Dẫn thuốc vào phế, tỳ, vị; ôn trung tiêu, nên có tác dụng chỉ nôn.

Làm thuốc có tác dụng giảm ho (Bán hạ), bổ khí, ôn bổ phế (Sa sâm, Đảng

sâm, Cát cánh, ...), kích thích tiêu hoá và của thuốc.

- Giảm tác dụng gây nề trệ của một số vị thuốc sinh tân dịch (Huyền sâm, Sinh

địa, Mạch môn, Thiên môn, Sa sâm, ...) và bài thuốc (Lục vị địa hoàng hoàn)

24

- Giảm tính kích ứng, giảm độc tính của một số vị thuốc gây ngứa (Bán hạ,

Nam tinh).

Áp dụng: Bán hạ, Mạch môn, Thiên môn, Sinh địa chế thục, các loại Sâm,

Thạch xương bồ; Hậu phác....

1.2.3. Muối

Tính vị qui kinh: Vị mặn, ngọt, tính hàn, vào tâm, thận, vị kinh.

Tác dụng: Giáng khí nghịch, giảm đau, sát trùng, nhuyễn kiên, kích thích ăn uống

Thành phần hoá học: Natri clorid ( NaCL ) và một số nguyên tố vi lượng.

Mục đích: - Tăng sự dẫn thuốc vào kinh thận, hạ tiêu ( dẫn thuốc đi xuống ),

làm cho vị thuốc tác dụng mạnh hơn đối với thận, bàng quang (lợi niệu do tham

gia quá trình trao đổi chất điện giải).

- Giải độc và nhập vào huyết mà nhuận táo, làm mềm khối u rắn (nhuyễn kiên )

- Bảo quản thuốc, hạn chế mốc mọt.

Áp dụng: Nhóm thuốc liên quan tới thận ( nhất là thuốc bổ thận dương): Cẩu

tích, Ba kích, Đỗ trọng, Trạch tả, Hoàng bá, Tục đoạn, Huyền sâm phiến; Hương

phụ; Ngưu tất phiến; Tỳ giải; Bạch mao căn, Bạch thược, Bạch truật ...

Hoàng kỳ tẩm muối sao nhằm bổ thận và tăng tác dụng chữa băng đới.

1.2.4. Dấm thanh

Tính vị qui kinh: Vị chua, tính lương, không độc;

Tác dụng: Lý khí huyết, tiêu thũng, giảm đau.

Thành phần hoá học: Acid axetic 4 - 5%; men thuỷ phân tinh bột.

Mục đích: - Tăng qui kinh can đởm cho vị thuốc, vì dấm chua sẽ làm a cid hoá

một số hợp chất hoá học trong vị thuốc, biến nó thành muối dễ tan trong nước,

làm dễ chiết xuất chúng ra khỏi thuốc. Dấm vị nhập can.

- Giảm tính kích thích của một số vị thuốc.

- Tăng tác dụng chỉ thống (Huyền hồ, Cù túc xác...), tăng tác dụng hành khí,

hoạt huyết, tăng tính năng thu liễm và làm êm dịu vị thuốc.

25

Áp dụng: Sài hồ, Hượng phụ, Cù túc xác, Nga truật, Miết giáp, Mẫu lệ, Đan

sâm; Bạch chỉ, Huyền hồ; Bạch thược ...

1.2.5. Đồng tiện

Tính vị qui kinh: Vị mặn, tính hàn, vào tâm, thận kinh;

Tác dụng: Tư âm, giáng hoả, thanh nhiệt, giải độc, trục ứ, sinh tân.

Thành phần: Sắc tố, chất chứa ni tơ, chất vô cơ, nội tiết tố, men, vitamin...

Mục đích: - Tăng tính âm (tư âm), bớt tính ráo, tăng tính nhuận cho vị thuốc,

lợi cho chức năng của thận.

- Bổ xung chất điện giải do nó chứa nhiều chất như vitamin, hormon, muối..

- Tăng sự dẫn thuốc vào máu và giáng hoả.

- Tăng tác dụng hành huyết, tiêu ứ.

Áp dụng: Hương phụ, Nga truật, Phụ tử...

1.2.6. Nước vo gạo (mễ trấp, mễ cam trấp)

Tính vị qui kinh: Vị ngọt, chua, qui tỳ vị kinh

Tác dụng: Khử mùi tanh, mau phân huỷ dược liệu, bài độc, kiện tỳ và kích

thích tiêu hoá.

Thành phần hoá học: Chứa vitamin PP, vitamin B1, một số khoáng chất như

sắt, đồng

Mục đích: - Giảm bớt tính ráo, nóng hoặc độc của vị thuốc

- Kích thích tiêu hóa, tăng tác dụng kiện tỳ, hoà vị; tăng tính nhu nhuận.

Ví dụ: Bạch truật: Để sống thanh thấp nhiệt, sao Hoàng thổ thì bổ tỳ, an thai,

chỉ ẩu; sao mật thì bổ tỳ, nhuận phế; tẩm nước vo gạo sao thì chống chớ và ăn

chậm tiêu ở trẻ ; sao cháy thì chỉ huyết, ấm trung tiêu.

Áp dụng: Thương truật, Bạch truật, Hoàng nàn, Ráy...

1.2.7. Sữa

Tính vị qui kinh: Vị ngọt, mặn, tính ôn, qui tỳ, vị và phế kinh

26

Tác dụng: Bổ dưỡng, cung cấp vitamin, muối khoáng, acid amin và một số vi

chất cần thiết cho cơ thể.

Thành phần hoá học: Các vitamin, muối khoảng và acid - amin

Mục đích: Tăng dưỡng huyết, giảm tính khô táo của vị thuốc, dẫn thuốc vào tỳ.

Áp dụng: Bạch linh, Hoài sơn...

1.2.8. Mật ong

Tính vị qui kinh: Vị ngọt, tính bình, qui phế, tỳ, vị kinh

Tác dụng: Kiện tỳ, bổ khí, nhuận táo, trừ bách trùng.

Thành phần hoá học: Chứa nhiều loại vitamin A2, E, C, pantothenic, các axit

folic và biotin… . Các thành phần khác như canxi, muối, magiê, ferrum, iốt, và

các khoáng chất khác cần thiết. Hai loại đường là fructosse và glucose, ngoài ra có

chứa nhiều thành phần hydrat cacbon.

Mục đích: - Nhuận bổ dưỡng do xung nhiệt lượng cho cơ thể.

- Tăng độ ngọt, mùi thơm, tính ấm, giảm độ đắng độ chát và tính ráo cho thuốc.

- Bảo quản thuốc nhờ lớp caramen hạn chế tác dụng của nấm mốc, bảo vệ.....

Áp dụng: - Nhóm thuốc bổ khí, kiện tỳ: Hoàng kỳ, Bạch truật, Cam thảo...

- Các thuốc khác: Tang bạch bì, Bách bộ (nhuận phế, bình suyễn), Mạch môn,

Ngũ vị tử, Bách hợp, Tử uyển , Cát cánh, Ma hoàng, Tiền hồ, Thiên môn, Viễn

chí..v.v, ....

1.2.9. Hoàng thổ - Bích thổ ( Hoàng thổ chế - Bích thổ chế)

Hoàng thổ: Vị ngọt, tính bình, hơi lương;

Tác dụng: Chỉ huyết, trừ độc, thanh lỵ nhiệt.

Bích thổ: Vị ngọt, tính ôn.

Tác dụng: ôn trung tiêu, kiện tỳ, trị hoắc loạn, lỵ.

Thành phần: Các chất vô cơ; muối sắt (Hoàng thổ)

Mục đích:

- Rút bớt tinh dầu trong dược liệu để giảm bớt tính ráo, nóng của vị thuốc.

27

- Dẫn thuốc vào tỳ vị, làm tăng tính ôn, bổ và kiện tỳ của vị thuốc (do bổ sung

muối nhôm, sắt và một số nguyên tố vi lượng, đa lượng).

Áp dụng: Bạch truật, Nam truật, Hoài sơn ...

1.2.10. Nước Đậu đen (Vigna cylindrica)

Tính vị qui kinh: Tính hơi ôn, vị ngọt, qui kinh thận

Tác dụng: Bổ thận, bài độc (khử được sulfates)

Thành phần hoá học: Chứa chất vi lượng molypden, chất xơ, anthocyanins,

folate, magie, sắt, man gan, protein, gluxit, lipid v.v....

Mục đích: - Tăng tính qui kinh thận (Đậu đen)

- Giải độc, giảm tác dụng không mong muốn của thuốc (do chất anthoxian

trong Đậu đen có tác dụng chống oxy hoá, thanh nhiệt;).

- Làm thuốc êm dịu, đỡ chát tăng tính nhuận và tính bổ cho thuốc (Đậu đen).

Hiệp đồng tác dụng để trị các chứng ho, nhiều đờm, viêm loét dạ dày và điều hoà tính

mãnh liệt của thuốc.

Áp dụng: - Nước Đậu đen: Hà thủ ô, Trâu cổ, ....

1.2.11. Nước Cam thảo

Tính vị qui kinh: Vị ngọt, tính bình, qui 12 đường kinh

Tác dụng: Bổ Tỳ, bổ trung ích khí, nhuận Phế, ích tinh, điều hoà các vị thuốc,

giải độc, chỉ thống.

Thành phần hoá học: Glycyrrhizic acid, glycyrrhetinic acid, glycyrrhizin, uralenic

acid, liquirintigenin, isoliquiriti-genin, liquiritin, neoisoliquiritin, neoliquiritin,

licurazid.

Mục đích: - Giải độc, giảm tác dụng không mong muốn của thuốc (chất

Glycyrrhizin trong Cam thảo có tác dụng giải độc).

- Tăng qui kinh phế và tỳ, nhận bổ, ích khí của thuốc (Cam thảo). Hiệp đồng

tác dụng để trị các chứng ho, nhiều đờm, viêm loét dạ dày và điều hoà tính mãnh

liệt của thuốc.

28

Áp dụng: Viễn trí, Phụ tử chế,. Mã tiền, Hoàng nàn, Bạch truật, Bán hạ, Ba

kích, Bách bộ...

1.2.12.Phèn chua

Thành phần hoá học: K2SO4 AL (SO4)3.24H2O

Mục đích: - Định hình vị thuốc, làm vị thuốc cứng, không bị nát, đặc biệt là

dược liệu có nhiều chất bột (Bán hạ, Nam tinh).

- Mất tính chất của chất nhày (Hoài sơn)

- Tăng tác dụng sát trùng và acid hoá môi trường.

1.2.13. Nước vôi

Thành phần hoá học: Ca (OH)2 và H2O

Mục đích: - Kiềm hoá môi trường ngâm.

- Định hình vị thuốc, đặc biệt là dược liệu có nhiều chất bột và thiếu chất nhầy như

vị Bán hạ.

- Giảm nhanh vị ngứa của Bán hạ.

17- SA NHÂN

Tính vị, qui kinh: Vị cay, tính ôn, vào tỳ, vị kinh;

Tác dụng: - Ôn trung, kiện tỳ hoà vị, kích thích ãn uống.

- An thai

- Hoá thấp

- Sát trùng.

Thành phần hoá học: Tinh dầu, chất cay, nhựa, tinh bột....

Mục đích sử dụng chế biến thuốc:

- Dẫn thuốc vào tỳ, vị; ôn trung tiêu, nên có tác dụng chỉ nôn. Làm thuốc có tác

dụng kích thích tiêu hoá.

- Giảm tác dụng gây nề trệ của một số vị thuốc sinh tân dịch (Huyền sâm, Sinh

địa, Mạch môn, Thiên môn, Sa sâm, Ðảng sâm, Thục địa...) và bài thuốc (Lục vị

ðịa hoàng).

29

- Làm giảm tính hàn, tãng tính ấm của vị thuốc (như Sinh địa chẳng hạn).

18- Mẫu lệ, cửu khổng (văn cáp)

Tính vị, qui kinh: Vị mặn, tính bình hoặc hõi hàn

Tác dụng:- Hút nước, làm giảm bớt toan dạ dày do phản ứng trung hoà giữa

thuốc và a cid.

- Cố sáp, cung cấp can xi

Ngoài ra Cửu khổng: Bình can thoái nhiệt, thanh can minh mục, thông ngũ lâm;

chữa can phong váng ðầu, hoa mắt, quáng gà, sốt về ðêm.

Thành phần hoá học: Chủ yếu là muối vô cơ như Calci carbonat, calci sulfat,

magnesi, nhôm, sắt, một ít chất hữu cơ...

Mục đích sử dụng chế biến thuốc:

- Cũng như Hoạt thạch, bột Văn cáp chủ yếu làm khô táo những chất hay kết

dính, làm cháy sạch và hấp phụ những chất hữu cơ có mùi khó chịu còn bám vào

dược liệu cần chế biến

- Tăng phần nhiệt, phần dương cho vị thuốc.

Ngoài ra người ta còn dùng Tro bếp và nước quả Bồ kết làm phụ liệu để ngâm.

CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1: Phân loại các phụ liệu theo tam tiêu

Câu 2: Phân loại các phụ liệu theo độ pH

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Trung Hoà, Đông y toàn tập, Nhà xuất bản Thuận Hoá năm 2000

2. Nguyễn Xuân Sinh, Phùng Hoà Bình, Dược học cổ truyền. Giáo trình Đại

học Dược Hà Nội, NXB Y học 1998 và 2006

3. Đỗ Tất Lợi, Các cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. NXB Y học năm 2000

4. Nguyễn Xuân Sinh, Phương pháp chế biến thuốc cổ truyền, NXB Y học, 2000

30

BÀI 3

CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ THUẬT

BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN VỊ THUỐC

(8 tiết)

MỤC TIÊU

1. Nắm vững và trình bày được mục đích, kỹ thuật bào chế và phạm vi áp dụng

của mỗi phương pháp bào chế

2. Hiểu và trình bày đúng mối quan hệ giữa các phương pháp bào chế với bản

chất bào chế

3. Trình bày được sự thay đổi tác dụng của vị thuốc sau khi bào chế

NỘI DUNG

Phương pháp chế biến thuốc cổ truyền rất phong phú và đa dạng; song tựu

chung lại có ba phương pháp cơ bản: Phương pháp dùng lửa (hoả chế), dùng nước

(thuỷ chế) và phương pháp kết hợp nước - lửa (thuỷ hoả hợp chế - nhiệt ẩm).

Mục đích chính là bào chế các nguyên liệu thành dạng thuốc phiến (thuốc chín).

Thuốc phiến được dùng trong các dạng thuốc thang, thuốc chè (ẩm), thuốc bột

(tán), thuốc viên (đan, đơn, hoàn), thuốc cao, thuốc rượu dùng ít hơn ...

Có 4 loại chính trong bào chế thuốc

A - SƠ CHẾ DƯỢC LIỆU

Mục đích của phương pháp là chế biến các nguyên liệu ban đầu sau khi thu

hoạch nhằm làm sạch sẽ, bỏ những bộ phận phụ, làm khô và tinh khiết, ổn định

hơn và phân loại dược liệu theo tiêu chuẩn kỹ thuật.

1/ LÀM SẠCH DƯỢC LIỆU

* Rửa: Các dược liệu là củ, rễ, hột (củ, rễ phức tạp phải tách nhỏ trước)...cần

31

rửa sạch trước khi đưa ra bào chế.

Chú ý: không nên ngâm lâu dược liệu vì vị thuốc mất hoạt chất.

Các loại dược liệu như hoa, cành nhỏ hoặc một số dược liệu không rửa được

như Bối mẫu thì không nên rửa.

* Sàng, sẩy: Dùng giần sàng để bỏ rác, tạp chất lẫn trong dược liệu (Tử tô, Liên

kiều, Màn kinh tử...).

Chải, lau: Dùng bàn chải lông, tre mềm để chải các dược liệu mốc (Hoài sơn,

các loại Sâm...), những lông gây ngứa ở thân, lá (ví dụ lá cây Han). Khi chải, lau

có thể dùng rượu, nước.

2/ CHỌN LỰA

Lựa chọn lấy bộ phận dùng (loại bỏ bộ phận phụ) của dược liệu có tác dụng

của vị thuốc phù hợp với yêu cầu điều trị.

* Bỏ gốc, mắt: Ma hoàng dùng phát hãn thì dùng thân bỏ rễ, đốt.

* Bỏ rễ con,lông: Do chúng ít tác dụng, lại gây hại, làm nặng và mất cảm quan

của thang thuốc (Hoàng liên, Hương phụ, Xương bồ...)

* Bỏ hạch (hột): Nhằm nhẹ thang thuốc, loại bộ phận không có tác dụng như

Sơn tra, Sơn thù du...

* Bỏ màng, vỏ: Nếu chúng không có tác dụng như Sử quân tử, Hạnh nhân, Đào

nhân...

* Bỏ lõi ruột: Ví dụ: lõi Mạch môn, Thiên môn, Bách bộ gây chứng " phiền"

cần phải bỏ.

* Bỏ chân, đầu: Nhằm loại phần không có tác dụng, hoặc gây độc hại. Ví dụ:

Thiền thoái, Toàn yết cần bỏ chân, răng khi dùng làm thuốc tán, cóc cần bỏ đầu

khi chế biến.

3/ LÀM KHÔ SẢN PHẨM

Sau khi sơ chế xong người ta thường phơi hoặc sấy sản phẩm.

Mục đích: Loại bỏ nước đến độ ẩm qui định, an toàn để bảo quản.

32

3.1. Phơi

Phơi là phương pháp làm khô sản phẩm trong điều kiện tự nhiên như ánh nắng,

gió, độ ẩm..

3.1.1. Phơi nắng

Áp dụng cho các vị thuốc không bị tác động, phân huỷ của ánh sáng.

3.1.2. Phơi âm can (khô)

Làm khô sản phẩm ở trong bóng râm dựa vào sự lưu thông không khí, độ ẩm

tương đối thấp. Phương pháp này khó khô tuyệt đối đến độ an toàn. Áp dụng cho

các vị thuốc có chứa tinh dầu.

3.1.3. Phơi sương

Phơi vị thuốc qua đêm ở ngoài trời do kinh nghiệm gia truyền của một số

lương y. Áp dụng cho các vị thuốc như Húng chanh, Bọ mắm...để chữa ho.

3.2. Sấy

Sấy làm khô sản phẩm là phưong pháp dùng nhiệt độ hoặc từ trường làm bẻ

gẫy các liên kết giữa nước và sản phẩm như liên kết hoá học liên kết hoá lý hoặc

liên kết cơ học.

Hiện nay có một số phương pháp sấy như sau:

+ Sấy nhiệt (sấy dùng nhiệt độ);

+ Sấy bằng dòng điện cao tần từ 500 - 1000hz;

+ Sấy thăng hoa

+ Sấy bức xạ: Dùng bức xạ hồng ngoại làm khô sấy vị thuốc.

B - KỸ THUẬT BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN VỊ THUỐC BẰNG HOẢ CHẾ

( PHƯƠNG PHÁP CHẾ BIẾN, BÀO CHẾ CHỈ DÙNG LỬA)

Định nghĩa: Là phương pháp dùng sự tác động của nhiệt độ khô, trực tiếp hay

gián tiếp qua những phụ liệu trung gian nhằm thay đổi tác dụng, tính chất, độc tính

của vị thuốc và bảo quản cho vị thuốc.

33

1 - Mục đích

- Làm tăng tính ấm, giảm tính hàn do đưa nhiệt, phần dương vào vị thuốc;

- Giảm độc tính, giảm tác dụng không mong muốn của vị thuốc;

- Giảm độ bền cơ học của vị thuốc do các chất hữu cơ bị phân huỷ và các liên

kết hữu cơ bị phá vỡ; tăng thời gian bảo quản chất lượng thuốc và có thể thay đổi

tính chất, làm tăng hiệu lực chữa bệnh của thuốc.

- Ổn định hoạt chất trong vị thuốc;

2- Các phương pháp chế biến.

2.1. Sao (rang).

Định nghĩa: Là phương pháp dùng sự tác động của nhiệt độ khô không quá

250˚C, trực tiếp hay gián tiếp qua những phụ liệu trung gian nhằm thay đổi tác

dụng, tính chất, độc tính của vị thuốc và bảo quản cho vị thuốc.

2.1.1. Sao trực tiếp (sao không thêm chất khác):

Định Nghĩa: Là phương pháp sao mà thuốc được truyền nhiệt trực tiếp qua

dụng cụ sao.

+ Sao qua (vi sao): Nhiệt độ sao không quá 80 C.

Mục đích: Nhằm làm khô thuốc, thơm thuốc, tránh mối mọt và ổn định thành

phần hoạt chất. Ví dụ: Hoa hoè sao qua; Độc hoạt, Cam thảo, Bách bộ, Hoàng

đằng phiến, Hoàng liên phiến, Kim ngân hoa, Mạch môn, Phá cố chỉ, Trần bì

phiến, Tam thất phiến, Tử tô, Tỳ giải phiến, Xích thược phiến, Cóc mẳn, Côn bố..

+ Sao vàng (hoàng sao): Nhiệt độ sao khoảng 100 - 150 C, thời gian sao lâu,

nhỏ lửa. Để tăng sức nóng thấm sâu vào ruột mà không cháy cạnh cần làm ẩm

thuốc trước khi đem sao ( Ý dĩ, Đậu đen...) . Thuốc mặt ngoài có màu vàng, trong

ruột có màu nguyên liệu; khô giòn, mùi thơm.

Mục đích: Sao vàng nhằm vỏ ngoài thuốc có màu vàng, tăng tác dụng quy tỳ,

tăng mùi thơm và tăng tính ấm, mà giảm tính hàn của thuốc .

Thực chất, sao vàng sẽ giúp phần nào một số hợp chất có phân tử lớn bị bẻ gãy

34

thành những phân tử nhỏ hơn, dễ hấp thu hơn và có tác dụng hiệp đồng mạnh hơn.

Hơn nữa những chất nhầy, pectin sẽ bị biến tính dễ hoà tan trong môi trường có

nước. Vì vậy, đa số dược liệu có tác dụng mạnh hơn sau khi được sao vàng.

Ví dụ: Bá tử nhân, Hoài sơn, Ý dĩ, Bạch giới tử, Bạch truật phiến; Bạch biển

đậu, Cốc nha, Cát cánh, Đảng sâm phiến, Đào nhân, Hạnh nhân, Hoè hoa, Khiếm

thực, Mạch nha, Mẫu đơn bì phiến, Ô dược phiến, Sa sâm phiến, Sơn tra phiến,

Thương truật phiến, Tri mẫu phiến, Cóc mẳn, Cúc hoa, Trữ ma căn, Sài hồ, Cúc tần.

+ Sao vàng hạ thổ: Sao vàng rồi đổ thuốc xuống hố đất đã chuẩn bị trước lót

vải hoặc giấy bản rồi đậy vung lại từ 10 - 30 phút. Đây thực chất là phương pháp

hạ nhanh nhiệt độ, tránh ảnh hưởng tiếp theo của nhiệt độ.

Mục đích: Nhằm cân bằng âm - dương cho vị thuốc (hạ bớt tính dương, tăng

thêm tính âm ); thuốc khô dễ bảo quản; vị thuốc có mùi thơm để nhập tỳ và không

buồn nôn.

Theo y học hiện đại: Quá trình sao vàng làm gia tăng sức căng bề mặt của dược

liệu. Khi sức căng lớn, hạ thổ sẽ gặp hơi lạnh gây ran nứt bề mặt dược liệu. Nhờ

đó, hoạt chất dễ thoát ra ngoài hơn trong quá trình sắc thuốc.

Ví dụ: Lá Tường vi, lá Vọng cách, Đậu đen,ấài hồ....

+ Sao vàng sém (cháy) cạnh: Sao lửa to, chảo nóng mới bỏ thuốc vào, đảo

không cần nhanh. Thuốc chỉ cần vỏ ngoài màu vàng, mép phiến sém cạnh đen

cháy; mùi thơm cháy nhẹ. Áp dụng cho vị thuốc chua, chát, tanh và các vị thuốc

Trữ ma căn, Cúc hoa..

Mục đích: Nhằm giảm mùi vị khó chịu, tăng mùi thơm mà vẫn đảm bảo chất

lượng thuốc. Ví dụ: Thường sao Thần khúc, Chỉ thực, Chỉ xác, Thăng ma, ...

+ Sao đen (hắc sao, sao tồn tính): Nhiệt độ sao khoảng 190 - 220 C. Lửa to già

mới cho thuốc vào chảo, đảo đều. Sản phẩm bề mặt ngoài có màu đen, bên trong có

màu vàng. Chênh lệch nhiệt độ giữa bên trong và bên ngoài khoảng 50 - 60 C.

Mục đích: Tăng tác dụng tiêu thực, cầm tả, chỉ huyết, giảm tính mãnh liệt của

vị thuốc. (Hương phụ, Toan táo nhân, địa du, ba đậu, Bạch thược, Hoàng kỳ

35

phiến, Hồng hoa, Thương nhĩ tử, Mẫu đơn bì phiến, Bạch giới tử...). Sơn tra sao

đen có tác dụng tiêu thực tích;

Ví dụ: Ba đậu sao đen mảnh hạt màu đen, khi bóp mạnh thấy còn dầu.

Bạch thược sao đen: Có màu đen lẫn vài phiến màu vàng đậm, mùi thơm cháy,

khô giòn.

Hoàng cầm phiến sao đen: Phiến màu đen, bên trong màu nâu

- Binh lang sao tồn tính tăng cường tác dụng tiêu tích;

+ Sao cháy ( thán sao): Nhiệt độ sao khoảng 200 - 240 C. Lửa to già mới cho

thuốc vào chảo, đảo đều đến khi khói lên nhiều, mang ra và úp vung lại để nguội.

Sản phẩm mặt ngoài có màu đen, bên trong màu nâu đen. Chênh lệch nhiệt độ

giữa bên trong và bên ngoài khoảng 20 - 30 C.

Ví dụ: Chi tử, Đan sâm phiến, Hoè hoa, Kinh giới tuệ, Sơn tra phiến...

Mục đích: Để vị thuốc có vị đắng, nhằm tăng tác dụng chỉ huyết (Trắc bách

diệp, Sinh khương, Hoa hoè...) và dẫn thuốc vào tâm.

Sơn tra thán sao tăng cường thu liễm, chỉ huyết lỵ. Binh lang thán sao trị bệnh

tả, lỵ huyết; Cốc nha sao cháy tiêu thực hóa tích; Chỉ thực sao cháy để chỉ huyết

nhất là xuất huyết đường tiêu hóa; Đan sâm thán sao vừa chỉ huyết vừa hoạt huyết;

Chú ý khi sao cháy: Dược liệu phải to đều, phải thực hiện mục tiêu là sao

thuốc chứ không phải đốt thuốc.

2.1.2. Sao gián tiếp (sao có thêm chất khác )

Định nghĩa: Là phương pháp sao mà vị thuốc được truyền nhiệt đều và sâu qua

phụ liệu trung gian như Cám gạo, bột Hoạt thạch, bột Văn cáp, Cát... .

Các phụ liệu này đều có khả năng giữ nhiệt cao: Cát (300C), bột Văn cáp

(250C), bột Hoạt thạch (200 - 220C).

+ Sao cách cám: Với mục đích để tăng tác dụng kiện tỳ, hoà vị của vị thuốc; để

sản phẩm có màu vàng và vị thơm của cám ( Bạch truật, Bạch biển đậu, Cốc nha,

Đào nhân, Địa cốt bì, Hoài sơn phiến, Ô dược phiến, Mạch nha, Tri mẫu phiến, );

36

giảm độ bay của tinh dầu (Chỉ thực, Trần bì,...).

Phương pháp này hầu hết áp dụng cho những vị có tác dụng kịên tỳ vị như Bạch

truật, Thương truật, Cốc nha, Hoài sơn, Cam thảo, Cát căn.... Chỉ xác chế cám có

tác dụng hòa vị, tiêu tích trướng.; Chỉ thực sao cám để tiêu tích bĩ báng; Cốc nha

sao cám kiện tỳ, tiêu thực;

+ Sao cách cát: Sao dược liệu với cát mịn,sạch và nóng với ngọn lửa to dần, đảo

đều tay đến khi được thuốc thì đổ ra sàng để sàng lấy thuốc.

Mục đích làm cho dược liệu có bề mặt lồi lõm khô cứng sẽ có màu vàng, phồng

đều, không cháy (Xuyên sơn giáp..), giảm độc tính (Mã tiền...)

+ Sao cách gạo: Tăng tác dụng kiện tỳ và giảm tính khô táo của thuốc.

+ Sao cách Hoạt thạch, Văn cáp (bột vỏ hến, sò): Nhiệt độ sao khoảng 200 -

250C . Áp dụng cho các dược liệu dẻo dính như A giao, Nhũ hương, Một dược,

một số loại cao ... khỏi dính vào nhau hoặc bớt mùi tanh khét (lông nhím).

Ngoài ra còn một số phụ liệu trung gian khác như: Câu kỷ tử sao, Thỏ ty tử;

Bạch thược sao đất; Cát căn sao muối...

2.2. Nung:

Định nghĩa: Nung là phương pháp sử dụng nhiệt độ cao (có thể trên 1000C),

nhiệt lượng lớn, thời gian dài nhằm phá vỡ cấu trúc của thuốc, vô cơ hoá thuốc tạo

ra CaCO3; Ca3(PO4)2 hoặc loại bỏ nước (Thạch cao)

+ Dược liệu áp dụng: Khoáng vật, xương động vận rắn như: Đá kẽm, Phèn

chua, Thạch tín, Gạc hươu nai, vỏ Hà, vỏ Hầu., Than hoạt..

+ Mục đích: Làm cho dược liệu bở, tơi, xốp dễ tán mịn, hoặc làm tinh khiết

dược liệu.

+ Có 3 cách nung: - Trực tiếp (Mẫu lệ, Thạch quyết minh, Thạch cao)

- Gián tiếp (đá Kẽm, Phèn chua...)

- Thăng hoa (tinh khiết dược liệu: Thạch tín, Mai hoa băng phiến, Long não...)

- Ngoài ra còn nung thán như Bạch mao căn nung thán chữa niệu huyết

37

2.3. Đốt rượu, cồn:

Áp dụng cho những dược liệu không chịu được sức nóng cao như Nhung hươu,

Nhung nai...

Mục đích: làm sạch lông, không cháy xém, tạo mùi thơm, giảm mùi tanh và

tăng thời gian bảo quản.

2.4. Lùi (ổi)

Định nghĩa: Là phưong pháp đưa thuốc trực tiếp hoặc gián tiếp (qua bọc giấy,

cám...) vào tro nóng không bén lửa đến khi chín dược liệu hoặc khô vật liệu trung

gian. (Ổi khương, Cam thảo...).

Mục đích: Rút bớt một phần dầu để giảm bớt tính kích ứng của vị thuốc

2.5. Sấy (Bồi)

- Dùng lửa nhỏ để sấy dược liệu cho khô ráo, hơi vàng giòn là được (Thuỷ điệt,

Manh trùng...)

- Đặc biệt: Đan sâm trộn miết huyết, sấy; đan sâm trộn tiết lợn; phơi hoặc sấy

2.6. Hoả phi

Định nghĩa: Là phương pháp sao trực tiếp các dược liệu là khoáng chất ngậm

nước nhằm thay đổi cấu trúc phân tử , thay đổi tính chất của thuốc (hút nước, săn

se). Áp dụng các khoáng chất như Phèn chua chế thành Phèn phi.

2.7. Hơ

Dùng lửa nhỏ để hơ dược liệu cho khô ráo đến vàng ròn là được. Đôi khi chỉ

hơ nóng để chườm vào nơi bị chấn thương.

2.8: Nướng

Nếu nướng không tẩm phụ liệu chỉ nhằm mục đích chín thuốc và giảm tính

mãnh liệt của thuốc như cát căn,

2.9 Chế sương

Định nghĩa: Chế sương là phương pháp nung kín nhằm tinh khiết thuốc thành

bột mịn (Phê sương). Ngày nay phương pháo này ít dùng.

38

Cách làm: Cho dược liệu vào cái bát rộng miệng (Thạch tín, Thuỷ ngân, Hùng

hoàng, Thư hoàng v.v..), úp cái bát khác nhỏ hơn lên phía trên, trát kín hai bát.

Đốt lửa ở phía dưới bát to, các tinh thể sẽ thăng hoa và kết tinh bám vào lòng bát

phía trên. Sau khi nguội, bỏ ra cạo lấy phấn thuốc.

C/ KỸ THUẬT BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN VỊ THUỐC BẰNG THỦY CHẾ

(PHƯƠNG PHÁP BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN CHỈ DÙNG NƯỚC)

Định nghĩa: Thuỷ chế là phương pháp chế biến mà sử dụng sự tác động của

nước hoặc dung dịch phụ liệu ở những mức độ khác nhau (ẩm, ngâm...) trong

điều kiện nhiệt độ tự nhiên tác động đến dược liệu tạo ra quá trình hoà tan, thuỷ

phân hoặc lên men nhằm đáp ứng những mục đích khác nhau.

Dịch phụ liệu: Nước Cam thảo, nước Đậu đen, nước Vo gạo, nước Phèn chua,

nước Muối ăn...

1 - Mục đích

- Giảm độc tính, giảm tác dụng có hại của thuốc tới người bệnh;

- Tăng tác dụng chữa bệnh của vị thuốc (nước Gừng dẫn thuốc vào phế, tỳ, vị;

nước cam thảo dẫn thuốc vào 12 đường kinh).

- Giảm tính bền cơ học của vị thuốc, tăng khả năng giải phóng hoạt chất do các

tế bào dược liệu bị hút nước và trương nở.

- Làm mềm dược liệu, giúp cho việc phân chia ( thái, bào..) được dễ dàng .

- Định hình và bảo quản thuốc, tránh gây vụn nát thuốc (nước Phèn chua, nước

Vôi...làm cứng vị thuốc lên giữ định hình ban đầu ).

- Hạn chế sự phát triển của nấm mốc (nước Muối, nước Phèn chua)

2 - Các phương pháp thuỷ chế

2.1. Tẩy, rửa

* Rửa: Đã trình bày ở phần trên (A - Làm bằng tay)

* Tẩy: Dùng rượu để tẩm hoặc dầm vào vị thuốc từ 5 - 10 phút rồi đưa ra sắc

39

(Đương qui, Ngưu tất...)

2.2. Ngâm

Định nghĩa: Ngâm là phương pháp dùng nước hoặc dung môi thích hợp đổ

ngập vào dược liệu trong một thời gian thích hợp (trên 1 giờ ) ở nhiệt độ thích

hợp, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, thu lấy thuốc, loại bỏ dịch ngâm nhằm đạt được mục

đích chế biến và điều trị. Khi áp dụng cần cẩn thận tránh làm giảm hoạt chất.

Dung môi: Nước, nước có độ PH cao thấp khác nhau (nước vo gạo, rượu, dấm,...),

nước hành..

Nhóm có pH trung tính: Nước Cam thảo, Đậu đen, Đậu xanh, Sinh khương

Nhóm có pH acid: Dấm, nước Phèn chua

Nhóm có pH kiềm: Dịch nước vôi, nước tro bếp

Nhóm có pH thay đổi: Dịch nước vo gạo, đồng tiện. pH thay đổi là do sau vài

giờ lên men hoặc bị phân huỷ. Độ pH khác nhau sẽ làm thay đổi độ tan khác nhau

của các thành phần khác nhau (alcaloid, coumarin...). Vì vậy, cần chọn dung dịch

ngâm thích hợp...

Thường ngày thay dịch ngâm một lần; cần bổ xung chất tan để duy trì nồng độ.

Thời gian Phụ thuộc vào vị thuốc, kích thước hình dáng vị thuốc cho ngấm đều;

tính chất của từng vị thuốc như Phụ tử ngâm đến khi hết vị tê, cay; Bán hạ ngâm đến

khi hết nhân trắng đục.

Nhiệt độ: Mùa hè khác mùa đông.

Mục đích: Làm mềm dược liệu để dễ thái, bào ... (Hà thủ ô...), định hình dược

liệu, tẩy chất nhựa gây bẩn vị thuốc (Bạch thược...) hoặc làm giảm độc tính và tác

dụng không mong muốn của thuốc (Hoàng nàn, Phụ tử, Bán hạ...), tăng tác dụng

chữa bệnh của thuốc và để chiết lấy các hoạt chất có tác dụng chữa bệnh trong các

dược liệu.

Phương pháp này còn được áp dụng trong việc chế cao thuốc, rượu thuốc, cồn

thuốc...

40

2.3. Ủ

Định nghĩa: Dùng nước hay dung dịch phụ liệu tẩm vào vị thuốc trong thời

gian thích hợp (từ vài giờ đến vài ngày) cho đến khi đạt yêu cầu.

Mục đích: - Tăng tác dụng trị bệnh nhờ tác dụng hiệp đồng giữa thuốc và phụ liệu

Ví dụ: Bán hạ chế với nước Cam thảo, nước gừng để tăng tác dụng chỉ ho, hoá

đờm, chống nôn.

- Ủ để lên men: Áp dụng chế Địa hoàng thành Sinh địa, chế Thần khúc, chế

Bán hạ khúc.

- Ủ để làm mềm vị thuốc để tiện bào, thái... như Tam thất, Bạch thược...

- Ủ để làm sạch vỏ củ dễ gây kích ứng như Bán hạ sống.

- Ủ cho thơm (gạc nai ủ Sinh khương) để tẩy mùi.

2.4. Thuỷ phi

Định nghĩa: Thuỷ phi là phương pháp tán thuốc ở trong nước hoặc dung môi

thích hợp (rượu chẳng hạn) trong một điều kiện về nhiệt độ, áp suất thích hợp

thành dạng bột min.

Mục đích: Thu được bột nhỏ mịn tinh khiết; tránh được bay bụi thuốc và ảnh

hưởng tới người bào chế; Chống sự tăng nhiệt độ dễ phân huỷ thuốc thành chất

độc trong khi tán do ma sát sinh ra (như Thần sa, Chu sa, Thanh đại, Hoạt thạch, ô

long vĩ ...); tránh hao thuốc; hạn chế kích ứng của dược liệu độc mạnh.

Cách chế: Cho dược liệu vào cối sành, sứ, cho nước vào, nghiền kỹ. Khuấy

đều, bớt bỏ tạp chất, gạn lấy dịch nước đục có chứa các hạt thuốc nhỏ mịn. Cho

thêm nước, tiếp tục nghiền cắn lắng ở dưới, rồi lại gạn. Làm nhiều lần đến khi thu

được toàn bộ thuốc. Bột thu được mang phơi chỗ thích hợp tới khô.

Riêng tẩm Chu sa rồi phơi âm can thì không sao hoặc nướng để tránh độc (thuỷ

chế). Ví dụ: Bá tử nhân; Viễn chí, Trúc nhự, Táo nhân, thông thảo, Thiên môn,

Thạch xương bồ, Đan bì, Long cốt... để tăng tác dụng trân kinh, trấn tĩnh, an

thần...

41

2.5. Thuỷ bào

Định nghĩa: là phương pháp dùng nước sôi để giảm nhiệt độ xuống 60 - 70C rồi

cho dược liệu vào khuấy đều nhẹ liên tục cho đến khi nguội. Làm liên tục từ 2 - 3 lần.

Mục đích: Giảm bớt tính mãnh liệt của thuốc (Ngô thù du) hoặc tách vỏ (Hạnh

nhân)

D/ KỸ THUẬT BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN VỊ THUỐC BẰNG THUỶ HOẢ

HỢP CHẾ ( DÙNG LỬA VÀ NƯỚC - NHIỆT ẨM).

Định nghĩa: Thuỷ hoả hợp chế là phương pháp sử dụng sự tác động của nước

hoặc dung môi thích hợp với lửa (trực tiếp hay gián tiếp) ở nhiệt độ cao hơn nhiệt

độ tự nhiên (nhiệt ẩm) nhằm thay đổi tính chất của dược liệu.

Mục đích: Để bảo quản, giảm độc tính hoặc để thay đổi tính chất và tăng hiệu

lực của thuốc.

1. Chích

Định nghĩa: Chích là phương pháp tẩm vào vị thuốc một hay nhiều loại dịch

phụ liệu thích hợp, ủ đến khi thấm đều thì sao hoặc nướng.

Thời gian tẩm có thể từ 1 - 10 giờ tuỳ theo từng loại dược liệu.

1.1. Mục đích

- Tăng tác dụng điều trị: Bán hạ chích nước Cam thảo tăng tác dụng long đờm,

giảm ho; chích với nước gừng để tăng tác dụng chống nôn...

Nướng dược liệu đã tẩm mật hoặc một phụ liệu thích hợp (áp dụng cho chế

Cam thảo, Hoàng kỳ...) đến khi thấy mùi thơm và khô.

- Thay đổi tính vị, khuynh hướng tác dụng như: tăng tính ấm, giảm tính hàn,

giảm tính ứ trệ của thuốc (dùng Sa nhân, Sinh khương, Rượu).

- Giảm tính táo, tăng tính nhuận của thuốc (dùng dịch nước Vo gạo, nước Cam

thảo, Đồng tiện, Mật ong, Sữa...)

- Tăng tác dụng thăng đề của thuốc thì chế với rượu.

42

- Tăng tác dụng thu liễm thì chế với dấm.

- Tăng tác dụng trầm giáng thì chế với muối.v.v...

Phụ liệu để chích: Nước Gừng, Nước, Cồn, nước Cam thảo, nước Hoàng thổ,

v.v.. và từ 50 - 200 ml cho 1 kg dược liệu, sau khi tẩm rồi phải sao lại cho vàng khô.

1.2. Tẩm sao

Đây là phương pháp bào chế thông dụng trong chế biến thuốc cổ truyền.

Mục đích: Thay đổi tính dược và tác dụng của vị thuốc: từ hàn ra ôn, từ nhiệt ra

lương hoặc làm cho vị thuốc dẫn từ trong ra ngoài, từ dưới lên trên và ngược lại

hoặc từ độc hoá thuần, từ yếu hoá mạnh và dẫn vào các kinh, các tạng phủ cần đến.

Đây là phép kỳ diệu của bào chế đông dược.

1.2.1. Tẩm rượu sao (tửu chế).

Dùng Rượu trắng (35 - 40) tẩm, trộn với dược liệu để 2 - 3 giờ rồi sao vàng.

Số lượng dùng từ 50 - 200 ml Rượu cho 1 kg dược liệu.

1.2.2. Tẩm gừng sao (khương chế).

Gừng tươi rửa sạch, giã dập, cho thêm ít vắt lấy nước để tẩm vào dược liệu

khoảng 1 giờ. Sau đó đem dược liệu sao chậm và nhỏ lửa (50 - 60C) đến khi

thấy thuốc có màu hơi vàng. Sao Tu sâm phải sao cách giấy trên chảo (30 - 40C).

Dùng 50 - 100g gừng tươi vắt lấy 50 - 150 ml nước dịch gừng cho 1 kg dược liệu.

1.2.3. Tẩm muối sao (Diêm chế).

Cho 5% dung dịch muối nồng độ 20% vào 95% dược liệu, tẩm đều trong vòng

1 - 3 giờ, rồi đem sao lửa nhỏ và chậm đến khi mặt dược liệu vàng già là được.

1.2.4 Tẩm dấm sao (thanh thố).

Dùng dấm ăn (dấm thanh mùi chua, thơm, vị hơi ngọt) hoặc Acid axetic 5%.

Nếu số lượng dược liệu ít thì tẩm lượng dấm xâm xấp (cỡ 5% lượng dược liệu) độ

1 - 2 giờ rồi sao ráo hơi nước và vàng cạnh. Nếu lượng dược liệu nhiều thì cho tỉ

lệ dấm như trên, đảo đều và ủ một đêm rồi đem sao vàng cạnh là được.

43

1.2.5. Tẩm đồng tiện sao (tiện chế).

Dùng đoạn giữa nước tiểu của trẻ em khoẻ mạnh dưới 5 tuổi tẩm vào dược liệu

từ 12 đến 48 giờ. Lượng nước tiểu bằng khoảng 5% dược liệu. Sau đó sao vàng.

1.2.6. Tẩm nước vo gạo (mễ trấp, mễ cam trấp) sao.

Lấy khoảng 5 - 10% nước mới vo gạo đặc so với dược liệu đem tẩm vào dược liệu

thái phiến, ủ qua đêm, đem sấy hoặc sao vàng cạnh là được.

1.2.7. Tẩm sữa(nhũ chế).

Pha sữa vừa phải , tẩm dược liệu từ 1 - 2 giờ, rồi đem sao nhỏ lửa cho khô và

thơm thuốc. Ít dùng

1.2.8. Tẩm mật hoặc đường sao.

Dùng mật ong, mật mía hoặc nước đường pha loãng hợp lý (một phần kết hợp

một phần nước) với nước sôi. Trộn tẩm với dược liệu theo tỉ lệ dược liệu chiếm 90

- 95% từ 2 - 6 giờ cho thấm đều, rồi đem sao vàng cạnh là được. Sao chậm.

1.2.9. Tẩm Hoàng thổ - Bích thổ( Hoàng thổ chế - Bích thổ chế) sao.

Dùng đất sét vàng, đất lòng bếp, đất vách tường cũ, bột vàng quét nhà...cứ 100

gam bột hoặc đất hoà tan trong 1 lít nước đun sôi khuấy đều, lọc lấy phần trong ở

giữa, đem tẩm dược liệu theo tỷ lệ 40 - 50% so với dược liệu, để 2 - 3 giờ, sau

đem sao vàng.

1.2.10. Tẩm nước Đậu đen sao

Lấy 100 gam Đậu đen cho vào 1 lít nước, đun sôi một giờ, gạn chắt lấy nước,

đem tẩm với dược liệu từ 1 - 3 giờ, rồi đem sao. Tỷ lệ nước tẩm là 10 - 20% so với

dược liệu.

1.2.11. Tẩm nước Cam thảo sao.

Lấy 100 gam Cam thảo tán thành bột ngâm 1 ngày đêm với nước, gạn chắt lấy

nước, đem tẩm với dược liệu từ 1 - 3 giờ, rồi đem sao. Tỷ lệ nước tẩm là 10 - 20%

so với dược liệu.

44

2. Chưng (đồ)

2.1. Định nghĩa: Chưng là phương pháp chế biến dược liệu bằng cách đung thuốc

với nước hoặc dịch phụ liệu bằng cách đun cách thuỷ .

2.2. Mục đích

- Chuyển hoá thuốc trong điều kiện nước ở nhiệt độ cao khoảng 100C.

- Làm chín vị thuốc để tiện việc bào mỏng, chế thuốc tễ.

- Thuốc sau khi chưng với Rượu thường thấy ngọt hơn và thơm hơn, thêm sức

ôn bổ, giảm tính đắng chát, là mất mùi tanh lợm, giảm bớt tính khí lạnh (Thục địa,

Đại hoàng...), giảm tác dụng không mong muốn của thuốc (ví dụ: Hoàng tinh hết

ngứa sau khi chưng).

- Thuốc sau khi chưng với Rượu vào tỳ vị dễ bị đồng hoá và dễ được hấp thu

hơn, nên chúng có tác dụng bồi dưỡng cơ thể.

- Một số vị thuốc chưng với Rượu bảo quản được lâu hơn.

2.3. Kỹ thuật bào chế

Thuốc cùng dung dịch phụ liệu (nước, rượu) vừa đủ cho vào nồi, đậy kín. Đặt

nồi vào trong một thùng hay chảo to có ngập nước nửa nồi, dới đay nồi có lót một

miếng gỗ để cóng không sát vào thùng. Lúc đầu đun to lửa để nước trong thùng

hoặc chảo sôi, sau đó đun nhỏ lửa cho đến khi đạt tiêu chuẩn. Cần bổ xung dịch phụ

liệu vào thuốc và nước ở thùng, chảo bên ngoài.

2.4. Thời gian chưng

- Cổ truyền: Chưng theo phương pháp "Cửu chưng, cửu sái" tức chín lần chưng

vào ban đêm đan xen chín lần phơi ban ngày.

- Thông thường hiện nay: Chưng liên tục 3 ngày đêm, phơi (hoặc sấy). Tẩm

đến khi hết dịch chưng thì phơi sấy (có màn che chắn ruồi, bụi) đến khô.

Chú ý: Chưng không đủ thời gian thì vị thuốc dễ bị mốc. Nếu chưng đủ thời

gian, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật thì vị thuốc thơm, bảo quản được lâu, ít bị mốc mọt.

và ngọt hơn do lượng đường tăng lên.

45

3. Nấu (Đun, chử)

3.1. Định nghĩa:

Nấu là phương pháp đun dược liệu sôi trong một lượng lớn chất lỏng thích hợp

(nước, dầu, dung dịch phụ liệu) với thời gian nhất định.

Thời gian nấu phụ thuộc vào số lượng của từng loại dược liệu cụ thể.

3.2. Mục đích

- Làm cho dược liệu mềm, dừ, dễ bào chế.

- Giảm tính kích thích (nấu với Nghệ đen) hoặc giảm độc (nấu với Mã tiền) của

vị thuốc.

- Làm tăng hiệu quả điều trị (nấu Hà thủ ô, Hoàng tinh).

- Rút hoạt chất của dược liệu như nấu cao...

4. Tôi

4.1. Định nghĩa

Tôi là phương pháp nung vị thuốc ở nhiệt độ cao, rồi nhúng vào nước hay dịch

phụ liệu.

4.2. Mục đích

- Giảm độ bền cơ học của vị thuốc;

- Giảm thành phần hoá học gây tác dụng bất lợi do trong quá trình nung tạo ra.

Ví dụ mẫu lệ nung thành CaO, khi hoà tan trong nước tạo thành Ca (OH)2; tôi

trong dấm thì sẽ giảm Ca (OH)2.

Ngoài các phương pháp đã trình bày ở trên, trong phép thuỷ hoả hợp chế còn

phương pháp sắc (thuốc thang, cao thuốc), hãm (hãm chè thuốc...), hầm, , ...

Các thủ thuật liên quan đến nước như hoà tan (thường là hoá chất) và làm trong

dung dịch đã chế biến như hoà tan, ngâm, hầm, sắc....

E/ MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN KHÁC

1. Chế khúc (dạng bánh)

46

Phương pháp dùng dược liệu (thường kèm thêm phần bột mỳ làm kết dính ) đã

tán nhỏ trộn với nước, đóng thành bánh rồi sấy khô gọi là thuốc khúc.

Sản phẩm thường có tên khúc đi kèm như Thần khúc, Bán hạ khúc...

Mục đích của phương pháp nhằm sử dụng sự tác động của men (enzym) trong

tác dụng chữa bệnh và chuyển hoá

2. Rán dầu

Định nghĩa: Rán dầu là phương pháp đun thuốc trong dầu sôi (thường dùng là

dầu thực vật).

Mục đích: Hoà tan hoặc phân các chất trong dược liệu có khả năng tan trong

dầu nhằm giảm độc tính....

Kỹ thuật chế biến: Đun sôi dầu, cho thuốc vào, đun sôi tiếp tục cho đến khi đạt

tiêu chuẩn. Lấy thuốc ra, để cho chảy hết dầu, lấy giấy bản lau khô.

Áp dụng: Mã tiền (hạt) đun trong dầu sôi đến khi có màu vàng cánh gián, vị

đắng nhẹ.

F/ MỘT SỐ VỊ THUỐC ĐƯỢC BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN BẰNG NHIỀU

PHƯƠNG PHÁP KHÁC NHAU TẠO RA NHỮNG TÁC DỤNG KHÁC NHAU

- Ba kích chế muối tăng quy kinh thận, dùng bổ thận; chế Cam thảo để giảm

độc tính (ngứa) của Ba kích

- Bạch thược chế rượu để khử tính hàn và tăng cường dưỡng huyết điều kinh;

chế giấm để tăng qui kinh can có tác dụng chỉ thống trong gan xơ hóa hoặc công

năng gan trì trệ. Chế hoàng thổ tăng tính kiện tỳ.

- Bạch truật chích mật, sao cám đều kiện tỳ, ích khí; trừ đầy bụng, nôn mửa;

sao cháy chỉ huyết đường tiêu hóa.

- Cẩu tích chế với rượu để tán hàn dùng cho phong thấp; chế với muối để mạnh

gân cốt.

- Huyền hồ sách dùng sống thiên về hoạt huyết tán máu ứ ở tạng phủ; chế rượu

47

tăng khả năng hành huyết; chế dấm vừa tăng lý khí lại tăng tác dụng giảm đau.

- Đảng sâm chế mật ong tăng tác dụng bổ trung; sao với gạo để hòa vị kiện tỳ;

sao với rượu với Sinh khương để tăng tính ấm cho vị thuốc.

- Đỗ trọng tẩm muối để bổ trị đau lưng, đái són; sao đen trị động thái chảy

máu; tẩm rượu sao tác dụng bổ và trị phong thấp.

- Đương qui sống bổ huyết nhuận tràng; chế rượu làm tăng tác dụng hoạt huyết

thông kinh; chế thán tăng tác dụng chỉ huyết.

- Hậu phác chế Sinh khương làm tăng tác dụng hành khí, bình suyễn và giảm

tính kích cổ họng; đồng thời giúp cho công năng hòa vị của Hậu phác.

- Hoàng bá chế muối gia tăng nhập thận, bổ thận. Chế rượu dùng cho thượng

tiêu bị hỏa, đau nhọt, lở miệng; chế thán chỉ huyết.

- Hoàng liên tẩm rượu khí vị dẫn lên thượng tiêu với công năng trừ hỏa của đầu

mắt; chế gừng thanh vị nhiệt chống nôn; chế muối thanh đại tràng bàng quang tích

nhiệt; chế mật lợn để tả can đởm thực hỏa; chế dấm trị can đởm hư hỏa; chế thán

dùng cầm máu.

- Hoàng kỳ trích mật để bổ trung, ích khí, sinh huyết; chế rượu để bổ hư; chế

muối bổ thận trị các bệnh băng đới.

- Hồng hoa Sao tồn tính chứa sang chấn vừa xuất huyết vừa ứ huyết; trích

giấm tăng hoạt huyết ở kinh can; trích rượu tăng khả năng phá huyết.

- Hương phụ chế giấm tăng lý khí nhập kinh can, chỉ thống; chế thán chỉ huyết;

chế rượu thông kinh lạc; chế muối tăng nhập huyết làm nhuận; chế gừng hóa đờm.

- Xa tiền tử chế muối tăng lợi tiểu; chế rượu tăng tác dụng bổ, sinh tinh.

- Ngải cứu dùng sống ôn kinh thông lạc; sao chế làm dịu co bóp tử cung an thai;

chế dấm thu liễm, chỉ thống; sao cháy tán hàn, chỉ huyết; chữa chảy máu nội tạng.

- Ngô thù chế Cam thảo để giải độc; trích nước Hoàng liên để chỉ nôn; chế muối

để trị sán thống; chế Sinh khương để chỉ thống; chế dấm để thư can giảm đau; chế

rượu để chữa tâm phúc khí trệ.

- Ngũ vị tử chế rượu bổ thận; chế dấm liễm phế; chế Mật ong nhuận phế.

48

- Ngưu tất chế muối tăng khả năng vào thận, mạnh gân cốt; chế rượu tăng thông

kinh hoạt lạc.

- Sài hồ sao chế giảm bớt tính phát tán; chế giấm tăng tính thư can, hoạt huyết,

giảm đau; chế Miết huyết để dưỡng âm, hạ sốt.

- Tam lăng sao cám để giảm tính mãnh liệt của vị thuốc; chế rượu tăng khả năng

hành khí; chế giấm tăng tác dụng tiêu ứ giảm đau.

- Thanh bì chế dấm vào can để giảm đau; Trần bì sao chế để hào vị hòa hoãn.

- Thăng ma chế mật tăng cường nhuận phế chỉ ho; chế thán chỉ huyết lỵ; chế

rượu có tác dụng thăng đề.

- Thiên môn chế Chu sa để ninh tâm, an thần; chế Mật ong tăng nhuận phế chỉ ho

- Thương truật chế hoàng thổ, cám để bớt tinh dầu, giảm bớt tính táo; sao cháy để

ôn tỳ, trừ thấp, chỉ tả.

- Trúc nhự chế Sinh khương để tăng tác dụng hóa đờm, chế Chu sa để an thần

dùng khi bị phong đờm.

- Viễn chí chế Chu sa để an thần; chế mật để nhuận phế chỉ ho; sao cháy để chỉ

huyết ; chế cam thảo để điều hòa, giải độc, kích ứng.

- Xích thược tẩm giấm trị kinh bế, tăng hoạt huyết giảm đau; chế rượu trị xuất

huyết.

- Ý dĩ dùng sống lợi niệu trừ mủ; sao chế kiện tỳ, lợi thấp, chỉ tả.

CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1. Mối quan hệ giữa nhiệt độ và các phương pháp sao thuốc?

Câu 2. Phân loại dược liệu theo thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu; theo độ PH

Câu 3. Tại sao thần sa, chu sa là các vị thuốc bắt buộc phải Thuỷ phi?

Câu 4. Phân biệt giữa thuỷ phi, hoả phi và thuỷ bào?

Câu 5. Sự khác nhau cơ bản giữa Phơi, hoả chế, thuỷ chế và thuỷ hoả hợp chế?

Câu 6. Tại sao các thuốc bổ khí kiện tỳ thường được chích với Mật ong? Các

thuốc bổ thận dược được sao tẩm với muối?

49

Câu 7. Phương pháp tôi có ảnh hưởng như thế nào đến quá trình hấp thu thuốc?

Đánh giá tác dụng của phương pháp tôi dưới góc nhìn của Y học cổ truyền?

Câu 8. Đánh giá tác dụng của phương pháp sao vàng hạ thổ theo y học hiện đại?

Theo y học cổ truyền?

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Trung Hoà, Đông y toàn tập, Nhà xuất bản Thuận Hoá năm 2000

2. Nguyễn Xuân Sinh, Phùng Hoà Bình, Dược học cổ truyền. Giáo trình Đại

học Dược Hà Nội, NXB Y học 1998 và 2006

3. Đỗ Tất Lợi,Các cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – NXB Y học năm 2000

4. Nguyễn Xuân Sinh, Phương pháp chế biến thuốc cổ truyền, NXB Y học,

2000

5. Lê Hữu Trác - Hải thượng y tông tâm lĩnh, NXB Y học năm 1991

6. Nguyễn Bá Tĩnh, Tuệ Tĩnh toàn tập , NXB Y học năm 2004

50

CHƯƠNG III

CHUYÊN LUẬN: BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN VỊ THUỐC

BÀI 1

PHIẾN THUỐC

(1 tiết)

MỤC TIÊU

1. Trình bày được các dạng phương pháp phiến thuốc

2. Trình bày được các bước tiến hành bào chế thuốc

NỘI DUNG

1. Định nghĩa

Thuốc phiến là những thuốc được chế biến từ các dược liệu thảo mộc, động

vật hay khoáng chất bằng cách bào hay thái lát thành từng miếng mỏng, có khi

để sống hoặc đã chế biến bằng các cách chế khác nhau như: nung, nướng,

chưng, thuỷ phi...

Thông thường các thuốc phiến phải được sao tẩm theo yêu cầu điều trị.

Thuốc phiến là dạng trung gian dùng để bốc thuốc thang và để chế các dạng

thuốc khác như: bột, viên, rượu, cao....

2. Yêu cầu của bào chế thuốc phiến.

- Phải rửa sạch và chọn lựa đúng bộ phận cần bào chế (đã trình bày ở phần chế

biến làm bằng tay).

- Dược liệu dùng để bào chế thuốc phải chọn thứ tốt, to, mập, dễ thái miếng, bào

- Sau khi đã qua giai đoạn chọn lọc, rửa sạch, ngâm, ủ hoặc đồ cho mềm thì

đem ra thái, bào. Độ dày của thuốc phiến từ 1 - 2mm. Những thứ nhỏ vụn thì dùng

làm thuốc hoàn tán.

51

- Khi sao tẩm thuốc phiến phải nhẹ nhàng, tránh vỡ nát, hao thuốc.

- Khi bào thái và phơi sấy phải đảm bảo vệ sinh. Nếu cần phơi thì để vào mẹt

sạch, chỗ cao, xa nơi đi lại và nơi ô nhiễm.

- Thuốc phiến không nên để lâu, các thứ tẩm sao thì nên dùng đến đâu chế biến

đến đó.

- Thuốc phiến cần bảo quản trong thùng, lọ kín, nơi khô ráo; thỉnh thoảng đem

phơi lại để tránh ẩm mốc.

3. Các phương pháp phiến dược liệu.

Có ba phương pháp phiến dược liệu cơ bản sau đây:

3.1. Phiến dọc

Là phương pháp làm phiến dọc theo suốt độ dài của dược liệu

Áp dụng: Bạch thược, Bạch cập, Đương qui, Xuyên khung...

Bạch truật dầy 2 - 3 mm, dài 3 - 6 cm.

Cát cánh dày 1 - 3 mm, dài 3 - 6 cm,

Địa cốt bì hình trụ dầy 1 - 1,5 cm, dài 3 - 5 cm

Hoài sơn, ,.... .v..v ....

3.2. Phiến vát chéo

Áp dụng: Hầu hết các dược liệu kể cả dược liệu có thể áp dụng phiến dọc:

Ba kích dầy 1 - 3 mm, dài 3 - 5 cm,

Bách bộ dầy 1 - 3 mm, dài 3 - 5 cm

Bạch chỉ dầy 1 - 3 mm, dài 3 - 5 cm

Bạch thược dày từ 1 - 2 mm, dài 3 - 5 cm

Cam thảo dày 1 - 3 mm, dài 3 - 5 cm,

Cát căn dày 2 - 3 mm, đà 3 - 6 cm

Đại hoàng dày 2 - 3 mm, dài 3 - 5 cm

Đan sâm dày 1 - 3 mm, dài 3 - 5 cm

Đảng sâm dày 1 - 3 mm, dài 3 - 5 cm

52

Hoàng kỳ, Huyền sâm...

Ngọc trúc khô thái vát dài 3 - 5cm, dày 2 - 5 mm. Khô.

Ngũ gia bì sạch, phiến dầy 5mm, dài 3 - 5 cm. Phơi khô.

Ngưu tất sạch, làm mềm, phiến vát dày 1 - 3mm, cắt đoạn 3 - 5 cm

Phòng phong phiến vát dài 3 - 5 cm, dày 1 - 3 mm. Phơi âm can.

Bố chính sâm phiến vát 5 - 7 cm, dầy 1 - 3mm. Phơi hoặc sấy khô.

Thông thảo phiến vát 3 - 5 mm, hoặc phiến tròn.

Thường sơn sạch, phiến vát dài 3 - 5 cm, dầy 1 - 3mm. Phơi hoặc sấy khô

Tục đoạn phiến vát 3 - 5 cm, dầy 5 - 7mm. Phơi hoặc sấy khô âm can phiến vát

2 - 3 cm, dày 1 - 3 mm. Phơi khô.

Xích thược phiến chéo hoặc dọc, phơi khô .v..v ....

Chú ý: đối với dược liệu có hình trụ thì chiều dài của lát thuốc gấp 4 - 6 lần tiết

diện của vị thuốc đó.

3.3. Phiến ngang:

Áp dụng: Cho các dược liệu dáng tròn (hình cầu) hoặc dược liệu làm thuốc bột.

3.3.1.- Dược liệu củ tròn:

Bán hạ dầy 1 - 3 mm, đường kính 1 - 6 cm

Chỉ thực phiến hình tròn hoặc bán nguyệt, đường kính 2 - 3 cm

Chỉ xác hình sợi, dày 2 - 3 mm, dài 3 - 5 cm.

Địa liền đường kính 2 - 5 cm, dày 1 - 3 mm

3.3.2.- Dược liệu làm bột: Cam thảo,

Cẩu tích dầy 1 -3 mm, dài 3 - 6 cm, ...

Núc nác phiến ngang dài 2 - 5 cm, dầy 1 - 3mm. phơi khô. .v..v ....

4. Phân tích lựa chọn phương pháp chế biến.

Bước 1: Phân tích vị thuốc về:

- Tên, xuất xứ nguồn gốc của vị thuốc

53

- Tính vị qui kinh, tính âm dương

- Công năng chủ trị.

- Thất tình hoà hợp

- Bộ phận dùng, thời gian thu hoạch, màu sắc, hình dáng, đặc điểm vật lý

(năng, nhẹ, đặc, xốp...)

- Thành phần hoá học, đặc biệt là độc tính và tác dụng chính của hoạt chất

Bước 2: Tìm hiểu mục đích của việc chế biến vị thuốc đó.

Ví dụ: chế biến nhằm dẫn thuốc vào kinh mới hoặc giảm tính độc hoặc tăng

hay giảm tính mãnh liệt, tính ấm, tính ráo, tính âm / dương .... của vị thuốc.

Bước 3: Chế biến vị thuốc:

- Nếu vị thuốc có độc tính phải chọn pương pháp làm giảm độc tính.

- Dựa vào mục đích điều trị mà tăng tác dụng qui kinh để tăng tác dụng điều trị

của vị thuốc.

- Nếu vị thuốc có tác dụng phụ có hại (như gây kích ứng cơ thể, táo bón, ngứa,

ỉa chảy... ) thì phải chế biến để giảm tác dụng phụ đó đi.

- Tạo ra hình dáng, mẫu mã đẹp... dễ bảo quản.

CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1: Kể tên và phạm vi áp dụng các phương pháp phiến thuốc

Câu 2: Tại sao phải phân tích tên thuốc và xuất xứ vị thuốc trong bào chế thuốc?

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Xuân Sinh – Phùng Hoà Bình, Dược học cổ truyền – Giáo trình Đại

học Dược Hà Nội, NXB Y học 1998 và 2006

2. Đỗ Tất Lợi,Các cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – NXB Y học năm 2000

54

BÀI 2

KỸ THUẬT BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN

MỘT SỐ VỊ THUỐC THƯỜNG DÙNG

(6 tiết)

MỤC TIÊU

1. Hiểu và trình bày được mục đích sử dụng phụ liệu trong chế biến vị thuốc

2. Hiểu và trình bày được cơ chế tác dụng của phụ liệu liên quan tới quá trình

bào chế, chế biến vị thuốc

3. Trình bày được qui trình bào chế, chế biến vị thuốc

4. Trình bày được mục đích bào chế, chế biến các vị thuốc

NỘI DUNG

HÀ THỦ Ô ĐỎ

Tên khoa học: Polygonum multiflorum Thumb

Họ Rau răm: Polygonaceae

1/ Bộ phận dùng

Rễ củ có đường kính trên 4 cm. Củ khô vỏ màu nâu sẫm, cứng đỏ chắc, nhiều

bột, ít xơ và lõi, không mốc mọt là tốt.

2/ Thành phần hoá học

Chất đạm, tinh bột, tanin, chất béo, Lexithin...

3/ Tính vị, qui kinh

Vị đắng, ngọt, chát, tính ấm; vào 2 kinh can và thận.

4/ Tác dụng

55

Ích khí, trừ phong, mạnh gân cốt, bổ can thận.

Chủ trị: Di tinh, đới hạ, huyết hư, ỉa ra máu, suy nhược cơ thể, tóc bạc...

Liều dùng; 12 - 20 g/ 24 giờ.

Kiêng kỵ: Không dùng hành khi sử dụng.

5/ Mục đích của bào bào chế

Giảm tính táo, sáp (do tanin) nếu ngâm với nước vo gạo;

Tăng tác dụng nhuận tràng (ngâm);

Tăng tác dụng dẫn thuốc vào kinh thận (chế với Đậu đen).

Giải độc và bổ can thận, bổ huyết

6/ Kỹ thuật bào chế

Theo kinh nghiệm của Việt Nam.

6.1. Cách thứ nhất

Rửa sạch 1 kg Hà thủ ô, ngâm vào nước vo gạo một ngày đêm, rửa lại, rồi đổ

nước đậu đen vào cho ngập (cứ 100 gam đậu đen nấu với 2 lít nước cho nhừ nát,

gạn lọc lấy nước). Nấu cho đến khi gần cạn (nên đảo luôn cho thuốc được chín

đều), củ trở nên mềm thì lấy ra lọc bỏ lõi, thái hoặc bào mỏng. Sau đó, đem phơi

khô, nếu còn nước đậu đen thì tẩm phơi cho đến hết. Cách này thường được áp

dụng. Muốn làm kỹ nữa thì trước khi thái miếng làm cửu chưng, cửu sái. Khi đun

nấu, đặt một cái vỏ ở đáy dụng cụ nấu để khỏi cháy khét.

6.2. Cách thứ hai

Chế biến theo phương pháp đồ.

+ Ngâm: Hà thủ ô trong nước vo gạo 4 ngày đêm, mỗi ngày thay nước một lần.

Vớt ra, rửa sạch.

+ Đồ: Rải đậu đen và Hà thủ ô vào chõ. Cứ một lượt đậu đen lại một lượt Hà

thủ ô. Đồ đến khi Đậu đen chín nhừ. Loại bỏ Đậu đen. Phơi Hà thủ ô đến khi khô.

Làm như vậy nhiều lần (có thể 9 lần). Thái phiến hay bào phiến, phơi sấy đến khô

kiệt để dùng hoặc tán bột.

56

Chế biến chưng với rượu

Hà thủ ô trộn với rượu theo tỷ lệ 100:25; chưng đến chín, phơi khô. Làm lặp lại

3 lần. Có thể chỉ ủ mềm mà không chưng. Thái phiến.

Một số phương pháp chế biến khác:

+ Hà thủ ô, đạu đen, Cháo cùng nấu trong 2 giờ. Phơi khô se. Hoặc ủ 12 giờ,

đem đồ 2 giờ, phơi nắng xen kẽ phơi sương. Đồ 2 giờ. Phơi khô.

+ Hà thủ ô trộn nước nấu Đậu đen pha rượu tỷ lệ 10:1:2,5; ủ trong 4 giờ rồi

chưng 24 giờ liền đến khi dịch ngấm hết vào Hà thủ ô. Thái phiến, phơi khô.

+ Hà thủ ô thái miêng to ngâm 4 ngày đêm. Nấu 20 phút; bỏ nước thêm Sinh

khương, Đậu đen tỷ lệ 10:1:1; nấu 1 giờ. Bỏ Sinh khương, Đậu đen, phơi se khô,

thái mỏng. Phơi khô.

+ Hà thủ ô để lên trên Đậu đen, Cam thảo tỷ lệ 10:2:2; nấu 12 giờ đến khi có

màu hồng hơi đen. Thái phiến, phơi khô.

Tiêu chuẩn thành phẩm:

Phiến dày 1 - 2 mm, màu nâu đen, khô cứng, ít chát.

6.3. Rượu Hà thủ ô

Sau khi bào chế rồi, tán bột, bỏ vào trong túi vải. Ngâm rượu 40 trong vòng

10 ngày với tỷ lệ Thuốc/ Rượu = 1/4.

Lọc, pha thêm sirô đơn (1/2 Rượu Hà thủ ô kết hợ với 1 sirô đơn) càng tốt.

6.4. Hà thủ ô đỏ với nước sắc thục địa

Nấu thục địa, lấy Hà thủ ô gấp 5 lần lượng thục địa ban đầu rồi ngâm nước

thục địa từ 3 - 6giờ. Chưng 3 - 5 giờ. đổ ra phơi khô se. Lại cho vào chưng 3 - 5

lần. Phơi khô.

7. Bảo quản

Để nơi khô, mát, nắng thì đem phơi do dễ mốc mọt.

8. Nhận xét:

57

- Hàm lượng Tanin giảm khoảng 1,5 - 2 lần và antraglycosid giảm khoảng 3 -

3,3 lần sau khi chế biến

- Hà thủ ô chế: Tác dụng nhuận tràng và tăng thể trọng rõ rệt cho người dùng

SINH ĐỊA VÀ THỤC ĐỊA

Sinh địa (Can địa hoàng) và Thục địa là vị thuốc thu hái đã được bào chế từ rễ

củ của cây Địa hoàng.

Tên khoa học: Rhemannia glutinosa Libosch

Họ Hoa mõm chó: Scrophulariaceae

Thành phần hóa học: Mannit, rhemanin, đường khử, irdoid (Catalpol...,

caroten.)....

1. SINH ĐỊA 生 地

1.1. Tính vị qui kinh:

- Sinh địa tươi: Vị đắng, tính hàn.

- Sinh địa đã chế biến: Vị ngọt đắng, tính lương. Vào 3 kinh Tâm, can, thận.

1.2. Tác dụng:

Bổ âm, thanh hoả, lương huyết, sinh tân dịch.

Chủ trị: Trị lao thương như ho lâu ngày, rối loạn thần kinh thực vật do lao (phế

âm hư); trừ ứ huyết, đái ra huyết; bổ ngũ tạng, thông huyết mạch, tăng khí lực,

sáng mắt.

Liều dùng: 12 - 24 - 64 gam/ 24 giờ.

Kiêng kỵ: Không dùng cho người tỳ vị hư hàn và thấp nhiệt.

1.3. Cách bào chế: Có hai phương pháp

58

1.3.1. Phương pháp chế theo Dược điển Việt Nam. Đào, thu lấy rễ củ, rửa

sạch, để ráo nước. Sấy từ từ (50 - 60 C) đến khi củ mềm, cắt ngang thấy thịt củ

có màu đen, dính, vị hơi ngtọ thì sấy nhanh đến khi khô kiệt.

1.3.2. Phương pháp chế biến theo kinh nghiệm.

Chế biến theo 3 giai đoạn.

1.3.2.1. Giai đoạn 1 (sấy)

Củ địa hoàng sau khi thu hoạch, rũ sạch đất (không được rửa cũng như không

đào lúc trời mưa), phân loại to nhỏ, rải riêng từng loại, sấy nhẹ từng loại. Ngầy

đầu sấy ở nhiệt độ 35 - 40C, đến khi vỏ khô se. các ngày sau sấy ở nhiệt độ 50 -

60C đến khi củ mềm dẻo, thịt củ có màu đen (5 - 7 ngày) thì lấy ra.

1.3.2.2. Giai đoạn 2 (ủ)

Rải Sinh địa đã chế ở trên ra sàn, ủ kín bằng bao tải đến khi có lớp mốc trắng

mọc đều, thịt củ đen bóng, có chất dịch đen dính, củ dẻo thì lấy ra (củ mềm và

nhũn như chuối chín).

1.3.2.3. Giai đoạn 3 (Sấy)

Củ sinh địa ở trên được cho sấy ngay ở nhiệt độ 50 - 60C đến khi khô kiệt.

* Tiêu chuẩn thành phẩm

Khô kiệt, củ phải mềm dẻo, thịt củ có màu đen bóng và có chất dịch dính, vị

ngọt hơi đắng, không mốc mọt.

Loại to từ 16 - 30 củ/ kg, loại nhỏ từ 40 - 60 củ/ kg.

Độ ẩm an toàn không quá 18%.

* Chú ý: Củ nhỏ quá thì để nấu lấy nước sắc đặc tẩm vào Thục địa.

1.4. Bảo quản

Lấy đất phù sa hay đất sét khô tán nhỏ mịn, rây qua rồi đổ vào cái nong. Cho

Sinh địa vào chà lăn cho củ tròn đều, chú ý đừng để củ dài dễ gãy. Cho vào thùng

đậy kín, để nơi khô ráo.

59

2. THỤC ĐỊA 孰 地

2.1. Tính vị qui kinh: Vị ngọt, tính hơi ôn vào 3 kinh tâm, can, thận

2.2. Tác dụng: Bổ âm, dưỡng huyết, sinh tân dịch, tráng thuỷ, thông thận.

Chủ trị: - Bổ thận chữa di tinh, đau lưng, mỏi gối, ngủ ít, đái dầm...

- Bổ huyết điều kinh

- Trừ hen suyễn do thận hư không nạp được phế khí

- Làm sáng mắt (chữa quáng gà, giảm thị lực do can thận hư)

- Sinh tân, chỉ khát (chữa đái nhạt - đái đường).

Nên phối hợp vị thuốc với các vị hoá khí như Trần bì, Sa nhân, Sinh

khương...để giảm tác dụng gây trệ của Thục địa.

Liều dùng: 12 - 64gam/ 24 giờ.

Kiêng kỵ: Người tỳ vị hư hàn chớ dùng;

2.3. Bào chế

2.3.1.Mục đích

- Thay đổi tác dụng (công năng) của Sinh địa

- Tăng tính ấm, giảm tính hàn của vị thuốc bằng cách sử dụng sự tác động của

nhiệt và một số phụ liệu: Rượu, Sa nhân, Sinh khương...

- Tạo ra vị thuốc mới, mùi thơm, vị rất ngọt và rất thuận tiện khi làm thuốc tễ.

- Chuyển vị thuốc từ âm dược sang dương trong âm dược.

2.3.2. Phương pháp chế biến ( kinh nghiệm của Việt Nam)

Lấy 10 kg Sinh địa, rửa sạch kỹ, ủ 2 ngày đêm.

- Tẩm: Ngâm 100 gam bột Sa nhân trong 5 lít rượu etylic từ 5 - 7 ngày. Tẩm

dịch này thấm vào số Sinh địa trên trong hũ, thùng tráng men.

- Nấu: Cho Sinh địa cùng dịch rượu Sa nhân vào đun cách thuỷ 3 ngày đêm,

vớt ra, phơi (ngày) xen kẽ tẩm (đêm) dịch thục trên thêm 1/2 rượu, đồ 3 giờ đem

phơi. Làm như vậy đến khi hết dịch (cửu chưng cửu thái càng tốt).

- Phơi: Phơi đến khi sờ không thấy dính tay, củ mềm dẻo là được.

60

Thục địa phơi nắng vừa thơm, vừa dẻo và mềm. Thục địa sấy (50 - 60 C) kém

hơn do trong ruột ướt hơn, vỏ cứng hơn, ít thơm hơn Thục địa khô.

2.3.3. Phương pháp chế biến (kinh nghiệm của Học viện Y Dược học cổ

truyền Việt Nam)

Sinh địa rửa sạch, xếp vào nồi nấu. Củ to xếp ở dưới, củ nhỏ xếp ở trên. Đổ

nước ngập dược liệu 20 cm, đun sôi liên tục khoảng 3 ngày đêm đến khi củ Sinh

địa ngót lại và có màu đen thì thôi (thêm nước và đảo đều). Ngày thứ tư, giã nhỏ

gừng tươi với rượu 20% cho vào, trộn đều, ủ một đêm. Ngày hôm sau tiếp tục đun

4 ngày đêm tới khi củ Sinh địa có màu đen là được. Đem ra phơi hoặc sấy khô.

* Tiêu chuẩn thành phẩm

Thục địa mềm, dẻo, chắc, thơm. Màu đen bóng. Vị ngọt.

Độ ẩm an toàn không quá 10%.

* Bảo quản: Đựng trong thùng kín và để nơi khô ráo..

HƯƠNG PHỤ 香 附

Hương phụ là thân rễ đã được sơ chế của câu củ gấu.

Tên khoa học: Cyperus totundus Lin

Họ cói: Cyperaceae

1/ Bộ phận dùng:

Thân rễ (củ), thu hoạch vào lúc củ già; loại bỏ tạp chất và rễ, lá, lông nhỏ; phơi

hoặc sây khô đên khi củ có màu nâu hồng là được.

2/ Thành phần hoá học

Tinh dầu, ancaloit, glycozit, flavonoit, đường, tinh bột, a cid béo, hợp chất

phenolic...

61

3/ Tính vị qui kinh: Vị cay, hơi đắng, tính ấm; vào 3 kinh can, tâm, tỳ.

4/ Tác dụng: Hành khí, giải uất, điều kinh.

Chủ trị:

* Dùng sống: Thông khí trừ đờm

* Tẩm sao: Điều khí huyết, thông kinh bổ huyết hư, nhuận táo, hành kinh lạc.

- Chỉ thống do khí trệ như đau dạ dày, co thắt cơ, đau dây thần kinh ngoại

biên, viêm đại tràng co thắt.

- Giải uất do lo nghĩ tức giận, can khí mất điều đạt gây ngực sườn đầy tức, đầy

bụng và tình chí uất ức;

- Điều kinh giải uất: Do khí trệ trong huyết gây thất huyết..., thống kinh

- Kích thích tiêu hoá: Ăn không tiêu, bụng đầy tức buồn nôn.

- Tiêu ứ sữa, viêm tuyến vú và các loại mụn nhọt, các sưng đau khác.

- Tán hàn giải biểu trừ cảm mạo do hàn.

* Sao cháy: Chỉ huyết, bổ hư.

Liều dùng: 6 - 12g/24 giờ.

Kiêng kỵ: Người âm hư và huyết nhiệt chớ dùng.

5/ Bào chế

Mục đích: - Làm vị thuốc thơm ngon hơn, tăng tính ấm, giảm vị đắng, tăng

tính dương cho vị thuốc

- Tăng tác dụng vốn có của vị thuốc; mở rộng chỉ định thuốc.

- Tạo ra số vị thuốc mới có thể dùng riêng rẽ hoặc dạng phối hợp.

5.1. Hương phụ mễ

Củ phơi thật khô, giã với trấu (hai phần củ kèm một phần trấu) bằng chày nhọn

đầu cho trụi sạch lông vỏ. Chú ý giã cho khéo để khỏi vỡ nát.

5.2. Hương phụ thán:

Lấy hương phụ rửa lại cho sạch, phơi khô, sao cho cháy đen tồn tính, bắt chảo

ra lấy vung úp lại cho nguội, có thể tán bột.

62

5.3. Hương phụ tứ chế

Hương phụ mễ 1kg được chia làm 4 phần bằng nhau;

Phần 1 tẩm với 200 ml Dấm (Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam dùng

10 % so với dược liệu);

Phần 2 tẩm với 200 ml Đồng tiện (Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam

dùng lượng vừa đủ);

Phần 3 tẩm với 200 ml dung dịch Muối 15% ( Học viện Y Dược học cổ truyền

Việt Nam dùng dung dịch 5 - 20-% so với dược liệu) ;

Phần còn lại tẩm với 200 ml Rượu 40 (Học viện Y Dược học cổ truyền Việt

Nam dùng 10% so với dược liệu).

Có thể thay nước Đồng tiện bằng nước Gừng để làm tứ chế. Tuy nhiên phần

tẩm Dấm và Đồng tiện là quan trọng nhất không thể thiếu.

Mỗi phần sau khi tẩm để một đêm, sáng hôm sau giã dập, sao khô đến khi thấy

mùi thơm là được. Riêng phần tẩm rượu thì sao khô giã dập trước mới tẩm rượu.

để riêng từng phần cho vào lọ kín. Khi dùng tuỳ theo từng trường hợp mà cho lẫn

vào nhau.

Một số phương pháp chế biến khác

+ Hương phụ trích Dấm, mật ong theo tỷ lệ 10:2:2

Hương phụ tẩm Dấm, ủ cho ngấm hết. sao khô hoặc hơi sém cạnh. Thêm Mật

ong vào, trộn đều sao tới khô.

+Hương phụ trích Sinh khương, Muối ăn, Dấm, rượu tỷ lệ 1000:100:3:100:100;

Trộn hỗn dịch phụ liệu vào Hương phụ để ủ một đêm. Sao to lửa tới khô hoặc

phơi khô hoặc chưng 2 giờ liền. để nguội. Phơi khô.

+ Hương phụ nấu Dấm, rượu, muối tỷ lệ 10:4:4:0,2

Nấu chung trong 10 giờ. ủ 12 giờ. Phơi khô và cho vào bao tải, đập sảy lông,

sàng sẩy sạch.

*Bảo quản: Không nên bào chế nhiều, chỉ nên làm đủ dùng trong vòng 15 - 20

ngày. Đậy kín.

63

* Tiêu chuẩn chất lượng:

Vị thuốc nhuận, thơm, khô, không cứng.

* Chú ý: Người ta còn làm Hương phụ thất chế do tẩm thêm với dịch nước

Cam thảo, nước Gừng, nước Vo gạo.

BÁN HẠ 半 夏

Tên khoa học: Pinelia ternata Breit

Họ Ráy: Araceae.

Việt Nam thưòng dùng củ Chóc chuột, củ Chóc ri

Thường chọn củ to hơn ngón tay cái (đường kính trên 15 mm), vỏ xanh hơi

đen, thịt trắng có nhiều bột, không mốc mọt.

1. Thành phần hoá học

Tinh dầu, chất béo, chất dính, tinh bột, chất ngứa...

2. Tính vị qui kinh

Vị cay ngứa, tính hơi hàn (sống).

Sau khi đã bào chế : Tính ôn, ít cay, ít ngứa. Vào 2 kinh tỳ và vị.

3.Tác dụng:

Hạ khí nghịch, trấn thổ, tiêu đờm thấp.

Chủ trị: Dùng sống để trị rắn cắn (giã dập dắp vào chỗ bị thương)

Dùng chín, tẩm gừng: Trị ho có đờm, hạ khí nghịch, cầm nôn, tiêu phù, giảm đau.

Liều dùng: 6 - 12g/24 giờ.

Kiêng kỵ: Huyết âm hư, tân dịch kém, phụ nữ có thai không nên dùng.

4. Cách bào chế

64

4.1.Mục đích

- Thay đổi đường dùng của thuốc từ thuốc dùng ngoài sang có thể uống dược.

- Giảm tính cay ngứa; tính kích thích.

- Tăng tác dụng ôn hoá hàn đàm; tiêu đờm thấp; trấn thổ, hạ khí nghịch, chỉ ho,

chống nôn, gây ngủ.

- Định hình vị thuốc không bị vụn nát và bảo quản thuốc được lâu hơn.

Ghi chú: Bán hạ bắc thiên về chữa phong đờm, củ Chóc chuột (Bán hạ nam)

thiên về chữa đờm thấp.

Khác với các vị ôn phế, chỉ khái, trừ đàm Bán hạ là vị thuốc thiên về giáng vị

khí nghịch

4.2. Phương pháp chế biến ( kinh nghiệm của Việt Nam)

Cách 1: Nấu 1 kg củ Chóc với 100 gam Cam thảo và 100 gam quả Bồ kết (đổ

ngập nước) cho đến khi cạn hết nước, bẻ củ ra thấy ruột trong đều là được. Nếu

còn thấy đốm trắng thì nấu lại bằng nước sôi. Đem phơi khô.

Phương pháp này, sản phẩm vẫn còn gây ngứa.

Cách 2: Rửa sạch củ rồi ngâm với nước từ 2 - 3 ngày, mỗi ngày thay nước một

lần. Rửa lại cho sạch rồi đem ngâm vào nước Phèn chua và nước gừng trong 24

giờ theo tỉ lệ: 1 kg củ Chóc + 50 gam phèn chua + 300 gam gừng tươi giã nhỏ.

Rửa sạch rồi đồ (không đậy kín để hơi bay ra ). Thái hay bào mỏng. Tẩm nước

gừng một đêm theo tỉ lệ: 1 kg củ Chóc + (50 gam nước + 150 gam gừng tươi giã

nhỏ vắt lấy nước để tẩm ). Sao vàng đậm là được.

Cách 3: Ngâm Bán hạ liên tục trong nước 3 tuần; hàng ngày thay nước 3 lần;

sau đó đun Bán hạ với nước Phèn chua tỷ lệ 10 kg Bán hạ + 1,2 kg Phèn chua cho

đến lúc củ và ruột củ trong suốt. Phơi âm can rồi thái phiến.

Có thể thêm 0,25 kg gừng tươi cùng với Phèn chua; ủ mềm trước khi thái.

Cách 4: Cho Bán hạ trộn lẫn với nước cốt gừng và Phèn chua tỷ lệ 10:2:2; ủ 6

giờ; Bồi trong trấu nóng 12 giờ sẽ được sản phẩm bên ngoài màu đen; bên trong

màu vàng hơi nâu và không còn vị ngứa. Tính ôn.

65

Cách 5: Ngâm Bán hạ sống từ 7 - 10 ngày kèm thay nước mỗi ngày 2 lần.Rửa

sạch rồi ngâm với nước Phèn chua, Cam thảo, Gừng theo tỷ lệ: 100:12,5:2:1 liền 7

- 10 ngày. Vớt ra đun sôi với nước 8 giừo liền tới khi củ trong là được. Đẻ nguội,

ủ từ 1 - 2 ngày. Đổ ra, thái phiến.

Ngoài ra còn có nhiều cách chế biến khác tương đối đơn giản, ví dụ:

Nói chung Bán hạ ngâm nước từ 7 - 10 ngày tuỳ theo mùa, mỗi ngày thay nước

ba lần; sau đó đem chế biến.

- Ngâm trong nước Phèn chua, Gừng một tháng; Mang ra rửa sạch rồi nấu kỹ

với nước Cam thảo; phơi khô; xông lưu huỳnh, đóng gói

- Nấu hoặc chưng, đồ trực tiếp với gừng đến khi ruột củ trong, hết tê. Phơi khô.

- Ngâm Bán hạ trong hỗn hợp nước sắc Cam thảo, gừng 3 ngày. Chưng, đồ đến

khi ruột củ trong, hết tê. Phơi khô.

- Ngâm ngập Bán hạ trong hỗn hợp phụ liệu Cam thảo, Phèn chua, Gừng, Bồ kết

theo tỷ lệ 100:2,5:10:5:2,5 trong 2 ngày. Vớt ra đem nấu đến khi ruột củ trong ra và

hết tê lưỡi. ủ mềm đến lúc mặt củ có lớp Phèn chua tách ra. Rửa sạch Phèn. Phơi

âm can và lại đem ủ đến khi hết phèn chua tách ra thì thái phiến. Phơi khô. Có thể

thay Phèn chua bằng Vôi tôi và tỷ lệ các phụ liệu cao gấp 4 lần tỷ lệ nêu trên.

- Cách trên bỏ Phèn chua và ủ tới 3 ngày. Hoặc chỉ dùng nước Cam thảo, Bồ kết

theo tỷ lệ 10:1:1 nấu Bán hạ tới đạt yêu cầu. Phơi khô.

- Có thể ngâm Bán hạ với nước Phèn chua trước, sau ngâm với nước Cam thảo

đã hoà tan vôi tôi 5 ngày đến khi trong ruột củ vàng đều. Phơi âm can.

Có nhiều phương pháp được chế biến với các phụ liệu đặc biệt như Huyền minh

phấn, Mang tiêu, Chi tử, Trúc lịch, Nghệ v.v..... thiết nghĩ tính phức tạp của các

phương pháp này và thời chế biến quá dài có thể tới hàng vài tháng, cho nên

không trình bày ở đây.

* Tiêu chuẩn thành phẩm

66

Bán hạ sau khi chế phải hết cay ngứa, không còn nhân trắng đục, khô, màu sắc

tuỳ phưong pháp.

* Bảo quản: Thuốc dễ mốc mọt, sau chế biến tốt hơn.

PHỤ TỬ 附 子

Tên khoa học: Aconitum Fortunei Hemst

Họ: Mao lương Ranunculaceae

* Bộ phận dùng: Củ phụ (con - radix) của củ ô đầu nên có tên là Phụ tử

Là sản phẩm có tên Bạch phụ hoặc Hắc phụ (Radix aconiti praeparatus)

* Thành phần hoá học: Giống Ô dầu nhưng tỉ lệ Alcaloid toàn phần cao hơn.

Do đó cách chế biến khác nhau nên mỗi sản phẩm tỷ lệ này cũng khác nhau.

Trong alcaloid có aconitin, acid canxiphotphoaconitic...

* Tính vị: Vị cay, tính đại nhiệt, có độc (sống xếp bảng độc A, chế bảng B)

* Qui kinh: 12 đường kinh, điển hình vào 3 kinh Tâm, Thận, Tỳ

* Công năng - chủ trị:

- Hồi dương cứu nghịch chữa tâm thận dương hư, truỵ tim mạch ( Như dùng

trong bài Tứ nghịch thang).

- Khứ hàn, giảm đau: Chữa phong, hàn, thấp, tý (phối hợp can khương, quế chi).

- Ôn thận hành thuỷ: Chữa viêm thận mãn tính, suy chức năng thận và dương

khí không đầy đủ (Bát vị hoàn).

- Kiện tỳ vị: Dùng khi tỳ vị hư hàn

Liều dùng: 4 - 12g

Kiêng kỵ: Những người âm hư dương thịnh, phụ nữ có thai chớ dùng.

67

* Một số sản phẩm bào chế

Mục đích:

- Giảm tính đại nhiệt, mãnh liệt của vị thuốc

- Tập chung vị thuốc vào Tâm, thận, tỳ;

- Tạo ra vị thuốc có đường dùng mới, vị thuốc mới (Bạch phụ, Hắc phụ)

- Tăng các tác dụng vốn có của vị thuốc.

1- Chế diêm phụ

Công thức: Sinh phụ tử 10 kg

MgCL2 4 kg

NaCL 3 kg

Nước Vđ 6 lít

Trước hết đem ngâm sinh phụ tử với hồn hợp dịch trên khỏng 10 ngày. Sau đó

cứ ngày vớt ra phơi đêm lại ngâm. Làm như vậy khoảng 5 - 6 lần, tới khi ngoài vỏ

kết tinh một lớp muối trắng; đồng thời khi đó muối cũng đủ ngấm tới ruột củ.

Đem phơi khô ta được diêm phụ (tức Phụ tử muối). từ sản phẩm này người ta

có thể chế thành Bạch phụ tử hoặc Hắc phụ, là những sản phẩm dùng để uống.

Nếu dùng diêm phụ thì trước khi dùng phải tẩm nước Gừng, Cam thảo sao.

2- Chế Bạch phụ

Đem diêm phụ (Hoặc dùng công thức chế diêm phụ như trên) rửa sạch lớp

muối bám ở vỏ, luộc chín, bóc bỏ vỏ, đem thái phiến dày từ 1 - 3mm theo chiều

dọc của củ. Sau đó, đem rửa bằng nước lã nhiều lần cho đến khi hết vị tê. Đồ 30

phút, rồi phơi khô.

3 - Chế Hắc phụ

Cũng tiến hành chế diêm phụ như trên; nhưng khi luộc thì không bóc vỏ; thái

phiến dày từ 1 - 3 mm theo chiều dọc củ. Đem phiến ngâm vào hỗn dịch nói trên

từ 3 - 4 ngày. Vớt ra, rửa sạc, phơi khô. Tiếp đó đem phiến này tẩm vào dầu hạt

cải hoặc dịch nước đường phèn hoặc đường đỏ. ủ từ 30 phút - 1 giờ cho ngấm

68

hết. Sau đó sao tới khi mặt phiến ngả màu nâu đen. Lại đem rửa hết vị tê, phơi

hoặc sấy khô.

Trường hợp không có diêm phụ; muốn có sản phẩm Bạch phụ hoặc Hắc phụ thì

đem sinh phụ tử ngâm vào hồn hợp dịch muối trên từ 3 - 5 ngày. Vớt ra rửa sạch, rồi

tiến hành theo các cách nói trên.

Cũng có thể lấy diêm phụ rửa sạch muối, bỏ vỏ thái lát, ngâm nước 24 giờ, rửa

sạch, phơi khô. Sau đó trích với nước đồng tiện hoặc nước Cam thảo hoặc nước gừng.

Chế biến theo Hải thượng Lãn Ông

Phụ tử gọt bỏ vỏ đen, cắt bỏ rễ, bổ củ làm tư; Nấu phụ tử với nước Phòng phong,

Cam thảo, Đậu đen đến khi can nước, miếng Phụ tử chín kỹ, còn ít vị tê mang phơi đến

khô kiệt.

Chế Diêm phụ với Đậu đên

Lấy 10 kg Diêm phụ và 3 kg Đậu đen đã rang thơm.

Đem diêm phụ ngâm nước một ngày; rửa sạch; Ngâm nước vo gạo 2 ngày; rửa

sạch; bóc bỏ vỏ ngoài; thái phiến dọc củ dày 1 - 3 mm. Lại tiép tục ngâm nước tới

khi trong. Đổ ra cho Đậu đen cùng với phụ tử phiến nấu 2 giờ đến khi mặt phiến

ngả màu thẫm. Đổ ra phơi hoặc sấy khô.

Chế Phụ tử với Sinh khương, Cam thảo

Công thức:

Sinh phụ tử 10,0 kg

Sinh khương 1,0 kg

Cam thảo 0,5 kg

Kỹ thuật tiến hành

Ngâm sinh pgụ tử với nước Đồng tiện 12 giờ. Rửa sạch, tiếp đó ngâm 7 ngày

với nước lã; Mỗi nagỳ thay nước ba lần. Đổ ra, cùng chưng với nước Sinh khương

và Cam thảo tới chín và hết tê. Đỏ ra, ủ 1 ngày, thái phiến dầy 1 - 3 mm. Phơi

hoặc sấy khô.

69

* Ngoài ra còn có một số phương pháp khác

Sau khi ngâm Phụ tử với nước hay phụ liệu khác vài ngày thì:

Nấu Phụ tử với Sinh khương, Cam thảo, Phèn chua

Nấu Phụ tử với Cam thảo, Tạo giác

Nấu Phụ tử với Đậu đen, Cam thảo

Nấu phụ tử với Cam thảo, Kim ngân hoa, Đậu đen v.v..

Tuy nhiên các phương pháp chế biến phải đảm bảo Phụ tử phải hết vị tê.

* Tiêu chuẩn thành phẩm

Bạch phụ và Hắc phụ hết vị tê, bạch phụ màu trắng ngà, Hắc phụ màu nâu đen.

* Bảo quản: Nơi khô ráo, tránh nơi có độ ẩm cao nhất là đối với diêm phụ.

MÃ TIỀN

Tên khoa học: Strychonos nux vomica L...

Họ: Mã tiền Loganiaceae

1. Bộ phận dùng

Dùng hạt bỏ mầm của nhiều cây thuộc chi Strychonos

2- Chế biến sơ bộ

Thu hái quả già, bổ ra lấy hạt, bỏ hạt lép, hạt non. Phơi nắng hoặc sấy nhẹ ở 50

- 60C đến khi khô hoàn toàn. Độ ẩm không quá 12%.

3- Mục đích và phương pháp làm giảm độc để chuyển dạng sử dụng.

3.1. Giảm độc tính cho vị thuốc.

Tức là làm giảm lượng chất độc Buxin và Strichynin có trong vị thuốc hoặc

phân huỷ nó thành chất có độc tính thấp hơn.

3.2. Phương pháp làm giảm độc:

70

3.3.1. Sử dụng sự tác động của nhiệt độ cao khoảng 200 - 250 ìC để phân huỷ

thành phần độc Stricnin bằng phương pháp rán thuốc trong dầu hoặc sao cách cát.

Bóc vỏ, bỏ mầm.

3.3.2. Sử dụng dầu thực vật là dung môi có độ phân cực thấp, có thể hoà tan

alcaloid dạng bazơ. Rán dầu vừng đến khi sôi thấy hạt nào nổi lên thì vớt ra ngay

để tránh bị cháy đen, mất tác dụng. Thái nhỏ, sấy khô.

3.3.3. Sử dụng phụ liệu có sự tác động làm giảm độc tính như: Cam thảo, Đậu

đen, Đậu xanh....

Ví dụ: Ngâm hạt vào trong nước vo gạo một nagỳ đêm, vớt ra rửa sạch cho vào

nồi nấu với Cam thảo trong 3 giờ theo tỷ lệ 10 hạt Mã tiền cho vào 400 ml nước

và 20 g Cam thảo. Lấy dần ra bỏ vỏ bỏ mầm khi còn nóng.

Hoặc có thể lấy Mã tiền ngâm nước hoặc nước vo gạo hoặc nước đồng tiện một

ngày đêm. Khi thấy mềm lấy ra bóc vỏ bỏ mầm, thái mỏng; Sấy khô tẩm dầu vừng

một đêm, sao vàng đậm.

3.3.4. Loại bỏ cây mầm do phần mầm chứa lượng alcaloid cao áp dụng cho mọi

cách chế giảm độc Mã tiền.

MẪU LỆ (VỎ HẦU)

Tên khoa học: Osirea sp...

Họ: Mẫu lệ Osireidae

1. Bộ phận dùng

Dùng vỏ con hầu

2- Mục đích

71

Làm bẻ gãy độ bền cơ học của vỏ giúp cho dễ tán và sử dụng, chiết xuất hoạt

chất dễ dàng hơn.

3- Chế biến

Có 3 cách chế biến.

Cách 1: Cho Mẫu lệ vào nồi đất trát kín, nung cho đến khi chín đỏ hoàn toàn,

tán thành bột.

Cách 2: Dựng gạch lên ba phía. Trải và phủ trấu kèm than củi rồi xếp Mẫu lệ;

làm như vậy cho đến hết (để một lỗ ở giữa để thông hơi). Trên cùng có phủ một

lớp than và trấu. Đốt từ dưới lên trên cho đến khi thuốc mềm, vụn; lấy ra tán bột.

Cách 3: Nếu số lượng Mẫu lệ ít thì mang nung trực tiếp trên than hồng, thấy đỏ

là được, tán bột.

Không dung mùn cưa vì làm nó đen Mẫu lệ.

Ngoài ra còn có thể tẩm Giấm: cứ 1000 g Mẫu lệ đã nung đỏ vào 100 ml giấm

rồi vớt ra ngay nhằm giảm bớt tính kiềm của thuốc và tạo ra các muối acetat tăng

tính thu liễm của thuốc và chữa bệnh về can huyết.

Ghi chú: Một số vị thuốc thường dùng trong quá trình sản xuất, kê đơn thuốc

được trình bày trong phần phụ lục của giáo trình này. Đây là phần đọc thêm nhưng

vẫn có thể được sử dụng làm câu hỏi trong các kiểm tra định kỳ và thi hết môn học

CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1: Trình bày mục đích bào chế của các vị thuốc Hà thủ ô đỏ, Bán hạ, Phụ tử

và Thục địa?

Câu 2: Giải thích câu “nam bất thiểu Trần bì, gái bất ly Hương phụ”

Câu 3: Hà thủ ô đỏ chữa táo bón cần dùng sống hay đã qua chế biến cửu chưng,

cửu sái.

Câu 4: Tại sao người ta thường sử dụng vị phèn chua trong chế biến Bán hạ?

Câu 5: Cơ chế giảm độc trong chế biến Bán hạ và Phụ tử khác nhau điểm nào?

Mục đích chung khi bào chế hai vị thuốc này?

72

Câu 6: Tại sao Sa nhân được ưu tiên sử dụng trong cửu chưng cửu sái Sinh địa?

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Xuân Sinh, Phùng Hoà Bình, Dược học cổ truyền. Giáo trình Đại

học Dược Hà Nội, NXB Y học 1998 và 2006

2. Đỗ Tất Lợi, Các cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – NXB Y học năm 2000

3 Nguyễn Xuân Sinh, Phương pháp chế biến thuốc cổ truyền, NXB Y học, 2000

4. Lê Hữu Trác - Hải thượng y tông tâm lĩnh, NXB Y học năm 1991

5. Học viện Trung y Bắc Kinh, Tập hợp những kinh nghiệm bào chế trung

thảo dược. NXB Y học năm 1971

6. Bộ Y tế, Dược điển Việt Nam III và IV . NXB Y học năm 2002 và năm 2009

7. Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương, Phương pháp bào chế và sử dụng

đông dược. NXB Y học Hà Nội năm 1993.

73

CHƯƠNG IV

MỘT SỐ DẠNG ĐÔNG DƯỢC THƯỜNG DÙNG

(8 tiết)

MỤC TIÊU

1. Nắm vững và trình bày được khái niệm, thành phần cấu tạo, phân loại của

các dạng bào chế.

2. Trình bày được kỹ thuật bào chế, chế biến một số dạng thuốc

3. Hiểu và trình bày được ưu nhược điểm của mỗi dạng thuốc

NỘI DUNG

Trong y học cổ truyền, thuốc được để dưới nhiều dạng khác nhau như:

+ Thuốc phiến: Phiến là dạng trung gian để chế dạng thuốc khác. Ví dụ: Phiến

bạch thược, Đương qui phiến...

+ Thuốc thang: Thuốc thang dùng để sắc. Ví dụ: Ma hoàng quế chi thang, Tiểu

sài hồ thang, Toàn chân nhất khí thang...

+ Thuốc bột (thuốc tán): Bột dược liệu rắn, rời. Ví dụ: Bột tiêu thực, Bột thoái

nhiệt tán, Bột ỉa chảy số 1, số 2......

+ Thuốc hãm: Để dưới dạng hãm nước như hãm nước chè. Ví dụ: Chè Tiêu

độc, chè Kim cúc, chè Giải cảm...

+ Cao thuốc: Cao Ban long, cao Hổ cốt, cao Khỉ toàn tính, cao Hy thiêm, cao

Tiêu độc... trong đó có cao mềm, cao lỏng, cao khô, cao dẻo.

+ Viên hoàn (viên tròn): Viên hoàn Điều kinh bổ huyết, Lục vị hoàn, Bổ tỳ ích

khí...

+ Thuốc tễ: Dạng viên hìng cầu gồm bột dược liệu trộn với chất dính là mật

ong. Tễ thuốc thường là tễ thuốc bổ. Ví dụ: Tễ bổ thận dương, Tễ bổ thận âm, tễ

bổ tâm....

74

+ Cao dán: Dùng ngoài dán nhằm giảm đau, sát trùng, tiêu viêm, bài nùng... ví

dụ: Cao dán nhọt, cao tan...

+ Cao xoa: Mềm dùng để bôi, xoa bên ngoài...Ví dụ Cao sao vàng,

+ Dầu xoa: Dạng dầu thực vật hoặc Parafin chứa tinh dầu... Ví dụ: Dầu Chổi,

dầu Khuynh diệp, dầu Cửu long....

+ Rượu thuốc: Dược liệu ngâm trong rượu đạt tiêu chuẩn. Ví dụ Rượu Rắn,

rượu Rết, Rượu Long não, rượu Tắc kè......

+ Xirô: Là dạng thuốc có hoặc không có dược liệu trộn trong dung dịch đường

chiếm tỷ lệ cao (khoảng 64% khối lượng chế phẩm ).

+ Các dạng thuốc khác:

Thuốc Đan (ví dụ: Hồng đơn, Nhân đan, ích nguyên đan...)

Thuốc Đĩnh (do giống cái đĩnh ),

Thuốc Cốm. (Ví dụ: Cốm nghệ, )..

KỸ THUẬT BÀO CHẾ THUỐC THANG

(THUỐC SẮC)

1. Định nghĩa

Thuốc thang là hỗn hợp của nhiều vị thuốc đã được bào chế và phân liều

dùng được đổ ngập bởi một chất lỏng ( rượu , nước...) đun sôi, chắt lấy nước để

uống hoặc để rửa ( dùng ngoài).

Thuốc thang được dùng rộng rãi dưới dạng nước sắc, uống hoặc rửa trong một

ngày chia làm 2 - 3 lần sáng, trưa, tối.

Mỗi thang thuốc thông thường có trọng lượng từ 50 - 200g dược liệu, dùng

ngoài để rửa có thể liều lượng dược liệu tuỳ theo cho thích hợp.

75

Thuốc thang được cơ thể hấp thu nhanh công hiệu nhanh; mọi bệnh tật đều có

thể dùng thuốc thang, nhất là bệnh mới cảm hoặc cấp tính.

2 . Thành phần

2.1. Dược liệu: Bao gồm thảo mộc, khoáng vật, động vật...

2.1.1. Thảo mộc

Dược liệu dùng để sắc thuốc có thể là:

- Hoa : Kim ngân hoa, Cúc hoa, Hoè hoa, Khoản đông hoa, Hạ khô thảo ...

- Quả: Sử quân tử, Thương nhĩ tử, Chỉ xác...

- Hạt: Bạch biển đậu, Phá cố chỉ, Thỏ ty tử, Câu kỉ tử ...

- Thịt và vỏ quả: Sơn tra, Sơn thù du...

- Lá: Tang diệp, Tô diệp, Liên diệp, Trúc diệp...

- Thân và lá: ích mẫu, Bồ công anh, Lạc tiên, Sài đất, Ngải cứu...

- Vỏ cây: Quế, Núc nác, Ngũ gia bì, Hoàng bá...

- Củ: Sinh địa, Hà thủ ô, Hoài sơn...

- Rễ: Ngưu tất, Tục đoạn, Ngọc trúc, Uất kim...

- Vỏ rễ: Địa cốt bì, Sài hồ nam, ...

- Nhân hạt: Binh lang, đào nhân, Hạnh nhân...

- Vỏ quả: Thạch lựu bì, Đại phúc bì, Trần bì, Thanh bì, Anh túc xác...

- Thịt quả: Long nhãn, Toan táo nhục...

- Chất nhựa: Nhũ hương, Một dược, Tùng hương, Lô hội...

- Lõi cây: Thông thảo, ...

- Căn hành: Sinh khương, Cao lương khương, Khương hoàng...

- Thân cây: Tô mộc, Trầm hương...

- Chất đọng trong cây: Thiên trúc hoàng...

2.1.2. Động vật

Bạch cương tàm, Thiền thoái, Nhung hươu, Xương hổ, Qui bản, Miết giáp, Tắc

kè, Thạch sùng, Gấu (hùng đởm), Khỉ, Sơn dương...

76

2.1.3. Khoáng chất

Thạch cao, Hoạt thạch, Thần sa, Chu sa, Hùng hoàng, Khinh phấn, Phèn chua,

Long cốt, Phác tiêu, Mẫu lệ, Đởm phàn, Thạch tín ...

2.1.4. Nước sắc thuốc

Nước mưa, nước máy, nước giếng đạt tiêu chuẩn nước ăn.

Đôi khi, kinh nghiệm dân gian dung môi dùng để sắc thuốc có thể là rượu,

đồng tiện

Các dược liệu trước khi sắc cần phải được bào chế đúng phương pháp cổ truyền

phù hợp với mục đích điều trị của thầy thuốc, cân đúng liều. Do cấu tạo của mỗi

thang thuốc khác nhau, liều lượng mỗi vị thuốc khác nhau, nên phương pháp sắc

thuốc cũng có một số kỹ thuật cần chú ý.

3. Kỹ thuật sắc thuốc

3.1 - Định nghĩa

Sắc thuốc là đun sôi nhẹ nhàng và đều lửa giữa dược liệu và dung môi trong

một thời gian nhất định.

3.2 - Dụng cụ sắc

Dùng tốt nhất là nồi đất, ấm nhôm hoặc men có dung tích từ 1,5 đến 2 lít; nồi

sứ sắc thuốc bằng điện.

Sắc thuốc tốt nhất là bằng củi không độc, than củi hoặc bằng than, điện.

3.3. Cách sắc

Sắc nhiều thang cùng một lúc cần phải xây lò than, các siêu thuốc được đặt trên

một tấm gang dày hoặc trên một lớp cát dày từ 10 - 15 cm, để tận dụng sức nóng.

Khi sắc cần theo đúng nguyên tắc sau

3.3.1. Sắc nhanh

Mục đích là giữ lấy khí của thuốc, giữ lấy tinh dầu và một số chất dễ hoà tan

trong dược liệu.

Cách sắc: Đổ nước vừa đủ ngập dược liệu, đun to lửa sôi độ 30 phút. Sắc một lần.

77

Áp dụng: Các thang thuốc giải cảm, thang thuốc chứa tinh dầu.

3.3.2. Sắc chậm

Áp dụng: Cho các loại thuốc bổ.

Mục đích: Là cần lấy vị của thuốc, nên phải dùng nhỏ lửa, sắc chậm để hoạt

chất có đủ thời gian hoà tan vào thuốc sắc.

Cách sắc: Đổ nước ngập dược liệu khoảng 5 cm, đun âm ỉ khoảng 2 - 3 giờ;

chắt lấy nước sắc, sắc độ 2 - 3 lần như vậy. Tập trung nước sắc của các lần rồi cô

lại còn khoảng 200 - 250 ml chia cho người bệnh uống 3 lần/ 24 giờ.

3.3.3. Quá trình chuẩn bị và sắc thuốc cần chú ý

* Các loại thuốc thơm vì tinh dầu cần giữ khí, lên khi sắc cho vào sau trước khi thôi

sắc (Bạc hà, Kinh giới, Tía tô...). Câu đằng nên cho vào sau để khỏi mất hoạt chất.

* Các loại Kim thạch (Thạch cao, Đại giả thạch, Thạch quyết minh...thì phải

tán nhỏ ra rồi mới sắc chung với thuốc).

* Các hoá chất, các cao động vật dễ tan: A giao, Cao Ban long, Phác tiêu... cho

vào khi sắc được rồi lúc còn nóng, khuâý tan để uống.

* Các dược liệu quí hoặc không chịu được nhiệt độ như Nhân sâm, Quế, Tam

thất... hãm riêng rồi gạn lấy nước hoặc mài hay tán bột trộn với nước sắc để uống

(Xung phục).

* Ma hoàng phải sắc trước, bỏ bọt, sau mới cho thuốc khác vào để sắc (Ma

hoàng thang).

* Đối với thuốc Nam có nhiều lá và cành nhỏ chỉ cần sắc một lần trong 1- 2

giờ, lọc rồi cô lại. Nhưng với rễ cứng và cành to thì vẫn nên sắc 2 lần.

* Đối với phiến cứng nên đập dập thuốc và ngâm trước 1/2 giờ rồi mới sắc thì

thời gian sắc nhanh hơn và hoạt chất tan vào nước sắc được nhiều hơn.

* Khi sắc nước 2 , nước 3 thì nên cho nước nóng vào để việc chiết hoạt chất

được tốt hơn.

78

* Đối với thang thuốc trẻ em, dùng liều nhỏ hơn; số lượng nước thuốc lấy độ

1/2 hay 1/3 của người lớn.

4. Trách nhiệm của người kê đơn

- Phải ghi tên, tuổi, giới, địa chỉ của người bệnh.

- Tên bệnh.

- Tên thuốc và số lượng của từng vị thuốc tính bằng gam. (vị chủ trị ghi trước,

hoặc vị trong bài thuốc cổ phương ghi trước kèm vị gia giảm, hỗ trợ ghi sau).

- Tên thuốc phải là ghi rõ ràng theo tên đã qui định trong các văn bản chính thức.

- Số lượng (và đơn vị tính) thuốc độc và số thang có thuốc độc bảng A phải

viết bằng chữ.

- Hướng dẫn rõ ràng cách sắc (trước hay sau, sắc riêng, cần tán bột hay

không?...) của từng vị thuốc, từng thang thuốc (thuốc cảm hay thuốc bổ). Sắc mấy

nước, lượng nước cho vào và lấy ra bao nhiêu nước sắc, khi sắc đun to lửa hay

nhỏ lửa.

- Hướng dẫn rõ ràng cách dùng cho người bệnh: trước - sau - trong khi ăn hoặc

khi nào khác với liều lượng bao nhiêu?. Uống hay xoa bóp...

- Ghi rõ kiêng kỵ vào cuối đơn.

5. Ưu điểm và nhược điểm của thuốc sắc

5.1. Ưu điểm

- Thuốc thang được dùng rộng rãi trong việc phòng và trị bệnh, do đó việc sử

dụng thuốc đã được đại bộ phận dân chúng biết.

- Đóng gói từng thang thuốc đơn giản khi cân. Việc phân liều uống trong ngày

dễ thực hiện. Thuốc là chất lỏng có tác dụng nhanh.

- Sử dụng một ngày được một liều lượng theo ý muốn, trong khi sử dụng dạng

thuốc cổ truyền khác khó thực hiện được.

5.2. Nhược điểm

- Khó che mùi vị khó chịu của một số vị thuốc.

79

- Phải dùng lửa để sắc, do đó phải mất nhiều thời gian theo dõi sắc thuốc và

dùng không thật tiện lợi bằng một số dạng thuốc khác như thuốc bột, thuốc viên...

- Chuyên chở cồng kềnh. Người bệnh tiêu tốn số dược liệu nhiều hơn sử dụng

các dạng thuốc khác.

- Uống liên tục nhiều ngày, người bệnh có cảm giác sợ sệt hoặc ngại sử dụng.

- Thường dùng cho cá nhân; do đó gặp phiền hà trong bào chế

6. Cách uống thuốc thang

Tuỳ theo bệnh và theo tính chất của thang thuốc mà việc uống thuốc có thể

khác nhau.

Cách uống 1: Nước 1 uống riêng, nước 2 -3 phối hợp lại rồi chia 2 lần uống.

Cách uống 2: Phối hợp nước 1, 2, 3 rồi chia làm 3 lần uống trong ngày.

* Uống thuốc nóng hay nguội: Thuốc nóng thì dễ hoà tan; khi nguôi sẽ tủa cùng

các chất nhầy, tinh bột.

Bệnh thể hàn như: Cảm mạo phong hàn, hàn nhâph lý, phong tê thấp thể hàn...

cần phải uống nóng để tăng sức phát hãn, tăng phát khí vị để lưu thông khí huyết.

Bệnh thuộc thể nhiệt: Cảm mạo phong nhiệt, dị ứng do nhiệt, nhiệt tý có thể

uống hơi ấm hoặc nguội.

* Uống thuốc no hay đói: Không nên uống lúc no quá hay đói quá; vì nó quá sẽ

cản trở hấp thu, lúc đói quá thường đưa lại cảm giác cồn cào, buồn nôn...

Thuốc tả hạ, trục thuỷ, trừ trùng tích nên uống khi đói.

Thuốc thanh nhiệt, dị ứng, kích thích tiêu hoá thường uống trước bữa ăn độ 1 giờ -

1giờ 30 phút.

Thuốc bổ thường uống sau bữa ăn 1 giờ 30 phút. Nói chung các loại thuốc thường

dùng sau bữa ăn độ 1 h 30 phút - 2 giờ

7. Giới thiệu một số thang thuốc. Thang tiêu độc

Kim ngân hoa ( hoặc cả lá, cành) 20 gam

Sài đất 30 gam

80

Vòi voi 20 gam

Bồ công anh 20 gam

Kinh giới 16 gam

Ké đầu ngựa 12 gam

Thổ phục linh 12 gam

* Cách sắc: Sắc với 600 ml nước lấy 200 ml.

* Các dùng: Người lớn uống lúc đói chia làm 2 lần. Trẻ em tuỳ theo tuổi mỗi lần

uống từ 30 - 50 ml, ngày 2 lần, uống nguội, mỗi lần uống cách xa nhau ít nhất 8 giờ.

* Kiêng kỵ: Trong thời gian dùng thuốc không được ăn thịt gà và thịt lợn (theo )

* Công dụng: Trị các chứng mụn nhọt, mẩn ngứa, rôm sẩy, chốc, dị ứng.

KỸ THUẬT BÀO CHẾ THUỐC BỘT

( THUỐC TÁN )

1. Định nghĩa:

Thuốc bột là loại thuốc rắn, rời, khô dùng để uống hay dùng ngoài. Điều

chế bằng cách tán mịn một hay nhiều dược liệu: động vật, thực vật hay khoáng

chất đến độ nhỏ nhất định. Rây qua các cỡ rây thích hợp và trộn đều.

Thuốc bột có thể dùng trực tiếp để trị bệnh, hoặc làm chế phẩm trung gian để

chế nhiều dạng thuốc khác như thuốc viên, thuốc đạn, thuốc cốm, rượu thuốc ...

hoặc để chiết xuất.

2. Phân loại:

2.1. Dựa vào thành phần: Thuốc chỉ có một thành phần gọi là bột đơn, gồm

nhiều thành phần gọi là là bột kép.

2.2. Dựa vào cách dùng: Dùng trong ( uống) hay dùng ngoài

2.3. Dựa vào độ phân chia:

81

Bột thô ( qua rây 32 ); bột mịn vừa ( qua rây 26 ), bột mịn ( qua rây 24 ), bột rất

mịn (qua rây 22 )

Bột dùng ngoài phải mịn hoặc rất mịn để tránh kích ứng bột dùng để uống phải

mịn vừa để dễ hấp thu. Bột thô chỉ dùng để chiết xuất.

2.3. Dựa vào độ phân liều:

- Chia cho người bệnh dùng từng liều.

- Không chia

3. Ưu điểm và nhược điểm của thuốc bột.

3.1. Ưu điểm

- Bào chế đơn giản, kết hợp được nhiều loại dược liệu với nhau, dễ phân liều,

dễ đóng gói và chuyên chở, dễ sử dụng, hấp thu nhanh, công hiệu lại chóng, tiết

kiệm được dược liệu hơn thuốc thang.

- Có khả năng bảo vệ niêm mạc vết thương, có tác dụng hút dịch, thu liễm làm

vết thương khô ráo, chóng khỏi. Dùng ngoài, để điều trị cục bộ chỗ đau.

3.2. Nhược điểm.

- Do diện tích tiếp xúc bề mặt lớn, cho nên dễ bị hút ẩm làm cho bột dễ mốc,

mọt, mất mùichóng bị hỏng.

- Khó che dấu mùi vị khó chịu của một số vị thuốc.

- Tác dụng chậm hơn thuốc lỏng.

4. Kỹ thuật bào chế

Dụng cụ điều chế thuốc bột bao gồm: Thuyền tán, cối, chày, rây.

Nghiền tán trực tiếp

Nghiền tán gián tiếp qua chất trung gian:

Áp dụng: Những dược liệu có thể chất mềm dẻo như mạch môn, thiên môn,

thục địa, hoàng tinh; nhựa như nhũ hương, một dược; các loại cao mềm, dược liệu

chưa nhiều dầu mỡ (Ba đậu, Hạnh nhân..); dược liệu độc cần thêm chất màu; dược

liệu có màu để tránh gây bẩn; dược liệu quí như Xạ hương, Băng phiến; dược liệu

82

quí hiếm như Sừng tê giác, Hùng đởm (mật gấu)....

4.1. Điều chế bột đơn.

Những dược liệu là khoáng chất nếu đủ tiêu chuẩn, đúng quy cách thì đem tán

ngay thành bột bằng phương pháp thích hợp, rồi rây qua rây.

Dược liệu là thảo mộc, động vật phải bào chế trước khi tán như lựa chọn, bào,

thái mỏng, sao tẩm, sây khô, tán nhỏ rồi rây lại.

4.2. Điều chế bột kép.

Nguyên tắc

- Tán riêng rẽ từng dược liệu một.

- Rây qua rây cùng cỡ số cho có độ mịn như nhau.

- Trộn đếu các bột thuốc trong cối theo nguyên tắc, thuốc nào ít cho vào trước

rồi cho từng ít một những thuốc có bột nhiều vào sau, mỗi lần cho bột vào phải

trộn đều rồi mới cho thêm lượt khác (mỗi lần cho thêm bột vào bằng lượng bột đã

có trong cối ).

- Trộn xong rây hỗn hợp lại một lần nữa.

Chú ý: Khi bào chế thuốc độc A, B thì cần có thêm bột màu (nếu dược liệu

không có màu đặc trưng) để xem thuốc đã phân tán đều chưa. Lượng thuốc độc A,

B quá ít thì phải cho thêm bột trơ để láng cối.

Bột kép để 2 - 3 tháng phải đảo lại cho đều.

5. Bảo quản và đóng gói

- Để trong chai lọ hoặc kín, nơi thật khô ráo, mát.

- Cần đóng liều nhất định cho người bệnh dễ sử dụng.

6. Tiêu chuẩn kỹ thuật

- Màu sắc, mùi vị: Có màu săc, mùi vị của dược liệu bào chế thuốc ( màu có

thể khác nếu dược liệu là thuốc độc A, B).

- Độ mịn: Bột mịn vừa, đồng nhất, khi nén xuống thành một mặt nhẵn bóng.

83

- Sai số khối lượng của liều dùng một lần: không vượt quá + 5%.

7. Giới thiệu một số thuốc bột đơn và thuốc bột kép

7.1. Thuốc bột đơn

Thuốc bột đơn: bột Cam thảo, bột Phèn phi (Minh phàn), bột Ô tặc cốt, bột

Đinh lăng

Ví dụ: Bột Cam thảo

* Cách làm: Rễ Cam thảo cạo sạch vỏ, thái lát mỏng, sấy khô, tán thành bột

mịn. Bột có màu vàng, vị ngọt, mùi đặc biệt.

* Công dụng: Để pha nước Cam thảo dùng trong các trường hợp ngộ độc (giải

độc). Để chế thuốc viên.

* Bảo quản: Rất dễ bị mốc, phải để trong lọ kín nơi khô ráo.

7.2. Thuốc bột kép

Bài thuốc: Khô trĩ tán

* Công thức:

Bột phèn phi 500 g

Bột Ô mai 200 g

Bột Thần sa 300 g (Ba trăm gam )

Bột Thạch tín 40 g (Bốn mươi gam)

Điều chế (cách làm) bột đơn

+ Chế Phèn phi:

Lấy 2 kg Phèn chua (Bạch phàn ) rửa sạch, cho vào chảo gang, đun nóng cho

đến khi chảy và khô hoàn toàn, chỉ tắt lửa khi nào chắc chắn Phèn chua đã khô.

Để nguội, bỏ chỗ đen, cho vào cối tán nhỏ, rây. Bột màu trắng, vị chua.

+ Ô mai: Cách chế biến:

Lấy 2 kg Ô mai cho vào chảo gang, vừa đun vừa đảo, cho tới khi khói đen

nhiều thì đốt cháy, đảo đều. Khi thấy lửa lui xuống thì lấy vung đậy lại và bắc

xuống để nguội, tán thành bột rất mịn.

84

+ Thần sa: Cách chế biến:

Tán nhẹ với nước nguội trong cối sứ thành bột mịn, phơi râm cho khô.

+ Thạch tín. Cách chế biến:

Lấy 100 gam (một trăm gam) Thạch tín cục cho vào nồi đất. Sau đó, đun bằng

than củi trong 2 giờ, cứ 15 phút đảo một lần, để nguội, cạo bỏ chỗ bị cháy rồi tán

thành bột thật mịn.

Điều chế thuốc bột kép: Khô trĩ tán

Cân đúng số lượng của từng vị thuốc trên theo công thức, trộn đều chúng với

nhau. Chú ý bột Ô mai cho vào sau cùng ( màu đen của bột Ô mai đảm bảo độ

đồng đều của thuốc). Sau khi trộn đều xong, rây bột thuốc kép nhiều lần ( 4 - 5

lần ) nhằm cho thuốc đồng đều hơn và mịn hơn.

* Đóng gói: Đóng trong lọ kín, dán nhãn cẩn thận.

Thuốc độc bảng A - chỉ dùng ngoài, không được uống.

* Bảo quản: Nơi khô ráo và theo qui chế thuốc độc.

* Chỉ định: Theo sự hướng dẫn của lương y và y sĩ, bác sĩ.

KỸ THUẬT BÀO CHẾ THUỐC HOÀN

( THUỐC VIÊN TRÒN )

1. Định nghĩa

Viên hoàn là dạng thuổc rắn, hình cầu, có khối lượng thường nặng từ 0,05

g - 0,5 g, có khi tới 2 g hay hơn nữa.

Ví dụ: Tô mộc hoàn, Ích mẫu hoàn, Lục vị hoàn, Bổ tỳ ích khí hoàn, Bổ huyết

điều kinh hoàn.......

2. Thành phần

85

2.1. Dược chất

Có thể là hoá chất, bột dược liệu, cao thực vật, cao động vật.

2.2. Tá dược

Tá dược là những chất cần thiết để tạo thành viên thuốc. Tá dược thường là

những chất trơ (vô hại) hoặc những chất góp phần làm tăng thêm hiệu lực của thuốc

(tác dụng hiệp đồng hoặc phân rã thuốc hợp lý làm tăng khả năng hấp thu thuốc).

Tuỳ theo chất thuốc mà lựa chọn một hay nhiều tá dược cho thích hợp.

+ Nếu là dược chất khô rắn, tá dược dùng là chất lỏng như: Mật ong, xirô đơn,

dung dịch hồ nếp 5% - 20%.

+ Nếu dược chất dạng mềm hay lỏng thì tá dược dùng phải khô như: Bột Cam

thảo, bột Gôm, bột Gạo, bột Sắn...

Tá dược thích hợp sẽ làm cho viên mịn, không khô nứt, không chảy nước, dễ

tan và dễ tiêu (thuốc được hấp thu cao) trong đường tiêu hoá.

Ngoài ra còn tá dược áo thuốc như: Bột tan, Bách thảo sương; bột Chu sa, áo

tá dược lỏng, giấy bạc, giấy thiếc... nhằm làm cho viên bảo quản tốt hơn, che dấu

mùi vị, tăng cường tác dụng điều trị và làm cho viên đẹp, hấp dẫn...

3. Cách điều chế

3.1.Bước 1

Chuẩn bị nguyên liệu: Các dược liệu đã được chia nhỏ và chế biến sao tẩm

đúng yêu cầu của từng vị, sấy khô, tán thành bột riêng (nếu là thuốc độc) hoặc tán

chung thành bột để có độ mịn như nhau (tạo thành bột kép).

3.2. Bước 2:

Làm thành viên. (có hai cách)

Cách 1: Làm viên bằng bàn cắt viên:

a/ Dụng cụ bao gồm:Cối chày sứ; bàn cắt viên, bàn xoa viên và khay men để sấy.

b/ Làm khối viên dẻo:

86

Cho dần tá dược lỏng vào khối bột kép nghiền kỹ trong cối, đánh thành một

khối đều mịn, dẻo, sờ không dính tay và không dính chày, cối là được.

c / Chia viên:

Căn cứ vào số lượng viên phải làm, chia khối chất dẻo thành từng phần nhỏ, đem

nắn thành đũa (giun) trên khay rồi dùng bàn cắt, cắt thành viên, vừa cắt vừa viên tròn.

Chú ý, có thể cho một ít bột Hoạt thạch hoặc bột Cam thảo để khỏi dính khay.

d/ Sửa viên: Dùng bàn xoa viên xoa cho thật tròn và đều.

E / Sấy viên:

Cách 2: Làm viên bằng máy bao viên ( chạy điện quay tay) hay thúng lắc.

a / Tiến hành làm viên.

* Giai đoạn 1: Gây con giống hay nhân viên.

Giai đoạn này chủ yếu tạo các hạt cốm nhỏ lặn tròn trong máy hoặc thúng lắc

(tưới nước gây độ ẩm làm con giống phải thật vừa phải).

Chỉ chọn loại hạt Cải tròn đều đặn vừa cỡ để làm con giống (viên nhân) lắc

thành viên tới cỡ vừa yêu cầu sử dụng.

Cũng có thể dùng hạt đường kính hay những hạt bột thuốc loại to để làm thay

con giống.

* Giai đoạn 2: Làm viên to (bao viên ).

Tiếp tục lắc con giống, vừa lắc vừa cho thêm bột và nước. Phải lựa chọn và lấy

cỡ viên cho đều. Nếu chưa đều thì loại vừa đạt yêu cầu ngừng lại lựa chọn để

riêng, loại nhỏ hơn nên phân loại to - nhỏ để lắc (bao) cho đến khi đạt yêu cầ

(tròn, đẹp, đồng đều ).

* Giai đoạn 3: Sàng lựa

Lựa chọn những viên to đều để ra ngoài từ 1 - 2 giờ, sau cùng bao (lắc lại từ 10

- 15 phút) cho viên tròn và nhẵn hơn.

b / Sấy viên

87

Thuốc làm xong rải mỏng ra khay rồi cho vào tủ sấy. Lúc đầu sấy ở nhiệt độ 50

- 60C từ 2 - 3 giờ, sau đó tăng dần tới nhiệt độ 70 - 80C để tránh vỏ cứng nhanh

mà trong ruột vẫn mềm dễ gây hỏng thuốc.

Khi sấy phải đảo luôn để thuốc khô đều và đồng màu.

c / Bao áo viên.

* Mục đích: Mục đích của bao viên là làm cho viên thuốc không dính vào

nhau, không bị hút ẩm, giữ được hương vị của thuốc, chống mốc hoặc che lấp mùi

vị khó chịu của thuốc.

* Cách làm: Bao viên bằng cách quét một lớp xirô vào đáy thúng ( hoặc thùng

bao) để lắc cho viên thuốc được ướt đều. Sau đó, cho bột cần bao vào và lắc. Làm

nhiều lần cho đến khi bột cần bao tạo thành một lớp bám đều vào viên thuốc.

Bao xong, đem sấy ở nhiệt độ 40 - 50C.

* Các chất thường dùng để bao viên là:

Bột Hoài sơn, bột Hoạt thạch, bột Cam thảo, bột đường, xirô, bột Chu sa, cao

đặc Thục địa .

4. Bảo quản

Thuốc viên hoàn đã sấy xong phải để thật nguội mới đóng vào chai lọ hoặc túi

Polyetylen đã tiệt khuẩn và làm thật khô.

Thuốc phải để nơi khô ráo, mát, tránh ánh sáng và ánh nắng.

5. Tiêu chuẩn kỹ thuật.

- Mùi vị: Thơm mùi dược liệu.

- Mặt viên: Nhẵn bóng, đồng đều.

- Độ tan rã: Từ 10 - 20 phút phải tan rã hoàn toàn trong nước nóng ở 37C.

- Sai số khối lượng: không quá + 10% so với khối lượng một viên trung bình.

88

KỸ THUẬT BÀO CHẾ THUỐC TỄ (HOÀN MỀM)

1. Định nghĩa:

Thuốc tễ là dạng thuốc dẻo, hình cầu, đường kính từ 1 - 2 cm, gồm có Mật

ong và thuốc. Tỷ lệ mật ong và thuốc là: 1 : 1 hoặc 1 : 1,2 - 1,5.

Thuốc tễ phần lớn là các thuốc bổ dưỡng cơ thể, hoặc các thuốc cần dùng liên

tục lâu dài để chữa các bệnh mạn tính.

Ví dụ: Tễ bổ thận âm, tễ bổ thận dương, tễ bổ khí huyết, tễ bổ thận tráng

dương, tễ bổ tâm, tễ thuỷ lục nhị tiên...

2- Thành phần.

Thuốc tễ gồm hai thành phần.

2.1. Dược chất:

Gồm các dược liệu là thảo mộc hay động vật, rất ít dùng dược chất là khoáng vật.

Dược liệu dùng để chế thuốc tễ phải được chế biến sao tẩm theo đúng yêu cầu

của từng vị thuốc và phải tán thành bột mịn.

2.2. Tá dược: Chỉ độc dùng Mật ong cô đặc thành châu thay tá dược.

3. Cách điều chế.

3.1. Nguyên tắc.

Dược chất đã tán mịn, trộn đều theo phương pháp bột kép, đổ vào cối. Rưới

Mật ong đã cô thành châu còn nóng vào bột vừa đủ, giã luyện cho tới khi nhuyễn,

dẻo, mịn, đem chia viên.

3.2. Kỹ thuật điều chế.

Điều chế Thuốc tễ theo thứ tự sau đây:

3.2.1. Cô luyện mật thành châu.

Cho vào Mật ong số lượng nước cất bằng 5% lượng Mật ong. Đun sôi, vớt bọt

nổi ở trên cùng, tiếp tục đun nhỏ lửa cho tới khi mật nổi bọt phồng to, với bỏ bọt

đi. Tiếp tục đun nhỏ lửa cho tới khi nhỏ một giọt vào bát nước lạnh thấy chìm

89

xuống đáy bát mà không hoà tan vào nước ngay hoặc do tỷ trọng phải đạt tỷ trọng

d = 1,4 (Mật ong có d = 1,32).

- Mật luyện ở 114C gọi là mật non.

- Mật luyện ở 117C gọi là mật luyện (thành châu ).

- Mật luyện ở 120 - 122C gọi là mật già.

3.2.2. Cách sử dụng từng loại mật.

- Mật già dùng cho loại thuốc khô như: Khoáng vật, thực vật nhiều xơ.

- Mật luyện dùng cho loại thuốc thường không dính, không khô.

- Mật non dùng cho loại có độ dính lớn.

Tuy nhiên, mật luyện được sử dụng nhiều hơn cả, bởi vì thuốc không phải là

một vị mà là nhiều vị kết hợp với nhau có cả loại khô, loại thuốc dính....

3.2.3. Luyện thuốc.

Cho hỗn hợp bột kép dược chất vào cối, tưới mật đang nóng vào trộn đều

(không dùng mật quá nóng cho dược liệu chứa tinh dầu), nghiền kỹ cho nhuyễn.

Khi trộn đủ mật, giã mạnh liên tục cho tới khi thành một khối thuốc dẻo quánh

(giã càng kỹ càng tốt), nhấc chày lên thuốc bám thành cả một tảng vào chày không

còn thuốc dính cối là được.

3.2.4. Chia viên:

Tuỳ theo cỡ viên mà làm đũa ( giun ) to hay nhỏ và dùng bàn chia viên để chia

viên cho thích hợp.

3.2.5. Sấy viên:

Chia viên xong, dàn viên ra khay, mẹt, sàng..., đem phơi nắng nhẹ (phải che

đậy để tránh bụi, ruồi, nhặng...) hoặc đem sấy ở nhiệt độ 40 - 45C cho đến khi

phía bên ngoài viên khô, nhưng viên thuốc vẫn mềm dẻo.

3.2.6. Đóng gói bảo quản.

Viên tễ được đóng gói từng viên một trong giấy bóng kính, hoặc quả sáp ong

hoặc quả nhựa hình cầu. Để thuốc nơi khô, mát, tránh ánh sáng.

90

4. Tiêu chuẩn kỹ thuật

Thuốc tễ phải đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật sau:

- Mùi vị: Thơm dược liệu

- Nhìn mặt viên tễ: Nhẵn bóng đồng đều.

- Độ cứng: Không được cứng, rắn, phải mềm dẻo.

- Sai số khối lượng: Không quá + 10% so với khối lượng một viên trung bình.

5. Giới thiệu công thức viên.

5.1. Tễ bổ thận âm.

5.1.1. Công thức:

Thục địa 500 g

Hoài sơn 300 g

Toan táo nhục hay Tang thầm 200 g

Khiếm thực 400 g

Tỳ giải 200 g

Thạch hộc 300 g

Mật ong vừa đủ làm thành tễ.

5.1.2. Cách làm.

Thục địa thái mỏng, chưng cách thuỷ cho mềm nhuyễn. Các thứ khác sấy khô

sao vàng tán thành bột mịn trộn chung với Thục địa. Cho vào cối, thêm mật ong đã

bào chế thành châu, giã, luyện kỹ cho thành khối dẻo quánh không dính chày cối.

Làm mỗi viên nặng 12 gam bọc giấy bóng kính hoặc quả nhựa ở ngoài. Đóng

hộp 6 hay 10 viên, dán nhãn.

5.1.3. Công dụng: Như Lục vị hoàn như Bổ thận, mát da thịt, bụng nóng ruột

cồn cào, váng đầu, khát nước khô cổ, tiểu tiện vàng, đại tiên táo, tinh thần mỏi

mệt. Dùng cho những người tạng nhiệt.

5.1.4. Cách dùng: Ngày uống 2 lần với nước sôi để nguội hay nước muối nhạt.

Người lớn mỗi lần 1 viên, trẻ em 3 - 6 tuổi mỗi lần 1/4 viên, trẻ em 6 - 10 tuổi mỗi

lần 1/2 viên.

91

5.1.5. Kiêng kỵ:Người hư hoả, ăn ít, khó tiêu, ỉa lỏng không nên dùng.

5.1.6. Bảo quản. Để nơi khô kín mát.

5.2. Tễ thuỷ lục nhị tiên.

5.2.1. Công thức:

Kim anh tử ( bỏ hột, lông) 500 g

Khiếm thực 500 g

Mật ong vừa đủ làm thành tễ.

5.2.2. Cách làm:

Kim anh và Khiếm thực sấy khô ở nhiệt độ (40 - 50C). Tán nhỏ. Cô Mật ong

thành châu. Làm thành tễ như trên.

5.2.3. Công dụng: Chữa thần kinh suy nhược, lưng đau, gối mỏi, di tinh, mộng

tinh, phụ nữ bạch đới.

5.2.4. Các dùng:Ngày uống 3 lần, mỗi lần uống 1 viên với nước đun sôi để nguội.

5.2.5. Kiêng kỵ: Không nên ăn các chất cay nóng.

KỸ THUẬT BÀO CHẾ RƯỢU THUỐC

1. Định nghĩa:

Rượu thuốc là một chế phẩm lỏng được chiết xuất từ dược liệu có nguồn gốc

động vật, thảo mộc ( tươi hoặc khô) hoặc hoà tan các hoá chất vào rượu, cồn để

dùng uống hoặc đôi khi dùng ngoài.

Cũng có khi thêm đường hoặc xirô đơn vào đó nhằm làm giảm tính kích ứng

của cồn ( như các rượu bổ ).

2. Phân loại: Có hai cách:

92

2.1.Cách thứ nhất: Theo thành phần

Có hai loại rượu thuốc:

2.1.1. Rượu thuốc đơn: Có một dược chất như : Rượu Phụ tử, Rượu rết...

2.1.2. Rượu thuốc kép: Có nhiều dược chất: Rượu bổ huyết trừ phong, rượu bổ

Đitakina....

2.2.Cách thứ hai: Theo đường dùng

Có hai loại rượu thuốc:

2.2.1. Dùng trong: Rượu rắn, rượu Tắc kè, rượu bổ Đitakina, rượu Lô hội.....

2.2.2. Dùng ngoài: Cồn xoa bóp, rượu Rết ....

3. Thành phần

3.1. Dược chất

- Thảo mộc: Thường là lá, vỏ rễ cây, củ... như Ba kích, Hà thủ ô, Sâm các loại,

Quế, Đương qui, Dâm dương hoắc...

- Động vật: Tắc kè, Rắn, Rết, Hải mã, Hải long, Bào ngư, Bìm bìm...

Có thể là cao động vật như rượu Cao Hổ cốt,

- Hoá chất ( khoáng vật): Long não, I ôt, Tinh dầu Bạc hà...

3.2. Dung môi

Dung môi là rượu Ethylic, độ cồn dùng từ 30 - 90 tuỳ theo dược liệu

Cồn phải là cồn thực phẩm ( dược dụng ).

- Thực tế dùng rượu ngũ cốc (tốt nhất là rượu tăm -rượu Đế, rượu Quốc lủi ),

độ rượu từ 40 - 50.

- Cồn thường dùng độ cồn từ 50 - 60, với nguyên liệu là động vật, thường dùng

độ cao hơn.

3.3. Chất điều vị

Dùng đường hoặc xirô để rượu có vị ngọt dễ uống, thêm bổ dưỡng, tăng độ

nhớt, bảo quản tốt hơn, hạn chế tủa của tạp chất và giảm kích ứng của cồn.

3.4. Chất điều hương

93

Thường dùng tinh dầu: Quế, Cam... tuy nhiên, có thể cho thêm Trần bì để lấy

hương thơm trong rượu. Có thể dùng hoá chất như Vanilin.

3.5. Chất màu: Dùng đường cháy ( Caramen ) màu cánh gián là đẹp nhất.

4. Kỹ thuật điều chế

4.1. Xử lý nguyên liệu

4.1.1. Dược liệu: Dược liệu đã được chế biến, sao tẩm đúng qui cách và đúng

yêu cầu trong đơn thuốc. Phân chia dược liệu đến kích thước thích hợp.

Mức độ phân chia tuỳ theo phương pháp chiết xuất, khi ngâm lạnh hay ngâm

kiệt thì cần chia dược liệu mịn hơn khi ngâm nóng.

+ Dược liệu là rễ, củ: Thái phiến hoặc tán bột thô.

+ Dược liệu là thân thảo: Cắt đoạn dài 1 - 2 cm.

Thường ngâm rượu thì cứ ngâm thẳng vào rượu dược liệu đã được bào, thái

mỏng, và sao tẩm dùng để bốc thuốc thang.

4.1.2. Dung môi:

Đông y qui định dùng rượu uống có độ rượu từ 40 - 50, tốt nhất là dùng rượu

tăm.

4.1.3. Tỉ lệ giữa rượu và dược liệu:

- Dược liệu không có độc: Một phần dược liệu / 5 phần cồn.

- Dược liệu có chứa hoặc là chất độc A, B: Một phần dược liệu /10 phần cồn.

4.2. Chiết xuất

Có năm phương pháp điều chế.

4.2.1. Hoà tan thường: Áp dụng cho các hoá chất hoà tan hoàn toàn trong cồn:

Tinh dầu Bạc hà, tinh dầu Long não, tinh dầu Khuynh diệp...

4.2.2. Phương pháp Ngâm thường:

Áp dụng cho các dược liệu đã chế biến, sao tẩm vào bình, rồi cho rượu hoặc

cồn thực phẩm vào ngập dược liệu từ 3 - 5 cm. Thời gian ngâm tuỳ theo số lượng

dược liệu và loại dược liệu (mức độ phân chia dược liệu chẳng hạn). Ngâm dược

94

liệu trong thời gian từ 10 ngày - 100 ngày hoặc hơn. Sau đó gạn lấy dung dịch cồn

trong còn bã đem ép. Để lắng lọc.

4.2.3.Phương pháp Ngâm nóng.

Áp dụng cho các dược liệu có cấu tạo rắn, chắc khó chiết xuất.

Phương pháp này đòi hỏi phải có trang thiết bị và dụng cụ đặc biệt. Dó đó, nó

không được trình bày trong tài liệu này.

4.2.4. Phương pháp Hạ thổ

Cho dược liệu ( động vật là tốt nhất ) và dung môi vào bình kín, rồi đem bình

chôn xuống đất trong một thời gian nhất định.

Rượu chế bằng phương pháp này có mùi vị thơm ngon hơn và tác dụng tốt hơn.

4.2.5. Phương pháp Ngâm kiệt:

Dùng phương pháp Ngâm kiệt cho phép chiết xuất được tối đa hoạt chất và rút

ngắn thời gian điều chế.

5. Pha Rượu

5.1. Định nghĩa

Pha Rượu là quá trình phối hợp các dịch chiết riêng với chất điều vị, chất

điều hương và nước chín ( hiện ngay dùng nước cất).

5.2. Mục đích

Điều chỉnh độ rượu (độ cồn), tạo hương vị thích hợp cho hàng hoá nhằm thoả

mãn người tiêu dùng.

5.3. Độ rượu thuốc

Độ rượu chiết xuất thường dùng trong khoảng 50 - 60, nhưng độ rượu thành

phẩm chỉ từ 20 - 30 trừ cá biệt có trường hợp tới 40.

5.4. Các hiện tượng bất thường khi pha rượu và cách khắc phục.

Quá trình pha rượu thường xảy ra một số hiện tượng như: Tủa, đục, biến màu v.v..

do thay đổi dung môi; thay đổi nhiệt độ; thay đổi pH môi trường; do các phản ứng

hoá học xảy ra giữa các thành phần trong các dịch chiết khác nhau... làm ảnh hưởng

95

tới chất lượng rượu thuốc.

* Cách khắc phục:

- Tránh giảm độ cồn đột ngột (nên phải từ từ cồn thuốc vào nước cất).

- Khi chiết xuất không nên dùng độ cồn quá cao.

- Điều chỉnh PH môi trường thích hợp.

- Thêm các chất làm tăng độ nhớt (đường...) nhằm giảm bay hơi cồn và giữ mùi

hương liệu.

- Khi phối hợp cần tuân thủ nguyên tắc: các chất hương liệu cho vào sau, các

chất làm giảm độ nhớt cho sau cùng.

Phối hợp từ từ các dịch chiết có thành phần, nồng độ gần nhau trước; đồng thời

phối hợp với chất ổn định tăng độ nhớt môi trường.....

6. Bảo quản

Rượu thuốc để lâu thường có cặn, phải đóng chai đầy (chai có màu thì tốt nhất )

nút kín, để nơi mát, tránh ánh sáng. đựng chai kín đã xử lý kiềm.

7. Giới thiệu một số công thức.

7.1. Rượu thuốc đơn.

Bài 1. Rượu vỏ Quýt 1/5

* Công thức:

Vỏ quýt ( sao thơm ) 200 g

Cồn 80 1.000 ml

* Cách làm:

Vỏ Quýt ngâm vào nước vo gạo sạch cùi bên trong, thái nhỏ đem sao thơm.

Ngâm trong bình kín 10 ngày, thỉnh thoảng khuấy, gạn ra, ép bã, lọc đóng chai

dán nhãn.

* Công dụng: Khai vị, tiêu thực.

* Cách dùng: Ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 - 5 ml hoà vào nước đun sôi để nguội.

96

Bài 2. Rượu Long não 1/10

* Công thức:

Long não 100 g

Cồn 90 1.000 ml

* Cách làm:

Hoà tan Long não vào cồn, lọc, đóng vào chai, dán nhãn dùng ngoài.

* Công dụng: Dùng để xoa bóp, tan các chỗ tụ máu.

* Chú ý: Cũng bằng phương pháp này ta điều chế các rượu Bạc hà, rượu

Khuynh diệp.

7.2. Rượu thuốc kép

Bài 1. Cồn xoa bóp

* Công thức:

Huyết giác 40 g

Đại hồi 12 g

Quế chi 12 g

Địa liền 20 g

Thiên niên kiện 20 g

Long não ( bột ) 15 g

Cồn 70 vừa đủ 1.000 ml

* Cách làm: Tất cả các vị thuốc tán thành bột ngâm trong cồn 70 trong 7

ngày, mỗi ngày khuấy một lần, gạn lấy kiệt nước, thêm bột Long não vào khuấy

cho tan hết bột. Đóng chai.

* Công dụng: Chữa sưng tấy, tụ máu, bầm tím, bong gân, nhức xương, đau khớp.

* Cách dùng: Tẩm rượu vào bông hay miếng gạc, xoa lên chỗ đau sưng rồi xoa

bóp.

97

Bài 2. Rượu Ngũ gia bì

* Công thức:

Vỏ ngũ gia bì ( sao vàng ) 200 g

Đường kính 200 g

Rượu 40 1.000 ml

* Cách làm: Cho vào bình ngâm 10 ngày, thỉnh thoảng ( khuấy) lắc đều. Gạn,

ép lấy hết rượu, thêm đường kính hòa tan, lọc, đóng chai

* Công dụng: Bồi dưỡng cơ thể, kích thích tiêu hoá. Chữa đau lưng, chân tay

nhức mỏi, phong thấp, tê, bại gân xương, co duỗi khó.

* Cách dùng: Ngày uống 2 lần, mỗi lần một cốc con ( 15 ml = 1 thìa cà phê )

vào trước bữa ăn hay trước khi đi ngủ.

KỸ THUẬT BÀO CHẾ THUỐC CAO DÁN

1 - Định nghĩa

Hiện nay có một số khái niệm khác nhau về cáo dán.

* Định nghĩa 1

Thuốc cao dán là dạng thuốc ở nhiệt độ thường có thể chất dẻo, trở thành mềm và

dính vào da ở nhiệt độ cơ thể và trở thành chất lỏng sánh ở nhiệt độ cao hơn nữa.

* Định nghĩa 2

Thuốc cao dán là dạng thuốc có thể chất mềm ở nhiệt độ thường, có khả năng tan

chảy giải phóng hạt chất ở nhiệt độ cơ thể và thường được phết lên vải hay giấy để dán

lên da với mục đích điều trị như chỗ dâu, nhức làm giảm đau hoặc dán lên các mụn nhọt

đang ở thời kỳ nung mủ.

98

2- Ưu nhược điểm

2.1 - Ưu điểm

Cao dán có diện tích tác dụng rộng, kéo dài được tác dụng của thuốc, hiểu quả

điều trị cao trong các trường hợp sưng độc, mụn nhọt. Điều chế đơn giản, có thể

chế sẵn để dùng lâu dài, giá rẻ, bảo quản dễ.

2.2 - Nhược điểm

Khi dán cao thuốc lâu làm ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý của da, từ đó có

thể làm thay đổi sự hấp thu thuốc.

3- Yêu cầu chất lượng

- Thuốc phải có thể chất thích hợp : Mềm dẻo ở nhiệt độ thường, nóng chảy ở

35 - 45#C. ít thay đổi do thời tiết, dễ bảo quản, dễ bắt dính da, dễ giải phóng hoạt

chất khi dùng. nếu khô quá, cứng quá, cao khó dính và gây dễ kích ứng vết

thương, khó giải phóng hoạt chất, lạnh dễ bị cứng ; nếu mềm quá thì dễ chảy về

mùa nóng làm cho khi dán cao khó bóc, gây đau.

- Hoạt chất phải phân tán đồng đều trong thuốc. Các chất không tan phải có độ

mịn tối đa ; mặt cao không nhìn thấy được tiểu phân chất phân tán.

- Không kích ứng vết thương, không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của da

trong quá trình dùng thuốc.

4- Thành phần

Gồm hai phần là dược chất và dược tá.

4.1. Dược liệu

Thường là các dược liệu thảo mộc, động vật hay các tinh dầu. Cũng có khi

dược chất là hóa chất.

4.1.1. Chất thuốc

Dược liệu có những thành phần tan trong dầu như tinh dầu, chất béo, alcaloid

kiềm, vitamin tan trong dầu...đem phân chia đến mức độ nhất định để chiết xuất

với dầu. Nếu dược liệu có cấu tạo rắn chắc cần phiến, sấy khô, ngâm trong dầu

99

trong thời gian nhất định trước khi chiết. Nếu dược liệu có cấu tạo mỏng manh thì

để riêng và chết xuất sau.

Những dược liệu không chiết xuất (do không chịu được nhiệt độ như hoa lá,

tinh dầu... hoặc thành phần chính không tan trong dầu), thì nghiền tán thành bột

mịn để phân tán vào cao thuốc trước khi dùng.

Những dược liệu có nguồn gốc động vật như rết, cóc... thường đốt tồn tính hay

sấy khô và phân tán vào cao dưới dạng bột mịn.

4.1.2. Đơn

Các loại chì Oxyd cũng đóng vai trò chính trong cao. Chúng có tác dụng tiêu

sưng, giảm đau, làm chóng lên da non. Mặt khác chúng sẽ tác dụng với acid béo

có sẵn trong dầu hay mới thủy phân trong quá trình điều chế tạo ra xà phòng chì. ở

dưới dạng này chì không độc và có tác dụng nhũ hóa tạp ra nhũ hương N/D dẫn

thuốc ngấm sâu.

Các loại đơn hay được dùng là: Hồng đơn (Hoàng đơn, Duyên đơn...) màu

hồng tươi, không tan trog nước có thành phần chủ yếu là Pb3O4 đạt chiếm trên

90%. Hồng đơn vị mặn, tính hơi hàn, có tác dụng giải độc, giảm đau, an thần.

Dùng ngoài để giảm đau, chóng lên da non, chữa chốc lở sưng tấy, chữa bỏng và

vết thương chảy máu. Dùng trong trấn kinh, cầm máu.

Mật đà tăng và hợp chất chì trắng cũng là những hợp chất của chì, có độc và

hiện nay ít dùng.

4.3. Tá dược

Gồm dầu, sáp ong, nhựa, làm môi trường phân tán dược chất, dung môi chiết

xuất và dễ đảm bảo thể chất của thuốc. Dầu làm cho thuốc óc thể mềm, nhựa là cho

thuốc dẻo dính, sáp làm tăng độ cứng của cao và chúng đều có tác dụng dược lí.

- Dầu: Môi trường phân tán chính của cao dán và là dụng môi chiết xuất các

loại dược liệu.

Dùng dầu thực vật như Dầu vừng và dầu lạc, dầu đậu tương, dầu cám.... Chúng

100

làm cho cao bóng đẹp, tăng khả năng bắt dính và ổn định, khi sôi ít gây bọt, ítbị

trào, tỉ lệ hao hụt thấp; Dầu là thuốc bổ, có tác dụng nuối dưỡng vết thương, làm vết

thương sạch mủ, chóng lên da non (sinh cơ), chóng liền sẹo. Không dùng dầu trẩu

và dầu động vật vì cho cao chất lượng kém, dễ ôi, dễ biến chất...

4.3.1.- Nhựa

Làm thuốc bắt dính và có tác dụng điều trị.

- Nhựa thông: Tác dụng sát trùng, làm vết thương sạch mủ, chóng lên da non.

- Nhũ hương: Tác dụng điều hòa khí huyết, giảm đau, tiêu độc.

- Một dược: Tác dụng giảm đau, làm tan huyết và chóng lên da non

4.3.2. Sáp

Cho tỉ lệ vừa phải để tăng độ cứng của cao, làm cho cao không bị chảy ở nhiệt

độ thường. Dùng sáp ong vàng hay Parafin đath tiêu chuẩn qui định.

5 - Kỹ thuật điều chế

5.1 - Chuẩn bị nguyên liệu và dụng cụ

Bao gồm chậu sành hay chậu men chịu nhiệt; đũa thủy tinh, lọ rộng miệng,

giấy hay vải để phết cao, vải lọc...

5.2 - Nấu cao qua các giai đoạn sau.

5.2.1. Chiết xuất trong dầu (rán khô dược liệu)

Cho dược liệu đã phiến ngâm vào dầu từ 3 - 10 ngày để chiết những thành

phần tan trong dầu và những chất tan trong nước cũng phân tán vào dầu dưới dạng

nhũ tương N/D nhờ các chất nhũ hóa trong dầu.

Sau đó chiết xuất ở nhiệt độ sôi của dầu (khoảng 200 - 220C) như phương

pháp sắc, cách cát trong nồi rộng miệng bằng 5 lần dung tích dầu để tránh gây

trào thuốc và cháy thuốc. Dược liệu cứng chiết xuất trước, dược liệu mền, mỏng

manh chiết xuất sau và thường xuyên khuấy đều. Chiết cho đến khi dược liệu khô

giòn, cháy xém ở mặt ngoài, lọc nóng qua rấy lấy dịch chiết. Dịch chiết thu được

gọi là dầu thuốc.

101

5.2.2. Cô cao (Luyện dầu thành châu và luyên cao)

Dầu cao thu được cô đặc đến mức độ nhất định. Đây là giai đoạn quan trọng để

đảm bảo chất lượng cao.

Khi cô thì hơi nước bay đi, nhiệt độ cao có thể từ 300 - 320ìC và dịch chiết

được cô đặc nhờ nhiều phản ứng hóa học xảy ra. Ví dụ phản ứng trùng hợp của

các chất chưa no tạo phân tử lớn hơn. Khi dầu thành châu ở nhiệt độ từ 320 -

360ìC (giỏ giọt dầu vào nước lạnh, giọt dầu đông lại và giữ nguyên được hình

dạng). Mùa nóng phải cô đặc hơn mùa lạnh để cao không bị chảy.

Khi dầu thành châu người ta cho thêm các chất như nhựa, sáp và kết hợp điều

chỉnh thể chất của cao. Không nên cho nhựa, sáp vào giai đoạn đầu khi mới cô cao

để tránh hạn chế sự bay hơi nước trong cao ảnh hưởng đến quá trình cô cao. Mặt

khác còn nhằm hạn chế sự bay hơi của tinh dầu trong nhựa và sự phân hủy các

acid nhựa.

5.2.3. Cho thêm đơn

Sau khi cô xong, lọc nóng cao để loại hết cặn dược liệu còn lại và tủa mới hình

thành. Sau đó đun lại cho dầu cô gần sôi, cho thêm bột đơn và thuốc bột (nếu có)

và quấy đều cho đén khi thả một ít cao vào bát nước lạnh lấy ra không dính tay,

kéo thành sợi, song sợi không dài quá hoặc không ngắn quá là được.

Ngoài lượng bột chì xà phòng hóa, còn lại một lượng lớn không tham gia phản

ứng và phân tán đều trong cao dưới dạng bột mịn.

Sau khi phản ứng xảy ra hoàn toàn, để cao nguội từ từ. Cũng có thể sau khi đun

chảy cao, bắc ra khỏi ngọn lửa mới cho đơn, để đề phòng cháy cao, nhất là khi điều

chế với chì trắng.

5.2.4. Những điểm chú ý khi làm cao thuốc

- Loại thuốc động vật rắn cứng như hổ cốt, xuyên sơn giáp... cần rán kỹ ở nhiệt

độ cao

- Loại thuốc dễ bay hơi như tinh dầu, các chất tan được trong dầu thì cho vào

sau cùng khi nhiệt độ của dầu xuống 50 - 60ìC

102

- Loại quý như Xạ hương thì sau khi phết lên cao giấy hay vải mới rắc vào.

- Cần rang Hoàng đơn trước khi cho vào để có hàm lượng Pb3O4 > 90%, tránh

được dàu sẽ bị vón cục lắng xuống đáy dầu không kết hợp được.

- Lượng Hoàng đơn chiếm 7 - 10% trong 1 kg dầu thuốc tùy theo mùa, mùa

đông dùng Hoàng đơn nhiều hơn mùa hè thì cao mới không bị quá mềm hoặc quá

cứng.

- Nếu muốn có cao màu trằng thì thay Hoàng đơn bằng Quan phấn và cho vào

khi nhiệt độ dầu xuống khoảng 100 - 110ìC., đánh đều ta có cao màu trắng rất đẹp.

- Nếu là những chất tan được trong nước thì hòa tan vào lượng nước tối thiểu

dung môi, rồi trộn đều nhũ hóa với cao. Ccá chất nhũ hóa có sẵn trong cao như xà

phòng chì, các bán glycerid sẽ nhũ hóa dung dịch nước dưới dạng nhũ tương N/D

với điều kiện nước không vượt quá 5% so với lượng cao.

- Cần chú ý: chất lượng của thuốc thay đổi trong quá trình nấu cao là do nhiệt

độ phân hủy hoạt chất, do bị cháy, do kết hợp với dầu thành những chất phức

hợp; do thay đổi về lý tính và hóa tính của dầu; do tạo ra một số sản phẩm mới sau

khi acid béo bị oxy hóa như các chất aceton, aldehyd... gây kích ứng da....

5.2.5. Loại độc tố

Mục đích : Khử hỏa độc có thể gây kích ứng da, mẩn ngứa, mẩn, nhọt, lở ngứa

nơi dán cao.

Cao nấu xong chia thành miếng nhỏ từ 1 - 2 lạng, ngâm trong nước lạnh có khi

hàng tháng, mỗi nagỳ thau nước một lần để loại dần độc tố hòa tan trong nước.

Sau đó đem đun nóng cao lên 80 - 90 ìC cho chảy ra rồi phết lên giấy hoặc vải.

Cũng có thể khử bằng cách cao đang nóng lên trên 200 #C phun nước vào bằng

những tia rất nhỏ để nước bốc hơi bay đi sẽ cuốn theo độc tố; hoặc khi cao gần

đông cho thêm nước lạnh khuấy đều rồi ép bỏ nước.

Để hạn chế sự phân hủy của dầu, người ta thường cho thêm vào dầu một số

chất chống oxy hóa như tanin, acid benzoic với tỉ lệ 0,05%, tocofenol với tỉ lệ

khoảng 0,0001%...

103

5.2.6. Ví dụ về cao dán

Công thức:

Củ ráy 100 g

Nghệ vàng 50 g

Cóc vàng 1 con

Nhựa thông 30 g

Sáp ong 20 g

Dầu vừng 300 ml

Cách làm:

Củ ráy và nghệ gọt vỏ, thái phiến, chiết với dầu. Thêm nhựa và sáp làm thành

cao. Cho thêm bột cóc đốt tồn tính, quấy đều. Phết lên giấy hay vải.

Tác dụng: Cao có tác dụng làm tan mụn nhọt mới phát, hút mủ và làm vết thương

mau lên da non.

KỸ THUẬT BÀO CHẾ THUỐC CỐM

Cốm là dạng thuốc hiện nay cũng ít được sử dụng.

Cốm là dạng thuốc rắn, hình dáng giống hạt cốm và có chứa tới 50% là đường

hay mật.

1. Thành phần

1.1. Dược chất

Bao gồm các loại dược liệu là thảo dược, động vật, khoáng vật đã được tán

thành bột mịn hoặc chế thành cao mềm, cao lỏng hay rượu.

1.2. Tá dược

Thường dùng mật, đường (Xirô), bột gạo nếp,

104

Bột mỳ làm chất dính

Bột Calci Carbonat, Calci photphat... để dùng làm khô.

2. Xử lý nguyên liệu

Xử lý giống như khi làm thuốc viên

2.1. Nấu cao

Áp dụng với đa số dược liệu. Mục đích để rút gọn thể tíc và làm cho thuốc dễ

hấp thu, tác dụng nhanh.

Đem một phần hoặc toàn bộ dược liệu sắc với nước hoặc chiết với các dung

môi khác và cô thành cao lỏng theo tỷ lệ 1 :1 hay 1 : 2 (tức là 1 ml dịch chiết

tương ứng với 1 hay 2 g dược liệu khô).

2.2. Nghiền bột

Áp dụng cho dược liệu có nhiều tinh bột như Hoài sơn, ý dĩ... hoặc những dược

liệu không chịu được nhiệt độ như hoa, lá, dược liệu chứa nhiều tinh dầu, Câu

đằng....

Với những dược liệu có khả năng làm ngọt như Cam thảo, làm thơm như Tiểu

hồi, Đinh hương... cũng lấy một phần nghiền thành bột để kết hợp làm chất điều

hương vị cho thành phẩm.

Bột thuốc còn có vai trò là tá dược hút và rã.

Lượng bột chỉ nên chiếm từ 10 - 30% khối lượng của toàn đơn.

Bã dược liệu còn lại sau khi nghiền đưa phối hợp với các dựoc liệu khác để nấu

cao.

2.3. phương pháp tiến hành làm cốm

Kết hợp bột thuốc, cao thuốc và tá dược thích hợp để tạo khối dẻo. Tá dược

dùng cho cốm chủ yếu là các tá dựoc điều vị, tá dược hút, tá dược dính, tá dược rã.

Người ta lựa chọn để một tá dược đóng được vai trò của nhiều loại. Có hai

nhóm tá dược chính.

105

2.3.1. Nhóm tá dược lỏng

Nhóm này bao gồm Mật ong, xirô là những chất làm ngọt, chất dính và làm

thuốc dễ rã. Ngoài ra có thể có một ít tinh dầu để làm thơm.

2.3.2. Nhóm tá dược rắn

Nó bao gồm bột đường, bột bánh khảo, bột gạo rang tinh bột... là những chất

làm ngọt, chất dính nội, chất hút và làm thuốc dễ rã.

Sau khi phối hợp dược liệu theo nguyên tắc bào chế thuốc bột đơn hay bột kép

thì người ta cho thêm tá dược.

Nguyên tắc cho tá dược là: Nếu hỗn hợp dược liệu khô thì thêm tá dược lỏng và

ngược lại nếu hỗn hợp dược liệu lỏng thì thêm tá dược rắn cho đến khi đảm bảo tạo

thành khối dẻo thích hợp. Cách luyện này như là luyên thuốc tễ, không cần giã.

Xát hạt qua rây và sấy khô. Chỉ nên xát hạt cốm nhỏ có đường kính từ 0,5 đến

1 mm để tạo được cốm đều và đẹp, dễ tan rã, và phát huy tối đa tác dụng.

Cũng có khi tạo thành khối dẻo, người ta dàn mỏng lên khay men rồi sấy ở

nhiệt độ thấp đến độ ẩm qui định, nghiền mịn, làm ẩm với cồn và xát hạt lại.

Thường xát trên một chiếu rây đồng hoặc một cái sàng có mắt thích hợp.

Khi sấy, cồn sẽ bay hơi làm cho cốm có màu sắc đồng nhất và đẹp hơn.

Thuốc cốm đông dược dẽ hút ẩm, có thể chảy và kết dính. Sau khi sấy khô đến

độ ẩm 10% đưa rây lại và đóng vào túi polyetylen.

Chú ý: - Nếu khối dẻo cán mỏng cắt thành từng bánh hình tám giác, hình

vuông, hình chữ nhật hay từng thỏi như chiếc bút chì ngắn hau đầu tròn thì được

thuốc Đĩnh

- Không nên làm khối thuốc dẻo quá như làm viên bằng khay chia viên. Dẻo

quá cốm sẽ thành sợi dài, bánh sẽ rắn không xốp. Trái lại khô quá sẽ rời vụn.

- Nếu công thức có nhiều chất lỏng thì cho thêm tá dược như: Calci carbonat,

Calci photphat.

- Không nên sấy cốm ở nhiệt độ cao quá, chỉ nên sấy ở nhiệt độ từ 45 - 60C.

106

4. Giới thiệu công thức

Hiện nay, người ta thường chế biến một số laọi cốm đông dược như cốm Bổ,

cốm Tiêu thực, cốm Nghệ...

Sau đây xin giới thiệu Cốm Nghệ

Công thức :

Nghệ vàng 500 g

Mai mực (ô tặc cốt) 200 g

Cam thảo 100 g

Tiểu hồi hương 50 g

Đường kính 50 g

Mật ong Vừa đủ

Các điều chế :

Tán nghệ thành bột thô, ngấm kiệt với cồn 60ì và lấy cao lỏng tỷ lệ 1/1.

Mai mực, Cam thảo, Tiểu hồi hương và Đường kính nghiền riêng thành bột

mịn vừa, trộn đều theo nguyên tắc trộn bột kép.

Trộn bột thuốc với cao lỏng Nghệ.

Thêm mật luyện hay xirô đơn vừa đủ tạo thành một khối dẻo, xát hạt

Sấy khô, đóng túi polyetylen. Trọng lượng 50 g thuốc/ túi.

Công dụng :

Chữa đau dạ dày nhất là đau dạ dày thể hư hàn.

Ngày uống 10 g chia làm 2 lần với nước ấm.

ĐƠN - ĐĨNH

Đây là những dạng thuốc mà hiện nay rất ít được sử dụng nên chúng tôi không

trình bày trong tài liệu này.

107

1 - Đơn

Lúc đầu dùng chỉ những chất điều chế từ các khoáng chất chứa kim loại như

Hồng đơn, Chu sa. Nhưng về sau, một số đơn thuốc phải trải qua các giai đoạn

điều chế phức tạp cũng gọi là đơn.

Hiện nay, chữ đơn đã mất hết ý nghĩa ban đầu của nó. Nhiều dạng thuốc khác

nhau như bột, viên hòn cũng mang tên đơn.

Ví dụ :

Hồng thăng đơn, Nhân đơn, Hồi xuân đơn, Ích nguyên đơn..Đơn bổ huyết

Kỹ thuật điều chế những laọi này như các dạng thuốc tương ứng.

2- Đĩnh

Đỉnh là dạng thuốc rắn, hình khối như hình chữa nhật, hình trụ... và được điều

chế từ bột thuốc và tá dược dính theo khối lượng qui định từ 0,5 g đến 10 g.

Thuốc Đĩnh có thể chất rắn, khi dùng thường mài vào nước để uống hay bôi

xoa bên ngoài. Điều chế thuốc Đĩnh bằng cách tạo khối dẻo từ bột thuốc và tá

dược dính, nặn thành khối hay ép trong khuôn.

Thuốc Đĩnh còn gọi là thuốc Đỉnh. Thuốc Đĩnh có tên như vậy là do vì dạng

thuốc giống như những đĩnh bạc, thoi vàng ngày xưa.

Đĩnh hay dùng nhất là : Tử kim đĩnh I, II1, II2 dùng để trị mụn ngọt, sang lở.

CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1: Trình bày kỹ thuật sắc thuốc và các chú ý trong quá trình sắc thuốc? Trách

nhiệm của người kê đơn, người cân thuốc và người sắc thuốc?

Câu 2: Trình bày ưu điểm và nhược điểm của thuốc bột? Tại sao thuốc bột dùng

ngoại cần có độ mịn cao? Kỹ thuật bào chế thuốc bột có chứa dược chất độc?

Câu 3: Vai trò của tá dược trong viên hoàn cứng?

Câu 4: Thuốc tễ là gì? Trình bày ứng dụng từng loại Mật trong bào chế thuốc tễ ?

Câu 5 : Vai trò của các thành phần không phải là dược chất trong rượu thuốc ?

Trình bày các hiện tượng bất thường xảy ra khi pha rượu và cách khắc phục ?

108

Câu 6: Ưu nhược điểm của cao dán có nguồn gốc tự nhiên?

Câu 7: Ảnh hưởng của Mật ong đối với tác dụng chữa bệnh của thuốc tễ?

Câu 8: Phân biệt sự khác nhau về mục đích và phạm vi áp dụng của thuốc sắc?

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Xuân Sinh, Phùng Hoà Bình, Dược học cổ truyền. Giáo trình Đại

học Dược Hà Nội, NXB Y học 1998 và 2006

2. Đỗ Tất Lợi,Các cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học năm 2000

3. Nguyễn Xuân Sinh, Phương pháp chế biến thuốc cổ truyền, NXB Y học, 2000

4. Lê Hữu Trác - Hải thượng y tông tâm lĩnh, NXB Y học năm 1991

5. Học viện Trung y Bắc Kinh, Tập hợp những kinh nghiệm bào chế trung

thảo dược. NXB Y học năm 1971

6. Bộ Y tế, Dược điển Việt Nam III và IV . NXB Y học năm 2002 và năm 2009

7. Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương, Phương pháp bào chế và sử dụng

dông dược. NXB Y học Hà Nội năm 1993.

109

PHỤ LỤC

TÓM TẮT BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN

MỘT SỐ VỊ THUỐC THƯỜNG DÙNG

BẠCH BIỂN ĐẬU 白 扁 豆

1/ Theo Trung Dược Đại Tự Điển: Lấy hạt Biển đậu có vỏ cứng , để nguyên

cả vỏ, sao chín, dùng. Có khi tẩm vào nước sôi cho tróc vỏ, bỏ hết vỏ, dùng.

2/ Theo cách bào chế của Việt Nam:

- Thường dùng thứ hạt nguyên, có sống, khi bốc thuốc thang thì giã dập.

- Dùng chín : Rửa, để ráo nước rồi sao qua cát để khỏi cháy, khi bốc thuốc

thang thì giã dập.

BÁCH BỘ 百 部

1/ Đào lấy củ già rửa sạch cắt bỏ rễ 2 đầu, đem đồ vừa chín, hoặc nhúng nước

sôi, củ nhỏ để nguyên, củ lớn bổ đôi, phơi nắng hoặc tẩm rượu, sấy khô (Bản Thảo

Cương Mục).

2/ Rửa sạch, ủ mềm rút lõi, xắt mỏng phơi khô, dùng sống. Tẩm mật một đêm

rồi sao vàng [dùng chín] ( Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).

BẠCH CHỈ 白 芷

1/ Hái Bạch chỉ về, cạo sạch vỏ, thái nhỏ, lấy Hoàng tinh ( số lượng bằng

nhau), cho vào nồi, đồ 1 lúc, lấy Bạch chỉ ra, phơi khô, dùng. Hoặc hái về, rửa

110

sạch, cắt ra từng khúc, trộn với vôi, phơi khô. Khi dùng cho vào thuốc thì sao qua.

có thể sao cháy hoặc tẩm giấm, sao (Trung Dược Đại Từ Điển).

2/ Rửa qua cho sạch, ủ 3 giờ cho mềm. Thái nhỏ, phơi trong râm cho khô.

Không sao tẩm gì (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược – Việt Nam).

3/ Rễ củ thu hái lúc trời khô ráo, trước lúc mưa to kéo dài. Đào rễ và cắt cho

bằng đầu, tránh làm sây sát vỏ và gẫy rễ. Không thu hái ở cây đã kết hạt. Loại bỏ

rễ con, rửa nhanh sau đó sấy Lưu huỳnh rồi phơi ở nhiệt độ 40-50o (Tài Nguyên

Cây Thuốc Việt Nam).

BẠCH CƯƠNG TẰM 白 殭 蠶

1/ Ngâm nước vo gạo nếp 1 ngày đêm cho nhớt và dầu nổi lên mặt nước, vớt

ra, sấy khô bằng lửa nhỏ, chùi sạch lông vàng và miệng đen, tán bột, dùng ( Lôi

Công bào chích luận).

2/ Vào giữa tháng 4-5, chọn những con Tằm chết cứng do bị nhiễm vi khuẩn,

đem phơi nơi có gió hoặc phơi nắng, cho vào bình hút ẩm có chứa vôi sống hoặc

sấy cho khô hoặc ngâm nước vo gạo 1 đêm , quấy nhẹ tay cho tơ và nhớt ra hết,

vớt ra, phơi hoặc sấy khô. Hoặc rắc cám vào nồi (cứ 10kg Cương tằm, dùng 1kg

cám), đun nóng cho bắt đầu bốc khói, cho Cương tằm vào, sao cho đến khi vàng,

sàng bỏ cám đi, để nguội (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

3/ Sao với cát nhỏ cho vàng lên hoặc sao vàng với rượu sấy khô ( Đông Dược

Học Thiết Yếu).

4/ Hiện nay, thường sản xuất Bạch cương tằm bằng cách lựa tằm đủ tuổi (4-

5cm) rồi phun khuẩn nấm Batrytis Bassiana Bals lên mình tằm.

BẠCH MAO CĂN 白 茅 根

111

Rễ rửa sạch, loại bỏ vết lông và rễ con, cắt ngắn từng đoạn 2-3cm, đem phơi

hay sấy khô tới độ ẩm dưới 12%. Cắt lấy cả lông để dùng dần. Không dùng rễ nổi

lên mặt nước.

BẠCH THƯỢC 白 芍

Ở Triết Giang thu hoạch sớm nhất khoảng mùng 10 tháng 6. Tứ Xuyên vào

giữa tháng 7 lúc thời tiết nóng và thu hoặc có thể kéo dài cho tới cuối mùa hè thì

xong. An Huy vào cuối hè đầu thu. Hồ Nam vào tiết lập thu. Khi thu hoạch, chọn

ngày nắng ráo, đất khô, trước hết cắt thân lá sau dùng cuốc bới quanh gốc để lấy

rễ, chú ý để khỏi gẫy. Lấy rễ giũ sạch đất, cắt riêng từng rễ ra, dùng dao con cắt

hết những rễ con, rễ phụ mọc từ rễ chính. Sau đó phân loại lớn nhỏ. Nếu sau khi

thu hoạch gặp mưa không phơi được vùi rễ vào đất cát ẩm nhưng không được để

quá 2-3 ngày, phơi nắng cho khô thứ chắc rắn là tốt.

1/ Lấy dao tre cạo thật sạch vỏ ngoài, tẩm nước mật loãng trong 3 giờ rồi phơi

khô (Lôi Công Bào Chế).

2/ Rửa sạch ngâm nước 1-2 giờ, ủ 1-2 ngày có thể đổ rồi bào hay xắt mỏng, sao

qua, có khi tẩm giấm sao qua hay sao cháy cạnh, hoặc tẩm rượu sao qua (Lâm

Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

3/ Cách bào chế của Tứ xuyên: Dùng một nồi hoặc chảo to, đổ nước đã đun sôi

vào, bỏ rễ Bạch thược vào cho ngập hết Rễ, không được cho rễ vào quá nhiều,

nước không đủ ngập. Sau đó loại rễ to đun khoảng 10-15 phút, nếu đun quá lâu

sau này cạo bỏ vỏ sẽ hao phí nhiều, nhưng nếu đun rễ chưa chín lượng dược liệu

giảm. Thường người ta xác định độ chín khi luộc bằng cách khi chưa luộc có mùi

tanh của đất, vị đắng nhưng khi chín có mùi thơm, bớt đắng. Có thể dùng móng

tay bấm được là chín. Luộc xong vớt ra ngay cho vào nước nguội để khỏi chín

quá, sau dễ bóc vỏ. Cạo vỏ bằng cách dùng thanh tre cật vót cạo hết lớp vỏ ngoài

cho đến lớp vỏ trắng. Khi cạo vỏ phát hiện có những chỗ sâu bệnh cần gọt vỏ, và

112

phải cạo nhẹ tay để lớp vỏ bỏ đi không bị hao hụt nhiều. Cạo vỏ xong, cắt bỏ đầu

đuôi, cắt thành khúc dài 10-13cm rồi xếp thẳng đem phơi (Trung Dược Đại Từ

Điển).

Phơi rễ chia làm 3 giai đoạn:

- Phơi nhiều, ủ nhiều: rải Bạch thược ra chiếu, hoặc phân đan phơi nắng cứ 20

phút trở một lần, đến giờ chiều đem vào xếp thành đống trên phủ chiếu, ngày mai

lại đem phơi, tối lại ủ, phơi ủ như vậy 4-5 ngày là xong, và chuyển sang giai đoạn

hai.

- Phơi ít, ủ nhiều: Hàng ngày đến 9 giờ mới đem phơi, 3 giờ chiều cất vào ủ.

Khi ủ đối với loại rễ to và trung bình thì phải ủ chiếu kín hoặc bao tải. Khi phơi cứ

30-40 phút trở một lần và ủ thấy rễ mềm ra lại đem phơi, cứ như vậy 8-10 ngày là

xong và chuyển sang giai đoạn 3.

- Phơi ngắn ủ dài: Mỗi ngày chỉ phơi 2-4 giờ, cách 40 phút trở 1 lần, còn ủ như

trên nhưng phải ủ 3-4 lớp bao tải, ủ cho đến khi lớp vỏ ngoài của rễ ướt lại, sau đó

đem phơi cho đến khi lớp vỏ thật khô, bấm móng tay không được nữa mới thôi.

Theo cách chế biến này thì ngày mùa hè phơi ít ủ nhiều, ngàu mùa thu phơi nhiều

ủ nhiều, ủ cho rễ mềm ra lại phơi, phơi xong rễ còn đang nóng ủ luôn, nếu chỉ

phơi không ủ thì bên ngoài rễ khô, bên trong còn ướt, để biến sang vị chua không

dùng làm thuốc được, hoặc bên ngoài vỏ biến thành đỏ chất lượng kém.

4) Cách bào chế của Sơn Đông: Dùng dao tre cạo vỏ ngoài cho thật trắng

nhưng không rửa nước để rễ không biến thành màu nâu hoặc đen. Cạo vỏ xong

ngâm rễ ngập trong nước giếng nửa ngày rồi mới luộc, ngâm rễ ngày nào thì luộc

rễ ngày đó. Ở Tứ Xuyên có nơi ngâm nước giếng pha trộn 50% nược sông thêm

loại rễ nhỏ Bạch thược đã giã nát, hoặc dùng bột ngô hòa với nước để ngâm rễ

Bạch thược, ngâm như vậy rễ giữ được màu (Danh Từ Dược Vị Đông Y).

Luộc: Đun nước sôi đổ rễ Bạch thược vào, đun khoảng 15-20 phút, khi thấy rễ

mềm, vặn cong được hoặc lấy rễ thấy bốc hơi, khô nhanh thì vớt ra. Mỗi chảo

113

nước chỉ luộc 2-3 mẻ rồi phải thay nước mới. Sau đó cắt bỏ đầu đuôi, chia thành

loại to, nhỏ, cắt ra thành khúc đem phơi.

Phơi: Luộc xong rải ra chiếu phơi ngay, cách 5-10 phút đảo 1 lần sau 1-2 giờ

lấy chiếu cuộn lại phủ chiếu lên trên, khi thấy rễ nguội lại tiếp tục rải ra phơi, phơi

trong 3 ngày buổi trưa nắng gắt phủ chiếu lại cho mát. Phơi cho đến khi gõ rễ

nghe tiếng kêu thanh thanh, chất thành đống đem ủ 2-3 ngày lại phơi tiếp 1-2 ngày

cho tới khi thật khô, phơi vậy vỏ không bị co lại và không chuyển qua màu hồng

(Danh Từ Dược Vị Đông Y).

BẠCH TRUẬT 白 朮

Theo Trung Dược Đại Tự Điển :

1) Thái rửa sạch, ngâm nước 4 giờ, ủ kín 12 giờ (hay có thể đồ khoảng 4 giờ)

cho mềm, thái hay bào mỏng, phơi khô (để dùng sống) hay tẩm bột Hoàng thổ rồi

mới phơi khô sao vàng, hoặc tẩm nước gạo đặc sao vàng. Có khi chỉ cần thái

mỏng, sao cháy.

2) Theo kỹ thuật chế biến của Trung Quốc hiện nay có hai phương pháp: Sấy

khô và Phơi khô. Thành phẩm của phương pháp sấy khô gọi là Bạch truật sấy, của

phương pháp sau gọi là Bạch truật phơi. Ư truật là một loại củ phơi khô.

a) Phơi khô: Đem củ tươi rủ sạch đất cát, cắt bỏ cây lá, đem phơi 15-20 ngày,

đến lúc khô kiệt thì thôi nếu gặp phải trời mưa thì nên rải ra chỗ râm mát, thoáng

gió, không nên dồn đống hoặc đóng vào sọt... nếu không củ dễ thối mốc.

b) Sấy khô: Đem củ đã đào về chọn lọc kỹ, đưa lên giàn sấy khô. Lò sấy thông

thường mỗi lần có thể sấy được 250 củ tươi. Lúc bắt đầu sấy cần to lửa và đều, về

sau khi vỏ củ đã nóng thì lửa nên nhỏ dần, sấy khô 5-6 giờ đảo trên xuống dưới,

dưới lên trên, để củ có thể khô đều, sau đó lại sấy 6 giờ, đến lúc củ khô được 50%

114

đem cắt, rửa củ cho dẹp, cắt bỏ rễ phụ, phân chia loại to nhỏ, củ to bỏ xuống dưới,

nhỏ bỏ trên, để được khô đều. Sấy vậy 8-12 giờ lúc củ khô độ 70-80% đem vào

sọt ủ 10-15 ngày, chờ cho nước trong giữa củ ngấm thấm ra ngoài, vỏ ngoài mềm

ra, lúc này có thể sấy lại lần cuối cũng thời gian độ 24 giờ. Các nơi ở tỉnh Hồ nam,

Hồ bắc sau khi sấy khô, lại đổ củ vào rổ sát cho vỏ bong sạch. Nói chung cứ 3, 5

kg củ tươi, sau khi sấy khô có thể thu được 1 kg củ khô.

. Chải, rửa sạch, ủ kín cho đến mềm, thái hoặc bào mỏng 1-2 ly, phơi khô

(Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).

. Sau khi bào, phơi tái, tẩm nước Hoàng thổ ( thường dùng ) hoặc tẩm mật sao

vàng (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).

. Sau khi thái mỏng, sao cháy (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).

BA KÍCH THIÊN 巴 戟 天

1/ Dùng nước Câu Kỷ Tử ngâm Ba Kích 1 đêm cho mềm, lấy ra ngâm rượu 1

đêm, vớt ra, sao với Cúc Hoa cho vàng thuốc, dùng vải lau sạch, để dành dùng

(Lôi Công Bào Chích Luận).

2/ Ngâm với rượu 1 đêm cho mềm, xắt nhỏ, sấy khô, để dành dùng ( Bản Thảo

Cương Mục).

3/ Dùng Cam Thảo, giã dập, sắc, bỏ bã. Cho Ba Kích vào nấu cho đến khi xốp

mềm, rút lõi, phơi khô. Liều lượng : 6kg Cam Thảo cho 100kg Ba Kích (Trung

Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển)

4/ Diêm Ba Kích : Trộn Ba Kích với nước Muối (20g Muối cho 1kg Ba Kích),

cho vào chõ, đồ, rút lõi, phơi khô (Trung Dược Đại Từ Điển).

5/ Rửa sạch , ủ mềm, bỏ lõi, thái nhỏ rồi tẩm rượu 2 giờ, sao qua hoặc nấu

thành cao lỏng [1ml = 5g] (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược Việt Nam).

115

CAM THẢO 甘 草

1/ Sinh thảo: Rửa sạch nhanh đồ mềm, xắt thành lát mỏng 2mm, khi còn nóng

nếu không kịp xắt thì nhúng ngay vào nước lạnh, ủ mềm cho dễ xắt, rồi sấy hoặc

phơi khô (Trung Dược Đại Từ Điển).

2/ Chích thảo: Sau khi sấy khô rồi tẩm mật ong (cứ 1kg Cam thảo phiến thì

dùng 200g mật pha thêm 200ml nước đun sôi), tẩm rồi sao vàng cho thơm. Hoặc

nếu dùng ít, có thể cắt khúc 5-10cm cuộn vài lần giấy bản nhúng qua nước sôi cho

đủ ướt, vùi vào tro nóng, khi thấy giấy khô hơi sém thì bỏ giấy, xắt lát mỏng

(Trung Dược Đại Từ Điển).

3/ Bột Cam thảo: Cạo sạch vỏ ngoài xắt miếng tròn sấy khô tán thành bột mịn.

+ Khi dùng Cam thảo nếu dùng rượu tẩm chưng từ giờ tỵ (9-11g) đến giờ ngọ

(11 – 13g) rồi lấy ra phơi nắng, giã nát để dùng (Lôi Công Bào Chích Luận) hoặc

xắt lát lấy sữa tẩm rồi sao giòn, đỏ, vàng mà dùng ((Bản Thảo Cương Mục).

+ Chích Cam thảo đều dùng nước chảy dòng sông sao tẩm đến khi nóng vàng,

khử đỏ đi là được hoặc dùng nước tương sao nóng, không có sữa tô để sao thì

chưng với rượu (Trung Dược Đại Từ Điển).

+ Theo kinh nghiệm Bào chế của Trung Quốc ngày xưa có 3 cách thức:

a) Phấn cam thảo: Cạo sạch vỏ, ngâm rượu độ 1 giờ, ủ độ 12 giờ, xắt mỏng

chừng 2 ly. Phơi khô.

b) Lão cam thảo: ngâm nước độ 4 giờ (mùa đông 8 giờ) ủ kín cho mềm xắt

mỏng phơi khô.

c) Chích cam thảo: Rửa qua ủ mềm, xắt mỏng, lấy mật ong cho thêm một phần

nước sôi tẩm vào Cam thảo vớt ra một lúc sao vàng không dính tay là đạt (Trung

Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

116

Cách dùng: Dùng sống có tác dụng thanh hỏa trong những chứng đau họng,

đinh nhọt. Dùng chích (sao mật) có tác dụng bổ trung, chữa những chứng Tỳ hư,

tiêu lỏng, Vị hư khát nước, Phế hư gây ho. Tẩm mật sao có Tác dụng nhuận bổ.

CÁT CĂN 葛 根

(1) Khúc củ: Ở Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến (Trung Quốc) người ta

đem củ về rửa sạch, lấy dao cạo sạch lớp vỏ thô xốp ở ngoài, xong cắt thành

những đoạn ngắn 13cm, xếp vào trong vại, dùng nước muối đặc (Cứ 100 đoạn Sắn

dây thì dùng 5kg muối pha với 10 kg nước), ngâm nửa ngày. Sau lại pha thêm một

ít nước (ngâm nước lúc ngập củ là được) ngâm đủ 1 tuần thì vớt ra, dùng sọt đem

ra sông ngâm 3-4 giờ vớt ra rửa sạch, phơi 2-3 ngày (Khô đi độ 6-7 phần) lại bỏ

vào hòm, xông Lưu hoàng trong hai ngày đêm, làm cho củ mềm và trong, tất cả

thành màu trắng bột không có lõi vàng nữa, thì có thể lấy đem phơi thật khô để

dùng hay bán. Có lúc phải dùng xông đi xông lại 3 lần, mỗi lần mất 1 ngày, phơi

hai ngày. Qua ba lần xông ba lần phơi như vậy rất phức tạp, lại khó xông cho củ

trở thành trắng trong, theo kinh nghiệm thì nếu loại củ nào xông một lần mà trong

ruột củ trắng trong là tốt nhất.

(2) Khoanh củ: Ở tỉnh Tứ Xuyên, tức là sau khi gọt bóc vỏ ngoài ra, cắt thành

miếng vuông dầy 1,7-3cm, đuôi củ nhỏ chỉ cắt khúc, sau khi dùng Lưu hoàng

xông thì đem sấy khô ngay là được.

(3) Miếng vuông: Cũng là một cách chế biến của tỉnh Tứ Xuyên, tức là sau khi

gọt bóc vỏ ngoài ra, cắt thành miếng vuông dầy (cạnh) 1,7-3cm, sau khi xông Lưu

hoàng xong đem sấy khô ngay là được.

(4) Ngoài ra có nơi đào về bóc bỏ lớp vỏ bên ngoài, cắt thành khúc dài 8-15cm

nếu đường kính quá lớn thì bổ dọc thành 2 nửa, có khi cắt lát thành từng miếng

dầy 0,5-1cm xông Lưu hoàng 3 lần, sau đó ngày phơi nắng, tối sấy Lưu hoàng cho

117

tới khô. Nếu muốn lấy bột thì say nhỏ gạn lấy tinh bột lọc đi lọc lại nhiều lần rồi

sấy hoặc phơi khô.

(5) Cách chế bột sắn dây: Cạo vỏ xay giã cả củ nát bấy, lọc lấy nước ở trong

đổ nước lạnh vào rồi lấy khăn mà lọc cho sạch xác, bụi bặm, đất, cát căn rồi để

lắng xuống mới gạn lọc nước trên cứ như thế mỗi ngày thay nước một lần, mỗi khi

đổ nước vào một lần phải lọc những nước đục đi, gạn lọc như thế 1 tháng đến khi

nào thấy nước trong khuấy không đục nữa thì thôi. Lọc càng kỹ bột nước mới khỏi

chua, chát, bột trắng, nhưng phải thay nước hàng ngày, bột không chua. Khi đã

xong đổ bột ra miếng vải băng để trên sạp khô phơi thành bột cất dùng.

CÁT CÁNH 桔 梗

Dùng Cát cánh nên bỏ đầu cuống, giã chung với Bách hợp sống, giã nát như

tương, ngâm nước 1 đêm xong sao khô (Lôi Công Bào Chích Luận).

Dùng Cát cánh cạo vỏ ngoài, tẩm nước gạo 1 đêm, xắt lát sao qua (Bản Thảo

Cương Mục).

Hiện nay dùng củ đào về cắt bỏ thân mềm rửa sạch ủ một đêm, hôm sau sắc lát

mỏng phơi khô dùng sống, có khi tẩm mật sao qua (Tùy theo đơn). Khi dùng làm

hoàn tán thì nên xắt lát, sao qua rồi tán bột mịn (Trung Dược Đại Từ Điển).

CÂU ĐẰNG 鉤 藤

Khi dùng cắt bỏ cành của nó đi, chỉ dùng toàn những móc câu thôi, dùng được

móc non càng tốt, không cần lấy thứ già, loại non sức mạnh hơn loại già.

Cách dùng: Dùng vào thuốc thang thì nên để riêng, sau khi sắc thuốc gần được

mới cho Câu đằng vào. Hoặc tán bột dùng trong cao đơn hoàn tán. Nhức đầu

chóng mặt dùng gai mấu, đau thần kinh tọa dùng rễ cây.

118

CÂU KỶ TỬ 枸 杞 子

1/ Lựa thứ quả đỏ tươi, tẩm rượu vừa đều để một hôm, giã dập rồi đem dùng.

2/ Thường dùng sống, có khi tẩm rượu sấy khô, hoặc tẩm mật rồi sắc lấy nước

đặc, sấy nhẹ cho khô, đem tán bột mịn.

CẨU TÍCH 狗 脊

Lấy về rửa sạch cắt bỏ rễ con, cuống lá và lông vàng phủ xung quanh thân rễ,

xắt mỏng phơi khô. Có khi đồ hơi nước rồi mới phơi, làm vậy nhiều lần. Có khi lại

còn đồ với đậu đen, đồ 9 lần, phơi 9 lần rồi cuối cùng xắt mỏng phơi khô.

. Rang cát nóng cho Cẩu tích đã xắt lát, rang cho sém hết lông còn sót lại, lấy

ra để nguội rửa sạch ngâm nước 1 đêm rồi đồ kỹ cho mềm, tẩm rượu 1 đêm rồi

sao vàng (Lôi công). Xắt lát sao hết lông rồi dùng (Lý Thời Trân).

CHỈ THỰC 枳 實

Giấp nước vào cho mềm, moi bỏ các múi và hạt ở trong rồi xắt nhỏ phơi khô

sao với gạo nếp hoặc cám (rồi bỏ cám đi), có khi sao cháy tồn tính rồi tán bột.

Cách dùng: Sao dòn có tác dụng tiêu tích, hạ khí, trừ đờm giúp tiêu hóa, sao

tồn tính có tác dụng cầm máu. Chỉ thực để lâu năm càng tốt.

CHỈ XÁC 枳 殼

119

Đem thấm nước cho mềm, bỏ xác múi và hạt ở trong đi rồi xắt mỏng phơi khô

trộn sao với nếp hoặc cám cho tới khi gạo vàng hoặc cám gần cháy đen rồi bỏ đi,

lấy Chỉ xác, Chỉ xác để lâu càng tốt.

CHI TỬ 枝 子

1/ Hái trái về bỏ tai và vỏ, chỉ lấy hạt, ngâm với nước sắc Cam thảo một đêm,

vớt ra phơi khô tán bột dùng (Lôi Công Bào Chích Luận).

2/ Trị bệnh ở thượng tiêu, trung tiêu thì dùng cả vỏ xác, trị hạ tiêu thì bỏ vỏ xác

rửa sạch nước màu vàng rồi sao mà dùng, trị bệnh thuộc huyết thì sao đen

dùng (Đan Khê Tâm Pháp).

3/ Sau khi hái về phơi hoặc sấy khô ngay, nếu sấy thì lúc đầu lửa to về sau nhỏ

dần, đảo trộn nhẹ để làm vỏ quả không bị trầy sát, cũng đề phòng tình trạng ngoài

khô trong ướt, dễ thối mốc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

4/ Quả chín kẹp lẫn với ít phèn chua, cho vào nước sôi cùng nấu độ 20 phút,

vớt ra phơi khô vỏ, lại sấy khô cho giòn. Khi dùng muốn dùng sống, sao hoặc đốt

cháy tùy từng trường hợp (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

CỐT TOÁI BỔ 骨 碎 補

Rửa sạch bỏ lá phơi khô, đốt nhẹ cho cháy hết lông nhỏ phủ trên rễ hoặc đồ

chín, phơi khô cất dùng.

Khi dùng lấy dao bằng đồng cạo lông vàng đỏ, xắt lát nhỏ, tẩm mật chưng một

đêm rồi phơi khô dùng, nếu dùng gấp thì sậy khô không chưng cũng được (Lôi

Công).

120

DÂM DƯƠNG HOẮC 淫 羊 藿

1/ Dâm Dương Hoắc: Lấy kéo cắt hết gai chung quanh biên lá, cắt nhỏ như sợi

tơ to, rây sạch mảnh vụn là dùng được.

2/ Chích Dâm dương hoắc: Dùng rễ và lá, cắt hết gai chung quanh rồi dùng

mỡ dê, đun cho chảy ra, gạn sạch cặn, cho Dâm dương hoắc vào, sao qua cho mỡ

hút hết vào lá, lấy ra ngay, để nguội là được [Cứ 50kg lá dùng 12,5kg mỡ Dê] (Lôi

Công Bào chế).

3/ Rửa sạch, xắt nhỏ, phơi khô, sao qua. Có thể tẩm qua rượu rồi sao qua càng tốt.

4/ Lúc hoa mới chớm nở, hái về, phơi nắng nhẹ hoặc phơi trong râm, dùng

tươi tốt hơn.

5/ Muốn để được lâu thì xông hơi Lưu hoàng 2-3 giờ, thấy hoa chín mềm là

được, rồi đem nén độ một đêm, thấy nước đen chảy ra, phơi khô cất dùng.

ĐẠI HOÀNG 大 黃

Đem nguyên củ ngâm vào nước lạnh, vớt ra rồi ủ vải bố ướt, sau 2-3 ngày xem

thấy ở giữa lõi mềm tới rồi thì lấy xắt hoặc bào lát mỏng phơi khô. Khi dùng có

thể dùng sống sao với rượu, sao cháy đen, hoặc chưng...tùy theo lương y.

Phép chế Đại hoàng có nhiều cách:

1/ Đem Đại hoàng chưng với rượu cho nát, phơi nắng, rồi tán bột, dùng mật

trộn vào chế thành từng viên nhỏ, phơi khô (Trung Dược Đại Từ Điển).

2/ Dùng Đại hoàng phiến thêm rượu chưng mấy lần là được (Dược Tài Học).

3/ Ngâm thuốc sống vào nước cho mềm, lấy ra, thái thành phiến, phơi khô.

Dùng sống hoặc sao với rượu, hoặc sao thành than hoặc hấp chế (Đông Dược Học

Thiết Yếu).

121

ĐÀO NHÂN 桃 仁

Một loại còn nguyên vỏ và đầu nhọn, khi dùng giã dập.

Một loại đã bóc vỏ và bỏ đầu nhọn di, khi dùng giã dập.

ĐỊA CỐT BÌ 地 骨 皮

1- Sau khi cắt thành từng đoạn ngắn bằng nhau, sắc nước Cam thảo ngâm một

đêm rồi vớt ra sấy khô (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Luận).

2- Chọn vỏ không còn lỏi, rửa sạch, xắt nhỏ phơi khô dùng sống, có khi tẩm

rượu sấy qua (Trung Dược Học).

ĐỖ TRỌNG 杜 仲

1- Gọt bỏ vỏ dày bên ngoài, mỗi cân dùng chừng 120g mật ong và 40g sữa tô,

hòa đều, tẩm kỹ

rồi sao cho thật khô là được (Lôi Công Bào Chích Luận).

2 - Gọt bỏ vỏ dày ngoài rồi xắt miếng nhỏ, tẩm nước muối sao cho đứt tơ là

được (Bản Thảo Cương Mục).

3 - Tẩm với rượu 40o trong 2 giờ sao vàng cho tới khi đứt tơ là được (Trung

Dược Học).

4 - Rửa sạch, cạo bỏ vỏ thô ở ngoài, cắt từng lát nhỏ 3-5kg, đeo nhau, tơ không

thể cắt được, như da rắn, phơi khô sẽ xấu, để vậy dùng sống hoặc ngâm rượu

(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

122

ĐƠN BÌ 丹 皮

1/ Rửa sạch, dùng dao con rạch một đường theo chiều dọc của rễ, bóc lấy vỏ bỏ

lõi, cắt thành đoạn dài 13 - 17cm ngâm vào nước sạch từ 10 - 15 phút, vớt ra sấy

khô. Có thể không cạo bỏ vỏ ngoài, chỉ bỏ lõi, khi dùng tẩm nước ủ mềm, xắt lát,

phơi khô dùng, có khi tẩm rượu sao qua,hoặc sao cháy tùy đơn thuốc (Trung Dược

Đại Từ Điển).

2/ Mua về rửa sạch bụi bặm, ủ mềm một đêm, nếu còn lõi thì bỏ đi. Bào lát

mỏng phơi trong râm mát. Có thể tẩm rượu, sao cháy tùy theo đơn.

ĐỘC HOẠT 獨 活

1/ Thái nhỏ, lấy Dâm dương hoắc trộn lẫn vào, ủ kín trong 2 ngày, phơi khô rồi

bỏ Dâm dương hoắc đi, để dùng cho khỏi xót ruột (Lôi Công Bào Chích Luận).

2/ Khi dùng cạo bỏ lớp vỏ hoặc sấy khô để dùng (Bản Thảo Cương Mục).

3/ Hiện nay thì sau khi thu hái, phơi khô, khi dùng rửa sạch để ráo nước bào mỏng

phơi khô trong râm mát. Không cần sao tẩm gì cả (Đông Dược Học Thiết Yếu).

HẠNH NHÂN 杏 仁

1/ Tẩm nước nóng, chà sạch vỏ, ngắt bỏ đầu nhọn, sao vàng, hoặc sao qua vơi

cám (Biệt Lục).

2/ Có thể để nguyên cả vỏ và đầu đầu nhọn, mục đích để phát tán (Bản Thảo

Cương Mục).

3/ Ngâm nước sôi 5 - 10 phút, xát bỏ vỏ, phơi khô. Khi bốc thuốc, đâm dập rồi

bỏ vào sắc (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Trị hư lao, ho lâu năm thì giã dập rồøi bọc trong giấy bản ép bỏ dầu.

123

- Dùng rơm khô một nắm, đem hạt Hạnh nhân gói vào trong đó, cuộn lại rồi

dùng chầy giã nhưng không được mạnh quá dễ làm vỡ nhân hạt, xong lắy Hạnh

nhân ra phơi khô, ngâm nước sôi rồi lột bỏ vỏ và đầu nhọn. Khi dùng giã nát

(Trung Dược Đại Từ Điển).

HẬU PHÁC 厚 撲

1/ Rửa sạch nhanh, cạo bỏ vỏ thô, xắt lát mỏng 2 - 3 ly, tẩm nước sữa tô (cứ 1

cân Hậu phác thì sao với 120g sữa tô), sao chín để dùng trong hoàn tán. Nếu dùng

trong thuốc thang để uống thì dùng nước cốt gừng (cứ 1 cân Hậu phác thì sao với

8 lượng nước gừng) cho khô (Lôi Công Bào Chích Luận).

2/ Cạo bỏ vỏ thô, rửa qua, lấy 2 vị Gừng sống, Tô diệp trộn vào, nấu chín rồi

bỏ Gừng và Tô diệp đi, cắt phiến, phơi trong râm cho khô để dùng (Trung Quốc

Dược Học Đại Từ Điển).

HOÀNG BÁ 黃 柏

1/ Hoàng bá tính hàn mà chìm, dùng sống thì tả thực hỏa, dùng chín khỏi hại

tới dạ dày, chế với rượu trị bệnh ở thượng tiêu, chế với nước trị bệnh ở hạ tiêu,

chế với mật trị bệnh ở giữa (Bản Thảo Cương Mục).

2/ Rửa sạch, vớt ra, ủ mềm, xắt thành sợi, phơi khô (Dược Tài Học).

3/ Cạo gọt bỏ lớp vỏ thô, thái phiến, dùng sống hoặc chế với rượu, hoặc chế

Gừng, hoặc sao đen thành than, hoặc tán nhỏ (Đông Dược Học Thiết Yếu).

4/ Diêm Hoàng Bá: Xắt thành sợi xong, tẩm nước muối cho ướt đều[50kg

Hoàng bá, dùng 1,4kg Muối, pha nước vừa đủ], dùng lửa nhỏ sao già, lấy ra, phơi

khô (Dược Tài Học).

5/ Tửu Hoàng bá: Hoàng bá xắt thành sợi xong tẩm với rượu (100kg Hoàng bá,

10kg Rượu), trộn đều, dùng lửa nhỏ sao qua, lấy ra, phơi khô (Dược Tài Học).

124

6/ Hoàng Bá Thán: Hoàng bá xắt thành sợi xong, cho vào sao to lửa thành mầu

đen xám nhưng còn tồn tính, phun nước cho ướt rồi bẻ ra, phơi khô (Dược Tài Học).

Cách dùng:

Rưả sạch ủ mềm, thái mỏng phơi khô (dùng sống), tẩm rượu sao vàng, hoặc

sao cháy hay sao với nước muối, hoặc tán bột đắp bên ngoài.

a) Dùng sống: Trị nhiệt lỵ, đi tả, lâm lậu, hoàng đản, xích bạch đới.

b) Tẩm rượu sao: Trị mắt đau, miệng lở loét.

c) Sao cháy: Lương huyết, chỉ huyết.

d) Sao nước muối: Vào kinh Thận.

HOÀNG CẦM 黃 芩

1- Hoàng cầm dùng rượu sao thì khí nó đi lên, sao với nước tiểu thì khí nó đi

xuống, sao với nước mật Lợn thì tả hỏa ở can đởm. Chữa những chứng nóng

thường thì dùng sống (Bản Thảo Cương Mục).

2- Thứ Khô cầm (có tác dụng tả phế hỏa), làm tiêu khí nóng ở da thịt) thì bỏ

đầu, bỏ ruột đen rửa sạch, ủ kín một đêm cho mềm, bào mỏng, 1-2 ly. Phơi khô

dùng sống. Sau khi phơi khô tẩm rượu 2 giờ sao qua (cách này thường dùng)

(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

3- Hấp chín bào mỏng phơi khô, dùng sống, sao với rượu, sao với Muối, sao

với nước Gừng, sao với mật Heo tùy theo phái của Thầy thuốc.

4- Trị bệnh ở phần trên thì sao với rượu. Tả hỏa ở Can, Đởm thì sao với nước

mật heo (Đông Dược Học Thiết Yếu).

HOÀNG KỲ 黃 耆

125

1- Cắt bỏ đầu, đồ lên nửa ngày, tước ra sợi nhỏ để lên mặt đá đập dập mà dùng

(Lôi Công bào chích luận).

2- Đập dập nát, tẩm mật Ong sao 3 lần, có khi tẩm muối đồ chín (Bản Thảo

Cương Mục).

3- Rửa sạch, ủ hơi mềm, xắt hoặc bào mỏng 1-2 ly. Sấy nhẹ hoặc phơi cho khô

(dùng sống). Hoặc sau khi làm khô đập nát tước nhỏ, tẩm mật rồi sao vàng (cách này

hay dùng gọi là Chích hoàng-kỳ). Hoặc ngâm mật Ong loãng 2-3 ngày cho thấm rồi

quấn giấy bản lùi vào tro, nếu làm ít, hoặc sao vàng.( Trung Dược Đại Từ Điển).

HOÀNG LIÊN 黃 連

1/ Cho Hoàng liên vào trong túi vải, xát cho sạch lông giã mát dùng, hoặc

ngâm trong nước tương 2 giờ vớt ra, sấy khô bằng gỗ liễu để dùng (Lôi Công Bào

Chích Luận).

2/ Chải sạch rửa tạp chất (không nên ngâm lâu sẽ mất chất), ủ đến vừa mềm,

thái mỏng phơi trong râm cho khô (dùng sống) hoặc tẩm rượu sao qua [dùng chín]

(Trung Dược Đại Từ Điển).

HÒE HOA 槐 花

1- Dùng Hòe hoa phải dùng vào lúc hoa chưa nở, để lâu năm càng tốt. Khi

dùng vào thuốc thì sao vàng để dùng.

2- Hái hoa lúc còn nụ, phơi hay sấy khô, dùng sống hay sao hơi vàng để pha

nước uống, hoặc cho vào nồi đất đun to lửa sao cháy tồn tính 7/10, để cầm máu

(Trung Dược Đại Từ Điển).

3- Bỏ cành lá, lấy nụ hoa cho vào thuốc sắc uống, hoặc sao cháy thành than

dùng hoặc tán nhỏ cho vào thuốc hoàn tán (Đông Dược Học Thiết Yếu).

126

4- Hòe Hoa Sao: Lấy Hoa hòe sạch, cho vào nồi, sao bằng lửa nhẹ cho đến khi

mầu hơi vàng, lấy ra để nguội là được (Dược Tài Học).

5- Hòe Hoa Thán: Lấy Hoa hòe, cho vào nồi, dùng lửa mạnh đun nóng, sao cho

đến khi gần thành mầu đen (tồn tính), phun ướt bằng nước sạch, lấy ra, phơi khô

(Dược Tài Học).

ÍCH MẪU THẢO 益 母 草

1- Thu hoạch lúc cây bánh tẻ ( chớm ra hoa), cắt lấy cây, để chừa 1 đoạn gốc

cách mặt đất khoảng 5-10cm để cây tiếp tục đâm chồi thu hoạch lần thứ 2, thứ 3.

Lúc trời khô ráo, cắt cây, phơi nắng hoặc sấy nhẹ cho khô.

2- Rửa sạch, bằm nát, tẩm rượu hoặc giấm, sao vàng (dùng trong thuốc thang),

hoặc nấu thành cao đặc. Tránh dùng dụng cụ bằng sắt (Phương Pháp Bào Chế

Đông Dược).

KÊ HUYẾT ĐẰNG 雞 血 藤

Rửa sạch, thái phiến, dùng sống ( Đông Dược Học Thiết Yếu).

Chọn thứ dây lớn và bé để riêng, ngâm thứ lớn độ 3 ngày, thứ bé ngâm 1~2 giờ

cho mềm, thái lát dày 2 ly, phơi khô

KHƯƠNG HOẠT 姜 活

Theo Trung Y: Cắt bỏ đầu, cạo vỏ, rửa sạch, sấy khô dùng (Lôi Công Bào Chế

Dược Tính Giải).

Thấm nước cho mềm đều, thái phiến mỏng, phơi khô (Đông Dược Học Thiết

Yếu).

Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa sạch, để thật ráo, thái mỏng, phơi râm.

Không có tẩm sao.

127

KINH GIỚI 荊 芥

1/ Bỏ tạp chất, rửa sạch, thái từng đoạn, phơi khô để dùng. Hoặc cho Kinh giới

vào nồi, chảo, sao đen, phơi khô, để dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).

2/ Chặt ngắn, phơi hoặc sấy nhẹ đến thật khô, hoặc sao cháy (Dược Liệu Việt

Nam).

LỘC NHUNG 鹿 茸

1/ Dùng dây trói hươu, treo cao khỏi mặt đất. Dùng cưa, cưa thật nhanh vào

gần sát đế sừng. Nhặt bỏ các chất bẩn bao quanh nhung đi, sau đó, lấy dây buộc

chặt phần đầu cưa lại. Cho đầu nhung cắt vào nồi nước sôi 3-4 lần , mỗi lần 15-20

phút, đến khi có bọt ở miệng cắt và nhung có mùi lòng đỏ trứng gà luộc chín thì

thôi. Thường khoảng 2-3 giờ. Sau đó phơi hoặc sấy khô. Ngày hôm sau lại làm

như vậy. Sấy ở nhiệt độ 70-80oC trong vòng 2-3 giờ rồi lấy ra. Làm như vậy 2-

3 lần cho thật khô là được (Trung Dược Đại Từ Điển).

2/ Sách ‘Đông Dược Học Thiết Yếu' giới thiệu cách chế biến đơn giản như sau:

Đốt cháy lông tơ, lấy mảnh thủy tinh cạo sạch rồ tẩm rượu nóng cho mềm, thái

thành từng phiến, phơi khô để dùng.

3/ Cưa lấy nhung từ chỗ cách đế nhung 3cm. Nhung cắt được cần chế biến

ngay vì với máu và chất thịt để lâu có thể bị thối rữa và có dòi bọ. Đem cặp nhung

ngâm vào rượu 1 đêm. Khi ngâm chú ý để chỗ cắt lên trên cho chất tốt trong

nhung không ra hết vào rượu. Hôm sau, rang cát cho vừa, đổ vào 1 cái ống , ở

giữa để cặp nhung ( để chỗ cắt lên phía trên ). Khi cát nguội lại đổ ra thay cát mới

rang vào. Mỗi lần thay cát lại nhúng nhung vào rượu cho rượu thấm vào. Làm

128

như vậy cho đến khi sừng khô. Cất đi để dùng. Hoặc chỉ tẩm rượu vào nhung rồi

sấy khô. Khô rồi lại tẩm rượu và lại sấy khô cho đến khi nhung khô kiệt là được.

Việc chế biến đòi hỏi khoảng 2-3 ngày. Một cặp nhung nặng 800g khi khô chỉ còn

chừng 250g. Tuy nhiên khi chế biến nếu không cẩn thận nhung có thể bị nứt, máu

chảy ra hết, giá trị làm thuốc sẽ giảm (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).

NHÃN NHỤC 龍 眼 肉

Chọn loại Nhãn lồng đã chín, cùi dày, ráo nước , đem phơi nắng to hoặc sấy

nhẹ ở nhiệt độ 40-500C đến khi lắc quả có tiếng kêu lóc cóc, mang ra, bóc vỏ lấy

cùi rồi sấy ở nhiệt độ 50-600C tới độ ẩm dưới 18%, cầm không dính tay là được.

Long nhãn đã chế biến rồi nhưng sợ để lâu có nhiễm trùng, nên đem chưng cách

thủy độ 3 giờ, sấy gần khô. Nếu dùng làm thuốc hoàn thì giã nát với bột thuốc

khác hoặc nấu nhừ lấy nước đặc, bỏ bã, cô đặc lẫn với mật mà luyện thuốc hoàn.

MẠCH MÔN 麥 門

1/ Tẩm nước nóng cho mềm, rút bỏ lõi. Muốn tán bột thì sau khi rút bỏ lõi, sao

nóng, để nguội, làm như vậy 3-4 lần thì khô dòn, tán bột được (Lôi Công Bào

Chích Luận).

2/ Chu mạch môn: Lấy Mạch môn cho vào chậu, phun vào ít nước cho hơi

mềm. Lấy bột mịn Chu sa rắc đều vào và trộn đều cho mặt ngaòi dính đều bột Chu

sa thì thôi. Lấy ra phơi khô là được (Dược Tài Học).

3/ Rửa sạch cho nhanh (không ngâm nước lâu), để ráo nước cho se vỏ, dùng nhíp

cùn rút bỏ lõi. Củ to thì bổ đôi, phơi khô hoặc sao qua, dùng (Dược Liệu Việt Nam).

129

MẠCH NHA 麥 芽

Theo Trung Y: Dùng thứ lúa mạch hột to, ngâm vào nước cho mềm thấu, vớt

ra để ráo nước, ủ độ 5 - 6 ngày cho hấp hơi nóng, mọc mầm rồi phơi khô, khi dùng

làm thuốc thì sao cho giòn, xát bỏ vỏ.

Theo kinh nghiệm Việt Nam: Ta không có và cũng không nhập mạch nha, nên

chỉ dùng đại mạch, sao qua cho vàng để dùng.

MA HOÀNG 麻 黃

1/ Cắt bỏ rễ, nấu sôi 10 dạ, vớt bỏ bọt, dùng (Lôi Công Bào Chế).

2/ Nấu giấm sôi, phơi khô (Lôi Công Bào Chế).

3/ Tẩm mật, sao. Trước hết cho 1 ít nước vào mật, quấy đều, đun sôi, trộn đều

Ma hoàng sạch, thái đoạn với nước mật, sao nhỏ lửa đến khi không dính tay là

được (Đông Dược Học Thiết Yếu).

4/ Thân cắt khúc 1-2 cm (dùng sống). Tẩm mật loãng hoặc tẩm giấm sao qua

(Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).

MỘC HƯƠNG 木 香

1/ Dùng để điều khí thì dùng sống. Nếu muốn cho ruột sáp lại thì bọc bột,

nướng chín dùng (Bản Thảo Cương Mục).

2/ Lấy rễ ngâm nước, vớt ra, trên ủ vải ướt. Khi nước ngấm vào mềm đều, thái

phiến, phơi khô, dùng sống hoặc trộn với bột mì bọc lại, đem nướng lên dùng

(Đông Dược Học Thiết Yếu).

130

3/ Rửa sạch, phơi trong râm cho khô. Thái mỏng, tán bột. Khi dùng, cho vào

nước thuốc đã sắc xong rồi, quấy đều, uống. Hoặc mài với nước thuốc thang đã

sắc rồi, uống (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).

MỘC QUA 木瓜

1/ Lấy Mộc qua đã khô, tẩm nước ủ một ngày đồ mềm, vừa đồ vừa thái (để

nguội thì cứng lại), phơi khô dùng sống hoặc tẩm rượu sao (Lôi Công Bào Chế

Dược Tính Giải).

2/ Dùng dao bằng đồng bóc bỏ vỏ và hạt, trộn với sữa bf 3 giờ rồi phơi khô để

dùng (Dược Phẩm Vậng Yếu).

3/ Quả chín hái về, cho vào nước sôi đun khoảng 5~10 phút, lấy ra, phơi hoặc

sấy cho vỏ nhăn, cắt dọc thành 2~4 miếng, phơi cho vỏ chuyển thành mầu đỏ là

được (Trung Dược Học).

4/ Ngâm nước một ngày, cho vào chõ hấp mềm, vừa hấp vừa thái phiến (nếu để

nguội sẽ cứng, khó thái, thái ra bị vỡ vụn) (Đông Dược Học Thiết Yếu).

5/ Bổ đôi, rửa sạch ủ một đêm, thái mỏng phơi khô. Dùng ít, đập dập (Phương

Pháp Bào Chế Đông Dược).

NGẢI DIỆP 艾 葉

1/ Phơi khô giã nát, bỏ gân xanh, cho vào ít bột lưu hoàng (lưu hoàng ngải),

dùng để cứu; cho ít bột gạo thì dễ giã nhỏ, dùng để uống (Lôi Công Bào Chế

Dược Tính Giải).

2/ Ngày Đoan ngọ (5-5 âm lịch), giờ Mùi (13-15g) ra vườn, lặng yên không nói

gì cả, cắt Ngải diệp đem về, phơi trong râm cho khô. Càng để lâu càng tốt (Trung

Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

3/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa sạch, thái ngắn phơi khô. Khi dùng ngải để

cứu (ngải nhung) thì phải sao qua, tán bột bỏ xơ.

131

Dùng tươi thì rửa sạch giã vắt lấy nước uống.

NGA TRUẬT 莪 朮

1/ Lấy chậu sành có đáy nhám đổ giấm vào mài Nga truật cho hết xong hơ trên

than lửa cho khô rồn lấy bột ấy dùng (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).

2/ Lùi vào tro nóng cho chín mềm, giã nát nhỏ, tẩm dấm sao (Bản Thảo Cương Mục).

3/ Đồ chín rồi phơi khô, xắc mỏng rồi phơi, hoặc trước khi xắc mỏng ngâm dấm

(cứ 600g Nga truật ngâm với 160g dấm và 160ml nước), đun đến cạn, mang ra bào

mỏng phơi khô. Nếu tứ chế được như Hương phụ thì càng tốt (Dược Tài Học).

Theo kinh nghiệm Việt Nam: Củ tươi: rửa sạch, thái lát phơi khô. Khi dùng

tẩm giấm hoặc nước đồng tiện một đêm, sao qua.

Củ khô: rửa sạch, đồ nhanh cho mềm rồi thái lát, tẩm sao như trên.

Tán bột (sau khi đã tẩm sao) để làm hoàn tán.

Bào chế như Hương phụ tứ chế thì rất tốt.

NGŨ GIA BÌ 五 加 皮

Theo Trung Y: Lấy vỏ rễ ngũ gia bì khô rửa sạch, ủ mềm, thái lát, tẩm rượu

hoặc tẩm nước gừng (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).

Theo kinh nghiệm Việt Nam: Vỏ lột về rửa sạch, cạo bỏ vỏ thô ở ngoài, phơi

râm, ủ lá chuối 7 ngày (thỉnh thoảng đảo cho đều) để dậy mùi thơm, rồi lấy ra

phơi nhẹ cho khô. Khi dùng thì lại rửa qua nếu bẩn, thái ngắn. Sấy nhẹ cho khô,

không phải tẩm sao (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).

Bóc vỏ, rửa sạch, phơi khô trong râm. Dùng sống hoặc rửa rượu rồi sao (Đông

Dược Học Thiết Yếu).

132

NHÂN TRẦN CAO 茵 陳 膏

Theo kinh nghiệm Việt Nam:

1/ Dùng ít, thu hái về rửa sạch,.phơi râm nơi thoáng gió cho khô, để lên giàn

bếp để Bảo quản.

2/ Lấy về khi có hoa, rửa sạch, phơi râm nơi thoáng gió cho khô, bó lại để chỗ

khô ráo, thoáng gió, sạch sẽ, khi dùng cắt ngắn.

3/ Có thể nấu cao với ích mẫu, hai thứ đều nhau (1ml - 10g dược liệu).

NGŨ VỊ TỬ 五 味 子

1/ Theo Trung Y:

a/ Lấy dao đồng bổ đôi, tẩm mật đồ 3 giờ, ngâm nước tương một đêm, sấy khô

dùng (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).

b/ Làm thuốc bổ thì dùng chín (Bản Thảo Cương Mục).

2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Tẩm mật, sao phồng đều, khi dùng giã dập.

Dùng trong hoàn tán thì sắc lấy nước đặc áo viên thuốc để tránh cố tinh.

Muốn thu liễm thì dùng sống. Muốn cho 5 vị đều xuất hiện thì nghiền nhỏ mà

dùng. Muốn bôt nhiều thì đập nát, chứng với mật và rượu, để tăng vị ngọt mà giải

bớt tính vị chua, liễm mạnh, nhanh của nó (Dược Phẩm Vậng Yếu).

NGƯU TẤT 牛 膝

1/ Cắt bỏ thân, rễ tơ, bó từng nắm, phơi đến khi nhăn khô, xông bằng Lưu

hoàng vài lần, cắt bằng đầu, phơi khô là được (Dược Tài Học).

2/ Rửa sạch, phơi khô trong râm. Dùng sống hoặc tẩm với rượu hấp qua rồi

dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).

133

NHÂN SÂM 人 參

1/ Tẩm rượu, ủ mềm, thái lát, lót giấy lên chảo sao nhỏ lửa cho khô (Lôi Công

Bào Chế Dược Tính Giải).

2/ Nếu cứng thì hấp cách thủy cho vừa mềm, thái lát mỏng 1mm, tẩm nước

Gừng, sao gạo nếp cho vàng rồi cho Nhân sâm vào, đảo qua, bắc chảo ra ngoài,

đảo thêm 1 lúc nữa là được. Sau khi bào chế có thể tán thành bột (Dược Liệu Việt

Nam).

3/ Hồng Sâm: chọn củ to, nặng trên 37g, rửa sạch, để nguyên cả rễ nhỏ, cho

vào nồi hấp trong khoảng 1g30 phút ở nhiệt độ 80-90oC. Sau đó sấy khô ở 40-

70oC trong 6-7 giờ, phơi nắng từ 7-15 ngày là được.

4/ Bạch Sâm: Củ Sâm không đủ tiêu chuẩn để chế thành Hồng Sâm thì chế

thành Bạch Sâm. Trước hết cắt bỏ rễ con, dùng dao tre cạo sạch vỏ, sau đó phơi

nắng cho kho hẳn (khoảng 7-15 ngày).

NHỤC THUNG DUNG 肉 蓯 蓉

1/ Để nguyên củ, đồ chín, phơi hoặc sấy khô hoặc có thể tẩm muối rồi phơi,

sấy khô. Khi dùng, rửa sạch, thái lát khoảng 1-2mm, phơi khô. Có thể đồ mềm cho

dễ thái (Dược Liệu Việt Nam).

2/ Thái phiến, trộn ngâm với rượu, bổ bỏ lõi trắng nếu có, đồ hoặc hấp để dùng

(Đông Dược Học Thiết Yếu).

3/ Nhục thung dung: Lấy Điềm Đại Vân, bỏ tạp chất, ngâm nước hoặc lấy

Diêm Đại Vân cho vào nước rửa sạch phần muối, vớt ra, sau khi thấm mềm đều,

cắt dọc thành lát, phơi khô (Dược Tài Học).

134

4/ Tửu Thung dung: Lấy Nhục thung dung sạch, cho rượu vào trộn đều (cứ

50kg Thung dung dùng 15kg rượu), cho vào trong bình thích hợp, đậy kín, chưng

cách thủy cho ngấm hết rượu, lấy ra, để khô (Dược Tài Học).

Ô DƯỢC 乌 药

1/ Hái thứ rễ bàng chung quanh có từng đốt nối liền nhau, bỏ vỏ, lấy lõi, sao

qua họăc mài (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

2/ Lấy rễ khô ngâm nước 1 ngày, vớt ra, ủ cho mềm, thái lát, phơi khô hoặc

mài (Trung Dược Học).

3/ Rửa sạch, ủ mềm, để ráo, thái lát, phơi khô hoặc tán thành bột mịn (Dược

Liệu Việt Nam).

PHÁ CỐ CHỈ 破 故 紙

1/ Theo Trung Y:

a/ Sao qua với ít nước muối rồi phơi nắng cất dùng (Lôi Công Bào Chế Dược

Tính Giải).

b/ Đem Bổ cốt chỉ ngâm rượu một đêm, vớt ra ngâm nước một đêm, vớt ra,

phơi khô tẩm muối (100kg Bổ cốt chỉ dùng 2,5kg muối) đun nhỏ lửa sao qua

dùng (Dược Tài Học).

2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam:

a/ Dùng sống cho vào thuốc thang.

b/ Có khi tẩm muối (2,5%) sao qua thấy phồng thơm là được, hoặc có khi tẩm

rượu sao qua tuỳ theo đơn (Phương pháp Bào Chế Đông Dược).

Ghi chú: Bổ cốt chỉ là một vị thuốc bằng hạt, vì tính nó ráo cho nên không bao

giờ dùng sống, có hại, dùng muối tẩm 1 đêm, đem sao khô dùng.

135

Tính của nó táo, độc vì vậy phải ngâm rượu 1 đêm, vớt ra dùng với nước chảy

phía đông 3 đêm ngày, chưng từ giờ Tỵ đến Thân rồi đem phơi nắng.

PHÒNG PHONG 房 風

1/ Chọn củ nào chắc mà lại nhuận là tốt. Cắt bỏ đầu đuôi đi, thái nhỏ, để dành

dùng dần (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

2/ Bỏ sạch lông bờm trên đầu cuống, phun nước cho mềm, thái phiến, phơi

khô, dùng sống hoặc sao lên dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).

3/ Rửa sạch, để ráo, thái mỏng, phơi khô (Dược Liệu Việt Nam).

QUẾ CHI 桂 枝

1/ Theo Trung Y: Gọt sạch bì thô. Với thuốc thang thì mài với nước thuốc, làm

thuốc hoàn tán thì tán bột.

2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam:

a/ Đối với quế thật tốt, chỉ mài trong bát sành với ít nước đun sôi để nguội,

hoặc với ít nước thuốc thang để uống.

b/ Làm nước hãm (quế thường): cạo bỏ bì thô, gọt thành miếng mỏng. Tẩm

nước đồng tiện 1 - 2 ngày đêm (để giáng hoả vì nóng quá xông lên hại mắt).

c/ Cho miếng quế đã tẩm vào cái chén có nắp, đổ nước sôi vào rồi róc ngay ra

bỏ đi, cho vào nước sôi khác, lần này để ngấm nguội rồi mới lấy ra uống. Uống

lần sau pha với nước khác mà dùng. Một lượt vỏ quế như thế có thể pha 2 - 3 lần.

QUY BẢN 龜 板

136

Chọn lấy thứ Quy bản lâu năm, rửa sạch vỏ và đất cát, giã nát, tẩm rượu

nướng hay sao vàng. Ngâm vào nước 3 ngày đêm. Dùng củi gỗ dâu mà nấu thành

cao (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).

Trước hết đem ngâm yếm rùa vào nước để gân thịt còn sót lại rữa ra rồi cạo

cho tróc hết. Có khi đun chín để loại thịt cho dễ. Sau đó dùng nước rửa sạch cho

đến hết mùi. Phơi khô, đập nhỏ, đun với nước, ba ngày ba đêm. Lọc loại bỏ bã,

nước lọc được đem cô đặc đổ vào khuôn, để nguội cắt thành từng miếng to nhỏ

tùy ý (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).

+ Cho ngâm vào nước, mỗi ngày thay nước một lần, chừng một tháng, đến khi

gân thịt sót lại rữa nát, rửa sạch phơi khô. Dùng sống, hoặc sao kỹ với cát, tẩm

dấm nướng vàng dòn để dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Theo kinh nghiệm Việt Nam: Nấu thành cao có bốn bước:

Bước 1: Làm sạch: lấy yếm ngâm vào nước phèn (15%) trong một đêm, vớt ra

đổ ngập nước đun sôi 1 - 2 phút.

Bước 2: Làm khô và đập dập: đem phơi hoặc sấy khô đập dập ra từng khớp, rồi

mỗi khớp đập ra thành 3 - 4 mảnh nhỏ.

Bước 3: Tẩm sao: lấy nước gừng (giã gừng nhỏ, thêm đồng trọng lượng nước,

vắt lấy nước) tẩm 1 đêm. Sao qua cho khô (thường dùng).

Có người đem hơ nóng yếm rùa, rồi nhúng vào giấm ( làm 3 lần) rồi mới đập

dập sao qua.

Bước 4: Nấu cao: cách nấu cao quy bản giống như cách nấu cao ban long.

Thường khi cô lại thì cô trên cát dày 5 – l0 cm ở 80o, lúc gần được phải quấy

liền tay.

Cao quy bản thường chỉ cô đến độ sệt còn róc ra được đóng vào chai, lọ sạch

40g hay 12g để tiện dùng. Loại cao này có thể để 3 năm không hỏng. Cao này có

mùi tanh và thơm.

137

Sở dĩ chỉ lấy cao Quy bản ở độ sệt vì nếu làm cao đặc như cao Ban long thì bị

mềm ra, nhất là mùa hạ thì lại càng chảy ra, hơn nữa các cụ cho rằng nấu đặc như

cao Ban long thì mất chất.

Kinh nghiệm ở Viện Đông y thì thấy rằng có thể nấu thành cao đặc như cao

Ban long được, cắt thành từng miếng 100g gói kỹ trong giấy bóng kính, mùa đông

miếng cao vẫn tốt, sang mùa hè có mềm hơn, nhưng không chảy nhũn ra được

Miếng cao này nếu đem để trong bình kín, dưới có lót vôi sống thì miếng cao rất

khô, cứng nhưng có cụ vẫn cho là nấu đến độ đặc như thế thì kém chất.

Để có thể cắt cao Quy bản thành miếng được, có nơi nấu chung yếm rùa với

gạc (l/2 Quy bản và 1/2 gạc, hoặc 3 Quy 1 gạc) gọi là Cao Quy Lộc Nhị Tiên.

Thường cứ 10 Kg yếm rùa chưa chế biến thì nấu được 1,80kg cao Quy bản ở

thể đặc (cắt thành miếng được, kinh nghiệm ở Viện Đông y).

- Thuốc phiến: lấy nước sôi rửa sạch yếm rùa bằng bàn chải. Phơi hoặc sấy

khô, sau đem nướng tồn tính (bẻ ra trong còn thấy vàng là được) lúcđang còn nóng

dúng vào giấm. Lại hơ qua cho nóng nhúng vào giấm lần nữa. Tán dập vụn.

SA NHÂN 砂 仁

1/ Theo Trung Y: Sao qua, xát bỏ vỏ mỏng, giã dập dùng hoặc để cả vỏ sao đen

dùng.

2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Để cả vỏ sao vàng (ăn không tiêu, trướng đầy).

Bỏ vỏ lấy hạt sao hơi sém cạnh (trị thuỷ thũng).

138

SÀI HỒ 柴 胡

1/ Sài Hồ: Chọn bỏ tạp chất, bỏ thân còn sót, rửa sạch cát, ủ mềm, cắt thành

miếng mỏng, phơi khô (Dược Tài Học).

2/ Thố Sài Hồ: Lấy 50kg Sài hồ đã cắt thành phiến, hòa đều với 6kg giấm

(thố), cho vào nồi, dùng lửa nhỏ nấu cho đến khi Sài hồ hút hết giấm và hơi khô

thì lấy ra, phơi khô (Dược Tài Học).

3/ Miết Huyết Sài Hồ: Lấy Sài hồ đã cắt thành phiến, cho vào chậu lớn, lấy

máu Ba ba (miết huyết) trộn với ít nước ấm đổ cho thấm đều vào Sài hồ, xong cho

vào nồi, dùng lửa nhỏ sao qua, lấy ra, đợi nguội là được (Dược Tài Học).

SƠN TRA 山 查

1/ Sơn tra: Rây cho hết hạt đã rụng là được.

2/ Sao Sơn tra: Cho Sơn tra vào nồi, sao nhỏ lửa cho đến khi mặt ngoài thành

mầu vàng nhạt, để nguội dùng.

3/ Tiêu Sơn tra: Cho Sơn tra vào nồi, sao to lửa cho đến khi mặt ngoài thành

mầu nâu, mặt trong mầu nâu vàng, phun nước, lấy ra là được.

4/ Sơn tra thán: Cho Sơn tra vào nồi, sao to lửa cho đến khi mặt ngoài thành

mầu đen nhưng còn tồn tính, phun nước, lấy ra phơi khô (Dược Tài Học).

SƠN THÙ DU 山 茱 萸

1/ Ngâm với rượu, bỏ hột đi, lấy vỏ và thịt quả sấy nhỏ lửa cho khô để dùng

(Đông Dược Học Thiết Yếu).

2/ Tửu Sơn thù: Trộn đều rượu với Sơn thù nhục (cứ 1kg Sơn thù, dùng 60ml

rượu), cho vào bình đựng, đậy kín, cho vào nồi nước, chưng cách thủy cho đến khí

hút hết rượu thì lấy ra, phơi khô (Dược Tài Học).

139

SA SÂM 砂 參

1/ Theo Trung Y: Nhặt bỏ tạp chất, bỏ đầu cuống, rửa sạch, ủ mềm, cắt ra từng

đoạn ngắn, phơi khô dùng.

2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Không được rửa, bẻ đoạn ngắn, dùng sống. Có

khi tẩm gừng sao qua (Phế hàn).

SƠN DƯỢC 山 藥

Củ Sơn dược, sau khi đem về, rửa sạch đất, ngâm vào nước sôi, dùng mảnh tre

mỏng cạo vỏ ngoài, cạo xong cho vào sấy Lưu huỳnh (Cứ 100kg Hoài sơn, dùng

0,5kg Lưu huỳnh), sấy khoảng 8-10giờ. Khi nước bốc hơi đi, củ sẽ mềm, đem

phơi hoặc sấy khô. Nếu thấy vỏ ngoài củ đã khô cứng thì ngưng phơi hoặc sấy mà

cho ngay vào khay sấy Lưu huỳnh, đậy nắp lại để sấy. Sấy Lưu huỳnh 24 giờ,

nước bốc đi, Hoài sơn lại mềm. Khi đó lại đem phơi hoặc sấy khô, khi thấy vỏ

ngoài đã khô mới thôi. Làm đi làm lại 3-4 lần cho đến khi khô hẳn là được. Khi

sấy khô, lửa không nên nóng quá, dễ cháy hoặc biến thành rỗng ruột. Trong quá

trình chế biến củ phải phơi, sấy nhiều lần để củ khô đều cả trong lẫn ngoài thì

phẩm chất mới tốt. Nếu sốt ruột muốn cho củ khô ngay thì sẽ bị hiện tượng trong

ướt ngoài khô, nước chưa bốc đi hết, trong giữa củ sẽ bị nát. Chế biến theo cách

trên thành phẩm gọi là ‘Mao Sơn Dược’ (Trung Dược Đại Từ Điển).

Ở tỉnh Tứ Xuyên có cách chế biến đơn giản hơn như sau : Đem củ về, cho vào

bể ngâm ( cứ 100kg Sơn dược tươi thì cho 1kg Lưu huỳnh với lượng nước ngập

củ là được. Ngâm 1 ngày 1 đêm vớt lên, rửa sạch, để khô, dùng Lưu huỳnh sấy

cho tới khi giữa củ mềm là được. Sấy xong lại đưa vào bể ngâm 1 ngày, phơi rồi

sấy bằng than là được (Trung Dược Đại Từ Điển).

140

Cách bào chế đơn giản là : Rửa sạch, thái phiến, dùng sống hoặc sao với cám (

Đông Dược Học Thiết Yếu).

Theo kinh nghiệm xuất khẩu của Việt Nam :

Muốn có Hoài sơn hình dáng đẹp, cần chế biến kỹ theo trình tự sau:

1- Sấy Lưu huỳnh lần thứ I : Sau khi gọt vỏ, đem xếp Củ mài vào lò sấy thưa

và đan nhau để cho hơi Lưu huỳnh tỏa đều trên dược liệu ( cứ 100kg Củ mài, dùng

2kg Lưu huỳnh). Sấy 2 ngày 2 đêm, cần ủ lại 1 đêm rồi phơi nắng nhỏ hoặc sấy

nhẹ cho khô. Đem ngâm nước lã 2 ngày 2 đêm rồi rửa sạch và phơi nắng đến khô.

2- Sấy Lưu huỳnh lần 2 : Xếp Hoài sơn vào lò sấy như lần trước rồi đốt Lưu

huỳnh 1 ngày 1 đêm ( 100kg củ dùng 1kg Lưu huỳnh), đến khi dược liệu mềm

như chuối, đem ủ trong vại, đậy bằng bao tải có nhúng nước. Đợi 1 ngày 1 đêm.

Đem củ ra sửa cho đều rồi đặt lên ván mà lăn cho đến khi 2 đầu dược liệu lõm

vào, đem phơi hoặc sấy nhẹ cho gần khô, sửa và lăn lại lần nữa cho có hình dáng

đẹp, mặt ngoài nhẵn bóng rồi phơi thật khô. Nhúng nhanh vào nước, dùng giấy

nhám đánh cho bóng.

3- Sấy Lưu huỳnh lần thứ 3 : trước khi đóng vào thùng, lại sấy Hoài sơn 1 lần

với Lưu huỳnh nữa ( 100kg Củ mài dùng 200g Lưu huỳnh, sấy trong 1 ngày 1

đêm) rồi phân loại :

. Loại nhất : 4 khúc. . Loại bốn : 10 khúc.

. Loại nhì : 6 khúc. . Loại năm : 12 khúc.

. Loại ba : 8 khúc. . Loại sáu : 14 khúc.

( cho 500g trọng lượng ).

Hoài sơn tốt phải có mầu trắng bóng, không vàng, chất củ rắn chắc, không xốp,

không có vết lỗ chỗ, không bị sâu mọt (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).

TAM THẤT 三 七

141

1/ Theo Trung Y: Mùa nắng hoặc mùa đông, đào lấy củ đem về rửa sạch, phơi

khô khi dùng thái lát, tán bột.

2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Có thể dùng tươi, rửa sạch, giã đắp lên vết

thương. Rửa sạch, phơi khô, khi dùng tán bột hoặc mài với nước mà uống, không

dùng sắc và không sao tẩm gì. Rửa kỹ bằng bàn chải, để ráo, ủ rượu cho mềm, bào

phiến mỏng, sấy nhẹ cho khô đựng trong lọ kín, khi dùng hãm riêng rồi hoà vào

chén thuốc đã sắctới cho uống. Có người rửa kỹ để ráo, ủ rượu 3 giờ cho mềm,

thái mỏng sao qua (vi sao), tán bột để dùng.

TANG BẠCH BÌ 桑 白 皮

1/ Theo Trung Y:

a/ Dùng dao đồng cạo hết vỏ vàng xanh, thái nhỏ, sấy khô (Lôi Công Bào

Chích Luận).

b/ Tẩm mật ong sao.

2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam:

a/ Rửa qua, cạo sạch hết vỏ xanh và vàng ngoài, thái mỏng 2 - 3 ly, phơi khô

(dùng sống).

b/ Sau khi phơi khô, tẩm mật ong sao vàng (1kg vỏ rễ tẩm độ 150g mật đã pha

loãng 1/2 với nước).

c/ Cạo bỏ vỏ mỏng bên ngoài, lấy phần trắng, đồ cho mềm đều, thái hoặc tước

ra hoặc tẩm mật sao lên dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).

TANG DIỆP 桑 葉

Theo Trung Y: Hái lá dâu vào cuối mùa xuân lúc đương xanh tốt hoặc hái vào

cuối thu lúc lá đã rụng 2/3, gọi là ‘lá thần tiên’. Phơi râm hợp lẫn với nhau.

142

Theo kinh nghiệm Việt Nam: Hái về rửa sạch, vẩy ráo nước, phơi râm cho khô

giòn, chà xát bỏ gân, cọng lá (dùng sống), hoặc có thể tẩm mật (ít dùng), sao qua

cho thơm, tuỳ theo thầy thuốc.

Dễ tán thành bột mịn làm hoàn tán.

TẦN GIAO 秦 艽

Theo Trung Y: Dùng Tần giao lấy vải chùi sạch lông vàng trắng, ngâm nước

một đêm rửa sạch phơi khô dùng (Lôi Công Bào Chích Luận).

Theo kinh nghiệm Việt Nam: Bỏ cuống, lần ra cho khỏi rối, nhặt bỏ tạp chất,

rửa sạch cắt khúc ngắn phơi khô (thường dùng) sau đó có thể tẩm rượu dùng.

THẠCH XƯƠNG BỒ 石 菖 蒲

Theo Trung Y: Không dùng thứ ‘nê xương’, ‘hạ xương’ rễ như rễ tre, màu đen,

vị tanh.

Chỉ dùng thứ mọc ở trên đá, rễ non vàng nhạt, một tấc có chín đốt là đúng và

tốt (Cửu tiết xương bồ). Cạo bỏ vỏ lấy cành Dâu trộn lẫn đồ chín, thái lát phơi khô

(Lôi Công Bào Chích Luận).

Rửa sạch, ủ mềm thái lát dùng hoặc sao qua.

Theo kinh nghiệm Việt Nam: Nếu còn đất, rửa sạch, ủ một đêm, bào, phơi khô.

THANH BÌ 青 皮

Ngâm với nước cho mềm, cắt ra từng miếng, phơi khô ngay là dùng được.

143

THỔ PHỤC LINH 土 茯 苓

Theo kinh nghiệm Việt Nam: - Rửa sạch, ủ hai ba ngày cho mềm, thái hoặc

bào mỏng độ 2 ly. Phơi khô (thường dùng).

- Nấu thành cao lỏng (1ml = 5g dược liệu).

- Làm bột: rửa sạch, ủ mềm, giã nhỏ, hoà với nước rồi chắt lấy nước, để lắng,

gạn lấy bột, làm nhiều lần như vậy. Bột đem sấy khô.

THƯƠNG TRUẬT 蒼 朮

Ngâm nước gạo cho mềm, thái phiến, sao khô (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Chích Thương truật: Lấy Thương truật phiến, rẩy nước vo gạo vào cho ướt đều,

cho vào nồi sao nhỏ lửa cho hơi vàng. Hoặc lấy Thương truật tẩm nước vo gạo rồi

vớt ra, cho vào nồi hấp (đồ) cho chín, lấy ra phơi khô là được (Dược Tài Học).

THƯƠNG NHĨ TỬ 蒼 耳 子

1/ Theo Trung Y: Hái lấy quả, phơi khô, khi dùng sao chín giã bỏ hết gai hoặc

tẩm rượu đồ chín.

2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa sạch phơi khô, sao cháy, hết gai, xát (bằng

găng tay), sẩy bỏ gai, giã dập khi bốc thuốc thang.

Tán bột làm hoàn tán hoặc nấu cao lỏng (1ml = 4g dược liệu)

TRẠCH TẢ 澤 潟

Trạch tả: Ngâm nước thấm 8 phân, vớt ra, phơi khô.

Diêm Trạch tả: Phun đều nước muối vào miếng Trạch tả cho ẩm (cứ 50kg

Trạch tả dùng 720g muối), rồi cho vào nồi, sao qua nhỏ lửa cho đến khi mặt ngoài

thành mầu vàng, lấy ra phơi khô (Dược Tài Học).

144

TRI MẪU 知 母

Theo Trung Y: Trước hết tước nhỏ, đốt cho cháy lông và khô, rồi bỏ vào cối

giã, không dùng đồ sắt (Lôi Công Bào Chích Luận).

Chọn thứ béo mềm, trong ruột trắng, cạo bỏ lông, thái lát, cho đi lên thì tẩm

bột sao khô (Bản Thảo Cương Mục).

Theo kinh nghiệm Việt Nam: Sao cho cháy lông, chà bằng vải cho sạch. Cạo

lại, rửa sạch ủ đến mềm, thái miếng mỏng, sấy nhẹ cho đến khô. Tẩm rượu

(thường dùng) hoặc tẩmmuối hay gừng tuỳ theo đơn.

TRẦN BÌ 陳 皮

1- Rửa sạch, phơi khô, thái nhỏ, dùng sống hoặc sao, càng để lâu càng tốt

(Đông Dược Học Thiết Yếu).

2- Rửa sạch (không rửa lâu), lau, cạo sạch phía trong, thái nhỏ, phơi nắng vừa

cho khô. Sao nhẹ lửa để dùng (trị nôn, dạ dầy đau). Có khi tẩm mật ong hoặc

muới, sao qua để dùng [trị ho] (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).

TỤC ĐOẠN 續 斷

1/ Theo Trung Y: Ngâm nước một lúc, ủ mềm thấu, thái lát phơi khô (dùng

sống) hoặc tẩm rượu sao dùng.

2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa sạch thái mỏng, phơi khô (thường dùng).

Có khi tẩm rượu sao qua (trị đau xương).

Ngâm rượu uống với các thuốc khác.

145

UY LINH TIÊN 威 靈 仙

1/ Theo Trung Y: Rửa sạch, bỏ tạp chất, ngâm nước cho mềm, vớt ra cắt từng

khúc 2cm, phơi khô dùng; hoặc tẩm rượu, ủ thấu, sao nhỏ lửa cho khô, để nguội

dùng.

2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Bỏ tạp chất, rửa sạch, ủ kín độ 12 giờ (không

được ngâm nước) cắt ra từng khúc 3cm phơi khô.

Tuỳ từng trường hợp tẩm rượu, giấm, mật, gừng rồi sao qua.

VIỄN CHÍ 遠 志

1/ Bỏ lõi, sao lên dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).

2/ Chích Viễn chí: Lấy Cam thảo cho vào nồi, đổ thêm nước, nấu bỏ bã, cho

Viễn chí vào (Cứ 5kg Viễn chí dùng 100g Cam thảo), nấu vừa lửa cho hút hết

nước cốt Cam thảo, lấy ra để khô là được (Dược Tài Học).

XÍCH THƯỢC 赤 芍

Theo Trung Y: Ủ mềm thái mỏng (dùng sống). Có thể tẩm rượu hoặc tẩm dấm

sao.

Theo kinh nghiệm Việt Nam:

- Rửa sạch, ủ cho đến mềm thấu, thái lát, hoặc bào mỏng. Sấy hoặc phơi khô

(dùng sống).

- Sau khi bào thái mỏng sấy khô, tẩm rượu 2 giờ rồi sao, hoặc tẩm dấm sao.

XUYÊN KHUNG 川 芎

146

1/ Lấy Xuyên khung khô ngâm nước 1 giờ, ủ kín độ 12 giờ cho mềm, thái lát

dầy 1mm, phơi khô. Xuyên khung ngâm rượu: Thái Xuyên khung ra từng lát

mỏng, ngâm với rượu (cứ 640g Xuyên khung, dùng 8 lít rượu), sao với lửa hơi

nóng cho hơi đen, lấy ra để nguội (Trung Dược Đại Từ Điển).

2/ Ngâm nước rồi gạn đi, ủ lại cho mềm là được, thái phiến, phơi khô, dùng

sống hoặc ngâm rượu để dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).

3/ Rửa sạch, ủ 2-3 ngày cho đến khi mềm, củ nào chưa mềm, ủ lại ( không nên

đồ vì dễ bị nát, bay hết tinh dầu), thái lát hoặc bào mỏng 1-2 mm, phơi hoặc sấy

nhẹ lửa (40-50o), Nếu dùng sống, sau khi thái có thể sao qua cho thơm hoặc phơi

khô rồi tẩm rượu 1 đêm, vi sao (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).

XẠ CAN 射 干

1/ Lấy nước ngâm mềm, thái nhỏ, phơi khô (Đông Dược Học Thiết Yếu).

2/ Dùng tươi: rửa sạch, giã với ít muối, ngậm. Dùng khô: mài thành bột trong

bát nhám, uống với nước (Dược liệu Việt Nam).

XUYÊN SƠN GIÁP 川 山 甲

Theo Trung Y: Dùng Xuyên sơn giáp thì có thể nướng phồng, đốt cháy, tẩm

mỡ, giấm, nước tiểu trẻ em hoặc dầu mè, rồi nướng hoặc sao với đất, với bột hến

(cáp phấn) tuỳ từng trường hợp không bao giờ dùng sống (Bản Thảo Cương Mục).

Theo kinh nghiệm Việt Nam: Lấy nước vôi lỏng (độ 5 lít nước với 20g vôi tôi

rồi) ngâm 1 ngày. Lấy ra xóc rửa cho kỹ nhiều lần. Để khô, lấy cát rang nóng cho

vảy Tê tê vào, sao cho phồng lên và vàng đều, đựng kín. Khi dùng tẩm giấm hoặc

nước tiểu trẻ em tuỳ theo đơn, giã dập dùng trong thuốc thang hoặc tán bột với các

thuốc khác làm hoàn.

147

Tại Viện Đông y: rửa sạch, để khô, tẩm dấm, sao cho phồng và vàng đều (cách

này thường dùng).

Ý DĨ NHÂN 意 苡 仁

Dùng sống hoặc sao với cám (cứ 50kg Ý dĩ dùng 5kg cám), sao cho hơi vàng ,

bỏ cám đi, để nguội dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).