Upload
dangnhan
View
232
Download
7
Embed Size (px)
Citation preview
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
1
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
I. Khái niệm và đặc trƣng của kinh tế học
1. Khái niệm về kinh tế học
1.1. Khái niệm
* Lịch sử hình thành:
Khoa học kinh tế hình thành từ cuối thế kỷ XVIII. Tác phẩm mở đường
“Bàn về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia” của Adam Smith xuất
bản năm 1776 đánh dấu sự hình thành khoa học kinh tế.
Năm 1936, John Maynard Keynes - nhà kinh tế học người Anh đã đưa ra
lý thuyết chống lại lý thuyết của Adam Smith. Đây cũng là năm đánh dấu sự
hình thành kinh tế học vĩ mô. Keynes đã đưa ra 2 quy luật: trật tự của tự nhiên
và trật tự kinh tế - xã hội. Theo ông, hai trật tự kinh tế này hoàn toàn tồn tại
khách quan. Khác với quan điểm bàn tay vô hình của Adam Smith, Keynes đưa
ra quan điểm bàn tay hữu hình. Theo ông sự vận động của nền kinh tế cần có sự
can thiệp của Nhà nước, của Chính phủ.
Các vấn đề kinh tế xuất hiện do chúng ta mong muốn nhiều hơn so với cái
mà chúng ta có thể nhận được. Chúng ta muốn một thế giới an toàn và hoà bình.
Chúng ta muốn có không khí trong lành và nguồn nước sạch. Chúng ta muốn
sống lâu, sống khoẻ. Chúng ta muốn sống trong một căn hộ rộng rãi và đầy đủ
tiện nghi. Chúng ta muốn có thật nhiều thời gian để thưởng thức âm nhạc, chơi
thể thao, đi du lịch, giao lưu với bạn bè,…
Nhưng mỗi thứ mà chúng ta nhận được lại bị hạn chế bởi thời gian và thu
nhập hiện có. Kết quả là mọi người luôn có những mong muốn không được thoả
mãn. Việc chúng ta thất bại trong việc thoả mãn mọi mong muốn được gọi là
khan hiếm. Cả người giàu và người nghèo đều đối mặt với khan hiếm. Một nhà
triệu phú muốn chơi golf vào cuối tuần và ông ta cũng muốn tham dự buổi hội
thảo kinh doanh cũng vào cuối tuần. Nhà triệu phú cũng đối mặt với sự khan
hiếm. Một xã hội muốn xây dựng nhiều đường giao thông, cung cấp dịch vụ y tế
tốt hơn, làm sạch các dòng sông bị ô nhiễm,…Xã hội cũng đối mặt với sự khan
hiếm. Đứng trước sự khan hiếm, chúng ta phải lựa chọn. Chúng ta phải lựa chọn
giữa các phương án sẵn có. Em bé trong ví dụ trên phải lựa chọn hoặc ăn kem,
hoặc ăn kẹo cao su. Nhà triệu phú phải lựa chọn hoặc chơi golf, hoặc tham dự
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
2
hội thảo. Với tư cách là xã hội, chúng ta phải lựa chọn giữa đầu tư vào cơ sở hạ
tầng với chăm sóc sức khoẻ, quốc phòng, môi trường,…
Kinh tế học ra đời xuất phát từ sự khan hiếm.
* Khái niệm: Có thể nói kinh tế học từ khi ra đời cho đến nay đã trải qua nhiều phát
triển và cũng đã xuất hiện khá nhiều định nghĩa. Theo Paul A. Samuelson và William
D. Nordhaus: “Kinh tế học là khoa học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào
nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra những hàng hoá cần thiết và phân phối
cho các thành viên của xã hội”.
Từ khái niệm trên, chúng ta cần chú ý:
+ Kinh tế học là một môn khoa học nên trước hết đòi hỏi phải đảm bảo tính
khách quan. Tuy nhiên, cũng như các môn khoa học xã hội khác, kinh tế học
không phải là môn khoa học chính xác nên nó không thể tách rời hoàn toàn quan
điểm chủ quan trong nội dung nghiên cứu.
+ Nội dung cơ bản của kinh tế học là nghiên cứu cách thức sử dụng nguồn
tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra một số loại hàng hoá và dịch vụ cần thiết đáp
ứng nhu cầu của nền kinh tế.
+ Mục tiêu cuối cùng của khoa học kinh tế là nhằm thoả mãn nhu cầu ngày
càng tăng của nền kinh tế. Muốn thoả mãn được nhu cầu đòi hỏi sản xuất phải được
tăng trưởng. Do đó, nghiên cứu tăng trưởng kinh tế là một nội dung quan trọng của
kinh tế học. Tuy nhiên, trong quá trình tăng trưởng kinh tế dài hạn lại nảy sinh vấn
đề cân bằng và mất cân bằng, tạo nên sự dao động ngắn hạn của nền kinh tế. Sự dao
động này làm cho nền kinh tế kém hiệu quả và tăng trưởng chậm. Muốn có hiệu
quả cao và tăng trưởng nhanh đòi hỏi phải hạn chế mức độ dao động đó. Song nền
kinh tế ổn định, hiệu quả cao và tăng trưởng nhanh chưa chắc đảm bảo thoả mãn tốt
nhất nhu cầu của dân chúng, khi mà sự phân phối những thành quả đó còn bất hợp lý.
Chính vì vậy, kinh tế học phải giải quyết vấn đề phân phối thu nhập nhằm tạo ra sự
công bằng trong việc hưởng thụ những sản phẩm mà nền kinh tế tạo ra.
Kinh tế học thường được chia thành hai phân ngành lớn là kinh tế học vi
mô và kinh tế học vĩ mô.
1.2. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô
- Kinh tế học vi mô (Microeconomics): Nghiên cứu, phân tích nền kinh tế ở
giác độ chi tiết, bộ phận riêng lẽ, nghiên cứu hành vi ứng xử của người tiêu dùng
và người sản xuất nhằm lý giải sự hình thành và vận động của giá cả từng sản
phẩm trong từng loại thị trường khác nhau.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
3
+ Quan tâm đến người bán và người mua.
+ Quan tâm đến thị trường hàng hoá cá biệt.
- Kinh tế học vĩ mô (Macroeconomics): Nghiên cứu, phân tích nền kinh tế
một cách tổng thể, thông qua các biến số: tổng sản phẩm quốc gia (GNP), tỷ lệ
lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, lượng cung tiền trong nền kinh tế, cán cân thanh toán,
tỷ giá hối đoái,…Trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm ổn định và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
+ Quan tâm đến vấn đề chung của nền kinh tế (sản lượng).
+ Quan tâm đến vấn đề tổng thể, không đi sâu vào hành vi của người bán,
người mua, không đi sâu vào cung cầu cụ thể.
Nếu kinh tế học vi mô quan tâm đến lượng cung, lượng cầu thì kinh tế học
vĩ mô quan tâm đến tổng cung, tổng cầu.
Cả kinh tế hcọ vi mô và kinh tế học vĩ mô đều quan tâm đến:
- Sản lượng: Vi mô: Ký hiệu sản lượng là Q: đo lường bằng hiện vật hay giá trị.
Vĩ mô: Ký hiệu sản lượng là Y: chỉ định bằng giá trị → Vì sao??
Do sản lượng trong nền kinh tế vô cùng phong phú và đa dạng, khác nhau quá xa
về hình thức nên chỉ tính bằng giá trị ( Không thể cộng xe máy với trâu, bò,…)
- Giá: Cả vi mô và vĩ mô đều ký hiệu giá là P.
Nhưng trong vi mô: đơn giá (bao nhiêu đồng/1 sản phẩm)
Vĩ mô: mức giá chung.
Tên giống, ký hiệu giống nhưng bản chất khác nhau.
So sánh kinh tế vi mô và vĩ mô:
Vi mô Vĩ mô
1. Chủ thể Doanh nghiệp, người tiêu
dung
Chính phủ hay chính
quyền ở các địa phương
2. Đối tượng Thị trường hàng hoá cá
biệt (cung, cầu 1 sản
phẩm)
Thị trường của quốc gia,
địa phương (tổng cung,
tổng cầu)
3. Chỉ tiêu đánh giá kết quả - Lợi nhuận (DN, người
bán)
- Độ thoả dụng (lợi ích)
- Tỷ lệ lạm phát
- Tỷ lệ thất nghiệp
Cách tiếp cận cơ bản trong kinh tế học vĩ mô là xem xét những xu hướng
chung của nền kinh tế chứ không phải là các vấn đề liên quan đến từng đơn vị
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
4
kinh tế đơn lẽ hay từng đơn vị hành chính. Các câu hỏi lớn của đời sống kinh tế
được kinh tế vĩ mô tìm cách giải đáp như: Điều gì làm cho một nước giàu hơn hay
nghèo đi theo thời gian? Các công dân của một nước sẽ tiết kiệm bao nhiêu cho
tương lai? Tại sao mức giá ở một số nước có xu hướng tăng nhanh trong khi ở các
nước khác giá cả lại ổn định hoặc tăng chậm?,…
Một nội dung lớn trong kinh tế học vĩ mô là nghiên cứu các chính sách của
Chính phủ có ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động chung của nền kinh tế. Đa số
các nhà kinh tế vĩ mô cho rằng những thay đổi trong các chính sách kinh tế vĩ mô
có ảnh hưởng rộng khắp và có thể dự tính được chiều hướng chung trong mức sản
xuất, việc làm, mức giá chung và thương mại quốc tế. Nhiều nhà kinh tế cho rằng
chính phủ cần chủ động sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để cải thiện thành
tựu kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế khác lại cho rằng mối liên kết
giữa các chính sách này với nền kinh tế là không ổn định và không dự tính được
nên không thể sử dụng để quản lý nền kinh tế.
Kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau. Vì những thay đổi trong toàn bộ nền kinh tế phát sinh từ các quyết định của
hàng triệu cá nhân, nên chúng ta không thể hiểu được các hiện tượng kinh tế vĩ
mô nếu không tính đến các quyết định kinh tế vi mô. Chẳng hạn, một nhà kinh tế
vĩ mô có thể nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp cắt giảm thuế thu nhập đối với
mức sản xuất hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế. Để phân tích vấn đề này, nhà
kinh tế vĩ mô phải xem xét ảnh hưởng của biện pháp cắt giảm thuế đối với quyết
định chi mua hàng hoá và dịch vụ của các hộ gia đình.
Mặc dù có mối liên kết chặt chẽ giữa kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi
mô, hai lĩnh vực nghiên cứu này vẫn có sự khác biệt. Kinh tế học vi mô và kinh tế
học vĩ mô xử lý các vấn đề khác nhau, đôi khi họ sử dụng những phương pháp
tiếp cận hoàn toàn khác nhau.
Tuỳ theo cách sử dụng mà kinh tế học được chia thành hai dạng: kinh tế
học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc.
1.3. Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc
- Kinh tế học thực chứng (Positive economics): Mô tả và giải thích các hiện
tượng kinh tế một cách khách quan và khoa học.
Mục tiêu của kinh tế học thực chứng là giải thích xã hội quyết định như thế
nào về sản xuất, tiêu thụ và trao đổi hàng hoá. Sự khảo sát này nhằm hai mục đích:
+ Giải thích cơ chế vận hành của nền kinh tế.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
5
+ Dự đoán những phản ứng của nền kinh tế và dự đoán sự phát triển của
nền kinh tế trong tương lai.
Nó trả lời cho các câu hỏi dưới dạng: “là gì”, “là bao nhiêu”, “tại sao”,
“như thế nào”,…
- Kinh tế học chuẩn tắc (Normative economics): Đưa ra những chỉ dẫn,
những quan điểm đánh giá hoặc lựa chọn cách thức giải quyết các vấn đề kinh tế
của từng cá nhân hay từng nhóm cá nhân (không có tính khoa học).
Nó giải đáp các câu hỏi dưới dạng: “tốt hay xấu”, “nên hay không nên”,
“phải làm gì”,…
Trong thực tế, thực chứng và chuẩn tắc luôn đi kèm với nhau.
Ví dụ: Người già phải chi nhiều cho bệnh tật → thực chứng (thực tế như vậy).
Chính phủ nên trợ cấp đơn thuốc cho người già → chuẩn tắc (có thể trợ cấp
hoặc không: nên)
Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam vào những năm 1985 - 1988 là rất nghiêm trọng
→ chuẩn tắc (có thể có đối tượng cho là nghiêm trọng, có đối tượng cho là không
nghiêm trọng).
2. Những đặc trƣng của kinh tế học
2.1. Tiền đề nghiên cứu và phát triển của kinh tế học
Kinh tế học nghiên cứu sự khan hiếm các nguồn lực một cách tương đối so
với nhu cầu của nền kinh tế, xã hội.
Nếu có thể sản xuất với một số lượng vô hạn về mọi loại hàng hoá và thoả
mãn đầy đủ được mọi nhu cầu của con người thì sẽ không có hàng hoá kinh tế và
cũng không cần thiết phải tiết kiệm hay nghiên cứu kinh tế học.
Kinh tế học ra đời bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa một bên là nguồn tài
nguyên có hạn với một bên là nhu cầu có khuynh hướng tăng vô hạn và tăng
nhanh hơn sản xuất của con người.
2.2. Tính hợp lý của kinh tế học
Đặc trưng này thể hiện ở chỗ khi phân tích hoặc lý giải một sự kiện kinh tế
nào đó, cần phải dựa trên những giả thiết nhất định (hợp lý) phù hợp với các mối
quan hệ kinh tế mà ta đang quan tâm.
Ví dụ: Khi muốn phân tích xem người tiêu dùng muốn mua thứ gì, với số lượng
bao nhiêu, kinh tế học đưa ra giả định là họ tìm cách mua được nhiều hàng hoá và dịch
vụ nhất, với số thu nhập có hạn của mình. Hay để giải thích xem doanh nghiệp sản xuất
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
6
cái gì, bao nhiêu và bằng cách nào, kinh tế học giả định là họ tìm cách tối đa hoá thu
nhập của mình với những ràng buộc nhất định về các yếu tố sản xuất.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tính chất hợp lý của những giả thiết này chỉ có
ý nghĩa tương đối.
2.3. Kinh tế học là bộ môn nghiên cứu mặt lượng
Việc thể hiện các kết quả nghiên cứu kinh tế bằng những con số có tầm
quan trọng đặc biệt. Khi phân tích kết quả của các hoạt động kinh tế, nếu chỉ
nhận định nó tăng lên hay giảm xuống là chưa đủ, mà còn phải xác định xem sự
thay đổi đó là bao nhiêu.
2.4. Tính toàn diện và tính tổng hợp của kinh tế học
Khi xem xét các hoạt động và sự kiện kinh tế phải đặt nó trong mối liên hệ
với các hoạt động và sự kiện kinh tế khác trên phương diện một nước, thậm chí
trên phương diện nền kinh tế thế giới.
Ví dụ: Để chống lạm phát, Ngân hàng Trung ương của một nước nào đó
quyết định giảm mức cung về tiền. Kết quả là tổng cầu giảm và cả giá cả, sản
lượng và việc làm đều giảm. Mặt khác, đồng tiền nước này lại tăng giá, hàng xuất
khẩu của họ trở nên đắt tương đối và hàng nhập khẩu của họ lại giảm tương đối.
Do đó, xuất khẩu ròng giảm, dẫn đến sản lượng và việc làm của nước này tiếp tục
giảm, còn các nước có quan hệ buôn bán với nước này lại tăng được xuất khẩu,
nên khuyến khích sản lượng và việc làm của nước họ,…
2.5. Các kết quả nghiên cứu kinh tế chỉ xác định được ở mức độ trung bình
Vì những kết quả này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau và
không thể xác định được chính xác tất cả các yếu tố này.
3. Phƣơng pháp luận nghiên cứu của kinh tế học
Tính khoa học của một môn học được quyết định bởi cách tiếp cận vấn đề
chứ không phải bởi công cụ sử dụng, nghĩa là phải phát triển và kiểm định các lý
thuyết về phương thức vận hành của thế giới một cách khách quan và vô tư. Các
nhà kinh tế tìm cách nghiên cứu đối tượng của mình với tính khách quan của một
nhà khoa học, họ đưa ra các giả thiết thích hợp và thiết lập các mô hình để giải
thích sự vận hành của thế giới kinh tế xung quanh chúng ta.
Khác với khoa học tự nhiên, khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế, người
ta thường áp dụng phương pháp quan sát. Sỡ dĩ như vậy là do các hiện tượng kinh
tế hết sức phức tạp, thường xuyên biến động và chịu nhiều yếu tố tác động.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
7
Do đó, trong quá trình nghiên cứu cần phải thu thập các số liệu, tiến hành
phân tích bằng các phương pháp phân tích thích hợp.
Một phương pháp vô cùng quan trọng trong kinh tế là phương pháp trừu
tượng hoá, bóc tách các nhân tố không định nghiên cứu (cố định lại) để xem xét
các mối quan hệ kinh tế giữa những biến số cơ bản. Khi phân tích trừu tượng như
vậy, việc sử dụng các phương pháp thống kê có ý nghĩa rất lớn.
Cuối cùng cần rút ra những kết luận, đối chiếu với thực tế, phát hiện những
điểm bất hợp lý, đề ra những giả thiết mới rồi kiểm nghiệm lại bằng thực tế để rút
ra những kết luận sát thực hơn với đời sống kinh tế.
II. Một số khái niệm cơ bản của kinh tế học
1. Các yếu tố sản xuất, giới hạn khả năng sản xuất và chi phí cơ hội
1.1. Các yếu tố sản xuất (Đầu vào - Inputs)
Các yếu tố sản xuất là các đầu vào của quá trình sản xuất, bao gồm:
+ Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất do thiên
nhiên mang lại như: đất đai, sông ngòi, khoáng sản,…
+ Tích luỹ tư bản
Tư bản là những hàng hoá sản xuất ra để sử dụng sản xuất ra các hàng hoá
khác, bao gồm: nhà xưởng, đường xá, máy móc,…
Việc tích luỹ tư bản có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất.
+ Nguồn nhân lực
Nhiều nhà kinh tế cho rằng chất lượng đầu vào lao động - kỹ năng, kiến
thức và kỷ luật của lực lượng lao động - là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng
kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác của sản xuất như tư bản hiện vật, nguyên vật liệu,
công nghệ đều có thể mua hoặc thuê được trong nền kinh tế thế giới. Một nước có
thể nhập khẩu các thiết bị viễn thông, máy tính, máy phát điện, các loại máy móc
hiện đại nhất. Nhưng những hàng tư bản này chỉ có thể được sử dụng một cách có
hiệu quả nhất nếu như con người có kỹ năng và được đào tạo, có trình độ văn hoá,
kỷ luật lao động cao làm cho năng suất lao động tăng.
+ Khoa học công nghệ
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
8
Nhận xét: Trong 4 yếu tố này, hãy sắp xếp thứ tự ưu tiên lựa chọn quan
trọng nhất?? → Khó xác định, tuỳ ý kiến, quan điểm của từng cá nhân, doanh
nghiệp, từng quốc gia → Games: Bịt mắt, xé giấy.
1.2. Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF: Production Possibility Frontier)
Đường giới hạn khả năng sản xuất PPF là tập hợp các mức phối hợp tối đa
khối lượng các loại sản phẩm mà nền kinh tế có thể đạt được khi sử dụng toàn bộ
các nguồn lực của nền kinh tế. (Còn gọi là đường cong năng lực sản xuất)
- Điều kiện:
+ 100% các yếu tố đầu vào được sử dụng.
+ Phạm vi áp dụng: cho một doanh nghiệp hay cho một quốc gia.
Ví dụ: Giả sử chỉ có hai loại mặt hàng được sản xuất là lương thực và quần áo.
Bảng 1 thể hiện một số khả năng lựa chọn các tổ hợp hai loại hàng hoá trên
khi sử dụng hết các yếu tố sản xuất với công nghệ hiện có.
Bảng 1: Những khả năng sản xuất thay thế nhau
Khả năng sản xuất Lƣơng thực (tấn) Quần áo (1000 bộ)
A
B
C
D
E
F
0
1
2
3
4
5
7,5
7,0
6,0
4,5
2,5
0
Bảng trên cho thấy nếu nền kinh tế chỉ sản xuất quần áo thì lượng quần áo
thu được là 7,5 nghìn bộ. Nếu sản xuất 7 nghìn bộ quần áo thì phần năng lực còn
lại sẽ sản xuất được 1 tấn lương thực. Tương tự, nếu giảm sản xuất quần áo thì sẽ
có khả năng tăng lương thực lên. Lượng quần áo giảm đến 0 thì lương thực đạt
được là 5 tấn. Biểu diễn những khả năng này trên đồ thị và nối những điểm này lại
ta được đường PPF (Hình 1.1).
Hình 1.1: Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF)
0 1 2 3 4 5 LT (tấn)
7,5
7,0
6,0
4,5
2,5
QA (1000 bộ)
M N
A
F
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
9
Dọc theo đường cong từ A đến F, xã hội ngày càng có ít quần áo nhưng
nhiều lương thực hơn. Việc chuyển quần áo thành lương thực được thực hiện qua
việc chuyển tài nguyên sang sản xuất lương thực.
Trên thực tế, do tồn tại quy luật “năng suất cận biên giảm dần” nên đường
PPF có dạng cong.
Các điểm nằm trên đường PPF là những điểm hiệu quả, tận dụng hết khả
năng sản xuất của nền kinh tế.
Các điểm nằm phía trong đường PPF (ví dụ: điểm M) là những điểm không
hiệu quả, còn lãng phí nguồn tài nguyên.
Các điểm nằm phía ngoài đường PPF (ví dụ: điểm N) là những điểm mà
nền kinh tế hay doanh nghiệp không thể đạt được vì đòi hỏi đầu tư vượt quá
nguồn lực hiện có.
Khi nằm trên đường PPF, muốn tăng loại sản phẩm này lên đòi hỏi phải
giảm bớt loại sản phẩm khác. Theo thời gian, các nguồn lực sản xuất của mỗi
quốc gia có khuynh hướng gia tăng. Do đó, đường PPF sẽ dịch chuyển ra ngoài.
Hệ quả: Lựa chọn và quyết định khả năng sản xuất tối ưu:
Gọi PL và PA là đơn giá của lương thực và quần áo.
QL và QA là sản lượng của lương thực và quần áo.
TR là tổng doanh thu.
Khả năng sản xuất tối ưu là khả năng sản xuất có tổng doanh thu cao nhất:
TR = PL.QL + PA.QA = Max
1.3. Chi phí cơ hội - Opportunity cost (Chi phí tương đối)
Do các nguồn tài nguyên là khan hiếm nên xã hội hay từng cá nhân luôn luôn
phải lựa chọn xem sẽ tiến hành những hoạt động cụ thể gì trong số những hoạt động
có thể được tiến hành. Phương án thay thế tốt nhất hay có giá trị nhất mà chúng ta từ
bỏ để nhận được một thứ gọi là chi phí cơ hội của thứ được lựa chọn. Một trong
những bài học cơ bản của kinh tế học là tất cả các lựa chọn của chúng ta đều chứa
đựng chi phí. Đúng như câu ngạn ngữ Anh: “Chẳng có gì là cho không cả”.
Như vậy, chi phí cơ hội của một quyết định là lượng hàng hoá và dịch vụ
phải bỏ qua khi ta lựa chọn và thực hiện quyết định đó mà không lựa chọn thực
hiện quyết định khác trong điều kiện khan hiếm các yếu tố thực hiện quyết định.
Đó là một sự đánh đổi, nghĩa là trao đổi (hy sinh) một thứ để nhận được thứ khác.
- Chi phí cơ hội không phải là chi cho các yếu tố đầu vào (chi phí kế toán)
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
10
- Chi phí cơ hội là quan hệ trao đổi của các loại hàng hoá dịch vụ khác
nhau hay là giá trị của phương án tốt nhất phải bỏ qua.
- Chi phí cơ hội là cái giá phải trả cho một quyết định.
Chẳng hạn, hiện tại bạn đang là sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Phú
Xuân, bạn quyết định liệu có nên tiếp tục học hay dừng học. Lợi ích của việc học
tiếp là làm giàu thêm kiến thức và có được những cơ hội tốt hơn trong tương lai.
Nhưng chi phí của học tiếp là gì? Nếu dừng học và đi bán hàng tại một công ty kinh
doanh nào đó, bạn có thể nhận đủ thu nhập để ổn định cuộc sống, đi du lịch và có
nhiều thời gian giao lưu với bạn bè. Nếu học tiếp thì bạn không thể có những thứ
đó. Bạn có thể có những thứ đó sau này, và đó chính là một trong những sự hy
sinh từ việc học tiếp. Tuy nhiên, hiện tại mọi chi phí sinh hoạt, đóng học phí và
mua tài liệu đều do gia đình bạn chu cấp, và bạn không có tiền để đi du lịch. Ôn
bài, đọc tài liệu tham khảo, làm bài tập về nhà cũng đồng nghĩa với việc bạn còn ít
thời gian hơn để giao lưu với bạn bè. Chi phí cơ hội của việc học tiếp là phương
án thay thế có giá trị nhất mà bạn có thể làm nếu bạn dừng học.
Khái niệm chi phí cơ hội có thể được minh hoạ thông qua đường PPF
(Hình 1.1), giả sử quyết định sản xuất thêm lương thực từ 1 tấn ở điểm B lên 2
tấn ở điểm C, chi phí cơ hội cho quyết định này chính là số quần áo bị mất đi để
sản xuất thêm lương thực. Trong trường hợp này, chi phí cơ hội của 1 tấn lương
thực là 1 nghìn bộ quần áo. Hoàn toàn tương tự, tại một điểm cho trước trên
đường PPF, muốn tăng thêm lương thực đòi hỏi phải giảm bớt quần áo, lượng
quần áo bị mất đi là chi phí cơ hội của lượng vải tăng thêm.
Ví dụ: Hai sinh viên A và B đang lựa chọn giữa 2 phương án: đi máy bay
hoặc đi tàu từ Hà nội vào TP HCMinh để về thăm gia đình.
Máy bay: Mất 1h - 1 triệu đồng
Tàu hoả: Mất 30 h - 500.000 đồng
Giả sử nếu không về thăm gia đình thì cả 2 sinh viên này đi làm thêm
Lương A: 10000đ/giờ
Lương B: 20000đ/giờ
Vận dụng chi phí cơ hội để chứng minh: A sẽ đi tàu, B đi máy bay.
* A: Nếu đi tàu: vé: 500000đ
30 giờ: 300000đ
Tổng: 800000đ
Nếu đi máy bay: Vé 1000000đ
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
11
1 giờ: 10000đ
Tổng: 1010000đ
→ A sẽ đi tàu hoả.
* B: Nếu đi tàu: 500000 + 30* 20000 = 1100000đ
Nếu đi máy bay: 1000000 + 20000 = 1020000đ
→ B đi máy bay.
2. Quy luật thu nhập giảm dần (Quy luật năng suất cận biên giảm dần)
Quy luật này cho biết số lượng đầu ra có thêm sẽ ngày càng giảm khi liên
tiếp đầu tư thêm những đơn vị bằng nhau của một đầu vào biến đổi trong điều
kiện các yếu tố đầu vào khác cố định.
Quy luật thu nhập giảm dần nói lên mối liên hệ không phải giữa hai loại hàng
hoá mà là giữa một đầu vào của quá trình sản xuất với đầu ra do đầu vào đó tạo ra.
Ví dụ: Bảng 2 cung cấp các số liệu về số lao động, sản lượng thóc sản xuất
ra trong vòng 1 vụ với điều kiện diện tích gieo trồng cố định là 100 ha.
Bảng 2: Quy luật năng suất cận biên giảm dần
Số lƣợng lao động L
(ngƣời)
Sản lƣợng thóc M (tạ) Sản lƣợng biên lao động
MPL (tạ)
100
101
102
103
104
105
2500
2520
2535
2545
2550
2550
20
15
10
5
0
Hệ quả: Lựa chọn và quyết định đầu tư đầu vào để có hiệu quả cao nhất.
MPL = ∆M/∆L
Gọi PL, PM là đơn giá đầu vào lao động và đầu ra của lúa.
∆L, ∆M: Gia tăng lao động và sản lượng lúa.
PL*∆L: Chi phí đầu tư thêm
PM*∆M: Giá trị đầu ra có thêm
Nếu PL*∆L > PM*∆M: nên giảm đầu tư.
PL*∆L < PM*∆M: nên tăng đầu tư.
PL*∆L = PM*∆M: điểm đầu tư tối ưu.
∆M/∆L = PL/PM hay MPL = PL/PM
Như vậy, khi diện tích và các yếu tố khác cố định, mỗi đầu vào lao động
tăng thêm sẽ có ngày càng ít đầu vào cố định để cùng làm việc. Do đó, những đầu
vào được bổ sung sẽ tạo ra ngày càng ít đầu ra tăng thêm.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
12
Quy luật thu nhập giảm dần không phải lúc nào cũng đúng. Trong nhiều trường
hợp, nó chỉ có hiệu lực khi đã bổ sung một số lượng rất lớn các lượng bằng nhau của
đầu vào biến thiên. Nói cách khác, lúc đầu đầu vào biến thiên có thể đem lại thu nhập
bổ sung ngày càng tăng nhưng cuối cùng quy luật thu nhập giảm dần sẽ xảy ra.
3. Quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng
Quy luật này cho biết để có thêm những số lượng bằng nhau về một mặt hàng,
xã hội phải hy sinh ngày càng nhiều hơn số lượng mặt hàng khác.
Trở lại hình 1, nếu nền kinh tế nằm trên đường PPF, muốn tăng thêm 1 tấn
lương thực ta phải hy sinh một lượng quần áo nhất định, nhưng muốn tăng thêm 1
tấn lương thực nữa đòi hỏi phải hy sinh một lượng quần áo lớn hơn trước. Ngược
lại, khi muốn tăng thêm một lượng quần áo nhất định đòi hỏi phải hy sinh lương
thực ngày càng nhiều.
Đó cũng chính là lý do giải thích tại sao đường PPF có dạng cong lồi ra
ngoài. Các đường PPF có dạng thẳng hay lõm vào gốc toạ độ không thể mô tả
được xu hướng trên.
Vấn đề đặt ra là tại sao lại như vậy và có phải quy luật này lúc nào cũng
đúng không? Giả sử việc sản xuất quần áo chủ yếu dùng đến lao động và hầu như
không dùng đến đất đai, còn việc sản xuất lương thực cần đến cả lao động và đất
đai. Nếu đất đai được coi là cố định. Tại điểm A ta thấy việc giảm đi từng đơn vị
quần áo sẽ cho phép chuyển số lao động ra khỏi ngành sản xuất quần áo để
chuyển sang ngành sản xuất lương thực. Tuy nhiên, do đất đai cố định nên theo
quy luật thu nhập giảm dần, số lao động như nhau được bổ sung cho ngành sản
xuất lương thực sẽ tạo ra ngày càng ít lương thực. Như vậy, việc hy sinh lần lượt
từng đơn vị quần áo sẽ cho ta ngày càng ít lương thực và quy luật chi phí cơ hội
ngày càng tăng đã được chứng minh.
Từ lập luận trên có thể thấy, điều kiện để tồn tại quy luật này là tỷ lệ sử dụng
đầu vào của hai loại hàng hoá phải khác nhau. Nếu tỷ lệ này như nhau thì đường giới
hạn khả năng sản xuất sẽ trở thành đường thẳng và quy luật này không đúng nữa.
4. Sản lƣợng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
Sản lượng tiềm năng (Yp - Potentional output) là mức sản lượng mà nền
kinh tế đạt được tương ứng với mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (Un - natural rate of
unemployment) và tỷ lệ lạm phát vừa phải mà nền kinh tế có thể chấp nhận được.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
13
Lưu ý: Sản lượng tiềm năng (Yp) chưa phải là mức sản lượng tối đa, đồng
thời nó có khuynh hướng tăng lên theo thời gian (do khả năng sản xuất của nền
kinh tế luôn có khuynh hướng tăng lên).
Trong thực tế, sản lượng thực tế (Ya) luôn biến động xoay quanh sản lượng
tiềm năng Yp nên tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát cũng biến động, tạo ra chu kỳ
kinh doanh.
Khi Ya = Yp: Nền kinh tế đạt trạng thái toàn dụng.
Khi Ya < Yp: Nền kinh tế đang trong trạng thái khiếm dụng. Nghĩa là lúc này
Ua> Un. Phần cao hơn (là thất nghiệp chu kỳ) có thể được ước tính theo định luật Okun.
III. Mục tiêu và các công cụ trong kinh tế vĩ mô
1. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô
1.1. Mục tiêu tổng quát
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia được đánh giá theo 3 dấu hiệu
chủ yếu sau:
- Ổn định nền kinh tế: Là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh
tế cấp bách như: lạm phát, suy thoái, thất nghiệp trong ngắn hạn, hạn chế mức độ
dao động của các chu kỳ kinh doanh. (Chống lạm phát, chống suy thoái trong
ngắn hạn, đưa nền kinh tế về trạng thái cân bằng tối ưu).
- Tăng trưởng kinh tế: Muốn có tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải tăng năng
lực sản xuất của quốc gia, làm cho tốc độ tăng sản lượng quốc gia đạt mức cao
nhất mà nền kinh tế đó có thể thực hiện được. (Phải làm tăng sản lượng tiềm năng
bằng cách xử lý 4 yếu tố tăng trưởng dài hạn trong hàm sản xuất: L - Labour, K -
Capital, R - Resource, Te - Technology).
- Công bằng trong phân phối: vừa là vấn đề xã hội, vừa là vấn đề kinh tế.
Phải thực hiện công bằng theo chiều dọc và theo chiều ngang.
Công bằng dọc: có chế độ thù lao khác nhau cho những người lao động
khác nhau (làm và hưởng theo năng lực).
Công bằng ngang: có chế độ thù lao như nhau cho những người lao động
cùng chức năng, nhiệm vụ.
1.2. Mục tiêu cụ thể
a. Mục tiêu sản lượng:
+ Trong ngắn hạn: cần đạt mức sản lượng thực tế cao, tương ứng với mức
sản lượng tiềm năng Yp.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
14
+ Trong dài hạn: đạt tốc độ tăng trưởng cao và vững chắc, tăng sản lượng
tiềm năng Yp.
b. Mục tiêu việc làm:
+ Hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp, chỉ duy trì ở mức thất nghiệp tự nhiên Un.
+ Tạo nhiều chỗ làm việc mới với mức thu nhập cao cho người lao động.
c. Mục tiêu ổn định giá cả:
+ Cần ổn định mức giá đồng thời hạn chế sự đột biến về giá (hạn chế
những cú sốc về giá).
+ Kiểm soát được lạm phát.
d. Mục tiêu kinh tế đối ngoại:
+ Ổn định tỷ giá hối đoái.
+ Cân bằng cán cân thanh toán.
e. Mục tiêu phân phối công bằng:
Phải phân phối và phân phối lại của cải vật chất sao cho vừa tạo điều kiện
thuận lợi để sản xuất phát triển, vừa đảm bảo công bằng xã hội.
2. Các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu
Để đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên, Chính phủ cần phải có
những công cụ nhất định.
2.1. Chính sách tài khoá (Fiscal Policy)
Chính sách tài khoá được thực hiện bằng cách thay đổi các khoản thu chi
ngân sách của Chính phủ, nhằm hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm
mong muốn.
Chính sách tài khoá bao gồm 2 công cụ chủ yếu:
+ Chi tiêu của Chính phủ (G - Government): Chi tiêu của Chính phủ có ảnh
hưởng trực tiếp đến quy mô của chi tiêu công cộng, do đó có thể trực tiếp tác động
đến tổng cầu và sản lượng.
+ Thuế (T - Tax): Thuế làm giảm các khoản thu nhập, do đó làm giảm chi
tiêu của khu vực tư nhân, từ đó tác động tới tổng cầu và sản lượng.
Trong ngắn hạn, chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế và
lạm phát, phù hợp với các mục tiêu ổn định kinh tế.
Trong dài hạn, chính sách tài khoá có thể có tác dụng điều chỉnh cơ cấu
kinh tế, giúp cho sự tăng trưởng và phát triển lâu dài.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
15
2.2. Chính sách tiền tệ (Monetary Policy)
Chính sách tiền tệ do Ngân hàng Trung ương thực hiện, trên cơ sở thay đổi lượng
cung tiền ứng trên thị trường, nhằm tác động đến lãi suất và từ đó ảnh hưởng tới đầu tư.
Chính sách tiền tệ bao gồm 2 công cụ chủ yếu là:
+ Cung về tiền (MS - Money Supply)
+ Lãi suất (r - interest rate)
Khi Ngân hàng trung ương thay đổi lượng cung về tiền, lãi suất sẽ tăng hoặc
giảm, tác động đến đầu tư tư nhân, do đó ảnh hưởng đến tổng cầu và sản lượng.
Chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến GDP thực tế trong ngắn hạn,
song do tác động đến đầu tư nên nó cũng có ảnh hưởng lớn đến GDP tiềm năng
trong dài hạn.
2.3. Chính sách thu nhập (Incomes Policy)
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các biện pháp mà Chính phủ sử
dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả để kiềm chế lạm phát.
Chính sách này sử dụng nhiều loại công cụ, từ những công cụ mềm dẻo
như định hướng tiền lương theo ý muốn cho đến những công cụ có tính chất cứng
rắn như kiểm soát có tính chất bắt buộc đối với tiền lương,…
2.4. Chính sách kinh tế đối ngoại (Foreign Policy)
Chính sách kinh tế đối ngoại bao gồm việc can thiệp của Chính phủ nhằm
ổn định tỷ giá hối đoái và giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán ở mức có thể chấp
nhận được.
Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái cân
bằng, các quy định về hàng rào thuế quan, bảo hộ mậu dịch và cả những biện pháp
tài chính và tiền tệ khác, tác động vào hoạt động xuất nhập khẩu.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
16
CHƢƠNG II
ĐO LƢỜNG SẢN LƢỢNG VÀ MỨC GIÁ
Trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu khái niệm tổng sản phẩm trong
nước GDP, các phương pháp xác định GDP, chỉ số điều chỉnh GDP, chỉ số giá tiêu
dùng CPI và một số tài khoản quốc dân cơ bản. Và chúng ta sẽ nghiên cứu xem các
nhà kinh tế sử dụng những đại lượng này như thế nào để đánh giá tốc độ tăng trưởng
kinh tế và tỷ lệ lạm phát qua thời gian. Và trong một chừng mực nhất định cho phép
chúng ta có thể so sánh hoạt động kinh tế vĩ mô giữa các quốc gia với nhau.
I. Tổng sản phẩm trong nƣớc GDP 1. Khái niệm
Tổng sản phẩm trong nước (GDP - Gross Domestic Product) là giá trị thị
trường của tất cả hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trên phạm vi
lãnh thổ của một quốc gia hay một địa phương trong một thời kỳ nhất định.
Để hiểu thấu đáo định nghĩa này, chúng ta cần lưu ý đến nội dung chuyển
tải của từng cụm từ một:
+ “Giá trị thị trường” là giá trị tính bằng tiền hay tính theo giá cả của hàng
hoá được người mua và người bán chấp nhận trên thị trường hàng hoá và dịch vụ.
Nói một cách nôm na là thuận mua, vừa bán.
+ Cụm từ “của tất cả” ý nói GDP tìm cách tính toán hết tất cả các hàng
hoá và dịch vụ được sản xuất và bán hợp pháp trên thị trường.
Nó bao gồm giá trị thị trường không chỉ của các sản phẩm nông nghiệp
như gạo, ngô, khoai, sắn, thịt bò, thịt lợn,… các sản phẩm công nghiệp như quần
áo, giày dép,… mà còn của các loại dịch vụ như du lịch, giáo dục, y tế,…
Tuy nhiên, một số sản phẩm không được tính trong GDP do việc đo lường
chúng quá khó khăn như: các sản phẩm tự sản tự tiêu (tự cấp tự túc) trong các hộ
gia đình (ví dụ: rau quả trong vườn nhà, các dịch vụ sữa chữa nhỏ,…). GDP cũng
không tính tới giá trị giao dịch của một số sản phẩm lưu thông bất hợp pháp hay
thuộc kinh tế ngầm như ma tuý,…
+ Cụm từ “hàng hoá và dịch vụ cuối cùng” nhằm nhấn mạnh GDP chỉ tính
giá trị của các loại hàng hoá, dịch vụ cuối cùng, không tính giá trị của các loại
hàng hoá, dịch vụ trung gian.
Như vậy, ở đây chúng ta cần phân biệt hai khái niệm: hàng hoá, dịch vụ
cuối cùng và hàng hoá, dịch vụ trung gian.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
17
Hàng hoá, dịch vụ cuối cùng là những sản phẩm cuối cùng của quá trình sản
xuất và được người mua sử dụng dưới dạng sản phẩm hoàn chỉnh. Nói cách khác,
một sản phẩm được xem là hàng hoá, dịch vụ cuối cùng khi thoả mãn 2 điều kiện:
- Kết thúc quá trình sản xuất, phải là thành phẩm.
- Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của nền kinh tế như: ăn, mặc, đầu
tư, xuất khẩu,…
Ngược lại, những hàng hoá, dịch vụ nào không thoả mãn 2 điều kiện nói
trên là hàng hoá, dịch vụ trung gian. (Đó là những sản phẩm đóng vai trò là yếu tố
đầu vào của quá trình sản xuất và được sử dụng hết trong quá trình đó).
Cần phân biệt hàng hoá, dịch vụ cuối cùng và hàng hoá, dịch vụ trung gian
vì đôi khi cùng một hàng hoá có thể là hàng hoá cuối cùng của ngành này nhưng
lại là hàng hoá trung gian của ngành khác. Ví dụ: Vải là sản phẩm cuối cùng của
ngành dệt nhưng lại là sản phẩm trung gian của ngành may.
Hay các loại nông sản: Thịt lợn: Nếu phục vụ cho mục đích ăn, xuất khẩu:
hàng hoá cuối cùng → được tính vào GDP.
Nhưng nếu cũng thịt lợn thành phẩm đó được sử dụng làm nguyên liệu chế
biến cho một dây chuyền thịt hộp chẳng hạn → hàng hoá trung gian: không được
tính vào GDP.
Phân biệt hàng hoá, dịch vụ cuối cùng và hàng hoá, dịch vụ trung gian
nhằm khắc phục hiện tượng tính trùng trong đo lường GDP.
Ví dụ: Trong ngành sản xuất xe máy. Khi tính GDP, nếu chúng ta cộng tất
cả giá trị sản lượng của cao su, lốp xe và xe máy được tạo ra trong một nền kinh tế
lại với nhau thì sẽ là vô nghĩa vì giá trị của lốp xe đã tính đến giá trị của cao su
dùng để sản xuất ra lốp xe đưa vào xe máy. Ở đây, cao su và lốp xe là những hàng
hoá trung gian.
+ “trong phạm vi một nước” có nghĩa là giá trị của tất các hàng hoá được
sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ nước nào thì tính vào GDP nước đó, bất kể hàng
hoá đó được tạo ra bởi công dân nước nào và doanh nghiệp thuộc sở hữu trong
nước hay nước ngoài. Như vậy, GDP xác định theo phạm vi lãnh thổ của một quốc
gia hay một địa phương được xác định theo 2 phần:
- Phần hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà công dân của một quốc gia hay địa
phương đó tạo ra.
- Phần hàng hoá và dịch vụ cuối cùng do người nước ngoài hay người địa
phương khác tạo ra ở quốc gia hay địa phương đó.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
18
Ví dụ: Các tập đoàn nước ngoài đến Việt Nam đầu tư, chẳng hạn tập đoàn
Intel của Mỹ đến Việt Nam đầu tư: mọi giá trị mà Intel tạo ra trên phạm vi lãnh thổ
Việt Nam được tính vào GDP của Việt Nam.
Hay một doanh nhân người Huế ra Hà Nội làm ăn: toàn bộ giá trị sản lượng
hàng hoá và dịch vụ mà doanh nhân đó tạo ra trên phạm vi lãnh thổ Hà nội sẽ được
tính vào GDP của Hà nội chứ không phải GDP của Huế (tính vào GNP của Huế). Ở
phần sau chúng ta sẽ nghiên cứu thêm khái niệm GNP và phân biệt nó với GDP.
+ “trong một thời kỳ nhất định” nghĩa là GDP phản ánh giá trị sản lượng
tạo ra trong một khoảng thời gian cụ thể (năm, quý).
2. GDP danh nghĩa, GDP thực tế và chỉ số điều chỉnh GDP
2.1. GDP danh nghĩa (GDPn - Nominal GDP)
GDP danh nghĩa là giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ tính theo giá hiện
hành, hay là tổng của lượng hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong một năm
nhân với giá của hàng hoá và dịch vụ ấy trong năm đó.
Công thức:
t
i
t
i
t
n pqGDP (i = 1,m)
Trong đó: t
iq : sản lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng i ở năm t.
t
ip : giá hiện hành của hàng hóa, dịch vụ cuối cùng i ở năm t.
Lưu ý: Ở đây, tính theo giá hiện hành khác với giá thời điểm.
Có thể nói, trong nền kinh tế thị trường, một năm có hàng nghìn mức giá
biến động lên xuống khác nhau. Vậy, chọn mức giá nào để tính? → mức giá
chung (phần sau chúng ta sẽ được học cụ thể hơn: DGDP và CPI).
Ví dụ: Có 10 con gà bán ở 3 thời điểm khác nhau trong năm với 3 mức giá khác
nhau: Con đầu tiên: bán giá 50.000đ, 4 con tiếp: bán giá 70.000đ, 5 con cuối: bán giá
100.000đ. → Chọn giá nào để tính? Giá cao nhất? Giá thấp nhất hay như thế nào?
Ở đây chúng ta phải sử dụng phương pháp bình quân gia quyền như trong
lý thuyết thống kê đã học:
P = (50.000*1 + 70000*4 + 100000*5)/10 = 83300 (đ/con).
Hay: lấy ví dụ 10 tấn cà phê bán ở 3 thời điểm khác nhau với 3 mức giá
khác nhau (đầu vụ, giữa vụ, cuối vụ).
2.2. GDP thực tế (GDPr - Real GDP)
GDP thực tế là giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ hiện hành của nền
kinh tế được đánh giá theo mức giá cố định của năm cơ sở (năm gốc) hay là tổng
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
19
của lượng hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong một năm nhân với giá cố
định của các hàng hoá và dịch vụ ấy trong năm gốc.
Công thức:
o
i
t
i
t
r pqGDP (i = 1,m)
( o
ip giá cố định của hàng hoá, dịch vụ i ở năm cơ sở hay năm gốc)
Trong thực tế, nếu quan sát thấy GDP danh nghĩa tăng từ năm này sang
năm khác thì chưa thể kết luận sự tăng đó là do sản lượng hàng hoá và dịch vụ
tăng hay do mức giá tăng. Nhưng nếu quan sát thấy GDP thực tế tăng thì có thể
khẳng định rằng sản lượng hàng hoá và dịch vụ đã tăng vì mức giá được tính cố
định theo năm gốc. Do đó, chỉ tiêu GDP thực tế là thước đo tốt hơn về kết quả sản
xuất của nền kinh tế theo thời gian.
Ví dụ: GDPr/00 = ∑Pi00
*Qi07
GDPn07
= ∑Qi07
*Pi07
So sánh cái nào lớn hơn?
GDPr07/00
= ∑ Qi07
*Pi00
Thông thường, trong nền kinh tế, mức giá chung năm sau thường cao hơn
năm trước: Pi07
> Pi00
(Đó là hiện tượng mất giá)
Hầu hết mức giá chung đều tăng, ngoại trừ một số mặt hàng cá biệt, giá có
thể giảm như: máy tính, ti vi, tủ lạnh,… những sản phẩm do lỗi thời về công nghệ
nên giá rẻ. Tuy nhiên, những sản phẩm này quyền số không lớn lắm (nghĩa là phần
giá giảm xuống ít hơn phần giá tăng thêm của những mặt hàng khác nên tính chung
giá cả sẽ tăng lên). Chúng ta có thể biểu diễn trên trục thời gian:
Pt < P0 Pt = P0 Pt > P0
*
Trước Thời điểm gốc Sau
Tại thời điểm gốc: GDPn = GDPr (vì Pt = P0)
Trước thời điểm gốc: GDPn < GDPr (vì Pt < P0)
Sau thời điểm gốc: GDPn > GDPr (vì Pt > P0)
Lưu ý: Khi nào sử dụng GDPn, khi nào sử dụng GDPr?
- Khi so sánh quan hệ tài chính, so sánh kết quả hoạt động của các nền kinh
tế với nhau, của các địa phương hoặc các ngành trong nền kinh tế với nhau thì nên
dùng GDP danh nghĩa.
- Khi so sánh GDP qua các năm, để đánh giá tốc độ tăng trưởng kinh tế thì
phải dùng GDP thực tế.
Ở đây, chúng ta sử dụng 2 mức độ: nên dùng và phải dùng. Giải thích??
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
20
Nên dùng: có thể dùng cả 2 chỉ tiêu nhưng nên dùng GDPn thì tốt hơn.
Phải dùng: chỉ dùng GDPr, không dùng GDPn.
Ví dụ 1: Nên dùng: Giả sử, khi so sánh Việt Nam với một quốc gia siêu
cường về kinh tế như Nhật Bản:
2007: GDPn: Nhật: 4350 tỷ $ sử dụng cái này tốt hơn
Việt Nam: 71,3 tỷ $
Nếu dùng GDPr: chúng ta phải lấy thời giá cuủa1 năm nào đó làm gốc để
so sánh, chẳng hạn lấy giá năm 2000 làm gốc.
GDPr/00: Nhật: 3850 tỷ $
Việt Nam: 51 tỷ $
Sử dụng cách này vẫn có thể so sánh được nhưng không tốt bằng cách trên
vì đòi hỏi chúng ta phải liên tưởng đến chỉ giá đồng $ năm 2000.
So sánh GDPn sẽ phản ánh sát tình hình thực tế hơn.
→ Do đó nên dùng GPPn trong những trường hợp này.
Ví dụ 2: Phải dùng GDPr: (dùng GDPn không được)
Thành phố Huế 2005 2007
Qi05
Qi07
P05 P07
Cho biết: Qi05
= Qi07
: cơ cấu hiện vật (các mặt hàng tạo ra) trong 2 năm
giống nhau, nhưng mức giá cả năm 2007 cao hơn 20% so với năm 2005.
Nếu so sánh bằng GDPn: (GDPn07
/GDPn05
)*100 = 120%, nghĩa là GDPn07
cao hơn GDPn05
20%. Điều này không đúng vì thật sự sự tăng này là do giá đội
lên. GDP qua 2 năm này thật sự không tăng thêm tí nào.
→ Do đó phải sử dụng GDPr để có thể so sánh chính xác.
2.3. Chỉ số điều chỉnh GDP (GDP Deflator - DGDP)
Chỉ số điều chỉnh GDP đo lường mức giá trung bình của tất cả mọi hàng
hoá và dịch vụ được tính vào GDP.
Chỉ số điều chỉnh GDP được tính bằng tỷ số giữa GDP danh nghĩa và
GDP thực tế.
Chỉ số điều chỉnh GDP được tính bằng công thức sau:
100*100*0
i
t
i
t
i
t
i
t
r
t
nGDP
pq
pq
GDP
GDPD
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
21
DGDP đo lường sự biến động của các hàng hoá, dịch vụ nói chung tính vào
GDP hay nói cách khác nó phản ánh sự tăng giảm về mặt giá cả nói chung của các
hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế.
Do đó, một số tài liệu còn gọi là chỉ số giá cả hay chỉ số giảm phát.
DGDP > 100: giá cả tăng lên → GDPn > GDPr (sau năm gốc)
DGDP < 100: giá cả giảm xuống → GDPn < GDPr (trước năm gốc)
DGDP = 100: giá cả không thay đổi → GDPn = GDPr (tại thời điểm gốc)
Trong công thức trên:
Do GDP danh nghĩa phải bằng GDP thực tế ở năm cơ sở nên chỉ số điều
chỉnh GDP ở năm cơ sở luôn bằng 1. Tuy nhiên, để tiện lợi trong việc đọc, các
nhà thống kê kinh tế thường thể hiện giá trị của chỉ số điều chỉnh GDP hay chỉ số
giảm phát ở năm cơ sở là 100 thay vì là 1. Do đó, tỷ số giữa giữa giá trị của GDP
danh nghĩa và GDP thực tế được nhân với 100. (Nhân 100 ở công thức này là để
dễ đọc chứ không phải để tính %).
Ví dụ: Thay vì đọc 1,15 hay 0,95 người ta đọc 115 hay 95 dễ hơn.
Ý nghĩa của chỉ số điều chỉnh GDP: (DGDP sử dụng để làm gì??)
+ Dùng để qui đổi GDPn thành GDPr và ngược lại.
+ Dùng để tính tỷ lệ lạm phát (∏)
100*1
1
GDP
t
GDP
tt
GDPt
D
DD(%)
Nhân 100 ở công thức này để tính %, khác với công thức tính DGDP
Ví dụ: Để tính tỷ lệ lạm phát năm 2007 của Việt Nam:
Π07
= (DGDP07
- DGDP06
)/D06
GDP *100 (%)
Không so sánh tương đối 2 số % để ra số % thứ 3 → Đó là lý do tại sao
DGDP không tính bằng %.
Nhìn vào công thức tính tỷ lệ lạm phát, chúng ta cần lưu ý:
Nếu DGDPt > DGDP
t-1 → π
t > 0 → lạm phát ( là tình trạng mức giá chúng của
nền kinh tế tăng lên trong một thời gian nhất định - chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể
hơn trong chương VI).
Nếu DGDP < DGDPt-1
→ πt < 0 → giảm phát (là tình trạng mức giá chung của
nền kinh tế giảm xuống trong một thời gian nhất định - chương VI).
Nếu DGDP = DGDPt-1
→ Về mặt toán học: πt = 0. Nhưng trên thực tế không
xảy ra trường hợp này.
Người ta không sợ lạm phát mà rất sợ giảm phát.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
22
Lạm phát gây ra nhiều tác hại. Nhưng những tác hại mà giảm phát gây ra
lớn gấp 10, 20 lần lạm phát.
Không có giải pháp để chống giảm phát → buộc phải phòng: không để cho
giảm phát xảy ra. Nếu xảy ra giảm phát có thể làm mất nền kinh tế, mất chính trị.
Do đó, không một chính phủ nào để giảm phát xảy ra: Khi có dấu hiệu
giảm phát phải dập ngay.
Lưu ý: Trong công thức tính tỷ lệ lạm phát trên chỉ tính cho hai mốc thời
gian liền nhau (năm t và năm (t-1)). Trường hợp hai mốc thời gian so sánh cách
nhau thì công thức trên được gọi là tốc độ tăng giá, lấy tốc độ tăng giá này chia
cho khoảng cách thời gian chúng ta được tỷ lệ lạm phát trung bình trong khoảng
thời gian đó.
Bài tập ví dụ:
Năm PA QA PB QB
2005 3 1000 7,0 180
2006 4 1200 7,5 190
2007 5 1350 8,0 210
(Cho biết: Lấy năm 2005 làm năm cơ sở)
a. Tính GDPn và GDPr của từng năm.
b. Tính tỷ lệ lạm phát năm 2006, 2007 và tỷ lệ lạm phát trung bình từ 2005 đến 2007.
2.4. Tăng trưởng kinh tế và quy tắc 70
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng mức sản xuất mà nền kinh tế tạo ra theo
thời gian, đó là sự gia tăng của GDP thực tế theo thời gian.
Tăng trưởng bền vững là sự tăng trưởng của thế hệ hiện tại mà không làm
tổn hại (ảnh hưởng) đến sự tăng trưởng của thế hệ tương lai.
Từ các chỉ tiêu GDP, chúng ta tính được các loại tốc độ tăng trưởng kinh tế:
* Tốc độ tăng trưởng kinh tế liên hoàn: gt = (%)100*1
1
t
r
t
r
t
r
GDP
GDPGDP
Dạng khác của công thức trên:
gt = ((GDPrt /GDPr
t-1) -1)*100 (%)
-1 thể hiện trừ gốc của nó.
Nhìn vào công thức này, nhận xét:
GDPrt > GDPr
t-1: gt > 0: nền kinh tế tiến về phía trước.
GDPrt < GDPr
t-1: gt < 0: nền kinh tế tăng trưởng âm.
GDPrt = GDPr
t-1: gt = 0: nền kinh tế đứng im tại chỗ.
3 trường hợp này có được chấp nhận trong mọi nền kinh tế không?
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
23
Về lý thuyết: có 3 trường hợp này.
Nhưng trên thực tế, bao nhiêu năm nay trên thế giới chưa có nước nào xảy
ra trường hợp nền kinh tế đứng im tại chỗ: gt = 0.
Thông thường: gt > 0.
Một số nước gặp bất trắc, rủi ro, khủng hoảng,…: gt < 0
* Tốc độ tăng trưởng kinh tế định gốc:
g0 = (%)100*1
12
t
r
t
r
t
r
GDP
GDPGDP = (%)100*)1(
1
2
t
r
t
r
GDP
GDP
Trong đó: t1: năm gốc.
t2 - t1 = 2,3,4,… (hiệu số của t2 và t1 được tính từ 2,3,… trở lên).
Về mặt số học, 2 công thức gt và g0 không khác nhau. Nhưng trong kinh tế,
2 công thức này có sự khác biệt khá tinh vi.
Nếu hiệu số t2 - t1 = 1: g0 ≡ gt
Thông thường: g0 > 0, trừ trường hợp đặc biệt: cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới (1929 - 1933,…).
Điều này càng thể hiện rõ nét trong trường hợp t2 - t1 càng lớn (5,7,…).
Tăng trưởng định gốc thường nhận giá trị dương, không nhận giá trị âm
hoặc bằng 0.
* Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân: (%)100*)1( 12
1
2
ttt
r
t
r
GDP
GDPg
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân phản ánh tốc độ tăng của năm sau so
với năm trước, tính bình quân cho một giai đoạn nhiều năm (từ t1 đến t2).
Ví dụ: Có dãy số liệu GDPr của 2 nước trong khoảng thời gian sau:
2002 2003 2004 2005 2006 2007
GDPrA 50 55 52 57 59 61
GDPrB 50 51 55 52 55 61
Hãy tính tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của 2 nước này?
Tốc độ tăng trưởng bình quân của 2 nước này bằng nhau:
gA,B = ( 5√61/60 - 1)* 100 (%)
Nhận xét: Từ 2003 đến 2006, GDPr của 2 nước này khác nhau, nhưng tốc
độ tăng trưởng bình quân từ 2003 - 2007 của 2 nước này bằng nhau.
gA = (5√
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
24
Lưu ý:
+ Độ lớn của các chỉ tiêu từ năm (t1+1) cho đến năm (t2 -1) không ảnh
hưởng đến tốc độ tăng bình quân.
+ Trường hợp tốc độ tăng dân số không tương xứng với tốc độ tăng sản
phẩm thì tăng trưởng kinh tế được tính bằng GDP thực tế bình quân đầu người.
* Tăng trưởng kép và quy tắc 70:
Ví dụ: Hiện tại, có 100 trđ, gửi Ngân hàng với lãi suất r = 17%/năm, gửi
trong thời gian 10 năm. Lãi gốc của tháng này trở thành lãi tháng sau (tính lãi
kép). Hỏi sau 10 năm (đến lúc đáo hạn) có bao nhiêu tiền?? → Quy tắc 70.
Tốc độ tăng trưởng bình quân còn đưa chúng ta đến khái niệm tăng trưởng
kép. Khái niệm này được dùng để chỉ sự tăng trưởng tích luỹ qua mỗi thời kỳ.
Tăng trưởng kép làm cho GDP của một nước tăng rất nhanh sau một khoảng thời
gian dài. Điều này cũng hàm ý nếu các nước có tốc độ tăng trưởng kép khác nhau,
thì sự khác biệt nhỏ trong tốc độ tăng trưởng có thể dẫn tới sự khác biệt rất lớn
trong GDP sau một thời gian dài.
Để tính được tốc độ tăng trưởng kép, chúng ta phải khai căn, lấy logarit và
phải thực hiện nhiều phép toán. Các nhà kinh tế đã tìm ra một quy tắc đơn giản,
gần đúng để nhanh chóng hình dung ra được sau bao lâu GDP thực tế của một
nước sẽ tăng gấp đôi khi nó đạt một tốc độ tăng trưởng kép nào đó. Quá trình tìm
kiếm đã dẫn các nhà kinh tế tới quy tắc 70.
Quy tắc này nói rằng nếu một biến số tăng với tốc độ bình quân là x phần
trăm năm thì nó sẽ tăng gấp đôi sau 70/x năm.
Hệ quả: Hiệu ứng đuổi kịp (Catch - up effect)
Thuật ngữ này dùng để chỉ tình huống các nước có điểm xuất phát thấp
thường đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước có điểm xuất phát cao và khoảng
cách về thu nhập bình quân đầu người giữa họ sẽ được thu hẹp.
Một quốc gia có xuất phát điểm tương đối thấp nhưng có tốc độ tăng
trưởng tương đối cao thì quốc gia đó có thể đuổi kịp quốc gia khác có xuất phát
điểm cao hơn nhưng tăng trưởng thấp hơn.
Ví dụ: 2 ô tô: 1 chiếc chạy trước với vận tốc 40 km/h; 1 chiếc chạy sau với
vận tốc 60 km/h. Hỏi sau mấy giờ xe 2 vượt xe 1?? → Sau 2 giờ xe thứ 2 vượt xe
thứ 1 (Hiệu ứng đuổi kịp)
→ Điều quan trọng (quyết định) là tăng trưởng kinh tế chứ không phải
GDP tạo ra là bao nhiêu.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
25
Hiệu ứng đuổi kịp có tác động đối với nước ta không? Có. So với các nước
khác trong khu vực, nước ta có điểm xuất phát thấp hơn. Số liệu thống kê cho thấy
tỷ lệ tăng trưởng của chúng ta cao hơn hầu hết các nước có trình độ phát triển cao
trong khu vực. Thực tế này chắc chắn làm cho khoảng cách về thu nhập bình quân
đầu người giữa nước ta và các nước có trình độ phát triển cao sẽ được thu hẹp,
chứ không phải “dãn ra” hay “ngày càng tụt hậu” như một số người lầm tưởng.
II. Phƣơng pháp xác định GDP
1. Sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô
Sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô là sơ đồ mô tả luồng hàng hoá, dịch vụ và
luồng tiền tệ di chuyển giữa các chủ thể kinh tế với nhau. Để tìm được bản chất
bên trong của các giao dịch và đưa ra được các phương pháp tính toán GDP một
cách có cơ sở khoa học, chúng ta xét trường hợp đơn giản nhất: Nền kinh tế khép
kín, chỉ bao gồm 2 tác nhân là hộ gia đình và các doanh nghiệp.
Trong điều kiện đó, dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô được trình bày ở hình 2.1:
Hình 2.1 : Dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô
Các hộ gia đình cung cấp các yếu tố đầu vào sản xuất cho các doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp dùng yếu tố sản xuất này sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ
và bán hàng hoá, dịch vụ cho hộ gia đình.
Các hộ gia đình dùng thu nhập từ các yếu tố sản xuất thanh toán cho doanh
nghiệp khi mua hàng hoá và dịch vụ.
Như vậy, dòng bên trong là sự luân chuyển các nguồn lực thực sự. Hàng
hoá, dịch vụ từ các doanh nghiệp sang hộ gia đình và dịch vụ yếu tố sản xuất từ hộ
gia đình sang các doanh nghiệp. Dòng bên ngoài là các giao dịch thanh toán bằng
tiền. Các doanh nghiệp trả tiền cho các dịch vụ yếu tố sản xuất, các hộ gia đình
thanh toán các khoản chi tiêu về hàng hoá, dịch vụ cho các doanh nghiệp.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
26
Sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô đặt cơ sở cho các phương pháp tính toán
tổng sản phẩm trong nước GDP.
2. Phƣơng pháp xác định GDP
2.1. Phương pháp chi tiêu (cung trên)
Phương pháp chi tiêu đo lường GDP bằng cách thu thập các dữ liệu về chi tiêu
cho tiêu dùng (C - Cosumption), đầu tư (I - Investment), chi mua hàng hoá và dịch vụ
của chính phủ hay chi tiêu của chính phủ (G - Government Purchases of goods and
services) và xuất khẩu ròng (NX - Net Exports). Đây cũng là bốn bộ phận cấu thành
GDP xét về cách thức sử dụng các nguồn lực khan hiếm của xã hội.
Do giá trị tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế (Y) phải
bằng tổng chi tiêu để mua lượng hàng hoá và dịch vụ đó nên tổng chi tiêu bằng
GDP. Điều này có thể viết dưới dạng phương trình sau:
Y = GDP = C + I + G + NX
a. Tiêu dùng của các hộ gia đình (C - Cosumption)
Tiêu dùng của các hộ gia đình bao gồm tổng giá trị các hàng hoá và dịch vụ
cuối cùng mà các hộ gia đình mua được trên thị trường để chi dùng cho mục đích
đời sống. Bao gồm những khoản chi cho:
+ Hàng hoá vật chất: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng,…( những mặt
hàng có thể cân, đong, đo, đếm,…)
+ Giá trị của các hoạt động dịch vụ phục vụ đời sống: du lịch, y tế, giáo
dục,…
Nếu chi tiêu nhưng không phục vụ cho gia đình thì không tính vào C →
không tính vào GDP.
Hộ gia đình tự sản xuất ( không mua từ bên ngoài) → không tính vào C →
không tính vào GDP. Vì nền kinh tế thị trường không khuyến khích việc tự cung,
tự cấp mà khuyến khích trao đổi, mua bán lẫn nhau.
Nội trợ: tự làm → không được tính vào C → không được tính vào GDP.
Ví dụ: Giả sử một phụ nữ lấy người quản gia giúp việc cho gia đình cô. Sau
khi cưới, anh ta vẫn tiếp tục làm công việc trước đây. Theo bạn, thì cuộc hôn nhân
này có tác động đến GDP không? Nếu có, nó tác động đến GDP như thế nào?
→ Khi người phụ nữ lấy người quản gia, thì GDP giảm đi một lượng đúng
bằng tiền lương trước đây trả cho người quản gia. Điều này là do GDP được tính
giảm đi một lượng bằng tiền lương mà người quản gia không được hưởng nữa.
Nếu GDP tính bằng giá trị hiện vật của tất cả các hàng hoá và dịch vụ thì đám
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
27
cưới trên sẽ không ảnh hưởng đến GDP. Tuy nhiên, trên thực tế GDP lại là một
chỉ tiêu không hoàn hảo về hoạt động của nền kinh tế, bởi vì giá trị của một số
hàng hoá và dịch vụ bị bỏ qua. Khi công việc của người quản gia trở thành dịch
vụ tự làm tại gia đình thì hoạt động không còn được tính vào GDP nữa. Do đó,
đứng về mặt kinh tế, kịch liệt phản đối người chủ lấy người giúp việc.
Như vậy, C chỉ bao gồm những hàng hoá dịch vụ mà hộ gia đình mua vào
để phục vụ cho đời sống cá nhân, mà không bao gồm những hàng hoá, dịch vụ mà
gia đình tự sản xuất để tiêu dùng. Chi xây dựng và mua nhà ở mới không tính vào
tiêu dùng mà được hạch toán vào đầu tư tư nhân.
b. Đầu tư (I - Investment)
Đầu tư I phản ánh tổng đầu tư trong nước của khu vực tư nhân.
Nó bao gồm:
+ Nhà xưởng mới xây dựng
+ Trang thiết bị máy móc mới sản xuất
+ Chênh lệch hàng hoá tồn kho
Chênh lệch hàng hoá tồn kho thực chất là loại tài sản lưu động. Nó là
những hàng hoá được giữ lại để sản xuất hay tiêu thụ sau này. Nó được xem như
vốn lưu động sử dụng cho năm sau, vì vậy trong năm đó người ta cộng vào tổng
số vốn đầu tư của nền kinh tế.
Chênh lệch tồn kho = Giá trị tồn kho - Giá trị tồn kho
trong năm cuối năm đầu năm
Nếu giá trị hàng tồn kho cuối năm > giá trị hàng tồn kho đầu năm: các
doanh nghiệp tiêu thụ không hết sản phẩm sản xuất ra trong năm, do đó làm tăng
tài khoản đầu tư I dẫn đến tăng GDP.
Nếu giá trị hàng tồn kho cuối năm = giá trị hàng tồn kho đầu năm: các
doanh nghiệp tiêu thụ hết sản phẩm sản xuất ra trong năm. Do đó, không ảnh
hưởng tới đầu tư cũng như GDP.
Nếu giá trị hàng tồn kho cuối năm < giá trị hàng tồn kho đầu năm: các
doanh nghiệp tiêu thụ hết sản phẩm sản xuất ra trong năm đồng thời tiêu thụ một
phần hàng tồn kho năm trước chuyển sang. Do đó làm giảm tài khoản đầu tư I,
dẫn đến giảm GDP.
Như vậy, chỉ được tính vào đầu tư đối với phần tồn kho của năm đang xét,
tức là lượng tồn kho tăng thêm hoặc giảm bớt mà thôi. Có thể thấy đây là một
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
28
khoản điều chỉnh rất tinh vi, khoa học và chính xác trong quá trình tính toán GDP,
nó khắc phục hiện tượng tính trùng và bỏ sót trong quá trình tính toán.
Ngoài ra, chúng ta cần phân biệt khái niệm tổng đầu tư và đầu tư ròng.
Tổng đầu tư bao gồm 2 bộ phận:
+ Đầu tư thay thế: là chi tiêu để bù đắp giá trị của bộ phận tư bản hiện vật
đã hao mòn, được gọi là khấu hao (De - Depreciation).
+ Đầu tư ròng (IN - Net Investment): là khoản chi tiêu để mở rộng quy mô
của tư bản hiện vật.
Do đó, đầu tư ròng bằng tổng đầu tư trừ đi khấu hao.
IN = I - De hay I = IN + De
c. Chi tiêu của Chính phủ G (Government)
Chi tiêu của Chính phủ bao gồm 2 khoản lớn: Chi mua hàng hoá, dịch vụ
và chi chuyển nhượng (Tr - Transfer payments). Nhưng chỉ tính vào GDP những
khoản chi mua hàng hoá, dịch vụ, còn các khoản chi chuyển nhượng không được
tính vào GDP. Chi chuyển nhượng Tr ví dụ như các khoản trợ cấp cho những
người thuộc diện chính sách xã hội (người già, người tàn tật, …), những khoản chi
này không thể hiện việc mua sắm hàng hoá và dịch vụ mà chỉ đơn thuần là việc
chuyển tiền từ chính phủ sang các hộ gia đình. Chuyển giao thu nhập như vậy làm
thay đổi thu nhập của các hộ gia đình nhưng không tác động đến giá trị sản xuất
của nền kinh tế. Do đó, Tr không được tính vào GDP.
* Các khoản chi mua hàng hoá, dịch vụ của Chính phủ bao gồm:
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng
+ An ninh, quốc phòng
+ Y tế, giáo dục
+ Trả lương cho bộ máy quản lý nhà nước
Những khoản chi này đều có những hàng hoá, dịch vụ đối ứng nên được
tính vào GDP.
* Chi chuyển nhượng (Tr) bao gồm:
+ Chi bảo hiểm thất nghiệp
+ Trợ cấp cho người tàn tật, mất sức
+ Trả lương hưu trí
+ Trả nợ của Chính phủ
+ Trợ giá công ty
Những khoản này không được tính vào GDP.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
29
Như vậy, những khoản chi nào thuộc ngân sách quốc gia nhưng không có
hàng hoá, dịch vụ đối ứng thì không được tính vào GDP.
Ví dụ: Nhà nước chi cho môi trường: có đối ứng: môi trường trong sạch
hơn: được tính vào GDP.
Nhà nước chi hỗ trợ người tàn tật, mất sức,…: không có đối ứng: không
được tính vào GDP.
d. Xuất khẩu ròng NX (Net Export)
Xuất khẩu ròng về hàng hoá và dịch vụ (NX) là giá trị xuất khẩu (Export - X)
trừ đi giá trị nhập khẩu (Import - M) hay bằng khoản chi tiêu của người nước ngoài
cho mua hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra ở trong nước trừ đi khoản chi tiêu của
người dân trong nước cho mua hàng hoá và dịch vụ tạo ra ở nước ngoài.
NX = X - M
2.2. Phương pháp thu nhập (cung dưới)
Theo phương pháp này, GDP tính theo chi phí các yếu tố đầu vào của sản
xuất mà các doanh nghiệp phải thanh toán. Tổng chi phí mà doanh nghiệp phải
thanh toán trở thành thu nhập của công chúng. GDP tính theo phương pháp này
bao gồm những khoản sau:
- Tiền công, tiền lương (W - Wages): Là lượng thu nhập nhận được từ việc
cung cấp sức lao động.
- Tiền thuê nhà và đất (R - Rental).
- Lãi suất do công ty trả (i - interest): phụ thuộc vào lãi suất thị trường và
lượng vốn vay.
- Lợi nhuận công ty (Pr - Profit): là phần thu nhập còn lại của doanh thu
sau khi đã trừ đi chi phí sản xuất.
- Khấu hao TSCĐ (De - Depreciation): là khoản tiền dùng để bù đắp sự hao
mòn tài sản cố định.
- Thuế gián thu (Ti - Indirect Taxes): là những loại thuế gián tiếp đánh vào
thu nhập, người chịu thuế và người nộp thuế không phải là một.
Do đó, GDP theo phương pháp thu nhập được tính bằng công thức:
GDP = W + R + i + Pr + De + Ti
2.3. Phương pháp sản xuất
Phương pháp này có thể dùng để đo lường đóng góp của từng ngành vào
GDP. Song để đo lường giá trị sản xuất của mỗi ngành riêng biệt chúng ta phải
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
30
thận trọng để chỉ tính giá trị gia tăng của ngành đó. Do đó, phương pháp sản xuất
còn được gọi là phương pháp giá trị gia tăng.
GDP theo phương pháp sản xuất được tính bằng công thức:
GDP = ∑VAi
Giá trị gia tăng (VA) là khoản chênh lệch giữa giá trị sản lượng của một
doanh nghiệp với khoản mua vào về vật liệu và dịch vụ từ các doanh nghiệp khác,
mà đã được dùng hết trong việc sản xuất ra sản lượng đó.
VA = GO - IE
Trong đó:VA (Value Added) - Giá trị gia tăng
GO (Gross Output) - Tổng giá trị sản xuất
IE (Intermadiate Expenditure) - Chi phí trung gian
Tổng giá trị sản xuất (GO) là giá trị của toàn bộ lượng hàng hoá và dịch vụ
mà doanh nghiệp sản xuất ra trong năm, nó bao gồm cả phần hàng hoá đã tiêu thụ
và hàng tồn kho.
Chi phí trung gian (IE) bao gồm những chi phí vật chất và dịch vụ mua bên
ngoài được sử dụng một lần trong quá trình sản xuất như: chí phí nguyên nhiên
vật liệu, chi phí vận chuyển,… Chi phí trung gian không bao hàm khấu hao TSCĐ
vì TSCĐ được dùng nhiều lần trong quá trình sản xuất.
Phương pháp này loại trừ được sản phẩm trung gian của nền kinh tế trong
quá trình tính toán GDP.
Ví dụ: Có 3 doanh nghiệp:
DN 1 sản xuất 10 kg gạo bán với giá 6000 đ/kg.
DN 2 mua 5 kg gạo làm bột, bán được 40.000 đ.
DN 3 mua 30.000 đ bột làm bánh, bán được 40.000 đ.
Bỏ qua mọi khoản chi phí khác. Hãy tính GDP??
Nếu lấy: 60.000 + 40.000 + 40.000 = 140.000 đ → Tính trùng!!
Chi phí trung gian của DN 1 = 0.
Chi phí trung gian của DN 2 = 30.000 đ
Chi phí trung gian của DN 3 = 30.000 đ
Tổng chi phí trung gian: 60.000 đ
GDP = 140.000 - 60.000 = 80.000 đ
Lưu ý: Về nguyên tắc, việc tính GDP theo các phương pháp khác nhau phải
cho cùng kết quả như nhau. Tuy nhiên, trên thực tế GDP tính theo 3 phương pháp
trên có thể cho kết quả khác nhau do sai số thống kê và tính phức tạp của GDP.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
31
III. Một số tài khoản quốc dân cơ bản
1. Tổng sản phẩm quốc dân GNP - Gross National Product
Tổng sản phẩm quốc dân GNP đo lường tổng giá trị của các loại hàng hoá
và dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia hay một địa phương tạo ra trong một thời
kỳ nhất định, thường là một năm.
Như vậy, cũng giống với GDP, GNP cũng chỉ tính giá trị của các loại hàng hoá
và dịch vụ cuối cùng, không tính đến giá trị của các loại hàng hoá và dịch vụ trung gian.
GNP khác với GDP là nó xét theo quyền sở hữu về tư liệu sản xuất nên
GNP bao gồm 2 phần:
+ Phần do người trong nước hay trong địa phương tạo ra từ trong nước hay
địa phương của họ.
+ Phần do người trong nước hay người địa phương tạo ra ở nước ngoài hay
ở địa phương khác.
Nói cách khác, GNP bằng GDP cộng với thu nhập yếu tố ròng từ nước ngoài
(NIA - Net factor Income from Abroad) hay chênh lệch giữa thu nhập được dân cư
trong nước tạo ra ở nước ngoài và thu nhập của người nước ngoài tạo ra ở trong nước.
GNP = GDP + NIA
NIA = Thu từ nước ngoài - Chi cho nước ngoài
Thu từ nước ngoài bao gồm các khoản như:
+ Xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, sức lao động.
+ Lợi tức cổ phần do mua cổ phần ở nước ngoài.
+ Lợi nhuận do đầu tư ra nước ngoài,…
Chi cho nước ngoài bao gồm các khoản như:
+ Nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, sức lao động.
+ Lợi tức cổ phần do người nước ngoài mua cổ phần ở trong nước.
+ Lợi nhuận do đầu tư nước ngoài vào trong nước,…
NIA có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn 0.
Nếu NIA > 0 thì GNP > GDP và ngược lại.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay mặc dù thu nhập của người
Việt Nam kiếm được từ nước ngoài có tăng lên nhưng do khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài khá lớn nên GDP của Việt Nam thường lớn hơn GNP (nghĩa là
NIA < 0). Tỷ lệ GDP so với GNP của Việt Nam phổ biến khoảng 98%.
2. Sản phẩm quốc nội ròng NDP - Net Domestic Product
NDP = GDP - De
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
32
3. Sản phẩm quốc dân ròng NNP - Net National Product
Sản phẩm quốc dân ròng là phần GNP còn lại sau khi trừ khấu hao:
NNP = GNP - De
4. Thu nhập quốc dân NI - National Income
Thu nhập quốc dân là phần NNP còn lại sau khi trừ thuế gián thu:
NI = NNP - Ti
NI phản ánh thu nhập từ các yếu tố sản xuất: lao động, vốn, đất đai, tài nguyên
thiên nhiên,... hay đồng thời cũng là thu nhập của các hộ gia đình trong nền kinh tế.
5. Thu nhập cá nhân PI - Personal Income
Thu nhập cá nhân là khoản thu nhập mà các hộ gia đình và doanh nghiệp
phi công ty (non - corporate businesses) nhận được từ các doanh nghiệp cho các
dịch vụ yếu tố và từ các chương trình trợ cấp của chính phủ về phúc lợi và bảo
hiểm xã hội.
PI = NI - Lợi nhuận nộp, không chia + Tr
Tr (Transfer payment): Trợ cấp của Chính phủ
6. Thu nhập khả dụng Yd - Disposible Income
Yd = PI - Tcá nhân
Thu nhập khả dụng bằng thu nhập cá nhân trừ thuế thu nhập cá nhân và các
khoản phí ngoài thuế phải nộp cho Chính phủ (như lệ phí giao thông,…).
Các chỉ tiêu đo lường thu nhập của nền kinh tế kể trên tuy ít nhiều có khác
nhau. Song nhìn chung, chúng có mối liên hệ chặt chẽ và tăng, giảm cùng chiều
với GDP tuy không nhất thiết theo cùng một tỷ lệ.
Mối quan hệ đó được tổng hợp qua sơ đồ sau:
GNP
NIA
NX
GDP
De
G
NNP
Ti
I NI
Td - Tr
C Yd
IV. Chỉ số giá tiêu dùng CPI (Consumer Price Index)
1. Khái niệm
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo lường mức giá trung bình của giỏ hàng hoá
và dịch vụ mà một người tiêu dùng điển hình mua.
Chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ tiêu tương đối, phản ánh xu thế và mức độ
biến động của giá bán lẽ hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ dùng trong sinh hoạt của
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
33
dân cư và các hộ gia đình. Do đó, nó được dùng để theo dõi sự thay đổi của chi
phí sinh hoạt theo thời gian.
Khi chỉ số giá tiêu dùng tăng nghĩa là mức giá trung bình tăng. Kết quả là
người tiêu dùng phải chi nhiều tiền hơn để có thể mua được một lượng hàng hoá
và dịch vụ như cũ nhằm duy trì mức sống trước đó của họ.
Ở Việt Nam, hàng tháng tổng cục Thống kê tính toán và công bố những số
liệu mới về CPI. Trên cơ sở những con số thống kê này các nhà phân tích nhanh
chóng đưa ra những bình luận về nguyên nhân thay đổi giá cả, đồng thời dự báo
triển vọng thay đổi giá cả trong tương lai trên các mặt báo hằng ngày hoặc đưa lên
tivi. Chúng ta có thể đọc thấy những con số thống kê này trong các Niên giám
thống kê do Tổng Cục Thống kê phát hành hằng năm.
Công thức tính chỉ số giá tiêu dùng CPI:
Chúng ta có thể sử dụng 2 công thức sau để tính chỉ số giá tiêu dùng CPI:
* Công thức 1: 100*00
ii
o
i
t
it
qp
qpCPI (%)
* Công thức 2: ii
p
t diCPI 0 (%)
Trong đó: :i
pi gọi là chỉ số giá cá biệt của hàng hoá i.
1000
i
t
ii
pp
pi
:0
id gọi là tỷ trọng hàng hoá i ở năm gốc
00
00
0
ii
iii
qp
qpd
Nhận xét:
Đối với công thức 1:
+ Ưu điểm: Nhìn vào công thức 1 cho chúng ta biết được tổng chi tiêu mà
người tiêu dùng bỏ ra là bao nhiêu.
+ Nhược điểm: Không cho chúng ta biết sự biến động giá cả từng mặt hàng.
Đối với công thức 2:
+ Ưu điểm: Cho chúng ta biết được biến động tỷ trọng của từng mặt hàng
cá biệt.
+ Nhược điểm: Không cho biết tổng chi tiêu mà người tiêu dùng bỏ ra là
bao nhiêu.
Do đó, cách 2 ưu điểm hơn, nên được sử dụng nhiều hơn.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
34
2. Xây dựng chỉ số giá tiêu dùng CPI
Để xây dựng chỉ số giá tiêu dùng, trước hết các nhà thống kê kinh tế chọn
năm cơ sở (năm gốc). Tiếp đó, họ tiến hành các cuộc điều tra tiêu dùng trên khắp
các vùng của đất nước để xác định “giỏ” hàng hoá và dịch vụ điển hình mà dân cư
mua trong năm cơ sở.
Hiện nay, giỏ hàng đặc trưng để tính CPI của Việt Nam được hình thành
bởi 10 nhóm hàng cấp 1; 34 nhóm hàng cấp 2 và 86 nhóm hàng cấp 3.
Các bước tính CPI:
Bƣớc 1: Chọn năm cơ sở và xác định giỏ hàng cho năm cơ sở (qi) với t biểu
thị năm hay thời kỳ thứ t, t = 0 ở năm cơ sở và i là mặt hàng tiêu dùng thứ i trong giỏ
hàng cơ sở: 0
i
t
i qq
Bƣớc 2: Xác định giá của từng mặt hàng trong giỏ hàng cố định cho các
năm (pi).
Bƣớc 3: Tính chi phí mua giỏ hàng cố định theo giá thay đổi ở các năm.
Chi phí cho giỏ hàng của mỗi năm được tính bằng cách nhân giá của từng
mặt hàng của năm tương ứng với lượng cố định của các mặt hàng ấy ở năm cơ sở,
sau đó cộng các giá trị tìm được với nhau.
Chi phí giỏ hàng ở năm t = 0
i
t
i qp
Bƣớc 4: Tính chỉ số giá tiêu dùng cho các năm.
100*00
ii
o
i
t
it
qp
qpCPI
Bƣớc 5: Tính tỷ lệ lạm phát (л)
Đây là công việc cuối cùng giúp chúng ta hiểu được ứng dụng của CPI
trong phân tích kinh tế, cụ thể là dùng CPI để tính tỷ lệ lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát hay tốc độ tăng giá của giỏ hàng tiêu dùng năm sau so với
năm trước được tính bằng công thức sau:
(%)100*1
1
t
ttt
CPI
CPICPI
Trong đó: лt là tỷ lệ lạm phát ở năm t.
CPIt là chỉ số giá tiêu dùng ở năm t.
CPIt-1là chỉ số giá tiêu dùng ở năm (t -1).
Bên cạnh việc tính chỉ số giá tiêu dùng, các nhà thống kê kinh tế còn tính
chỉ số giá sản xuất PPI (Producer Price Index).
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
35
Chỉ số giá sản xuất PPI là giá trung bình của hàng hoá do người sản xuất
bán ra bao gồm một số hàng bán ra cho những người sản xuất khác chứ không
phải bán cho các hộ gia đình. PPI phản ánh sự biến động giá cả đầu vào, thực chất
là biến động giá cả chi phí sản xuất. Xu hướng biến động giá cả chi phí tất yếu sẽ
tác động đến xu hướng biến động giá cả hàng hoá trên thị trường. Cách tính PPI
hoàn toàn giống cách tính CPI.
Ví dụ:
Sản
phẩm
2006 2007 Tính
P0
(1000đ/kg) Q0 (kg)
P1
(1000đ/kg) Q1 (kg) P1Q0 P0Q0
A 3 20 4 30 80 60
B 15 30 17 25 510 450
C 5 12 8 20 96 60
∑ 686 570
Hãy tính chỉ số giá tiêu dùng CPI?
CPI = (∑P1Q0/∑P0Q0)*100 = (686/570) *100 = 120,35%
3. Những vấn đề phát sinh khi đo lƣờng chi phí sinh hoạt
3.1. Lệch do hàng hoá mới
Hàng hoá mới luôn xuất hiện thay thế hàng hoá cũ. Hàng hoá mới xuất hiện
tạo cho người tiêu dùng có sự lựa chọn đa dạng hơn, điều này cũng có nghĩa là mỗi
một đồng trở nên có giá trị hơn. Tuy nhiên, vì CPI chỉ tính dựa trên một giỏ hàng
hoá và dịch vụ cố định, không tính đến hàng hoá mới được người tiêu dùng mua
nên nó không phản ánh được sự thay đổi về sức mua của đồng tiền trong đó.
3.2. Lệch do chất lượng hàng hoá thay đổi
Hầu hết các hàng hoá và dịch vụ đều trải qua sự cải thiện chất lượng không
ngừng theo thời gian. Khi chất lượng hàng tiêu dùng tăng thì giá trị của đồng tiền
cũng tăng theo. Đương nhiên, nếu chất lượng hàng hoá nào đó thuộc giỏ hàng tiêu
dùng giảm liên tục trong khi giá của hàng hoá ấy không thay đổi thì giá trị của đồng
tiền cũng giảm đi. Tuy nhiên, CPI chỉ phản ánh được mặt tăng giá chứ không thể
hiện được sự thay đổi về chất lượng.
3.3. Lệch thay thế
Thay đổi của CPI đo lường phần trăm thay đổi giá cả của một giỏ hàng hoá
và dịch vụ cố định. Mặc dù giá hàng hoá và dịch vụ thay đổi từ năm này qua năm
khác song không phải giá của mọi hàng hoá thay đổi theo cùng một tỷ lệ như nhau.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
36
Một số hàng hoá có giá tăng nhanh hơn những hàng hoá khác. Chính những thay
đổi về giá tương đối này khiến người tiêu dùng tìm đến những mặt hàng có giá tăng
chậm hơn hay rẻ hơn tương đối thay vì tiêu dùng đúng như cơ cấu của giỏ hàng hoá
và dịch vụ cố định trước đây. Sự thay đổi cơ cấu của giỏ hàng hoá và dịch vụ này
không được tính đến trong CPI.
Để giảm bớt những vấn đề sai lệch, Tổng cục Thống kê đã định kỳ rà soát
và sửa đổi bổ sung giỏ hàng dùng để tính CPI. Hiện tại, chúng ta đang dùng giỏ
hàng cố định của năm 2000. Tuy nhiên, cho dù giỏ hàng có được cập nhật thì CPI
cũng chỉ có giá trị hạn chế trong việc tiến hành các so sánh chi phí sinh hoạt cho
những thời kỳ dài và thậm chí nó cũng chưa phải là một thước đo tốt để đo lường
tỷ lệ lạm phát hàng năm.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
37
CHƢƠNG III
TỔNG CUNG VÀ TỔNG CẦU
I. Hệ thống kinh tế học vĩ mô
Theo cách tiếp cận hệ thống, nền kinh tế được xem như là một hệ thống, gọi
là hệ thống kinh tế vĩ mô. Hệ thống này theo P.A. Samuelson được đặc trưng bởi 3
yếu tố sau:
- Đầu vào: bao gồm qui mô các nguồn lực, các nhân tố bên ngoài và các
chính sách kinh sách kinh tế vĩ mô.
+ Qui mô các nguồn lực (Tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, nguồn
vốn, tri thức công nghệ).
+ Các nhân tố bên ngoài (Khí hậu, thời tiết, quan hệ kinh tế quốc tế).
+ Các chính sách kinh tế vĩ mô (Chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ,
chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách thu nhập).
- Đầu ra: cho biết kết quả hoạt động của nền kinh tế và cho biết mục tiêu
kinh tế vĩ mô đạt được như thế nào. (Sản lượng, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp,
giá cả và tiền lương, cán cân thanh toán,…).
- Hộp đen kinh tế vĩ mô: Trình bày cơ chế vận hành của nền kinh tế. Hoạt
động của hộp đen sẽ quyết định chất lượng của các biến đầu ra. Hai lực lượng
quyết định sự hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô là tổng cung và tổng cầu.
Đầu vào Hộp đen kinh tế vĩ mô Đầu ra
1. Quy mô các nguồn lực
(đầu vào của 1 DN)
- Đất đai
- Tài nguyên thiên nhiên
- Lao động
- Vốn (tư bản)
2. Các yếu tố bên trong
(chính sách kinh tế vĩ mô)
- Chính sách tài khoá:
+ Thu ngân sách, thuế T
+ Chi ngân sách, chi tiêu G
- Chính sách tiền tệ:
1. Tổng cung (AS)
2. Tổng cầu (AD)
1. Sản lượng: Y
2. Tỷ lệ lạm phát (π)
3. Tỷ lệ thất nghiệp (U)
4. Giá cả và tiền lương
5. Cán cân thanh toán
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
38
+ Cung về tiền (MS)
+ Lãi suất (r)
- Chính sách kinh tế đối
ngoại: Tỷ giá hối đoái
- Chính sách thu nhập: Giá cả
và tiền lương
3. Các yếu tố bên ngoài:
- Điều kiện thời tiết, khí hậu
- Quan hệ kinh tế quốc tế
II. Tổng cung và tổng cầu
1. Khái niệm
1.1. Tổng cung
Tổng cung AS (Aggregate Supply) là tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ
mà các doanh nghiệp sản xuất và bán ra trên thị trường trong một khoảng thời
gian nhất định, trong điều kiện chi phí giá cả và khả năng sản xuất cho trước.
Tổng cung phụ thuộc vào chi phí sản xuất, giá cả và năng lực sản xuất của quốc
gia. Ngoài ra, tổng cung còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố làm tăng sản lượng tiềm
năng, đó là các yếu tố: tài nguyên thiên nhiên, tư bản, nhân lực, tri thức công nghệ.
Tổng cung liên quan đến sản lượng tiềm năng.
Sản lượng tiềm năng (Yp) không phải là sản lượng tối đa mà là sản lượng
cao nhất mà một nền kinh tế có thể duy trì, sản lượng đó ứng với tỷ lệ thất nghiệp
tự nhiên (Un) và không đẩy tỷ lệ lạm phát lên cao. Thực chất, sản lượng tiềm năng
nhỏ hơn sản lượng tối đa một khoảng, khoảng đó lớn hay bé phụ thuộc vào tình
hình mỗi đất nước.
Lưu ý:
- Khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp bán ra trên thị
trường xác định độ lớn của tổng cung.
- Tổng cung tính cho một khoảng thời gian, không tính tại một thời điểm.
- Khả năng sản xuất của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói
riêng là giới hạn cao nhất của tổng cung.
Biểu diễn đường tổng cung trên đồ thị:
Trục tung: giá P; trục hoành: sản lượng Y.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
39
+ Đường tổng cung dài hạn (đường sản lượng tiềm năng) ASLR (AS long run)
là đường thẳng đứng tại mức sản lượng tiềm năng.
ASLR là đường thẳng chạy song song với trục tung.
Sản lượng tiềm năng Yp quyết định vị trí của đường tổng cung dài hạn.
Trong dài hạn, sản lượng độc lập với mức giá.
Do đó, trong dài hạn Chính phủ không nên dùng công cụ giá để điều tiết
quy mô sản xuất của các doanh nghiệp.
Hình 3.1: Đường tổng cung dài hạn và ngắn hạn
+ Đường tổng cung ngắn hạn ASSR (AS short run) là đường dốc lên, cho
biết mối quan hệ cùng chiều giữa mức giá và sản lượng.
Chúng ta cần chú ý đến độ dốc của đường tổng cung AS:
- Tại mức sản lượng rất thấp so với sản lượng tiềm năng (Ya < YP): đường
tổng cung tương đối nằm ngang. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp rất nhạy
cảm trước sự thay đổi của giá cả: một thay đổi nhỏ về giá cả đầu ra sẽ khuyến
khích các doanh nghiệp tăng nhanh sản lượng để đáp ứng nhu cầu đang tăng lên.
- Tại mức sản lượng Ya > YP: đường tổng cung dốc ngược lên. Điều này
chứng tỏ các doanh nghiệp ít nhạy cảm trước sự thay đổi của giá cả thị trường.
Điều này cho thấy, ở dưới mức sản lượng tiềm năng, một sự thay đổi nhỏ
về giá cả đầu ra sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tăng nhanh sản lượng để đáp
ứng nhu cầu đang tăng lên. Trong trường hợp này, Chính phủ rất nên dùng công
cụ giá để điều tiết qui mô của các doanh nghiệp.
Từ mức sản lượng tiềm năng trở đi, độ dốc của đường AS tăng lên rất cao,
khi quốc gia tận dụng hết năng lực sản xuất thì AS thẳng đứng. Tại đó, mức giá có
tăng thêm bao nhiêu đi nữa thì mức tăng cung cũng không thể tăng thêm.
1.2. Tổng cầu
Tổng cầu AD (Aggregate Demand) là tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ
mà các tác nhân trong nền kinh tế mua vào tương ứng với mức giá cả, thu nhập và
các chính sách kinh tế vĩ mô.
ASLR ASSR
Y* Y
P
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
40
Tổng cầu AD cũng chịu tác động của nhiều yếu tố như: giá cả chung của
nền kinh tế, thu nhập của hộ gia đình, chính sách thuế và chi tiêu của Chính phủ,
khối lượng tiền tệ cung ứng.
Biểu diễn đường tổng cầu trên đồ thị:
Trục tung: giá P; trục hoành: sản lượng Y
A (P0,Q0) P0 > P1 → Y0 < Y1
B (P1,Q1)
Đường tổng cầu AD dốc xuống, nghiêng về phía phải cho biết mối quan hệ
ngược chiều giữa giá cả và sản lượng.
Tổng cầu và đường tổng cầu chỉ cho biết mối quan hệ của mức giá chung
với sản lượng, không cho biết mối quan hệ của các yếu tố khác với sản lượng.
Hình 3.2: Đường tổng cầu AD
Tại sao đường tổng cầu AD dốc xuống?
Đường tổng cầu AD dốc xuống phản ánh mức giá ảnh hưởng ngược chiều
đến lượng tổng cầu. Xét 4 thành tố của tổng cầu:
- Tiêu dùng của nhà nước - G được xem là một yếu tố ngoại sinh, vì mục
đích chi tiêu của nhà nước không phụ thuộc vào mức giá, mà nhằm vào mục tiêu
kinh tế vĩ mô.
- Tiêu dùng của hộ gia đình - C, mức giá giảm sẽ kích thích các hộ gia đình
tiêu dùng nhiều hơn, có nghĩa là lượng tổng cầu về GDP tăng lên và ngược lại (hiệu
ứng của cải - wealth effect).
- Đầu tư - I: mức giá thấp hơn sẽ làm cho dân chúng giữ tiền mặt ít hơn để
mua một lượng hàng hoá theo kế hoạch. Nhiều hộ gia đình sẽ gửi tiền tiết kiệm
nhiều hơn => lãi suất có xu hướng giảm => đầu tư có xu hướng tăng => tăng tổng
cầu (hiệu ứng lãi suất - interest rate effect ).
- Xuất khẩu ròng - NX: Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế,
người tiêu dùng có xu hướng sử dụng nhiều hơn hàng hoá và dịch vụ sản xuất
trong nước tại một tỷ giá hối đoái => xuất khẩu được khuyến khích và nhập khẩu
P
P0
P1
Y1 Y0 Y
AD
A
B
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
41
bị hạn chế hơn => làm tăng lượng tổng cầu (hiệu ứng tỷ giá hối đoái - exchange
rate effect).
Như vậy, cả ba hiệu ứng trên thể hiện mối quan hệ nghịch giữa mức giá P
và tổng cầu AD: P giảm => AD tăng và ngược lại. Đó chính là lý do đường AD
dốc xuống.
2. Cân bằng tổng cung - tổng cầu
Sự cân bằng tổng cung - tổng cầu xảy ra khi nền kinh tế nằm ở giao điểm
giữa hai đường AD và AS. Đó chính là điểm E và E được gọi là điểm cân bằng
của nền kinh tế. Tại E, tổng cung bằng tổng cầu, nói cách khác toàn bộ nhu cầu
của nền kinh tế được các doanh nghiệp đáp ứng đầy đủ. P0 là mức giá cân bằng,
Y0 là mức sản lượng cân bằng.
Hình 3.3: Cân bằng tổng cung tổng cầu
Đồ thị I phản ánh trạng thái suy thoái của nền kinh tế trong ngắn hạn.
Đồ thị I: Trạng thái suy thoái
∆Y = Ya - YP : chỉ tiêu đánh giá mức độ suy thoái.
Mức độ suy thoái của nền kinh tế có thể được xác định dựa trên 3 dấu hiệu:
- Vị trí của điểm cân bằng E
- Tương quan sản lượng
- Tương quan tỷ lệ thất nghiệp
Gọi Ua: tỷ lệ thất nghiệp thực tế tương ứng với mức sản lượng thực tế Ya.
Un: tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tương ứng với mức sản lượng tự nhiên.
Vì Ya < Yp nên Ua > Un.
P
Y
ASSR
AD
YP
Pa
E
P
Y
AS
AD
Y0
P0
E
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
42
Đồ thị II: phản ánh trạng thái cân bằng tối ưu của nền kinh tế trong ngắn
hạn. Khi đó, Ya = YP nên Ua = Un.
s
Đồ thị II: Trạng thái cân bằng tối ưu
Đồ thị III phản ánh trạng thái thịnh vượng của nền kinh tế trong ngắn hạn.
Khi đó, Ya > Yp nên Ua < Un.
Đồ thị III: Trạng thái thịnh vượng
Như vậy, nền kinh tế của các quốc gia chỉ xảy ra một trong ba trạng thái cân
bằng nói trên. Nếu nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng tối ưu thì không cần sự can
thiệp của Chính phủ. Nhưng nếu ở trạng thái suy thoái hay thịnh vượng thì rất cần
sự can thiệp của Chính phủ. Để can thiệp, Chính phủ dựa vào hai trường phái sau:
- Trường phái cổ điển (trường phái trọng cung): Chỉ tác động vào đường
tổng cung ngắn hạn ASSR, cố định tổng cầu và tổng cung dài hạn.
- Trường phái hiện đại (trường phái trọng cầu): Chỉ tác động vào đường
tổng cầu AD, cố định tổng cung ngắn hạn và dài hạn.
3. Sự di chuyển và dịch chuyển đƣờng tổng cung và đƣờng tổng cầu
3.1. Khái niệm
3.1.1. Di chuyển:
Di chuyển là một thuật ngữ đề cập đến hiện tượng trượt dọc trên một đường
nhất định, đó là sự chuyển dịch trên cùng một đường tổng cung hay tổng cầu, do tác
động của biến nội sinh (mức giá) trong điều kiện các biến ngoại sinh cố định.
P
Y
ASSR
AD
Yp
Pa
E
P
Y
ASSR
AD
Yp=Ya
Pa
E
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
43
3.1.2. Dịch chuyển:
Dịch chuyển đề cập đến hiện tượng thay đổi vị trí của một đường, là quá
trình dịch chuyển toàn bộ đường tổng cung hay tổng cầu, do tác động của các biến
ngoại sinh trong điều kiện biến nội sinh (mức giá) cố định.
3.2. Nhân tố di chuyển, dịch chuyển tổng cung, tổng cầu
3.2.1. Nhân tố di chuyển, dịch chuyển tổng cầu
Trên hệ trục Y - P, sự di chuyển dọc một đường tổng cầu phản ánh sự thay
đổi của lượng tổng cầu do sự thay đổi của mức giá trong điều kiện các biến ngoại
sinh cố định. Đường tổng cầu di chuyển ngược chiều khi có sự thay đổi của mức
giá trong điều kiện các biến ngoại sinh cố định.
Hình 3.4: Sự di chuyển của AD
Khi một chính sách nào đó làm thay đổi lượng cầu về GDP tại mỗi mức giá
cho trước, thì AD sẽ dịch chuyển. GDP tăng AD dịch chuyển sang phải và ngược lại.
Hình 3.5: Sự dịch chuyển của AD
AD = C + I + G + X - M
Trong đó:
C: Chi tiêu của hộ gia đình
I: Chi cho đầu tư của các doanh nghiệp
G: Chi tiêu của Chính phủ
X: Xuất khẩu
M: Nhập khẩu
P0
Y1 Y0 Y
P
AD1
A B
AD0
P0
P1
Y1 Y0 Y
P
AD
A
B
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
44
- Xét chính sách tài khoá:
+ Chi ngân sách G tăng (giảm) làm tổng cầu AD tăng (giảm): AD dịch
chuyển từ AD0 đến AD1 (AD dịch chuyển từ AD1 về AD0).
+ Thu ngân sách tăng (giảm) làm thu nhập giảm (tăng), kéo thi chi tiêu C
giảm (tăng) làm tổng cầu AD giảm (tăng): AD dịch chuyển từ AD1 về AD0 (AD
dịch chuyển từ AD0 → AD1).
- Xét chính sách tiền tệ:
+ Khi ngân hàng trung ương tăng (giảm) lượng cung tiền MS dẫn đến lãi
suất giảm (tăng), kéo theo đầu tư của các doanh nghiệp tăng (giảm) → tổng cầu AD
tăng (giảm): AD dịch chuyển từ AD0 đến AD1 (AD dịch chuyển từ AD1→ AD0).
- Xét chính sách đối ngoại:
Khi tỷ giá hối đoái tăng → đồng nội tệ tăng giá (đồng ngoại tệ mất giá) →
xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng → tổng cầu AD giảm: AD dịch chuyển từ AD1 về
AD0. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm, tổng cầu AD tăng.
- Xét chính sách thu nhập:
Khi tiền lương tăng (giảm) → thu nhập tăng (giảm) → chi cho tiêu dùng
tăng (giảm) → tổng cầu AD tăng (giảm): AD dịch chuyển từ AD0 đến AD1 (AD
dịch chuyển từ AD1 về AD0).
3.2.2. Nhân tố di chuyển, dịch chuyển tổng cung
Đường tổng cung ngắn hạn di chuyển cùng chiều khi có sự thay đổi của
mức giá trong điều kiện các biến ngoại sinh cố định.
Đường tổng cung dịch chuyển sang trái hoặc sang phải phụ thuộc vào tác
động của lao động, tài nguyên, kỹ thuật và các chi phí đầu vào khác.
Những yếu tố làm thay đổi chi phí sản xuất sẽ làm đường tổng cung dịch chuyển.
Hình 3.6: Sự di chuyển và dịch chuyển của AS
Tổng chi phí sản xuất (TC - Total Cost) là toàn bộ hao phí tính bằng tiền của
các yếu tố đầu vào mà các doanh nghiệp đã sử dụng trong quá trình kinh doanh.
P
Y
AS1
YP
ASLR
B
A AS2
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
45
Khi tổng chi phí sản xuất tăng kéo theo tổng cung ngắn hạn giảm: ASSR
dịch chuyển sang trái từ AS1 về AS2 và ngược lại khi tổng chi phí sản xuất giảm
thì đường tổng cung dịch chuyển sang phải.
Những yếu tố làm thay đổi tổng chi phí sản xuất là:
+ Sự thay đổi về công nghệ sản xuất.
+ Sự thay đổi về giá cả của các yếu tố đầu vào.
Ngoài tổng chi phí sản xuất là yếu tố cơ bản làm dịch chuyển tổng cung
còn có những yếu tố khác tác động như: thời tiết khí hậu, giá cả của hàng hoá
khác, thị trường độc quyền.
Sự dịch chuyển của đường tổng cung dài hạn ASLR sẽ làm cho đường tổng
cung ngắn hạn ASSR dịch chuyển theo và dịch chuyển cùng chiều.
III. Quá trình tự điều chỉnh của nền kinh tế
1. Điều chỉnh ngắn hạn
Giả sử nền kinh tế đang ở trạng thái cân bằng tối ưu E0, nhưng do tác động
của một yếu tố nào đó (chẳng hạn C tăng, I tăng, G tăng, NX tăng) làm cho đường
tổng cầu đột ngột tăng lên, đường AD0 dịch chuyển đến AD1. Mức giá tăng lên từ
P0 đến P1, các doanh nghiệp sẽ tăng sản lượng một cách tương ứng, cho đến khi
đạt mức sản lượng Y1, tại đây AD = AS nên trạng thái cân bằng được thiết lập, E1
là điểm cân bằng ngắn hạn, tại E1 giá cả và sản lượng đều tăng và tăng bao nhiêu
hoàn toàn phụ thuộc vào độ dốc của đường AS.
Hình 3.7: Quá trình tự điều chỉnh của nền kinh tế
2. Điều chỉnh trung hạn
Ở trạng thái E1 không phải mọi việc đã kết thúc, do giá cả tăng làm cho
tiền lương tăng và chi phí sản xuất tăng, đường AS sẽ dịch chuyển giảm từ ASo
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
46
đến AS1. Trạng thái cân bằng trung hạn được thiết lập ở E2. So với E1, tại E2 sản
lượng đã giảm đi nhưng giá cả đã tăng lên.
3. Điều chỉnh dài hạn
Quá trình trên còn tiếp tục diễn ra, trong chừng mực sản lượng còn vượt
quá sản lượng tiềm năng Yp thì đường tổng cung tiếp tục giảm dịch chuyển. Kết
quả là sản lượng giảm đi và giảm đến mức Yp. Nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng
dài hạn tại E3 tương ứng với mức giá và sản lượng cân bằng P3 và Yp.
4. Kết luận
Quá trình tự điều chỉnh của nền kinh tế diễn ra một cách chậm chạp và có
thể kéo dài trong một thời gian nhất định. Do đó, Chính phủ ở các quốc gia có thể
can thiệp vào thị trường bằng các chính sách kinh tế vĩ mô tác động vào tổng cung,
tổng cầu nhằm duy trì nền kinh tế ở mức sản lượng tiềm năng Yp và rút ngắn thời
gian của một chu kỳ kinh doanh để đạt mục tiêu ổn định hoá nền kinh tế.
IV. Mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản
1. Tổng sản phẩm quốc dân và tăng trƣởng kinh tế
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP - Gross National Product) là giá trị của
toàn bộ hàng hoá và dịch vụ của một quốc gia sản xuất ra trong một thời gian nhất
định (thường là một năm).
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về số lượng và chất lượng sản phẩm xã
hội và các yếu tố sản xuất ra nó.
Tỷ lệ tăng trưởng sản phẩm quốc dân thực tế gọi là tỷ lệ tăng trưởng, nói
cách khác khi nói tăng trưởng kinh tế là đã hàm ý tăng trưởng tổng sản phẩm quốc
dân thực tế.
Trong ngắn hạn, tăng trưởng kinh tế được đo bằng tốc độ tăng sản lượng
thực tế Ya. Còn trong dài hạn, tăng trưởng kinh tế được đo bằng tốc độ tăng sản
lượng tiềm năng Yp.
2. Chu kỳ kinh doanh và sự thiếu hụt sản lƣợng
Chu kỳ kinh doanh là sự dao động của GNP thực tế xung quanh xu hướng
tăng lên của sản lượng tiềm năng.
Độ chênh lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế gọi là thiếu
hụt sản lượng.
Thiếu hụt sản lượng = Sản lượng tiềm năng - Sản lượng thực tế
Khoảng cách giữa hai điểm cực đại hoặc cực tiểu kế tiếp nhau được gọi là
một chu kỳ, các điểm cực đại gọi là đỉnh, các điểm cực tiểu gọi là đáy. Khi sản
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
47
lượng giảm từ đỉnh xuống đáy ta nói nền kinh tế đang bị thu hẹp (suy thoái), khi
sản lượng từ đáy lên đỉnh ta nói nền kinh tế đang được mở rộng (hưng thịnh).
Ở các chu kỳ kinh doanh khác nhau, hình thái và thời gian cũng khác nhau.
Chính sự biến động đó gây khó khăn rất nhiều cho các nhà kinh tế trong việc dự
báo và hạn chế chu kỳ kinh doanh.
3. Tăng trƣởng và lạm phát
Thông thường những thời kỳ kinh tế phát đạt, tăng trưởng cao thì lạm phát
có xu hướng tăng lên và ngược lại. Song giữa tăng trưởng và lạm phát có mối
quan hệ như thế nào, đâu là nguyên nhân, đâu là kết quả, kinh tế vĩ mô chưa có
câu trả lời rõ ràng. Nhưng muốn giảm lạm phát trong ngắn hạn thì các chính sách
kinh tế đều hướng vào việc thắt chặt chi tiêu, giảm tổng cầu và do đó nền kinh tế
phải trải qua một thời kỳ đình đốn, suy thoái và thất nghiệp.
4. Lạm phát và thất nghiệp
Trong ngắn hạn, các nhà kinh tế cho rằng lạm phát càng cao thì thất nghiệp
càng giảm và ngược lại, quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp là quan hệ tỷ lệ nghịch.
Trong dài hạn, các nhà kinh tế cho rằng thất nghiệp sẽ giữ ở mức thất
nghiệp tự nhiên với mọi mức lạm phát.
5. Tăng trƣởng và thất nghiệp
Khi nền kinh tế có tăng trưởng cao thì thất nghiệp thấp và ngược lại.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp được lượng hoá theo định luật
OKun (Arthun OKun 1929 - 1979).
Định luật OKun cho thấy lượng thay đổi của tỷ lệ thất nghiệp thực tế khi có
sự thay đổi trong tương quan giữa sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng. Đây
là con số ước lượng có tính chất trung bình mà OKun là người đầu tiên phát hiện
ra. Về sau do hoàn cảnh thay đổi, các nhà kinh tế đã ước lượng lại và có cách tính
khác nhau. Hai cách trình bày điển hình của định luật Okun:
* Theo P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus
Khi sản lượng thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng 2% thì thất nghiệp
thực tế tăng lên 1% so với thất nghiệp tự nhiên.
Như vậy, nếu sản lượng thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng là d% thì
thất nghiệp thực tế sẽ tăng lên một lượng là: (%)2
dU
Gọi Ya là sản lượng thực tế, ta có: 100p
ap
Y
YYd
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
48
Vậy (%)50p
ap
Y
YYU
Gọi Ua là tỷ lệ thất nghiệp thực tế, ta có: Ua = Un + U
Thay U vào, ta có:
(%)50p
ap
Y
YYUnUa
* Theo R.Dornbusch và S.Fisher
Khi sản lượng thực tế tăng nhanh hơn sản lượng tiềm năng 2,5% thì thất
nghiệp thực tế giảm đi 1% so với thất nghiệp tự nhiên.
Gọi U là tỷ lệ thất nghiệp giảm bớt
p là tốc độ tăng của sản lượng tiềm năng
a là tốc độ tăng của sản lượng thực tế
Nếu a lớn hơn p một lượng là 2,5%, thì thất nghiệp thực tế sẽ giảm bớt
đi 1% hay U = -1%.
Như vậy, nếu a lớn hơn p một lượng là (a – p)% thì thất nghiệp thực tế sẽ
giảm bớt một lượng là:
)1(5,2
pa
U
Hay U = - 0,4 (a - p)
Lượng thất nghiệp thực tế lúc này sẽ là: Ua = Uo + U
Uo là tỷ lệ thất nghiệp kỳ gốc
Vậy: Ua = Uo - 0,4(a – p) (%)
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
49
CHƢƠNG IV
TỔNG CẦU VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ
Trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu sâu hơn mặt cầu của nền kinh
tế, sự hình thành tổng cầu, những yếu tố tác động đến tổng cầu, các mô hình tổng
cầu từ đơn giản đến phức tạp, cũng như sự vận dụng lý thuyết tổng cầu vào chính
sách tài khoá.
Để nghiên cứu nội dung chương này, chúng ta lưu ý 2 giả thiết:
- Giá cả và tiền lương không đổi: Giả thiết này tương ứng với cách lập
luận của Keynes về mức giá “cứng nhắc” trong thời kỳ suy thoái kinh tế và nền
kinh tế không có lạm phát.
- Mức tổng cung đã cho, nói cách khác nền kinh tế không có những hạn chế
về tổng cung, các doanh nghiệp có khả năng và sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của
nền kinh tế. Trong trường hợp đó, sản lượng cân bằng chỉ do tổng cầu quyết định.
( Tóm tắt 2 điều kiện:
-Mức giá chung P không thay đổi.
-Không có sự hạn chế về phía tổng cung AS và AD quyết định sản lượng
của nền kinh tế: AD = Y).
I. Tổng cầu và sản lƣợng cân bằng của nền kinh tế giản đơn (thị trƣờng tự do)
Nền kinh tế giản đơn là nền kinh tế chỉ gồm 2 tác nhân là hộ gia đình và
doanh nghiệp, đó là nền kinh tế khép kín, chưa có sự tác động của Chính phủ và
hoạt động ngoại thương.
Tổng cầu của nền kinh tế giản đơn là toàn bộ số lượng hàng hoá và dịch vụ
mà các hộ gia đình và doanh nghiệp dự kiến chi tiêu, tương ứng với thu nhập của họ.
AD = C + I
Trong đó: AD: Tổng cầu
C: Cầu về hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng của các hộ gia đình.
I: Cầu về hàng hoá đầu tư của các doanh nghiệp.
Trong phương trình trên, C và I đều là những hàm số. Vì vậy, trước hết
chúng ta xem xét hàm số tiêu dùng và đầu tư.
1. Hàm tiêu dùng
Hàm tiêu dùng phản ánh sự phụ thuộc của lượng tiêu dùng dự kiến vào
mức thu nhập khả dụng (Yd) mà hộ gia đình có được.
Tiêu dùng của dân cư phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
50
- Thu nhập khả dụng (Yd): trong mô hình nền kinh tế giản đơn: Yd = Y.
- Của cải hay tài sản của các hộ gia đình.
- Những yếu tố xã hội, tâm lý, tập quán của dân cư.
Nhân tố quan trọng nhất quyết định tiêu dùng là thu nhập. Tính trung bình,
các hộ gia đình có thu nhập cao hơn tiêu dùng nhiều hơn.
Trong kinh tế vĩ mô, chúng ta quan tâm đến hàm tiêu dùng, tức là mối quan hệ
giữa tiêu dùng và thu nhập. Hàm tiêu dùng được xây dựng bằng phương pháp số lớn,
có dạng hàm hồi quy. Trong trường hợp nền kinh tế giản đơn, hàm tiêu dùng có dạng
tuyến tính như sau:
C = C + MPC*Yd
C (Autonomous Consumption): Mức tiêu dùng tối thiểu hay tiêu dùng
không phụ thuộc vào thu nhập.
Yd (Disposible Income): thu nhập khả dụng, trong nền kinh tế giản đơn: Yd = Y.
MPC (Marginal Propensity to Consume): xu hướng tiêu dùng cận biên.
MPC phản ánh lượng thay đổi của tiêu dùng khi thu nhập thay đổi 1 đơn vị,
nó biểu thị mối quan hệ giữa sự gia tăng của tiêu dùng với sự gia tăng của thu nhập.
Yd
CMPC
∆C = Ci - Ci-1: gia tăng tiêu dùng.
∆Yd = Yd - Ydi-1
: gia tăng thu nhập khả dụng.
∆Cmax = ∆Yd → MPCmax = 1
∆Cmin = 0 → MPCmin = 0
Đối với một hộ gia đình: 10 MPC
Đối với một quốc gia hay một địa phương: 0 < MPC <1
Ví dụ: Giả sử khi ∆Yd = 1 triệu thì ∆C = 0,6 triệu → MPC = 0,6
→ ∆S = 0,4 triệu
Ví dụ: MPCA = 0,3: khá và giàu
MPCB = 0,8: nghèo
Kết luận: MPC càng cao: càng nghèo
MPC càng thấp: càng giàu
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
51
Hình 4.1: Đường tiêu dùng
Hình 4.1 mô tả đồ thị hàm tiêu dùng, đường phân giác 445500 hội tụ tất cả
những điểm mà tiêu dùng bằng thu nhập, giao điểm giữa đường tiêu dùng và đường
phân giác 445500 gọi là điểm vừa đủ (breakeven point). Điểm vừa đủ là điểm thu nhập
vừa đủ để chi tiêu.
Tính chất của hàm tiêu dùng:
Xu hướng tiêu dùng bình quân (APC) giảm khi Yd tăng.
APC = C / Yd : cho biết tỷ trọng tiêu dùng trong thu nhập.
Chứng minh: 2 phương pháp:
P21: Yd
a < Yd
* : C > Yd → APC = C/Yd > 1 (S < 0)
Yda = Yd
* : C = Yd → APC = C/Yd = 1 (S = 0)
Yda > Yd
* : C > Yd → APC = C/Yd < 1 (S > 0)
Do đó, Yd tăng → APC giảm.
P22: APC = C/Yd = (C+MPC*Yd) / Yd = (C/Yd) +MPC
Do đó, Yd tăng → APC giảm.
Các hộ gia đình không chỉ tiêu dùng mà còn tiết kiệm từ mỗi đơn vị thu
nhập khả dụng bổ sung, do đó tiết kiệm và tiêu dùng là hình ảnh phản chiếu của
nhau. Vì vậy, chúng ta xét hàm tiết kiệm sau.
2. Hàm tiết kiệm
Đường tiết kiệm có thể xây dựng từ đường tiêu dùng như hình 4.2.
Ta đã biết: Yd = C + S
↔ S = Yd - C hay S = - C + (1 - MPC) - C hay S = - C + (1 - MPC)Yd
Hay S = - C + MPS*Yd
Trong đó: MPS (Marginal Propensity to Save): xu hướng tiết kiệm cận biên.
C 4455
00
0 YY
C
C = C + MPC*Yd
CC == bb ++ MMPPCC..YY
AA
YYdd
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
52
Hình 4.2 : Đường tiêu dùng và đường tiết kiệm
Đối với một hộ gia đình: 10 MPS
Đối với một quốc gia hay một địa phương: 0 < MPS < 1
Vì thu nhập khả dụng Yd chỉ có thể đem tiêu dùng hay tiết kiệm nên:
MPC + MPS = 1
3. Hàm đầu tƣ
Đầu tư ảnh hưởng đến sản lượng quốc gia cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Trong ngắn hạn, đầu tư tác động đến sản lượng nhờ làm thay đổi tổng cầu. Trong
dài hạn, đầu tư làm thay đổi tổng cung của nền kinh tế, vì đầu tư dẫn đến tích lũy
tư bản, mở rộng năng lực sản xuất và làm tăng sản lượng tiềm năng.
So với tiêu dùng, đầu tư chiếm một tỷ trọng khiêm tốn hơn. Trong những
năm gần đây đầu tư của Việt Nam thường chiếm khoảng 35% GDP. Tuy nhiên, đầu
tư biến động rất mạnh trong chu kỳ kinh doanh. Nhìn chung, đầu tư giảm ngay
trước và trong thời kỳ suy thoái và có xu hướng tăng vào đầu kỳ tăng trưởng. Đầu
tư là một biến kinh tế rất nhạy cảm. Đầu tư phụ thuộc vào những yếu tố sau:
- Dự đoán của các doanh nghiệp về tình trạng của nền kinh tế trong tương lai.
- Mức cầu về sản lượng của nền kinh tế trong tương lai, hay mức cầu về
sản phẩm do đầu tư mới tạo ra.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến chi phí đầu tư:
+ Lãi suất thực tế (r - real interest rate)
Lãi suất thực tế là khoản chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm
phát: r = i - π
Lãi suất danh nghĩa (i - nomimal interest rate) là lãi suất mà ngân hàng trả
cho người gửi tiền và lãi suất thực tế (r - real interest rate) là lãi suất đã trừ tỷ lệ
lạm phát. Lãi suất danh nghĩa cho chúng ta biết số tiền tăng lên như thế nào qua
thời gian, còn lãi suất thực tế cho biết sức mua của tài khoản ngân hàng tăng lên
SS == -- C ++ MMPPSS..YY
C 4455
00
0 YY
C
CC == C ++ MMPPCC..YY AA
-- C
YYdd
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
53
như thế nào qua thời gian. Trên thực tế, lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế
không phải luôn biến đổi cùng chiều với nhau theo thời gian.
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp
+ Tín dụng thuế đầu tư
+ Chế độ khấu hao TSCĐ
- Một số yếu tố khác như: chế độ chính trị, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên,
hệ thống pháp luật,…
Trong nhiều yếu tố ảnh hưởng đó, chúng ta chọn mức sản lượng quốc gia
Y làm biến số để xây dựng hàm đầu tư. Do đó, ta có định nghĩa:
Hàm đầu tư phản ánh sự phụ thuộc của lượng đầu tư dự kiến vào mức sản
lượng quốc gia.
II + MPI*Y
Hàm đầu tư theo sản lượng có dạng như thế nào vẫn đang là vấn đề tranh
cãi. Một số nhà kinh tế cho rằng, đầu tư và sản lượng có mối quan hệ đồng biến,
nghĩa là đường đầu tư có xu hướng tăng lên.
Nếu chọn Y và r làm biến số thì hàm đầu tư là:
II + MPI*Y - Ir*r
Một số nhà kinh tế lại cho rằng đầu tư không có quan hệ chặt chẽ với sản
lượng hay thu nhập hiện tại, nghĩa là đường đầu tư nằm ngang (hàm đầu tư theo
sản lượng là một hàm hằng): II
Ở đây, để đơn giản hóa và để đạt mục tiêu nghiên cứu, chúng ta giả thiết
đường đầu tư nằm ngang, nghĩa là xem đầu tư không phụ thuộc vào sản lượng.
II
4. Hàm tổng cầu và sản lƣợng cân bằng
Trong nền kinh tế giản đơn không có Chính Phủ và thương mại quốc tế,
hàm tổng cầu có dạng
AD = YdMPCIC *)(
Vì chưa có Chính Phủ nên Yd = Y, do đó:
AD = YMPCIC *)(
Nếu tổng cầu giảm, các doanh nghiệp không thể bán hết sản phẩm mà họ
sản xuất ra, hàng tồn kho không dự kiến sẽ tăng và ngược lại. Do đó, khi giá cả và
tiền lương cố định, thị trường hàng hóa và dịch vụ sẽ đạt trạng thái cân bằng ngắn
hạn khi tổng cầu hoặc tổng chi tiêu dự kiến đúng bằng sản lượng thực tế sản xuất
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
54
ra trong nền kinh tế. Ở trạng thái cân bằng ngắn hạn, lượng hàng tồn kho không
dự kiến sẽ bằng không, nghĩa là tại trạng thái cân bằng ngắn hạn, sản lượng sản
xuất ra đúng bằng sản lượng mà các hộ gia đình cần để tiêu dùng và các doanh
nghiệp cần để đầu tư, chi tiêu dự kiến không bị phá vỡ do thiếu hàng hóa. Mặt
khác, các doanh nghiệp không sản xuất nhiều hơn mức có thể bán được.
Vậy, trong cân bằng ngắn hạn, sản lượng cân bằng là bao nhiêu. Với giả định
thứ 2 ở đầu chương là các doanh nghiệp sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của nền kinh
tế và điều kiện cân bằng của thị trường hàng hóa và dịch vụ là sản lượng sản xuất
phải bằng tổng cầu.
Do đó: Y = AD
Mà Y = YMPCIC *)(
Do đó, ta có sản lượng cân bằng:
)(1
1* IC
MPCY
Có 2 phương pháp xác định sản lượng cân bằng trên đồ thị:
* Phương pháp 1: Đồ thị tổng cầu:
Hình 4.3: Tổng cầu và sản lượng cân bằng
Để vẽ hàm tổng cầu trước hết ta vẽ hàm tiêu dùng, sau đó tịnh tiến đường
tiêu dùng này theo chiều thẳng đứng một đoạn đúng bằng I, đường thu được là
đường biểu diễn hàm tổng cầu AD. Đường AD cắt đường 4455oo tại E, tại E có tung độ
và hoành độ bằng nhau. E là điểm duy nhất mà tại đó Y = AD và sản lượng cân
bằng Y là hoành độ của E.
Tại bất cứ mức sản lượng nào khác với sản lượng cân bằng thì không thể
tồn tại lâu dài vì ở đó tổng cung khác tổng cầu nên chúng luôn có khuynh hướng
chạy về mức sản lượng cân bằng.
+ Trường hợp Ya < Y*: Ở những mức sản lượng này tổng cung nhỏ hơn
tổng cầu, hàng hóa sản xuất ra không đủ để bán, hàng tồn kho giảm xuống thấp
YY
AADD 4455
oo
AADD == CC ++ II
EE
YY**
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
55
hơn mức dự kiến của doanh nghiệp. Vì vậy, hành vi của các doanh nghiệp trong
trường hợp này sẽ tăng đầu tư để tăng sản lượng.
Lượng đầu tư tăng thêm của các doanh nghiệp là:
∆I = (1 - MPC)×(ADYa - Ya)
+ Ngược lại, trong trường hợp Ya > Y*: các doanh nghiệp sẽ giảm đầu tư.
Lượng đầu tư giảm xuống của các doanh nghiệp:
∆I = (1 - MPC)×(Ya - ADYa)
Từ đó, chúng ta rút ra phương trình cân bằng để xác định giá trị của Y* là:
Y = C + I
Vế trái của phương trình là tổng cung, vế phải là tổng cầu, sản lượng cân
bằng khi và chỉ khi tổng cung và tổng cầu bằng nhau.
- Phương pháp 2: Đồ thị I và S
Hình 4.4: Đường I, S và sản lượng cân bằng
Phân tích ở trên cho thấy trạng thái cân bằng trên thị trường hàng hóa đạt
được khi sản lượng thực tế tạo ra đúng bằng tổng chi tiêu, tức là: Y = C + I
Chuyển C sang vế trái chúng ta có: Y - C = I
Vế trái chính là tiết kiệm theo kế hoạch, còn vế phải chính là đầu tư theo kế hoạch.
S = I
Như vậy, chúng ta rút ra hệ quả là thị trường hàng hóa và dịch vụ trong nền
kinh tế giản đơn cân bằng tại tiết kiệm bằng với đầu tư.
Trên đồ thị, I và S chỉ bằng nhau ở giao điểm của 2 đường. Từ đó ta khẳng
định E là điểm xác định sản lượng cân bằng. Với bất kỳ mức sản lượng nào khác
với Y* thì mức sản lượng đó không thể tồn tại lâu dài được, nó phải quay về sản
lượng cân bằng Y*.
Ví dụ: Tại những điểm mà Y > Y*: S > I
↔ C + S > I + C
↔ Yd > I + C
YY
II,,SS
SS
EE
YY**
II
--CC
00
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
56
↔ Y > AD
↔ Tổng cung > Tổng cầu: Hàng hóa bị thừa, hàng tồn kho tăng lên, lúc đó
hành vi của các doanh nghiệp sẽ giảm đầu tư, làm cho sản lượng giảm về Y*.
* Số nhân
)(1
1* IC
MPCY
Thừa số m =MPC1
1gọi là số nhân chi tiêu.
m > 1
Số nhân chi tiêu phản ánh lượng thay đổi của sản lượng khi tổng cầu thay
đổi 1 đơn vị, nói cách khác m cho biết sản lượng sẽ thay đổi bao nhiêu khi có sự
thay đổi 1 đơn vị trong mức chi tiêu không phụ thuộc vào sản lượng hay thu nhập.
Vì m > 1 nên những thay đổi nhỏ trong tiêu dùng và đầu tư phải được m
khuyếch đại lên nhiều lần. Nếu I tăng ∆I thì sản lượng tăng: ∆Y = m*∆I
Như chúng ta đã biết, phần thu nhập khả dụng mà các hộ gia đình không
tiêu dùng sẽ được tiết kiệm và sự gia tăng thu nhập 1 đơn vị sẽ được sử dụng cho
tiêu dùng hoặc tiết kiệm. Do đó, 1 - MPC = MPS, chính là xu hướng tiết kiệm cận
biên. Do đó, chúng ta có thể viết lại công thức của số nhân như sau:
MPSMPCm
1
1
1
Nói cách khác, số nhân chi tiêu trong một nền kinh tế giản đơn chính là số
nghịch đảo của xu hướng tiết kiệm cận biên.
Cơ chế tác động của số nhân không phải đột ngột và tức thời mà trải qua
nhiều bước, nhiều vòng và cuối cùng mới đạt độ lớn đầy đủ của nó.
Việc các doanh nghiệp dự kiến tăng đầu tư sẽ tác động đến sản lượng và
thu nhập, đến lượt mình sản lượng và thu nhập lại tác động vào tiêu dùng, tiêu
dùng sẽ tăng theo MPC, tiêu dùng tăng đòi hỏi sản lượng lại tăng thêm, cứ như
vậy sản lượng được khuyếch đại lên rất nhiều lần.
Trường hợp đường đầu tư đi lên, lúc này hàm đầu tư đồng biến theo sản
lượng và có dạng: I = IMPII *
Khi đó, sản lượng cân bằng là:
)(1
1* IC
MPIMPCY
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
57
Như vậy, xét về nguyên tắc sản lượng cân bằng trong trường hợp đường
đầu tư đi lên hoàn toàn giống đường đầu tư nằm ngang, chúng chỉ khác nhau về
kỹ thuật tính toán, cụ thể là khác nhau ở số nhân chi tiêu m.
II. Tổng cầu và sản lƣợng cân bằng của nền kinh tế đóng (khép kín)
Trong phần này chúng ta sẽ xem xét Chính phủ có thể ảnh hưởng đến tổng
chi tiêu và do đó mức sản lượng cân bằng của nền kinh tế sẽ như thế nào.
Hai cách mà Chính phủ có thể sử dụng để ảnh hưởng đến nền kinh tế là thu
và chi ngân sách.
- Chính Phủ thu thuế và thực hiện các khoản chuyển giao thu nhập và trợ
cấp nhằm thay đổi thu nhập của các hộ gia đình. Chênh lệch giữa thuế và chuyển
giao thu nhập được gọi là thuế ròng, hay gọi tắt là thuế, tức là phần Chính phủ
thực thu được từ khu vực tư nhân.
- Chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ của Chính phủ (G): G = G
1. Chi tiêu của Chính Phủ và tổng cầu
Khi Chính phủ dự kiến tăng chi tiêu, tổng cầu sẽ tăng lên. Tuy nhiên, chi
tiêu của Chính phủ không phụ thuộc vào sản lượng bởi trong ngắn hạn Chính phủ
quyết định chi tiêu tùy theo nhu cầu của mình. Chính phủ hoàn toàn có thể chi
mua hàng hóa và dịch vụ nhiều trong điều kiện mức sản lượng cao, cũng có thể
làm điều đó trong điều kiện mức sản lượng thấp. Chính vì vậy, G hoàn toàn độc
lập với sản lượng.
G = G
Khi chưa tính đến thuế, tổng cầu sẽ là:
AD = C + I + G
Hay AD = YMPCGIC *)(
Sử dụng điều kiện cân bằng thị trường hàng hóa và dịch vụ ta có:
AD = Y
Y= YMPCGIC *)(
)(**
)(1
1*
GICmY
GICMPC
Y
Như vậy, chi tiêu của Chính phủ cũng có số nhân bằng số nhân của tiêu
dùng và đầu tư.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
58
2. Thuế và tổng cầu
Chúng ta xét 2 trường hợp:
* Trường hợp thuế độc lập với sản lượng
Chúng ta giả định thuế là một đại lượng cho trước, do đó: TT
Khi chính phủ thu thuế, Yd sẽ giảm, ta có
Yd = Y -T
Và hàm tiêu dùng có dạng: C = )(* TYMPCC
Hàm tổng cầu: YMPCTMPCGICAD *)*(
Sử dụng điều kiện cân bằng của thị trường hàng hóa và dịch vụ Y = AD,
chúng ta xác định được sản lượng cân bằng:
)*(1
1* TMPCGIC
MPCY
hay TMPC
MPCTMPCGICmY
1)*(*
Đặt MPC
m
1
1 và
MPC
MPCmt
1
Trong đó: m: số nhân chi tiêu trong nền kinh tế giản đơn
mt: số nhân thuế, mt mang dấu (-) phản ánh mối quan hệ ngược
chiều của thuế với thu nhập hay sản lượng.
Như vậy, số nhân của một thành phần nào đó là hệ số phản ánh lượng thay
đổi của sản lượng khi thành phần đó thay đổi 1 đơn vị.
Về trị số tuyệt đối: mt < m: nghĩa là ảnh hưởng của G đến sản lượng lớn
hơn ảnh hưởng của T đến sản lượng. Chính những đặc điểm này đã dẫn đến khái
niệm số nhân ngân sách cân bằng.
* Số nhân ngân sách cân bằng
Từ công thức sản lượng cân bằng của nền kinh tế đóng, ta thấy:
Nếu C, I không đổi, sản lượng cân bằng tăng lên hay giảm xuống là do tác
động của T và G.
Giả sử Chính phủ tăng chi ngân sách thêm một lượng là ∆G. Theo công
thức số nhân chi tiêu, sản lượng tăng thêm một lượng là:
∆Y1* = GMPC
1
1
Đồng thời, nếu chính phủ tăng thu ngân sách thêm một lượng là ∆T, lúc đó
sản lượng giảm xuống là:
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
59
∆Y2* = TMPC
MPC
1
Như vậy, khi chính phủ tăng chi ngân sách đồng thời tăng thu ngân sách,
sản lượng cân bằng tăng thêm là:
∆Y* = ∆Y1* - ∆Y2*
↔ ∆Y* = GMPC
1
1- T
MPC
MPC
1
Vì ngân sách cân bằng nên: ∆G = ∆T. Do đó, ta có thể thay ∆G = ∆T hoặc
ngược lại.
Nếu thay ∆G = ∆T, ta có:
∆Y* = ∆T( TMPC
MPC
*1)
1
1
↔ ∆Y* = 1×∆T
Nếu thay ∆T = ∆G ta có:
∆Y* = ∆G( GMPC
MPC
*1)
1
1
↔ ∆Y* = 1×∆G
Vậy, số nhân ngân sách cân bằng là 1.
Như vậy, nếu chính phủ đồng thời tăng chi tiêu và tăng thuế 1 lượng là như
nhau thì sản lượng sẽ tăng thêm 1 lượng đúng bằng số tăng chi tiêu của Chính phủ
hoặc số tăng về thuế, vì chi tiêu của Chính phủ làm tăng sản lượng nhiều hơn số
sản lượng bị giảm đi do tăng thuế.
* Trường hợp thuế phụ thuộc vào sản lượng
Hàm thuế: T = T +t*Y
Trong đó:
t: gọi là thuế suất hay tỷ suất thuế: là tỷ lệ % của lượng thuế tính trên lượng
thu nhập, nó phản ánh lượng thay đổi của thuế khi sản lượng thay đổi 1 đơn vị.
Do đó, thu nhập khả dụng: Yd = Y - T - t*Y
Sản lượng cân bằng trong trường hợp này sẽ là:
)*()1(1
1* TMPCGIC
tMPCY
Hay )*(* ' TMPCGICmY
Trong đó: m’ là số nhân chi tiêu của nền kinh tế đóng.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
60
)1(1
1'
tMPCm
* Dự báo hành vi của các doanh nghiệp
+ Trường hợp Ya < Y*: các doanh nghiệp sẽ tăng đầu tư.
Lượng đầu tư tăng thêm của các doanh nghiệp là:
∆I = [1 - MPC (1 - t)](ADYa - Ya) = )(1
, aYa YADm
+ Ngược lại trong trường hợp Ya > Y*: các doanh nghiệp sẽ giảm đầu tư.
Lượng đầu tư giảm xuống của các doanh nghiệp:
∆I = [1 - MPC (1- t)](Ya - ADYa)= ,
1
m(Ya - ADYa)
Hình 4.5: Tổng cầu và sản lượng cân bằng của nền kinh tế đóng
III. Tổng cầu và sản lƣợng cân bằng của nền kinh tế mở
Nền kinh tế mở là nền kinh tế có giao lưu với các nền kinh tế khác trên thế giới.
Độ mở của một nền kinh tế thường được tính bằng tỷ trọng của tổng kim
ngạch xuất khẩu và nhập khẩu so với GDP hay GNP.
Kim ngạch xuất nhập khẩu
= mức độ mở
GDP (GNP)
Như vậy, so với hai mô hình trước mà chúng ta nghiên cứu thì trong mô
hình này chúng ta mở rộng đến khu vực ngoại thương, tức là xuất nhập khẩu hàng
hoá và dịch vụ.
Xuất khẩu (X - Export) là lượng hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ở trong
nước để bán ra nước ngoài.
Nhập khẩu (M - Import) là lượng hàng hoá và dịch vụ sản xuất ở nước
ngoài và được mua vào trong nước.
AADD == CC ++ II ++ GG
YY
AADD 4455
oo
EE
YY
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
61
Tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ xuất, nhập khẩu được gọi là tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu.
Những nhân tố ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu:
+ Sở thích của người tiêu dùng đối với hàng nội và hàng ngoại.
+ Giá tương đối giữa hàng nội và hàng ngoại (yếu tố tâm lý người tiêu dùng).
+ Tỷ giá hối đoái.
+ Thu nhập trong nước và nước ngoài.
+ Chi phí vận chuyển quốc tế.
+ Các chính sách của Chính phủ đối với thương mại.
Để xây dựng hàm X và M, chúng ta chọn sản lượng (thu nhập) Y làm biến số.
Vì lượng hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu nhiều hay ít phụ thuộc vào quyết
định của người nước ngoài, nhu cầu này phần lớn không phụ thuộc vào thu nhập
hay sản lượng nội bộ của nền kinh tế. Do đó, chúng ta coi cầu về hàng xuất khẩu
độc lập với sản lượng trong nước.
X = X (Xuất khẩu không phụ thuộc vào sản lượng).
Nhập khẩu M phản ánh lượng cầu dự kiến của người trong nước đối với
hàng nước ngoài, lượng hàng cần nhập khẩu bao gồm hai loại: tư liệu sản xuất và
tư liệu tiêu dùng. Khi sản xuất tăng đòi hỏi các loại tư liệu sản xuất phải tăng theo.
Mặt khác, khi sản xuất tăng thì thu nhập trong nước cũng tăng dẫn đến cầu tiêu
dùng các loại hàng ngoại nhập cũng tăng. Vì vậy, nhập khẩu đồng biến với sản
lượng quốc gia.
YMPMMM *
MPM (Marginal Propensity to Import): xu hướng nhập khẩu cận biên.
MPM = ∆M/∆Y: phản ánh lượng thay đổi của M khi Y thay đổi 1 đơn vị.
Hiệu số giữa giá trị hàng hoá xuất khẩu và hàng nhập khẩu được gọi là xuất
khẩu ròng (NX - Net Export).
NX = X - M
Nếu X > M → NX > 0: Thặng dư ngoại thương (xuất siêu).
Nếu X < M → NX < 0: Thâm hụt ngoại thương (nhập siêu).
Nếu X = M → NX = 0: Cân bằng ngoại thương.
NX là biểu hiện của cán cân ngoại thương hay cán cân thương mại.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
62
i
Hình 4.6:Cán cân ngoại thương
E là điểm cân bằng ngoại thương, tai đó: X = M nên NX = 0
Do đó, tổng cầu AD trong nền kinh tế mở bao gồm:
AD = C + I + G + X - M
Trong đó:
Chi tiêu Chính phủ: GG
Xuất khẩu: XX
Nhập khẩu: YMPMMM *
Chi tiêu của hộ gia đình: dYMPCCC *
Với TYYd
tYTT
Do đó: tYTYYd
Đầu tư: I = YMPII *
Do đó: Tổng cầu trong nền kinh tế mở:
AD = YMPMMPItMPCTMPCMXGIC )1()*(
Đặt )*(AD TMPCMXGIC
và MPMMPItMPC )1(
Ta có: AD = YAD
Sản lượng cân bằng của nền kinh tế lúc này:
Thay AD = Y
Y* = m”* AD
m”: số nhân chi tiêu trong nền kinh tế mở:
YY
XX,,MM
MM
EE
YY**
XX
MM
00
XX
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
63
m” =
1
1
)1(1
1
MPMMPItMPC
Trên đồ thị, điểm cân bằng sản lượng tương ứng với giao điểm giữa
đường tổng cầu AD và đường phân giác 450.
Hình 4.7: Tổng cầu và sản lượng cân bằng trong nền kinh tế mở
Dự báo hành vi của các doanh nghiệp
+ Trường hợp Y < Y*: các doanh nghiệp có xu hướng tăng đầu tư.
Lượng đầu tư tăng thêm của các doanh nghiệp là:
∆I = "
1
m(ADYa - Ya)
+ Ngược lại trong trường hợp Y > Y*: các doanh nghiệp sẽ giảm đầu tư.
Lượng đầu tư giảm xuống của các doanh nghiệp:
∆I = "
1
m(Ya - ADYa)
IV. Chính sách tài khoá
Chính sách tài khoá là những nỗ lực của Chính phủ nhằm cải thiện thành
tựu kinh tế vĩ mô thông qua việc thay đổi chi tiêu Chính phủ và thuế. Mặc dù
chính sách tài khoá có thể ảnh hưởng đến tiết kiệm, đầu tư và tăng trưởng kinh
tế trong dài hạn, tuy nhiên trong ngắn hạn, chính sách tài khoá chủ yếu ảnh
hưởng đến tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ.
Khi nền kinh tế ở quá xa bên trái hay bên phải mức sản lượng tiềm năng
chính là lúc cần tác động của chính sách tài khóa để đưa nền kinh tế về mức sản
lượng tiềm năng.
Về mặt lý thuyết, muốn thực hiện điều đó bằng chính sách tài khoá, Chính
phủ sử dụng 2 công cụ là G và T.
4455oo
EE
AADD == CC ++ II ++GG ++ XX -- MM
YY YY
AADD
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
64
Trong trường hợp nền kinh tế suy thoái: Chính phủ tăng G hoặc giảm T
hoặc thực hiện cả 2.
Trong trường hợp nền kinh tế thịnh vượng: Chính phủ phải giảm G hoặc
tăng T hoặc cả 2.
Như vậy, chính sách tài khoá tác động vào tổng cầu AD sẽ đưa nền kinh tế
về mức sản lượng tiềm năng Yp. Về mặt lý thuyết, chính sách tài khoá có thể coi
là phương thức hữu hiệu để ổn định hoá nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong thực tế chính sách tài khóa không đủ sức mạnh như vậy,
tác động của nó bị nhiều hạn chế do:
+ Phải dự báo đúng biên độ và thời gian kéo dài của các chu kỳ kinh doanh
để có quyết định hợp lý.
+ Khó tính toán chính xác liều lượng của chính sách vì khó xác định các số
nhân chi tiêu và thuế. Do có sự khác nhau về quan điểm và nhận thức, sự không
chắc chắn trong các quan hệ kinh tế.
+ Chính sách tài khóa có độ trễ khá lớn.
Độ trễ bên trong (thu nhập, xử lý thông tin, ra quyết định).
Độ trễ bên ngoài (phổ biến, thực hiện và phát huy tác dụng).
Yếu tố chính trị và cơ cấu tổ chức bộ máy.
Chính sách tài khóa thường được thực hiện qua các dự án công (xây dựng
cơ sở hạ tầng, phát triển việc làm ...).
Thực tế các công trình này hiệu quả kinh tế xã hội thấp, gây lãng phí lớn.
Thường khi muốn thông qua một quyết định về ngân sách phải mất một
thời gian nhất định để các cơ quan hữu quan họp xét. Sau đó đòi hỏi phải có thời
gian triển khai quyết định đã được duyệt. Trong thời gian đó rất có thể nền kinh tế
đã tự động điều chỉnh, khắc phục được suy thoái. Nếu vẫn thực thi dự án sẽ tạo ra
lạm phát cao trong nền kinh tế.
+ Việc thay đổi thuế không dễ dàng trong ngắn hạn.
Mục tiêu tăng trưởng dài hạn đòi hỏi thuế phải ổn định, trong khi đó mục
tiêu ổn định ngắn hạn lại đòi hỏi thuế phải sẵn sàng thay đổi khi cần thiết. Đây là
mâu thuẫn và khó khăn cho Chính Phủ.
1. Chính sách tài khoá chủ động
Chính phủ có thể lựa chọn thay đổi chi tiêu hoặc thuế hoặc đồng thời cả chi
tiêu và thuế để mở rộng hay cắt giảm tổng cầu nhằm bình ổn nền kinh tế.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
65
Chính sách tài khoá nhằm kích thích tổng cầu và tăng sản lượng cân bằng
thông qua việc tăng chi tiêu chính phủ hoặc giảm thuế được gọi là chính sách tài
khoá mở rộng hay chính sách tài khoá lỏng. Ngược lại, chính sách tài khoá nhằm
cắt giảm tổng cầu để kiềm chế lạm phát được gọi là chính sách tài khoá thắt chặt.
1.1. Chính sách tài khoá mở rộng
Đối mặt với mức sản lượng thấp hơn mức sản lượng tự nhiên, các nhà
hoạch định chính sách có thể giúp nền kinh tế phục hồi trạng thái toàn dụng nguồn
lực thông qua việc tăng chi tiêu Chính phủ hoặc giảm thuế hoặc đồng thời cả hai
biện pháp này.
Giả sử Chính phủ quyết định kích cầu thông qua tăng chi tiêu Chính phủ.
Vì chi tiêu Chính phủ là một thành tố của tổng cầu, nên tổng cầu sẽ tăng lên một
lượng tương ứng tại mỗi mức thu nhập cho trước.
Điều này được biểu thị bằng sự dịch chuyển lên trên của đường tổng cầu
AD từ AD0 đến AD1. Tại trạng thái cân bằng mới, mức thu nhập quốc dân đạt
được là Y*. Như chúng ta đã biết, tăng chi tiêu Chính phủ được khuyếch đại theo
số nhân đến tổng cầu và mức thu nhập cân bằng (Y* - Y0 = m.∆G). Điều này có
nghĩa là sự thay đổi của thu nhập lớn hơn sự thay đổi chi tiêu Chính phủ.
Mặt khác, Chính phủ cũng có thể sử dụng kích cầu bằng biện pháp giảm
thuế suất. Điều này sẽ làm tăng thu nhập khả dụng và do đó làm tăng tiêu dùng.
Trên đồ thị, đường tổng cầu sẽ xoay lên phía trên tới AD2 và sản lượng cân bằng
mới đạt được cũng là Y*.
1.2. Chính sách tài khoá thắt chặt
Giả sử nền kinh tế có tổng cầu vượt quá năng lực sản xuất hiên có. Sự hạn
chế về phía cung ngăn cản nền kinh tế mở rộng và giá cả sẽ tăng tốc. Nền kinh tế
đang ở trạng thái phát triển quá nóng, đường tổng cung rất dốc. Trong trường hợp
AD
Y
45o
AD1
AD0
E
Y* Hình 4.8 Tác động của chính sách tài khoá mở rộng
Yo
ΔG
AD2
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
66
này, Chính phủ nên cắt giảm tổng cầu để kiềm chế lạm phát thông qua việc tăng
thuế hoặc giảm chi tiêu Chính phủ hoặc thực hiện đồng thời cả hai biện pháp.
Giảm chi tiêu Chính phủ sẽ trực tiếp làm giảm tổng cầu và do đó đường
tổng cầu AD dịch chuyển xuống phía dưới từ AD0 đến AD1.
Trong khi đó, tăng thuế làm giảm thu nhập khả dụng của các hộ gia đình và
họ sẽ tiêu dùng ít hơn. Đường tổng cầu xoay từ AD0 đến AD2.
Cả giảm chi tiêu và tăng thuế đều làm cho đường tổng cầu dịch chuyển
sang bên trái và cho phép chuyển nền kinh tế đến gần mức sản lượng tự nhiên hơn
và kết quả là lạm phát sẽ được kiềm chế.
Hình 4.9 : Tác động của chính sách tài khoá thắt chặt
2. Cơ chế tự ổn định
Cơ chế tự ổn định là những thay đổi trong chính sách tài khóa có tác dụng
kích thích tổng cầu khi nền kinh tế lâm vào suy thoái và cắt giảm tổng cầu khi nền
kinh tế phát triển quá nóng mà không cần bất kỳ sự hành động điều chỉnh nào của
các nhà hoạch định chính sách.
Cơ chế tự ổn định quan trọng nhất trong các nền kinh tế thị trường hiện đại
là hệ thống thuế. Khi nền kinh tế rơi vào một cuộc suy thoái, doanh thu từ thuế
của Chính phủ sẽ tự động giảm vì hầu hết các loại thuế đều liên quan chặt chẽ với
các hoạt động kinh tế. Sự cắt giảm thuế tự động như thế sẽ có tác dụng kích thích
tổng cầu, từ đó góp phần thu hẹp biên độ của các chu kỳ kinh doanh.
Một số khoản mục chi tiêu của Chính phủ cũng hoạt động như những cơ
chế tự ổn định. Khi nền kinh tế lâm vào suy thoái, số người mất việc làm tăng lên,
bảo hiểm xã hội và các loại hình hỗ trợ thu nhập khác đều tăng lên. Sự gia tăng tự
AD
Y
45o
AD1
AD0
E1
Y* Yo
AD2
ASo
AD1
AD
o
Y* Yo Y
P
P0
P1 E1
E0
E0
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
67
động trong chi tiêu của Chính phủ sẽ kích thích tổng cầu đúng vào thời điểm tổng
cầu không đủ mạnh để duy trì mức sản lượng tiềm năng.
Cơ chế tự ổn định trong nền kinh tế ở các nước đều không đủ mạnh để
loại bỏ hoàn toàn những biến động kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu
không có các cơ chế tự ổn định như thế sản lượng và việc làm trên thực tế chắc
chắn dao động mạnh hơn rất nhiều.
3. Chính sách tài khoá và ngân sách chính phủ
Ngân sách chính phủ là tổng các kế hoạch chi tiêu và thu hàng năm bao
gồm các khoản thu thuế và các khoản chi ngân sách.
tYGTB )(
B - cán cân ngân sách; T thuế ròng; G - chi tiêu của chính phủ.
B < 0 thâm hụt ngân sách (Budget deficit).
B > 0 thặng dư ngân sách (Budget surplus).
B = 0 cân bằng ngân sách (Balanced budget).
Chu kỳ kinh doanh tác động mạnh đến thâm hụt ngân sách: Thu ngân sách
tăng trong thời kỳ phồn thịnh và giảm trong thời kỳ suy thái, nó biến thiên ngược
chiều với chi ngân sách.
Vì vậy, để đánh giá tác động của chính sách tài khóa đến thâm hụt ngân
sách, người ta thường sử dụng ngân sách trong điều kiện nền kinh tế hoạt động ở
mức tiềm năng.
Chúng ta cần phân biệt 3 khái niệm thâm hụt ngân sách:
a) Thâm hụt ngân sách thực tế: số chi thực tế vượt số thu thực tế trong một
thời kỳ nhất định (A).
b) Thâm hụt ngân sách cơ cấu: tính toán trong trường hợp nền kinh tế hoạt
động ở mức sản lượng tiềm năng (B).
c) Thâm hụt ngân sách chu kỳ: do tác động có tính chu kỳ của nền kinh tế
thị trường (C).
C = A - B
Thâm hụt ngân sách cơ cấu phản ánh kết quả hoạt động chủ quan của chính
sách tài khoá như: định ra thuế suất, phúc lợi, bảo hiểm... Vì vậy, để đánh giá kết
quả của chính sách tài khoá phải sử dụng thâm hụt ngân sách cơ cấu.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
68
CHƢƠNG V
TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về tiền
như: thế nào là tiền, các loại tiền, quá trình tạo tiền của ngân hàng; vai trò của
ngân hàng trung ương trong việc kiểm soát cung tiền và tác động của sự thay đổi
trong cung ứng tiền tệ tới các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản như: lãi suất, đầu tư,
tổng cầu, sản lượng và mức giá. Đồng thời chỉ ra cách thức, tại sao và khi nào
chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của nền kinh tế.
I. Tiền tệ
1. Khái niệm
Tiền là gì?
Hằng ngày, chúng ta vẫn quan sát thấy vô vàn những hoạt động trao đổi
mua bán hàng hoá, dịch vụ của chính bản thân chúng ta và những người xung
quanh. Chẳng hạn: Chúng ta đi ăn phở buổi sáng và chúng ta trả cho người bán
phở tờ 10.000 đ do NHTƯ Việt Nam phát hành. Theo tập quán chúng ta gọi tờ
10.000 đó là tiền.
Như vậy, chúng ta thấy:
- Tiền là thứ được sử dụng trong quá trình trao đổi với tư cách là phương
tiện thanh toán các khoản mua hàng.
- Đồng thời, tiền phải được mọi người chấp nhận. Nói cách khác, nó phải
có tính chất được chấp nhận rộng rãi.
Do đó, các nhà kinh tế đưa ra khái niệm:
Tiền là bất cứ một phương tiện nào được xã hội thừa nhận làm vật trung
gian cho việc mua bán hàng hoá, dịch vụ.
Ví dụ: tiền mặt, séc, thẻ tín dụng…
2. Chức năng của tiền tệ
Có thể nói một xã hội không có đồng tiền giống như một cộng đồng không
có tiếng nói chung. Nếu không sử dụng tiền, con người sẽ phải mất rất nhiều công
sức để giải quyết những vấn đề đơn giản hàng ngày. Tiền có vai trò quan trọng
như vậy bởi nó có 3 chức năng cơ bản sau: phương tiện trao đổi, đơn vị hạch toán
và cất trữ giá trị.
+ Phương tiện trao đổi: Đây là chức năng cơ bản nhất mà người ta dùng
nó để đưa ra khái niệm. Tiền được sử dụng như vật trung gian cho việc mua bán
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
69
hàng hoá, dịch vụ. Nó cho phép trao đổi giá trị mà không cần trao đổi hàng hoá
trực tiếp.
+ Với tư cách là phương tiện cất giữ giá trị, tiền là một hình thức để
chuyển sức mua từ hiện tại sang tương lai.
Ví dụ: Nếu hiện nay làm việc và thu được 100.000 đ, bạn có thể giữ số tiền
đó và tiêu vào ngày mai, tuần sau hay tháng sau…
Tuy nhiên, tiền không phải là phương tiện hoàn hảo để cất giữ giá trị bởi
khi giá cả tăng, giá trị thực tế của tiền giảm xuống. Do đó, một số người tìm cách
mua những hàng hoá để cất giữ như: vàng, gỗ,...
+ Với tư cách là đơn vị hạch toán rất tiện lợi và hiệu quả, tiền tạo ra tiêu
chuẩn để định giá và ghi chép các khoản nợ.
Ví dụ: Khi đi mua hàng, chúng ta thấy giá một chiếc áo sơ mi là 120.000 đ
và giá một bát phở là 10.000 đ. Mặc dù có thể nói giá 1 chiếc áo sơ mi = 12 bát
phở, nhưng người ta không ghi theo cách này mà sử dụng tiền. Hay khi vay tiền
ngân hàng, thì số tiền bạn phải hoàn trả trong tương lai được tính bằng đồng hay
USD chứ không phải bằng lượng hàng hoá và dịch vụ.
Tóm lại, tiền là bất kỳ cái gì có thể thực hiện 3 chức năng trên.
3. Các loại tiền
* Lịch sử phát triển của tiền
Trong lịch sử, nhiều thứ đã đóng vai trò của tiền, trong đó có vỏ sò, thuốc
lá, các kim loại quý cũng như tiền giấy, đồng xu, polime và tiền chuyển khoản qua
ngân hàng. Galbraith và Salinger trong cuốn “ Everybody guide to economics”
chia lịch sử tiền tệ thành 3 giai đoạn:
- Tiền hàng hoá: dùng hiện vật làm vật trung gian trao đổi: muối, vỏ sò,…
- Bản vị kim loại: vàng, bạc,…
- Tiền pháp định: do Nhà nước quy định.
* Các loại tiền
Trong nền kinh tế hiện đại, tiền tệ là một loại tài sản tài chính và chúng
được biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau: Tiền giấy, tiền polyme, tiền kim loại,
tài khoản ngân hàng, tín phiếu, trái phiếu,… Chúng được phân loại tuỳ theo mức
độ luân chuyển (khả năng thanh khoản), đó là khả năng sử dụng loại tài sản tài
chính đó để thanh toán khi mua hàng hoá và dịch vụ. Khả năng này được xác định
bởi tính dễ dàng chuyển đổi từ một tài sản chính trở thành phương tiện có khả
năng sẵn sàng được sử dụng cho việc mua bán hàng hoá, dịch vụ.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
70
Với căn cứ đó, chúng ta có thể phân chia thành các loại tiền sau đây:
- M0: gồm toàn bộ tiền mặt đang lưu hành, nó không sinh lời nhưng mức
độ luân chuyển rất cao.
- M1: Gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng không kỳ hạn, tài khoản sec. Như
vậy, M1 gồm các khoản tiền có thể sử dụng ngay lập tức, không bị hạn chế trong
việc trao đổi hàng hoá hay thanh toán nợ nần với nhau.
M1 = M0 + tiết kiệm không kỳ hạn
- M2: Gồm M1 và tiết kiệm có kỳ hạn ngắn, loại này có mức độ luân chuyển
thấp hơn M1.
M2 = M1 + tiết kiệm có kỳ hạn
Ví dụ: Chúng ta đi mua sắm, nhìn thấy một chiếc điện thoại di động, nếu
chúng ta có đủ tiền mặt trong túi, chúng ta mua ngay và trả ngay tiền cho người
bán → M0 có mức độ luân chuyển rất cao.
Nếu chúng ta thiếu một ít tiền và trong ví chúng ta có một thẻ tiết kiệm
không kỳ hạn, chúng ta sẽ đến ngay Ngân hàng rút tiền để mua điện thoại (có thể
điều này không xảy ra vì bạn ngại đến Ngân hàng rút tiền vì tốn thời gian, xa, hết
giờ làm của NHàng,…). Như vậy sẽ chậm hơn việc có sẵn tiền mặt trong tay
→ Khả năng thanh toán của M1 thấp hơn.
Nhưng nếu chúng ta thiếu tiền và trong ví có một tài khoản tiết kiệm có kỳ
hạn ngắn (chẳng hạn 1 tháng nữa hoặc vài ngày nữa mới đáo hạn) thì có lẽ chúng
ta sẽ phải đắn đo suy nghĩ: hoặc là rút, chấp nhận mức lãi suất của Ngân hàng;
hoặc là đợi đáo hạn mới rút và mua điện thoại. Có thể thấy, với loại này (M3) có
khả năng thanh khoản chậm hơn.
- M3: Gồm M2, tiết kiệm có kỳ hạn dài và chứng khoán, loại này có mức độ
luân chuyển thấp nhất.
M3 = M2 + tiết kiệm dài hạn và các loại chứng khoán
Ở đây chúng ta coi mức cung về tiền tương ứng với khái niệm M1, tiền
giao dịch.
Chúng ta xét khái niệm: Cơ số tiền (tiền cơ sở, lượng tiền mạnh) H (High
Powered Money), là lượng tiền mặt đã phát hành, nó bằng tiền mặt trong lưu
thông và tiền dự trữ trong các ngân hàng.
H = U + Ra
Trong đó: H: Tiền cơ sở
U: Tiền mặt ngoài ngân hàng
Ra: Tiền dự trữ trong các ngân hàng
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
71
II. Cung về tiền (MS - Money Supply)
1. Ngân hàng thƣơng mại (Commercial Bank)
1.1. Chức năng của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) bao gồm một hệ thống các ngân hàng
chuyên doanh: Ngân hàng công thương VietinBank, ngân hàng ngoại thương
VietcomBank, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Agribank, Ngân
hàng Sài Gòn thương tín Sacombank,…
NHTM có những chức năng sau:
- NHTM là những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và tự chịu trách nhiệm
về lãi lỗ trong kinh doanh.
- NHTM là tổ chức môi giới tài chính, là những trung gian tài chính, nhận
gửi tiền của người này và đem số tiền đó cho người khác vay để thu lợi nhuận.
Thu nhập do kinh doanh tiền tệ xuất phát từ sự chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và
lãi suất tiền vay.
- Ủng hộ chính sách tài khoá của Chính phủ bằng việc mua, bán tín phiếu,
trái phiếu.
Bảng cân đối kinh doanh của NHTM:
Có Nợ
1. Dự trữ hiện có
+ Dự trữ bắt buộc
+ Dự trữ thừa
2. Cho vay
3. Đầu tư vào các dự án
4. Tài sản khác
Tổng có
1. Tiền gửi không kỳ hạn
2. Tiền gửi có kỳ hạn
3. Các khoản nợ khác
Tổng nợ
Mỗi ngân hàng khi nhận được một khoản tiền gửi bắt buộc phải để lại dự
trữ theo tỷ lệ nào đó do NHTƯ qui định, số tiền này NHTM phải gửi vào quỹ dự
trữ của NHTƯ. Mục đích của quỹ dự trữ bắt buộc là để đảm bảo yêu cầu quản lý
tiền tệ của NHTƯ và để cứu vãn hệ thống ngân hàng khi cần thiết.
1.2. Quá trình tạo ra tiền của ngân hàng thương mại
Quá trình tạo ra tiền của NHTM là sự mở rộng nhiều lần số tiền gửi được
thực hiện bởi hệ thống NHTM.
Khi có khách hàng gửi tiền vào ngân hàng một số tiền dưới dạng không kỳ
hạn, chúng ta xem từ khoản tiền này các NHTM tạo ra một lượng tiền gửi tăng
thêm là bao nhiêu.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
72
Giả sử:
- Tỷ lệ dự trữ thừa bằng 0, dự trữ hiện có của NHTM chính là dự trữ bắt buộc.
- Mọi người đều gửi tiền vào ngân hàng, không ai sử dụng tiền mặt mà chi
trả bằng sec.
- Mọi ngân hàng đều kinh doanh hết số tiền còn lại sau khi để dự trữ.
Giả sử, với lượng tiền gửi không kỳ hạn là 1.000 triệu đồng, hệ thống
NHTM sẽ tạo ra tiền lời là bao nhiêu.
Gọi: rb: tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Rb: Lượng tiền dự trữ bắt buộc
D: Lượng tiền gửi
Ta có: ∆D là tổng lượng tiền gửi, trong ví dụ trên ∆D = MS
∆Rb: tổng lượng dự trữ: ∆Rb = D
Do đó: Dr
MSb
1
Một khoản tiền gửi mới đưa vào hệ thống NH sẽ tạo thêm một khoản dự
trữ mới (R) và cho phép tạo ra những khỏan cho vay mới. Những khoản cho vay
mới được đưa trở lại hệ thống NH và trở thành những khoản tiền gửi mới. Cuối
cùng, lượng tiền gửi tăng lên là:
Ví dụ: Trong ví dụ trên, nếu rb = 10% và D = 1000đ, thì tổng số tiền gửi tạo
ra trong toàn bộ hệ thống NH là 1000/0,1 = 10.000 trđ. Vậy, 10.000 trđ là bội số
của lượng tiền gửi ban đầu (1000 trđ). Nếu rb = 5% thì lượng tiền gửi ban đầu
được khuyếch đại lên 20 lần. Vì vậy mà 1/rb được gọi là số nhân tiền tệ.
Ngân hàng
thƣơng mại
Tiền gửi Sử dụng tiền gửi
Dự trữ
Cho vay
NH thứ 1
1.000
100
900
NH thứ 2
900
90
810
NH thứ 3
810
81
729
NH thứ 4
729
72.9
656.1
......
...
...
NH thứ 100
...
0.00295
0.02655
.....
...
...
...
Tổng cộng
10.000
1.000
9.000
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
73
Như vậy, từ một lượng tiền gửi ban đầu, sau khi qua hệ thống ngân hàng,
cuối cùng đã tạo ra được một khối lượng tiền tệ lớn hơn gấp rất nhiều lần. Đó
chính là cách thức mà các NHTM “tạo ra tiền”.
Dr
MSb
1
br
1gọi là số nhân tiền tệ
Lưu ý: Lượng cung tiền thay đổi đúng theo công thức trên với những giả
định mà chúng ta đã đề cập, nói cách khác điều kiện để sử dụng số nhân tiền tệ:
+ Hệ thống NHTM phải chấp hành nghiêm túc tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đồng
thời không có dự trữ thừa hay tỷ lệ dự trữ thừa bằng 0 %.
+ Toàn bộ tiền mặt đã phát hành phải đặt dưới sự quản lý tập trung của hệ
thống ngân hàng, tức là không có sự rò rỉ tiền mặt trong dân cư.
2. Số nhân tiền tệ (mm - money multiplier)
Gọi mm là số nhân tiền tệ. Số nhân này được ra đời dựa trên sơ đồ về tài
chính tiền tệ.
Ta có: a
mRU
DUm
Trong đó: Ra = Rb + Rt
với Ra: Tỷ lệ dự trữ thực tế
Rb: tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Rt: tỷ lệ dự trữ thừa
Chia cả tử số và mẫu số cho D ta được:
D
R
D
UD
U
ma
m
1
Ta thấy: D
Rr a
a : tỷ lệ dự trữ thực tế
ra= rb + rt
← H →
MS
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
74
Trong đó: ra - tỷ lệ dự trữ thực tế
rb - tỷ lệ dự trữ bắt buộc
rt - tỷ lệ dự trữ thừa
Đặt D
Us : Tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông so với tiền gửi.
Số nhân tiền tệ sẽ là: sr
sm
a
m
1
Cung tiền: MS = mm*H
* Tỷ lệ dự trữ thực tế (ra) phụ thuộc vào các nhân tố:
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc (rb) do NHTƯ qui định.
- Tính không ổn định của nguồn tiền mặt, buộc các NHTM dự trữ tiền mặt
nhiều hơn.
* s càng nhỏ, mm càng lớn; s phụ thuộc vào các nhân tố:
- Thói quen thanh toán của xã hội.
- Tốc độ tăng của tiêu dùng.
- Khả năng đáp ứng tiền mặt của các NHTM.
* Trong trường hợp s = 0 thì mm = 1/ra
3. Ngân hàng trung ƣơng (Central Bank)
3.1. Chức năng của ngân hàng trung ương
* Đối với NHTM: NHTƯ có những chức năng sau:
- Quy định và ban hành tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho hệ thống NHTM.
- NHTƯ là ngân hàng của NHTM, giữ tài khoản dự trữ cho NHTM, cho
NHTM vay trong ngắn hạn, đảm bảo khả năng thanh toán cho NHTM và giữ lòng
tin đối với khách hàng. NHTƯ đóng vai trò là người cho vay cuối cùng.
- NHTƯ thực hiện quá trình thanh toán cho hệ thống NHTM.
* Đối với Chính phủ: NHTƯ có những chức năng sau:
- NHTƯ giữ tài khoản cho Chính phủ, nhận tiền gửi và cho vay đối với kho
bạc nhà nước.
- Ủng hộ chính sách tài khoá của Chính phủ bằng việc mua, bán trái phiếu,
tín phiếu.
- Cố vấn cho Chính phủ về các vấn đề tài chính tiền tệ như: phát hành tín
phiếu, trái phiếu, thay đổi tỷ giá hối đoái,…
* Kiểm soát mức cung tiền để thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định và
phát triển nền kinh tế.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
75
* Hỗ trợ, giám sát và điều tiết hoạt động của thị trường tài chính.
3.2. Thực thi chính sách tiền tệ
Để quản lý tiền tệ, kiểm soát mức cung tiền và lãi suất, NHTƯ sử dụng
những công cụ sau:
a. Hoạt động của thị trường mở (Open market operation)
Là hoạt động mua bán chứng khoán của chính phủ. Với công cụ này,
NHTƯ có thể tác động vào lượng tiền mạnh H làm thay đổi mức cung tiền MS.
Khi muốn tăng mức cung tiền, NHTƯ phải mua tín phiếu, trái phiếu (vật
bảo đảm) để tung ra thị trường thêm một lượng tiền. Nếu lượng tiền dùng để mua
là H thì lượng tiền cung ứng tăng thêm là:
MS = mm. H
Ngược lại, khi muốn giảm mức cung tiền thì NHTƯ bán tín phiếu, trái phiếu.
b. Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc (rb - required reserve ratio)
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ tiền mặt so với tổng số tiền gửi mà NHTM
phải nộp vào quỹ dự trữ của NHTƯ. Nó là một bộ phận của tỷ lệ dự trữ trong
toàn bộ hệ thống ngân hàng. NHTƯ là cơ quan duy nhất được phép ra quyết
định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với NHTM.
Với công cụ này, NHTƯ có thể tác động vào số nhân tiền tệ làm thay đổi
mức cung tiền MS.
Khi muốn tăng mức cung tiền thì NHTƯ giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc rb, dẫn
đến số nhân tiền tệ tăng, do đó mức cung tiền tăng. Ngược lại, khi muốn giảm
mức cung tiền thì NHTƯ tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc rb.
c. Thay đổi lãi suất chiết khấu (rd - discount rate)
Lãi suất chiết khấu là mức lãi suất mà NHTM phải trả khi vay tiền của
NHTƯ. Khi muốn tăng mức cung tiền thì NHTƯ đặt lãi suất chiết khấu thấp hơn
lãi suất thị trường, từ đó khuyến khích các NHTM vay tiền từ NHTƯ tung ra thị
trường làm cho MS tăng. Ngược lại, khi muốn giảm mức cung tiền thì NHTƯ đặt
lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường.
Công cụ này tác động đến mức cung tiền đồng thời qua cả H và mm. Trước
hết, khi lãi suất chiết khấu giảm và nhỏ hơn lãi suất thị trường thì lượng tiền mà
NHTM vay của NHTƯ chính là lượng tiền mạnh tăng thêm H và lúc đó MS sẽ
tăng lên một lượng là MS = mm. H.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
76
Ngoài ra, khi lãi suất chiết khấu giảm thì các NHTM sẵn sàng giảm bớt lãi
suất tuỳ ý đến mức thấp nhất, họ không sợ bị thiếu tiền chi trả cho khách hàng vì
nếu thiếu có thể vay của NHTƯ, lúc đó rt giảm nên mm tăng.
d. Các công cụ khác
- Lãi suất ký thác.
- Kiểm soát tín dụng chọn lọc.
- Ấn định lãi suất cho các ngân hàng thương mại.
Kết luận: NHTƯ có khả năng thực tế để ấn định mức cung tiền (M1) theo
dự kiến, có thể tăng thêm hay giảm bớt mức cung tiền MS bằng các công cụ điều
tiết của mình, chủ động thực hiện chính sách tiền tệ đã hoạch định.
III. Mức cầu tiền tệ và tác động của chính sách tiền tệ
1. Các loại tài sản tài chính
Có 2 loại tài sản tài chính:
- Tài sản tài chính giao dịch (thanh khoản): Loại tài sản tài chính này
không tạo ra thu nhập, nhưng được dùng để thanh toán khi mua hàng hoá, dịch vụ.
- Tài sản tài chính có thu nhập: Loại tài sản tài chính này tạo ra thu nhập
nhưng không thể dùng trực tiếp để thanh toán khi mua hàng hoá, dịch vụ.
2. Cầu về tiền (MD - Money Demand)
Mức cầu về tiền giao dịch là khối lượng tiền cần để chi dùng thường xuyên
cho các nhu cầu tiêu dùng cá nhân và kinh doanh sản xuất.
Khi giá cả tăng lên, mức cầu về tiền danh nghĩa cũng tăng theo để đảm bảo
mua đủ khối lượng hàng hoá cần thiết đã dự định, cho nên thực chất mức cầu tiền
tệ là cầu về cán cân tiền tệ thực tế (gọi tắt là mức cầu về tiền).
Cầu về tiền (MD) phụ thuộc vào 2 nhân tố sau:
+ Thu nhập (sản lượng) thực tế Y
Khi tăng thu nhập thì tiêu dùng cũng tăng, nên cầu về tiền (MD) cũng tăng.
Mặt khác, khi Y tăng đòi hỏi một lượng tiền lớn hơn để giao dịch lượng hàng hoá
đó. Do đó, MD đồng biến với Y.
+ Lãi suất r
Lãi suất chính là chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Nếu r càng cao thì chi phí cơ
hội càng lớn, lúc đó người ta ít muốn giữ tiền trong tay, tức là MD giảm xuống.
Do đó, MD nghịch biến với r.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
77
Hình 5.1: Đường cầu tiền
Nếu sử dụng hàm tuyến tính tổng quát để mô tả thì hàm cầu về tiền có dạng:
MD = MD + k.Y - h.r
MD: Mức cầu tiền tệ thực tế
MD : Mức cầu tiền không phụ thuộc vào Y và r.
k: hệ số phản ánh mức độ nhạy cảm của MD đối với Y
h: hệ số phản ánh mức độ nhạy cảm của MD đối với r.
Hàm MD biến thiên giảm theo lãi suất, trong điều kiện Y không thay đổi.
(Khi Y thay đổi thì MD sẽ dịch chuyển).
MD0 là đường cầu tiền khi Y ở mức thu nhập thấp.
Khi thu nhập tăng lên, MD0 dịch chuyển tới MD1, cùng mức lãi suất r0
nhưng cầu tiền đã lớn hơn (M1>M0). Cầu tiền tỷ lệ thuận với thu nhập danh nghĩa,
tỷ lệ nghịch với lãi suất.
MD1
MD0
r
M0 M1
r0
Thu nhập
1000tỷ
Thu nhập
2000tỷ2 550 1100
4 525 1050
6 500 1000
8 475 950
10 450 900
Cầu tiềnLãi suất
(%)
M
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
78
3. Sự cân bằng của thị trƣờng tiền tệ
Hình 5.2: Cân bằng của thị trường tiền tệ
Đường cung tiền MS là đường thẳng đứng tại lượng tiền cố định M0 vì
NHTƯ hoàn toàn quyết định được lượng tiền tệ cung ứng. Tuỳ thuộc vào tình
hình của nền kinh tế mà NHTƯ sử dụng những công cụ khác nhau làm tăng hay
giảm MS. MS không phụ thuộc vào lãi suất r.
MS = mm.H
E0 là điểm cân bằng trên thị trường tiền tệ.
r0 là mức lãi suất cân bằng.
Tại E0: cung tiền bằng cầu tiền: MS = MD hay MS = MD + kY - h.r
Với lãi suất r < r0 thì MS < MD: thị trường sẽ tự động điều chỉnh bằng cách
tăng I, sự điều chỉnh này chấm dứt khi lãi suất tăng đến r0.
Ngược lại, với lãi suất r > r0 thì MS > MD: thị trường sẽ điều chỉnh bằng
cách giảm r.
Sự dịch chuyển của đường MD hoặc MS sẽ làm thay đổi vị trí cân bằng
của thị trường tiền tệ.
Khi NHTƯ tăng thêm lượng tiền cung ứng, MS sẽ dịch chuyển sang phải
và lãi suất cân bằng giảm xuống.
Khi thu nhập tăng, cầu về tiền sẽ tăng, đường MD sẽ dịch chuyển sang phải
và lãi suất cân bằng sẽ tăng lên.
4. Tác động của thị trƣờng tiền tệ tới tổng cầu và sản lƣợng
NHTƯ sử dụng các công cụ khác nhau làm tăng cung tiền từ MS1 đến MS2,
cung tiền tăng làm cho lãi suất giảm xuống từ r1 đến r2.
Lãi suất giảm sẽ ảnh hưởng đến thị trường đầu tư và làm cho đầu tư tăng từ
I1 đến I2, hàm cầu đầu tư di chuyển từ A đến B.
E
M
MS
M0
r0
MD1
r
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
79
Hình 5.3: Tác động của thị trường tiền tệ tới tổng cầu và sản lượng
Đầu tư tăng dẫn đến tổng cầu tăng trên thị trường hàng hoá, dịch vụ. Tổng
cầu tăng dịch chuyển từ AD1 đến AD2, sản lượng của nền kinh tế tăng từ Y1 đến
Y2, nhưng với 2 điều kiện mà chúng ta đã xét ở chương 4.
Thực tế mức giá của nền kinh tế thay đổi, không cố định như giả thiết, và
sản lượng của nền kinh tế phải do quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu quyết định
chứ không phải chỉ do tổng cầu quyết định.
Như vậy, tổng cầu tăng làm cho sản lượng tăng, đồng thời mức giá cũng
tăng và lại làm cho sản lượng giảm. Y3 là sản lượng thực tế của nền kinh tế.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
80
CHƢƠNG VI
THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT
Thất nghiệp và lạm phát hai hiện tượng kinh tế vĩ mô phổ biến, có ảnh
hưởng rộng lớn đến các mặt của đời sống kinh tế hiện đại và là những vấn đề luôn
được toàn xã hội quan tâm. Tuy là những vấn đề riêng biệt nhưng thất nghiệp và
lạm phát lại có mối quan hệ với nhau và thường có sự đánh đổi lẫn nhau: để giảm
lạm phát thường phải chấp nhận tăng thất nghiệp, ngược lại muốn giảm thất
nghiệp thường phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát nào đó. Tuy nhiên, cũng có khi
nền kinh tế vừa chịu lạm phát cao vừa thất nghiệp nhiều.
Trên giác độ kinh tế vĩ mô, trong chương này chúng ta sẽ nghiên cứu
những vấn đề cơ bản về thất nghiệp và lạm phát: đưa ra khái niệm và đo lường
thất nghiệp và lạm phát, cách phân loại thất nghiệp và lạm phát, lý giải nguyên
nhân tại sao nền kinh tế luôn tồn tại thất nghiệp và lạm phát, cũng như mối quan
hệ giữa chúng. Đồng thời, đề xuất các giải pháp giải quyết hai vấn đề này.
I. Thất nghiệp
1. Khái niệm
Để có cơ sở cho việc đo lường thất nghiệp, chúng ta cần hiểu thế nào là có
việc và thế nào là thất nghiệp. Muốn vậy, cần phân biệt một số khái niệm sau:
- Những người trong độ tuổi lao động là những người ở độ tuổi có nghĩa vụ
và quyền lợi lao động theo qui định đã ghi trong hiến pháp.
Ở Việt Nam, độ tuổi lao động được qui định: nam từ 16 đến 60 tuổi, nữ từ
16 đến 55 tuổi.
- Lực lượng lao động là số người trong độ tuổi đang có việc làm hoặc chưa
có việc làm nhưng đang tìm kiếm việc làm.
Khi nghiên cứu về lực lượng lao động, các nhà kinh tế thường quan tâm
đến các vấn đề sau:
+ Cơ cấu lao động (nam, nữ), nghề nghiệp, trình độ, tay nghề,...
+ Tình hình phân bố lao động theo ngành, theo vùng và theo khu vực sản xuất.
Những người trong độ tuổi lao động đang chưa có việc làm, nhưng không
có nguyện vọng tìm kiếm việc làm thì không tính vào lực lượng lao động. Hoặc
những người ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế đang làm việc cũng không tính
vào lực lượng lao động.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
81
- Người có việc là những người trong độ tuổi lao động và đang làm việc
trong các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội,...
Ở nước ta, thông tư liên bộ Lao động - Thống kê đã định nghĩa việc làm
như sau:
Việc làm là những hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, có thu
nhập hoặc tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho những người trong cùng hộ gia đình.
Việc làm bao gồm ba dạng:
+ Những việc nhằm nhận được tiền công, tiền lương dưới dạng tiền mặt
hoặc hiện vật;
+ Những việc nhằm thu được lợi nhuận;
+ Những công việc cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao.
Định nghĩa trên không xác định thời gian hay thu nhập do việc làm
mang lại, trong khi đó ở Mỹ phải làm việc trên 35 giờ mới được xem là làm
việc đủ thời gian, ở Phillipin cho rằng phải kiếm được ít nhất 80% so với mức
lương tối thiểu mới xem là có việc làm.
- Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động qui định, có khả năng
lao động, hiện đang chưa có việc làm và đang tìm việc làm.
Theo định nghĩa trên, những người trong độ tuổi lao động hiện đang chưa
có việc làm nhưng không đi tìm việc làm, nói cách khác là không muốn làm việc,
hoặc những người ngoài độ tuổi qui định, có khả năng lao động nhưng không có
việc làm và đang mong muốn có việc làm thì không xem là thất nghiệp. Thành
phần này được xếp ở ngoài lực lượng lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp là % số người thất nghiệp so với tổng số người trong
lực lượng lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp = 100T
S (%)
Trong đó: S: Tổng số người trong lực lượng lao động.
T: Số người thất nghiệp.
Sơ đồ sau sẽ giúp chúng ta hình dung rõ hơn những khái niệm trên:
Dân số
Trong độ tuổi lao
động
Lực lượng lao động Có việc
Thất nghiệp
Ngoài lực lượng
lao động
Ngoài độ tuổi lao
động
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
82
2. Tác động (tác hại) của thất nghiệp
Công ăn việc làm gắn liền với kinh tế thị trường, khi không có công ăn việc
làm sẽ trở thành người thất nghiệp. Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải của mọi
quốc gia có nền kinh tế thị trường, cho dù quốc gia đó ở trình độ kém phát triển
hoặc phát triển cao.
Khi thất nghiệp càng cao, cái giá phải trả càng đắt.
Chúng ta xét trên 3 khía cạnh sau:
- Đối với cá nhân và gia đình người bị thất nghiệp: thất nghiệp là một gánh
nặng. Khi bị mất việc, thu nhập của công nhân giảm, ảnh hưởng xấu đến mức
sống, đồng thời họ cũng dễ bị tổn thương về mặt tâm lý, nguy cơ bệnh tật tăng
lên. Nếu thất nghiệp kéo dài, các kỹ năng lao động của công nhân cũng bị mai
một. Mối quan hệ gia đình có thể trở nên căng thẳng khi người trụ cột trong gia
đình bị thất nghiệp.
- Đối với xã hội: Xã hội phải chịu nhiều chi phí nhiều hơn cho đội quân
thất nghiệp, phải chi nhiều hơn cho bệnh tật và phải đương đầu với các tệ nạn xã
hội do người thất nghiệp gây ra.
- Đối với hiệu quả của nền kinh tế: Thất nghiệp cao làm cho nền kinh tế
không có hiệu quả, tài nguyên không được sử dụng hết và sản xuất sút kém. Theo
định luật OKun, khi tỷ lệ thất nghiệp tăng thêm 1% thì sản lượng thực tế giảm đi
2% so với sản lượng tiềm năng.
3. Các loại thất nghiệp
3.1. Phân theo loại hình thất nghiệp
Thất nghiệp là một gánh nặng cho gia đình và xã hội, nhưng gánh nặng đó
rơi vào đâu, bộ phận dân cư nào, ngành nghề nào,... Chúng ta cần biết những điều
đó để hiểu rõ về đặc điểm, tính chất và mức độ tác hại của thất nghiệp. Với mục
đích đó, có thể sử dụng những tiêu thức sau để phân loại thất nghiệp:
- Thất nghiệp chia theo giới tính
- Thất nghiệp chia theo lứa tuổi
- Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ
- Thất nghiệp chia theo ngành nghề
- Thất nghiệp chia theo chủng tộc
3.2. Phân theo lý do thất nghiệp
- Bỏ việc: Là hiện tượng người lao động tự ý xin thôi việc vì những lý do
khác nhau như: lương thấp, không hợp ngành nghề, không hợp vùng,...
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
83
- Mất việc: Là hiện tượng người lao động đang làm việc bình thường trong
các doanh nghiệp, nhưng bị doanh nghiệp cho thôi việc vì những khó khăn trong
kinh doanh, doanh nghiệp bị phá sản,...
- Mới vào: là số người lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động, nhưng chưa
tìm được việc làm (thanh niên đến tuổi lao động đang tìm việc, sinh viên tốt
nghiệp đang chờ công tác).
- Quay lại: là những người đã rời khỏi lực lượng lao động, nay muốn quay
lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
Như vậy, thất nghiệp là con số mang tính thời điểm, nó luôn luôn biến đổi
theo thời gian. Bởi có những người bỏ việc, mất việc sau một thời gian sẽ được
gọi trở lại làm việc. Nhưng cũng có một số người không có khả năng đó và họ
phải rời khỏi lực lượng lao động. Nếu coi thất nghiệp như một bể chứa những
người không có việc làm thì đầu vào của dòng thất nghiệp là những người gia
nhập đội quân này với 4 thành phần kể trên và đầu ra là những người rời khỏi thất
nghiệp. Trong cùng một thời kỳ, khi dòng vào lớn hơn dòng ra thì qui mô thất
nghiệp sẽ tăng lên và ngược lại qui mô thất nghiệp sẽ giảm xuống.
3.3. Phân theo nguồn gốc thất nghiệp
- Thất nghiệp tạm thời: xảy ra khi một số người lao động đang trong thời
gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn, hoặc những người mới bước
vào thị trường lao động đang tìm kiếm việc làm.
- Thất nghiệp cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối cung cầu về lao động
giữa các ngành và giữa các vùng.
Trong một quốc gia thường có tình trạng phát triển không đồng đều giữa các
vùng, điều này dẫn đến vùng này cần nhiều lao động nhưng vùng khác lại đang lâm
vào tình trạng thất nghiệp hàng loạt. Tuy nhiên, người lao động không dễ dàng di
chuyển từ nơi này đến nơi khác để có được việc làm vì nhiều lý do khác nhau có thể
do không có nhà ở, không chấp nhận cuộc sống ở nơi mới,... Trường hợp này gọi là
thất nghiệp cơ cấu do không tương xứng về địa điểm cư trú.
- Thất nghiệp chu kỳ (thất nghiệp do thiếu cầu): xảy ra khi tình trạng nền
kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, mức cầu chung về lao động giảm xuống.
Khi tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ suy giảm, buộc các doanh nghiệp phải
sản xuất ít hơn, thậm chí phải đóng cửa doanh nghiệp, lúc đó họ sẽ sa thải công
nhân và tạo nên thất nghiệp chu kỳ.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
84
Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của loại thất nghiệp này là tình trạng thất nghiệp
xảy ra ở mọi nơi, mọi ngành nghề, toàn bộ thị trường lao động bị mất cân bằng.
Ngoài ba loại thất nghiệp trên, cần phải kể đến hai loại thất nghiệp khác là:
thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện.
- Thất nghiệp tự nguyện: chỉ một bộ phận lao động không làm việc do mức
lương tương ứng chưa phù hợp với mong muốn của mình.
- Thất nghiệp không tự nguyện (còn gọi là thất nghiệp bắt buộc hay thất
nghiệp theo lý thuyết cổ điển): xảy ra khi mức lương qui định cao hơn mức lương
cân bằng trên thị trường lao động.
Khái niệm thất nghiệp tự nguyện là cơ sở để xây dựng 2 đường cung lao
động. Một đường cung lao động xã hội nói chung và một đường cung phản ánh bộ
phận lao động chấp nhận làm việc với các mức lương tương ứng của thị trường
lao động. Khoảng cách giữa 2 đường cung biểu thị số thất nghiệp tự nguyện.
Có thể nói thất nghiệp tự nguyện bao gồm số thất nghiệp tạm thời và số
thất nghiệp cơ cấu, đó là những người chưa sẵn sàng làm việc với mức lương
tương ứng, còn đang tìm kiếm những cơ hội tốt hơn.
Hình 6.1: Thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện
AB là số thất nghiệp không tự nguyện.
BC là số thất nghiệp tự nguyện.
II. Lạm phát
1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát (Inflation) là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên
trong một khoảng thời gian nhất định.
Giảm phát (Deflation) là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm
xuống trong một thời gian nhất định.
SL2
A C
F
DL
0 L0
L1
L
B
SL1
E
W
W1
W2
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
85
Khoảng thời gian nhất định này là bao lâu, điều này phụ thuộc vào khoảng
cách thời gian được chọn để tính tỷ lệ lạm phát: hàng tháng, hàng quý, hàng năm.
Điều cần lưu ý là lạm phát hay giảm phát là do sự tăng lên hay giảm xuống
của mức giá chung chứ không phải là mức giá của các mặt hàng cá biệt. Rất có
thể trong thời gian lạm phát vẫn có một số mặt hàng cá biệt có mức giá không đổi,
thậm chí giảm xuống. Đồng thời giá các loại hàng hoá tăng lên không nhất thiết
theo cùng một tỷ lệ.
Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kỳ nhất
định, các nhà thống kê kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần
trăm thay đổi của mức giá chung. Tỷ lệ lạm phát được tính bằng công thức sau:
(%)100*1
1
t
ttt
P
PP
Trong đó: πt: tỷ lệ lạm phát của thời kỳ t (có thể là tháng, quý hoặc năm)
Pt: mức giá của thời kỳ t
Pt-1: mức giá của thời kỳ trước đó.
Như vậy, để tính được tỷ lệ lạm phát, trước hết các nhà thống kê phải quyết
định sử dụng chỉ số giá nào để phản ánh mức giá. Trong chương II chúng ta đã
nghiên cứu hai chỉ số để đo lường mức giá chung là chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP)
và chỉ số giá tiêu dùng CPI. Tuy nhiên, nếu mục tiêu là xác định ảnh hưởng của lạm
phát đến mức sống thì sử dụng chỉ số giá tiêu dùng CPI là thích hợp hơn. Trên thực
tế, các số liệu công bố chính thức về lạm phát thường được tính trên cơ sở CPI.
Một ví dụ hết sức nổi bật về lạm phát là thời kỳ siêu lạm phát mà nước Đức
đã phải trải qua vào đầu những năm 1920. Giá cả tăng lên 10 triệu lần. Người ta bị
chìm ngập trong khối tiền tệ, trong khi mọi thứ hàng hoá đều khan hiếm, có tiền
chưa chắc đã mua được hàng hoá bởi không ai muốn bán hàng để lấy những đồng
tiền vô giá trị. Người ta cho rằng, siêu lạm phát đã phá huỷ toàn bộ hệ thống chính
phủ dân chủ mà nước Đức đã nỗ lực xây dựng sau thất bại trong cuộc chiến tranh
thế giới lần thứ nhất và tạo cơ sở cho sự tăng cường quyền lực của Đảng Nazi do
Hitler đứng đầu.
Siêu lạm phát ở Đức sau đại chiến thế giới thứ nhất
0
2000000000
4000000000
6000000000
8000000000
10000000000
12000000000
1922 1923 1924 1925
cung ứng tiền mức giá
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
86
Lạm phát ở Mỹ 1960 - 2002
Hầu hết các nước công nghiệp phát triển đều phải đương đầu với tình trạng
lạm phát cao kéo dài trong một số năm và một số nước kém phát triển thậm chí
còn trải qua siêu lạm phát. Một loạt các nước Mỹ Latinh đã lâm vào lạm phát rất
cao trong những năm 1980 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ bùng nổ vào
năm 1982. Việt Nam cũng như phần lớn các nước, trong giai đoạn đầu của quá
trình chuyển đổi từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường đều
trải qua lạm phát cao.
Tình hình lạm phát ở Việt Nam từ 1981 - 2005
2. Phân loại lạm phát
Dựa vào tỷ lệ lạm phát các nhà kinh tế thường phân biệt 3 loại lạm phát:
lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
- Lạm phát vừa phải (Moderate Inflation) là loại lạm phát một con số, tỷ lệ
tăng giá thấp, dưới 10% một năm. Có thể nói giá cả tương đối ổn định, bởi vì sự
thay đổi của nó hầu như rất khó nhận biết, giá trị đồng tiền nhìn chung được đảm
bảo, đời sống kinh tế diễn ra bình thường. Dân chúng tin tưởng vào giá trị của
0
100
200
300
400
500
600
700
800
1981-
85
86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 95-
2005
0
2
4
6
8
10
12
14
16
1960 1965 1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000
% p
er y
ear
inflation rate inflation rate trend
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
87
đồng tiền, họ sẽ không lãng phí thời gian và sức lực trong việc cố gắng bảo tồn
của cải dưới dạng tài sản hiện vật.
- Lạm phát phi mã (Galloping Inflation) là loại lạm phát hai hay ba con số,
loại này xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh, có thể lên đến 200% một năm
hoặc hơn nữa. Loại lạm phát này khi đã trở nên bền vững sẽ gây ra những biến
dạng kinh tế nghiêm trọng.
- Siêu lạm phát (Hyper Inflation) là thời kỳ có tỷ lệ lạm phát rất cao, giá cả
có thể tăng lên đến hàng nghìn, hàng triệu lần. Loại này gây thiệt hại nghiêm
trọng và sâu sắc đối với nền kinh tế.
3. Tác động của lạm phát (Những tổn thất xã hội của lạm phát)
Tính chất của lạm phát có ảnh hưởng quan trọng đến tổn thất mà lạm phát
gây ra cho xã hội. Theo tính chất, người ta phân biệt lạm phát được dự tính trước
và lạm phát không được dự tính trước.
3.1. Đối với lạm phát được dự tính trước
Lạm phát hoàn toàn được dự tính trước xảy ra khi lạm phát xảy ra đúng
như dự tính từ trước của các tác nhân kinh tế. Trong trường hợp này, mọi khoản
vay cũng như hợp đồng về các biến danh nghĩa đã được điều chỉnh phù hợp với
lạm phát. Loại lạm phát này gây ra những tổn thất gì cho xã hội?
Tác hại đầu tiên của lạm phát được các nhà kinh tế mô tả bằng thuật ngữ
chi phí mòn giày (shoeleather cost). Hiểu theo nghĩa đen có nghĩa là khi có lạm
phát, mọi người phải đến ngân hàng nhiều lần hơn để rút tiền ra hoặc chuyển tiền
từ tài khoản tiết kiệm (sinh lợi) sang tài khoản thanh toán (không sinh lợi hoặc trả
lãi suất thấp) do đó, giày của họ mòn nhanh hơn, mau hỏng hơn. Tuy nhiên, các
nhà kinh tế thường hiểu chi phí mòn giày theo nghĩa bóng tức là chi phí để giảm
lượng tiền nắm giữ.
Lý do tại sao mọi người lại thay đổi hành vi theo hướng làm tăng chi phí này?
Lạm phát hoạt động giống như một loại thuế đánh vào những người giữ
tiền và được gọi là thuế lạm phát. Tuy bản thân thuế không phải là một chi phí
xã hội, mà chỉ là cách để chuyển giao nguồn lực từ người nộp thuế sang cho
Chính phủ nhưng hầu hết các loại thuế đều làm cho mọi người thay đổi hành vi
để tránh phải nộp thuế.
Chính điều này làm cho thuế lạm phát gây ra tổn thất tải trọng giống như
các loại thuế khác. Khi gây ra tổn thất tải trọng, thuế lạm phát gây ra tình trạng
lãng phí nguồn lực của cá nhân và xã hội.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
88
Khi lạm phát thấp, chi phí mòn giày thường nhỏ và ngược lại.
Lạm phát gây ra chi phí thực đơn (menu cost). Đó là những chi phí phát sinh
khi doanh nghiệp tính toán lại giá, in lại giá, hướng dẫn cho nhân viên bán hàng
theo giá bán mới, in và phân phối các catalô mới, chi phí quảng cáo cho giá mới,...
Khi lạm phát tăng cao, các doanh nghiệp phải thay đổi giá thường xuyên hơn
nên chi phí thực đơn càng tăng. Đặc biệt, khi có siêu lạm phát, chi phí sản xuất tăng
lên hàng ngày, các doanh nghiệp cũng phải thay đổi giá hàng ngày, thậm chí nhanh
hơn. Thực tế này làm cho chi phí thực đơn của họ tăng lên rất nhanh. Chúng ta có thể
kết luận rằng chi phí thực đơn nhỏ khi lạm phát thấp, nhưng lớn thậm chí rất lớn khi
có lạm phát cao.
Lạm phát có thể tạo ra những thay đổi không mong muốn trong giá tương
đối của các hàng hoá. Khi lạm phát làm biến dạng giá tương đối, quyết định của
người tiêu dùng cũng bị biến dạng và thị trường mất khả năng phân bổ nguồn lực
một cách có hiệu quả.
Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân thường trái
với ý định của những người làm luật. Trên thực tế, luật thuế thường không tính đến
tác động của lạm phát. Do đó, khi thu nhập danh nghĩa tăng, mọi người phải nộp
mức thuế cao hơn ngay cả khi thu nhập thực tế của họ không thay đổi, dẫn đến thu
nhập khả dụng của họ giảm. Điều này không khuyến khích mọi người làm nhiều,
làm tốt và làm hiệu quả.
Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn và bất tiện: Khi có lạm phát, tiền trở thành
một thước đo co giãn. Nó gây ra nhiều phiền phức và nhầm lẫn cho việc ghi chép
và tính toán các giao dịch kinh tế. Ví dụ, các doanh nghiệp có thể tính toán chi phí
và lợi nhuận không chính xác và giá trị thực tế của tiền tại các thời điểm khác
nhau không giống nhau. Điều này dẫn đến một thực tế là các doanh nghiệp phải
nghĩ ra nhiều cách khác nhau để phản ánh đúng giá trị thực tế của các tài sản,
hàng hoá mà họ nắm giữ, các chi phí phát sinh và lợi nhuận tính được.
3.2. Đối với lạm phát không được dự tính trước
Lạm phát không dự tính trước bất ngờ xảy ra có thể làm phân phối lại thu
nhập và của cải giữa các thành viên trong xã hội không theo nỗ lực, cống hiến và nhu
cầu của họ.
Xét các hợp đồng tín dụng dài hạn. Các hợp đồng tín dụng thường qui định
mức lãi suất danh nghĩa dựa trên tỷ lệ lạm phát dự tính. Khi tỷ lệ lạm phát thực tế
khác với tỷ lệ lạm phát dự tính thì lãi suất thực tế thực hiện và lãi suất thực tế dự
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
89
tính cũng khác nhau. Nếu tỷ lệ lạm phát thực tế lớn hơn tỷ lệ lạm phát dự tính thì
lãi suất thực tế thực hiện nhỏ hơn lãi suất thực tế dự tính. Điều này có nghĩa người
tiết kiệm có thu nhập thấp hơn dự tính ban đầu, trong khi người đi vay trả vốn gốc
và tiền lãi bằng những đồng tiền kém giá trị hơn so với dự tính ban đầu. Điều đó
hàm ý có sự phân phối lại của cải từ người cho vay sang người đi vay. Người đi vay
sẽ được hưởng lợi còn người cho vay sẽ bị tổn thất. Sự phân phối lại diễn ra theo
chiều hướng ngược lại khi tỷ lệ lạm phát thực tế thấp hơn tỷ lệ lạm phát dự tính.
Lạm phát không được dự tính trước còn gây tổn thất cho những người nhận
thu nhập danh nghĩa cố định hoặc có thu nhập danh nghĩa chậm được điều chỉnh
theo lạm phát. Công nhân và doanh nghiệp thường thoả thuận về mức lương danh
nghĩa trong các hợp đồng lao động dài hạn dựa trên kỳ vọng về lạm phát. Do vậy,
công nhân sẽ bị tổn thất khi lạm phát cao hơn mức dự kiến, ngược lại các doanh
nghiệp lại bị tổn thất khi lạm phát thấp hơn mức dự kiến.
Trên thực tế, lạm phát cao thường có xu hướng biến động mạnh và khó dự
đoán trước, gây ra những bất định cho các hoạt động tiết kiệm và đầu tư, do đó
không có lợi cho tăng trưởng kinh tế dài hạn. Chính vì vậy, phần lớn các chính
phủ thường có mục tiêu ổn định lạm phát ở mức thấp.
4. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Nguyên nhân gây ra lạm phát rất đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên, ta có thể
chia thành hai nhóm lạm phát: lạm phát do cầu và lạm phát do cung. Trong thực tế
cũng có trường hợp lạm phát xảy ra do cả cung lẫn cầu.
4.1. Lạm phát ỳ (lạm phát dự kiến)
Trong các nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm
phát vừa phải có xu hướng ổn định theo thời gian. Hằng năm, mức giá tăng lên theo
một tỷ lệ khá ổn định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là loại
lạm phát hoàn toàn được dự tính trước. Mọi người đã biết trước và tính đến khi thoả
thuận về các biến danh nghĩa được thanh toán trong tương lai. Nó có thể coi là tỷ lệ
lạm phát cân bằng trong ngắn hạn và nó sẽ được duy trì cho đến khi có các cú sốc
tác động đến nền kinh tế.
- Khi lạm phát tiếp tục với tỷ lệ dự kiến thì chi phí trung bình cũng tăng
đúng bằng tỷ lệ đó. Đường AS do vậy cũng dịch chuyển lên bằng tỷ lệ đó từ năm
này sang năm khác. Đường AD cũng dịch chuyển lên theo tỷ lệ đó. Như vậy, giao
điểm của AS và AD sẽ cao hơn mỗi năm đúng bằng tỷ lệ lạm phát dự kiến. Các vị
trí cân bằng dịch chuyển từ E đến E’ và E’’.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
90
- Lạm phát ỳ xảy ra khi đường cong AS và AD không ngừng đi lên với tốc
độ như nhau.
Hình 6.2: Lạm phát ỳ
Cái gì đẩy lạm phát ỳ ra khỏi con đường của nó? những chấn động như tỷ lệ
thất nghiệp cao hay thấp, sự tăng giá dầu đột ngột, mùa màng thất bát hay chiến tranh...
Chúng ta mong đợi lạm phát tiến triển quanh tỷ lệ ỳ của nó. Song trên thực
tế, lạm phát luôn bị chấn động bởi các trào lưu kinh tế. Các lực chính của lạm phát
do cầu - kéo và chi phí - đẩy.
4.2. Lạm phát do cầu kéo (Demand - pull inflation)
Loại này xảy ra khi tổng cầu tăng lên tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt
quá sản lượng tiềm năng. Độ dốc của đường AS càng cao thì tỷ lệ lạm phát càng
lớn. Trong thực tế, khi xảy ra lạm phát do cầu kéo, người ta thường nhận thấy
lượng tiền trong lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả
năng có giới hạn của mức cung hàng hoá.
Hình 6.3:Lạm phát do cầu kéo
Vậy, bản chất của lạm phát do cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để lấy
được một lượng cung hạn chế về hàng hoá có thể sản xuất được trong điều kiện
có đầy đủ công ăn việc làm.
Y*
E1
E0
P1
P0
AS0
AD0
AD1
Y
P
P2 E2
AD2
AS2
P
Yp
Y*
E1
E0
P1
P0
AS0
AD0
AD1
Y
AS1
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
91
4.3. Lạm phát do chi phí đẩy (Cost - push Inflation)
Loại này xảy ra khi chi phí sản xuất tăng. Đường AS dịch chuyển sang trái,
sản lượng suy giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng và gây ra lạm phát.
Các cơn sốc giá cả thị trường đầu vào, đặc biệt là các vật tư cơ bản (xăng, dầu,
điện,…) là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường AS dịch chuyển giảm.
Tuy tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả đã tăng lên và sản lượng giảm xuống.
Hình 6.4:Lạm phát do chi phí đẩy
5. Biện pháp chống lạm phát
Tất cả các nước trên thế giới đều trải qua lạm phát với những mức độ khác
nhau. Những nguyên nhân gây ra lạm phát đều có điểm chung nhưng mỗi nền
kinh tế đều có những đặc điểm riêng biệt nên lạm phát của mỗi nước có tính đặc
thù khác nhau. Mỗi quốc gia trong quá trình phát triển của mình đều có những
chiến lược chống lạm phát riêng biệt. Trong thực tế có khá nhiều biện pháp được
đưa ra nhưng thực chất đều nằm trong hai nhóm biện pháp: nhóm tác động lên
phía cầu và nhóm tác động lên phía cung.
Nhóm tác động lên phía cầu:
Tác động lên phía cầu làm dịch chuyển đường AD sang trái, bằng việc thực
hiện các chính sách kinh tế vĩ mô thu hẹp như: tăng thuế (T), giảm chi tiêu của
Chính phủ (G), giảm cung tiền (MS), kiểm soát tiền lương.
Y*
E1
E0
P1
P0
AS0
AD0
Y
P AS1
Y1
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
92
Hình 6.5: Tác động lên AD
Tuy nhiên, cái giá phải trả cho chính sách này là sản lượng giảm, làm cho
nền kinh tế có khả năng càng suy thoái hơn. Vì vậy, cần hết sức thận trọng với
chính sách này.
Nhóm tác động lên phía cung:
Hình 6.6: Tác động lên AS
Tác động lên phía cung làm dịch chuyển đường AS sang phải bằng việc
thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô nới lỏng như: khuyến khích đầu tư, kiểm
soát chi phí đầu vào, giảm thuế, giảm lãi suất, nâng cao năng suất lao động,...
Thông thường, nhóm chính sách tác động lên phía cung khó thực hiện.
Trong thực tế thường áp dụng đồng thời cả hai nhóm biện pháp mới có thể cắt
giảm lạm phát nhanh mà không gây ra thiệt hại nhiều cho sản lượng đồng thời
không làm tăng nhanh tỷ lệ thất nghiệp.
Ngoài ra còn có thể vay từ nước ngoài để trợ giúp nguồn cung trong nước.
Tuy nhiên, cái giá phải trả cho chính sách này là có thể tạo ra áp lực lạm phát trong
tương lai.
Có thể xoá bỏ hoàn toàn lạm phát hay không? Cái giá phải trả của việc xoá
bỏ hoàn toàn lạm phát là không tương xứng với lợi ích đem lại của nó. Vì vậy, các
quốc gia thường chấp nhận lạm phát ở mức độ thấp và xử lý ảnh hưởng của nó
AD AS0
P0 E0
Y*
Y
P
AS1
E1 P1
AD0 AS
P0 E0
Y*
Y
P
AD1
E1
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
93
bằng việc chỉ số hoá các yếu tố chi phí như: tiền lương, lãi suất, giá vật tư,...
Phương pháp này làm cho thiệt hại của lạm phát thấp nhất.
III. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
Lạm phát và thất nghiệp đều có những tác hại mà nền kinh tế phải gánh
chịu. Do đó, việc tìm cách thủ tiêu hai căn bệnh này là mong muốn của mọi quốc
gia. Tuy nhiên, trong thực tế lại có sự đánh đổi giữa chúng với nhau, nghĩa là việc
giảm thất nghiệp thường kéo theo một tỷ lệ lạm phát cao hơn và ngược lại, việc
giảm lạm phát thường dẫn đến sự gia tăng của tỷ lệ thất nghiệp.
Điều này tạo ra sự lựa chọn trong việc thực hiện mục tiêu ổn định và hiệu
quả, cố gắng duy trì sản lượng ở mức sản lượng tiềm năng với mức lạm phát vừa
phải và tỷ lệ thất nghiệp chấp nhận được.
Hình 6.7: Sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp
- đường cong Phillips ngắn hạn
Dĩ nhiên, nếu chúng ta giảm lạm phát bằng các chính sách tác động về phía
cung thì sẽ không có sự đánh đổi vì giảm lạm phát theo cách này sẽ kèm theo sự gia
tăng công ăn việc làm, giảm thất nghiệp. Tuy nhiên, những chính sách này rất khó
thực hiện, mà phần lớn các chính sách giảm lạm phát trong thực tế đều theo hướng
cắt giảm tổng cầu và có thể làm cho tỷ lệ thất nghiệp cao.
1. Đƣờng Phillips ban đầu (short run Phillips curve)
Đường này cho thấy mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa thất nghiệp và lạm phát.
Lý thuyết này cho thấy có thể đánh đổi lạm phát nhiều hơn để có thể thất nghiệp
thấp hơn. Mức độ đánh đổi cao hay thấp phụ thuộc vào độ dốc của đường này.
Mô hình của đường Phillip ban đầu:
π = - d(U - Un)
d: độ dốc của đường Phillips, phản ánh mức độ nhạy cảm của tiền lương
tới thất nghiệp.
% thất nghiệp
%
Lạm
phát
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
94
Hình 6.8: Sự dịch chuyển của đường AD và đường Phillips
Đặc điểm của đường Phillip ban đầu:
- Lạm phát bằng không khi tỷ lệ thất nghiệp bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
- Khi thất nghiệp thực tế thấp hơn thất nghiệp tự nhiên thì lạm phát xảy ra.
- Độ dốc của đường Phillip càng lớn thì một sự thay đổi nhỏ (giảm, tăng)
của thất nghiệp sẽ gây ra sự thay đổi đáng kể (tăng, giảm) về lạm phát.
2. Đƣờng Phillips mở rộng (expectation augumented Phillips curve)
Đường Phillips ban đầu chỉ nhấn mạnh mối quan hệ giữa lạm phát và thất
nghiệp. Tuy nhiên, sự dịch chuyển của đường tổng cung và đường Phillips làm
cho nền kinh tế phải chịu một tỷ lệ lạm phát cao hơn hoặc thấp hơn so với trước.
Trong các yếu tố làm dịch chuyển đường tổng cung, các nhà kinh tế đặc biệt chú
ý đến kỳ vọng về lạm phát (expected inflation). Kỳ vọng về lạm phát hay còn
gọi là lạm phát dự tính hay lạm phát ỳ (πe) là loại lạm phát tăng đều với một tỷ lệ
tương đối ổn định và người ta có thể dự tính được.
Khi mọi người dự kiến về mức giá cao (kỳ vọng cao), lạm phát sẽ cao tại
mọi mức thất nghiệp và đường Phillips sẽ dịch chuyển ra phía ngoài. Ngược lại,
khi mọi người dự kiến mức giá thấp (kỳ vọng thấp), lạm phát sẽ thấp tại mọi mức
thất nghiệp và đường Phillips sẽ dịch chuyển vào phía trong.
Mô hình của đường Phillips mở rộng:
π = πe - d(U - Un)
Như vậy, khi tỷ lệ thất nghiệp bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên thì lạm phát
thực tế bằng lạm phát mong đợi. Nếu thất nghiệp thực tế cao hơn thất nghiệp tự
nhiên thì lạm phát thực tế thấp hơn lạm phát mong đợi.
Đường Phillips được mô tả bằng phương trình trên được gọi là đường Phillips
mở rộng kỳ vọng. Nó được xây dựng trên cơ sở tỷ lệ lạm phát mong đợi của từng giai
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
95
đoạn, nếu có sốc cầu hoặc sốc cung thì đường Phillips sẽ có xu hướng dịch chuyển
lên phía trên.
Hình 6.9 : Sự dịch chuyển của đường tổng cung và đường Phillips
3. Đƣờng Phillips dài hạn (long run Phillips curve)
Đường Phillips mở rộng kỳ vọng còn có một hàm ý khác: nó dịch chuyển
theo phương thẳng đứng, có thể lên phía trên hoặc xuống phía dưới, khi kỳ vọng
thay đổi. Nếu vẽ một đường thẳng đứng tại mức thất nghiệp tự nhiên, chúng ta sẽ
được một đường chỉ ra sự dịch chuyển này. Các nhà kinh tế gọi nó là đường
Phillips dài hạn.
Nếu sử dụng phương trình của đường Phillips mở rộng kỳ vọng và giả định
trong dài hạn tỷ lệ thất nghiệp luôn luôn bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, chúng ta
sẽ được phương trình của đường Phillips dài hạn như sau:
π = πe
Phương trình này cho thấy trong dài hạn, tỷ lệ lạm phát chỉ phụ thuộc vào
kỳ vọng về lạm phát, không phụ thuộc vào tỷ lệ thất nghiệp. Lạm phát có thể cao
khi kỳ vọng cao và thấp khi kỳ vọng thấp, cho dù tỷ lệ thất nghiệp là bao nhiêu.
Nói cách khác, trong dài hạn không có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp.
Hình 6.10: Đường Phillips dài hạn
π
0 Un U
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
96
CHƢƠNG VII
KINH TẾ VĨ MÔ CỦA NỀN KINH TẾ MỞ
I. Cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán là một bảng cân đối ghi chép một cách hệ thống toàn
bộ những giao dịch kinh tế giữa trong nước với thế giới bên ngoài trong một
khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Nó phản ánh giá trị hàng hoá
và dịch vụ mà nền kinh tế đã xuất khẩu hoặc nhập khẩu, cũng như các khoản
tiền mà đất nước đã đi vay hay cho các nước khác vay.
Ngoài ra, sự can thiệp của ngân hàng thương mại vào thị trường ngoại hối
thông qua việc thay đổi dự trữ ngoại tế cũng được phản ánh trong cán cân thanh toán.
Cán cân thanh toán được ghi chép giống như một tài khoản. Các giao dịch
mang lại ngoại tệ cho đất nước như xuất khẩu hay bán tài sản ra nước ngoài được
ghi là “khoản mục có” (mang dấu +). Ngược lại, các giao dịch dẫn đến việc thanh
toán ngoại tệ cho thế giới bên ngoài như nhập khẩu hay mua tài sản nước ngoài
được ghi là “khoản mục nợ” (dấu -).
Cán cân thanh toán bao gồm 2 tài khoản chủ yếu: tài khoản vãng lai và tài
khoản vốn.
* Tài khoản vãng lai (Tài khoản hiện hành CA - Current Account): phản
ánh các giao dịch về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai.
Tài khoản vãng lai được chia thành 3 khoản mục lớn: tài khoản thương
mại, thu nhập nhân tố từ nước ngoài và chuyển giao vãng lai.
+ Tài khoản thương mại: ghi chép thu nhập và thanh toán xuất hiện từ việc
xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ.
Như đã nghiên cứu ở chương III, xuất khẩu là những hàng hoá và dịch vụ
sản xuất trong nước được bán ra nước ngoài, còn nhập khẩu là những hàng hoá và
dịch vụ sản xuất ở nước ngoài được bán ở trong nước. Xuất khẩu mang lại ngoại
tệ cho đất nước và do đó ghi là khoản mục có (dấu +) còn nhập khẩu đòi hỏi phải
chi ngoại tệ ra nước ngoài nên ghi là khoản mục nợ (dấu -).
Xuất khẩu ròng của một nước chính là chênh lệch giữa kim ngạch xuất
khẩu và kim ngạch nhập khẩu.
Xuất khẩu ròng: NX = X - M, còn gọi là cán cân thương mại.
Nếu NX > 0: X > M: thặng dư thương mại.
NX < 0: X < M: thâm hụt thương mại.
NX = 0: X = M: cân bằng thương mại.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
97
Vấn đề đặt ra là điều gì quyết định cán cân thương mại của một quốc gia?
Đó là xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng. Ngoài ra:
- Thị hiếu của người tiêu dùng về hàng trong nước và hàng nước ngoài
- Giá cả tương đối giữa hàng trong nước và hàng nước ngoài.
- Tỷ lệ hối đoái mà tại đó mọi người có thể chuyển đổi giữa đồng nội tệ với
tiền nước ngoài.
- Thu nhập của người tiêu dùng trong nước và người tiêu dùng nước ngoài.
- Chi phí bảo hiểm và vận chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác.
- Các chính sách của chính phủ đối với thương mại.
Do tất cả những biến số này thay đổi theo thời gian, khối lượng thường
xuyên thay đổi.
+ Thu nhập nhân tố từ nước ngoài (Thu nhập yếu tố ròng từ nước ngoài
NIA - Net factor Income from Abroad): chủ yếu là thu nhập từ hoạt động đầu tư
quốc tế như tiền lãi, cổ tức, lợi nhuận.
NIA = GNP - GDP
+ Chuyển khoản quốc tế: ghi chép các giao dịch giữa các quốc gia mà
không có khoản đối ứng. Đó là các giao dịch một chiều.
Ví dụ: Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam một số ôtô bus để sử dụng cho giao
thông công cộng.
Để xử lý các giao dịch không có luân chuyển tài chính đối ứng này, trong
cán cân thanh toán cũng có khoản mục có tên gọi “ Chuyển khoản”. Quy ước này
cho phép các giao dịch một chiều được chuyển thành giao dịch 2 chiều chuẩn tắc.
Nhìn chung, tất cả các khoản chuyển khoản có một giá trị kế toán mà
không có khoản đối ứng.
Chuyển khoản vãng lai bao gồm chuyển tiền, quà tặng bằng hàng, các
khoản đóng góp cho các tổ chức quốc tế và khoản tiền của những người lao động
làm việc ở nước ngoài gửi về cho gia đình.
* Tài khoản vốn (KA - Capital Account): ghi chép các giao dịch liên quan
đến việc di chuyển vốn giữa trong nước với thế giới bên ngoài.
Việc người Việt Nam bỏ tiền ra mua các tài sản nước ngoài được coi là
nhập khẩu tài sản quốc tế và được ghi vào khoản mục nợ trong tài khoản vốn của
Việt Nam. Ngược lại, việc người nước ngoài mua tài sản của Việt Nam được coi
là xuất khẩu tài sản ra nước ngoài và được ghi vào khoản mục có trong tài khoản
vốn của Việt Nam.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
98
Dòng vốn luân chuyển giữa các quốc gia chịu sự chi phối của những biến
số sau:
- Lãi suất thực tế trả cho tài sản nước ngoài.
- Lãi suất thực tế trả cho tài sản nước ngoài.
- Nhận thức về rủi ro kinh tế và chính trị của việc nắm giữ tài sản nước ngoài.
- Các chính sách của chính phủ ảnh hướng tới việc người nước ngoài nắm
giữ tài sản trong nước.
Như vậy, cán cân thanh toán (BP - Balance of Payment) là tổng hợp của
cán cân tài khoản vãng lai và cán cân tài khoản vốn.
BP = CA + KA
Nó biểu thị luồng tiền ròng từ thế giới bên ngoài chảy vào một quốc gia khi
các cá nhân, công ty và chính phủ tiến hành giao dịch trong một khoảng thời gian
nhất định.
BP < 0: Thâm hụt cán cân thanh toán xảy ra khi luồng tiền chảy ra lớn hơn
luồng tiền chảy vào.
Ngược lại: BP > 0 sẽ xảy ra thặng dư cán cân thanh toán.
Cán cân thanh toán cân bằng: BP = 0 khi luồng tiền chảy vào vừa đúng
bằng luồng tiền chảy ra.
Tài khoản tài trợ chính thức (OF - Official Financing): phản ánh những
giao dịch về dự trữ quốc tế được ngân hàng trung ương của một nước giữ. Các
giao dịch này phản ánh việc tài trợ cho số dư của cán cân thanh toán. Ngân hàng
trung ương ở hầu hết các nước đều có dự trữ quốc tế để can thiệp vào thị trường
ngoại hối nhằm hạn chế sự biến động bất lợi của tỷ giá hối đoái. Dự trữ quốc tế có
thể là vàng hoặc các ngoại tệ mạnh. Khoản mục tài trợ chính thức luôn bằng về
giá trị và có dấu ngược lại với cán cân thanh toán.
II. Tỷ giá hối đoái và thị trƣờng ngoại hối
1. Tỷ giá hối đoái
1.1. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (nomimal exchange rate)
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ lệ trao đổi giữa tiền của các quốc gia.
Ví dụ: 1 đôla Mỹ đổi 16800 đồng Việt Nam.
Tỷ giá hối đoái có thể được ngân hàng niêm yết dưới 2 dạng:
+ Số đơn vị ngoại tệ đổi lấy 1 đồng.
+ Số đồng đổi lấy 1 đơn vị ngoại tệ.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
99
Ví dụ: Nếu tỷ giá hối đoái là 16800 đồng Việt Nam ăn 1 đôla Mỹ thì nó
cũng là 1/16800 ≈ 0,00006 đôla Mỹ ăn 1 đồng Việt Nam.
Chúng ta ký hiệu tỷ giá hối đoái danh nghĩa là E.
Nếu tỷ giá hối đoái thay đổi sao cho 1 đôla có thể đổi được nhiều tiền đồng
Việt Nam hơn thì chúng ta gọi đó là sự giảm giá của tiền đồng Việt Nam. Ngược
lại, nếu 1 đôla mua được ít tiền đồng hơn thì chúng ta gọi đó là sự lên giá của tiền
đồng Việt Nam.
1.2. Tỷ giá hối đoái thực tế (real exchange rate)
Tỷ giá hối đoái thực tế là tỷ giá hối đoái danh nghĩa được điều chỉnh theo
lạm phát tương đối giữa trong nước và nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái thực tế được tính theo công thức sau:
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa * Giá nước ngoài
ε =
Giá trong nước
Cũng như tỷ giá hối đoái danh nghĩa được biểu thị bằng lượng nội tệ trên
một đơn vị ngoại tệ, tỷ giá hối đoái thực tế được biểu thị bằng lượng hàng hoá
trong nước trên một đơn vị hàng hoá nước ngoài.
Trên thực tế, chúng ta thường quan tâm đến mức giá chung chứ không xem
xét từng loại giá riêng biệt, do đó tỷ giá hối đoái thực tế còn có thể tính theo công
thức sau:
ε = E×P*/ P
Trong đó: E: tỷ giá hối đoái danh nghĩa
P: chỉ số giá trong nước
P*: chỉ số giá ở nước ngoài
Công thức trên cho thấy tỷ giá hối đoái thực tế cho biết giá tương đối giữa
giỏ hàng hoá và dịch vụ của nước ngoài so với giỏ hàng hoá và dịch vụ trong
nước tính theo một đơn vị tiền chung (ở đây tính theo đồng nội tệ). Khi ε tăng,
đồng nội tệ được coi là giảm giá thực tế so với đồng tiền nước ngoài. Khi ε giảm,
đồng nội tệ được coi là tăng giá thực tế so với đồng tiền nước ngoài.
1.3. Tỷ giá hối đoái bình quân (effective exchange rate)
Tỷ giá hối đoái bình quân được hiểu là số bình quân gia quyền của hầu hết
các tỷ giá song phương quan trọng với mức gia quyền được xác định bởi tỷ trọng
của mỗi loại ngoại tệ trong tổng kim ngạch ngoại thương của nước đó.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
100
Công thức tính tỷ giá hối đoái bình quân:
EER = ERi×Wi
Trong đó: EER: tỷ giá hối đoái bình quân
ERi: tỷ giá hối đoái song phương với nước i.
Wi: tỷ trọng thương mại của nước i trong tổng giá trị thương mại
của nước đang xét.
2. Thị trƣờng ngoại hối
2.1. Cung về ngoại tệ
Cung về ngoại tệ bắt nguồn từ tất cả các giao dịch quốc tế của Việt Nam
tạo ra thu nhập về ngoại tệ.
Ví dụ: Người nước ngoài muốn mua hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam thì phải
đổi hoặc bán ngoại tệ sang tiền Việt Nam để mua hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam.
Cung về ngoại tệ biểu thị số ngoại tệ cần chuyển đổi sang đồng Việt Nam tại
mỗi mức tỷ giá hối đoái. Đường cung về ngoại tệ dốc lên, phản ánh khi đồng ngoại
tệ (USD) lên giá so với đồng Việt Nam sẽ có nhiều ngoại tệ (USD) được cung ứng
để chuyển đổi sang đồng Việt Nam. Vì khi đồng ngoại tệ (USD) tăng giá, giá
hàng hoá và tài sản của Việt Nam tính theo đồng ngoại tệ (USD) giảm xuống.
Điều này sẽ hấp dẫn người nước ngoài và họ mua nhiều hàng hoá và tài sản của
Việt Nam, do đó họ sẽ phải chuyển đổi nhiều ngoại tệ sang đồng Việt Nam.
2.2. Cầu về ngoại tệ
Cầu về ngoại tệ bắt nguồn từ các giao dịch quốc tế theo chiều ngược lại so
với cung về ngoại tệ. Nó biểu thị những giao dịch trong tài khoản vãng lai và tài
khoản vốn liên quan đến việc thanh toán ngoại tệ cho các đối tác nước ngoài (các
khoản mục nợ trong cán cân thanh toán).
Đường cầu về ngoại tệ là một đường dốc xuống vì khi đồng ngoại tệ lên
giá so với đồng Việt Nam thì hàng hoá và tài sản nước ngoài trở nên đắt hơn, ít
hấp dẫn đối với người Việt Nam. Do đó, người Việt Nam ít mua hàng hoá và tài
sản ngoại hơn, do đó cần ít ngoại tệ.
2.3. Xác định tỷ giá hối đoái
Chúng ta xét 1 hệ thống trong đó tỷ giá hối đoái được xác định hoàn toàn
bởi quan hệ cung cầu trên thị trường tự do cạnh tranh và không có bất kỳ sự can
thiệp nào của ngân hàng trung ương.
Tỷ giá hối đoái sẽ dao động theo những điều kiện của cầu và cung về ngoại tệ.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
101
Hình 7.1: Xác định tỷ giá hối đoái
Giả sử mức giá đôla hiện tại là quá thấp (E1)
Khi đó lượng cầu về đôla vượt quá lượng cung: DUSD > SUSD
Do đôla khan hiếm, một số công ty cần đô la để thanh toán các hợp đồng
nhập khẩu không mua được đôla và họ sẽ sẵn sàng trả giá cao hơn để mua được
đủ số đôla cần thiết. Những hành động như vậy sẽ đẩy giá đôla tăng lên (Eo).
Ngược lại, nếu mức giá đôla hiện tại quá cao (E2). Khi đó: SUSD > DUSD.
Nhiều người cần bán đôla sẽ không bán được, họ sẵn sàng hạ giá để bán
được đủ số đôla cần thiết. Do đó, giá đôla giảm (Eo).
Chỉ tại mức tỷ giá E0, quá trình điều chỉnh mới dừng lại. Khi đó, lượng cầu
về đôla đúng bằng lượng đôla cung ứng. E0 được gọi là tỷ giá hối đoái cân bằng.
Lưu ý: Khi ngân hàng trung ương không can thiệp vào thị trường ngoại hối
thì thị trường ngoại hối ở trạng thái cân bằng cũng có nghĩa là cán cân thanh toán
cân bằng và khoản mục tài trợ chính thức bằng không.
III. Các hệ thống tỷ giá hối đoái
1. Hệ thống tỷ giá hối đoái cố định
Trong hệ thống tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá hối đoái được giữ ở một mức nhất
định. Tỷ giá hối đoái chỉ thay đổi do những quyết định chính sách của chính phủ.
Hiện nay nhiều nước trên thế giới vẫn duy trì hệ thống này.
Trong hệ thống tỷ giá hối đoái cố định, ngân hàng trung ương can thiệp vào
thị trường hối đoái để đảm bảo sự công bằng giữa cung và cầu tại mức tỷ giá cố
định được công bố trước.
Khi đó, một khoản thặng dư hay thâm hụt trong cán cân thanh toán cần
được cân đối bằng một khoản tài trợ chính thức.
Tỷ giá
hối đoái
EVND/USD
E2
E0
E1
SUSD
DUSD
QUSD (lượng USD) Q0
Dư cung USD
(cán cân thanh toán
thặng dư)
Dư cầu USD
(cán cân thanh toán
thặng dư)
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
102
Ngày nay, trong xu hướng mở cửa và hội nhập, việc theo đuổi chế độ tỷ giá
cố định sẽ có thể dẫn đến các vấn đề sau:
+ Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn thế giới bên ngoài, đất nước sẽ
mất dẫn khả năng cạnh tranh trên các thị trường quốc tế, gay tổn thất cho cán cân
thanh toán quốc tế và ảnh hướng xấu đến sản xuất trong nước.
+ Để bảo vệ tỷ giá cố định chính phủ thường phải sử dụng các công cụ hạn
chế nhập khẩu như thuế quan, hạn ngạch… và hạn chế luồng vốn luân chuyển
quốc tế nhằm kiềm chế thâm hụt cán cân thanh toán. Điều này sẽ mâu thuẫn với
yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Hệ thống tỷ giá cố định không cho phép sử dụng cơ sở tiền tệ vào các
mục tiêu khác (như ổn định việc làm hoặc mức giá) mà chỉ sử dụng vào một mục
tiêu duy nhất là duy trì tỷ giá cố định ở mức đã công bố.
2. Hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý
Là chế độ mà tỷ giá hối đoái tuy đã được quan hệ cung cầu trên thị trường
quyết định nhưng chính phủ (thông qua ngân hàng trung ương) có những biện
pháp can thiệp nhất định vào thị trường ngoại hối. Các nhà kinh tế gọi đó là hệ
thống tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý.
Mục đích nhằm hạn chế hay thu hẹp biên độ dao động của tỷ giá hối đoái,
đảm bảo sức mua của đồng tiền trong nước khỏi bị mất giá hoặc lên giá theo mức
“tỷ giá mục tiêu” của đất nước. Trong một số trường hợp khác, các giới chức tiền tệ
có thể cố gắng đảo ngược chiều hướng thay đổi của tỷ giá hối đoái mà họ xem là
đáng mong muốn.
Như vậy, hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý chính là sự kết hợp hệ
thống tỷ giá hối đoái thả nổi với sự can thiệp của ngân hàng trung ương. Do đó, sử
dụng hệ thống này có thể phát huy được những điểm mạnh và hạn chế được
những yếu điểm của hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi và cố định. Chính vì vậy,
nhiều quốc gia hiện nay đang theo đuổi chế độ này.
IV. Các chính sách thƣơng mại
1. Thuế nhập khẩu
Là thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng nhập khẩu, theo đó người mua trong
nước phải trả cho những hàng hoá nhập khẩu một khoản lớn hơn mức mà người
xuất khẩu ngoại quốc nhập được.
Thuế xuất khẩu: thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu. Thường ở
những nước phát triển, không sử dụng thuế xuất khẩu.
Ví dụ: thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc là 100%.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
103
2. Hạn ngạch (Quota)
Hạn ngạch hay hạn chế số lượng (Quota) là một công cụ phổ biến trong
hàng rào phi thuế quan.
Hạn ngạch được hiểu là quy định của nhà nước về số lượng cao nhất của
một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất hoặc nhập khẩu từ một thị
trường trong một thời gian nhất định, thông qua hình thức cấp giấy phép (Quota
xuất - nhập khẩu).
Quota nhập khẩu là hình thức phổ biến hơn Quota xuất khẩu vì Quota xuất
khẩu cũng tương đương với biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện.
3. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraints - VER)
Đây là một hình thức của hàng rào mậu dịch phi thuế quan (Nontariff
Trade Barriers - NTBs).
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một biện pháp hạn chế xuất khẩu, theo đó
một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế bớt lượng hàng
xuất khẩu sang nước mình một cách tự nguyện, nếu không họ sẽ áp dụng biện
pháp trả đũa kiên quyết. Thực chất đây là những cuộc thương lượng mậu dịch
giữa các bên để hạn chế bớt sự xâm nhập của hàng ngoại, tạo công ăn việc làm
cho thị trường trong nước.
4. Trợ cấp xuất khẩu (Export Subsidies)
Chính phủ áp dụng các biện pháp trợ cấp trực tiếp hoặc cho vay với lãi suất
thấp đối với các nhà xuất khẩu trong nước. Hoặc cho vay ưu đãi đối với các bạn
hàng nước ngoài để họ có điều kiện mua các sản phẩm do nước mình sản xuất ra
và để xuất khẩu ra bên ngoài (viện trợ).
Trợ cấp xuất khẩu mang lại hại nhiều hơn lợi, nhưng trên thực tế vẫn được
sử dụng để phục vụ cho một mục đích cụ thể nào đó (chính trị, quan hệ…). Do đó,
phải thận trọng khi áp dụng công cụ này.
Bài giảng Kinh tế vĩ mô
104
Chi phí
của quốc
gia để SX
Cp trung
gian
Khấu hao
CP khác