Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
2
Tình hình kinh tế 6 tháng đầu năm 2016
Kinh tế thế giới chưa có những chuyển biến lớn
+ Trong 6 tháng đầu năm 2016, các nền kinh tế đầu tàu tiếp tục đón nhận những kết quả
thống kê kinh tế có phần u ám, kinh tế Mỹ vẫn chưa vững chắc, khu vực Châu Âu xuất hiện
những dấu hiệu kém khả quan, kinh tế Nhật Bản và Trung Quốc tiếp tục trì trệ; trong khi đó
tăng trưởng các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi cũng chưa có nhiều cải thiện;
+ Giá cả các hàng hóa cơ bản có xu hướng gia tăng trở lại kể từ nửa cuối tháng 2 với mức
tăng 16% so với cuối năm trước; trong đó đáng chú ý là sự phục hồi của giá dầu;
+ Thương mại toàn cầu chưa có dấu hiệu phục hồi, tổng giá trị thương mại toàn cầu trong quý
đầu năm giảm 1,1% so với quý IV/2015 và giảm 1% so cùng kỳ năm trước;
+ Dòng vốn đầu tư vẫn ghi nhận biến động phức tạp, vốn đầu tư gián tiếp vào các thị trường
mới nổi có xu hướng phục hồi trong những tháng gần đây nhưng đà phục hồi chưa vững chắc;
giá trị vốn đầu tư trực tiếp dự báo sẽ sụt giảm khoảng 10 – 15% so với năm 2015;
Thị trường tài chính, tiền tệ toàn cầu có nhiều biến động
+ Diễn biến thị trường ngoại hối bị chi phối mạnh mẽ bởi sự phục hồi yếu ớt của kinh tế vĩ
mô và những bất ổn gia tăng trên thị trường tài chính toàn cầu: việc chỉ số USD sụt giảm
trong phần lớn thời gian trong khi đồng JPY tăng giá liên tục là những diễn biến ngoài dự
đoán của giới đầu tư; đồng GBP diễn biến bất ổn, ghi nhận mức giảm mạnh trong tháng 6; các
đồng tiền mạnh khác như EUR, AUD, CAD ghi nhận xu hướng tăng so với USD; đồng CNY
không có biến động mạnh như năm 2015;
+ Giá vàng tăng hơn 24% sau 6 tháng, duy trì xu hướng tăng liên tục trong 4 tháng đầu năm,
quay đầu giảm trước tín hiệu mới của kinh tế Mỹ trong tháng 5 nhưng nhanh chóng lấy lại đà
tăng mạnh vào tháng 6;
+ Thị trường chứng khoán toàn cầu chịu những tác động trái chiều từ diễn biến vĩ mô và
những quyết sách điều hành của các nền kinh tế chủ chốt trên thế giới, kéo theo những đợt
sóng mạnh làm chao đảo thị trường, đặc biệt trong gần 2 tháng đầu năm và tuần cuối cùng của
tháng 6;
Định hướng điều hành CSTT của NHTW các nước lớn chưa có sự chuyển biến
Fed vẫn chưa có thêm bước điều chỉnh thắt chặt chính sách nào kể từ lần tăng lãi suất tháng
12 năm trước. ECB và BoJ vẫn theo đuổi CSTT tiền tệ nới lỏng thông qua chính sách lãi suất
âm và tiếp tục đẩy mạnh các gói nới lỏng định lượng. PboC liên tục bơm thêm thanh khoản
vào nền kinh tế thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Trong khi đó, tại các nền kinh tế đang
phát triển và mới nổi, điều hành CSTT vẫn mang tính thích ứng với xu hướng thiên về nới
lỏng là chủ đạo, chỉ một số ít các nền kinh tế thuộc khu vực Mỹ La Tinh và Châu Phi phải thắt
chặt CSTT do đối mặt với áp lực lạm phát gia tăng và đồng nội tệ mất giá.
Kinh tế trong nước tăng trưởng chậm lại trong 6 tháng đầu năm 2016
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu chững lại, tăng trưởng qua 6 tháng chỉ đạt 5,52%,
thấp hơn mức tăng 6,32% của cùng kỳ năm 2015, những diễn biến bất lợi đã xuất hiện cả về
phía cung lẫn phía cầu: Hoạt động sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn do tác động bất
lợi từ thời tiết trong khi khu vực sản xuất công nghiệp chưa có diễn biến bứt phá. Tổng mức
3
bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chững lại trong quý I và chỉ có dấu hiệu phục
hồi trở lại trong quý II. Hoạt động xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn trong 6 tháng đầu năm.
Trong bối cảnh đó, khu vực đầu tư, trong đó cấu phần đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là động
lực dẫn dắt tăng trưởng;
+ Chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước, tăng 2,35% so với tháng 12/2015
và bình quân 6 tháng đầu năm nay tăng 1,72% so với cùng kỳ năm 2015. Diễn biến của CPI
từ đầu năm đến nay đã bắt đầu xuất hiện áp lực gia tăng lạm phát, trong đó đáng chú ý là áp
lực chi phí đẩy trong bối cảnh mặt bằng giá cả thế giới đang có xu hướng phục hồi, đặc biệt là
giá dầu, giá các dịch vụ công được điều chỉnh, giá nông sản tăng trở lại;
+ Thu NSNN dựa chủ yếu vào nguồn thu nội địa với tỷ trọng chiếm đến trên 80% tổng thu; cơ
cấu chi NSNN vẫn chưa có nhiều cải thiện khi chi thường xuyên vẫn chiếm trên 70% tổng
chi, chi đầu tư phát triển ở mức thấp khoảng 16% và chi trả nợ viện trợ vẫn khá cao, hiện
chiếm khoảng 13%, tạo áp lực cân đối ngân sách;
Thị trường tài chính, tiền tệ diễn biến ổn định; ghi nhận những xu hướng tích cực
+ Lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh ở các kỳ hạn ngắn, lãi suất cho vay diễn biến ổn định
mặc dù lãi suất huy động được điều chỉnh tăng trong Quý I;
+ Tỷ giá trung tâm diễn biến khá phù hợp với diễn biến của thị trường ngoại tệ trong và ngoài
nước, tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do thấp hơn tỷ giá niêm yết của các NHTM kể từ nửa
cuối tháng 2 đến nay;
+ Giá vàng trong nước diễn biến khá sát với giá vàng quốc tế nhưng biến động ở mức thấp
hơn qua các tháng;
+ Thị trường chứng khoán Việt Nam trong 6 tháng đầu năm trở thành một điểm sáng trong
khu vực Đông Nam Á - là một trong bốn thị trường có mức tăng trưởng cao (9,11%) so với
cuối năm 2015.
4
KINH TẾ THẾ GIỚI
1. Diễn biến kinh tế thế giới
Các nền kinh tế
chủ chốt tăng
trưởng chật vật
Kinh tế Mỹ tăng trưởng chưa đạt được như kỳ vọng của nhà đầu tư
Sau năm 2015 được đánh giá tích cực với những số liệu vĩ mô tương đối khả
quan, bước vào năm 2016, kinh tế Mỹ lại có dấu hiệu giảm tốc thể hiện toàn
diện trên tất cả các cấu phần tăng trưởng về phía cung cũng như phía cầu. Theo
số liệu ước tính lần 2 đã hiệu chỉnh yếu tố mùa vụ, trong quý I/2016, GDP của
Mỹ ước tính chỉ tăng 0,8%, mức thấp nhất trong 2 năm trở lại đây do tiêu dùng
và đầu tư yếu1.
Về phía khu vực sản xuất dịch vụ, chỉ số PMI ngành dịch vụ thể hiện tốc độ
tăng trưởng không ổn định khi xen kẽ những tháng tăng mạnh là những tháng
giảm điểm2. Trong khi đó, PMI khu vực sản xuất thể hiện xu hướng giảm liên
tục từ đầu năm đến nay và hiện đã gần chạm ngưỡng 50 điểm3. Khu vực tiêu
dùng cũng phát đi những tín hiệu không mấy tích cực khi chỉ số niềm tin người
tiêu dùng giảm liên tục trong 4 tháng đầu năm và chỉ có dấu hiệu cải thiện trở
lại trong tháng 5. Hoạt động bán lẻ diễn biến không ổn định khi tăng trưởng liên
tục trồi sụt qua các tháng.
Lạm phát sau khi tăng đạt đỉnh xấp xỉ 1,5% vào tháng 1, chỉ số CPI đã nhanh
chóng giảm xuống chỉ còn 1% trong tháng 2 và dao động ở ngưỡng 1 – 1,1%
trong những tháng còn lại, diễn biến trên thực tế vẫn còn cách khá xa ngưỡng
mục tiêu 2% đã được đặt ra.
Trong bối cảnh hầu hết các chỉ số vĩ mô đều diễn biến không mấy tích cực, khu
vực lao động vẫn đã trở thành một điểm sáng của kinh tế Mỹ trong quý II. Đà
cải thiện của thị trường lao động tiếp tục diễn ra khi tỷ lệ thất nghiệp trong
tháng 5 đã giảm xuống mức 4,7%, mức thấp nhất kể từ năm 2008 trở lại đây.
Tuy nhiên, số lượng việc làm gia tăng bình quân qua các tháng trong năm 2016
chỉ đạt khoảng 192.000, giảm khá mạnh so với con số 229.000 của năm 2015,
phản ánh sự thiếu hụt trên thị trường lao động.
Doanh số bán lẻ hàng hóa tại Mỹ
Diễn biến chỉ số niềm tin tiêu dùng và PMI
Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ
Tốc độ tăng CPI so với cùng kỳ
Nguồn: Tradingeconomics
1 Trong đó, tiêu dùng chỉ tăng 1,9% (đóng góp 1,27 điểm phần trăm vào mức tăng GDP chung), đầu tư giảm 3,5% (đóng góp -0,6 điểm phần
trăm), xuất khẩu giảm 2,6% (đóng góp -0,31%) 2 PMI ngành dịch vụ tại Mỹ trong 5 tháng đầu năm lần lượt là 53,2; 49,8; 51; 51,8 và 51,2 điểm 3 PMI ngành sản xuất của Mỹ trong 5 tháng đầu năm lần lượt là 52,4; 51,3, 51,4; 50,8 và 50,7 điểm
2.4 2.1
2.8
1.9 2.1
1.6 1.6
2.8 2.8
3.6
1.7
3
2.5
0
1
2
3
4
Ma
y-1
5
Jun
-15
Jul-1
5
Au
g-1
5
Se
p-1
5
Oct-
15
Nov-1
5
Dec-1
5
Jan
-16
Fe
b-1
6
Ma
r-16
Ap
r-16
Ma
y-1
6
%
5
Kinh tế khu vực Châu Âu chưa có chuyển biến đáng kể
Kinh tế khu vực Châu Âu trong 2 quý đầu năm vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện.
Tăng trưởng GDP của khu vực trong quý I theo ước tính lần 2 chỉ tăng 0,5%,
thấp hơn so với ước tính lần 1 (0,6%), đồng thời không thay đổi so với quý IV
năm 2015. Sự trì trệ này thể hiện rõ trong cả hoạt động sản xuất và tiêu dùng.
Khu vực sản xuất đang có chiều hướng tăng trưởng chậm lại khi chỉ số PMI sản
xuất sau khi đạt mức tăng mạnh trên 53 điểm trong tháng 1 đã nhanh chóng sụt
giảm trong những tháng tiếp theo. Gần đây nhất, chỉ số này đã giảm từ 51,7
điểm của tháng 4 xuống mức 51,5 điểm trong tháng 5 – thấp nhất trong 3 tháng
gần đây và thấp thứ 2 kể từ tháng 2/2015. Bên cạnh đó, PMI ngành dịch vụ
cũng tăng trưởng không ổn định trong những tháng đầu năm và đà tăng này vẫn
đang thấp hơn khá nhiều nếu so với cùng kỳ năm 2015.
Hoạt động tiêu dùng cũng diễn biến không thuận lợi khi doanh số bán lẻ hàng
hóa có xu hướng sụt giảm kể từ tháng 3 trở lại đây. Tiêu dùng trong tháng 4
không tăng so với tháng trước và chỉ tăng 1,4% so với cùng kỳ - mức thấp nhất
trong vòng 1 năm qua. Cùng với đó, xuất khẩu đã không giữ được đà tăng
trưởng tốt như quý I mà bắt đầu có dấu hiệu giảm sút khi bước vào quý II.
Những diễn biến trên đã góp phần khiến lạm phát trong khu vực chưa được cải
thiện. Chỉ số giá tiêu dùng đã liên tục ở mức âm trong các tháng của quý II, điều
này cho thấy nguy cơ giảm phát đang ngày càng hiện hữu rõ rệt.
Diễn biến lạm phát so với cùng kỳ
Diễn biến hoạt động xuất khẩu
Doanh số bán lẻ hàng hóa yoy
PMI sản xuất của khu vực EU
Nguồn: Tradingeconomics
Kinh tế Nhật Bản tiếp tục trì trệ
Sau khi đón nhận tín hiệu tích cực từ tăng trưởng GDP quý I4, kinh tế Nhật Bản
trong những tháng tiếp theo lại tiếp tục trì trệ, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất.
Cụ thể, chỉ số PMI sản xuất đã liên tục nằm trong ngưỡng thu hẹp (dưới 50
điểm) trong các tháng của quý II, trong đó tháng 5 đã rơi xuống 47,7 điểm, mức
thấp nhất kể từ tháng 12/2012. Hơn nữa, trận động đất tại Kumamoto xảy ra vào
ngày 14/4/2016 đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng của các công ty sản xuất lớn
vì khu vực này được coi là trung tâm sản xuất công nghiệp ô tô và bán dẫn, từ
đó càng tạo áp lực khó khăn hơn đối với hoạt động của khu vực sản xuất.
4 Tăng trưởng GDP của Nhật Bản trong quý I đạt mức tăng 0,5% so với quý trước và 1,7% so với cùng kỳ, cao nhất trong vòng 1 năm qua
6
Diễn biến về phía cầu cũng không có nhiều điểm tích cực. Doanh số bán lẻ hàng
hóa đã giảm liên tục trong 3 tháng chỉ trong vòng 4 tháng đầu năm. Tình hình
xuất khẩu cũng khá ảm đạm khi xuất khẩu giảm liên tiếp kể từ đầu năm. Như
vậy, tính đến hết tháng 5 đã đánh dấu 8 tháng giảm liên tiếp của xuất khẩu trước
tình trạng đồng Yên liên tục tăng giá. Kinh tế chuyển biến chậm chạp đang tạo
áp lực đưa Nhật Bản quay trở về tình trạng giảm phát khi tốc độ tăng chỉ số giá
đã rơi vào tình trạng âm liên tiếp trong tháng 3 và tháng 4 vừa qua.
Chỉ số PMI sản xuất của Nhật Bản
Nguồn: Markiteconomics
Doanh số bán lẻ hàng hóa tại Nhật Bản
Nguồn: Tradingeconomics
Kinh tế Trung Quốc vẫn giảm tốc trong quá trình tái cân bằng
Đà giảm tốc của kinh tế Trung Quốc vẫn chưa dừng lại trong bối cảnh quá trình
chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ chú trọng sản xuất và đầu tư sang phát triển
dịch vụ và tiêu dùng vẫn chưa phát huy hiệu quả như mong muốn. Ngành dịch
vụ của quốc gia này dù đã chiếm tỷ trọng gần một nửa (khoảng 48%) trong
GDP nhưng vẫn chưa đủ sức bù đắp những suy yếu kéo dài từ hoạt động sản
xuất và đầu tư. Tính đến tháng 5/2016, PMI ngành sản xuất tại Trung Quốc đã
có tháng thứ 14 liên tiếp ở mức dưới 50 điểm cho thấy hoạt động sản xuất đang
rơi vào tình trạng thu hẹp mạnh. Hoạt động đầu tư cũng suy giảm thể hiện ở
tăng trưởng đầu tư tư nhân vào tài sản cố định so với cùng kỳ tại thời điểm
tháng 5 chỉ đạt mức 3,9%, thấp hơn so với mức dự báo 5,2% và cũng là tỷ lệ
thấp nhất kể từ khi Trung Quốc bắt đầu thu thập số liệu này vào năm 2012.
Xét về phía cầu, tiêu dùng cuối cùng vẫn tăng trưởng thấp hơn kỳ vọng khi
doanh số bán lẻ hàng hóa tại Trung Quốc kể từ đầu năm đến nay chỉ tăng
khoảng 10% so với cùng kỳ (thấp hơn mức trung bình trên 11% của năm 2015
trở về trước). Hoạt động xuất khẩu cũng không ổn định; sau khi đã tăng mạnh
trong tháng 35, xuất khẩu của Trung Quốc trong 2 tháng tiếp theo đã quay đầu
giảm 1,8% và 4,1% so với cùng kỳ. Lạm phát của Trung Quốc từ đầu năm 2016
đến nay vẫn luôn dao động ở mức thấp hơn mức mục tiêu 3%, kết thúc tháng 5
đang ở mức tăng 1,9% so với cùng kỳ.
Chỉ số PMI của Trung Quốc
Doanh số bán lẻ hàng hóa
Nguồn: Tổng cục Thống kê Trung Quốc
5 Xuất khẩu của Trung Quốc (tính theo USD) đã bất ngờ tăng trở lại trong tháng 3 (tăng 11,5% so với cùng kỳ), đây là mức tăng trưởng
dương đầu tiên kể từ tháng 6/2015.
7
Các nền kinh tế
đang phát triển và
mới nổi vẫn chưa
đạt được mức tăng
trưởng bình quân
của giai đoạn trước
khủng hoảng 2008
Tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, mặc dù tăng trưởng kinh tế của
nhóm nước này hiện vẫn cao hơn so với nhóm nước phát triển, tuy nhiên mức
tăng trưởng này vẫn thấp hơn khá nhiều so với mức tăng trưởng bình quân giai
đoạn 5 năm trước khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra. Tăng trưởng kinh tế
diễn biến ổn định hơn tại các nền kinh tế nhập khẩu hàng hóa so với các nền
kinh tế xuất khẩu. Theo Báo cáo của World Bank, trong năm 2015, tăng trưởng
kinh tế của nhóm các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển chuyên xuất khẩu
chỉ ở mức 0.2%, trong khi đó tăng trưởng kinh tế của nhóm các nền kinh tế
chuyên nhập khẩu dao động ổn định ở mức 5,9%. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu phân theo các nhóm nước
Nguồn: Tổng cục Thống kê Trung Quốc
Giá cả hàng hóa
toàn cầu 6 tháng
đầu năm đã thể
hiện xu hướng phục
hồi so với cuối năm
2015
Tâm điểm chú ý của
diễn biến giá hàng
hóa thế giới trong
những tháng qua là
xu hướng phục hồi
mạnh của giá dầu.
Theo báo cáo của IMF, chỉ số giá hàng hóa tổng hợp chốt tháng 6 đạt mức
105,36 điểm, tăng 16% so với cuối năm 2015. Hầu hết các nhóm hàng chính
cũng đã tăng trong 6 tháng qua. Trong đó, giá hàng hóa năng lượng ở mức 88,22
điểm, tăng 21% so với cuối năm ngoái. Giá hàng hóa phi năng lượng ở mức
134,67 điểm, tăng 11% so với cuối năm 2015. Giá các mặt hàng nông nghiệp
thô tăng nhẹ 2% so với cuối năm 2015. Nhóm các mặt hàng kim loại tăng 8% so
với cuối năm 2015. Xu hướng phục hồi diễn ra từ nửa cuối tháng 2 và đà tăng
mạnh mẽ hơn trong những tháng gần đây.
Tính tới ngày 30/6, giá dầu WTI ở mức 48,75 USD/thùng (tăng 31% so với cuối
năm 2015), giá dầu Brent ở mức 48,48 USD/thùng (tăng khoảng 29% so với
cuối năm ngoái). Giá dầu bắt đầu tăng mạnh kể từ nửa cuối tháng 2 nhờ kỳ vọng
của thị trường về việc các nước xuất khẩu dầu mỏ lớn của thế giới sẽ tiến tới
một thỏa thuận cắt giảm sản lượng. Dù thỏa thuận này đã thất bại sau cuộc họp
ngày 17/4 nhưng giá dầu vẫn tiếp tục tăng mạnh trong 2 tháng tiếp theo nhờ
được hỗ trợ bởi thông tin về sản lượng dầu thô của Mỹ giảm cùng nhu cầu dầu
mỏ cao hơn dự kiến từ những nền kinh tế như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga… Đà
tăng có phần chững lại trong tuần cuối tháng 6 do tác động từ sự kiện Brexit.
Đà gia tăng liên tục của giá dầu khiến các nhà phân tích đã bắt đầu đưa ra những
dự báo lạc quan hơn về triển vọng của giá dầu trong năm. Ngân hàng Goldman
Sachs của Mỹ gần đây nhận định giá dầu dự kiến ổn định ở mức 50 USD/thùng
trong nửa cuối năm 2016. Dù vậy, một số chuyên gia khuyến cáo còn quá sớm
để khẳng định giá dầu đã bắt đầu vào giai đoạn hồi phục mạnh mẽ.
8
Giá hàng hóa thế giới
Giá dầu thế giới
Nguồn: IMF
Thương mại toàn
cầu tiếp tục trì
trệ
Hoạt động thương mại toàn cầu bước vào những tháng đầu năm 2016 với xu
hướng diễn biến xấu đi khi tăng trưởng thương mại quý đầu tiên còn rơi vào
tình trạng sụt giảm. Cụ thể, theo ước tính của WTO và UNCTAD, tổng giá trị
thương mại toàn cầu quý I năm 2016 đã giảm 1,1% so với quý liền trước và
giảm 1% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu toàn cầu trong quý I đã giảm
0,8% so với cùng kỳ, trong đó sự suy giảm mạnh mẽ nhất diễn ra tại khu vực
Châu Á với mức giảm 2,7%. Hầu hết các nền kinh tế xuất khẩu chủ chốt tại khu
vực Châu Á đều có giá trị xuất khẩu sụt giảm trong quý I (ngoại trừ Thái Lan).
Diễn biến nhập khẩu còn đáng lo ngại hơn với con số suy giảm ước tính là 1,5%
so với cùng kỳ. Sự sụt giảm ghi nhận đồng đều trên hầu khắp các châu lục,
trong đó tâm điểm đáng chú ý vẫn là khu vực Châu Á với mức giảm -3,9%, tiếp
sau là khu vực Trung và Nam Mỹ -2,8%. Chỉ duy nhất Châu Âu có mức tăng
trưởng nhập khẩu nhẹ 0,6% nhờ cầu nội địa có xu hướng phục hồi trong những
tháng đầu năm 2016.
Lý giải cho tình trạng tăng trưởng thương mại yếu kém vẫn chủ yếu xuất phát
từ các nguyên nhân căn bản của năm trước như tác động từ giá cả hàng hóa
giảm, xu hướng tăng trưởng chậm lại của Trung Quốc, khu vực Châu Âu,…
Diễn biến thương mại toàn cầu
Tăng trưởng lượng nhập khẩu
Tăng trưởng giá trị xuất khẩu
Nguồn: Báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu World Bank (6/2016)
Dòng vốn quốc tế
tiếp tục biến
động từ đầu năm
đến nay
Sự phục hồi của giá cả hàng hóa và đồng USD có xu hướng yếu đi đã hỗ trợ cho
dòng vốn quay trở lại thị trường các quốc gia đang phát triển và mới nổi. Cụ
thể, theo báo cáo từ Viện tài chính quốc tế, dòng vốn ròng vào thị trường mới
nổi trong tháng 3 đạt 37,1 tỷ USD (đánh dấu tháng đầu tiên có luồng vốn vào
ròng trong 8 tháng qua), tháng 4 đạt 25,5 tỷ USD (trong đó khu vực Mỹ Latinh
dẫn đầu với 12 tỷ USD, Châu Á là 11,2 tỷ USD). Tuy vậy, các phân tích cho
rằng diễn biến này chỉ mang tính nhất thời do FED trì hoãn tăng lãi suất và thị
trường hàng hóa hồi phục nhẹ, còn yếu tố nền tảng đó là tăng trưởng kinh tế tại
các quốc gia đang phát triển và mới nổi vẫn chưa có tín hiệu tích cực.
0.00
200.00
400.00
20
14M
1
20
14M
3
20
14M
5
20
14M
7
20
14M
9
20
14M
11
20
15M
1
20
15M
3
20
15M
5
20
15M
7
20
15M
9
20
15M
11
20
16M
1
20
16M
3
20
16M
5
Chỉ số giá chung Chỉ số giá nhóm hàng năng lượng
0.00
50.00
100.00
150.00
20
14M
1
20
14M
3
20
14M
5
20
14M
7
20
14M
9
20
14M
11
20
15M
1
20
15M
3
20
15M
5
20
15M
7
20
15M
9
20
15M
11
20
16M
1
20
16M
3
20
16M
5
US
D/t
hù
ng
Giá dầu Brent Giá dầu WTI
9
Về phía dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, diễn biến của dòng vốn này đã
không còn thuận lợi như năm 2015. Bước sang năm 2016, tốc độ tăng trưởng
của dòng vốn này đã bắt đầu chậm lại tại cả khu vực phát triển và đang phát
triển. Theo dự báo của UNCTAD, dòng vốn FDI được dự báo sẽ giảm khoảng
10 – 15% trong năm 2016 do những bất ổn của nền kinh tế thế giới, nhu cầu
tiêu dùng toàn cầu vẫn duy trì ở mức yếu, những khó khăn tại các quốc gia xuất
khẩu hàng hóa,....
Diễn biễn dòng vốn FDI giai đoạn 2005 – 2015 và dự báo giai đoạn 2016 - 2018
Nguồn: UNCTAD
2. Điều hành chính sách của NHTW các quốc gia
Điều hành CSTT
của các NHTW
vẫn chưa thể trở
về trạng thái
bình thường
NHTW Mỹ: Fed vẫn thận trọng chưa tiến hành các bước điều chỉnh lãi suất
như dự báo của nhà đầu tư trong bối cảnh kinh tế trong nước vẫn còn bấp bênh
và môi trường tài chính tiền tệ toàn cầu đang có những biến động phức tạp, đặc
biệt sau khi xảy ra sự kiện Brexit. Tuy nhiên, định hướng chính sách của Fed sẽ
vẫn mang tính chất thắt chặt dần với dự báo lần tăng lãi suất tiếp theo có thể sẽ
diễn ra vào những tháng tới.
NHTW BOJ, ECB và PBOC vẫn là 3 NHTW đi đầu trong việc thực hiện
CSTT nới lỏng thông qua thực hiện chính sách lãi suất âm và các chương trình
nới lỏng định lượng:
BOJ quyết định thực hiện chính sách lãi suất tiền gửi âm đối với các
khoản dự trữ vượt mức của các TCTD gửi tại NHTW kể từ ngày
29/1/2016.
Trong cuộc họp vào ngày 10/3/2016, ECB cũng đã tiếp tục quyết định
cắt giảm một loạt các mức lãi suất chủ chốt: lãi suất tiền gửi đối với dự
trữ vượt mức của các định chế tài chính tại ECB được cắt giảm từ mức -
0,3% xuống còn -0,4%; lãi suất tái cấp vốn từ 0,05% xuống còn 0%, và
lãi suất cho vay thanh khoản cũng giảm từ 0,3% xuống còn 0,25%.
Ngoài ra, ECB cũng quyết định mở rộng chương trình nới lỏng định
lượng bằng cách tăng lượng mua vào trái phiếu chính phủ và doanh
nghiệp theo chương trình nới lỏng định lượng, từ mức 60 tỷ euro lên 80
tỷ euro/tháng.
PBOC vẫn tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thông qua thực
hiện cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm 0,5% xuống còn 17% vào ngày
29/2/2016 và liên tục bơm tiền vào thị trường thông qua nghiệp vụ thị
trường mở để hỗ trợ thanh khoản.
Toàn cầu
Các nền kinh tế phát triển Các nền kinh tế đang phát triển
Các nền kinh tế chuyển đổi
10
Anh là quốc gia phát triển tiếp theo quyết định tham gia vào làn sóng nới
lỏng tiền tệ sau khi sự kiện Brexit xảy ra. Trong cuộc họp 30/06/2016,
BOE cho biết sẽ có thể giảm lãi suất điều hành để ổn định tình hình cũng
như hỗ trợ tăng trưởng trong những tháng còn lại của năm 2016.
Tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi: Định hướng điều hành CSTT
mang tính thích ứng với diễn biến kinh tế vĩ mô. Một số quốc gia tại Mỹ La
Tinh và Châu Phi tiếp tục phải thắt chặt chính sách trước áp lực lạm phát và
đồng nội tệ mất giá. Trong khi đó một số nền kinh tế tại khu vực Châu Đại
dương, Đông Á và Châu Á Thái Bình Dương (Úc, New Zealand, Indonesia, Ấn
Độ, Đài Loan…) lại nới lỏng chính sách trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế
chậm lại và lạm phát vẫn ở mức thấp.
Diễn biến lãi suất chính sách tại các nền kinh tế đang
phát triển và mới nổi
Thống kê tần suất thay đổi lãi suất điều hành tại các
nền kinh tế mới nổi
Nguồn: Global economic prospects, 6/2016
3. Diễn biến thị trường tài sản
Diễn biến của thị trường ngoại hối bị chi phối mạnh mẽ bởi sự phục hồi yếu ớt của kinh tế
vĩ mô và sự bất ổn gia tăng của thị trường tài chính toàn cầu
Diễn biến chỉ số USD trong 6 tháng đầu năm 2016
Nguồn: investing.com
91929394959697
USD Index
Đồng USD và
đồng JPY diễn
biến ngoài dự
đoán: chỉ số
USD đã giảm so
với cuối năm
2015, JPY tăng
giá mạnh
Kết thúc 6 tháng đầu năm, đồng USD đã giảm 2,58% so với các đồng tiền mạnh
khác, trái ngược với xu hướng tăng của cùng kỳ năm 2015 (tăng hơn 5%), chốt
giao dịch ở mức 96,2. Diễn biến của đồng bạc xanh trong những tháng đầu năm
bị chi phối mạnh mẽ bởi tình hình kinh tế vĩ mô của Mỹ và lộ trình điều chỉnh
CSTT của Fed. Trên thị trường quốc tế, đồng USD tăng nhẹ 0,91% trong tháng
1, giảm liên tục trong 3 tháng kế tiếp, bật tăng mạnh trong tháng 5 và tăng nhẹ
trong tháng 6. Diễn biến của chỉ số USD Index đã trở nên xấu đi trong Quý I
trước những kết quả kinh tế không mấy tích cực. Thực tế đó cùng với việc Fed
chưa có động thái điều chỉnh lãi suất tiếp tục kéo đồng USD giảm giá trong
tháng 4.
11
Tương tự như đồng USD, đồng JPY cũng có những biến động ngoài dự đoán
của giới đầu tư, tỷ giá đồng USD/JPY có xu hướng giao động mạnh trong
những tháng cuối của Quý II trước những bất ổn ngày càng gia tăng trên thị
trường tài chính toàn cầu. Đồng tiền này đã tăng liên tục từ tháng 2 đến tháng 4
với tổng mức tăng hơn 12%, giảm trong tháng 5 và tăng bật trở lại trong tháng
6. Đây là một diễn biến nằm ngoài tầm kiểm soát của NHTW Nhật Bản, đặc
biệt khi BOJ đang tích cực thực hiện các gói kích thích kinh tế thông qua CSTT.
Trong tháng 5, trước đà tăng mạnh mẽ của đồng USD và tâm lý quan ngại của
thị trường về việc BOJ sẽ thực hiện các biện pháp can thiệp để giảm giá đồng
JPY, đã tác động nhất định đến đà giảm của đồng tiền này trong tháng với mức
giảm lên đến hơn 4% so với đồng USD. Bước sang tháng 6, trước dự báo về sự
bất ổn của thị trường tài chính xung quanh hiệp ước Brexit, đồng JPY gần như
duy trì xu hướng tăng giá trong hơn 20 ngày đầu tháng, chỉ biến động giảm liên
tục trong 3 ngày cuối tháng. Kết thúc 6 tháng đầu năm, JPY đã tăng hơn 14% so
với USD, ghi nhận mức tăng mạnh nhất vào tháng 6 (6,7%), chốt giao dịch ở
mức 103.29.
Đồng EUR tăng
giá so với đồng
USD trong khi
đồng GBP biến
động mạnh với
mức giảm lớn
vào tháng 6
Tại khu vực Châu Âu, ngoại trừ tháng 1, đồng EUR đã tăng giá trong 3 tháng
liên tiếp và chỉ giảm mạnh trong tháng 5 và giảm nhẹ trong tháng 6 (giảm
0,24%). Trong tháng 5, tỷ giá EUR/USD đã giảm 2,83%, mức giảm mạnh nhất
kể từ đầu năm và cao hơn mức giảm 2,1% của cùng kỳ năm ngoái. Thực tế này
bị tác động mạnh bởi diễn biến tích cực của kinh tế Mỹ. Đồng tiền chung Châu
Âu đã không có đủ động cơ để vượt qua đồng USD trong tháng 6 khi vẫn đang
phải tiếp tục loay hoay với việc thực hiện thêm các gói kích thích kinh tế, tìm
lời giải bền vững cho nợ công của một số nước trong khối, rủi ro khủng bố leo
thang và rối ren chính trị chưa có hồi kết. Mặc dù có hai tháng giảm điểm vào
cuối Quý II song trong 6 tháng đầu năm, đồng EUR vẫn tăng 2,26% so với
USD, chốt giao dịch ở mức 1.1105, diễn biến tích cực hơn so với xu hướng
giảm của cùng kỳ năm 2015 ở mức giảm 7,94%.
Bên cạnh đó, đồng GBP trong những tháng đầu năm cũng diễn biến không ổn
định, xu hướng giảm giá của đồng GBP cũng đã quay trở lại sau khi được cải
thiện vào tháng 3, tháng 4. Cặp tỷ giá GBP/USD liên tục giảm trong hai tháng
cuối quý với mức giảm mạnh nhất rơi vào tháng 6, giảm 8,06% trước kết quả
trưng cầu ý dân về việc rời khỏi liên minh Châu Âu. Tính từ đầu năm đến nay,
đồng GBP đã giảm giá 9,69%, một xu hướng trái ngược hoàn toàn so với cùng
kỳ của năm ngoái (tăng 0,87%), chốt giao dịch ở mức 1.3311.
Đồng AUD và
CAD cũng lên
giá với đồng
USD sau 6 tháng
Ngoài ra, đồng AUD và CAD sau 6 tháng đã lên giá so với đồng USD lần lượt
ở mức 2,35% và 6,62%. Trong đó cả hai đồng tiền này đều giảm rất mạnh so
với USD trong tháng 5 với mức giảm hơn 4% nhưng đã quay trở lại xu hướng
tăng giá trong tháng 6. Trong nửa đầu năm, đồng AUD đã có 3 tháng tăng giá,
ghi nhận mức tăng mạnh vào tháng 3, khoảng 7,22%. Đồng CAD có tới 4 tháng
tăng giá, trong đó đáng chú ý là xu hướng tăng ổn định trên 3% qua các tháng 2,
3 và 4. Diễn biến tích cực của hai đồng tiền này trong 6 tháng đầu năm được hỗ
trợ mạnh mẽ từ sự phục hồi của kinh tế vĩ mô, giá dầu tăng trở lại và sức bật
của giá vàng trên thị trường giao dịch quốc tế.
Đồng CNY
không ghi nhận
diễn biến điều
chỉnh mạnh như
dự báo
Bước sang năm 2016, đồng CNY được dự báo là sẽ có thể lập lại những mốc
điều chỉnh mạnh đã diễn ra trong tháng 8/2015. Tuy nhiên, điều đó chưa xảy ra,
diễn biến của đồng tiền này từ đầu năm đến nay nhìn chung vẫn là xu hướng
giảm nhưng các bước biến động khá ổn định. Kết thúc 6 tháng, đồng CNY đã
giảm 2,38% so với đồng USD, đảo chiều so với diễn biến của cùng kỳ năm
ngoái (tăng 0,08%). Từ đầu năm đến nay, đồng CNY đã có hai tháng lên giá
12
Diễn biến tỷ giá của các đồng tiền mạnh tháng 6 tháng đầu năm 2016
Nguồn: Investing.com
Vàng ghi nhận đà tăng mạnh
1.061.08
1.11.121.141.16
02
-Jan
-16
12
-Jan
-16
22
-Jan
-16
01
-Feb
-16
11
-Feb
-16
21
-Feb
-16
02
-Mar
-16
12
-Mar
-16
22
-Mar
-16
01
-Apr-
16
11
-Apr-
16
21
-Apr-
16
01
-May
-16
11
-May
-16
21
-May
-16
31
-May
-16
10
-Jun
-16
20
-Jun
-16
30
-Jun
-16
EUR/USD
1.31.35
1.41.45
1.51.55
02
-Jan
-16
12
-Jan
-16
22
-Jan
-16
01
-Feb
-16
11
-Feb
-16
21
-Feb
-16
02
-Mar
-16
12
-Mar
-16
22
-Mar
-16
01
-Apr-
16
11
-Apr-
16
21
-Apr-
16
01
-May
-16
11
-May
-16
21
-May
-16
31
-May
-16
10
-Jun
-16
20
-Jun
-16
30
-Jun
-16
GBP/USD
0.66
0.7
0.74
0.78
0.82
02
-Jan
-16
12
-Jan
-16
22
-Jan
-16
01
-Feb
-16
11
-Feb
-16
21
-Feb
-16
02
-Mar
-16
12
-Mar
-16
22
-Mar
-16
01
-Apr-
16
11
-Apr-
16
21
-Apr-
16
01
-May
-16
11
-May
-16
21
-May
-16
31
-May
-16
10
-Jun
-16
20
-Jun
-16
30
-Jun
-16
AUD/USD
1.2
1.3
1.4
1.5
02
-Jan
-16
12
-Jan
-16
22
-Jan
-16
01
-Feb
-16
11
-Feb
-16
21
-Feb
-16
02
-Mar
-16
12
-Mar
-16
22
-Mar
-16
01
-Apr-
16
11
-Apr-
16
21
-Apr-
16
01
-May
-16
11
-May
-16
21
-May
-16
31
-May
-16
10
-Jun
-16
20
-Jun
-16
30
-Jun
-16
USD/CAD
95
105
115
125
02
-Jan
-16
12
-Jan
-16
22
-Jan
-16
01
-Feb
-16
11
-Feb
-16
21
-Feb
-16
02
-Mar
-16
12
-Mar
-16
22
-Mar
-16
01
-Apr-
16
11
-Apr-
16
21
-Apr-
16
01
-May
-16
11
-May
-16
21
-May
-16
31
-May
-16
10
-Jun
-16
20
-Jun
-16
30
-Jun
-16
USD/JPY
6.4
6.5
6.6
6.7
02
-Jan
-16
12
-Jan
-16
22
-Jan
-16
01
-Feb
-16
11
-Feb
-16
21
-Feb
-16
02
-Mar
-16
12
-Mar
-16
22
-Mar
-16
01
-Apr-
16
11
-Apr-
16
21
-Apr-
16
01
-May
-16
11
-May
-16
21
-May
-16
31
-May
-16
10
-Jun
-16
20
-Jun
-16
30
-Jun
-16
USD/CNY
nhẹ và 4 tháng mất giá so với đồng USD, ghi nhận chuỗi giảm giá liên tiếp
trong 3 tháng của Quý II, với tổng mức giảm lớn hơn 3%. Trong điều kiện nền
kinh tế chưa có những chuyển biến lớn, NHTW Trung Quốc vẫn tiếp tục điều
hành CSTT theo hướng nới lỏng, diễn biến của đồng tiền CNY bị tác động chủ
yếu bởi diễn biến của đồng bạc xanh, thậm chí để phòng ngừa những tác động
không tích cực đến kinh tế trong nước khi đồng USD tăng mạnh trở lại, NHTW
Trung Quốc đã can thiệp khá tích cực theo hướng điều chỉnh giảm giá đồng
CNY trong Quý II. Hiện tại tỷ giá USD/CNY chốt giao dịch cuối tháng 6 ở mức
6.6480, tăng hơn 7% so với thời điểm cách đây một năm.
Giá vàng duy trì
đà tăng liên tục
trong 4 tháng
đầu năm, giảm
trong tháng 5 và
tăng mạnh trở lại
trong tháng 6
Trong 6 tháng đầu năm, giá vàng đã duy trì xu hướng tăng liên tục trong 4
tháng, quay đầu giảm trước tín hiệu mới của kinh tế Mỹ trong tháng 5 nhưng
nhanh chóng lấy lại đà tăng mạnh vào tháng cuối của Quý II/2016. Kết thúc
tháng 6, giá vàng chốt ở mức 1,318.4 $/ounce, tăng hơn 24% so với thời điểm
cuối năm 2015 (trong 5 tháng tăng giá, giá vàng tăng gần 30% và riêng tháng 5
giảm 5,77%). Đà tăng của giá vàng trong nửa đầu năm 2016 được hỗ trợ tích
cực bởi sự bất ổn của các thị trường tài sản đầu tư khác như chứng khoán, ngoại
hối và đặc biệt là triển vọng “không chắc chắn” kinh tế vĩ mô và thị trường tài
chính tiền tệ toàn cầu.
13
Diến biến giá vàng trong 6 tháng đầu năm 2016
Nguồn: kitco.com
Thị trường chứng khoán toàn cầu chứng kiến nhiều biến động
$1,000.00
$1,100.00
$1,200.00
$1,300.00
$1,400.00
Mặc dù, các nhân tố hỗ trợ cho đà tăng của giá vàng vẫn tiếp tục mạnh mẽ vào
những tuần cuối của Quý II, môi trường kinh tế kinh tế toàn cầu vẫn đầy thách
thức, rủi ro tiềm ẩn nhiều khả năng tiếp tục xuất hiện trên diện rộng nhưng thị
trường tiếp tục có kỳ vọng mạnh mẽ về sự hồi phục của kinh tế Mỹ trong năm
2016 và những tiến triển của kinh tế Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc vào 6
tháng cuối năm. Trên cơ sở đó, giá vàng dự báo sẽ không có diễn biến tích cực
như 6 tháng đầu năm, xu hướng giảm có thể xuất hiện rõ nét vào Quý IV/2016.
Thị trường
chứng khoán
toàn cầu biến
động mạnh trong
6 tháng đầu năm
Trong 6 tháng đầu năm, thị trường chứng khoán toàn cầu chịu những tác động
trái chiều từ diễn biến vĩ mô và những quyết sách điều hành của các nền kinh tế
chủ chốt trên thế giới kéo theo những đợt sóng mạnh làm chao đảo thị trường.
Thị trường biến động giảm mạnh trong 2 tháng đầu năm, hồi phục mạnh trong
tháng 3, giao dịch trầm lắng từ tháng 4 cho đến hết 3 tuần đầu tháng 6 và biến
động trở lại trong tuần cuối cùng chốt tháng 6.
Trong gần hai tháng đầu tiên, những nhân tố tiêu cực như sự lao dốc của kinh tế
Trung Quốc, giá dầu trượt dốc, sự không chắc chắn trong định hướng điều hành
chính sách tại các nền kinh tế chủ chốt và căng thẳng địa chính trị gia tăng đã
kéo thị trường rơi vào những đợt giảm mạnh. Tuy nhiên, kể từ cuối tháng 2,
một loạt thông tin hỗ trợ như định hướng nới lỏng trong điều hành chính sách
tại các nền kinh tế chủ chốt, giá dầu tăng trở lại,... đã giúp nâng đỡ và lấy lại đà
tăng điểm cho thị trường. Hầu hết các thị trường đã đạt được đà tăng rất mạnh
trong tháng 3. Tuy nhiên, trong gần 3 tháng tiếp theo đà tăng có phần chững lại
khi thị trường đã bão hòa hơn trước các thông tin vĩ mô được đón nhận.
Thị trường chỉ biến động mạnh trở lại vào tuần cuối tháng 6 trước sự kiện
Brexit. Khi Anh quyết định rời EU trong cuộc bỏ phiếu ngày 23/6, trong ngày
giao dịch tiếp theo, 2,08 nghìn tỷ USD đã bị cuốn phăng khỏi thị trường chứng
khoán toàn cầu. Theo đó, chỉ số MSCI All-Country World Index đã giảm gần
4,8% trong phiên ngày thứ Sáu, mạnh nhất kể từ ngày 8/8/2011.
Như vậy, kết thúc 6 tháng, đà tăng mạnh vào tháng 3 không thể bù đắp cho giá
trị giao dịch đã mất trong những tháng còn lại. Do đó, chốt ngày giao dịch cuối
tháng 6, hầu hết các thị trường đã giảm điểm so với cuối năm 2015. Mức giảm
điểm mạnh được ghi nhận tại các thị trường khu vực Châu Âu và Châu Á.
Trong khi đó chứng khoán Mỹ vẫn diễn biến khá tích cực ngoại trừ chỉ số công
nghệ Nasdaq giảm điểm nhẹ 3,78% so với cuối năm 2015.
14
Biến động một số chỉ số chứng khoán chủ chốt 6 tháng đầu năm 2016
Nguồn: Bloomberg
Vàng, tiền, chứng khoán – đâu là sự lựa chọn an toàn nhất hiện nay
Kết quả trưng cầu ý dân vào ngày 23/6 vừa qua về hiệp ước Brexit đã đặt giới đầu tư vào nỗi lo sợ về
sự đổ bộ của cơn bão lớn lên thị trường tài chính toàn cầu – đây được xem là khoảng thời gian căng thẳng của
các nhà đầu tư trên thị trường quốc tế.
Khi thị trường mở cửa vào ngày thứ 6, trước khả năng thắng thế về việc nước Anh rời khỏi EU, chỉ số
chứng khoán FTSE 100 đã lao dốc hàng trăm điểm trong chốc lát, giá trị lên đến hàng tỷ bảng Anh của các ngân
hàng, doanh nghiệp bán lẻ và doanh nghiệp xây dựng nhà ở đã bị xóa sạch. Tình trạng bán tháo chứng khoán
diễn ra tương tự tại thị trường của Mỹ, Châu Âu, Châu Á – giá trị tổn thất xấp xỉ 2 nghìn tỷ USD. Mặc dù vào
cuối ngày giao dịch, chỉ số FTSE 100 đã hồi phục trở lại nhưng tổng mức giảm vẫn lớn hơn 3% - mức giảm
điểm lớn so với thường lệ. Bên cạnh đó, đồng bảng anh cũng giảm giá rất mạnh, có những thời điểm mức giảm
đã lên đến 11% so với đồng đô la Mỹ và chuỗi giảm giá đó vẫn tiếp tục trong ngày đầu tiên của phiên giao dịch
tuần cuối tháng.
Những rối loạn của thị trường trước quyết định của nước Anh đã tạo ra nhu cầu “an toàn” ở mức cao
của giới đầu tư trước cơn bão “giá”. Vào lúc này, những tài sản đầu tư được xem là an toàn nhất trên thị trường
tài chính như là vàng, trái phiếu Chính phủ, chứng khoán phòng thủ, tiền mặt, các ngoại tệ mạnh đều được lên
bàn cân “lợi ích đầu tư”.
Trong số các tài sản đầu tư an toàn, vàng sẽ là tài sản được cân đo đong đếm đầu tiên – vàng đã trở
thành tài sản trú ẩn an toàn, có giá trị cất giữ ổn định nhất khi thị trường tài chính bất ổn. Với những diễn biến
của thị trường tài chính toàn cầu từ đầu năm đến nay, vàng đã trở thành tài sản tăng giá mạnh nhất (> 25%) và sẽ
không có gì đáng ngạc nhiên khi giá vàng tăng gần 5% chỉ trong ngày giao dịch thứ sáu vừa qua, giao dịch ở
mức lớn hơn 1.300$/ounce.
Tiếp đến là trái phiếu Chính Phủ. Để bù đắp cho các khoản đầu tư thiếu hụt, Chính phủ thường huy
động tiền từ các nhà đầu tư, phổ biến dưới hình thức IOUs với mức lãi suất được bảo đảm và sẽ được đáo hạn
sau một khoảng thời gian nhất định tủy thuộc vào loại trái phiếu phát hành. Đây cũng được đánh giá là một hình
thức đầu tư tương đối an toàn bởi vì khả năng xảy ra tình trạng vỡ nợ của một quốc gia thường thấp hơn rất
nhiều so với công ty. Các loại trái phiếu này được mua bán trên thị trường mở, giá cả giao động phụ thuộc vào
cung cầu của thị trường và theo quy luật, khi giá trái phiếu tăng thì thu nhập thực tế từ lãi suất nhận được sẽ
giảm xuống. Ngay sau khi có kết quả sơ bộ của Brexit, thu nhập trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm của Mỹ đã
giảm xuống 1,56%, của Anh giảm xuống mức thấp là 1,02%. Mặc dù vậy, đầu tư nắm giữ các trái phiếu Chính
phủ vẫn an toàn hơn việc đầu tư vào cổ phiếu hay trái phiếu công ty trong những ngày vừa qua.
Bên cạnh trái phiếu Chính phủ, đầu tư vào các ngoại tệ mạnh của các nền kinh tế ổn định cũng là một
lựa chọn đầu tư an toàn. Bên cạnh sự lao dốc của đồng bảng Anh vào ngày giao dịch thứ sáu vừa qua, các nhà
đầu tư ngoại hối cũng đã bán mạnh đồng GBP và mua vào các ngoại tệ mạnh khác. Đầu tư vào các ngoại tệ
mạnh, nhà đầu tư có thể hưởng lợi trực tiếp khi giá đồng tiền đầu tư tăng tuy nhiên đây không phải lúc nào cũng
là một quyết định đúng đắn. Bởi vì, Chính phủ các nước cũng có khuynh hướng sẽ áp dụng các biện pháp can
thiệp để đảm bảo cho đồng bản tệ của mình không quá mạnh hoặc quá yếu. Trong đó, việc tăng lãi suất cũng là
một giải pháp có thể lựa chọn, trong trường hợp này, người đầu tư sẽ hưởng lợi hơn khi nắm giữ tiền mặt thay
cho việc đổ tiền đầu tư ngoại tệ mạnh đó. Ví dụ như trường hợp Thụy Sỹ trong tuần vừa qua, khi các nhà đầu tư
bắt đầu mua Franc Thụy Sỹ, đẩy đồng tiền này tăng giá 6,6% so với đồng GBP, NHTW đã ngay lập tức can
thiệp để quản lý nhu cầu, gạt bỏ mối quan ngại của các nhà xuất khẩu hàng hóa tại Thụy Sỹ. Điều đó có nghĩa là,
đầu tư ngoại tệ cũng sẽ là một lựa chọn an toàn, nhưng nó cũng không giúp cho nhà đầu tư có thể hoàn toàn “yên
giấc”.
2.70% 2.30%
-3.78%
6.23%
-11.20%
-5.49%
-1.20%
-13.48% -17.64% -20.00%
-15.00%
-10.00%
-5.00%
0.00%
5.00%
10.00%
15
Ngoài 03 tài sản đầu tư hiện đang nhận được sự ưa thích nhiều nhất thì các chứng khoán phòng thủ -
defensive stock và tiền mặt cũng là những lựa chọn đầu tư nên cân nhắc. Trong bối cảnh thị trường cổ phiếu
công ty mất điểm mạnh, đặc biệt là sự giảm mạnh trong lĩnh vực xây dựng nhà ở tại nước Anh, cụ thể như
Taylor Wimpey giảm 29%, Barratt, Berkeley và Bellway tất cả đều giảm hơn 20%, thì trên thị trường vẫn xuất
hiện những điểm sáng ở các lĩnh vực khác như khai thác mỏ, trường hợp của Randgold Resources là công ty hoạt
động chính ở Châu Phi đã tăng giá 14% vào ngày thứ 6, hay cổ phiếu của những công ty có mạng lưới kinh
doanh toàn cầu với doanh thu lớn từ nước ngoài như Unilever, GlaxoSmithKline, Rolls-Royce. Ngoài ra, nắm
giữ tiền mặt sẽ là lựa chọn đầu tư an toàn nhất trong điều kiện thị trường được dự báo rằng sẽ tiếp tục có nhiều
xáo trộn và lạm phát tiếp tục ở mức thấp.
3. Triển vọng kinh tế thế giới và những vấn đề đặt ra
Triển vọng kinh
tế thế giới những
tháng cuối năm
2016 khá ảm
đạm với việc điều
chỉnh giảm mức
tăng trưởng trên
toàn cầu cũng
như đối với từng
khu vực kinh tế
Kinh tế toàn cầu
tiếp tục đối mặt
với nhiều rủi ro
Những diễn biến không mấy tích cực của kinh tế toàn cầu trong 6 tháng đầu
năm 2016 khiến triển vọng tăng trưởng của năm 2016 khá ảm đạm. Nếu như tại
thời điểm cuối năm trước, các tổ chức quốc tế đều kỳ vọng năm 2016 sẽ là một
bước đệm để kinh tế thế giới thoát khỏi giai đoạn trì trệ thì nay phần lớn các
nhà phân tích đều cho rằng tăng trưởng kinh tế trong năm 2016 sẽ chỉ bằng hoặc
cao hơn một chút so với năm trước. Cụ thể, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) trong báo
cáo cập nhật kinh tế toàn cầu hồi tháng 4/2016 đã tiếp tục hạ dự báo GDP toàn
cầu sẽ chỉ tăng 3,2% trong năm nay thay vì 3,4% như mức dự báo đưa ra hồi
tháng 1. Đây là lần thứ 2 từ đầu năm đến nay tổ chức này đã phải hạ dự báo
triển vọng tăng trưởng kinh tế thế giới. Tương tự như vậy, OECD cũng đưa ra
dự báo GDP toàn cầu năm 2016 chỉ tăng bằng với mức của năm 2015 là 3%,
giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo của cuối tháng 11. Gần đây nhất, Ngân
hàng thế giới (WB) trong báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu 6/2016 cũng đã hạ
dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2016 xuống còn 2,4%, thấp hơn 0,5%
so với mức dự báo đưa ra hồi tháng 1. Theo tổ chức này, sự sụt giảm của kinh tế
thế giới diễn ra đối với tất cả các nhóm nền kinh tế, trong đó nhóm các nền kinh
tế phát triển dự báo chỉ tăng trưởng ở mức 1,7%, thấp hơn 0,5% so với mức dự
báo đưa ra hồi tháng 1; nhóm các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi tăng
trưởng 3,5%, thấp hơn 0,6% so với mức dự báo đưa ra trước đó.
Trong 6 tháng còn lại của năm 2016, kinh tế toàn cầu tiếp tục phải đối diện với
những rủi ro, thách thức chủ yếu sau:
+ Tăng trưởng chậm hơn tại các nền kinh tế mới nổi: Các nền kinh tế xuất khẩu
chủ chốt vẫn phải đối mặt với rủi ro tăng trưởng chậm hơn và định mức xếp
hạng tín nhiệm bị hạ thấp. Do các thị trường xuất khẩu này đóng vai trò rất quan
trọng trong giao dịch thương mại toàn cầu, nên tình trạng suy giảm của khu vực
này sẽ kéo theo sự tụt dốc của các đối tác kinh tế và thương mại khác, từ đó kìm
hãm chung đà tăng trưởng của kinh tế toàn cầu.
+ Các nền kinh tế phát triển vẫn tiếp tục trì trệ, ngoại trừ nền kinh tế Mỹ: Mặc
dù khủng hoảng tài chính toàn cầu đã trôi qua từ lâu nhưng các nền kinh tế phát
triển vẫn tiếp tục loay hoay chưa thoát khỏi những tác động của cuộc khủng
hoảng này, đầu tư vẫn tiếp tục suy giảm, tổng cầu trong nước chưa hồi phục
mặc dù nhiều nỗ lực kích thích kinh tế thông qua các chương trình nới lỏng tiền
tệ và tài khóa đã được thực hiện; trong khi đó nợ khu vực tư nhân lại có xu
hướng gia tăng lên cao hơn mức trước khi khủng hoảng xảy ra. Do các quốc gia
phát triển chiếm đến 60% cầu nhập khẩu trên toàn thế giới nên sự trì trệ này lại
tiếp tục tạo những tác động lan truyền lên nhóm các nền kinh tế đang phát triển
và mới nổi, khiến tăng trưởng các nhóm nước này sụt giảm, đồng thời tạo áp
lực lên tốc độ tăng trưởng của thương mại và hoạt động đầu tư trên toàn cầu.
+ Điều hành CSTT vẫn chưa trở lại trạng thái bình thường ảnh hưởng trực tiếp
đến sự bền vững của thị trường tài chính: Sự không chắc chắn về hiệu lực của
16
các CSTT mở rộng đang được thực hiện đồng loạt tại nhiều quốc gia phát triển
đang làm dấy lên mối lo ngại về việc gia tăng bất ổn trên các thị trường tài
chính. Chính sách lãi suất âm đang áp dụng phổ biến tại nhiều NHTW đang đặt
ra quan ngại về những tác động bất lợi đến bảng cân đối tài sản của các ngân
hàng, giảm lợi nhuận và khiến hệ thống ngân hàng có thể thu hẹp hoạt động cho
vay hoặc gia tăng chi phí lãi vay.
Tại Mỹ, tính bất định trong điều hành CSTT của Fed khiến các nhà đầu tư có
thể đột ngột thay đổi các kỳ vọng về mức lãi suất chính sách, từ đó ngay lập tức
tác động lên dòng chảy lãi suất dài hạn và khiến các thị trường tài chính biến
động, tác động này đặc biệt rõ rệt đối với các tài sản có độ rủi ro cao bao gồm
cả các khoản nợ cũng như diễn biến đồng tiền tại các nền kinh tế mới nổi.
Bên cạnh đó, sự phân hóa ngày càng lớn trong xu hướng điều hành CSTT giữa
các nền kinh tê Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản cũng có thể dẫn đến những dao động
mạnh trên thị trường ngoại hối.
+ Thị trường ngoại hối sẽ tiếp tục đối mặt với những giao động trong ngắn
hạn: Với những gì đang diễn ra trên thị trường ngoại hối hiện nay, phần lớn giới
phân tích đều dự đoán rằng đồng USD sẽ “thắng thế” trên thị trường trong thời
gian còn lại của năm, dự báo đó sẽ càng vững chắc nếu tăng trưởng của kinh tế
Mỹ tiếp tục diễn biến tích cực, duy trì vai trò dẫn dắn kinh tế toàn cầu như hiện
nay. Theo đó, tỷ giá của các đồng tiền mạnh khác ở khu vực Châu Âu so với
USD sẽ trở nên dễ bị tổn thương hơn trước những chuyển biến chậm chạp của
kinh tế vĩ mô và những bất ổn tài chính, thương mại gia tăng. Nhiều khả năng
đồng EUR và đồng bảng Anh sẽ có diễn biến giảm trong quý tới, thậm chí sẽ
những biến động mạnh trong ngắn hạn. Các đồng tiền tại khu vực Châu Á,
ngoại trừ đồng JPY, sẽ bị chi phối mạnh mẽ bởi diễn biến của đồng USD và các
vấn đề của kinh tế Mỹ. Trong đó, đồng CNY được kỳ vọng là sẽ không có điều
chỉnh mạnh như đã từng xảy ra trong năm ngoái, vẫn duy trì xu hướng giảm cho
đến cuối năm. Đồng JPY có thể sẽ tiếp tục duy trì đà tăng nhẹ trong một vài
tháng tới nếu như những bất ổn kinh tế, tài chính chưa lắng xuống, tuy nhiên
diễn biến có thể đảo chiều khi BOJ can thiệp vào thị trường để hỗ trợ cho mục
tiêu kiểm soát lạm phát và hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế.
Mặc dù đã định hình được diễn biến của một số đồng tiền chủ chốt, song trong
bối cảnh kinh tế hiện nay, những giao động mạnh trong ngắn hạn là rất khó để
lường trước và rất dễ xảy ra. Trong trường hợp này, sự “vững chắc” sẽ thuộc về
đồng USD và áp lực sẽ đặt lên vai các nền kinh tế mới nổi, xu hướng giảm giá
sẽ tiếp tục với mức độ khác nhau giữa các khối nước. Trong đó sẽ bị ảnh hưởng
mạnh nhất tại các nước có lạm phát cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế mờ nhạt ví
dụ như Nga, khối các nước Nam Mỹ, những nước sở hữu khối lượng nợ lớn
được định giá bằng USD.
Bên cạnh những rủi ro trên, kinh tế toàn cầu trong những tháng cuối năm 2016
sẽ tiếp tục phải đối mặt những thách thức đến từ các căng thẳng địa chính trị
vẫn tiếp tục có xu hướng gia tăng trên toàn thế giới; giá cả hàng hóa toàn cầu
mặc dù đã lấy lại đà tăng nhưng vẫn ở mức thấp và tạo áp lực lên tăng trưởng
tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi; bảo hộ thương mại gia tăng trở
lại trong bối cảnh trao đổi thương mại toàn cầu đang ở mức thấp;… Tất cả
những áp lực trên sẽ khiến kinh tế thế giới những tháng cuối năm 2016 sẽ
không thể đạt được mức tăng trưởng như kỳ vọng, đồng thời đặt ra các thách
thức chính sách khác nhau đối với các cơ quan hoạch định chính sách tại mỗi
quốc gia.
17
KINH TẾ TRONG NƯỚC
1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu chững lại
Tăng trưởng kinh tế 6 tháng
đầu năm 2016 ước tăng
5,52% so với cùng kỳ năm
trước với sự đóng góp chủ
yếu từ khu vực công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ
Tốc độ tăng trưởng kinh tế - GDP trong 6 tháng đầu năm 2016 được
cải thiện nhẹ qua các quý với mức tăng lần lượt trong quý I là 5,48%
và trong quý II là 5,55%. Tính chung, GDP trong 6 tháng đầu năm
2016 ước tăng 5,52% so với cùng kỳ năm trước.
Đóng góp chính vào mức tăng chung của nền kinh tế là từ khu vực
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Trong khi đó, khu vực nông, lâm
nghiệp, thủy sản là khu vực có tốc độ tăng trưởng giảm sút.
Nhìn chung, tăng trưởng 6 tháng đầu năm nay mặc dù đã cao hơn tốc
độ tăng của cùng kỳ các năm 2012-2014 nhưng đã có dấu hiệu
chững lại so với tốc độ tăng 6,32% trong 6 tháng đầu năm 2015, do
tác động của những khó khăn xuất phát từ cả phía cung và phía cầu.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 6 tháng các năm 2014, 2015 và 2016
Tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước (%) Đóng góp của các khu
vực vào tăng trưởng 6
tháng đầu năm 2016
(Điểm phần trăm) 6 tháng 2014 6 tháng 2015 6 tháng 2016
Tổng số 5,22 6,32 5,52 5,52
Nông, lâm nghiệp thuỷ sản 2,90 2,22 -0,18 -0,03
Công nghiệp xây dựng 5,12 9,36 7,12 2,41
Dịch vụ 5,82 5,86 6,35 2,38
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp
sản phẩm 7,19 5,50 6,60 0,76
Nguồn: TCTK
Tổng cung của nền kinh tế gặp nhiều khó khăn
Nông nghiệp gặp
khó khăn do tác
động bất lợi từ
thời tiết
Khu vực nông nghiệp
Nông nghiệp giảm sút trong 6 tháng đầu năm do tác động bất lợi từ thời tiết.
Hiện tượng El Nino đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất nông
nghiệp ngay từ đầu năm 2016 với tác động nghiêm trọng hơn năm 2015. Tăng
trưởng của khu vực này đã giảm tốc mạnh trong quý I (giảm 1,31%) và mới
hồi phục nhẹ trong quý II (tăng 0,36%). Sản xuất lúa vụ đông xuân năm nay
giảm so với vụ đông xuân năm trước cả về diện tích, năng suất và sản lượng
chủ yếu do ảnh hưởng của thời tiết rét buốt, băng giá tại các tỉnh phía Bắc và
tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn tại các tỉnh phía Nam, đặc biệt là vùng
Đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, diện tích hầu hết cây hàng năm khác đều
đạt thấp, hoạt động chăn nuôi trong cả nước (số lượng, sản lượng gia súc)
cũng bị ảnh hưởng xấu từ điều kiện thời tiết khắc nghiệt trong những tháng
đầu năm. Thủy sản sau sự kiện cá chết hàng loạt ở các tỉnh miền Trung cũng
đã gây tác động vào tình hình đánh bắt và thị trường tiêu thụ hải sản biển.
18
Diễn biến chỉ số IIP so với tháng trước
Diễn biến chỉ số IIP so với cùng kỳ
Nguồn: TCTK
Ngoài ra, chỉ số tiêu thụ hàng hóa và tồn kho trong ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo cũng chứng minh thêm cho sự giảm tốc của khu vực sản xuất
kể từ đầu năm đến nay, mặc dù công nghiệp chế biến chế tạo là nhóm ngành
có diễn biến tích cực nhất đồng thời cũng có đóng góp lớn nhất vào mức tăng
chung của toàn ngành. Chỉ số tiêu thụ tích lũy qua các tháng tăng trưởng
thấp hơn so với cùng kỳ năm 2015, mức tăng trưởng tích lũy tại thời điểm
6 6 tháng đầu năm 2016, tốc độ tăng chỉ số IIP so với cùng kỳ lần lượt đạt 5,9%; 7,9%, 6,2%, 7,9%, 7,8% và 7,4%; trong khi đó 6 tháng đầu
năm 2015 mức tăng này lần lượt đạt 17,5%; 7%; 9,1%; 9,5%, 7.5% và 11,1%. 7Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2015 tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước (Quý I tăng 9,3%; quý II tăng 10,2%), trong đó: Ngành khai khoáng tăng 8,2%; ngành chế biến, chế tạo tăng 10%; sản xuất và phân phối điện tăng 11,2%; cung cấp nước và xử lý rác thải,
nước thải tăng 6,4%.
(40.0)
(20.0)
-
20.0
40.0
01
/2015
03
/2015
05
/2015
07
/2015
09
/2015
11
/2015
01
/2016
03
/2016
05
/2016
Toàn ngành
Khai khoáng
(20.0)
-
20.0
40.0
01
/2015
03
/2015
05
/2015
07
/2015
09
/2015
11
/2015
01
/2016
03
/2016
05
/2016
Toàn ngành
Hoạt động sản
xuất công
nghiệp chưa bứt
phá
Hoạt động sản xuất công nghiệp
Trong 6 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp – IIP duy trì đà tăng so
với cùng kỳ qua các tháng tuy nhiên mức tăng không cao so với cùng kỳ năm
20156, tốc độ tăng có sự sụt giảm nhẹ qua các quý (quý I tăng 7,6%; quý II
tăng 7,5%). Tính chung trong 6 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,5%
so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều mức tăng 9,6% của cùng kỳ năm
20157.
Đóng góp chính vào đà tăng của chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành là
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng trưởng qua 6 tháng ước đạt
10,1%, đóng góp 7,1 điểm điểm phần trăm vào mức tăng chung. Mặc dù vậy,
trong nửa đầu năm 2016, nhóm ngành này chưa có dấu hiệu cải thiện mạnh
mẽ, tiếp tục theo xu hướng của năm 2015, tăng nhẹ trong quý I và tăng rõ nét
hơn trong Quý II cả về tốc độ tăng theo tháng cũng như so với cùng kỳ.
Tiếp đến là sự đóng góp của ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,7%,
đóng góp 0,8 điểm phần trăm và ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước
thải tăng 8,1%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm. Cả hai nhóm ngành này đều có
tốc độ tăng trưởng cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái.
Bên cạnh xu hướng tăng chưa có nhiều bứt phá của công nghiệp chế biến, chế
tạo, khó khăn của sản xuất công nghiệp được thể hiện rõ nét hơn thông qua
diễn biến của công nghiệp khai khoáng. Tác động từ việc sụt giảm giá cả hàng
hóa và nguyên vật liệu đã khiến tốc độ tăng trưởng của ngành này trong 6
tháng đầu năm giảm 2,2% (chủ yếu do khai thác dầu thô giảm 6,1%), làm
giảm 0,5 điểm phần trăm mức tăng chung, xu hướng này trái ngược hoàn toàn
với mức tăng 8,2% của 6 tháng đầu năm 2015.
19
01/6/2016 là 8,8%, thấp hơn mức tăng 12,7% cùng thời điểm năm 2015.
Trong khi đó, chỉ số tồn kho duy trì mức tăng thấp so với cùng kỳ trong 5
tháng liên tục và tại thời điểm 01/6/2016 đạt mức 9%, thấp hơn mức tăng
11,8% của cùng thời điểm năm ngoái.
Chỉ số tiêu thụ công nghiệp chế biến,
chế tạo 2015-5/2016
Chỉ số tồn kho công nghiệp chế biến,
chế tạo 2015-5/2016
Nguồn: TCTK
Mặc dù diễn biến của khu vực sản xuất công nghiệp chưa thể hiện sức tăng
mạnh mẽ nhưng chỉ số quản trị nhà mua hàng PMI đã có xu hướng gia tăng
trở lại trong 4 tháng gần đây, kết thúc tháng 6 đạt mức 52,6 điểm. Điều này
cho thấy các điều kiện kinh doanh đang có những cải thiện mạnh mẽ.
Diễn biến chỉ số PMI 1/2015 – 6/2016
Nguồn: markiteconomics.com
Tốc độ tăng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng có xu hướng phục hồi trở lại
trong quý II
Tốc độ tăng
doanh thu bán
lẻ hàng hóa và
dịch vụ tiêu
dùng tăng
trưởng chậm
trong quý I và
phục hồi trở lại
trong quý II
Diễn biến trầm lắng trong quý I, bước vào quý II, cầu tiêu dùng đã có xu
hướng phục hồi trở lại thể hiện qua tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng so với tháng trước và so với cùng kỳ liên tục
tăng qua các tháng của quý II. Cụ thể, tốc độ tăng doanh thu bán lẻ của tháng
4, 5 và 6 lần lượt đạt mức tăng 8,5%; 9% và 11% so với cùng kỳ, nhìn chung
cao hơn so với mức tăng 7,1%; 9,3% và 9,2% của cùng thời điểm năm 2015.
Không những thế, tốc độ tăng doanh thu bán lẻ so với tháng trước còn có xu
hướng tăng liên tục qua các tháng trong quý II, lần lượt đạt 1,59% trong
tháng 4, 1,8% trong tháng 5 và 3% trong tháng 6, một diễn biến khá tích cực
so với cùng kỳ một số năm gần đây8.
8 Tốc độ tăng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng so với tháng trước của quý II năm 2014 lần lượt đạt tháng 4 tăng 2,4%; tháng 5
tăng 1,4% và tháng 6 tăng 1,7%; quý II năm 2015 lần lượt đạt tháng 4 tăng 2,5%, tháng 5 tăng 0,8% và tháng 6 tăng 1,5%.
(30.0)
(20.0)
(10.0)
-
10.0
20.0
30.0
40.0
Tiêu thụ so với tháng trước
Tiêu thụ so với cùng kỳ
(4.0) (2.0)
- 2.0 4.0 6.0 8.0
10.0 12.0 14.0 16.0
Tồn kho so với tháng trước
Tồn kho so với cùng kỳ
46
48
50
52
54
56
20
Mặc dù chỉ số này đã có diễn biến khả quan trong quý II như vậy, nhưng do
quý I tăng trưởng ở mức thấp nên tính hết 6 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ
hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 1724 nghìn tỷ đồng,
tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, vẫn thấp hơn mức tăng 9,8% của 6
tháng đầu năm 2015. Ngoài ra, nếu loại trừ yếu tố giá tổng mức bán lẻ hàng
hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 7,5%, thấp hơn mức tăng 8,3% của
cùng kỳ năm 2015.
Tăng trưởng doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu
dùng đã loại trừ yếu tố giá (%yoy)
Tăng trưởng doanh số bán lẻ hàng hóa so với
tháng trước và so với cùng kỳ
Nguồn: TCTK
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tiếp tục là động lực dẫn dắt tăng trưởng với vai trò đầu tàu
thuộc về khu vực FDI và khu vực tư nhân
Tổng vốn đầu
tư toàn xã hội
duy trì mức
tăng trưởng
khả quan so
với cùng kỳ
những năm
trước
Tiếp nối xu hướng của quý I, trong quý II, tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đặc
biệt là dòng vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục diễn biến khả quan, đang là
một điểm sáng giúp nâng đỡ triển vọng tăng trưởng của Việt Nam.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 6 tháng đầu năm 2016 theo giá hiện
hành ước tính đạt 618,2 nghìn tỷ đồng, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước
và bằng 32,9 % GDP, cao hơn so với cùng kỳ 2 năm liền trước. Trong đó, vốn
đầu tư từ khu vực nước ngoài vẫn duy trì vị trí dẫn đầu với mức tăng trưởng
đạt 15,6%. Khu vực tư nhân cũng có những bước tiến mạnh mẽ với mức tăng
6 tháng ước đạt 14,7%, trong khi đó khu vực nhà nước tăng chậm lại với mức
tăng chỉ đạt 6,5%, thấp hơn khá nhiều so với cùng thời điểm 2 năm liền trước.
Tốc độ phát triển vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 6 tháng các năm 2014 - 2016 so với cùng kỳ năm trước
Đơn vị tính: %
6 tháng
năm 2014
6 tháng
năm 2015
6 tháng
năm 2016
Tổng số 109,0 109,3 111,7
Khu vực Nhà nước 110,4 107,8 106,5
Khu vực ngoài Nhà nước 110,3 110,5 114,7
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 105,1 109,8 115,6 Nguồn: TCTK
02468
101214
1 th
áng
2 th
áng
3 th
áng
4 th
áng
5 th
áng
6 th
áng
7 th
áng
8 th
áng
9 th
áng
10
thán
g
11
thán
g
Cả n
ăm
2014 2015 2016
-5
0
5
10
15
20
M1
2013
M4
2013
M7
2013
M10
2013
M1
2014
M4
2014
M7
2014
M10
2014
M1
2015
M4
2015
M7
2015
M10
2015
M1
2016
M4
2016
%
Tăng trưởng yoy (%)
Tăng trưởng mom (%)
21
Khu vực FDI tăng trưởng tích cực xét cả về phía vốn đăng ký mới cũng như vốn thực hiện
Khu vực có vốn
FDI đạt tốc độ
tăng trưởng
mạnh qua 6
tháng đầu năm
Diễn biến tích cực của dòng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt
Nam trong 6 tháng đầu năm 2016 thể hiện qua lượng vốn FDI thu hút cũng
như FDI thực hiện. Tính đến thời điểm 20/6/2016, tổng vốn đăng ký của các
dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung ước đạt 11284,7 triệu USD, tăng 105,4%
so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2015 giảm 19,8%). Nếu như
trong quý I, lượng vốn FDI thu hút mới ước đạt hơn 4 tỷ USD thì đến quý II,
lượng vốn FDI thu hút được còn dồi dào hơn khi ước đạt xấp xỉ 7,3 tỷ USD,
tăng 80% so với quý I và cao hơn nhiều so với cùng kỳ các năm trước.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 6 tháng năm 2016 ước tính đạt 7,3
tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2015 (cao hơn so với mức tăng 9,6%
của 6 tháng năm 2015). Vốn FDI thực hiện được giải ngân ổn định qua các
quý khi lần lượt đạt 3,5 tỷ USD trong quý I và 3,8 tỷ USD trong quý II, cao
hơn nếu so với cùng kỳ 2 năm 2014 và 2015.
So sánh vốn đăng ký FDI qua hai quý đầu năm giai
đoạn 2014 – 2016
So sánh vốn thực hiện FDI qua hai quý đầu
năm giai đoạn 2014 – 2016
Nguồn: TCTK
Theo thống kê của Cục đầu tư nước ngoài, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế
tạo tiếp tục là điểm đến của phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam trong 6 tháng đầu năm, chiếm 71,5% trong tổng số dự án cấp mới và
tăng thêm. Bất động sản cũng là một ngành hút FDI mạnh trong năm nay khi
vươn lên đứng vị trí thứ 2, chiếm 5,3% tổng lượng vốn. Một số ngành quan
trọng như khai khoáng, xây dựng, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản lượng
FDI đổ vào vẫn ở mức khá hạn chế.
Đầu tư của khu vực tư nhân ngày càng chiếm vị trí quan trọng dẫn dắt hoạt động đầu tư
trong khi đầu tư khu vực Nhà nước có chiều hướng chững lại
Khu vực tư
nhân giữ đà
tăng trưởng
tốt trong khi
đầu tư từ khu
vực Nhà nước
chững lại
Đầu tư từ khu vực tư nhân vẫn giữ đà tăng trưởng tốt kể từ đầu năm 2016 đến
nay, duy trì vị trí thứ 2 sau khu vực FDI với tốc độ tăng trưởng qua 6 tháng
ước đạt 14,7%, cao hơn khá nhiều so với tốc độ tăng bình quân khoảng 10%
của cùng kỳ 2 năm liền trước. Ngoài ra, nếu quan sát tốc độ tăng trưởng vốn
đầu tư của khu vực này qua các quý từ năm 2014 đến nay có thể thấy đây là
khu vực duy trì đà tăng trưởng ổn định nhất, là động lực quan trọng dẫn dắt
hoạt động đầu tư toàn xã hội, ngay cả trong những thời điểm đầu tư của khu
vực FDI và khu vực Nhà nước sụt giảm mạnh.
Trái với diễn biến tích cực của 2 khu vực tư nhân và khu vực có vốn FDI, đầu
tư từ khu vực Nhà nước có dấu hiệu giảm sút với mức tăng qua 6 tháng ước
0
2,000
4,000
6,000
8,000
Trie
u U
SD
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
0
1,000
2,000
3,000
4,000
Trie
u U
SD
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
22
đạt 6,5%, thấp hơn nếu so với cùng kỳ những năm trước. Sự sụt giảm này đã
diễn ra liên tục kể từ năm 2015 trở lại đây và tốc độ tăng trưởng vốn của khu
vực này luôn ở mức thấp hơn so với 2 khu vực còn lại của nền kinh tế.
Tăng trưởng đầu tư của toàn xã hội và 3 khu vực kinh tế theo quý so với cùng kỳ
giai đoạn Q1/2014 – Q2/2016
Nguồn: TCTK
Như vậy, qua quan sát diễn biến của các cấu phần vốn đầu tư toàn xã hội, có
thể thấy vai trò của hai nguồn vốn đầu tư tư nhân và có vốn FDI đang ngày
càng mạnh mẽ, thể hiện qua tỷ trọng đóng góp trong tổng lượng vốn đầu tư
toàn xã hội ngày một lớn. Điều này đã giúp san sẻ bớt gánh nặng đầu tư từ
khu vực Nhà nước, phù hợp với định hướng phát triển bền vững và huy động
hiệu quả các nguồn lực tổng thể trong nền kinh tế.
Đóng góp của từng khu vực vào tổng mức vốn đầu tư toàn xã hội
giai đoạn 2011 – 6T/2016
Nguồn: TCTK
Cán cân thương mại tăng trưởng chậm trong 6 tháng đầu năm
Xuất khẩu 6
tháng đầu
năm diễn biến
không tích
cực so với
cùng kỳ năm
2015
Xuất khẩu chững lại do tác động bất lợi từ các điều kiện bên ngoài
Trong nửa đầu năm 2016, hoạt động xuất khẩu không có nhiều điểm đột phá.
Ngay trong tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu đã giảm 0,31% so với cùng
kỳ năm trước (thấp hơn rất nhiều so với mức tăng lên đến 16,97% của tháng 1
năm 2015); tiếp nối là tháng 2 và tháng 3 không có nhiều cải thiện với mức
tăng lần lượt chỉ đạt 8,17% và 6,41%. Tiếp nối xu hướng của quý I, hoạt động
xuất khẩu trong quý II vẫn chưa có chuyển biến. Ngay khi bước vào tháng 4,
kim ngạch xuất khẩu đã giảm hơn 5% so với tháng liền trước, và chỉ duy trì
được đà tăng rất nhẹ trong những tháng tiếp theo. Tính chung 6 tháng đầu
-10.00%
0.00%
10.00%
20.00%
30.00%
40.00%
Q1 2014 Q2 2014 Q3 2014 Q4 2014 Q1 2015 Q2 2015 Q3 2015 Q4 2015 Q1 2016 Q2 2016
Vốn đầu tư toàn XH Khu vực Nhà nước
Khu vực ngoài Nhà nước Khu vực có đầu tư trực tiếp nước ngoài
0.00%
10.00%
20.00%
30.00%
40.00%
50.00%
2011 2012 2013 2014 2015 6T 2016
Khu vực Nhà nước Khu vực ngoài Nhà nước Khu vực có đầu tư trực tiếp nước ngoài
23
năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 82,2 tỷ USD, chỉ tăng
5,9% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn khá nhiều mức tăng tương ứng của
năm 2014 và năm 20159. Xuất khẩu tăng trưởng yếu cho thấy hàng hóa Việt
Nam đang gặp nhiều áp lực cạnh tranh khi cầu thế giới chưa thực sự phục hồi,
các đối tác xuất khẩu chính của Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn trong vấn
đề tiêu thụ và diễn biến giá cả hàng hóa toàn cầu đang có nhiều biến động.
Xét cơ cấu xuất khẩu phân theo nhóm mặt hàng không có nhiều thay đổi khi
các mặt hàng xuất khẩu chủ lực vẫn thuộc về nhóm nông sản, nguyên nhiên
vật liệu và công nghiệp chế biến chế tạo. Tuy nhiên, việc xuất khẩu dầu thô –
nguồn thu quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu giảm 46,6% và các mặt
hàng gia công chế biến chế tạo chủ yếu của Việt Nam chỉ tăng nhẹ so với
cùng kỳ đã khiến kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm không đạt được như
kỳ vọng.
Nhập khẩu liên
tục giảm trong
các tháng của
quý I và chỉ bắt
đầu phục hồi
trở lại trong 2
tháng gần đây
Xét cơ cấu xuất khẩu phân theo khu vực kinh tế cho thấy khối doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài vẫn là động lực chính trong xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam, hiện chiếm tới 71% tổng kim ngạch xuất khẩu. Theo đó, giá trị xuất
khẩu của khu vực này trong quý 6 tháng đầu năm 2016 tăng 6,9% so với cùng
kỳ năm trước trong khi khu vực trong nước chỉ tăng 3,3%.
Nhập khẩu 6 tháng giảm so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt đối với một số mặt
hàng phục vụ cho sản xuất trong nước
Sau khi rơi vào tình trạng nhập khẩu sụt giảm qua các tháng so với cùng kỳ
năm trước liên tục trong 4 tháng đầu năm, nhập khẩu hàng hóa mới bắt đầu
phục hồi trở lại trong 2 tháng cuối của Quý II. Mặc dù vậy, đà tăng trong những
tháng cuối không đủ bù đắp mức giảm mạnh của quý I nên tính đến hết tháng 6,
tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 80,7 tỷ USD, giảm 0,5% so cùng kỳ năm
trước, trái ngược hoàn toàn so với mức tăng mạnh hơn 17% của 6 tháng đầu
năm 2015.
Bên cạnh đó, xét cơ cấu nhập khẩu phân theo khu vực kinh tế cũng cho thấy
khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hiện cũng chiếm một tỷ trọng lớn tương
đương khoảng 60% tổng kim ngạch nhập khẩu. Tuy nhiên, trong nửa đầu
năm, trước tình trạng nhập khẩu suy giảm trên bình diện nói chung, nhập khẩu
của khu vực đầu tư nước ngoài cũng giảm 1,8% so cùng kỳ năm trước trong
khi khu vực trong nước mức nhập khẩu tăng 1,3%.
Trong mức giảm chung của giá trị nhập khẩu trong 6 tháng đầu năm 2016, điểm
đáng chú ý là giá trị nhập khẩu một số yếu tố gắn liền với năng lực sản xuất đã
giảm so cùng kỳ 2015: máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng giảm 0,6%; nguyên
nhiên vật liệu giảm 0,6%. Thực tế đó cũng minh chứng thêm cho đà tăng
trưởng đang chững lại trong khu vực sản xuất. Tuy nhiên, nhập khẩu nhóm
hàng tiêu dùng 6 tháng đầu năm đã tăng trở lại 0,7% so cùng kỳ năm trước
cũng phản ánh xu hướng cầu tiêu dùng đã phục hồi trong những tháng gần đây.
Nền kinh tế xuất siêu 1,5 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm
Với tình trạng xuất khẩu và nhập khẩu đều suy giảm, trong đó nhập khẩu giảm
mạnh hơn xuất khẩu nên cán cân thương mại nửa đầu năm đã xuất siêu đạt 1,5
tỷ USD, trong đó quý I xuất siêu 1,198 tỷ USD, quý II xuất siêu khoảng 300
triệu USD. Tuy nhiên, việc xuất siêu quay trở lại chưa phải là một tín hiệu lạc
quan khi nguyên nhân chính lại đến từ việc sụt giảm nhập khẩu và cơ cấu xuất
khẩu chưa có những thay đổi đột phá tích cực. Ngoài ra, nhập siêu trong 6
9 Trong 6 tháng đầu năm 2014, 2015, tốc độ tăng xuất khẩu đạt tương ứng 15,4% và 9,3%.
24
tháng đầu năm vẫn xuất hiện trong khu vực kinh tế trong nước với mức nhập
siêu là 9,7 tỷ USD trong khi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 11,2
tỷ USD. Diễn biến cán cân thương mại giai đoạn 1/2015 – 6/2016
Nguồn: TCTK
Một số VBPL chính sách quan trọng liên quan đến điều tiết tăng trưởng kinh tế
(được ban hành, bắt đầu có hiệu lực trong 6 tháng đầu năm 2016)
- Nghị quyết của Chính phủ số 01/NQ-CP ngày 07/01/2016 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2016;
- Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ; có hiệu lực ngày 01/01/2016;
- Nghị định 136/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư công, có hiệu lực ngày
15/2/2016;
- Nghị định 135/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài; có hiệu lực ngày 15/2/2016;
- Nghị định 131/2015/NĐ-CP hướng dẫn về dự án quan trọng quốc gia; có hiệu lực ngày 15/2/2016;
- Nghị định 122/2015/ NĐ-CP ngày 14/11/2015 của Chính phủ quy định từ ngày 01/01/2016 sẽ áp dụng mức
lương tối thiểu vùng từ 2.400.000 đến 2.500.000 đồng/tháng với người lao động làm việc tại DN, liên hiệp HTX,
HTX, tổ HTX, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan tổ chức có sử dụng lao động; có hiệu lực ngày
01/01/2016;
- Quyết định 229/QĐ-TTg ban hành ngày 4/2/2016 Quyết định về cơ chế, chính sách thực hiện Chiến lược và
Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, ngày hiệu lực 4/2/2016;
- Quyết định 228/QĐ-TTg ngày 4/2/2016 quyết định về việc phê duyệt Đề án nâng cao năng lực công tác thông
tin xúc tiến thương mại giai đoạn 2016 – 2020; có hiệu lực ngày 4/2/2016;
- Quyết định 306/QĐ-TTg ngày 26/2/2016 quyết định về việc điều chỉnh mức cho vay đối với hộ gia đình sản
xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn; có hiệu lực ngày 15/3/2016;
- Quyết định 307/QĐ-TTg ngày 26/2/2016 quyết định về việc điều chỉnh mức cho vay đối với thương nhân hoạt
động thương mại tại vùng khó khăn; có hiệu lực ngày 15/3/2016;
- Nghị quyết của Chính phủ số 19/2016/NQ-CP ngày 28/4/2016 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện
môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020;
- Nghị quyết số 35/NQ-CP về việc hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020;
- Nghị quyết số 41/NQ-CP về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin
tại Việt Nam;
- Nghị định số 16/2016/NĐ-CP về việc quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức và vốn vay ưu đãi
của nhà tài trợ nước ngoài;
- Chỉ thị số 06/CT-BCT của Bộ Công thương về một số nhiệm vụ, giải pháp phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất
khẩu trong năm 2016;
-5,000
0
5,000
10,000
15,000
20,000M
1 2
01
5
M2
20
15
M3
20
15
M4
20
15
M5
20
15
M6
20
15
M7
20
15
M8
20
15
M9
20
15
M1
0 2
015
M1
1 2
015
M1
2 2
015
M1
20
16
M2
20
16
M3
20
16
M4
20
16
M5
20
16
M6
20
16
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Nhập siêu
25
- Chỉ thị số 18/CT-TTg, ngày 19/5/2016 của Thủ tướng về việc phát động thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 và Kế hoạch 05 năm (2016 - 2020) theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng;
- Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 02/6/2016 yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan
khác ở Trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước tập
trung chỉ đạo xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) và dự toán ngân sách nhà nước năm 2017.
- Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 03/6/2016 v/v tăng cường chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính – ngân
sách nhà nước trước năm 2016;
- Quyết định số 2493/QĐ-BCT ngày 20/6/2016 của Bộ Công thương về việc phê duyệt danh mục dự án tham gia
“Chương trình phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao” bắt đầu thực hiện từ năm 2017;
...
2. Lạm phát
Lạm phát
tăng cao hơn
so với cùng kỳ
năm 2015
Trong 6 tháng đầu năm, chỉ số CPI đã duy trì đà tăng liên tục so với tháng
trước trong kể từ tháng 2. Đến cuối tháng 6, CPI đã tăng 2,6% so với cùng kỳ
năm trước, tăng 2,35% so tháng 12/2015 và bình quân 6 tháng đầu năm nay
tăng 1,72% so với cùng kỳ năm 2015, tăng cao hơn mức tăng bình quân
0,86% của 6 tháng năm trước nhưng vẫn thấp hơn nhiều mức tăng của một số
năm gần đây.
CPI bình quân 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ giai đoạn 2007 - 2016
Nguồn: TCTK
Trong quý I, CPI bắt đầu gia tăng kể từ tháng 2 và tăng lên đột biến trong
tháng 3 do việc điều chỉnh giá dịch vụ Y tế và Giáo dục. Đà tăng này tiếp tục
diễn ra trong Quý II. Chính vì vậy, CPI bình quân quý I và quý II đều tăng
đáng kể so với cùng kỳ năm trước10
.
Mặc dù vậy, so với những năm gần đây thì tốc độ tăng CPI 6 tháng đầu năm
nay tương đối thấp, chủ yếu do giá cả nhiên liệu thế giới vẫn ở mức thấp so
với giai đoạn trước; nguồn cung hàng hóa dồi dào; việc triển khai đồng bộ các
chính sách bình ổn giá một số mặt hàng thiết yếu, ổn định giá cả thị trường
đặc biệt là trong các dịp lễ tết.
Lạm phát cơ bản tháng 6/2016 tăng 0,13% so với tháng trước và tăng 1,88%
so với cùng kỳ năm 2015. Lạm phát cơ bản bình quân 6 tháng đầu năm 2016
tăng 1,80% so với bình quân cùng kỳ năm 2015. Kể từ đầu năm đến nay, lạm
phát cơ bản đã có 5 tháng tăng so với tháng trước và 3 tháng tăng liên tiếp
trong quý II.
10 CPI bình quân Quý I/2016 tăng 1,25% so với cùng kỳ, trong khi QuýI/2015 chỉ tăng 0,74%; CPI bình quân Quý II/2016 tăng 2,39% so với
cùng kỳ, trong khi Quý II năm 2015 chỉ tăng 0,98%
7
20.43
10.28 8.75
16.08
12.27
6.73 4.77
0.86 1.72
0
5
10
15
20
25
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
%
26
Diễn biến chỉ số CPI giai đoạn tháng 1/2015 –
tháng 6/2016
Diễn biến chỉ số CPI chung và CPI cơ bản so với
cùng kỳ
Nguồn: TCTK
So với cùng kỳ năm 2015, trong rổ hàng hóa tính CPI chung có 9/11 nhóm
hàng tăng giá và chỉ có 2/11 nhóm giảm giá với các diễn biến đáng chú ý như
sau:
+ Trong 9 nhóm hàng tăng giá, nhóm tăng mạnh nhất là “Thuốc & Dịch vụ y
tế”. Mặc dù đây không phải là nhóm chiếm tỷ trọng quá lớn trong rổ hàng
hóa, nhưng với mức tăng bình quân 6 tháng đầu năm lên tới 17,69% so với
cùng kỳ năm trước, nhóm này hiện đã đóng góp đáng kể vào mức tăng CPI
bình quân chung. Ngoài ra, nhóm “Giáo dục” cũng là nhóm có mức tăng cao
đạt 4,09% do có nhiều tỉnh thành tiếp tục đẩy nhanh lộ trình tăng học phí
trong Quý I. Các nhóm ngành còn lại có mức tăng CPI trong khoảng 1-3%,
trong đó một số nhóm hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trong rổ tính CPI như
“Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng” 2,03%; “Nhà ở và vật liệu xây dựng” tăng
2,09%.
+ Hai nhóm hàng hóa có chỉ số giá giảm là “Giao thông” và “Bưu chính viễn
thông”, trong đó “Giao thông” là nhóm có CPI giảm mạnh nhất. Diễn biến giá
của nhóm “Giao thông” chịu ảnh hưởng của diễn biến giá xăng dầu. Mặc dù
giá dầu đã hồi phục đáng kể trong Quý II và giá xăng cũng điều chỉnh tăng
liên tục tuy nhiên do giá cả nhóm hàng này đã giảm sâu trong Quý I và nhiều
tháng trước đó, cùng với ảnh hưởng của giá năng lượng thế giới vẫn đang ở
mức thấp so với giai đoạn trước, nên tính bình quân 6 tháng đầu năm nay
nhóm “Giao thông” giảm 9,37% so với số bình quân cùng kỳ năm trước.
Diễn biến CPI bình quân các nhóm hàng hóa 6 tháng đầu năm 2016 so với cùng kỳ năm trước
Nguồn: TCTK
-0.50
0.00
0.50
1.00
1.50
2.00
2.50
3.00
01
/2015
02
/2015
03
/2015
04
/2015
05
/2015
06
/2015
07
/2015
08
/2015
09
/2015
10
/2015
11
/2015
12
/2015
01
/2016
02
/2016
03
/2016
04
/2016
05
/2016
06
/2016
%
so với cùng kỳ so với cuối năm trước
-
0.50
1.00
1.50
2.00
2.50
3.00
01
/2015
02
/2015
03
/2015
04
/2015
05
/2015
06
/2015
07
/2015
08
/2015
09
/2015
10
/2015
11
/2015
12
/2015
01
/2016
02
/2016
03
/2016
04
/2016
05
/2016
06
/2016
CPI cơ bản CPI Chung
2.03 2.37 2.47 2.09 1.28
17.69
-9.37 -0.6
4.09 1.73 2.05
-15
-10
-5
0
5
10
15
20
Hàng ăn
và dịch
vụ ăn
uống
Đồ uống
và thuốc
lá
May mặc,
mũ nón
giày dép
Nhà ở và
vật liệu
xây dựng
Thiết bị
và đồ
dùng gia
đình
Thuốc và
dịch vụ y
tế
Giao
thôngBưu
chính
viễn
thông
Giáo dục Văn hóa,
giải trí,
du lịch
Hàng hóa
và dịch
vụ khác
%
27
Một số VBPL chính sách quan trọng về điều hành quản lý giá
(được ban hành, bắt đầu có hiệu lực trong 6 tháng đầu năm 2016)
- Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính, quy định thống
nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc. Theo Thông
tư này kể từ ngày 1/3/2016, giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế (BHYT) sẽ tăng từ 2 - 7 lần khi
cộng thêm các chi phí tiền lương, chi phí phẫu thuật, thủ thuật vào giá;
- Nghị định 47/2016/NĐ-CP về quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ
trang, theo đó từ ngày 1/5/2016, mức lương cơ sở là 1.210.000 đồng; - Thông tư số 43/2015/TT-BCT quy định tỷ lệ hao hụt xăng dầu trong hoạt động kinh doanh xăng dầu;
- Từ đầu năm 2016 đến thời điểm 20/6/2016 Bộ Công thương đã có 11 lần điều chỉnh giá xăng dầu trong đó có 5
lần giảm với tổng mức giảm là 2.990 đồng; 5 lần tăng với tổng mức tăng là 2.750 đồng và 1 lần giữ nguyên giá .
3. Lao động và việc làm
Lực lượng lao
động tiếp tục
gia tăng về
quy mô trong
6 tháng đầu
năm 2016
Kết thúc 6 tháng đầu năm năm 2016, lực lượng lao động của cả nước có
khoảng 54,38 triệu người (tăng 0,65 triệu người tương đương 1,21% so với
cùng kỳ năm 2015). Số người thực tế đang có việc làm từ 15 tuổi trở lên ước
khoảng 53,26 triệu người (tăng 0,71 triệu người tương đương 1,35% so với
cùng kỳ năm 2015). Trong tổng số lao động, có 22,5 triệu người làm việc
trong lĩnh vực nông lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 42,2% lao động có việc
làm. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ với 17,8 triệu người chiếm 33,4% và lĩnh
vực công nghiệp xây dựng với 13 triệu người chiếm tỷ trọng 24,4%.
Nhìn chung so với thời điểm cuối năm 2015, tỷ lệ phân bổ lực lượng lao động
vào các nhóm ngành không có nhiều thay đổi so với các năm trước, tuy nhiên
cơ cấu lao động tiếp tục có sự chuyển dịch giữa ba nhóm ngành với số lượng
lao động trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, thủy sản giảm xuống, thay vào đó
con số này gia tăng trong lĩnh vực dịch vụ và lĩnh vực công nghiệp xây dựng.
Tỷ lệ thất nghiệp chung 6 tháng đầu năm là 2,06%. So với Quý I năm 2016
không có biến động nhiều và giảm 0,13 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm
trước. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị là 2,97%; cao hơn khu vực nông
thôn 1,4 điểm phần trăm (nông thôn 1,63%). Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi
lao động là 2,3%. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,73%. Như
vậy diễn biến của tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao
động của 6 tháng đầu năm đã thấp hơn so với cùng kỳ năm trước11
.
Tỷ lệ phân bố lực lượng lao động trong các nhóm ngành
Nguồn: TCTK
11 6 tháng đầu năm 2015, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,44%; tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 2,52%.
0.47 0.47 0.45 0.42 0.45 0.44 0.44 0.42 0.42
0.21 0.22 0.22 0.25 0.22 0.22 0.23 0.24 0.24
0.32 0.32 0.32 0.34 0.33 0.33 0.33 0.34 0.33
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Quý II
2014
Quý III
2014
Quý IV
2014
Quý I
2015
Quý II
2015
Quý III
2015
Quý IV
2015
Quý I
2016
Quý II
2016
Nông lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ
28
4. Phát triển doanh nghiệp
Khu vực
doanh nghiệp
có nhiều tín
hiệu tích cực
khi số lượng
doanh nghiệp
thành lập mới
và quay trở lại
hoạt động đã
tăng khá so
với cùng kỳ
năm trước
Trong 6 tháng đầu năm nay, tổng số doanh nghiệp được thành lập mới là
54.501 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 427.762 tỷ đồng, tăng 20% về số
doanh nghiệp và tăng 51,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015 (so
sánh 2015/2014: số doanh nghiệp tăng 21,7%; vốn tăng 22,3%). Tỷ trọng vốn
đăng ký bình quân trên một doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2016 đạt 7,8
tỷ đồng, tăng 26,2% so với cùng kỳ năm 2015.
Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 6 tháng đầu năm là 14.902
doanh nghiệp, tăng 75,2% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn rất nhiều so với
mức tăng 2,2% của cùng kỳ năm 2015, con số này cho cho thấy niềm tin của
cộng đồng vào môi trường kinh doanh tiếp tục được củng cố.
Tình hình doanh nghiệp trong nước 6 tháng đầu năm
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
Theo loại hình doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2016, số doanh nghiệp
thành lập mới tập trung nhiều nhất ở loại hình công ty TNHH 1 thành viên với
29.343 doanh nghiệp đăng ký (tăng 27,84% so với cùng kỳ), tiếp đến là loại
hình công ty TNHH 2 thành viên là 13.882 doanh nghiệp (tăng 12,3%), loại
hình công ty cổ phần là 9.026 doanh nghiệp (tăng 23,88%), loại hình doanh
nghiệp tư nhân là 2.242 doanh nghiệp (giảm 20,19%) và loại hình công ty hợp
danh là 08 doanh nghiệp.
Theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh, trong 6 tháng đầu năm nay hầu hết các
ngành, lĩnh vực hoạt động có xu hướng tăng về tỷ lệ doanh nghiệp thành lập
mới so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, một số ngành có tỷ lệ gia nhập thị
trường cao nhất là Kinh doanh bất động sản tăng 1.354 doanh nghiệp (tương
đương 110,9%). Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 243 doanh nghiệp
(tương đương 80%). Hoạt động dịch vụ khác đăng ký 484 doanh nghiệp, tăng
41,1%; Giáo dục đào tạo đăng ký 1.225 doanh nghiệp, tăng 40%. Ở chiều
ngược lại, duy nhất lĩnh vực Nghệ thuật, vui chơi và giải trí có số doanh
nghiệp gia nhập thị trường giảm 32,2% (691 doanh nghiệp), điều này phản
ánh tính cạnh tranh cao trong ngành giải trí cũng như những khó khăn hiện tại
về kinh tế - xã hội có tác động nhất định đến nhu cầu của người dân đối với
các loại hình dịch vụ nghệ thuật, vui chơi giải trí.
0
50,000
100,000
150,000
200,000
250,000
300,000
350,000
400,000
450,000
2012 2013 2014 2015 2016
Số doanh nghiệp thành lập mới
Vốn đăng kí (tỷ đồng)
0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
35,000
2012 2013 2014 2015 2016
Số doanh nghiệp giải thể Số doanh nghiệp tạm dừng hoạt động
29
Tình hình doanh nghiệp thành lập mới theo lĩnh vực hoạt động
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
5. Thu chi ngân sách Nhà nước
Thu NSNN
dựa chủ yếu
vào nguồn thu
nội địa, cơ
cấu chi ngân
sách chưa có
nhiều cải
thiện
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/6/2016 ước tính
đạt 425,6 nghìn tỷ đồng, bằng 42% dự toán năm, thấp hơn mức 44,6% dự toán
năm của cùng kỳ năm 2015. Thu NSNN nửa đầu năm 201612
khó khăn hơn so
với cùng kỳ năm trước do: (i) tốc độ tăng thu nội địa đạt 13,8%, thấp so với
mức tăng của cùng kỳ 2 năm trước (18,6% năm 2015và 19,9% năm 2014); (ii)
giá dầu thanh toán bình quân ở mức 39,8 USD/thùng, thấp hơn so với giá xây
dựng dự toán (60 USD/thùng) khiến thu dầu thô giảm 44,8%; (iii) thu từ hoạt
động SXKD giảm 2,2%. Điểm tích cực có thể thấy rõ đó là xu hướng thu nội
địa ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng, hiện chiếm trên 80% tổng thu
trong bối cảnh thu từ dầu thô và thu từ cân đối xuất nhập khẩu đạt thấp so với
dự toán.
Tổng chi NSNN tính đến 15/6 ước đạt 508,5 nghìn tỷ đồng, bằng 39,9% dự
toán năm. Sự bất cập trong cơ cấu chi tiếp tục duy trì khi chi thường xuyên
chiếm trên 70% tổng chi cân đối NSNN, trong khi chi đầu tư đầu tư phát triển
chỉ chiếm khoảng 16%. Diễn biến trên hầu như không có nhiều thay đổi so
với trung bình giai đoạn 5 năm trở lại đây. Chi trả nợ viện trợ vẫn ở mức cao,
hiện chiếm khoảng 13% tổng chi.
Bội chi NSNN tính đến 15/6 ước đạt 85,6 nghìn tỷ đồng, tương đương 33,7 %
dự toán năm.
12 Số liệu lũy kế đến 20/06/2016.
30
So sánh thu NSNN 6 tháng đầu năm 2015 và 6
tháng đầu năm 2016
So sánh chi NSNN 6 tháng đầu năm 2015 và 6
tháng đầu năm 2016
Nguồn: Bộ Tài chính
Một số VBPL chính sách quan trọng liên quan đến tài chính và thu chi ngân sách
(được ban hành, bắt đầu có hiệu lực trong 6 tháng đầu năm 2016)
- Quyết định 69/QĐ-BTC Về việc ban hành Kế hoạch hành động của Bộ Tài chính thực hiện Nghị quyết số
01/NQ-CP ngày 07/01/2016 của Chính phủ về những nhỉệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo đỉều hành thực hỉện
Kế hoạch phát trỉển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2016 và Chương trình công tác năm
2016 của Bộ Tài chính; ngày hiệu lực 8/1/2016;
- Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi 2014 theo đó thuế suất tiêu thụ đặc biệt tăng lên đối với nhiều loại hàng
hóa, dịch vụ; Ngày hiệu lực: 01/01/2016;
- Nghị định 108/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt; Ngày hiệu lực: 01/01/2016;
- Thông tư 195/2015/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 108/2015/NĐ-CP về hướng dẫn Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt
và Luật thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi; Ngày hiệu lực: 01/01/2016;
- Thông tư 182/2015/TT-BTC ban hành Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục mặt
hàng chịu thuế; Ngày hiệu lực: 01/01/2016;
- Thông tư 193/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng; Ngày hiệu lực: 10/01/2016;
-Thông tư 21/2016/TT-BTChHướng dẫn về khai thuế giá trị gia tăng và ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo
quy định tại Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 3/11/2015 của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ;
ngày hiệu lực 1/4/2016;
- Thông tư 37/2016/TT-BTC quy định lãi suất cho vay của Quỹ phát triển DN nhỏ và vừa; ngày hiệu lực
15/4/2016;
…
0.0050.00
100.00150.00200.00250.00300.00350.00400.00450.00
Tổng thu Thu nội
địa
Thu từ
dầu thô
Thu cân
đối XNK
ng
hin
ty
VN
D
6 tháng 2015 6 tháng 2016
0.00
100.00
200.00
300.00
400.00
500.00
600.00
Tổng chi Chi đầu
tư phát
triển
Chi
thường
xuyên
Chi trả nợ
viện trợ
Ng
hin
ty
VN
D
6 tháng 2015 6 tháng 2016
31
III. DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ, CHỨNG KHOÁN
Một số VBPL chính sách quan trọng về điều hành CSTT
(được ban hành, bắt đầu có hiệu lực trong 6 tháng đầu năm 2016)
- Chỉ thị 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện CSTT và bảo đảm hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm
2016; ngày hiệu lực:23/02/2016;
- Thông tư 30/2015/TT-NHNN Quy định việc cấp Giấy phép, tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng phi
ngân hàng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành; ngày hiệu lực:08/02/2016;
- Thông tư 38/2015/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 16/2012/TT-NHNN hướng dẫn Nghị định 24/2012/NĐ-CP về
quản lý hoạt động kinh doanh vàng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành; ngày hiệu lực:15/02/2016;
- Thông tư 01/2016/TT-NHNN hướng dẫn về cho vay phát triển công nghiệp hỗ trợ; ngày hiệu lực 22/2/2016;
- Văn bản số 691/NHNN-TD ngày 4/2/2016 yêu cầu NHNN chi nhánh các Tỉnh, Thành phố tiếp tục triển khai
nhiệm vụ của ngành ngân hàng thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới;
- Thông tư 32/2015/TT-NHNN quy định về giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của quỹ tín dụng
nhân dân; ngày hiệu lực 1/3/2016;
- Thông tư 33/2015/TT-NHNN quy định về giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tài
chính vi mô; ngày hiệu lực 1/3/2016;
- Thông tư 13/2016/TT-BTC sửa đổi Thông tư 114/2014/TT-BTC hướng dẫn cấp bù lãi suất do thực hiện chính
sách tín dụng theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP về chính sách phát triển thủy sản và Thông tư 117/2014/TT-BTC
hướng dẫn Nghị định 67/2014/NĐ-CP do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành; ngày hiệu lực 4/3/2016;
- Thông tư số 03/2016/TT-NHNN (Thông tư 03) về việc hướng dẫn một số nội dung về quản lý ngoại hối đối với
việc vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/4/2016;
- Thông tư số 04/2016/TT-NHNN ngày 15/4/2016 Quy định về việc lưu ký và sử dụng giấy tờ có giá tại Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam;
- Thông tư số 05/2016/TT-NHNN ngày 15/4/2016 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 03/2016/TT-
NHNN ngày 26 tháng 02 năm 2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn một số nội dung về quản lý
ngoại hối đối với việc vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp;
- Quyết định 618/QĐ-NHNN ngày 12/4/2016 Về việc xây dựng và triển khai Phương án mua nợ xấu theo giá trị
thị trường của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam;
- Chỉ thị số 04/CT-NHNN về một số giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng những tháng
cuối năm 2016
- Quyết định số 1107/QĐ-NHNN v/v cho phép Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông phát hành trái
phiếu năm 2016.
- Ngày 06/5/2016, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành các văn bản số 3254/NHNN-
TTGSNH và 3255/NHNN-TTGSNH về việc chấn chỉnh việc thực hiện quy định lãi suất huy động.
- Ngày 27/5/2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Thông tư 06/2016/TT-NHNN (Thông tư 06) sửa
đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo
đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Ngày 27/5/2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Thông tư 07/2016/TT-NHNN (Thông tư 07) Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 24/2015/TT-NHNN ngày 08 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước quy định cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với
khách hàng vay là người cư trú;
- Ngày 06/6/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1013/QĐ-TTg về lãi suất cho vay ưu đãi nhà
ở xã hội tại Ngân hàng Chính sách xã hội theo quy định tại Nghị định 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ.
- Ngày 28/6/2016 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Chỉ thị số 05/CT-NHNN về triển khai Kế hoạch
hành động của ngành Ngân hàng góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020.
- Ngày 28 tháng 6 năm 2016 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết định số 1355/QĐ-
NHNN về việc ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng góp phần cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp năm 2016-2017, định hướng đến năm
2020 (Kế hoạch hành động).
- Thông tư số 08/2016/TT-NHNN ngày 16/06/2016 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2013/TT-
NHNN ngày 06 tháng 9 năm 2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về việc mua, bán và xử lý nợ
xấu của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam.
- Thông tư số 09/2016/TT-NHNN ngày 17/06/2016 Thông tư Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số
31/2012/TT-NHNN ngày 26/11/2012 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về ngân hàng hợp tác xã.
32
- Ngày 27/06/2016 ban hành Thông tư liên tịch số 92/2016/TTLT-BTC-NHNN ngày 27/6/2016 Hướng dẫn việc
phát hành tín phiếu kho bạc qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Thông tư số 10/2016/TT-NHNN ngày 29/6/2016 Hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định số
135/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Chính phủ quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.
- Thông tư số 12/2016/TT-NHNN ngày 29/6/2016 Hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra
nước ngoài.
- Thông tư số 11/2016/TT-NHNN ngày 29/6/2016 Sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật về hoạt
động cung ứng dịch vụ nhận và chi, trả ngoại tệ, hoạt động đại lý đổi ngoại tệ, bàn đổi ngoại tệ của cá nhân.
- Thông tư số 13/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 45/2011/TT-NHNN
ngày 30/12/2011 của Thống đốc NHNN quy định về quản lý ngoại hối đối với việc cho vay, thu hồi nợ nước
ngoài của TCTD.
- Thông tư số 14/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2014/TT-
NHNN ngày 06/11/2014 của Thống đốc NHNN quy định về ủy thác và nhận ủy thác của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài và bãi bỏ một số điều của Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín
dụng ban hành kèm theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 6/9/2004 của Thống đốc NHNN.
- Thông tư số 15/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2015/TT-
NHNN ngày 25/12/2015 của Thống đốc NHNN quy định việc cấp Giấy phép, tổ chức và hoạt động của tổ chức
tín dụng phi ngân hàng.
- Thông tư số 16/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 34/2013/TT-
NHNN ngày 31/12/2013 của Thống đốc NHNN quy định về phát hành kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi,
trái phiếu trong nước của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Thông tư số 17/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 quy định về hoạt động môi giới tiền tệ của ngân hàng thương
mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thay thế Quy chế môi giới tiền tệ ban hành kèm theo Quyết định số
351/2004/QĐ-NHNN ngày 7/4/2004 của Thống đốc NHNN.
- Thông tư số 18/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 21/2012/TT-
NHNN ngày 18/6/2012 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay, đi vay; mua, bán có kỳ hạn giấy tờ
có giá giữa các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Thông tư số 19/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 quy định về hoạt động thẻ ngân hàng.
- Thông tư số 21/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 04/2013/TT-
NHNN ngày 1/3/2013 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ
có giá khác của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
- Thông tư số 22/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 thay thế Thông tư số 28/2011/TT-NHNN ngày 1/9/2011 quy
định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua trái phiếu doanh nghiệp.
- Ngày 28/6/2016, NHNN ban hành QĐ số 1353/QĐ-NHNN Ban hành Kế hoạch thực hiện pháp điển hệ thống
quy phạm pháp luật đối với Đề mục Ngoại hối.
…
1. Diễn biến lãi suất
Lãi suất huy
động được
điều chỉnh
tăng ở phần
lớn các kỳ
hạn, lãi suất
cho vay hầu
như không
thay đổi
Lãi suất huy động bắt đầu tăng sau kỉ nghỉ Tết nguyên đán và tăng đáng chú ý
đối với lãi suất huy động kỳ hạn dài tại khối các NHTM CP. Khối các NHTM
NN bắt đầu điều chỉnh lãi suất huy động ở tất cả các kỳ hạn vào tháng 4, niêm
yết gần ngang bằng với lãi suất huy động của các NHTM CP. Tuy nhiên,
bước sang tháng 6, thực hiện chủ trương của Chính phủ và của NHNN trong
công tác điều hành 6 tháng cuối năm hướng tới hỗ trợ tích cực cho các doanh
nghiệp thông qua việc tạo điều kiện giảm mặt bằng lãi suất, lãi suất huy động
đối với các kỳ hạn dài đã được điều chỉnh giảm nhẹ (0,02% – 0,06%) trên cả
02 khối NHTM NN và NHTM CP. Tính đến hết tháng 6, lãi suất huy động
VND không kỳ hạn phổ biến trong khoảng 0,5-1,0%/năm ở cả hai khối
NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần, lãi suất huy động VND có kỳ hạn phổ
biến trong khoảng từ 5,1 -7,4%/năm đối với khối NHTM Nhà nước và trong
khoảng từ 4,8 -7,5%/năm đối với khối NHTM cổ phần.
Lãi suất huy động USD tiếp tục ở mức 0% đối với tất cả các kỳ hạn ở cả 02
khối NHTM NN và NHTM CP, đối với cả huy động từ dân cư và từ TCKT.
33
Diễn biến lãi suất huy động bình quân của các ngân hàng trong 6 tháng đầu năm
Nguồn: NHNN
Lãi suất cho vay vẫn tiếp tục ổn định từ đầu năm đến nay. Theo đó, mặt bằng
lãi suất cho vay phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6-7%/năm đối với
ngắn hạn, các NHTM nhà nước tiếp tục áp dụng lãi suất cho vay trung và dài
hạn phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 9-10%/năm. Lãi suất cho vay
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8-9%/năm đối với ngắn
hạn; 9,3-11%/năm đối với trung và dài hạn.
Lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 2,8-6,2%/năm; trong đó lãi suất cho
vay ngắn hạn phổ biến ở mức 2,8-5,2%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn ở
mức 5,1-6,2%/năm.
Lãi suất liên ngân hàng diễn biến giảm ở hầu hết các kỳ hạn
Kết thúc 6 tháng đầu năm, lãi suất liên ngân hàng đã giảm ở hầu hết các kỳ
hạn. Trong đó mức giảm mạnh nhất diễn ra ở các kỳ hạn ngắn (qua đêm, 1
tuần, 2 tuần và 1 tháng). Diễn biến thực tế này cũng phản ánh tình trạng thanh
khoản tích cực của hệ thống, truyền tải tín hiệu thuận lợi cho việc giảm lãi
suất cho vay trong nền kinh tế. Đến thời điểm 30/6, lãi suất kỳ hạn ngắn (qua
đêm, 1 tuần, 2 tuần và 1 tháng) lần lượt là 1,22%; 1,67%; 1,99% và 2,36%,
các mức lãi suất đã giảm khoảng 3% so với thời điểm cuối năm 2015.
Bên cạnh đó, mặc dù không giảm mạnh như lãi suất giao dịch ở kỳ hạn ngắn
nhưng lãi suất kỳ hạn dài từ 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng cũng đã giảm khoảng
1% so với thời điểm cuối năm ngoái. Lãi suất kỳ hạn 12 tháng gần như không
có thay đổi kể từ tháng 2/2016, hiện ở mức 5,4%.
Diễn biến lãi suất liên ngân hàng 6 tháng đầu năm
Nguồn: NHNN
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
8.00
3 tháng 6 tháng 12 tháng 24 tháng 36 tháng
Khối NHTM Nhà nước Khối NHTM Cổ phần
01234567
%
Qua đêm 1 tuần 1 tháng 3 tháng 6 tháng
34
2. Diễn biến thị trường ngoại hối
Diễn biến tỷ giá
Tỷ giá diễn
biến ổn định,
khá phù hợp
với diễn biến
của thị trường
ngoại tệ trong
và ngoài nước
Tính đến hết tháng 6, tỷ giá trung tâm mà NHNN công bố đã giảm 0,08% so
với cuối tháng 12/2015 và có biến động rất nhỏ qua các tháng13
. Trong 6 tháng
đầu năm, tỷ giá trung tâm đã giảm trong 4 tháng với mức giảm mạnh nhất vào
tháng 6 (-0,3%) và tăng trong 2 tháng với mức tăng mạnh vào tháng 5 (0,44%).
Sau 6 tháng điều hành theo cơ chế tỷ giá mới, kết quả bước đầu rất khả quan, tỷ
giá trung tâm đã truyền dẫn được tín hiệu dẫn dắt kỳ vọng của thị trường. Chính
vì thế, biến động tỷ giá giao dịch của các NHTM rất gắn kết với tỷ giá trung
tâm, tỷ giá trên thị trường tự do không thể hiện áp lực đầu cơ.
Tại thời điểm cuối tháng 6, tỷ giá niêm yết tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Vietcombank giao dịch ở mức 22.275 – 22.345 VND/USD
(mua vào – bán ra), của Eximbank giao dịch ở mức 22.280 – 22.350
VND/USD (mua vào – bán ra), giảm giao động từ 0,4% - 0,49% ở cả 2 chiều
mua vào bán so với tháng trước, tỷ giá giao dịch của Vietcombank giảm
0,78% - 0,87 % so với cuối năm ngoái.Bên cạnh đó, tỷ giá bán trên thị trường
tự do giảm 0,45% so với tháng trước và giảm hơn 1% so với cuối năm ngoái.
Điểm đặc biệt đáng chú ý là tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do đã giao dịch ở
mức thấp hơn so tỷ giá niêm yết của các NHTM từ nửa cuối tháng 2 đến nay.
Kết thúc tháng 6, tỷ giá trên thị trường tự do ở mức 22.280 - 22.330
VND/USD, thấp hơn tỷ giá niêm yết của các NHTM là 5 đồng chiều mua vào
và 15 đồng chiều bán ra.
Diễn biến tỷ giá 6 tháng đầu năm 2016
Nguồn: NHNN
Diễn biến giá vàng
Giá vàng 6
tháng đầu
năm bám sát
diễn biến giá
vàng thế giới
với mức biến
Trong 6 tháng đầu năm, giá vàng trong nước diễn biến theo sát diễn biến của
giá vàng thế giới, mức biến động của giá vàng qua các tháng ở mức thấp14
,
ngoại trừ tháng 6. Kết thúc hai quý đầu năm, vàng tăng giá hơn 7,5% so với
cuối năm 2015, thấp hơn nhiều so với mức tăng của giá vàng thế giới. Giá
vàng trong nước chỉ tăng tốc mạnh vào tháng 6 trước những bất ổn kinh tế, tài
13 Tháng 1 giảm 0,04%; Tháng 2 tăng 0,15%; Tháng 3 giảm 0,26%; Tháng 4 giảm 0,07%; Tháng 5 tăng 0,44%.; tháng 6 giảm 0,3%. 14 Tăng trong tháng 1, 2, 4 với mức tăng lần lượt là 0,74%; 1,67%; 1,57, giảm nhẹ trong tháng 3 với mức giảm là 0,78% và giảm mạnh trong
tháng 5 là 1,2.
21,200
21,400
21,600
21,800
22,000
22,200
22,400
22,600
22,800
Tỷ giá trung tâm Tỷ giá bán NHTM Tỷ giá bán tự do
35
động qua các
tháng ở mức
thấp
chính có nhiều khả năng sẽ gia tăng sau khi nước Anh chính thức rời khỏi EU.
Theo đó giá vàng đã tuột khỏi mốc 33 – 34 triệu đồng/lượng, có lúc đã lên
đến gần 36 triệu đồng/lượng – là mức giá cao nhất kể từ tháng 10 năm ngoái.
Chỉ tính riêng trong tháng 6, giá vàng trong nước đã tăng 5,5% so với tháng
trước và tăng 2,09% so với thời điểm cùng kỳ năm ngoái.
Diễn biến của giá vàng trong nước trong nửa đầu của năm đã ghi nhận một
diễn biến tích cực so với những năm trước, đó là chênh lệch của giá vàng
trong nước so với quốc tế đã được thu hẹp rất mạnh. Thực tế đó bên cạnh tốc
độ biến động nhỏ hơn giá vàng thế giới đã được hỗ trợ rất nhiều bởi sự ổn
định của tỷ giá trong nước. Nếu như vào thời điểm tháng 6 năm ngoái giá
vàng trong nước còn cao hơn giá vàng thế giới khoảng hơn 3,5 triệu
đồng/lượng thì hiện đã rẻ hơn giá vàng thế giới 300.000 đồng/lượng. Đến thời
điểm cuối tháng 6, giá vàng trong nước giao dịch ở mức 34.880 – 35.200 triệu
đồng/lượng (mua vào – bán ra).
Diễn biến giá vàng trong nước 6 tháng đầu năm
2016
Diễn biến giá vàng trong nước và giá vàng quốc
tế quy đổi ra VND
Nguồn: Tự tổng hợp
3. Diễn biến thị trường chứng khoán
Thị trường
chứng khoán
Việt Nam
trong 6 tháng
đầu năm trở
thành một
điểm sáng
trong khu
vực, là một
trong những
thị trường có
mức tăng
trưởng cao.
Ngay trong tháng đầu năm, thị trường tiếp tục chuỗi suy giảm kéo dài kể từ
tháng 11/2015 và chỉ số VN-Index chạm đáy ở mức 521,88 vào ngày 21/1.
Thị trường đã phục hồi trở lại vào tháng 2 và duy trì đà tăng điểm trong các
tháng tiếp theo. VN-Index đạt đỉnh vào ngày 23/6 ở mức 632,27 điểm (tăng
9,19 % so với phiên kết thúc năm 2015) và chỉ số HNX-Index cao nhất đạt
85,33 điểm cũng vào ngày 23/6 (tăng 6,72 % so với phiên kết thúc năm 2015).
Mặc dù trong tháng 6 có thời điểm thị trường đã giảm điểm khá mạnh do ảnh
hưởng của sự kiện Brexit, tuy nhiên diễn biến này chỉ mang tính nhất thời, thị
trường đã tăng điểm mạnh trở lại trong các phiên cuối tháng. Kết thúc 6 tháng
đầu năm, chỉ số VN-Index ở mức 632,26 điểm (tăng 53,23 điểm tương đương
9,19% so với phiên kết thúc năm 2015). Chỉ số HNX-Index kết thúc ở mức
84,72 điểm (tăng 4,76 điểm tương đương 5,95% so với phiên kết thúc năm
2015).
Với diễn biến này, Việt Nam là một trong những những thị trường chứng
khoán tăng trưởng mạnh mẽ nhất trong 6 tháng đầu năm 2016 không chỉ trong
khu vực và trên thế giới, trong bối cảnh nhiều chỉ số chứng khoán lớn trên thế
giới suy giảm và chứng khoán châu Á có phần ảm đạm.
VND 31,000
VND 32,000
VND 33,000
VND 34,000
VND 35,000
VND 36,000
Giá SJC mua vào Giá SJC bán ra
VND 25,000VND 27,000VND 29,000VND 31,000VND 33,000VND 35,000VND 37,000
Giá vàng trong nước
Giá vàng thế giới quy đổi ra VND
36
Nguồn: Tổng hợp
Đóng góp vào diễn biến tích cực của thị trường chứng khoán không thể không
nhắc đến hoạt động của khối ngoại, với những diễn biến trái chiều trên sàn
HOSE và sàn HNX - khối ngoại đã bán ròng rất mạnh trên sàn HOSE trong
khi đẩy mạnh mua ròng trên HNX.
Trên sàn HOSE, khối ngoại có ba tháng bán ròng và chỉ mua ròng vào tháng
3, tháng 5 và tháng 6. Tính chung cả 6 tháng, khối ngoại trên HOSE ở trạng
thái bán ròng khoảng 2.000 tỷ đồng. Trong đó khối ngoại đẩy mạnh bán ròng
ở cổ phiếu ngành xây dựng, bất động sản như VIC lên tới gần 5.200 tỷ đồng,
cổ phiếu nhóm ngành thép là HPG và HSG cũng bị bán ròng lần lượt 630,37
tỷ đồng và 451,89 tỷ đồng.
Trên sàn HNX, khối ngoại đã có tháng mua ròng thứ sáu liên tiếp, trong đó
tập trung vào các nhóm cổ phiếu Dầu khí, Xăng đầu, Bất động sản, Xây dựng
và Chứng khoán. Tính đến hết tháng 6, tổng giao dịch của khối ngoại trên
HNX là mua ròng khoảng 973 tỷ đồng.
Tính chung cho cả hai sàn HOSE và HNX, 6 tháng vừa qua khối ngoại mua
ròng đạt trên 160 triệu cổ phiếu, tuy nhiên xét về giá trị thì khối ngoại đã bán
ròng khoảng 1.000 tỷ đồng.
Nguồn: Tổng hợp
0100020003000400050006000
0100200300400500600700
4/1
/16
13/1
/16
22/1
/16
2/2
/16
19/2
/16
1/3
/16
10/3
/16
21/3
/16
30/3
/16
8/4
/16
20/4
/16
29/4
/16
11/5
/16
20/5
/16
31/5
/16
9/6
/16
20/6
/16
29/6
/16
Tỷ đồng DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HOSE
6 THÁNG ĐẦU NĂM 2016
Giá trị giao dịch (tỷ đồng)
0200400600800100012001400
64687276808488
4/1
/16
13/1
/16
22/1
/16
2/2
/16
19/2
/16
1/3
/16
10/3
/16
21/3
/16
30/3
/16
8/4
/16
20/4
/16
29/4
/16
11/5
/16
20/5
/16
31/5
/16
9/6
/16
20/6
/16
29/6
/16
Tỷ đồng DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX
6 THÁNG ĐẦU NĂM 2016
Giá trị giao dịch (tỷ đồng) Chỉ số HNX
-1000-800-600-400-200
0200400
4/1
/2016
7/1
/2016
12
/1/2
016
15
/1/2
016
20
/1/2
016
25
/1/2
016
28
/1/2
016
2/2
/2016
15
/2/2
016
18
/2/2
016
23
/2/2
016
26
/2/2
016
2/3
/2016
7/3
/2016
10
/3/2
016
15
/3/2
016
18
/3/2
016
23
/3/2
016
28
/3/2
016
31
/3/2
016
5/4
/2016
8/4
/2016
13
/4/2
016
19
/4/2
016
24
/4/2
016
27
/4/2
016
30
/4/2
016
6/5
/2016
11
/5/2
016
16
/5/2
016
19
/5/2
016
24
/5/2
016
27
/5/2
016
1/6
/2016
6/6
/2016
9/6
/2016
14
/6/2
016
17
/6/2
016
22
/6/2
016
27
/6/2
016
30
/6/2
016
Tỷ đ
ồng
HOẠT ĐỘNG CỦA KHỐI NGOẠI 6 THÁNG ĐẦU NĂM
Khối ngoại mua bán ròng trên HOSE Khối ngoại mua bán ròng trên HNX
37
4. Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2016 và những thách thức đặt ra
Kinh tế Việt
Nam sẽ đối
mặt với nhiều
áp lực, khó
khăn để đạt
mục tiêu tăng
trưởng đề ra
cho năm 2016
Triển vọng kinh tế
Với những kết quả đã đạt được sau 6 tháng vừa qua, hiện có nhiều dự báo
khác nhau đưa ra đối với triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm
2016. Nhìn chung các nhận định mang tính thận trọng hơn trong bối cảnh kinh
tế thế giới vẫn biến động khó dự đoán và kinh tế vĩ mô trong nước vẫn còn phải
đối mặt với nhiều khó khăn từ khu vực sản xuất, thương mại, ngân sách,...:
- Về phía các tổ chức nước ngoài, HSBC hạ dự báo tăng trưởng kinh tế Việt
Nam năm 2016 từ 6,7% xuống còn 5,3%; WB hạ dự báo tăng trưởng kinh tế
Việt Nam năm 2016 từ 6,5% xuống còn 6,2%; IMF hạ dự báo tăng trưởng kinh
tế Việt Nam năm 2016 từ 6,75% xuống còn 6%;
- Về phía trong nước, theo các chuyên gia kinh tế, dư địa đầu tư phát triển hạn
hẹp, nguồn lực tài chính quốc gia hạn chế do nợ công gần chạm ngưỡng 65%
và áp lực về thu chi ngân sách sẽ khiến mục tiêu tăng trưởng 2016 gặp nhiều
khó khăn.
Những thách thức đặt ra
- Khu vực công nghiệp và xây dựng mặc dù vẫn có đóng góp lớn vào mức tăng
trưởng chung nhưng đang có dấu hiệu giảm tốc, đặc biệt tại các ngành công
nghiệp then chốt như chế biến chế tạo, khai khoáng. Khu vực nông nghiệp sẽ
tiếp tục gặp nhiều khó khăn trước những tác động bất lợi của thời tiết và biến
động giá cả hàng hóa thế giới.
- Tăng trưởng về phía cầu cũng gặp nhiều khó khăn, thể hiện qua tốc độ tăng
doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chưa có nhiều đột phá và hoạt
động xuất, nhập khẩu đã giảm sút so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, đáng
chú ý là việc nhập khẩu sụt giảm tập trung vào một số mặt hàng phục vụ cho
hoạt động sản xuất trong nước và áp lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của
Việt nam trong bối cảnh sức cầu trên thị trường thế giới chưa thực sự phục hồi.
- Lạm phát có thể gia tăng cao hơn mục tiêu điều ra: Hiện nay, mặc dù tốc độ
tăng CPI trong 6 tháng đầu năm ở mức thấp so với giai đoạn trước, tuy nhiên
diễn biến của các yếu tố tác động, đặc biệt là từ bên ngoài đang có xu hướng
gia tăng áp lực cho lạm phát. Bên cạnh tác động từ chương trình điều chỉnh giá
của một số ngành hàng thiết yếu theo chủ trương của Chính phủ, diễn biến CPI
trong những tháng tới nhiều khả năng sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi
các điều kiện thời tiết, khí hậu và mặt bằng giá cả hàng hàng hóa thế giới đang
có xu hướng nhích dần lên, đặc biệt là giá dầu và giá sản phẩm nông nghiệp
thô.
- Khu vực có vốn đầu tư của nước ngoài tiếp tục giữ vai trò dẫn dắt trong các
mũi nhọn đóng góp vào tăng trưởng kinh tế nhưng giá trị gia tăng từ khu vực
này trong GDP vẫn ở mức thấp. Trong khi đó vai trò của khu vực tư nhân
chưa phát huy mạnh mẽ và khu vực nhà nước chưa có sự cải thiện.
- Số doanh nghiệp phải giải thể, tạm dừng kinh doanh 6 tháng qua cũng tăng
cao hơn so với cùng kỳ năm trước. Diễn biến này cho thấy thị trường vẫn còn
nhiều yếu tố rủi ro, đặc biệt là khối các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp
mới gia nhập thị trường vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn do chính những hạn
chế của bản thân doanh nghiệp và các vấn đề nội tại của nền kinh tế.
- Áp lực cân bằng NSNN tiếp tục là một vấn đề đáng lưu tâm trong những
tháng cuối năm 2016. Căng thẳng NSNN nhiều khả năng vẫn còn hiện hữu nếu
38
giá dầu không giữ được đà tăng mạnh, hoạt động xuất nhập khẩu tăng trưởng
chậm. Hoạt động sản xuất chững lại do cầu thế giới suy yếu cùng việc giảm
thuế TNDN sẽ tiếp tục có những ảnh hưởng trong 2 quý cuối năm khiến tăng
thu nội địa khó khăn hơn trong năm 2016.
- Áp lực trong việc giảm mặt bằng lãi suất: Giảm mặt bằng lãi suất cho vay tín
dụng trong nền kinh tế đã đạt được những kết quả nhất định trong năm 2015
và được hỗ trợ rất nhiều bởi diễn biến biến của lạm phát. Hiện tại mặc dù
ngành ngân hàng đã quán triệt xuyên suốt chủ trương này trong toàn hệ thống
nhưng dư địa để điều hành theo mục tiêu ngày càng bị thu hẹp, các thách thức
ngày càng nhiều khi lạm phát gia đang có xu hướng tăng nhanh hơn mục tiêu
kiểm soát ở mức 5%, kinh tế đang có dấu hiệu chững lại, lãi suất huy động
trái phiếu Chính phủ ở mức cạnh tranh,......
- Điều hành tỷ giá trong 6 tháng cuối năm có thể phải đối mặt với nhiều bất
ổn: Mặc dù hiện nay tỷ giá đang diễn biến rất ổn định, các điều kiện hỗ trợ về
cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế cũng diễn biến tích cực. Tuy nhiên, sự
“bất ổn” đang đe dọa thị trường tài chính, ngoại hối toàn cầu trong thời gian
tới có thể đem đến những biến động mạnh hoặc sự điều chỉnh vị thế của các
đồng tiền chủ chốt trong ngắn hạn. Điều đó sẽ có thể tác động đên tâm lý thị
trường, tạo ra những diễn biến khó lường trên thị trường ngoại hối. Bên cạnh
đó, thách thức cũng có thể phát sinh khi cán cân thương mại, cán cân vốn suy
giảm trước diễn biến bất ổn của khu vực Châu Âu tác động lan truyền sang
phần còn lại của kinh tế thế giới, đặc biệt là những vấn đề có thể sẽ phát sịnh
sau khi Anh rời khỏi liên minh Châu Âu.
39
Tài liệu tham khảo:
Tài liệu tiếng Việt
1. Bộ Tài chính. Trực tuyến. Truy cập tại: http://www.mof.gov.vn.
2. Ngân hàng Nhà nước. Trực tuyến. Truy cập tại: www.sbv.gov.vn.
3. Bộ Kế hoạch đầu tư. Trực tuyến. Truy cập tại: www.mpi.gov.vn
4. Tổng cục Thống kê. Trực tuyến. Truy cập tại: www.gso.gov.vn.
Tài liệu tiếng Anh
1. UN DESA (2016), World economic situation and prospects, monthly briefing
February 2016
2. OECD (2016), Interim Economic Outlook
3. ADB (2016), Asia Development Outlook 2016
4. Deloitte (2016), Global Economic Outlook second quarter 2016
5. IMF (2016), Commodity market monthly, May 2016
6. HSBC (2016), Global Economics: The Great Escape
7. Bank for International Settlements, International banking and financial market
developments, Bis Quarterly Rreview, March 2016, June 2016.
8. IMF, “World Economic Outlook Update”, International Monetary Funds, Washington,
DC, April 2016.
9. World Bank, Global economic prospects, June 2016.
10. United Nations, World economic situation and prospects 2016, December 2015.
11. Nikkei. 2015, Purchasing Managers Index, Nikkei
12. Trang web các NHTW: www.federalreserve.gov, www.pbc.gov.cn,
www.ecb.europa.eu, www.boj.or.jp;
13. Trang web thống kê số liệu: www.bloomberg.com, www.tradingeconomics.com,
www.iif.com; www.eurostats.com, www.esri.cao.go.jp, www.marketeconomics.com,
www.global-rates.com, www.imf.org/data.