Upload
others
View
16
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
KHỐI ĐẦU TƯ
--
Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex
VP5 (18T1 - 18T2), Lê Văn Lương,
Trung Hòa - Nhân Chính, Hà Nội
Tháng 05/2017
Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất lần thứ 3 trong 6 tháng, dự kiến sẽ nâng lãi suất
một lần nữa trong năm 2017 và có kế hoạch giải tỏa số lượng lớn trái phiếu mua vào từ các
đợt nới lỏng định lượng. Kinh tế Mỹ chứng kiến một số tin tức trái chiều trong tháng 5 gồm
tăng trưởng GDP quý 1 đạt 1,2%, tăng cao hơn ước tính, lĩnh vực sản xuất tiếp tục mở rộng,
CPI giảm khi giá năng lượng giảm, niềm tin người tiêu dùng cải thiện nhẹ. Tuy nhiên, doanh
số bán lẻ bất ngờ giảm so với tháng trước và tỷ lệ thất nghiệp giảm chủ yếu do quy mô lực
lượng lao động thu hẹp.
Trong cuộc họp chính sách diễn ra đầu tháng 6, Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) cho
biết chưa có ý định tăng lãi suất trong thời gian tới và tiếp tục duy trì kích thích để thúc đẩy
tăng trưởng. Khu vực Châu Âu nhận nhiều tin tức tích cực khi tăng trưởng GDP quý 1 đạt
0,6% so với quý trước, cao hơn ước tính, lĩnh vực sản xuất tăng tốc lên mức cao nhất 73
tháng, niềm tin người tiêu dùng tăng tháng thứ 3 liên tiếp và tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục giảm.
Tuy nhiên, CPI tăng chậm lại do giá năng lượng giảm và doanh thu bán lẻ tăng thấp.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) đã quyết định giữ nguyên các mức lãi suất cũng như
quy mô mua vào trái phiếu Chính phủ ở ức 80 nghìn tỷ yen mỗi năm trong cuộc họp diễn ra
đầu tháng 6 vừa qua. Trong tháng, Nhật Bản đón nhận một số tin tức kinh tế trái chiều khi
GDP quý 1 tăng thấp hơn ước tính, chi tiêu tiêu dùng hộ gia đình giảm mạnh hơn tháng trước.
Tuy nhiên, hoạt động sản xuất mở rộng mạnh hơn dự báo, chỉ số giá tiêu dùng tăng tháng thứ
4 liên tiếp, doanh số bán lẻ tăng cao nhất 2 năm qua, niềm tin người tiêu dùng cải thiện và tỷ
lệ thất nghiệp ổn định.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBOC) cho biết dự trữ ngoại hối của nước này trong
tháng 5 tăng tháng thứ tư liên tiếp và mạnh hơn dự báo nhờ các biện pháp kiểm soát vốn và
đồng USD suy yếu đã giúp dòng ngoại tệ chạy ra nước ngoài giảm. Hoạt động sản xuất thu
hẹp lần đầu tiên trong 11 tháng, chỉ số giá tiêu dùng giảm so với tháng trước phản ánh nhu
cầu tiêu dùng yếu. Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp và doanh số bán lẻ được báo cáo vẫn giữ
được tốc độ tăng như tháng trước, thặng dư thương mại mở rộng dù thấp hơn dự kiến.
Kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng trong tháng 5 nhưng với tốc độ có phần chậm lại. Sản
xuất công nghiệp tăng thấp hơn so với tháng 4 và thấp hơn nhiều so với cùng kỳ 2016. Chỉ số
PMI tháng 5 cũng giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 1 năm qua cho thấy khu vực sản xuất
đang mở rông với tốc độ chậm lại. Nhìn chung, nếu không có những biện pháp hỗ trợ hiệu
quả, triển vọng tăng trưởng đạt 6,7% trong năm nay sẽ rất khó khăn.
BÁO CÁO TỔNG QUAN KINH TẾ VĨ MÔ
Tóm tắt nội dung
Những người thực hiện:
Xin vui lòng tham khảo Khuyến cáo sử
dụng ở trang cuối
Bùi Quỳnh Vân
Chuyên viên Phân tích
T: +(84 4) 6 281 1298 Ext: 243
Nguyễn Đức Hải
Trường phòng Nghiên cứu & Phân tích
T: +(84 4) 6 281 1298 Ext: 896
2
MỸ
GDP quý 1/2017 tăng cao hơn ước tính: Tăng trưởng kinh tế Mỹ trong quý 1 đạt 1,2% so
với quý trước, cao hơn so với ước tính lần đầu là 0,7%. Mặc dù vậy, đây vẫn là mức tăng
trưởng thấp nhất kể từ quý 1/2016, theo sau mức tăng 2,1% vào quý 4 năm ngoái. GDP quý 1
được báo cáo cao hơn so với ước tính là do chi tiêu tiêu dùng được điều chỉnh tăng lên dù hàng
tồn kho bị điều chỉnh giảm so với ước tính lần đầu.
Lĩnh vực sản xuất tăng trưởng mở rộng: Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) trong lĩnh vực
sản xuất tháng 5 đã tăng nhẹ lên mức 54,9 điểm từ mức 54,8 điểm của tháng trước, vượt ngoài
kỳ vọng của giới phân tích. Ngưỡng trên 50 điểm và tiếp tục tăng cho thấy ngành sản xuất Mỹ
đang tiếp tục mở rộng với tốc độ nhanh hơn.
CPI giảm khi giá năng lượng giảm: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5 giảm 0,1% trong
tháng 5 so với tháng trước chủ yếu do giá năng lượng giảm 2,7%, trái dự báo không đổi. Trong
tháng 4, CPI tăng 0,2% nhờ giá năng lượng tăng 1,1%. Nếu loại trừ năng lượng và thực phẩm,
CPI cơ bản tăng nhẹ 0,1% trong tháng 5, trùng với mức tăng của tháng 4, thấp hơn dự báo tăng
0,2%. So với cùng kỳ năm 2016, CPI tháng 5 tăng 1,9%, thấp hơn mức tăng 2,2% của tháng 4.
Doanh số bán lẻ bất ngờ giảm so với tháng trước: Doanh số bán lẻ tháng 5 bất ngờ giảm
0,3% so với tháng trước, sau khi tăng 0,4% vào tháng 4, trái dự báo tăng 0,1% của giới phân
tích. Doanh số bán lẻ giảm một phần do doanh số bán hàng ở các trạm xăng cũng như doanh
số hàng điện tử giảm lần lượt 2,4% và 2,8% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm trước,
doanh số bán lẻ tháng 5 tăng 3,8%.
Niềm tin người tiêu dùng cải thiện nhẹ: Niềm tin người tiêu dùng Mỹ cải thiện nhẹ trong
tháng 5 lên mức 97,1 điểm từ mức 97 điểm hồi tháng 4 và duy trì ở mức cao kể từ khi Trump
thắng cử. Mức điểm của tháng 5 đã gần bằng trung bình của giai đoạn từ tháng 12 đến nay.
Tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục giảm: Bất chấp tăng trưởng việc làm mới thấp hơn mong đợi, tỷ lệ
thất nghiệp tháng 5 tiếp tục giảm xuống mức 4,3% từ mức 4,4% của tháng 4, trái dự báo
không đổi của giới phân tích. Tỷ lệ thất nghiệp giảm chủ yếu phản ánh sự thu hẹp quy mô của
lực lượng lao động. Đây là mức thấp nhất của tỷ lệ thất nghiệp kể từ tháng 5/2001.
Fed tăng lãi suất lần thứ 3 trong 6 tháng, dự kiến sẽ nâng lãi suất một lần nữa trong năm
2017 và có kế hoạch giải tỏa số lượng lớn trái phiếu mua vào từ các đợt nới lỏng định
lượng: Kết thúc cuộc họp kéo dài 2 ngày vào giữa tháng 6, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed)
tuyên bố nâng lãi suất lần thứ 3 trong 6 tháng, duy trì dự báo lãi suất sẽ tăng thêm một lần nữa
từ nay đến cuối năm đồng thời đưa ra một số thông tin chi tiết hơn về kế hoạch thu hẹp bảng
cân đối kế toán hiện có quy mô lên tới 4.500 tỷ USD. Cụ thể, mức lãi suất liên bang (áp dụng
cho những khoản vay qua đêm giữa các ngân hàng) nằm trong khoảng 1 - 1,25%, tăng 0,25%
so với trước đó, đúng như kỳ vọng của giới phân tích. Về kế hoạch giải tỏa số tài sản khổng lồ
đã mua vào trong các đợt nới lỏng định lượng, Fed đưa ra lộ trình bán 6 tỷ USD trái phiếu kho
bạc và 4 tỷ USD trái phiếu có đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS) mỗi tháng. Đánh giá về
lạm phát, Fed cho rằng lạm phát được dự báo vẫn sẽ ở dưới mức mục tiêu 2% trong ngắn hạn
nhưng sẽ ổn định quanh mức 2% trong trung hạn.
Biểu đồ 2: PMI sản xuất (ISM)
Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất lần thứ 3 trong 6 tháng, dự kiến sẽ nâng lãi suất một
lần nữa trong năm 2017 và có kế hoạch giải tỏa số lượng lớn trái phiếu mua vào từ các đợt nới
lỏng định lượng. Kinh tế Mỹ chứng kiến một số tin tức trái chiều trong tháng 5 gồm tăng trưởng
GDP quý 1 đạt 1,2%, tăng cao hơn ước tính, lĩnh vực sản xuất tiếp tục mở rộng, CPI giảm khi
giá năng lượng giảm, niềm tin người tiêu dùng cải thiện nhẹ. Tuy nhiên, doanh số bán lẻ bất ngờ
giảm so với tháng trước và tỷ lệ thất nghiệp giảm chủ yếu do quy mô lực lượng lao động thu hẹp.
Biểu đồ 3: CPI mm
Biểu đồ 4: Niềm tin người tiêu dùng
Biểu đồ 5: Tỷ lệ thất nghiệp
Biểu đồ 1: GDP qq
2,0
2,6
2,0
0,9 0,8
1,4
3,5
2,1
1,2
0
1
2
3
4
3/15 6/15 9/15 12/15 3/16 6/16 9/16 12/16 3/17
%
54,9
47
49
51
53
55
57
59
05/15 11/15 05/16 11/16 05/17
-0,1%
-0,8%
-0,6%
-0,4%
-0,2%
0,0%
0,2%
0,4%
0,6%
0,8%
5/14 8/14 11/14 2/15 5/15 8/15 11/15 2/16 5/16 8/16 11/16 2/17 5/17
97,1
86
88
90
92
94
96
98
100
5/15 7/15 9/15 11/15 1/16 3/16 5/16 7/16 9/16 11/16 1/17 3/17 5/17
4,3
4,0
4,2
4,4
4,6
4,8
5,0
5,2
5,4
5,6
5/15 11/15 5/16 11/16 5/17
%
3
CHÂU ÂU
GDP quý 1 tăng mạnh hơn ước tính: Tăng trưởng kinh tế quý 1 cao hơn ước tính nhờ tiêu
dùng nội địa tăng. GDP quý 1 tăng 0,6% so với quý trước, cao hơn mức tăng 0,5% theo ước
tính trước đó và mức tăng 0,5% của quý 4 năm ngoái. So với cùng kỳ năm trước, GDP quý 1
tăng 1,9%, cao hơn mức ước tính tăng 1,7% và cao hơn mức tăng 1,8% của quý trước đó.
Lĩnh vực sản xuất tăng tốc: Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất tăng lên
mức cao nhất 73 tháng và đạt 57 điểm trong tháng 5 từ mức 56,7 điểm của tháng 4, trùng dự
báo. Đây là tháng thứ 47 liên tiếp ngành sản xuất liên tiếp mở rộng. Tăng trưởng sản lượng và
số đơn hàng mới tăng nhanh nhất từng thấy trong 6 năm qua vào tháng 5.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5 tăng chậm lại do giá năng lượng giảm: Chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tháng 5 tăng chậm hơn dự báo củng cố thêm niềm tin rằng ECB sẽ tiếp tục duy trì chính
sách kích thích tiền tệ. CPI giảm còn +1,4% so với cùng kỳ năm ngoái, từ mức +1,9% của
tháng trước. Giá năng lượng tháng 5 chỉ tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức
tăng 7,6% của tháng 4. CPI cơ bản sau khi loại trừ năng lượng, thực phẩm, thuốc lá và đồ uống
có cồn chỉ tăng 0,9% từ mức 1,2% của tháng 4. So với tháng trước, CPI tháng 5 giảm 0,1%.
Doanh thu bán lẻ tăng thấp hơn tháng trước: Doanh thu hoạt động bán lẻ hàng hóa và dịch
vụ tháng 4 tăng nhẹ 0,1% so với tháng trước, thấp hơn so với mức tăng 0,2% của tháng 3 và
thấp hơn kỳ vọng của giới phân tích. So với cùng kỳ 2016, doanh thu bán lẻ của khu vực đồng
tiền chung Euro vẫn tăng 2,5%.
Niềm tin người tiêu dùng tăng tháng thứ 3 liên tiếp: Niềm tin người tiêu dùng Eurozone
tăng tháng thứ 3 liên tiếp trong tháng 5 lên mức cao nhất gần một thập kỷ qua. Chỉ số niềm tin
người tiêu dùng sơ bộ tháng 5 tăng lên mức -3,3 điểm từ mức -3,6 điểm hồi tháng 4, các
chuyên gia kinh tế dự báo chỉ số này sẽ tăng lên mức -3 điểm.
Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 3/2009: Tỷ lệ thất nghiệp khu vực
tháng 4 sau điều chỉnh giảm xuống mức 9,3% từ mức 9,4% của tháng 3, mức thấp nhất hơn 8
năm qua.
ECB chưa có ý định tăng lãi suất trong thời gian tới và tiếp tục duy trì kích thích để thúc
đẩy tăng trưởng: Sau cuộc họp về chính sách tiền tệ đầu tháng 6, Ngân hàng Trung ương
Châu Âu (ECB) cho biết cơ quan này sẽ giữ nguyên các lãi suất cho vay ở mức thấp kỷ lục,
đồng thời tuyên bố chưa có ý định tăng lãi suất trong những tháng tới. Cụ thể, ECB cho biết
duy trì mức lãi suất tái cấp vốn 0%, giữ lãi suất cho vay ở mức 0,25% và lãi suất tiền gửi là âm
0,4%. ECB cũng thông báo giữ nguyên các kế hoạch mua trái phiếu chính phủ và doanh
nghiệp trị giá 60 tỷ euro mỗi tháng cho đến tháng 12 tới trong khuôn khổ chương trình nới
lỏng định lượng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bình luận sau cuộc họp của ECB, ông Mario
Draghi, Chủ tịch ECB cho biết ECB thậm chí còn sẵn sàng tăng quy mô mua trái phiếu nếu
cần thiết, mặc dù rủi ro đối với triển vọng kinh tế của Châu Âu đã cân bằng và ECB nâng nhẹ
dự báo tăng trưởng kinh tế trong các năm tới.
Biểu đồ 6: PMI sản xuất
Trong cuộc họp chính sách diễn ra đầu tháng 6, Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) cho biết
chưa có ý định tăng lãi suất trong thời gian tới và tiếp tục duy trì kích thích để thúc đẩy tăng
trưởng. Khu vực Châu Âu nhận nhiều tin tức tích cực khi tăng trưởng GDP quý 1 đạt 0,6% so với
quý trước, cao hơn ước tính, lĩnh vực sản xuất tăng tốc lên mức cao nhất 73 tháng, niềm tin
người tiêu dùng tăng tháng thứ 3 liên tiếp và tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục giảm. Tuy nhiên, CPI tăng
chậm lại do giá năng lượng giảm và doanh thu bán lẻ tăng thấp.
Biểu đồ 8: Doanh số bán lẻ mm
Biểu đồ 7: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) yy
Biểu đồ 9: Tỷ lệ thất nghiệp
Biểu đồ 5: GDP qq
0,8
0,4
0,3
0,4
0,5
0,3
0,4
0,5
0,6
0,0
0,1
0,2
0,3
0,4
0,5
0,6
0,7
0,8
0,9
3/15 6/15 9/15 12/15 3/16 6/16 9/16 12/16 3/17
%
57,0
50
51
52
53
54
55
56
57
58
05/15 08/15 11/15 02/16 05/16 08/16 11/16 02/17 05/17
1,4%
-1,0%
-0,5%
0,0%
0,5%
1,0%
1,5%
2,0%
2,5%
3,0%
3,5%
4,0%
4/15 10/15 4/16 10/16 4/17
0,1%
-1,0%
-0,5%
0,0%
0,5%
1,0%
1,5%
04/14 04/15 04/16 04/17
9,3
9,0
9,5
10,0
10,5
11,0
11,5
12,0
12,5
04/12 10/12 04/13 10/13 04/14 10/14 04/15 10/15 04/16 10/16 04/17
%
4
NHẬT BẢN
GDP quý 1 tăng thấp hơn ước tính: Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội quý 1/2017 sau khi
điều chỉnh chỉ tăng 0,3% so với quý trước, thấp hơn so với con số công bố lần đầu là 0,5% và
thấp hơn nhiều so với kỳ vọng là 0,6%. Nếu so với cùng kỳ năm trước, kinh tế Nhật chỉ tăng
trưởng 1%, thấp hơn nhiều so với mức 2,2% theo ước tính lần đầu.
Hoạt động sản xuất mở rộng mạnh hơn tháng trước: Chỉ số nhà quản trị mua hàng trong
lĩnh vực sản xuất của Nhật Bản (PMI) tháng 5 tăng lên mức 53,1 điểm từ mức 52,7 điểm của
tháng trước, cao hơn kỳ vọng sẽ tăng lên 52,9 điểm. Sản lượng sản xuất và số đơn đặt hàng
mới đều tăng với tốc độ mạnh hơn tháng trước.
Sản xuất công nghiệp mở rộng như dự báo: Sản lượng công nghiệp tháng 4 tăng 4% so với
tháng trước, đúng như dự báo, sau khi giảm 1,9% vào tháng 3. So với cùng kỳ năm trước, sản
lượng công nghiệp tháng 4 tăng 5,7%.
Chỉ số giá tiêu dùng tăng tháng thứ 4 liên tiếp: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã tăng tháng thứ
4 liên tiếp trong tháng 4, dù tốc độ tăng có thấp hơn so với kỳ vọng. Cụ thể, CPI so với cùng
kỳ năm trước đã tăng 0,3% trong tháng 4, tiếp sau mức tăng 0,2% của tháng trước nhưng thấp
hơn chút so với kỳ vọng sẽ tăng 0,4% của giới phân tích. Nếu loại trừ giá lương thực thực
phẩm và giá nhiên liệu, CPI cơ bản tháng 4 vẫn tăng 0,1% sau khi giảm 0,1% vào tháng trước.
Doanh số bán lẻ đạt tốc độ tăng cao nhất 2 năm qua: Doanh số bán lẻ tháng 4/2017 đã đạt
tốc độ tăng trưởng cao nhất trong vòng 2 năm qua và ghi nhận chuỗi tăng trưởng 6 tháng liên
tiếp, cho thấy chi tiêu tiêu dùng của người dân đã phục hồi vững chắc sau hơn 1 năm suy
giảm. Cụ thể, doanh số bán lẻ tháng 4 đã tăng trưởng 3,2% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn
nhiều so với mức tăng 2,1% của tháng trước và vượt ngoài kỳ vọng sẽ tăng 2,2%.
Chi tiêu hộ gia đình giảm mạnh hơn tháng trước và dự báo: Chi tiêu hộ gia đình trung
bình tháng 4 giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước, giảm mạnh hơn mức giảm 1,3% của tháng
3 và mức giảm dự báo 0,9% của các chuyên gia kinh tế.
Tỷ lệ thất nghiệp ổn định: Tỷ lệ thất nghiệp sau khi điều chỉnh yếu tố mùa vụ trong tháng 4
đứng ở mức 2,8%, mức thấp nhất kể từ tháng 6/1994, trùng dự báo của các chuyên gia và
không đổi so với tháng trước đó.
Niềm tin người tiêu dùng cải thiện: Chỉ số niềm tin người tiêu dùng tháng 5 cải thiện lên
mức 43,6 điểm từ mức 43,2 điểm hồi tháng 4, cao hơn mức dự báo tăng lên 43,5 điểm.
BOJ giữ nguyên chính sách tiền tệ, nâng dự báo chi tiêu tiêu dùng: Ngân hàng trung ương
Nhật Bản (BOJ) vẫn tiếp tục giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức –0,1% và duy trì quy mô mua
trái phiếu Chính phủ Nhật hàng năm ở mức 80 nghìn tỷ yen trong cuộc họp chính sách đầu
tháng 6. Bên cạnh đó, BOJ nhận định kinh tế Nhật đang bước sang giai đoạn mở rộng tương
đối, tăng trưởng kinh tế sẽ diễn ra vừa phải và chi tiêu tiêu dùng tư nhân phản ánh nhu cầu nội
địa của cả khối doanh nghiệp và hộ gia đình đều có xu hướng gia tăng.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) đã quyết định giữ nguyên các mức lãi suất cũng như quy
mô mua vào trái phiếu Chính phủ ở ức 80 nghìn tỷ yen mỗi năm trong cuộc họp diễn ra đầu tháng
6 vừa qua. Trong tháng, Nhật Bản đón nhận một số tin tức kinh tế trái chiều khi GDP quý 1 tăng
thấp hơn ước tính, chi tiêu tiêu dùng hộ gia đình giảm mạnh hơn tháng trước. Tuy nhiên, hoạt
động sản xuất mở rộng mạnh hơn dự báo, chỉ số giá tiêu dùng tăng tháng thứ 4 liên tiếp, doanh số
bán lẻ tăng cao nhất 2 năm qua, niềm tin người tiêu dùng cải thiện và tỷ lệ thất nghiệp ổn định.
Biểu đồ 11: Chỉ số giá tiêu dùng yy
Biểu đồ 13: Chi tiêu hộ gia đình yy
Biểu đồ 10: Doanh thu bán lẻ yy
Biểu đồ 12: Niềm tin người tiêu dùng
Biểu đồ 9: GDP yy
4,7
-0,3
0,7
-1,0
2,5
1,6
1,01,4
1,0
-2
-1
0
1
2
3
4
5
3/15 6/15 9/15 12/15 3/16 6/16 9/16 12/16 3/17
%
3,2%
-3%
-2%
-1%
0%
1%
2%
3%
4%
5%
6%
0,4
-0,6
-0,4
-0,2
0,0
0,2
0,4
0,6
0,8
04/15 10/15 04/16 10/16 04/17
%
43,9
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
05/12 05/13 05/14 05/15 05/16 05/17
-1,4%
-6%
-4%
-2%
0%
2%
4%
6%
5
TRUNG QUỐC
Lĩnh vực sản xuất thu hẹp lần đầu tiên trong gần 1 năm: Lĩnh vực sản xuất tháng 5 thu hẹp
khi chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) giảm xuống mức 49,6 diểm từ mức 50,3 điểm hồi
tháng 4, đây là lần đầu tiên PMI sản xuất giảm xuống dưới ngưỡng 50 điểm đánh dấu thu hẹp/
mở rộng trong 11 tháng qua. Các nhà sản xuất vẫn báo cáo sản lượng tiếp tục tăng trong tháng
năm nhưng tốc độ mở rộng là yếu nhất 11 tháng qua, số đơn đặt hàng mới cũng tăng chậm
nhất kể từ đợt phục hồi tháng 7/2016.
Chỉ số giá tiêu dùng giảm so với tháng trước: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5 tăng 1,5%
so với cùng kỳ năm trước, đúng như kỳ vọng của giới phân tích, cao hơn mức tăng 1,2% của
tháng 4. Nếu so với tháng trước thì chỉ số giá tháng 5 đã giảm gần 0,1%. Như vậy, chỉ số giá
tiêu dùng của Trung Quốc đã giảm dần trong các tháng gần đây phần nào phản ánh nhu cầu
tiêu dùng yếu, dù Chính phủ đã rất thận trọng trong việc áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ.
Sản xuất công nghiệp tăng như tháng trước: Sản xuất công nghiệp tháng 5 chỉ tăng 6,5% so
với cùng kỳ năm trước, bằng mức tăng của tháng 4 và cao hơn mức tăng dự báo 6,4% của các
chuyên gia kinh tế.
Doanh số bán lẻ tăng như dự báo: Doanh số bán lẻ tháng 5 cũng chỉ tăng 10,7% so với cùng
kỳ năm trước, bằng hơn mức tăng của tháng 4 và trùng dự báo của các chuyên gia.
Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu tăng mạnh hơn kỳ vọng, thặng dư thương mại mở
rộng: Kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa tháng 5 đều tăng cao hơn kỳ vọng khi xuất
khẩu tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước nhờ nhu cầu từ nước ngoài tăng mạnh, nhập khẩu
tăng 14,8%, cao hơn dự báo tăng 7,2% và 8,3% của các chuyên gia kinh tế. Theo đó, thặng dư
thương mại tháng 5 tăng lên mức 40,8 tỷ USD từ mức 38 tỷ USD của tháng 4 nhưng thấp hơn
kỳ vọng tăng lên 47,8 tỷ USD của các chuyên gia. Chuyên gia kinh tế của Capital Economics
cho rằng tốc độ tăng nhập khẩu trên sẽ không bền vững nếu tăng trưởng tín dụng chậm lại tác
động đến hoạt động kinh tế yếu đi trong các quý tới, trong khi đó tốc độ tăng xuất khẩu có thể
chậm lại trong thời gian tới nhưng vẫn tốt hơn nhập khẩu.
Dự trữ ngoại hối tăng tháng thứ 4 liên tiếp: Theo báo cáo của Ngân hàng trung ương Trung
Quốc (PBOC), dự trữ ngoại hối của nước này trong tháng 5 tăng tháng thứ tư liên tiếp và mạnh
hơn dự báo nhờ các biện pháp kiểm soát vốn và đồng USD suy yếu đã giúp dòng ngoại tệ chạy
ra nước ngoài giảm. Theo đó, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã tăng 24 tỷ USD trong tháng
5 lên đỉnh 7 tháng là 3.054 tỷ USD, so với mức tăng 21 tỷ USD trong tháng 4. Đây là lần đầu
tiên kể từ tháng 6/2014, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc có 4 tháng tăng liên tục và là mức
tăng mạnh nhất kể từ khi kho dự trữ quay trở lại trên mốc 3.000 tỷ USD kể từ tháng 2/2017.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBOC) cho biết dự trữ ngoại hối của nước này trong
tháng 5 tăng tháng thứ tư liên tiếp và mạnh hơn dự báo nhờ các biện pháp kiểm soát vốn và
đồng USD suy yếu đã giúp dòng ngoại tệ chạy ra nước ngoài giảm. Hoạt động sản xuất thu
hẹp lần đầu tiên trong 11 tháng, chỉ số giá tiêu dùng giảm so với tháng trước phản ánh nhu
cầu tiêu dùng yếu. Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp và doanh số bán lẻ được báo cáo vẫn giữ
được tốc độ tăng như tháng trước, thặng dư thương mại mở rộng dù thấp hơn dự kiến.
Biểu đồ 17: Cán cân thương mại
Biểu đồ 15: CPI yy
Biểu đồ 16: Sản lượng CN & bán lẻ yy
Biểu đồ 14: PMI sản xuất
Biểu đồ 14: GDP yy
6,90
6,0
6,5
7,0
7,5
8,0
3/14 9/14 3/15 9/15 3/16 9/16 3/17
%
49,6
47
48
49
50
51
52
53
1,5
0,0
0,5
1,0
1,5
2,0
2,5
3,0
05/15 11/15 05/16 11/16 05/17
%
10,7
6,5
0
2
4
6
8
10
12
5/16 6/16 7/16 8/16 9/16 10/1611/1612/16 1/17 2/17 3/17 4/17 5/17
%
Doanh số bán lẻ yy Sản lượng công nghiệp yy
8,7%
-40%
-20%
0%
20%
-20
-10
0
10
20
30
40
50
60
70
tỷ U
SD
Cán cân thương mại Xuất khẩu yy
VIỆT NAM - SẢN XUẤT, TIÊU DÙNG
Sản xuất công nghiệp tháng 5 giảm nhẹ so với tháng 4: Chỉ số sản xuất toàn ngành công
nghiệp tháng 5 tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước, giảm nhẹ từ mức 7,4% của tháng 4 nhưng
vẫn cao hơn mức tăng 5,5% của tháng 3. Tính chung 5 tháng đầu năm 2017, chỉ số sản
xuất toàn ngành công nghiệp tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức 5,1% của
tháng 4 nhưng thấp hơn nhiều mức tăng 7,4% của cùng kỳ năm 2016. Trong các ngành công
nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,7%, đóng góp 6,9 điểm phần trăm vào mức tăng chung;
ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10,4%, đóng góp 0,7 điểm phần trăm; ngành cung cấp
nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai
khoáng giảm 9,1%, làm giảm 2 điểm phần trăm mức tăng chung.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 4/2017 giảm 0,9% so với
tháng trước và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước tăng (tháng 3 tăng 15,1% so với tháng
trước và tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước). Tính chung 4 tháng đầu năm nay, chỉ số tiêu
thụ ngành chế biến, chế tạo tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2016 tăng
9,3%) (tháng 3 tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2016 tăng 10,2%), trong đó
các ngành có chỉ số tiêu thụ tăng khá: Sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 16,4%; sản xuất
xe có động cơ tăng 13,2%; sản xuất kim loại tăng 12,1%; sản xuất đồ uống tăng 9%; sản xuất
da và các sản phẩm có liên quan tăng 8,9%. .
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/5/2017 tăng 11%
so với cùng thời điểm năm trước (cùng kỳ năm 2016 tăng 8,7%), trong đó một số ngành tăng
thấp hoặc giảm: sản xuất trang phục giảm 0,3%; sản xuất, chế biến thực phẩm giảm 1,9%; sản
xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 5,6%; sản xuất thuốc lá giảm 16,3%; sản xuất
phương tiện vận tải khác giảm 43,1% .
Chỉ số nhà quản trị mua hàng Purchasing Managers’ Index (PMI) tháng 5/2017 đã giảm
từ 54,1 điểm của tháng trước xuống 51,6 điểm trong tháng 5. Mặc dù chỉ số tiếp tục cho thấy
các điều kiện kinh doanh đã cải thiện trong lĩnh vực sản xuất nhưng tốc độ cải thiện là yếu
nhất kể từ tháng 3/2016. Cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều tăng chậm hơn nhiều,
trong khi tốc độ tạo thêm việc làm cũng giảm. Trong khi đó, mức độ lạc quan đã giảm về mức
thấp nhất trong gần bốn năm.
Tổng mức bán lẻ
c (tháng 4 đạt
ng ước
tính đạt 1.600,8 nghìn tỷ đồng, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá
tăng 7,4% (cùng kỳ năm 2016 tăng 7,9%).
Kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng trong tháng 5 nhưng với tốc độ có phần chậm lại. Sản
xuất công nghiệp tăng thấp hơn so với tháng 4 và thấp hơn nhiều so với cùng kỳ 2016. Chỉ số
PMI tháng 5 cũng giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 1 năm qua cho thấy khu vực sản xuất
đang mở rông với tốc độ chậm lại. Nhìn chung, nếu không có những biện pháp hỗ trợ hiệu
quả, triển vọng tăng trưởng đạt 6,7% trong năm nay sẽ rất khó khăn.
Biểu đồ 20: Chỉ số sản xuất IIP
Biểu đồ 23: Tăng trưởng bán lẻ yoy
Biểu đồ 22: PMI sản xuất
Biểu đồ 21: Chỉ số tồn kho CN chế biến
Biểu đồ 19: Tăng trưởng GDP (q/q-4)
6.03%6.28%
6.50% 6.68%
5.48%5.78% 5.93%
6.21%
5.10%
.00%
1.00%
2.00%
3.00%
4.00%
5.00%
6.00%
7.00%
8.00%
03/15 06/15 09/15 12/15 03/16 06/16 09/16 12/16 03/17
50.7
52.352.7 52.6
51.9
52.2 52.9
51.7
54
52.451.9
54.254.6
54.1
51.6
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
03/16 05/16 07/16 09/16 11/16 01/17 03/17 05/17
Chỉ số PMI sản xuất
7.80% 7.40% 7.20% 7.30% 7.20% 7.00% 7.20%8.30%
0.70%
3.30%
5.50%
7.37% 7.25%
2.40%
1.10%2.10%
0.80%
3.40%
6.00%
2.00%
4.70%
-6.20%
-2.10%
12.50%
-0.83%
1.69%
-10%
-5%
0%
5%
10%
15%
05/16 06/16 07/16 08/16 09/16 10/16 11/16 12/16 01/17 02/17 03/17 04/17 05/17
YoY
MoM
9.20% 8.90% 9.00% 8.90% 8.80%8.10% 8.30%
13.30%
12.50%12.70%
11.02%
4.90%
1.20%
2.40%2.90% 2.60%
2.00%
2.80%
0.70%
3.30%
4.15%
4.91%
0%
2%
4%
6%
8%
10%
12%
14%
06/16 07/16 08/16 09/16 10/16 11/16 12/16 01/17 02/17 03/17 04/17
YoY
MoM
13,06%
0%
2%
4%
6%
8%
10%
12%
14%
16%
18%
20%
05/14 08/14 11/14 02/15 05/15 08/15 11/15 02/16 05/16 08/16 11/16 02/17 05/17
VIỆT NAM - XUẤT NHẬP KHẨU
Kim ngạch xuất khẩu 5 tháng đầu năm tăng 18,4% so với cùng kỳ: Trong đó, xuất khẩu
trong tháng 5/2017 đạt 17,93 tỷ USD, tăng 2,3% so với tháng trước, đưa kim ngạch xuất khẩu
5 tháng/2017 đạt gần 79,98 tỷ USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng
16,8% của 4 tháng đầu năm. Xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI trong tháng 5/2017 đạt gần
12,73 tỷ USD, tăng 0,5% so với tháng trước, đưa xuất khẩu của khối này trong 5 tháng/2017
đạt gần 56,66 tỷ USD, tăng 20%, tương ứng tăng hơn 9,45 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch nhập khẩu 5 tháng đầu năm tăng 24,7% so với cùng kỳ. Nhập khẩu trong
tháng 5/2017 đạt gần 18,46 tỷ USD, tăng 6,4% so với tháng trước, qua đó đưa kim ngạch nhập
khẩu 5 tháng/2017 đạt 82,47 tỷ USD, tăng 24,7% so với cùng kỳ năm 2016. Nhập khẩu của
khối doanh nghiệp FDI trong tháng đạt 11,13 tỷ USD, tăng 3,1% so với tháng trước, đưa kim
ngạch nhập khẩu của khối này trong 5 tháng/2017 đạt hơn 49,84 tỷ USD, tăng 28,1%, tương
ứng tăng gần 10,94 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước.
Như vậy, cán cân thương mại thực hiện tháng 4 xuất siêu 186 triệu USD, tháng 5 nhập
siêu 528 triệu USD. Tính chung 5 tháng đầu năm 2017 nhập siêu trên 2,5 tỷ USD, bằng 3,1%
tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 9,31 tỷ
USD, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 6,81 tỷ USD.
Thị trường xuất khẩu: Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim
ngạch đạt 16 tỷ USD, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là EU đạt 14,6 tỷ USD,
tăng 9,5%; Trung Quốc đạt 10,5 tỷ USD, tăng 40,3%; ASEAN đạt 8,6 tỷ USD, tăng 26%;
Nhật Bản đạt 6,4 tỷ USD, tăng 16,6%; Hàn Quốc đạt 5,7 tỷ USD, tăng 34,4%.
Thị trường nhập khẩu: Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với
kim ngạch đạt 22 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2016; tiếp đến là Hàn Quốc đạt
18,6 tỷ USD, tăng 51,9%; ASEAN đạt 11,1 tỷ USD, tăng 16,6%; Nhật Bản đạt 6,5 tỷ USD,
tăng 15,5%; EU đạt 4,6 tỷ USD, tăng 13,9%; Hoa Kỳ đạt 3,8 tỷ USD, tăng 22%.
Cán cân thương mại hàng hóa tháng 5 thâm hụt 528 triệu USD, đưa cán cân của cả nước 5
tháng đầu năm 2017 thâm hụt gần 2,5 tỷ USD. Cán cân thương mại hàng hóa của khối doanh
nghiệp FDI trong tháng 5/2017 đạt mức thặng dư 1,6 tỷ USD, đưa thặng dư của khối này
trong 5 tháng/2017 đạt hơn 6,81 tỷ USD.
Biểu đồ 24: Xuất Nhập khẩu
Biểu đồ 25: XNK Khu vực FDI
Biểu đồ 26: Xuất dầu thô - Nhập xăng dầu
Biểu đồ 27: Xuất khẩu theo khu vực Biểu đồ 28: Xuất nhập khẩu tích lũy Biểu đồ 29: Cơ cấu xuất siêu
17,9318,46
-0,53
-5
0
5
10
15
20
Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu ròng
tỷ USD
00
01
01
02
02
03
0
2
4
6
8
10
12
14
08/13 01/14 06/14 11/14 04/15 09/15 02/16 07/16 12/16 05/17
Xuất siêu Xuất khẩu Nhập khẩu
tỷ USD
0,27
0,95
0,0
0,2
0,4
0,6
0,8
1,0
1,2
1,4
05/13 11/13 05/14 11/14 05/15 11/15 05/16 11/16 05/17
Xuất dầu thô Nhập xăng dầu
tỷ USD
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18KV trong nước FDI
tỷ USD
14,08%
15,6%
-2%
0%
2%
4%
6%
8%
10%
12%
14%
16%
18%
07/1
4
09/1
4
11/1
4
01/1
5
03/1
5
05/1
5
07/1
5
09/1
5
11/1
5
01/1
6
03/1
6
05/1
6
07/1
6
09/1
6
11/1
6
01/1
7
03/1
7
05/1
7
XK yy tích lũy
NK yy tích lũy 1,60
-2,13-03
-02
-01
00
01
02
03
tỷ USDXuất siêu của khu vực trong nước
Xuất siêu của khu vực FDI
8
VIỆT NAM - FDI, ODA, KIỀU HỐI
Tính chung trong 5 tháng năm 2017, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn, mua
cổ phần là 12,13 tỷ USD, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm 2016.
Tính đến ngày 20/5/2017, cả nước có 939 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với
tổng vốn đăng ký là 5,59 tỷ USD, bằng 73,9% so với cùng kỳ năm 2016; Có 437 lượt dự án
đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 4,74 tỷ USD, tăng 83% so
với cùng kỳ và 2.061 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị
góp vốn là 1,79 tỷ USD, tăng 116,2% so với cùng kỳ.
Ước tính đến ngày 20/5/2017, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 6,15 tỷ
USD, tăng 6% so với cùng kỳ năm 2016. .
Biểu đồ 32: Vốn FDI theo tháng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2017 giảm 0,53% so với tháng trước, tăng 0,37% so với
tháng 12/2016 và tăng 3,19% so với cùng kỳ năm trước; CPI tháng 5 giảm chủ yếu do giá
thịt lợn giảm mạnh, yếu tố được xem là sẽ không tiếp tục ảnh hưởng trong các tháng tới.
Bình quân 5 tháng đầu năm 2017 tăng 4,47%so với bình quân cùng kỳ năm 2016, thấp hơn
mức bình quân 4,8% của 4 tháng/2017.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) từ đầu năm đến tháng 5/2017 thu hút được 12,13 tỷ
USD, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm 2016. FDI giải ngân tính đến 20/5 đạt 6,15 tỷ USD,
tăng 6% so cùng kỳ.
VIỆT NAM - CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2017 giảm 0,53% so với tháng trước, tăng 0,37% so với
tháng 12/2016 và tăng 3,19% so với cùng kỳ năm trước (Tháng 4 tăng 4,30% so với cùng kỳ
năm trước ; tăng 0,90% so với tháng 12/2016). Bình quân 5 tháng đầu năm 2017 tăng 4,47%
so với bình quân cùng kỳ năm 2016, thấp hơn mức bình quân 4,8% của 4 tháng/2017.
Trong đó, có 4/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có CPI tháng 5 giảm so với tháng trước, trong đó
nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,43% (lương thực giảm 0,06%; thực phẩm giảm
2,27% do giá thịt tươi sống giảm, tác động làm CPI giảm 0,51%; giao thông giảm
0,34% do điều chỉnh giảm giá xăng, dầu .
Lạm phát cơ bản tháng 5/2017 tăng 0,08% so với tháng trước và tăng 1,33% so với cùng kỳ
năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 5 tháng đầu năm 2017 tăng 1,56% so với bình quân
cùng kỳ năm 2016.
Biểu đồ 30: Chỉ số giá tiêu dùng
Biểu đồ 31: Đóng góp của 1 số mặt hàng vào
mức tăng CPI chung
Biểu đồ 32: Vốn FDI đăng ký và thực hiện
theo tháng
4,65%
0,21%-0,6%
-0,4%
-0,2%
0,0%
0,2%
0,4%
0,6%
0,8%
1,0%
-1%
0%
1%
2%
3%
4%
5%
6%
Ytd YoY MoM
CPI
-0,53%-0,8%
-0,6%
-0,4%
-0,2%
0,0%
0,2%
0,4%
0,6%
0,8%
1,0%Giao thông Nhà ở, VLXD
Hàng ăn và dịch vụ ăn uống MoM
0,0
0,5
1,0
1,5
2,0
2,5
3,0
3,5
4,0
4,5
5,0
05/15 11/15 05/16 11/16 05/17
Vốn đăng ký và bổ sung Vốn thực hiệnTỷUSD
Mọi chi tiết và câu hỏi liên quan đến bản tin này xin vui lòng liên hệ:
Phòng Nghiên cứu và Phân tích
Khối Dịch vụ Ngân hàng Đầu tư
Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex
Tầng 24, Tòa nhà Mipec, 229 phố Tây Sơn, Quận Đống Đa, Hà Nội.
Tel : +(84 4) 6 281 1298 Ext: 243, 247, 390 Fax: +(84 4) 6 281 1299
Email: [email protected] Website: www.pgbank.com.vn
Blog: pgbankresearch.wordpress.com
Thông tin liên hệ
Khuyến cáo sử dụng
Những thông tin được cung cấp trên đây do Phòng Nghiên cứu và Phân tích - Khối Đầu tư - PG Bank
thu thập từ các nguồn được coi là đáng tin cậy. Việc cung cấp các thông tin này chỉ phục vụ mục đích
tham khảo. PG Bank không chịu bất kỳ trách nhiệm nào về những hậu quả có thể gây ra do việc sử
dụng thông tin của bài viết. Các thông tin trên có thể thay đổi theo diễn biến của thị trường và PG
Bank không có trách nhiệm phải thông báo về những thay đổi này.