Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
| 421
ĐẶC ĐIỂM XÃ HỘI VÙNG VEN HỒ TÂYTRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Ths Phạm Thị Thương Thương
Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, ĐHQGHN
Lấy Hồ Tây làm trung tâm, khái niệm “vùng ven hồ” được hiểu là
những đơn vị hành chính nằm sát cạnh Hồ Tây và gián cách với Hồ Tây,
chịu ảnh hưởng của mặt nước Hồ Tây trong sản xuất và đời sống. Gọi
theo tên làng thì hiện nay ven hồ có 13 làng: Chỏm đỉnh Bắc là làng Nhật
Tân; theo bờ phía Đông là làng Quảng Bá, Tây Hồ, Nghi Tàm, Yên Phụ; bờ
Nam là các làng Thụy Khuê, Đông Xã, An Thọ, Yên Thái; bờ Tây là làng
Vệ Hồ, Trích Sài, Võng Thị. Tất cả những làng này hiện nay thuộc quận
Tây Hồ.
Nằm kề sát ngay bên bờ Hồ Tây có 13 làng như đã nói ở trên. Song
nói đến Hồ Tây thì cũng không thể không nói đến một vùng đất gián cách
với hồ nhưng vẫn được coi là thuộc quần thể vùng Hồ Tây, đó là vùng
Bưởi. Vùng Bưởi được dùng để chỉ chung một khu vực có tới gần chục
làng trải dọc phía Tây Nam Hồ Tây: Đông Xã, An Thọ, Trung Nha, Tiên
Thượng, Vạn Long, An Phú, Bái Ân, Võng Thị, Trích Sài. Những làng này
do có quan hệ mật thiết với mặt nước Hồ Tây (trong nghề thủ công truyền
thống) nên chúng tôi sẽ khảo cứu trong phạm vi nghiên cứu. Tương tự
như vậy, khi nói đến vùng ven Hồ Tây không thể không nói đến Ngũ Xã,
Phú Gia, Phú Xá và Phú Thượng.
Trước năm 1996, phần lớn những làng trên thuộc 6 xã trong số hơn
20 xã của huyện Từ Liêm và 4 phường của quận Ba Đình. Ngày 28 tháng
10 năm 1995, theo Nghị định số 69/CP của Thủ tướng Chính phủ về việc
thành lập quận Tây Hồ thì từ đó đến nay về mặt hành chính những làng
trên phần lớn thuộc 8 phường của quận Tây Hồ. Còn lại thuộc quận Ba
422 |
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
Đình và Cầu Giấy. Cụ thể, đó là các phường: Quảng An, Tứ Liên, Phú
Thượng, Nhật Tân, Xuân La, Yên Phụ, Bưởi, Thụy Khuê (quận Tây Hồ);
Trúc Bạch (quận Ba Đình); Nghĩa Đô (quận Cầu Giấy).
Một số địa danh của các làng thuộc vùng ven Hồ Tây trong lịch sử
cũng đã có nhiều lần thay đổi. Chẳng hạn như: Nhật Tân trước đây gọi là
Nhật Chiêu1; Yên Phụ trước đây gọi là Yên Hoa2; Thụy Khuê trước đây gọi
là Thụy Chương.
1. Dân cư và lao động
Trước năm 1954, tỷ lệ gia tăng dân số ở Hà Nội lớn, trung bình hàng
năm tăng 4,7%. Thời kỳ 10 năm từ 1918 - 1928 dân số tăng trung bình
6,2% năm. Ngày 20/4/1961 tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá II đã ra quyết
định mở rộng thành phố Hà Nội bằng việc sáp nhập một số xã, thị trấn
của các tỉnh Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hưng Yên. Đây là lý do
khiến cho dân số Hà Nội giai đoạn 1954 - 1979 gia tăng nhanh chóng.
Tuy nhiên, vào giai đoạn này, do chính sách nhập cư, đăng ký hộ khẩu,
quản lý nhân khẩu được kiểm soát thực hiện chặt chẽ nên số người nhập
cư vào Hà Nội rất hạn chế. Dân số Hà Nội năm 1989 là 3.004.900 người3,
giai đoạn 1979-1989 là thời điểm dân số Hà Nội lớn nhất. Đây cũng là giai
đoạn một số địa bàn có mức gia tăng dân số cao do phát triển các khu dân
cư mới như Trung Liệt, Trung Tự, Láng Hạ... Cũng trong giai đoạn này, ở
Hà Nội đã xuất hiện hiện tượng di dân và nhập cư tự phát dẫn đến việc
hình thành một số “xóm liều” - một loại hình điểm dân cư do các luồng di
dân từ nông thôn vào đô thị, nhất là các đô thị lớn. Các dòng di dân vào
Hà Nội thời kỳ này chủ yếu từ các vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh
miền núi, trung du phía Bắc. Một số ít là dân cư từ các tỉnh Bắc Trung Bộ
và một số tỉnh phía Nam. Đặc trưng của hiện tượng di dân thời kỳ này
là chịu sự chi phối mạnh mẽ của cơ chế bao cấp và chế độ điều động lao
động theo kế hoạch của nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có một
1 Thời vua Lê Hiển Tông (1740-1786) Nhật Tân được gọi là phường Nhật Chiêu, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên, thành Thăng Long. Đến thời Nguyễn (thế kỷ XIX) Nhật Chiêu thuộc tổng Thượng, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, thành Hà Nội. Sang thời Bảo Đại (1926-1945), Nhật Chiêu được đổi thành Nhật Tân [7, tr. 8].
2 Yên Phụ - tên này xuất hiện giữa thế kỷ XIX do việc kỵ húy mẹ vua Nguyễn tên là Hoa.
3 Theo số liệu thống kê của Chi cục Thống kê Hà Nội.
| 423
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
bộ phận dân di cư vào Hà Nội là những người không có đời sống ổn định
ở nông thôn, hoặc muốn ra thành phố kiếm việc làm để có thu nhập cao
hơn. Những đối tượng này tuy sinh sống ở ngay giữa đô thị nhưng lối
sống, nếp sinh hoạt vẫn mang đậm chất nông thôn; khái niệm “văn minh
đô thị” còn rất xa lạ đối với họ.
Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá VIII đã quyết định điều chỉnh địa
giới của thủ đô Hà Nội - chuyển huyện Mê Linh trước của Hà Nội về tỉnh
Vĩnh Phúc, chuyển thị xã Sơn Tây và 5 huyện khác về tỉnh Hà Tây. Theo
quyết định này thì phạm vi ranh giới của Hà Nội được giới hạn nhỏ hơn.
Trong thời kỳ này, từ 1990 đến nay, sự phát triển của dân số Hà Nội chịu sự
tác động nhiều mặt của chính sách đổi mới kinh tế - xã hội. Dân số có xu
hướng tăng nhanh hơn so với thời kỳ trước đó. Khu vực vùng ven Hồ Tây
là một trong những khu vực dân số có xu hướng tăng nhanh vào thời kỳ
này, khác với khu vực Hoàn Kiếm - là khu phố cổ, các khu phố hình thành
từ thời thực dân, có mức gia tăng dân số thấp.
Với sự chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường,
Hà Nội được tập trung đầu tư cho phát triển theo hướng ngày càng hiện
đại hoá. Tuy nhiên, bên cạnh đó, trong những năm gần đây, việc kiểm soát
nhập cư, công tác quản lý nhân khẩu chưa được chặt chẽ đã dẫn đến hiện
tượng tăng dân số do nhập cư có chiều hướng tăng cao, các luồng chuyển
cư tự do vào Hà Nội bắt đầu phát triển mạnh mẽ.
Vùng ven Hồ Tây bao gồm 10 phường với tổng số dân 135.688 người
(2003), mật độ dân số trung bình 3.669 người/km2. Mật độ dân số khu vực
này có phần thấp là do diện tích mặt nước và diện tích đất nông nghiệp
chiếm tỷ lệ khá lớn. Dân cư trong khu vực phân bố không đều, các phường
thuộc nội thành cũ mật độ dân số khá cao: phường Bưởi có mật độ dân số
cao nhất với 14.886 người/km2; phường Yên Phụ có mật độ dân số là 13.407
người/km2; phường Thụy Khuê có mật độ dân số là 6.833 người/km2. Ở
khu vực này, nhà cửa, đường phố được xây dựng khang trang, hiện đại và
nếp sống dân cư đô thị đã hình thành từ lâu. Đó cũng là điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển các hoạt động thương mại - dịch vụ, phục vụ đời sống
dân cư và thực tế hiện nay các ngành thương mại - dịch vụ cũng phát triển
tập trung ở các phường này. Một số phường trước đây thuộc ngoại thành
mật độ dân số thấp hơn, trong đó Xuân La có mật độ cao nhất với 5.409
người/km2, những phường còn lại mật độ dân số chỉ khoảng 2.200 đến
424 |
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
2.600 người/km2. Ở khu vực này, kiến trúc nhà ở, đường giao thông có sự
pha trộn giữa đô thị và nông thôn.
Bảng 1. Dân số vùng ven Hồ Tây năm 2001
STT Phường Dân số của phường
Dân số nằm bên bờ hồ
Diện tích (km2) Mật độ(người/ km2)
1 Bưởi 18.670 3.713 1.38 13.432
2 Thụy Khuê 14.702 3.254 2.25 6.420
3 Yên Phụ 18.274 5.314 1.46 12.246
4 Tứ Liên 7.620 - 3.45 2.171
5 Quảng An 7.965 7.937 3.46 2.302
6 Nhật Tân 7.524 4.215 3.91 2.200
7 Phú Thượng 11.187 - 5.72 1.837
8 Xuân La 8.881 480 2.37 3.779
9 Nghĩa Đô 19.570 - 1297751 15.404
10 Trúc Bạch 11.310 -
Nguồn: UBND quận Tây Hồ, Ba Đình, Cầu Giấy, 2001.
Do ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá, từ năm 1996, số lượng dân
cư từ nơi khác chuyển đến cư trú trong khu vực này khá đông: trung
bình 1884 người/năm. Trong khi đó, số lượng cư dân xuất cư khỏi khu
vực chỉ chiếm 1/2 số dân nhập cư (khoảng 814 người/năm). Theo số liệu
thống kê, số lượng dân cư từ nơi khác chuyển đến khu vực này năm
1998 là 3.742 người và cũng trong năm này số lượng dân cư chuyển đi
là 1.947 người.
Dân cư ở khu vực này có lịch sử cư trú lâu đời và trước đây thường sinh
sống bằng các nghề truyền thống như trồng dâu, nuôi tằm, làm giấy, dệt
vải, đúc đồng, trồng hoa... Do xu thế phát triển chung của xã hội, khu vực
này, như trên đã nói, hiện đang có những thay đổi đáng kể về dân số cũng
như các phương thức làm ăn sinh sống, cách sử dụng đất...
Thành phần dân cư trong khu vực chủ yếu tập trung dưới hai dạng:
Thứ nhất, đó là dân cư chính gốc, được hiểu là những hộ gia đình sống
lâu đời tạo thành các quần cư như làng Yên Thái, Võng Thị, Trích Sài,
Nghi Tàm, Xuân La. Thứ hai, đó là dân ở nơi khác đến thuê nhà ở hoặc
mua nhà ở. Do tốc độ đô thị hoá tăng nhanh, lượng nhà hàng, khách sạn
| 425
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
mọc lên ngày một nhiều dẫn đến tình trạng khách thuê vãng lai ở khắp
nơi, thuộc mọi thành phần đến cư trú. Vấn đề này đã gây khó khăn, cản
trở không nhỏ trong việc quản lý và bảo vệ môi trường.
Do tình trạng dân cư tập trung không đều, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng
được với tốc độ phát triển chung của xã hội nên chất lượng môi trường ở
đây hàng ngày hàng giờ đã và đang bị suy thoái.
Hình 1. Biểu đồ sự chuyển cư của các phường vùng ven Hồ Tây năm 1998
Nguồn: Niên giám thống kê quận Tây Hồ, Ba Đình, Cầu Giấy 1998
Hình 2. Biểu đồ sự chuyển cư của các phường vùng ven Hồ Tây năm 2004
Nguồn: Niên giám thống kê quận Tây Hồ, Ba Đình, Cầu Giấy 2004
Lao động trên địa bàn khu vực này chủ yếu vẫn là sản xuất nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh dịch vụ nhỏ. Vấn đề việc làm
và tăng thu nhập cho dân cư trên địa bàn này cũng đang là vấn đề bức
xúc. Do lực lượng lao động có trình độ chuyên môn và chất lượng đào
353 363388
126
73
190 188
140
265
374
262
212 224
34 22 29 42 31
167 185
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
Bưởi Thụy Khuê
Yên Phụ Tứ Liên Nhật Tân
Quảng An
Xuân La Phú Thượng
Trúc Bạch
Nghĩa Đô
Đ n
Đi
476 403536
245123 191
371 307 209
2772
244 289 19244 39 49 47 50
353527
03006009001200150018002100240027003000
Bưởi Thụy Khuê
Yên Phụ Tứ Liên Nhật Tân
Quảng An
Xuân La Phú Thượng
Trúc Bạch
Nghĩa Đô
Đ n
Đi
426 |
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
tạo chưa cao nên tình trạng lao động chưa có việc làm tương đối nhiều.
Khu vực này cũng đang trong quá trình đô thị hoá cao, đất nông nghiệp
dần bị thu hẹp, người dân đang dần chuyển đổi nghề phù hợp với điều
kiện mới.
Đặc điểm của khu vực này là có số lượng lao động dồi dào. Số lượng
lao động trong khu vực ngoài quốc doanh thuộc khu vực này có xu
hướng tăng liên tục qua các năm, từ 1.128 người năm 1996 lên 1.837
người năm 2000 và đến năm 2005 là 3.254. So với năm 1996, số lượng lao
động năm 2005 tăng gần 2,9 lần. Trong đó, lao động trong các hợp tác
xã tiểu thủ công nghiệp giảm từ 173 người năm 1996 xuống 101 người
năm 2000 và đến năm 2005 còn 47 người. Trong khi đó, lao động trong
khu vực cá thể tăng từ 872 người năm 1996 lên 982 người năm 2000 và
tăng đến 1143 người năm 2005. Số lượng lao động làm việc trong các
loại hình doanh nghiệp tăng lên nhanh, từ 83 người năm 1996 lên 785
người năm 2000 và 2064 người năm 2005. Những ngành thu hút nhiều
lao động nhất là những ngành sau (tính đến thời điểm 2005): Thứ nhất
là ngành sản xuất các sản phẩm từ kim loại với 747 người, chiếm gần
23% tổng số lao động công nghiệp ngoài quốc doanh; Thứ hai là ngành
sản xuất trang phục, thuộc da, lông thú với 385 người, chiếm 11,8%;
Thứ ba là ngành sản xuất các sản phẩm cao su với 376 người, chiếm hơn
11,5%; Thứ tư là sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy với 351 người, chiếm
hơn 10,7%.
Vào thời điểm cuối năm 2006, tính riêng trong 8 phường thuộc quận
Tây Hồ có 3.560 lao động chưa có việc làm, cao nhất là phường Bưởi, thấp
nhất là phường Nhật Tân. Số người có nhu cầu lao động, tìm việc làm
khoảng 2.314 người. So với các khu vực khác ở Hà Nội, vùng ven Hồ Tây
là khu vực có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chưa cao. Theo thống kê sơ
bộ về trình độ chuyên môn, lao động có trình độ đại học, trên đại học có
khoảng 966 người (chiếm 30%); lao động có trình độ trung học chuyên
nghiệp khoảng 662 người (chiếm 20%); lao động là công nhân kỹ thuật
có 610 người (chiếm 18%) và lao động phổ thông có khoảng 1055 người
(chiếm 32%).
| 427
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
Hình 3. Biểu đồ cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn
vùng ven Hồ Tây - tính đến thời điểm tháng 9-2006
2. Giáo dục
Vùng ven Hồ Tây có truyền thống giáo dục và khoa cử. Theo thống kê
từ sách Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919) [35] kết hợp với điều tra thực
địa, chúng tôi thống kê trong gần 850 năm giáo dục và khoa cử Nho học có
16 người đỗ đạt (Trạng Nguyên: 1 người, Bảng Nhãn: 1 người, Thám Hoa:
0, Hoàng Giáp: 2 người, Tam Giáp: 12 người, Phó Bảng: 0). Với truyền thống
hiếu học đó, trường học lâu đời nhất của Hà Nội là trường Bưởi (nay là
trường Chu Văn An) ra đời trên mảnh đất Bưởi.
Theo điều tra khảo sát của chúng tôi, giáo dục ở vùng ven Hồ Tây
trong thời kỳ đổi mới đã thay đổi hơn rất nhiều so với thời kỳ trước đổi
mới. 65,3% là số người đã trả lời sự thay đổi về giáo dục ở khu vực này khá
hơn nhiều so với thời kỳ trước đổi mới.
Hình 4. Biểu đồ đánh giá về Giáo dục của người dân vùng ven Hồ Tây
Khu vực này hiện nay có 12 trường tiểu học, trong đó có 10 trường tiểu
học công lập phân bố ở tất cả các phường và 2 trường dân lập ở phường
30%
20%18%
32%Đạ i học, trên đạ i học
Trung học chuyên nghiệp
Công nhân kỹ thuậ t
Lao động phổ thông
65.3
18.4
6.16.1 4.1
Khá h n nhi u
Khá h n
Nh c
Kém h n
Khó nói
428 |
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
Bưởi và phường Thụy Khuê. Trong số các trường tiểu học này có hai trường
đạt chuẩn quốc gia. Tổng số giáo viên bậc tiểu học trong khu vực này năm
2006 là 234 người. Hầu như các trường đều đảm bảo đủ giáo viên, không có
giáo viên dạy chéo môn. Số giáo viên đạt chuẩn tăng từ 90,4% năm 1996 lên
96% năm 2000 và đến năm 2006 thì có 100% giáo viên đạt chuẩn và 94% đạt
trên chuẩn. Tỷ lệ học sinh giỏi tăng từ 14% năm 1996 lên 34,6% năm 2000
và đến năm 2006 tăng 55%; Tỷ lệ học khá giỏi đạt 89%. Khu vực này có chất
lượng giáo dục tiểu học tương đối tốt. Trong 10 năm từ 1996 đến 2006, tỷ lệ
học sinh tốt nghiệp tiểu học thường xuyên đạt 100%.
Về cơ sở vật chất, cho đến hết năm 2006, khu vực này không còn các
phòng học cấp 4 và được sự quan tâm của các cấp các ngành, tình trạng học
2 ca ở một số trường tiểu học như trường tiểu học Tứ Liên, Quảng An, Phú
Thượng đã dần được khắc phục. Diện tích mặt bằng sử dụng của các trường
công lập là hơn 25.096 m2, đạt mức bình quân 4,4 m2/học sinh. So với mức
chuẩn quy định về diện tích đất cho một học sinh là 6 m2 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo thì khối tiểu học cần phải bổ sung thêm diện tích. Một số trường tiểu
học hiện nay còn quá chật như trường tiểu học Chu Văn An chỉ có 0,9 m2/
học sinh, trường tiểu học Tứ Liên 3,3 m2/ học sinh. Hệ thống trường lớp tuy
đã được quan tâm đầu tư xây mới và cải tạo, song vẫn còn thiếu và một số cơ
sở đã xuống cấp, trang thiết bị cho dạy và học còn chưa đủ và nhiều trường
còn thiếu các phòng chức năng. Hầu hết các trường chưa có phòng giáo dục
thể chất, điều này đã ảnh hưởng tới chất lượng giáo dục - đào tạo toàn diện.
Bảng 2. Số lượng trường, giáo viên, học sinh tiểu học
khu vực Hồ Tây năm 2006
STT Phường Số trường Giáo viên Học sinh
1 Thụy Khuê 2 52 1740
2 Bưởi 2 36 890
3 Xuân La 1 20 729
4 Nhật Tân 1 21 491
5 Phú Thượng 1 32 608
6 Tứ Liên 1 11 300
7 Quảng An 1 21 688
8 Yên Phụ 1 24 516
9 Trúc Bạch 1 - -
10 Nghĩa Đô 1 17 237
Nguồn: Phòng Giáo dục và Đào tạo quận Tây Hồ, Cầu Giấy, Ba Đình, 2007
| 429
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
Ở bậc Trung học cơ sở, khu vực này có 13 trường với hơn 8.000 học
sinh, trong đó có 10 trường công lập trên địa bàn 10 phường và 3 trường
dân lập. Năm 2006, tỷ lệ học sinh đạt loại khá, giỏi khoảng 75%, tỷ lệ học
sinh kém chiếm khoảng 2%. Trong những năm gần đây, hầu như không có
học sinh xếp hạnh kiểm kém. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở ngày
càng cao, cụ thể năm 1996 đạt 92,8%, năm 2000 là 96,1% và năm 2006 đạt
99,7%. Chất lượng đội ngũ giáo viên cũng được nâng cao. Tỷ lệ giáo viên
trung học cơ sở đạt chuẩn cũng tăng dần theo các năm. Đến năm 2006, khu
vực này có 100% đạt chuẩn và trên 55% giáo viên đạt trên chuẩn. Giống
như bậc tiểu học, tất cả các trường trung học cơ sở đều có đủ số lượng giáo
viên, không có giáo viên dạy chéo môn. Trong hơn 10 năm qua, cơ sở vật
chất của khối trung học cơ sở cũng được cải thiện nhiều. 7 trường được xây
mới và cải tạo là các trường Phú Thượng, Quảng An, Nhật Tân, Đông Thái,
Xuân La, Chu Văn An và Nhật Tân. Tuy nhiên, trang thiết bị dạy và học,
bao gồm tài liệu dạy và học cùng các tài liệu tham khảo cho thầy và trò, các
thiết bị khác phục vụ cho các phòng thí nghiệm, thư viện, công trình vệ
sinh, nước sạch của các trường còn chưa đầy đủ, nhiều trường chưa có khu
vệ sinh đạt tiêu chuẩn và nước sạch. Thiết bị dạy và học các môn văn-thể-
mỹ và các môn học hướng nghiệp hầu như chưa được chú trọng.
Bảng 3. Số lượng trường, giáo viên, học sinh Trung học cơ sở
vùng ven Hồ Tây năm 2006
STT Phường Số trường Giáo viên Học sinh
1 Thuỵ Khuê 2 101 2817
2 Bưởi 2 51 895
3 Xuân La 1 35 601
4 Nhật Tân 1 21 491
5 Phú Thượng 1 33 551
6 Tứ Liên 1 21 354
7 Quảng An 1 31 574
8 Yên Phụ 2 37 544
9 Trúc Bạch 1 34 -
10 Nghĩa Đô 1 72 1515
Nguồn: Phòng Giáo dục và Đào tạo quận Tây Hồ, Cầu Giấy, Ba Đình, 2007
Hiện nay, trên địa bàn khu vực này có 2 trường Trung học phổ thông
công lập là trường THPT Chu Văn An, trường THPT Tây Hồ và một số lớp
430 |
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
thuộc trường dân lập Đông Đô. Trường THPT Tây Hồ mới được xây dựng
trong giai đoạn 2000-2005, trường có 29 lớp với 1300 học sinh và 63 giáo
viên, diện tích 21.500 m2 với 21 phòng học kiên cố. Trường THPT Chu Văn
An là trường chất lượng cao, có 51 lớp học với 2191 học sinh và 113 giáo
viên, diện tích rộng 48.000 m2 và có 42 phòng học kiên cố. 100% giáo viên
THPT đều đạt chuẩn và trên chuẩn.
3. Y tế
Trong hơn 20 năm (từ 1986 đến nay), hệ thống cơ sở vật chất y tế của
vùng ven Hồ Tây đã có những thay đổi. Khi được hỏi: “Khi bị ốm, ông (bà)
thường đến đâu khám bệnh”, câu trả lời cho thấy, đã có những thay đổi
trong những khoảng thời gian nhất định. 42,9% người dân ở đây đi đến
bệnh viện tỉnh/TƯ trong khoảng 10 năm đầu của thời kỳ Đổi mới. Tuy
nhiên, con số tăng lên đến 61,2% trong những năm tiếp theo. 40,8% đã đến
trạm y tế xã phường để khám bệnh trong 10 năm đầu thời kỳ Đổi mới đã
giảm xuống còn 26,5% trong những năm tiếp theo. Hình thức mua thuốc
tự chữa của người dân khu vực này không có gì thay đổi nhiều. Hình 5
dưới đây sẽ cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Hình 5. Biểu đồ Y tế vùng ven Hồ Tây
Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế và đội ngũ y, bác sĩ bước đầu đã đáp ứng
được nhu cầu khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Theo
thống kê năm 2006, khu vực này có 1 trung tâm y tế cấp quận, 1 phòng khám
2
40.842.9
69.4
6.1
26.5
61.2
73.5
0
10
20
30
40
50
60
70
80
C s y t t nhân Tr m y t xã ph ng B nh vi n t nh/TW M ua thu c t ch a
1986-1996
1996-2008
| 431
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
đa khoa và 10 trạm y tế cấp phường. Ngoài ra, khu vực này còn có Trung tâm
y tế của Sở Công nghiệp, hàng chục nhà thuốc và các cơ sở khám chữa bệnh
tư nhân khác. Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống cơ sở vật chất y tế trên địa
bàn khu vực này vẫn còn lạc hậu so với các khu vực khác trong thành phố,
điển hình là các quận nội thành cũ. Trong số 10 trạm y tế cấp phường, một
số trạm đã được xây dựng mới đảm bảo yêu cầu chăm sóc sức khoẻ ban đầu
của nhân dân như Phú Thượng, Quảng An, Yên Phụ... Các trạm y tế còn lại
đang xuống cấp về cơ sở vật chất, cần được cải tạo và sửa chữa. Các trạm y tế
mới được xây dựng lại chưa thực sự đồng bộ về mặt thiết kế: thiết kế không
phù hợp với yêu cầu của cơ sở khám chữa bệnh. Trang thiết bị cho tuyến cơ
sở còn thiếu và chắp vá. Thiếu thiết bị cho một khoa xét nghiệm tiêu chuẩn
(hóa sinh, huyết học, vi sinh...), thiếu thiết bị cho phòng khám chuyên khoa
như máy nội soi, khám tai mũi họng, nội soi tiêu hóa...
Vùng ven Hồ Tây hiện nay chưa có nhà hộ sinh, chưa có bệnh viện
Trung ương hay Thành phố đóng trên địa bàn. Vì vậy, mạng lưới khám
chữa bệnh tư nhân được khuyến khích phát triển để góp phần tích cực
trong công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, tạo điều kiện cho người
bệnh được hưởng các dịch vụ khám chữa bệnh tiện ích hơn.
Bảng 4. Hệ thống trạm y tế vùng ven Hồ Tây năm 2006
STT Đơn vị Diện tích(m2)
Số bác sĩ Số y tá,y sĩ
1 Trung tâm y tế và phòng khám đa khoa 3.262 14 16
2 Phòng khám đa khoa 957 6 20
3 Trạm y tế Phú Thượng và Phòng khám lao 1.759 1 5
4 Trạm y tế Xuân La 1.515 1 5
5 Trạm y tế Nhật Tân 449 1 4
6 Trạm y tế Tứ Liên 226 1 4
7 Trạm y tế Quảng An 1.267 1 5
8 Trạm y tế Yên Phụ 305 2 4
9 Trạm y tế Thụy Khuê 178 1 5
10 Trạm y tế Bưởi 85 1 6
11 Trạm y tế Nghĩa Đô - 1 4
12 Trạm y tế Trúc Bạch - 1 5
Nguồn: Trung tâm y tế quận Tây Hồ, phường Nghĩa Đô, phường Trúc Bạch, năm 2007.
432 |
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
Tuy gặp phải những khó khăn như đã trình bày ở trên nhưng đội ngũ
y, bác sĩ trong khu vực này vẫn cố gắng hoàn thành công việc và luôn trau
dồi nghiệp vụ của mình bằng cách tham gia các lớp đào tạo trình độ cao hơn.
Hiện nay, toàn khu vực có 29 bác sĩ, 74 y sĩ, y tá, kỹ thuật viên y học... Theo
tiêu chuẩn 4-5 bác sĩ/10.000 dân thì khu vực này mới đáp ứng được 60%.
Trong hơn 20 năm qua, ngành y tế khu vực này đã đạt được một số
kết quả nhất định. Công tác y tế dự phòng được thực hiện khá tốt. Hàng
năm, Trung tâm y tế phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể tổ chức khám
sức khỏe và cấp thuốc cho những đối tượng đặc biệt như các đối tượng
chính sách xã hội, người nghèo... Chương trình y tế học đường với 100%
các trường học có ban chỉ đạo y tế học đường. Hàng năm, các em học sinh
được kiểm tra sức khỏe. Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ
em đã được quan tâm và thực hiện tốt. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em giảm
từ 20,51% năm 1996 xuống còn 14,1% năm 2000 và 9,9% năm 2006. 100%
trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng các loại vắc xin phòng bệnh và uống
vitamin A. Đây cũng là thời kỳ mà bệnh phong được thanh toán, không có
trường hợp bại liệt và uốn ván xảy ra đối với trẻ sơ sinh...
Bảng 5. Một số chỉ tiêu cơ bản đã đạt được của công tác y tế khu vực Hồ Tây
STT Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
1 Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng đầy đủ 7 loại vacxin (%) 100 100 100 100 100
2 Tỷ lệ tiêm phòng uốn ván cho phụ nữ có thai (%) 97 98 100 100 100
3 Tỷ lệ trẻ em 6-36 tháng được uống vitamin A đợt I (%) 100 100 100 100 100
4 Tỷ lệ trẻ em 6-36 tháng được uống vitamin A đợt II (%) 100 100 100 100 100
5 Số trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng (%) 13 12,3 11,7 11 10,5
6 Số phường đạt chuẩn quốc gia về y tế 0 0 2 5 8
Nguồn: Trung tâm y tế quận Tây Hồ, phường Nghĩa Đô, phường Trúc Bạch, năm 2006.
4. Văn hoá
Khu vực Hồ Tây từ thời phong kiến cho đến ngày nay, xã (phường) là đơn
vị hành chính cấp cơ sở, một phường có thể gồm nhiều làng (như phường
| 433
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
Bưởi nhiều nhất là có 6 làng, Quảng An có 3 làng) hoặc có thể một phường
gồm một hoặc hai làng (như Nhật Tân, Yên Phụ...). Làng là đơn vị tụ cư của
người dân, với không gian sinh tồn gồm: khu cư trú, ruộng đất sản xuất hoặc
làm nghề và cả khu vực tự nhiên để cộng đồng sử dụng như sông, ao, hồ,
đường xá. Cư dân trong làng là thành viên của một cộng đồng gắn bó với
nhau bằng các quan hệ như gia đình, dòng họ (là những thực thể xã hội hình
thành trên cơ sở huyết thống); láng giềng (chung xóm, ngõ); nghề nghiệp
(hội, phường buôn bán); tín ngưỡng; phong tục tập quán...
Về mặt văn hóa, mỗi làng, với tư cách một chủ thể tương đối độc lập,
được đặc trưng bởi ngôi đình, có thờ thành hoàng, nằm trong cụm kiến trúc
đình - chùa - đền - miếu. Tùy từng làng có thể có hoặc không có chùa. Đình
giữ vai trò trung tâm sinh hoạt văn hoá chung, hàng năm lễ hội của làng
thường được diễn ra ở đây.
Các làng ở khu vực Hồ Tây đều có hương ước (hương ước cải lương).
“Hương ước là lệ làng được ghi thành văn bản, là “bộ luật” chính thức bằng
văn bản của một làng. Hương ước xuất hiện gắn liền với tổ chức làng xã,
nghĩa là gắn liền với sự xuất hiện hiện tượng kết hợp cộng đồng dân sự với
tổ chức hành chính [3, tr. 192-193]. Hương ước giống như bộ luật riêng, là
công cụ quản lý hữu hiệu được xã hội chấp nhận. Hương ước cũng là một
nét văn hoá quan trọng khi nghiên cứu về văn hoá khu vực Hồ Tây.
Cũng theo những bản hương ước được lập năm Khải Định thứ năm (1920)
bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ về khu vực này thì hôn lễ và tang lễ được quy
định rất cụ thể thể hiện nếp sống văn minh. “Nhà ai có việc cưới phải nộp cheo
cho làng một đồng bạc (bỏ vào quỹ), 100 khấu trầu cau và một chai rượu (để
cúng thần và mời các quan viên). Việc ăn uống tùy hai nhà, nhưng cấm không
được cho kỳ mục ăn uống, không được biếu dân làng trầu cau và nem bánh
như trước nữa...”. Cùng mục “hôn lễ” trong bản Hương ước của làng Hòa Mục
thuộc tổng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm ở ven sông Tô Lịch, ghi “Dân xã có trai
gái lấy vợ lấy chồng. Ngày thành hôn nhà giàu sửa lễ lợn một con, xôi một
mâm, rượu một chai, trầu cau 300 khẩu cùng nộp tiền 30 đồng. Nhà nghèo lấy
tiền từ 30 đến 40 đồng, cùng xôi gà một lễ (chưa kể tiền cheo cho làng)”.
Về tang lễ, Hương ước làng Tây Hồ quy định “Tang chủ chỉ được đãi
người hộ lễ, không được mời làng. Dân làng chỉ dùng hương hoa đến viếng.
Khi an táng, người trong làng và giáp đi đưa chỉ chào tang chủ ở ngoài mộ
rồi về, không được ở nhà chủ ăn uống. Tang chủ cũng nên tạ ân làng giúp
và người đi đưa ở ngoài mộ địa, cấm không được mời về nhà ăn uống...”
434 |
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
Cùng mục tang lễ bản hương ước làng Tây Mỗ thuộc tổng Đại Mỗ, huyện
Từ Liêm, ghi tang lễ có ba hạng: Hạng một, bò một con, xôi một mâm, trầu
cau 100 khẩu, rượu năm bình, tiền hai nhăm đồng. Hạng hai, lợn một con,
xôi một mâm, trầu cau 100 khẩu, rượu ba bình, tiền mười lăm đồng. Hạng
ba, thủ lợn một mặt, xôi một mâm, trầu cau 100 khẩu, rượu một nai, tiền một
đồng rưỡi...”. So sánh như vậy để thấy sự tiến bộ của một phường nội thành
với các xã ngoại thành trong cùng một thời điểm [31, tr.433].
Gần đây, bên cạnh việc coi giáo dục là quốc sách, các phường trong
khu vực này còn quan tâm đến việc xây dựng một đời sống văn hoá lành
mạnh. Cũng giống như dân cư các khu vực khác ở Hà Nội, dân cư ở đây
hưởng ứng nhiệt tình cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư”. Từ đó việc hiếu hỉ cũng đi vào nề nếp, tránh
các thủ tục tốn kém và lãng phí. Các gia đình đã dần bớt đi việc ăn uống
linh đình phô trương trong việc tổ chức đám ma, đám cưới. Song song với
cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, các phường
cũng rất chú trọng đầu tư vào những hoạt động văn hoá tinh thần khác
như hoạt động của các câu lạc bộ, nhà văn hoá, thư viện, sân chơi... Công
tác thông tin tuyên truyền còn được thực hiện rất tốt qua hệ thống loa
truyền thanh, một phương tiện truyền thông rất phổ biến và hiệu quả tại
cộng đồng. Hầu hết các phường đều trang bị cho mình phương tiện truyền
thông này và thường xuyên đầu tư làm mới các trang thiết bị để đưa thông
tin đến từng ngõ xóm kịp thời.
Thu nhập cao giúp cho người dân có điều kiện hưởng thụ một cuộc
sống vật chất dồi dào và đời sống tinh thần phong phú. Việc sử dụng thời
gian nhàn rỗi của người dân cũng trở nên phong phú và đa dạng hơn. Tuy
nhiên, do khu vực này mang dáng dấp của cả nông thôn và đô thị nên việc
sử dụng thời gian rỗi của người dân cũng khác nhau. Ở những phường còn
mang dáng dấp của nông thôn như Phú Thượng, Xuân La thì người dân
không chỉ sang hàng xóm trò chuyện, uống nước, đánh cờ, chơi với con
cháu... mà họ còn có thể tham gia nhiều hoạt động văn hoá tinh thần trong
và ngoài gia đình. Tuy nhiên, các hoạt động giải trí ngoài gia đình chiếm tỷ
lệ không cao. Ở những phường mang dáng dấp của đô thị như Trúc Bạch,
Thụy Khuê... thì việc sử dụng thời gian rỗi phong phú hơn và có khác hơn
so với những phường mang dáng dấp nông thôn. Họ ít khi sang hàng xóm
chơi, họ thường xem phim, xem ca nhạc. Sự giao tiếp gần gũi với phong
cách ứng xử xuề xòa, thân mật đã dần dần ít đi. Thay vào đó là lối giao tiếp
| 435
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
theo kiểu khép kín, tôn trọng cuộc sống cá nhân. Trong quá trình điều tra
khảo sát, chúng tôi cũng nhận thấy rằng, những người làm nông nghiệp
vẫn còn lưu giữ nhiều hơn cách ứng xử của xã hội nông thôn, thích giao
lưu, trò chuyện, thích chia sẻ tâm tình với hàng xóm so với những người
làm nghề phi nông nghiệp.
Hình 6. Biểu đồ về việc sử dụng thời gian rỗi
của người dân vùng ven Hồ Tây
Trong 10 năm đầu của thời kỳ Đổi mới, hoạt động chơi thể thao và đi
chùa, đi chơi với bạn ít hơn so với những năm sau đó. Như trên đã nói,
hoạt động sang chơi hàng xóm cũng bị thu hẹp. Tuy nhiên, thời gian dành
cho mối quan hệ với gia đình, họ hàng thì hầu như không thay đổi. Điều
đó cho thấy, đối với người Việt nói chung và người dân khu vực này nói
riêng thì gia đình, họ hàng vẫn là rất quan trọng.
Trong gia đình, người vợ vẫn là người chăm sóc con cái, đi chợ, nấu
nướng, dọn dẹp nhà cửa. Trong khi đó, người chồng là trụ cột trong gia
đình, là người quyết định các công việc lớn trong gia đình như kinh
doanh, sản xuất. Một điều nữa là chi tiêu hàng ngày thì phần lớn do
người vợ quyết định nhưng mua sắm đồ đạc đắt tiền trong nhà thì phần
lớn do cả hai vợ chồng quyết định. Đây cũng là đặc điểm chung của gia
đình hiện nay.
0
20
40
60
80
100Nghe ài
i chùa
Sang ch i hàng xóm
Ch i th thao
i ch i v i b n
Xem Tivi
Th m h hàng
c sách báo
1986-1996
1996-2008
436 |
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
Hình 7. Biểu đồ về việc ai là người quyết định các công việc trong gia
đình của người dân vùng ven Hồ Tây
Tóm lại, trong thời kỳ Đổi mới, dân cư ở vùng ven Hồ Tây đã có nhiều
thay đổi. Gắn liền với lịch sử hình thành lâu đời của khu vực, vùng ven Hồ
Tây có đặc điểm là nguồn dân cư gốc chiếm khá đông. Tuy nhiên, do ảnh
hưởng của quá trình đô thị hoá, số lượng dân cư từ nơi khác chuyển đến
cư trú trong khu vực này cũng khá đông, đặc biệt là từ 1996 đến nay. Số
lượng dân cư từ nơi khác chuyển đến khu vực này năm 1998 là 3.742 người
và cũng trong năm này số lượng dân cư chuyển đi là 1.947 người (chiếm
khoảng ½ số dân nhập cư).
Vùng ven Hồ Tây là khu vực có truyền thống giáo dục trong lịch sử.
Truyền thống này vẫn được tiếp nối cho đến ngày hôm nay. Cũng theo
khảo sát của chúng tôi, giáo dục ở vùng ven Hồ Tây trong thời kỳ đổi mới
đã thay đổi, đổi mới hơn rất nhiều so với thời kỳ trước Đổi mới. Trình độ
chuyên môn của đội ngũ giáo viên từ bậc Tiểu học tới Trung học phổ thông
được nâng cao. Hiện nay, 100% giáo viên ở khu vực này đã đạt chuẩn và
trên chuẩn. Các bậc Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông về cơ
bản đã hoàn thành chỉ tiêu của từng năm học trong thời kỳ này.
Giống như giáo dục, y tế cũng có những bước tiến đáng kể cả về mặt
cơ sở vật chất lẫn chất lượng phục vụ người bệnh. Cơ sở vật chất, trang
| 437
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
thiết bị và đội ngũ y, bác sĩ bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu khám chữa
bệnh và chăm sóc sức khỏe của người dân. Công tác y tế dự phòng được
thực hiện khá tốt. Chương trình y tế học đường với 100% các trường học có
ban chỉ đạo y tế học đường. Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng
trẻ em đã được quan tâm và thực hiện tốt.
Đời sống vật chất của người dân được nâng cao, cải thiện kéo theo
đời sống tinh thần, văn hóa của người dân trong khu vực cũng được nâng
cao. Nhiều hình thức giải trí ra đời góp phần làm tăng thêm nhu cầu
thư giãn của người dân, thời gian rỗi được sử dụng đa dạng, phong phú
nhưng đã có nhiều chuyển biến. Đây vừa là đặc điểm chung vừa là đặc
điểm riêng của khu vực này trong thời kỳ Đổi mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Sinh Cúc (2006), Tổng quan kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2005, Số 1 -
Tư tưởng Văn hoá.
2. Cục Lưu trữ Quốc gia (2000), Lịch sử Hà Nội qua tài liệu lưu trữ (Tập 1: Địa giới
hành chính Hà Nội 1873-1954), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
3. Phan Đại Doãn (2001), Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế - văn hoá - xã hội,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc (1988), Những bàn tay tài hoa của cha ông,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Từ Liêm (2006),
Lịch sử Đảng bộ huyện Từ Liêm (1930-2005), Nxb Hà Nội, Hà Nội.
6. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới: Đại hội
VI, VII, VIII, IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng uỷ - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân phường Nhật Tân (2004),
Lịch sử Cách mạng phường Nhật Tân, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
8. Nguyễn Trọng Điều, Vũ Xuân Thảo (1983 và 1984). Địa lý kinh tế Việt Nam (tập
1,2). Nxb Giáo dục.
9. Bùi Xuân Đính, Nguyễn Viết Chức (đồng chủ biên) (2004), Các làng khoa bảng
Thăng Long - Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Trần Đình Gián (chủ biên) (1990), Địa lý Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
11. Nguyễn Thừa Hỷ (1993), Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XVII, XVIII và XIX, Hội
sử học Việt Nam.
438 |
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
12. Nguyễn Đình Hương (cb) (2000), Đô thị hoá và quản lý kinh tế đô thị ở Hà Nội,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Doãn Minh Khôi (2006), Văn hoá đô thị như một yếu tố đối trọng nhằm cân bằng
sự phát triển của các thành phần trong quá trình đô thị hoá - Trường hợp của Hà Nội,
Số 4 - Kiến trúc Việt Nam.
14. Khuyết danh, Tây Hồ chí, bản đánh máy, Hoàng Tạo dịch.
15. Nguyễn Hải Kế (2005), Tây Hồ chí - Tập địa chí đầu tiên, duy nhất, công phu về
không gian văn hoá Hồ Tây, Tham luận Hội thảo Đánh giá giá trị văn bản Tây
Hồ chí, Hà Nội.
16. Phạm Phong Lan (1990), Bước đầu tìm hiểu những vấn đề tổ chức xã hội ở Nghi
Tàm, (Luận văn CN-ĐHTHHN), Hà Nội.
17. Vũ Văn Luân (1998), Hồ Khẩu - Một làng cổ của Thăng Long, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, số 5, Hà Nội.
18. Vũ Văn Luân (2000), Nghề giấy cổ truyền phường Bưởi, Tạp chí nghiên cứu Lịch
sử, số 4, Hà Nội.
19. Vũ Thị Mai (cb) (2007), Tạo việc làm cho người lao động bị ảnh hưởng trong quá
trình đô thị hóa Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Bùi Văn Nguyên, Vũ Tuấn Sán, Chu Hà (1975), Truyền thuyết ven Hồ Tây, Hội
Văn nghệ Hà Nội, Hà Nội.
21. Phạm Xuân Nam (chủ biên) (1991), Đổi mới kinh tế - xã hội. Thành tựu, vấn đề và
giải pháp, Nxb Khoa học xã hội.
22. Lê Du Phong (cb), Nguyễn Văn Áng, Hoàng Văn Hoa (2002), Ảnh hưởng đô
thị hoá đến nông thôn ngoại thành Hà Nội: Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
23. Nguyễn Vinh Phúc (2004), Mặt gương Tây Hồ, Nxb Trẻ, Hà Nội.
24. Nguyễn Vinh Phúc (2004), Hà Nội qua những năm tháng, Nxb Trẻ.
25. Quận Tây Hồ (2000), Niên giám thống kê 1996-2000, Phòng Thống kê quận Tây
Hồ, Hà Nội.
26. Quận Tây Hồ (2005), Niên giám thống kê 2000-2005, Phòng Thống kê quận Tây
Hồ, Hà Nội.
27. Quận Ba Đình (2006), Niên giám thống kê 1997-2006, Phòng Thống kê quận Ba
Đình, Hà Nội
28. Quận Tây Hồ, Báo cáo kinh tế - xã hội từ 1996-2005, Phòng Lưu trữ quận Tây Hồ.
29. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội - TP Hà Nội (2003), Phát triển bền vững kinh tế
xã hội đô thị và nông thôn thành phố Hà Nội dựa trên đổi mới mạng lưới hệ thống
cấp thoát nước, Hà Nội.
| 439
25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH
30. Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường - UBND TP Hà Nội (1999), Báo cáo
thuyết minh quy hoạch môi trường vùng Hồ Tây Hà Nội đến năm 2020, Hà Nội.
31. Đỗ Thỉnh (2000), Địa chí vùng ven Thăng Long, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
32. Mai Thanh Thế (2006), Bước đầu tìm hiểu về tác động của đô thị hóa đến tâm lý
người nông dân ven các đô thị, Số 4 - Tâm lý học.
33. Lê Thông (chủ biên) (2000), Giáo trình địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam. Nxb
Thống kê.
34. Lê Thông (chủ biên) (2004), Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam (tập 1-7), Nxb Thống kê.
35. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thuý Nga, Nguyễn Hữu Mùi (2006), Các nhà khoa bảng
Việt Nam (1075-1919), Nxb Văn học, Hà Nội.
36. Thành ủy Hà Nội (1992), Chỉ thị số 06-CTr-TU (ngày 5-5-1992) về Chương trình
kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn mới thủ đô 1992-1995, Tài liệu lưu trữ
Văn phòng Thành ủy, Hà Nội.
37. Trần Quốc Vượng (2000), Đôi lời về Hồ Tây, Tạp chí Khảo cổ học, số 4, Hà Nội.
38. Trần Lê Văn, Ngô Quân Miện, Quang Dũng (1984), Gương mặt Hồ Tây, Nxb
Hà Nội.
39. Viện Sử học (1977), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử - tập1, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
40. Lý Tế Xuyên (2001), Việt điện u linh, (Đinh Gia Khánh. Trịnh Đình Rư dịch và
chú thích; Đinh Gia Khánh giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội.
440 |