Upload
hoangdat
View
229
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Chương 3
TÂN KỲ VỮNG BƯỚC ĐI LÊN TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ
BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1975 - 2012)
I. XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Kinh tế nông nghiệp
* Kinh tế nông nghiệp Tân Kỳ trong giai đoạn (1975 - 1985)
Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong mùa xuân lịch sử 1975
đã kết thúc hơn 1 thế kỷ đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ của nhiều thế hệ người
Việt Nam nhằm chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc và giải phóng dân tộc
(1/9/1858 - 30/4/1975). Đất nước sạch bóng quân thù, cả dân tộc bước vào thời kỳ
xây dựng và bảo vệ đất nước theo Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc
lần thứ IV (12 - 1976) và hoàn thành kế hoạch năm năm lần thứ II (1976 - 1980).
Xuất phát từ thực tiễn đất nước sau chiến tranh, phương châm xây dựng và
phát triển đất nước trong giai đoạn tới được Đảng ta xác định là: “Ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ một cách hợp lý trên cơ sở phát triển
nông nghiệp…”.
Thực hiện Nghị quyết số 425 ngày 20 /9 năm 1975 của Bộ Chính trị Trung
ương Đảng về việc bỏ cấp khu, hợp nhất một số tỉnh, trong hai ngày 24 -
25/10/1975, tại thành phố Vinh, hai Ban Thường vụ tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh
đã họp, thống nhất ra thông báo đặc biệt về việc hợp nhất hai tỉnh Nghệ An, Hà
Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành
Trung ương Đảng nhận xét: “Về lịch sử cách mạng, về quan hệ kinh tế - xã hội, về
cuộc sống, về tinh thần của người dân, lâu nay Nghệ - Tĩnh là một1. Việc hợp nhất
hai tỉnh đã đưa Nghệ Tĩnh trở thành một trong những tỉnh có diện tích tự nhiên và
dân số đông nhất cả nước lúc bấy giờ. Giống như nhiều tỉnh khác ở miền Bắc, nền
1 Lê Duẩn: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. NXB Sự thật, Hà nội, 1984, tr 232
kinh tế nông nghiệp đóng vai trò to lớn trong cơ cấu toàn bộ nền kinh tế của tỉnh
Nghệ Tĩnh. Với hơn 90% dân số hoạt động trong nền kinh tế nông nghiệp, nhưng
nhìn chung nông nghiệp Nghệ Tĩnh đang ở trong tình trạng hết sức phân tán, lạc
hậu. Lao động thủ công truyền thống của người nông dân là chủ yếu, năng suất lao
động thấp và thu nhập của xã viên HTX nông nghiệp chưa tương xứng với lao
động bỏ ra (bình quân toàn tỉnh chỉ ở mức: 0,35 -0,4 kg thóc/1 công).
Mặc dầu đã đạt được những thành tựu to lớn trên mặt trận nông nghiệp
trong thời gian 1973 - 1975, song bức tranh chung của kinh tế nông nghiệp ở Tân
Kỳ trong những năm tháng đầu tiên bắt tay xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, thực hiện Kế hoạch năm năm lần thứ nhất đang đững trước muôn vàn khó
khăn thử thách. Hệ thống các hồ đập thủy lợi trên địa bàn huyện có quy mô nhỏ, hệ
thống kênh mương dẫn nước chươa đáp ứng được yêu cầu của việc đẩy nhanh phát
triển nông nghiệp. Đó là chưa tính đến một phần lớn diện tích đất trồng lúa ở Tân
Kỳ luôn ở trong tình trạng thiếu nước về mùa hè và có một phần lớn diện tích
ruộng bậc thang, ruộng bạc màu, chua phèn cần phải cải tạo mới có thể đảm bảo
sản xuất hai vụ lúa trong năm.
Nhằm giải quyết những yêu cầu cấp thiết đang đặt ra đối với Đảng bộ nhân
dân Tân Kỳ trong giai đoạn mới, từ ngày 20 đến ngày 23 tháng 5 năm 1976, Đại
hội Đại biểu Huyện Đảng bộ Tân Kỳ lần thứ IX được tổ chức tại trường Đảng của
huyện. Trong đại hội này nhiều vấn đề cấp thiết đã được giải quyết, Đại hội cũng
vạch ra phương hướng nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong nhiệm
kỳ tới. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Tân Kỳ lần thứ IX xác định một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân trên địa bàn huyện trong những
năm tới là tập trung đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tăng cường xây dựng sữa
chữa các tuyến đường giao thông nối huyện với các xã, đường liên xã, liên thôn,
sữa chữa xây dựng mới hệ thống kênh mương, đẩy mạnh khai hoang phục hóa để
mở rộng diện tích trồng lúa, hoa màu; đầu tư thâm canh tăng năng suất cây trồng
vật nuôi, mở rộng diện tích lúa xuân,… phấn đấu đạt tổng sản lượng lương thực
quy thóc từ 150.000 - 155.000 tấn.
Cùng với nhân dân toàn tỉnh, trong năm 1976, huyện Tân Kỳ huy động trên
4.000 lao động tham gia xây dựng công trình thủy lợi Vách Bắc A và Vách Bắc B,
trong suốt hơn một tháng. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng công trình thủy
lợi Vách Bắc mà tỉnh giao phó, nhân dân Tân Kỳ lại tích cực tham gia xây dựng
công trình thủy lợi đập Khe Dâu ở xã Nghĩa Hành. Để hoàn thành việc đào đắp
trên 25.000m3 đất đá, Huyện huy động trên 2.000 lao động tham gia làm việc trong
suốt thời gia hai tuần lễ. Đoàn thanh niên các xã mang theo băng, cờ khẩu hiệu,
hăng hái thi đua hoàn thành vượt mức chỉ tiêu. Trong suốt thời gian xây dựng công
trình đập Khe Dâu, bằng các dụng cụ thô sơ như cuốc, xẻng, xà beng, vót, băng ca,
gánh,v.v… nhân dân Tân Kỳ đã vượt lên khó khăn hoàn thành vượt mức kế hoạch,
Nhiều tập thể và cá nhân lập thành tích xuất sắc được Huyện ủy, Ủy ban huyện
biểu dương, khen thưởng kịp thời.
Công trường xây dựng đập Khe Dâu vừa hoàn thành, Đảng bộ, nhân dân xã
Nghĩa Hành huy động toàn bộ nhân dân tham gia sửa chữa, hoàn thành 5 km
đường giao thông để phục vụ nhu cầu đi lại, phát triển sản xuất của địa phương.
Để giúp nhân dân xã Giai Xuân giảm bớt khó khăn có điều kiện cải tạo
đồng ruộng, thâm canh tăng năng suất, Huyện ủy, Ủy ban huyện Tân Kỳ quyết
định huy động trên 10.000 lao động trên địa bàn huyện tham gia xây dựng công
trình đập Kẻ Vĩnh. Công trình xây dựng này vinh dự được mang tên: “Chiến
dịch 7-5” (kỷ niệm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ). Sau 23 ngày đêm lao động
khẩn trương, tích cực, đầy sáng tạo, lực lượng tham gia xây dựng đập Kẻ Vĩnh
đã hoàn thành việc đào đắp trên 20.000m3 đất đá. Công trình đập Kẻ Vĩnh hoàn
thành đã mang lại niềm vui cho tất cả nhân dân sống trên địa bàn xã Giai Xuân
nói riêng và toàn huyện nói chung.
Xây dựng đập Khe Dâu, đập Kẻ Vĩnh thể hiện quyết tâm của Đảng bộ và
nhân dân Tân Kỳ quyết tâm tiến công vào việc chống nghèo nàn, lạc hậu, đưa nông
nghiệp Tân Kỳ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Ngoài hai công trình trọng điểm
trên, trong thời gian từ năm 1976 - 1980, Huyện Tân Kỳ còn huy động nhân dân ở
16 xã đóng góp hàng vạn ngày công, đào đắp hàng vạn m3 đất đá để sữa chữa kênh
mương, làm bờ vùng, bờ thưở cải tạo đồng ruộng, sữa chữa những hồ đập trước đó
để phục vụ tưới tiêu, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp trên địa bàn toàn huyện.
Cùng với việc đẩy mạnh công tác làm thủy lợi, trong thời gian này Tân Kỳ
còn huy động nhân dân ra quân sữa chữa đường giao thông, đẩy mạnh khai hoang
phục hóa, cải tạo diện tích đất chua phèn bằng việc bón vôi, phân chuồng, tăng
cường cày ải,v.v… Nhờ đó, diện tích đất gieo trồng ở Tân Kỳ năm 1976 đạt 96.000
ha, tăng hơn diện tích gieo trồng năm 1975 là 15%. Phát huy thắng lợi của năm
1976, năm 1977, quân dân Tân Kỳ đồng loạt ra quân cải tạo đồng ruộng, đẩy mạnh
khai hoang phục hóa, mở rộng diện tích trồng lúa, ngô, khoai, sắn, cũng như diện
tích trồng lạc, vừng, mía, cây ăn quả,… Kết quả là tổng diện tích đất gieo trồng
trong năm 1977 đạt con số kỷ lục là 14.346 ha, vượt trên 17% diện tích gieo trồng
năm 1976 và vượt trên 32% diện tích gieo trồng năm 1975.
Phát huy những thành tựu đã đạt được, trong Đại hội Huyện Đảng bộ Tân
Kỳ lần thứ X đã đề ra phương châm nhiệm vụ là: coi trọng cả 3 nhiệm vụ: Thâm
canh, tăng vụ, mở rộng diện tích đất trồng trọt. Huyện đề ra mục tiêu là khai
hoang đến đâu, sản xuất thâm canh, trồng màu đến đó. Thực hiện phương châm
hành động này, huyện chỉ đạo tất cả các xã huy động toàn bộ nhân lực tham gia
khai hoang phục hóa mở rộng diện tích gieo trồng. Nhiệm vụ khai hoang phục
hóa tiếp tục được toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia hưởng ứng và
trở thành một phong trào quần chúng sâu rộng trên mặt trận sản xuất nông
nghiệp. Kết quả là các xã Nghĩa Bình, Nghĩa Đồng, Nghĩa Thái trong hai năm
1977 - 1978 đã khai hoang được từ 90 - 94 ha. Các xã Nghĩa Hoàn, Nghĩa Dũng
Giai Xuân khai phá thêm từ 108 - 141 ha đưa vào trồng trọt. Hai xã Nghĩa Phúc
và xã Kỳ Sơn trở thành những xã điển hình trong toàn huyện khi khai hoang
phục hóa được từ 321 - 478 ha.
Nông trường An Ngãi, nông trường Sông Con huy động công nhân tham gia
khai hoang phục hóa mở rộng diện tích đất nông trường. Nhờ làm tốt công tác tổ
chức, quản lý và sự nỗ lực của toàn thể công nhân trong nông trường mà đến cuối
năm 1978, nông trường Sông Con đã khai hoang được 350 ha, nông trường An
Ngãi khai hoang được 450 ha.
Với sự tham gia hưởng ứng tích cực, nhiệt tình của đại bộ phận công nhân
và nông dân trên địa bàn huyện, trong vòng 5 năm (1976 - 1980), công cuộc khai
hoang, phục hóa đồng ruộng ở Tân Kỳ đã đạt được kết quả to lớn. Cụ thể, tổng
diện tích khai hoang ở Tân Kỳ trong các năm như sau:
- Năm 1976: 156ha
- Năm 1977: 176ha
- Năm 1978: 185ha
- Năm 1979: 197ha
- Năm 1980: 223ha
Mặt khác, từ năm 1979 - 1980, Tân Kỳ đã đưa vụ Đông Xuân lên vụ sản
xuất chính và bắt đầu triển khai việc gieo trồng vụ Hè - Thu. Các giống lúa, nếp,
ngô, khoai lang, đậu tương, …. mới ngắn ngày được huyện chỉ đạo gieo trồng ở
những vùng đất tốt, thuận lợi về nguồn nước. Nhờ đó, năng suất lúa tăng, cơ cấu
mùa vụ ở Tân Kỳ chuyển biến kịp so với các huyện miền xuôi. Đây thực sự là một
cuộc cách mạng trong nông nghiệp làm thay đổi hoàn toàn nhận thức của đại bộ
phận nhân dân sống trên địa bàn. Năm 1980, nhân dân Tân Kỳ đã có thể đưa một
phần diện tích trồng lúa 2 vụ sang 3 - 4 vụ trong năm. Do đó, tổng diện tích gieo
trồng cây lương thực năm 1980 đạt 9.173 ha, trong khi năm 1976 mới đạt 8.400ha.
Điều quan trọng là nhờ áp dụng đồng bộ các biện pháp khoa học kỹ thuật, đẩy
mạnh thâm canh, tăng vụ, luân cây đưa giống mới vào sản xuất, chủ động nguồn
nước tưới nên năng suất lúa và tổng sản lượng lương thực ở Tân Kỳ tăng bền vững
trong nhiều năm. Chẳng hạn, năng suất lúa bình quân ở Tân Kỳ các năm 1976 -
1979 chỉ đạt từ 8 -11 tạ /ha, nhưng đến năm 1981 - 1982 đã đạt 15 -17 tạ/ha/1 vụ
lúa. Năng suất ngô trong thời gian từ 1976 - 1980 chỉ đạt từ 7 tạ đến 10 tạ ha
nhưng đến năm 1982 - 1983 nhờ đưa nhiều giống ngô mới vào trồng và áp dụng
nhiều biện pháp kỹ thuật khác nên tăng nhanh và đạt 15 - 17 tạ/ha/1vụ gieo trồng 2.
Nhân dân Tân Kỳ còn mở rộng diện tích trồng khoai lang, sắn trên vùng đất mới
vỡ hoang. Năng suất khoai lang tăng từ 21 - 24 tạ ha năm 1979 lên 38 - 40 tạ /ha/1
vụ năm 1983. Đặc biệt, năng suất sắn tăng từ 40 - 41 tạ ha năm 1979 lên 70 - 74 tạ/
ha năm 1982.
Trong thời gian từ 1977 - 1982, lũ lụt, hạn hán liên tục ập đến Nghệ -Tĩnh
tàn phá khủng khiếp mùa màng, tài sản của nhà nước và nhân dân các huyện dọc
đôi bờ sông Lam. Nhiều hộ gia đình ở Yên Thành, Diễn Châu, Đô Lương, Nam
Đàn, Thanh Chương di cư lên vùng Tân Diên, Nghĩa Hoàn, Nghĩa Bình,… sinh
sống. Nhiều người từ các huyện miền xuôi lên Tân Kỳ mua sắn, khoai, ngô đem về
để giải quyết một phần vấn đề lương thực cho gia đình.
Phát huy thế mạnh đất đai nông nghiệp, cùng với việc đẩy mạnh diện tích
trồng cây lương thực, hoa màu, đậu đỗ các loại, Huyện Tân Kỳ chỉ đạo nhân dân
mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp cả ngắn ngày và dài ngày như: lạc, vừng,
ớt cay, mía, cà phê, hồ tiêu,… Năm 1980, diện tích trồng cây công nghiệp cây ăn
quả xuất khẩu trên địa bàn huyện tăng hơn 1000ha. Ngành nông sản Tân Kỳ chủ
động thu mua toàn bộ nguồn hàng để xuất khẩu. Lạc, cam, dứa, hồ tiêu, cà phê của
2. Tài liệu do Văn phòng Huyện ủy Tân Kỳ cung cấp, hiện lưu tại Văn phòng Huyện ủy.
Tân Kỳ đã góp phần cùng với nguồn nông sản quý giá này của tĩnh Nghệ Tĩnh xuất
khẩu sang thị trường các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Tiệp Khắc,… trong
những năm 80 của thế kỷ trước.
Do cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp, từ những năm 1978 trở đi,
kinh tế nước ta nói chung, kinh tế Nghệ -Tĩnh nói riêng rơi vào tình trạng khó
khăn, khủng hoảng. Các HTX mua bán, HTX nông nghiệp,…bộc lộ nhiều hạn chế
trong quản lý, điều hành sản xuất. Ngày công thu nhập của xã viên HTX quá thấp,
đời sống của cán bộ, công nhân viên và đại bộ phận nông dân gặp muôn vàn khó
khăn. Tư tưởng quan liêu, hách dịch, thờ ơ, vô trách nhiệm,…nảy sinh trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho niềm tin của quần chúng nhân dân đối với
Đảng, chính quyền ngày càng bị xói mòn. Cần phải có biện pháp kịp thời để tháo
gỡ khó khăn, thúc đẩy kinh tế, phát triển, từng bước ổn định tình hình chính trị xã
hội trong nước, đập tan các thế lực thù địch trong và ngoài nước, bảo vệ thành quả
cách mạng. Chính trong bối cảnh lịch sử đầy khó khăn đó, Bộ chính trị, Ban chấp
hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành chỉ thị 100, tạo bước đột
phá căn bản để từng bước tháo gỡ khó khăn, huy động mọi nguồn lực nhân dân
thúc đẩy kinh tế mà trước hết là kinh tế nông nghiệp phát triển.
Thực hiện chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Huyện ủy Tân Kỳ
chỉ đạo cấp ủy, chính quyền và đoàn thể quần chúng nhân dân ở tất cả các xã đẩy
mạnh công cuộc khai hoang phục hóa, mở rộng diện tích, phát triển mạnh chăn
nuôi cá thể để cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Chủ trương của
Đảng đáp ứng được nguyện vọng tha thiết của nhân dân, nhờ đó, chỉ trong khoảng
hai năm, tổng diện tích gieo trồng cây lương thực, hoa màu, cây ăn quả, cây công
nghiệp ngắn ngày phát triển mạnh. Trong những năm 1983 -1985, nhiều hộ gia
đình ở Tân Kỳ đã có thu nhập hàng tấn thóc, vài tấn sắn, ngô, khoai, đậu lạc, vừng,
… Nạn đói kinh niên từng bước bị đẩy lùi và có nhiều hộ gia đình dùng nguồn
lương thực, hoa màu dư thừa phát triển mạnh chăn nuôi trâu bò, lợn gà, ngan
ngỗng. Nhiều hộ gia đình có đàn trâu bò lên tới 5 -7 con, đàn lợn nái với 3 - 4 con
lợn mẹ, đàn dê vài chục con. Đây thực sự là một thành tựu rất đáng tự hào của
Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ trong việc vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng
vào điều kiện cụ thể của địa phương, nhằm biến khẩu hiệu đưa nông nghiệp lên
thành ngành sản chính, đẩy lùi nạn thiếu đói lương thực, thực phẩm. Nếu so sánh
với một số huyện miền núi và đồng bằng khác trong cùng thời gian này thì Tân Kỳ
thực sự là một địa phương điển hình trong việc giải quyết nguồn lương thực cho
đại bộ phận nhân dân bằng những chính sách cụ thể. Nông nghiệp Tân Kỳ sau 10
năm (1975 -1985) có bước phát triển liên tục, bền vững, trong cả hai ngành trồng
trọt và chăn nuôi và trên cả hai bình diện: kinh tế nông nghiệp HTX và kinh tế
nông nghiệp hộ gia đình.
Bên cạnh phát triển trồng trọt, chăn nuôi tập thể và hộ gia đình ở Tân Kỳ trong
vòng 10 năm cũng có những bước tiến vượt bậc. Với truyền thống lao động cần cù
sáng tạo, nhân dân Tân Kỳ hăng hái khai hoang, phục hoá, mở rộng diện tích trồng
ngô, khoai, sắn,…tạo nguồn thức ăn ổn định để phát triển chăn nuôi gia cầm, gia
súc, phát triển mạnh đàn trâu, bò, dê. Đến thập kỷ 80, trong khi nhiều hộ gia đình ở
các huyện miền xuôi thiếu gạo, ngô, khoai sắn để đảm bảo bữa ăn thì ở Tân Kỳ
không ít hộ gia đình mỗi năm có thu nhập hàng tấn ngô, lạc, khoai, sắn,… Nhiều
hộ gia đình chăn nuôi từ 5 -7 con lợn, vài chục đến vài trăm con gà vịt, 3 -5 con
trâu, bò. Sự no đủ của nhiều hộ gia đình ở Tân Kỳ là một trong những nguyên nhân
để không ít hộ gia đình từ Nam Đàn, Thanh Chương, Đô Lương, Yên Thành,…di
dân lên vùng Rỏi, Tân Diên, Nghĩa Hoàn, Nghĩa Hợp,v.v… và chọn vùng đất này
thành quê hương mới của mình. Đây là một trong những đợt di dân tự do kéo dài
từ cuối những năm 70 cho đến hết thập kỷ 80 của thế kỷ trước, tuy có gây ra một
số khó khăn cho các cấp chính quyền địa phương, song
Kinh tế hộ gia đình phát triển tạo đà thuận lợi cho nhiều hộ dân ở Tân Kỳ thoát
nghèo, vươn lên làm giàu bằng chính tinh thần lao động cần cù, sáng tạo và ý chí
sắt đá của mình.
Một trong những thành tựu khá nổi bật ở Tân Kỳ trong chặng đường 10 năm
phát triển nền nông nghiệp toàn diện, từng bước phá thế độc canh cây lúa, tăng
nguồn thu nhập cho nhân dân và cải thiện bữa ăn hàng ngày của nhân dân trên địa
bàn các xã là việc đào ao, tận dụng các hồ, đập, khe suối,… để thả cá. Diện tích
ao , hồ, đập, mặt nước thả cá ở Tân Kỳ từ 1976 đến 1985, tăng nhanh đều khắp
trên địa bàn các xã, phản ánh tinh thần lao động cần cù, sáng tạo của cán bộ, đảng
viên và nhân dân Tân Kỳ nhằm từng bước thay đổi toàn bộ cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, phá thế độc canh cây lúa, đưa chăn nuôi lên ngành sản xuất chính theo tinh
thần Nghị quyết của Đảng tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV và thứ V.
Cùng với các huyện thành trong cả nước, từ năm 1976 đến năm 1985, cán bộ, đảng
viên và nhân dân Tân Kỳ đã vượt qua không ít khó khăn đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp và hoàn thành vượt mức nghĩa vụ lương thực, thực phẩm cho nhà nước.
Nhìn chung, trong chặng đường từ 1975 đến 1985, bức tranh kinh tế nông
nghiệp ở Tân Kỳ đã có nhiều thay đổi cả về diện tích gieo trồng, năng suất, sản
lượng, mùa vụ, giống vật nuôi, cây trồng,… tỷ trọng giữa trồng lúa, hoa màu, cây
công nghiệp,… đến sự phát triển giữa hai ngành trồng trọ và chăn nuôi. Đời sống
của nông dân có sự thay đổi đáng kể nhất là từ khi thực hiện chỉ thị 100 của Ban bí
thư Trung ương Đảng (1983). Tuy nhiên, nền kinh tế nông nghiệp ở Tân Kỳ cũng
nằm trong tình trạng chung của kinh tế nông nghiệp cả tỉnh và rộng hơn là cả nước.
Nhiều bất cập đã nảy sinh, nhất là vai trò của các HTX nông nghiệp, HTX mua
bán, cửa hàng mua bán vật tư nông nghiệp huyện,v.v… Tinh thần làm chủ tập thể
của đại bộ phận nông dân trong các HTX nông nghiệp giảm sút nghiêm trọng,
ngày công lao động của xã viên HTX nông nghiệp thấp kéo dài trong nhiều năm là
một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đó. Đội ngũ cán bộ quản
lý HTX nông nghiệp bộc lộ nhiều hạn chế trong quản lý, điều hành sản xuất.
Nguồn lực lao động dồi dào chưa được phát huy hết khả năng, nhất là nguồn lực
đất đai do các HTX nông nghiệp quản lý chưa được khai thác tốt, v.v… Chỉ thị 100
của Ban Bí thư về việc khoán sản phẩm từng phần đến tận các hộ xã viên đã tạo ra
một hướng đi mới là cần phải thay đổi cách thức quản lý, tổ chức, xây dựng, phát
triển nông nghiệp trong phạm vi cả nước. Một thực tế đáng buồn là cho đến năm
1985, tổng sản lượng lương thực của cả nước mới đạt khoảng 16,5 triệu tấn lương
thực quy thóc, trong khi đó Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ V
đặt ra là phải phấn đấu đạt trên 21 triệu tấn lương thực. Riêng tỉnh Nghệ Tĩnh có
nguồn tài nguyên đất đai phong phú, nhân dân lao động cần cù sáng tạo, nhưng
mục tiêu mà Đại hội tỉnh Đảng bộ Nghệ Tĩnh đặt ra là phấn đấu đến năm 1985 đạt
trên 1 triệu tấn lương thực đã không trở thành hiện thực. Một bộ phận lớn hộ gia
đình nông dân trên địa bàn tỉnh rơi vào thiếu đói lương thực từ 3 - 5 tháng trong
năm. Cán bộ, công nhân viên chức nhà nước phải cắt giảm bớt khẩu phần lương
thực do nhà nước cung cấp và họ phải nhận từ 30 - 40% lượng lương thực theo chế
độ quy định từ ngô, khoai sắn các loại.
* Chuyển biến của kinh tế Nông nghiệp ở Tân Kỳ trong công cuộc đổi
mới (1986 - 2012)
Thực tiễn lịch sử xây dựng, bảo vệ đất nước đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết cần
giải quyết. Nhất là từ những năm 80, tình hình thế giới và trong khu vực Đông
Nam Á, rộng hơn là châu Á có nhiều thay đổi, theo chiều hướng bất lợi đối với
cách mạng Việt Nam. Nhận thức rõ những yêu cầu cấp thiết đó, tại Đại hội đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI (15 -18/12/1986) với tinh thần: “nhìn thẳng vào sự
thật” Đảng cộng sản Việt Nam quyết định thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
Tại Đại hội lịch sử này, Đảng ta quyết định xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính quan
liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội
đề ra kế hoạch 5 năm (1986 -1990) và Ba chương trình kinh tế là: Lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Thực hiện chủ trương đổi mới đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban
Chấp hành tỉnh Đảng bộ Nghệ Tĩnh đã chỉ đạo cấp ủy, chính quyền và đoàn thể
các cấp phát động toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân trên địa bàn tỉnh triển khai
Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, phát huy truyền thống cách
mạng thực hiện thắng lợi Ba chương trình kinh tế, tạo bước đột phá về phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nghị quyết của Đại hội đại biểu huyện Tân Kỳ lần thứ XIII (tổ chức vào
ngày 30/9 - 03/10/1986) đã nêu rõ nhiệm vụ cho toàn thể cán bộ, đảng viên và
nhân dân Tân Kỳ là: “Tiếp tục xây dựng cơ cấu kinh tế nông - lâm - công nghiệp.
Cả ba thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và gia đình đều phải tập trung phát
triển mạnh vùng chuyên canh cây lương thực, cây công nghiệp xuất khẩu, trồng
rừng kinh tế. Từng bước hình thành vùng nguyên liệu đáp ứng cho công nghiệp
chế biến nông - lâm sản. Phát triển ngành nghề tiểu thủ - công nghiệp. SẢn xuất
nhiều mặt hàng nông, lâm sản và dược liệu để xuất khẩu. Nhanh chóng phủ xanh
đất trống đồi trọc. Tăng nhanh đàn tiểu, đại gia súc, gia cầm, dê, cá. Đặc biệt là
tăng nhanh đàn lợn, đàn trâu bò”3…
Đại hội đã thông qua những mục tiêu cụ thể sau:
Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 20.000 tấn; lạc vỏ đạt từ 2.000 -
2.400 tấn, mía cây đạt sản lượng 4.500 - 5.000 tấn. Phấn đấu đến năm 1990 trồng
mới 5.000 ha rừng, đàn trâu trên địa bàn huyện đạt 19.000 con; đàn bò đạt 8.800
con; đàn lợn đạt 29.000 con,…
3,2. Tài liệu do Văn phòng Huyện ủy Tân Kỳ cung cấp, hiện lưu tại Văn phòng Huyện ủy.TG.
Tin tưởng, phấn khởi vào đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam,
toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Tân Kỳ hăng hái tham gia lao động sản
xuất nhằm hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh tế mà Đại hội Huyện Đảng bộ Tân
Kỳ lần thứ XIII vạch ra. Thực hiện chủ trương của huyện từ ngày 16 tháng 10 đến
ngày 20 tháng 11 năm 1986, Tân Kỳ huy động trên 2.500 lao động thuộc 7 xã ra
quân xây dựng công trình thủy lợi Khe Vành (thuộc xã Hương Sơn). Vượt qua
nhiều khó khăn, lực lượng tham gia xây dựng công trình thủy lợi Khe Vành đã
hoàn thành việc đào đắp trên 12.000m3 đất đá, xây dựng ba kênh mương dẫn nước
(01 kênh chính, 02 kênh phụ, với tổng chiều dài trên 2.500m. Công trình được
hoàn thành, đã giải quyết một phần nước tưới cho địa bàn xã Hương Sơn.
Chỉ trong vòng 4 năm (1986 - 1990), kinh tế nông nghiệp huyện Tân Kỳ đã
có những thay đổi to lớn, trong đó, kinh tế vườn đồi, kinh tế hộ gia đình phát triển
với tốc độ nhanh chưa từng thấy. Nhiều hộ gia đình người Thái, người Kinh, người
Thổ ở Nghĩa Hoàn, Nghĩa Bình, Nghĩa Đồng, Nghĩa Dũng, Hương Sơn, Tiên Kỳ,
… mạnh dạn đầu tư vốn xây dựng chuồng trại chăn nuôi trâu bò, lợn gà, dê, thả cá.
Số hộ gia đình có từ 3 - 5 con trâu bò ở các xã tăng nhanh, trong đó có một số hộ
có tới 10 - 15 con trâu bò, 5 - 7 con lợn và hàng chục con gà vịt, ngan, ngỗng.
Nhiều hộ gia đình đầu tư nuôi từ 3 - 5 năm con lớn nái, mỗi năm xuất chuồng hàng
trăm con lợn giống. Một số hộ gia đình đầu tư nuôi lợn thịt, từ 5 -10 con/ 1 lứa,
mỗi năm xuất chuồng tới hai đến ba tấn lợn hơi. Kinh tế hộ gia đình phát triển theo
mô hình VAC (vườn - ao - chuồng). Không ít hộ gia đình cầy cấy từ 1,5 - 2 mẫu
đất, thu nhập tới 5 - 6 tấn lúa/1 năm, chưa kể các loại ngô khoai sắn. Công cuộc đổi
mới do Đảng khởi xướng thực sự mở đường cho nông dân cả nước vươn lên giải
quyết bền vững vấn đề lương thực, thực phẩm, có tính lũy và cuộc sống no đủ đến
tận mọi thôn cùng ngõ hẻm ở làng quê. Trên thực tế đến năm 1988 -1989, về cơ
bản đại bộ phận các hộ gia đình nông dân ở Tân Kỳ đã giải quyết dứt điểm nạn
thiếu đói lương thực, thực phẩm, có tích lũy để tái đầu tư phát triển sản xuất nhất là
phát triển chăn nuôi.
Khác với thời kỳ bao cấp, các hộ gia đình nhận trâu bò của HTX để chăn
nuôi để hưởng công điểm, chuyển sang thời kỳ đổi mới, hình thức chăn nuôi này
không còn nữa. Các hộ gia đình nông dân trên phạm vi cả nước nói chung, Tân Kỳ
nói riêng tự bỏ tiền xây chuồng trại, mua con giống và phát triển chăn nuôi. Trâu
bò không còn là tài sản của tập thể mà là tài sản của các hộ gia đình nông dân, do
đó, tình trạng trâu bò bị chết rét, dịch bệnh,… giảm nhanh chóng. Thay vào đó, đàn
trâu, bò của các hộ gia đình được chăm sóc bảo vệ chu đáo, phát triển nhanh
chóng. Thương nhân từ nhiều nơi trong tỉnh, ngoài tỉnh đến Tân Kỳ tìm mua trâu
bò về cày kéo, làm thịt ngày càng đông và theo đó thu nhập từ chăn nuôi của các
hộ gia đình tăng nhanh.
Các hộ gia đình nhận ruộng canh tác trong thời gian dài, do đó tự mỗi hộ gia
đình bố trí nguồn nhân lực ra đồng từ sớm để cày bừa, cải tạo đồng ruộng, dẫn
nước vào ruộng và gieo cấy theo đúng mùa vụ. Ngoài phân hóa học, nhờ chăn nuôi
phát triển do đó nguồn phân chuồng đầu tư cho đồng ruộng tăng nhanh, các giống
lúa ngắn ngày cho năng suất cao thay thế dần các giống lúa cũ. Do đó, năng suất
lúa tăng nhanh. Đặc biệt trong thời gian từ 1987 - 1990, diện tích trồng lúa 3 vụ ăn
chắc ở Tân Kỳ tăng mạnh, nhất là diện tích lúa hè thu.
Bên cạnh trồng lúa, Tân Kỳ còn mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp ngắn
ngày nhất là lạc, vừng, ớt cay, mía mang lại thu nhập cao cho nhân dân. Thế độc
canh cây lúa dần dần bị phá vỡ, chăn nuôi thực sự trở thành ngành sản xuất chính,
cây công nghiệp và cây ăn quả mang lại nguồn thu khá bền vững cho nhiều hộ gia
đình. T ân Kỳ trở thành một trong những huyện điển hình của tỉnh Nghệ Tĩnh về
ph át triển chăn nuôi gia đình.
Cùng với Đảng bộ và nhân dân Nghệ Tĩnh, sau năm năm thực hiện công
cuộc đổi mới và Ba chương trình kinh tế do Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ VI đề ra, Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ đã đưa nền kinh tế huyện nhà thay đổi
mạnh mẽ cả về cơ cấu mùa vụ, diện tích gieo trồng và nhất là làm thay đổi tỷ trọng
giữa hai ngành trồng trọt và chăn nuôi. Bảng thống kê dưới đây cho thấy sự thay
đổi nhanh chóng trong tỷ trọng giữa ngành trồng trọt và chăn nuôi ở Tân Kỳ
Năm 1991, thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước, tỉnh Nghệ Tĩnh, sau
16 năm hợp nhất (1975 - 1991), chia thành hai tỉnh là tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà
Tĩnh. Đây cũng là năm Đại hội đại biểu Đảng các cấp được tổ chức. Tháng 6 năm
1991, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng được tổ chức tại thủ
đô Hà Nội. Đại hội tổng kết những thành tựu và rút ra những bài học từ thực tiễn 5
năm đổi mới. Đại hội đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 , đề ra
kế hoạch năm năm 1991 -1995,…
Sau thời gian gấp rút hoàn thành việc chia tách tỉnh, từ ngày 27 đến ngày 29
tháng 2 năm 1992, Đại hội Đại biểu Đảng bộ Nghệ An lần thứ XIII được tổ chức
tại thành phố Vinh. Đại hội đề ra mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ
An giai đoạn 1992 -1996, trong đó nhấn mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế nông
nghiệp từ 4 - 5%, phấn đấu đến năm 1995 tổng sản lượng lương thực đạt 62 – 65
vạn tấn4.
Trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội được thông qua
tại Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ Tân Kỳ lần thứ XV (tổ chức từ ngày 30 đến
ngày 31 tháng 12 năm 1991) đã xác định: “Tiếp tục đổi mới toàn diện, phát huy
sức mạnh tổng hợp, khai thác tốt mọi tiềm năng, xây dựng cơ sở vật chất kinh tế,
đổi mới cơ chế quản lý, thực hiện Ba chương trình kinh tế mà trọng tâm là giải
quyết vấn đề lương thực, thực phẩm. Từng bước phát triển kinh tế nhiều thành
phần, lấy hộ gia đình làm đơn vị kinh tế tự chủ, củng cố kinh tế quốc doanh. Nâng
4 Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tập III, (1975 - 2005) NXB Chính trị quốc gia, H, 2008, tr 148 -149
cao vai trò điều hành quản lý và dịch vụ của Ban quản lý HTX, ứng dụng nhanh
những thành tựu khoa học công nghệ. Tập trung giải quyết tự cân đối lương thực
trên địa bàn, đáp ứng đủ hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân, tạo khả năng xuất
khẩu một số sản phẩm chính,…”5
Đại hội đã thông qua các mục tiêu cụ thể về sản xuất nông nghiệp của huyện
Tân Kỳ từ năm 1991 đến năm 1995 như sau:
Phấn đấu đưa tổng sản lượng lương thực từ 21.000 tấn năm 1991 lên 26.500
tấn năm 1995.
Phấn đấu đưa bình quân lương thực đầu người từ 198 kg/1 đầu người/ năm
năm 1991 lên 240kg/ 1 người/1 năm
Phấn đấu đưa sản lượng lạc vỏ từ 1800 tấn năm 1991 lên 2.400 tấn năm
1995
Đưa diện tích trồng mía từ 650 ha năm 1991 lên 1.000 ha năm 1995
Đưa tổng đàn bò năm 1995 lên 16.000 con, đàn trâu đạt 23.000con; đàn lợn
36.000 con6.
Phát huy những thành tựu đạt được trong năm năm đầu thực hiện công cuộc
đổi mới, rút bài học từ thực tiễn chỉ đạo sản xuất nông nghiệp trên địa bàn, Huyện
ủy, Ủy ban nhân dân huyện Tân Kỳ chỉ đạo Phòng nông nghiệp huyện tăng cường
cán bộ về các xã, phối hợp với cấp ủy chính quyền địa phương chỉ đạo nhân dân
mở rộng diện tích gieo trồng các loại cây lương thực, hoa màu, cây công nghiệp
ngắn ngày, đưa cây dâu vào trồng để phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm ở một số
xã có điều kiện thuận lợi, mở rộng diện tích trồng cây cao su, lên lịch thời vụ, đảm
bảo kịp thời việc cung cấp phân bón, giống, vật tư nông nghiệp cho bà con nông
dân,v.v… Nhờ những biện pháp chỉ đạo sát hợp với thực tiễn địa phương và tinh
5 Lịch sử Đảng bộ huyện Tân Kỳ (1963 -2005), sdd.6 Tài liệu do Văn phòng Huyện ủy Tân Kỳ cung cấp, hiện lưu tại Văn phòng Huyện ủy.
thần lao động cần cù, sáng tạo của các hộ nông dân ở tất cả các xã mà nền kinh tế
nông nghiệp Tân Kỳ có bước chuyển biến mạnh mẽ. Trong thời gian này, số hộ gia
đình ở Nghĩa Hoàn, Nghĩa Bình, Nghĩa Dũng, Nghĩa Hợp, Nghĩa Đồng,v.v… đầu
tư xây dựng chuồng trại chăn nuôi trâu, bò, lợn, dê, gà, vịt tăng nhanh. Số hộ gia
đình nuôi từ 3 - 5 con lợn thịt, 3 - 4 con lợn nái, 5 - 7 con trâu bò, 15 - 20 con dê,
30 - 50 con gà vịt tăng nhanh, đều khắp ở 16 xã trong huyện. Chăn nuôi thực sự trở
thành nguồn thu nhập ổn định cho các hộ gia đình nông dân và góp phần đẩy lùi
đói nghèo lạc hậu ra khỏi bản làng, thôn xóm. Ngoài chăn nuôi gia súc, gia cầm,
hàng trăm hộ gia đình trên địa bàn huyện còn đào ao nuôi cá, nhiều hộ nhận thầu
khoán những vùng đất ngập nước, hồ đập, cải tạo khe suối để nuôi cá. Một số hộ
đã bắt đầu thí điểm nuôi ếch, ba ba,v.v… Một trong những thay đổi quan trọng
trong ngành chăn nuôi ở Tân Kỳ từ năm 1991 - 1995 là cải tạo đàn giống. Các
giống lợn lai kinh tế có trọng lượng từ 80 - 120 kg/con, cho nhiều nạc dần dần thay
thế các giống lợn nội địa, có tỷ lệ nạc thấp. Cán bộ thú ý chủ động trong việc tìm
nguồn tinh để Sin hóa đàn bò, nhằm thay thế đàn bò cỏ có tầm vóc nhỏ và tỷ lệ thịt
ít. Đàn trâu cũng được thay đổi từ các giống dê mới vừa có khả năng thích ứng với
điều kiện địa phương vừa có trọng lượng từ 30 - 40 kg/con. Các giống vịt, ngan,
gà,… cũng dần dần được thay thế. Chăn nuôi trở thành một hoạt động thường
xuyên của tất cả các thành viên trong từng hộ gia đình nông dân và với mục đích là
trở thành một nguồn hàng hóa, cải thiện thu nhập cho các hộ gia đình chứ không
chỉ là để lấy sức kéo, phân bón và thực phẩm cho bữa ăn gia đình như trước.
Đến năm 1995, tổng đàn trâu bò ở Tân Kỳ đã lên tới 42.480 con vượt 12%
so với chỉ tiêu Đại hội huyện Đảng bộ Tân Kỳ lần thứ XV đề ra là 38.000 con.
Tổng đàn lợn trên địa bàn huyện đạt 41.673 con vượt chỉ tiêu đại hội Đảng bộ đề ra
4,2%. Mô hình VAC phát triển mạnh thu hút đông đảo gia đình nông dân tham gia,
trong đó phải kể đến sự thay đổi mạnh mẽ trong cộng đồng dân tộc Thái, Thổ sinh
sống ở Tân Kỳ. Đồng bào Thái, Thổ, cũng xây dựng chuồng trại như đồng bào
kinh, kết hợp giữa truyền thống với kỹ thuật chăn nuôi mới mang lại hiệu quả kinh
tế cao và đảm bảo được vấn đề vệ sinh. Tình trạng trâu bò, lợn gà vịt ở ngay dưới
gầm sàn nhà, chạy rông khắp bản dần dần chấm dứt, nhiều hộ gia đình đồng bào
Thổ, Thái ở Nghĩa Hoàn, Tân Xuân, Giai Xuân nuôi cả đàn dê lên tới hàng chục
con, 5 - 7 con trâu bò, vài chục con gà vịt, ngan, ngỗng. Một số hộ gia đình còn
chung vốn đầu tư để xây chuồng trại nuôi hươu (một con hươu cái lúc đó có giá
tương đương với khoảng 20 cây vàng, một con hươu đực giống có giá tương đương
khoảng 10 cây vàng). Họ sang tận Hương Sơn Hà Tĩnh, hay ra Quỳnh Lưu để mua
hươu giống đem về để nuôi. Chăn nuôi trâu bò, dê, lợn, gia súc, gia cầm ở Tân Kỳ
tăng mạnh, nhất là các xã Phú Sơn, Nghĩa Dũng, Nghĩa Hoàn, Tân Diên, Tân Hợp,
Nghĩa Thái,v.v… Điều đặc biệt quan trọng là trong thời gian này, các hộ gia đình
người Thái, người Thổ ở Nghĩa Hoàn, Tân Xuân, Giai Xuân,…cũng phát triển
mạnh chăn nuôi trâu bò, lợn, dê, gia cầm. nuôi cá. Các gia đình cựu chiến binh,
cựu giáo chức, gia đình cán bộ công nhân viên chức cũng nhận thêm ruộng, khai
hoang phục hoá, trồng ngô lúa, rau màu, đẩy mạnh phát triển chăn nuôi. Nhờ đó,
chỉ trong một thời gian ngắn, không chỉ có các hộ nông dân giàu lên từ nông
nghiệp nhất là phát triển chăn nuôi mà không ít gia đình cán bộ, công nhân viên
chức cũng có đời sống khá giả.
Được sự đầu tư của tỉnh và nỗ lực của nhân dân địa phương, điện đã được
đưa về vùng nông thôn. Đây là một bước đột phá quan trọng tạo điều kiện để phát
triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Một số hộ gia
đình mạnh dạn bỏ tiền mua máy xay xát, nghiền thức ăn cho gia súc, gia cầm, vừa
phục vụ nhu cầu nhân dân trong xã, vừa phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế hộ gia
đình. Nhận thức về phát triển chăn nuôi của người dân cũng thay đổi nhanh chóng:
từ chăn nuôi lấy sức kéo, phân bón phục vụ nông nghiệp là chủ yếu chuyển sang
chăn nuôi hàng hoá, tăng thêm nguồn thu nhập cho gia đình. Thực tiễn công cuộc
đổi mới đất nước làm thay đổi quê hương Tân Kỳ một cách nhanh chóng. Cuộc
sống no đủ đến với từng hộ gia đình và sự nghèo đói, túng thiếu lùi dần vào quá
khứ.
Vừa phát triển chăn nuôi, Huyện ủy, Ủy ban huyện Tân Kỳ tập trung chỉ đạo
phát triển mạnh ngành trồng trọt. Điểm đột phá là tập trung làm thủy lợi, cải tạo
đồng ruộng, sữa chữa kênh mương dẫn nước, nhằm chủ động nguồn nước tưới,
đưa giống lúa, nếp, ngô, khoai lang, sắn, lạc, mía mới vào gieo trồng để chuyển đổi
phần lớn diện tích trồng lúa từ 1 vụ lên 2 vụ, từ hai vụ lên 3 vụ trong năm, nâng
cao năng suất cây trồng. Riêng diện tích lúa vụ hè thu năm 1995 tăng gần gấp đôi
so với năm 1990, trong đó năng suất lúa tăng bình quân 7 tạ/ha, lạc tăng 3,7 tạ/ha.
Riêng Lạc, phòng Nông nghiệp huyện mạnh dạn chỉ đạo một số xã dọc đôi bờ sông
Con mạnh dạn trồng xen với ngô, mía và đưa giống lạc vụ thu vào sản xuất bước
đầu cho kết quả khá. Nghề trồng dâu nuôi tằm cũng bắt đầu thu hút được sự quan
tâm của một số hộ gia đình nông dân.
Triển khai các giải pháp đồng bộ, kịp thời nhất là việc áp dụng các tiến bộ
kho học kỹ thuật vào sản xuất tạo ra bước phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế nông
nghiệp ở Tân Kỳ. Kết quả là đến năm 1995, tổng sản lượng thọc đạt 22.104 tấn
vượt hơn 1000 tấn so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra tại Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện Tân Kỳ lần thứ XV. Bình quân lương thực đầu người toàn huyện đạt
184kg/1 người. Mức bình quân lương thực này còn thấp so với bình quân lương
thực đầu người của một số huyện đồng bằng như Yên Thành, Quỳnh Lưu, Đô
Lương trong cùng thời gian. Tuy nhiên, điểm mới của Tân Kỳ là bên cạnh cây lúa,
nông dân còn đẩy mạnh trồng lạc, ngô, mía, khoai sắn,… do đó nếu tính thu nhập
bình quân lao động của các hộ gia đình nông dân ở Tân Kỳ trong giai đoạn này lại
cao hơn so với những huyện chỉ độc canh cây lúa nước. Số hộ gia đình nông dân
giàu và khá ở các xã Nghĩa Hoàn, Nghĩa Bình, Nghĩa Đồng, Nghĩa Dũng, Nghĩa
Thái, Kỳ Sơn, Hương Sơn,v.v… tăng nhanh. Lương thực đảm bảo, nạn đói bị đẩy
lùi, các hộ gia đình nông dân trên địa bàn các xã có điều kiện đầu tư xây dựng lại
nhà cửa đàng hoàng, khang trang, to đẹp. Phong trào: “Ngói hóa” nhà cửa diễn ra
khắp các bản làng, tạo ra điểm nhấn quan trọng trong việc thay đổi diện mạo bức
tranh làng bản ở Tân Kỳ sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới.
Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ đã
vượt qua nhiều khó khăn thử thách, đưa kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện
tăng nhanh, mạnh, vững chắc. Thế độc canh cây lúa dần dần bị phá vỡ, diện tích
đất trồng cây công nghiệp, cây ăn quả tăng nhanh. Chăn nuôi phát triển mạnh, bền
vững và chuyển dần sang chăn nuôi hàng hóa, người nông dân thay đổi nhận thức
trong phát triển kinh tế hộ gia đình. Không ít hộ nông dân đến mùa thu hoạch mía,
lạc, lúa,v.v… đã thuê mướn nhân công từ các vùng miền khác đến để kịp thời vụ.
Tỷ lệ hộ giàu và khá tăng nhanh, nạn thiếu đói lương thực cơ bản đã bị xóa bỏ.
Những thành tích đạt được trong phát triển kinh tế nông nghiệp trong vòng một
thập kỷ có tác động to lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế văn hóa, xã hội ở Tân Kỳ.
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh
đạo từ năm 1986 đến năm 1995 đã đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng và thế
bị bao vây cô lập trên trường quốc tế. Việt Nam vươn lên trở thành một trong ba
nước có nguồn gạo xuất khẩu lớn nhất thế giới vào năm 1995. Năm 1995, Mỹ xóa
bỏ lệnh cấm vận kéo dài đối với Việt Nam và xác lập quan hệ ngoại giao với Việt
Nam. Cũng trong năm đó, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, kết nạp Việt Nam
thành thành viên thứ 7 của tổ chức khu vực có uy tín này. Đầu tư nước ngoài Việt
Nam tăng nhanh, kinh tế nước nhà có bước đi vững chắc. Góp phần quan trọng vào
những thành tựu to lớn đó, nền kinh tế nông nghiệp của đất nước đã có những
chuyển biến hết sức kỳ diệu cả trong ngành trồng trọt và chăn nuôi. Bức tranh kinh
tế nông nghiệp Nghệ An sau năm năm chia tách tỉnh cũng có những chuyển biến
mau lẹ. Nông nghiệp, nông thôn Nghệ An có nhiều khởi sắc.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII
được tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Đại hội đã tổng kết những thành tựu to lớn và rút
ra những tồn tại thiếu sót sau 10 năm đổi mới, đồng thời vạch ra kế hoạch năm
năm 1996 - 2000, đưa đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập vững chắc vào cộng đồng khu vực thế giới. Tại Đại hội này Đảng
ta cũng xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, nhằm
đẩy mạnh hơn nữa tốc độ phát triển kinh tế nông nghiệp, từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo nguồn lương thực dự trữ chiến
lược và nguồn gạo xuất khẩu dồi dào tăng thêm ngân sách quốc gia.
Tại đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Nghệ An lần thứ XIV, tổ chức trong ba
ngày 8 đến 11 tháng 5 năm 1996 ở thành phố Vinh, các đại biểu tham dự Đại hội
phát biểu nhiều ý kiến quan trọng, đóng góp vào văn kiện đại hội và nhấn mạnh
vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Đại hội đề ra mục tiêu đến năm
2000, tổng sản lượng lương thực trên địa bàn tỉnh phải đạt từ 82 - 85 vạn tấn7.
Trong đại hội đại biểu Huyện Đảng bộ Tân Kỳ lần thứ XVI, tổ chức từ ngày
16 đến ngày 18 tháng 4 năm 1996, đã đánh giá cao những thành tựu của nông
nghiệp Tân Kỳ trong thời kỳ 1991 - 1995, chỉ rõ những tồn tại, bất cập trong chỉ
đạo phát triển kinh tế nông nghiệp đối với các xã vùng sâu, vùng xa. Đại hội đã đề
ra những mục tiêu quan trọng để phát triển kinh tế nông nghiệp Tân Kỳ đến năm
2000 như:
- Phấn đấu đến năm 2000 toàn huyện đạt tổng sản lượng lương thực
quy thóc là: 27.000 - 30.000 tấn.
- Tổng đàn trâu bò đạt 52.000 con, đàn lợn đạt 50.000 con
7 Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tập III, (1975 – 2005), NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr 190 -191. do khuôn
khổ cuốn sách cúng tôi xin phép không trình bày kỹ nội dung Đại hội tỉnh Đảng bộ Nghệ An.TG.
- Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế gấp 2 lần mức tăng trưởng
kinh tế năm 19958,…
Nhằm đạt được những mục tiêu tăng trưởng phát triển kinh tế nói chung,
kinh tế nông nghiệp nói riêng mà Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ XVI đề ra,
Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Tân Kỳ tập trung chỉ đạo tất cả các xã trên
địa bàn huyện ra quân làm thủy lợi, sữa chữa hệ thống hồ đập, kênh mương dẫn
nước, đồng thời tập trung cải tạo đồng ruộng, thay đổi giống cây trồng vật nuôi,
áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp, nhất là việc nạc hóa đàn
lợn, Sin hóa đàn bò, mở rộng diện tích mặt nước để phát triển chăn nuôi cá,…
Rút kinh nghiệm sản xuất vụ Hè Thu và vụ Đông Xuân của những năm trước,
Phòng nông nghiệp huyện chỉ đạo các xã tập trung khâu làm đất, gieo mạ và
gieo cấy đúng thời vụ. Riêng diện tích lạc vụ thu và ngô vụ Đông, do chủ động
nguồn giống, vật tư, phân bón, nên diện tích gieo trồng năm sau cao hơn năm
trước, năng suất lạc vụ thu và ngô vụ Đông tăng nhanh. Nông dân quen dần với
việc luân canh, thâm canh, tăng vụ, bám ruộng bám đồng, chăm sóc, thu hoạch
kịp thời. Kinh tế nông nghiệp Tân Kỳ có bước chuyển biến mạnh mẽ và toàn
diện, trong đó, chăn nuôi đạt bước đột phá, sản lượng các loại cây công nghiệp
như lạc, mía, ớt, vừng,… tăng liên tiếp trong nhiều năm. Diện tích trồng cao su,
hồ tiêu được mở rộng, nông nghiệp chuyển hẳn từ tự cung tự cấp sang nền kinh
tế nông nghiệp hàng hóa. Sự tăng trưởng nhanh, bền vững của kinh tế nông
nghiệp trong những năm cuối của thế kỷ XX ở huyện Tân Kỳ góp phần quan
trọng trong việc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của nhân dân, trong
đó đáng chú ý là có hàng trăm hộ gia đình đồng bào Thái, Thổ đã thoát khỏi đói
nghèo và vươn lên làm giàu chính đáng trở thành những điển hình tiên tiến
trong phong trào nông dân làm kinh tế giỏi của toàn huyện.
8 Lịch sử Đảng bộ huyện Tân Kỳ (1963 -2005), sdd, tr 210 -211.
Kết thúc thiên niên kỷ thứ II, tổng sản lượng lương thực quy thóc toàn huyện
Tân Kỳ đạt trên 29.000 tấn, tăng bình quân 7,1%/năm. Bình quân lương thực đầu
người toàn huyện đạt 230kg/năm. Năm 2000, năng suất lúa bình quân ở Tân Kỳ
đạt trên 40 tạ/ha/năm, mía cây đạt 575 tạ/ha/năm. Tổng đàn gia súc chưa đạt mục
tiêu đại hội huyện Đảng bộ Tân Kỳ lần thứ XVI đề ra, song tăng khá: tổng đàn trâu
tăng bình quân 2,1% năm, bò tăng 0,35% năm, lợn tăng 3,3% năm.
Như vậy, sau 15 năm đổi mới (1986 -2000), kinh tế nông nghiệp Tân Kỳ đã
có bước chuyển biến và phát triển toàn diện bền vững trên nhiều phương diện:
Diện tích gieo trồng, cơ cấu mùa vụ, năng suất cây trồng vật nuôi, bình quân lương
thực đầu người, số gia đình nông dân thoát nghèo vươn lên làm giàu chính đáng
nhờ tinh thần lao động cần cù sáng tạo ngay trên vùng đất quê hương,v.v… Những
thành tựu của kinh tế nông nghiệp trên chặng đường 15 năm đổi mới đầy khó khăn
đó có tác động mạnh mẽ đối với toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa trên
địa bàn huyện.
Tuy nhiên, từ thực tiễn tổ chức lãnh đạo nông dân phát triển kinh tế nông
nghiệp trên địa bàn huyện suốt 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới (1986 -2000)
cũng bộc lộ không ít tồn tại như: vấn đề sử dụng đất đai chưa đúng mục đích ở một
số xã, chăn nuôi năm 1998, 1999 có chiều hướng chững lại và tăng trưởng chậm,
vấn đề tiêu thụ sản phẩm cho nông dân còn bộc lộ quá nhiều yếu kém hầu như thả
nổi cho thị trường, giá cả các mặt hàng nông sản bấp bênh, đầu ra cho sản phẩm
chưa được giải quyết. Nông nghiệp Tân Kỳ vẫn phát triển chưa tương xứng với
tiềm lực đất đai, nguồn lực lao động dồi dào của địa phương, vai trò của các HTX
nông nghiệp không còn như trước nếu không nói là quá mờ nhạt,v.v...
Nhận thức rõ những thành tựu và những tồn tại yếu kém trong phát triển
kinh tế nông nghiệp, căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc
lần thứ IX và Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI, bước vào thiên
niên kỷ mới, cán bộ đảng viên và nhân dân Tân Kỳ đoàn kết quyết tâm hoàn thành
vượt mức kế hoạch phát triển kinh tế xã hội mà Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện
Tân Kỳ lần thứ XVII đề ra. Được sự đồng thuận của toàn bộ cán bộ, đảng viên và
nhân dân trên địa bàn cộng với tinh thần lao động cần cù sáng tạo của nhân dân,
trong những năm đầu tiên của thiên niên kỷ thứ III, kinh tế nông nghiệp Tân Kỳ
tiếp tục có bước phát triển mạnh. Tổng diện tích lúa gieo trồng năm 2005 đạt 6 814
ha, năng suất bình quân đạt 4,32 tấn /ha. Diện tích trồng cây công nghiệp ngắn
ngày đạt 1750 ha, năng suất bình quân đạt 2,77 tấn/ha.
Tổng đàn trâu năm 2005 đạt 35.059 con, tổng đàn bò đạt 22.183 con, tổng
đàn lợn đạt 50.443 con, tổng đàn gà đạt 45 1024 con, tổng đàn vịt đạt 20935 con,
tổng đàn ngan, ngổng 8600 con. Chăn nuôi thủy hải hản ở Tân Kỳ có diện tích lên
tới 1100 ha 9,….
Như vậy, sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới , kinh tế nông nghiệp Tân
Kỳ đã có thay đổi gần như toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực: diện tích gieo trồng,
sản lượng lúa, năng suất lúa, bình quân lương thực đầu người, diện tích trồng cây
công nghiệp ngắn ngày,v.v…. Điều quan trọng là toàn bộ nông dân Tân Kỳ đã có ý
thức trong việc chuyển đổi nền kinh tế từ tự cung tự cấp sang kinh tế nông nghiệp
hàng hóa, số hộ gia đình nông dân giàu lên nhờ phát triển nông nghiệp tăng nhanh,
tỷ lệ hộ nông dân nghèo và cận nghèo giảm xuống đáng kể. Thành tựu đó đã làm
thay đổi toàn bộ diện mạo nông nghiệp, nông thôn ở Tân Kỳ, tạo đà để cán bộ,
Đảng viên, nhân dân Tân Kỳ tiếp tục vươn lên giành những thắng lợi toàn diện hơn
trong những năm tiếp theo.
Phát huy những thắng lợi đạt được trong 20 năm đổi mới (1986 - 2005), cán
bộ Đảng viên, nhân dân Tân Kỳ quyết tâm hoàn thành mục tiêu Đại hội Đảng bộ
huyện Tân Kỳ lần thứ XVIII đặt ra. Kinh tế nông nghiệp huyện Tân Kỳ tiếp tục là
mặt trận hàng đầu, tạo ra những chuyển biến tích cực trong toàn bộ cơ cấu kinh tế
9 Số liệu do Phòng nông nghiệp huyện Tân Kỳ cung cấp. TG.
của huyện, giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn hộ gia đình nông dân, tạo
nguồn thu nhập đáng kể cho các gia đình nông dân thuộc các dân tộc Thái, Thổ,
Kinh, sống trên địa bàn huyện. Đến năm, 2009, về cơ bản cán bộ, đảng viên và
nhân dân Tân Kỳ đã đạt được những mục tiêu kinh tế nông nghiệp mà Đại hội
huyện Đảng bộ Tân Kỳ khóa XVIII đã đặt ra. Một vài số liệu thống kê sau đây
khẳng định điều đó. Năm 2009, diện tích trồng lúa 2 -3 vụ ở Tân Kỳ đạt 6.703 ha,
năng suất bình quân đạt 4,06 tấn/ha. Diện tích trồng cây công nghiệp ngắn ngày đạt
1272 ha. Tổng đàn trâu đạt 31077 con, đàn bò đạt 22308 con, đàn lợn lên tới
51.850, tổng đàn cá chăn nuôi vượt trên 56 1563 con, đàn vịt lên tới 19 458 con,
đàn gà vượt quá 561.583, đàn ngan ngỗng lên tới 10.885 con, diện tích nuôi cá lên
tới 1073 ha10. Nông nghiệp, nông thôn Tân Kỳ tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận
lợi để thực hiện triệt để công cuộc xóa đói giảm nghèo trên địa bàn huyện.
Kết thúc thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ đoàn
kết, sáng tạo chung tay góp sức cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân xây dựng
nông thôn mới, quyết tâm phấn đấu để giảm bớt cách biệt giữa nông thôn và thành
thị, giữa đồng bằng và miền núi. Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu huyện
Đảng bộ Tân Kỳ lần thứ XIX, kinh tế nông nghiệp Tân Kỳ tiếp tục có bước tăng
trưởng khá.
Một vài số liệu thống kê sau đây cho thấy điều đó:
Tổng diện tích trồng lúa năm 2012 đạt 7524 ha tăng hơn so với năm 2009
trên 800 ha (6703), năng suất lúa bình quân vượt 5,2 tấn ha, tăng gấp hơn ba lần so
với năng suất bình quân năm 1986 (5,2 tấn / 1,56 tấn). Tổng đàn trâu trên địa bàn
huyện đạt 27980 con, tăng hơn năm 1986 gần 8000 con (27980 con/ 19850 con),
tổng đàn bò toàn huyện đạt 16115 con; lợn đạt 49 776 con, đàn gà đạt 632616 con,
vịt đạt 40 702 con; diện tích thả cá đạt 1325 ha,v.v…
10 Số liệu do Phòng nông nghiệp Tân Kỳ cung cấp, hiện lưu tại Phòng nông nghiệp huyện Tân Kỳ. TG.
Như vậy, từ năm 1975, khi bắt tay xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa đến nay (2012), trải qua 37 năm, kinh tế nông nghiệp Tân Kỳ đã có
bước thay đổi toàn diện sâu sắc. Từ chỗ là một huyện có trên 55% số hộ gia đình
nông dân trong địa bàn huyện thiếu đói lương thực từ 4 - 5 tháng trong năm, đến
nay, đại bộ phận gia đình nông dân đã giải quyết tốt lương thực, thực phẩm, có dự
trữ. Chỉ còn lại một số hộ gia đình đồng bào Thổ, đồng bào Thái, và một số hộ gia
đình gặp hoàn cảnh khó khăn ở Tân Xuân, Giai Xuân, Nghĩa Hoàn,… huyện và
nhà nước phải hỗ trợ lương thực trong dịp lễ tết. Nền nông nghiệp độc canh cây lúa
nước đã bị phá vỡ thay vào đó là nền kinh tế nông nghiệp phát triển đồng bộ giữa
trồng trọt và chăn nuôi, giữa trồng cây lương thực và cây công nghiệp. Một thành
tựu quan trọng khác là từ nền kinh tế mang tính tự cung tự cấp, kinh tế nông
nghiệp ở Tân Kỳ đang chuyển dần sang kinh tế hàng hóa. Diện mạo nông nghiệp,
nông thôn và nông dân ở Tân Kỳ đã hoàn toàn khác trước. Thành tựu đó khẳng
định quyết tâm nỗ lực của toàn Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ, đồng thời tạo điều
kiện thuận lợi để quân dân Tân Kỳ hoàn thành công cuộc xây dựng nông thôn mới
đưa Tân Kỳ sớm tiến kịp với các huyện khá trong tỉnh và của cả nước. Để tiện theo
dõi bước phát triển vượt bậc của nông nghiệp ở Tân Kỳ, chúng tôi xin lập bảng
thống kê dưới đây.
Bảng thống kê năng suấ t lúa bình quân ở Tân Kỳ trong một số năm từ 1988
đến 2012
TT NămDiện tích 2 đến 3 vụ
lúa(ha)
Năng suất lúa bình quân
(tấn)Ghi chú
1 1988 6479 1,56
2 1990 6606 1,821
3 1995 5846 2,18
4 2000 5720 4,01
5 2005 6814 4,32
6 2009 6703 4,06
7 2012 7504 5,2
(Nguồn: Phòng nông nghiệp phát triển nông thôn huyện Tân Kỳ cung cấp)
Bảng thống kê diện tích trồng một số cây công nghiệp ngắn ngày ở Tân Kỳ
trong một số năm từ 1988 đến 2012
TT Năm Lạc (ha) Vừng (ha) Ghi chú
1 1988 1398 126
2 1990 1841 157
3 1995 2570 107
4 2000 1804 232
5 2005 1750 277
6 2009 1270 264
7 2012 859 179
(Nguồn: Phòng nông nghiệp, phát triển nông thôn huyện Tân Kỳ cung cấp)
Bảng thống kê chăn nuôi gia súc, gia cầm trong một số năm ở Tân Kỳ từ năm 1988
đến năm 2012. Đơn vị tính: con
TT Năm Trâu Bò Lợn gà Vịt Ngan, ngỗng
1 1988 20195 9535 32200
2 1990 21403 8850 32900
3 1995 25750 11013 38182
4 2000 28460 13222 49234 359000 20500 7250
5 2005 33059 22183 50433 451124 20935 8600
6 2009 31077 22300 51850 561563 19456 10885
7 2012 27980 16115 49767 632616 40712 35945
(Nguồn: Phòng nông nghiệp, phát triển nông thôn huyện Tân Kỳ cung cấp) Ảnh cánh đồng lúa vụ xuân ở Tân Kỳ
Chăn nuôi trâu bò ở Tân Kỳ
2. Lâm nghiệp
Tân Kỳ là một trong những huyện miền núi phía tây của tỉnh Nghệ An có
diện tích rừng nguyên sinh che phủ đạt trên 40% tổng diện tích đất đai toàn huyện.
Tuy nhiên, do chiến tranh tàn phá và quá trình di dân tự do từ các huyện Nam Đàn,
Yên Thành, Diễn Châu,v.v… ồ ạt từ năm 1975 đến năm 1985, lên định cư ở Tân
Kỳ diện tích rừng của Tân Kỳ bị tàn phá nghiêm trọng. Số liệu thống kê diện tích
rừng nguyên sinh ở Tân Kỳ bị chặt phá trong khoảng 20 năm từ năm 1975 đến năm
1995 do Uỷ ban nhân dân huyện Tân Kỳ cung cấp đã cho thấy một thực trạng đau
lòng là gần như toàn bộ các cánh rừng nguyên sinh ở Tân Kỳ đã bị triệt phá một
cách khá triệt để. Đây thực sự là một trong những yếu kém của các cấp chính
quyền địa phương trong việc quản lý, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá.
Điều đáng quan tâm là trong giai đoạn này, toàn bộ diện tích rừng nguyên sinh ở
Nghệ - Tĩnh, Nghệ An cũng nằm trong tình trạng tương tự. Tình trạng tài nguyên
rừng bị khai thác cạn kiệt kéo dài trong nhiều năm, song các cấp chính quyền từ xã
đến tỉnh không có giải pháp cụ thể, đủ mạnh để ngăn chặn.
Trên thực tế, trong thời gian từ năm 1975 đến năm 1995, diện tích rừng
nguyên sinh ở tất cả các huyện miền núi phía Tây Nghệ An đều bị thu hẹp do các
nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Các Lâm trường quốc doanh tập trung khai thác một khối lượng gỗ lớn để
xuất khẩu, đổi máy móc thiết bị, vật tư,v.v… phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước
- Do nạn chặt rừng, đốt nương làm rẫy của đồng bào các dân tộc ít người cư
trú trên địa bàn các huyện miền núi.
- Do nạn khai thác rừng bừa bãi để lấy gỗ, tre, nứa mét,… xây dựng nhà cửa
và buôn bán kinh doanh kiếm lời mà ngành lâm nghiệp không kiểm soát nổi.
- Do quá trình di dân tự do từ các huyện đồng bằng lên định cư ở miền núi, k
éo theo nạn chặt phá rừng,.v.v…
Riêng huyện Tân Kỳ, do các cánh rừng nguyên sinh nằm ở các khu vực gần
đường sông Con và các tuyến đường bộ, lại ở độ cao vừa phải, không mấy khó
khăn trong việc khai thác, vận chuyển, do đó, ngoài diện tích rừng do Lâm trường
quốc doanh khai thác, một phần lớn diện tích rừng bị triệt hạ bởi nhiều thành phần
khác nhau trong xã hội. Để mất nguồn rừng nguyên sinh một cách nhanh chóng
trên địa bàn huyện Tân Kỳ cũng như c ác huy ện
Ngành lâm nghiệp huyện Tân Kỳ trong 10 năm (1980 -1990), liên tục hoàn
thành kế hoạch khai thác rừng mà ngành lâm nghiệp tỉnh Nghệ Tĩnh giao phó.
Trong đó, năm 1987 Lâm trường khai thác vượt chỉ tiêu 4%, năm 1988, vượt chỉ
tiêu kế hoạch 18%. Ngoài ra, mỗi năm lâm trường còn khai thác thêm hàng trăm
m3 gỗ để xuất khẩu đổi lấy máy móc, thiết bị,… tái đầu tư phát triển sản xuất. Để
tiện theo dõi, chúng tôi xin lập bảng thống kê, hoạt động khai thác gỗ của ngành
lâm nghiệp huyện Tân Kỳ trong khoảng thời gian từ 1975 đến năm 1995.
Bên cạnh việc khai thác rừng hoàn thành vựơt mức kế hoạch được giao, thực
hiện chủ trương của tỉnh và huyện, ngành lâm nghiệp huyện Tân Kỳ tổ chức cán bộ
kiểm lâm để bảo vệ rừng. Công tác khảo sát quy hoạch nguồn tài nguyên rừng
cũng đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Song song với việc tổ chức khai
thác, tu bổ rừng, thực hiện chủ trương của ngành lâm nghiệp tỉnh Nghệ Tĩnh, tỉnh
Nghệ An và Nghị quyết của Đại hội huyện Đảng bộ Tân Kỳ, ngành lâm nghiệp
Tân Kỳ đã phát động phong trào trồng rừng và bước đầu đạt được một số thành tựu
khả quan. Bảng thống kê diện tích rừng được trồng mới ở Tân Kỳ từ năm 1975 đến
năm 1995 cho thấy điều đó.
Tuy nhiên, trong bối cảnh chung của cả tỉnh, công tác bảo vệ rừng, ngăn
chặn tình trạng khai thác rừng bừa bãi, thiếu tổ chức vẫn tiếp tục diễn ra kéo dài
trong nhiều năm. Hoạt động chặt rừng đốt cây làm rẫy của đồng bào Thổ, đồng bào
Thái trên địa bàn diễn ra trong nhiều năm, công tác vận động đồng bào định canh,
định cư được tiến hành khá sớm, song kết quả mang lại không như mong muốn.
Diện tích rừng cần được bảo vệ rừng lớn, trong khi lực lượng kiểm lâm lại quá
mỏng, nên tình trạng khai thác rừng bừa bãi với số lượng người tham gia ngày
càng đông tiếp tục kéo dài trên địa bàn Tân Kỳ và các huyện miền Tây Nghệ Tĩnh
trong những năm 80, 90 của thế kỷ trước tiếp tục diễn ra. Diện tích rừng nguyên
sinh ngày càng cạn kiệt, trong khi diện trích đất trống đồi trọc ngày càng tăng.
Trước tình trạng đó, thực hiện chủ trương giao đất giao rừng của nhà nước, Huyện
ủy, Ủy ban nhân dân huyện, ngành lâm nghiệp Tân Kỳ phối hợp với cấp ủy chính
quyền địa phương, rà soát lại toàn bộ diện tích rừng trên địa bàn các xã và bắt đầu
triển khai việc giao đất, giao rừng cho nhân dân. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền
vận động nhân dân, khảo sát, quy hoạch nguồn tài nguyên rừng nên công tác giao
đất giao rừng ở Tân Kỳ đạt kết quả tốt.
Mô hình kinh tế: “Nông - Lâm kết hợp” được Huyện ủy Tân Kỳ đề ra trong
các kỳ Đại hội huyện Đảng bộ phát huy hiệu quả. Ví dụ, tại Đại hội, đại biểu huyện
Đảng bộ Tân Kỳ lần thứ XIV(11 - 12 - 01 -1989) đã đề ra mục tiêu là phấn đấu
trồng rừng tập trung với diện tích 500 ha và trồng hơn 1,5 triệu cây phân tán. Kết
quả đến năm 1990, huyện Tân Kỳ đã trồng được trên 500 ha rừng và trên 2,5 triệu
cây phân tán trên địa bàn các xã. Hoặc Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ Tân Kỳ
lần thứ XV đề ra là hoàn thành việc trồng từ 150 - 200 ha rừng và 1,5 - 2 triệu cây
phân tán mỗi năm. Kết quả là trong nhiệm kỳ đó, Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ đã
hoàn thành vượt mức kế hoạch đại hội đề ra.
Phong trào trồng cây gây rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc, giao đất gieo
rừng cho nhân dân quản lý, bảo vệ và chăm sóc ở Tân Kỳ phát triển mạnh trong
những năm 90 của thế kỷ trước. Nhờ đó, một phần diện tích đất trống đồi trọc trên
địa bàn đã được phủ xanh, diện tích rừng trồng tăng nhanh, trả lại màu xanh trên
địa bàn toàn huyện. Nhiều hộ gia đình nhận từ 5 -7 ha rừng để chăm sóc, bảo vệ và
khoanh nuôi, trong đó có không ít hộ gia đình nhận từ 20 -30 ha rừng để chăm sóc.
Bảng thống kê về việc giao đất, giao rừng cho nhân dân chăm sóc, bảo quản
khoanh nuôi ở Tân Kỳ từ năm 1988 đến năm 2000, phản ánh phần nào những nỗ
lực của Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ trong việc phục hồi diện tích rừng và phát
triển mô hình kinh tế Nông - Lâm nghiệp nhằm tạo bước phát triển bền vững cho
nền kinh tế Tân Kỳ trước mắt cũng như lâu dài.
Từ năm 1995 trở đi, công tác khoanh nuôi bảo vệ rừng có bước chuyển biến
mạnh mẽ, toàn diện. Huyện ủy Tân Kỳ cùng với Ủy ban nhân dân huyện và ngành
Lâm nghiệp triển khai các dự án 4034, 327 một cách kịp thời phù hợp với tình
hình thực tiễn địa phương, nhờ đó, diện tích rừng được khoanh nuôi, bảo vệ đến
năm 2005 đạt 13.000 ha. Năm 1995, diện tích rừng được chăm sóc mới chỉ là
444,7 ha, đất rừng tập trung là là 1.893ha thì đến năm 1996 đã có 5.378 ha rừng và
đất rừng tập trung được giao cho 1.669 hộ gia đình trên địa bàn 16 xã trực tiếp
quản lý.
Ngoài ra, trên địa bàn Tân Kỳ còn có trên 500 ha cao su được trồng từ
những năm trước đã phát triển và bắt đầu cho thu hoạch góp phần làm đa dạng hơn
về các loại rừng trên địa bàn, đồng thời góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế
ở địa phương. Từ năm 1996 - 2000, thực hiện mục tiêu trồng mới 5.000 ha rừng và
trồng 3 triệu cây phân tán mỗi năm, khoanh nuôi bảo vệ 14.000 ha rừng mà đại hội
Đảngt bộ huyện Tân Kỳ lần thứ XVI đề ra, ngành lâm nghiệp Tân Kỳ có bước
chuyển biến sâu sắc toàn diện. Phong trào trồng cây gây rừng, phong trào: “Tết
trồng cây nhớ ơn Bác” nhận được sự hưởng ứng của đại bộ phận cán bộ, đảng viên
và nhân dân. Cán bộ, công nhân viên chức, học sinh, Đoàn thanh niên, Hội cựu
chiến binh,v.v… đều tích cực tham gia hưởng ứng phong trào trồng cây. Nhờ đó,
mục tiêu trồng mới 2,5 - 3 triệu cây phân tán/năm, liên tiếp trong nhiều năm đạt và
vượt. Tổng diện tích rừng trồng tăng nhanh, diện tích đất trống, đồi trọc trên địa
bàn huyện thu hẹp dần. Điều quan trọng hơn là ý thức trồng rừng và bảo vệ rừng
của toàn bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân được nâng cao. Số hộ gia đình nhận đất
trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ tăng, trong đó không ít đồng bào Thổ, Thái ở
Nghĩa Hoàn, Tân Xuân, Giai Xuân,… cũng tích cực tham gia vào phong trào nhận
đất rừng để chăm sóc, bảo vệ, khoanh nuôi.
Đến năm 2000, Tân Kỳ đã hoàn thành mục tiêu trồng mới 5.000 ha rừng,
810 ha cây ăn quả, đưa độ che phủ của rừng lên 22%. Tân Kỳ hoàn thành việc giao
đất giao rừng cho nhân dân theo Nghị định 02/CP của chính phủ và công tác giao
đất nông nghiệp lâu dài cho nông dân theo Nghị định 64/CP của chính phủ. Đây
thực sự là những nỗ lực tuyệt vời của Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ trong bước
đường đổi mới, nhằm tạo ra những thay đổi mang tính bền vững và lâu dài cho
kinh tế huyện.
Ảnh: Rừng trồng ở Tân Kỳ
Rừng tái sinh ở Tân Kỳ
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội huyện Đảng bộ Tân Kỳ khóa XVII, trong
thời gian từ năm 2001 - 2005, phong trào trồng cây gây rừng đạt được thành tựu to
lớn. Kết quả, đến năm 2005, Tân Kỳ đã trồng mới thêm trên 4.000 ha rừng, khoanh
nuôi bảo vệ, chăm sóc trên 14.000 ha rừng trên địa bàn huyện, đưa độ che phủ của
rừng lên 29,5% (tăng hơn 7%) so với năm 2000. Nhiều hộ gia đình ở các xã Giai
Xuân, Tân Xuân, Nghĩa Hoàn, Nghĩa Đồng, Nghĩa Bình, Nghĩa Hợp,… đã có thu
nhập từ rừng trồng. Mô hình kinh tế Nông - Lâm - Ngư nghiệp phát huy hiệu quả
không chỉ góp phần phá thế độc canh cây lúa mà còn tạo bước phát triển vững chắc
cho nền kinh tế của huyện, đồng thời mang lại nhiều lợi ích lâu dài trong đời sống
xã hội trên địa bàn huyện cũng như trả lại màu xanh cho vùng rừng núi hùng vĩ ở
miền tây.
Đây thực sự là một kỳ tích mà Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ đạt được trong
những năm đầu tiên của thiên niên kỷ thứ nhất, khi đất nước đang từng ngày hội
nhập vào cộng đồng khu vực và thế giới. Phấn khởi, tin tưởng, từ năm 2005 đến
năm 2012, thực hiện Nghị quyết của Đại hội huyện Đảng bộ Tân Kỳ khóa XVIII
(2005 -2010) và Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ khóa XIX (2010 - 2015) cùng
với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải,
… Tân Kỳ tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp. Bình quân mỗi năm
cán bộ, Đảng viên và nhân dân Tân Kỳ trồng mới trên 3 triệu cây phân tán, trồng
mới từ 800 - 1000 ha rừng. Đến năm 2012, sức che phủ của rừng ở Tân Kỳ đã đạt
trên 34%. Theo số liệu thống kê của Phòng Tài nguyên và môi trường, đến năm
2010, tổng diện tích đất rừng ở Tân Kỳ là 37.306,68 ha, chiếm tới 60,43% tổng
diện tích đất tự nhiên của toàn huyện. Độ che phủ của rừng năm 2010 đạt 31,7% và
đến năm 2012, độ che phủ của rừng ở Tân Kỳ đã vượt trên 34%. Tân Kỳ đang nỗ
lực phấn đấu để đến năm 2015 đưa độ che phủ của rừng lên 37 - 38% .
Như vậy, từ năm 1995, thực hiện chủ trương công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước, Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong
xây dựng phát triển kinh tế. Trong đó mô hình kết hợp Nông - Lâm - Ngư nghiệp
mà huyện chỉ đạo đã đạt được nhiều thành tưu to lớn. Sự phát triển của ngành Lâm
nghiệp khẳng định bước đi đúng đắn, sát hợp của huyện. Đại bộ phận đất trống đồi
trọc trên địa bàn huyện đã được trồng rừng. Những cánh rừng tái sinh nhờ được
khoanh nuôi, bảo vệ tốt đã lên xanh trở lại, những cánh rừng Bạch đàn, Keo tràm,
Cao su,… phát triển nhanh và bắt đầu cho thu hoạch. Số hộ gia đình ở các xã giàu
lên nhờ rừng ngày càng nhiều. Đằng sau những ha rừng tái sinh, rừng trồng,…
đang mọc lên xanh ở Tân Kỳ đã có không biết bao mồ hôi, nước mắt của cán bộ,
đảng viên và nhân dân Tân Kỳ. Dọc đường Hồ Chí Minh hay tuyến đường từ
huyện đi các xã Nghĩa Hoàn, Nghĩa Dũng, Tân Xuân, Giai Xuân, Nghĩa Bình,
Nghĩa Hợp,v.v… những cánh rừng xanh trải dài hứa hẹn bước phát triển vững chắc
của Tân Kỳ trên con đường hội nhập.
Sự phát triển của mô hình kinh tế Nông - Lâm - Ngư nghiệp trên địa bàn
huyện huyện đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế giữa các ngành và góp phần phá vỡ thế
độc canh cây lúa, tạo bước đi vững chắc cho kinh tế Tân Kỳ trong những năm tới.
Theo số liệu thống kê của UBND huyện Tân Kỳ từ năm 1996 đến năm 2012 c ả
huyện đã đưa diện tích rừng che phủ đạt xấp xỉ 40% tổng diện tích tự nhiên của
huyện.
3. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
* Ngành sản xuất vật liệu xây dựng
+ Sản xuất, kinh doanh gạch, ngói
Là một huyện miền núi, tuy nhiên điều kiện giao thông ở Tân Kỳ tương đối
thuận tiện: có đường Hồ Chí Minh chạy qua, đường 15A, 15B,… nối Tân Kỳ với
nhiều huyện thành trong tỉnh, do đó việc phát triển kinh tế, thông thương đi lại của
nhân dân Tân Kỳ tương đối thận lợi hơn so với một số huyện khác ở miền núi
Nghệ Tĩnh.
Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế công nghiệp của Đảng, ngay sau khi
nước nhà thống nhất cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân
huyện Tân Kỳ đã tập trung chỉ đạo cán bộ, đảng viên, nhân dân trên địa bàn huyện
tập trung phát triển ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng như: sản xuất
gạch ngói, nung vôi, khai thác đá, làm gốm sứ, v.v….
Được thiên nhiên ưu đãi cho nguồn đất sét khá dồi dào trên địa bàn các xã
Nghĩa Hoàn, Nghĩa Dũng, Nghĩa Đồng,v.v… ngay trong thời kỳ 1975 -1985, các
HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện đã huy động một lực lượng xã viên HTX
thành lập các tổ nung vôi, sản xuất gạch ngói. Tuy quy mô sản xuất chưa lớn, song,
hàng năm các lò gạch, ngói ở Tân Kỳ đã sản xuất một số lượng gạch ngói khá lớn,
cung cấp cho nhu cầu xây dựng nhà cửa của các HTX, nhân dân trên địa bàn
huyện. Song do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nghề sản xuất gạch,
ngói ở Tân Kỳ không phát triển mạnh và chỉ bó hẹp trong phạm vi địa phương.
Bảng thống kê về tình hình sản xuất gạch ngói ở Tân Kỳ từ năm 1975 đến năm
1985 cho thấy điều đó:
Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, nghề sản xuất gạch ngói ở Tân Kỳ
thay đổi một cách mau lẹ cả về cách thức tổ chức sản xuất, phương thức tiêu thụ
sản phẩm,… Trên vùng đất Nghĩa Hoàn, nhiều hộ gia đình đầu tư vốn, thuê nhân
công từ khắp nơi về trực tiếp sản xuất gạch ngói. Nhờ chất liệu đất tốt, kỹ thuật
nung đảm bảo do đó, gạch ngói Cừa sớm nổi tiếng khắp thị trường trong tỉnh Nghệ
An, Hà Tĩnh và thực sự trỏ thành một mặt hàng ưa chuộng của đông đảo nhân dân.
Gạch ngói Cừa, sản xuất đến đâu tiêu thụ đến đó. Nhân dân các huyện Đô Lương,
Yên Thành, Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nam Đàn, Thanh Chương, Hưng Nguyên,…
và cả nhân dân ở thành phố Vinh đều ưa chuộng gạch ngói Cừa, nhất là ngói.
Từ thực tiễn sản xuất kinh doanh, các hộ gia đình ở Nghĩa Hoàn và một số
xã lân cận mạnh dạn đầu tư vốn, tổ chức sản xuất kinh doanh với quy mô ngày
càng lớn, Nhiều hộ gia đìn có tới 3 - 4 lò gạch ngói, sử dụng 30 - 40 lao động
thường xuyên làm việc. Để tiêu thụ sản phẩm ở những thị trường xa trong địa bàn
Nghệ An, Hà Tĩnh, các hộ gia đình còn bỏ tiền mua sắm ô tô vận chuyển hàng hóa
đến giao tận chân các công trình. Nhờ tinh thần lao động sáng tạo, cần cù, tư tưởng
dám nghĩ dám là và sự chỉ đạo đúng hướng của huyện và xã, nghề sản xuất gạch
ngói ở Tân Kỳ sớm trở thành một ngành sản xuất thu hút hàng trăm lao động và
mang lại nguồn thu nhập lớn cho các hộ gia đình trên địa bàn.
Ngoài việc tạo ra một ngành nghề sản xuất thu hút hàng trăm lao động tham
gia sản xuất, hình thành một vùng sản xuất tiêu thụ gạch ngói tập trung, nghề sản
xuất gạch ngói ở Tân Kỳ đã góp phần không nhỏ trong việc mang lại nguồn thu
nhập lớn cho các hộ gia đình ở vùng Nghĩa Hoàn. Thu nhập của nhiều hộ ở đây lên
tới hàng trăm thậm chí hàng tỷ đồng trong năm. Nguồn thu nhập cao đã tạo điều
kiện cho nhân dân đầu tư xây dựng nhà cửa khang trang, to đẹp và chỉ trong vòng
15 năm đổi mới, vùng Cừa đã hoàn toàn đổi khác, những nhà cao tầng liên tiếp
mọc lên, dọc hai bên đường. Xã Nghĩa Hoàn là xã đầu tiên trong tỉnh Nghệ An tự
cân đối được ngân sách.
Sản xuất gạch ngói cũng đã mang lại một nguồn thu nhập khá lớn cho ngân
sách huyện trên bước đường đổi mới và điều quan trọng là đã góp phần to lớn
trong phong trào: “Ngói hóa” trên địa bàn các xã ở Tân Kỳ. Không chỉ giải quyết
công ăn việc làm cho hàng trăm lao động trực tiếp sản xuất gạch ngói ở địa phương
mà ngành sản xuất gạch ngói từng bước hình thành cả một mạng lưới đại lý tiêu
thụ sản phẩm trên khắp địa bàn các huyện ở Tân Kỳ, trực tiếp và gián tiếp giải
quyết công ăn việc làm, thu nhập ổn định cho hàng ngàn lao động ở nhiều địa
phương khác nhau.
Bước vào thiên niên kỷ mới, thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu
huyện Tân Kỳ lần thứ XVII, XVIII và XIX, các ngành nghề kinh tế nói chung,
ngành sản xuất gạch ngói nói riêng tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo trực
tiếp của huyện, tiến hành sắp xếp bố trí lại lao động, mở rộng sản xuất kinh doanh,
đầu tư máy móc thiết bị để thay đổi mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm, tạo sức cạnh
tranh của hàng hóa trên thị trường. Nhờ đó, ngành sản xuất kinh doanh gạch ngói ở
Tân Kỳ phát triển mạnh, số lò gạch ngói tăng nhanh và số lao động tham gia sản
xuất, kinh doang gạch ngói trên địa bàn huyện cũng tăng. Mặt khác, mạng lưới đại
lý kinh doanhg gạch ngói Cừa được mở rộng sang cả thị trường Hà Tĩnh, hoặc có
thêm nhiều đại lý kinh doanh ở thị trường thành phố Vinh, thị trấn Diễn Châu, thị
xã Cầu Giát, thị trấn - thị xã Thái Hòa,v.v… Số lượng gạch ngói sản xuất và tiêu
thụ ngày càng tăng. Thương hiệu: “Ngói Cừa” ngày càng có uy tín trên thị trường
Nghệ An, Hà Tĩnh và được đại bộ phận nhân dân ưa chuộng sử dụng trong xây
dựng nhà cửa.
Từ sản xuất nhỏ lẻ, số lượng sản phẩm làm ra chủ yếu phục vụ nhu cầu xây
dựng của nhân dân địa phương, ngành sản xuất gạch ngói ở Tân Kỳ trong chặng
đường vừa qua đã có những bước tiến vượt bậc, tạo nên một thương hiệu hàng hóa
nổi tiếng trên một phạm vi không gian rộng lớn. Sản xuất gắn liền với kinh doanh,
vừa bố trí sản xuất phù hợp vừa tổ chức tốt mạng lưới đại lý giới thiệu và vận
chuyển hàng hóa, gạch ngói Cừa trong suốt hàng chục năm qua đã có mặt ở hầu
khắp các huyện thành trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Ngoài những lợi ích
to lớn về kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động trực tiếp và
gián tiếp, sự phát triển liên tục và bền vững của ngành sản xuất gạch ngói ở Tân
Kỳ đã góp phần không nhỏ trong việc gián tiếp quảng bá hình ảnh Tân Kỳ đến với
nhân dân ở nhiều huyện thành trên địa bàn Nghệ Tĩnh. Có được thành công đó,
ngoài sự chỉ đạo sát hợp và cụ thể của cấp ủy, chính quyền địa phương còn phải kể
đến khát vọng, ý chí vươn lên làm giàu chính đáng của hàng trăm hộ dân trên địa
bàn huyện trong suốt thời gian qua. Từ thực tiễn sản xuất và kinh doanh gạch ngói
trong suốt thời gian qua, cán bộ, đảng viên và nhân dân Tân Kỳ đã rút ra được
nhiều bài học hữu ích cho việc tiếp tục đẩy mạnh, mở rộng sản xuất kinh doanh,
đảm bảo vệ sinh môi trường để đưa ngành sản xuất gạch ngói phát triển bền vững
trước mắt cũng như lâu dài.
Ảnh sản xuất gạch ngói Cừa
+ Sản xuất và kinh doanh vôi
Theo số liệu của phòng Tài nguyên và môi trường huyện Tân Kỳ, nguồn đá
vôi ở Tân Kỳ ở Tân Kỳ tập trung ở khu vực Lèn Rỏi, với tổng trữ lượng khoảng
2,8 tỷ tấn. Đây là nguồn nguyên liệu quý để khai thác đá xây dựng các công trình
giao thông, hồ đập, nhà cửa, sản xuất vôi, sản xuất xi măng.
Nghề nung vôi có từ khá sớm ở Tân Kỳ với hệ thống lò thủ công, cùng
phương thức nung truyền thống. Trong thời kỳ bao cấp, nghề nung vôi do các HTX
quản lý, lao động làm việc tại đây hưởng theo công điểm. Tuy năng suất và hiệu
quả kinh tế chưa cao, song sản phẩm vôi làm ra đã góp phần quan trọng trong việc
cải tạo đồng ruộng, cung cấp cho nhân dân xây dựng nhà cửa trong khoảng thời
gian dài khi ngành công nghiệp sản xuất xi măng chưa phát triển.
Bước vào thời kỳ đổi mới, nhằm khai thác nguồn lực tài nguyên phục vụ cho
phát triển kinh tế địa phương đồng thời tạo điều kiện thuận lợi phục vụ cho nhu
cầu cải tạo đồng ruộng, kiến thiết nhà cửa cho nhân dân, huyện Tân Kỳ chỉ đạo
một số địa phương đẩy mạnh nghề sản xuất vôi. Thực hiện chủ trương của huyện,
nhiều hộ gia đình đã đầu tư vốn, xây dựng lò nung vôi và khai thác nguồn lao động
dồi dào phát triển nghề nung vôi với quy mô ngày càng lớn. Kết quả là trong một
thời gian ngắn, hàng chục lò vôi thủ công đã được xây dựng trên địa bàn một số xã.
Nhờ phát huy kỹ thuật nung truyền thống, cùng với nguồn đá có chất lượng, vôi
Tân Kỳ làm ra có độ dẻo cao, ít đá, độ dính kết tốt, do đó được nhân dân trong
huyện và một số huyện lân cận tiêu thụ với số lượng lớn. Vôi Tân Kỳ cũng sớm trở
thành thương hiệu hàng hóa và nhanh chóng vượt ra khỏi không gian của huyện để
đến với nhân dân ở các huyện như: Đô Lương, Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh
Lưu, Nam Đàn, Thanh Chương,v.v…
Từ một nghề thủ công truyền thống với quy mô sản xuất nhỏ bé, nghề nung
vôi ở Tân Kỳ phát triển nhanh, giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm lao động
và mang lại một nguồn thu nhập khá lớn cho các hộ đầu tư kinh doanh nghề sản
xuất này.
Tuy đạt được một số kết quả, song nghề nung vôi ở Tân Kỳ cũng đang gặp
không ít khó khăn về vấn đề xử lý khí thải và tiêu thụ sản phẩm. Bởi hiện nay, nhu
cầu sử dụng vôi cho xây dựng giảm sút, người ta chủ yếu sử dụng xi măng thay thế
cho vôi. Các lò nung vôi ở Tân Kỳ vẫn chủ yếu là lò nung truyền thống, sử dụng
than đá và củi trong quá trình nung và các chủ lò không đủ điều kiện vốn để dầu tư
thay thế lò nung hiện đại nhằm giảm bớt khí thải ra môi trường. Mặt khác, vôi chủ
yếu chỉ sử dụng trong việc cải tạo đồng ruộng, ao hồ, chuồng trại chăn nuôi, còn
nhu cầu phục vụ xây dựng hầu như không còn. Nghề nung vôi ở Nghệ An nói
chung và Tân Kỳ nói riêng đang gặp không ít khó khăn, cần sự hỗ trợ về vốn và
đầu tư kỹ thuật để thay đổi phương thức sản xuất.
4. Ngành chế biến nông sản
Chế biến nông sản là một trong những ngành sản xuất quan trọng góp phần
không nhỏ trong việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Song cho đến nay,
ngành chế biến nông sản ở Tân Kỳ vẫn chưa có điều kiện để phát triển với quy mô
lớn, tạo ra những mặt hàng có giá trị hàng hóa cao để tiêu thụ trên thị trường nội
tỉnh và xuất khẩu.
Trong suốt một thời gian dài, người dân Tân Kỳ nói riêng và người nông dân
Nghệ An nói chung quien với cối xay tre, cối xay đất, cối giả gạo được làm từ đá
và sử dụng sức người là chủ yếu. Nông sản phẩm được nông dân thu hoạch từ
đồng về chỉ phơi khô, làm sạch rồi đem bán ra thị trường. Lúa gạo, nếp chủ yếu
được xay giã, dần sàng từ phương thức truyền thống để phục vụ bữa ăn gia đình và
đem bán. Khoai, sắn được người dân sát bằng tay hoặc bàn sát, đem phơi khô để
dành tháng 3 ngày tám, hoặc đem bán theo kiểu nguyên liệu thô.
Mía được nhập nguyên cây cho nhà máy đường sông Con để chế biến đường
rượu bánh kẹo. Cà phê được thu hái, đem phơi khô và bán dưới dạng nguyên liệu
thô. Cam, dứa, sau thu hoạch, để nguyên quả, xử lý cho vào hộp đưa đi xuất khẩu
sang thị trường Liên Xô và một số nước khác ở dạng quả tươi.
Từ khi điện khí hóa về nông thôn, một số hộ gia đình nông dân mua máy
xay xát gạo về phục vụ cho nhu cầu của nhân dân trong làng xã. Cối xay, cối đâm,
dần dần bị lãng quên và ngay cả việc dần sàng gạo vốn là công việc đòi hỏi bàn tay
khéo léo của phụ nữ, giờ đây cũng đang dần dần bị quên lãng. Mặc dầu nguồn
nông sản khá dồi dào, nhưng cho đến nay, Tân Kỳ vẫn chưa có điều kiện để xây
dựng các cơ sở chế biến nông sản quy mô lớn, một phần là do nguồn vốn đầu tư
lớn, một phần là do nguyên liệu không ổn định và thị trường đầu ra cho sản phẩm
gặp nhiều khó khăn.
Nghề trồng mía ở Tân Kỳ khá phát triển. Nguồn nguyên liệu đủ cung cấp
cho nhà máy đường Sông Con hoạt động trong suốt thời gian qua. Song, giống như
một số nhà máy đường khác trên địa bàn Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung,
trong những năm gần đây, việc sản xuất và kinh doanh của nhà máy đường Sông
Con gặp không ít khó khăn vì sản phẩm đường làm ra có giá thành khá cao không
đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Tân Kỳ là một trong những huyện có diện tích trồng lạc và sản lượng lạc khá
lớn, nhưng cho đến nay, phần lớn lạc hàng năm làm ra đều được bán dưới dạng
nguyên liệu thô. Cao su, cà phê, dứa, cam,… cũng nằm trong tình trạng tương tự.
Việc hình thành ngành công nghiệp chế biến nông lâm sản phẩm quy mô lớn, tạo
ra nguồn sản phẩm có chất lượng cao đủ sức cạnh tranh trên thị trường vượt quá
khả năng của một huyện miền núi. Trước mắt cũng như lâu dài, Tân Kỳ đang
mong muốn tỉnh và nhà nước đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến nông sản có
công suất lớn trên địa bàn để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị sản phẩm
nông sản và làm thay đổi bức tranh kinh tế của huyện.
5. Ngành giao thông, vận tải
Cho đến năm 1975, giao thông vận tải ở Tân Kỳ vẫn nằm trong tình trạng
kém phát triển. Hệ thống đường giao thông từ huyện đi các xã, từ huyện đi các
vùng miền bị chiến tranh tàn phá nặng nề, tuy đã được sữa chữa trong thời gian từ
năm 1973 đến năm 1975, song về cơ bản vẫn là đường đất, cầu cống mới khôi
phục tạm, mùa mưa lũ việc đi lại gặp rất nhiều khó khăn. Trong thời kỳ từ 1975
đến 1985, mỗi ngày có vài chuyến xe chở khách của ngành vận tải hành khách
Nghệ Tĩnh đi từ Vinh đến thị trấn Lạt và ngược lại. Người dân muốn đi Vinh, phải
đến bến xe huyện xếp hàng trước vài tiếng đồng hồ để mua vé. Ngay cả việc đi từ
Vinh lên thị trấn Lạt cũng gặp không ít khó khăn.. Một số cán bộ công nhân viên
chức được phân phối xe đạp, nhưng phụ tùng xăm lốp thay thế rất hạn chế, do đó,
phương tiện đi lại chủ yếu dựa vào đôi chân.
Để phục vụ việc chuyên chở phân bón, thu hoạch nông lúa, ngô, khoai sắn,
ngoài phương thức gùi của đồng bào Thái, Thổ, quang gánh của đồng bào kinh,
còn có xe cải tiến, sau đó một số hộ khá giả sắm xe bò lốp. nhưng mỗi xóm cũng
chỉ có vài hộ gia đình.
Nhằm khắc phục tình trạng đường sá giao thông quá lạc hậu, mặc dầu gặp
không ít khó khăn, nhưng từ năm 1975 đến năm 1995, Huyện Tân Kỳ đã huy
động hàng chục vạn ngày công của hàng vạn lao động, tham gia vào việc sữa
chữa, mở rộng và làm mới các tuyến đường từ thị trấn Lạt đi các xã, đường liên
xã, liên thôn. Tuy hầu hết đường xây dựng trong giai đoạn này đều được đắp
bằng đất đá là chủ yếu, nhưng nỗ lực không biết mệt mỏi của cán bộ, đảng viên
và nhân dân Tân Kỳ đã góp phần không nhỏ trong việc thay đổi hệ thống đường
giao thông trên địa bàn huyện.
Bước vào công cuộc đổi mới mặc dầu phải đối mặt với muôn vàn khó khăn
thử thách, Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ đã xác định một trong những nhiệm vụ
trọng tâm là phải tập trung phát triển giao thông vận tải trên địa bàn huyện. Với
phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, tranh thủ mọi nguồn đầu tư của
tỉnh và Trung ương, phát huy nội lực, Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ đã huy động
hàng chục vạn ngày công của nhân dân trong xã, làm đường giao thông liên xã,
liên thôn. Nhân dân đóng góp ngày công làm đường, vận chuyển đất đá, cát sạn,
hiến đất,… nhà nước hỗ trợ xi măng để thực hiện việc bê tông hóa đường nông
thôn, xây dựng kênh mương bê tông trên ruộng đồng. Phong trào làm đường bê
tông và nhựa hóa các tuyến đường từ huyện đi Cừa và đi các xã, từ xã này đi xã
khác trở thành một phong trào thi đua sôi nổi giữa tất cả các xã trong huyện. Nghị
quyết đại hội của đảng bộ các xã, của huyện từ 1986 đến năm 2005 đều dành một
trong những nhiệm vụ quan trọng cho việc phát triển các tuyến đường bê tông,
đường nhựa, sữa chữa cầu cống,v.v… trên địa bàn xã và huyện11. Kết quả là đến
năm 2000, mạng lưới giao thông trên địa bàn huyện Tân Kỳ đã thay đổi hoàn toàn
so với năm 1985. Các tuyến đường liên xã, liên thôn được mở rộng từ 4 - 8 m,
đường từ huyện đi các xã được mở rộng từ 8 - 10m, tạo điều kiện thuận lợi cho các
phương tiện xe cơ giới có thể đi từ huyện đến tận các xã, phục vụ vận chuyển hàng
hóa, phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân, tạo điều kiện giao thương hàng hóa, giao
lưu văn hóa giữa nhân dân trong địa bàn và nhân dân các huyện thành trong ngoài
tỉnh với nhân dân Tân Kỳ. Bảng thống kê về thành tích xây dựng phát triển mạng
lưới giao thông đường bộ trên địa bàn huyện Tân Kỳ trong 20 năm đổi mới (1986 -
2005), phản ánh những nỗ lực tuyệt vời của Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ trong
việc phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch phát triển hệ thống giao thông đường
bộ, nhằm từng bước xây dựng và phát triển Tân Kỳ từ một huyện nghèo trở thành
một huyện khá trong tỉnh trên bước đường đổi mới dưới đây cho thấy điều đó.
Một trong những thay đổi quan trọng trong việc phát triển giao thông ở Tân
Kỳ trong hai thập kỷ đầu thực hiện công cuộc đổi mới là các hộ gia đình khá giả
trên địa bàn các xã mạnh dạn đầu tư vốn mua sắm ô tô vận tải hàng hóa để chở
gạch ngói, vôi, nông sản phẩm. lâm sản, vật liệu xây dựng, cát sạn, phân bón, vật
tư nông nghiệp,v.v… đến tận địa bàn các xã và từ các xã đi tiêu thụ sản phẩm trên
địa bàn các huyện khác, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, lâm
nghiệp,v.v.. trên địa bàn huyện phát triển. Đồng thời, không ít hộ gia đình ở Nghĩa
Phúc, Nghĩa Hoàn, Lạt,v.v… đầu tư mua sắm ô tô chử khách, chuyên chở hành
khách từ Tân Kỳ đi các huyện thành trong tỉnh và ngoại tỉnh và ngược lại. Số xe
11 Xem: Văn kiện Đại hội huyện Đảng bộ Tân Kỳ các khóa XIV, XV, XVI, XVII, và Văn kiện Đại hội đảng bộ các xã
từ năm 1986 đến 2005. Tài liệu lưu tại Văn phòng huyện ủy. TG.
chở khách tăng nhanh, đáp ứng kịp thời nhu cầu thông thương, đi lại, giao lưu văn
hóa,… của đại bộ phận nhân dân trên địa bàn huyện.
Được sự đầu tư kinh phí của tỉnh và Trung ương cộng với nguồn vốn của
huyện, công trình xây dựng cầu Lèn Rỏi bắc qua sông Con nối trung tâm huyện
Tân Kỳ với các xã ở phía Nam và phía Tây của huyện được khởi công xây dựng
với kỹ thuật hiện đại, hoàn thành trong một thời gian ngắn. Lễ cắt băng khánh
thành và đưa vào sử dụng công trình này đã được tổ chức trọng thể trong niềm vui
sướng của hàng vạn cán bộ, đảng viên và nhân dân Tân Kỳ. Công trình cầu Lèn
Rỏi hoàn thành đáp ứng tâm tư nguyện vọng của đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân
dân Tân Kỳ, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh sản xuất, lưu thông hàng hóa, đi
lại, giao lưu văn hóa, xã hội, phát triển giáo dục y tế, góp phần củng cố an ninh -
quốc phòng của nhân dân trong vùng.
Ảnh cầu Rỏi bắc qua sông Con
Ảnh cột mốc số 0 tại thị trấn Lạt
Việc xây dựng tuyến đường nhựa từ thị trấn Lạt qua Cầu Rỏi, đi lên Nghĩa
hoàn và các xã lân cận cũng được tiến hành gấp rút. Nhờ đó, đến năm 2005, tuyến
đường nhựa quan trọng này đã góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế,
giao thương buôn bán,… của cả một vùng đất rộng lớn giàu tài nguyên thiên nhiên
và đông dân cư trên địa bàn huyện.
Một trong những thuận lợi của Tân Kỳ và nhiều huyện khác như Nghĩa
Đàn, Thanh Chương,v.v…của tỉnh Nghệ An và các tỉnh Thanh Hóa, Ninh Bình,
…Hà Tĩnh, Quảng Bình,v.v… là việc Ban chấp hành Trung ương Đảng, Quốc
hội và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyết định đầu tư
xây dựng tuyến đường chiến lược dọc theo dãy Trường Sơn gọi là đường Hồ
Chí Minh, nối liền các tỉnh phía Bắc với các tỉnh Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ
vào tận Đông Nam bộ. Đoạn đường Hồ Chí Minh chạy qua huyện Tân Kỳ có
chiều dài trên 40 km, được gấp rút hoàn thành. Trong đó, có cột mốc số 0 tại thị
trấn Tân Kỳ được Đảng , Chính phủ đầu tư xây dựng với quy mô lớn, tạo thành
một điểm nhấn quan trọng trên tuyến đường huyền thoại gắn liền với bao mồ
hôi, nước mắt và máu xương của các thế hệ cha anh suốt những năm dài kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Tuyến đường Hồ Chí Minh hoàn thành và đưa vào
sử dụng, tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho nhân dân Tân Kỳ phát triển kinh tế,
văn hóa, giao thương với tất cả các vùng miền trong cả nước; đồng thời góp
phần củng cố quốc phòng - an ninh trên địa bàn huyện.
Phát huy những thành tựu đạt được, thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại
biểu huyện Đảng bộ Tân Kỳ khóa XVIII và Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ Tân
Kỳ khóa XIX (2005 - 2010), (2010 - 2015), cán bộ, đảng viên và nhân dân Tân Kỳ
tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống đường giao thông, sữa chữa làm mới các
cầu cống, phong trào nhân dân làm đường bê tông, đường nhựa tiếp tục được các
cấp bộ Đảng, chính quyền địa phương và nhân dân ở tất cả các xã trong huyện
hưởng ứng. Nhân dân không chỉ đóng góp hàng chục vạn ngày công, tham gia làm
đường mà còn hiến đất, dời chuyển bờ rào, tháo dỡ các công trình xây dựng của
gia đình để mở rộng các tuyến đường giao thông. Hội cựu chiến binh, Hội người
cao tuổi, hội cựu giáo chức,… Mặt trận tổ quốc, cán bộ, đảng viên, đoàn viên
thanh niên,… phát huy vai trò to lớn của mình trong phong trào: “dân biết, dân
bàn, dân kiểm tra” vận động nhân dân đẩy mạnh kinh tế, phát triển văn hóa giáo
dục y tế, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân,… nói chung và xây dựng phát triển
giao thông nói riêng. Nhờ khai thác, vận dụng tốt nguồn vốn đầu tư của Trung
ương và tỉnh, phát huy nguồn lực của nhân dân, công cuộc xây dựng phát triển
mạng lưới giao thông đường bộ, đường sông, trên địa bàn huyện Tân Kỳ từ năm
2006 đến năm 2012 tiếp tục thu được nhiều kết quả quan trọng.
Bên cạnh đầu tư xây dựng hệ thống đường bộ, một trong những thay đổi
quan trọng là chỉ trong vòng chưa đầy một thập kỷ, số hộ gia đình đầu tư mua sắm
ô tô chở hàng, ô tô chở khách, phục vụ nhu cầu vận chuyển hàng hóa, chuyên chở
hành khách, phục vụ đám cưới, lễ hội, du lịch,v.v… ở Tân Kỳ tăng nhanh. Sự phát
triển này góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đáp ứng nhu cầu giao
lưu đi lại của nhân dân và đưa Tân Kỳ xích lại gần hơn với nhân dân khắp cả nước.
Một ví dụ sinh động là nếu như năm 1990, mỗi ngày chỉ có vài chuyến xe chở
khách (gọi là xe ca) của Công ty xe khách Nghệ Tĩnh chạy từ Vinh lên thị trấn Lạt
và ngược lại thì đến năm 2012, mỗi ngày có tới hàng chục chuyến xe chở khách từ
Giai Xuân, Tân Xuân, Nghĩa Phúc, Nghĩa Dũng, Cừa, Lạt,v.v… chở khách và
hàng hóa từ hầu hết các xã trên địa bàn huyện đi Vinh và ngược lại. Đó là chưa kể
các chuyến xe giường nằm hiện đại chở khách từ Tân Kỳ đi Hà Nội, Hải Phòng,
Quảng Ninh,… Tân Kỳ đi các tỉnh phía Nam vào tận thành phố Hồ Chí Minh hay
lên các tỉnh Tây Nguyên.
Ngành giao thông vận tải ở Tân Kỳ đã thay đổi một cách mạnh mẽ từ số
lượng ô tô chở hàng hóa, chở khách, các tuyến đường vận chuyển,… đến tổng số
hành khách, hàng hóa được vận chuyển, góp phần thiết thực vào việc xây dựng
phát triển quê hương.
6. Thương mại, dịch vụ
Giống như các huyện thành khác ở Nghệ Tĩnh, từ sau năm 1975 cho đến
khi công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo được thực hiện
(1986), trên địa bàn huyện Tân Kỳ tồn tại hai phương thức trao đổi, buôn bán
chủ yếu:
- Các cửa hàng mua bán do các HTX mua bán thành lập trước đây ở các xã
cung cấp một số hàng hóa, phục vụ nhu cầu của xã viên HTX. Người đến mua bán
phải có thẻ xã viên HTX nông nghiệp và được cung cấp một số mặt hàng cơ bản,
những người không có thẻ xã viên và không đóng góp tiền vốn cho cửa hàng
không được hưởng quyền lợi này. Cửa hàng Bách hóa huyện Tân Kỳ chịu trách
nhiệm cung cấp hàng hóa theo tiêu chuẩn cho cán bộ, công nhân viên chức nhà
nước công tác trên địa bàn huyện theo tiêu chuẩn tem, phiếu. Tuy nhiên, trong
những năm cơ chế bao cấp tồn tại, do hàng hóa khan hiếm, nghèo nàn nên việc
cung cấp đầy đủ, kịp thời tiêu chuẩn chế độ cho cán bộ công nhân viên chức trên
địa bàn huyện gặp không ít khó khăn. Cửa hàng thực phẩm huyện chịu trách nhiệm
cung cấp tiêu chuẩn thịt cho cán bộ, công nhân viên chức theo quy định của nhà
nước.Nhưng, những năm 80 do khủng hoảng kinh tế, nguồn hàng khó khăn, cán bộ
công nhân viên chức đi từ hai ba giờ sáng đến cửa hàng thực phẩm huyện, trồng sổ
mua thực phẩm, xếp hàng dài, chờ đến lượt để lấy tiêu chuẩn. Không ít cán bộ
công nhân viên phải mất cả ngày xếp hàng mới có thể nhận được 1 - 2 kg thịt lợn
theo chế độ nhà nước ban hành.
Công ty Vật tư nông nghiệp huyện, Công ty Nông sản huyện thu đổi các loại
sản phẩm như lạc, vừng, ớt cay,… của nông dân và cung cấp nồi nhôm, ấm nhôm,
mâm cơm, phích nước, lốp xe, vải vóc, phân đạm u rê,v.v… theo giá trị thỏa thuận.
Tuy nhiên, do nguồn hàng khan hiếm, cơ chế độc quyền trong thu mua, do đó
không khuyến khích được nông dân thu đổi sản phẩm tại các cửa hàng Vật tư hay
cửa hàng nông sản. Một số lượng khá lớn nguồn nông sản được bán ra ngoài thị
trường. Đây là tình trạng chung của cả nước, cả tỉnh.
- Phương thức trao đổi, mua bán hàng hóa truyền thống được thực hiện tại
Chợ Lạt, chợ Cừa,v.v… và một số chợ khác trên địa bàn huyện. Ngoài việc dùng
tiền trao đổi như ở miền xuôi, không ít đồng bào Thổ, Thái ở Tân Xuân, Giai
Xuân, Nghĩa Hoàn,… vẫn sử dụng phương thức vật đổi vật; vốn là một hình thức
trao đổi có từ hàng ngàn năm trước và vẫn được duy trì ở một số bản làng miền núi
phía Tây Nghệ Tĩnh, nhất là các bản làng vùng sâu, vùng xa, nơi có phần lớn đồng
bào các dân tộc ít người sinh sống.
Không chỉ có Tân Kỳ và Nghệ Tĩnh mà trong hơn 10 năm đầu xây dựng
phát triển đất nước, hầu hết các tỉnh thành trong cả nước đều ở trong tình trạng
khan hiếm hàng hóa, nhất là những năm cuối thập kỷ 80. Do chủ quan duy ý chí,
nhiều địa phương thực hiện ngăn sông cấm chợ, do đó, hoạt động buôn bán trao
đổi hàng hóa gặp muôn vàn khó khăn. Lợi dụng tình trạng khan hiếm hàng hóa,
một số cán bộ, công nhân viên làm việc tại các cửa hàng Bách hóa, cửa hàng vật
tư, cửa hàng thực phẩm câu kết với tư thương, tuồn hàng hóa của nhà nước ra
ngoài để hưởng chênh lệch giá. Tình trạng đó kéo dài cũng là một trong những
nguyên nhân làm cho đời sống của cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ
trang và toàn thể nhân dân gặp nhiều khó khăn, đồng thời làm xói mòn niềm tin
của nhân dân đối với Đảng. Tân Kỳ là một huyện miền núi, đường xá giao thông đi
lại khó khăn, kinh tế chậm phát triển nên tình hình buôn bán kinh doanh, các dịch
vụ càng gặp nhiều khó khăn.
Thực hiện chủ trương đổi mới đất nước của Đảng, tình trạng ngăn sông cấm
chợ bị xóa bỏ trên phạm vi cả nước. Hoạt động buôn bán kinh doanh các loại hàng
hóa giữa các địa phương, các vùng miền trên phạm vi cả nước thay đổi. Các ngành
nghề dịch vụ từ sữa chữa cơ khí, sữa chữa đồ điện gia dụng, nghề mộc, nghề rèn,
sữa chữa điện tử, sữa chữa các loại máy móc,… đều phát triển nhanh chóng trên
địa bàn Nghệ Tĩnh, Nghệ An. Ở Tân Kỳ, chỉ trong vòng 10 năm (1986 -1995), các
cửa hàng dịch vụ cung cấp phân bón, vật liệu xây dựng, thuốc thú y, thuốc bảo vệ
thực vật, thu mua nông sản phẩm,… đến sữa chữa hon đa, xe máy, đồ điện tử, đồ
điện gia dụng, may mặc, chụp ảnh,…đến các cửa hàng ăn uống, giải khát,… mọc
lên nhanh chóng ở thị trấn Lạt, Chợ Cừa, các tuyến giao thông chính nối liền các
xã, các trung tâm xã,…Điểm khác biệt ở đây là nhiều hộ gia đình cán bộ công nhân
viên chức, gia đình nông dân,… trên địa bàn huyện mạnh dạn bỏ vốn đầu tư mở
các cửa hàng, cửa hiệu, ki ốt, mua sắm máy xay xát,…để kinh doanh buôn bán đủ
các loại hàng hóa. Số hộ gia đình mua sắm ô tô tải để vận chuyển hàng hóa ở thị
trấn Lạt, xã Nghĩa Hoàn,… tăng nhanh. Hoạt động kinh doanh buôn bán, dịch vụ
sữa chữa,… phát triển nhanh, mang lại thu nhập khá cho nhiều hộ gia đình, góp
phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động, thúc đẩy kinh tế phát
triển. Một trong những nguyên nhân khác để hoạt động buôn bán kinh doanh, dịch
vụ ở Tân Kỳ nói riêng và Nghệ An nói chung thời kỳ này phát triển mạnh là nhờ
kinh tế Nghệ An có nhiều khởi sắc, các tuyến đường giao thông liên tỉnh, liên
huyện,… được đầu tư xây dựng, nguồn hàng hóa phong phú đa dạng, do đó, tạo cơ
hội cho hoạt động thông thương buôn bán, dịch vụ phát triển đều khắp ở các huyện
thành. Một nhân tố khác đóng vai trò quyết định là chủ trương đúng đắn của Đảng
đã khuyến khích nhân dân vươn lên làm giàu chính đáng bằng chính sức lao động
và trí tuệ của mình. Cũng cần phải khẳng định một trong những nhân tố quan trọng
khác là nhân dân Nghệ An nói chung, nhân dân Tân Kỳ nói riêng có truyền thống
lao động cần cù, ý chí vươn lên làm giàu mạnh mẽ và đôi bàn tay khéo léo.
Sự phát triển của hoạt động buôn bán thương mại, dịch vụ ở Tân Kỳ còn
được thể hiện ở hệ thống chợ cũ như chợ Cừa, chợ Lạt,… và một số chợ mới được
huyện thành lập, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong việc trao đổi
buôn bán hàng hóa, góp phần thúc đẩy đời sống kinh tế địa phương. Thực hiện chủ
trương của huyện, trong giai đoạn này bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, huyện đã
đầu tư mở rộng chợ Cừa, Chợ Lạt, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh mạnh dạn
bỏ vốn kinh doanh với quy mô lớn. Bảng thống kê các chợ mới được thành lập ở
một số địa phương trên địa bàn huyện Tân Kỳ từ năm 1986 đến năm 1995 phản
ánh phần nào những nỗ lực của huyện trong việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh,
buôn bán thương mại, dịch vụ trong chặng đường 10 năm đầu đổi mới.
Hoạt động buôn bán kinh doanh, dịch vụ đã đóng góp một phần không nhỏ
vào nguồn thu ngân sách của địa phương.
Tuy nhiên, trong 10 năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, hoạt động kinh
doanh buôn bán, dịch vụ ở Tân Kỳ cũng bộc lộ không ít tồn tại bất cập như: số vốn
đầu tư cho hoạt động kinh doanh của các hộ gia đình còn ít, hoạt động kinh doanh
buôn bán dịch vụ mới phát triển tập trung chủ yếu ở Lạt, Cừa, các chợ, dọc các trục
đường giao thông. Các cơ sở dịch vụ còn nhỏ, máy móc thiết bị chưa đáp ứng được
nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, lĩnh vực kinh doanh, hàng hóa,v.v…
cũng còn nhiều hạn chế, hoạt động thu ngân từ các hộ kinh doanh buôn bán, hàng
hóa, dịch vụ, cũng bộc lộ một số hạn chế. Riêng các xã Tân Xuân, Giai Xuân,v.v…
và những xã kinh tế khó khăn chưa phát triển,…
Từ thực tiễn địa phương, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước, cùng với việc tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải,… huyện đặc biệt coi trọng việc đẩy nhanh
hoạt động buôn bán thương mại, dịch vụ trên địa bàn. Gai đoạn từ năm 1996 đến
năm 2012 được coi là thời kỳ bùng nổ của hoạt động buôn bán thương mại, dịch vụ
ở hầu hết các xã, thị trên địa bàn huyện. Các hộ gia đình mạnh dạn đầu tư tiền mua
sấm máy móc thiết bị, xây dựng nhà hàng, cửa hiệu khang trang, cho con em đi
học nhiều ngành nghề mới ở Vinh, Hà Nội, Sài Gòn,… chủ động tìm kiếm nguồn
hàng, thay đổi phương thức kinh doanh, coi khách hàng là thượng đế, lấy chữ tín
làm đầu,v.v… Ngoài ngành vận tải hàng hóa, hành khách mà chúng tôi đã trình
bày ở phần trước, trong giai đoạn này, hoạt động buôn bán, kinh doanh, thương
mại dịch vụ ở Tân Kỳ có bước chuyển biến mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực như: Số
ngành, nghề dịch vụ tăng nhanh, số vốn đầu tư cho hoạt động buôn bán, kinh
doanh, dịch vụ của các hộ gia đình ngày càng lớn, số người trực tiếp và gián tiếp
tham gia vào các hoạt động thương mại dịch vụ tăng mạnh,… Không chỉ ở thị trấn
Lạt, Cừa mà trong giai đoạn này ở hầu khắp các làng xã đều có mạng lưới dịch vụ
kinh doanh buôn bán, số người ngoài địa bàn huyện đến đầu tư kinh doanh, dịch vụ
ngày càng đông. Ngoài những nhà hàng sang trọng ở Lạt, Cừa, những cơ sở dịch
vụ có số vốn đầu tư lên đến hàng tỷ đồng, ở các xã vùng sâu vùng xa như Tân
Xuân, Giai Xuân,… hoạt động kinh doanh, thương mại dịch vụ cũng phát triển.
Chính sự phát triển của thương mại dịch vụ góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế,
tăng nguồn thu, giải quyết nhu cầu công ăn việc làm và thúc đẩy kinh tế, xã hội
phát triển.
Thương mại, dịch vụ phát triển đã đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho ngân
sách của huyện, nhất là khi Đảng và nhà nước thực hiện chủ trương xóa bỏ hầu hết
các khoản thu từ nông nghiệp thì điều này càng có ý nghĩa quan trọng đối với Tân
Kỳ.
Ảnh chợ huyện Tân Kỳ
II. ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC, Y TẾ, VĂN HÓA, VĂN NGHỆ,
THỂ DỤC THỂ THAO
1. Đầu tư xây dựng, phát triển giáo dục
* Giáo dục Mầm non và Tiểu học
Thực hiện lời dạy của Hồ Chủ Tịch: “Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm trồng người”, Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ đã tập trung đầu tư xây
dựng, phát triển trường lớp, tiếp nhận, bồi dưỡng hàng trăm giáo viên Mầm Non,
giáo viên Tiểu học công tác trên địa bàn huyện. Là một huyện miền núi, kinh tế
còn gặp muôn vàn khó khăn, dân cư ở phân tán, đường xá giao thông đi lại khó
khăn, nhưng ngay từ khi bắt tay xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo Nghị quyết của
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV, thứ V, giáo dục Tân Kỳ nói chung,
ngành đào tạo Mầm non và Tiểu học nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của việc phát triển giáo dục Mầm non,
Tiểu học, trong giai đoạn 1975 -1985, mặc dầu kinh tế gặp nhiều khó khăn, song
các HTX nông nghiệp, Đảng ủy, Ủy ban nhân dân các xã đã dành một phần lương
thực để trả công cho các cô dạy Mẫu giáo trên địa bàn huyện. Thường mỗi vụ, một
cô dạy mẫu giáo được trả khoảng 100 -120 kg thóc (tương đương với khoảng 250 -
300 công của xã viên vào thời gian đó). Nhân dân đóng góp ngày công để xây
dựng trường lớp. Nhờ đó, giáo dục Mầm non ở Tân Kỳ phát triển, tạo điều kiện
cho các cháu đến trường. Tuy nhiên, ở những xã vùng sâu vùng xa, có nhiều đồng
bào dân tộc Thái, Thổ, sinh sống, giáo dục Mầm non chưa mấy phát triển, tình
trạng trắng lớp không phải là hiện tượng hi hữu.
Đối với giáo dục Tiểu học, trong giai đoạn này huyện đã tiếp nhận thêm
nhiều giáo viên được đào tạo từ các trường Trung cấp sư phạm của Nghệ An về
công tác, khắc phục tình trạng thiếu giáo viên cấp 1 trước đó. Nhân dân các xã
đóng góp hàng vạn tranh tre, nứa lá, và hàng vạn ngày công để xây dựng các
trường cấp 1 trên địa bàn xã, tạo điều kiện thuận lợi cho con em đúng độ tuổi đến
trường đến lớp.
Huyện ủy, Ủy ban nhân dân và ngành Giáo dục đào tạo Tân Kỳ phối hợp
cùng Đảng ủy, UBND các xã tuyên truyền vận động nhân dân cho con em đến
trường, nhất là con em người Thổ, người Thái và nhân dân ở các xã gặp nhiều khó
khăn về kinh tế trên địa bàn huyện. Nhờ sự chỉ đạo kịp thời, sát hợp với từng địa
phương, do đó, mặc dù kinh tế gặp nhiều khó khăn, song giáo dục Tiểu học ở Tân
Kỳ vẫn đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nhiều giáo viên cấp 1 (nay gọi là giáo
viên Tiểu học), thực sự là những tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Nhiều
trường cấp 1, đạt thành tích tốt được Ủy ban nhân dân huyện và ngành Giáo dục
Nghệ Tĩnh biểu dương, khen thưởng.
Mặc dù có nhiều cố gắng và đạt được những thành tựu to lớn, song trong bối
cảnh chung của ngành Giáo dục đào tạo tỉnh Nghệ -Tĩnh trong giai đoạn này, giáo
dục cấp 1 ở Tân Kỳ cũng bộc lộ nhiều bất cập như: trường lớp tạm bợ, đời sống
cán bộ, giáo viên gặp nhiều khó khăn một số giáo viên xin nghỉ dạy nhất là khi có
chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung ương Đảng về việc khoán sản phẩm đến người
lao động, không ít giáo viên cấp 1 nghỉ dạy về nhà nhận ruộng khoán, số học sinh
bỏ học tăng, nhất là số con em đồng bào Thái, Thổ và ở những gia đình kinh tế khó
khăn,v.v… Để hình dung rõ hơn về bức tranh giáo dục Mầm non và Cấp 1 (Tiểu
học) ở Tân Kỳ trong giai đoạn 10 năm đầu xây dựng phát triển chúng tôi xin lập
bảng thống kê dưới đây.
Bảng thống kê số trường, lớp, giáo viên, học sinh Mầm non ở Tân Kỳ từ
năm học 1975 - 1976 đến năm học 1984 -1985
TT Năm học Số trường, lớp Số giáo viên Số học sinh Ghi chú
1 1975 -1976 7; 123 155 2510
2 1977 -1978 7; 128 194 3918
3 1979- 1980 8; 132 217 4465
4 1981-1982 9; 143 225 4637
5 1982 -1983 9; 156 268 4983
6 1983- 1984 14; 163 319 5136
7 1984 -1985 16; 167 333 5212
Và dưới đây là bảng thống kê số trường , lớp, giáo viên cấp 1 ở Tân Kỳ từ năm học
1975 -1976 đến năm học 1984 -1985.
TT Năm học Số trường, lớp Số giáo viên Số học sinh Ghi chú
1 1975 -1976 26; 295 332 11329
2 1977 -1978 19; 284 335 11427
3 1979- 1980 20; 437 489 12950
4 1981-1982 21; 429 484 12141
5 1982 -1983 24; 413 474 12193
6 1983- 1984 24; 418 488 12274
7 1984 -1985 25; 431 493 12729
Vượt qua khó khăn, thử thách, bước vào thời kỳ đổi mới, ngành giáo dục
Mầm non và giáo dục Tiểu học trên địa bàn huyện Tân Kỳ có bước chuyển biến
toàn diện, sâu sắc cả về số trường lớp, năng lực trình độ giáo viên, thiết bị đồ dùng
dạy học đến chất lượng dạy và học. Ngành giáo dục huyện Tân Kỳ tham mưu cho
huyện về việc đầu tư xây dựng hệ thống trường Mầm non, trường Tiểu học, tiếp
nhận giáo viên, bồi dưỡng giáo viên,… Huyện ủy, UBND huyện tập trung chỉ đạo
cấp ủy, chính quyền các cấp tranh thủ mọi nguồn vốn tài trợ của tỉnh, Trung ương
và phát huy nội lực, đầu tư hàng trăm tỷ đồng để xây dựng hệ thống trường Mầm
non, Tiểu học, từ thị trấn Lạt đến tất cả các xã trên địa bàn huyện. Một số trường
Mầm non bán công cũng được đầu tư xây dựng ở thị trấn Lạt, vùng Cừa, Nghĩa
Hoàn,… Giáo viên được chuẩn hóa để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của giáo
dục và đào tạo. Nhờ sự chỉ đạo sát sao của Huyện ủy, UBND huyện cấp ủy chính
quyền các cấp mà chỉ trong khoảng 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, giáo dục
Mầm non và giáo dục Tiểu học ở Tân Kỳ đã phát triển một cách toàn diện, mạnh
mẽ trên địa bàn toàn huyện. Nhất là từ năm 2000 đến 2012, thực hiện chủ trương
xã hội hóa giáo dục, thì tốc độ phát triển giáo dục nói chung và giáo dục Mầm non,
giáo dục tiểu học ở Tân Kỳ nói riêng, chuyển biến toàn diện cả về số lượng trường
lớp, số giáo viên, học sinh,… Số giáo viên Tiểu học đạt danh hiệu “Giáo viên dạy
giỏi” cấp huyện, cấp tỉnh ngày càng tăng. Số giáo viên Tiểu học đạt danh hiệu
“Đảm việc nước, giỏi việc nhà”, tăng nhanh. Chất lượng dạy và học ở bậc học
Mầm non và Tiểu học ở Tân Kỳ tăng nhanh, đáp ứng tâm tư nguyện vọng của cán
bộ, đảng viên và nhân dân huyện nhà đồng thời tạo điều kiện vững chắc cho việc
phát triển giáo dục THCS và THPT trên địa bàn trong suốt hơn ba thập kỷ qua. Để
tiện theo dõi bước phát triển toàn diện của giáo dục Mầm non và giáo dục Tiểu học
ở Tân Kỳ chúng tôi xin lập một số bảng thống kê dưới đây.
Bảng thống kê số tiền đầu tư xây dựng trường Mầm non và trường Tiểu học
ở Tân Kỳ từ năm 1986 đến năm 2012
TT Năm
Số tiền đầu tư
xd trường Mầm
non
Số trường, lớp
Mầm non
Số tiền đầu tư
xd trường Tiểu
học
Sốtrường,
lớp Tiểu
học
1 1986 12.138.000 18; 256 14.240.000 39; 424
2 1989 17.214.000 19; 296 19.247.000 42; 436
3 1990 21.145.000 22; 274 22.138.000 44; 450
4 1993 47.256.000 22; 282 53.241.000 44; 452
5 1995 68.476.000 23; 297 72.586.000 44; 454
6 1998 112.254.000 23; 290 131.254.000 41; 440
7 2000 354.168.000 24; 310 425.381.000 39; 446
8 2005 568.270.000 24; 312 768.516.000 36; 400
9 2008 5.614.000.000 24; 314 7.219.000.000 31; 439
10 2010 22.037.000.000 24; 317 10.467.000.000 27; 336
11 2012 6.756.000.000 24; 320 3.066.128.000 26; 300
Ảnh trường Mầm non bán công thị trấn Lạt
Vừa tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị, đồ dùng dạy
học phục vụ cho việc nâng cao chất lượng dạy và học tại các trường Mầm non,
trường Tiểu học, huyện Tân Kỳ còn đặc biệt coi trọng việc tiếp nhận, bồi dưỡng,
chuẩn hóa đội ngũ giáo viên giảng dạy, công tác tại các trường Mầm non, Tiểu học
trên địa bàn huyện. Bảng thống kê dưới đây phản ánh bước đột phá của Tân Kỳ
trong chặng đường gần ba thập kỷ thực hiện công cuộc đổi mới về nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên công tác tại các trường Mầm non và trường Tiểu
học trên địa bàn.
Bảng thống kê số giáo viên Mầm Non đạt chuẩn và trên chuẩn hóa từ năm
học 1986 -1987 đến năm học 2012 -2013
TT Năm học
Số giáo viên
đủ chuẩn
(người)
Số gv được
chuẩn hóa có
trình độ
ĐH(người)
Số gv được
chuẩn hóa có
trình độ CĐ
(người)
Ghi chú
1 1986 - 1987 165 0 0
2 1989 - 1990 188 0 1
3 1992 - 1993 182 0 1
4 1994 - 1995 196 0 1
5 1997 - 1998 274 0 2
6 1999 - 2000 299 1 2
7 2002 - 2003 335 4 12
8 2004 - 2005 368 12 38
9 2008 - 2009 427 91 65
10 2010 - 2011 462 167 78
11 2011 - 2012 548 121 151
Ảnh Trường Tiểu học xã…. đạt chuẩn quốc gia
Bảng thống kê số giáo viên Tiểu học đạt chuẩn và trên chuẩnđược tiếp nhận Tân
Kỳ từ năm học 1986 -1987 đến năm học 2012 -2013
TT Năm họcSố GV đủ
chuẩn (người)
Số GV được
chuẩn hóa có
trình độ ĐH
(người)
Số GV được
chuẩn hóa có
trình độ CĐ
(người)
Ghi chú
1 1986 - 1987 463 12 2
2 1989 - 1990 466 16 7
3 1992 - 1993 435 18 8
4 1994 - 1995 469 53 12
5 1997 - 1998 525 68 18
6 1999 - 2000 518 123 32
7 2002 - 2003 534 164 91
8 2004 - 2005 589 298 112
9 2008 - 2009 645 337 178
10 2010 - 2011 627 345 224
11 2011 - 2012 610 395 239
Nhờ nỗ lực của đội ngũ giáo viên và sự quan tâm chỉ đạo của huyện, cấp ủy,
chính quyền các cấp cũng như sự đồng thuận của nhân dân, chất lượng dạy và học
Mầm non, Tiểu học được nâng cao rõ rệt, nhiều giáo viên đạt danh hiệu giáo viên
dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. Được UBND Tỉnh công nhận 16 đơn vị đạt chuẩn
Quốc gia, trong đó có 3 trường đạt mức 2. Bảng thống kê dưới đây phản ánh rõ
thêm về chuyển biến giáo dục Tiểu học ở Tân Kỳ từ năm 1990 đến năm 2012.
Bảng thống kê số giáo viên Tiểu học đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp
huyện, cấp tỉnh và số trường Đạt trường chuẩn quốc gia từ năm học 1990 -1991
đến năm học 2011 - 2012
TT Năm học
Số GV đạt GV
dạy giỏi cấp
huyện
Số GV đạt
GV dạy giỏi
cấp tỉnh
Số trường
đạt chuẩn
quốc gia
Ghi chú
1 1990 - 1991 198 12
2 1993 - 1994 228 15
3 1995 - 1996 219 16
4 1999 - 2000 264 21 1
5 2002 - 2003 328 22 3
6 2005 - 2006 461 28 3
7 2007 - 2008 422 34 2
8 2009 - 2010 443 48 5
9 2011 - 2012 487 44 2
*Giáo dục THCS và THPT
+ Giáo dục THCS
Trong khói lửa chiến tranh phá hoại lần thứ hai, thầy trò trường Cấp II xã
Nghĩa Đồng (nay là trường THCS xã Nghĩa Đồng) đã đạt được nhiều thành tích
xuất sắc trong việc dạy và học. Trong nhiều năm liền trường được Ty giáo dục
Nghệ An, UBND tỉnh và Bộ giáo dục Đào tạo tặng nhiều Bằng khen, giấy khen.
Năm học 1974 -1975, thầy trò trường cấp II xã Nghĩa Đồng nói riêng và cán bộ
giáo viên ngành giáo dục Tân Kỳ, cùng nhân dân huyện vinh dự được đón tiếp
đồng chí Nguyễn Thị Bình - Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo về thăm trường và
thay mặt Đảng, Chính phủ trao tặng Huân chương Lao động hạng Ba cho tập thể
cán bộ, giáo viên, học sinh của trường. Trường Cấp II xã Nghĩa Đồng trở thành
một trong ba lá cờ đầu của ngành giáo dục miền Bắc thời bấy giờ. Kế thừa truyền
thống đó, từ năm học 1975 -1976, đến năm học 1981 - 1982, thầy trò trường Cấp II
xã Nghĩa Đồng, liên tiếp vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành tốt chất lượng dạy và
học và dẫn đầu ngành giáo dục huyện, tỉnh Nghệ Tĩnh. Năm 1982, thầy trò trường
Cấp II Nghĩa Đồng vinh dự được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tặng Cờ luân lưu
dẫn đầu ngành giáo dục cả nước. Năm 1984, một lần nữa vinh dự được Đảng, Nhà
nước phong tặng Huân chương Lao động hạng Hai.
Thi đua với thầy trò trường cấp II xã Nghĩa Đồng, từ sau ngày miền Nam
hoàn toàn giải phóng đến nay, được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Huyện ủy,
UBND huyện, nỗ lực của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, đoàn thể các cấp
và sự đóng góp to lớn của nhân dân, giáo dục THCS Tân Kỳ có bước chuyển biến
toàn diện cả về cơ sở vật chất thiết bị trường học như: trường lớp, bàn ghế, thư
viện, khu nội trú cho giái viên, sân chơi cho học sinh,v.v… chất lượng đội ngũ
giáo viên, cán bộ quản lý không ngừng nâng cao,v.v… Nếu như năm học 1975 -
1976, toàn huyện Tân Kỳ mới có 16 trường cấp II với 5.432 học sinh, thì đến năm
học 2011 - 2012, toàn huyện có 17 trường THCS với 8.044 học sinh; 01 trường
PTCS với 661 học sinh.
Đặc biệt, từ năm học 1990 -1991, Huyện ủy, UBND huyện Tân Kỳ và
Đảng bộ chính quyền các cấp cùng nhân dân phát huy nguồn nội lực, tranh thủ
mọi nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, tỉnh, tập trung đầu tư hệ thống trường
THCS, mua sắm bàn ghế thiết bị, sách vở,… phục vụ công tác dạy và học. Một
số trường THCS di dời đến địa điểm mới có không gian thoáng đảng, diện tích
rộng,… để xây dựng mới. Kết quả là sau hơn ba thập kỷ (1975- 2012), toàn bộ
17 trường THCS và 01 trường PTCS trên địa bàn huyện đã được đầu tư xây
dựng mới, khang trang có đủ bàn ghế, trang thiết bị, phục vụ cho việc dạy và
học. Ngoài trường THCS thị Trấn, trường THCS xã Nghĩa Hoàn, còn có nhiều
trường THCS được đầu tư với số vốn lớn xây dựng trường tầng, khu nội trú,…
rộng rãi, thoáng mát. Bảng thống kê số vốn đầu tư xây dựng hệ thống trường
THCS ở Tân Kỳ từ năm học 1990 -1991 đến năm học 2011 -2012 cho thấy sự
quan tâm đặc biệt của Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ đối với việc phát triển cơ sở
hạ tầng trường lớp, mua sắm thiết bị, nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho
cán bộ, giáo viên và học sinh trong các trường THCS thi đua dạy tốt học tốt.
TT Năm họcSố tiền đầu tư
(VNĐ)
Số trường THCS
được xây dựng mới
Số trường THCS
được sữa chữa
1 1990 - 1991 22.126.000 1 2
2 1992 - 1993 47.650.000 1 1
3 1995 - 1996 66.349.000 0 4
4 1998 - 1999 78.268.350 0 2
5 2001 - 2002 315.241.000 0 3
6 2004 - 2005 1.124.327.000 0 3
7 2007 - 2008 2.142.215.000 0 4
8 2008 - 2009 9.769.000.000 0 5
9 2010 - 2011 12.165.000.000 0 9
10 2011 - 2012 4.984.000.000 0 2
Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và nhất là đội ngũ giáo
viên trực tiếp giảng dạy tại các trường THCS, Phòng giáo dục và Đào tạo huyện
Tân Kỳ đã rà soát lại đội ngũ, tiếp nhận những giáo viên có năng lực chuyên môn,
tâm huyết với nghề, bố trí dạy đúng chuyên môn, tránh trường hợp một giáo viên,
dạy kiêm nhiệm nhiều môn, tiến hành phân loại, xếp loại giáo viên theo đúng tinh
thần chỉ đạo của Bộ giáo dục và Đào tạo và ngành giáo dục tỉnh. Huyện tạo điều
kiện thuận lợi để giáo viên tập huấn bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và
đặc biệt là tạo điều kiện để số giáo viên mới tốt nghiệp Cao đẳng có điều kiện được
học Đại học tại chức. Hàng năm Phòng giáo dục huyện tiến hành thanh kiểm tra,
dự giờ, tổ chức thi giáo viên dạy giỏi cấp trường, cấp huyện và cấp tỉnh. Nhờ triển
khai đồng bộ nhiều giải pháp, chất lượng dạy và học ở các trường THCS có chuyển
biến tích cực, số lượng giáo viên đạt danh hiệu Giáo viên dạy giỏi cấp trường, cấp
huyện và cấp tỉnh tăng nhanh. Những giáo viên có năng lực chuyên môn, uy tín
trong các Hội đồng sư phạm được bồi dưỡng và bố trí vào cương vị tổ trưởng, Phó
hiệu trưởng phụ trách chuyên môn, hay làm Hiệu trưởng.
Bảng thống kê số lượng giáo viên THCS được chuẩn hóa Đại học và số giáo
viên được cử đi đào tạo Thạc sĩ ở Tân Kỳ từ năm 1995 đến năm 2012
TT NămSố giáo viên được đào
tạo chuẩn hóa Đại học
Số giáo viên được cử đi
đào tạo trình độ Thạc sĩGhi chú
1 1995 17 0
2 1997 22 0
3 1999 39 0
4 2000 22 0
5 2002 27 1
6 2005 69 3
7 2007 52 0
8 2009 12 1
9 2010 6 1
10 2012 2 2
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học đảm bảo, chất lượng đội
ngũ cán bộ quản lý, giáo viên các trường THCS không ngừng được nâng cao, nhờ
đó, chất lượng đại trà và chất lượng mũi nhọn của học sinh THCS có chuyển biến
tích cực. Số học sinh đạt danh hiệu học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh hàng năm
tăng nhanh và khá đồng đều ở các trường THCS.
Bảng thống kê số học sinh giỏi huyện và tỉnh từ năm học 1995 -1996 đến
năm học 2011 - 2012
TT Năm họcHọc sinh sinh giỏi
huyện
Học sinh sinh giỏi
tỉnh
Học sinh giỏi
quốc gia
1 1995 - 1996 378 13 0
2 1997 - 1998 322 24 1
3 1999 - 2000 348 22 1
4 2002 - 2003 321 29 0
5 2004 - 2005 385 44 0
6 2007 - 2008 414 37 0
7 2008 - 2009 429 42 0
8 2009 - 2010 482 88 0
9 2010 - 2011 898 196 2
10 2011 - 2012 950 210 8
Đến năm học 2011 - 2012, toàn huyện có 5 trường THCS đạt danh hiệu
trường chuẩn quốc gia, 487 giáo viên được công nhận đạt giáo viên dạy giỏi cấp
huyện 44 giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, 01 giáo viên đạt danh hiệu nhà giáo ưu tú.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đó, giáo dục THCS ở Tân Kỳ vẫn còn bộc
lộ một số tồn tại, khuyết điểm như: số học sinh ở các xã Tân Xuân, Giai Xuân,…
bỏ học từ lớp 6 đến lớp 9 trong những năm gần đây có xu hướng tăng nhất là
những học sinh nghèo, hay con em những gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, số học
sinh cá biệt, học sinh vi phạm quy chế,… có chiều hướng tăng. Ở vùng thị trấn Lạt,
vùng Cừa và một số xã có điều kiện kinh tế phát triển, số học sinh trốn học tham
gia các trò chơi điện tử, chơi bi da,…không giảm mà có chiều hướng tăng. Sự phối
hợp giữa nhà trường - gia đình và xã hội trong việc giáo dục đạo đức, phẩm chất
cho học sinh chưa đạt được kết quả như mong muốn. Một số trường THCS thiếu
trang thiết bị dạy học như Bản đồ, vườn thực nghiệm sinh học, phòng thí nghiệm
phục vụ cho môn hóa, môn sinh, hay thiết bị nghe, nhìn phục vụ môn học ngoại
ngữ,v.v…hay việc tổ chức cho học sinh học ngoại khóa, đi tham quan các di tích
lịch sử, danh lam thắng cảnh trong huyện, trong tỉnh còn gặp không ít khó
khăn,v.v…
Giáo dục THCS ở Tân Kỳ đã và đang phát huy những thành tựu to lớn, tìm
giải pháp hạn chế, khắc phục, tồn tại, khuyết điểm trong chặng đường vừa qua để
tiếp tục vươn tới đạt được những thành tựu lớn hơn trên bước đường hội nhập.
Ảnh Trường THCS xã Nghĩa Đồng lá cờ đầu của ngành giáo dục
+ Giáo dục THPT
So với một số huyện đồng bằng, sau 12 năm thành lập (1963 - 1975), cho
đến năm 1975, cả huyện Tân Kỳ mới có một trường Phổ thông cấp III, với 658 học
sinh. Tình trạng một trường phổ thông cấp III (nay là THPT) cho học sinh toàn
huyện đã gây không ít cho việc học tập của con em nhân dân trong huyện. Bởi có
không ít xã nằm cách trung tâm huyện từ 20 - 30 km, đường sá giao thông đi lại
khó khăn, học sinh sau khi tốt nghiệp THCS chủ yếu là nghỉ học, rất ít em học lên
cấp III. Đặc biệt, là với đồng bào Thái, đồng bào Thổ, trong suốt nhiều năm liền
hầu như không có con em tới trường cấp III. Tình trạng đó cũng tồn tại khá nhiều
năm ở những xã vùng sâu, vùng xa, kinh tế gặp nhiều khó khăn, không mấy gia
đình có con em tốt nghiệp cấp III và thi vào các trường Đại học, Cao Đẳng. Trong
suốt thời gian từ 1975 đến 1990, mỗi năm đến kỳ tuyển sinh Đại học, Cao Đẳng,
tình trạng mỗi xã chỉ có từ 5 - 10 em đi dự thi vào các trường Đại học, Cao Đẳng
và cả xã có vài ba em nhận giấy báo trúng tuyển vào Đại học, Cao đẳng là khá phổ
biến. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho tình trạng dân trí ở Tân Kỳ
chưa được nâng cao như một số huyện khác trong tỉnh, gây không ít khó khăn
trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ ở địa phương cũng như phát triển
kinh tế, xã hội, văn hóa một cách bền vững, lâu dài. Đó là chưa nói tới tình trạng
chỉ có một trường cấp III đã gây ra một sự bất cập giữa một bên là giáo dục Tiểu
học và giáo dục THCS đã phát triển mạnh so với trước chiến tranh, nhưng giáo dục
cấp III vẫn chưa thay đổi.
Nhận thức rõ điều đó, từ năm 1986 lại nay, trải qua 36 năm (1986 - 2012),
Huyện ủy, UBND huyện Tân Kỳ đã chủ động đề xuất với Tỉnh ủy, UBND tỉnh và
các ngành hữu quan cho phép Tân Kỳ được xây dựng thêm các trường PTTH trên
địa bàn huyện để đáp ứng yêu cầu học tập ngày càng cao của con em nhân dân, tạo
bước đột phá để nâng cao trình độ dân trí, tạo nguồn lực cán bộ trẻ cho địa phương
cũng như góp phần đưa sự nghiệp giáo dục phổ thông của tỉnh phát triển cân đối
giữa các bậc học, ngành học, xóa bỏ dần tình trạng mất cân đối trong giáo dục phổ
thông giữa các huyện đồng bằng, trung du, miền núi.
Được sự quan tâm đặc biệt của tỉnh, huyện Tân Kỳ chủ động huy động mọi
nguồn lực, đầu tư xây dựng các trường THPT mới trên địa bàn huyện. Chỉ trong
vòng 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới (1986 - 2000), từ một trường cấp III,
Tân Kỳ đã đầu tư xây dựng thêm 2 trường PTTH, một Trung tâm giáo dục thường
xuyên, đáp ứng nhu cầu phát triển đồng bộ các cấp học, ngành học trên địa bàn
huyện. Cùng với sự ra đời của các trường PTTH mới có cơ sở khang trang, thiết bị
dạy học khá đồng bộ, số học sinh tốt nghiệp PTTH và tương đương ở Tân Kỳ tăng
lên nhanh chóng. Theo đó, số lượng con em Tân Kỳ thi đỗ vào các trường Đại học,
Cao Đẳng, THCN, tăng nhanh.
Bước vào thiên niên kỷ mới được sự quan tâm của Tỉnh ủy, UBND Tỉnh,
ngành giáo dục đào tạo tỉnh Nghệ An cùng với những nỗ lực của Huyện ủy, UBND
huyện và cấp ủy chính quyền địa phương các cấp cũng như đóng góp của các giai
tầng trong xã hội, nhân dân địa phương, giáo dục THPT Tân Kỳ chuyển biến vượt
bậc. Trường lớp được đầu tư nâng cấp, thiết bị phục vụ dạy học như sách vở, thư
viện, phòng thí nghiệm, phòng máy vi tính, thiết bị nghe nhìn phục vụ cho học
ngoại ngữ, tin học,v.v… được đầu tư kịp thời đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho
bậc giáo dục THPT ở Tân Kỳ có bước đột phá tích cực, đạt được nhiều thành tựu
to lớn. Đến năm học 2011 - 2012, Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện có 636
học sinh, ba trường THPT trên địa bàn thu hút 5244 học sinh theo học. Số lượng
con em Tân Kỳ thi đỗ vào các trường Đại học, Cao đẳng trong cả nước tăng gấp
nhiều lần so với trước. Đặc biệt, có khá đông số con em nhân dân đồng bào Thái,
Thổ sống trên địa bàn thi đỗ vào các trường Đại học, Cao đẳng. Nhiều gia đình có
3 - 4 người con tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng, hoặc đang theo học tại các trường
Đại học, Cao đẳng trong khắp cả nước. Số học sinh giỏi tỉnh, học sinh giỏi quốc
gia, học sinh thi đỗ thủ khoa vào các trường Đại học là con em Tân Kỳ tăng nhanh.
Ngoài ra, số giáo viên đang giảng dạy công tác tại các trường PTTH ở Tân Kỳ theo
học Cao học Thạc sĩ ngày càng đông. Giáo dục THPT ở Tân Kỳ đã và đang tiếp
tục gặt hái nhiều thành công và góp phần không nhỏ vào sự nghiệp trồng người của
tỉnh cũng như cả nước. Một vài số liệu thống kê dưới đây sẽ góp phần khẳng định
bước đi vững chắc, toàn diện của giáo dục PTTH ở Tân Kỳ trong suốt 27 năm thực
hiện công cuộc đổi mới (1986 - 2012).
Bảng thống kê số học sinh ở Tân Kỳ tốt nghiệp PTTH và đỗ vào các trường Đại
học, Cao Đẳng trong một số năm từ 1986 đến 2012
TT NămSố học sinh tốt
nghiệp THPT
Số học sinh thi đỗ
vào các trường Đại
học
Số học sinh thi đỗ
vào các trường Cao
đẳng
1 1986 120 28 42
2 1988 132 32 46
3 1990 144 62 50
4 1992 160 72 70
5 1995 320 82 90
6 1998 350 160 134
7 2000 600 170 232
8 2003 550 272 212
9 2005 650 282 234
10 2008 750 420 250
11 2010 1200 550 300
12 2012 1500 750 500
Ảnh Trường THPT Tân Kỳ
Rõ ràng, trên bước đường gần 4 thập kỷ xây dựng, bảo vệ và phát triển đất
nước (1976 - 2012), cùng với những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế, xã
hội, quốc phòng an ninh, các cấp học, bậc học từ Mầm non đến THPT ở Tân Kỳ đã
gặt hái được nhiều thành tựu to lớn. Bên cạnh đó, vẫn còn không ít bất cập, tồn tại
nảy sinh từ thực tiễn cần phải sớm chấm dứt như sự phối hợp giữa nhà trường - gia
đình - xã hội, tình trạng học sinh bỏ học, trốn học,… đạo đức trong trường học
đang có chiều hướng suy giảm, vấn đề giáo dục tình yêu quê hương cho học sinh
các cấp, đầu tư mở rộng cơ sở trường học, nâng cao trình độ cán bộ quản lý, giáo
viên trong các cấp học, bậc học phổ thông,v.v… Bước đường hội nhập và phát
triển đã và đang đặt ra nhiều cơ hội, thách thức. Nhưng với những thành tựu to lớn
đã đạt được trong suốt nhiều năm qua, chắc chắn giáo dục đào tạo Tân Kỳ sẽ giành
được nhiều thành tựu to lớn hơn trong chặng đường trước mắt cũng như lâu dài.
2. Đầu tư xây dựng, phát triển y tế, thực hiện kế hoạch hóa gia đình,
chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em
* Đầu tư xây dựng, phát triển Y tế
Đầu tư xây dựng, phát triển y tế nhằm không ngừng nâng cao việc chăm sóc
sức khỏe, khám chữa bệnh cho nhân dân là một chủ trương đúng đắn của Đảng và
Nhà nước, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Khi còn sống, Hồ Chủ
Tịch đã dành nhiều thời gian để đi thăm, động viên, nhắc nhở các Y, Bác sĩ, Hộ lý,
… tại các bệnh viện, trạm xá, không ngừng phát huy y đức “Thầy thuốc như mẹ
hiền”, đem hết tài năng, tâm huyết của mình để khám, chữa bệnh cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân ngày càng tốt hơn.
Nước nhà thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, ngay trong Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IV và thứ V, Đảng ta tiếp tục khẳng định chủ trương đẩy
mạnh phát triển y tế trên phạm vi cả nước nhằm từng bước nâng cao việc khám
chữa bệnh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước. Thực hiện chủ trương của
Đảng và ngành y tế, ngay trong những năm tháng khó khăn về kinh tế (1975 -
1985), Huyện ủy, UBND huyện Tân Kỳ đã chỉ đạo cấp ủy, chính quyền địa
phương vừa đẩy mạnh phát triển kinh tế nhằm từng bước cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần cho nhân dân, đồng thời đẩy mạnh công tác phòng chống dịch bệnh,
tăng cường công tác khám chữa bệnh cho nhân dân.
Vượt lên không ít khó khăn thiếu thốn cả về đội ngũ y, bác sĩ, hộ lý, thuốc
men, dụng cụ y tế,… cơ sở khám chữa bệnh từ tuyến huyện đến tuyến xã, đội ngũ
y, bác sĩ, y tá, hộ lý,… công tác tại bệnh viện huyện Tân Kỳ cũng như tại các trạm
xá trên địa bàn huyện đã nêu cao phẩm chất đạo đức của người thầy thuốc, thực
hiện tốt nhiệm vụ được giao. Để hình dung được phần nào những khó khăn của
ngành y tế Tân Kỳ trong chặng đường 10 năm đầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc
(1975 - 1985), chúng tôi xin lập bảng thống kê dưới đây:
Bảng thống kê đội ngũ y, bác sĩ, y tá, hộ lý và các cơ sở khám chữa bệnh ở Tân
Kỳ từ năm 1975 đến năm 1985
TT Năm Số bác sĩ Số y sĩ, y tá, hộ lý Số trạm xá Số giường bệnh
1 1975 7 93 13 50
2 1980 9 95 14 60
3 1983 10 97 14 70
4 1985 10 100 14 80
Mặc dầu đã đạt được một số thành quả nhất định, song do đội ngũ y, bác sĩ,
y tá, hộ lý, cơ sở khám chữa bệnh thiếu thốn, nhân dân ở rải rác, phân tán trên một
phạm vi không gian khá rộng, đường xá phương tiện giao thông đi lại khó khăn,
v.v… do đó, công tác phòng chống dịch bệnh sốt rét, dịch tả,… khám chữa bệnh ở
địa bàn các xã cũng như ở tuyến huyện trong giai đoạn này còn có nhiều hạn chế
như: tình trạng dịch bệnh sốt sét xuất hiện trên địa bàn nhiều xã trong nhiều năm
chưa được dập tắt kịp thời, việc tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện ăn
chín , uống sôi, ngủ nằm màn, phun thuốc diệt muỗi, phát quang bụi rậm ở nơi cư
trú, đưa trâu bò, gia súc, gia cầm ra xa nơi ở, xây dựng nhà vệ sinh, sử dụng nguồn
nước uống,v.v… chưa đạt được kết quả như mong muốn. Tình trạng cơ sở khám
chữa bệnh như trạm xá ở các xã, bệnh viện huyện thiếu y bác sĩ, y tá, hộ lý, thuốc
men, giường bệnh nằm điều trị cho bệnh nhân,v.v… kéo dài chậm được khắc phục,
nhất là tình trạng thiếu bác sĩ ở các trạm xá, kéo dài trong nhiều năm.
Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, được sự quan tâm của tỉnh và nỗ lực
của Đảng bộ nhân dân Tân Kỳ, ngành y tế Tân Kỳ đã có bước chuyển biến toàn
diện, vững chắc và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Với phương châm “Nhà nước
và nhân dân cùng làm” chỉ trong vòng 26 năm (1986 - 2012), tất cả các xã trên địa
bàn huyện đã đầu tư hàng chục tỷ đồng, xây dựng lại toàn bộ các trạm y tế ở các xã
khang trang, thoáng mát, mua sắm thuốc men, phương tiện khám chữa bệnh,
giường điều trị bệnh cho bệnh nhân,v.v…góp phần nâng cao năng lực khám chữa
bệnh cho nhân dân ở ngay tuyến xã.
Bên cạnh đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm thuốc men, dụng cụ y tế,
… trang bị cho các trạm xá, Huyện đặc biệt quan tâm đến việc tiếp nhận, đào tạo
chuẩn hóa đội ngũ y sĩ, y tá, hộ lý công tác tại các cơ sở y tế địa phương và tăng
cường đội ngũ bác sĩ về công tác tại cơ sở. Nhờ đó, công tác phòng chống dịch
bệnh, khám chữa bệnh cho nhân dân ở tuyến y tế cơ sở có chuyển biến toàn diện.
Được sự quan tâm của ngành y tế tỉnh, việc đầu tư xây dựng, nâng cấp bệnh
viện đa khoa huyện Tân Kỳ, Trung tâm y tế dự phòng (nay là Trung tâm y tế
huyện) được Huyện ủy, UBND huyện đặc biệt quan tâm chỉ đạo và triển khai thực
hiện đạt chất lượng cao. Kết quả là Bệnh viện Đa khoa huyện Tân Kỳ đã được đầu
tư xây dựng mới hoàn toàn, nhiều trang thiết bị, dụng cụ y tế, máy móc hiện đại
được đầu tư mua sắm, trang bị và đưa vào sử dụng. Nhờ đó, chất lượng khám chữa
bệnh cho nhân dân không ngừng được nâng cao.
Theo số liệu của Phòng y tế huyện Tân Kỳ, đến năm 2012, các chỉ tiêu khám
chữa bệnh đạt từ 145 - 300% so với năm 2005. Công tác tuyên truyền vận động
nhân dân phòng chống dịch bệnh, tập trung dập dịch được triển khai đồng bộ, nhờ
đó, các dịch bệnh, không còn bùng phát như những năm 80 - 90 của thế kỷ trước.
Bên cạnh đó, Huyện còn phối hợp với các ban ngành hữu quan cấp phép cho
một số cơ sở khám chữa bệnh tư nhân, một số cơ sở bán thuốc chữa bệnh trên địa
bàn đi vào hoạt động, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe
ngày càng cao của nhân dân. Những thành tựu mà ngành y tế Tân Kỳ đạt được
trong thời kỳ đổi mới được thể hiện phần nào qua những số liệu thống kê sau đây:
Bảng thống kê số tiền đầu tư xây dựng trạm xá, bệnh viện đa khoa huyện,
trung tâm y tế huyện Tân Kỳ từ năm 1986 đến năm 2012. Đơn vị tính: VNĐ
TT NămSố tiền đầu tư
xây dựng trạm xá
Số tiền đầu tư
xây dựng bệnh
viện
Số tiền đầu tư
xây dựng TT y
tế huyện
Tổng
cộng
1 1986 300.000.000 1.000.000.000
2 1988 300.000.000 1.000.000.000
3 1990 500.000.000 2.000.000.000
4 1995 500.000.000 3.000.000.000
5 1988 500.000.000 4.000.000.000
6 2000 1.000.000.000 2.000.000.000
7 2003 1.000.000.000 4.000.000.000
8 2005 1.000.000.000 6.000.000.000
9 2010 10.000.000.000
10 2012
Cơ sở vật chất khám chữa bệnh cho nhân dân được đầu tư xây dựng đồng bộ
từ xã đến huyện và số y, bác sĩ, y tá, hộ lý được tiếp nhận về công tác trong ngành
y tế của huyện tăng, nhất là số bác sĩ về công tác tại các trạm xá địa phương tăng
nhanh chóng, là một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của ngành y tế Tân
Kỳ trong thời gian qua.
Bảng thống kê số lượng y, bác sĩ, y tá, hộ lý ở Tân Kỳ từ năm 1986 đến năm
2012 phản ánh quyết tâm của cán bộ, đảng viên và nhân dân Tân Kỳ trong việc xây
dựng phát triển y tế bền vững.
TT Năm
Tổng số y, bác
sĩ, y tá công tác
trên địa bàn
huyện
Số y, bác sĩ, y tá
công tác ở bệnh
viện đa khoa
Số y, bác sĩ, y
tá công tác ở
TT y tế
Số y, bác sĩ,
y tá công
tác ở các
trạm y tế
1 1986 9 8 1
2 1988 9 8 1
3 1990 11 10 1
4 1993 12 12
5 1995 12 12
6 1998 16 16
7 2000 24 16 8
8 2005 35 20 1 14
9 2010 44 22 6 14
10 2012 44 23 7 12
Nhờ những nỗ lực đó mà số người được khám, chữa bệnh ở các trạm xá,
bệnh viện đa khoa huyện tăng lên nhanh chóng. Bảng thống kê số người được
khám chữa bệnh ở các tuyến y tế từ xã đến huyện từ năm 1995 đến năm 2012 phản
ánh đóng góp to lớn của ngành y tế huyện đối với việc không ngừng nâng cao chất
lượng khám chữa bệnh cho nhân dân.
Bảng thống kê số người được khám chữa bệnh tại các trạm y tế và bệnh viện
huyện Tân Kỳ từ năm 1995 đến năm 2012
TT Năm Số người được khám Số người được khám Tổng cộng
chữa bệnh ở các trạm xáchữa bệnh ở Bệnh viện
đa khoa huyện
1 1995 62.000 6.000 12.200
2 1998 73.000 7.330 14.630
3 2000 76.000 7.700 15.300
4 2002 89.000 8.700 17.600
5 2005 95.000 9.100 18.600
6 2007 101.000 11.700 21.800
7 2010 105.350 12.300 22.500
8 2011 110.916 13.000 123.916
9 2012 110.636 15.000 125.636
*Công tác Dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ
em
Trên bước đường xây dựng bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vấn
đề dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em được Đảng đặc
biệt quan tâm. Mặc dầu còn gặp nhiều khó khăn trong xây dựng phát triển kinh tế,
nhưng Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ đã dành sự quan tâm đặc biệt trong việc triển
khai thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc bảo vệ sức khỏe
bà mẹ trẻ em.
Là một huyện miền núi, có nhiều đồng bào Thái, Thổ, nhân dân di cư từ
nhiều huyện thành đến định cư trên địa bàn, cộng với sự tồn tại bền vững của nền
kinh tế nông nghiệp vốn rất cần nhiều nhân lực để duy trì sản xuát và tình trạng
dân trí thấp, nên từ năm 1975 đến năm 1985, tình trạng mỗi gia đình có tới 4 -5
thậm chí 6 - 7 người con trên địa bàn các xã trong huyện là khá phổ biến. Đó là
chưa kể đến tâm lý trọng nam khinh nữ đã ngự trị từ trước trong tâm thức của các
ông bố, bà mẹ, nên không ít gia đình đã có 4, 5 người con gái vẫn cố sinh thêm
một người con trai để có người nối dõi tông đường. Tình trạng tăng dân số tự nhiên
hàng năm lên tới 3 - 4% là phổ biến ở hầu hết các huyện thành trên địa bàn tỉnh
Nghệ Tĩnh trong suốt khoảng thời gian mười năm đầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tân Kỳ cũng không nằm ngoài tình trạng chung đó.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chính sách dân số, kế hoạch
hóa gia đình được thực hiện một cách khá quyết liệt trên địa bàn một số huyện ở
tỉnh Nghệ Tĩnh. Do bệnh thành tích, nóng vội, một số huyện ở Nghệ Tĩnh khi triển
khai chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình đã thực hiện chưa đúng chủ trương
của Đảng gây dư luận không tốt trong nhân dân.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn địa phương và chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước, Huyện ủy, UBND huyện Tân Kỳ cùng cấp ủy, chính quyền,
Mặt trận tổ quốc, đoàn thể các cấp và ngành y tế đẩy mạnh cuộc vận động, tuyên
truyền cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ chủ trương, chính sách về dân số,
kế hoạch hóa gia đình của Đảng và nhà nước. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền
vận động, nhiều gia đình cán bộ, đảng viên từ huyện đến xã gương mẫu thực hiện
chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, chỉ sinh hai con, cho dù là con một bề
mà không sinh thêm con thứ 3. Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong cuộc
vận động này đã có tác động tích cực đối với đại bộ phận nhân dân. Nhờ đó, tỷ lệ
hộ gia đình sinh con thứ 3, thứ 4 giảm đáng kể, số chị em phụ nữ, thực hiện đặt
vòng tránh thai hay sử dụng các biện pháp tránh thai khác tăng nhanh trên địa bàn
các xã và tất cả các cơ quan công sở. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến
việc tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở Tân Kỳ giảm liên tục trong nhiều năm.
Bảng thống kê tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở Tân Kỳ từ năm 1986 đến năm 2012
TT NămTổng số trẻ em sinh
trong năm (cháu)
Tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên %Ghi chú
1 1986 3.000 2,8
2 1988 2.800 2,6
3 1990 2.620 2,4
4 1993 2.450 2,2
5 1995 2.270 2,0
6 1998 2.050 1,8
7 2000 1.930 1,7
8 2005 1.750 1,4
9 2007 1.510 1,2
10 2010 1.250 1,0
11 2012 1.170 0,9
Bên cạnh thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên,
Huyện ủy, UBND huyện chỉ đạo cấp ủy chính quyền địa phương, các đoàn thể
quần chúng, nhân dân trên địa bàn triển khai nhiều biện pháp tích cực nhằm không
ngừng nâng cao việc chăm sóc, sức khỏe bà mẹ trẻ em. Phòng y tế huyện chỉ đạo
cán bộ trong ngành tăng cường cuộc vận động nhân dân tham gia phòng chống
dịch bệnh, tổ chức tiêm chủng, uống vitamin cho 100% trẻ em theo đúng quy định.
Trung tâm y tế dự phòng huyện cử cán bộ phối hợp với chính quyền địa phương tổ
chức phun thuốc diệt muỗi, phát động nhân dân phát quang bụi rậm ở nơi cư trú,
ngâm tẩm màn chống muỗi, tiêm thuốc phòng bệnh dại cho đàn chó,v.v…khi phát
hiện ra dịch bệnh cử cán bộ về địa phương triển khai các biện pháp dập dịch kịp
thời. Công tác tuyên truyền vận động, tư vấn cho chị em phụ nữ nuôi con nhỏ cho
con bú sữa mẹ, ăn uống đủ chất, kiểm tra sức khỏe định kỳ cho trẻ được tiến hành
thường xuyên. Nhờ đó, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng từ 34% năm 1995, giảm xuống
còn 26% năm 2005, và đến năm 2012 còn 21%.
Tuy đạt được nhiều thành tựu trong việc đầu tư xây dựng, mua sắm trang
thiết bị, dụng cụ y tế, thuốc men, tiếp nhận, phân công đội ngũ cán bộ y, bác sĩ, y
tá về công tác trong ngành y tế để phục vụ việc khám chữa bệnh cho nhân dân
cũng như thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe
bà mẹ trẻ em, nhưng ngành y tế Tân Kỳ cũng còn một số tồn tại, thiếu sót cần khắc
phục như: vấn đề nâng cao y đức của người thầy thuốc, vấn đề nâng cao nghiệp vụ
chuyên môn của đội ngũ y, bác sĩ, hộ lý, trang thiết bị phục vụ khám chữa bệnh
còn thiếu và nhiều thiết bị đã quá lạc hậu, đội ngũ bác sĩ về công tác tại các trạm
xá,v.v… Nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm trong việc không ngừng trau dồi y đức,
nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, đội ngũ cán bộ, y bác sĩ,… công tác trong ngành
y tế ở Tân Kỳ đã và đang nỗ lực vươn lên thực hiện lời dạy của Bác “Thầy thuốc
như mẹ hiền” làm tốt công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em,
thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình đạt hiệu quả cao, góp phần
xứng đáng vào công cuộc xây dựng quê hương.
Ảnh Bệnh viện đa khoa Tân Kỳ
Ảnh Trung tâm y tế huyện Tân Kỳ
3. Đẩy mạnh phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, xây dựng
đời sống văn hóa mới
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV, thứ V
và Nghị quyết của Đại hội tỉnh Đảng bộ Nghệ Tĩnh, ngành văn hóa thông tin
tỉnh Nghệ Tĩnh nói chung, Tân Kỳ nói riêng tập trung xây dựng nền văn hóa
mới đậm đà bản sắc dân tộc và dây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong
Đề cương văn hóa của Đảng năm 1943 đã chỉ rõ, nền văn hóa dân tộc phải được
xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản: “Dân tộc, khoa học và đại chúng”. Những
nguyên tắc này đã được cụ thể thành những mục tiêu cụ thể trong từng thời kỳ
cách mạng của Đảng.
Để góp phần nâng cao đời sống văn hóa của cán bộ, nhân dân trên địa bàn,
được sự hỗ trợ và quan tâm của ngành văn hóa, thông tin tỉnh Nghệ Tĩnh, huyện
Tân Kỳ thành lập hai đội chiếu phim lưu động là đội 55 và đội 237. Cán bộ trong
đội chiếu phim, không quản ngại khó khăn gian khổ, lội suối trèo đèo đi đến tận
các xã vùng sâu vùng xã để phục vụ nhân dân. Hàng năm, bình quân, nhân dân mỗi
xã được xem ít nhất từ 4 - 5 buổi chiếu phim. Những buổi đoàn về chiếu phim tại
trung tâm xã, nhân dân trong xã, và những xã lân cận, từ chập tối đã thu xếp công
việc để đến xem phim, nhất là các cụ già, các cháu thiếu niên nhi đồng, nam nữ
thanh niên. Những buổi chiếu phim của đoàn 55 và đoàn 237 nay không còn nữa
nhưng dư âm của nó vẫn sống mãi trong lòng cán bộ và nhân dân trong huyện và
trở thành những kỷ niệm khó phai.
Phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng phát triển đều khắp trên địa bàn
các xã, các nông trường, cơ quan, xí nghiệp, bệnh viện, trường học, thu hút đông
đảo quần chúng tham gia. Nhiều đội văn nghệ quần chúng được thành lập, và các
HTX nông nghiệp đã trợ cấp một phần chế độ để các diễn viên quần chúng tích cực
tham gia luyện tập, biểu diễn. Các đêm diễn văn nghệ quần chúng thường được tổ
chước vào dịp lễ, tết như: Mừng Đảng, Mừng xuân, kỷ niệm ngày giải phóng miền
Nam (30/4), kỷ niệm ngày quốc tế Lao động 1/5, chào mừng ngày Quốc tế Phụ nữ
8/3, Kỷ niệm ngày Quốc khánh 2/9, kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân và
Quốc phòng toàn dân 22/12,v.v… Những đêm hội diễn văn nghệ giữa các xã, hội
diễn văn nghệ quần chúng tại huyện,… thu hút hàng ngàn cán bộ, đảng viên và
nhân dân tới xem cổ vũ trở thành một nét mới trong đời sống văn hóa tinh thần của
nhân dân.
Năm 1982, “Liên hoan tiếng hát làng Sen” được tổ chức lần đầu tiên. Đội
văn nghệ quần chúng huyện Tân Kỳ tham gia và các tiết mục tham gia hội diễn
được đánh giá cao.
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong đời sống vật chất, song cán bộ công
nhân viên chức, giáo viên,… tích cực tham gia phong trào văn hóa văn nghệ tạo ra
một không khí thi đua sôi nổi ở tất cả các cơ quan, đơn vị, trường học, đóng trên
địa bàn. Phong trào đoàn đội ở các trường cấp 1(nay là trường Tiểu học), các
trường cấp II (nay là PTCS), phát triển đồng đều, hàng năm Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh huyện phối hợp với cấp ủy, chính quyền các cấp và Đoàn xã, tổ
chức Hội thi cắm trại, đồng diễn thể dục, hội diễn văn nghệ,… nhân ngày Quốc tế
thiếu nhi, hay ngày khai trường góp phần nâng cao chất lượng dạy học, rèn luyện
thân thể, tạo ra một sân chơi bổ ích cho các cháu thiếu niên, nhi đồng.
Huyện đầu tư xây dựng hiệu sách, thư viện, hệ thống loa phóng thanh ở một
số xã, tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức được đọc sách báo
và nắm bắt kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước.
Tuy nhiên, cho đến năm 1990, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể
thao ở Nghệ Tĩnh nói chung, Tân Kỳ nói riêng vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập như:
Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao phát triển không đồng bộ ở các xã,
các nông trường, cơ quan đơn vị, phong trào mang tính thời vụ, nặng về thành tích,
chưa trở thành một hoạt động thường xuyên của đông đảo cán bộ, đảng viên, và
nhân dân. Sân bãi tập luyện, dụng cụ, trang thiết bị tập luyện, thi đấu đều thiếu
chưa đa dạng, mới chỉ có một số môn,… Ở một số xã, các em thiếu nên nhi đồng
còn phải lấy giẻ rách, lá chuối,… cuộn lại thành hình tròn như quả bóng, hoặc
dùng quả bưởi non để thay cho quả bóng, người ta quen gọi là: “Bóng bưởi”. Tình
trạng đó do nhiều nguyên nhân mà một trong những nguyên nhân quan trọng là đời
sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, bữa ăn chưa đủ no, áo mặc chưa đủ ấm thì
khó có thể phát triển văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao một cách bền vững.
Từ năm 1990 lại nay, cùng với những chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống
vật chất, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao.
Phong trào văn hóa văn nghệ thể dục thể thao, xây dựng đời sống văn hóa mới tại
cộng đồng có bước chuyển biến toàn diện sâu sắc. Theo quyết định số
1154/QĐUBND ngày 1/7/1992 của tỉnh Nghệ An, Huyện Tân Kỳ và tất cả các
huyện thành trên địa bàn tỉnh sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của ngành văn hóa thông
tin ở cấp huyện, thành gồm: Phòng văn hóa thông tin có chức năng quản lý nhà
nước và các đơn vị sự nghiệp Trung tâm văn hóa - Thể thao được thành lập trên cơ
sở sát nhập Nhà văn hóa huyện, Thư viện, Bảo tàng, Công ty chiếu bóng, hiệu ảnh.
Thực hiện chủ trương xây dựng đời sống văn hóa mới mà Nghị quyết đại hội
đại biểu Đảng các cấp đề ra, ngành văn hóa thông tin Tân Kỳ tập trung triển khai
thực hiện nhiệm vụ: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới” đến tận
các cơ quan, đơn vị, trường học và tất cả các xã đóng trên địa bàn. Các nội dung
như: xây dựng nếp sống mới trong việc tổ chức cưới hỏi, tang ma, lễ hội, xây dựng
cơ quan, đơn vị, làng văn hóa, gia đình văn hóa, xây dựng thiết chế văn hóa thể
thao đạt chuẩn, phát động toàn dân tham gia tập luyện thể thao theo gương Bác Hồ
vĩ đại, xây dựng nông thôn mới, đẩy lùi các tệ nạn, hủ tục mê tín dị đoan, xây dựng
các loại hình câu lạc bộ,… đầu tư xây dựng nâng cấp sân vận động trung tâm
huyện, nhà văn hóa cộng đồng,v.v… được triển khai đồng bộ và nhận được sự
hưởng ứng của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Nhằm đẩy mạnh phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao trên địa bàn
toàn huyện, Huyện ủy, UBND chỉ đạo cấp ủy, chính quyền đoàn thể các cấp phối
kết hợp với các ban ngành chức năng, dành riêng một quỹ đất, đầu tư tiền của,
công sức theo phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để xây dựng sân
tập bóng đá, nhà sinh hoạt văn hóa các xóm, khối,… Ngành văn hóa tham mưu kịp
thời cho huyện triển khai nhiều hoạt động phong phú như tổ chức các hội nghị biểu
dương các các điển hình tiên tiến, xây dựng các phóng sự truyền thanh, truyền hình
về gương người tốt việc tốt, tổ chức các phong trào thi đua xây dựng cơ quan, đơn
vị, làng văn hóa, tham quan học tập các mô hình điển hình trong ngoài tỉnh về kết
hợp xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa,… Nhờ triển khai đồng bộ nhiều chủ
trương, biện pháp sát hợp với thực tiễn địa phương, nên phong trào thi đua xây
dựng phát triển kinh tế, văn hóa ở Tân Kỳ vừa có chuyển biến về chiều rộng lẫn
chiều sâu: nhiều điển hình về phát triển kinh tế trang trại, kinh doanh, sản xuất làng
nghề thủ công truyền thống, mô hình kinh tế gia đình , mô hình tự quản của các gia
đình, khối, xóm, phong trào giỏi việc nước đảm việc nhà do Hội liên hiệp phụ nữ
phát động thu hút đông đảo chị em phụ nữ tham gia, phong trào thi đua đạt danh
hiệu làng văn hóa, gia đình văn hóa, phong trào: “ông bà mẫu mực, con cháu thảo
hiền” của hội người cao tuổi, phong trào: “Phát huy phẩm chất đạo đức của anh bộ
đội cụ Hồ “do hội Cựu chiến binh phát động,… đặc biệt là phong trào: “Sống học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trở thành một phong trào sinh
hoạt chính trị tư tưởng sâu rộng trong toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Nhiều tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến được biểu dương, khen thưởng kịp thời.
Huyện thành lập Ban chỉ đạo phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng,
bản khối phố, cơ quan đơn vị, văn hóa và đề ra những mục tiêu cụ thể, phù hợp.
Vào ngày Đại đoàn kết toàn dân (18 tháng 11) hàng năm, huyện tổ chức tôn vinh
và tuyên dương các gia đình văn hóa tiêu biểu xuất sắc và 5 năm một lần huyện tổ
chức liên hoan gặp gỡ các gia đình văn hóa xuất sắc toàn huyện, góp phần tạo nên
một phong trào thi đua sôi nổi trong tất cả các gia đình cán bộ, đảng viên và nhân
dân sống trên địa bàn. Phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng bản, khối phố,
cơ quan đơn vị văn hóa đạt được nhiều thành tựu to lớn. Đến năm 2012, toàn
huyện đã có 21.594 hộ gia đình đạt danh hiệu: “Gia đình văn hóa”, đạt 69% tổng
số hộ gia đình trên địa bàn huyện. Có 85% xã tiêu biểu trong phong trào xây dựng
gia đình văn hóa, làng bản, khối phố, cơ quan đơn vị văn hóa, như: Thị trấn Lạt,
Tân An, Nghĩa Đồng, Tân Phú, Nghĩa Thái,v.v… Năm 2006, toàn huyện có 52 gia
đình văn hóa tiêu biểu điển hình tham dự liên hoan các gia đình văn hóa cấp huyện,
05 gia đình văn hóa xuất sắc vinh dự được thay mặt cho các gia đình văn hóa tiêu
biểu ở Tân Kỳ tham gia liên hoan gặp mặt các gia đình văn hóa tiêu biểu xuất sắc
toàn tỉnh. Tập thể cán bộ, chiến sĩ công an huyện Tân Kỳ vinh dự được thay mặt
cho các tập thể văn hóa xuất sắc và gia đình ông Hà Văn Thân, dân tộc Thái, vinh
dự thay mặt cho các gia đình văn hóa xuất sắc nhất huyện đi dự Hội nghị các tập
thể, gia đình văn hóa tiêu biểu toàn quốc.
Từ năm 1989, phong trào xây dựng: “Làng văn hóa” được tỉnh phát động
trên địa bàn toàn tỉnh, đến năm 1997, UBND tỉnh có quy chế công nhận danh hiệu
Làng văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa. Phong trào xây dựng làng, bản văn hóa
nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Huyện ủy, UBND và cấp ủy chính
quyền các cấp, nhất là sự đồng thuận của tất cả cán bộ, đảng viên và nhân dân ở tất
cả các bản làng, cơ quan, đơn vị trong huyện, Nhờ đó, đến năm 2012, toàn huyện
đã có 126 khối xóm, 54 cơ qua, trường học được công nhận và cấp bằng: “Làng
văn hóa”, Đơn vị văn hóa”12.
Việc đầu tư xây dựng nhà văn hóa xóm cũng đạt kết quả to lớn. Đến năm
2012, toàn huyện có 252/266 nhà văn hóa xóm, bản được đầu tư xây dựng khang
trang, sạch sẽ, thoáng mát, đạt 94,7% chỉ tiêu đề ra, hàng chục cổng làng được đầu
tư xây dựng to đẹp ở thị trấn, xã Nghĩa Hoàn, Nghĩa Thái, Nghĩa Đồng, Tân
Phú,v.v… Tất cả các xã đều có sân bóng đá, bóng chuyền, nhà văn hóa, 23 điểm
Bưu điện văn hóa được đầu tư xây dựng trên địa bàn các xã, trong đó có 8 xã đang
xây dựng thiết chế văn hóa đạt chuẩn quốc gia. Điển hình là các khối văn hóa thị
trấn, các xóm làng bản ở xã Nghĩa Đồng, Nghĩa Thái, Kỳ Sơn, Tân Phú, Nghĩa
Hoàn, Tân An,…
Mô hình xây dựng nếp sống văn hóa mới trong việc tổ chức tang ma, cưới
hỏi, lễ hội cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn: Điển hình là các xã Nghĩa Hợp,
Nghĩa Đồng, Tân Long, Nghĩa Phúc, tổng đội thanh niên xung phong 4, Phú Sơn,
… Nhiều xã đầu tư sắm đủ xe tang, cờ, kèn, trống, chiêng,… như: Thị Trấn, Nghĩa
12 Số liệu do Phòng Văn hóa thông tin huyện Tân Kỳ cung cấp. TG.
đồng, Nghĩa Hợp, Nghĩa Thái, Kỳ Sơn Tân Phú, Tân An,v.v… Số lượng các gia
đình đạt chuẩn: “Ông bà mẫu mực, vợ chồng hòa thuận, con cháu hiếu thảo”, gia
đình hiếu học, dòng họ khuyến học, gia đình giáo dân hòa thuận, làm kinh tế giỏi,
sống tốt đời đẹp đạo, tăng nhanh chóng ở tất cả các xã, khối,…
Phát huy tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển
kinh tế, xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng thực sự trở thành một
nét đẹp văn hóa trong công cuộc xây dựng phát triển quê hương ở Tân Kỳ. Đến
năm 2009, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Tân Kỳ đã cho các hộ
gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, gia đình nông dân vay với số
tiền 852,915 tỷ đồng để phát triển kinh tế, sửa sang nhà cửa, phục vụ đời sống gia
đình. Ngân hàng chính sách xã hội Tân Kỳ cho các tổ chức đoàn thể vay 158,505
tỷ đồng cho các đoàn viên, hội viên đầu tư phát triển kinh tế.
Hưởng ứng cuộc vận động: “Ngày vì người nghèo”, đến năm 2012, toàn
huyện quyên góp được 2.288.966 đồng, cộng với nguồn ngân sách của nhà nước và
sự đóng góp hàng ngàn ngày công của nhân dân tại các xã, đầu tư xây dựng, sửa
chữa 1.174 nhà Đại đoàn kết cho những gia đình chính sách, gia đình đặc biệt khó
khăn, hỗ trợ hàng trăm học sinh nghèo vượt khó, học giỏi,…
Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, các hoạt động nhân đạo, từ thiện trong suốt
thời gian qua được Mặt trận tổ quốc huyện và xã, thị, các hội Cựu chiến binh, Hội
giáo chức, hội Người cao tuổi, hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên,… các nhà
hảo tâm trong và ngoài huyện, thực hiện bởi nhiều hoạt động cụ thể, thiết thực
như: hỗ trợ kinh phí, ngày công xây dựng nhà tình nghĩa, áo lụa tặng bà, tặng sổ
tiết kiệm, thăm hỏi động viên các gia đình có công với cách mạng, gia đình thương
binh, liệt sĩ,v.v… Nhờ đó, đến năm 2012, 100% số hộ gia đình chính sách trên địa
bàn có mức sống bình quân với cộng đồng cư dân.
Với sự nỗ lực của các Ban ngành cấp huyện, xã và sự đóng góp của các nhà
hảo tâm, các doanh nghiệp, doanh nhân, cũng như đông đảo nhân dân trên địa bàn,
trong thời gian qua Tân Kỳ đã đầu tư xây dựng 48 ngôi nhà tình thương với tổng
trị giá 297.000.000 đồng, đầu tư 170.000.000 đồng mua áo ấm tặng các cụ cao tuổi
có hoàn cảnh khó khăn. Phong trào ủng hộ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, những
người bị chất độc da cam, v.v… nhận được sự ủng hộ của đại bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân và thực sự trở thành một nét đẹp trong việc xây dựng đời sống
văn hóa mới ở cộng đồng. Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” được phát huy, không
chỉ có ý nghĩa trước mắt mà còn góp phần không nhỏ trong việc bồi dưỡng giáo
dục đạo đức cách mạng, lối sống “mình vì mọi người, mọi người vì mình” cho cán
bộ , đảng viên nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.
Một trong những thành tựu to lớn thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”
của Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ trên bước đường đổi mới là Huyện, xã và nhân
dân đầu tư hàng chục tỷ đồng xây dựng Nghĩa trang liệt sĩ huyện và Đài tưởng
niệm các anh hùng liệt sĩ tại các xã, thị trấn, quy tập thi hài các liệt sĩ về nghĩa
trang huyện. Công trình hoàn thành đáp ứng tâm tư, nguyện vọng của đông đảo
cán bộ, đảng viên và nhân dân.
III. CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, AN NINH
1. Một số thành tựu nổi bật trong công tác quốc phòng an ninh từ năm 1975
đến năm 1985
Đất nước sạch bóng quân thù, giang sơn thu về một mối, quân dân hai miền
Nam - Bắc chung tay góp sức thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ IV và thứ V với hai nhiệm vụ trọng tâm là khôi phục hàn gắn vết
thương chiến tranh, đẩy mạnh phát triển kinh tế văn hóa, ổn định chính trị xã hội,
củng cố tiềm lực quốc phòng và sẵn sàng đập tan mọi âm mưu thủ đoạn phá hoại
của các thế lực thù địch trong và ngoài nước bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân và toàn
vẹn độc lập chủ quyền về lãnh thổ của đất nước.
Thực hiện Nghị quyết số 315 ngày 3 tháng 8 năm 1975 của Thủ tướng
chính phủ về việc giao nhiệm vụ làm kinh tế cho quân đội, năm 1976, Huyện ủy,
UBND huyện Tân Kỳ huy động 3.000 dân quân, tự vệ trên địa bàn toàn huyện,
tham gia xây dựng đường giao thông, khai hoang phục hóa, làm thủy lợi. Kết quả
là lực lượng dân quân tự vệ và nhân dân đã hoàn thành việc xây dựng 9 con đập,
30 km đường Bãi Rỏi, Nghĩa Hành, Phúc Sơn, di dời 527 ngôi nhà ở giữa đồng lên
vùng đồi để lấy đất canh tác. Năm 1978, huyện thành lập Trung đoàn 63 gồm lực
lượng thanh niên toàn huyện có nhiệm vụ vừa sản xuất tự túc lương thực, làm thủy
lợi, khai thác lâm sản.
Giữa lúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang nỗ lực khôi phục hàn gắn
vết thương chiến tranh, đẩy mạnh công cuộc xây dựng và phát triển đất nước thì
tình hình trong nước và thế giới diễn biến phức tạp theo chiều hướng bất lợi cho
cách mạng Việt Nam. Trung Quốc rút chuyên gia về nước, cắt viện trợ gây cho ta
không ít khó khăn. Các tổ chức phản động từ bên ngoài câu kết với bọn phản động
trong nước tìm mọi cách tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương đường lối của Đảng,
nhà nước, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Quan hệ Việt - Trung căng
thẳng và năm 1977, tình hình biên giới Tây Nam trở nên hết sức phức tạp. Năm
1978, bè lũ Pôn pốt - I êng xa ry - Khiêu Xăm phon huy động 19 trên tổng số 23 sư
đoàn phát động cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Tiếp đó, ngày 17 tháng 2 năm
1979, Trung quốc phát động cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc.
Trong bối cảnh lịch sử đầy khó khăn, phức tạp đó, nhiệm vụ xây dựng,
củng cố lực lượng vũ trang, bao gồm bộ đội chính quy, bộ đội địa phương, dân
quân tự vệ, lực lượng Công an nhân dân để bảo vệ đất nước trở thành một trong
những nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.
Quán triệt chỉ thị 38 của Ban bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết số
111 của Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh về tăng cường lãnh đạo công tác quân sự địa phương
trong giai đoạn mới, ngày 5 - 7 - 1978, Huyện ủy Tân Kỳ ra Nghị quyết về: “Công
tác quân sự địa phương trong giai đoạn mới”. Nội dung chính của Nghị quyết này
là đánh giá, kiểm điểm công tác quân sự địa phương từ năm 1975 đến năm 1978
trên địa bàn huyện, đồng thời đề ra nhiệm vụ củng cố xây dựng lực lượng quân sự
địa phương, động viên tuyển quân, xây dựng lực lượng dự bị, đưa lực lượng dân
quân tự vệ làm nòng cốt trong lao động sản xuất, xây dựng phát triển kinh tế, địa
phương, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng cán bộ quân sự từ huyện đến xã,
tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Huyện ủy, cấp ủy chính quyền huyện, xã
đối với nhiệm vụ quân sự địa phương.
Ngày 16 tháng 12 năm 1978, Huyện ủy Tân Kỳ ra Nghị quyết số 01 với
nội dung chính là: tăng cường công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới. Nghị quyết của Huyện ủy
đề ra những mục tiêu, biện pháp cụ thể như: giáo dục, phát động phong trào quần
chúng tự giác thực hiện pháp luật nhà nước, quy chế, nội quy của địa phương để
tạo sức mạnh tổng hợp tiến công tội phạm, xây dựng lực lượng an ninh và dân
quân tự vệ lớn mạnh, củng cố nâng cao hiệu quả các ngành làm công tác nội chính,
…
Trước tình hình đất nước có chiến tranh, thực hiện Nghị quyết của Ban
chấp hành Trung ương Đảng và Nghị quyết của Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, Huyện ủy,
UBND huyện Tân Kỳ tập trung chỉ đạo cấp ủy chính quyền địa phương, tăng
cường công tác xây dựng, huấn luyện lực lượng dân quân tự vệ, xây dựng làng, xã,
huyện thành một pháo đài quân sự. Đặc biệt, phát huy truyền thống của cha anh,
trong hai năm 1978, 1979, Tân Kỳ đã huy động hàng trăm thanh niên nhập ngũ,
vượt chỉ tiêu tỉnh giao.
Ngay sau khi Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra lệnh
Tổng động viên nhằm huy động mọi nguồn lực vật chất và tinh thần để bảo vệ tổ
quốc, hàng trăm quân nhân phục viên trên địa bàn huyện, viết đơn tình nguyện xin
tái nhập ngũ để bảo vệ tổ quốc. Cả Tân Kỳ sục sôi trong khí thế lên đường tòng
quân nhập ngũ. Và không ít người con trung dũng của quê hương Tân Kỳ đã ngã
xuống trong cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ở biên
giới Tây Nam, biên giới phía Bắc hay khi làm nghĩa vụ quốc tế giúp nhân dân Cam
pu chia thoát khỏi thảm họa diệt chủng của bè lũ Pôn pốt từ năm 1978 đến năm
1989.
Công tác xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, huấn
luyện lực lượng dân quân tự vệ, xây dựng lực lượng dự bị động viên trong giai
đoạn này cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn. Trên địa bàn tất các các xã, thị
trấn, nông trường, xí nghiệp, cơ quân,… những người trong độ tuổi đều tự nguyện
tham gia lực lượng dân quân, tự vệ, lực lượng dự bị động viên. Công tác huấn
luyện, kiểm tra bắn đạn thật đối với lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ
được tiến hành thường xuyên theo đúng thời gian quy định của Bộ chỉ huy quân sự
tỉnh Nghệ Tĩnh đề ra.
Cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội trên
địa bàn Tân Kỳ cũng diễn ra hết sức gay go, quyết liệt. Lực lượng công an huyện,
phối hợp với lược lượng công an các xã, lực lượng dân quân tự vệ thường xuyên
tuần tra, bảo vệ kho tàng, các công trình công cộng, truy quét các toán trộm cướp
tài sản của nhà nước và nhân dân. Công an huyện bố trí cán bộ, chiến sĩ, phối hợp
với nhân dân địa phương, nắm bắt thông tin, phân loại các đối tượng hình sự nguy
hiểm, lập hồ sơ, thành lập các chuyên án, tập trung phá án , vây bắt hàng chục đối
tượng trộm cướp nguy hiểm, phá thành công hàng chục vụ án kinh tế, hình sự,…
trên địa bàn, góp phần lập lại trật tự an toàn xã hội, tạo niềm tin cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân. Trong khoảng thời gian từ năm 1977 đến năm 1985, một số gia
đình ở các huyện Yên Thành, Đô Lương, Diễn Châu, Nam Đàn,… di dân tự do lên
Tân Kỳ, chặt cây, phá rừng, khai phá đất đai, trồng ngô, khoai, sắn,… dựng nhà
cửa để định cư lâu dài trên địa bàn nhiều xã, gây không ít khó khăn cho chính
quyền địa phương trong việc kiểm tra, kiểm soát tình hình dân cư trên địa bàn,
Bằng nhiều giải pháp mềm dẻo, các cấp chính quyền địa phương đã tạo điều kiện
cho số gia đình mới di dân tự do lên Tân Kỳ được nhập khẩu và tạo điều kiện để họ
yên tâm lập nghiệp trên vùng quê mới.
Trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn, đời sống cán bộ, công nhân
viên chức, lực lượng vũ trang và nhân dân gặp muôn vàn khó khăn, tình hình trong
nước và thế giới lại diễn biến phức tạp, đảm bảo an ninh chính trị, ổn định đời sống
xã hội, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân,
xây dựng pháo đài quân sự huyện, làng xã đạt được những thành tựu như trên thực
sự là một trong những kỳ tích mà Đảng bộ, nhân dân, lực lượng bộ đội địa phương,
dân quân tự vệ, công an nhân dân Tân Kỳ đã viết nên bằng chính tinh thần yêu
nước, nghị lực và tinh thần đoàn kết trong mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân.
2. Xây dựng, củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh toàn diện trong thời kỳ
đổi mới và hội nhập (1986 - 2012)
Từ nửa sau thập kỷ 80, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều diễn
biến phức tạp, đặt ra cho cách mạng Việt Nam nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít
khó khăn, thách thức. Trước hết, quan hệ Việt Nam với các nước trong cộng đồng
ASEAN và một số nước khác ở châu Á đang căng thẳng. Liên Xô và các nước
trong phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào khủng hoảng và tan rã sụp đổ.
Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa và đạt được những thành tựu to lớn. Cuộc
cách mạng khoa học công nghệ còn gọi là cách mạng tin học đang phát triển với
tốc độ chưa từng thấy làm thay đổi nhiều lĩnh vực trong đời sống kinh tế vật chất
và tinh thần của toàn nhân loại. Đó là chưa kể đến xu thế toàn cầu hóa, khu vực
hóa đang diễn ra ngày càng mạnh trên phạm vi toàn cầu, đặt mọi quốc gia dân tộc
trước những cơ hội và thách thức mới.
Trong khi đó, sau 10 năm xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa (1975 - 1985), tuy đạt được một số thành tựu, song cách mạng Việt Nam
đang rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Nhận thức rõ những yêu cầu
cấp thiết đang đặt ra đối với đất nước, với bản lĩnh và trí tuệ tuyệt vời, trong Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta quyết định đề ra đường lối đổi
mới đất nước. Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI xác định
rõ, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là: “Toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục
thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công và bảo vệ vững
chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa13”.
Để bảo vệ đất nước trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch trong và ngoài nước, Đảng ta đề ra những nhiệm vụ cụ thể như: xây dựng
quân đội chính quy hiện đại, không ngừng củng cố thế trận quốc phòng toàn dân,
thế trận ninh nhân dân vững chắc. Triển khai Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ VI và Nghị quyết của Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, chỉ thị của Bộ chỉ huy
quân sự tỉnh Nghệ Tĩnh, Huyện ủy, UBND huyện Tân Kỳ cùng với Ban chỉ huy
quân sự huyện, lực lượng công an huyện, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính
quyền các đoàn thể quần chúng các cấp triển khai nhiệm vụ củng cố quốc phòng,
an ninh trên địa bàn theo Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Tân Kỳ lần thứ XIII
đề ra là: “ Tăng cường công tác an ninh - quốc phòng, xây dựng huyện an toàn,
làm chủ, pháo đài quân sự hóa”… Nhờ triển khai đồng bộ nhiều chủ trương, biện
pháp nên công tác quốc phòng - an ninh ở Tân Kỳ trong năm năm đầu thực hiện
công cuộc đổi mới (1986 -1990) đã có chuyển biến toàn diện và đạt được nhiều kết
quả. Các ngành nội chính thực hiện có hiệu quả chỉ thị 135 và quyết định 240 của
Hội đồng Bộ trưởng, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn xử lý kịp thời những vụ việc
vi phạm trên địa bàn, lập lại trật tự an toàn trong đời sống của nhân dân, góp phần
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Phong trào: “Ba an toàn làm chủ”,
nhân dân tự quản, với việc xây dựng các tổ chức an ninh nhân dân, nhận được sự
ủng hộ nhiệt tình của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Quần chúng nhân dân đã cung
cấp hàng nghìn tin tức liên quan đến tình hình trật tự an ninh, các đối tượng hình
13 Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, NXB chính trị quốc gia, tr 37 - 38
sự,… giúp lực lượng công an nhanh chóng ngăn chặn, xử lý và thành lập các
chuyên án, để triệt phá các ổ nhóm cờ bạc, trộm cướp tài sản của nhà nước và nhân
dân trên địa bàn huyện. Phối hợp với lực lượng công an tỉnh truy bắt các đối tượng
hình sự có lệnh truy nã đang lẩn trốn trên địa bàn, đem lại cuộc sống thanh bình
cho nhân dân.
Ban chỉ huy quân sự huyện phối hợp với các địa phương làm tốt công tác
khám tuyển thanh niên nhập ngũ và giao quân đúng thời hạn, vượt chỉ tiêu. Số học
sinh tốt nghiệp THPT thi vào các trường Đại học, Cao đẳng, quân sự, Đại học,
Trung cấp cảnh sát, công an ngày càng đông. Việc huấn luyện quân sự cho lực
lượng dự bị động viên, lực lượng dân quân tự vệ được tiến hành thường xuyên, đạt
kết quả tốt. Nhất là việc huy động lực lượng tham gia cuộc diễn tập ở huyện với sự
tham gia của 18 xã, 02 thị trấn và nông trường được tỉnh đánh giá, công nhận là
một trong những đơn vị khá trong toàn tỉnh.
Thực hiện Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ Tân Kỳ lần thứ XIV, bước
vào thập kỷ 90 của thế kỷ trước, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, giáo
dục, y tế, văn hóa, văn nghệ, … từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ đặc biệt chú trọng công tác củng cố an
ninh quốc phòng trên địa bàn các xã, nhất là các vùng giáp ranh với địa bàn các
huyện Đô Lương, Nghĩa Đàn, Yên Thành, vùng thị trấn,… Lực lượng quân sự địa
phương Tân Kỳ tham gia cuộc diễn tập A2 chống gây rối, bạo loạn đạt kết quả tốt.
Cuộc vận động xây dựng cơ sở an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu và chống âm
mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, đảm bảo
đoàn kết nội bộ, đoàn kết giữa đồng bào Thái, Thổ với đồng bào Kinh, đoàn kết
lương giáo,… chuyển vào chiều sâu, không mang tính hô hào, chung chung và đạt
được kết quả tốt. Các đoàn thể quần chúng như: Đoàn thanh niên, hội phụ nữ,…
phối hợp với chi bộ đảng ở từng khối, làng bản, tham gia hòa giải các vụ mất đoàn
kết trong gia đình, tranh kiện đất đai, giúp đỡ những người lầm lỡ,v.v… đạt kết
quả tốt, góp phần tạo cuộc sống yên ổn ở làng quê, đưa đời sống văn hóa mới đến
từng hộ gia đình.
Thực hiện chủ trương của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An, Ban chỉ huy
quân sự huyện Tân Kỳ sắp xếp lại lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ trên
địa bàn toàn huyện. Cả huyện có 22 phân đội với 807 đồng chí làm nòng cốt, 18
Đại đội, 251 Trung đội; 955 tiểu đội dân quân với hơn 8.000 người. Trong đó, có
3.000 nữ dân quân, 1622 tự vệ; số lượng Đảng viên trong lực lượng vũ trang là 520
đồng chí, chiếm tỷ lệ 6,5%.14
Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng được tăng cường, sự phối hợp giữa
lực lượng công an với quân đội, dân quân tự vệ trong truy quét tội phạm, đảm bảo
an ninh, an toàn xã hội có chuyển biến mạnh mẽ. Công tác khám tuyển và giao
quân từ năm 1990 đến năm 1995 tiếp tục đạt và vượt chỉ tiêu tỉnh giao. Đến năm
1994 -1995, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện đã hoàn toàn thay đổi so với
trước thời kỳ đổi mới, nhân dân có cuộc sống kinh tế ngày càng no đủ, an ninh xã
hội được đảm bảo, niềm tin của đại bộ phận nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới
của Đảng ngày càng được củng cố.
Hòa nhịp với không khí thi đua sôi nổi của toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân trong cả nước, nhằm biến Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ
VIII thành hiện thực, đưa đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước, từng bước hội nhập khu vực và thế giới, Đảng bộ và nhân dân Tân
Kỳ quyết tâm đẩy mạnh phát triển kinh tế, từng bước đẩy lùi đói nghèo, lạc hâu,
xây dựng phát triển văn hóa, giáo dục y tế, thể dục thể thao vững mạnh toàn diện,
nâng cao đời sống văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần cho mọi người dân; đồng
thời ra sức củng cố an ninh quốc phòng để Tân Kỳ sớm trở thành một trong những
14 Số liệu do Ban chỉ huy quân sự huyện Tân Kỳ cung cấp. TG.
huyện giàu về kinh tế, ổn định về chính trị xã hội, vững mạnh về quốc phòng an
ninh trên địa bàn tỉnh.
Cũng như quân dân cả nước, quân dân Tân Kỳ bắt tay thực hiện những
mục tiêu quan trọng trên trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều
chuyển biến thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Năm 1995, tổng thống Mỹ Bin
clin tơn đã ký quyết định xóa bỏ lệnh cấm vận và bình thường hóa quan hệ ngoại
giao Việt Nam. Tháng 7 năm 1995, Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các
quốc gia độc lập ASEAN và trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức khu vực này.
Với đường lối đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt và sáng tạo theo phương châm: “Việt
Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên nguyên tắc bình đẳng, hợp tác hai
bên cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau” Đảng ta đã đưa đất nước thoát khỏi giai đoạn
khủng hoảng, bị bao vây cô lập và không ngừng nâng cao vị thế của đất nước trên
trường quốc tế.
Tuy nhiên, bắt tay thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước, bên cạnh những thuận lợi, quân và dân ta cũng phải đối mặt với không ít khó
khăn, thách thức. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước luôn tìm mọi cách để
chống phá cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, do đó, bên cạnh đẩy
mạnh phát triển kinh tế để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, đảm bảo an ninh -
quốc phòng, ổn định chính trị xã hội, thực sự là một trong những nhiệm vụ cốt yếu
của toàn Đảng toàn quân và toàn dân ta.
Nhận thức rõ những yêu cầu cấp thiết đang đặt ra đối với cán bộ, Đảng
viên và nhân dân Tân Kỳ, Nghị quyết đại hội Đảng bộ Tân Kỳ khóa XVI, đã xác
định: “Xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, đoàn thể vững mạnh, tăng cường
công tác quốc phòng - an ninh, chống: “Diễn biến hòa bình”, ổn định chính trị.
Đẩy mạnh phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
…”.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Tân Kỳ khóa XVI, quân
dân Tân Kỳ đã tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện và sâu sắc trong xây
dựng phát triển kinh tế, đẩy mạnh giáo dục, y tế, văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể
thao tạo ra bước chuyển biến toàn diện trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần
cho đại bộ phận nhân dân trên địa bàn. Nhiệm vụ xây dựng làng xã an toàn làm
chủ, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng các cụm an
ninh, cụm chiến đấu,v.v… đạt kết quả tốt. Ghi nhận những đóng góp to lớn của
Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân Tân Kỳ trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc (1930 -1945) và trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ
(1945 -1975), cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước đã phong tặng danh hiệu cao quý: “ Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân” cho Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân Tân Kỳ,
cùng một số Đảng bộ, lực lượng vũ trang, nhân dân các xã. Sau đây, là những tập
thể và cá nhân được Đảng, nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý: “Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân” , Bà mẹ Việt Nam anh hùng và Anh hùng Lao động ở
Tân Kỳ.
A. DANH SÁCH CÁC TẬP THỂ ĐƯỢC TẶNG DANH HIỆU ANH
HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN.
1. Nhân dân và LLVT nhân dân huyện Tân Kỳ
Quyết định số: 424/KT-CTN ngày 26/8/1998
2. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Kỳ Tân
Quyết định số: 424/KT-CTN ngày 22/8/1998
3. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Kỳ Sơn
Quyết định số: 567/KT-CNT ngày 8/11/2000
4. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Nghĩa Hợp
Quyết định số: 567/KT-CNT ngày 8/11/2000
5. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Nghĩa Đồng.
Quyết định số: 567/KT-CNT ngày 8/11/2000
6. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Nghĩa Bình
Quyết định số: 287/KT-CNT ngày 10/4/2001
7. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Giai Xuân
Quyết định số: 567/KT-CNT ngày 8/11/2000
8. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Tiên Kỳ
Quyết định số: 287/KT-CNT ngày 10/4/2001.
B. DANH SÁCH CÁ NHÂN ĐƯỢC TẶNG DANH HIỆU ANH HÙNG
LLVT NHÂN DÂN
1. Đ/c Đặng văn Đài - Thị trấn Tân Kỳ - Nghệ An
Quyết định số: 118/LTC ngày 01/01/1968.
C. DANH SÁCH CÁ NHÂN ĐƯỢC TẶNG DANH HIỆU ANH HÙNG
LAO ĐỘNG
1. Đ/c Lương Hậu - Xã Tiên Kỳ - Tân Kỳ - Nghệ An
Quyết định số: 81/SL ngày 01/01/1967
D. DANH SÁCH MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
1. Mẹ Lô Thị Cầu - Xã Tiên Kỳ - Tân Kỳ - Nghệ An
Quyết định số: 527/KT- CTN ngày 28/8/1995
2. Mẹ Trần Thị Thơi - Xã Kỳ Tân - Tân Kỳ - Nghệ An (truy tặng)
Quyết định số: 44/KT- CTN ngày 17/01/2002
3. Mẹ Nguyễn Thị Lưu - Xã Phú Sơn - Tân Kỳ - Nghệ An (truy tặng)
Quyết định số: 522/CT- CTN ngày 27/8/1995.
4. Mẹ Nguyễn Thị Xin - Xã Hương Sơn - Tân Kỳ - Nghệ An (truy tặng)
Quyết định số: 522/CT- CTN ngày 27/8/1995.
5. Mẹ Võ Thị Cháu - Xã Nghĩa Phúc - Tân Kỳ - Nghệ An
Quyết định số: 522/KT- CTN ngày 27/8/1995.
Phấn khởi, vinh dự, tự hào được Đảng và nhà nước phong tặng các danh
hiệu cao quý. Huyện ủy, UBND, UBMTTQ và cấp ủy chính quyền, đoàn thể các
cấp cùng nhân dân tổ chức trọng thể lễ đón nhận Danh hiệu Anh hùng LLVT nhân
dân cho Lực lượng vũ trang và nhân dân Tân Kỳ tại sân vận động trung tâm huyện.
Phát biểu tại buổi lễ trọng thể đó, đồng chí Bí thư Huyện ủy đánh giá những thành
tựu nổi bật của lực lượng vũ trang và nhân dân Tân Kỳ trong suốt các chặng đường
lịch sử của cách mạng Việt Nam, đồng thời kêu gọi toàn bộ cán bộ, đảng viên, lực
lượng vũ trang và nhân dân trong toàn huyện phát huy truyền thống yêu nước,
truyền thống cách mạng của cha anh, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xây dựng quê
hương Tân Kỳ giàu về kinh tế, ổn định về chính trị, xã hội, vững mạnh về an ninh,
quốc phòng.
Đảng bộ và nhân dân các xã: Kỳ Tân, Kỳ Sơn, Nghĩa Hợp, Nghĩa Đồng,
Nghĩa Bình, Giai Xuân, Tiên Kỳ, vinh dự, tự hào tổ chức đón nhận danh hiệu anh
hùng LLVT nhân dân do Đảng và nhà nước phong tặng. Lễ đón nhận danh hiệu
Anh hùng LLVT nhân dân của huyện và các xã trên địa bàn thực sự tạo nên một đợt
sinh hoạt chính trị tư tưởng sâu sắc trong toàn thể cán bộ, Đảng viên, nhân dân và
lực lượng vũ trang.
Phát huy truyền thống cách mạng của cha anh, bước vào thiên niên kỷ mới,
Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Tân Kỳ tiếp tục đạt được nhiều thành tựu
to lớn trong xây dựng, phát triển kinh tế, đẩy mạnh giáo dục y tế, văn hóa, thể thao,
… củng cố quốc phòng an ninh. Việc huấn luyện lực lượng dân quân tự vệ, dự bị
động viên, tuyển quân, giao quân hàng năm đều đạt kết quả tốt.
Lực lượng công an Tân Kỳ tiếp tục trở thành một trong những đơn vị điển
hình trong công cuộc xây dựng đơn vị văn hóa của huyện. Nhờ thực hiện tốt chính
sách an ninh nhân dân, trong thời gian qua, nhân dân đã cung cấp hàng nghìn tin
tức có giá trị liên quan đến các đối tượng phạm tội, đấu tranh với tội phạm, xóa bỏ
các ổ nhóm cờ bạc, trộm cướp, đề,… phá thành công hàng chục vụ án, truy bắt
nhiều đối tượng hình sự nguy hiểm, đảm bảo an ninh, ổn định chính trị xã hội.
Công tác giáo dục, giúp đỡ những người lầm lỗi tại cộng đồng đạt nhiều kết quả và
tạo được sự đồng thuận cao của nhân dân.
Công tác quốc phòng, an ninh ở Tân Kỳ từ năm 2001 đến năm 2012 tiếp tục
đạt được nhiều thành tích. Nhiều tập thể, cá nhân được tặng thưởng Bằng khen,
Giấy khen, Cờ thi đua,… của UBND tỉnh, Bộ chỉ huy quân sự Tỉnh, Huyện ủy,
UBND huyện Tân Kỳ.
Vượt lên mọi khó khăn thử thách, Đảng bộ và nhân dân Tân Kỳ trong suốt
37 năm qua (1975 - 2012), đoàn kết, nhất trí, phát huy truyền thống cách mạng của
cha anh, chung tay góp sức, khôi phục, hàn gắn vết thương chiến tranh, cải tạo
đồng ruộng, xây dựng các công trình thủy lợi, đường giao thông, dựng lại trường
học, trạm xá,v.v… từng bước xây dựng, phát triển quê hương.
Những thành tựu bước đầu mà Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân Tân
Kỳ đạt được trong công cuộc xây dựng phát triển quê hương từ năm 1975 đến năm
2013 đã tạo nền móng vững chắc cho quân dân Tân Kỳ vững bước đi lên trên con
đường đổi mới, hội nhập và phát triển.
Ảnh Lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Ảnh Hội nghị điển hình những tập thể và cá nhân tiên tiến xuất sắc
trong phong trào an ninh,v.v…
IV. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1.Công tác xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị từ năm 1963 đến năm
1975
Ngay sau khi có quyết định chia tách huyện (19/4/1963), Huyện ủy Tân Kỳ
tổ chức hội nghị toàn Đảng bộ, công bố quyết định thành lập Ban chấp hành Đảng
bộ huyện (lâm thời) Tân Kỳ. Đồng chí Nguyễn Văn Từ (nguyên Bí thư Huyện ủy
Nghĩa Đàn), được Tỉnh ủy Nghệ An cử làm Bí thư Huyện ủy Tân Kỳ (lâm thời).
Đồng chí Nguyễn Văn Thi (nguyên Ủy viên thường vụ, Phó chủ tịch phụ trách nội
chính) được cử làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện (lâm thời). Đồng chí Vũ
Xuân Nghiêm được cử làm Ủy viên Thường trực Huyện ủy (lâm thời).
Các ban ngành cấp huyện ( lâm thời), cấp ủy, chính quyền, đoàn thể ở các
xã cũng nhanh chóng được thành lập. Khi chia tách huyện, toàn Đảng bộ có 766
đảng viên.
Sáu tháng sau đó, Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ Tân Kỳ lần thứ nhất được
tổ chức trong hai ngày 9, 10 tháng 10 năm 1963, tại xã Nghĩa Dũng. Đại hội đánh
giá những thành tựu, thiếu sót trong quá trình tổ chức lãnh đạo quần chúng nhân
dân đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục,… kiện toàn bộ máy chính trị,
đảm bảo quốc phòng an ninh, làm nghĩa vụ hậu phương đối với cách mạng miền
Nam. Đại hội đề ra Phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ mới và bầu Ban chấp
hành Đảng bộ Tân Kỳ khóa đầu tiên gồm 17 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Từ
được bầu làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Văn Thi, Phó bí thư - Chủ tịch
Ủy ban hành chính huyện. Đồng chí Vũ Xuân Nghiêm, Ủy viên thường vụ,
Thường trực Huyện ủy(1).
Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, cấp ủy, chính quyền đoàn thể địa phương được
củng cố, cuộc vận động cải tiến HTX theo Nghị quyết của Ban chấp hành Trung
ương được đẩy mạnh. Các chi bộ Đảng, Đảng bộ ở các xã, Mặt trận Tổ quốc, Đoàn
thanh niên, Hội phụ nữ, phát huy vai trò to lớn của mình trong việc vận động nhân
1. Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Tân Kỳ lần thứ nhất. Tài liệu lưu tại Văn phòng Huyện ủy
dân đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, hoàn
thành xuất sắc nghĩa vụ hậu phương đối với chiến trường. Vượt lên khó khăn, thử
thách, chỉ sau hai năm (1963 -1965), hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể
ở Tân Kỳ đã được củng cố, đi vào hoạt động nề nếp. Cán bộ, đảng viên thực sự đầu
tàu, gương mẫu trong công việc, được nhân dân tin tưởng. Công tác bồi dưỡng kết
nạp Đảng viên được tiến hành một cách có hiệu quả ở tất cả các đảng bộ cơ sở.
Tại Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ Tân Kỳ lần thứ II, tổ chức tại xóm Lạt, từ
ngày 21 đến ngày 26 tháng 9 năm 1964, các đại biểu đánh giá cao những thành tựu
đạt được trong xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, an ninh quốc phòng,
tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền đoàn thể các cấp; đồng thời
chỉ rõ những tồn tại thiếu sót trong quản lý kinh tế, tuyên truyền vận động nhân
dân thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ nhất. Báo cáo Phương hướng
nhiệm vụ của toàn Đảng bộ trong nhiệm kỳ 1964 -1967, nhấn mạnh một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ là củng cố hệ thống tổ chức Đảng, chính
quyền, đoàn thể các cấp, nâng cao hơn nữa vai trò của các HTX nông nghiệp, HTX
mua bán, vai trò của Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ nhất là vai trò của Mặt trận Tổ
quốc nhằm không ngừng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân (1). Đại hội bầu Ban
chấp hành Đảng bộ khóa II, gồm 17 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Từ tiếp tục
được bầu làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Văn Thi, Phó bí thư - Chủ tịch
Ủy ban hành chính huyện.
Đại hội huyện Đảng bộ Tân Kỳ lần II, diễn ra trong bối cảnh miền Bắc phải trực
tiếp đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ - Ngụy. Do đó,
nhiệm vụ tăng cường vai trò tổ chức, lãnh đạo của các cấp bộ Đảng, chính quyền,
đoàn thể trên địa bàn huyện trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Trong khói lửa chiến
tranh ngày càng ác liệt, Đảng bộ đã bồi dưỡng kết nạp hàng trăm đảng viên mới,
trong đó có nhiều đảng viên là người dân tộc Thái. Hệ thống tổ chức Đoàn thanh
niên từ Chi đoàn đến Đoàn cơ sở,… được củng cố, phát huy vai trò to lớn trong
việc tập hợp thanh thiếu niên, nhi đồng, tham gia vào công cuộc sản xuất, chiến
đấu và phục vụ chiến đấu ngay trên địa bàn từng xã. Hội phụ nữ các xã, phát triển
thu hút đại bộ phận chị em phụ nữ tham gia vào các phong trào: ba đảm đang, ba
sẵn sàng,… hăng hái động viên chồng con tham gia lực lượng Dân quân trực
chiến, lực lượng thanh niên xung phong, lên đường tòng quân giết giặc,v.v… Mặt
trận tổ quốc phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, thực hiện tốt
chính sách đoàn kết dân tộc, góp phần to lớn trong việc xây dựng thế trận chiến
tranh nhân dân vững chắc trên địa bàn các xã trong huyện. Hệ thống tổ chức Đảng,
chính quyền, đoàn thể được củng cố và tăng cường là một trong những nhân tố
mang tính quyết định để cán bộ, đảng viên và nhân dân Tân Kỳ hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ vừa sản xuất, vừa chiến đấu, đồng thời biến khẩu hiệu: “Tất cả vì
miền Nam ruột thịt” thành hiện thực, thông qua những việc làm, hành động cụ thể
thiết thực trên tất cả các mặt trận, trong điều kiện chiến tranh ngày càng ác liệt.
Đến tháng 12/ 1967, toàn Đảng bộ có 2.292 đảng viên, chiếm 6% dân số và bằng
13% lao động trong toàn huyện. Như vậy, sau 4 năm thành lập huyện (1963 -
1967), Đảng bộ Tân Kỳ đã bồi dưỡng, kết nạp và tiếp nhận thêm 1526 đảng viên.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, trong năm 1967, Huyện ủy Tân Kỳ chỉ đạo
18 đảng bộ cơ sở tổ chức Đại hội và 36 chi bộ nhỏ. Qua đại hội, nhiều cán bộ, đảng
viên trẻ được bổ sung vào các vị trí lãnh đạo đảng, chính quyền, đoàn thể ở địa
phương. Tiếp đó, ngày 18 tháng 10 năm 1967, Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ Tân
Kỳ lần thứ III được tổ chức tại làng Giang ( Nghĩa Thái). Báo cáo của Ban chấp
hành Đảng Huyện Tân Kỳ trình bày trước Đại hội, khẳng định những thành tựu to
lớn của Đảng bộ và quân dân Tân Kỳ, nhất là thành tích nổi bật của quân dân Tiên
Kỳ và Kỳ Sơn trong việc bắn rơi 02 máy bay Mỹ, mở rộng diện tích canh tác và
đảm bảo giao thông, huy động lực lượng tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Phương hướng nhiệm vụ trong nhiệm kỳ 1967 -1969 thông qua tại Đại hội đã
khẳng định những nhiệm vụ quan trọng như: củng cố quốc phòng an ninh, đảm bảo
giao thông thông suốt, hoàn thành nghĩa vụ hậu phương,… và nhấn mạnh hơn bao
giờ hết nhiệm vụ củng cố hệ thống tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp
luôn đặt lên hàng đầu. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ Huyện gồm 23 ủy viên
và 02 ủy viên dự khuyết.(1)
Vừa sản xuất, vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu, Đảng bộ và nhân dân Tân
Kỳ góp phần to lớn cùng quân dân miền Bắc từng bước đánh bại chiến tranh phá
hoại lần thứ nhất của Mỹ - Ngụy. Khẩu hiêu: “Thóc không thiếu một cân, quân
không thiếu một người” “ xe chưa qua, nhà không tiếc”,v.v… trở thành hành động
cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân Tân Kỳ. Song song với những thành
tích nổi bật trong sản xuất và chiến đấu, thành tựu nổi bật của các cấp bộ Đảng,
chính quyền, đoàn thể ở Tân Kỳ trong năm 1968 là tổ chức tốt việc đón tiếp hàng
vạn cán bộ, đảng viên, nhân dân từ Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, Quảng Trị cũng
như hàng ngàn nhân dân ở các huyện miền xuôi trong tỉnh lên sơ tán tại địa bàn
huyện trong điều kiện chiến tranh tàn khốc. Vai trò của các cấp bộ Đảng, chính
quyền, MTTQ, đoàn thể quần chúng được phát huy trên tất cả các mặt trận, trong
đó, cần phải khẳng định vai trò to lớn của hệ thống chính trị trong việc động viên
toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân trên địa bàn huyện, nhường cơm xẻ áo vì
đồng bào đất thép Vĩnh Linh, Quảng Trị.
Ngày 27, 28/7/1969, Đại hội huyện Đảng bộ Tân Kỳ lần thứ IV được tổ chức
tại Vũng Choại. Các đại biểu tham dự Đại hội thảo luận Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ
(1967 -1969) và đóng góp nhiều ý kiến quan trong vào bản phương hướng, nhiệm
vụ trong nhiệm kỳ tới. Trong các văn kiện thông qua tại đại hội một lần nữa khẳng
định nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ là củng cố hệ thống tổ chức Đảng, chính
quyền, MTTQ đoàn thể các cấp. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ huyện gồm
25 ủy viên chính thức, 02 Ủy viên dự khuyết. Đồng chí Đặng Đức Khừ được bầu .
1.Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ Tân Kỳ lần II. Tài liệu lưu tại Văn phòng Huyện ủy.
làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Văn Thi, Phó bí thư - Chủ tịch Ủy ban
hành chính huyện. Đồng chí Nguyễn Trọng Ngọ, Ủy viên thường vụ, Thường trực
Huyện ủy.
Cán bộ, đảng viên, đoàn viên Gio Linh, Vĩnh Linh, Cam Lộ cũng như đảng
viên, đoàn viên ở các huyện miền xuôi ra sơ tán, được cấp ủy, chính quyền sắp xếp
bố trí sinh hoạt trong các chi bộ, chi đoàn cơ sở. Hệ thống tổ chức chính quyền tại
địa bàn có nhiều người sơ tán được củng cố, góp phần không nhỏ vào việc sớm ổn
định đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; đồng thời huy động nhân dân tản
cư, sơ tán tham gia vào công cuộc khôi phục, hàn gắn vết thương chiến tranh, đẩy
mạnh sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương đối với đồng bào miền Nam. Từ năm
1967 đến năm 1971, Đảng bộ Tân Kỳ đã bồi dưỡng và kết nạp được trên 300 .đảng
viên, bổ sung vào đội ngũ cán bộ địa phương, làm nòng cốt trong các phong trào.
Từ năm 1971 đến năm 1975 để tổ chức, lãnh đạo quân dân Tân Kỳ hoàn thành
tốt nhiệm vụ khôi phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, chống chiến tranh
phá hoại lần thứ hai và dốc sức chi viện cho chiến trường miền Nam, chiến trường
Lào và Campuchia, góp phần cùng quân dân cả nước đưa sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ cứu nước đi đến thắng lợi cuối cùng, nhiệm vụ củng cố hệ thống tổ chức
Đảng, chính quyền, MTTQ, đoàn thể các cấp luôn được xác định là nhiệm vụ trọng
tâm hàng đầu. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Tân Kỳ lần thứ V(16 đến
19/4/1971), Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ VI (5/1972); Đại hội lần thứ VII (18
đến 21/5/1973); Đại hội lần thứ VIII (8/1974), đã khẳng định điều đó.
Trong thời kỳ hòa bình hay trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại, có
84% đảng viên, được phân công đảm nhận các chức vụ cụ thể trong hệ thống tổ
chức Đảng, chính quyền, MTTQ, đoàn thể từ chi bộ, đội, HTX nông nghiệp, HTX
mua bán, trạm xá, trường học, mặt trận, phụ nữ, đoàn thanh niên,... Hầu hết đảng
viên đều biến khẩu hiệu: “Đảng viên đi trước, làng nước đi sau” thành hành động
cách mạng cụ thể, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhất mọi nhiệm vụ mà Đảng và
dân giao phó. Sự đầu tàu, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong cuộc sống lao
động, sản xuất và tiên phong đi trước trong việc động viên chồng con, cha anh, lên
đường tòng quân, xông pha cứu người, cứu hàng, dưới mưa bom bão đạn của kẻ
thù có ảnh hưởng to lớn đến toàn bộ nhân dân trong các làng bản và họ trở thành
những tấm gương tiêu biểu trong đời sống đầy khó khăn, thử thách suốt những
năm dài đánh Mỹ.
Huyện ủy thường xuyên quan tâm đến việc triển khai các Nghị quyết của Trung
ương, Tỉnh ủy và Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ huyện đến tận cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Sau khi Bác mất, Huyện ủy Tân Kỳ mở đợt sinh hoạt chính
trị tư tưởng sâu rộng, học tập Di chúc thiêng liêng của Bác, biến đau thương thành
hành động cách mạng trên mọi lĩnh vực công tác, thực hiện khẩu hiệu: “Sống chiến
đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Thống kê của Ban chấp hành
Đảng bộ huyện Tân Kỳ cho thấy, từ năm 1963 đến năm 1975, có trên ¾ chi bộ,
Đảng bộ được xếp loại phấn đấu tốt, trên 55% số đảng viên phấn đấu tốt, 32% số
đảng viên đạt loại phấn đấu xuất sắc. Chỉ tính riêng năm 1973, có 11/16 Đảng bộ
nông thôn và 27/32 đảng bộ, chi bộ cơ quan, qua phân loại chỉ có 02 đảng bộ nông
thôn (Nghĩa Bình, Kỳ Sơn) và 02 đảng bộ cơ quan ( Nông trường sông Con và
Nông trường An Ngãi) đạt loại phấn đấu tốt, còn các chi bộ, đảng bộ khác đều đạt
loại xuất sắc, không có đảng bộ, chi bộ yếu kém. Mỗi năm Đảng bộ huyện Tân Kỳ
bồi dưỡng, kết nạp thêm khoảng 50 đảng viên, riêng năm 1973 kết nạp 70 đảng
viên.
Thực hiện lời căn dặn của Bác về việc chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng
cho thanh thiếu niên, nhi đồng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Huyện ủy
Tân Kỳ xác định đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn đảng bộ. Do
đó, chỉ trong năm 1973, cả huyện có 3.565 đoàn viên thanh niên đạt danh hiệu: “Ba
sẵn sàng”, 8.000 phụ nữ đạt danh hiệu: “Ba đảm đang”, hàng trăm người đạt danh
hiệu: “Hai giỏi” ,v.v…
Tuy nhiên, trong suốt 12 năm (1963 - 1975), công tác xây dựng Đảng, củng
cố hệ thống chính trị ở Tân Kỳ cũng bộc lộ không ít tồn tại, thiếu sót. Cán bộ, đảng
viên có trình độ văn hóa thấp (nhiều người mới học xong cấp 1, chưa hết cấp 2), do
đó nhận thức, hiểu biết về chủ trương, đường lối của Đảng còn hạn chế, nhất là về
trình độ khoa học kỹ thuật, quản lý, điều hành, tuyên truyền, vận động nhân dân
còn nhiều hạn chế. Một số đảng viên thiếu gương mẫu, từ chối nhiệm vụ khó
khăn, nhất là trong những năm chiến tranh. Tỷ lệ đoàn viên trong tổ chức Đoàn
thanh niên chỉ chiếm 6%, đảng viên trong lực lượng dân quân tự vệ chiếm không
quá 25%,… Tỷ lệ đảng viên là người dân tộc Thái, Thổ quá ít, gây ảnh hưởng
không nhỏ đến phong trào chung, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa. Từ thực
tiễn xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trên địa bàn cán bộ, đảng viên đã rút ra
những bài học hữu ích cho công cuộc xây dựng và phát triển quê hương trong bối
cảnh lịch sử mới.
2. Công tác xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị từ năm 1975 đến năm
2012
Trong 10 năm đầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
(1975 - 1985), song song với những thành tựu to lớn trong xây dựng, phát triển
kinh tế, văn hóa, giáo dục, củng cố an ninh, quốc phòng,… trên địa bàn huyện,
công tác xây dựng, củng cố hệ thống chính trị từ cơ sở đến các ban ngành cấp
huyện cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Trước hết, thực hiện chỉ thị 229 của Trung ương Đảng và hướng dẫn của Tỉnh
ủy về cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, Huyện ủy ra quyết định thành lập Ban chỉ
đạo bầu cử huyện Tân Kỳ. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân,
ngày 25/4/1976, có trên 98% số cử tri đã tham gia bỏ phiếu. Ngày Tổng tuyển cử
trở thành ngày hội của toàn dân. Cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp được tổ
chức sau đó cũng được huyện chỉ đạo một cách sát sao và đạt kết quả tốt.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, từ ngày 20 đến ngày 23/5/1976, Đại hội
đại biểu huyện Đảng bộ Tân Kỳ lần thứ IX khai mạc tại trường Đảng của huyện.
Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ huyện gồm 27 ủy viên chính thức và 02 ủy
viên dự khuyết. Nghị quyết của Đại hội đại biểu huyện Tân Kỳ lần thứ IX nhấn
mạnh, trong nhiệm kỳ tới vấn đề củng cố hệ thống chính trị là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng bộ.
Trong bối cảnh lịch sử đất nước gặp không ít khó khăn, thực hiện Nghị quyết
của Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976), Đại hội lần thứ V (1981),
và Nghị quyết của Đại hội tỉnh đảng bộ Nghệ Tĩnh, Huyện ủy Tân Kỳ triển khai
sâu rộng chủ trương, đường lối xây dựng, phát triển đất nước của Đảng đến tận cán
bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ. Các đợt học tập Nghị quyết của Đảng thu hút
100% cán bộ, đảng viên tham gia và trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng
trong toàn Đảng bộ, góp phần nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng viên.
Huyện ủy chỉ đạo các chi bộ, đảng bộ, đặc biệt quan tâm tới nhiệm vụ bồi dưỡng,
giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi cho đoàn viên thanh niên được đứng vào hàng ngũ
của Đảng, đồng thời mạnh dạn bố trí cán bộ trẻ vào các chức vụ trong hệ thống
chính quyền, đoàn thể các cấp. Ngoài việc mở các lớp bồi dưỡng đối tượng Đảng
học tập trung tại trường Đảng của huyện, Huyện ủy còn tạo điều kiện để cán bộ xã,
huyện, tham gia các lớp bổ túc văn hóa, lớp Trung cấp chính trị, lớp quản lý kinh
tế, đất đai,v.v… Nhờ đó, trình độ văn hóa, quản lý của cán bộ chính quyền, đoàn
thể không ngừng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Riêng các đồng chí
Xã đội trưởng, xã đội phó, Trưởng, phó công an các xã đều được lựa chọn những
đồng chí từng tham gia quân ngũ, có năng lực, trình độ để đảm nhiệm. Ngay cả các
đồng chí công an viên ở các xã, xóm trưởng, bí thư chi bộ, hội trưởng, hội phó Hội
phụ nữ các xã. Bí thư Đoàn thanh niên đều được lựa chọn trong số những cán bộ,
đảng viên có uy tín, năng lực để giao nhiệm vụ. Tính đến năm 1983, số đảng viên
toàn Đảng bộ đã tăng gấp 4 lần so với năm 1963; 22% đảng viên có trình độ sơ cấp
chính trị, tuổi đời cấp ủy bình quân là 39. Qua phân loại, hàng năm có 85% - 92%
đảng viên đủ tư cách; số đảng viên không đủ tư cách chiếm tỷ lệ từ 10 - 15%. Hàng
năm, Huyện ủy xử lý kỷ luật từ 0,8 - 1,5% số đảng viên. Theo số liệu của Ban tổ
chức Huyện ủy, tính từ năm 1980 đến năm 1985, đã khai trừ khỏi Đảng 3,2% số
đảng viên; lưu Đảng 0,8%; cách chức 0,2%; cảnh cáo: 0,5%; khiển trách 0,2%;…
Nhờ thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ, sát hợp với tình hình thực tiễn địa
phương nên hệ thống chính trị ở các xã, nông trường, trường học, trạm xá, bệnh
viện, không ngừng được củng cố hoàn thiện.
Ban kiểm tra Đảng Tân Kỳ thường xuyên tiến hành công tác thanh kiểm tra
theo quy định của ngành kiểm tra Đảng, báo cáo kịp thời với Thường vụ huyện ủy
về những trường hợp có dấu hiệu vi phạm điều lệ của Đảng để Ban Thường vụ kịp
thời xử lý. Một số trường hợp cán bộ, đảng viên vi phạm điều lệ, tham ô, tham
nhũng,… được phát hiện xử lý, kịp thời.
Tuy đạt được nhiều thành tích to lớn trong nhiệm vụ củng cố hệ thống chính
trị từ huyện đến cơ sở, song trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn, các tệ nạn
xã hội như: trộm cắp, cờ bạc, cướp giật, bói toán,v.v… ảnh hưởng đến địa bàn các
xã giáp ranh, thị trấn Lạt,…một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện tiêu cực, bỏ sinh
hoạt Đảng,v.v…huyện ủy Tân Kỳ chưa có biện pháp ngăn chặn kịp thời, nên từ
năm 1980 đến 1985, số cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật từ hình thức khai trừ ra
khỏi Đảng đến cảnh cáo, phê bình tăng hơn so với thời kỳ từ năm 1975 đến năm
1980. Ngoài ra, do chủ quan, duy ý chí, cứng nhắc khi vận dụng chủ trương đường
lối của Đảng vào thực tiễn địa phương, một số cán bộ, đảng viên trong bộ máy
chính quyền có biểu hiện xa dân, chưa làm tốt công tác dân vận, không hoàn thành
tốt nhiệm vụ của mình, gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Niềm tin của quần
chúng nhân dân đối với các cấp bộ Đảng, chính quyền địa phương bị giảm sút. Một
tồn tại khác là trong 10 năm (1975 - 1985), số Đảng viên nữ được kết nạp vào
Đảng chỉ chiếm chưa quá 20% tổng số đảng viên mới. Nhất là số đảng viên nữ
thuộc dân tộc Thái, Thổ, hay giáo dân lại có tỷ lệ thấp hơn. Mặt khác, tỷ lệ cán bộ
nữ trong bộ máy chính quyền, đoàn thể từ xóm, xã đến huyện cũng chỉ chiếm tỷ lệ
không quá 1/5 tổng số cán bộ. Số hộ gia đình Đảng viên rơi vào tình trạng thiếu
đói lương thực cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong từng chi bộ, đảng bộ, nhất là
ở những xã vùng sâu vùng xa,...
Nhận thức rõ được những tồn tại, thiếu sót đó, bước vào công cuộc đổi mới,
Đảng bộ Tân Kỳ, Đảng bộ Tân Kỳ luôn quan tâm đặc biệt tới nhiệm vụ củng cố hệ
thống tổ chức đảng, MTTQ, đoàn thể, chính quyền các cấp. Quán triệt Nghị quyết
của Bộ chính trị về: “Làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng
và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội” và Nghị quyết 05 của
Ban Chấp hành Trung ương: “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng”, Đảng
bộ huyện đã triển khai nhiều biện pháp, giải pháp đồng bộ, kiện toàn lại hệ thống
tổ chức Đảng từ chi bộ đến đảng bộ cơ sở, kiên quyết đưa ra khỏi hàng ngũ của
Đảng những cán bộ, đảng viên yếu kém không đủ phẩm chất đạo đức cách mạng.
Hệ thống chính quyền, đoàn thể các cấp cũng được củng cố, tăng cường lực lượng
cán bộ trẻ, có năng lực, nhiệt huyết. Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Mặt trận tổ quốc
các cấp phát huy vai trò to lớn của mình trong công cuộc đổi mới kinh tế, củng cố
an ninh, quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, xây dựng củng cố
khối , cụm dân cư an toàn làm chủ,v.v…
Thực hiện quyết định 19 của Ban bí thư và quyết định 325 của Ban thường
vụ Tỉnh ủy về sắp xếp tinh gọn tổ chức phòng ban, giảm biên chế trong các cơ
quan đảng, chính quyền, đoàn thể, huyện đã sắp xếp từ 5 ban với 43 cán bộ, xuống
còn 4 ban với 35 cán bộ. Ủy ban nhân dân huyện từ 21 phòng ban với 119 cán bộ,
giảm xuống còn 11 phòng với 88 cán bộ. Các ngành sản xuất kinh doanh, hành
chính sự nghiệp giảm xuống 10%.
Công tác quy hoạch cán bộ từ huyện đến cơ sở được huyện tiến hành một
cách chặt chẽ đúng với quy định và đảm bảo tính dân chủ, công khai, nhận được sự
đồng thuận của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đặc biệt, nhận thức rõ
những yêu cầu cấp thiết của công tác cán bộ trong thời kỳ mới, Đảng bộ tạo mọi
điều kiện để cán bộ, đảng viên trẻ được tham gia học các lớp bồi dưỡng cán bộ từ
Trung cấp chính trị đến Đại học, lớp chính trị cao cấp cho đội ngũ cán bộ từ huyện
đến xã. Những cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị, chính quyền, đoàn thể từ
cơ sở đến huyện có trình độ văn hóa chưa tương xứng được cử đi học Cao đẳng,
Đại học tại chức,v.v… Qua các kỳ đại hội đảng ở cơ sở đến huyện đã lựa chọn
những cán bộ, đảng viên ưu tú để giao nhiệm vụ. Đồng thời với việc phát hiện bồi
dưỡng, cán bộ trẻ có năng lực vào tổ chức chính trị, công tác phân loại, xếp loại
đảng viên cũng được tiến hành một cách nghiêm túc, đạt kết quả tốt.
Thực hiện cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”
với phương châm: “Dân biết, dân bàn,dân kiểm tra”, Đảng bộ Tân Kỳ triển khai
nhiều biện pháp tích cực như: lấy ý kiến nhân dân đóng góp ý kiến vào Văn kiện
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, XI; bồi dưỡng, tập huấn
cho đội ngũ Báo cáo viên, công khai công tác thanh kiểm tra, cử cán bộ về dự họp
tại các chi bộ, hay các buổi họp tại thôn xóm, nâng cao vai trò của Ban kiểm tra
Đảng, Ban kiểm tra nhân dân,v.v… Chỉ tính riêng trong nhiệm kỳ XIV, huyện đề
bạt 9/9 Phó chủ tịch xã trong diện quy hoạch, 10 Trưởng, phó phòng cấp huyện, bổ
sung 27 ủy viên cấp cơ sở.
Qua kiểm tra, phân loại Đảng viên, toàn Đảng bộ có 4.214 đảng viên, có tới
3.469 đảng viên đủ tư cách, chiếm tỷ lệ 85%, số đảng viên bị xử lý kỷ luật là 234
chiếm tỷ lệ 5,55%. Trong đó, số đảng viên đưa ra khỏi đảng chiếm tỷ lệ 2,55%,
tăng hơn nhiệm kỳ XIII là 1,14%. Trong nhiệm kỳ XIV đã kết nạp thêm 134 đảng
viên mới(1).
Triển khai Nghị quyết 8B của Bộ chính trị về: “Đổi mới công tác quần
chúng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”, Huyện ủy chỉ đạo tất cả . 1.Tài liệu do Ban tổ chức Huyện ủy cung cấp. Xem thêm: Lịch sử Đảng bộ Tân Kỳ,sdd, tr 190 -195
các cán bộ, đảng viên trong đảng bộ, chính quyền, các tổ chức đoàn thể
không ngừng phát huy vai trò đầu tàu gương mẫu, nói đi đôi với làm, gắn bó mật
thiết với nhân dân, gương mẫu thực hiện các phong trào xây dựng phát triển kinh
tế gia đình, xây dựng làng xã an toàn làm chủ, xây dựng đời sống văn hóa mới ở
làng xã, phát huy vai trò của Hội nông dân, hội Cựu chiến binh,v.v… Qua đó, hệ
thống chính trị không ngừng được củng cố, vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng
cường, tình hình chính trị xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được củng cố.
. Từ năm 1995 đến năm 2000, triển khai các Nghị quyết của Ban chấp hành
Trung ương Đảng, Nghị quyết của Tỉnh ủy và Huyện ủy, công tác củng cố hệ
thống tổ chức Đảng, chính quyền, MTTQ, đoàn thể tiếp tục đạt được nhiều kết quả.
Trong bối cảnh thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa và hiện đại hóa, từng bước hội
nhập vào cộng đồng khu vực và thế giới, công tác bồi dưỡng phẩm chất đạo đức
cách mạng, nâng cao trình độ lý luận chính trị và năng lực quản lý, lãnh đạo cho
đội ngũ cán bộ từ cơ sở đến huyện thực sự là một trong những nhiệm vụ hết sức
cấp thiết. Cơ hội và thách thức ngày càng nhiều, các thế lực thù địch trong và ngoài
nước đẩy mạnh các âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình, tìm mọi cách và bằng
mọi âm mưu, thủ đoạn nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, làm giảm uy tín
của Đảng và bộ máy chính quyền, do đó, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên càng
phải được phát huy hơn nữa. Huyện ủy đã tổ chức bồi dưởng cho 800 cán bộ đảng
viên về các chuyên đề xây dựng, mở các lớp bồi dưỡng đối tượng Đảng cho hơn
700 đoàn viên thanh niên ưu tú, kết nạp thêm 184 đảng viên mới.
1. Công tác tháo gỡ khó khăn cho các Đảng bộ Giai Xuân, Tân Hợp được tiến
hành kịp thời, tạo bước chuyển biến tích cực. Cả nhiệm kỳ đã bổ sung 1 đồng
chí Phó bí thư làm Bí thư Huyện ủy, 2 Phó bí thư, 4 ủy viên thường, 1 Chủ tịch
HĐND, 5 huyện ủy viên, 79 Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND xã, HĐND, ủy viên
thường trực, đề bạt 12 chánh , phó giám đốc(1),… Công tác củng cố bộ máy
chính 1.Tài liệu do Ban tổ chức Huyện ủy Tân Kỳ cung cấp. Tài liệu lưu tại Ban tổ chức Huyện ủy.TG.
quyền, MTTQ, đoàn thể các cấp, vận động quần chúng nhân dân đều đạt được
những thành tựu đáng kể. Ví dụ: năm 1995, qua phân loại đánh giá có 3 đơn vị
yếu, chỉ có 14 đơn vị đạt danh hiệu vững mạnh (chiếm 26,9%), đến năm 1999, chỉ
còn lại một đơn vị yếu, số đơn vị vững mạnh tăng lên 20% đơn vị (41,6%). Huyện
ủy thành lập mới 3 đảng bộ xã, giải thể 4 tổ chức cơ sở Đảng. Đến năm 2000, toàn
huyện có 55 tổ chức cơ sở được kiện toàn, củng cố phù hợp với thực tiễn địa
phương, 100% cơ sở hoàn thiện việc khảo sát đội ngũ cán bộ hiện có, hoàn thành
việc quy hoạch cán bộ cho giai đoạn 2000 - 2005, 2005 - 2010.
Năm 1999, Đảng bộ huyện Tân Kỳ được tỉnh ủy Nghệ An công nhận là: “Đảng
bộ trong sạch, vững mạnh”. Ban kiểm tra Đảng của huyện phối hợp với các cấp bộ
đảng kiểm tra 1886 đảng viên có dấu hiệu vi phạm.
Bước vào thiên niên kỷ mới, tình hình thế giới, trong nước và khu vực tiếp tục
có những biến chuyển thất thường, khó dự đoán, các thế lực thù địch đẩy mạnh
diễn biến hòa bình, âm mưu bạo loạn, lật đổ,v.v… gây không ít khó khăn cho công
cuộc xây dựng phát triển đất nước. Trong khi đó, nguy cơ tụt hậu về kinh tế của đất
nước so với các nước trong khu vực ngày càng rõ. Ranh giới giàu nghèo, khoảng
cách giữa nông thôn và thành thị, giữa vùng xuôi với vùng núi ngày càng xa.
Nhiệm vụ củng cố hệ thống chính trị, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đảm
bảo ổn định chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng ngày càng trở nên cấp thiết.
Nhận thức rõ điều đó, ngay từ những năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới,
Huyện ủy Tân Kỳ triển khai thực hiện các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung
ương, Tỉnh ủy với nhiều nội dung. Đội ngũ báo cáo viên từ huyện đến xã được
kiện toàn và bổ sung thêm một số đồng chí có năng lực chuyên môn để đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác quốc phòng an ninh trên địa bàn
có nhiều bước chuyển biến tích cực với sự tham gia của đông đảo nhân dân trong
phong trào xây dựng làng xã an toàn làm chủ, xây dựng gia đình văn hóa mới, xây
dựng làng xã, đơn vị văn hóa,… Phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc gia đình
có công với cách mạng, gia đình thương binh, liệt sĩ, giải quyết tồn đọng hồ sơ cho
các đồng chí từng phục vụ trong quân đội và lực lượng vũ trang, được tiến hành
khẩn trương, chính xác theo đúng chủ trương của Đảng, Nhà nước.
Vấn đề nâng cao trình độ lý luận, trình độ văn hóa cho đội ngũ cán bộ từ cơ
sở đến huyện được Đảng bộ huyện quan tâm đặc biệt. Nhiều cán bộ, đảng viên
được cử đi học các lớp lý luận chính trị ở Tỉnh và các lớp chính trị cao cấp ở Học
viện chính trị quốc gia, hay tham gia các lớp đại học tại chức,…Nhờ chính sách
đó, đến năm 2012, có 95% cán bộ cấp huyện có trình độ Đại học; Trung cấp
chính trị, hơn 75% cán bộ cấp xã, thị tốt nghiệp đại học,các đồng chí Bí thư, Phó
bí thư, Chủ tịch UBND, Trưởng, phó phòng, ban cấp huyện tốt nghiệp lớp lý luận
chính trị cao cấp. Công tác quy hoạch cán bộ từ xã đến huyện được tiến hành một
cách hệ thống theo đúng nguyên tắc dân chủ tập trung. Huyện ủy đặc biệt quan tâm
đến việc xóa bỏ các đơn vị yếu kém, xây dựng các cơ sở đảng trong sạch vững
mạnh được tăng cường và đạt hiệu quả tốt. Chẳng hạn đến năm 2005 đã thành lập
mới 74 chi bộ trực thuộc cơ sở, xóa được 15 xóm bản, 41 trường học chưa có chi
bộ, đảng viên. Đến năm 2005, số cơ sở đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh đạt tỷ
lệ từ 60 - 66%.; tỷ lệ đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bình quân hàng năm
đạt 18 - 19%, bình quân hàng năm kết nạp từ 280 - 290 đảng viên mớí. Ủy ban
kiểm tra tăng cường công tác thanh kiểm tra, phát hiện xử lý kịp thời những trường
hợp vi phạm và có dấu hiệu vi phạm. Trong nhiệm kỳ 2001 - 2005, đã kiểm tra 34
cuộc với 307 lượt tổ chức, đạt 95% chương trình kiểm tra các cấp hàng năm. Ủy
ban kiểm tra, tiến hành kiểm tra 136 đảng viên ở 29 tổ chức đảng có dấu hiệu vi
phạm. Qua kiểm tra phát hiện 111 đảng viên, 23 tổ chức Đảng có vi phạm, thi hành
kỷ luật 81 đảng viên, 14 tổ chức Đảng(1),...1. Tài liệu do Ban tổ chức Huyện ủy cung cấp. Xem thêm: Lịch sử Đảng bộ huyện Tân Kỳ, sdd, từ trang
230 -237
Công tác vận động quần chúng có bước chuyển biến toàn diện. Khối đại đoàn kết
toàn dân không ngừng được củng cố. Mặt trận tổ quốc xã và huyện phối hợp với
cấp ủy, chính quyền triển khai nhiều cuộc vận động đạt kết quả cao như: phong
trào đền ơn đáp nghĩa, phong trào xây dựng làng xã, đơn vị văn hóa, phong trào
giúp đỡ người lầm lỗi tại cộng đồng, phong trào ủng hộ người nghèo, người nhiễm
chất độc da cam, xây dựng nhà tình nghĩa, chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ,
…Hội cựu chiến binh, hội người cao tuổi, hội cựu giáo chức, hội phụ nữ, đoàn
thanh niên,… phát huy vai trò to lớn của mình trong việc tập hợp hội viên, hoạt
động hiệu quả. Năm 2005 - 2010 HĐND, UBND được củng cố, hoàn thiện, các thủ
tục hành chính được cải tiến theo hướng tinh giảm gọn nhẹ, thuận lợi cho dân trong
mọi công việc, nhận được sự đồng thuận của đông đảo nhân dân.
Cuộc vận động: “Sống, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” được triển khai một cách sâu rộng trong toàn Đảng bộ, tạo bước chuyển
biến tích cực đối với toàn thể cán bộ, đảng viên trên địa bàn huyện. Nhiều tập thể
và cá nhân điển hình xuất hiện, có ảnh hưởng to lớn đến đông đảo các tầng lớp
nhân dân.
Nhìn lại chặng đường 50 năm (1963 - 2013), xây dựng và củng cố hệ thống
tổ chức Đảng, chính quyền, MTTQ, đoàn thể trên địa bàn huyện, bên cạnh những
thành tích to lớn đã đạt được vẫn còn đó không ít tồn tại, khiếm khuyết. Chẳng hạn
tỷ lệ đảng viên nữ trong toàn Đảng bộ thấp, số đảng viên là người dân tộc Thái,
Thổ có tăng so với trước nhưng vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ, số cán bộ nữ tham gia vào bộ
máy chính quyền, MTTQ, đoàn thể vẫn còn ít chưa tương xứng,… Một số cán bộ,
đảng viên vi phạm tư cách, có lối sống thực dụng, biểu hiện xa dân, hách dịch,
hoặc thiếu năng lực quản lý điều hành. Hàng năm qua phân loại, kiểm tra, đánh giá
số chi bộ, đảng bộ cơ sở có dấu hiệu vi phạm hoặc vi phạm vẫn tăng chưa có giải
pháp triệt để ngăn chặn. Hậu quả là số đảng viên bị xử lý kỷ luật hàng năm vẫn
chưa giảm đến tỷ lệ mà Nghị quyết đại hội huyện Đảng bộ đề ra. Một số phong
trào nặng tính hình thức và bệnh thành tích vẫn còn tồn tại,v.v...
Từ thực tiễn tổ chức và lãnh đạo quần chúng nhân dân trên địa bàn huyện
suốt nửa thế kỷ qua, cán bộ, đảng viên và nhân dân Tân Kỳ đã rút ra nhiều bài học
kinh nghiệm hữu ích trong nhiệm vụ củng cố hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền
đoàn thể các cấp. Cán bộ, đảng viên Tân Kỳ đã và đang phát huy truyền thống vẻ
vang của cha anh để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.