101
Đặc San Trà Vinh Nhâm Thìn – 2012 trang 1

travinhhaingoai.comtravinhhaingoai.com/DacSan2012/DacSanTV2012Phan1.pdfĐặc San Trà Vinh Nhâm Thìn – 2012 trang 3 Hội Ái Hữu Trà Vinh nhiệm kỳ 2012-2016 Hội Đồng

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Đặc San Trà Vinh Nhâm Thìn – 2012 trang 1

Đặc San Trà Vinh Nhâm Thìn – 2012 trang 2

Đặc San Trà Vinh Nhâm Thìn – 2012 trang 3

Hội Ái Hữu Trà Vinh nhiệm kỳ 2012-2016

Hội Đồng Điều Hành Hội Trưởng. : Ông Văn Tường Phó H T Ngoại Vụ : Ông Nguyễn Văn Thành

: Ông Từ Phinh One Phó H T Nội Vụ : Ông Nguyễn Văn Vui,

: Ông Thạch Bông Tổng Thư Ký : Ô. Dương Việt Văn Phó Tổng Thư Ký : Ô. Nguyễn Văn Nhựt Thủ Quỷ : Ô. Võ Văn Diệu. Trưởng Ban Liên Lạc : Ô. Ngô Thiết Hùng Trưởng Ban Xã Hội : Ô. Hà Phi Hùng Đặc trách về Phụ Nữ : Bà Bùi T. Hải Đường. Trưởng Ban Thể Thao : Ô. Nguyễn Cao Thượng Trưởng Ban Tài Chánh : Ô. Trương Bạc Xuổl. Trưởng Ban Giáo dục : Ô. Nguyễn Văn Vui Trưởng Ban Y-Tế : Ô. Kiều Trương, Trưởng Ban Trật Tự : Ô. Hà Kim Danh Hỏa đầu Vụ : Ô. Thạch Tạo. Trưởng Ban Văn Nghệ : Ô. Tạ Thành Tiến

: Ô. Trần Sinh Trưởng Ban Báo Chí : Ông Võ Trung Tín Ban Quảng Cáo : Ô. Trương Bạc Xoủl : Ô. Ngô Văn Thành : Kiên Phi Bằng Web Master : Ông Ngô Đế

: Dương Việt Văn

Hội Đồng Cố Vấn :

Các Cụ Trần Xiều, Hàng Công Thành, Nguyễn Văn Cung, Nguyễn Ánh Nhựt,Võ Trung Tín, Tăng Đông Sanh, Nguyễn Lưu Viên,

Huỳnh Văn Lang. Các Anh Trần Hửu Quang, Huỳnh Kim Tiến, Trịnh Hảo Tâm, Chị Trần Thị Phụng

Hội Đồng Sáng Lập :

Cụ Trần Xiều, Các Anh Hà Kim Danh, Văn Tường, Huỳnh Kim Tiến, Võ Văn Diệu, Nguyễn Văn Vui, Lâm Vĩnh Hiếu, Nguyễn Văn Thành,

Nguyễn Tấn Tài, Thạch Tạo, Võ Trung Tín.

Đại Diện Các Nơi :

Phần Lan : Ông TRẦN MINH CẢNH Hòa Lan : Chị THÁI KIM NGUYỆT Australia : Ông TRẦN ANH KIỆT Norway : Ông PHẠM QUANG TRỨ Germany : Ông HÀ PHƯỚC THẢO Canada : Ông HUỲNH CÔNG ÂN San Diego : Ông TRẦN TRỌNG LÀNH Los Angeles : Ông NGÔ VĂN THÀNH Florida : Ông TRƯƠNG DƯỜNG Indoo : Ông HỒ VĂN PHONG Texas : Ông KIM HỮU PHƯƠNG Michigan : Chị LÊ THỊ DUNG Kansas : Ông HỒ VĂN MỪNG Georgia : Ông ĐOÀN LÝ ĐÁNG

: Ông LÊ NGỌC ĐIỆP, Oregan : Ông LÝ TUẤN HIỀN Ohio : Ông HUỲNH NGỌC CÔN Connecticut : Ông HUỲNH THÀNH BÁ. Missouri : Ông HỒ VĂN ẨN Newyork : Ông TIÊU NHƠN LẠC. Utah : Ông NGUYỄN V. XUÂN CẢNH.

Đặc San Trà Vinh Nhâm Thìn – 2012 trang 4

BAN THỰC HIỆN ĐẶC SAN TRÀ-VINH 2012

XUÂN NHÂM TH ÌN– THÀNH THẬT TRI ÂN Quý Học Giả, Văn Thi Hữu gởi tác phẩm tô điểm cho Đặc San Trà Vinh

SOÁ 12 - Xuân NHÂM THÌN - 2012 Quý Đọc Giả viết thư, điện thoại góp ý kiến và khuyến khích chúng tôi,

Quý Mạnh Thường Quân, Doanh Gia, Thân Chủ , đã và đang ủng hộ Đặc San Trà Vinh

Nhờ sự yểm trợ quý báu của tất cả quý vị trên, chúng tôi mới có đủ phương tiện và giữ vững tinh thần

để hình thành các quyển Đặc San nầy

Đặc san Trà-Vinh số 12 được phát hành tại California trong dịp mừng

Xuân Nhâm Thìn do Hội Ái Hữu Trà-Vinh chủ trương với các tiêu chuẩn như sau:

* Đặc san Trà-Vinh chỉ lưu hành trong Hội Ái Hửu Trà-Vinh và không bán ra ngoài.

* Các tác giả chịu hoàn toàn trách nhiệm về bài viết của mình.

* Những bài không đăng, tòa soạn sẽ không gởi trả lại bản thảo.

* Các bài gởi đăng xin dùng Font Unicode hoặc VNI và gởi về email: [email protected]

* Mỗi tác giả sẽ được chọn đăng hai bài trong mỗi số báo. ngoài ra sẽ dành cho các số tới.

* Tòa soạn sẽ dành ưu tiên cho quý đồng hương mới đến với Hội lần đầu.

* Những bài gởỉ cho Đặc San Trà-Vinh xin đừng gởi các nơi khác đăng trước.

* Tòa soạn dành quyền từ chối những bài vở ngoài chủ trương và đường lối của Hội cũng như văn hoá nước nhà.

* Nếu muốn trích đăng một đoạn hay toàn bài xin liên lạc với tác giả hay tòa soạn và xin đề trích từ Đặc San Trà- Vinh

Đặc San Trà Vinh Nhâm Thìn – 2012 trang 5

Đặc San Trà Vinh Năm Nhâm Thìn 2012

TT Đề tựa Tác Giả Trang

1 Chúc Tết Hội AHTV 2

2 Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu Trà Vinh 2012- 2014 Hội AHTV 3

3 Điều lệ của Đặc San Ai Hữu Trà Vinh Ban Báo Chí 4

4 Mục lục BBC 5

5 Lá Thư Đầu Năm Văn Tường 7

6 SớTáo Quân Trà Vinh Táo Trà Vinh 8

7 Năm Thìn nói chuyện Rồng Lucky Nguyễn 9

8 Trà Vinh Hội Ngộ ngày Xuân Tân Mão 2011 Nguyễn Văn Nhựt 13

9 Vương Quốc Chămpa Vĩnh Trường 16

10 Một bí ẩn của tâm linh Nguyên Nhung 28

11 Trùng Trùng Duyên Khởi Chiêu Anh 31

12 Hồn Tử Sĩ Tìm Về (Nhạc) Nguyễn Hữu Tần 34

13 Má Tôi Huệ Tường 35

14 Chợ Tết Trà Vinh (Thơ) KimChung Hoàng Vũ 38

15 Nhúm tóc còn lại của Má Huynh Tâm Hoài 39

16 Hương Nhớ (Thơ ) Huỳnh Tâm Hoài 42

17 Người hàng xóm Mỹ Võ Vĩnh Kim 43

18 Nếu tôi chết ... ( Thơ ) Hoàng Vũ 47

19 Gió Thu ( Thơ ) Trần Thế Phong 47

20 An Nam Lý Học hữu Trình Tuyền Vĩnh Thuận 48

21 Trại Hè Bến Đáy năm 1943 Nguyễn Minh Cần 60

22 Nỗi đoạn trường Lâm Thanh 63

23 Gạch Nối Lâm Thanh 66

24 Người Cứới vợ ma Phạm Phong Dinh 67

25 Tùy bút Mẹ Ơi Diệp Hồng Phương 74

26 Hồi Chuông Trừ Tịch Tường Lam 82

27 Bản Tin Hè 2011 BBC 90

Đặc San Trà Vinh Nhâm Thìn – 2012 trang 6

28 Tử Tế Thanh Nguyễn 99

29 Vui Xuân Trà Vinh – Trà Vinh Ngày Nào ( Thơ ) Dạ Lan 101

30 Ấp Mã Tiền Thái Lai 102

31 Sầu Đông Sầu Đâu ? Hai Quẹo 105

32 Trồng Cây Nguyễn Văn Nhựt 108

33 Mùa Mai Nở Chiêu Anh 112

34 Về Thăm Trà Vinh (thơ)) Song Huệ 115

35 Có Ai Về Trà Vinh Kim Chung Hoàng Vũ 115

36 Bảo Lụt Năm Thìn 1952 tại Trà Vinh Lucky Nguyễn 116

37 Saigòn nỗi nhớ Lê Tú Anh 119

38 Tình Ca trong mưa trên phím đàn tôi Trần Sinh 119

39 Con Rồng trong Văn Hóa Văn Chương Tiền Lạc Quan 120

40 Tự Sát Anh Ba Phước Hưng 125

41 Trở lại Trà Vinh Tiền Vĩnh Lạc 133

42 Chiếc Lá Vàng rơi BCD 136

43 Lời Nhắn của người Cha già (Thơ ) Huỳnh Văn Luận 139

44 Thư Đồng Hương BBC 140

45 Sinh hoạt của Đồng Hương Trà Vinh Vùng Vịnh Từ Văn Thọ 143

46 Công Cuộc giải thê chế độ độc tài CSVN Huỳnh Văn Lang 148

47 Rau Sam, Cỏ dại hay vị thuốc Trần Anh Kiệt 155

48 Như Hoa Lục Bình (Thơ) Tường Lam 156

49 Cậu Tôi Huỳnh Công Ân 157

50 Sầu Đông, Nặng Tình Quê (Thơ) Chu Tiểu Trà 158

51 Quy Cố Hương Từ Văn Thọ 159

52 Tiếng Gọi Hồn Quê (Thơ) Trần Thế Phong 173

53 Oan thác, Hồn nhớ đất phương Nam Phú Vinh 174

54 Nhớ về Đoàn Văn Xường Đoàn Lý Đáng 177

55 Tường Trình Tài Chánh năm 2011 BBC 179

56 Đồng Hương Trà Vinh Qui Tiên Năm 2011 Thủ Quỷ 181

57 Danh Sách Đồng Hương Trà Vinh Năm 2012 TTK 184

58 Trang Quảng Cáo BBC 191

59 Ban Biên Tập 202

Tòa soạn: 9242 Bolsa # B Westminster CA 92683 Tel: 714-856-9202

Trang Web: aihuutravinh.com or Travinhhaingoai.com Email: [email protected]

Đặc San Trà Vinh Nhâm Thìn – 2012 trang 7

Kính thưa quý đồng hương và quý thân hữu

Cali, trời bắt đầu lành lạnh báo hiệu mùa Đông sắp đến và ông già Noel lại về với trẻ con. Tết Dương lịch rồi Tết Âm lịch lần lượt theo luật tuần hoàn vũ trụ xoay vần sẽ ngự trị khắp trần gian. Vạn vật, từ người, vật, cỏ cây như bừng dậy sau một thời gian dài bon chen với cuộc sống. Bây giờ, tất cả như sẵn sang chuẩn bị chào đón Chúa Xuân.

Ban báo chí , với “Cụ” trưởng đoàn Võ Trung Tín đã bấm “Alarm” giựt dậy nhóm thợ viết nghiệp dư chúng tôi hơn tháng nay. Vậy mà cũng có nhiều người ừ ừ hử hử, trong đó có “thằng tôi”. Xin lỗi Cụ nhé. Bây giờ viết đây nè. Năm nay mình viết như học trò viết luận văn, nghĩa là có nhập đề, thân đề, kết luận đàng hoàng, vì rằng, báo Xuân nhà ta tới số nầy là thập nhị, không phải là thập nhị sứ quân, mà là đúng 12 con giáp rồi, tròn trịa 12 năm. Sao mà nhanh thế quý Cụ. Mới ngày nào, báo số 1, các thợ viết còn trẻ trung, nay thì vị nào, vị nấy, tóc đà muối tiêu hay là bạc trắng như Ngũ Tử Tư không bằng! Suy nghĩ chuyện đời nhiều quá, hay là nhuốm bạc của thời gian! Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi., nhếch nụ cười ngạo với thế gian. Cha chả, cảm hứng mần thơ con cóc, cả gan dám múa rìu qua mắt thợ “Tú Riệu” “Tiểu Trà” là chết đó nghen .Ồ, lảm nhảm, hơi lạc quẻ, thôi trở lại vấn đề mùa Xuân Con Rồng và báo Đặc San của nhà ta.

Thưa chư quý liệt vị đồng hương Trà Vinh thân mến, Trước hết là lời cảm tạ chân thành của Hội về sự nhiệt liệt ủng hộ và lời khen ngợi,

khích lệ của tất cả đồng hương xa gần về đứa con tinh thần nầy ngay từ số đầu cho mãi đến số hôm nay (số 11) và kính mong tấm thạnh tình nầy cũng được tiếp tục trong mai hậu. Còn chúng tôi cũng cố gắng sao cho đừng phụ lòng của quý đồng hương. Nhân vô thập toàn, chúng tôi có những sơ sót mà đọc giả chỉ vẽ, chúng tôi xin chân thành ghi nhận và cảm tạ, cũng như không quên dặn dò với nhau phải cẩn trọng hơn, hơn nữa… Thưa quý đọc giả,

Nội dung của đặc san là tiếng nói của Hội, trong đó hằng năm Hội trình bày các vấn đề chính yếu như sau: - Danh sách đồng hương đóng niên liễm, ủng hộ và tên của hội viên mới. –Tường trình hai sinh hoạt căn bản của Hội mùa Xuân và mùa Hè. - Bài viết có liên quan đến quê hương Trà Vinh. - Linh tinh: Tin vui, tin buồn trong năm. - Danh sách và số phône mới của đồng hương Trà Vinh.

Mỗi hội viên Trà Vinh đều có một số làm tin để liên lạc với Hội, do đó còn Hội Trà Vinh là còn Đặc San Trà Vinh… Thưa quý đồng hương cùng thân hữu,

Ngôn bất tận, nói sao cho hết đặng lời, nên chăng lá thư đầu Xuân xin tạm dừng nơi đây để dùng những lời cuối thư chúc mừng năm mới. Nhâm Thìn 2012 Hội Ái Hữu xin trân trọng kính chúc toàn thể đồng hương Trà Vinh và thân hữu mùa Xuân mới tấn tài, tấn lộc, tấn phát như Rồng bay Phượng múa, vạn sự hanh thông, muôn việc cát tường... Hội Trưởng Văn Tường

Đặc San Trà Vinh Nhâm Thìn – 2012 trang 8

Báo cáo của Táo Trà Vinh

Kính bẩm! Kính Bẩm! Thánh Hoàng vạn tuế Thần Táo Trà Vinh Mỗi năm Tết đến Tháng chạp Hăm Ba Từ phố Bolsa Dùng nhiều phương tiện Yết kiến Bệ Rồng Chiêmngưỡng Longnhan Thánh Hoàng trường thọ Sau là báo cáo Các việc trần gian Mà Thần biết được… Ôi thôi năm nầy Thiên tai lũ lụt Nặng nhứt Xứ Nhựt Động đất sóng Thần Tàn phá kinh khủng Nhà tan người chết Thật là thê thãm Quả báo gì đây Thât là tội nghiệp Thánh hoàng ơi hởi Là Thánh Hoàng ơi Sao mà nghiệt ngã Cho thần dân thế!!! Còn bên Thái Lan Nước lụt dâng tràn Đền đài cung miếu Thủ đô Băng Cốc Cho đến nhà dân Đâu đâu cũng nước Vật chết, người chết Trong nhiều tháng nay Vẫn đang tiếp diễn. Còn về chính trị Cách mạng Hoa Lài Ở bên trời Phi Các nước đứng lên Lật đổ độc tài Xây nền dân chủ Phong trào khởi rộ Thắng lợi vẻ vang

Nước Việt thở than Không biết chừng nào Mình giống người ta ! Còn về Mỹ quốc Kinh tế bệnh đau Mấy năm ròng rã Bán buốn rất ế! Thị trường xuống dốc Nhà cửa rẻ rề Tiền bạc kiếm khó Thất nghiệp còn đó Tỉ số phần trăm Tăng lên chút xíu Obama cười mếu Lo cho số phận Nhiệm kỳ sắp tới Khó mà tiếp tục. Mặc dù đã dứt Khủng bố Bin Ladin Tại xứ Pakistan Va còn giải phóng Đất nước Libya Giết chết Qadafi Độc tài thứ thiệt Trái đất năm nầy Quá nhiều bất ổn Động đất nhiều nơi Turkey nhà sập Chết chốc ôi thôi Khó mà mô tả Thượng Hoàng hỷ xả Giảm tội chúng con Để cho năm tới Khấm khá lên coi Mòi nầy chắc chết, Chắc chết í mà Chắc chết. Thánh Hoàng vỗ bàn: Câm miệng, câm miệng, Chớ có thày lay Không được lải nhải Hãy kể nhà mầy Cho ta tường tận.

Dạ, dạ..Tuân lệnh Khải bẩm Thánh Hoàng Trà Vinh năm nầy Sinh hoạt bình bình Picnic mùa Hè Bổn cũ sao lại Nội dung, hình thức Giống hệt mọi năm Khác chăng là đổi Địa điểm mà thôi Chỗ nầy thoải mái Xe đậu dễ dàng Tìm kiếm không lạc Thuộc Garden Grove Còn về Tân Xuân Y chang năm cũ Ngoại trừ chúc thọ Các vị cao niên Phải tăng tuổi lên Trước là 70 Nay là 75 Vậy mà vẫn đông Ngồi chật cả ghế Nhờ phúc Thánh Hoàng Nhiều Cụ hàng chín Cũng còn đến Hội. Ngoại trừ 5 vị Từ giã cõi trần Vui miền cực lạc Thứ tự như sau: Thứ nhứt là Bà Tên Quách Thị Mãnh Phu nhân Ngô Hùng 15 tháng hai Đi về cõi Phật Hưởng thọ 62 Thứ hai Cô Giáo Kỳ cựu Trà Vinh Là Trần Xiển Uôi 16 tháng tư Giã từ dương thế Thọ hưởng 99 Thứ ba là Bà

Thạch Thị Hất Hớs Má vợ Thạch Tạo 21 tháng năm Phật Tổ gọi về Tuổi đời 76 Thứ tư kế đến Cũng vào tháng năm Nhằm ngày 27 Ông Quách Văn Thái Thân phụ hai ông: Là Quách Văn Thông Và mục sư Trường Về chầu Thánh Chúa Hưởng thọ 73 Thứ năm Cụ Bà Là Dư Thị Hiếu Phu nhân Trần Xiều Tháng 9 vừa qua Vào ngày 23 Cũng xa dương thế Vui vầy tiên cảnh Hưởng phước 87 Kính bẩm ThượngHoàng Chuyện vui chút đỉnh Xem cũng bình thường Có một tin nầy Thần cũng xin tấu Vơ Chồng đồng hương Là Văn Cửu Long (Em ruột Văn Tường) Cùng Hứa Thị Soàng Sang Mỹ định cư Do con bảo lãnh Cũng là thông gia Ông Bà Bạc Xuổl Thần xin trình báo Tiết kiệm thì giờ Đến đây chấm dứt Không quên kính chúc ThánhThương muônnăm Vạn tuế ! Thánh Hoàng Bái Bay! Bái Bay. Táo Trà Vinh 2012

Đặc San Trà Vinh Nhâm Thìn – 2012 trang 9

Lucky Nguyễn Năm Tân Mẹo sắp hết, năm Mẹo cũng là

năm đem đến cho thế giới nầy nhiều thiên tai như động đất, sóng thần, cuồng phong, hỏa hoạn, bão lụt v.v... và hậu quả của nó để lại không biết bao đau thương cho con người... Năm mới đến là năm Nhâm Thìn, cũng còn gọi là năm con Rồng, con vật đứng hàng thứ năm trong thập nhị chi. Theo Âm lịch lấy 12 con thú làm biểu tượng cho mỗi năm, theo chu kỳ 12 năm, hay còn gọi là 12 con Giáp như sau: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Vậy trong những năm con rồng có ảnh hưởng gì với đời sống văn hóa, phong tục và lịch sử của con ngườiViệt chúng ta như thế nào? Quan niệm của người Á Đông về năm con rồng ra sao? Ước mong những lời giải bày thô thiển của bài viết sau đây về “Năm Thìn nói chuyện Rồng” sẽ đem đến cho chúng ta nhiều điều thích thú, hầu giúp quí bạn đọc xa gần giải trí trong những ngày đầu xuân.

Chúng ta đã nghe người ta nói rất nhiều về rồng qua hình ảnh, tranh vẽ, những tác phẩm thi văn về rồng và cụ thể hơn nữa với những công trình kiến trúc đền đài lăng tẩm đồ sộ của vua chúa thời xưa có chạm trổ các hoa văn hình rồng rất tinh vi... Nhưng có mấy ai thấy được hay biết được con rồng thật ra sao? Có ai biết được con rồng sống ở đâu? Thế mà người ta vẫn cứ ca tụng vẻ đẹp về rồng theo trí tưởng tượng của mình một cách say mê, họ cố tạo dựng cho con rồng nầy co hình dáng linh động tuyệt vời khác với những con rồng kia,

nào là Thanh Long, Xích Long, Hắc Long hay Huỳnh Long hay Tinh Long, Hỏa Long Thiên Long v.v... Mỗi con rồng

hay mỗi loại rồng đều có nét khác biệt riêng của chúng... Tùy theo sự khác biệt của mỗi nền văn hóa, cũng như khác biệt về hoàn cảnh, thời gian và không gian mà người ta tạo cho con rồng của họ rỏ nét khác biệt với những con rồng khác...Cũng nhờ

vậy, chúng ta ngày nay mai mắn được thưởng thức vô số những tác phẩm về rồng, thơ văn về rồng và những công trình kiến trúc nghệ thuật có những con rồngvới những đường nét kiến tạo tuyệt mỹ nhiều nơi ở Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ, Triều Tiên và Việt Nam v.v....

Con Rồng Hydra

Theo sử liệu của của nhiều nền văn minh trên thế giới, như thời cổ Ai Cập, thời cổ Hy-Lạp và La-Mả thì họ cũng có nói đến con rồng (dragon) trong cuộc sống của họ: văn hóa nghệ thuật, hội họa, điêu khắc v.v... Nhưng hình dáng con rồng của họ và cách suy nghĩ về rồng của họ có phần nào khác với con rồng ở Phương Đông của chúng ta. Ngoài hình dáng hung tợn to lớn, con rồng của họ thường đem đến cho mọi người rất nhiều nỗi kinh sợ bị chúng tấn công. Con rồng của Tây Phương thường có các diểm tương đồng căn bản như sau: đầu có hình mỏ của chim ưng, thân mình rắn mảng xà, da cá sấu, có bốn chân sư tử, đuôi con trăn, bờm lạc đà v.v... Chúng có một đầu hay nhiều đầu; đặc biệt đầu của chúng có thể mọc trở lại được, như con Hydra trong chuyện thần thoại Conan của xứ Hy-Lạp. Người Tây-phương khi nói đến rồng, họ muốn nói ngay đến khía cạnh trong tánh chất mạnh bạo của con người hay loài vật không được hiền từ thuần thục, họ còn ám chỉ loài vật giống cái có hình dáng xấu và hung ác. Nếu chúng ta để ý một chút, trong van hóa chủa người Anh và của người Pháp đề có dùng chung một danh từ “con rồng” là “dragon”. Nhưng riêng van hóa Pháp khi nói đến

Đặc San Trà Vinh Nhâm Thìn – 2012 trang 10

“dragon” thì họ còn ám chỉ cho người đàn bà hay ghen tuông và độc ác. Hầu hết người dân Tây-phương đều e ngại tiếng “female dragon” tức là con rồng cái, khi phải tiếp xúc xã giao với phái nử, họ rất ngại nói về “rồng” hay “dragon”. Sự khác biệt về hình dáng và cá tính con rồng giửa Đông phương và Tây phương hiện rỏ nét, khi ta biết rằng con rồng Đông phương luôn luôn là biểu tượng dũng mãnh, uy quyền của các vua chúa, cộng thêm nét sáng tạo nghệ thuật, nên khi trông một con rồng Đông phương ngoài tính chất uy và dũng trong hình dáng, nó còn có dáng dấp sáng tạo nghệ thuật đẹp mắt vui tươi, bởi thế mà người Á Đông mới có tục lệ múa rồng vào đầu năm mới. Hình bóng con rồng Á Đông cũng luôn hiện diện ở nơi cung điện vua chúa thời xưa, bởi rồng có sức mạnh vô địch, nhà vua tự nhận là mình thay trời trị dân nên, vua cũng có uy quyền bao la vô địch trong thiên hạ. Hình bóng rồng Á Đông còn xuất hiện ở các nơi lăng tẩm các bậc đế vương, hay các nơi tôn nghiêm thờ phượng và trên mái đình chùa lăng miếu...Hình dáng con rồng nầy còn tượng trưng cho nét cao sang quyền uy, cộng thêm vào tính chất nghệ thuật tinh vi làm cho con rồng Á Đông tạo nên nét quyến rủ độc đáo và tưởng chừng như mọi vật đều phủ phục dưới chân rồng, ở bất cứ nơi nào có rồng xuất hiện. Ngoài tính chất nghệ thuật văn hóa, rồng là con vật linh thiêng, vì rồng đứng đầu trong nhóm tứ linh của Việt Nam: long, lân, quy, phụng. Người Việt mình coi rồng là thần linh, là chủ nguồn nước, hiện thân cùa hạnh phúc và nông nghiệp. Rồng cũng gắn liền với Phật giáo, rồng là con thú hung dử; đã qui y theo Phật, nhưng tánh hung dử vẫn còn hay khuấy động. Trong dân gian, rồng là biểu tượng học vị tiến sĩ, với hình tượng “cá vượt vũ môn”; trong khi cọp tượng trưng cho học vị cử nhân (khi bảng hổ dề danh). Ngoài những chuyện rồng có địa vị cao quí trong văn hóa, nghệ thuật và phong tục của nước ta từ xa xưa. Về phương diện lịch sử, rồng còn chiếm vị trí vô cùng quan trọng với dân Việt. Rồng được liệt vào ngôi vị thủy tổ của dân tộc Việt Nam, bởi dân Việt Nam là nòi giống Rồng Tiên, do sử tích vua Hùng Vương thứ nhất là con trai của Lạc Long Quân, thuộc dòng dõi Rồng, và bà Âu Cơ, thuộc dòng dõi Tiên. Các vua Hùng đã mở đầu trang sử đầu tiên cho dân tộc Việt ở Phong Châu (Văn Lang) cùng với các bộ tộc của Bách Việt khác ngự trị cả vùng phía nam sông Dương Tư của nước Trung Hoa một thời rất lâu. Các nhóm Bách Việt

khác vì quyền lợi ích kỷ cá nhân mà tiêu diệt lẫn nhau, hay đã bị đồng hóa vào Hán tộc, một dân tộc Hán đầy hiếu chiến và luôn có tham vọng chinh phục các lâng bang. Ngày nay chỉ có dân tộc Việt Nam thuộc giống Bách Việt duy nhất của giòng dõi của Rồng Tiên còn sót lại. Tổ tiên chúng ta đã dày công khó nhọc dựng nên mảnh giang sơn cẩm tú nầy, do đó chúng ta có bổn phận phải giữ gìn và phaỉ bảo tồn cho sự vẹn toàn độc lập cho quốc gia và dân tộc, chúng ta phải luôn tự hào và hảnh diện với cái tư chất Rồng Tiên để không phản bội công lao của các đấng tiền nhân, và chúng ta phải bảo toàn uy danh đất Tổ, phải phát huy tinh thần tự do dân chủ, tạo đoàn kết dân tộc để mưu cầu được sinh tồn và cũng để làm rạng danh là cháu con của Lạc Long.

Hình dáng rồng luôn được các vua chúa thời phong kiến ở Á Châu quí trọng, trong đó có các vua của Việt Nam ta, cũng vì muốn độc quyền chiếm giữ con rồng làm vật riêng tư cho mình, nên đã có nhiều ông vua làm điều rất ư tàn ác bách hại dân lành, như đời U Vương, Trụ Vương bên Trung Hoa, và vua Lê Long Đỉnh trong thời Tiền Lê trong lịch sử Việt Nam. Người ta lại còn coi rồng là một trong tứ linh, là một trong bốn con vật linh thiêng trong đời sống, nên luôn đặt để nó nơi tôn nghiêm sùng kính, và để thể hiện lòng sùng kính ấy, tất cả những gì liên quan đến “Rồng”, chỉ có nhà vua mới có quyền dùng hình dáng rồng làm vật trang trí riêng cho vua, nơi cung vua hay nơi thờ phụng mà thôi. Để tránh điều húy kỵ với thần linh ấy, nên tất cả những gì liên quan đến rồng đều gọi lá “Long” khỏi phạm lỗi “húy kỵ” khi gọi tên với “bề trên” như: râu rồng được gọi là “long tu”; miệng rồng được gọi là “hàm long”; mắt rồng được gọi là “long nhản”; mình rồng đươc gọi là “long thân”; đuôi rồng được gọi là “long vỉ”bay thì gọi là

Đặc San Trà Vinh Nhâm Thìn – 2012 trang 11

“phi long”; rồng đáp xuống được gọi là “hạ long” v.v... Cũng cùng lý do ấy, mà non sông hoa gấm nước ta có tên “Vịnh Hạ Long”, nơi “Rồng Đáp” với hơn bốn ngàn hòn đảo đá vôi lớn nhỏ kết thành chuổi trùng điệp trên Vịnh Bắc Phần, là một trong những thắng cảnh đang được Liên Hiệp Quốc bầu chọn là một trong bảy kỳ quan mới nhất trên thế giới hiện nay, một phần thưởng mà bà mẹ thiên nhiên trên địa cầu đã đặc biệt ban thưởng cho dân tộc ta. Dân tộc ta cũng vui mừng với tên “Thăng Long” khi vua Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long, tên mới của thành Đại La, kỷ niệm chấm dứt giai đoạn hơn một ngàn năm đô hộ của Tàu. Cũng tạo cơ hội cho “Con Cháu Lạc Long” có cơ hội sống còn để sánh vai cùng các nước trên thế giới.

Rồng còn là chủ vận mệnh của dất nước Việt Nam, khi tên thài thú Cao Biền, thời nhà Đường, người giỏi về bói toán, hắn biết nước ta có nhiều “Long Mạch” của các chân mạng đế vương có thể lèo lái nước Việt Nam ta hùng mạnh lấn lướt hơn Tàu, nên mỗi đêm hắn thường làm phép trù ếm các “Long Mạch” của nước ta, để dân ta mãi mãi là nô lệ của nước Tàu... Người Việt ta vẫn xem con rồng là chủ vận mạng đất nước để bảo vệ và che chở cho người dân Việt Nam, khi con rồng ngự trị trên cả non sông: từ Vịnh Hạ Long, nơi đuôi rồng đáp xuống, thân rồng từ Bắc Phần của nước Việt, nối kết chuổi dài núi Trường Sơn của Trung Phần, và đầu rồng là Nam Phần, với chín con rồng hội tụ phun nước với chín cửa sông đổ ra biển Đông, có những trái châu sáng chói trong không gian ngày đêm đó là ngọn đuốc thấp sáng từ các giếng dầu Đại Hùng và những túi “gas” thiên nhiên vừa khai quật lên, túi gas đầu tiên nầy được Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa thắp sáng lên ở Nghỉa Trang Quân Đội Quốc Gia

tại Thủ Đức, để sưởi ấm các anh linh chiến sĩ đã hy sinh thân mình cho Tổ Quốc Việt Nam mến yêu. Vua Gia Long và những Địa Danh Ngài đi qua ở Trà Vinh: Nhân khi nói đến chữ “Long” chúng ta là người Trà Vinh không thể không nhắc đến vua Gia Long khi còn là Nguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi rất ngặc nghèo, Ngài cùng đoàn tùy tùng trải qua trong những lúc thập tử nhứt sinh để trốn thoát quân Tây Sơn. Sau khi đoàn quân cầu viện từ Thái Lan với hơn hai mươi ngàn quân và 200 chiến thuyền bị quân Tây Sơn tiêu diệt ở rạch Soài Mút, Rạch Gầm thuộc tỉnh Mỷ Tho. Đoàn tùy tùng của Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi quá nguy khốn, nhưng còn được mai mắn thoát qua sông Tiền vào đất Vĩnh Long, nhưng lại bị quân Tây Sơn chận từ phía trên nguồn sông Tiền và đường ra biển, nên Ngài cùng đoàn tùy tùng tại Vĩnh Long nhắm hướng đi về Trà Vinh, tìm đường ra biển hay đến sông Hậu để ra Côn Sơn (Côn Lôn) thoát thân. Vào thời ấy, đường đi vào thị xã Trà Vinh rất hoang vu, phải băng rửng từ Vũng Liêm để đến thi xã Trà Vinh (Tên củ gọi là Tầm Phong Long của người Cao Miên thời ấy). Sau khi Nguyễn Ánh lên làm vua hiệu là Gia Long, dân địa phương Trà Vinh thời ấy mới đặt tên vùng vua càng mà đi là quận “Càng Long”. Có người cho là dân Trà Vinh dùng chữ “Càng Long”, ho cho là sai chánh tả. Ý họ muốn nói đến vua “Càn Long” đời nhà Thanh bên Trung Hoa (ý nghỉa Càn Long của Trung Hoa là Con Rồng Trung Hoa muốn làm viêc kềm tỏa càn khôn của vủ trụ, hay ông vua nhà Thanh ở mạng cung Càn), con thật ra chữ Càng Long ở Trà Vinh là nơi kỷ niệm vua Gia Long càng trong rừng dể thoat thân. Chẳng những thế thôi, mà Trà Vinh còn đặt tên vùng đất nơi vua Gia Long chạy thoát ra Côn Sơn an toàn là quận Long Toàn (Vua được bình an). Khi Nguyễn Ánh biết tin quân Tây Sơn không đuổi theo nữa, Nguyễn Huệ kéo vể Phú Xuân (Huế), nên đoàn trở vào đất liền cũng tai Trà Vinh, và nơi nầy được đặt tên là xã Long Khánh (vua dựng lại cơ nghiệp). Vì Trà Vinh là vùng đất thắp gần biển, nước sông thường bị nhiểm mặn, nên Ngài cho đào cái giếng lấy nước ngọt mà dùng, hiện giờ vẫn còn cái giếng cạn “Ngự Ao” ở tại đây, và cũng tai Long Toàn nầy có cái miếu thờ một bà phi tần bỏ mình tại đây gọi là miếu “Mệ” theo âm của người miền Trung, không biết bà phi tần nầy

Đặc San Trà Vinh Nhâm Thìn – 2012 trang 12

có được ghi tên gia phả của hoàng triều Nguyễn Phước hay không, mà suốt 13 triều vua nhà Nguyễn chả có ai đến viêng, mà chỉ có dân địa phương, thắp nhang cầu phước mà thôi. Tiếc thay những địa danh vùng Long Toàn nầy sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã bị xóa sổ với những tên mới quân Duyên Hải, một tên không còn dính dáng gì những địa danh để kỷ niệm vua Gia Long đã có một lần đi qua Trà Vinh. Nói đến rồng trong văn chương bình dân nước ta được thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau, chúng tôi xin nêu những nét phổ thông trong cuộc sống hằng ngày trên phương diện xã giao như: “Rồng đến viếng nhà tôm” để nói lên bình dị hòa đồng trong cuộc sống. Nhưng có lúc dùng Rồng đê diển tả một khía cạnh trong đời sống quá xô bồ của con ngươi với con người không ai tìm được an vui hạnh phúc khi bản ngả của ai cũng quá to lớn:“Rồng vàng tắm nước ao tù, ngưởi khôn ở với người ngu bực mình”. Rồng còn được dùng đời sống dân gian khi nói đên vận hạn may ruổi, khoa thi, hay đức hạnh con người để răn đời và khuyên con người sống cho nhân ái phải đạo làm người mà đối đải thật lòng với nhau: “Làm trai lấy đươc vợ hiền Như cầm dồng tiền mua được của ngon. Phận gái lấy dược chồng khôn, Xem bằng cá vượt vũ môn hóa rồng” “Trong lưng chẳng có một đồng, Lời nói như rồng cũng chẳng ai nghe”. Rồng còn có ý nghỉa về gia thế vọng tộc hay quyền uy danh giá của con người nhu con vua thì được làm vua, con sải ở chùa phải quét lá đa: “Trứng rồng lại nở ra rồng, Liu điu lại hóa ra dòng liu điu”.

Những năm Thìn đáng ghi nhớ Đối với dân Việt dù sống nơi nào đi nữa, ai nấy dều biết thành ngữ “Năm Thìn Bão Lụt”, trước tiên mọi người đều cho là câu chuyện gì đó vào thuở xa xưa. Thứ hai là vì tâm lý sợ có bão lụt mỗi khi có năm thìn đến. Nhưng thực ra người ta lo sợ bởi ảnh hưởng trận bão khủng khiếp ở Nam Phần Việt Nam năm Giáp Thìn vào ngày 01 tháng 5 năm 1904, bởi tâm bão di ngang qua Vũng Tàu Sài Gòn rồi quét qua Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng rồi đổi hướng theo sông Hậu, sau đó tiến dần đến Nam Vang và bão tan dần. Nhưng thật ra năm Giáp Thìn 1904 cũng là năm có nhiều trận bão cho Việt Nam. Hậu quả của trận bão năm Giáp

Thìn gieo những tai hại bất ngờ với người dân miền Nam, vì không có kinh nghiệm chống giông bão, nên sau trận bão nầy mới có những câu hát vè: “Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc, Gió nào độc cho bằng gió Gò Công. . .”

Tử Vi người tuổi Thìn Người tuổi thìn có lối sống nội tâm. Họ có óc tổ chức và tài năng lảnh đạo. Người tuổi Thìn rất thật lòng ngay thẳng, trực tính. Cuộc đời họ có rất nhiều thăng trầm vì va chạm do trực tính mà ra. Nhược điểm của người tuổi thìn là người rất nhiều cao vọng. Tuy nhiên họ rất có khả năng làm hấp dẫn làm chú ý kẻ khác cùng hợp tác cho sự thành công cho người tưởi thìn.

Thần Long

Nhân dịp dầu xuân năm Nhân Thìn, chúng ta cầu ngụyện cho khắp nơi được hòa bình an lạc, nhất là nước Việt sớm thoát đươc chế độ cộng sản độc tài tham tàn, để dân Việt có cơ hội thăng tiến cùng thế giới, người người đem hết khả năng ra thi thố hết tài đức của ngưởi trai đất Việt, làm cho vẽ vang giống nòi Rồng Tiên ở khắp năm châu. Và Kính chúc quí đồng hương khắp nơi năm mới Phúc Lộc Thọ tràn đầy, sức khỏe dồi dào, nhà nhà an vui hạnh phúc.

Lucky Nguyễn

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 13

Little Saigon – ngày 13 tháng 2 năm 2011 (Nhằm ngày 11 Tháng Giêng Năm Tân Mão)

Bài và Hình của Nguyễn Văn Nhựt

Qua nhiều ngày mưa bảo thật lớn, tuyết rơi thật nhiều khắp các Tiểu Bang trên nước Mỹ. Tại California thí khác. Ban đêm tiết trời hơi se lạnh, nhưng ban ngày thì nắng ấm, thật đúng cái tên gọi “Nắng Ấm Cali”. Hôm nay khí hậu thật ấm áp rất thích họp cho các buổi họp mặt Mừng Xuân của nhiều Hội Đoàn, Đòan Thể. Dù rằng nhiều Hội Đoàn khác cùng tổ chức trùng ngày và giờ với Hội Trà Vinh, nhưng mới 9 giờ 30 sáng đã thấy nhiều đồng hương ở xa đã đến phụ với Ban Tổ Chức treo banners, sắp xếp bàn ghế, kể cả việc chưng dọn bàn thờ tổ quốc. Điều nầy chứng tỏ đồng hương và Ban Chấp Hành của Hội cùng một lòng, đoàn kết thật chặt chẻ.

Ban Tổ Chức Hội Xuân Trà Vinh năm Tân Mão

Được biết Hội Ái Hữu Trà Vinh rất vững mạnh với 725 hội viên chánh thức trên toàn thế

giới thường xuyên liên lạc và cập nhựt hóa địa chỉ mỗi khi thay đổi. Có lẽ cũng vì quá cận Tết, nhiều

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 14

đồng hương về quê VN ăn Tết chưa trở lại kịp trở lại nên chỉ có khỏan 190 đồng hương hiện diện hôm nay taị Nhà hang Paracel, địa chỉ số 15583 Brookhurst St. Westminster, CA 92683.

Bắt đầu khai mạc là những hồi trống dồn dập hòa với tiếng pháo vui tươi của đoàn lân từ ngoài nhà hàng bước vào. Ban Tổ Chức muốn đây là tượng trưng cho Vui Tươi, Hạnh Phúc sẽ đem lại cho mọi người. Đoàn lân 3 màu nói lên về “Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân Hoà”, 3 yếu tố thành công cho mọi tổ chức và tất cả mọi người.

Ô. Nguyễn Văn Vui, Trưởng Ban Tổ Chức tuyên bố khai mạc và đọc sơ lược chương trình mừng Xuân Tân Mão của Hội Aí Hữu Trà Vinh.

Sau phần nghi thức khai mạc, chào cờ Mỹ Việt là lễ niệm hương đầu năm. Ông Hội Trưởng và 3 vị bô lảo với quốc phục chỉnh tề trịnh trọng lên bàn thờ khấn vái trong khi các đồng hương cùng đứng lên một cách trang nghiêm, càng làm tăng thêm sự trịnh trọng của buổi lễ.

Sau phần chúc xuân bằng tiếng Việt của Ô. Hội Trưởng, Ô. Trần Sinh đại diện Hội chúc Tết bằng tiếng Hoa và Ô. Thomas Trung chúc Tết bằng tiếng Khmer. Tất cả phối họp nhịp nhàng làm cho người hiện diện cảm thấy sự đoàn kết thương yêu nhau của ba sắc tộc chánh ở xứ sở chùa tháp nầy.

Liên tục chương trình là phần Chúc Thọ cho các vị cao niên. Năm ngoái, Ban Tổ Chức chọn những người hơn 75 tuổi, năm nay tăng lên là 77, vậy mà tổng số lên tới 19 nguời. Các cụ được các thiếu nữ trẻ, thật xinh của thế hệ thứ hai, thứ ba lên trao tặng bông hồng và Bằng Chúc Thọ được in bằng loại giấy thật đẹp.

Tiếp theo các em nhỏ dưới 12 tuổi cũng được các cụ lì xì. Không khí thật trịnh trọng và vui tươi với thân nhân, ai ai cũng muốn có một hoặc nhiều hình để kỷ niệm trong giờ phút đặc biệt nầy,

nên những tia chớp của máy chụp hình liên tục sáng lên chiếu về các cụ, các em nhỏ.

Mở đầu phần văn nghệ là bản “Ly Rượu Mừng” của Phạm Đình Chương do Ban Tổ Chức và ban văn nghệ Ngọc Khánh họp ca. Đoàn lân lại múa biểu diển và chào mừng đồng hương lần thứ hai. Lần thứ hai nầy đoàn lân đi từng bàn, từng bàn để chúc Tết, để nhận lì xì để đón nhận những tràng pháo tay lớn hơn pháo Têt. Được biết đoàn lân của Gia Đình Phật Tử Kỳ Viên đã đóng góp giúp vui cho Hội Aí Hữu Trà Vinh liên tục 7 năm qua nên đồng hương rất quý mến và ngưởng mộ.

Nói đến Trà Vinh, người ta nghỉ ngay là xứ chùa tháp, không một tỉnh nào ở VN lại có nhiều chùa Khmer hơn Trà Vinh. Hơn 300 chùa là nơi tập trung các buổi sinh hoạt, văn nghệ. Vì vậy vũ điệu “Lam Thôn” không thể thiếu trong các buổi sinh hoạt nào. Hôm nay vũ điệu Lam Thôn với áo dài VN, bộ Kimono Nhật Bản của các cô hòa với các cụ trong bộ quốc phục VN và đồ Weston họp nhau thật ly kỳ sinh động. Liên tục văn nghệ là màn hoạt cảnh “Hoa Anh Đào” do đoàn Vũ Ngọc Khánh phụ trách, thật công phu, y phục thật mới, đẹp theo đúng kiểu của xứ Phù Tang càng làm cho người ngưởng mộ thêm thích thú. Bao nhiêu ống kính lại tập trung vào đoàn vũ. Những tràng pháo tay liên tục, thật to tưởng chừng như bể cả nhà hàng Paracel.

Ca sĩ Hoài Nhơn, Thu Thuỷ, Khánh ngọc và các ca sĩ của Tỉnh Nhà liên tục trình diển xen kẻ với các phần quà xổ số lấy hên đầu năm, vừa nhăm nhi một tí rượu với thực đơn của nhà hàng vừa trò chuyện với bạn bè, người thân đã bao ngày mới gặp lại, vừa chúc Tết cho nhau những lời thật tốt lành cho năm mới, thật không gì hạnh phúc bằng những giây phút nầy. Ngoài xổ số, Hội còn gây quỷ bằng cách bán đấu gía chai rượu Cardon Blue

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 15

mà xuất xứ từ buổi tiệc Mừng Xuân năm ngoái. Chủ nhân, anh Huỳnh Kim Tiến cố ý để lại, cố ý giúp vui cho mọi người hiện diện hôm nay. Cuộc đấu giá thật hào hứng, sôi nổi đem về cho Hội $390 tăng thêm cho ngân quỷ. Cuối cùng Anh Chị Lê Trung Trinh từ Texas qua là sở hữu chủ. Mọi người vui vẻ nói rằng: “Mình ở Nam Cali là xứ sở vừa hiếu khách vừa nhường khách. Năm rồi mình nhường quyển Đặc San số 1 với gía $400.00 thì năm nay mình cũng nhường cho khách chai rượu đầu năm cho vui vẻ cả làng”

Trên nét mặt mọi người đều vui tươi hứa hẹn một năm mới được tràn đầy An Khang, Hạnh Phúc.

Văn nghệ vẫn còn đang tiếp diển, ca sĩ do Hội mướn chưa kịp lên hát thì đã đến giờ chia tay. Thật là lưu luyến, phải hẹn lại ngày gặp nhau trong dịp hè. Năm nay Hội dự định sẽ tổ chức Họp Mặt Hè tại Mile Square Park vào ngày Chủ Nhựt 17 tháng 7 DL- 2011.

Nguyễn Văn Nhựt

Nguyện Cầu Quốc Thái Dân An

Chúc Thọ Qúi Bô Lão

Quang cảnh chào cờ trước khi nhập tiệc

Văn nghệ mừng xuân

Đồng hương phương xa về hội ngộ

Nghị Viên Fountain Valley Michael Võ chúc tết

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 16

Vĩnh Trường

“Sầu hận của tim ta ai biết được, Người tươi vui ta mãi mãi câm hờn”

Chế Lan Viên

Một Vương quốc hùng mạnh và có một nền văn minh rực rỡ một thời kéo dài khoảng 16 thế kỷ đã ảnh hưởng rất lớn đến nền văn hoá, ngôn ngữ, kiến trúc, phong tục của người Việt Nam không ít đó là Vương Quốc Chămpa hay Chiêm Thành.

Rất khó xác định mốc thời gian để biết vương quốc cổ Chămpa đã được hình thành từ hồi nào. Theo các nhà khảo cổ, Chămpa hiện hữu trước khi tổ chức chính quyền của họ, có thể đã thành hình cùng lúc với sự xuất hiện của các Lạc hầu, Lạc tướng trên lưu vực sông Hồng và sông Mã của nước Văn Lang, thời Hùng Vương.

Theo các Sử liệu cổ và các bia ký ghi nhận vương quốc Chiêm Thành chính thức xuất hiện vào năm 192 khi quốc gia Lâm Ấp ra đời ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân Hán đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công.

Thật ra từ trước vương quốc này đã có nhiều tên: Hồ Tôn Tinh, Tượng Lâm… Sau này lần lược được đổi lại với các tên Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (Campapura), Phan Rang (Panduranga).

Ảnh hưởng từ nước láng giềng Phù Nam ở phía Tây Nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ. Các học giả đã xác định thời điểm bắt đầu của Chăm Pa là thế kỷ thứ 4 Công nguyên, khi quá trình Ấn hóa diễn ra. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt đầu có các văn bia mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm.

Sách Lĩnh Nam Chích Quái viết: "Xưa kia bên ngoài lãnh thổ Âu Lạc có một vương quốc mang tên Diệu Nghiêm [có thể là Phù Nam]. Vị vua của vương quốc này có tên là Tràng Minh, hiệu Quỷ Vương [Dasanana] có mười đầu. Phía bắc vương quốc này có một vương quốc khác tên Hồ Tôn Tinh [quốc gia của người khỉ vì đa số

người dân sống trên cây, nhà sàn để tránh thú dữ] do vua Dasaratha cai trị. Hoàng tử Chung Tư [Rama], người kế vị vua Dasaratha, có một người vợ là công chúa Bạch Tinh [Sita]. Công chúa Bạch Tinh có một sắc đẹp tuyệt trần không giống người phàm. Quỷ Vương, mê hồn trước sắc đẹp của Bạch Tinh, mang binh sang đánh nước Hồ Tôn Tinh cướp công chúa về nước. Hoàng tử Chung Tư, quá căm giận, dẫn đầu một đoàn hầu binh xẻ núi băng biển tiến vào vương quốc Diệu Nghiêm, giết Quỷ Vương, đưa công chúa Bạch Tinh về".

Theo nhận xét của học giả Huber (La Légende du Ramayana en Annam, Etudes indochinoises), Hồ Tôn Tinh có thể là vương quốc Champa cổ. Những quốc gia chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ thời đó đều có sự tích giống nhau, tại Indonésia trong các đền thờ Bà La Môn lớn đều khắc chuyện thần thoại này trên tường đá. Chuyện Quỷ Vương có mười đầu chỉ là cách mô tả thô thiển ngai vàng của các vị vua trong thần thoại Ấn Độ và Phù Nam thường có hình con rắn hổ mang [naja] mười đầu.

Về đất Tượng Lâm, theo các sử liệu đó là phần đất ở vùng phía Nam quận Nhật Nam xưa kia, dưới quyền quản trị hành chánh của Giao Châu thời Bắc thuộc, ngày nay là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định (có tài liệu ghi đến cửa Đại Lãnh, Phú Yên). Những nhà khảo cổ phương Tây cho rằng Tượng Lâm có thể là phần đất chạy dọc theo bờ biển, từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân, nằm trong lãnh thổ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên, gọi chung là Thanh Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên, tức là lãnh thổ Tượng Lâm bao gồm: Indrapura (Bình Trị Thiên), Amavarati (Quảng Nam) và Vijaya (Bình Định), sau này gọi chung là Bắc Chiêm Thành.

Vương quốc Chămpa (hay là Chăm) là một quốc gia độc lập, tồn tại liên tục từ năm 192 đến năm 1832 qua các tên gọi Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành và cuối cùng là Panduranga-Chăm Pa trên phần đất nay thuộc miền Trung Việt Nam. Cương vực của Chăm Pa lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy núi Hoành Sơn ở phía Bắc cho đến Bình

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 17

Thuận ở phía Nam và từ biển Đông cho đến tận miền núi phía Tây của nước Lào ngày nay. Văn hóa Chăm Pa chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Campuchia và Java đã từng phát triển rực rỡ với hai nền văn hóa Đồng Dương và Mỹ Sơn mà nhiều di tích đền tháp và các công trình điêu khắc đá, đặc biệt là các hiện vật có hình linga vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay cho thấy ảnh hưởng của Ấn giáo và Phật giáo trên vương quốc Chăm Pa xưa.

Thời kỳ hưng thịnh nhất vào thế kỷ thứ 9 và 10 và sau đó dần dần suy yếu dưới sức ép Nam tiến của các vương triều Đại Việt từ phía Bắc và các cuộc chiến tranh với Đế quốc Khmer. Năm 1471, Chăm Pa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ miền Bắc. Phần lãnh thổ còn lại của Chăm Pa tiếp tục bị các chúa Nguyễn thôn tính lần hồi và đến năm 1832 toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam.

Lịch sử Vương quốc Chăm Pa là một quốc gia liên bang gồm nhiều sắc tộc mà tộc người Chăm chiếm đa số và một số sắc tộc nhỏ hơn ở vùng núi Tây Nguyên. Chăm Pa có thể được kết hợp từ bốn tiểu quốc là Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Mỗi Tiểu quốc đều có thể chế tự trị và có quyền ly khai khỏi liên bang để xây dựng quốc gia riêng độc lập.

Amaravati: Nay là thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi. Địa khu này có hai trung tâm là thành phố Indrapura nằm ở khu vực Đồng Dương, thuộc địa phận huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam và thành phố Simhapura nằm ở Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam ngày nay. Và thánh địa Mỹ Sơn nằm ở cách Trà Kiệu khoảng 25km về hướng Tây Nam, nơi vẫn còn nhiều di tích đền tháp của người Chăm. Địa khu này lúc mở rộng nhất bao gồm các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, và Thừa Thiên–Huế ngày nay.

Vijaya: Thủ phủ cũng là thành phố cùng tên Vijaya mà người Việt gọi là Chà Bàn (thời Lê) nhiều sách sử Việt viết nhầm là Đồ Bàn nằm ở gần Qui Nhơn thuộc tỉnh Bình Định. Địa khu này là toàn bộ khu vực tỉnh Bình Định ngày nay.

Kauthara: Thủ phủ là thành phố Kauthara, nay là Nha Trang thuộc tỉnh Khánh Hòa. Địa khu này bao gồm hai tỉnh mà ngày nay là Khánh Hòa và Phú Yên.

Panduranga: Thủ phủ là thành phố Panduranga ngày nay là thị xã Phan Rang thuộc tỉnh Ninh Thuận. Địa khu này bao gồm hai tỉnh mà ngày nay là Ninh Thuận và Bình Thuận.

Panduranga là lãnh thổ Chăm Pa cuối cùng bị Đại Việt sáp nhập. Dưới thời các chúa Nguyễn cũng như đầu đời Nguyễn được gọi là Phủ Thuận Thành.

Vương Quốc Chăm 192 – 1832

Vương quốc Chăm Pa đã trải qua nhiều triều đại với nhiều lần dời đô từ Bắc vào Nam và ngược lại. Dân tộc chính của Chăm Pa bao gồm hai bộ tộc chính là bộ tộc Dừa (Narikelavamsa) và bộ tộc Cau (Kramukavamsa). Hai bộ tộc này vừa liên minh với nhau, vừa cạnh tranh quyền đứng đầu Vương quốc Chăm Pa.

Bộ tộc Dừa sống ở Amaravati và Vijaya (Bắc Chăm) trong khi bộ tộc Cau sống ở Kauthara và Pandaranga (Nam Chăm). Hai bộ tộc có những cách sinh hoạt và trang phục khác nhau và có nhiều lợi ích xung đột dẫn đến tranh chấp thậm chí chiến tranh. Nhưng trong lịch sử vương quốc Chăm Pa các mối xung đột này thường được giải quyết để duy trì sự thống nhất của đất nước thông qua bằng hôn nhân.

Bên cạnh người Chăm, cư dân vương quốc Chăm Pa xưa có cả các tộc người thiểu số gốc Nam Đảo và Mon-Khmer và ở phía Bắc Chăm Pa còn có người Việt.

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 18

Thời tiền sử Người dân Chăm Pa có nguồn gốc

Malayo-Polynesian di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ thứ 1 và thứ 2 trước Công nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở Sarawak, Đông Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi nền văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chính yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian).

Lâm Ấp Theo sử liệu nhà Hán, vương quốc Chăm

Pa đã được biết đến với sự ra đời của Vương triều Sinhapura hay còn gọi là Vương quốc Lâm Ấp mà vị vua đầu tiên là Khu Liên, bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Quảng Nam ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Năm 192, dưới thời Hán mạt, nhân lúc loạn lạc một viên Công Tào ở quận Tượng Lâm tên là Khu Liên nổi lên giết quan huyện lệnh và tự xưng làm vua thành lập nước Lâm Ấp. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân nhà Hán đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công.

Vị vua kế tiếp được mô tả trong văn bia là Bhadravarman, cai trị từ năm 349 đến 361 ở kinh đô Kandapurpura thuộc Tỉnh Quảng Nam ngày nay. Tại thánh địa Mỹ Sơn, vua Bhadravarman đã xây dựng nên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara, cái tên là sự kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần Shiva, vị thần của các thần trong Ấn Độ giáo. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn trong các thế kỷ sau đó.

Vào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang nhà Đường và xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc. Các tài liệu Trung Hoa ghi nhận cái chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756 sau Công nguyên. Vào cuối thời kỳ này, sử sách Trung Hoa vẫn ghi Chăm Pa là Lâm Âp, tuy nhiên tên Lâm Ấp đã được người Chăm sử dụng muộn nhất là năm 629.

Hoàn Vương Vào năm 757, trung tâm chính trị của

Chăm Pa đã chuyển từ Trà Kiệu xuống khu vực Panduranga và Kauthara, với kinh đô Virapura gần

Phan Rang ngày nay và thánh địa tôn giáo ở quanh quần thể đền tháp là Tháp Po Nagar ở Nha Trang ngày nay, nơi để thờ nữ thần đất Yan Po Nagar. Năm 774, người Java đã phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po Nagar, và mang đi tượng thần Shiva. Vua Chăm là Satyavarman đã đuổi theo quân giặc và đánh bại chúng trong một trận thủy chiến. Năm 781, Satyavarman đã dựng bia tại Po Nagar, tuyên bố đã chiến thắng và kiểm soát toàn bộ khu vực và đã dựng lại đền. Năm 787, người Java tấn công kinh đô Virapura và đốt phá đền thờ Shiva ở gần Panduranga một lần nữa.

Chiêm Thành Năm 875, vua Indravarman II đã xây dựng

nên triều đại mới ở Indrapura (làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay). Indravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để thờ bồ tát Lokesvara. Các vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ thứ 9 và thứ 10. Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Chăm Pa kết thúc năm 925, bắt đầu nhường bước với sự phục hồi của đạo thờ thần Siva, với sự chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở về Siva giáo vào khoảng thế kỷ thứ

10, trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở về Mỹ Sơn, đây là thời kỳ văn minh Chăm Pa đạt đến đỉnh cao.

Từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 15, lãnh thổ của vương quốc Chăm Pa có nhiều biến động về biên giới phía Bắc với

Đại Việt. Lãnh thổ Chăm Pa ban đầu là vùng mà ngày nay bao gồm các tỉnh từ Quảng Bình, Quảng Trị cho đến Ninh Thuận, Bình Thuận.

Năm 1069, vua Rudravarman (Chế Củ) của Chăm Pa đã nhượng ba châu Địa Lý (Lệ Ninh, Quảng Bình ngày nay), Ma Linh (Bến Hải, Quảng Trị ngày nay) và Bố Chính (các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình ngày nay) cho vua Lý Thánh Tông của Đại Việt và lãnh thổ Chăm Pa chỉ còn từ Thừa Thiên - Huế ngày nay trở xuống. Đến năm 1306, vua Jayasimhavarman III (Chế Mân) nhượng hai châu

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 19

Ô, Lý cho nhà Trần. Nhà Trần đổi hai châu này thành hai châu Thuận và châu Hóa nay là vùng từ Thừa Thiên – Huế cho đến Đà Nẵng. Đến năm 1471, vua Lê Thánh Tông sau khi đánh bại quân Chiêm và sáp nhập phần lớn lãnh thổ Chiêm vào Đại Việt và lãnh thổ Chiêm Thành chỉ còn bao gồm các tỉnh Phú Yên – Khánh Hòa và Ninh Thuận – Bình Thuận ngày nay.

Về phía Tây, tuy lãnh thổ Chăm Pa bao gồm cả Tây Nguyên và đôi khi còn mở rộng sang tận đất Lào ngày nay, nhưng người Chăm vẫn duy trì lối sống của những người đi biển với các hoạt động thương mại đường biển, và chỉ định cư ở khu vực đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông tách phần đất thuộc Tây Nguyên ngày nay thành nước Nam Bàn và từ đây miền đất này không còn thuộc cương vực của Chăm Pa.

Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau này chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Chân Lạp ở phía Tây Nam.

Các cuộc chiến tranh với Chân Lạp đã dẫn tới có hai giai đoạn Chăm Pa thuộc sự cai trị của người Khmer.

Một bức phù điêu thế kỷ 12 tại đền Bayon tại Angkor Thom miêu tả chiến tranh giữa Khmer và Chămpa

Lịch sử chiến tranh Khmer -Chiêm Thành: Lịch sử Bắc Chăm Pa (Indrapura và

Vijaya) phát triển đồng thời với vương quốc láng giềng là nền văn minh Angkor của người Khmer nằm ở phía Bắc hồ Tonle Sap trên phần đất mà ngày nay là Kampuchea. Sau khi vương triều Chăm ở Indrapura được thiết lập năm 875 thì chỉ hai năm sau tức năm 877 vua Indravarman I đã thiết lập đế quốc Khmer, và thành lập kinh đô mới

Hariharalaya gần thị xã Roluos của Kampuchea ngày nay

Lịch sử của Chăm Pa và đế quốc Khmer cũng đều phát triển rực rỡ trong thế kỷ 10 đến thế kỷ 12, rồi đều dần suy yếu và tan rã vào thế kỷ thứ 15. Năm 1238, đế quốc Khmer mất miền đất phía tây xung quanh Sukhothai sau một cuộc nổi dậy của người Xiêm. Thành công của cuộc nổi dậy không chỉ mở ra kỷ nguyên độc lập của người Xiêm mà còn báo trước sự tan rã của Angkor năm 1431 sau khi bị người Xiêm từ vương quốc Ayutthaya phá hủy và rồi bị sát nhập vào Sukhothai năm 1376.

Sự suy yếu của Chăm Pa cũng diễn ra đồng thời với Angkor, dưới sức ép từ Đại Việt, và chấm dứt khi kinh thành Vijaya (tức Chà Bàn hay Phật Thệ) bị vua Lê Thành Tông của Đại Việt chinh phục và phá hủy vào năm 1471.

Khmer xâm chiếm Kauthara Năm 944 và 945, quân đội Khmer từ

Angkor đã xâm chiếm khu vực Kauthara (Khánh Hòa Phú Yên ngày nay). Khoảng năm 950, người Khmer đã phá hủy đền Po Nagar và lấy đi tượng nữ thần. Năm 965, nhà vua đã cho xây dựng lại đền thờ Po Nagar và tượng nữ thần để thay thế cho bức tượng đã bị lấy đi.

Khmer xâm chiếm Bắc Chăm Pa Năm 1074, vua Harivarman IV lên ngôi đã

cho phục dựng lại các đền tháp ở Mỹ Sơn và mở ra một thời kỳ thịnh vượng ngắn ngủi. Harivarman thiết lập quan hệ hòa bình với Đại Việt nhưng lại mở ra cuộc chiến với người Khmer của đế chế Angkor. Năm 1080, quân đội Khmer đã tấn công Vijaya và các trung tâm khác ở miền Bắc Chăm Pa. Các đền tháp và tu viện đã bị phá hủy; các di sản văn hóa đã bị lấy đi. Sau những thất bại này, quân Chăm dưới sự chỉ huy của vua Harivarman đã đẩy lùi quân địch, khôi phục lại kinh đô và các đền tháp.

Cùng thời gian đó 1080, một triều đại mới đã ra đời ở cao nguyên Korat trên đất Thái Lan ngày nay đã chiếm ngai vàng Angkor của đế quốc Khmer. Ngay sau đó, các vua của triều đại mới đã tiến hành mở rộng đế quốc. Sau thất bại của các cuộc tấn công Đại Việt năm 1132 và 1137, các vua Angkor đã quay sang Chăm Pa.

Năm 1145, quân đội Khmer dưới sự chỉ huy của vua Suryavarman II, người xây dựng Angkor Wat, đã chiếm Vijaya và phá hủy các đền tháp ở Mỹ Sơn. Vua Khmer sau đó đã tấn công và

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 20

chiếm toàn bộ miền Bắc Chăm Pa. Tuy nhiên, năm 1149, vua Jaya Harivarman, lãnh đạo của tiểu quốc Panduranga ở phía Nam, đã đánh bại quân xâm lược và lên ngôi vua của các vua tại Vijaya. Ông đã dành thời gian trị vị còn lại để đàn áp các cuộc nổi loạn tại Amaravati và Panduranga.

Người Chăm chiếm Angkor Năm 1167, Jaya Indravarman IV (sử Việt gọi ông là Chế Chí) lên ngôi vua Chăm Pa. Tài liệu văn bia mô tả ông dũng cảm, sử dụng thành thạo mọi loại vũ khí, và thông hiểu triết học, thuộc hết các lý lẽ Dharmasutra (một kinh Ấn Độ giáo) và các học thuyết Phật giáo Đại thừa. Sau khi thiết lập hòa bình với Đại Việt năm 1170, vua Jaya Indravarman đã đánh sang Khmer. Năm 1177, một lần nữa quân đội của nhà vua đã bất ngờ tấn công thủ đô Khmer là Yasodharapura từ các thuyền chiến đi ngược sông Mekong đến hồ Tonle Sap ở Khmer. Quân Chăm đã chiếm thủ đô Khmer, giết vua Khmer, và mang về nhiều chiến lợi phẩm.

Phù điêu cuối thế kỷ 12 ở đền Bayon (Angkor) mô tả các thủy binh Chăm Pa đang tấn công quân Khmer.

Vijaya bị người Khmer chinh phục Người Khmer nhanh chóng ủng hộ nhà vua

mới Jayavarman VII người đã đẩy lùi quân Chăm ra khỏi vương quốc Khmer vào năm 1181. Khi Jaya Indravarman IV một lần nữa tấn công Khmer năm 1190, Jayavarman VII đã giao cho một hoàng tử người Chăm là Vidyanandana làm tổng chỉ huy quân Khmer. Vidyanandana đã đánh bại quân xâm lược Chăm và thậm chí tiến lên chiếm Vijaya và bắt sống vua Jaya Indravarman về Angkor.

Sau khi chinh phục Vijaya, vua Khmer chọn người em rể là Hoàng tử In làm vua bù nhìn ở Chăm Pa. Nội chiến nổ ra tại Chăm Pa giữa các

phe phái và cuối cùng Hoàng tử In chiến thắng nhưng lại tuyên bố Chăm Pa độc lập khỏi vương quốc Khmer. Quân Khmer đã cố gắng chiếm lại Chăm Pa nhưng không thành trong suốt những năm 1190. Năm 1203, cuối cùng thì tướng của vua Jayavarman VII cũng chiếm được Vijaya và biến Chăm Pa trở lại thành một tỉnh của Angkor. Chăm Pa hoàn toàn mất độc lập cho đến năm 1220. Sau đó, Vijaya đi vào giai đoạn suy thoái kéo dài hơn hai thế kỷ. Thời kỳ này đi đến kết thúc bởi Đại Việt và chỉ có một gián đoạn ngắn ngủi trong những cố gắng quân sự của vua Che Bonguar.

Lịch sử chiến tranh Đại Việt-Chiêm Thành: Năm 939 sau khi giành độc lập từ tay

người Hán, xây dựng một quốc gia có chủ quyền, Đại Việt bắt đầu có các cuộc chiến tranh với các quốc gia lân bang như Trung Hoa, Chăm Pa, Chân Lạp... trong việc tranh chấp về quyền lợi dân tộc và chủ quyền quốc gia. Chăm Pa là láng giềng phía Nam cũng không ngoại lệ, kết quả là sự thất bại từng bước trước Đại Việt và kết thúc sự tồn tại của mình vào cuối thế kỷ 17, toàn bộ lãnh thổ và phần lớn dân cư sát nhập hoàn toàn vào Đại Việt.

Năm 979, vua Champa là Bê Mi Thuế (Parameshvaravarman I) đã cử hạm đội sang tấn công Hoa Lư. Tuy nhiên, toàn bộ quân viễn chinh đã bị tan rã sau một cơn bão.

Năm 982, vua Lê Hoàn của Đại Cồ Việt đã cử ba sứ thần sang Indrapura, các sứ thần bị vua Chăm giam giữ, vua Lê Hoàn đã quyết định đánh Chămpa. Quân Đại Việt đã tấn chiếm Indrapura và giết vua Parameshvaravarman. Họ bắt mang về nước rất nhiều nhạc công và vũ công Chăm, chính những người này về sau đã ảnh hưởng đến sự phát triển nghệ thuật của Đại Việt.

Do hậu quả để lại của việc tàn phá, người Chăm đã rời bỏ Indrapura vào khoảng năm 1000. Trung tâm của Chăm Pa được chuyển xuống Vijaya ở phía Nam nằm trên đất tỉnh Bình Định ngày nay mà người Việt gọi là Phật Thệ. Trong 5 thế kỷ tiếp theo giữa Chăm Pa và Đại Việt đã xảy ra rất nhiều các cuộc chiến tranh, Chăm Pa đã chịu các đợt tấn công của Đại Việt.

Chiến tranh Việt-Chiêm 1044: Năm 1028, Lý Thái Tông lên ngôi vua, đến

hơn 15 năm mà nước Chiêm Thành láng giềng không chịu thông sứ và lại cứ quấy nhiễu ở mặt bể. Năm 1044 thấy vậy, vua bèn sắp sửa binh thuyền thân chinh sang đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 21

dàn trận ở phía nam sông Ngũ Bồ. Lý Thái Tông truyền thúc quân đánh tràn sang, quân Chiêm thua chạy. Quân Lý bắt được hơn 5.000 người và 30 con voi. Tướng Chiêm là Quách Gia Di chém chết vua Sạ Đẩu (Jaya Simhavarman II) đem đầu sang xin hàng.

Chiến tranh Việt-Chiêm 1069: Chiêm Thành tuy hàng phục nhưng bởi họ

là một dân tộc có óc quật cường rất mạnh và chí phục thù rất bền bỉ. Sau cuộc Nam chinh của Vua nhà Lý, người Chiêm muốn trả đũa quân Việt nên Quốc vương Chiêm là Chế Củ đã xin thần phục nhà Tống mong nhờ họ bảo hộ và Chiêm Thành không tiếp tục nạp cống cho Đại Việt nữa.

Năm 1069, Vua Thánh Tông nối nghiệp vua cha lại phải đem quân Nam chinh. Quân Đại Việt do Lý Thường Kiệt làm Đại Tướng thống lảnh đại binh thủy bộ tấn công vào kinh đô Phật Thệ, Tướng Chiêm là Bố Bì Đà La bị tử trận. Vua Rudravarman (Chế Cũ) bỏ chạy về phương Nam rồi bị bắt làm tù binh và sau đó đã xin đổi ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính ở phía Bắc gần biên giới Đại Việt để lấy tự do, sau sự kiện này biên giới phía Nam của Đại Việt lần đầu tiên tiến đến sông Thạch Hãn (Quảng Trị).

Trong triều đại nhà Lý, quân Chiêm còn thường xuyên khuấy rối vùng biên giới vào năm 1075, 1104, 1132, 1167, 1216, 1218. Các vua hay các quan lại cao cấp như Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành ... đã phải đem quân đi đánh Chiêm Thành. Sau mỗi lần đánh, vua Chiêm Thành lại cầu hòa, cử người sang cống nhưng sau đó lại chống đối.

Sang đời nhà Trần, sau khi liên minh chống quân Nguyên Mông thắng lợi vẻ vang, quan hệ giữa Cham Pa và Đại Việt, tương đối tốt đẹp, đến năm 1307 vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), đã nhượng hai châu Ô, Lý ở phía Bắc cho Đại Việt làm của hồi môn để cưới công chúa Huyền Trân. Nhà Trần đã đổi vùng đất này thành Thuận Châu (Quảng Trị) và Hóa Châu (Thừa Thiên Huế). Sau sự kiện này, Chăm Pa chỉ còn lại lãnh thổ từ đèo Hải Vân trở vào.

Năm 1360, Vua Chiêm là Trà Hoa Bố Đế chết, em là Che Bonguar (Chế Bồng Nga) lên thay. Chế Bồng Nga là vị vua hùng mạnh cuối cùng của người Chiêm.

Vua Chiêm thấy quân đội nhà Trần không còn hùng mạnh như trước nên liên tục cướp phá biên giới Hóa châu của Đại Việt vào các năm: 1361, 1362, 1365, 1366. Dù các tướng biên giới nhà Trần đẩy lui được quân Chiêm nhưng các cuộc

cướp phá không chấm dứt. Vì vậy Trần Dụ Tông quyết định khởi binh đi đánh Chiêm Thành.

Năm 1367, Trần Dụ Tông cử Trần Thế Hưng làm Thống quân hành khiển đồng tri, Đỗ Tử Bình làm phó, mang quân đi đánh Chiêm Thành. Tháng 4 âm lịch năm 1368, quân Trần tiến vào Chiêm Động (Quảng Nam). Quân Chiêm đặt phục binh, quân Trần rơi vào chỗ phục kích, bị thua trận. Trần Thế Hưng bị bắt, Đỗ Tử Bình chạy thoát, mang tàn quân chạy về nước.

Chiêm Thành thấy binh lực nhà Trần ngày càng sút kém, bèn sai Mục Bà Ma đi sứ sang đòi đất Hóa châu nhưng không thành.

Năm 1369, vua Trần Dụ Tông mất, con là Nhật Lễ lên ngôi. Mẹ Nhật Lễ là vợ cũ của kép hát Dương Khương; Nhật Lễ bỏ bê công việc, ham chơi, rượu chè, lại giết bà nội là mẹ Dụ Tông vì bà hối hận việc lập Nhật Lễ. Sau đó, ông còn định đổi sang họ Dương khiến các quan trong triều bất bình. Năm sau (1370), Nhật Lễ bị hoàng tử Trần Phủ lật đổ giành ngôi, tức là vua Trần Nghệ Tông.

Mẹ Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành xin Chế Bồng Nga đánh Đại Việt trả thù. Vốn ấp ủ mưu báo thù từ lâu, nay cơ hội đến vua Chăm là Chế Bồng Nga đã lập tức khởi binh.

Thủy binh nhà Trần

Tháng 3 nhuận năm 1371, Chế Bồng Nga đem quân tiến theo đường biển vào cửa Đại An (Nam Định), rồi kéo thẳng tới Thăng Long. Vua Trần sau nhiều năm không phòng bị đã phải bỏ trốn sang Đông Ngàn (nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội) lánh nạn. Ngày 27, quân Chàm kéo quân vào đốt phá cung điện, kho tàng, cướp con gái, vàng bạc châu báu rồi rút quân về. Đây là lần đầu tiên quân Chămpa kéo đến kinh thành và cũng là một trong những lần kinh thành Thăng Long bị tàn phá khốc liệt nhất.

Để trả thù việc Chiêm Thành đánh cướp kinh thành,Trần Duệ Tông ra sức xây dựng quân đội và quyết định thân chinh đi đánh Chiêm Thành.

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 22

Tháng 12 âm lịch (đầu năm 1377), Trần Duệ Tông cầm 12 vạn quân tiến vào đất Chiêm Thành. Vua Trần sai Đỗ Tử Bình thủ lĩnh hậu quân, Hồ Quý Ly đốc vận lương thảo.

Tháng giêng năm 1377, quân Trần tiến đến Cầu Đá ở cửa Thi Nại (Quy Nhơn), đánh lấy đồn Thạch Kiều rồi tiến tới kinh thành Chà Bàn nước Chiêm. Chế Bồng Nga lập đồn giữ ngoài thành, rồi cho người đến trá hàng.

Duệ Tông thúc quân tiến vào thành. Quân Chiêm tứ phía phục binh đổ ra đánh, chia cắt quân Trần ra từng đoạn. Quân Đại Việt thua to, mười phần chết đến 7, 8 phần. Duệ Tông bị hãm trong vòng vây, bị trúng tên tử trận. Các tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Lạp Hòa, Phạm Huyền Linh cũng tử trận.

Đỗ Tử Bình lúc đó lĩnh hậu quân không tới cứu ứng cho Duệ Tông. Lê Quý Ly cũng sợ hãi bỏ chạy.

Trận Chà Bàn 1377 là thất bại lớn nhất của quân Trần trong các cuộc giao tranh với quân Chiêm. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông thấy vua em vì việc nước bỏ mình, nên lập con trưởng của Duệ Tông là Trần Hiện lên ngôi, tức Trần Phế Đế.

Tranh đá quân Chiêm Thành (do người Khmer

khắc) thời nhà Trần Chế Bồng Nga biết binh lực nhà Trần đã

rất suy nhược nên liên tục phát binh Bắc tiến. Quân Trần bị thất thế trước sức tấn công từ phương Nam trong nhiều năm. Đầu tháng 11 năm 1377, vua Chiêm lại theo đường biển tiến đánh Đại Việt. Chế Bồng Nga xua quân tràn vào Thăng Long lần thứ hai. Lần này, quân Chiêm thấy Đại An có phòng bị nên tiến theo cửa biển Thiên Phù (tức cửa Thần Phù thuộc Ninh Bình). Quân Chiêm cướp phá kinh thành khoảng một tuần, đến ngày 12 tháng 11 thì rút lui qua cửa Đại An. Nhưng khi vừa tới cửa biển Đại An, đoàn binh thuyền của Chămpa đã gặp bão lớn, tàu bè bị đánh chìm quân số chết rất nhiều.

Mặc dù bị tổn thất nặng bởi trận bão biển trong lần thứ hai đem quân tàn phá Thăng Long,

nhưng vì cả hai lần đem quân ra Bắc, Chămpa đều giành thắng lợi dễ dàng, điều đó khiến Chế Bồng Nga đã không ngần ngại đem quân vào kinh đô của Đại Việt lần thứ ba. Lần này Chế Bồng Nga tiến đánh Nghệ An, tháng 3 năm Mậu Ngọ (1378), quân Chiêm vượt sông Đại Hoàng tiến đánh ra Thăng Long. Vua Trần sai Hành khiển Đỗ Tử Bình đem quân chấn giữ nhưng không địch nổi giặc. Quân Chiêm được thế đánh thẳng vào Thăng Long, bắt người cướp của rồi rút về. Kinh Sư Đại Doãn lúc ấy là Lê Giốc đã bị giặc bắt, rồi anh dũng hy sinh chứ nhất định không chịu đầu hàng.

Năm Kỷ Tỵ (1389) Chế Bồng Nga lại đem quân tiến đánh Ðại Việt. Vua sai Hồ Quý Ly đem quân cự chiến. Nhưng Hồ Quý Ly thua trận phải rút chạy. Tháng 11 năm 1389, Chế Bồng Nga thừa thắng tiến theo cửa Hoàng Giang thuộc Hà Nam để tiến đánh chiếm Thăng Long. Thượng hoàng sai đô tướng Trần Khát Chân đem binh đi chặn giặc.

Tháng giêng năm Canh Ngọ (1390), Chế Bồng Nga mang hơn 100 chiến thuyền đến Hải Triều đối đầu với Trần Khát Chân. Bấy giờ có hàng binh Chiêm Thành là Ba Lậu Kê chỉ cho Khát Chân biết dấu hiệu đặc biệt của chiến thuyền chở Chế Bồng Nga trong số cả trăm thuyền đang tiến vào trận địa. Trần Khát Chân sai các hỏa pháo tập trung chĩa vào chiến thuyền vua Chiêm mà bắn. Chế Bồng Nga bị trúng đạn tử trận. Quân Đại Việt được thế đổ ra đánh, quân Chiêm đại bại. Khát Chân lấy đầu Chế Bồng Nga đem dâng triều đình. Tướng Chiêm Thành là La Khải thu thập tàn quân rút về Vijaya chiếm lấy ngôi vua Chiêm. Hai người con Chế Bồng Nga chạy sang hàng Ðại Việt.

Sau thời kỳ Chế Bồng Nga, đến lượt Chăm Pa liên tục bị các vương triều Đại Việt tấn công và bị mất dần lãnh thổ.

Năm 1402, Nhà Hồ đem quân đánh Chiêm Thành, quân Chiêm bị thua. Vua Chiêm là Ba Đích Lại sợ hãi, bèn sai cậu là Bố Điền đến gặp quân Đại Ngu dâng voi trắng, voi đen và xin nộp đất Chiêm Động (Quảng Nam) để làm điều kiện cho nhà Hồ lui quân. Hồ Quý Ly không chấp nhận, bắt phía Chiêm Thành phải làm tờ biểu khác và dâng cả đất Cổ Lũy (Quảng Ngãi). Ba Đích Lại thế yếu phải chấp nhận yêu sách của nhà Hồ, bèn chuyển dân về phía Nam và nộp đất Chiêm Động, Cổ Lũy. Nhà Hồ tiếp quản đất Chiêm Thành, bèn chia Chiêm Động làm hai châu Thăng và Hoa; chia Cổ Lũy thành 2 châu Tư và Nghĩa, cho con Chế Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan làm Cổ Lũy huyện

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 23

thượng hầu, trấn giữ châu Tư và châu Nghĩa để chiêu dụ người Chiêm

Nhưng sau đó, năm 1406 do cuộc xâm lăng của nhà Minh, nhà Hồ thất bại và Chiêm Thành đã Bắc tiến lấy lại những đất đai từng bị nhà Hồ chiếm đóng.

Dưới triều Vua Lê Nhân Tông, Vua Chiêm là Bí Cái hay sang cướp phá đất Hóa Châu. Triều đình đã mấy phen sai Quan đánh đuổi nhưng vẫn không chừa. Đến năm Bính Dần 1446 Vua sai Lê Thụ và Lê Khả đem quân sang đánh tấn công vào kinh đô Chà Bàn (Vijaya), bắt được Bí Cái và cả cung tần đem về giam ở Đông Kinh rồi lập người cháu Vua Bồ Đề là Mã Kha Qui Lai lên làm vua. Vào năm 1452, Vua Chiêm là Mã Kha Quý Do bị Bàn La Trà Duyệt, người ở Thi Nại giết chết và cướp ngôi. Trà Duyệt chết, truyền ngôi cho em là Trà Toàn (Pau Kubah). Trà Toàn là một người “hung hãn, hoang dâm, bạo ngược”. Trà Toàn bỏ lệ tiến cống nhà Lê, thường xâm lấn biên giới phía Nam Đại Việt. Vào tháng 8 năm 1470, Trà Toàn sai sứ thần sang cầu viện với nhà Minh, thân hành đem hơn mười vạn quân thủy bộ cùng voi ngựa đến đánh úp Hóa Châu.

Viên tướng giữ Hóa Châu là Phạm Văn Hiển đánh nhau với quân Chiêm, không địch nổi, phải đóng cửa thành chống giữ, cho người phi ngựa đem văn thư cáo cấp về kinh đô.

Sư tử đá của Chăm Pa tại thành Vijaya vẫn còn

Ngày 16/11/1470, vua Lê Thánh Tông thân hành đốc xuất 15 vạn thủy quân đi đánh Chiêm Thành. Đến giữa tháng 12 âl, quân Đại Việt vào đến đất Chiêm Thành. Sau đó Vua Lê Thánh Tông cho quân luyện tập thuỷ chiến, và cho người vẽ lại bản đồ nước Chiêm. Ngày mồng sáu Tết quân Đại Việt bắt sống được viên quan giữ cửa ải của Chiêm Thành tên là Bồng Nga Sa. Vua Lê Thánh Tông còn tự mình soạn ra cuốn Bình Chiêm sách rồi ban phát cho các doanh nói có 10 lẽ tất thắng.

Ngày mồng 5 tháng 2 âl (1471) Trà Toàn sai em đem 6 viên tướng và 50.000 quân kéo lên đến sát doanh trại quân Đại Việt.

Ngày 6/2 Vua Lê Thánh Tông bí mật sai Tả du kích tướng quân Lê Hi Cát, Hoàng Nhân Thiêm và Tiền phong tướng quân Lê Thế, Trịnh Văn Sái đem hơn 500 chiến thuyền và ba vạn quân vượt biển, lẻn vào cửa biển Sa Kỳ lập dinh lũy, đặt đồn ải, để chận đường về của quân Chiêm. Vua còn bí mật sai Bộ Tướng là Nguyễn Đức Trung đem quân đi lẻn vào chân núi mai phục.

Vua Lê Thánh Tông thân hành đem hơn 1000 chiến thuyền và hàng chục vạn quân ra hai cửa biển Tân Áp và Cựu Tọa dựng cờ thiên tử vừa đánh trống vừa hò reo tiến thẳng về trước mặt.

Quân Chiêm thấy thế quân Đại Việt lớn, lại trông thấy ngự doanh thì tan vỡ, giày xéo lẫn nhau bỏ chạy về thành Chà Bàn (Vijaya). Khi đến núi Mạc Nô, quân Chiêm gặp toán quân của Hy Cát đã phục sẵn ở đó cuống cuồng sợ hãi, chạy rẽ ngang trèo qua chân núi cao, xác người, ngựa và đồ quân trang bỏ lại đầy đường núi. Lê Niệm và Ngô Hồng tung quân ra đánh, chém được một đại tướng và thu được rất nhiều chiến lợi phẩm.

Vua Lê Thánh Tông đến cửa biển Thái Cân, tung quân ra đánh mạnh, chém được hơn 300 thủ cấp và bắt sống được hơn 60 người.

Trà Toàn sợ hãi, bèn dâng biểu xin hàng. Ngày 27 Lê Thánh Tông đem đại quân đánh phá thành Thi Nại, chém được hơn 100 thủ cấp. Ngày 28, 29 vua tiến quân bao vây thành Chà Bàn nhiều lớp và chế tạo nhiều hỏa pháo chuẩn bị đánh thành.

Trà Toàn trong tình thế cùng quẫn, đệ nộp tờ cam kết đầu hàng. Vua Thánh Tông triệu Lê Viết Trung đến nói: Giặc đã tan rã chí chiến đấu; kỳ hạn đánh thành đã tới. Trà Toàn nay ở trong thành này, chỉ một trận là ta có thể nhổ được.

Vua phát pháo hiệu và hạ lệnh cho quân sĩ phá cửa thành tiến vào. Thành Chà Bàn bị phá vỡ. Quân Đại Việt bắt được hơn ba vạn tù binh và chém được hơn bốn vạn thủ cấp. Quân Thuận Hóa bắt sống Trà Toàn dẫn đến trước vua Lê Thánh Tông, nhà vua cho Trà Toàn được sống. Hôm ấy là ngày mồng 1 tháng 3 âl (1471)

Ngày mồng 2 tháng 3 AL (1471) Lê Thánh Tông hạ lệnh kéo quân về. Quân Đại Việt đã toàn thắng, Trà Toàn đã bị bắt.

Theo sử sách Việt Nam, sau khi mất vùng Vijaya, một tướng Chăm là Bô Trì Trì chạy vào Nam chiếm vùng Panduranga xưng làm vua của người Chăm xin nộp cống xưng thần với Đại Việt.

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 24

Vua Lê Thánh Tông cũng phong vương cho tiểu vương xứ Kauthara (Hoa Anh) tức là vùng đất tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay và nước Nam Bàn (sau này là hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá mà ngày nay là đất các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và Đăk Lăk tức miền đất Tây Nguyên. Chính thất bại này đã dẫn đến việc người Chăm lần đầu tiên di cư với số lượng lớn sang Campuchia và Malacca.

Panduranga-Chăm Pa và Thuận Thành trấn Phần đất còn lại của vương quốc Chăm Pa

từ sau năm 1471 mà sách sử người Việt gọi là Chiêm Thành chỉ từ đèo Cù Mông, Phú Yên ngày nay trở về Nam gồm hai địa khu Kauthara và Panduranga. Năm 1594 vua Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp Sultan xứ Johor để tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca.

Tuy nhiên các cuộc tấn công từ chúa Nguyễn cai trị xứ Đàng Trong của Đại Việt vào các năm 1611 và 1653 đã dẫn tới Chăm Pa mất luôn vùng Kauthara. Tới năm 1693, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tấn công vào Panduranga, bắt vua Po Sout đưa về Phú Xuân và đưa em trai của Po Sout là Po Saktiray Da Patih (Kế Bà Tử) lên làm vua, Panduranga được đổi thành Thuận Thành Trấn và vua Chăm được gọi là Trấn Vương cai trị Thuận Thành Trấn với sự giám sát chặt chẽ của các quan lại của chúa Nguyễn. Chế độ tự trị này được duy trì cho đến tận năm 1832 qua các đời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và thời kỳ đầu triều đại nhà Nguyễn. Tuy nhiên, các đời chúa Chăm sau Po Saktiray Da Patih không còn duy trì được mối quan hệ trực tiếp với các chúa Nguyễn và mọi công việc của Thuận Thành Trấn được tiến hành thông qua phủ Bình Thuận.

Năm 1832 người Chăm lại nổi dậy chống lại vua Minh Mạng nhân dịp có cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi ở phía Nam nhưng không thành công. Chính quyền tự trị hạn chế của người Chăm chấm dứt tồn tại vào năm 1832, khi Hoàng đế Minh Mạng đổi Thuận Thành thành phủ Ninh Thuận và đặt quan lại cai trị trực tiếp. Lịch sử vương quốc Chăm Pa chính thức dừng lại ở đây.

Sau khi Chăm Pa bị sát nhập hoàn toàn vào Việt Nam thì hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá tức miền đất Tây Nguyên ngày nay vẫn giữ được độc lập nhưng trở thành phiên thuộc của nhà Nguyễn cho đến thời Pháp thuộc.

Văn hóa nghệ thuật Văn hóa Ấn Độ, Campuchia và Java đều

có ảnh hưởng đến văn hóa Chăm Pa. Từ thế kỷ thứ

4 vương quốc Phù Nam ở Campuchia và miền Nam Việt Nam ngày nay đã truyền bá văn minh Ấn Độ vào xã hội Chăm. Tiếng Phạn trở thành ngôn ngữ học thuật, và Ấn giáo, đặc biệt là Si-va giáo, trở thành quốc giáo. Từ thế kỷ thứ 10, các thương nhân Ả Rập đã mang tôn giáo và văn hóa đạo Hồi vào khu vực. Chăm Pa có vai trò trung chuyển quan trọng trên con đường hồ tiêu từ vịnh Pec-xich tới miền Nam Trung quốc và sau này là con đường thương mại trên biển của người Ả Rập, xuất phát từ bán đảo Đông Dương - nơi xuất khẩu trầm hương. Mặc dù giữa Chăm Pa và đế quốc Khmer luôn có chiến tranh, nhưng thương mại và văn hóa vẫn được giao lưu về cả hai phía. Hoàng gia của hai vương quốc cũng thường xuyên lấy lẫn nhau. Chăm Pa còn có quan hệ thương mại và văn hóa với các đế quốc hùng mạnh trên biển như Srivijaya và sau này với Majapahit trên bán đảo Mã Lai.

Tôn giáo, tín ngưỡng Trước khi bị vua Lê Thánh Tông chinh

phục năm 1471, tôn giáo chính của người Chăm là Ấn độ giáo, và nền văn hóa Chăm cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn minh Ấn Độ. Ấn độ giáo ở Chăm Pa chủ yếu là Si-va giáo, tức là đạo thờ thần Shiva, và có ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo bản địa như thờ nữ thần Đất Yan Po Nagar. Biểu tượng

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 25

chính của tôn giáo Si-va của người Chăm là linga, mukhalinga, jatalinga, linga chia tầng và kosa.

Linga (hay còn gọi là lingam) là một cột trụ có hình dương vật đại diện cho Shiva. Các vua Chăm thường xuyên dựng và cúng các linga bằng đá để thờ ở trung tâm các đền tháp của hoàng gia. Tên mà vua Chăm đặt cho một linga sẽ bao gồm tên của nhà vua và đuôi "-esvara," tức là Shiva.

Mukhalinga là một linga mà trên đó có vẽ hoặc chạm hình ảnh Shiva dưới dạng hình người hay hình khuôn mặt.

Jatalinga là một linga mà trên đó chạm phong cách điển hình của Shiva là kiểu tóc búi.

Linga phân tầng là một cột linga chia làm ba phần đại diện cho ba thể (trimurti) của thượng đế trong Ấn giáo: phần dưới cùng, là một khối hình lập phương, tượng trưng cho Brahma; phần giữa, là một hình lăng trụ tám mặt, đại diện cho Vishnu; và phần trên cùng, có hình tròn, đại diện cho Shiva.

Kosa là một khối kim loại hình trụ được sử dụng để che phủ cho linga. Việc hiến tế một kosa để trang trí cho linga là một nét đặc biệt độc đáo của đạo Si-va của người Chăm. Các vua Chăm thường đặt tên cho các kosa đặc biệt cũng theo cách họ tự đặt tên cho các linga.

Việc Ấn giáo là một tôn giáo chiếm ưu thế của người Chăm bị gián đoạn từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 10 khi triều đại Indrapura (Đồng Dương ở tỉnh Quảng Nam ngày nay) theo Phật giáo Đại thừa. Phong cách nghệ thuật Phật giáo Chăm Pa thời Đồng Dương được công nhận là một trong những phong cách độc đáo.

Trong thế kỷ thứ 10 và các thế kỷ sau, Ấn Độ giáo lại trở thành tôn giáo chính của Chăm Pa. Một số nơi vẫn còn lưu giữ những công trình tôn giáo và cũng là các công trình kiến trúc và nghệ thuật của thời kỳ này như Mỹ Sơn, Khương Mỹ, Trà Kiệu, Chánh Lộ và Tháp Mẫm.

Hồi giáo bắt đầu xâm nhập vào Chăm Pa từ sau thế kỷ thứ 10, nhưng chỉ sau năm 1471 thì ảnh hưởng của Hồi giáo mới rõ nét. Vào thế kỷ thứ 17 thì hoàng gia Chăm đã theo đạo Hồi và cũng từ đó phần lớn người Chăm bắt đầu theo đạo này, và khi vùng đất này bị sáp nhập vào Việt Nam thì phần lớn người Chăm ở đây đã theo đạo Hồi. Phần lớn người Chăm đều là người Hồi giáo và cũng giống như người Java ở Indonesia, họ còn chịu nhiều ảnh hưởng của Ấn giáo. Các văn bản của Indonesia còn ghi lại câu chuyện công chúa Darawati, một công chúa Chăm đã ảnh hưởng đến chồng là Kertawijaya, người cai trị đời thứ bảy của

Majapahit, tượng tự như câu chuyện với Parameshwara, người đã cải đạo Hồi cho hoàng gia Majapahit. Ngôi mộ của Putri Champa (công chúa Chăm) vẫn còn thấy ở Trowulan, nơi xưa kia là thủ đô của Majapahit.

Kiến trúc, điêu khắc: Kiến trúc Chăm Pa qua các tháp Chăm thờ

các vị thần Ấn Độ giáo và các vị vua Chăm được hóa thần còn sót lại cũng như dấu tích của các tòa thành cổ, tu viện phật giáo thời Indrapura, về kiến trúc điêu khắc các tháp được các nhà nghiên cứu thường chia ra làm nhiều thời kỳ, mỗi một thời kỳ có những thay đổi khác nhau, dấu ấn riêng biệt của người Chăm là kỹ thuật làm gạch kết dính để xây tháp và chạm trổ trên đá.

Một jatalinga vào thế kỷ 10 ở thánh địa Mỹ Sơn

Cùng với nền điêu khắc của người Khmer và người Java, nền điêu khắc Chăm Pa là một trong ba nền điêu khắc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ đạt tới tầm cỡ thế giới. Tuy ảnh hưởng nhiều từ nền điêu khắc Ấn Độ, Java và Khmer nhưng điêu khăc Chăm Pa vẫn có những tính độc đáo riêng. Xu thế hướng tới tượng tròn của hầu như tất cả các hình chạm khắc dưới dạng phù điêu, trong điêu khắc Chăm Pa rất ít có khung cảnh chung mà nhấn

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 26

mạnh vào từng hình tượng, ví dụ như bức phù điêu tiên nữ Apsara đang múa được tìm thấy ở Trà Kiệu thể hiện bàn tay to, cánh tay cong. Chính vì thế nghệ thuật điêu khắc của Chăm Pa mang tính ấn tượng nhiều hơn là tả thực, tính ấn tượng có thể nói là đặc điểm quan trọng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật điêu khắc cổ Chăm Pa.

Chữ viết, bia ký Văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng vào Chăm Pa

từ những thời kỳ đầu, dẫn tới các trước tác về luật pháp, chính trị xã hội đều có mặt ở Chăm Pa, được các vua chúa Chăm áp dụng và ưa thích. Chữ bắc Phạn (Sanskrit) đã được người Chăm tiếp thu từ những thế kỷ đầu công nguyên, các chữ viết trên bia Võ Cạnh ở thế kỷ 3 với cách viết rất gần với kiểu viết của các bia ký vùng Amaravati ở Nam Ấn Độ, tuy nhiên chữ viết của Chăm Pa trong hơn 10 thế kỷ tồn tại của mình cũng liên tục thay đổi tương ứng với những thời kỳ ảnh hưởng từ các vùng khác nhau ở Ấn Độ, từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 8, chữ Phạn ở Chăm Pa có dạng tự vuông của vùng bắc Ấn, nhưng từ thế kỷ 9 trở đi chữ Phạn ở Chăm Pa lại có dạng tự tròn của vùng nam Ấn, có thể nhận định Chăm Pa là quốc gia đầu tiên có chữ viết sớm nhất Đông Nam Á. Xuất phát từ dạng tự của chữ Phạn, người Chăm đã bỏ các phụ ghi âm vốn không có trong tiếng Chăm và một số ký hiệu mới được bổ sung thành một dạng chữ Phạn-Champa, theo các nhà nghiên cứu tiếng Chăm có 65 ký hiệu và 24 chân ngữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo (Akhar Thrah) của Ấn Độ.

Tháp PoKlaung Garai trong thế kỷ 13

Theo thống kê của các học giả người Pháp

vào năm 1923, số bia ký Chăm đã được biết là 170, tất cả các bia ký Chăm đều được khắc lên đá thành những tấm bia to và đẹp và một số bia ký khác được khắc lên tường của các tháp Chăm. Các văn

bia cổ Chăm Pa là những văn bản gần như duy nhất thể hiện ý tưởng của các vị vua và triều đình, trong số 123 bia ký có thể hiểu được nội dung thì 92 bia nói về Siva giáo, 5 bia về thần Brahma, 3 bia về thần Visnu, 7 bia về đức Phật và 21 bia không rõ về tính tôn giáo.

Văn học, ghi chép Do chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc văn hóa

Ấn Độ cho nên ý nghĩa văn chương được thể hiện trong các bia ký, các tác giả bia ký cố gắng dùng lời lẽ văn hoa, nhiều điển tích và ẩn dụ của văn học Ấn Độ để thể hiện ý tưởng của mình, vì thế mà văn bia Chăm Pa là một mảng quan trọng nhất của văn học Chăm Pa

Theo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được ghi chép trong cuốn sách của ông là Ying-yai Sheng lan – (Doanh Nhai Thắng Lãm), thì văn bản ghi chép trong xã hội Chăm Pa thời kỳ này được miêu tả:

Về việc viết chữ, họ không có giấy hay bút, họ dùng da dê kéo mỏng hay vỏ cây hun khói đen, và họ gấp nó lại thành hình một quyển kinh sách, với phấn trắng, họ viết chữ để ghi lại thành tài liệu lưu trữ.

Âm nhạc, ca múa Âm nhạc và ca múa có vai trò rất quan

trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm, trong các nghi thức tín ngưỡng như lễ tết Kate, lễ cầu đảo, lễ mở cửa tháp. Việc dùng các hình thức nhạc cụ tùy thuộc vào tính chất các buổi lễ và các hình thức sinh hoạt khác nhau. Trống Branung và trống Kynang là loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ của người Chăm. Trong nhạc cụ hơi, chiếc kèn Saranai có vị trí đặc biệt. Múa là loại hình nghệ thuật gắn bó với người Chăm như hình với bóng rất phong phú và độc đáo, người Chăm có các điệu múa khác nhau như: múa sinh hoạt, múa tôn giáo, múa tập thể, múa độc diễn, múa đạo cụ và múa bóng.

Vua Chăm Pa Vương quốc Chăm Pa bị diệt vong, di tích

để lại cũng như những ghi chép từ sử liệu không đủ để xác định tất cả các đời vua và các thông tin chi tiết về năm cai trị của tất cả các vua. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào nhiều nguồn tài liệu, trong đó có cả các bia khảo cổ, di tích của người Chăm,

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 27

tới nay xác định được khoảng 10 triều đại với gần 100 vị vua Chăm Pa.

Một số vua Chăm Pa được gọi tên phiên âm theo tiếng Hán, theo cách gọi của Việt Nam và Trung Hoa. Một số vị có tên Chăm được đối chiếu bằng tiếng Phạn và tiếng Hán, như Cambhuvarman tức Phạm Phan Chí hoặc Kandharpadjarma tức Phạm Đầu Lê..., do được xuất hiện trong cả bia ký Chăm và thư tịch Hán.

Các cô gái Chăm trong điệu múa apsara

Kinh tế Qua các công trình nghiên cứu lịch sử,

nền kinh tế Chăm Pa xưa phần lớn dựa vào các hoạt động nông nghiệp, sản xuất đồ thủ công và thương mại. Các dầu vết còn lại ở miền Trung Việt Nam của những hệ thống thủy lợi phức tạp và những giống lúa đặc biệt riêng của miền Trung được xem là các bằng chứng của một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đã phát triển.

Vương quốc Chăm Pa xưa có vị trí thuận lợi cho sự phát triển thương mại đường biển. Các cảng biển của vương quốc là những điểm trung chuyển hàng hóa quốc tế cũng như để xuất khẩu các sản phẩm khai thác rừng ở miền thượng, các đồng bằng ven biển. Từ thế kỷ thứ 10, các cảng của Chăm Pa đã được biết đến như là những thương cảng quan trọng trên Biển Đông, nằm trên hành trình thương mại đường biển giữa phương Đông và phương Tây vẫn được gọi là "Con đường tơ lụa trên biển".

Các sản phẩm xuất cảng của Chăm Pa là những sản phẩm thủ công như các đồ gốm sứ, đất nung và các sản phẩm khai thác miền rừng như sừng tê, ngà voi, và đặc biệt là trầm hương, và cả các hoạt động khai thác tổ yến trên các đảo ngoài khơi.

Về phương tiện thanh toán trong giao dịch thương mại, Theo ghi chép của Mã Đoan, thì giao dịch thời kỳ này được miêu tả: “Trong giao dịch mua bán, họ hiện dùng vàng nhạt màu, non tuổi, có độ ròng bẩy mười phần trăm, hoặc họ dùng bạc”.

Kết Luân: Để kết luận, Chúng tôi mượn lời nhà Thơ

Hàn Mạc Tử để nói lên cảm nghĩ về một Vương Quốc một thời vang bóng:

...Tôi đã đốt đỉnh trầm đặt trên án… tối hôm nay tôi chuốt lại ngòi bút, mượn hương thơm đưa đẩy lời văn.... Tôi đã lấy hết tinh lực của hồn, của máu, hấp lại thành một sức mạnh. Nhưng chưa đủ. Tôi đến phải thành tâm, lạy các vì tinh tú, cầu nguyện với những linh hồn thơ, từ muôn năm trước về giúp cho ngòi bút tôi thêm thành thực, lột được chút ít tinh thần...

Đảo ngược lại thời gian trong giây phút, ta mơ thấy cả một dân tộc hào hùng! Chiêm Lạp (hay là Lâm Ấp) mà lâu đài tráng lệ đóng từ Quảng Bình, Quảng Ngãi vào tới Phan Rang, Bình Thuận, lấn hết cả giang san của nước Việt…Nhưng sau cuộc “Nam tiến” oanh liệt, còn đâu những thành quách kiêu căng của đám người Hời?

Một dân tộc có lịch sử, có văn minh như Chiêm Thành ngờ đâu lại chịu số kiếp điêu tàn, tiêu diệt! Còn chăng chỉ những ngọn tháp lở lói rải rác đôi nơi cùng với thời gian cố ngạo lại làn nắng úa, và trong đêm sương nặng nề, lắng nghe tiếng oán hờn không bờ bến của những cô hồn vong tộc.

Tài liệu tham khảo: - Việt Nam Sử lược của Trần Trong Kim. - Lịch sử Vương Quốc Chăm Pa trên trang nhà Bách khoa toàn thư - Lịch Sử Chiến tranh Việt Chiêm trên trang nhà Bách khoa toàn thư - Những văn tài mới nở: Chế Lan Viên − thi sĩ của vương quốc Chiêm Thành của Hàn Mặc Tữ. - Nhìn lại Sử Việt từ tiền sử đến tự chủ của Lê Mạnh Hùng, xuất bản năm 2007

Vĩnh Trường

Thiêntrường địacữu, hữu thời tận Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 28

Một bí ẩn của tâm linh

Chuyện Người Tù Chết Chiều 30 Tết… Nguyên Nhung

Hình như suốt đêm qua tôi không ngủ, lại lơ mơ nhớ đến một lời hưá với con cuả người tù đã chết chiều 30 Tết năm 1977 tại vùng Sơn La Việt Bắc thâm u những mồ hoang mả lạc. Chuyện thật 100%, không hư cấu, cũng không phải chuyện ma, nhưng cứ như một cơ duyên bí ẩn của tâm linh, tình cờ mà đến, phải chăng vẫn có một thế giới vô hình không hiểu được. Khoảng đầu năm nay, tôi đang lơ mơ ngồi đọc email cuả mấy người bạn, thì một lá thư cuả người bạn thân từ bên Úc gửi qua, bạn nhờ có quen ai ở Trà Vinh thì tìm giùm thân nhân cuả anh Chung Hữu Hạnh, một giáo sư biệt phái bị đi cải tạo và đẩy ra miền Bắc, anh đã chết trong một xó xỉnh nào đó cuả miền Việt Bắc, may là còn lại tấm bia mộ. Anh gốc người Trà Vinh, vợ con sau khi mất tin chồng đã tìm đường vượt biển, chẳng biết bây giờ ở đâu. Tôi nhanh nhẩu ngồi liền vào máy viết thư cho nhà thơ Huỳnh Tâm Hoài, một nhà thơ gốc Trà Vinh có những bài thơ được phổ nhạc rất hay là Lời Ru Sóng Vỗ, do nhạc sĩ Nguyễn hữu Tân phổ nhạc. Như một bí ẩn của tâm linh, anh Huỳnh tâm Hoài vưà là bạn tù, vừa là bạn học cùng thời với anh Chung hữu Hạnh. Đọc tin anh buồn vui lẫn lộn, buồn vì nhớ bạn mình đã chết đơn độc vùi thân nơi rừng sâu núi thẳm, vui vì đã tìm được mộ thì hy vọng sẽ có ngày bạn mình được về hưởng hương khói gia đình. Chỉ trong 5 ngày tin phóng đi, một người đã tìm ra thân nhân cuả anh Chung Hữu Hạnh, và tháng 6 năm nay chị Hạnh cùng các con đã tìm ra miền Bắc bốc mộ chồng đem về an táng tại Trà Vinh. Anh Chung Hữu Hạnh là thầy cuả vợ bạn tôi, chắc thầy sống khôn thác thiêng nên tìm tới cô học trò để rồi cái đường dây loanh quanh trong cõi vô hình, cuối cùng thầy cũng tìm được về quê nhà, được sự chăm sóc khói hương cuả vợ hiền và các con. Bạn tôi gửi cho tôi xem những tấm hình cảnh bốc mộ cuả anh Hạnh, nhìn nắm xương phù du còn lại được bươi lên từ đất cát khô cằn của miền Bắc, tôi cảm thấy ngậm ngùi, tất cả đều là vô thường, một ngày nào đó ai cũng phải tan thành tro bụi. Sẵn trớn tôi viết thư kể cho bạn tôi nghe về người tù chết chiều 30 tết, tôi cũng chả biết anh ta

là ai, chỉ nghe chồng tôi kể lại ngay cái tên cũng không nhớ. Câu chuyện từ mùa đông năm 1977 tại trại tù vùng Sơn La, nằm trên con đường đến Nghĩa Lộ. Chiều cuối năm rét mướt, trong cảnh u ám thê lương cuả trại tù miền Bắc, cùng nỗi đói khát cuả những người tù gầy guộc và bịnh tật. Cả lán đang xôn xao ngoài sân chờ được phân phát thức ăn cuả ngày tết, quanh năm đói khát vất vả vẫn hy vọng có chút thức ăn ngon, khẩu phần là hai cái bánh chưng to hơn bàn tay, và mấy miếng thịt bé bằng ngón tay cái. Trong lán giữa nhà là đống củi lửa cháy bập bùng, sưởi chút ấm áp cho người tù vì trời vô cùng giá rét mà chăn chiếu lại thiếu. Mọi người ai cũng buồn vì nhớ gia đình, cám cảnh “gặm một mối hờn căm trong cũi sắt”. Ở cuối phòng có một chỗ nằm đã giăng mùng xùm xụp, một người bạn không thấy anh bạn tù ra lãnh món bánh chưng mà mấy ngày hôm trước anh ta thường than thở rằng chỉ thèm một miếng bánh chưng, nên đã tốc mùng xem thì thấy anh bạn tù nằm chết tự bao giờ. Cả lán lại chìm trong nỗi buồn, giữa đêm tận cùng cuả năm mà hình ảnh người bạn tù chung nằm chết trong lán, như một ám ảnh khiến ai cũng nghĩ đến phận mình, một ngày nào sẽ bỏ xác nơi đây, gia đình thân nhân không ai hay biết. Báo cho quản giáo xong, họ xem xét thấy anh đã ngưng thở, nhưng vẫn hỏi ai có thể làm hô hấp nhân tạo cho anh ấy được không? Mọi người lặng im, lúc ấy không hiểu sao thì chồng tôi lại xung phong làm việc ấy đối với một xác chết, nuôi một chút hy vọng nếu anh ấy thở lại được thì sao? Nhưng hoàn toàn vô vọng, bốn người tương đối trẻ và khoẻ được chọn để khiêng xác anh bỏ ra cái lò rèn, nằm đó chờ đến ngày mùng hai mới đem chôn, vì kiêng ngày mùng một tết (síc). Một vị Thượng Toạ thấy vậy đã lẻn đem phần ăn ngày tết cuả ông ra nơi quàn xác để âm thầm gọi là tiễn đưa linh hồn người bạn tù được “no nê” ở thế giới bên kia. Thảm thật! Ngày liệm xác anh vào cái hòm gỗ thô sơ, xác anh được cuốn vào một cái bao cát, thay cho anh một bộ đồ tù mới, chồng tôi thấy tội nghiệp đã lấy chiếc áo thung xanh cuả người chết để anh gối đầu lên cho đỡ thảm, người ta còn cố tuột cho được cái nhẫn cưới trong bàn tay gầy guộc cuả người tù

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 29

ốm đói. Sau này nghe con anh kể, chiếc nhẫn ấy đã được gửi về trả lại cho gia đình, nhưng mộ phần thì không biết thất lạc nơi đâu vì trại tù đã bị dời đi, trả lại cái nền hoang cho dân chúng địa phương canh tác ruộng bắp. Anh là người tù đầu tiên chết ở miền Bắc muà xuân năm 1977. Ngày mùng hai, lại bốn người tù được chọn lầm lũi đẩy chiếc xe “ cải tiến” có quan tài cuả người tử sĩ đem đi chôn. Không có một nghĩa địa nên buộc lòng phải vùi anh một nơi nào đó dọc theo sườn núi. Tất cả suy nghĩ rồi quyết định chôn anh trong một lòng huyệt nông vì đá tai mèo cứng quá không đào nổi, bên một dòng suối, thoai thoải là sườn núi chênh vênh với cây rừng, anh nằm đó để linh hồn được thanh thản nghe tiếng suối reo, nghe cây rừng than van với bốn bề hiu quạnh. Trước khi về, họ còn ráng khiêng những tảng đá lớn chất lên mộ để đánh dấu, hy vọng một ngày nào đó thân nhân sẽ tìm được mộ của người thân.

An vị nơi quê hương

Đường Tìm Về Với Thân Nhân: Tôi gõ “meo” kể câu chuyện này cho bạn tôi nghe, rồi đi ngủ, lòng không mảy may vướng bận. Sáng hôm sau, khi xong việc nhà tôi vừa mở email thì đã thấy thư cuả bạn, với chữ Khẩn trong Subject. Tôi đọc thư, vắn tắt bạn viết: “Đây là chuyện thật, không phải hư cấu để nhà văn viết truyện. Làm ơn hỏi ông xã giùm hồi xưa anh bạn tù chết chiều 30 tên gì, vì con anh đi tìm mộ cha ba năm rồi mà không ai biết, chỉ mơ hồ nên không biết chính xác mộ nằm ở đâu. Please! Hồi âm cho biết vì rất mong, con anh sắp trở về VN tìm lần nữa vào tháng 7 này.”

Tôi giật mình, lại một chuyện lạ, chẳng lẽ hồn anh Chung hữu Hạnh lại dẫn bạn tù về tìm

đúng người để về với gia đình sao? Ớn lạnh, tôi là tác gỉa cuả một loạt truyện Cõi Mù Sương viết về thế giới bên kia, nhưng thật ra tôi toàn mượn chuyện người sống để nói về người chết, hư cấu 100%. Chờ chồng tôi đi làm về, tôi kể chuyện, sau đó liên lạc với con anh người tử sĩ, anh tên là trung úy Huỳnh tự Trọng, sinh quán ở Đà Nẵng hay Quảng Nam gì đó.

Người con cuả anh liền xin số phone để liên lạc, cháu yêu cầu chồng tôi cố nhớ lại vị trí cuả trại tù ngày xưa, và nhất là vị trí cuả nơi chôn cất anh Huỳnh tự Trọng. Hơn 30 năm vật đổi sao dời, dâu hoá biển, biển hoá dâu là chuyện thường, bây giờ chẳng biết cảnh cũ thay đổi ra sao, nhưng may ra còn dãy núi, còn con suối làm chứng cho cái trại tù heo hút ngày xưa. Đấu óc một người đã từng sống trong cảnh tù đầy thiếu ăn thiếu mặc, thêm nhiều năm vất vả với cuộc đời để tìm nguồn sống cho cả gia đình, chắc chắn là không nhớ hết được, thế nhưng như một sức mạnh thiêng liêng, từ linh hồn người tử sĩ, chồng tôi đã vẽ được sơ đồ cho con anh bạn tù bạc mệnh đi tìm lại mộ cha.

So sánh với sơ đồ anh vẽ, và những hình ảnh các cháu đã chụp lại trong chuyến đi kỳ trước, khó mà tìm ra mộ vì tất cả chỉ còn một màu xanh của ruộng bắp, không thấy suối, hòn đá cao chắn ngang lối mòn năm xưa cũng không còn, lấy gì để xác định được ngôi mộ nằm ở chỗ nào.

Hành Trình Đi Tìm Mộ Cha: Thư qua tin lại với con cuả tử sĩ Huỳnh tự

Trọng, nhiều câu hỏi được đặt ra qua những thông tin của cháu, sự tha thiết tìm lại ngôi mộ của người cha bất hạnh vẫn nung nấu trong lòng những đưá con. Có lúc cả hai bên tưởng như tuyệt vọng, dù cháu cố nài nỉ “Chú ơi! Làm ơn nhớ giùm con, lúc ấy chú đi từ trại ra nơi chôn ba cháu ra sao? Chú chấm thử một địa điểm lần chót nữa đi, cháu hy vọng ba cháu sẽ chỉ cho chú…”Cảm động đến rơi nước mắt, chỉ còn hai hôm thôi hai đưá con anh lại lên đường đi tìm mộ cha, lần này nếu không được là thôi, hết hy vọng.

Tối hôm đó ngồi thần thừ trước tấm sơ đồ trại tù miền núi năm xưa, chồng tôi thầm cầu nguyện rồi khoanh tròn màu đỏ lên tấm ảnh mà cháu gửi qua. Anh nghĩ nó nằm ở chỗ này, làm một phép tính nhỏ (anh học ban B, vốn giỏi toán từ hồi đi học), lấy khoảng đứng từ ngoài đường vào trại tù cũ, gần một ngã ba cuả con đường tẽ vào Nghĩa Lộ, rặng núi đánh dấu cho địa điểm chính xác, ngôi mộ sẽ nằm ở khoảng này, khoanh một vòng tròn

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 30

màu đỏ, anh đi ngủ để mai đi làm mà lòng nặng trĩu…

Theo chuyện kể cuả các cháu, chuyện người tử sĩ Huỳnh tự Trọng ly kỳ như một cuộn phim tâm linh khó giải thích, dọc đường đi anh đã phù hộ cho con anh ra sao, và khi đến nơi, lần trước các cháu đã biết có một ngôi miếu do một người bộ đội đã phục viên kể lại. Chính anh ta vì được một linh hồn khuất bóng lảng vảng nơi này cứu giúp trong cơn hoạn nạn, nên đã tự lập một ngôi miếu để thờ, mà chẳng biết là ai. Anh ta về quê làm rẫy, thường hay thấy một bóng người đi ra đi vào ruộng bắp, nhưng chỗ ấy không có nhà cửa thì lấy làm lạ, có khi cái bóng ấy còn đi vào nhà anh, nên anh tin là có một điều gì lạ lùng trong thế giới vô hình mà không diễn tả được. Trước khi đến đây làm nhà, anh ta nghe dân địa phương nói chỗ sườn núi này có một ngôi mộ nhưng bây giờ không biết nằm đâu rồi. Khi gia đình gặp chuyện không may, anh van vái người khuất mày khuất mặt phù hộ gia đình anh thoát nạn, anh sẽ cất miếu thờ, chính vì vậy mà có miếu thờ tử sĩ Huỳnh Tự Trọng ( nhưng vẫn không có tên). Trước khi các cháu lên đường tìm mộ cha, chồng tôi chỉ bảo một lần chót: “Chú không tin lắm ở trí nhớ cuả mình, nhưng khuyên cháu là khi về nên đến cái miếu thờ ấy van vái ba cháu cho tìm được mộ. Nếu linh hồn ông thiêng thật, nhất định các cháu sẽ tìm ra mộ cha.” Một tin tưởng để vớt vát niềm hy vọng cho con cuả người bạn tù năm xưa, chúng tôi không tin rằng các cháu có thể tìm được mộ cha dưới gần 3 thước đất, vì sau khi gặp được người địa phương nổ mìn phá núi để lấy đá, ông ta nói ngày xưa nơi đây có cái suối nước nhưng bị lấp mất rồi, còn hòn đá to chặn ngang đường đi đã bị phá huỷ để lấy đá làm đường thì có lẽ trong lúc ấy, đã đẩy ngôi mộ sâu xuống đất nên không còn dấu vết.

Hình ảnh bốc mộ tại Hoàng Liên Sơn

Nghe xong những chi tiết này, con anh Huỳnh tự Trọng liền suy nghĩ và tính toán xem mộ cha sẽ nằm ở khoảng nào, đúng với cái vòng tròn màu đỏ và quyết định không bỏ cuộc. Cộng thêm giấc mơ anh Huỳnh tự Trọng báo mộng, xác anh nằm gần một mô đất cao, cháu nhìn thì thấy có một mô đất cao hơn đường đi nên nhất định đào sâu thêm nữa theo hình tam giác cuả sợi dây giăng làm chuẩn. Mấy người đào mộ thấy đào sâu quá bèn hỏi bộ định đào ao nuôi cá sao? Vậy mà khi nhát xẻng chạm vào một khoảnh đất cứng hơn, mọi người mới bàng hoàng nhận ra những mảnh gỗ mục và hiện ra hình dạng một bộ xương người nằm trong cái bao cát tẩm liệm 33 năm dài trong lòng đất, loại bao này bằng ni lông cuả quân đội VNCH, được cắt ra chia cho tù dài khoảng 2 mét để làm tấm trải ngủ. Khi mở ra, cái đầu lâu khô cuả tử sĩ Huỳnh Tự Trọng còn gối lên chiếc áo thung xanh năm xưa, chỉ bị huỷ hoại khoảng 20%...

Một buổi chiều tháng bảy ở quê người, trong khi tôi đang nói chuyện qua phone với Đỗ Dung, cô bạn văn có ngòi bút trung thực và tính tình điềm đạm nhất cuả tôi thì chồng tôi báo tin, các con anh Trọng đã tìm được xác cha. Tôi cảm thấy lạnh cả sống lưng, và kể chuyện cho bạn tôi nghe. Chao ơi! người chết tìm về, tin hương linh người tử sĩ không quên tìm về với gia đình anh đã làm tôi xúc động, tôi cũng cảm được sự xúc động cuả bạn tôi qua giọng nói từ xa vọng tới… Đây là câu chuyện về người tù chết chiều 30 tết trong một ngày cuối đông rét mướt đã 33 năm về trước, anh đã tìm về được với gia đình, trở về với mảnh đất quê nhà và hưởng hương khói gia đình. Hôm nay còn lại một vài ngày nữa để bước sang một năm mới, tôi nhớ đến lời hưá với con cuả người tử sĩ, nên viết một mạch cho tâm hồn thanh thản. Xin mời những nhà thơ nhà văn có tâm hồn nhạy cảm, dễ rung động như cung đàn muôn điệu cùng với gió với mây, hãy cảm tác mấy vần thơ cho ấm lòng người tử sĩ nha.

Phần tôi, quá mệt cho một đêm không ngủ để nhớ lại từng chi tiết vì câu chuyện không thể nào hư cấu được.

Viết xong buổi sáng cuối năm 2010.

Nguyên Nhung Xin mời đọc bài thơ Trùng Trùng Duyên

Khởi Cảm tác tưởng niệm Anh Linh người quá cố nhơn đọc bài Một Bí Ẩn Của Tâm Linh

Chieu Anh

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 31

Trùng Trùng Duyên Khởi Cảm tác

Tưởng niệm anh linh người quá cố nhơn đọc bài Một bí ẩn của Tâm Linh Chuyện người tù cải tạo chết đêm 30 Tết năm 1977 tại trại tù Sơn La.

I. Anh Lính Cộng Hòa với anh Bộ Đội

Ở cõi âm hẳn đã tan thù hận Lính Cộng Hòa nay phò hộ cho anh Bộ đội phục viên cuộc sống yên lành

Trên mảnh đất mà riêng anh được hưởng

II. Hồn Tử Sĩ

Hồn tử sĩ cõi u linh vất vưởng Đã bỏ mình trong một buổi tàn đông Đêm Giao Thừa đón Tết thật cô đơn

Trong láng trại giữa rừng thiêng chướng khí.

Người lặng lẽ ra đi không rền rĩ Đã âm thầm yên giấc nghỉ ngàn thu Đêm Giao Thừa giá rét chốn lao tù

Bao chiến hữu đã vì anh rơi lệ

Đấp điếm đơn sơ, đâu nào nghi lễ Vị Sư già lặng lẽ nhận phần anh

Để đưa linh lần cuối buổi tiễn hành Đôi bánh chưng phần riêng người chín suối

Dẫu Tăng, tục cũng nén thầm lệ tủi Vùi thân anh bên suối cạnh lưng đèo Để đêm ngày nghe đàn suối vang reo Hòa nhạc gió đưa hương về vạn nẻo.

III. Lập Miễu Thờ Tử Sĩ

Chốn rừng thiêng những đêm dài lạnh lẽo Hồn cô đơn lang bạt cõi u linh

Hướng về quê thắt thẻo mối thâm tình Niềm khao khát đoàn viên nơi mái ấm

Ba mươi ba năm thời gian thăm thẳm Lính Cộng Hòa, anh bộ đội phục viên

Cõi âm dương hòa nhập mảnh hồn thiêng Quên thù hận luôn vì người cứu nạn

Thầm biết ơn mối tương liên linh cảm Lập miễu thờ hương khói suốt quanh năm Cảnh tang thương cuộc dâu biển xoay vần

Dòng suối cũ, đèo xưa đà mất dấu Niềm u uất, mối thâm tình nung nấu

Hồn linh thiêng người chiến sĩ Cộng Hòa Đã hiển Thánh hay bóng quế hồn ma

Trong miễu nhỏ hiện về như sương khói

Người đảng viên vô thần trong bộ đội Đã nhiều phen gặp nạn hiểm tai hung Thầm vái van rất thành khẩn tôn sùng Luôn được cứu đều tai qua nạn khỏi.

IV. Là Hồn Ai ?

Nơi miễu nhỏ trải nhiều năm hương khói Là hồn ai ? Nào ai biết tánh danh

Cảm riêng ai tin tưởng tấc lòng thành Sự bí ẩn cõi tâm linh kỳ diệu

Hồn là ai ? Còn ai đâu truy điệu Mối thâm tình cốt nhục tự phương xa Có đàn con tha thiết nhớ người cha Lính Cộng Hòa chết trong tù cải tạo

Đêm Giao Thừa buổi tàn đông thảm não Ngày đầu Xuân giấy báo tử hung tin Gieo khổ đau tang tóc đến gia đình

Người vợ trẻ, đàn con thơ nheo nhóc

Đời sống khó khăn, trải bao cơn lốc Cả gia đình anh chiến sĩ Cộng Hòa

Từ lâu rồi đã lưu lạc phương xa Luôn tưởng nhớ hướng truy tìm mồ mả

V. Truy Tìm Mộ Cha

Đâu có dễ, chốn rừng sâu hoang dã Vật đổi thay, láng trại cũ đâu còn Bụi thời gian đã lấp mất dấu mòn Ai có biết ai, đâu người thăm hỏi

Miễu bên đường thường ngày ai hương khói Duyên do nào người bộ đội phục viên

Lập miễu thờ người khuất mặt rất thiêng Nhưng danh tánh hồn ai thì chẳng rõ.

Từng nghe nói quanh đây xưa có mộ Một người tù cải tạo trại Sơn La

Nhưng lâu rồi chẳng ai biết đâu là Vùng cải tạo đã trở nên thôn ấp

Dãy núi còn kia, đèo cao lũng thấp Nhưng nào đâu khe suối cạnh lưng đèo

Chỉ còn nghe tiếng gió thổi buồn teo Như than thở bao nỗi niềm u uất

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 32

VI. Không Bỏ Cuộc

Không bỏ cuộc luôn thăm dò tin tức Bỗng đọc mail tin kể chuyện mộ bia

Của một tù cải tạo sĩ quan kia Được tìm thấy nơi khu rừng Việt Bắc

Tin bắn đi thân nhơn đà nắm chắc Vội lên đường lo bốc mộ đưa về Hơn ba mươi năm trở lại cõi quê Nơi xứ sở được yên bề ấm cúng

Trùng trùng duyên khởi, sự duyên quả đúng Lời Phật xưa từng giảng lý nhơn duyên

Hằng tương tục như lượn sóng triền miên Từng sự việc kết liền duyên và cảnh.

VII. Chuyện Tấm Mộ Bia

Chuyện tấm mộ bia của Chung Hữu Hạnh Sĩ quan biệt phái Quân Lực Cộng Hòa

Là Giáo Sư, hàng trí thức tài hoa Từng đào tạo nên khôn nhiều lớp trẻ

Cơn quốc biến tình đệ huynh chia rẽ Cảnh Bắc Nam chìm đắm nạn đao binh Các giới chức đều tuân lịnh tùng chinh Ngăn chống giặc để giữ gìn đất nước

Hùm sa cơ phút giây tàn chiến cuộc Mãnh hổ đà nan địch với quần hồ

Buông súng gươm trở nên kẻ tội đồ Chốn lao lý, bỏ mình nơi cải tạo

VIII. Manh Mối

Mấy mươi năm lòng Tôn Sư Trọng Đạo Đám học trò nghe loạt báo loan tin Đọc tuổi tên rõ biết chính thầy mình

Đã rối rít bắn tin cùng chia sẻ

Lớp cải tạo xưa kia hãy còn trẻ Nay đã già tản lạc khắp năm châu Đổi trao nhau niềm tâm sự khổ đau

Không quên nhắc người bạn tù thuở nọ

Đã bỏ mình đêm Giao Thừa năm đó Cùng ngậm ngùi kể chuyện với nhau nghe

Tưởng mail qua, mail lại chẳng ai dè Tin được đến thân nhơn người quá cố

Lời tha thiết khẩn cầu ơn tri ngộ Hướng dẫn cho đường lối mộ phần cha

Chốn lưu đày cải tạo trại Sơn La Người tạ thế đêm Giao Thừa năm đó

Quá mủi lòng lắng nghe lời cạn tỏ Cố moi tìm ký ức điểm từng ô Phác họa nên tỉ mỉ bức sơ đồ

Mong đàn trẻ tìm ra nơi phần mộ.

IX. Hiện Về

Thật khó khăn, biết đâu là đúng chỗ Miễu bên đường sẵn tới nguyện cầu xin Họa cơ may người khuất mặt hiển linh

Mà chỉ dẫn nơi vùi thân tử sĩ

Mầu nhiệm thay! đêm mơ màng mộng mị Thấy Cha về mách bảo rõ âm hao Dọc ven đường có chỗ đất gò cao

Là nơi đó, đào sâu rồi sẽ thấy

Đêm chờ sáng vội vàng mau trở dậy Khắp quanh vùng quả thấy đúng như lời

Dở sơ đồ tính toán thử tìm coi Ồ, quả đúng dấu khoanh tròn nơi ấy

Hỏi thăm ra, đúng xưa dòng suối chảy Cạnh lưng đèo nhiều tảng đá chắn ngang

Cho nổ mìn lấy đá để làm đường Đã lấp mất suối, đâu còn thấy dấu.

X. Phỉ Nguyền

Niềm phấn khởi, nức lòng con hiếu thảo Đã phỉ nguyền tìm thấy mộ phần cha

Không uổng công đeo đuổi mấy năm qua Thời tiết đến, nhơn duyên đưa đẩy tới

Mộ chìm sâu lẫn trong lòng đất xới Bộ xương còn nguyên vẹn với thời gian

Đầu kê trên chiếc áo thun, rõ ràng Y như lời bạn của cha đã kể

Chạnh mối thương tâm khôn ngăn dòng lệ Thương thân cha từ mấy chục năm qua

Vùi xương lòng đất lạnh cõi quê xa Hồn vất vưởng lang thang theo cảnh gió

XI. Trùng Trùng Duyên Khởi

Nhờ theo dõi khắp nguồn tin đây đó Gặp cơ may tìm ra được mối manh

Trùng trùng duyên khởi, lý sự rõ rành Duyên tri ngộ cảm thông tình chiến hữu

Tên tuổi anh khắp truyền trên hoàn vũ Sĩ quan cấp Úy Việt Nam Cộng Hòa

Huỳnh Tự Trọng danh tánh được đề ra Trên bia mộ quê nhà anh miên viễn

Đặc San Trà Vinh 2012 – Nhâm Thìn 33

Ba mươi ba năm trải bao cơn biến Hồn linh thiêng tử sĩ cõi siêu hình Xin hộ trì cho thế giới Hòa Bình

Khắp nhơn loại đồng ấm no Hạnh Phúc

Bắc Úc, 10 tháng 01 năm 2011 Chiêu Anh cẩn bút

HỒN TỬ SĨ TÌM VỀ

Huỳnh Tâm Hoài cãm tác theo chuyện "NGƯỜI TÙ CHẾT CHIỀU 30 TẾT" của Nguyên Nhung, Nguyễn Hữu Tần phổ nhạc và hát mẫu.

Mênh mông mây bạc trôi mênh mông Đất Bắc vùi thây những anh hùng

Không chết sa trường bên súng thép Mà chết trong tù giữa cùm gông

Thây vùi cát lạnh manh chiếu rách Vùi nông đất núi đá chênh vênh

Tử sĩ hồn mang nhiều tùi hận Chạnh nhớ miền quê bạt gió ngàn

Uất ức mưa gào triền núi khóc Căm hờn gió thét là rừng than

Đường về hồn hướng mây ứng mộng Mong ước tương phùng đất phương Nam

Tử sĩ oan hồn thời quốc biến Nương nhau về lại chốn quê hương

Nhang khói hương trầm câu khấn nguyện Muôn đời nhớ mãi đấng hùng anh

Huỳnh Tâm Hoài

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 34

Huệ Tường

Ngoại tôi người làng Tân Lập, quận Cầu Ngang, ngày nay người ta gọi xã Long Sơn, huyện Cầu Ngang, nhà nghèo đông con, nghèo đến đỗi dì hai, dì ba và má tôi chỉ có một bộ đồ khả dĩ tươm tất, thay phiên nhau mặc mỗi khi đi đây, đi đó hay đình đám trong làng. Má tôi tuy là em nhưng nhờ vóc giạc trung bình nên có thể mặc chung với hai chị, chỉ một chút xùng xình. Cảnh con nhà nghèo phải vậy, có sao đâu… Dù nghèo hay giàu vẫn theo qui luật chung của con người, hai dì lớn của tôi tuần tự lập gia đình, tới phiên má tôi cũng sắp xa ông bà ngoại để về với ba tôi.. .Theo như lời bà nội tôi kể, ngày dẫn ba tôi đi nói vợ, câu chuyện này phải được coi như chuyện “trăm năm cũ”.

Chưa thả buổi cày, bà nội và ba tôi từ Ô-lắc khệ nệ quà cáp tới nhà ông bà ngoại xin coi mắt con dâu. Trong thời gian trà nước tiếp khách, ông bà ngoại hối người ra bến xuồng kêu má tôi về,

đoạn quay sang bà nội tôi giải thích: - Tháng trước chị có cho hay sẽ qua, nên tôi biểu con nhỏ hôm nay ở nhà để chào chị…

“Ba người lớn” chuyện vãn cũng hơn tuần trà vẫn chưa thấy con gái mình ra châm nước thêm, ông ngoại tôi vói vào trong hỏi…Con Mua đâu? Thì ra má tôi nghe người tới “coi mắt” mình, bèn bung xuồng qua bên kia sông, đi tuốt vô chòi ruộng, người nhà không dám thưa lại cho ông bà ngoại tôi biết sự việc, khiến người bồn chồn lo lắng ra mặt, không biết phải phân trần như thế nào. Bà nội tôi biết ý nên từ tốn trình bày: - Má con tôi tới đây dĩ nhiên chủ yếu coi mắt con dâu và.. “nó” cũng muốn thấy mặt vợ sắp cưới, nhưng không sao, từ từ rồi sẽ biết nhau sau. Vội gì ! Tiện đây xin thưa với anh chị, hôm nay tôi xin trình ngày đám hỏi và ngày cưới luôn.

Ông bà ngoại tôi hốt nhiên ngỡ ngàng, đi nói vợ cho con, không thấy mặt con dâu tương lai, lại trình ngay ngày cưới… Một lần nữa bà nội tôi phải nói hết ý mình để ông bà sui khỏi áy náy: - Khi quyết định việc chung thân cho “nó”, ông tôi đã coi hai tuổi này rồi, ông tôi nói: Duyên số và định mệnh chung thân đã an bày, không cần phải đắn đo chi cả. Nghe qua những lời xác quyết về duyên phận của con mình, bà ngoại tôi lấy vạt áo lau nước mắt, mừng vì tương lai hạnh phúc của

con mình, mừng vì đàng trai quá dễ dãi trong việc cưới xin…

Riêng bà nội tôi đi nói vợ cho con, không thấy mặt dâu, vẫn trình ngày cưới và “nộp” tài cho đàng gái. Rõ ràng giao tài vật một cách “khống chỉ” cho người ta…. Nghĩ tội cho ba má tôi, người mà mình phải sống đời với nhau lại chưa một lần quen biết. Xem đậy đủ biết các cụ ngày xưa quyền uy đối với con cái như thế nào… Cũng may, những trường hợp như vầy đã đi vào dĩ vãng, vì câu chuyện trên cũng ngót nghét trăm năm qua !

Má tôi về làm dâu trong thời gian ngắn là

đảm đang được việc nội trợ trong nhà, việc bánh trái, bếp núc má học được sau này là do cô hai tôi chỉ dạy. Việc đồng áng mới là sở trường của người, có thể nói má tôi vượt hẳn những người đàn bà khác trong làng. Từ khi về làm dâu, tới mùa ông nội tôi không còn mướn công cấy hay công gặt, má tôi đi vần công với người chung quanh, tới phiên mình, nhà chỉ lo dọn đất và mạ, mọi người sẽ tới trả công. Thường má tôi có thể cấy hay gặt chỉ đứng bóng là xong hai công, nếu cấy nọc thì vừa trịch xế.. Mấy chị tôi sau này, chỉ có chị thứ tư có thể theo một mười một bảy, một tám với má tôi về việc này. Nếu cấy, người cấy cây mạ thẳng đứng, ngay hàng thẳng lối, gặt thì rất ít lúa sót. Trừ khi gặt ruộng nhà, má tôi thấy sau lưng mình có người mót.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 35

Theo bà nội kể lại, vào thời đó chỉ những bà già cả sống cô đơn, không con cháu, họ mới đi mót lúa – má tôi thường chừa lúa bụi, người mót chỉ đứng một chỗ tước lúa bông, chẳng bao lâu đầy một đội, những cụ già nếu còn khoẻ mạnh, thường đội một đội lúa bông được chừng hơn nửa giạ lúa hột. Khi sau lưng không còn ai mót nữa, má tôi mới gặt theo thói quen của bản tánh. Việc này đồn tới tai bà nội tôi, người cười trong niềm hãnh diện: - Con dâu tôi nó bòn phước cho dòng họ này đó. Ngoài cấy gặt, má tôi còn đảm đang việc nặng nhọc của người đàn ông. Có lần vào lúc vừa đông chợ, má tôi kéo một bè mạ chừng ba trăm bó để cấy cho mười công đất, nếu chở bằng xuồng tam bản cỡ trung (30 giạ) phải ba chuyến và mất hai con nước, nếu kết thành bè, má tôi chỉ cần hai tiếng đồng hồ, trôi theo con nước ròng từ Trà Côn – khu đồng ruộng của nội tôi – xuôi dòng sông ra Khúc Ngay. Ngang qua dạ cầu Ô-lắc, người đi trên cầu thấy một phụ nữ trời sáng tinh sương trầm mình dưới sông, dẫn một bè mạ khổng lồ mà lắc đầu, có người đứng tuổi hỏi bâng quơ : Ở Ô-lắc này có chú nào hơn phụ nữ kia không? Con dâu ông Hương sư đó! Không phải má tôi trầm mình dưới sông suốt chuyến bè mà đứng hoặc ngồi trên bè mạ, chống chỏi cho bè mạ xuôi theo dòng nước, chỉ khi gần tới cầu Ô-lắc, má tôi phải lội xuống dắt bè mạ cặp bời sông, vì vừa qua cầu là tới ngả ba, nơi này có hai nguồn nước, một từ Cầu Ngang chảy xuống, nguồn kia từ Tân Lập chảy ra, hai dòng nước đạp thẳng vào nhau thành hợp lưu, trước khi xuôi dòng, chúng tạo một con xoáy ở giữa lòng sông, ghe thuyền chở khẩm đi ngang qua đây cũng phải e dè.

Trái đào lộn hột

Má tôi là người đàn bà đảm đang hiền hậu chất phát, ấy vậy mà người phạm phải một lỗi lầm, tuy không gì trầm trọng nhưng người canh cánh bên lòng niềm ân hận suốt đời…. Ông nội tôi có trồng mấy cây đào – đào lộn hột của miền Nam – mới vừa có trái chiếng, ông nội dặn người nhà đừng hái, để thiệt già lấy hột làm giống. Má tôi không biết việc này, lúc tưới cây, thấy đào chín bẻ ăn. Hôm sau thấy mất, ông nội tôi giận dữ, hỏi hết người trong nhà, lớn nhỏ đều không ai bẻ, má tôi sợ quá cũng không dám nhận, ông nghi quyết anh hai tôi – con của cô hai – anh nói không nhưng ấp úng, ngập ngừng. Hỏi đi, hỏi lại nhiều lần, anh nhứt quyết nói không có và không thấy ai bẻ. Ông nội bắt cuối đánh, đít sưng 5-6 lằn roi khóc điếng…

Thực ra anh hai biết má tôi bẻ vì má tôi cho anh mấy cái hột… Chuyện đã qua, ông tôi cũng nguôi cơn giận, nhưng đến tối má tôi kể lại khúc nôi sự việc, nức nở bên bà nội tôi, nhờ xin thú tội, nhận lỗi. Bà nội chỉ an uỉ, vỗ về: - Chuyện đã dĩ lỡ, con không cần phải quá áy náy, để má cho tiền thằng Âm, mua bánh nó ăn…. - Con đã cho cháu rồi, cháu không lấy, cháu nói: - Không, con thương mợ, con chịu đòn giùm mợ, con đâu muốn lấy xu của mợ - có lẽ lúc đó anh nghĩ, nếu mình không chịu đòn thế thì ông ngoại sẽ đánh mợ ba - Quả là suy nghĩ của trẻ thơ, nhưng trẻ thơ có khí độ can trường. Bà nội tôi lại khuyên: - Thôi chuyện bỏ qua đi. Thứ nhứt, thằng Âm nó thương con, can dảm nhận đòn, nếu con nhận lỗi với cha con là phụ lòng nó, vô tình phủ nhận sự hy sinh của nó. Thứ hai, cha con đã nguôi giận rồi, giờ nhắc lại chẳng khác nào buộc cha con phải xin lỗi thằng Âm hay sao? Má tuyệt đối tin thằng Âm không vì trận đòn mà oán trách ông ngoại nó đâu.. .. Sự việc đó đối với ông nội tôi dần dần đi vào quên lảng, mãi đến lúc người lìa trần cũng không biết được đứa cháu ngoại đã chịu trận đòn oan… Nhưng trong gia đình từ lớn chí nhỏ và anh chị em chúng tôi sau này được sanh ra, lớn lên đều nghe má tôi kể lại, kể lại trong niềm hối hận kèm theo sự quý trọng và cảm phục đứa cháu chồng, đứa cháu chỉ ở tuổi trẻ thơ nhưng đủ bản lãnh, thể hiện sự hào hùng, nghĩa khí… Má tôi thường khuyên anh chị em chúng tôi – Tôi tin chắc lời khuyên này phát xuất tận đáy lòng, không phải qua sách vở, vì má tôi từ nhỏ không được đến trường. – Tất cả mọi lỗi lầm đều phải chịu trách nhiệm, lỗi lầm nhỏ chịu trách nhiệm nhỏ, lỗi lầm lớn chịu trách nhiệm lớn, nếu không sẽ ân hận suốt đời –

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 36

Riêng trong tâm khảm tôi, khắc sâu hình ảnh và nghĩa cử - tôi cho là hào hùng – của người anh cô cậu và thường tự nhủ lòng, anh là tấm gương cho mình, cho lòng vị kỷ và vị tha!

Đối với anh chị em tôi, má tôi là vị Phật Bà, vì Phật Bà thương chúng sanh như người mẹ thương con đẻ của mình, ngoài ra còn đem đến cho chúng sanh niềm tin thiêng liêng và mầu nhiệm. Riêng tôi, má tôi không chỉ là vị Phật Bà, còn là một Quán Thế Âm Bồ Tát – thật ra hai danh hiệu này chỉ là một hiện thân – Vị Quán Thế Âm Bồ Tát của tôi chẳng những chỉ thấy, cảm thông nuông chiều tôi mọi thứ mà còn lắng nghe được tiếng lòng của tôi trong khát khao, trong ham muốn… .

Năm đó tôi chừng mười ba tuổi ta, học lớp Nhì ( lớp bốn bây giờ), bắt đầu học tiếng Tây – là năm áp chót của chương trình Tiểu học còn học Pháp văn – tôi tự thấy mình đã lớn, nhưng những cái xấu của trẻ con vẫn còn đeo đuổi bên tôi: Cái quần xà lỏn không che được cặp giò mốc cời của tôi, mặc dù trước khi vào học đã chạy ra giếng tưới của bà tám Bán kỳ kọ sơ qua rồi, nhưng lúc sắp hàng vào lớp vẫn thấy hồi hộp nhìn cây roi nhịp nhịp của thầy Hiệu trưởng Lương Diệu (Hiệu?) Trân đứng xét tay chân của từng trò một trước khi vào lớp… Thỉnh thoảng cũng có vài trò bị khẻ tay…. Tôi may mắn chưa bị khẻ lần nào, nhưng có dò hỏi mấy bạn xui xẻo bị qua: - Có đau lắm không? - Đủ đau, nhưng không quýu lắm, nè, không có dấu lằn mà… . Tôi nghĩ thầm trong bụng, mình chỉ thấy thầy giơ roi lên là đã quýu rồi, anh chàng này bàn tay chưa đỏ rần là chưa quýu!!!. Cũng may, mặc dù thầy có nhìn qua những cặp giò của đám học trò nam, nhưng thầy không bao giờ rầy, có lẽ thầy thông cảm học trò, con em của nhà nông, ngoài giờ học ở trường ra, tối ngày phải lặn ngụp dưới sông, ngoài ruộng, làm sao sạch sẻ như trẻ nơi thành thị.

Tôi không muốn bạn học nhìn thấy cặp giò mốc cời của tôi, nói cho đúng: Đã biết mắc cỡ! Nhân Tết năm đó, xin má tôi may cái quần tây dài và áo sơ mi. Chú tám Ca, thợ may khít vách nhà tôi, đo xong, nhưng đã 23 tháng chạp – hơn 10 ngày – vẩn chưa thấy chú đá động gì tới bộ đồ của tôi. Qua nhắc khéo với chú. - Ừ, tao may liền cho mày.

Đến 27 rồi 28, xấp vải vẫn còn nằm đó. Trưa ngày 29 Tết, bộ đồ của tôi vẫn chưa được “khởi công” , tôi nóng nướng đi qua, đi lại… Thấy vậy, má tôi ôm tôi vào lòng vỗ về:

- Những ngày này chú tám có nhiều đồ lắm, nhưng chú sẽ may xong cho con trước Tết, không nên làm chú rối trí. Rồi má tôi nói với giọng trầm trầm như lời tâm sự: - Phải chi đổi lại công việc này là cấy, là gặt hay tảo tần mua gánh bán bưng, hoặc may cái quần xà lỏn thì má không để con nóng lòng chờ đợi…

Không biết lúc bấy giờ tôi hiểu gì qua lời nói đó, chắc là chưa thấm thía được hết nỗi lòng của má tôi, nhưng không biết tự bao giờ, tôi không còn trong vòng tay của má nữa, đã ôm cổ má tôi, nước mắt đầm đìa chảy trên vai áo người. Sự xúc động dâng tràn trong tôi có lẽ do những lời nói chân thành phát xuất tận đáy lòng của người mẹ, làm tim tôi rúng động. Phải chăng đó là phút giây liên tâm phát khởi từ mẫu tử tình thâm….

Từ đó về sau, mỗi khi tôi mặc vào bộ đồ mới là cảm thấy có chút gì bồi hồi xao xuyến, nên tôi rất ít mua sắm, chỉ ăn mặc qua quít đơn sơ, tiếp theo đó hơn mười năm ăn mày nơi cửa Phật, thọ lãnh của đàn na tín thí, vấn đề ăn mặc của tôi càng đơn giản hơn, thỉnh thoảng đôi ba năm, mấy chị hay em gái tôi sắm thêm cho một vài bộ đồ là quá đủ đối với tôi…. Hơn ba mươi năm lưu lạc xứ người, dường như chưa lần nào tự mua sắm áo quần giày vớ cho tôi, bà nhà tôi mua gì mặc nấy, rất ít quan tâm tới xấu đẹp, ngắn dài rộng hẹp… Tôi nghĩ, đã từ lâu, lâu lắm rồi, đây không phải vấn đề bị ảnh hưởng tâm lý nữa, nó đã trở thành thói quen…

Ông bà ngoại tôi rất nghèo, mọi người ở Tân Lập đều thấy như vậy, đều nói như vậy. Nhưng trong hoàn cảnh nghèo của ông bà ngoại tôi mà nhìn xuyên qua quan niệm sống của má tôi, cho thấy rằng má tôi không bao giờ nghĩ là mình được sinh ra và lớn lên trong gia đình nghèo khó.. .

Má tôi được thừa hưởng một gia tài to lớn từ song thân của mình. Ông bà ngoại tôi luôn luôn chắt chiu gom góp từng chút thời gian và hễ có cơ hội Đặng (tên dì hai) Mùa (tên dì ba) thì Mua (tên

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 37

má) Tâm (tên cậu sáu), Tâm Liên (tên dì bảy, chỉ sự thanh tịnh, an lạc), Cánh (cứu cánh tên dì út). Đặng Mùa Mua Tâm Liên Cánh. Đó là những sở hữu ông bà ngoại tôi đầu tư vào đời sống của mình.

Người ta thường nói: Người hằng tâm thì ít hằng sản và ngược lại, kẻ hằng sản thì ít hằng tâm. Má tôi đã tâm đắc được điều này nên rập khuôn cho đàn con của người… .Ba má tôi đều không biết chữ, riêng ba tôi có đi học chút đỉnh chữ nho,đủ khả năng lựa chữ cho má tôi đặt tên con theo tâm ý của mình và cũng đọc được vài bộ sách thuốc…

Khi nói đọc được sách thuốc, tôi nhớ tới thầy dạy Việt văn của tôi, thầy Hứa minh Phan. Thầy dạy rất nhiều môn: Hán văn lớp Đệ thất, Anh văn từ Đệ thất tới Đệ tứ, nhưng lúc bấy giờ thầy đang giữ quyền Hiệu Trưởng, phải điều hành trường lớp, nên mời thầy Nguyễn văn Tiến về thế cho những lớp Đệ Ngũ và Đệ tứ. Tôi học Việt văn với thầy bốn năm liền của chương trình Đệ nhứt cấp. Trong giờ Việt văn, để thay đổi bầu không khí, thỉnh thoảng thầy kể vài chuyện vui như chuyện Mất Bát Dĩa ( bất đắc dĩ ), chuyện Gáo Tra Dài Cán (giáo đa dày oán), chuyện Phúc Thống Phục Nhân Sâm…. . Câu chuyện châm biếm này được kể như sau:

Thầy lang nọ vốn dĩ là một nông dân, nhưng trước kia có học chữ nho của thời “mạt Hán”, thời bút sắt đè bẹp bút lông ở xứ An Nam ta… Nhân nhà có vài bộ sách thuốc, ông có nghiên cứu sơ qua và chỉ dẫn cho hàng xóm vài phương thuốc trị bịnh thông thường, hầu hết đều có hiệu nghiệm, ấy cũng do may thầy phước chủ. Tiếng tốt đồn xa, dần dần ông nghiễm nhiên trở thành nổi tiếng xa gần… Có gia đình phú hào làng bên, vợ ông đau nặng, chữa chạy đủ thầy, nhưng vẫn chưa thuyên giảm, có người mách, ông phú hào cho gia nhân tới rước. Thầy lang hỏi sơ sơ bịnh tình, được biết bệnh nhân bị chứng “phúc thống” – đau bụng– Thầy lang lật sách, thấy bài thuốc tựa đề “Phúc Thống”, ông đọc tiếp: phục nhân sâm (trị bằng nhân sâm), ông liền kê toa, dù nhân sâm là loại thuốc đắt tiền, nhưng bệnh nhân là vợ phú hộ, ngại gì tiền nông, liền sai gia nhân đi mua về… Qua đêm bệnh nhân “qui tiên”. Gia đình nạn nhân thưa lên quan. Quỳ trước công đường thầy lang rất vững tin, cho rằng nạn nhân chết là do số mạng, nói có sách, mách có chứng, ông trình lên quan quyển sách và bài thuốc mà ông đã kê toa… Quan án xem qua liền quát lớn „Tống nó ngay vào ngục cho ta!“. Thầy lang hốt hoảng:

- Bẩm quan, ngài có xử oan cho thứ dân này không? Quan án ném quyển sách trước mặt ông ta: - Lật sang trang thì rõ. Ông ta lật sang trang sau, mặt mày không còn chút máu, tay chân run cầm cập, lẩm bẩm „Trời ơi, tại sao ở trang sau lại thêm hai chữ tắt (tất) tử thế này hỡi trời !!! ( nguyên câu văn như sau: Phúc thống phục nhân sâm tất tử - bị chứng đau bụng, uống nhân sâm là…. chết liền ). Sau đó tôi có kể lại cho ba tôi nghe câu chuyện này, ông cụ liền phản bác: - Cái ông viết nhựt trình hay viết sách gì đó, trước kia không cầm nổi cây viết lông, chuyển sang cầm viết sắt, học chữ An Nam (ba tôi vẫn không quen dùng từ ngữ “chữ quốc ngữ”, cũng như tôi, mãi tới bây giờ cũng chưa quen dùng chữ “từ” cộc lốc, và khi đọc thấy hai chữ “cụm từ” liền hình dung ngay “cụm mây”! hoặc như hai chữ “chùm ảnh” tự nhiên tôi thấy tiết tâm linh, vì cái đầu của tôi nghĩ tới chùm…giuột (ruột) hay chùm… nho, loại nho rừng ở xứ tôi, vào tháng sáu tháng bảy, trong “cụm” rừng - buị lùm – nhiều dây nho rừng mọc lên, trái non ăn chua muốn té đ… luôn! Quả là sáng tạo ưu việt của đỉnh cao trí tuệ của loài người) để câu cơm, nhưng cuộc sống có lẽ không khá lắm, nhân thấy mấy thầy lang hình như nhàn hạ hơn nên sanh lòng đố kỵ, viết bài châm chích. Có gì hay! Xem ra ông cụ cũng khá bảo thủ.

Mẹ quê vất vả trăm chiều…

Xin trở lại với đàn con của má tôi. Người không hề kỳ vọng sự Thành, Đạt, Công, Danh vào con mình, chỉ mong sao chúng luôn Nhẫn nhịn (tên anh hai), Lan – thật ra chị kế của tôi tên Lang (có g), nghĩa chữ Hán là mái hiên, mái nhà, viết với bộ “nghiễm”, với ý nguyện đơn giản: Che chở chính bản thân, và cho mọi người đụt mưa tránh nắng, không phải Lan là tên loài hoa. Sở dĩ có sự sai lệch ý nghĩa và cách viết, vì vào những năm đầu của nền Đệ Nhứt Cộng Hòa, để kiểm kê dân số, chính quyền cho lập lại Tờ Khai Gia Đình, chú biện

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 38

Khương ở làng đã vô tình viết sai tên của chị. Chị thứ kế tên Khấu, hãy luôn dặn lòng, thấp người thêm chút nữa, nên cúi đầu, vâng lời và tuân phục vẫn hơn là tranh cường, đoạt thắng – má tôi không tham thấu thuyết Bi Trí Dũng của nhà Phật – Dù vậy chúng tôi vẫn coi đó là khuôn mẫu cho cuộc sống hằng ngày. Nếu không sính cường, luôn ôn Hòa và Nhã nhặn thì nhận vạn sự Kiết tường ...

Để có một chút sắc hương, tươi mát trong đàn con, má tôi chọn một loài hoa đặt tên cho con gái út của mình, dù vậy người cũng không chọn loài hoa vương giả như Mẫu đơn, Hải đường, hay kiêu xa, quý phái như Hoàng lan…. Chỉ chọn loài hoa rất quê mùa, dân dã: Cúc, loài hoa người ta thường nói: Cúc mọc bờ ao kêu rằng cúc thủy… Loài hoa mọc ở bờ ao, mé nước, chỉ cống hiến sắc hương cho loài người, cho vũ trụ trong âm thầm, lặng lẽ…. .

* * *

Hồn thiêng của ba má ở từng không nào

đó, cõi hư vô nào đó, xin cứ thong dong tự tại, anh chị em chúng con nay dù đang đi trên đoạn cuối của đường đời, nhưng vẫn luôn cố gắng, cố gắng giữ lòng theo tâm ý và hoài bảo của ba má. Tuy không báo đáp được công ơn sanh thành dưỡng dục, nhưng ba má luôn là hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm trong lòng chúng con.

Lòng con thảo như sương như bụi. Công mẫu từ tợ núi Thái sơn.

Viết cho con và các cháu

Huệ Tường

Kim Chung Hoàng Vủ

Chợ Tết Trà Vinh, đây quê tôi Xa vắng đã bốn mươi năm trời Chợ Hoa ngay giữa đường trước chợ Vạn thọ, mai, cúc khoe sắc tươi Gian hàng cây trái sắp thẵng ngay Cam, quit, lê, nho. đủ, cầu, xoài Dưới đất dừa, ổi, sầu riêng, quách Rao hàng mời khách buổi chợ mai Giữa chợ trên, quần áo vải may Trưng bày đủ sắc, đủ các size Giày dép, kẹp, nón mọi lứa tuổi Kìa ! Cô con gái thử áo dài Bên hàng thềm gạch vẩn như xưa Hàng quán uống ăn đắt khách trưa Bún nước lèo, heo quay, bánh giá Vẩn là đặc sãn mọi người ưa ! Hàng kẹo, bánh mứt gói quà xuân Người mua, kẻ bán cãnh tưng bừng Chợ Tết rộn ràng, người nhộn nhịp Viếng chợ năm này nhớ người xưa ! Hàng thịt ở giữa chợ đông người Các bà nội trợ chọn thịt tươi Kho ba ngày Tết, thêm dưa giá Hủ qua dồn thịt cúng ba mươi Đường Lý Thường Kiệt, chợ rau rươi Sỉ lẽ dập dìu rất đông người Su hào, carot, cãi Đà Lạt Bầu bí, rau đồng bó xanh tươi Cuối chợ hãi sãn, tôm cá, cua Nghêu sò ốc hến, rắn rùa, lươn Đang nhảy soi sói tìm đường sống Tha hồ nướng , hấp, nấu canh chua Trà Vinh rộn rịp đón Xuân sang Những con đường củ khéo trang hoàng Thăm Tết Quê hương tình nồng ấm Bạn củ đâu rồi ? buồn chứa chan !

Trà Vinh Xuân Canh Dần 2010 Kim Chung Hoàng Vủ

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 39

NHÚM TÓC CÒN LẠI CỦA MÁ Kính dâng hương hồn má.

Huỳnh Tâm Hoài Má tôi, người mẹ miền đất giồng.Tôi nói

như vậy là vì vùng đất nơi má được sinh ra, lớn lên cho đến khi có chồng con và đến cuối đời ở đây: Miền đất giồng. Gọi là miền đất giồng vì vùng đất ở đây là vùng ven biển. Qua sự bồi đấp của nhiều năm tháng, những con giồng hình cong như lưởi sóng cộng với sự lắng động của giòng Cửu Long từ vùng sâu chảy về gặp sức dội của áp lực biển Đông bẻ ngoặc, chia nhánh chằng chịt khắp một vùng rộng mênh mông. Vùng đồng bằng sông Cửu Long được thành hình qua nhiều năm tháng. Một cánh đồng Miền Nam phì nhiêu định hình từ bên trong, ăn dần ra với những con giồng bao giáp biển. Những loại cây rể thân như mấm, vẹt, tràm, ráng, bần…giử phù sa và cát biển làm nên những cù lao, cồn, láng, bãi…dài suốt từ Cà Mau,Trà Cú, Long Toàn, Cầu Ngang…. Vùng đất ngày xưa “Chim kêu,vượn hú” dần dần được di dân từ miền Bắc, Trung, cả những di dân từ Trung Hoa đi qua ngỏ biển tấp vào, cộng lại với dân bản địa Cao Miên, quần tựu thành nhóm dân trộn hoà từ lâu đời, thành một vùng cá biệt: Dân Nam Kỳ Lục Tỉnh. Năm học lớp nhì hai năm má tôi vâng lời ông bà ngoại lấy ba tôi lúc tóc còn để kẹp. Má dùng dằng một mình mà không dám cải ý cậu. Má gọi ông ngoại bằng cậu, trong gia đình ít ai chú ý tới. Thường khi dân miền Nam chánh cống thì gọi ba, má. Chỉ người vùng ngoài Bắc mới gọi là Cậu. Trong các dịp thanh minh về quê ngoại tảo mộ. Tôi thấy mộ bia ông ngoại ghi họ Trịnh. Tôi có thắc mắc và hỏi má: Má ơi! Má họ Trần, sao mộ bia ông ngoại lại họ Trịnh? Má nói má cũng không biết, chỉ làm theo lời trăn trối ông ngoại muốn như vậy. Sau nầy khi học qua lịch sử Việt thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Chúa Trịnh hùng cứ phương Bắc. Chúa Nguyễn thua chúa Trịnh chạy dần về phương Nam. Tôi đoán chắc ông bà tổ tiên bên ngoại trước đây họ Trịnh ở tận ngoài Bắc, vì sợ chúa Nguyễn trả thù nên đổi lại họ Trần. Luận cứ nầy rất phù hợp với lịch sử và lời trăn trối của ông ngoại. Tôi đoan chắc là đúng, mặc dù má nói là không biết. Ông ngoại ít nói nhưng cả quyết. Khi được dượng hai, chồng của dì hai, chị ruột của má giới thiệu gia đình ông bà nội là người khách trú làm ăn buôn bán ở làng Long Hiệp, quận Trà Cú. Ông ngoại nói: Được! Ít tháng sau là đám hỏi và năm

sau đó làm đám cưới. Cuộc hôn phối của ba má rất thuận thảo và mau chóng. Ông bà ngoại sống bằng nghề làm rẩy. Miếng đất giồng hơn ba công và thêm mảnh ruộng bốn công nằm kề. Miếng đất rẩy là một vùng đất pha cát màu hơi sậm, nhưng vì cát nhiều nên việc tiêu tưới rất cực nhọc. Miếng ruộng thì chỉ làm được một mùa. Mùa khô nức nẻ, mùa mưa nước sấp lún tới gối. Đời sống vất vã quanh năm mà chỉ đủ ăn không dư giả. Ông ngoại muốn gả má về chợ buôn bán cho đở cực hơn.

Quê hương tôi Miền Nam

Trước ngày đám cưới bà ngoại dạy má nấu vài món ăn thường nhật đơn giản như kho cá, nấu canh. Ngoại nói: Gia đình người Tàu lai người ta không khó đâu nhưng ít nhứt phải biết nấu vài món ăn. Năm ấy má tròn 18 về sống với ba ở Long Hiệp. Làng nầy cách xa nhà ông bà ngoại một con giồng lớn. Nếu đi tắt xuyên qua những đám rẩy, một cánh đồng thì đến con giồng mang tên xã Mỹ Hoà. Nếu đi đường xe đò thì đánh một vòng hơi xa. Thời đó xe đạp còn hiếm, đi bộ thì quá lâu mặc dù đường ngắn, nên nếu có dịp về nhà ngoại thì má dùng xe đò đi từ Long Hiệp lên Trà Vinh và từ trà Vinh qua chợ quận Cầu Ngang đến xã Mỹ Hòa. Ngày sinh ra tôi, ông nội không cho má làm gì cả. Ông nội mới có đứa cháu đích tôn nên muốn má chỉ lo giử tôi cho chu toàn. Ông nội có một đời vợ ở bên Tàu nhưng chưa có con. Những năm miền đất ông nội sống ở bên Tàu đói rách, ông một mình quảy gánh tìm đất sống về phía Việt Nam. Cuộc trôi dạt theo các thương thuyền người Hoa của ông đã tấp vào bờ biển phía Nam và định cư tại đây. Ông nội không thố lộ việc nầy cho đến khi bà nội sinh chú Năm, em trai kế của ba thì bà nội bên Tàu tìm đường liên lạc được với ông nội. Bà

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 40

nội trước có ý xin chú Năm đem về Quảng Đông nuôi. Bà nội đẻ chú Năm không chịu. Bà nội trước trở về Trung Quốc và bặt tin luôn cho tới cuối đời ông nội. Lúc còn non trẻ, ông nội đu đưa tôi trên tay suốt ngày. Ba tôi gánh vát hết việc mua bán cái tiệm chạp phô nhỏ ở xóm Chùa cách Xã Long Hiệp chừng một cây số. Má chỉ lo dọn dẹp nhà cửa và nấu nướng những bửa cơm cho gia đình. Bà nội cũng hiền lành, cho nên cuộc đời làm dâu của má không mấy vất vã. Khi có tôi thì má được ông bà nội thương nhiều hơn. Tôi thường được má ôm vào lòng, ngồi trên chiếc võng đan bằng vỏ cây bố đu đưa. Má đọc như hát bài thơ bằng Pháp ngữ “Voici ma main” mà má học lúc còn nhỏ, đôi lúc là những câu ca dao ngọt ngào trầm bổng: “Má ơi! đừng gả con xa, chim kêu vượng hú biết nhà má đâu” hoặc “ Cây khô tưới nước cũng khô, vận nghèo đi tới xứ mô cũng nghèo”. Ông nội thì hát tiếng Tiều Châu và dạy tôi bập bẹ “khìa cai úa chìa pừng” ( lấy đôi đủa ăn cơm)… Khi tiếng mõ cùm cum gỏ mỗi đêm. Khi những tiếng chó sủa oăn oẳn trong xóm. Thì xóm làng bắt đầu xao động. Bộ đôi Việt Minh bắt đầu tuyên tuyền, cổ động chống Pháp cứu nước. Cán bộ Việt Minh khuyến khích thanh niên tham gia đoàn thanh niên cứu quốc. Đêm đêm vác tầm vong tập bước đi một hai. Ba tôi và chú tôi cũng có đi tập dợt vài lần. Nhưng sau đó tìm cách thối thoát. Cũng vì chuyện nầy, khi người Miên theo lính Tây nổi lên phong trào “Cáp Duồn”(giết người Việt) ba và chú Năm bị bọn họ cột tréo tay lôi ra đồng với chiếc phản kéo ngay định chém. Rất may lúc đó Ông chủ của tôi có người con tu lục ở chùa xin với Lục Cả can thiệp kịp thời nên được chúng tha. Ông nội mất vài tháng sau đó vì cơn bạo bịnh. Cả xóm chùa ùn ùn sơ tán vì sợ bọn Miên giết hại. Ba má đành bán tuôn bán tháo cửa tiệm, thu gom đồ đạt, gánh gồng chạy tản cư theo sự hướng dẩn và kêu gọi của phong trào Việt Minh về vùng “Giải Phóng”. Một số người chạy dạt lên Trà Vinh. Ba má chạy tuốt xuống Cồn Cù. Sau nầy ba cứ chặc lưởi là đã lầm đường, đưa gia đình vào nơi nguy hiểm, cơ cực. Má thì sao cũng được cứ tin nơi ba. Những năm tháng nơi đất Cồn, má vất vả hơn vì phải lo cho anh em chúng tôi và lo kiếm sống hằng ngày ở chợ bằng nghề lăn bột chuối chiên. Ba thì mướn ghe xuôi ngược chở hàng mướn, có lúc chở muối từ Cồn Cù về Long Toàn hoặc xa hơn là Trà Vinh để bán và mua một số đồ bán cho lối xóm ở đất Cồn. Chuyện chèo chống từ vùng ngoài vào

vùng trong rất nguy hiễm vì các nút chặng của bộ đôi Việt Minh và các trạm kiễm soát của Lính Tây. Sau thời gian quân Nhựt Bổn thắng Pháp trong trận thế chiến. Quân Pháp thúc thủ để cho quân Nhựt Bổn chiếm toàn Đông Dương. Khi Mỹ thả hai trái bom trên Trường Kỳ và Quang Đảo. Nhựt đầu hàng Đồng Minh. Pháp trở lại Đông dương. Lần nầy Pháp mở toàn lực ruồng bố phong trào Việt Minh. Cồn Cù dậy sóng. Máy bay đầm già quần bay ngày ngày trên các vùng như Cồn Cù, Cồn Ngao, Mé Láng…Cà nông từ Long Toàn thụt về Cồn ầm ầm mỗi đêm. Máy bay khu trục trút bom hằng ngày. Có khi lính Tây cùng lính khố xanh đổ bộ lên Cồn bắn giết mọi người dân ở đây. Mỗi lần như vậy bọn họ đốt phá nhà cửa tan hoang. Ba quyết định đưa gia đình trốn khỏi đất khổ để về thành tìm sống. Má lo thu xếp đồ đạt và cùng ba chèo chiếc tam bản với ba anh em chúng tôi trốn khỏi đất Cồn. Hồi đó V.M. không cho dân bỏ đi, mặc dù họ chẵng bảo vệ được ai. Cồn Cù cách Long toàn không bao xa, nhưng vì phải vào các xẻo rạch và len lỏi tránh các chốt trạm bộ đội V.M. nên cả đêm mới ra đến một xẻo nhỏ gần chùa Miên. Chú Năm được ba liên lạc trước chờ đón ở đó và đưa gia đình tôi về ấp chợ Long Toàn. Lúc chạy loạn chú Năm, chú Sáu và bà nội ở đây. Ba vì nghe theo ông thầy dạy học lúc còn nhỏ khuyên nên về vùng giải phóng. Một điều lầm lẩn mà ba sau nầy cứ tiếc hùi hụi vì những người chạy lên Trà Vinh sinh sống trở nên giàu có. Má có cằn nhằn ba đôi chút nhưng với tính chịu nhẩn má ít khi cải cọ với ba. Má chỉ lâm râm cầu Trời niệm Phật khi gặp nhiều vấn nạn. Anh em chúng tôi nằm trong vòng ôm của má, lùi trong bùn dưới đám bần và ô rô trong vùng trũng lầy khi máy bay khu trục vần bay trên đầu thả bom, nhả đạn vèo vèo. “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm bồ Tát Ma Ha Tát….” và nhiều nửa….. Anh em tôi thì thiếp ngủ dưới bùn ngập ngang mủi, quên nghe tiếng thét gào của bom đạn. Tôi như thuần thuộc những câu niệm của má. Hình như cho đến khi lớn lên đi vào đời, tôi cũng thường niệm những câu như má tôi thường đọc khi có một điều mong muốn nào…cả khi trong tình yêu cũng vậy. Má thường gội đầu bằng nước tro. Má dùng tro nhà bếp, bỏ vào thao nước ngâm một hồi lâu, chắt nước trong vào cái tô to. Má xoả búi tóc, khom lưng cuối gập người về phía trước cho tóc rủ hết xuống, một tay cầm cái tô nước trong màu hơi xẫm đổ từ từ vào đỉnh đầu. Má dùng tay còn lại vò từ đỉnh đầu xuống dòng tóc. Sau khi đổ hết tô nước,

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 41

má dùng cả hai tay vò chùm tóc rỏ nước. Cuối cùng má vói tay cầm cái cáng chiếc gáo múc nước, múc từng gáo xối từ đỉnh đầu để rửa sạch nước tro gội. Sau nhiều lần xoa rửa và vuốt nước, má dùng cái khăn rằng tiếp tục vuốt cho dòng tóc tạm ráo. Sau cùng má đứng thẳng người lên, hấc mớ tóc ra phía sau. Nước còn đọng trong tóc làm ướt vã lưng áo. Nắng buổi trưa hâm hấp nóng. Má bước vào mái hiên ngồi trên chiếc ghế đẩu. Má tiếp tục nghiêng đầu hong nắng cho khô tóc và dùng chiếc lượt làm bằng sừng trâu chảy cho tóc suông. Thường khi như vậy tóc bị tẻ hoặc bị đứt ra dính vào kẻ lượt. Má dùng hai ngón tay kẹp vuốt ra mớ tóc rời và quấn lại từng chụm nhỏ. Trong căn nhà vách lá tôi thường thấy vài nơi có vài chụm tóc được má nhét vào kẻ vách. Đôi khi vì bận rộn má quấn vội mớ tóc, trùm chiếc khăn rằng quấn túm lại và tất bật với công việc nhà. Sau nầy có khi má dùng trái bồ kết nấu trong nồi nước cho sôi, để nguội, gạn nước trong để gội đầu. Suốt một thời tuổi nhỏ gần má, tôi quen mùi với mái tóc má như một cái gì thân thiết lắm. Sau nầy gia đình khá giả và sản phẩm xà bông gội được phổ biến. Má không còn gội đầu với nước tro hoặc trái bồ kết thường như trước đây nhưng đôi lúc má lại gội đầu theo lối cũ. Má nói: Gội bằng nước tro, hoặc trái bồ kết sạch hơn và không bị ngứa. Cho dù thế nào tôi vẫn thoảng nhớ mùi hương từ mái tóc má mỗi lần có dịp ngồi gần má. Năm tháng dài trôi qua.Từng đứa con ra đời.Than lửa hong từng đứa. Mái tóc má thưa dần qua chín đứa con. Má cùng ba cơ cực trong cửa tiệm bán vải. Mái tóc má thưa dần. Má dùng mớ tóc mượn để búi thêm vào tóc. Anh em chúng tôi lớn dần. Cho tới đứa em gái út của tôi vào trường học thì mớ tóc má tôi bạc đi nhiều cọng. Chiến tranh mỗi lúc mỗi hung hản.Tôi vào lính, kế đến hai đứa em kế tôi cũng vào lính. Các em còn lại đứa vào trung học, đứa vào đại học. Má cùng ba tiếp tục những ngày tháng với công việc mua bán. Chiến tranh kết thúc. Tôi bị đi tù. Sản nghiệp của ba má dành dụm bấy lâu nay phút chốc đã tiêu tan.Tiệm bị đóng cửa niêm phong vài ngày rồi cho mở cửa lại bán với giá qui định của nhà nước “Cách mạng”. Sau đó một ngày nhà nước “Cách mạng” đổi tiền. Ba má cầm $200 tiền đổi với đôi mắt khô trao tráo, không còn giọt nước mắt nào để chảy cho sự đau đớn đến tột cùng nầy! Các em tôi bước vào tương lai mù mịt! Tóc ba bạc trắng. Tóc má bạc trắng.

Trong những ngày đi tù, khi gia đình có cơ hội đến thăm nuôi. Tôi nhìn hai đứa con vô tội đang trong tuổi ngây dại, nhìn vợ tôi buồn rầu, nhìn mái tóc má bạc thưa, nhìn đôi mắt quần thâm mờ mây vì âu lo của má.Tôi nuốt dòng lệ chảy, rủ lòng tê dại đớn đau. Ôi cơ khổ nầy ai bày ra cho cả nhà tôi và cả miền Nam thống thiết!? Sau ngày đi tù về, tôi là tên ngoại loại với cái xã hội thành kiến của bọn chiến thắng đang cầm quyền. Ba má thúc dục tôi và cả mấy đứa em tôi phải tìm đường vượt biên.Với một mớ vàng còn lại, ba má lo cho các em tôi lần lượt đi vượt biển bằng hai chuyến đi. Chúng gặp nhau ở đảo Galang Indonisia. Các em tôi gồm đứa em gái thứ năm, vợ chồng thằng thứ sáu, thằng em thứ tám và thằng em thứ chín vượt thoát được sang Úc. Tôi vì mới đi tù về nên rất sợ không dám đi. Ba tôi lo cho vợ con tôi đi mấy lần mà không có kết quả. Đến lượt tôi quyết ra đi vì bị bức hiếp và phân biệt đối xử quá ngộp hơi. Chuyến đi thất bại. Tôi bị bắt. Tôi bị đưa vào trại lao động cưởng bách hơn một năm rời rả thân xác. Sau cùng tôi được ra đi với diện con lai. Miếng ván trên dòng nước xoấy. Tôi vớ được và bám vào nó. Tôi xuất cảnh. Nỗi mừng vui khôn tả vừa đến là theo sau tin má chết trong một tai nạn ở quê lúc tôi vừa nhận được giấy xuất cảnh. Tôi khóc thãm thiết vì sự ra đi bất ngờ của má. Lúc đó ba má và đứa em gái út thứ mười cũng được giấy xuất cảnh sang Úc đoàn tựu với mấy đứa em vượt biên năm 1979. Sau khi chôn cất má. Ba cùng đứa em gái út đáp phi cơ sang Úc. Ba sang Úc được gần một năm định cư. Vào tháng 2 sau Tết, mấy đứa em gọi điện thoại cho hay ba bị bạo bịnh. Ba mất sau cuộc giải phẩu gan chừng hơn hai tuần sau đó. Tôi không đi sang Úc để nhìn ba lần cuối vì tôi mới vào đất Mỹ. Hai cái chết của ba má đều vắng tôi. Cho tới nay, đôi khi ngồi láy xe trên đường từ nơi làm việc về nhà, nước mắt tôi tuôn trào khi nhớ đến song thân! Hơn mười năm tôi mới có dịp trở lại Việt Nam. Nhìn quanh quất căn nhà thân yêu, tôi mơ màng hình bóng ba má và các em tôi như còn thoảng đâu đây với khung giường, chiếc bàn, chiếc ghế…Tôi lần đi nhìn từng nơi. Tôi sờ từng chổ. Căn nhà vắng lặng! Tôi ngồi khóc một mình. Con cắc kè ở ở đâu đó trong một gốc nhà kêu “Cắc kè” ba tiếng. Tôi mơ hồ kêu: Ba má ơi! Chiếc tủ quần áo đặt kế khung giường ngủ của ba má ngày nào. Tôi mở cánh cửa nhìn vào. Một số quần áo cũ còn đó, mùi hương cũ phảng

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 42

phất thoát ra. Tôi nhấm mắt mơ màng da diết nhớ thương những ngày tháng đã qua! Kéo một ngăn kéo nhỏ trong tủ áo, tôi bắt gặp một gói vải mà lớp vải bao đã vàng ố. Đây là chiếc khăn tay của má gói một số giấy tờ căn cước, vài manh giấy ghi kinh Phật. Giửa hai thẻ qui y của ba má có lẩn một nhúm tóc bạc. Tôi nhớ có lần má nói với tôi là sẽ xuống tóc xuất gia.Tôi xin má: Má ơi! Con biết tính má rất lo lắng cho gia đình, má chưa dứt được mọi chuyện đời, xin má đừng xuất gia vội! Có lẻ má nghĩ lại và bỏ ý định xuống tóc xuất gia. Má để nhúm tóc nầy như một lời nguyền xuống tóc?Tụng niệm kinh kệ hằng ngày, trường chay từ khi bà ngoại mất. Lúc đó má chỉ mới chừng hơn 30 tuổi. Má sẳn sàng giúp đở, phát chẩn cho người nghèo. Mỗi mùa lể Vu Lan má mua từng bao bố gạo để trước nhà phát cho các gia đình nghèo khó. Ở chùa thì má chi trả cho mọi chi phí chay đàn cho bá tánh thập phương đến chùa. Má sống rất đơn giản. Mớ quần áo của má trong chiếc giỏ mà đi đâu má cũng mang theo cứ lấy dần ra cho những người thiếu thốn. Ngày má mất, ba soạn cái giỏ đồ của má ra chỉ còn lại một bộ đồ duy nhất. Ba lắc đầu: Má con có nhiều đồ, bả cho hết...bây giờ chỉ còn có một bộ! Trước đây tôi cũng không để ý. Mỗi lần má tắm xong thay đồ sạch thì má đem giặt ngay bộ đồ dơ. Bây giờ nghe ba nói tôi mới vỡ lẻ! Tôi bốc ra những sợi tóc bạc ngày xưa của má để lên bàn tay. Tôi đưa bàn tay với nhúm tóc lên mủi. Tôi nhấm nghiền đôi mắt. Mùi hương thoảng nhẹ mơ hồ trong ảo giác. Tôi khóc òa lên như một đứa trẻ trong căn nhà cũ quạnh vắng buồn hiu!

HƯƠNG NHỚ

Thưở nhỏ hay nép mình bên má Mỗi lần ba la mắn con hư

Vòng tay má đón con che chở Những làn roi nhè nhẹ đánh nư

Hương tóc má thơm mùi bồ kết Vừa mới gội còn thấm áo vai Con khẻ liết nhìn lên tóc má

Một vừng đen thẫm rẻ đường ngôi

Tóc má tháng ngày soi ánh nắng Cơ cực nuôi con tóc úa màu

Những sợi hoe vàng đầu chót tóc Từng mấy gian nan má gánh vào

Ba năm từng đứa con nối gót Chín đứa bòn hơi sức má gầy

Hương tóc một mùi thơm bồ kết Thấm hồn mỗi đứa một bầu thương

Con lớn vào đời làm lính trận Xa má những năm tháng phiêu bồng

Mỗi bận có về thăm làng xóm Con ghiền hương tóc má gần con

Rồi cuộc thăng trầm đau vận nước Tù tội con đành gảy súng gươm! Lưu đày rừng lạnh U Minh vắng Lặn lội đường xa má đến thăm

Nhìn tóc mẹ giờ đầy đớm bạc Đôi mắt má buồn thương nhớ con

Áp vào hương tóc con hỏi má Má ơi! Hương tóc cũ không còn!

Những giọt mồ hôi đường xa đến Hương nào xót mặn má tìm con

Vạt áo ướt đầy mồ hôi chảy Hương bay chắc má lắm mõi mòn

Má ơi! Giờ cách xa viễn xứ Má về thiên cổ bóng hạc xa Mộ lạnh bên kia bờ quê cũ

Bồi hồi con nhớ tóc hương xưa

Huỳnh Tâm Hoài (Sacramento mùa lể mẹ năm 2011)

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 43

NGƯỜI HÀNG XÓM MỸ Võ Vĩnh Kim

Gia đình Hai Dựng từ khi được Hội Nhà Thờ Lutheran bảo lảnh định cư tại làng Falconer nầy đã hơn 5 năm rồi. Falconer village là ngoại ô của thành phố Jamestown, một thành phố nhỏ ở miền cực tây tiểu bang New York với dân cư trên dưới 35,000 người mà thôi. Ở nước Mỹ nầy, thành phố có vài chục ngàn dân cư đã là nhỏ rồi, nhưng Falconer village lại càng nhỏ hơn, chỉ có hơn hai ngàn dân mà toàn là người Mỹ da trắng, nhưng chỉ có gia đình Hai Dựng lại là Vietnamese ! Do đó hầu hết người hàng xóm Mỹ đều biết gia đình Hai Dựng, tuy rằng họ không biêt Hai Dựng tên gì và cũng chưa bao giờ có dịp bắt tay hay chào” hello” hay “hi” với Hai Dựng, nhưng họ thường kêu Hai Dựng là “Vietnamese guy” còn các con của Hai Dựng thì họ gọi “ Vietnamese kids”. Hai Dựng sống ở đây hơn 5 năm rồi nên biết Falconer có vài đặc điểm về địa lý cũng như người Mỹ da trắng ở đây. Có hai sắc dân chính trong thành phố nầy là người Mỹ gốc Thụy Điển, và người Mỹ gốc Ý Đại Lợi. Hai Dựng có người bạn hàng xóm ở cách nhà mướn cũ không xa và cùng đi chung nhà thờ Lutheran là Ô Daniel Johnson và vợ là Ellen, gốc Thụy Điển có mái tóc blond thật mịn; và Ông Mục Sư tên Wilson Bergstrand và bà vợ là Dolores cũng người Thụy Điển và hầu hết các giáo hữu Tin Lành phái Lutheran cũng người Thụy Điển. Hai Dựng cũng có một người bạn thân làm cùng sở là Franco Margalio gốc người Ý Đại Lợi có mái tóc đen cũng như Hai Dựng, anh nầy đạo Catholic.

Hôm nay là ngày đầu tiên gia đình Hai Dựng dọn về nhà mới mua ở đường Elmwood cũng trong thành phố Falconer nhỏ bé thanh bình, nhà mới chỉ cách nhà muớn cũ chừng hai km mà thôi. Khi dọn thì các người Mỹ cùng nhà thờ Lutheran phụ giúp. Trong khi mọi người đang bận rộn với công việc thì Ông Don Anderson qua nhà kế bên nói gì với Ông hàng xóm mà Hai Dựng cũng chẳng hiểu hai người nói nhau những gì. Khi Ông Don Anderson trở lại thì bảo Hai Dựng một câu với vẻ lo âu: - Do not let your children play in the neighbor’s yard. Hai Dựng chỉ trả lời một tiếng “ yes” thì Ông Anderson tiếp: - The man does not seem to be pleased with the new neighbor…

Hôm sau, Hai Dựng nhìn qua nhà ông hàng xóm bên phải thì thấy có một sợi dây nylon đỏ lớn bằng ngón tay căng rất thẳng chia rõ ràng ranh giới đất giữa sân nhà ông ta và nhà của Hai Dựng. Tư nhiên Hai Dựng thấy hơi lo và buồn buồn cho thân phận tỵ nạn cô đơn nơi xứ lạ quê người. Hơn 5 năm về trước bỏ xứ ra đi cũng vì bị kỳ thị bởi những người bản xứ nay lại bị ông hàng xóm Mỹ nầy cũng có vẻ kỳ thị nữa. Rồi bỗng chốc Hai Dựng tự đặt cho Ông Hàng Xóm nầy cái tên Mr. Nylon Line. Nếu Mr. Nylon Line không thích mình cũng là chuyện bình thường mà thôi vì kỳ thị chủng tộc là truyền thống trong lịch sử Mỹ. Hai Dựng kêu bốn đứa con cùng một lúc và nói : - Này các con, đừng qua sân Mr. Nylon Line bên kia nghe, có thấy hôn, ông già đó thấy mình dọn đến, ông ta căng dây làm ranh đất đó. Đứa con gái lớn nói : - - Ông già thật khó chịu. - Thì đâu có biết ông ta thế nào, tốt hơn là các con đừng chạy qua sợi dây nylon line mà ông ta giăng làm ranh thì ok.

Một hôm sau, trong ánh nắng chiều dịu nhạt của mùa hè nơi Bắc Mỹ, sau giờ tan sở, Hai Dựng vừa bước chân vào nhà thì thấy trên bàn có đĩa bánh cookies trên còn phủ lớp nylon thật trang trọng, Vợ Hai Dựng, Liễu chỉ vào đĩa cookies nói : Của bà Betty, bà tự giới thiệu là Betty, bà hàng xóm đối diện phiá trước nhà mình đó, Bà cho đĩa bánh và còn tuơi cười nói “Welcome to neighborhood”. À còn có Bà Ellen nữa, bà đến nói chuyện cho đến xế thì bà về nấu ăn rồi.

Hai Dựng thấy an ủi và ấm áp khi được nhiều sự trợ giúp của những người trong giáo hội dù mình chỉ là một người Việt tỵ nạn . Giả rằng giờ nầy mà còn ở Việt Nam thì không biết có làm chủ được cái nhà như thế nầy không, và các con có được đi học không hay là phải bỏ học vì các kỳ thi bị loại vì cách chấm điểm rất quái dị, điểm tốt không phải do học giỏi mà do liên hệ lý lịch.

Đã một tuần lễ trôi qua mà sợi dây nylon line vẫn còn nguyên đó. Mr. Nylon Line cắt cỏ phía bên ông ngắn gọn. Sáng nay, Hai Dựng đang đội cái xe station wagon lên để thay nhớt phía sân bên trái, phía giáp ranh với nhà Ông Walker, tên Ông là Bob, nhưng Hai Dựng vẫn gọi Ông là Mr. Walker vì sự kính nể sơ giao. Như mọi sáng, Mr.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 44

Walker sau khi chạy bộ 10 miles, ông chậm rải đi ngang nhà Hai Dựng , Ông Walker nói : - Hey Dewey (âm tương đương Hai Dựng), có cần cái wrench để mở oil filter không, tôi có đủ thứ đồ nghề, cần gì cứ nói, đừng ngại. Thật là đúng lúc. Hại Dựng đang cần cái wrench để vặn mở oil filter đây. Trong khi đó thì Hai Dựng chưa biết tên thật của Mr. Nylon Line, có lần thấy ông ta phía sân sau, Hai Dựng đợi ông ta nhìn qua để Hai Dựng giơ tay chào để làm quen nhưng Mr.Nylon Line vẫn vô tình. Hai Dựng cảm thấy có điều gì không an tâm trong sự giao tế thông thường của người hàng xóm. Hôm nay là ngày chủ nhựt, sau khi đi nhà thờ Thiên Chúa Giáo về, vợ chồng thắng bạn người Ý tên Franco Margalio và hai con sẽ đến cùng ăn trưa. Đúng giờ hẹn. Franco đến, nhưng chưa vào nhà Hai Dựng ngay vì còn đang đứng ngoài sân nhà Mr.Nylon Line và trò chuyện cùng ông. Chốc lát sau, chào hỏi theo kiểu Mỹ, Franco ôm hôn vợ Hai Dựng trong khi Hai Dựng cũng ôm hôn Antonetta ( vợ của Franco), và bắt tay vui vẻ với các trẻ con. Franco nói: - Ông Joe Gatta, người hàng xóm của mầy là bạn đồng đạo với tao, ông bà Gatta cũng là người Ý, cùng đi chung nhà thờ.

Hai Dựng miển cưởng đáp “ Vậy à, nhưng ông ta nhìn gia đình tao xa lạ qúa. - Tao có nói với ông ta mầy là bạn cùng sở làm và là bạn thân của tao nữa.

hàng xóm

Tiệc vui, thức ăn chính là spaghetti do Antonetta nấu cũng như các lần trước ở nhà mướn cũ. Trong bửa ăn họ nói nhiều về phong tục tập quán của từng dân tộc. Họ vẫn gọi nhau bằng tên ( first name) thân mật , thỉnh thoảng cùng phá lên

cười. Thỉnh thoảng Hai Dựng có nhắc đến Ông Joe Gatta. Franco nói ông ta cũng tốt bụng nhưng hơi dè dặt lúc đầu với những người xa lạ. Franco cam kết : - Tao biết Joe từ lâu, ông ta rất sốt sắng trong công việc, mặc dù nghỉ hưu mấy năm nay, nhưng ông vẫn nấu thức ăn ngon lắm cho nhà thờ khi có lễ hội. Món spaghetti mà Antonetta nấu là học từ recipe của Joe đấy.

Đã hai tuần lễ từ ngày dọn về nhà mới, trong sở làm Franco thường nói chuyện với Hai Dựng về Joe Gatta, Hai Dựng cần phải tạo một dịp để nói chuyện với Joe. Vì là mùa hè, “ day light saving time”, vặn đồng hồ ahead một giờ, nên chiều nay sau khi tan sở ánh sáng ngày còn nhiều ở Bắc Mỹ. Hai Dựng định về sẽ cắt cỏ vì sân cỏ bên nhà Hai Dựng đã dài hơn bên nhà Joe quá nhiều.

Trong nhà, vợ Hai Dựng , Liễu còn đang nấu cơm chiều trong nhà bếp, chỉ có hai đúa con gái đã về nhà. Thằng con trai lớn thì ở sân chơi football đội thiếu nhi, cón thằng nhỏ thì còn chơi baseball. Khi vừa về đến nhà thì một đứa con gái liền nói: - Ba ơi, Ông Gatta cắt cỏ sân nhà mình rồi. Không biết tại sao khi ổng cắt cỏ sân nhà ông , ổng cắt luôn phía bên mình nữa. - Vậy cũng tốt, con có nói cám ơn ông không ? - Có. Con nói “ Your are so nice, thanks for your kindness.” Rồì ông nói “ Your ‘re welcome, your’re my good neighbor” Nghe thế Hai Dựng rất vui , không những vì ông già Nylon Line đã cắt cỏ dùm mà vui vì ông già đã đổi tính. Hai Dựng nhìn ra sân thì dây nilong đã tháo gở và phần cỏ bên sân phía giáp ranh Joe Gatta đã cắt bằng phẳng liền mí với sân nhà của Joe. Sau cơm chiều hôm đó, Hai Dựng thấy ông Joe Gatta đang lum khum trong garage bên kia, Hai Dựng không bỏ lở dịp may, bạo dạn tiến đến chào ông và cám ơn ông về cắt cỏ. Trong lúc trò chuyện làm quen, Hai Dựng vẫn gọi ông là Mr. Gatta, ông già bảo Hai Dựng cứ gọi ông là Joe, thế thôi mới thân mật. Theo lối xưng hô của Mỹ thì không phân biệt tuổi tác, khi thân nhau cứ gọi tên trong lúc trò chuyện. Từ hôm đó ông gọi Hai Dựng là Dewey, còn Hai Dựng gọi ông là Joe. Joe còn tâm sự với Hai Dựng rằng: Joe đã nghỉ hưu hơn 10 năm rồi, ông đã làm cho Hảng Black Stone, chuyên sản xuất radiator cho hảng xe hơi Chrysler, ông mua xe mới hiệu Chrysler thì được bớt 10 phần trăm giá thị trường, ngoài ra Joe còn hứa với

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 45

Hai Dựng khi có trở ngại gì về Anh Văn hay bất cứ vật dụng gì thì đừng ngần ngại hỏi giúp. Hai Dựng từ biệt Joe với cái bắt tay thật chặt và lập lại lời cám ơn cắt cỏ.

Thời gian trôi. Gia đình Hai Dựng sống rất thoải mái và bình yên bên cạnh những bạn tốt không cùng nòi giống, khác màu da, khác phong tục , khác văn hóa. Dù vậy lòng vẫn khoắc khoải mong ngày về quê hương là Việt Nam. Mười mấy năm sống xa quê hương chưa bao giờ gặp lại người thân. Theo thời gian, hòa nhịp với nếp sống mới, những kỷ niệm đẹp dường như mờ dần trong khi những ký ức hải hùng thì vẫn còn in đậm, một câu mà Hai Dựng chẳng bao giờ quên “ Nguỵ quân, nguỵ quyền tập trung” kêu vang vang ngày nào. Càng ngày tình hàng xóm càng thân hơn, đặc biệt là sự thông cảm và gần gủi hơn giữa Joe và Hai Dựng. Mỗi khi Hai Dựng chở vợ con đi Canada chơi vào muà hè cũng bảo cho Joe và Roselyn ( vợ của Joe) biết và nhờ để mắt vào cái nhà dùm. Hai Dựng cũng biết rằng mỗi lần đi đâu cứ âm thầm mà đi thì khi về cái nhà vẫn còn đó, chẳng có một kẻ trộm nào trong village êm đềm nầy, nhưng cho Joe hay Roselyn biết là Hai Dựng muốn tạo một cảm tình hàng xóm mà thôi. Mỗi lần như vậy thì Joe nói “ mẩy cứ vui vẻ đi, tao sẽ trông coi nhà tụi mầy cho”.

Mùa đông tuyết phủ đầy đùờng, những đống tuyết thật to còn nằm ở hai bên lề đường do xe ủi đẩy vào hàng ngày. Muà đông mà có một hai ngày nắng ấm như thế nầy người dân địa phương bắc Mỹ gọi là Indian Summer, làm cho tuyết tan ra thành nước ban ngày rồi ban đêm khi nhiệt độ xuống dưới 32 độ F thì đông lại thành nước đá trên đuờng trơn trợt rất nguy hiểm khi lái xe. Đã một lần Hai Dựng đưa Liễu đi làm sáng sớm ngày chủ nhựt, khi xuống dốc, đạp thắng bớt tốc độ, chân đạp mạnh quá xe quay ngược đầu lại trên đường, may mắn vì ngày nghỉ không có xe trên đường lúc đó nên không tai nạn. Trong suốt mùa đông ở Bắc Mỹ trên nóc nhà tuyết đóng thành khối băng lớn, khi nhiệt độ tăng thì khối băng đó tan thành nước chảy xuống theo mái nhà, có khi rơi xuống nguyên khối rất nguy hiểm đến tính mạng. Vì vậy Hai Dựng thường dặn dò các con không bao giờ chạy chơi hay đi gần hè nhà trong mùa đông. Hôm nay Indian summer trở lại, trời quang đảng ấm áp lạ thường. Các con đi học chưa về đến, Hai Dựng và vợ cùng vào nhà thì thấy đồng hồ ré không đúng giờ, có dấu hiệu mất điện, Hai Dựng nhìn ra phía sau bên kia thì thấy Joe:

- Hi Joe, ông thế nào? Trời hôm nay ấm và đẹp quá. Joe nhanh nhẹn nói ngay: - Trời nắng đẹp, nhưng cũng gây tai nạn cho dây điện của nhà mầy. Ngạc nhiên, Hai Dựng hỏi rõ hơn: - Có gì xảy ra hay sao ? - Ừ,có . Nắng ấm tuyết tan nên khối tuyết trên nóc nhà mầy cũng tan dần đẩy nguyên khối nước đá rơi xuống cắt đứt dây điện nhà mầy. Ôi nguy nhiểm quá. Mầy biết không ? Tao nghe một tiếng “ầm” tao nhìn qua nhà mầy thì khối đá đã cắt dây điện rồi. - Rồi ông làm sao ? - Tao sợ hoả hoạn tao gọi ngay Sở Điện Lực, họ đến ngay, và 20 phút sau thì họ đã sửa xong. Dịch vụ miễn phí, mầy đừng lo. - Nếu ông không nói thì tôi đâu có biết những gì đã xảy ra. Cám ơn Joe. - Không có chi. Cẩn thận khi có Indian Summer.

Đông qua rồi hè sang, thời gian vô tình trôi. Chiều hôm nay Hai Dựng phải trở lại Chrysler dealer để lấy chiếc xe Phymouth Reliant về, hy vọng lần thứ ba nầy họ sẽ tìm ra đúng chỗ hư vì xe mới mua có mấy tháng, còn warranty. Hai Dựng hơi bực mình và biết rằng khi bán xe thì salesman nói ngọt lắm, nhưng khi xe có vấn đề thì họ dường như không quan tâm mấy, nhứt là Vietnamese guy nói tiếng Anh tiếng đuợc tiếng không như Hai Dựng. Đã ba lần. Ba lần mà vẩn còn tiếng kêu rất lạ mỗi khi quẹo qua quẹo lại. Tại dealer người thư ký nói : - Chúng tôi đã soát kỹ, xe ông không có vấn đề gì hết. Hai Dựng gắt giọng: - Sao lại không, hôm qua tôi đã chỉ ông manager Gullotti nghe rồi. Ông nói ông đã nghe có tiếng lạ mỗi khi vặn tay lái mà. Vui lòng cho tôi gặp lại ông Gullotti. - Sorry, Ông manager không có đây hôm nay, ngày mai ông có thể trở lại găp ông ấy ? Cuối cùng thì Hai Dựng đành phải lái xe về,cứ mỗi lần quẹo thì đôi khi tiếng kêu kỳ lạ làm cho Hai Dựng bực mình thêm. Vừa đậu xe thì Hai Dựng gặp Joe, Joe nói : - Xe mầy đẹp quá, tao sẽ mua một chiêc giống như chiếc nầy. Hai Dựng cản ngay: - Ông đừng có mua , chiếc nầy có vấn đề mà dealer họ chẳng tìm ra. - Vấn đề gì ?

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 46

Rồi Hai Dựng kể hết cho Joe nghe và cũng than phiền về dỉch vụ sửa chửa của họ. Joe nói: - Ở đây chỉ có một dealer bán Hiệu Chrysler, tao biết họ lịch sự và phục dịch tốt lắm mà. - Nhưng đối với tôi thì không, rất có thể là tôi không đủ ngôn ngữ Anh văn làm họ hiểu rõ vấn đề. - Dewey, bây giờ tao đề nghị như vầy nhé. - Thế nào Joe ? - Ngày mai mầy đưa xe cho tao, tao quen manager. Hảy để tao thử xem sao. Hai Dựng thoáng nhận ra rằng Joe là người Mỹ thì đối với người Mỹ họ sẽ giải quyết vấn đề nhanh hơn..Nghĩ thế Hai Dựng mừng ra mặt: - O K, Cám ơn Joe. Ngày sau, khi Hai Dựng đi làm về thì chiếc Reliant đã nằm ở drive way rồi. Liễu nói với chồng “Ông Joe nói xe đã sửa xong, anh chạy thử nếu còn nghe tiếng kêu kỳ lạ thì nói cho ông hay.” Hai Dựng mừng quá và lái xe thử vài vòng quanh xóm, cố lắng tai nghe thật kỹ , nhưng không còn nghe tiếng kêu kỳ lạ nữa. Hai Dựng đậu xe và qua bấm chuông nhà Joe. Roselyn mở cửa và kêu Joe. Joe bước ra mĩm cười đoán biết là Hai Dựng muốn nói gì. Hai Dựng mừng nói “ thank you”, trong khi Joe nói thêm “ Gullotti cũng là người Ý”. Chỉ có mấy bước trở về nhà mà Hai Dựng thấy lòng thảnh thơi, không còn lo nghĩ về tiếng kêu kỳ lạ của chiếc Reliant nữa. Vừa bước đi , Hai Dựng vừa nói thầm ‘ một tiếng nói của người thân giá trị gấp mười lần người lạ.” Hè qua rồi đông đến, Mọi sinh hoạt của Hai Dựng thật bình thường như sáng ra cào tuyết phủ trên xe rồi lái đi làm vào mùa đông. Muà hè thi không phải cào tuyết, ngày dài có nhiều thời gian lo sơn nhà, dọn dep ngoài sân. Thỉnh thoảng Hai Dựng cũng cắt cỏ nhà mình anh cũng cắt luôn cho Joe để đáp lại sự giúp đở của Joe. Bấy giờ hai đứa con gái lớn đã dọn về California, rồi đến lược thằng con trai kế cũng dọn đi theo hai chị nó, ở nhà chỉ còn lại vợ chồng Hai Dựng và thằng con Út tuổi vị thành niên, nhà trở nên rộng và trống vắng. Một hôm Hai Dựng báo cho Joe va Roselyn biết là sẽ vắng nhà 2 tuần lễ, nhờ ông bà Gatta để mắt vào cái nhà dùm. Roselyn bảo cứ đi và cho bà số phone ở California, trong trường hợp cần bà sẽ gọi. Vợ chồng Hai Dựng thật an tâm khi có người hàng xóm như ông bà Gatta. Trong thập niên 80, chưa có cellphone, nếu gọi long distance phải trả tiền mắc lắm nên Hai Dựng nói với Roselyn” khi nào

quan trọng bà hảy gọi, khi về tôi sẽ trả bill cho bà”. Bà bảo “Đừng lo, tao và Joe sẽ coi nhà cho”. Gia đình Hai Dựng sum họp với gia đình người em vợ sau 5 giờ bay ngày hôm qua. Bây giờ chỉ hơn 2 giờ trưa ở California, cũng đã hơn 5 giờ chiều ở New York, có người Mỹ gọi muốn gặp Dewey ( tức Hai Dựng), cầm điện thoại trên tay, bên kia đầu dây rõ ràng giọng quen thuộc của bà Roselyn Gatta - Dewey, tao nghe trong nhà mầy có tiếng nhạc, tao quan sát và nghe kỹ, có thể trong lúc rời nhà, mầy quên tắt cái radio. Hai Dựng ngạc nhiên : - Thật vậy à? - Đúng vậy. Tao không có chìa khóa để mở cửa vào tắt cái radio quái ác đó, mầy có gởi chìa khóa cho ai không ? - Không . Gịong bà Roselyn lo lắng : - Mầy có ý gì không ? tao muốn tắt cái radio đó ngay nếu đợi tới khi mầy về thì radio có thể bốc lửa cháy và thiêu luôn cái nhà của mầy. Hai Dựng lo lắng, một thoáng suy nghĩ Hai Dựng nói qua điện thoại : - Bà vui lòng đến nhà Dan Johnson chồng của Ellen đó, bà biết và thân với Dan mà.? Có tiếng“yes” bên đầu dây. Hai Dựng tiếp: - Bà bảo Dan mở cái cửa sổ hông, phía bên nhà bà, tôi không có khóa cái cửa sổ đó, bảo Dan chui vào và tắt dùm cái radio quái ác đó dùm. Cám ơn bà. - Tao sẽ bảo thằng Dan làm liền .Bye bye. - Cám ơn Roselyn. Hai Dựng thật cảm động và hảnh diện có những người hàng xóm tốt bụng như ông bà Gatta, Dan va Ellen Johnson, Bob Walker. . .Thái độ thân thiện của họ tạo thêm sự quyến luyến Falconer village thanh bình trong suốt 15 năm xa xứ VN.

An cư lạc “lão” ! Hai tuần hè ở Califrnia qua nhanh, Hè ở Cali thời tiết mát dịu trong khi ở Bắc Mỹ thì nóng oi bức, trái lại mùa đông ở Bắc thì gía lạnh còn ở Cali lại

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 47

ấm áp. Khi trở về Falconer Hai Dựng suy nghĩ đến sự di chuyển cả gia đình về Cali, nói cả gia đình chứ thực ra thì chỉ còn có phân nửa mà thôi. Ý nghĩ dời đi Cali theo đuổi Hai Dựng suốt một năm dài mà chưa có quyết định. Mùa thu, lá cây bắt đầu ngã màu vàng vài chiếc lá rơi bay luợn khi làn gió thu thổi qua. Tấm bảng “ House For Sale . . .” đứng đơn lẻ trước sân nhà của Vietnamsese guy gây ngạc nhiên cho người hàng xóm, nhứt là ông bà Gatta, chiều hôm ấy Joe Gatta khi gặp Hai Dựng ông phán một câu rất kỳ thị : -Dewey, mầy đừng bán nhà nầy cho người Da Đen Hai Dựng thật thà đáp: - Thực ra thì chưa có ai đến xem và trả giá. Nhưng tôi không nghĩ rằng Người Da Đen có thể sống được ở Falconer . Rồi Joe chuyển qua hỏi Hai Dựng về lý do dời đi trong khi gia đình sống ở đây thật thanh bình và hạnh phúc, và Joe nói một câu lấy lệ : - tao không muốn mầy dời di. Và sau đó Hai Dựng cũng còn nghe câu lấy lệ nầy thốt ra từ vài người hàng xóm để bày tỏ tình cảm chia tay với Vietnamese guy. Những gì đến đã đến. Ngày “ household sale” có Ellen đến giúp gia đình Hai Dựng bán tháo bán đỗ để ngày mai là ngày giao nhà cho chủ mới. Người chủ mới sẽ rất hạnh phúc khi dời vô, trong khi Hai Dựng và Liễu ( vợ Hai Dựng ) thì buồn man mác vì phải rời xa cái nhà thân yêu mà Hai Dựng bỏ công tu bổ trong suốt mười năm. Mười năm liền căn nhà đã vô tình chứng kiến sự khôn lớn của đàn con Hai Dựng và sự hạnh phúc của vợ chồng Vietnamese guy, căn nhà cũng là nhân chứng vô tư về sự thăng tiến tình cảm của Hai Dựng với người hàng xóm không cùng màu da. Rồi đây căn nhà nầy cũng sẽ nhìn thấy sự hạnh phúc của người chủ mới và có lẻ hạnh phúc nhứt là ông bà Gatta vì người chủ mới nầy không phải là Người Da Đen.

Võ Vĩnh Kim / July 1, 2011

Nếu tôi chết xin mang tôi ra biển

Nếu tôi chết xin mang tôi ra biển

Nhúm tro tàn cuốn theo sóng nổi trôi Tấp vào đâu dù hải đão xa xôi

Hay ven biển theo hình cong chử S Nếu Tôi chết mang ra vịnh Bắc Việt

Ngăn Giặc Tàu đang xâm chiếm biển Đông Để bão vệ quần đão Vịnh Hạ Long

Xuống Đồng Hới, Vinh và Cữa Việt Xin mang tro về miền Trung xanh biết Thăm Anh hùng đả tử chiến Hoàng Sa

Và bao người đả bỏ xác Trường Sa Giử lảnh hải cũa Ông Cha để lại

Tôi sẻ về thăm Quãng Nam, Quãng Ngải Cùng Ngư dân chống Tàu Cộng xâm lăng

Thăm Cam Ranh cùng Phan Thiết, Phan Rang Về Côn Sơn qua Cà Mau , Phú Quốc

* * * Nếu tôi chết xin mang tro ra biển Để tôi nhìn vùng lảnh hải Việt Nam

Cũa Ông Cha bao đời chống xâm lăng Dù cát bụi vẩn một lòng chống giặc !

Hoàng Vũ

Gió thu

Trần thế phong

Chiêm bao nữa giấc chừng mưa bụi Thấp thoáng em về tợ lá rơi

Ru cơn trường mộng đi về

Ơi em mê cãnh đường quê dấu hài Giật mình huyễn mộng còn say

Con sông nhánh đã chia hai hướng đời Thu phong cất ngọn tình ôi !

Lá hoa lã ngọn mây trời vần mưa Ru em tình động âm thừa

Ru ta trường mộng chưa vừa lòng đau...

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 48

Giai Thoaïi vaø Ñieån Tích

Vĩnh Thuận

Danh nhân trong lịch sử Việt Nam vừa nổi tiếng về thơ văn, có tài lương đống, đạo đức, lại tinh thông lý số chắc chỉ có một mà thôi, người đó là Tuyết Giang phu tử Bạch Vân cư sĩ Trình quốc công. Do vậy mà giới nghiên cứu về lý số người Tàu khi xưa đã thán phục và ca ngợi: “Về lý số thì nước Nam chỉ có Trình Tuyền”, khi nói về Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, một học giả uyên thâm, một nhà hiền triết, nhà văn hoá lớn, một bậc kỳ tài của thời Lê -Mạc.

Nhân ba ngày xuân, chúng ta đọc lại chuyện xưa tìm lại tấm gương đạo đức của người trước để học cách cư xử thuận lý, tuỳ thời, xuất xử hợp hoàn cảnh của kẻ sĩ ở thời biến động phức tạp. Học sự thanh nhàn vô sự, thong dong tự tại, gần gũi với thiên nhiên và con người.

Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ( 阮秉謙 ) sinh năm Hồng Đức thứ 21 ( tức năm Tân Hợi 1491)

đời vua Lê Thánh Tông, người làng Trình Tuyền (Trung Am), huyện Vĩnh Lại (nay là làng Cổ Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải

Phòng). Sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc: thân phụ ông là Thái Bảo Nghiêm Quận Công Nguyễn Văn Định đạo hiệu là Cù Xuyên tiên sinh. Cụ Văn Định học rộng, tài cao, có đức tốt và đã có lần sung chức Thái học sinh đời Lê

Thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, là người làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, Hải Dương (nay thuộc xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng), con gái quan Hộ Bộ Thượng thư Nhữ Văn Lân, được phong tặng tước Từ Thục phu nhân. Bà là người thông minh, học rộng, văn hay, lại tinh thông tướng số. Ngay đời Hồng Đức (niên hiệu vua Lê Thánh Tôn) đang cực thịnh, mà bà đã đoán trước rằng bước đường suy vong của triều Lê chẳng còn bao xa. Bà có chí hướng muốn phò vua giúp nước như một bậc trượng phu nên chỉ chịu kết duyên khi gặp người trai vừa ý, chồng bà nếu không phải là vua thì sinh con ra cũng phải làm

vua. Bà kén chồng đến ngót hai mươi năm, cho đến khi gặp ông Nguyễn Văn Định là người có tướng sinh quý tử, mới chịu thành lập gia thất.

Sau khi lấy ông Nguyễn Văn Định, có lần qua bến đò Hàn trên sông Tuyết (sông thuộc làng Cổ Am) gặp một chàng thanh niên dân chài tướng tá oai vệ, cao to, sắc sảo, bà nhìn người này và ngạc nhiên than rằng “lúc trước không gặp, ngày nay sao đến đây làm gì?”. Bọn theo hầu không hiểu nghĩa gì, toan đánh đuổi chàng thanh niên ấy, bà cản lại và hỏi tên họ. Khi được biết, bà buồn rầu, hối hận đến cả mấy năm trời. Người thanh niên ấy không ai khác hơn là Mạc Đăng Dung, Thái Tổ của nhà Mạc sau này.

1. Tuổi thiếu niên của Nguyễn Bỉnh Khiêm Từ thuở thiếu thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm có

tên là Nguyễn Văn Đạt vóc dáng khôi ngô, tuấn tú, tư chất khác thường, một tuổi ông đã nói giỏi, lên năm tuổi được mẹ dạy cho kinh sách, truyền miệng cho thơ văn chữ Nôm, ông học đâu nhớ đấy, không quên chữ nào. Một hôm vào buổi sáng sớm, được cha bế trên tay, bỗng thấy cậu bé nói ngay rằng: “Mặt trời mọc ở phương Đông” mọi người đều lấy làm lạ. Xem đó đủ biết con người khác thường, từ lúc thơ ấu đã có vẻ khác thường.

Khi tóc còn để trái đào, một hôm Bỉnh Khiêm về quê ngoại thăm gia đình, cùng bọn trẻ đi tắm bến Hàn, gặp một thầy tướng số Tàu, thấy Khiêm có tướng mạo lạ thường, ông bèn quan sát và nói: - Đứa trẻ này về sau có thể làm tới ngôi vương. Nhưng rồi sau khi xem kỹ lại, ông than: Da khô quá, thật là đáng tiếc! Cùng lắm chỉ là trạng nguyên tể tướng mà thôi.

Tương truyền có lần bà Nhữ Thị Thục đi chợ, ông Văn Định ở nhà trông con. Ông buộc dây vào cành tre, kéo lên, kéo xuống cho con chơi và nói: - Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung! Tưởng con không biết gì, chẳng ngờ Đạt nói: - Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung.

Khi bà Thục về, Văn Định khoe chuyện ấy bảo là con trai họ thông minh. Không dè, bà Thục nói: Nguyệt có nghỉa là con sen, người làm công, tượng trưng cho bầy tôi! Nuôi con mong thành vua thành chúa, chứ thành bầy tôi thì nói làm gì.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 49

Lần khác khi vợ đi vắng, Văn Định lấy tập sách của vợ tìm một câu để dạy con, thấy câu: - Bống bống, bang bang, ngày sau con lớn, con tựa ngai vàng. Văn Định hoảng sợ, cho là ý kiến phản nghịch, có thể bị tội chém đầu, bèn sửa chữ “tựa” thành “vịn”. Bà Thục về đến, biết chuyện này bực lắm: Sinh con ra, mong con làm vua thiên hạ. Nay thầy nó dạy con làm tôi, chán quá! Rất tiếc thân này là phận gái.

Vì nhiều quan niệm bất đồng, thực tế không như bà mong muốn, bà mong con bà phải là vua nhưng con bà sau này chỉ là trạng nguyên, tể tướng vì thế mà vợ chồng cũng thường xích mích, nên bà Thục đã bỏ nhà ra đi. Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được ở cạnh cha, khi cha mất ông được một tay hiệp khách tên là Lý Hưng Chi nhận làm con nuôi rồi giao cho một người bạn là một vị sư trụ trì đem về dạy dỗ ở một ngôi chùa.

Có sách kể rằng về sau bà Nhữ Thị Thục, tiến thêm bước nửa gá nghĩa với Phùng Quý Công, cũng có tướng sinh con qúy tử quê tại xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây từng làm quan dưới triều Lê Sơ và sinh ra Phùng Khắc Khoan. Sau chính Khắc Khoan trở thành học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bà Nhữ Thị vẫn không thoả chí vì sau khi tính toán về lý số Phùng Khắc Khoan cũng chỉ làm đến bậc Tể Tướng, không có chí làm vua bà toán lại cung phúc đức của mình thấy còn khiếm khuyết. Rèn luyện và nghiệp quan trường:

Văn Đạt lớn lên, theo học với Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hóa, trấn Thanh Hóa (nay là xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hóa). Ông sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên được thầy rất khen ngợi. Với trí tuệ mẫn tiệp, thông minh từ nhỏ, lại gặp thầy giỏi khác nào như rồng gặp mây. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm thành tài năng kiệt xuất nổi tiếng. Và sau này, tài học vấn uyên thâm của ông đã vượt xa thầy. Tương truyền Lương Đắc Bằng là người giỏi lý học, đã đem sách Thái ất thần kinh ra dạy cho học trò, nhưng có những điều trong sách ấy Cụ Lương Đắc Bằng cũng không hiểu được mà chỉ có Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này mới tinh thông.

Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, cũng là một danh nhân văn hoá nước ta. Ông người làng Hội Trào, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hoá; đã từng đỗ đạt làm quan công thần nhà Lê. Ông cũng là người thảo “Trị bình thập tứ sách” gồm 14 đề mục

cho việc trị nước an dân nhưng không được dùng nên đã cáo quan về quê dạy học. Khiêm sau này là học trò mà ông yêu quý nhất..

Đến khi Lương Đắc Bằng ốm nặng, biết rằng mình không sống lâu được nữa bèn gọi Khiêm lại, đưa cho ông 1 cuốn sách mà dặn rằng:- Khi xưa thầy đi sứ qua Tàu, lúc trở về nước, có một cụ khách già trao cho thầy quyển sách. Thầy tưởng cho thầy nhưng sau đó, cụ ấy nói: “Ta không cho ngươi, ta chỉ nhờ người đem về giao lại cho một người An Nam”. Thầy rất ngạc nhiên khi không nghe cụ già ấy nói đến tên họ người mà cụ muốn gửi gắm. Cụ già liền xua tay: “Không cần. Chừng nào trong tâm linh nhà ngươi muốn cho ai thì người ấy sẽ được phần”. Nói xong, ông cụ ấy bỏ đi mất, chừng đó thầy mới hiểu ông ấy là một dị nhân. Nay thầy giao quyển sách này lại cho con, ấy là con có phần.

Bộ sách ấy chính là bộ Thái Ất Thần Kinh (tác phẩm của đạo sĩ Triệu Nga đời nhà Tống, thế kỷ thứ X) mà thầy Lương Đắc Bằng để lại cho người học trò cừ khôi của mình. Nhờ quyển sách này về sau Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông lý số, hiểu quá khứ vị lai, đoán biết tương lai, lại biết được sự xoay vần của thế cuộc.

Lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà Lê

suy thoái, các phe phái trong triều đố kỵ, chém giết lẫn nhau. Bấy giờ, vua Lê Thánh Tông đã mất (1497). Trải qua các đời vua Hiến Tông, Túc Tông đến Lê Uy Mục thì nhà Lê đã suy đồi quá lắm. Uy Mục thì ngày bắt quân lính đánh giết lẫn nhau làm trò giải trí, đêm thì rượu chè tuý luý, chém người hầu rượu để mua vui. Uy Mục còn bắt dân phu binh lính xây cung điện nguy nga, vơ vét thuế má thu nhặt từng cái tơ cái tóc, tiền bạc thì phung phí như đất như bùn; đãi công thần như chó ngựa, coi dân chúng như cỏ rác; bạo ngược như thế sao giữ được ngôi báu!

Quả nhiên, Uy Mục làm vua chưa đầy hai năm, các công thần cũ của nhà Lê từ Thanh Hoá đã đem quân ra kinh giết chết. Lê Tương Dực được tôn lên nối ngôi. Chẳng ngờ, Tương Dực với Uy Mục cũng một phường bạo chúa như nhau. Làm vua chưa đầy một năm, Lương Ðắc Bằng đang làm quan Lại bộ Tả thị lang đã phải dâng “ mười bốn cách bình ổn đất nước” (Trị bình thập tứ sách) can Tương Dực chớ phung phí của công đổ tiền vào xây Ðại Ðiện bắt dân chúng phải sưu cao thuế nặng phục dịch khiến cho trăm quan lớn nhỏ đua nhau vơ vét, ngang nhiên tham nhũng. Tương Dực

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 50

không nghe. Ðược vài năm, Tương Dực bị triều thần giết nốt. Từ bấy giờ, quan lại trong triều chia bè phái mưu tính việc phế lập vua, đem quân đánh lẫn nhau. Trong triều, quyền lực đã lần lượt rơi vào tay các dũng tướng như Trịnh duy Sản, Trịnh Tuy,Trần Chân, Nguyễn hoằng Dụ ...Ngoài xã hội thì giặc giã nổi lên. Dân chúng cùng cực không biết thế nào nói hết được.

Thế là suốt cuộc đời thanh niên trai trẻ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật. Bấy giờ trong nước đang biến loạn, Bỉnh Khiêm bèn đi ở ẩn, lấy việc ngao du sơn thủy làm thú ở đời. Ông lên chơi chùa Bội Sơn, gặp lại nhà sư đã dạy dỗ mình thuở bé đang cầm đầu đảng cướp Hồng Nhật. Các tham quan ô lại cũng như các nhà giàu độc ác đều bị đảng cướp này trừ diệt, lấy của để giúp cho người nghèo khó. Quan phủ Vương Liêu Thăng là kẻ sâu dân mọt nước bị Lý Hưng Chi ra tay hạ sát, triều đình treo giải thưởng lớn cho ai lấy được đầu họ Lý.

Bị tập nã ráo riết, Lý Hưng Chi tìm đường trốn sang Tàu, đem theo Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng vài bộ hạ tâm phúc. Vượt núi, băng rừng nhiều ngày, đến giáp giới Trung Quốc, Lý Hưng Chi ghé lại trại một người bạn cũ, giữa một vùng núi non với hai ngàn thủ hạ. Chủ trại là Hoàng Mưu mất vợ sớm, có một người con gái đến tuổi lấy chồng, thấy Bỉnh Khiêm là người lỗi lạc, bèn ngỏ ý với Lý Hưng Chi muốn gả cho. Đính hôn xong, Lý Hưng Chi và Bỉnh Khiêm cùng đám tùy tùng nhờ Hoàng Mưu giúp vượt qua biên giới.

Tiến vào nội địa Trung Hoa, giữa đường họ gặp một toán cướp lớn chặn đánh, chỉ có Lý Hưng Chi thoát được, còn Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng đám người đi theo đều bị bắt. Tướng cướp là Lý Lăng Tử tra hỏi, thấy Bỉnh Khiêm là người thông thái, giỏi lý số, tiên tri, bèn giữ lại tôn làm quân sư.

Trại ở trên một ngọn núi kỳ vĩ, chung quanh có nhiều dãy núi cao bao bọc như những thành lũy thiên nhiên. Bỉnh Khiêm miễn cưỡng phải ở lại đây, ngày ngày đọc sách ngâm thơ. Một hôm, có một ông già ăn mặc nâu sồng, đeo khăn gói đỏ, tay chống gậy trúc lần mò đến cổng trại. Bị quân canh đuổi đi, ông già trở đi, trở lại đến lần thứ ba, nằn nì đòi xin gặp chủ trại. Bỉnh Khiêm đang đi dạo, trông thấy ông già cốt cách khác thường, gọi hỏi chuyện thì ông ta nói: "Tôi là kẻ ngao du sơn thủy, đi đó đây khảo sát địa lý để tìm một nơi gửi nắm xương tàn, đến chốn này thấy có khí lạ, mới dừng bước lại".

Rồi ông già ngắm Bỉnh Khiêm mà bảo rằng: "Tôi đoán ông không phải là người ở vùng này, mà chỉ là thượng khách của chủ trại. Nhưng chốn này sắp bị quân triều đình đến đánh nay mai"... Hỏi thêm, ông già không nói, chỉ bảo rằng có biết lý số, thiên văn, và đã mấy năm trời nay đi tìm một quyển sách để thông suốt quá khứ vị lai mà chưa được gặp. Bỉnh Khiêm tò mò hỏi: "Cụ bảo quyển sách gì mà thần diệu như thế"? Ông già đáp: "Đó là một quyển sách thần, có đủ những phép tắc dạy cho biết rõ việc quá khứ, hiện tại và tương lai. Quyển sách này trước ở tay thày dạy tôi nay đã qua đời, tặng cho một người cùng dòng họ làm sứ thần nước Việt, rồi nghe ông này trao lại cho một môn đệ. Đó là quyển kinh lấy tên là Thái Ất. Nhưng tôi biết chắc rằng vị sứ thần cũng như môn đệ của ông ta không thể nào dùng được quyển sách ấy, vì trong đó toàn là những câu kinh kỳ bí, mà họ không có lời giải. Tôi thì có lời giải mà không có quyển kinh Thái Ất".

Bỉnh Khiêm hỏi tới: "Sao thày dạy cụ lại chỉ truyền cho cụ biết lời giải mà không cho cụ quyển sách"? Ông già đáp: "Theo lệ cổ truyền thì không ai có thể giữ nổi cuốn kinh này lâu đời được. Sứ thần Việt được cuốn kinh, nhưng không có phần giải. Khi thày dạy tôi sắp mất, có trao phần giải cho tôi mà dặn rõ là tôi phải mất công hai năm mới tìm ra cuốn kinh. Tôi tính đến hôm nay vừa đúng là hai năm".

Bỉnh Khiêm vội đi lấy ở trong hành lý ra một cuốn sách bọc vải điều trao tận tay ông già. Vừa lật xem qua mấy trang, ông già không giấu được nỗi ngạc nhiên sung sướng, trang trọng đặt cuốn sách lên trước mặt rồi sụp lạy. Cả hai người mặc dầu tuổi tác cao thấp chênh lệch, làm lễ đồng môn với nhau, rồi bắt đầu trao đổi nghiên cứu kinh Thái Ất. Trong vòng bảy hôm, họ đã thuộc lòng cả cuốn kinh cùng những lời giải đáp, rồi vội vã chia tay, sợ xúc phạm đến thiên cơ, vì cả hai đều đã thành tiên tri, thấu suốt cả quá khứ, hiện tại và tương lai.

Ông già tên là Hoàng Thạch Lâm đi về

phương Bắc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đi về phía Nam. Trở về nước, thấy bốn biển đắm chìm trong cơn ly loạn thì đau lòng thương cho dân cho nước. Lúc nầy cụ Lương Ðắc Bằng đã mất, ông thay thầy trông nom con thầy là Lương Hữu Khánh và tiếp tục việc truyền dạy học trò, chứ nhất định không chịu ra làm quan, mưu “đục nước béo cò” như người khác.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 51

Ðầu năm Quý Mùi (1523), phe Trịnh Tuy ở Thanh Hóa chống nhau với Mạc Ðăng Dung ngoài Bắc. Hai bên đều có ý đem vua Lê Chiêu Tông ra làm mộc để đánh nhau. Bỉnh Khiêm giận lắm bảo đám học trò: - Bọn ta sinh ra phải thời loạn lạc. Núi xương sông máu trăm họ đã đầy khắp, thế mà nhiều người vẫn muốn mượn gió bẻ măng, giao tranh hỗn chiến mãi chưa thôi. Giận thay!

Năm Ðinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung thanh toán hầu hết các thế lực bên ngoài, ép Vua Lê nhường ngôi, lập ra triều đại mới: nhà Mạc. Mạc Ðăng Dung lên ngôi vua, việc nước tạm ổn triều đình mở khoa thi kén nhân tài. Bạn bè đều khuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm ra ứng thí đem tài học giúp ích cho dân nước. Trông chừng thế sự vẫn suy đồi, triều thần đầy rẫy lũ tham ô quan lại nên ông lưỡng lự chưa nghe.

Lúc Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con

là Mạc Đăng Doanh và rút về làm Thái thượng hoàng. Ông hy vọng triều đại nhà Mạc có thể xây dựng lại đất nước, Doanh là người tỏ ra có chí khí đảm lược. Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhìn thấy điều đó. Và ông hy vọng: với nhân vật này, triều đại mới có thể đưa đất nước thoát khỏi tình trạng rối ren mà vua tôi nhà Lê và các tập đoàn phong kiến trước đó gây ra. Năm Canh Dần (1530), đời Mạc Ðăng Doanh, ông thi Hương đậu giải nguyên. Năm năm sau đến khoa Ất Mùi (Năm Đại Chính thứ sáu 1535), ông mới lại vào thi Hội đỗ Hội nguyên rồi vào thi Đình đổ luôn Đình Nguyên. Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu, nên gọi là đỗ Trạng nguyên. Bấy giờ ông đã bốn mươi bốn tuổi. Vua Mạc trọng ông lắm bổ ngay làm Hình bộ tả thị lang sau đổi sang Lại bộ tả thị lang kiêm Ðông các đại học sĩ. Đến năm 1540 Vua Mạc Đăng Doanh qua đời khi tuổi vừa 41, Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm thật bàng hoàng khi mất chỗ dựa để thực thi hoài bão của mình. Năm sau, tới lượt Thượng hoàng Mạc Đặng Dung cũng lìa cõi thế Mạc phúc Hải lên ngôi, lại rơi vào vết xe của triều đại cũ: bất tài nhu nhươc, trọng đãi gian thần. Triều Mạc bắt đầu có dấu hiệu suy vong đại thần lắm kẻ lộng quyền, tham ô đụt khoét công quỹ. Năm 1843 ông bèn dâng sớ xin chém mười tám lộng thần đều là những kẻ quyền thế cả. Vua Mạc không nghe, Ông trả lại mũ áo, cáo quan năm 1542 lúc ấy ông mới 52 tuổi về làng mở trường dạy học.

Ông vốn là người tha thiết với việc dân việc nước, hiềm vì nỗi triều đình đổ nát, trăm quan

hư hỏng, ông không muốn đem thân vào chốn đua chen nịnh hót, dấn thân vào đám bùn nhơ ô uế. Bởi thế, tuy buộc lòng phải xa lánh công danh lui về ẩn dật, mở trường dạy học cạnh sông Tuyết (do đó học trò gọi ông là "Tuyết giang Phu tử), ông đem hết tài trí truyền cho đám học trò, ngầm mong họ sẽ thay ông ra giúp đời cứu nước. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Dữ (tác giả Truyền kỳ mạn lục); Thượng thư Bộ Lễ Lương Hữu Khánh,Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Quốc công Nguyễn Quyện, Thượng thư Bộ Hộ Trạng nguyên Giáp Hải, Tiến sĩ Trương Thời Cử, Tiến sĩ Đinh Thời Trung, Hàn Giang Phu tử Nguyễn Văn Chính ... sau này đã nối được chí thầy.

Khi ông về trí sĩ, dựng một cái am con bên

hồ đặt tên là am Bạch Vân và lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Ông cho bắc hai cầu gỗ làm chỗ chơi mát gọi là cầu Nghênh Phong và cầu Trường Xuân. Lại lập một quán bên bờ sông Tuyết Giang đặt tên là quán Trung Tân, dựng bia nói rõ ý mình. Lúc thì bơi thuyền chơi ở bể Kim Hải và bể Úc Hải, lúc thì cùng vài nhà sư dạo chơi núi An Tử, núi Ngọc Vân và núi Đồ Sơn. Đi đến đâu đều làm thơ ngâm vịnh, gặp chỗ nào phong cảnh đẹp thì dừng lại, thường ngày không để ý gì đến việc đời, sống nhàn tản theo Lão, Trang. Bạn của ông là những tài danh lỗi lạc một thời như Bảng nhãn Bùi Doãn Đốc, Thám hoa Nguyễn Thừa Hưu, Thư Quốc công Thương thư Trạng nguyên Nguyễn Thiến.

Triều đình nhà Mạc vẫn rất quý trọng, lấy lễ sư phó đãi ông, hễ có việc gì thì sai sứ tìm đến hỏi ý kiến hoặc mời về kinh để thương nghị các chính sự trọng yếu. Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) phong cho ông tước Trình Tuyền Hầu vào năm Giáp Thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn nền lý học VN, giống như Trình Y Xuyên bên Tàu. Vì ông đỗ Trạng Nguyên và được phong tước Trình Tuyền Hầu nên người đương thời gọi ông là Trạng Trình.

Năm Cảnh Lịch thứ ba (1555) đời Mạc

Tuyên Tôn (Mạc Phúc Nguyên) Thư Quốc công Nguyễn Thiến (người làng Khoa Hoạch, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông) cùng con trai là Quyện và Miễn về hàng nhà Lê, Cụ Khiêm làm bài thơ gửi cho Thiến trong có câu:

Cố ngã tồn cô duy nghĩa tại Tri quân xử biến khởi cam tâm. Vận chuyển nhất chu ly phục hợp Tràng giang khởi hữu hạn Đông Nam

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 52

(Ta giúp con côi vì nghĩa trọng/ Ông khi xử biến khá cam lòng - Vận chuyển một vòng tan lại hợp/ Trường giang đâu có hạn Đông Nam).

Thiến xem thơ, trong lòng cảm thấy bứt rứt. Quyện là viên tướng tài, luôn luôn lập được chiến công. Mạc Phúc Nguyên lấy làm lo ngại sai vời Cụ Trạng lên hỏi kế. Tiên sinh tâu: “Cha Quyện với hạ thần là chỗ bạn chí thân ngày trước, có lúc đã ở tại nhà thần, nay ra trấn thủ Thiên Trường, đang ở vào tình thế bán tín bán nghi nay muốn bắt lại, thật chẳng khó gì, cũng như thò tay vào túi để móc một vật gì ra thôi”. Cụ Trạng nói đoạn, xin Mạc Phúc Nguyên giao cho một trăm tráng sĩ, sai đi phục sẳn trên Bắc ngạn, rồi Cụ gửi thư mời Quyện sang bên thuyền uống rượu để gặp và nói chuyện tâm tình. Quyện nhận lời ngay; thừa lúc quá say, phục binh nổi dậy, bắt cóc đem về Nam ngạn. Quyện cảm động quá khóc nức nở. Tiên sinh dẫn Quyện theo lại nhà Mạc và sau đó trở thành một danh tướng lừng lẫy. Nhờ đó nhà Mạc duy trì được mấy chục năm nữa.

Trong thời gian ấy, Trịnh Kiểm đã dấy binh, thanh thế vang dội khắp xa gần; trong trận giao tranh ở cửa biển Thần phù, Khiêm Vương Mạc Kính Điển (con thứ của Mạc Đăng Doanh) thua to. Thừa thắng, Trịnh Kiểm tiến binh theo đường núi phía Tây tiến đánh Kinh Bắc, trong ngoài nơm nớp lo sợ. Nhà Mạc nhờ tiên sinh hiến kế rất nhiều, mới ổn định được tình thế lúc ấy.

Năm Diên Thành thứ 8 (1585) đời Mạc Mậu Hợp, tức năm Ất Dậu tháng 11 thì Trạng Trình lâm bệnh. Mậu Hợp ngự giá đến vấn an và hỏi về quốc sự các kế công thủ. Ông chỉ trả lời rằng: “Tha nhựt quốc hữu sự cố, Cao Bằng tuy tiểu khả duyên sổ thế” (Ngày sau nước có việc, đất Cao Bằng tuy nhỏ, cũng giữ được phúc đến vài đời). Bảy năm sau, Nhà Mạc bắt đầu suy vong theo lời ông lui về giữ đất Cao Bằng gần 80 năm thêm 3 đời vua nữa là Mạc Kính Cung, Mạc Kinh Khoan và tới thời vua Mạc kính Vũ (1677) mới mất hẳn. Dòng dõi họ Mạc bị bắt, bị giết nhiều người đổi họ lưu lạc khắp nơi để mưu cầu sự sống !!!

Trạng Trình có 3 người vợ và 12 người con (7 trai 5 gái) các con trai đều được thụ phong chức tước sau nầy. Ông mất ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu, niên hiệu Diên Thành thứ 8 đời vua Mạc Mậu Hợp (1585) hưởng thọ 95 tuổi. Lễ tang ông có quan phụ chính triều đình là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng dẫn đầu các quan đại thần về viếng lễ tang nói lên sự trân trọng rất lớn của nhà Mạc với Trạng Trình. Trong buổi lễ tang ấy, Ứng vương đã

thay mặt vua truy phong Nguyễn Bỉnh Khiêm tước Thái Phó Trình Quốc Công. Đền thờ Trạng Trình:

Tháng Giêng năm bính Tuất (1586), vua Mạc ban cấp cho làng Trung Am 3000 quan tiền để lập đền thờ ông, có gắn biển mang hàng chữ “Mạc triều Trạng Nguyên Tể Tướng từ” do nhà vua tự tay đề, đông thời giao cho địa phương 100 mẫu ruộng thờ ông. Như vậy, đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm trên nền đất cũ được xây dựng xưa nhất là năm 1586. Sau đó do biến động của thời cuộc, ngôi đền đó không còn, sau này mới được dựng lại. Theo “Công tiệp dư ký” của ông Vũ Phương Đề ghi: “ năm Vĩnh Hựu nguyên niên ( Ất Mão 1735 đời Lê Ý Tông) người trong làng vì nhờ Thị Đức của tiên sinh có dựng lại trên nền nhà cũ... người hàng tổng cũng nhớ ơn đức, xuân thu, hai kỳ đến tế lễ”

Năm Mậu Thìn 1929 ( Bảo Đại thứ 3) dân làng quyên góp tiền bạc, công sức tu tạo lại ngôi đền, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Tháng 9/1985, ngôi đền được thành phố tu sửa, mở mang khuôn viên, sửa lại đường sá. Năm 1998, đền được nâng cấp tôn nền xây tường bao quanh. Đặc biệt vào cuối năm 2000, kỷ niệm 415 năm ngày mất của Trạng Trình, thành phố Hải Phòng đã xây dựng cả một vùng rộng lớn

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 53

thành khu “Di tích danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm” gồm: Quán Trung Tân, mộ phần Cụ Nguyễn Văn Định (thân phụ Nguyễn Bỉnh Khiêm), khu vực tượng đài Nguyễn Bỉnh Khiêm, chùa Song Mai nơi phu nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm tu hành. Đường sá được tu sửa lại, khuôn viên, vườn cây lưu niệm được qui hoạch, cảnh trí thật khang trang ngoạn mục. Giai thoại Sấm Ký

Tương truyền Cụ Trạng Trình tinh thông về thuật số tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau, nhiều việc rất đúng và ứng nghiệm được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam. Ông để lại rất nhiều những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là "Sấm Trạng Trình". Những sấm ký của ông truyền lại, người đời sau đem các việc xảy ra để đối chiếu, giải thích cho đến gần đây, còn được chứng nhận là đúng. Quạt giấy và gối gỗ:

Trong khi nghiên cứu quyển sách Thái Ất, Cụ Trạng Trình muốn thử xem lý số mà cụ học được có hiệu nghiệm không. Cụ làm hai thí nghiệm sau đây:

* Thứ nhất: Cụ làm một chiếc quạt giấy. Làm xong, Cụ tính số mệnh của cây quạt giấy nầy thì thấy rằng tuổi thọ của cây quạt sẽ bị tuyệt vào đúng giờ Ngọ một ngày tháng năm nhất định và “Nữ nhân phá hủy”. Cụ viết 4 chữ nầy lên quạt và treo quạt ở đầu giường. Đến gần tới ngày giờ quẻ ứng, Cụ ngồi trên giường luôn luôn để mắt theo dõi quẻ ứng hiện như thế nào?

Ngày hôm ấy, nhà hàng xóm kế cận mời Cụ qua dự đám giỗ, nhưng Cụ bận theo dõi chiếc quạt nên chưa thể qua ngay được. Người hàng xóm đến mời nữa, và nói với Cụ Bà giục Cụ đi qua để trễ tiệc. Cụ Bà vào phòng hối Cụ đi mấy lần, nhưng Cụ vẫn lo theo dõi cái quạt nên chưa thể đi được. Cụ Bà bực tức thấy ông ngồi không mà chưa chịu đi, mắt lại nhìn cái quạt không rời. Cụ Bà liền giựt phăng cái quạt, xé đi rồi nói: Quí báu gì cái quạt giấy nầy mà ông cứ nhìn nó hoài như mất thần, để người ta qua đây ba bốn phen mời mọc. Lúc ấy là vừa đúng ngọ.

Cụ cười xòa vui vẻ và liền đi ngay qua đám giỗ. Cụ nhận thấy lẽ nhiệm mầu trong khoa lý số đã thể hiện rất chính xác. Nhưng Cụ vẫn còn chút hồ nghi sự việc xảy ra có phải do ngẫu nhiên chăng? Do đó, Cụ làm thêm thí nghiệm thứ nhì:

* Thứ hai: Cụ làm một chiếc gối bằng gỗ để ở đầu giường. Cụ bói số mệnh chiếc gối thì được quẻ: “Thử đầu nhi phá”. Cụ rất ngạc nhiên vì gối kê ở đầu giường luôn luôn thì làm sao chuột phá hỏng được. Cụ ghi lên gối 4 chữ ấy rồi chờ thời gian xem kết quả.

Tới ngày tháng đúng như trong quẻ đã định, có một ông bạn thân đến thăm Cụ và ngồi nói chuyện với Cụ trong phòng. Chợt có một con chuột thập thò ở gầm ghế, ông bạn quơ tay xua đuổi, con chuột không chạy đi, mà cứ ở đó nhìn ông lau láu như có ý chọc tức. Ông bạn nổi giận, thuận tay lấy ngay cái gối gỗ ném vào con chuột. Con chuột lanh chân chạy thoát, còn chiếc gối gỗ thì va vào tường gạch gãy ra làm nhiều mảnh.

Thiết đoản, mộc trường: Hồi cụ mới từ quan về quê làng Trung Am

mở trường dạy học, học trò theo học rất đông. Vào một buổi tối 30 tết năm nọ; ông Trạng đang ngồi đàm luận về lý số với một anh học trò xuất sắc của Cụ đến thăm, thì bỗng ngoài cổng có tiếng người gọi. Ông sai gia nhân ra bảo hãy chờ một chút. Trong khi đó, ông và người học trò cùng bấm quẻ để thử đoán xem người đó vào có việc gì?

Cả hai thầy trò cùng bấm ra một quẻ "thiết đoản, mộc trường". Nghĩa là "Sắt ngắn, gỗ dài". Ông hỏi người học trò: - Vậy con đoán người đó vào đây có việc gì? Anh học trò trả lời: - Thưa thầy! "Thiết đoản, mộc trường, theo ý con, người vào đây chắc hẳn chỉ có mượn chiếc mai (cuốc) đào đất mà thôi, chứ ngoài ra không còn cái gì là "sắt ngắn, gỗ dài" nữa.

Ông cười nói: - Khác với con, Thầy lại đoán người đó

vào đây mượn búa. Nói xong, ông cho mở cổng. Quả nhiên

người ấy vào hỏi mượn búa thật. Anh học trò chững người ra vì sự đoán sai của mình. Thấy vậy, ông giải thích cho anh học trò: Kể thì con bấm quẻ cũng giỏi, nhưng mức đoán còn thấp. Con bảo "sắt ngắn, gỗ dài" mà đoán là mượn mai, như vậy thử hỏi, 30 tết người ta đến đây để mượn mai làm gì cơ chứ? Còn Thầy bảo là người đó vào mượn búa để về bổ củi nấu bánh chưng Tết mà thôi. Bấm quẻ đã đúng nhưng khi đoán còn phải có ý thức cơ biến, mà tránh được những sự sai lầm.

Anh học trò bái phục thầy, xin nhận những lời chỉ bảo quí. Trạng Trình thật là người suy đoán giỏi.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 54

Gà đã gáy rồi: Nhà Lê Trung Hưng căn cứ ở Thanh Hoá

tiến mạnh ra kinh đô Thăng Long. Tuy các phe phái Lê – Mạc, Trịnh – Nguyễn vẫn hằm hè, đấu trí đấu sức nhau, mưu sự thịnh vượng cho mình. Nhiều danh sĩ lại phân vân, cân nhắc chẳng biết nên phò Lê hay ở lại với Mạc. Trong số ấy có Phùng Khắc Khoan mãi không chọn được hướng đi nên đã tìm đến Am Bạch Vân để vấn kế thầy mình.

Khi nghe Phùng Khắc Khoan hỏi han đến thể sự, Trạng Trình thật sự, đã tính độn biết rằng nhà Lê đã đến thời trung hưng nhưng ông không hề bảo cho Phùng Khắc Khoan là nên định hướng thế nào. Khoan không khỏi băn khoăn, trằn trọc mãi đến gần sáng mới chợp mắt được, vừa lúc ấy Trạng Trình đến đập cửa và nói vọng vào: - Gà đã gáy rồi, sao không dậy, còn ngủ gì nữa? Phùng Khắc Khoan giật mình thức giấc, ông ngầm hiểu ý của Trạng Trình là đã đến lúc phải vào Thanh Hoá với nhà Lê. Phùng Khắc Khoan vội vàng bật dậy, sắp đặt hành lý rồi đến chào từ biệt Trạng Trình. Trạng vẫn không nói gì, chờ tới lúc Phùng Khắc Khoan quay gót, Trạng liền cuốn một chiếu ngắn ném theo. Nghe tiếng chiếu rơi phịch cạnh chân mình, Phùng Khắc Khoan càng thêm hiểu ý của Trạng: “Phải hành động nhanh như cuốn chiếu, chứ đừng chần chờ gì nữa”.

Quả nhiên vào Thanh Hoá, Phùng Khắc Khoan nhanh chóng được trọng dụng và được Thái sư Trịnh Kiểm tin tưởng, việc gì quan trọng cũng hỏi ý kiến. Gặp Phùng Khắc Khoan, vua Lê Trang Tôn mừng lắm, đãi vào hàng quân sư. Phùng Khắc Khoan lập nhiều mưu kế, có nhiều kế hoạch để lấy lòng dân, thu dụng người ở các nơi lân cận. Vua Trang Tôn tin dùng hết sức. Đến thời vua Thế Tôn khôi phục thành Thăng Long, vua sai Phùng Khắc Khoan đi sứ nhà Minh để vận động phong tước. Nhà Minh phong vua Thế Tôn là "An Nam đô hộ sứ".

Khắc Khoan trả lại sắc phong cho vua Minh và tâu: Chúa tôi là họ Lê, nguyên là dòng dõi nước Nam, không có tội tình như họ Mạc mà thiên triều lại phong tước như họ Mạc, chúa tôi không nhận sắc mệnh được. Dám mong thiên triều xét lại, chớ quả là không dám nhận.

Thấy Phùng Khắc Khoan trình thế, vua Minh tự nghĩ "quan chức của Thế Tôn, mà ăn nói đàng hoàng, lý sự như thế, chắc hẳn Thế Tôn không phải người vừa". Bèn đổi sắc lệnh mà phong cho Thế Tôn làm "An Nam Quốc vương".

Nhà Lê trung hưng: Sau khi nhà Lê bị Mạc Đăng Dung (1483-

1541) chiếm ngôi, con của vị tướng triều Lê là Nguyễn Hoàng Dụ trốn sang Lào, được vua Lào cho nương náu ở xứ Cẩm Châu, trấn Nam Phủ, gần tỉnh Thanh Hoá. Năm Quý Tỵ (1532) Nguyễn Kim lập con út vua Chiêu Tông lên làm vua, tức là Lê Trang Tông.

Để mưu đồ đại sự, Nguyễn Kim (1467-1545) thu nạp một kiện tướng ở tỉnh Thanh Hoá là Trịnh Kiểm, sau lại gả con gái là Công nương Ngọc Bảo cho Trịnh Kiểm. Năm Canh Tý (1540), Nguyễn Kim đem quân đánh chiếm Nghệ An và thu phục luôn cả Thanh Hoá.

Nhưng Nguyễn Kim bị chết đột ngột vì ngộ độc (1545), mọi bình quyền về tay Trịnh Kiểm. Việt Nam lúc bấy giờ bị chia đôi: từ Sơn Nam trở ra thuộc nhà Mạc, gọi là Bắc Triều. Từ Thanh Hoá trở vào là khu vực của nhà Lê gọi là Nam Triều.

Khi vua Lê Trung Tông mất, không có con kế vị, bấy giờ Trịnh Kiểm đang cầm quyền, muốn nhân dịp này để phế luôn nhà Lê. Trịnh Kiểm hỏi ý trạng Phùng Khắc Khoan. Phùng Khắc Khoan lúng túng không biết trả lời thế nào, liền bí mật phái sứ giả ra Hải Dương hỏi ý kiến thầy lần nữa.

Sứ giả đi rổi về kể: - Quan Trạng không bảo ban gì cả. Ngài cũng không có thư hồi đáp.

Phùng Khắc Khoan suy nghĩ và gặng: Thế ông được quan Trạng tiếp đãi ra sao? Và những câu quan Trạng nói ông còn nhớ kỹ không?

Sứ giả chỉ biết lắc đầu: Dạ, ngài Trạng tiếp đãi rất chu đáo. Nhưng ngoài những câu giao tế bình thường, ngài chẳng nói gì hết. Chỉ trong lúc nhấp chén trà với tôi, quan Trạng có bảo người nhà một câu: “Năm nay thóc giống không tốt, chúng bây nên tìm thóc cũ mà gieo mạ”.

Phùng Khắc Khoan mừng rỡ bảo: Đó chính là lời Trạng nói với chúng ta đấy. Rồi vội vàng vào gặp Trịnh Kiểm, thuật lại từng lời nói cử chỉ của Trạng Trình.

Trịnh Kiểm hiểu ngay ý dặn: Phải phò nhà Lê thì mới hưởng phúc lâu dài. Sau đó Kiểm cho tìm người cháu của Lê Trừ – anh ruột vua Lê Thái Tổ – là Lê Duy Bang ở làng Bố Vệ, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá đem về phò lên ngôi, tức là Lê Anh Tông sau này. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 55

Một lần khác tại Thăng Long, thời chúa Trịnh Tùng cũng ức hiếp vua Lê và có ý chiếm ngôi vua, nhưng còn e ngại lòng dân không phục nên sai sứ đến hỏi ông, ông không trả lời, chỉ đưa Sứ giả đi chơi trong một cái chùa trên núi, rồi bảo Chú Tiểu rằng: "Giữ chùa thờ Phật thì mới có oản ăn". Sứ giả về nói lạị Trịnh Tùng biết ý ông khuyên phải giữ đạo làm tôi thì mới được hưởng phúc, nên mới thôi manh tâm bội nghịch. Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân:

Nguyễn Kim mất, để lại hai người con trai là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng (1525-1613) cả hai tuy còn ít tuổi nhưng đã bộc lộ tài năng xuất sắc hơn người. Trịnh Kiểm không khỏi lo sợ cả hai sau này có thể tranh giành địa vị với mình, nên đã ngấm ngầm ngăn trở, và vì thế Nguyễn Uông chỉ mắc một lỗi nhỏ, Trịnh Kiểm cũng buộc Nguyễn Uông phải chịu phép gia hình. Nguyễn Hoàng thấy anh bị hại nên lo sợ đến lượt mình, liền kín đáo sai người đi cầu Cụ Trạng Trình bày cho kế lánh họa. Trạng không trả lời, chỉ đứng chống gậy chơi trong vườn cảnh, có mấy dãy đá xếp lại làm non bộ quanh co đến trước sân, có đàn kiến đương bò trên đá, ông đưa mắt nhìn theo đàn kiến mà thốt lên một câu: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. (ngụ ý nói: Dựa vào một dãy Hoành sơn có thể lập nghiệp được lâu dài). Nghĩa là từ núi Đèo Ngang ở Quảng Bình kia có thể yên thân được muôn đời. Sứ về thưa lại, từ câu nói đó Nguyễn Hoàng nghiệm ra rằng Trạng Trình đã bày cho kế đi vào phương Nam lập nghiệp.

Nguyễn Hoàng vội vàng đến nói riêng với

chị ruột Ngọc Bảo, lựa lời xin cho ông vào trấn đất Thuận Hoá, phía Nam dãy Đèo Ngang. Năm Mậu Ngọ nghe theo lời vợ, Trịnh Kiểm xin vua Lê Anh Tông cho Nguyễn Hoàng được vào giữ đất Thuận Hóa. Dụng ý của Trịnh Kiểm, trước là đuổi Nguyễn Hoàng đi xa cho khuất mắt để rảnh tay đối

phó với nhà Mạc, sau là dùng Nguyễn Hoàng để chận giặc Chiêm Thành.

Nguyễn Hoàng đem theo người nhà và quân lính cùng vợ con vào Nam. Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan lại nhân đức thu dụng hào kiệt giúp dân cho nên được lòng dân kính phục, những kẻ tài giỏi ở khắp mọi nơi theo về rất đông. Do đó mà thế lực mỗi ngày một mạnh, lập nên cơ nghiệp nhà Nguyễn ở Đàng Trong, truyền nối lâu dài. cho đến vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày nay.

Khi cơ đồ của nhà Nguyễn trở nên vững vàng, Nguyễn Hoàng có cho người mang lễ vật đến tạ Trạng Trình, nhưng Trạng đã cương quyết khước từ. Khi Nguyễn Hoàng sắp mất, ông gọi con trai là Nguyễn Phúc Nguyên đến dặn:

Thuận Hóa là nơi có thể gây dựng cơ

nghiệp lâu dài, vậy con phải thương yêu quân lính và giúp đỡ dân chúng, mới chống nổi họ Trịnh ở ngoài Bắc.

Nguyễn Phúc Nguyên tức chúa Sãi chính là người sau đó ra sức mở mang bờ cõi, có kỳ công trong việc khai phá xây dựng miền Nam nước ta thuở trước. Cha con thằng Khả làm ngã bia tao:

Trước ngày Cụ Trạng qui Tiên, Cụ tạc một bia đá và dặn chôn ở rìa trước mộ của Cụ, trên đó có khắc bốn câu:

"Cha con thằng Khả Đánh ngã bia tao Bắt phạt ba quan Đếm tiền tam quán". Lúc đó người coi bia chẳng hiểu ra sao, cứ

làm đúng lời Cụ dặn. Cho tới một thời gian rất lâu về sau, đến một hôm có hai cha con người đó tên là Khả, đi đào chuột. Khi hai cha con đào đất để bắt chuột. lòn xuống đáy bia đá làm tấm bia ngã kềnh ra mà không bắt được con chuột nào. Bọn trẻ mục đồng thấy bia ngã, chúng tri hô lên, rồi làng biết, kêu cha con ông Khả lên làng, bắt nộp tiền phạt ba

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 56

quan và phải dựng bia lại như cũ. Cha con anh Khả đành chịu nộp phạt, nhưng nhà nghèo, trong nhà chỉ có một quan tiền tám, nên xin làng cho nộp phạt bao nhiêu đó mà thôi. Làng cũng đành chịu. Thế mới biết Cụ Trạng Trình rất tài giỏi về khoa lý số, biết được tên người làm ngã bia của Cụ, và lại biết số tiền nộp phạt là tam quán, nói lái là quan tám

Thoát nạn cây xà nhà đổ: Khi Cụ Trạng Trình sắp mất, Cụ kêu con

cháu lại giao cho một cái ống tre sơn son thếp vàng, gắn bít hai đầu lại và dặn đúng ngày giờ ấy, tháng ấy, năm ấy, phải để cái ống lên kiệu, rước lên dinh quan Tổng Đốc Hải Dương, thì sẽ cứu được tình thế quá nghèo khổ của gia đình, nhưng tuyệt đối không được mở ra xem, chỉ có quan Tổng Đốc được mở mà thôi.

Khi Trạng mất, trải qua bảy đời, cái ống tre ấy mới được con cháu Cụ rước lên dinh quan Tổng đốc, đúng ngày giờ đã ghi trong gia phả.

Đang nằm nghỉ, nghe tin con cháu cụ Trạng mang thư đến gặp, quan Tổng Đốc rất ngạc nhiên, không biết vì cớ gì, nên truyền cho vào, đồng thời quan đứng dậy để đi ra cửa.

Quan Tổng đốc vừa bước khỏi giường nằm được mấy bước thì bỗng rầm một cái, chiếc xà nhà không biết bị mọt ăn hỏng từ bao giờ, rơi ngay xuống chỗ giường vừa nằm. Thật là một phen hú vía! Nếu ông không kịp đứng dậy nhận thư Trạng, thì mạng ông đã khó mà sinh tồn. Quan Tổng Đốc mở ống tre ra xem, thấy bên trong có một cuộn giấy, đề hai câu thơ:

"Ngã giải nhĩ thượng lương chi ách Nhĩ cứu ngã tử tôn chi bần" "Cứu ngươi thoát nạn đổ nhà Ngươi nên cứu cháu con ta khỏi nghèo" Chưa hết kinh hoàng vì chuyện chiếc xà

nhà giờ lại thêm kinh hãi vì lá thư. Quan Tổng đốc biết rằng Trạng Trình đã cứu ông thoát chết, nên ông ta ân cần mời cháu trạng Trình về tư thất đãi hậu hỹ, sau đó đưa ra rất nhiều tiền để giúp con cháu cụ Trạng.

Thánh nhân mắt mù: Trước khi chết, Trạng có ghi vào gia phả

và dặn con cháu rằng: Bình sinh ta có tấm bia đá sẵn và đã sơn kia. Khi ta mất rồi, hễ hạ quan tài xuống phải để tấm bia đá ấy lên nắp rồi lấp đất. Chờ năm mươi năm sau, khi nào có khách tới viếng mộ và nói rằng: "Thánh nhân mắt mù" thì phải lập tức mời người ấy vào nhà, yêu cầu họ đổi

hướng lại ngôi mộ cho ta. Nếu trái lời ta, dòng dõi về sau sẽ suy đồi lụn bại đấy. Con cháu nghe lời, làm y như đã dặn. Chờ đến năm mươi năm sau, đúng ngày giờ đã dặn, thấy có người khách Tàu đến nhìn mộ cụ một lúc rồi nói:

Cái huyệt ở đằng chân sờ sờ thế kia mà không biết, lại tự đem để mả thế này. Vậy mà thánh nhân gì chớ, hoạ chăng là thánh nhân mắt mù. Người trong họ nghe được, chạy về báo với trưởng tộc. Ông này vội vàng ra đón người khách Tầu kia về nhà, xin để xoay ngôi mộ kia lại. Thì ra đó là một nhà phong thuỷ (Feng Shui) trứ danh ở phương Bắc. Ông ta sang để đi tìm xem di tích của Trạng, bấy lâu ông ta đã nghe tiếng đồn.

Khi nghe vị trưởng tộc nói, ông ta sẵn lòng làm ngay, và tự đắc cho rằng mình giỏi hơn Trạng Trình. Ông ta bảo: Không cần phải đem đi đâu xa cả, chỉ đào lên rồi xoay lại, nhích đi một chút là được. Ông Trưởng tộc cả mừng, vội tụ họp con cháu lại, đưa thầy địa lý người Tàu ra mộ rồi đào lên. Khi đào xuống sắp tới quan tài thì gặp một tấm bia đá, ông thầy Tàu lấy làm lạ, sẵn tính hiếu kỳ, ông bảo đem rửa sạch bia đá, để xem trên đó khắc chữ gì, thì thấy trên bia ấy có khắc bài thơ:

Ngũ thập niên tiền mạch tại đầu, Ngũ thập niên hậu mạch tại túc. Hậu sinh nhĩ bối ná năng tri, Hà vị Thánh nhân vô nhĩ mục?

Nghĩa là:

Ngày nay mạch lộn xuống chân Năm mươi năm trước mạch dâng đằng đầu Biết gì những kẻ sinh sau, Thánh nhân mắt có mù đâu bao giờ?

Khi xem xong bài thơ trên, ông thầy Tàu

mới thất kinh, phục lạy Cụ Trạng Trình sát đất. Quả thật, mình chỉ đáng là học trò của Cụ thôi. Nguyễn Công Trứ (1778-1858) phá đền: Năm Minh Mạng thứ 14 (1834), vua Minh Mạng muốn khẩn hoang ở vùng Hải Dương nên bắt khai thông con sông Hải Dương. Lúc ấy, ông Nguyễn Công Trứ đang làm Tri Huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, lãnh chiếu chỉ của vua thi hành việc khai con sông đó, địa chính theo lệnh vua phải đào con sông cho thẳng, nhưng khổ thay lại trúng thẳng vào đền thờ của Cụ Trạng Trình mà ngôi đền nầy nổi tiếng linh thiêng.

Ông Nguyễn Công Trứ truyền cho dân chúng phải phá đền khai sông. Dân chúng không ai

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 57

dám phá, Ông Trứ cũng phân vân, vì trên là lệnh vua, dưới là ý dân, nếu không tuân thì sợ vua bắt tội, mà tuân thì trái lòng dân. Ông Trứ sắm nhang đèn vào đền vái Cụ Trạng Trình xin Cụ cho phép phá đền, xin Cụ hiểu lòng của ông. Rồi ông Trứ xin chịu hết trách nhiệm cho công việc phá Đền, lúc đó dân quân mới dám phá.

Khi đào phá tới cái bệ thờ, thấy hiện ra một tấm bia đá chôn dưới bệ, có chạm khắc bốn câu sau đây:

Minh Mạng thập tứ, Thằng Trứ phá đền. Phá đền thì phải lập đền, Nào ai lấn đất tranh quyền của ai.

Ông Nguyễn Công Trứ thấy Cụ Trạng Trình nói đúng tên của mình thì sợ quá, truyền cho dân chúng ngưng việc phá đền, và lo việc cất đền trở lại như trước.

Giặc Pháp oanh tạc làng Cổ Am: Năm 1930 Việt Nam Quốc Dân Ðảng lãnh tụ Nguyễn Thái Học (1901-1930) lãnh đạo cuộc tổng khởi nghiã ngày 10/2/1930 đánh Tây ở các tỉnh: Yên Bái, Hưng Hoá, Lâm Thao, Hải Dương, Kiến An. Thất bại bị Pháp đìên cuồng ném bom tàn phá làng Bảo An để trả thù. Có lời đồn Trạng Trình đã tiên đoán: Kìa kìa gió thổi lá rung cây

Rung Bắc rung Nam rung tới Tây Tan tác kiến kiều an đất nước Xác xơ cổ thụ sạch am cây Lâm giang nổi gió mù thao cát Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy Một ngựa một yên ai sùng bái Nhắn tin nhà vĩnh bảo cho hay

Ngựa đá qua sông: Đất Vĩnh Lại là quê hương của Trạng, một vùng đất hiếu học và trọng khoa cử. Nhưng học thì rất nhiều mà đỗ đạt thì lại ít, chẳng mấy ai lập nên nghiệp lớn. Dân miền Vĩnh Lại ấm ức vô cùng, họ tìm đến hỏi Cụ Trạng cho ra nhẽ, song Cụ Trạng không trả lời gì khác hơn ngoài câu:

- Thiên cơ bất khả lậu! Dân chúng thầm bất mãn, cho rằng Cụ

thâm hiểm nhỏ mọn, biết mà không nói để bản thân riêng hưởng. Nghe tin ấy, Cụ Trạng rất phiền lòng nhưng rồi thông cảm cho sự nôn nóng, sốt ruột của dân làng bèn làm một con ngựa đá và cho khắc 2 câu thơ:

Hà thời thạch mã độ giang Thử thời Vĩnh Lại nghinh ngang công hầu

Nghĩa là: Bao giờ ngựa đá sang sông Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng. Ngựa vừa dựng lên, dân làng rủ nhau đến

xem rất đông, bán tin bán nghi về việc ngựa đá mà đòi qua sông. Thời gian trôi qua, dòng sông bên lở bên bồi, đến cuối đời Hậu Lê thì con ngựa đá đã sang sông thật. Người thì vui mừng, người thì hối tiếc vì đã trách nhầm Cụ Trạng, song ai nấy đều hy vọng một cuộc đời hiển hách. Tiếng lành đồn xa, người ta càng đổ xô đến làng.

Giữa lúc ấy, trong Nam lại xảy ra cuộc chiến giữa Tây Sơn và nhà Nguyễn. Tây Sơn sau khi thắng trận đem binh ra diệt luôn chúa Trịnh ở Bắc, trả quyền cho nhà Lê. Vua Lê đến thời Chiêu Thống lên ngôi thì lung lay, phải triệu Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An ra giúp. Chỉnh đem binh ra đánh đuổi và dẹp tan đám con cháu của chúa Trịnh còn sót lại. Nhưng Chỉnh lại chuyên quyền ra mặt chống đối Tây Sơn, Nguyễn Huệ thấy vậy mới sai Nhậm ra Bắc đánh Chỉnh. Chỉnh đem vua Lê chạy trốn. Nửa đường Chỉnh bị bắt, vua thì thoát nhưng

phải giả dạng thường dân mang theo ân tín mà chạy. Nhà Tây Sơn đuổi theo, nhà vua phải qua sông Vĩnh Lại và ở lại làng này. Việc vua đến lưu trú, lại thêm chuyện “ngựa đá qua sông” dân làng cho rằng đây là ý trời để làng Vĩnh Lại được oai danh

hiển hách, mới rước vua về đình rồi thảo hịch chiêu mộ quân sĩ để chống Tây Sơn, sẵn có ấn tín của vua, hết người này đến người khác bức vua phong tước. Thế cùng lực kiệt, nhà vua đành nghe theo; vậy là chỉ trong mấy ngày dân Vĩnh Lại đều thành quan này quan nọ cả.

Phong tước xong, nhà vua từ giã để chạy sang làng khác. Hay tin dân làng Vĩnh Lại phò Lê chống Tây Sơn, Vũ Văn Nhậm đem quân vây đánh, rút lại kết cục thảm thương cho làng. Đại chiến thế giới II:

Có những câu sấm của Trạng Trình viết từ thế kỷ 13, đến thế kỷ 20 đã được lịch sử chứng

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 58

minh với độ xác thực kỳ diệu như những câu sau đây:

Long vĩ, xà đầu khởi chiến tranh Can qua xứ xứ khởi đao binh Mã đề, dương cước anh hùng tận Thân Dậu niên lai kiến thái bình

Nghĩa là: cuối năm Thìn (1940), đầu năm Tị (1941) nổ ra chiến tranh, Khắp các xứ (của thế giới) bắt đầu xảy ra việc binh đao. Từ năm Ngọ (1942) đến cuối năm Mùi (1943) anh hùng chết nhiều. Đến năm Thân (1944) năm Dậu (1945) mới thấy có thái bình. Người ta đem ra so thì chính nhằm vào Đại chiến thế giới lần thứ hai (1939 – 1945) đã diễn ra đúng như lời sấm đã mô tả!

Cửu cửu Càn Khôn dĩ định Hai câu thơ trong quyển Sấm Trạng Trình: “Cửu cửu kiền khôn dĩ định - Thanh minh thời tiết hoa tàn” được rất nhiều người bàn tới, nhưng không thấy ai nói tới rất nhiều điểm rất trùng khớp với lịch sử VN cận đại vào thời điểm 1954 – 1963. Câu đầu có nghỉa là trời đất đã định 9 , 9: như vậy năm 1954: 5+4 = 9; năm 1963: 6+3 = 9 ; Ông Ngô Đình Diệm đã nhận chức Thủ Tướng từ Quốc Trưởng Bảo Đại tại Paris vào ngày 24 tháng 10/1954 đến ngày bị lật đổ 1/11/1963 cũng đúng 9 năm 9 ngày.

Câu thứ hai: 青 明 时 令 花 残 thanh minh thời tiết hoa tàn: chúng ta thấy chử THANH , nếu chiết tự sẽ thành ra (一 十 一 月: nhất thập nhất ngoạt) có nghỉa là 1 tháng 11; chữ 明 MINH đúng là tên của ông Dương Văn Minh; chữ hoa (花) na ná giông chữ ngô (苞) có thể do người sao chép sửa sai chăng? Như vậy hai câu của Cụ Trạng Trình có thể dịch đúng nghỉa là: chín, chín Trời đất đã định; ngày 1 tháng 11 Dương văn Minh sẽ lật đổ nhà Ngô.

Ma vương sát đại quỷ Gần cuối quyển sấm có mấy câu thơ sau

đây có thể tương ưng với thời hiện tại:

Quần gian đạo danh tự Bách tính khổ tai ương Can qua tranh đấu khởi Phạm địch thán hung hoang Ma vương sát đại quỷ Hoàng thiên tru ma vương

Một bọn gian manh trộm danh tự (dùng danh tự để dối trá), trăm họ vô cùng khổ sở, nổi lên tranh đấu chống lại. Bọn giặc ấy vô cùng tàn ác. Ma vương sẽ giết con quỷ lớn, trời tru diệt ma vương. Bọn gian ác ăn trộm danh tự ấy là ai? Bọn nó có tung tác được mãi không? Nếu mấy câu sấm trước đã đúng đến như thế thì các câu sau này có thể tin được phần nào không?

Phú quý hồng trần mộng Bần cùng bạch phát sinh Anh hùng vương kiếm kích Đạm cố đổ thái bình.

Giàu sang là giấc mộng ở cõi hồng trần, Nghèo khó thì tóc bạc sinh ra. Người anh hùng "vương" kiếm và kích (binh khí), Người mù trông thấy cảnh thái bình. "Người mù trông thấy được" là một điều quan trọng, "thấy được cảnh thái bình" lại càng quan trọng hơn. Câu này muốn nói với ai, và muốn khuyên người ấy điều gì? Nhân đây cũng xin giới thiệu một bài sấm ký về vận mệnh đất nước của Liễu Hạnh công chúa (bà giáng bút để tặng vua Thành Thái năm 1902, khi nhà vua bị Toàn quyền Paul Doumer ép phải đi từ Huế ra Hà Nội (qua đền Sòng ở Thanh Hóa) để dự lễ khánh thành cây cầu mang tên đương sự (Pont Doumer) về sau đổi tên là cầu Long Biên. Bài thơ này đã báo trước sau khi nhà Nguyễn mất, sẽ có "một con cáo gào thét đòi làm giả vương," và đất nước sẽ rơi vào tình trạng giống như thời Xuân Thu chiến quốc:

Hoành sơn lấp lối ra vào, Quốc kêu vọng đế, cáo gào giả vương Cung mây đã sẵn trời giương Non sông sắp đổi một trường Xuân Thu. Theo bài này, chế độ tàn bạo liên hệ tới

"cáo" sẽ bị đánh gục bởi những "thư sinh" (?) có tâm huyết cùng khả năng quản trị đất nước. Chúng ta hãy chờ xem.:

Thất phu mà lạy thư sinh Vân lôi ta chấp mấy anh Thủy Hoàng.

4. Sự nghiệp văn chương Nhắc đến Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm mà chỉ

nói đến những lời sấm truyền thì quả một thiếu sót lớn, bởi sự nghiệp văn chương của Cụ cũng có nhiều điểm đáng nói. Khi cáo quan về quê vào năm Quảng Hòa thứ 2 (1542), ông dựng Am Bạch Vân ở phía tả trong làng và lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 59

Ông lại cho bắc hai chiếc cầu Nghinh Phong và Tràng Xuân để hóng mát, dựng một ngôi quán gọi là Trung Tân Quán ở bến Tuyết giang, học trò ông do đó mà xưng tụng thầy là Tuyết Giang Phu Tử.

Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại cho đời Bạch Vân Thi Tập (chữ Hán) và Bạch Vân Quốc ngữ Thi Tập (chữ Nôm), nội dung thắm đượm tình cảm với quê hương, lo cho nước cho dân, đồng thời cũng nêu bật 1 chữ nhàn, coi thường danh lợi, đứng ngoài nghiệp quan trường, chỉ mong làm một ẩn sĩ giữa đời thái bình.

Vốn trọng nghĩa khinh tài, ông viết về xã hội tha hóa:

Thế gian biến đổi vũng nên đồi, Mặn lạt chua cay lẫn ngọt bùi. Còn tiền còn bạc còn đệ tử, Hết cơm hết gạo hết ông tôi. Xưa nay vẫn trọng người chân thực, Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi. Ở thế mới hay người thế bạc, Giàu thì tìm đến, khó tìm lui.

Bởi thế ông chỉ mong tìm cái nhàn tản ẩn cư nơi thôn dã như đã viết trong Thú thôn cư:

Một mai một cuốc một cần câu, Thơ thẩn mặc ai vui thú nào. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn người đến chốn lao xao. Thu ăn măng trúc, Đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, Hạ tắm ao. Rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp, Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao

Câu thơ thoáng chút mỉa mai với đời tranh đoạt, lại pha chút kiêu hãnh của bậc trí giả đầy trải nghiệm, chỉ mong không còn phải lo nghĩ việc đời, thích ngao sơn ngoạn thủy, xem danh lợi như phù vân. Nhưng như thế không có nghĩa là Trạng Trình nhắm mắt trước khát vọng cứu dân giúp nước:

Đường đời rất gập ghềnh, Chông gai cần phải cắt.

(Trung Tân ngụ hứng)

Trong bối cảnh nồi da nấu thịt, trước là Lê-Mạc tranh quyền đoạt lợi, sau là Trịnh-Nguyễn hai Đàng phân tranh, Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy không dự vào thế sự nhưng cũng không thể ngồi yên! Tấm lòng yêu nước thương dân của ông thể hiện qua bài Hữu Cảm khi thấy cảnh loạn lạc cuối đời Mạc Phúc Nguyên:

Giặc dã ngông cuồng lấn đế kinh Vua lo, tôi nhục, thật thương tình

Mong vua, khắc khoải lòng dân vọng Trừ bạo ai người dấy nghĩa binh? Bốn bể theo về mưa móc cũ Trời cao sáng lại sắc thanh bình

Ông cũng nghiệm ra cho đời sau rằng: Xưa nay nhân giả là vô địch Lọ phải ôm hoài mộng chiến tranh

Các truyền thuyết trên đây muốn chứng tỏ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài tiên đoán, đo nắm được bí truyền của sách Thái ất thần kinh với tập Trình quốc công sấm ký.

Việc ông tiên tri và biết trước các sự việc nhân tình thế thái, thời cuộc xảy ra "năm trăm năm sau". Thực, hư thế nào, còn là vấn đề cần phải nghiên cứu khẳng định hay phủ định của các nhà học giả Việt Nam sau này để trả lại giá trị xứng đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Đương nhiên, một điều cần khẳng định: Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự là nhà học giả "thượng thông thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự" (trên trời hiểu thiên văn, dưới đất tường địa lý, ở giữa hiểu con người).

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như: Tập thơ Bạch Vân (gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán còn lưu lại) và hai tập: Trình quốc công Bạch vân thi tập và Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm).

Ông đã truyền đạt cho các thế hệ mai hậu một đạo lý đối nhân xử thế, đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng giềng. Đọc thơ ông là thấy cả một tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân, và một tâm hồn suốt đời da diết với đạo lý: "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Tài liệu tham khảo * Việt Nam Sử lược Trần Trọng Kim * Tự Ðiển nhân vật lịch sử : Nguyễn Quyết Thắng * Thái Ất thần Kinh nhà xuất bàn Văn Hoá * Tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm của nhiều tác giả * Nguyễn Bỉnh Khiêm “Vầng Mây Trắng” thanh cao của Hoài Việt Hoài * Bài tựa Gia phả Trạng Trình của tiến sĩ Vũ Khâm Lân viết năm 1743 * Giai thoại Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm của Nguyễn Qúy Ðại

Vĩnh Thuận

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 60

TRẠI HÈ BÊN-ĐÁY NĂM 1943 Nguyễn Minh Cần

Hè 1943, Ty Tiểu Học Trà-Vinh được giao-phó tổ-chức một Trại Hè Hoc-Sinh tại Thi-Xã Bến Đáy, một vùng của biển cuối dòng sông Cổ-Chiên, cách Thi Xã Trà-Vinh khoảng 28 kms.

Thời này, theo hệ-thống giáo-dục, các ty Tiểu-học Trà-Vinh, Vĩnh Long và Sa-Déc thuộc-quyền của một vị Thành-Tra Liên tỉnh người Pháp tên là COURTAT. Mỗi tỉnh có một Thanh-Tra Hàng Tỉnh người Việt.

TỒ-CHỨC TRẠI HÈ Địa Điểm:

Xã Bến Đáy đã được chọn làm địa-điểm cho trái hè hoc-sinh, và đã xây cất 4 dãy nhà lợp lá dài thành một hàng, cùng môt nhà bêp xây bằng gạch ( có lẽ vì sợ cháy ) đều hướng ra bãi biển, cách xa khoảng 2OO m và một phòng họp cho 3OO trại sinh, cách bãi biển Bến-Đáy khoảng 200m.

Từ bờ biển nhìn vào, dãy bên trái là trại của tỉnh Sadec, cách môt khoảng tiếp dãy 2 là trại dành cho tình Trà-Vinh. Kế đó là nhà bếp, rồi dãy thứ 3 là phòng ăn và phòng họp trại cách nhau môt khoảng nhưng cùng một dãy. Sau hết, bên phai là dãy 4 , trai của tỉnh Vĩnh-Long.

Trong 3 dãy nhà dùng làm nơi cư-ngụ cho trại-sinh thì mỗi dãy có 100 giường sắt thẳng 2 hàng (50 giường x 2) đủ cho 100 trại sinh và có 2 giường cho 2 giáo-chức làm giám thị. Riêng dãy nhà của tỉnh Vĩnh-Long thì được ngăn đôi vì có 3O nữ trại sinh.

Biển Bến Đáy

Hệ thống tổ chức: 1/ Ban Giám Đốc và Giám-thị: Một vị

Giám-Đốc Trai Hè được cử-nhiệm mà tôi nhớ lúc đó là Cu VƯƠNG-HẢO-THUẬN, thời này đang là

Hiệu-trưởng Trường Nam Tiểu-Học Trà-Vinh. Vë sau , đến 1949 Cụ lên thay-thế Vị Thành-Tra Hàng Tính thời đó là Cụ Nguyễn Văn Kiết. Nhưng năm 1943, vị Thanh-Tra Hàng Tinh Trà-Vinh là Cụ PHẠM VĂNLƯỢC, về sau là Hiệu-Trưởng PéTrus Trương Vĩnh Ký và Giám Đốc Nha HỌC-CHÁNH.

Cụ Vương-Hao-Thuận đã tốt-nghiệp Trường đào tạo Cán Bộ Thanh-Niên ESCJIC taị Phan-Thiết. Thời này phong-trào Thanh-Niên đang được hưng-thịnh goi là Phong-Trào DUCOROY.

Mỗi trại của mỗi tỉnh đều có một vị Giáo-chức trách niệm, mà tôi nhớ trại Trà-Vinh là Cụ Đốc Dần ( đang là Hiệu-Trưởng Trường Tiểu-Học Cầu-Ngang ).

Ba trại của Vĩnh-Long, Sa Déc và Trà-vinh lại có ít nhứt 2 giáo-chức làm giám -thi mà tỉnh Vĩnh Long có Anh Tư ( goi là Tư Hon, tốt-nghiệp HLV Thể-dục Thể-thao ESEPIC Phan-Thiết.

Tỉnh Sa-Déc cũng có một giáo--chức ESEPIC là Thầy SÂM, còn tỉnh Trà-Vinh chỉ có 2 giáo chức, tuy Trà-Vinh thời này cũng có 2 vị giáo-chức tốt nghiệp ESEPIC là Thây Hưng và Thầy Nhỏ, nhưng sao không thấy được cử đến trại Hè Bến Đáy.

2/ Trại-Sinh: Môi tính gởi đến Trại 1OO trại-sinh, đặc-biệt chỉ có Tỉnh Vĩnh Long gởi 3O nữ-sinh và 7O năm sinh. Tất cả 300 trại-sinh đều là học-sinh, thường là học-sinh lớp Nhứt, từ 12 đến 13 tuổi. Tôi may mắn đã là một trại-sinh của Trại Hè Bến Đáy năm 1943, lúc đó tôi đang học Lớp Nhứt Tư-Thục Nguyễn Văn Chưởng và tôi còn tìm lại được một bạn thân tại Pháp cũng đã cùng tôi tham dự trại hè này, nằm cạnh giường tôi trong Trại Trà-Vinh. Anh bạn này này cũng 8O tuổi và đang ở Pháp như tôi.

Đặc-biệt hơn nữa là khi kể ra về Trai-Hè này mà tôi biết được người Chị của Nhà tôi nay cùng tuôi tôi cũng đã là nữ trai-sinh của Tỉnh Vĩnh Long. Chị nói cùng trai này có một chị bạn nữa mà chị đó lại là bạn học của tôi thời Trung-Học tại Cần Thơ từ 1946 đến 1949 mà thời-gian Trại Hè Bến Đáy 1943 chưa ai biết ai cả.

Thật là trái đất tròn và đến nay ít nhứt tôi biết chắc-chắn đã còn có 4 cựu trại-sinh của Trại Hè Bến-Đáy năm 1943, cách nay 68 năm qua, là 3 người vừa kể trên và tôi. Và tôi mong sẽ có một

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 61

vài bạn khác là cựu trai-sinh khí đọc bài này thì cũng sẽ nhận ra là họ cũng đã có tham-dự trại hè Bến Đáy nữa, nếu được vậy thì quá vui. Nhưng cũng buồn khi viêt lại kỷ-niệm Trai Hè Bến-Đáy 1943 vì ngày nay thì các vị Thầy đều đã quá vãng cả, may là tôi tuy đã qua 81 tuổi (Cảnh Ngộ 1930), mà tuôi ta là 82, mà còn đuợc con trí nhớ để viết lại kỷ-niệm xa xưa này.

Nghề làm Biển của Ngư dân

SINH-HOẠT TRẠI HÈ BẾN ĐÁY 1/ Buổi sáng:

Ăn sáng: Sau tiếng kẻng lúc 7 giờ, 3OO trai-sinh thức dậy, được 45 phút để lo vệ-sinh cá-nhân. sau đó tâp họp, xêp hàng đến sân trước Trại Trà-Vinh là dãy nhà ở giữa, để chào cờ. Thời này chào cờ Pháp vì Nam Kỳ là thuộc-địa của Pháp. Sau chào cờ, trại-sinh đến phòng ăn để ăn sáng khoảng 8 giờ, thường là ăn cháo trắng với tép rang.

Du-Ngoạn: Sau khi ăn sáng, trai-sinh được hưởng dẫn đi du-ngoạn từ 8giờ 30 đến 11g trưa, thăm Chợ tại Thì Xã Bến Đáy khoảng 4OO m, cũng gần bài biển. Thật ra, Bến Đáy cũng chưa phải cửa biển vì sau Bến Đáy, dòng sông Cổ-Chiên còn ra Ba-Động, và tại Bến Đáy bải cát cũng còn lẫn bùn.

Ngày khác thì đi xem xóm Chài hoặc vòng vào phía trong, qua các đồng ruộng chưa ngập nước, vi tháng 7 cũng chưa mưa nhiêu. Trên ruộng có khi gặp các đàn vit hãng và trại-sinh thường lượm được vài trứng vịt đẻ rơi. Có ngày trại-sinh đuợc đến những đồi cát, dừng lại để nghĩ chân và nô-đùa trên đồi cát.

Ăn cơm trưa và nghĩ trưa: Đến gần trưa thì trại-sinh được đưa về trại để ăn cơm trưa lúc 12 giờ.: có canh bí đao, hoac canh bâu và vẫn tép rằng mà ngày nào cũng có. Vi Bên Đáy có rât nhiều tép mà dân chài lưới phơi làm tôm khô, và nhiều cá khoai, cũng được phơi làm khô. Có lẽ vì sợ ăn cá có xương, nên ít khi được ăn cá, thịt cũng ít khi có.

2/ Buổi trua : Sau cơm trưa, trại-sinh được về trại nghĩ trưa từ 12g 3O đến 14g 3O .khi có tiêng kẻng thì thức-dây để chuẩn-bị xếp hàng lên phòng họp chung cho 3 trại ( 3OO trai-sinh ). - Họp và Trò Chơi : Khoảng gần 14giờ 15 đến 16g 15 giờ, trại-sinh họp chung 1 phong trống trai, cung chung dãy phòng ăn để sinh-hoạt chung. Có buổi được nghe kể chuyện và thường là có những trò chơi.- 3/ Buổi chiều - Tắm biển: Sau giờ họp chung, trại-sinh được về phòng lấy khăn và quần tắm để ra bãi biển tắm từ 16g 45dên 17g 45 Cứ mỗi tỗ 3 trại-sinh thì được cấp 1 cục xà-phòngdê dùng chung lúc tắm biển. Vã lại khi xuống nước thì 3 trai-sinh này không được tắm xa nhau, đẻ trông chừng nhau , vì 1 trong 3 là trai-sinh biết bơi giỏi, 1 biêt bơi vừa và 1 không biết bơi. Do là nguyên-tắc tắm sông tập-thể mà cónhiều tổ-chức không biêt để áp-dụng, nên thời 1972 có một chuyên du-ngoạn Nha-Trang đó môt trừong Trung-Học Đà Lạt tổ-chức, và có 1 trại-sinh bị chêt đuối . Nha-Trang là noi bải biển có hiểm-nguy cần nên thận-trọng hơn.Bải biển Bến Đáy lại có loại cá Ngác, nếu đạp nhầm thì bị ngạnh cá đám rất đau nhức. Loại cá Ngác giống như cá Trê . Chiều nào xấu Trời, có mưa gió, thì trại-sinh không được ra bải biển, được tự-đó trong trại hoặc ra trước sân đá bóng , nô đùa. - Cơm chiều: Sau khi tắm biển về Trại, nghe tiếng kẻng thì trại-sinh xếp hàng đến phòng ăn để dùng cơm chiều.Sau cơm chiều, Trại-sinh được tự-đó trong trại hoặc trước sân của dãy nhà trại từ dên 2Og 45 thi vào trại. Đúng 21 giờ đêm, khi có tíêng kẻng là tât cả trại-sinh phải lên giường nghĩ đến sang.

* * * Sau lần tham-dự trại Hè Bến Đáy, tôi còn

được trở lại Bến Đáy vài lẩn: 1- Tháng 04/1944: 3 bạn cùng lớp và tôi đã

đi xe đạp từ Trà-Vĩnh tới Bến Đáy, nhung không còn thấy những dãy nhà xưa của trại hè 1943 nữa, vì Tỉnh có lịnh xây cất một sân vận-động tại khu này. Đêm đó 3 anh bạn cùng lớp Nhứt và tôi được Ông Kỷ-Sư phụ trach xây sân Vận-Đông Bến Đáy cho ngũ trọ tại gian nhà là vi Ông Kỹ-Sư này ở có một mình với 1 người gát-dan để ban ngày theo-dõi việc xây cất, gặp chúng tôi đến mừng quá, mời ở lại ngủ cho vui.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 62

2- Hè 1944: Thầy dạy lớp Nhứt của chúng tôi là Anh Tư Phước, đã tổ chức du-ngoạn bằng Xe đạp, từ Trà-Vinh đến Thì Ròn quê cửa bạn Hàng Công-Thành. Chuyến du-ngoan này có gần 10 người trong đó anh Thành và em là Lập sẵn dịp vê quê để nghi hè (bãi trường ), cũng như 1 bạn tên là anh TRỌNG quê ở Bến Trại.Tôi cũng tham dự với một số bạn khác rất vui.Chuyến di này , có ghé bên Đáy vào khoảng 12 giờ trưa, gặp ngày khánh-thành sân VậnĐộng, nên THầy Phước xin bạn tổ-chức cho đoàn du-ngoan chúng tôi được ăn cơm trưa để sau đó tiếp-tục đạp xe về Xã Thị RÒN cách Bến Đáy khoảng 17 kms nữa.Hẹn sang năm 2 013, nếu còn dịp thì tôi sẽ viết kể lại 2 chuyến trở lại BếnDáy này. Một điều mà tôi tiếc nhứt là thời-gian từ 1952 đến giữa năm 1954, Cha tôi về Quân Cầu-Ngang làm viêc, mà tuân nào tôi cũng về thăm, nhung không vô Bến Đáy đuợc, vì là thời chiến.Cho đến sau Hiêp-Dinh Genève tháng 05/1954, tôi mới trở lại Bên Đáy và 1955 chính tôi là người đã tổ-chức cho khoảng 1OO nữ-sinh Tiểu-Hoc Trà-Vinh viếng Bến-Đáy.

Du ngoạn Xe Đạp trên đường quê

KÝ NIÊM VÊ TRAI HÈ BẾN-ĐÁY NĂM 1943

1- Có một dêm mưa và gió khá mạnh, môt vach của trại Vĩnh Long bị tốc ra ngang, may là không có hoc-sinh nào bị thương. Nhưng dêm đó môt số trại-sinh phải được dời đến phong khác để tránh gió mưa. Sáng hôm sau, thợ đến sửa và dựng lại tâm vách của Trai Vĩnh Long.

2- Cuối trại hè, các học-sinh được cân đo lại để xem có bị sụt cân hay được lên cân. Có một số ít bị sụt cân, lý đó là thường bị tiêu chảy mà tôi nghi là vị tại có nhiều ruồi, tuy khi dọn ăn có đậy

các thức ăn, nhưng ruồi nghe hơi tép rang thì bay đến phòng ăn, và bàn ăn dài ( rên 3OO phần ăn) nên chắc một số ruồi có thể lọt được vào lồng bàn để đậu lên các điã tép rang ?

Thường, vào buổi chiều, có một số trại-sinh bị đau bụng, Cụ Giám-Đốc trại hè bảo nhà bếp mua nhiêu chanh tươi để khi nào trại-sinh đến xin thì cho để lấy vỏ chanh nhai rồi nuốt cho đỡ đau bụng.

3- Ngày bế-mạc Trái Hè Bến Đáy có trình-diễn nhiều màn văn-nghệ do trại-sinh của 3 tỉnh phụ-trách mà Trà-Vinh có màn của bạn CHỈNH ( học-sinh Cầu-Ngang ) lấy lá me để trên lưỡi làm tiếng chim hót rất tài-tình. 4- Trại có mời đại-diện chánh-quyền 3 tinh ( Trà-Vinh Vĩnh Long và Sa Déc ) đến Bến Đáy tham dự. Ngày bế-mac này cha của Anh bạn nằm canh giường tôi co tháp tùng, và sau buổi lễ bể-mạc, anh bạn này chạy tới cha ôm khóc vì mừng quá sau khi xa nhà 1 tháng. Mong có bạn nào đã tham dự Trai Hè Bến Đáy, hoặc một độc-giã nào có bà con, cha mẹ có tham dự trai hè này xin cho biết để tôi mừng vì đến gần 68 năm qua mà còn được gặp lại ban đó .

(Viêt theo trí nhớ, xong ngày 03/09/2011 tại Pháp) NGUYỄN-MINH CẦN

Cụ Nguyễn Minh Cần tại Miếu Tiền Vãng 1955

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 63

Lần đầu tiên trong đời Lắm được nhìn thấy

đất nước Việt Nam từ trên không. Một tấm thảm xanh thẩm mát mắt với những con trăng, con rắn màu nâu xám bò ngoằn - ngoèo trên đó. Phía ngoài là màu xanh vô tận của biển. Có người hô sắp đến Sài Gòn rồi. Ruộng vườn đẹp quá. Cũng là lần đầu tiên cô bé Lắm trở lại quê hương sau hơn hai mươi năm sống xứ người. Nhớ lắm. Nỗi nhớ miên man không rỏ tên, nhưng khiến lòng nó bức rứt. Ba má và các em đều đã định cư tại Melbourne, Uùc châu. Còn ai để nhớ? Cái xóm chài nghèo nàn bỏ đi hồi mười mấy tuổi chỉ lưu lại những kỷ niệm không dám nhớ. Nhưng trong chuyến hồi hương này, Lắm cố nhớ, cố hồi tưởng những khuôn mặt thương yêu mà nó muốn quên từ hơn 30 năm rồi, bây giờ sắp được gặp lại.

Sàigòn nhìn từ trên cao

Có một người mà mỗi lần nghĩ tới là nó cảm thấy đau lòng hơn hết, đó là mẹ của nó. Khác với Ba Má nuôi đang sống ở Uùc. Mẹ Lắm đã sanh tất cả 5 anh em. Cha nó đi lính chết hay mất tích gì đó từ hồi tháng 3 năm 75 trên cao nguyên, chẳng có tin báo, chẳng có tìm xác, giờ cũng vẫn biệt tăm. Cứ coi như đã chết cho gọn. Lúc đó, mẹ đang có bầu thằng út, sanh nó sau tháng tư 75, trong lúc chờ cha, nên đặt tên cho nó là Đợi. Ttrước đó, cha nó cũng đi lính ngoài Trung. Vì nhớ ba, mẹ sanh, đặt tên cho đứa con trai đầu lòng là Trông. Rồi thỉnh thoảng ba về thăm, mẹ có thêm đứa kế, mang tên Lâu. Tới phiên nó, ba vẫn xa nhà, nó có tên Lắm. Thằng em kế tên Thôi, vì sanh năm 1973, lúc có chút hòa bình, hy vọng gia đình sum họp. Tâm trạng của mẹ nó: Trông-Lâu-Lắm, Thôi-Đợi. Năm anh chị em. Con của hai vợ chồng vô danh.

Lắm là đứa con gái duy nhứt trong gia đình. Sau cuộc đổi đời 1975, chẳng những chủ nhà

lầu nhà ngói bị đuổi vô rừng, mà mấy trại gia binh cũng được giải phóng sạch sẽ. Có người giàu sang buồn vì bị tịch thâu hết tiền của rồi tự tử, nhưng chị Tư Thảo, mẹ nó, gia tài chỉ là 5 đứa con, quyết bám lấy sự sống bằng mọi giá. Chị đã dẫn dắt bồng bế 5 anh em nó đến bên kia chợ Xóm Cũi mưu sinh bằng nghề buôn đầu chợ bán cuối chợ. Chỗ ở bất định, của cải gọn nhẹ, để sẳn sàng chạy trốn công an đi ruồng. May quá chưa lần nào bị bắt bỏ tù hay đưa đi làm kinh tế trên rừng. Trước đây, lương bổng của ba cũng ít, mẹ từng bươn chảy buôn bán kiếm thêm tiền, dư để nuôi con. Bây giờ thì bó tay. Đói quá. Thằng út Đợi thiếu sữa, ốm tong teo. Nhiều khi không có tiền mua lít gạo. Bo bo cầm hơi cũng không đủ tiền mua. Cùng đường, có lúc anh Trông lâu lâu biến thành dân chôm chĩa. Mẹ rầy quá, bảo giấy rách cố giữ lấy lề. Bé Lắm thường đi bộ về hướng Gò Công tìm moi khoai sót, lượm rau cải vụn về ăn độn. Nhưng rồi chợ cũng không được nhóm, ngoại trừ vài cửa hàng quốc doanh bán theo hộ khẩu. Mẹ hay sang khu Bình Đông, khi về thường có vài con cá khô trộn với mấy con ruốc, hôi như phân. Anh Trông xuống ruộng kiếm lặt rau hoang đem về luộc, ăn với phân cá kho nước muối. Bổng một hôm, mẹ thâu tóm hết của cải gia đình, bồng út Đợi và dẫn bầy con đi xuống bến ghe. Tối đến gia đình được xuống ghe, rồi ghe rời bến đi đâu không biết.

Đã qua bao tháng ngày rồi chị tư Thảo cứ đắn đo suy nghĩ, làm cách nào để cho con nó sống. Nhìn thấy con đói từng ngày, muốn đứt ruột. Lòng thương con bao la, nhưng thân góa bụa quá mỏi mòn. Phải chi có chút tiền cô-nhi-quả-phụ như thời trước! Không cách gì làm tròn bổn phận của bậc sinh thành. Căn nhà đơn sơ. Mái trường cho tuổi trẻ. Con lớn nên người. Gia đình đoàn viên sau cuộc chiến... Tất cả đã thành mây khói. Còn lại đây: vô gia cư, bất an, bệnh hoạn, đói rách. Chị có thể đổi sinh mạng mình với sự sống của các con. Nhưng nó còn nhỏ quá. Sau cùng, hình ảnh những người đi ghe tốt bụng đã thôi thúc chị có một quyết định đau thương. Nơi quê quán của chủ ghe này chắc còn nhiều người nhân hậu như vậy. Phải dẫn con tới vùng đất lành đó. Nếu thất bại, chắc cũng dễ tìm người nhờ nuôi dùm. Không thể ở đây để nhìn các con chết dần. Chị sẽ làm một việc rất trái lương tâm. Chị nuốt nước mắt mà dẫn con đi.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 64

Xe đò hồi đó rất khan hiếm. Chỉ có mấy chiếc quá cũ kỷ, chạy chậm như rùa, ọp ẹp như cái chòi rách biết đi, khách thì ém bên trong, đeo bốn phía bên ngoài và sắp lớp trên mui chung với hành lý và mấy bà lái chó. Chị bèn quá giang ghe chài để làm chuyến hành trình định mạng.

Cả xóm Bến Đáy, Xã Mỹ Long hôm đó xôn xao bàn tán. - Tôi nghiệp, có cái bà từ đâu tới, dẫn bầy con đem bán. Sao nghèo đến nỗi bán con vậy cà? - Thì cho đứt con mình cho người ta nuôi rồi xin tiền là bán, chớ còn gì. Hổng bán cho thiên hạ nuôi dùm thì tụi nhỏ chết đói hết sao?

Dù sao dân ở đây nhờ sống trên bờ sông Cổ Chiên, sát biển, nên hiền hòa và hiếu khách. Ở đâu bị đói không biết, chớ bà con vùng vựa lúa này khó đói, nên sẳn sàng mời mẹ con chị Tư dùng bữa cơm. Cơm trắng với cá kho đàng hoàng. Chị đi thất thơ thất thiểu từ mấy ấp xóm dưới tới xóm chợ suốt mấy ngày rồi, hai anh của Lắm đã được bán đâu đó. Ai cũng thích mua đứa lớn trước. Chỉ còn ế lại Lắm và hai em nhỏ. Ừ, còn nhỏ quá! Thời buổi này có năn nỉ cho không chưa chắc ai thèm nhận. Đang lang thang trên đường, bổng bà nghe có tiếng kêu: - Chị ơi, vô đây uống nước, nghỉ chân chút đi.

Chị tư Thảo bồng con bước vô nhà cầu, cái mái nối dài phía trước, nơi có cái giường tre, đặt út Đơi xuống cho bớt mỏi tay, nói cám ơn chủ nhà. Chủ nhà hỏi: - Chị xuống đây được mấy hôm rồi phải hông? Nghe nói chị dẫn con đi cho. Chị cho được mấy đứa rồi? Còn lại 3 đứa lận hả? Chà tôi nhiệp cháu út quá. Sáng giờ có ăn gì chưa. Thôi, ở lại nhà tui ăn cơm rồi hãy đi. Tui cũng muốn bàn với chị chút chuyện.

Ông Sáu Vạn, chủ nhà, là người tương đối khá giả, có bà con bên trong lẫn bên ngoài. Thời nào ông cũng có chỗ dựa. Giờ này, gia đình ông cũng còn bề thế, vẫn còn chiếc ghe, chưa bị xung công, dùng để đi buôn. Ông có đứa con gái sắp lấy chồng, nhìn thấy con nhỏ Lắm lanh lợi dễ thương, muốn mua nó để làm cháu ngoại. Hai người lớn bàn chuyện gì Lắm không cần biết. Sau bữa cơm, chị tư Thảo kéo con lại nói: - Thôi Lắm con, con ở lại nhà ông, ông ngoại, ông bà đây tốt lắm, thương con lắm, có cơm ăn mỗi ngày. Theo mẹ chắc sống hổng nổi con ơi. Lâu lâu mẹ sẽ trở lại thăm con. Ráng nghe lời dạy biểu của ông bà ngoại ngheo con.

Mẹ nó lận tiền trong mình, gùi thằng Đợi trên lưng, dắt thằng Thôi đi mất dạng. Bé Lắm, vừa hơn 5 tuổi đời, khóc cạn nước mắt cũng không thấy mẹ trở lại. Nó không nghe được lời giao kèo “chỉ gặp lại con khi nó trên 20 tuổi”. Và không biết mẹ nó đã cắn răng cắt mấy khúc ruột bỏ lại phía sau.

Sau khi cô Ánh, con chủ nhà, lập gia đình với Phong, bé Lắm kêu 2 người bằng ba má. Tiếng là con nuôi, nhưng nó phải sống như người giúp việc, như đầy tớ. Khi chị Ánh có con, thân phận con nuôi của nó mới nổi bậc. Ăn ngon mặc đẹp dành cho các em, việc khó việc nặng dành riêng cho nó. Gánh nước, giặt đồ, nấu cơm, bồng em… Mặc cảm cứ âm thầm tích tụ trong tâm. Dù chị Ánh và anh Phong rất thương nó, ít khi rầy la hay đánh đập, nhưng nó lúc nào cũng tự rút vô bóng tối. Khuôn mặt nó héo queo, lầm lì khó hiểu. Nó cũng được đi học, rồi được dẫn vượt biên, lo cho công ăn việc làm. “Thôi con còn nhỏ, để tiền má giữ dùm cho”. Chị Ánh biểu vậy, và gom giữ hết tiền do nó làm ra. Nó nín thinh chịu đựng. Nhiều lần nhớ mẹ, nhớ anh em, khóc thầm, rồi lại cố quên. Sau khi đã góp công cho ba má Phong- Ánh mua xong căn nhà, nó được dễ thở một chút. Rồi nó được phép lấy chồng, khi tuổi gần 30, được tư do, được có tiền của riêng. Chồng nó người Phú Yên, cũng sống với cha mẹ ở Melbourne, thương yêu nó lắm. Thời gian thoảng qua như cơn mộng. Chuỗi dài bể dâu cơ cực đã làm nó cạn dần sự nhớ thương và tình cảm thiêng liêng. Nó thường tự trấn an bằng ý nghĩ là họ không còn. Việc quan trọng là lo cho chồng, yêu thương con cái, cố tạo cho chúng một tuổi thơ, không bị bất hạnh và mặc cảm như mình. Không ai giàu ba họ. Nó tự an ủi. Nó là cái gạch nối đau thương. Con nó sẽ khá hơn.

Bổng một hôm ba Phong kêu nó lại và nói:

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 65

- Ba muốn con cùng chồng con về thăm Việt Nam một lần. - Dạ, con hông thích về bển đâu ba. Về để làm gì vậy ba? Ông bà ngoại mất hết rồi. Đâu còn ai. Hơn nữa con của con còn nhỏ quá, về khó quá ba ơi. - Ừ thì cứ chuẩn bị tiền, vài tháng nữa ba dẫn tụi con về. Con phải về. Ba vừa bắt được tin mẹ con còn sống. Có người biết mẹ con đang buôn bán ở chợ Bà Hom. Con nên về cho mẹ con thấy mặt, để mẹ con...

Nghe tới đó, Lắm muốn choáng váng mặt mày. Mẹ còn sống! Nghe như động đất lần nữa. Trái tim chai đá bổng rung lên lộn xộn khó hiểu, như đống lửa tàn gặp cơm gió soắn. Đầu óc rối bù trong mớ buồn, tủi, nhớ thương, và chút oán hờn. Nhớ nghĩ về người tưởng đã chết coi bộ dễ chịu hơn nhớ người còn sống mà không biết bịnh hoạn ra sao. Tự nhiên, nó nôn nao muốn về cho thật nhanh, cho mau tới.

Máy bay đang giảm dần cao độ. Sài Gòn hiện ra như tấm thảm Ba Tư, rồi khi xuống thấp hơn, thấy như cả ngàn cái bàn cờ ghép lại. Không biết vì sức ép nào mà cái ngực nó nặng đến làm rưng rưng nước mắt. Mẹ Lắm đang cư ngụ đâu đó phía dưới này. Bất giác nó gọi: Mẹ ơi! Mẹ ơi! Nó âm thầm lập đi lập lại một cách vô thức. Cùng ba Phong và chồng con bước ra khỏi máy bay, Lắm cảm thấy như bị lạc đến một đất nước nào đó. Cảnh vật và người ở đây lạ quá. Mọi người dáo dác như nghi ngờ, hoảng sợ. Chính nó cũng hồi hộp lo âu. Bước xuống nền phi trường mà cứ ngở bước vô lò ấp trứng. Nhớ Melbourne, thoáng mát và yên lành quá. Tội nghiệp Việt Nam làm sao!.

Thủ tục kiểm tra hành lý quá chậm. Công an làm việc với khuôn mặt nguội lạnh như bánh bao thiu. Nhờ ba Phong và chồng con nó ăn mặc giản dị, quê mùa, không có vẻ vinh qui bái tổ, nên gia đình nó lọt qua cái ải này khá nhanh. Khi Lắm đẩy đồ ra ngoài tìm xe taxi, một tấm biễu ngữ thật to đập vô mắt, làm cho nó nổi da gà: “Chào mừng bà con Việt Kiều về thăm quê hương”. Sao lại mừng mình về?! Hồi đó, anh hai Trông của mình, chỉ hơn 12 tuổi đầu, đi vượt biên theo kiểu canh-me, vừa lên ghe, bị bễ, bỏ chạy, một số bị bắt, anh leo lên ngọn cây bần trốn, bị phác giác và bắt đưa vô trại tù, bị đánh gần hộc máu, treo tay treo chân để ép anh phải chỉ ông chủ ghe “phản quốc” là ai mà anh nhứt định không khai. Nhờ ba nuôi của anh có thân nhân “cách mạng” nghe chuyện đau lòng, vô lảnh về mới yên. Sau đó anh đi được nhưng ghe

bị bắn ngoài khơi cửa Cổ Chiên, quay vô không kịp, chìm, anh mất xác trên biển. Vài người sống sót bơi vô được và cho hay tin như vậy. Nó có bàn thờ riêng cho anh. Còn bây giờ? Lắm phải nhắm mắt, không dám nhìn vô tấm bản chào mừng khác thường ấy.

Cuối cùng ba Phong cũng tìm được chỗ mẹ Lắm ở. Phải nhờ người quen biết dẫn vô. Ba phong chưa hề viết thư hay liên lạc trực tiếp với mẹ Lắm.Vừa đi, Phong và người quen vừa thì thầm gì đó. Bước chân họ bổng ngập ngừng. Qua nhiều ngỏ ngách như hang chuột, ở cuối cái ngách nhỏ là nơi bà tư Thảo cư ngụ. Nhà một mái nhỏ síu, chòi không ra cái chòi, nhà không ra nhà, mặt tiền chừng 2 thước, lợp bằng tôle cũ, nằm meo bên vũng nước đen như mực tàu, mùi hôi thủm thủm.

đôi mắt to, sâu và sáng vẫn nhìn xa xăm.

- Ông tư ơi, có nhà không, có người quen tìm nè. Lắm rất ngạc nhiên. Tại sao gọi ông tư? Ai vậy? Bộ cha nó từ cõi chết đã trở về rồi sao. Còn bà tư, bà tư Thảo, mẹ nó, đang ở đâu? Mọi người có vẻ bỡ ngỡ. Ba Phong quay sang nắm tay con gái và thằng rể. Không thể giấu con, lỡ rồi, về tới đây rồi, phải cho tới luôn. - Thật không may, con à. Ba cũng vừa mới biết tức thì. Hai con bình tỉnh. Mẹ con vừa mất hơn hai tuần. Nếu ba biết trước... chắc chưa dẫn tụi con về.

Lắm cảm thấy trời đất tối mù, lỗ tai lùng bùng, tay chơn bủn rủn. Chồng nó vịn cứng hai vai. Lắm cố lấy lại bình tỉnh và dáo dác tìm một người nào khác sau cánh cửa nhỏ. Có hình một bà già hom hem tóc bạc từ trên bàn thờ ngó thẳng ra.

Ông tư, ông già tàn phế lạ hoắc, chẳng phải cha nó, chống nạn bước ra và vồn vã mời mọi người vô nhà, vừa đi vừa kể lể. Lắm chạy ngay đến bàn thờ nhìn đăm đăm tấm ảnh. Hình mẹ đây sao? Mẹ đã già quá, nhưng sống mũi dọc dừa, đôi mắt

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 66

to, sâu và sáng còn nguyên nét cũ, vẫn nhìn xa xăm. Lắm như bị trời trồng, tâm hồn tê điếng. Tiếng ông tư vẫn văng vẳng bên tai.

Ông tư ù là chồng sau của mẹ Thảo, một thương phế binh chỉ còn một chân rưởi, khuôn mặt khắc khổ như người tù chung thân. Nồi nào úp vun nấy, lính sống lấy vợ lính chết. Một quả phụ bơ vơ, một thương binh lang bạc, cả hai đã bị ruồng rầy, bỏ quên bởi hai bên, thắng-thua, như rác bụi lắng xuống làm cặn đáy sông, âm thầm nghe sóng vỗ bèo trôi bên trên. Cam chịu cả đời. Nhẩn nhục chung thân. Họ đang sống như ma. Lắm kêu ông chồng của mẹ bằng Cậu tư. Bà tư bán rau cải, Cậu tư bán vé số, tuổi già bóng xế an ủi cho nhau. Bà tư sương gió cả đời, chịu cực khổ đã quen, ít khi bịnh, nhưng tháng trước vừa bị bịnh là chết ngay.

Từ cái ngày xa xưa, sau khi bán xong con Lắm, bà tư ôm hai đứa nhỏ nhứt trở về Sài Gòn lập nghiệp, làm rẩy và mua bán rau cải ở xóm Cầu Tre, Bình Thới. Sau đó bị đẩy dần vô tới Bà Hom này (khu Dương Minh Xuân), sống với hai con. Lớn lên, thằng Thôi, em nó, mò lên cao nguyên tìm gỗ kèm thêm chút hy vọng tìm gặp được xương cốt cha nó, đã bị sốt rét rừng chết cả chục năm rồi. Còn út Đợi, đã có gia đình, lên Lộc Ninh đốn cây, làm cỏ mướn cho dân giàu khẩn hoang, rồi cũng có được miếng đất cấm dùi, tạm sống được và cất được cái chòi này cho mẹ và cậu ở tạm. Anh ba Lâu, thì Lắm nghe đồn, ảnh theo ghe chở mướn rồi cũng đóng cọc đâu đó ở bải lài đất mũi, Cà Mau, không hề về thăm lại bà con ở Mỹ Long, và chưa bao giờ gặp được mẹ.

Lắm tự mình đi mua thức ăn và tự tay nấu bữa cơm cúng mẹ. Nó không cầm được nước mắt. Mọi người khóc theo. Nó muốn nói cho mẹ nghe là nó không buồn mẹ. Mẹ đừng mang măc cảm tội lỗi đem theo. Các con không trách mẹ, mà còn thương mẹ hơn tất cả những bà mẹ bình thường. Hơn hẳn các bà mẹ giàu sang. Nó chưa học được hoặc chưa hiểu được chữ hiếu là gì, nhưng cảm thấy thương mẹ vô bờ, vì nó từng cảm thấy lòng mẹ cũng “bao la như biển Thái Bình”. Nó chưa đền đáp được chút gì cho mẹ. Nó chợt nghĩ, giả sử nó bị bỏ ở gốc cây lúc mới sanh, thì lớn lên nó cũng thương về mẹ. Hoặc khi nó khôn lớn rồi mẹ bán cho người Đại Hàn hay Đoài Loan thì nó vẫn thương mẹ. Thương một cách tự nhiên, không cần học. Chỉ có xã hội hay hoàn cảnh mới làm cho mất đi tình cảm thiêng liêng đó.

Mẹ đã trông cha về! Mẹ mong ngày sum họp. Mẹ đợi thấy các con khôn lớn. Mẹ trông đợi

suốt đời! Lâu lắm. Không được gì hết! Xã hội ngày càng khắc nghiệt, bi đát hơn. Một đời của mẹ! Nửa đời của con! Con cũng trông đợi như mẹ. Nối tiếp ước mơ của mẹ. Đã hơn 30 năm rồi, mẹ ơi!!

Lâm Thanh, Để nhớ những ngày tháng Tư

Bầy chim bỏ xứ

GẠCH NỐI

Kể thừ thuở đất trời bão tố, Ba mươi năm!? lìa tổ ly hương, Vượt qua mấy bể đoạn trường,

Lối quê xa khép, ngỏ hồn tang hoang!

Cây muốn lặng gió ngàn vẫn gắt, Cánh chim Di lạc mất lối về, Chọn vùng giá lạnh làm quê,

Cũng đành là kẻ bội thề nước non.

Đời lữ thứ: cây con chiết nhánh, Gốc cội còn rễ bám quê cha, Chồi xanh đất lạ đơm hoa.

Ngày mai chẳng biết tìm ta... nơi nào!

Thân gạch nối, như cầu gỗ mục, Vắt mình qua một cuộc bể dâu,

Nối dài hệ lụy thương đau, Một mai cầu gẫy, hận sầu có vơi?

Chiều mỏi bước chân đời phiêu lãng, Đôi tay run sờ soạng vết thương!

Một tay... vói níu thiên đường, Một tay... níu giữ tình thương quê người!!

Lâm Thanh

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 67

Phạm Phong Dinh

Người kể cho chúng tôi nghe câu chuyện lạ lùng này là một vị học giả lão thành, khi biết chúng tôi đang tìm kiếm những câu chuyện ma có thật để gởi đến độc giả bốn phương. Nhà học giả kể cho chúng tôi nghe hai chuyện ma, một xảy ra ở Sài Gòn, và một có bối cảnh ở Huế. Chuyện ma Sài Gòn chỉ mới xảy ra trước năm 1975 một ít lâu thôi, trong khi câu chuyện ở Huế phải lùi ngược về những năm 1945. Chúng tôi chọn kể lại với quý độc giả kính mến chuyện người cưới vợ ma trong ngày Tết ở Sài Gòn, bởi chuyện hôn nhân đem đến cho mọi người niềm vui, mà đám cưới lại diễn ra trong ngày đầu năm nữa, thì đó là điều đẹp đẽ may mắn. Một cái kết cuộc đem đến cuộc sống lứa đôi đầy hạnh phúc. Một câu chuyện cảm tác dù dựa trên sự thật chắc chắn phải được đưa thêm vào nhiều sự tưởng tượng, nên nếu có những sự trùng hợp ngẫu nhiên về địa điểm, con người và sự kiện, thì đều ngoài sự tiên liệu của chúng tôi.

Nhân vật chánh là một anh chàng sinh viên dược khoa hào hoa phong nhã nức tiếng trong trường. Con nhà giàu, đẹp trai và học giỏi, Tuấn quá dư thừa điều kiện để làm vỡ nát bao con tim của những cô bạn học cùng lớp, cô nào cô nấy hằng đêm thả hồn đắm mình trong những cơn mộng đẹp, ước ao được Tuấn để mắt xanh đến. Khổ nỗi, Tuấn như một con bướm chỉ thích bay lượn trên những khóm hoa muôn màu, chập chờn vờn quanh chưa muốn đáp xuống những nụ hoa hé mở đầy nhụy ngọt trong mời gọi hiến dâng. Một người bạn trai của Tuấn có biết chút ít về nghệ thuật xem chỉ tay đã quả quyết với Tuấn rằng: - Đường tình ái của mày kéo dài, sâu đậm và chia nhiều nhánh như chân rết, có nghĩa là mày có số đào hoa, con gái chết mê chết mệt vì mày ...

Thói thường, được người ta khen tặng một điều gì đó, dẫu chưa biết có thật không, nhưng người được khen ấy sung sướng phơi phới trong lòng lắm. Tuấn hớn hở vỗ vai bạn: - Chiều nay mày đi ăn phở với tao nhé Lương?

Lương xua tay, chàng chăm chú nhìn vào lòng bàn tay Tuấn: - Đừng vội mừng em ơi. Đường tình đạo của mày lạ lắm, tao chưa từng thấy bao giờ. Ái chà chà, nhiều đào nhưng chẳng có cô nào chịu lấy mày hết, trầy trật lắm mày mới lấy được vợ! Tuấn lạ lùng nhìn bạn từ đầu xuống chân:

- Mày nói cứ y như là thật, chuyện thần thoại. Một anh bạn xen vào: - Có thể nó nói đúng, thằng Lương là đệ tử chân truyền của chiêm tinh gia Hoàng Liên đấy. Thầy Hoàng Liên nức tiếng ở Sài Gòn hoa lệ này, ai mà không biết. Mấy mươi năm qua thầy hành nghề chiêm tinh gia, xem vận mạng bằng tử vi, bói toán, xủ quẻ, xem mu rùa, gieo tiền xu, nhất nhất khoản nào thầy cũng đều xuất chúng, nói đâu trúng đó, thân chủ xin thầy xem số cho đẩy ra không hết. Mỗi sáng sớm, hai cánh cửa sắt cái vi la xinh xắn của thầy vừa mở, là đã thấy một hàng người xếp hàng vào xin lấy số. Cô thư ký trẻ xinh như mộng, một cô cháu gọi Hoàng Liên bằng bác hay chú gì đấy, chỉ phát ra chừng một tá thẻ rồi nhoẻn miệng cười tươi như hoa nở an ủi những người đến muộn: -Mấy cô chú cảm phiền hôm sau đến, thầy chỉ nhận xem chừng này thôi. Nhiều quá thầy mệt, sợ nói sai!

Người dân bình thường đến với thầy Hoàng Liên đã đông, nhưng trong giới thượng lưu quý phái, rất nhiều bà mệnh phụ phu nhân cũng sai người gọi điện thoại xin thầy cái hẹn. Những khi ấy, Hoàng Liên không khỏi không cười phì tự hỏi. Giàu sang nhung gấm như thế, chồng con thành đạt như thế thì còn xem tử vi cái quái gì nữa, chỉ tổ làm giàu cho những gã nói phéc như mình. Khách xem vận mệnh đến văn phòng thầy, đều trông thấy hàng chục cái khung kính treo trên tường, trân trọng lộng những mảnh giấy cảm tạ, khen ngợi của những yếu nhân quốc gia và quân đội đóng mộc đỏ chói, mà chỉ có thượng đế mới có thể kiểm chứng được tính chân thật của chúng.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 68

Đêm ba mươi Tết năm ấy, Tuấn cùng vài ba người bạn thân hẹn nhau đi hái lộc đầu năm và xin xăm, xem coi đường công danh tình duyên như thế nào. Hai ông bà cụ thân sinh của Tuấn là chủ nhân một hãng bào chế và sản xuất dược phẩm, tuy không quy mô bề thế như viện bào chế của bà dược sĩ Nguyễn Thị Hai hay của dược sư La Thành Nghệ chẳng hạn, nhưng cũng làm ăn phát đạt lắm. Nhà giàu, nên Tuấn được cưng chìu, hai ông bà dược sư mua cho một chiếc Citroen nhong nhong đi học, để tương xứng với danh vị của một ông dược sĩ tương lai. Thuở ấy có được bao nhiêu sinh viên lái xe đi học đâu, sang lắm thì cũng chỉ chiếc Honda chín mươi phân khối hay chiếc Vespa. Xoàng hơn nữa thì chịu khó cỡi những chiếc Mobylette cọc cạch của Pháp hay Velosolex mảnh khảnh của Đức. Những anh chàng nghèo kiết nhưng hiếu học thì đành bằng lòng với những chiếc xe đạp cà tàng vậy.

Tuấn lái chiếc Citroen chất thêm vài ba anh bạn đến nhờ Lương xem cho một quẻ hung kiết và hướng xuất hành hái lộc. Lương lấy giấy ra hí hoáy viết. Lẽ ra chàng có thể bấm ngón tay tính quẻ dịch lý, nhưng e kém chính xác, cẩn thận trên giấy vẫn hơn. Lương vẫn luôn ghi nhớ lời thầy dạy: “Chuyện dịch lý không phải bạ đâu nói đấy được. Biết thì nói, không biết thì nói là không biết, đừng nói xàm, có khi hại đến người ta. Thầy thành danh mấy mươi năm nay cũng đều nhờ chân lý ấy”. Tính đi tính lại mấy lần đều thấy trùng khớp, Lương gục gặc đầu nhìn bạn: - Đại cát, đại cát, thằng em mày sẽ gặp người trong mộng đêm nay. Quẻ bảo rằng mày nên đi về hướng Đông Bắc.

Tuấn sờ trán bối rối: - Thường thường người ta đi hái lộc ở Lăng Ông, là ở hướng Tây Bắc, mày bảo tao đi hướng khác thì còn có cái quái gì để gặp đào địch nữa. - Ậy, có tao mới nói chứ. Mày quên Chùa Tôn Nghiêm rồi sao, nó nằm ở hướng Đông Bắc đấy, cứ đến đó thế nào cũng gặp người đẹp của mày.

Bọn sinh viên vỗ tay hân hoan: -Đúng rồi, không đi Lăng Ông, thì bọn mình đi Chùa. Chùa nào cũng được. Quốc Tự, Xá Lợi, Ấn Quang, Vĩnh Nghiêm đều tốt, tha hồ bay bướm với các em Phật tử xinh như mộng nhé. Tuấn kéo vai Lương: -Mày đi hái lộc thì ra xe. Lương gãi đầu, lắc đầu cười: -Đi với bọn mày chán chết, tao đã hẹn với người đẹp của tao cùng nàng đi Lăng Ông rồi.

Từ lâu Tuấn vẫn tự hỏi rằng tại sao một ông thầy đầy huyền thoại và danh giá như vậy lại dễ dàng thu nhận một anh chàng lạ hoắc làm đệ tử chân truyền. Hóa ra, chẳng biết từ lúc nào, Lương đã chiếm được trái tim của cô cháu ông thầy, tỉ tê nhờ nàng nói giúp vào. Nước chảy mãi thì đá cũng mòn, Hoàng Liên nhận Lương làm học trò, sau khi đã khéo léo bói một quẻ thấy mối duyên tình này do thiên định. Con cháu thầy gởi gấm tấm thân ở một chỗ xứng đáng, dẫu gì cũng là một cậu dược sĩ tương lai sáng lạn lắm chứ phải thường sao.

Tuấn cùng bọn bạn kéo nhau đi rồi, Lương từ cổng ngoài bước vào nhà. Đột nhiên một luồng gió lạnh buốt xướng thổi vào. Lương rùng mình, làn da trên cánh tay của chàng rờn rợn nổi gai ốc. Cơn gió vần vũ trong căn phòng nhỏ của Lương, uốn éo, xoắn tít thành một con trốt xoáy đen ngòm thổi tung tờ dịch quẻ Lương đặt trên bàn, Lương vội đưa tay chộp lấy. Đột ngột như lúc nó xuất hiện, con trốt kỳ dị trong hình dáng của một cái bóng mặc áo chùng đen di chuyển ngược ra bên ngoài, rồi tan loãng mất biến dưới những ánh đèn thủy ngân từ trên cao hắt xuống. Linh cảm chuyện chẳng lành, trong lòng xôn xao những con sóng dị thường, Lương ngồi vào bàn viết tính toán. Được một lúc, Lương thảng thốt kêu lên: - Thôi chết rồi!

Ngày Mùng Bốn, bọn sinh viên gặp gỡ nhau trong khuôn viên Trường Dược Khoa. Lương đứng trong một góc hành lang sốt ruột nhìn vào bãi đậu xe tìm kiếm bóng dáng chiếc Citroen. Giờ vào học đã điểm mà chiếc xe Citroen vẫn chưa chịu đến cho. Từ đáy lòng Lương dậy lên một nỗi xốn xang không biết phải định nghĩa là gì. Chẳng lẽ nào cái cơn trốt xoáy dị thường và quẻ dịch lý của chàng đã ứng nghiệm vào Tuấn rồi sao. Suốt buổi học, Lương cứ lơ đễnh cắn bút suy nghĩ vẩn vơ, ý tưởng

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 69

của chàng bay bổng lên cõi trời xanh trong ngoài khung cửa. Khi tiếng chuông reo chấm dứt buổi học vang lên, Lương phóng ngay ra bãi đậu, thót lên yên chiếc xe Mobylette cũ kỹ của chàng. Chiếc Mobylette như một con ngựa già còm cõi, cành cạch lăn bánh trên con đường tráng xi măng trong sân trường, uể oải rướn mình chen vào con đường thành phố , hòa cùng giòng xe dài thườn thượt như một con rắn chuyển mình vội vã, phủ lên thành phố Sài Gòn buổi chiều những khối mây khói sương xám xịt.

Lương đứng trước cánh cổng sắt đóng im ỉm căn biệt thự lớn đưa tay nhấn cái nút chuông điện. Khuôn mặt một cô gái trẻ, xinh xắn trong độ tuổi chừng mười lăm, mười sáu hiện ra đằng sau khung cửa kính nhỏ tò mò nhìn ra. Nàng vỗ tay reo lên: - Anh Lương!

Tung tăng như một con chim sẻ nhỏ, thiếu nữ nhảy hai bậc thang một đến bên song cánh cửa nắm lấy bàn tay trắng mềm của chàng trai: - Anh Lương, ba mẹ đi Biên Hòa, chỉ có anh Tuấn với em, anh đến em mừng lắm ...

Vầng trán nhỏ mịn màng của cô gái nhăn tít trong một trạng thái âu lo. Lương ngẩn ngơ hỏi: - Thùy Trang, anh đến em mừng là mừng làm sao?

Cô gái cắn môi: - Anh Tuấn lạ lắm anh à, mấy ngày nay cứ nằm rúc trong phòng chẳng chịu đi đâu hết. Đêm qua tình cờ đi gần phòng anh Hai, dường ... dường như ... em nghe anh Hai nói lảm nhảm ... với ai ... một cô gái thì phải ...

Thùy Trang đưa hai cánh tay lên ngực, đôi mắt to đen nhìn Lương phân bua: - Chẳng lẽ em nghe lầm ... - Em mở cửa cho anh vào gặp Tuấn cái đã, anh em mình đứng mãi như thế này không tiện.

Thùy Trang đỏ hồng đôi má nhoẻn miệng cười, nàng cong ngón tay đưa lên tự cốc vào đầu: - Em quên, cứ mãi lo cho anh Tuấn.

Cô em gái nhỏ hồn nhiên nắm tay Lương kéo đến trước cánh cửa phòng đóng kín gõ nhẹ: - Anh Hai, có anh Lương đến này!

Cánh cửa mở toang, Tuấn hiện ra trong khung cửa nắm lấy ngực áo Lương dằn mạnh, nghiến răng: Lương, mày hại tao rồi, tao giết mày!

Tuấn hùng hổ kéo bạn vào bên trong, Thùy Trang muốn bước theo, nhưng cánh cửa đã đột ngột đóng sầm lại ngay trước chiếc mũi thon nhỏ của nàng. Cô gái rùng vai bĩu môi hứ nhẹ: - Ai thèm vào!

Tuấn ấn bạn ngồi lên chiếc ghế bên chiếc bàn học gỗ vàng bóng loáng, chàng thả người rơi lên chiếc ghế đối diện, hai bàn tay vò đầu rên lên: - Tao nguy rồi Lương ơi, mày giết tao!

Những con tính quẻ dịch lý lởn vởn trong đầu Lương, chẳng lẽ Tuấn nó gặp nạn thật. Lương tần ngần hỏi: - Mày nguy làm sao?

Trong cõi ánh sáng mờ nhat của căn phòng kín, Lương chợt giật mình nhận ra nét mặt tiều tụy của bạn. Cặp mắt tinh anh quyến rũ của Tuấn thụt lõm sâu vào hốc xương, đôi thủy tinh chìm trong một màu tối kỳ dị chằm chằm nhìn chàng. Mái tóc bồng bềnh rất nghệ sĩ của chàng sinh viên giờ đã rối bời như những chùm rễ tre. Chiếc áo sơ mi trắng tinh mới mặc chơi xuân nay đã nhàu nát, xốc xếch nửa trong nửa ngoài chiếc quần tây màu xanh thẫm. Hai bàn tay Tuấn run run nhịp trên mặt bàn trong một trạng thái vô hồn, thiễu não lắc đầu nói bâng quơ: - Tao đã gặp người đẹp trong mộng của tao rồi. - Thế thì mày sướng, việc gì mày phải than khổ?

Tuấn chồm sang nắm lấy cổ áo Lương, đôi mắt chàng lóe lên những tia lửa đỏ giận dữ: - Sướng mà thân thể tao tả tơi như thế này à? Mày phải cứu tao ... nếu không tao chết! Mày... có bị mộng ... mộng ... tinh không?

Tuy bị rơi vào một tình thế rất căng thẳng, Lương không thể không bật cười: - Bọn con trai tụi mình ai mà không bị chuyện ấy. - Nhưng mà tao bốn ngày nay bị cái con ... con... ma của mày làm cho tao bị ... bị ... liên tục, mỗi đêm nhiều lần, tao đã ... cạn vốn!

Lương giật mình đứng lên: - Mày nói gì, ma gì và mày bị gì? - Thì người đẹp trong mộng của tao ở chùa, đêm nào nó cũng đến hành hạ tao ...

Trong căn phòng tối mờ như vậy mà Lương cũng có thể cảm nhận được làn da mặt đỏ bừng của bạn, chàng dìu bạn nằm lên giường an ủi: - Mày nằm nghĩ, hãy kể chuyện người đẹp của mày cho tao nghe trước đã.

Tuấn nhìn trừng trừng lên chiếc quạt máy đang chầm chậm xoay, những làn gió mát dịu dàng mơn man trên mái tóc rối bời của chàng. - Đêm ba mươi tao với mấy thằng đi Chùa Tôn Nghiêm hái lộc theo quẻ dịch lang băm của mày, đời tao tàn từ đấy. Mày biết, đêm giao thừa người ta đi dâng hương, xin xăm, hái lộc đông nghìn nghịt, nam thanh nữ tú đủ cả. Mấy cô, cô nào cô nấy cứ xinh ơi là xinh như tiên giáng trần ấy.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 70

- Rồi mày tán được một cô chứ gì? - Phải và không phải, mày để tao kể tiếp. Lúc mười hai giờ đêm, trong lúc mấy sư cụ gõ chuông gióng trống chào đón năm mới, thiện nam tín nữ người ta sì sụp vái lạy trong chánh điện, thì tao tà tà đi dạo quanh chùa, trong lòng cứ mong mỏi gặp người đẹp trong mộng. Chẳng biết trời đất xui khiến như thế nào mà tao lạc vào một cái phòng mờ ảo và kinh dị lắm, chẳng thấy một bóng người ...

Tuấn ngơ ngác thấy chàng đang đứng giữa một căn phòng hoạnh vắng, mùi hương trầm tỏa ngào ngạt. Chàng sinh viên trẻ xoay người nhìn quanh, nhận thấy những dãy bàn phủ khăn lụa đỏ xếp liền nhau tựa vòng quanh những bức tường sơn vàng. Sự kết hợp giữa hai màu vàng đỏ làm cho căn phòng tối sầm, tạo nên thành một không gian huyền bí, thâm u, làm cho Tuấn lâng lâng một cảm giác như đang lạc vào cõi cực lạc của Phật A Di Đà. Những chiếc bàn nằm lặng lẽ đằng sau những chiếc cột tròn lớn thếp nhũ vàng, bên trên bày la liệt hàng trăm những khung hình với những khuôn mặt u buồn, bất động, chập chờn dưới những chùm ánh sáng vàng nhạt. Tuấn thảng thốt kêu lên trong lòng, một luồng giá lạnh len vào từng sớ thịt. Trời ơi, phòng thờ bài vị, tại sao ta lại vào chốn này. Đây là nơi tôn nghiêm thờ người chết, nồng nặc mùi âm khí. Tín đồ đến chùa chẳng mấy ai muốn vào, trừ khi đến ngày giỗ dâng hương khói, hoa quả cho thân nhân quá cố. Tuấn rờn rợn nhìn quanh, tưởng tượng có hàng trăm ảo tượng ma quái đang ẩn náu từ trong những ngóc ngách bí ẩn kia.

Căn phòng chìm trong cõi tịch mịch lạ thường, chẳng thấy một bóng người. Chỉ có chiếc bóng của Tuấn trải dài ngơ ngác trên nền phòng. Tuấn có cái cảm giác kỳ dị rằng, dường như hàng trăm cặp mắt lạnh giá từ sau những chiếc kinh khung hình kia đang trừng trừng dõi mắt nhìn về phía chàng. Mùi nhang trầm tràn ngập lên những cảm quan của chàng, không khỏi khiến Lương liên tưởng đến những chiếc lư hương nghi ngút khói đặt trước những chiếc quan tài lạnh lẽo. Trong lòng cồn cào một nỗi lo sợ vẫn vơ, Tuấn muốn xoay người chạy nhanh ra khỏi căn phòng âm u này, nhưng kinh hoàng nhận ra rằng đôi chân chàng đột nhiên bị tê cứng không chịu di chuyển theo ý chí của chàng. Một bóng người trong chiếc áo trắng phiêu phưởng đột ngột hiện ra giữa vùng bóng tối nhạt nhòa. Tuấn giật mình định kêu thét lên, trời ơi, ma ..., nhưng bàn tay chàng đã kịp đưa lên che lấy miệng. Tuấn thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Một

cô gái nhỏ nhắn, xinh xắn trong chiếc áo dài trắng đang đưa hai bàn tay lên ngực thảng thốt trước sự hiện diện của một người đàn ông lạ mặt. Hóa ra nàng cũng đang có cùng một nỗi sợ không tên như Tuấn. Tuấn cười òa lên: - Là cô à? Cô làm tôi sợ muốn đứng tim luôn! Cô gái mĩm cười, dịu dàng ném cho Tuấn một làn sóng ướt át trước đôi mắt ngẩn ngơ của chàng trai: - Ông ..., ơ hơ ... anh cũng làm em muốn xỉu luôn, cứ ngỡ anh là ma!

Cô gái áo trắng có một khuôn mặt hãy còn vướng vất rất nhiều nét ngây thơ trinh trắng, mà Tuấn đoán chỉ trong độ tuổi chưa quá đôi mươi, chắc là nữ sinh Trưng Vương hay Gia Long gì đây, hoặc cao hơn tí xíu nữa, là dân Văn Khoa hay Luật Khoa. Tại sao chàng lại không nghĩ cô gái là dân Khoa Học hay Sư Phạm nhỉ. Bởi lẽ, nhưng cô nữ sinh viên này hẳn do ngày đêm gạo bài từ những chương trình học và thực nghiệm rất nặng nề, nên chẳng bao giờ có được những nét đẹp tươi của những đóa hoa nở buổi sớm mai như dân Khoa khác. - Thế là mày bắt đầu giở trò tán tỉnh nàng? - Còn sao nữa. Cô nàng há chẳng phải người đẹp trong mộng mà mày giới thiệu với tao sao? Tao dại dột trổ tài ngâm hai câu thơ Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không làm em mềm lòng. - Em tên gì vậy, có đẹp không? - Chẳng những đẹp mà nàng có cái tên huyền hoặc như trong truyện Liêu Trai, em nói em tên Vương Giáng Tiên, dân Văn Khoa ban Hán Việt năm thứ nhất. - Ha ha, hóa ra mày là Từ Thức hay Tú Uyên mất rồi. Sướng thế còn than van nỗi gì. Mày hẹn hò tình tự với em phải không? - Tao có hỏi nàng địa chỉ nhà, nhưng nàng thẹn thùng không cho, vì sợ ba mẹ mắng. Tao đành hẹn em mỗi buổi tan trường đến tìm em. Nhưng điều kỳ dị mà tao sắp kể tiếp theo đây hoàn toàn nằm ngoài sự tưởng tượng của tao ...

Lúc Tuấn ngã lên chiếc giường nệm êm ái trong căn phòng ấm cúng của chàng, thì cũng đã hơn hai giờ khuya rồi. Tuấn ấp ủ vào lòng cành hoa mai nhỏ mà Thùy Trang hái tặng chàng trong sân Chùa Tôn Nghiêm, hương hoa mai dịu dàng quấn quít lấy từng hơi thở của chàng, dìu dặt đưa Tuấn vào giấc ngủ đậm sâu. Chẳng biết Tuấn đã chìm vào cõi mộng được bao lâu rồi, đột nhiên một cơn gió nhẹ thoảng vào qua khung cửa sổ mở mơn man lên mái tóc bồng bềnh của chàng trai. Tuấn

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 71

giật mình mở mắt ngơ ngác nhìn quanh, để thảng thốt nhìn thấy một cái bóng trắng đứng bất động bên giường đăm đăm nhìn chàng. Trống ngực đánh thình thình, trái tim như muốn vỡ vụn ra hàng trăm mảnh vì nỗi sợ hãi, Tuấn kêu lên: - Ôi trời, ma ...

là em đây mà…

Trong cõi không gian mờ nhạt của đêm giao thừa, cái bóng trắng cúi xuống chạm ngón tay thon nhỏ của nàng lên đôi môi của Tuấn nói khẽ: - Tuấn, là em đây mà ... đừng sợ!

Tuấn ngồi bật dậy, đôi mắt chàng lướt trên khuôn mặt chập chờn, mờ ảo của cái bóng trắng, chàng ôm ngực run rẩy: - Là ... Giáng Tiên có phải không?

Đến lúc này chàng sinh viên đã có thể nhận ra gương mặt xinh đẹp của cô bạn gái mới quen, làn da của nàng hừng lên một màu sáng trắng huyền ảo, Tuấn lắp bắp: - Làm ... làm ... sao em có thể vào đây được?

Giáng Tiên ngồi xuống bên giường đưa tay chạm nhẹ lên bờ vai đầy của Tuấn mĩm cười, đôi má ửng hồng: - Anh không cần biết làm gì, chỉ biết là em đã đến với anh. Anh đã nói với em là chúng mình có duyên nợ trăm năm mà. Anh hãy nằm xuống đây với em ... Em muốn hiến dâng, muốn được làm vợ của anh ... vĩnh viễn.

Lương gật gù:

- Thôi tao biết rồi, mày đã ân ái mặn nồng với Giáng Tiên giống như trong truyện Liêu Trai phải không?

Tuấn nhăn nhó đau khổ: - Gần giống như vậy. Buổi sáng hôm sau tao giật mình thức giấc trong một trạng thái ngầy ngật, Giáng Tiên đã biến đi lúc nào không rõ. Hóa ra chỉ là một giấc mộng tình, nhưng...có điều là chiếc quần ngắn của tao ướt đẫm, tao thấy mỏi mệt lắm vì tao và em quầng nhau suốt đêm, mấy đêm liền như thế. Tao sợ lắm, mày làm sao thì làm, có chết thì tao cũng sẽ làm ma về bóp cổ cho mày chết theo tao.

Lương rùng mình ớn lạnh bối rối không biết phải ứng phó với hoàn cảnh kỳ dị này như thế nào. Đột nhiên một tia sáng lóe lên trong ý nghĩ của chàng, Lương reo lên: - Mày yên chí, để tao cầu cứu với sư phụ xem có cách gì giải nạn cho mày. - Mày phải nhanh lên, tao sợ đêm đến lắm. - Hì hì, nhiều thằng thích được ngủ với ma đẹp và chết vì ma nữ đa tình, còn mày thì chê.

Nói là nói như thế chứ Lương biết rằng đây là một sự việc nghiêm trọng. Tà ma đã vào nhà quấy phá thì cái tỉ lệ phần trăm trục nó đi rất nhỏ, nhiều khi vô vọng. Nạn nhân dần chìm trong trạng thái dở điên dở tỉnh, thân tàn ma dại, gia đình đau khổ. Lương đã từng trong đời chứng kiến nhiều cuộc trừ tà khử ma của những thầy pháp, bà đồng, cốt cô cốt cậu, nhưng chưa từng thấy ai đã được giải tà. Cái kết cuộc bi thảm nhất của nạn nhân thường là một căn phòng nhỏ trong một cái bệnh viện tâm thần nào đó. Những cuộc thăm viếng của gia đình ngày càng phai nhạt dần, rồi những con người khốn khổ ấy sẽ bị bỏ quên theo thời gian, không ai còn biết sự hiện diện của họ trên trần thế này nữa. Lương tự nhận rằng chàng cũng đóng góp một phần trách nhiệm, lòng thầm nuôi hy vọng thầy Hoàng Liên sẽ giúp được bạn chàng.

Chiều ngày Mùng Bốn, ông bà dược sư Lê về đến nhà sau chuyến đi Biên Hòa thăm ông bà bác sĩ Hiền. Ông dược sư Lê và ông bác sĩ Hiền là đôi bạn học chung lớp trong trường ngày xưa, cả hai đều thành đạt, là những người có địa vị và danh vọng trong xã hội. Ông bà bác sĩ Hiền có mấy cô con gái xinh đẹp, nết na, từ lâu hai ông bà vẫn ngắm nghé cậu Tuấn, làm sao giăng lưới bắt cho được con cá to này cho một trong ba cô con gái của ông bà. Biết rằng cậu Tuấn sắp ra trường trở thành một ông dược sĩ với một tương lai rất sáng lạn, ông bà Hiền bàn nhau mời ông bà Lê đến nhà

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 72

mừng xuân, rồi nhân đó tìm lời nói khéo kết nối mối duyên lành cho đôi trẻ. Một cuộc trình diện ông bà cha mẹ chồng tương lai của những cô gái đã được ông bà bác sĩ Hiền xếp đặt rất chu đáo và khéo léo. Kết quả thật vượt quá sự mong đợi của ông bà Hiền. Ông bà dược sư Lê rất ưng ý cô con gái lớn của ông bà bác sĩ Hiền, hứa sẽ về dẫn cậu con ra xem mắt chính thức.

Trong buổi cơm tối muộn, gia đình ông dược sư Lê ngồi quanh chiếc bàn ăn. Trong lòng tràn ngập nỗi hân hoan, ông Lê không nhận thấy được nét tiều tụy trên khuôn mặt của người con trai, hào hứng thông báo chuyện vui. Ông muốn ngày cuối tuần Tuấn đi Biên Hòa xem mắt cô vợ tương lai. Thùy Trang vỗ tay reo lên: - Hay quá, từ nay anh Hai đã có người cai quản rồi, không còn ăn hiếp được con nhỏ này nữa nhé. Tuấn cố dấu vẻ rầu rầu, gượng làm vui: - Gì gấp dữ vậy ba, không đợi đến hè được sao? Ông Lê xua tay: - Gấp chứ, ở Biên Hòa có gia đình một ông bác sĩ trẻ gì đó cũng ngấp nghé cô ấy đấy. - Thì cứ để cho ông ấy tiến tới đi. Duyên nợ đâu có xếp đặt được thưa ba. - Bậy nào, con xem hình cô Dung rồi con mới công nhận ba mẹ đã chọn cho con một người vợ tuyệt vời.

Tuấn lơ đãng đón lấy tấm hình của cô Dung xa lạ nào đó đưa lên xem. Một cô gái đẹp có đôi mắt ướt như mặt hồ mùa thu, đôi mày cong nhỏ hình cánh cung kéo dài như vầng trăng sáng trên một cái trán tròn, tất cả ẩn dưới một mái tóc xỏa đến tận vai bóng mướt như những áng mây trên bầu trời trong xanh. Nàng mĩm cười dịu dàng nhìn chàng. Thùy Trang giật lấy tấm hình thun mũi ngắm nghía: - Chị Hai đẹp ơi là đẹp, con thích chị Hai này.

Tuấn cốc lên đầu cô em: - Mày thích thì mày cưới cô ấy đi!

Ông Lê xoa tay hoan hỉ nhìn bà Lê: -Đồng ý như thế nhé, ngày mai tôi gọi điện thoại hẹn với anh chị Hiền.

Trong lòng rối bời như một cuộn tơ bỏ quên trong xó lâu ngày, Tuấn gượng nuốt chút ít, rồi xin phép ba mẹ cho được vào phòng gạo bài. Màn đêm đã buông xuống từ lâu. Tuấn gài chặt chốt cửa sổ, với một niềm hy vọng mỏng manh và điên rồ, rằng sẽ ngăn được con ma. Nhưng đã là ma thì chỗ nào mà nó chẳng chui vào được. Tuấn buồn rầu chờ mong tin của Lương, từng đêm trôi qua là từng phút giây rút ngắn cuộc đời chàng.

Nhớ lại trong những đêm ân ái mặn nồng, Giáng Tiên nhai cắn vành tai người tình, đôi mắt lóng lánh một niềm hạnh phúc mê sảng: - Chúng mình có duyên nợ vợ chồng từ kiếp trước, kiếp này em sẽ đem anh đến một phương trời khoái lạc chỉ có em với anh thôi, mình sẽ là vợ chồng vĩnh viễn nghe anh!

Giáng Tiên càng nói thì Tuấn càng run rẩy trong một nỗi tuyệt vọng hãi hùng, như một con cá đã vào lưới, chỉ còn có thể nằm chờ được dọn lên cho thực khách trong một bữa ăn thịnh soạn. Cái chết chắc chắn phải đến nếu không có phép lạ nào cứu được chàng. Nằm gát đầu lên hai cánh tay bắt chéo, Tuấn trăn trở lắng nghe tiếng dun dế rỉ rả khúc nhạc đêm khuya bên kia khung cửa, chàng cố mở to mắt chống chỏi với cơn buồn ngủ đang rùng rùng cuốn đến như những đợt sóng vỗ vào ghềnh đá. Bởi Tuấn biết, một khi chàng chìm vào giấc ngủ, thì Giáng Tiên sẽ hiện đến hành hạ thân xác đã quá kiệt quệ của chàng. Phải chăng nàng muốn giết chết chàng bằng những cuộc ái ân cuồng loạn càng sớm, để đưa linh hồn chàng đến một nơi mà nàng gọi là miên viễn. Đột nhiên cánh cửa sổ vỡ bùng ra đánh ầm vào hai bên khung gỗ, một cơn gió mạnh thốc vào thổi tung những mảnh giấy rời trên bàn bay tán loạn. Tuấn đang thiu thỉu ngủ, chàng giật mình chỗi dậy, thì một chiếc bóng trắng từ khung cửa tối âm u lao vào, mang theo một mùi tanh tưởi kỳ dị. Tuấn rùng mình nhận ra Giáng Tiên, nhưng nàng đã đến với gương mặt nhăn nhíu xấu xí bừng bừng giận dữ. Tuấn kinh hoàng đứng lên muốn mở cửa chạy ra ngoài, nhưng chiếc bóng trắng của con ma đã chận mất lối. Con ma đưa mười ngón tay khoằm khoằm với những chiếc móng dài nhọn thít chặt lấy cổ Tuấn, giọng rền rền như vọng từ đáy địa ngục: - Anh đừng hòng lấy vợ, anh không là của em thì không là của ai hết, ha ha ha ...

Con ma đẩy Tuấn ngã vào giường, nó cúi khuôn mặt đã tái nhợt vì hờn ghen xuống tận sát mũi Tuấn, từ đôi quầng mắt tím thẫm lóe lên những tia sáng lạnh lẽo: - Em tạm tha cho anh!

Một cơn trốt xoáy cuốn vào bao trùm lấy cái bóng trắng, uốn éo cất lên không trung, rồi mất biến vào trong cõi đêm đen.

Sáng ngày thứ Bảy, gia đình ông bà dược sư Lê đang chuẩn bị ra xe đi Biên Hòa, thì bỗng chị Sáu giúp việc hấp tấp chạy ra gọi theo: - Thưa ông chủ có điện thoại của ông bác sĩ Hiền ở Biên Hòa.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 73

Ông dược sư Lê ngạc nhiên không hiểu ông bạn vàng gọi đến có chuyện gì. Bên kia đầu giây giọng khàn đặc ấp úng của ông bác sĩ: - Anh Lê ơi, anh sắp lên đường chưa?

Ông Lê nhún vai: - Đang ra xe thì anh gọi, có chuyện gì không? - E hèm ... cũng có chút chuyện. Là ... như thế này, chuyện mình hứa với nhau hôm trước ấy mà. Con cháu Dung nó ... hà, xin lỗi anh chị, con cháu nó đã đổi ý, nó từ chối gặp cháu Tuấn.

Ông dược sư hoảng hốt kêu lên: - Anh nói sao? - Chúng tôi thật có lỗi nhiều với anh chị, chúng tôi đành phải hủy bỏ cuộc xem mắt này. Mong anh chị tha thứ và chúc cháu Tuấn sớm tìm được một người hiền thê khác xứng đáng hơn con Dung nhà chúng tôi.

Ông Lê không ghìm được cơn giận dữ: - Anh giỡn chơi à, chỗ người lớn với nhau đã hứa một lời.

Có tiếng thở dài não nuột bên kia đường dây: - Chuyện khó nói lắm anh à, nói ra anh cũng không tin! - Thì anh cứ nói đi xem sao? - Anh có tin chuyện ma quỷ không? Mấy đêm nay, đêm nào cháu Dung cũng bị một con ma xưng tên là Giáng Tiên hiện đến bóp cổ nói Anh Tuấn là chồng tao, mày không được lấy chồng tao. Cháu Dung nó sợ quá đã nằm bệnh mấy ngày nay, nó khóc lóc thảm thiết, nên chúng tôi buộc phải nói lời từ hôn, nếu không thì mạng con Dung khó bảo toàn.

Ông dược sư Lê giận dữ tra hỏi Tuấn, chàng buộc phải thuật lại câu chuyện làm quen với cô sinh viên Giáng Tiên trong phòng thờ bài vị ở Chùa Tôn Nghiêm. Gia đình đang cơn bối rối trong một hoàn cảnh lạ lùng và đầy muộn phiền như thế, thì Lương lộc cộc cỡi xe Mobylette tới. Lương chưa kịp nói gì thì ông Lê đã nắm lấy chàng gầm lên: - Cậu giỏi dữ hả, cậu hại gia đình chúng tôi rồi. Thằng Tuấn có mệnh hệ nào thì tôi sẽ thưa cậu ra tòa.

Lương tái mặt gỡ những ngón tay bụ bẫm của ông già: - Xin bác chớ vội nóng giận, cháu đã có cách giải tà rồi.

Lương đã tìm đến thầy Hoàng Liên nói rõ sự tình xin thầy cứu giúp. Hai thầy trò đến Chùa Tôn Nghiêm tìm ra được cái bài vị có tên Vương

Giáng Tiên. Hóa ra là một cô gái người Tàu sinh trưởng ở Chợ Lớn đã bị tử nạn trong chiến cuộc Mậu Thân, bởi lúc ấy ở khu vực này hai bên đánh nhau lớn lắm. Hoàng Liên bảo Lương: - Hồn oan của Giáng Tiên không được siêu thoát, phải nhờ một vị cao tăng tụng kinh Địa Tạng siêu độ cho cô, nhưng vẫn chưa làm cho vong hồn cô ấy nguôi ngoay mà chịu đi ngay đâu. Cũng tại cậu Tuấn tính trăng hoa, gặp cô nào đẹp cũng tán vào nên mới ra nông nỗi. Từ nay cậu phải tu tỉnh, chỉ yêu một cô thôi chứ không được vờn hoa như bướm vờn nữa. Con bảo gia đình cậu Tuấn phải làm một cái lễ cưới Giáng Tiên hẳn hòi, Tuấn van vái cô Giáng Tiên sẽ thủ tang ba năm mới cưới vợ, hẹn nàng kiếp sau tái hội, họa chăng cô ấy bằng lòng.

Nhà trai xin phép đàng gái rước bài vị Giáng Tiên lên xe hoa đem về nhà làm lễ thành hôn

Ông bà dược sư Lê nghe lời thầy Hoàng Liên, mời được nhiều vị sư đạo cao đức trọng trong chùa Tôn Nghiêm lập đàn tràng siêu độ oan hồn Giáng Tiên. Nhà trai xin phép đàng gái rước bài vị Giáng Tiên lên xe hoa đem về nhà làm lễ thành hôn, Tuấn thành tâm xin được thủ tang ba năm cho trọn tình chồng vợ. Tấm bài vị Giáng Tiên được đem trở vào chùa, gia đình Tuấn vẫn luôn đến nhang khói hương hoa. Từ ngày thành hôn Giáng Tiên không còn đến quấy nhiễu Tuấn nữa. Sau ba năm, ông Lê gọi ông bạn bác sĩ Hiền hỏi thăm Dung, thì đầu dây bên có tiếng cười sảng khoái: - Cháu Dung nó đã về làm dâu nhà ông bà bác sĩ Lộc rồi, vợ chồng nó sinh được cháu đầu lòng kháu khỉnh lắm.

PHẠM PHONG DINH

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 74

Tùy bút Diệp Hồng Phương

Hạnh phúc cho những ai đang còn Mẹ Ai còn mẹ

Xin đừng làm mẹ khóc Đừng để buồn

Lên mắt mẹ nghe không!

MẸ LÀ NGƯỜI PHỤ NỮ TÔI YÊU NHẤT TRÊN ĐỜI Từ lúc tôi chưa sinh ra, Mẹ đã đặt hết niềm tin và tình thương cho tôi dù chưa biết tôi là trai hay gái, chưa biết tôi có ngoan hay không, có trọn vẹn như suy nghĩ của Mẹ không? Mẹ tin và thương yêu tôi vì tôi là con của Mẹ.

Rồi tôi lớn dần trong sự thương yêu của Mẹ, của cả nhà và trong bụng Mẹ. Tôi cựa quậy, tôi co chân, duỗi tay Mẹ đều biết, đều đón nhận trong tâm trạng vui mừng, thích thú dù cho đôi lúc tôi làm Mẹ khó chịu, mệt mỏi. Mẹ không giận hờn mà chỉ mắng yêu:

- Ôi! Con làm Mẹ mệt quá! Tôi chào đời trong sự vật vã của Mẹ, trong

niềm vui và sự lo lắng của Mẹ; tiếng khóc “Oa, oa” báo hiệu sự có mặt của tôi cùng lúc tạo thành niềm tự hào và tình yêu thương, niềm hạnh phúc vô biên cho Mẹ. Dù mệt mỏi đến đâu, dù đau đớn đến đâu Mẹ cũng cố mở mắt ra mà nhìn tôi, cái nhìn diệu hiền đầy ắp tình thương, rồi mỉm cười sung sướng.

Trải qua bao gian lao vất vả, hôm nay tôi đã truởng thành. Tôi là cậu trai cao ráo, thông minh hay tôi là cô gái xinh xắn, dễ nhìn thì tôi vẫn là đứa con nhỏ bé của Mẹ.

Tôi học được biết bao nhiêu điều hay, lẽ phải ở trường học, ở trường đời nhưng tôi luôn luôn tự hào với bạn là tôi đã học được ở Mẹ sự bao dung, lòng vị tha, tình thương yêu vô bờ bến; tôi có được hình hài từ hình hài của Mẹ, có được trái tim từ trái tim Mẹ.

Không có bữa cơm nào ngon cho bằng bữa cơm với Mẹ, không có bài hát nào hay bằng bài hát về Mẹ, không có giấc ngủ nào yên lành bằng giấc ngủ bên Mẹ. Tôi suy nghĩ về mẹ nhiều nhất, tôi ngợi ca về Mẹ nhiều nhất, tôi nhớ Mẹ nhiều nhất, tôi làm điều gì cũng luôn nghĩ đến Mẹ…

Mẹ là thế giới bao la, tôi chỉ là hạt cát; Mẹ là biển rộng mênh mông, tôi chỉ là giọt nước; Mẹ là vũ trụ vô cùng tôi chỉ là ngôi sao nhỏ bé. Tôi là của Mẹ. Mẹ sinh ra tôi, sống vì tôi.

Mẹ là tất cả… Tôi nên người, yêu ai nhớ ai cũng không

bằng tôi yêu Mẹ. Mẹ là người phụ nữ tôi yêu nhất trên đời.

NHỮNG BƯỚC ĐI ĐẦU TIÊN... Có khi nào Mẹ nói với bạn về cảm xúc của Mẹ khi nhìn bạn bước những bước đi đầu tiên trong đời? Có lẽ Mẹ đã nói với bạn, nhưng với tôi thì không. Mẹ không nói nhưng tôi cảm nhận được điều đó vì tôi là con của Mẹ. Mẹ tập tôi đi bằng sự thương yêu, tin cậy. Mẹ nắm tay tôi, dắt tôi đi rồi nhẹ buông tay ra cho tôi chập chững bước. Lúc đó tâm trạng Mẹ là mừng vui, hồi hộp nhìn tôi rồi nở nụ cười, rồi kêu lên khi tôi ngã. Mẹ đỡ tôi, xuýt xoa, khen ngợi rồi dắt tôi đi, buông tay ra cho tôi tự bước… Cứ vậy mà tôi đi được, ban đầu vài ba bước, rồi bước được nhiều hơn. Lúc đó có lẽ tôi cũng vui mừng, bám vào đâu đó cho vững và day lại nhìn Mẹ, đón nhận được ở Mẹ nụ cười thương yêu. Tôi lớn dần lên, đi xa hơn ngôi nhà nhỏ bé, đi xa hơn xóm nhỏ của tôi để đến trường học, đến với cuộc đời.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 75

Tôi tiếp tục bước đi, bước những bước vũng vàng, dù có lần trượt ngã trên đường đời; nhưng tôi lại đứng lên, tiếp tục đi một cách tự tin vì chỗ dựa vững vàng trong tâm hồn tôi là Mẹ, là sự dìu dắt chỉ bảo, thương yêu tận tình của Mẹ. Có lẽ tính cách đó, lòng tự tin đó đã hình thành và lớn lên trong tâm hồn tôi từ những bước đi đầu tiên trong cuộc đời…

KHÔNG CÒN ÔM HÔN VÚ MẸ Nhờ bú sữa Mẹ mà tôi là đứa bé bụ bẫm,

tròn quay. Quá ngày thôi nôi, tôi đã biết đi, biết chạy; biết nói vài tiếng lấp vấp, nhưng tôi vẫn còn ghiền vú Mẹ. Sau khi nút hả hê nguồn sống diệu kỳ từ hai bầu vú Mẹ, tôi ngủ say mà bàn tay nhỏ bé không rời bầu vú ấy. Giấc ngủ của tôi luôn êm đềm, thẳng giấc.

Nhưng sữa của Mẹ không còn nhiều bổ dưỡng như lúc tôi mới lọt lòng. Mẹ quyết định dứt sữa tôi, cho tôi ăn nhiều hơn chớ không cho bú nữa, mặc kệ tôi có “chịu” hay không?

Tôi chẳng biết gì về quyết định của Mẹ, về nụ cười bí ẩn của Mẹ khi Mẹ xoa một ít dầu cù là lên hai đầu vú. Cứ như thường lệ, tôi ôm Mẹ hồn nhiên, đưa tay vạch áo tìm vú. Và rồi…

Sau này Mẹ kể lại: - Con ngậm vú Mẹ rồi nhả ra, nhăn mặt.

Con chuyển qua vú kia, cũng cay dầu cù là. Vậy là thôi. Bỏ bú luôn! Tôi ngoan đến vậy sao? Tôi chịu “dứt sữa” dễ dàng như vậy sao? Nghe Mẹ nói tôi cười rồi len lén nhìn vú Mẹ sau lớp áo bà ba giờ không còn tròn căng như xưa nữa. Bầu vú kia là nguồn sống của tôi những ngày mới chào đời, cho tôi giấc ngủ êm đềm trong vòng tay Mẹ.

Nhìn Mẹ, tôi tự hỏi: - Mình không được ôm hôn vú Mẹ bao lâu rồi nhỉ?

NGÀY ĐẦU TIÊN ĐI HỌC Với bạn thì có thể ngày đầu tiên đi học Mẹ đã đưa bạn đến trường. Mẹ nắm tay bạn bước đi chầm chậm. Bàn tay nhỏ bé của bạn nằm gọn trong bàn tay Mẹ, trong tình yêu thương của Mẹ. Bạn đến trường với áo quần mới toanh, chiếc cặp trên lưng, đôi giày shandal xinh xắn. Trên đường đi chắc bạn cũng nhìn thấy có nhiều bạn khác cũng được Mẹ đưa đi hoc trong ngày đầu tiên? Mẹ dỗ dành, mua quà bánh để bạn không phải khóc. Bạn sung sướng, tự hào vì được Mẹ thương yêu, đưa đến tận cổng trường. Tôi không được niềm hạnh phúc đó bạn ạ! Ngày đầu tiên tôi đi học, Mẹ vẫn bận rộn với hàng quán ngoài chợ. Ngày nào cũng vậy, hừng đông Mẹ ra chợ, dọn hàng, bán hàng mãi đến chiều. Cho nên... người đánh thức tôi dậy, thay quần áo mới cho tôi, đeo vào vai tôi chiếc cặp mới... là bà ngoại tôi. Bà đưa tôi đi học, một tay tôi nắm tay bà, tay kia tôi cầm củ khoai lang vừa đi vừa ăn. Bà nói: - Con đi học phải ngoan nghen! Không được khóc... Cổng trường chưa mở. Trước cổng trường có nhiều bạn cùng lứa với tôi, chắc cũng là ngày đầu tiên đi học. Nhưng các bạn ấy sung sướng là có Mẹ đưa đi. Bà ngoại cũng cưng tôi, cũng dỗ dành tôi, nhưng không làm sao bằng Mẹ được. Có Mẹ, tôi tự tin hơn, vui hơn. Không có Mẹ cũng không khóc. Nhất định không thèm khóc! Tôi bậm môi cương quyết. Cổng trường mở ra. Đến giờ học trò vào lớp. Có bạn sợ hãi nắm tay Mẹ không buông. Có bạn khóc oà... Có Mẹ đưa đi học mà còn khóc? Có Mẹ mà sợ...?- Tôi nhìn các bạn, tự hỏi rồi buông tay bà ngoại mạnh dạn bước vô sân trường. Nhưng rồi tôi cũng khóc, khóc vì tủi thân, vì không có Mẹ cạnh bên. Giọt nước mắt của ngày đầu tiên đến lớp ứa ra sao lẹ làng quá vậy?

ĐỪNG LÀM MẸ KHÓC!

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 76

Bạn có lần nào làm Mẹ khóc vì những lỗi lầm của mình không? Có thể bạn là đứa con ngoan chưa từng làm Mẹ khóc bao giờ. Nhưng với tôi thì đã có lần Mẹ khóc vì sự vụng dại của tôi. Một sự dại khờ rất trẻ con. Nhưng bạn ơi tôi không kể ra đâu! Tôi không nói ra là tôi hư hỏng cỡ nào hay tôi làm việc gì đó đến nỗi Mẹ phải khóc. Làm Mẹ khóc mà còn dám nói ra sao? Tôi chỉ nhớ ngày đó nhìn giọt nước mắt ứa ra trên mắt Mẹ, tự dưng tôi thấy nhói cả lòng, sự hối hận tràn lấp, ánh mắt tôi tối lại và không dám nhìn Mẹ nữa. Tôi biết tôi có lỗi và tự hứa sẽ không làm điều gì để Mẹ phải khóc vì tôi lần nữa. Nói với bạn như vậy nhưng tôi vẫn còn giấu bạn một điều. Đó là tôi chưa nói với Mẹ một lời xin lỗi! Lúc đó tôi vô cùng bối rối nên rất ngại ngùng không nói được hai tiếng xin lỗi, dù là nói với Mẹ! Để Mẹ biết là tôi biết lỗi, tôi làm việc này, việc nọ để Mẹ vui, để Mẹ cười! Tôi học chăm hơn, nói năng lễ độ, giúp Mẹ việc nhà, quý trọng hàng xóm. Tôi đạt điểm cao trong kỳ thi cuối cấp là món quà tôi dành tặng Mẹ! Hiểu được tấm lòng tôi và bằng tình thương yêu vô bờ bến, Mẹ ôm tôi vào lòng, xoa đầu khen ngợi tôi. Một giọt nước ấm áp rơi xuống gò má tôi. Tôi không biết đó là giọt nước mắt hối lỗi của tôi hay giọt nước mắt mừng vui, tha thứ của Mẹ?

BÀI THƠ VU LAN

Tôi được tiếng là cậu học trò có năng khiếu về văn. Năm lớp Nhứt, tức lớp Năm sau này, tôi làm thơ học trò, đăng báo tường và đã có bài được chọn đăng trên báo Thiếu Nhi.

Lớn hơn, học lớp 10, ảnh hưởng phong trào thơ tiền chiến được thầy dạy Văn hướng dẫn, tôi tập tễnh làm thơ về tình yêu dù chưa biết tình yêu là gì.

Tôi làm được vài bài thơ tình, vội chép trong vở học trò...

Mẹ tôi vô tình đọc được. Mẹ khuyên: - Con còn đi học, nên làm thơ về bạn bè

trong trường, trong lớp; về thầy cô, rộng hơn thì làm thơ về quê hương đất nước. Con còn đi học, đừng có “yêu” sớm!

Tôi mắc cở, cảm thấy có lỗi với Mẹ. Mẹ không la rầy thêm, chỉ nhìn tôi với ánh mắt tin cậy, thương yêu. Vậy là tôi quyết định làm thơ về Mẹ.

Rằm tháng bảy, tôi theo Mẹ đi chùa. Chùa gần nhà. Mẹ thường đến chùa làm công quả, cúng bái, lạy Phật. Rồi ăn cơm chay.

Đến chùa, tôi nghe sư cô giảng về sự tích đức Mục Kiền Liên và bà Mẹ tên Thanh Đề; về mùa báo hiếu Vu Lan của những người con hiếu thảo.

Mẹ mua cho tôi quyển “Bông Hồng cài áo” của tác giả Nhất Hạnh. Quyển sách mỏng, in đẹp, giọng văn gần gũi, dễ đọc.

Tôi đọc và cảm nhận được sự thiêng liêng của tình Mẹ, hiểu được rằng ai có Mẹ cũng đều yêu thương Mẹ như mình, nhưng chưa “cụ thể”, chưa nói với Mẹ là con yêu Mẹ để Mẹ vui, để Mẹ mừng và ôm mình vào lòng như ngày còn bé thơ.

“Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng.

Mẹ là một món quà lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết, rồi mới nói: “Trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào ‘nhìn kỹ’ được mặt mẹ.”

Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm.

Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải

lo lắng, ốm mòn, thức khuya, dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp.

Và để mình bận rộn suốt đời, lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 77

Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất, mình có cảm nghĩ: thật như là mình chưa bao giờ thật có ý thức rằng mình có mẹ”

Nhất Hạnh (Bông Hồng cài áo)

Tôi yêu Mẹ vô cùng. Và từ tình yêu đó, từ mùa Vu Lan và tiếng chuông chùa công phu năm đó; tôi làm thơ về Mẹ, về bông Hồng... với lời thơ trẻ con, mộc mạc, nghĩ sao, viết vậy!

Bài thơ được đăng trên báo Điện Tín năm 1974, tôi cắt ra giữ cho tới bây giờ, đã 36 năm...

Mời các bạn cùng đọc lại với tôi bài thơ này nhé!

Thơ mùa Vu Lan 2518 VU LAN, CON KẾC BÔNG HỒNG ĐỎ

Kính dâng lên Mẹ bình an Chia xẻ niềm đau với người không còn Mẹ để tôn

thờ, để kính yêu

Văng vẵng tiếng gà nơi cuối xóm Gió lùa qua vách gió mưa Ngâu Đèn khuya mờ ảo lung linh ngọn

“Quệt quoạt” ngoài mương ếch vọng sầu...

Mẹ hiền đã thức trong đêm vắng Dưới ánh đèn Mẹ nhóm bếp lên Ăn sáng no lòng tô cháo trắng

Ngồi nghe chuông đổ công phu rền

Quảy gánh trên vai ra chợ sớm Lúc trời mờ nhạt ánh sao Mai

Hừng đông con thức, đi theo Mẹ Ra chợ, ngồi bên Mẹ ngủ hoài

Gió lạnh tiết trời trong tháng Bảy Mẹ mua bánh trái cúng Vu Lan

Con trông chừng gánh hàng cho Mẹ Phiên chợ hôm nay thật rộn ràng

Xế trưa, theo Mẹ bên đường cũ Nhánh Hồng trong thúng nhỏ đong đưa

Cầm đóa Hồng trên tay Mẹ dặn Coi chừng gai nhọn đó nghe chưa?

Mẹ cắm bông Hồng trong ly nước Cúng rằm tháng Bảy thật nghiêm trang

Chắp tay Mẹ đứng lâm râm vái Thất tổ, cửu huyền trong khói nhang!

Con chưa hiểu được bông Hồng đó Có nghĩa gì khi được Mẹ chưng?

Một đóa Hồng trong rằm tháng Bảy Vu Lan Bồn, lòng cũng lâng lâng!

Bây giờ tóc Mẹ pha màu nắng Con lớn theo thời gian thoáng mau

Mỗi lần xõa tóc cho con nhổ Mấy sợi tóc sương, mấy nghẹn nào

Con lớn, Mẹ càng thêm mỏi mệt Tuổi đời chồng chất những lo âu!

Mẹ ơi! May quá tôi còn Mẹ Còn được gần bên Mẹ mãi lâu.

Bên Mẹ, Mẹ ơi con muốn nói Con còn thơ dại lắm Mẹ ơi!

Con muốn được nghe lời dạy bảo Êm đềm như sóng nhẹ ngoài khơi

Con muốn được làm thằng trẻ nít Đi theo Mẹ nhóm chợ hừng đông

Con muốn được gai đâm chảy máu Máu hồng con nhuộm cánh bông Hồng

Bây giờ con hiểu bông Hồng đó Là tượng trưng tình Mẹ với con Ngày rằm trên áo cài bông đỏ Hãnh diện tôi đây Mẹ vẫn còn

Vu Lan tháng Bảy ngày rằm lớn Yêu Mẹ nên yêu những đóa Hồng Con quỳ lạy Phật Trời ban phước Mẹ sống ngàn năm con cháu đông

Đêm nay còn thức nghe mưa đổ Len lén con nhìn Mẹ ngủ say Mẹ ơi con thấy mình nhỏ dại

Con lớn? Không! Con vẫn nhỏ hoài

Ngày rằm tháng Bảy gần kề đó Mẹ vẫn còn mạnh khỏe, thảnh thơi

Vu Lan con kết bông Hồng đỏ Mừng Mẹ bình an giữa cuộc đời.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 78

Vui sướng trong tình thương của Mẹ Con không quên được kẻ không may

Mất Mẹ, trời ơi đau khổ lắm Như con thuyền giữa gió mưa bay!

Mẹ ơi! Gần mãi bên con nhé?

Để được nhìn vào mắt Mẹ thương Mẹ ơi con nói con thương Mẹ

Mẹ của con ngọn đưốc soi đường

Đêm dứt cơn mưa buồn tháng bảy Ánh trăng len lõi giữa hàng cây Sáng mai theo Mẹ đi chùa sớm

Cầu Phật trời cho Mẹ sống hoài!

Mùa Vu Lan 1974

Bài thơ được đăng báo, tôi mừng đem khoe với Mẹ. Mẹ đọc xong rồi cười, xoa đầu tôi: “Mai đi chùa lạy Phật với Mẹ”. Tôi hiểu đó là phần thưởng Mẹ dành cho tôi.

Sau này sống xa Mẹ, đến mùa Vu Lan là tôi đọc lại bài thơ này, đọc một mình vì không còn được khoe với Mẹ như ngày xưa nữa.

ÁO MỚI – ÁO CŨ. Không nói ra nhưng tôi biết tôi và bạn đều

rất vui khi có được chiếc áo mới mừng đón Tết. Ngày cuối năm, Mẹ đi chợ về, có áo mới cho anh em tôi, mỗi người một áo sơ mi trắng. Sao là áo trắng mà không là áo màu, áo sọc?

Như đoán được suy nghĩ của chúng tôi, Mẹ nói: “ Mặc Tết, rồi mặc đi học luôn”.

À ra vậy! Hồi tựu trường, hai anh em tôi đều mặc áo trắng cũ đến lớp, dù Mẹ có giặt tẩy rồi ngâm giấy phẩm xanh sáng trưng, nó vẫn là áo cũ. Cho nên…

Anh tôi mừng lắm vội xếp áo cất vào tủ, chờ mai mặc đón Tết. Với tôi, niềm vui được nhân đôi: vừa có áo mới mặc Tết, vừa có áo mặc đi học. Nhìn đám bạn hàng xóm gia đình khá hơn, ăn Tết đứa nào cũng áo mới màu sặc sỡ, vui mắt mà thương Mẹ vô cùng. Nhà nghèo phải biết tính.

Chúng tôi có áo mới nhưng Mẹ có gì không? Không, Mẹ vẫn tấm áo mặc thường ngày. Áo túi bên trong, áo bà ba bên ngoài. Tết, có đi thăm viếng bà con, Mẹ mặc áo dài cũ. Chiếc áo dài đó chỉ khi nào đi đám, đi viếng thăm ai, Mẹ mới mặc.

Mười mấy năm rồi vẫn vậy…

Ngày tôi lớn khôn, ra đời đi học, đi làm… tôi mua áo quần mới, đắc tiền để mặc; mua nhiều

loại vải tốt hơn vải “nội hóa” về cho Mẹ may áo…Mẹ mừng lắm, xoa đầu tôi. Nhưng ngày Tết nguyên đán, trong đêm giao thừa, tôi vẫn thấy Mẹ mặc chiếc áo dài xưa, thắp nhang vái ông bà, cúng Cửu huyền Thất tổ rất nghiêm trang.

Tôi biết chiếc áo dài đó được Mẹ giữ gìn và mặc trong những ngày thiêng liêng là Mẹ muốn giữ một nét đẹp trong ngày lễ, tết cổ truyền truớc những đổi thay của cuộc sống bên ngoài…

CÁNH DIỀU NHỎ Tháng ba, đồng ruộng khô chân rạ. Lúc

ngọn gió chiều thổi qua cánh đồng theo con nước ngoài sông, bọn trẻ chúng tôi bắt đầu một trò chơi hào hứng: thả diều.

Nơi chúng tôi tụ tập là khoảng đất trống, sau dãy nhà trong xóm với những con diều làm bằng giấy kiếng màu hay giấy báo, căng trên mấy thanh trúc nhỏ, đuôi là sợi dây bố hay dây nhựa…

Chờ cơn gió mạnh hơn, kéo dài hơn; chúng tôi bắt đầu thả diều bằng những cú chạy dài và mạnh trên đám ruộng, vừa chạy vừa thả dây dài ra cho diều lên theo gió.

Một con, hai con rồi ba con…Những con diều giấy nhiều màu vút lên cao, hai cánh tai lất phất, cái đuôi dài uốn éo lần lượt xuất hiện khắp cả bầu trời căng gió. Tâm hồn bọn trẻ chúng tôi dường như cũng muốn bay lên khoảng trời xanh trong ấy.

Con diều của tôi nhỏ nhứt trong số những con diều có mặt trên bầu trời. Nó làm bằng giấy đôi tập học trò và chiếc đuôi ngắn ngủn. Nhưng nó vẫn bay được dù bay thấp nhất…

Con diều nhỏ bé của tôi là con diều yếu ớt, cho nên chiều hôm đó, trước cơn gió mạnh bất ngờ thổi tít trên cao, nó chao nghiêng, chúi

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 79

xuống rồi trôi ra xa. Tôi thấy bàn tay cầm dây bỗng nhẹ đi.

Diều đứt dây! Con diều nhỏ bé của tôi bị cuốn theo chiều

gió trước sự ngẫn ngơ của tôi và tiếng reo của đám bạn “Diều hụp lèo rồi! Ha ha…”

Về nhà, đến tối, tôi vẫn còn buồn và thấy tiếc con diều giấy. Trong giấc ngủ, tôi mơ thấy nó vẫn ở bên tôi, vẫn cùng tôi bay trên bầu trời xanh biên biếc.

Thật bất ngờ, giấc mơ đêm hôm qua được hóa thành sự thật khi Mẹ đánh thức tôi dậy giữa trưa, chỉ cho tôi con diều giấy khác lớn hơn, đẹp hơn và trông vững vàng hơn.

- Diều ở đâu vậy Mẹ? Mẹ tôi cười không nói. Sau đó tôi biết được là Mẹ đã nhờ một đứa trong xóm làm cho tôi con diều giấy, giá vài đồng bạc. Tôi thích lắm, ôm con diều mà quên cám ơn Mẹ. Lúc đó Mẹ mới nói: “Mẹ mừng sinh nhật con đó, chịu chưa?”. Tôi à một tiếng ngạc nhiên. Nhìn tờ lịch trên vách, hôm nay đúng là ngày sinh của tôi, vậy mà tôi quên mất. Chỉ có Mẹ là nhớ đã sinh ra các con vào ngày nào, tháng nào. Chiều hôm đó, cánh diều của tôi bay cao hơn con diều cũ đã mất, nó bay một cách kiêu hãnh, vững vàng trên bầu trời. Niềm tin và tình thương của Mẹ từ tôi đã truyền cho con diều sức sống mạnh mẽ và nó bay rất cao…

Cho đến khi mặt trời lặn khuất sau hàng cây bên sông, các con diều giấy lần lượt đáp xuống.

Con diều của tôi đáp xuống sau cùng trong sự khăm phục của tôi và đám bạn. Nó là con diều vô địch chăng? Không phải. Nó là cả tình thương yêu của Mẹ dành cho tôi, do đó hình như nó có sức sống mà những con diều giấy khác không thể nào có được!

CHUYỆN CỔ TÍCH CỦA MẸ! Hồi nhỏ ở quê, nhà tôi nhìn ra con sông và

cánh đồng nên tôi thấy cả bầu trời trưa hè xanh trong, về đêm nhìn được hàng tỷ ngôi sao nhấp nháy.

Tôi được tận hưởng những nét đẹp đơn sơ nhưng ngộ nghĩnh của thiên nhiên, lớn lên được hiểu thêm về những hiện tượng xảy ra trên bầu trời không giống như chuyện cổ tích của Mẹ.

Ngày xửa ngày xưa …

Mẹ thường kể chuyện cổ tích cho tôi nghe ở khoảng sân trước nhà, lúc xế chiều hay đêm trăng sáng. Kể xong, Mẹ thường nói: “Chỉ là chuyện cổ tích thôi nghen con. Không giống ngoài đời…”

Tôi nhớ mãi chuyện chiếc cầu vồng trên bầu trời và chuyện cổ tích sao Hôm-sao Mai.

Trong chuyện cổ tích, chiếc cầu vồng rực rỡ trên bầu trời là nơi gặp gỡ của các nàng Tiên vui đùa, tắm mát rồi bay về trời lúc hoàng hôn, trước khi chiếc cầu ánh sáng biến mất.

Sao Hôm và sao Mai là đôi vợ chồng người Tiên - kẻ Tục sống xa nhau không thể nào gặp mặt. Một người hiện ra lúc chiều tà, ngưới kia có mặt lúc ban mai. Lại có đứa con trai hóa thân làm chiếc đòn gánh giữa trời (Cầu vồng chăng?) trông cha, ngóng Mẹ.

Hiện tượng thiên nhiên mà tôi quan sát được là sau cơn mưa, nắng ửng lên và trên bầu trời xuất hiện một dãy ánh sáng nhiều màu sặc sỡ, cong cong như chiếc cầu bắc ngang những đám mây còn sủng ướt.

Thầy giáo tôi dạy môn Vật lý giải thích: “Cầu vồng là hiện tượng ánh sáng mặt trời khuếch tán lên bầu trời và chỉ xảy ra ban ngày, sau một cơn mưa”

Xế chiều, lúc mặt trời lặn, tôi thường thấy ở phía Tây một ngôi sao tỏa sáng trên nền trời. Đó là sao Hôm. Lúc hừng đông, ở phía Đông có một ngôi sao giống như vậy rực sáng cho đến lúc mặt trời lên. Đó là sao Mai. Trông hai vì sao ấy giống như hai vợ chồng xa cách không bao giờ gặp lại.

Trong thực tế, hai ngôi sao đó chỉ là một. Sao Hôm, tức là sao Mai. Thầy tôi dạy: “Tên khoa học của sao Hôm- sao Mai là sao Kim, ngôi sao gần mặt trời nhứt so với những hành tinh khác trong hệ mặt trời.

Sau nầy học nhiều hơn, đi đâu, ở đâu, hễ thấy sao Mai ló dạng phía trời Đông, thấy chiếc cầu vồng hiện ra sau cơn mưa là tôi nhớ Mẹ, nhớ

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 80

quê và không bao giờ quên lời thầy giải thích về các hiện tượng thiên nhiên:

“Sao Mai, sao Hôm chỉ là một và còn có tên là sao Kim. Cầu vồng là hiện tượng ánh sáng mặt trời khuếch tán lên bầu trời, chỉ xảy ra ban ngày, sau một cơn mưa”.

TRỜI MƯA TỪ ĐÂU? Thì mưa từ trên trời mưa xuống. Có cơn

mưa nào không theo quy luật thiên nhiên đó? Bạn có cười tôi vì câu hỏi ngớ ngẩn nầy không?

Trời mưa làm cây cối xanh tươi, làm mọi người thấy khỏe khắn ra. Bọn trẻ tắm mưa, nghịch nước. Người lớn hứng nước đầy lu khạp trong nhà rồi mặc cho nước mưa chảy tràn ra sân, ra rạch.

Nhưng câu nói mà ta thường nghe “Mưa từ trên cao mưa xuống” lại bao hàm ý nghĩa khác. Đó là tình thương của ông bà, cha mẹ dành cho con, cho cháu như quy luật tự nhiên bất di bất dịch, đời nầy sang đời khác.

Cha mẹ sinh ra ta, dành hết tình thương cho ta, lo từng miếng ăn giấc ngủ, lo cho đến lúc nên người…

Rồi thì ta lập gia đình, có con, mưa vẫn từ trên cao mưa xuống! Cha mẹ ta lại lo cho các cháu hơn cả ta lo cho con…

Bạn là đứa con hiếu thảo. Bạn hết lòng thương yêu cha mẹ. Nhưng sự yêu thương, quan tâm chăm sóc, cha mẹ không thể nào bằng cha mẹ từng yêu thương, chăm sóc ta, lo lắng cho ta. Tôi đọc được trong sách câu nầy, thấy rất đúng:

Cha mẹ yêu con là vô hạn. Con yêu cha mẹ là có hạn. Con ốm cha mẹ buồn lo, cha mẹ ốm con

đến hỏi vài câu, mua thuốc hay đưa đi khám bệnh là cảm thấy đủ rồi.

Bạn ơi! Đứng nghĩ như vậy nhé, đừng làm

như vậy nhé! Ngay ngày hôm nay, hãy thương yêu

cha mẹ nhiều hơn, hãy quan tâm đến cha mẹ nhiều hơn ngày hôm qua, ngày hôm kia bạn nhé.

Ngoài trời vẫn còn mưa. Dù cơn mưa lớn hay trận mưa rào thì nước mưa vẫn rơi từ trên trời xanh xuống đất.

Cha mẹ còn đó thì mãi mãi ta vẫn là đứa trẻ trong mắt cha mẹ. Họ luôn thương yêu ta, chăm sóc ta từng miếng ăn, giấc ngủ.

Còn ta, bổn phận là con thì sao?Làm gì để báo đáp tình thương yêu đó? MONG ĐƯỢC VỀ NGỦ BÊN CHÂN MẸ

“Ngồi buồn nhớ Mẹ ta xưa Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”…

(Ca dao) Còn tôi, mỗi lần Tết đến Xuân về; lòng tôi

nhớ Mẹ vô cùng. Tôi nhớ Mẹ và những ngày thơ ấu của tôi được bình yên sống vui bên tình thương của Mẹ.

Mẹ ở quê, tôi ở thành thị. Mẹ về quê sống vì Mẹ nhớ quê? Mẹ thích cảnh vật yên tĩnh, không khí trong lành?

Tôi cũng nhớ quê, nhớ con sông, cánh đồng;nhớ những hàng cây sao, cây dầu trong thị xã; nhớ con đường hàng me có lá me non xanh những ngày đầu mùa mưa đến.

Nhưng tôi không về quê được, không sống gần Mẹ được! Cuộc sống, công việc giữ chặt tôi ở thành thị với bao lo toan, cực nhọc, mệt người, mệt cả trí óc.

Tôi không có được cuộc sống thảnh thơi và cũng không nặng niềm nhớ thương như Mẹ.

Ở quê Mẹ nhớ tôi, mong thư tôi, mong tôi về. Ở thành thị, tôi ít khi nhớ Mẹ vì công việc chen ngang nỗi nhớ, lâu lâu tôi thu xếp thời gian về thăm Mẹ đôi ngày, rồi lại hối hả trở về thành thị…

Có lẽ bạn sẽ nói là tôi đang tự biện hộ cho mình về cái “tội” ít về thăm Mẹ? Đúng, mà không đúng. Đúng vì tôi bận rộn, và không đúng vì tôi là con mà không thường xuyên ở gần bên Mẹ, tôi bỏ Mẹ sống một mình!

Ngày Tết, dù rất muốn về với Mẹ để đón Giao thừa, để cùng Mẹ rước ông Bà, để được đón trong đêm trừ tịch làn gió nhẹ, hương hoa mới nở… nhưng tôi cũng không về được!

Giáp Tết tôi về thăm Mẹ, chỉ ở với Mẹ một ngày, rồi lại lên xe về thành phố. Bánh mứt, sữa, đường và cả báo Xuân tôi mang về biếu Mẹ liệu có làm Mẹ vui?

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 81

Trước nhà, Mẹ có trồng hai nhánh mai, trong vài năm đã thành cây mai nhỏ với nhiều nhánh lá trổ bông vàng rực.

Ngày Tết, Mẹ chăm sóc cành lá, tưới một ít nước vào gốc mai và thường đứng một mình ở đó nhớ con, thương cháu!

Nhớ Mẹ, tôi làm thơ về Mẹ:

“Mẹ ở quê nhà xa lắc Vàm sông mây nước lao xao Sóng bạc nhuộm màu tóc bạc Tóc bạc nhuộm màu thời gian Con ở phố phường to toan Quẩn quanh bao chuyện cơm áo Giao thừa nhà ai đốt pháo Khói nồng con mắt cay cay!”

Hai câu trong bài hát của một nhạc sĩ – có

lẽ cũng còn Mẹ như tôi và Mẹ đã già- làm tôi lo lắng xa xôi “Mỗi mùa Xuân sang Mẹ tôi già thêm một tuổi- Mỗi mùa Xuân sang ngày tôi xa Mẹ càng gần…”

Nhìn Mẹ già đi theo năm tháng, tôi thấy lo. Có lần nằm mơ thấy Mẹ. Thức dậy tôi nuối tiếc vô cùng. Rồi tự hỏi: Sao Mẹ không la rầy mình lâu không về thăm Mẹ?

Trong mơ, Mẹ cười hiền từ rồi ôm tôi vào lòng. Tôi sung sướng nhắm mắt lại mà quên hôn Mẹ!

Tôi mong một lúc nào đó được về với Mẹ, len lén đi vào nhà, bật nhẹ nhàng chiếc ghế bố xếp, rồi nằm ngủ dưới chân Mẹ bên chiếc giường xưa. Tôi sẽ là thằng trẻ nít vô tư, rũ bỏ mọi lo nghĩ trong đời, ngủ một giấc ngon lành bên chân Mẹ!

Nhưng… Tôi không còn cơ hội đó nữa! “Mẹ già như trái chín cây

Gió đưa Mẹ rụng…”

… CON THÌ MỒ CÔI!! Cho đến lúc đó tôi vẫn chưa cảm nhận

được tâm trạng của một đứa trẻ mồ côi, bởi vì tôi vẫn còn Mẹ! Nhưng cảm nghĩ về một ngày nào đó Mẹ sẽ đi xa, đã bắt đầu hiện ra trong lòng tôi.

“Ngày tôi xa Mẹ càng gần…” Mẹ trở bệnh hơn tháng nay, sức khỏe héo

mòn, tuổi già bóng xế. Mẹ nằm đó, im lìm, hơi thở nhẹ, mắt nhắm nghiền…

Con cháu có mặt quanh Mẹ mà sao Mẹ không vui, không cười; không vuốt ve, không la

rầy ai hết? Gương mặt Mẹ không hồng hào như trước, sự sống đang dần chuyển khỏi thân xác Mẹ.

Mùa Vu Lan đã đến. Tiếng chuông chùa công phu buổi sáng

ngân nga. Làn gió ban mai lành lạnh đã rước Mẹ tôi đi rồi…

Giọt nước mắt chảy tràn qua khóe. Tôi khóc Mẹ lặng thầm! Từ giây phút này, tôi biết thế nào là đứa trẻ mồ côi!

KHÔNG CÒN BÔNG HỒNG ĐỎ Mẹ tôi mất đã 3 năm… Ngày Mẹ mất, cơn gió hiền hòa không còn

thổi nữa. Mẹ ra đi, cánh đồng xanh mênh mông

bỗng ngã màu vàng. Mẹ không còn, bầu trời hiu hắt, con đường

quê sủng ướt trong mưa… Đưa Mẹ ra gò đất cao bên cánh đồng làng,

chiếc bình hương tro tàn, đốm lửa đỏ, đôi mắt tôi cay sè.

Thắp thêm mấy nén hương như muốn giữ Mẹ lại lâu hơn, nhưng tôi biết không thể nào giữ được.

Mẹ nằm đây rồi trở về cát bụi. Linh hồn Mẹ từ đây theo mây, theo gió…

Hàng năm, đến mùa Vu Lan, tôi không còn cài bông Hồng đỏ.

Bông Hồng và niềm tự hào còn Mẹ…, đã xa tôi.

Tôi thắp hương rồi mủi lòng. Trong tay bông Hồng trắng.

Viết nhân ngày giỗ Mẹ

Diệp Hồng Phương

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 82

TƯỜNG LAM

Phan tấn Hoàng bạn tù của tôi. Trong cảnh ngặt nghèo khốn cùng tình người nẩy nở khiến người ta gần gủi, đồng cảm và yêu thương nhau hơn. Hoàng là sỉ quan an phi, trước một tuần khi Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, đêm ngày Hoàng ứng chiến, ăn ngũ luôn trong trung tâm hành quân sân bay Trà Nóc, để thuyết trình đường bay, lộ trình cho phản lực và trực thăng di tản sang Thái Lan. Đa số sỉ quan không quân cùng gia đình bình tỉnh lên máy bay đi tỵ nạn, không biết loay quay thế nào vào những ngày chót phi trường bị pháo kích nặng nề, Hoàng gặp tôi trong tù! Gần ba năm tù cải tạo, đào kinh, gặt lúa, đốn tràm…như mọi người, Hoàng bị sưng phổi hai lần. Một bận ở vùng Đá Bạc, trong lung Ngọc Hoàng, Hoàng phải chống gậy mới đi nổi ra nhà tiếp tân để gặp mẹ gìa thăm nuôi. Lần thứ hai trong trại Vườn Đào quận Cai Lậy, vào mùa lụt, chúng tôi phải đấp đất, độn cỏ, rơm, có gì nhét nấy vượt theo mực nước dâng cao hằng ngày, chỗ nằm như chuồng trâu bò, cách mặt đất tròm trèm hai mét. Tất cả nằm lom khom vắt vẻo trên sườn đụng nóc nhà, sinh hoạt nằm ngồi như một bầy khỉ! Hoàng khoái nước, bơi lội suốt ngày, phổi bị cảm lạnh và đi lên cơn suyển nặng. Tôi mang đến cho Hoàng mấy viên Cortidasmine và bình thuốc xịt treo ở đầu vỏng, bình có trái cao su bằng quả chanh giấy, giống như dụng cụ mấy ông hớt tóc. Có được đầy đủ mấy món ăn chơi vì tôi là một tay bịnh suyễn có tầm cở. Tôi săn sóc, động viên để ý nhiều về yếu tố tâm lý đã giúp Hoàng sớm bình phục. Tôi và Hòang thân qúi nhau từ đó. Suốt ba năm ở tù chung, sau những giờ lao động mệt nhọc, anh em tâm tình, buồn vui, chia xẻ với nhau, sau đó Hoàng đựơc thả, tôi nghe hụt hẩng trong lòng, bị chuyển lên trại Xuyên Mộc do Công an quản lý, thuộc phạm vi tỉnh Đồng Nai giáp ranh Long Khánh, tôi gở sáu cuốn lịch mới được thả về. Đầu năm 1992 gia đình tôi sang Mỹ theo diện H.O. Hai năm sau Hòang sang Cali với người vợ mới cưới, trứơc làm sở Mỹ sau làm nghề nail đến tận nhà khi khách gọi tới. Qua Mỹ, Hoàng được người bạn cùng khóa, sang lại một tiệm bán nước lọc. Giỏi tiếng Anh, Hoàng đến tất cả các shop Mỹ, Việt trong vùng, xin cung cấp hàng tháng bình nước lọc lớn cở hai

chục lít. Cửa hàng tuy nhỏ nhưng lượng nước bình cung cấp cho các shop thật nhiều, một mình lo không xuể, Hoàng mướn thêm người, sau hai năm Hoàng trở nên khấm khá. Hoàng sang cho vợ một tiệm làm tóc, nail, trên mười ghế, rất đông khách. Hôm khai trương tiệm tôi có sang dự, nhận thấy vợ Hoàng lạm dụng quá nhiều son phấn như đào hát dù nhan sắc trên trung bình. Một vài người bạn tù chung của tôi và Hoàng, điện thoại sang cho tôi biết vợ Hoàng ăn chơi nhảy nhót và lã lướt lắm! Ảnh hưởng nếp sống lúc làm sở Mỹ ở Cần Thơ. Riêng Hoàng bề ngoài rất xuề xoà, áo sơ mi cụt tay bỏ ngoài quần jean, dép da, tóc ngắn dựng đứng. Có lần Hoàng nói với tôi : - Kệ bà nó ! nhằm nhò gì bề ngoài ! miển trong túi mình có nhiều tiền là tốt lắm rồi.

Vợ tôi làm nghề nail

Làm sở Mỹ cũng có năm bảy đường ! nhưng dư luận độc ác của người mình luôn có thành kiến không tốt về thành phần nầy. Có nhiều bà học cắt giỏi, tư cách đàng hoàng, sang trọng làm ở tòa đại sứ, tổng lảnh sự, USOM , USAID v.v… cũng có rất nhiều chị em làm lao công, bán hàng, tiếp viên trong các bar rượu, thành phần hậu phương yểm trợ quân đồng minh, sống trong xóm, hẻm vây quanh căn cứ Mỹ… đã có cả trăm ngàn đứa trẻ lai trắng, đen ra đời đa số không được cha thừa nhận. Tình cờ tôi biết được một trường hợp có một không hai cuả một phụ nữ tên H. thuộc dạng hoa khôi, vì người thuật chuyện nói rằng “ em là phụ nữ còn mê sắc đẹp của chị, huống gì đàn ông” đã hành nghề bằng vốn trời cho, thu nhiều đô la xanh, đỏ, khá giả mà chưa bao giờ ăn nằm với bất cứ người Mỹ đen, trắng nào.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 83

Căn cứ Đồng Tâm, nằm cặp theo con sông Mỷ Tho, là căn cứ lớn nhứt của quân đội Mỹ thuộc đồng bằng sông Cửu Long, vùng IV chiến thuật. Ưu tiên cho lính Mỹ xa nhà đồ tiếp liệu tràn ngập, quá ư thừa mứa: thuốc, rượu, đồng hồ, mắt kiếng, radio, T V, cassette, quần áo, bàn bào cạo râu, máy chụp hình… không thiếu món gì cả, với gía mua ở P.X. rẻ như cho. Quân nhân Mỹ dùng đồ mua ở P.X.để đổi tình và sau cùng đổi cả miền Nam vào tay Cộng Sản. Mấy cô bán hàng trăm mưu ngàn kế đã ăn cắp hàng P.X., đô la.. đi làm năm ba tháng một năm đã tậu nhà, xe, ăn mặc đầm đìa, nữ trang lấp lánh cả tay chân. Người Mỹ lập trạm kiểm soát tại cổng, có M.P. nam nữ khám xét người xuất nhập, ngăn ngừa đặc công Cộng Sản và đồ tiếp liệu, đô la bị đánh cắp tuồn ra ngoài. Riêng chị H. kế toán cửa hàng P.X.Đồng Tâm, người tình của Thiếu tá An Ninh Quân Đội, mỗi ngày đi làm được đưa rước bằng xe Jeep. Sáng tài xế đưa đi, chiều đích thân thiếu tá lái xe rước về. Đến đồn canh, xe Jeep dừng lại. Chị H. bước xuống dáng yểu điệu, khoan thai, không cầm bất cứ vật gì trên tay, tà áo dài hửng hờ bay nhẹ theo làn gío chiều ! một bông hoa xinh đẹp, phơi phới bên vọng gác rào bằng lưới chống B40. Quân Cảnh nam nữ Mỹ luôn khoát tay tươi cười, nói bằng hai thứ tiếng: - Very good! You can go! Đi đi.. Cẩn trọng, kỷ lưởng dùng được lâu! Mỗi chiều, dù quân cảnh khóat tay, thiếu tá vẫn dừng xe chi H. bước xuống, xoay một vòng như mấy cô người mẫu trình diển thời trang, mỗi ngày một màu áo. Thời gian êm trôi, việc làm ăn xuôi chèo mát mái. Tuy nhiên, lâu lâu một đôi lần, không nhận chuyển hàng, khi chị H. nhăn nhó nói : - Thốn và rát quá!. Tiền chị em mánh mun trong P.X. phải đổi thành giấy lớn gởi cho chị H., tất cả cuốn chặt, tròn, túi nylon bao ngoài ! chị H. cho vào chỗ kín của mình, ăn chia tứ lục, chị H. bốn, người chủ gởi sáu, hai bên vui vẻ đề huề chia sòng phẳng tại nhà chị H. mỗi chiều. Mỹ rút, chị H. thất nghiệp, ông Thiếu tá cũng rút về Saìgòn với vợ lớn và cả gia đình đi dịnh cư ở Canada. Cộng Sản vào, những người làm diện sở Mỹ bị tịch thu nhà cửa và bắt buộc đi vùng kinh tế mới. Bây giờ chị H. là một người đàn bà già xấu đau

bệnh triền miên, sống hiu quạnh nghèo khổ trong căn nhà lá nhỏ bên cù lao ông đạo dừa cồn Phụng. Cô bạn từ Mỹ về thăm, yểm trợ chút đỉnh tiền bạc, chị H. ôm chầm lấy bạn, mừng rỡ nói : - Phải biết hồi đó tao lấy Mỹ, được xuất ngoại theo diện con lai thì sướng biết mấy, tham lam mỗi ngày nhét tiền cho cố vào! bây giờ đi đứng cáng náng, ngồi xuống đứng lên phát thành tiếng như ngừơi ta đánh giấm vậy. Trên đời nầy nghề nào cũng có cái nghiệp của nó cả! hơi nào trách lẩn trời gần trời xa chị ơi!

Cuối tuần tôi và Hòang thường gọi điện thoại cho nhau, kể chuyện vui, nhắc kỷ niệm những ngày tù tội và bè bạn mới liên lạc được. Người xưa nói quả không sai, thời gian trôi rất nhanh, như bóng câu qua cửa sổ. Mới đó, tôi sang Mỹ đã mười lăm năm, Hòang mười ba năm sau tôi hai năm. Bè bạn từ Cali khẩn gọi sang cho biết, tai nạn đụng xe ngày hôm qua, vợ Hoàng chết. Tôi gọi điện thoại sang chia buồn và Hòang cho biết, sắp xếp những ngày tới dưởng gìa tại Việt Nam chán nước Mỹ nầy qúa rồi. Hoàng hưá sẽ cố gắng sang thăm tôi một lần. Bẳng đi mấy tháng tôi nhận được một phong bì lớn màu vàng trong chứa một tờ tuần báo, một phong thư Hoàng gởi cho tôi kèm theo nửa vỏ bằng giấy bạc- dụng cụ tránh thai- và một money order mười lăm ngàn đô la. Tôi vội mở thư: Cali ngày… tháng… năm… Bạn Ánh qúi mến ! Định sang thăm anh nhưng mấy tháng nay lu bu ! công việc dồn dập quá! Nào insurance, lo bán nhà cửa, tiệm, xe… và tuần tới tôi vỉnh viễn giả từ nước Mỹ, đất nước đã giúp tôi có cơ hội ngoi lên, đồng thời nó cũng nhận chìm tôi xuống ! trở về Việt Nam với cỏi lòng tan nát, muộn phiền !

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 84

Tôi gởi anh mười lăm ngàn, bao giờ nhận được phân nửa vỏ bao cao-su, ráp lại đúng khớp, nhờ anh gởi cho người đó mừơi ngàn đô la, tiền công dịch vụ của anh ta đối với tôi. Phần năm ngàn còn lại tôi xin biếu anh làm lộ phí về Việt Nam thăm tôi khi có địa chỉ rỏ ràng ! Biết bao điều tôi muốn tâm sự và chia xẻ cùng anh thôi. Địa chỉ và số phone của anh tôi giữ thật kỹ. Tạo dựng cơ ngơi dưởng già ở Việt Nam xong tôi sẽ tin cho anh biết. Ít dòng tin anh rõ, mong anh giúp tôi, kính lời thăm chị và mấy cháu yên vui.

Tình thân, Phan tấn Hoàng.

TB. Bao giờ nhận được tin, tôi tạo dựng cơ ngơi ổn định, xin anh cố gắng làm một chuyến về Việt Nam, để đựơc tâm sự cùng anh, cuộc đời trầm luân cuả tôi, biết đâu anh sẽ dựng được thành truyện.

* * * Đọc được thư, tôi có chút bâng khuâng và vui trước sự hào phóng của bạn mình. Gần nửa năm tôi không nhận đựơc tin tức gì của Hoàng cả. Sáng nay tôi ra ngân hàng mua money order gởi cho Michael Trần thành phố Tampa Tiểu Bang Florida, sau khi nhận và ráp khít khao với miếng nửa bao cao su bao giấy bạc vaò một nửa Hoàng đã gởi cho tôi trước đây. Ba tháng sau, ngọn gío lạnh cắt da, tuyết đổ xuống từng trận cao bằng đầu gối, tôi nhận được điện thoại của Hoàng gọi sang cho biết số phone và địa chỉ thuộc huyện Đức Trọng nằm gần cao nguyên Lâm Viên Đà Lạt. Hoàng hy vọng tết nầy tôi sẽ về đón giao thừa cùng Hoàng ở thành phố đầy sương mù, thông reo trong gío và hoa anh đào đang nở rộ. Tuần rồi, hảng lay-off không kêu lại, danh sách gồm một trăm nhân công: tôi đứng hạng chín mươi lăm. Tôi hân hoan xách hành lý về Việt Nam ăn tết. Tiển tôi ra phi trường, nguýt và quay mặt đi chỗ khác, nhà tôi nói : - Người ta bị lay-off ai cũng buồn rầu, riêng anh mặt hí hởn coi bộ khoái lắm ! lại về Việt Nam ở gần hai tháng nữa chớ ! Thành phố Sàigòn phát triển quá chừng, cao ốc chen nhau mọc như nấm, xe cộ con người bít kín mọi con đường ! cư dân rồi đây không đủ không khí để thở. Giàu sang chỉ dành cho số nhỏ có chức quyền, có thế thần, còn công nhân nhứt là nông dân miền quê vẫn con trâu đi trước cái cày đi sau, cũng sự lam lũ, đói nghèo, thất học đeo đẳng triền miên suốt bao đời.

Tôi ở Long An một tuần xem cơ ngơi xây lấp mặt bằng của đứa em thứ chín, công ty làm ăn khấm khá nhờ biết trọng chữ tín nên luôn có hợp đồng đang chờ, công nhân gần con số trăm. Tôi về cầu Mây Tức thuộc huyện Càng Long Tỉnh Trà Vinh, mỗi sáng thức sớm, ngồi bên cầu uống cà phê, tưởng lại những ngày còn chiến tranh, lúc đó tôi chỉ là một thanh niên mới lớn, tâm hồn trong veo, lao vào cuộc chiến như con thiêu thân lao vào bóng đèn cao áp sừng sửng hai bên đầu cầu. Sáng hai mươi tết, tôi đáp chuyến bay lên Đà Lạt, Hoàng chờ sẳn đón tôi ở phi trường Liên Khàng. Hành lý chỉ mỗi xách tay lớn, gồm quần áo, một cặp rượu Martel, một hộp khô cá chạch ướp vừa miệng đã phơi mấy nắng, sản phẩm của em dâu thứ bảy. Thói quen ở Mỹ làm tôi khựng lại, Hoàng dẩn tôi đến cổ xe ngựa đóng rất khéo, nghệ thuật, hình dáng của loại xe song mã, mui trần của gia đình qúi tộc thế kỷ trước. Hai tay để trong túi quần, vai nghiêng nghiêng miệng cười khoái trá, Hoàng cất tiếng : - Làm bá tước, do cựu đại úy pilot không lực VNCH cầm cương! còn muốn cở nào nữa? Lên xe đi ông .

Tôi thảy túi xách ra sau nệm đỏ và lên ngồi cạnh vị thế xà ích của Hoàng. Cặp ngựa cao lớn màu nâu sậm, lông, bờm, đuôi bóng mượt, chứng tỏ luôn được chăm sóc kỷ lưỡng. Hàm thiếc hai bên bằng bạc, trên đầu có đính mớ lông gà nhuộm ngũ sắc, như chiếc cầu đá, quanh cổ một vòng bằng da đính nhiều lục lạc vàng bóng. Chiếc xe song mả lăn bánh tiếng chân bon, dòn tan trên mặt đường hoà cùng tiếng lục lạc rộn rả, hợp âm đưa tôi về những ngày tuổi nhỏ, vô tư xóm cầu Cá Lóc Bến Tre. Ngay từ sớm tinh mơ, cũng thứ âm thanh rộn rã của chiếc xe do ngựa kéo chở đầy hàng bông

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 85

trong giồng ra chợ, những ngày giáp tết chất đầy vung cả lên mui những chậu cúc, vạn thọ, thược dược, mồng gà,.. báo hiệu cho người phố thị biết rằng: Xuân đã đến rồi. Hoàng hỏi tôi đi đường có mệt không. Tôi nêu thắc mắc : - Ở Cali lái Lexus đời mới ! Về Việt Nam mới được một năm là tên xà ích! Xuống cấp mau vậy ông. Hoàng kéo thẳng dây cương, cặp ngựa phi nước đại, Hoàng cừơi trả lời: - Về nhà ông mới thấy còn một wagon bằng gổ để chở hàng, cái nầy để đi dạo hoặc lên tỉnh, thành phố. Giao thông ở Việt Nam tệ hại nhứt thế giới, các xe luồn lách sẳn sàng đụng nhau để giành đừơng! mỗi năm hàng vạn người chết. Lái xe cẩn trọng cố tránh không gây tai nạn nhưng ai cấm người khác đụng vào ông. Mang mác Việt kiều lở gây tai nạn, người ta sẽ nằm vạ suốt đời, bán cả tài sản đền bù cũng không đủ. Đi xa có xe và tài xế phục vụ, đi vòng vòng và chở hàng ra chợ bán, dùng xe ngựa còn phương tiện nào an toàn và không tốn kém cho bằng. Xế chiều rồi tôi không muốn dính líu và chuốc lấy phiền muộn với cuộc đời nầy nữa. Hòang thúc cương cho cặp ngựa chạy nhanh hơn về phía con đường đi xuống Phan Rang, qua khỏi đồn điền cà phê, xe rẻ phải, sau khi rời khỏi quốc lộ 20, độ một giờ. Nhà cửa mọc nhiều hai bên đường, những vi-la ngói đỏ sang trọng là của cán bộ chủ nhân. Giang sơn của Hòang gồm năm mẫu đất trồng cà phê, một mẫu trồng bông lay-ơn, đu đủ trái to chen nhau kín thân cả thước.

Một ngôi nhà sàn bằng gổ, to bằng hai căn phố, ghép bằng những cây thông bào nhẵn tẩm dầu màu nâu bóng, mang hình dáng một ngôi đền Nhật Bản, lớp ngói xanh xám, sản xuất từ Ý đại lợi. Phía sau ngôi đền là nhà ngang cũng bằng gổ, phòng khách rộng có lò sưởi và hai phòng ngũ. Tôi vô cùng bở ngở trước cơ ngơi đồ sộ, sang trọng, giá trị

đồn điền nhà cửa lên cả triệu đô la! tôi không tưởng tượng nỗi sự giàu có của Hoàng. Xuống xe vừa bước vào hàng ba nhà, tôi ngạc nhiên thấy tấm bảng to bằng tấm lịch treo tường màu đỏ, chữ đen đậm nét:“ Cấm đàn bà và muỗi”. Tôi bàng hoàng, hẩng đi đến đổi tôi không thắc mắc những gì mình trông thấy! đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác. Từ nhà bước lên đền bằng nhiều bậc thang rộng bằng chiều ngang của đền, một gác chuông bằng gổ vuông chắc chắn, chuông bằng đồng to bằng cái kiệu chứa nước mưa ngã màu vỏ cua. Giựt mình khi Hoàng vổ vai tôi : - Làm gì như con nai vàng ngơ ngác thế? Vào tắm rồi tụi mình dùng cơm. Tớ đói bụng quá rồi. Trời cuối năm se lạnh, mặc thêm áo ấm, tôi và Hoàng ngồi vào bàn ăn. Thức ăn nóng gồm thịt nai xào khoai tây, gà quay chảo lót xà lách cà chua, lòng gà xào hạt điều và chúng tôi lai rai bằng bia ướp lạnh, khô nai ướp mè vừa mới nướng. Tôi và Hoàng dùng bửa thật tình cả hai đều đói. Tôi nêu thắc mắc: - Làm gì giàu có dử vậy Hoàng? nhìn cơ ngơi bạn tôi nghe mình tủi thân quá. Hốp một ngụm bia, nhai miếng khô nai, Hoàng nói: - Giàu con mẹ gì ! cả cơ ngơi nầy là năm trăm ngàn đô la, tiền bảo hiểm đền cho cái chết của vợ tao. Cơ ngơi nầy mua lại, giá hơi rẻ, chủ cần bán gắp đi đòan tụ với con ở Canada. Câu chuyện dài dòng lắm, trước khi ông rời đây tôi kể hết cho ông nghe. Ông về thăm tôi mừng lắm, bạn già lúc trước nay còn mấy. Dùng cơm xong trời đã tối chúng tôi đi ngũ. Đồ đạc trang trí từ phòng tắm, phòng ngũ, phòng khách đều có phẩm chất, mỹ thuật, cao cấp, bằng gổ qúi cẩm lai, màn cửa bằng nhung đỏ thẩm trử tình, lò sưởi với gổ thông cháy tí tách, gian nhà ấm và tôi đi vào giấc ngũ hồi nào không biết. Tôi thức dậy bởi tiếng chuông chiều êm ả, trời mới vừa rựng sáng cùng nhiều tiếng chim ríu rít quanh nhà. Chiếc bàn vuông nhỏ, trải nắp trắng, mấy bông hồng tươi được cắm vào chiếc bình nhỏ, tôi và Hoàng uống cà phê sáng bên hông chùa, từ đây nhìn thẳng ra cổng, ngày hôm qua vô tình tôi không thấy, hai luống hoa dầy lay-ơn chạy dài ôm lấy con đường trải sỏi , mỗi lần chân ngựa và bánh xe lướt qua tạo nên một loại âm thanh vui tai. Cà phê tuyệt vời, màu hổ phách lợt, trong trẻo nhưng

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 86

hốp ngụm đầu tiên, từ đầu lưởi, một cảm giác đê mê , lâng lâng đi cùng khắp cơ thể sảng khoái lạ thường. Một lúc sau Hoàng mở cửa đưa tôi vào thăm chùa. Một bức tượng phật bằng đồng bóng loáng, có đèn ngũ sắc chớp tắt phía sau bức họa cây bồ đề nhiều dây rũ xuống cùng lá xum xuê, tượng được đặt trên một khối gổ mun, cột, trần nhà vách và cả sàn chùa đều làm bằng gổ qúi đánh vẹt-ni láng bóng, một khoảng rộng, trước bệ thờ, đủ chỗ cho con số trăm người tỉnh tọa lễ bái. Tôi khen Hoàng - Về già, ông ngoan đạo quá ! Vừa bước ra, đóng và khóa lại cửa chùa, Hoàng cười, nhún vai : - Ngoan đạo gì đâu ông! theo lời khẩn cầu của người chủ cũ, nằm trong giao kèo không văn tự, tôi phải nhang khói và cúng chùa mỗi ngày và nhất là những ngày vía lớn, đừng để chùa hoang phế. Hồi nhỏ tao thường cùng bà nội và mẹ đi lễ chùa, lớn lên cũng nhiều lần đến để lễ bái và nghe lòng lắng xuống theo tiếng chuông ngân. Tôi vẫn say mê thuyết vô-vi nhà phật và tiếng chuông chùa đã đưa mình về với thiện tâm. Gác chuông lớn sau chùa do mình thiết kế thêm, ngày hai buổi chú tư Lạc giữ nhiệm vụ thỉnh chuông ngân vang cả khu đồn điền trầm mặc. Tao vô cùng xấu hỗ về hành động hèn hạ bợ đở của Nguyễn Cao Kỳ để kiếm bạc tiền, chút bả lợi danh! một phần nghe lời bà vợ sau là sui gia với thủ tướng Việt Cộng Phan văn Khải, đau một cái ông lại là Tư lịnh binh chủng không quân của mình ngày xưa.

Giang sơn của Hoàng gồm năm mẫu trồng cà phê, một mẫu trồng bông lay-ơn đủ màu và nhiều luống đu đủ trái to bao quanh thân cây cao cả thước! ngay hàng thẳng lối. Kế đến một dãy nhà ‘toil’ ngang một trăm và sâu mười mét, có dừng vách ngăn và nền tráng xi măng, tô láng, sạch sẽ.

Sân sau dãy nhà “toil” nhích về cánh trái, một tháp cao có bồn nước bằng bồ lúa, cung cấp nước ăn và tưới hoa màu. Về bên phải, xa tận gốc vườn, chuồng ngựa và vườn rau xanh gồm đủ loại rau thơm, xa-lach, cà tô mát trái đỏ to oằn nhánh. Bốn con ngựa, hai nâu hai trắng đang gục đầu trong máng cỏ. Đàn gà tàu trên dưới mấy chục con, thả lang thang bươi chạy lăng xăng. Chỉ tay về phía bồn nước Hoàng nói : - Trồng trọt cần nhứt là nước, nhì mới là phân, tam là cần, tứ là giống. Thiếu nước đôi ngày mùa màng tiêu hết. Nước ở giếng bơm lên bồn, dẩn vào nhà xài, toả đi các nơi thuận việc tưới tiêu do mình thiết kế thêm, chủ trước không có. Thôi mình vào nhà còn giới thiệu bạn với anh em. Căn chính giữa dãy nhà trang bị như một lớp học có bàn víết, bảng đen và hai chục bàn học trò xếp thành hai dãy. Cùng Hoàng bước vào, tôi ngạc nhiên vô cùng, mười người đàn ông ăn mặc sạch sẽ, tóc tai tươm tất, nhưng hết thảy đều tật nguyền.

Hoàng dẩn tôi đến trước mặt từng người và đon đả giói thiệu:

Thiếu Úy Tâm, lưc lượng đặc biệt, mất chân trái ngang đầu gối.

Thượng Sỉ Lạc, mất tay trái đến tân vai. Trung sỉ Khoái, biệt động quăn, mất mắt

trái và bàn tay phải. Nghĩa quân Bảy, mất mắt trái và xương

hàm dưới. Hạ sỉ Khánh, thiết giáp, mất tay phải đến

cùi chỏ. Hạ sỉ Bốn, Nhảy dù, cụt chân phải. Binh nhứt Sáu, chấn thương xương chậu, di chuyển nghiêng về một phía. Trung si Phước, phỏng nặng, hư một mắt và nửa mảng da đầu không mọc tóc.

Trung sỉ nhứt Liêm, cảnh sát dã chiến mất chân phải.

Nghĩa quân Hạnh, mất bàn tay trái và hư mắt phải.

Và đây anh Ánh trước cũng ở quân đội, từ Mỹ về đây ăn tết với anh em mình. Tôi bắt tay và chào trang trọng mười chiến hửu và hôm nay tôi mới được duyệt hàng quân liên binh chủng sau chín năm trong quân đội. Mọi người cười nói hỏi thăm tôi vui vẻ. Hoàng cho biết mười anh em thương binh ở đây được trả lương như công nhân khoẻ mạnh, nhà cửa, cơm nước, quần áo mình lo hết, duy chỉ có một điều lệ hơi

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 87

khắc khe sống trong đây phải là đàn ông độc thân, có gia đình phải tự ra riêng bên ngòai. Phải chăng chuyện lăng nhăng của vợ Hoàng ở Cali trả giá bằng cái chết đã làm nên điều lệ khe khắc của trang trại nầy: “cấm muỗi và đàn bà” ? Tất cả mọi người làm việc tự nguyện sau khi được phân công thích hợp. Lái xe ngựa chở đồ ra ngã ba bán, chở mướn đồ đạc, nông phẩm trong vùng, trồng vun phân và hái mỗi tuần có xe hàng hảng đóng hộp trái cây ở Lâm Đồng lên mua, bông lay-ơn mỗi ngày giao mối ở mấy cửa hàng hoa Sàigòn do xe đò chở. Tất cả sổ sách, chi, tiêu, mua, bán do thiếu úy Tâm, khóa 26 Vỏ Bị điều hành một cách xuất sắc. Năm đầu tiên mình bù vào nhiều, năm nay có huê lợi rồi cũng đở, riêng cái mục xe song mã chở hàng mướn luôn có người đăng ký trước, khấm khá lắm. Mỗi sáng mình cưởi ngựa chạy quanh trang trại trông nom và thực hành bài thể dục buổi sáng. Hai ngày thứ tư và thứ bảy ăn thịt cá, những ngày còn lại ăn chay, dưởng sinh nên anh em kể cả mình nữa ít đau bịnh. Rau cải và trứng gà quyết định khẩu phần ăn, chỉ mua thêm ít thịt cá, đậu hủ. Cuối năm tổng kết tài chánh, trích phân lời sắm Tivi, tủ lạnh, máy loa nghe nhạc, sách báo, sửa, cà phê thường trực, thuốc lá không cấm, nhưng không cung cấp để giữ sức khoẻ, dự trù nhiều chỗ để chào đón một số anh em thuơng binh nữa. Tôi nêu thắc mắc : - Bạn tập họp anh em thương binh mình đông như vầy chánh quyền để yên cho bạn làm sao? Nhún vai, Hoàng cười : - Làm sao họ bỏ qua cho mình, với lý lịch phi công và cái mác Việt Kiều Mỹ, lại có tiền mua trang trại, Công An mời tao lên huyện, họ xuống đây mấy lần chủ yếu là gầy sòng nhậu. Tao trình bày êm lắm: Anh em cũ vì thương tật gặp quá nhiều khó khăn trong cuộc sống phải đi ăn xin, bán vé số lề đường, vào quán ăn… Thành phố Đà Lạt là điểm du lịch quốc tế, mọi người và nhất là du khách ngoại quốc đâu muốn nhìn thấy hình ành thiếu thẩm mỹ không văn hóa đó… Tôi đem các anh ấy về đây tạo công ăn việc làm đồng thời cũng giúp chánh quyền gìn giữ nét thanh lịch của thành phố.

Còn mấy anh nghi ngờ chúng tôi tập họp nơi đãy để chống phá, lật đỗ chánh quyền ư ? hằng

triệu quân với đại bác, tàu bay tàu bò, chúng tôi còn phải giao chánh quyền lại cho mấy anh! bây giờ với chục anh em què chột chúng tôi làm được cái gì ? ôm mấy trái đu đủ chín tấn công mấy anh à ?

Nghe tao nói có lý, sau mấy cử nhậu và cán bộ nào ra về cũng có hộp quẹt Zippo mới cáu cạnh nằm trong túi quần. Họ đồng ý với điều kiện phải trình báo công an khi có người mới đến và cá nhân tao phải chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu có sự vi phạm an ninh xảy ra.

Tôi và Hoàng rảo bước dưới tàng cây rừng cà phê, nhánh oằn trái ngã màu vàng tím. Hoàng cho biết chỉ cần năm năm nữa thôi sẽ thu lại vốn. Chừng đó nếu sức khỏe cho phép sẽ mở hảng chế biến và đóng hộp cà phê xuất khẩu, một thương vụ lời gần bằng buôn bạch phiến mà không sợ đi tù.

Năm nay, tao và anh em bắt đầu sống khoẻ re như bò kéo xe trong khi tụi tao có đến bốn con ngựa kéo xe. Nói xong khoái chí Hoàng ngửa mặt lên trời cười ha hả.

Anh em thương tật ở đây độc thân bất đắc dỉ vì vợ bỏ, riêng tao vợ chết nếu còn sống cũng bỏ nhau thôi.

Thiếu Úy Tâm mời tôi và Hoàng vào đốt nhang, mâm cơm rước ông bà đã dọn lên xong, tươm tất. Hạ sỉ Khánh quá xuất sắc trong việc phụ trách ẩm thực. Một bình bông lay-ơn đủ màu to, xum xuê, một dĩa to bom với mấy chùm nho sai trái phủ lên. Dĩa lớn mép bàn bên kia gồm bốn quả mãn cầu, dừa xiêm, đu đủ, soài chín nói lên ước muốn chân chất của người dân miền Nam: cầu, vừa, đủ, xài, đúng theo phát âm nhưng có hai lỗi chính tả. Mấy đòn bánh tét, dĩa dưa hấu đỏ au, thịt, cá, tôm, cua ê hề! ông bà ở trang trại nầy được rước bằng mâm cổ quá thịnh soạn. Nhang tàn, mọi người ngồi vào bàn, Hoàng mang ra cặp Martel và nói : - Thưa các bạn ! đặc biệt hôm nay trong tiệc tất niên chúng ta uống hết cặp rượu do anh Ánh từ Mỹ mang về ! rượu của đế quốc sản xuất nên uống không nhức đầu! uống mừng tình bạn, tình chiến hữu của chúng mình.

Mọi người vổ tay rôm rã, có người vổ tay xuống mặt bàn vì là độc thủ đại hiệp, tội nghiệp biết bao! chỉ mỗi một chuyện nhỏ là vổ tay thôi mà biết bao chiến hữu của tôi không làm được vì không còn đủ hai bàn tay !

Rượu được rót vào ly nhỏ chuyền tay mấy vòng. Chai còn lại Hoàng đề nghị rót vào mười hai ly lớn làm “cong xom ma xong” bỏ nước đá và

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 88

nước dừa xiêm thay sô đa. Hoàng khện khạn, hưng phấn, cầm ly đứng lên đề nghị mỗi người hát một câu trong những bài hát cũ mang ý nghĩa trong buổi tiệc hôm nay. Mọi người vổ tay tán thưởng và đề nghị Hoàng hát trước lần lượt theo chiều kim đồng hồ.

Hoàng tằng hắng lấy giọng : - Dừng chân quán năm xưa, uống nước dừa hay nước mắt quê hương.

Tráng pháo tay vang dội kèm theo nhịp vô.. vô.. vô.

Thiếu Úy Tâm nâng ly : Đồn anh đống ven rừng mai, nếu mai

không nở, anh đâu biết xuân về hay chưa! Tràng pháo tay tưng bừng., tiếng bàn tay

vổ xuống bàn cũng thật hào hứng, mọi người luân phiên hát và uống.

Đến phiên tôi, người hát chót, nếu dự thi giọng hát cũng được xếp thế thôi. Quẹo cánh tay hình chữ S tôi quay ly dù đầy rượu nhưng không đổ giọt nào ra ngoài, tôi cất giọng : - Thoáng thấy em cười vì mùa thương vừa chấp nối. Ôi ! đất nước đâu đâu cũng quay quần lại một nhà. Mọi người vổ tay tán thưởng nghiêng ngã, Hoàng cụng ly với tôi, la lớn :

- Quá đả, quá đả ! Thêm mấy ly “xây chừng” rượu đặc sản địa phương, tôi lật ngang lên salon, phê một giấc đến chiều tối, trong giấc ngũ tôi nghe loáng thoáng tiếng chuông chùa. Tôi thức dậy, đi tắm, mặc đồ ấm vào, lò sưởi đốt bằng gổ thông bắt lửa nổ tí tách. Hai tô cháo thịt bằm nóng, hai tròng đỏ hột gà trên mặt, nhiều tiêu, hành, gừng hấp dẩn quá, tôi nghe trong người ấm, sảng khoái, sau khi ăn xong. Ly cà phê phin từng giọt, bốc khói thơm lừng, Hoàng trao cho tôi một tẩu thuốc 79, dồn đầy. Phụ nữ không ai ưa mùi thuốc lá, nhưng ít người phản đối mùi thuốc 79 quyến rũ, thơm tho lạ kỳ. Tôi đã bỏ thuốc lá, một thói quen tốn kém và gây mầm bệnh hiểm nguy, từ lúc đi tù cải tạo. Nhưng cà phê ngon là thế, bên ánh lửa ấm, tí tách, bập bùng, làm sao tôi có thể từ chối, bập…bập rít vài hơi thuốc thơm đến từng tế bào, đánh thức những ngày ngửa mặt nhìn sao trời, dưới giao thông hào chờ giặc, những hơi thuốc vội vàng ngon chi lạ, được che dấu bằng nón sắt của người lính trận. Hoàng lên tiếng : - Ông khoẻ chưa? tôi kể chuyện cho ông nghe trước giờ giao thừa, sang

năm tôi muốn mọi chuyện đều ổn, tốt đẹp không còn chút bóng tối nào cuả những ngày xưa cũ cả. Tôi sửa thế ngồi nghiêm túc :

- Mình sẳn sàng nghe Hoàng kể đây. Bập một hơi thuốc, ém khói, chiêu một

ngụm cà phê đầy, Hoàng vào chuyện : - Năm 1994, tao sang Mỹ, định cư ở California, sau ông hai năm. Gặp thằng bạn thân ở phi đoàn cùng khoá sang cho tiệm nước lọc, mỗi tháng trả một ngàn, trả trong vòng hai mươi tháng khong tính tiền lời. Ông bạn còn bày cho tao cách đến từng nhà, tiệm Việt Nam cả Mỹ nữa nằm trong vùng cư trú, cung cấp nước lọc bình lớn, mỗi tuần tiếp nước một lần, cuối tháng tính tiền. Công việc nặng, vất vả nhưng thu nhập khá. Vợ tao có tay nghề sẵn, vào làm tiệm nail, tóc cuả vợ người bạn, ăn cơm trưa, mỗi tuần trả năm trăm đồng tiền mặt. Sau hai năm, vợ tao thi đậu bằng tóc, nail, chủ tiệm có ý định sang, điều kiện dể dàng lấy tiền về đầu tư nhà cửa ở Việt Nam. Vợ tao nằng nặc đòi sang, bán cơ sở nước lọc, hai vợ chồng gom cả vốn dành dụm sang tiệm, còn một ít vợ chồng chủ tiệm đồng ý cho trả sau. Tao làm thủ tục lảnh tiền trợ cấp, sau mấy năm tù cải tạo, dân H.O. nào cũng được nhà nước cộng sản Việt Nam tặng cho đủ thứ bịnh trong người kể cả bịnh trầm cảm và hằng ngày đi liệng báo, mỗi sang ra khỏi nhà khi mọi người còn ngon giấc. Làm chủ tiệm, dưới tay trên mười người thợ, thu nhập cao, vợ tao bắt đầu đổi tánh. Trước hết, mở account riêng, sửa mũi, chỉ mặc đồ hiệu, phấn son như nghệ sĩ lên sân khấu, đồ hiệu kể cả giày, bóp, mắt kiếng… Thấy tao chỉ mặc quần áo mua ở shop đồ cũ, cô ta nói :

- Số ông làm sao ấy ! Chê tao vóc dáng kỳ cục, không thích đi chung mỗi khi ra đường, mấy năm nay từ ngày sửa mũi vợ chồng chưa hôn nhau một lần. Cưới nhau mấy chục năm, vợ tao không bao giờ hé môi khen tao một lời, còn khuyết điểm vợ tao chưa bao giờ bỏ qua, đay nghiến, lập lại nhiều lần. Nhiều bửa chịu hết nổi, tao ôn tồn nói : - Không người đàn ông nào thích sống với người đàn bà chỉ nhìn thấy khuyết điểm của mình. Lần về Việt Nam sửa mũi trở qua, vợ tao nghĩ mình là hoa khôi, mua đồ gởi về tặng ông bác sỉ sửa mũi không lấy tiền, ông ta lấy thứ khác… Tuy không nói ra bằng lời, trong thâm tâm sâu kín vợ tao nghĩ rằng tao không xứng đáng làm

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 89

chồng nữa. Hồi xưa, vợ tao nói với người bạn gái trước mặt tao : - Tụi mình có chồng cở quốc gia hành chánh mới phải.

Tao lặng người nín thinh! quả đúng như một nhà tư tưởng nào đả nói “ Mỗi người chồng là một triết nhân” !

Ngày hai buổi tao đi quăng báo bằng chiếc xe cà tàng, rảnh rổi đọc sách, báo, nghe nhạc. Bạn bè trai có gái có goị phone cho tao biết thường gặp vợ tao đi ăn cơm, xem ca nhạc với thằng có văn phòng lo dịch vụ bảo hiểm xe cộ và hôn nhân, bảo lảnh người từ Việt Nam sang.

Vợ chồng ít khi được ăn cơm chung, vợ tao thường vắng nhà vô cớ, nói rằng đi với mấy cô bạn sang tiểu bang khác chơi đôi ngày.

Đặc biệt vợ tao đóng cửa tiệm thì thằng lo dịch vụ cũng không có mặt ở văn phòng, có người cho tao biết gặp tụi nó ở sân bay. Tao rất bình tĩnh! chờ và nhìn! hành động vội vàng là điều không hay! trái tim đàn bà có trăm đường vạn nẻo…

Chiều nọ, với gương mặt hân hoan ngồi ăn cơm chung, vợ tao mở lời: Ở xứ người tứ cố vô thân, chúng mình không con cái, tuổi già biết nương tựa vào ai? Chúng mình mua bảo hiểm nhân thọ để phòng xa.

Mấy lúc nầy trái gió, trở trời, mắc mưa tao thường bị sưng phổi, vợ tao nghĩ rằng tao sẽ chết sớm, cũng có phần góp ý của thằng dịch vụ, vợ tao quyết định mua bảo hiểm nhân thọ hai vợ chồng lên đến một triệu đồng, tiền quăng báo của tao cúng hết cho bảo hiểm.

Sáu tháng sau trên đường lái xe quăng báo, thằng bạn thân chận lại cho biết, vợ tao bị tai nạn đụng xe vào xe truck, trên xa lộ từ Las Vegas trở về đang hấp hối trong nhà thương ! thằng dịch vụ gãy tay trái. Tao vội vào thăm, trong phòng lạnh, thở dưởng khí, hôn mê và khuya đêm đó vợ tao tắt thở. Chôn cất xong, tao bán tiệm cộng với số tiền bảo hiểm đền, tao có trong tay trên một triệu đô.

Cành sát dến nhà giao cho tao túi xách đen của vợ tao trong đó đựng: ngoài giấy tờ tùy thân, mấy ngàn đô la, son, phấn, lược, mắt kiếng và chục bao cao su ngừa thai, bao giấy bạc. Tao ngỏ lời cám ơn cảnh sát và thì thầm “còn cở nào hơn?”

Trước một tuần, trước khi về sống ở Việt Nam, gặp thằng xếp sòng xả hội đen VN ở Cali, tao chịu giá mười ngàn đô la cho cái lổ tai “thằng dịch vụ” đã lấy vợ người.

Gởi tiền và nửa bao cao su cho ông giữ giùm. Đây thằng “Tây Môn Khánh” bị xẻo tai đây. Hoàng lấy từ trong phong thơ màu vàng, hình một người đàn ông áo sơ mi trắng dài tay đẫm máu và lổ tai bên trái bị lấy đi.

Hoàng mở hộp đựng nữ trang vuông, bằng giấy bạc trong đó tôi đựng hai nửa bao cao su tránh thai, trùng khớp với nhau.

Hoàng quăng tất cả vào bếp lửa lò sưởi. Xoè bàn tay xoa xoa lên mũi, nén xúc động : - Xong rồi chuyện ruồi bu đời người. Chuông đồng hồ để bàn ré lên lanh lảnh, hai cây kim xếp vào một. Hoàng mở cửa, nhảy nhanh lên từng bậc thang, hai tay cầm chày gióng lên hồi chuông ngân… ngân vang rộng cả một vùng bóng tối, rừng cây bạt ngàn… Đêm đen trừ tịch, bóng dáng Hoàng chỉ còn là một âm bản, chiếc chày nện chuông treo lừng lửng ngang vai, bất chợt tôi thấy Hoàng như một xạ thủ với khẩu M72 chống chiến xa, đang ngoéo cò khai hỏa vào những ngày tháng tệ hại, đáng nguyền rũa đã qua của đời mình. Bước vào nhà, năm mới vừa đến sau cái chớp mắt, tự dưng tôi có câu hỏi hiện ra trong đầu, bao giờ tấm bảng “cấm đàn bà và muỗi” được hạ xuống đây ?

Nếu có, chắc phải còn lâu lắm .

TƯỜNG LAM

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 90

Lá Thư Mùa Hè 2011

Kính thưa quý đồng hương Trong những tháng ngày của năm Tân Mão

vừa qua, đời sống quanh ta xảy ra nhiều chuyện to tác kinh hòang, nào là sóng thần, động đất, Cali trôi thành biển, trái đất hết ngày họat động, tận thế đến nơi rồi...nhưng buổi sáng mai thức dậy, mặt trời vẫn mọc ở hướng Đông, tim ta vẫn đập, phổi ta vẫn hít thở. Người ta nhìn thấy trong một đống rác của cảnh hoang tàn đổ nát, một cái đồng hồ chạy pin vẫn kêu đều tíc tắc, kim dài chỉ phút, kim ngắn chỉ giờ, nó vẫn còn chạy. Cuộc sống vẫn tiếp tục. Hội Ái Hữu Trà Vinh vẫn tổ chức Picnic ngày chủ nhựt thứ hai của tháng 7 như hằng năm và bà con xa gần vẫn hân hoan chờ ngày họp mặt .Năm nầy là 17/7/2011. Địa điểm thì thay đổi cho thêm phần tiện lợi, như chỗ đậu xe dễ dàng, sử dụng âm thanh thỏai mái, tìm kiếm dễ không bị lạc...Món ăn quen thuộc mà đa số rất thích là bún nước lèo năm nay hẳn nhiên là không thiếu được

Thưa quý đồng hương, Ngày Hè là ngày chúng ta “ăn theo” các

cháu học sinh. Nhân ngày nầy, Hội có phần khen thưởng học sinh xuất sắc để khuyến khích mầm non, hy vọng tương lai tươi sáng của thiếu nhi Trà Vinh chúng sẽ tiếp nối cha ông mà không quên nguồn cội, nhớ về quê hương Trà Vinh yêu dấu của chúng ta. Thay mặt Ban Tổ Chức, Chúng tôi xin chúc quý đồng hương một ngày sinh hoạt ngoài trời vui vẻ khẻ khoắn và gặp lại một vài cố nhân.

Văn Tường, CA 10/6/2011 __________________________

THÔNG BÁO

TỔ-CHỨC HỌP MẶT HÈ 2011

Kính thưa quý đồng hương và thân-hữu, Nhằm tạo cơ-hội cho đồng hương Trà-Vinh gặp gỡ, hàn huyên cũng như các con em có một ngày vui chơi, giải trí ngoài trời trong dịp nghỉ Hè. Hội Ái-Hữu Trà-Vinh sẽ tổ-chức Ngày Họp Mặt Picnic Hè 2011 tại:

Địa điểm: GARDEN GROVE PARK 9301 Westminster Ave Garden Grove CA 92844 Góc đường Westminster & Bushard. (Chỗ Sinh Viên Tổ Chức Hội Chợ Tết hằng năm) Ngày Giờ: 10 giờ sáng Chủ Nhựt 17-7-2011

Chương trình gồm: Ẩm-thực: Dưới hình thức Pot-Luck (mỗi

gia đình cùng góp thức ăn). Món ăn nào đặc-biệt nhất sẽ được chấm giải

Để cuộc thi đua thêm phần hào hứng, Ban Tổ Chức kêu goị đồng hương mang theo thức ăn dự thi càng nhiều tốt. Riêng những đồng hương nào không tiện mang thức ăn tới, ban tổ-chức cũng có sẵn một số thức ăn căn bản như bún nước lèo, thịt heo quay, xôi,bánh mặn và pizza, chips (cho các con em).

Các trò chơi: Như vũ cầu, bóng chuyền, cờ tướng ,văn nghệ , có tính cách vui chơi. Ngoài ra còn có các cuộc thi đấu có giải thưởng như :Thi nhảy bao, thi đố vui địa danh Trà-Vinh, thi chọn món ăn thích nhứt...

Phát Giải Khuyến Học: Cho con em đạt thành-tích xuất-sắc tại học đường trườmg Mỹ và học giỏi trường Việt ngữ trong niên khoá 2010-2011 có giấy Ban Khen của nhà trường xác nhận. Hồ sơ gởi về cho hội trước ngày 30/6/2011 Hội Ái-Hữu Trà-Vinh thân mời tất cả đồng hương và thân-hữu đưa con em đến chung vui tham-dự. Các đóng góp ý-kiến, tặng vật ủng hộ cũng như ghi danh tham-dự các giải thể-thao, cờ tướng, ghi danh con em đạt thành tích xuất sắc trong học đường, Hội rất hoan-nghênh và gởi về càng sớm càng tốt nhằm giúp cho Ngày Họp Mặt Hè vui tươi, hào hứng và thành công tốt đẹp.

California, ngày 1 tháng 6 năm 2011. TM. Hội Ái-Hữu Đồng-Hương Trà-Vinh

Hội Trưởng : Văn Tường

XIN LƯU Ý : Để vui chơi cho thoải mái: Quý đồng hương nhớ mang theo ghế cá nhân hay tấm trải cũng như dụng cụ thể thao ..nếu có)

Hè Họp Mặt Rộn rã hè về lại gặp nhau Mười năm cứ tưởng tợ hôm nào Trà Vinh Ái Hữu tình đơm sắc Hải ngoại Đồng Hương nghĩa đậm màu Gặp lại người thân tay bắt vội Vồ ôm bạn cũ mắt tuôn trào Trà Vinh Họp Mặt Hè vui vẻ Tình cảm Trà Vinh thật ngọt ngào !

Tú Rệu/ 6/29/11 Tôi xin họa tùm bậy tùm bạ vận "AO"

Nguyễn Văn Nhựt

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 91

Mười hè thấp thoáng đã qua mau. Mười năm tình cảm vẫn ngọt ngào Mười Xuân, mười Tết, vui chưa hết Để giử tình ta chẳng phai màu Mail qua mail lại tin cần thiết Để khi gặp lại vui vẻ chào. Trà Vinh họp mặt mầy nhớ tới. Ờ...Ờ..tao hứa sẽ tới sau!

Gặp nhau rộn rã lại hè về Mừng vui miệng nói tay mân mê. Nầy bạn, mầy tao, giờ tóc trắng Hồi xưa có tiếng đào hoa ghê. Bây giờ con cháu không đếm hết. Đoàn tụ một nhà vui khỏi chê Nhớ rủ cả nhà đều đến đó Trà Vinh hội họp đón hè về.

Gởi qúi đồng hương,

Tiệc Hè năm nay ngoài món Bún Nước Lèo, Tôi mới lập nhà Hàng bán phở Việt ta. Vậy mời các Bạn và qúi đồng hương thưởng thức nhé.

Phở Việt ta. Em lập nhà hàng Phở Việt ta

Phở em nước béo thật trong ngà Tái gầu, tái sống chan đầy nước Tái nạm, gân dòn chẳng lộn da Rau quế thêm hương tô tái chín Ngò gai tăng vị súp xương gà

Phở Gà khoái khẩu cay tương ớt Giá sống trộn nhiều Súp loảng ra !

Tú Rệu / July 1, 2011

Huỳnh Văn Luận

Biển gào sóng vỗ tàu ra khơi Người dân xứ biển bám nước trời Làng cá âm thầm ven biển gió Một đời cơ cực với nổi trôi

Thuyền đi khoang trống ra ngoài biển Thuyền về tôm cá lấp đầy, vơi Những người vợ trẻ ôm con đứng Nhìn bóng thuyền về mắt reo vui Bửa nay trời gió đầy biển động Tròng trành tàu dạt bến Hoàng Sa Một lũ Tàu gian loài cướp biển Trấn áp ngư dân chúng chẳng tha Một chiếc không qua cơn sóng dử Chìm trong vực thẵm giửa phong ba Xác người vùi đấm trong biển gió Tiếng thét đau thương giửa biển nhoa

Chiều nay mây phủ trời nghiêng tạnh Người dân miền biển ngóng chờ tàu Biển vẫn màu xanh cơn sóng nhỏ Thuyền chẳng về theo sóng bạc đầu

Những chiếc khăn sô treo đầu gió Mẹ mỏi mắt chờ... bóng thuyền mô...? Vợ đứng vời trông ngoài mây nước Chỉ thấy chập chùng cơn sóng xô

Biển của tổ quốc có ngàn xưa Bọn Tàu cướp đảo lấn cõi bờ Tung hoành giết hại người dân biển Thuyền nát, người tan giửa sóng to Hỡi kẻ đương quyền sao câm lặng Trước nỗi đau thương của dân lành Cứ cúi mặt hám danh, hám lợi Để nát non sông, hận giống dòng Chiều nay khăn trắng trên bờ vắng Bao nhiêu người khóc cái tang chung Hỡi ơi! biển sóng về gềnh đá Xác người ngư phủ có về không..???

( Tin VN ngư dân Quảng Ngãi bị tàu Trung Cộng bắt giam ở đảo Hoàng Sa đòi tiền chuộc.

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 92

Ngày 16 tháng 3 -2010, ở Quảng Bình 7 ngư dân chết vì tàu Chệt va đụng mạnh và bỏ đi. Người dân Quảng Bình đã lập 1 bàn thờ ngay bờ biển, với mảnh khăn trắng buộc trên 1 cây sào cho những vong hồn xấu số)

MẸ KHÔNG MUỐN CON ĐI BIỂU TÌNH Cãm nhận theo bài viêt của Mẹ Nấm

Giặc Tàu đang bỏ vòi xâm lấn Mẹ và mọi người cùng đi biểu tình Biểu lộ lòng yêu nước Cho giặc Tàu biết khí thế Việt Nam Con ơi! Yêu nước là cái tội! Họ sẽ đàn áp không cho. Con hỏi? Ai đàn áp? Mẹ nói cảnh sát, công an Tại sao thế mẹ? Cảnh sát là bảo vệ dân Có lần mình ở Nhật Con thấy cảnh sát rất hiền lành... Ồ không con à.. Đây là Việt Nam Cảnh sát đàn áp dân Cả khi họ đòi quyền sống Cả khi họ đòi chống ngoại xâm Cho nên hôm nay mẹ đi biểu tình Mẹ không muốn cho con thấy Những điều làm vẫn đục hồn con Mẹ và mọi người tiếp tục đấu tranh Để giử nước Để có Công Bằng Để có TỰ DO Mẹ mong sau nầy con lớn lên Sẽ hưởng được những gì con mong ước Trong một xã hội Thăng Hoa!

Huỳnh Long Hiệp

Những Câu Trả Lời Thú Vị nhân ngày Lễ Độc Lập Hoa Kỳ

Do đồng hương Từ Văn Thọ gởi đến.

1/- Trong buổi họp với các nhà lãnh đạo Âu Châu đầu thập niên sáu mươi, để thoả hiệp sống trung lập với các nước cộng sản Đông Âu,

Tổng Thống Pháp Charles DeGaule quyết định rút nước Pháp ra khỏi khối chống Cộng là Liên Minh Bắc Đại Tây Dương.

Charles DeGaule nói với Ngoại Trưởng Dean Rusk của Tổng Thống J.F. Kennedy, là ông muốn Quân Đội Hoa Kỳ rút ra khỏi nước Pháp nhanh chừng nào tốt chừng ấy….

Ngoại Trưởng Dean Rusk trả lời ngay : “Thưa Tổng Thống, lệnh này bao gồm luôn cả các quân nhân Hoa Kỳ chôn tại đây? (vì tử trận để giải phóng nước Pháp khi chiến đấu với Đức Quốc Xã trong Thế Chiến Thứ Hai..)

Tổng thống Charles DeGaule không trả lời nổi. Yên lặng như tờ. Yên lặng đến nỗi có thể nghe được chiếc kim rơi….

* * * 2/- Tổng Giám Mục Giáo Xứ Canterbury Anh Quốc gay gắt hỏi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Collin Powell trong một cuộc họp báo, việc Mỹ đem quân sang Iraq và Afganistan có phải là thí dụ điển hình về tham vọng bành trướng lãnh thổ của Tổng Thống Goerge Bush hay không…

Ngoại Trưởng Collin Powel từ tốn, chững chạc trả lời :

- Thưa Đức Cha, từ bao nhiêu năm qua, Hoa Kỳ đã gửi không biết bao nhiêu thanh niên, thiếu nữ ưu tú của mình dấn thân vào vòng lửa đạn để tranh đấu cho tự do ngoài biên cương Hoa Kỳ. Tham vọng về đất đai của chúng tôi, nếu có là chỉ xin vừa đủ đất để chôn những người tử trận không thể trở về nhà…

Yên lặng như tờ. Yên lặng đến nỗi có thể nghe được chiếc kim rơi….

* * * 3/- Cụ già 83 tuổi Robert Whiting tới Paris bằng phi cơ. Tại quầy Quan Thuế ở phi trường, cụ phải mất vài phút để lục tìm thẻ thông hành trong xách tay. Thấy cụ lục lọi tìm tòi, nhân viên Quan Thuế hỏi với giọng bất mãn:

-Thưa ông, ông đã từng đến nước Pháp bao giờ chưa ?

Cụ Whiting thú nhận rằng trước đây là ông đã đến nước Pháp rồi.

-Vậy ông biết là ông phải sẵn sàng để xuất trình thẻ thông hành chứ…

Cụ già người Hoa Kỳ trả lời: -Lần trước khi tới Pháp, tôi không phải

xuất trình thẻ thông hành. -Thật là vô lý. Người Mỹ bao giờ cũng phải xuất trình thẻ

thông hành khi tới Pháp! Cụ Whiting đưa mắt nhìn nhân viên Quan Thuế thật lâu và thật là sắc. Sau đó ông lặng lẽ giải thích:

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 93

-Vậy sao? Khi tôi đổ bộ lên bãi biển Omaha trong Ngày N năm 1944 để giúp giải phóng đất nước này thoát sự thống trị của Đức Quốc Xã, tôi không thể tìm được bất kỳ người Pháp nào ở đó để trình giấy thông hành cả…

Yên lặng như tờ. Yên lặng đến nỗi có thể nghe được chiếc kim rơi…

TẢN-MẠN TRÀ-VINH

CÀNG GIÀ CÀNG NÊN ĐI HỌP MẶT…QUÝ CỤ ƠI !

THANH-NGUYEN Gần hai mươi năm trước, chương-trình tái-định-cư H.O đã đưa hàng chục ngàn gia đình quân, cán, chính VNCH đến Hoa-Kỳ, trong đó có gia-đình tôi. Khoảng 10 năm đầu cuả thời gian đó, con cái cuả chúng ta rơi vào tuổi thành-hôn và do lien hệ ‘dây chuyền’, bạn bè H.O cũng như những bạn bè vượt biên, vượt biển thường gặp nhau …li chi trong các tiệc cưới hỏi cuả các cháu. Có lẻ vì thế mà nhu cầu ‘họp mặt thân-hưủ, đồng-hương’ cũng chưa cần thiết. Thời gian dần trôi, những cánh chim đầu đàn cuả gia-đình vượt biên hay H.O cũng theo đó mà bước lên hàng… cụ ! Tiệc cưới cuả con cháu cũng lơi dần. Và một thực-tế không thể né tránh : Đi đám tang cuả bạn bè, bằng-hữu bắt đầu nhặt hơn ! Đó chỉ là quy-luật cuả cuộc sống, phải không quý vị ? : Măng mọc thì… tre tàn. Từ đó, các Hội đoàn, Ái-hữu ra đời để đáp ứng nhu-cầu ‘họp mặt đồng-hương, than-hữu’. Vì phải chăng khi lia bỏ quê-hương VN, chúng ta mất đi nhiều thứ, nhưng tình đồng-hương, đồng đội, đồng-nghiệp, đồng-môn v.v… sẽ ở với ta cho đến tận… cuối đời ! Tôi và Anh A(xin ẩn danh) là hai bạn già H.O, cũng là đồng-hương, chúng tôi biết nhau từ thời còn chung trường Trung-học, nên khi lưu lạc xứ người, gặp lại nhau chúng tôi bổng thấy gần gủi, thân tình. Khi Hội Ái-Hữu cuả tỉnh nhà ra đời, tôi rủ Anh cùng ghi danh. Anh nể tình bạn nên

cũng ghi danh vào hôi. Hội tổ chức hai kỳ ‘họp mặt’ hàng năm, vào dịp Hè và Xuân, nhằm tạo cơ-hội cho đồng-hương và thân hữu, cùng cả gia-đình, tìm lại, nhìn lại, những khuôn mặt thân quen hay ít ra là cơ hội để cùng quây quần với những người, những gia-đình đã một thời đứng với nhau ở một góc trời cuả quê-hương VN. Tuy nhiên, qua khá nhiều kỳ họp mặt cuả Hội, tôi vẫn không thấy bóng dáng bạn A cuả tôi tham-dự. Có lần tôi còn gọi điện-thoại nhắc anh khi gần đến ngày họp mặt, Anh ậm ờ, rồi cũng chẳng thấy đi!...Sau đó tôi có dịp trao đổi, tìm hiểu thì ra anh… không đi vì ‘không thích hội hè gì cả !’, theo lời anh nói. Vâng, có những người như thế. Chúng ta đành phải chấp nhận quan-điểm sống cuả mỗi người. Có khi ngay cả người… trong nhà ! Thế rồi có một hôm tôi đi dự đáng tang cuả một bạn già, bất ngờ gặp Anh A cũng có mặt ngay trong ‘phòng thăm viếng’, cùng với cả anh B và C (xin ẩn danh) nửa ! Bốn người chúng tôi là chỗ thân tình ; lâu ngày không có dịp gặp, nay bất ngờ gặp nhau ở đây thì mừng lắm nên sau khi viếng qua người quá-cố, nói lời phân-ưu với tang-gia, bốn anh em chúng tôi kéo nhau ra ngoài sân để chuyện trò. Sau khi tìm được một góc khuất để không ai chú ý, nhất là không bị xem là bất lịch-sự vì nói năng ồn ào ở chổ cần sự nghiêm-trang, bốn bạn già bắt đầu… nổ ! Nó cũng gần giống như cà-phê… nổ vậy đó, có điều là âm thanh được ‘điều-chỉnh cho vừa đủ nghe để khỏi làm phiền hàng xóm…’. Thế là cũng đủ chuyện trên trời dưới đất, đặc biệt là những chuyện xoay quanh về người vừa quá-cố. Xuất phát từ nổi ngậm ngùi về người bạn mới nằm xuống, Anh C nói : -“Bọn mình giờ đây đã đứng vào hàng sáu, hàng bảy hết rồi ! Nó thật giống như chiếc xe hơi cũ, cọc cạch, không trục trặc chỗ này thì cũng hư chỗ khác…Xe hư thì sửa, người bệnh thì chửa… đến lúc không sưả hay chửa gi được nữa thì… đi thôi ! Mà cái vụ.. ‘Đi’ này, nhất là với bọn già chúng mình, thật ra không ai lường trước được quý Ông ạ. Như Ông Y đó (người vừa mất, xin ẩn danh), có nghe ai nói Ổng bệnh hoạn gì đâu, thế mà…đùng một cái là …Đi rồi !”. Tôi cũng chen vào : -“Thì người nhà nói là Ổng bị Stroke, mà lại trong tình trạng nặng cho nên từ xảy ra cho đến lúc…đi… Ổng không trăn trối được gì !

Anh B thì tỏ ra thực tế :

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 94

- “Cho nên mấy Ông thấy đó, bọn già chúng mình bây giờ có dịp nào gặp nhau thì nên gặp, thậm chí còn tạo cơ hội để gặp nhau, kể cả cho mấy Bà nửa, chứ để như Ông Y nè, bây giờ nằm trong quan-tài lạnh lẻo, bạn bè, bằng-hữu đến chỉ là để nhìn nhau lần cuối… chứ Ông có muốn… nổ như bốn người mình đang ở đây thì cũng nào có được đâu !” Cả bốn chúng tôi cùng cười nhẹ sau câu nói đó, tiếng cười tắt vội vì có lẻ ai cũng đang nghĩ đến sự hữu-hạn cuả một kiếp con người. * * *

Sau đám tang cuả Ông bạn già Y vài tháng là đến ngày HỌP MẶT HÈ của Hội ái-hữu Tỉnh nhà. Ơ kià…Ông bạn A của chúng tôi cũng có mặt ! Tôi cứ ngở là tôi nhìn lầm, cái người luôn ‘lặn với hội hè’ này, nay thì đã…”đổi mới” ! Ông lại còn rủ cả ‘bà nhà’ đi nửa chứ ! Tôi mơ màng nhớ lại lời Ông bạn B nói tại bửa đi đám tang Ông Y :”… Bọn già mình bây giờ hể có dịp nào gặp nhau thi nên gặp…” và nghĩ thầm “có lẻ chính những lời nói đó, trong khung cảnh hôm đó đã quá thực tế để đánh động tâm-tư Ông bạn A cứng lòng cuả chúng tôi ! Có thể lắm. Và cũng hoàn-toàn hợp-lý. * * *

Đó là câu chuyện của ‘quý bạn già’. Thế còn đối với các BẠN TRẺ thì sao ? Đây lại cũng là một đề tài khá sâu rộng. Thôi thì xin hẹn một dịp tản mạn khác để cho câu chuyện về ‘bạn già’ không bị loảng đi.

Chúc cho quý BẠN GIÀ trong mổi lần HỌP MẶT đều có được niềm vui trọn vẹn của tuổi già. Chúc cho quý bạn già trong mỗi lần họp mặt đều có được cơ duyên gặp lại những con người mà mình yêu thích, nhất là được gặp lại, nhìn lại những khuông mặt mà… ‘tứ thập niên-tiền’ hay ‘ngủ-thập niên-tiền’ mình từng….mỗi lần nhìn đến là nghe con tim như… rộn ràng, loạn nhịp !.... CÀNG GIÀ, CÀNG NÊN ĐI DỰ HỌP MẶT… QUÝ CỤ ƠI !

THANH-NGUYEN (June, 2011)

Hảy Cười lên đi! Cho Đời thêm tươi

1- Tại phiên toà xử vụ xin ly dị tại miền tây nước Mỹ, người chồng da đỏ nhất quyết từ hôn mà không nói lý do. Quan tòa: - Thôi được rồi, bây giờ chỉ

cần anh nói một lần thôi, lý do vì sao anh có quyết định này. Tòa sẽ xử cho anh toại nguyện. - Vâng, thưa tòa - anh chồng chậm rãi - tôi xin hỏi, khi tòa gieo hạt lúa, nó sẽ lên cây gì? - Dĩ nhiên là cây lúa. - Gieo hạt bắp nó lên cây gì? - Đương nhiên là cây bắp. - Vậy tại sao tôi gieo da đỏ lại ra thằng da đen?

2-Thà tốn tiền…nhưng chắc ăn. Một cặp vợ chồng đưa nhau đi thăm thánh địa Giêrusalem. Chẳng may tại chỗ bà vợ đột ngột qua đời. Nhà hòm bàn với ông chồng: - Nếu ông muốn đưa bà nhà về xứ, thì phải tốn 5,000 đô la. Còn như mai táng bà ở ngay tại vùng đất thánh này, thì sẽ chỉ tốn có 200 đô la'. Ông chồng suy nghĩ một lát rồi trả lời rằng ông muốn đưa thi hài bà về quê quán hơn. Nhà quàn ngạc nhiên: - Tại sao phải chi 5,000 đô la, trong khi để bà nhà an nghĩ nơi thánh địa này, chỉ tốn 200 đô la?' Ông già quá bụa trả lời: - Cách đây hơn hai nghìn năm, nơi Giêsusalem này có một người đã chết, được chôn cẩn thận, ba ngày sau sống lại. Tôi thật không muốn gặp trường hợp rủi ro này.

3- VỢ MỚI CƯỚI Tạp chí “Phụ nữ tân thời” phỏng vấn một

anh chàng mới cưới vợ, vợ anh ta là một nữ cảnh sát giao thông:

“Xin anh cho biết cảm tưởng khi có một người vợ như vậy?”.

“Rất không thoải mái!”. “Anh có thể nói rõ hơn?”. “Vâng, ngay đêm tân hôn tôi đã bị cô ấy

phạt tới 3 lỗi cùng lúc: Tốc độ quá nhanh, đỗ sai … nơi quy định và không đội mũ bảo hiểm”!

4- Ngày xưa Đỗ Phủ viết trong bài Khúc Giang Nhị Thủ:

Tửu trái tầm thường hành xứ hữu

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 95

Nhân sinh thất thập cổ lai hy

Gởi tặng các bạn 70. Thất thập cổ lai hy

Xưa thì: “thất thập cổ lai hy”. Ngày nay thất thập cái gì cũng chơi. Tinh mơ, nhà đã xa rồi. Tối mò, vào bếp nấu nồi cơm canh. Thứ bẩy vợ biểu chạy quanh. Mua thịt, mua cá, cải xanh, rau dền. Chiều về, cháu đến cạnh bên: Ông ơi rửa đ…í..t, lại thêm giặt đồ. Chủ nhật cũng mệt thấy mồ. Cưa cây, đào xới, trộn hồ, dọn sân. Nhiều khi muốn phọt ra quần. Đêm nằm, suy nghĩ, phân trần cùng ai? Chắc là trời đã tính sai. Tuổi tôi bẩy chục chia hai mới vừa.

VHKT-2010 Vài dòng đáp góp vui:

Lách mình giữ xác mấy phen, Chiến tranh dai dẳng, vượt biên lưng hồn. Bạc đầu... nghĩ tới quê hương, Thoáng qua tuổi đã lưng chừng bảy mươi. Đọc thư bảy mươi xuân thời Bác Tín vừa gửi, kêu trời được chăng!? Việc nhà dù có lăng xăng, Nhưng vui vì Bác còn hăng tỏ tình! Bảy mươi là tuổi khai sinh, Ba lăm mới thật tuổi mình hiện nay...

Trần Thanh.

Gởi các bạn’ trẻ’ hơn 6 bó tròm trèm 7 bó:

Thất thập cổ lai hy Người xưa là vậy Ngày nay khác đi Thất thập còn rất chì Việc nhà lo tán loạn Việc ngoài chẵng ở không Ở nhà vợ bảo, cháu đeo ông Vườn sau, vườn trước mặc ông bươi đào Đêm đêm lăn trở nhức đau Bà la bài hải... cầu nhầu nhức xương Thôi đành ôm gối ngủ riêng! Bảy mươi thất thập còn ghiền gối ôm Đêm đêm trỏ gấc hom hem Giật mình ngồi nhớ lúc còn xuân xanh Ôi! còn đâu thuở liệt oanh!!! Các CỤ có buồn không ???

Luận Trà Cú

Cùng Các Bạn Trẻ ngày xưa, xin góp lời cho vui:

Nhân sinh thất thập cổ lai hi Ngày xưa như rứa, ngày ni khác nhiều Nhìn xem các cụ Việt Kiều Tuổi quá thất thập còn yêu dài dài Về quê cậy mối cậy mai Cưới cô gái đẹp định ngày rước dâu Cưới rồi thức suốt canh thâu Ráng làm bổn phận phờ râu thân già Già mệt, nhưng (cô) ả chẳng tha Mua thuốc cường tính, viagra đều đều Thấy thèm ăn được bao nhiêu ! Tú Rệu

* * * VÀI NÉT SINH HỌAT CỦA HỘI ÁI HỮU TRÀ VINH

I. Tổng quát Không kể thời gian vận động và thời gian Ban Chấp Hành lâm thời làm việc, Hội sinh họat đến nay đã hơn 11 năm, cái mốc để ghi nhớ là quyển đặc san Trà Vinh số 11 vì lẽ hể hằng năm, Tết Nguyên Đán là Hội cho ra mắt 1 số báo. Hội họat động có tính cách giới hạn theo đúng như nội quy đã đề ra. Nay nhân viết bản tin Hè số 12 chúng tôi xin phép nhắc lại một số nét cương lĩnh để trả lời chung một số yêu cầu mà Hội đã không thỏa mãn được vì nội dung ra ngoài nội quy của Hội .

Các hội viên thường trực (Sinh hoạt với Hội + Đóng niên liễm hằng năm) thì ưu tiên trong việc Quan,hôn tang tế và thực hiện trong mối dây liên hệ tứ ân phụ mẫu mà thôi. Biên giới họat động thì tòan khắp nơi: Người sinh quán Trà Vinh, người một thời đã làm việc ở Trà Vinh, dâu rễ Trà Vinh cũng OK .

Các thành viên của Hội mà sinh họat với các tổ chức khác sẽ với tư cách cá nhân chứ không có liên quan gì với Hội.

Hội Ái Hữu Trà Vinh sinh họat các việc thường xuyên là: Picnic Hè tháng 7: Khen thưởng thiếu nhi Trà Vinh học giỏi. Thi đố vui Trà Vinh để gợi nhớ, gợi thương quê nhà. Ăn món ăn Trà Vinh để nhớ về Trà Vinh. Bản tin Hè để thông tin một số tin tức cần thiết.

Tân Xuân Hội Ngộ vào tháng 2 sau Tết ta: Vinh danh tuổi thọ các bô lão; phát huy, duy trì phong hóa; gặp mặt nhau vui chơi đầu Xuân, ra mắt Đặc san Xuân…

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 96

- Các tổ chức đồng hương Trà Vinh ở các địa phương khi có sinh họat Tết, Hè , Ban Chấp hành nếu có cơ hội thì cũng đến tham dự. Thí dụ như Trà Vinh họp mặt Houston 2008, Picnic Hè San José 2006…

II.Người và việc: Tôi làm các công việc tại văn phòng như

là ghi vào sổ danh sách các đồng hương đóng tiền, deposit vào account của Hội, chuyển danh sách đến thủ quỷ, tổng thư ký. Có việc xảy ra thì liên lạc thông báo với mọi người, tổ chức thăm viếng, đăng báo, mua bông hoa chuyển tin tức đến hai vị phụ trách hai trang Web. Gởi thư mời đến các hội viên về Hè, Tết, mời họp ban chấp hành, lien lạc thuê nhà hàng và tiệc nào tan sẽ phụ…dọn dẹp và lưu giữ những vật dụng cần thiết cho lần sau. Khi phát hành báo Xuân, đi bưu điện gởi cho tác giả và hội viên. Đại khái công việc hội trưởng là vậy.

Bây giờ tới quý cụ khác, nhớ đâu viết đó, viết để bà con mình đọc cho vui vậy thôi. Cụ nào có hứng thì bổ túc vào, cám ơn lắm lắm.

Ông Tổng thư ký Võ Trung Tín thì cập nhựt danh sách đồng hương, tập trung bài vở và layout bản tin Hè cùng đặc san Trà Vinh, sắp xếp nội dung chương trình cho các buổi họp. Yểm trợ, hậu thuẩn cho các kỳ tổ chức họp mặt. Phát hành và quảng bá đặc san.

Ông Phó TTK Nguyễn Văn Nhựt viết tường thuật các lần sinh hoạt, trang trí trình bày hình ảnh, phụ trách hình bìa đặc san, thư mời, label Hội. Yểm trợ và hậu thuẩn mọi sinh hoạt của Hội.

Ông Phó Hội Trưởng Nguyễn Văn Thành chuyên trị Picnic mùa Hè, lo liệu tổng quát. Viết biên bản các phiên họp…Còn Ông Hội Phó Nguyễn Văn Vui thì quán xuyến lo liệu Tiệc Tân Xuân Hội Ngộ, phụ trách thường trực các kỳ thi đố vui Việt ngữ và địa danh Trà Vinh.

Ông Thủ Quỷ Võ Văn Diệu giữ sổ sách tài chánh chi thu và hậu thuẩn yểm trợ mọi tổ chưc của Hội cũng như nhắc nhớ, bổ túc những khiếm khuyết của Hội. Nhất là việc chiêu đãi các bạn bè từ phương xa về hội ngộ.

Ông Hội Phó Từ Phỉnh One thì yểm trợ các sinh hoạt và vận động ghi danh thêm các hội viên. Ông Trần Sinh và Ngô Văn Thành cũng vận động hội viên mới người Việt gốc Hoa mà cò thêm phần kêu gọi mạnh thường quân, lấy quảng cáo cho đặc san Xuân rất hữu hiệu. Ông Trương Bạc Xuổl thường xuyên vận động tài chánh và phụ trách thêm phần xin quảng cáo. Chị Bùi Hải Đường lúc nào cũng sát cánh với Hội trong việc

họp hành, đi thăm viếng hội viên, mọi nhân sự nào cần thiết là Chị xung phong. Kế là Cô Hàng Châu Trinh và Anh Duật thủ bàn thu tiền giúp Hội, mùa nào cũng vậy, năm nào vẫn thế “trường kỳ kháng chiến” Bên cạnh thì có Chị Diệu, Chị Tiến phụ một tay. Năm 2011 ở phương xa về có Anh Nguyễn Thái Lai xung phong vào ban nầy, quảng bá kêu gọi ủng hộ, kết quả khấm khá ghê !Ai nữa đây hè! Phải rồi mấy cây cổ thụ đây rồi: Bác Hai Trần Xiều, Bác Hàng Công Thành, Bác Nguyễn Ánh Nhựt từ ngày mới lập đến nay, lúc nào cũng xòe cành lá tạo bóng mát che phủ cho con cháu.

Ông Bà hỏa đầu vụ Thạch Tạo thì bún nước lèo và bánh mặn là căn bản làm chuẩn cứ vậy mà tiến lên đều đều mỗi khi Hè về. Ông Hội Phó Thạch Bông và Cố Vấn Trần Hữu Quang luôn luôn nổ lực vận động Bà Con Trà Vinh người Khmer đến hợp múa vũ điệu Làm Thôn do Thomas Trung “cầm chon”. Nói đến đây mà không nhắc đến Cô Lê Kim Khánh trong chương trình văn nghệ Tết hằng năm là một thiếu sót, Cô vừa cung cấp màn vũ hấp dẫn vừa là mạnh thường quân ũng hộ tài chính. Tân Xuân Hội Ngộ vắng Cô là mất vui. Làm việc rất ít nói là các vị Hùynh kim Tiến, Lâm Vĩnh Hiếu, Hà Phi Hùng, Ngô Thiết Hùng, Kiều Trường, Tăng Đông Sanh, Hà Kim Danh… Hội cần gì hỏi đến là OK ngay. Còn nhiều và nhiều, kể hoài không hết, tới đây tạm dừng “bước giang hồ”vậy, “túm” lại là vừa.

III. Kết Tha hương nơi đất khách quê người, tụ

họp để hàn huyên, nhắc nhở các thế hệ con cháu biết nguồn cội quê hương Trà Vinh... đó là mục tiêu sinh họat của Hội. Có vậy thôi. Chào quý vị, Chúc tất cả Đồng Hương những ngày Hè vui vẻ.

Văn Tường

“Phượng nở khởi màu vươn nắng Hạ Hè về buồn bã khóc chia ly”

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 97

PHƯỢNG NHỚ

Phượng nở hai màu khoe sắc hương Mùa hè nghiêng bóng trước sân trường Tuổi nhỏ một thời vương nỗi nhớ Hai màu hồng, tím một trời thương Mỗi cánh phượng hồng trang thơ ép Từng dòng thơ nhớ gởi trao thương Lưu bút ngày xanh dòng mực tím Gởi nhớ, gởi thương tuổi học đường Ngắt cành phượng tím trao em đó Hảy nhớ tình nhau vạn nẻo đường Lớn lên mỗi đứa đi mỗi ngã Thời gian trôi vuột những yêu thương Kỷ vật qua bao cơn biến loạn Mất rồi những dòng chử thân thương Hoa phượng mùa hè, hoa vẫn nở Hồng, tím còn đây trước sân trường Người xưa biền biệt ...người xưa đứng Buồn nhìn mái ngói đã rêu phong Em của thời xưa giờ tóc trắng Ta của thời xưa tóc điễm sương Phượng ơi! màu nhớ lòng lưu luyến Ta hát bài ca "Phượng nhớ" buồn Thiếu phụ bên đường dừng chân lại Có phải người xưa cũng đoạn trường?

Huỳnh Tâm Hoài

Danh Sách Giải Khuyến Học TRÀ VINH Văn phòng nhận được tính đến ngày 1/7/2011

Hằng năm, trong buổi sinh họat ngoài trời, Hội thường khen thưởng một số thiếu nhi thuộc gia đình của HỘI VIÊN Hội Ái Hữu Trà Vinh học giỏi ở trường Mỹ bậc Trung Học hay có bằng khen học Việt Ngữ ở trường Việt. Phần thưởng có tình cách tượng trưng, không đáng là bao, nhưng giá trị tinh thần thì rất quý. Tên tuổi các em được lưu vào Bản Tin Hè, vào Đạc San Xuân. Đặc San Xuân của Hội được lưu truyền ở các tủ sách thuộc gia đình Người Trà Vinh và các thư viện có người Việt Nam sinh sống trên thế giới. Điều nầy cũng rất đáng hãnh diện, tuy nhiên, giá trị thiết thực là Hội quan tâm đến những nhân tài tương lai của xứ sở Trà Vinh. Công việc nầy , chúng tôi cố gắng duy trì, để thấy rằng , hằng năm tên các Cháu vẫn còn trong danh sách và lại có thêm tên những em mới nữa...

Sau đây là danh sach THIẾU NHI TRÀ VINH xuất sắc trong niên học 2010-2011 ở trường Mỹ và trường Việt Ngữ.

1. Henry Phạm, cháu nội đồng hương hội viên Phạm Văn Thận Anheim CA

2. Kevin Phạm, cháu nội đồng hương hội viên Phạm Văn Thận Anheim CA

3. Christina Đỗ, cháu ngoại đồng hương hội viên Phạm Văn Thận Anheim CA

4. Danny Nguyễn, lớp 6Th Cháu nội Ông Cố Vấn Nguyễn Ánh Nhựt CA

5. Darren Nguyễn, lớp 1St Cháu nội Ông Cố Vấn Nguyễn Ánh Nhựt

6. Weston Ngô Dương, con Anh Chị Dương Việt Văn (phụ trách trang Web TV)

7. Jennifer Nguyễn, Cháu ngoại hội viên Dương Vĩnh Trường

8. Nhi Nguyễn, cháu nội của hội viên Lý Hồng Hoa Westminster

9. Katie Vũ, cháu ngoại của Anh Chị Phó TTK Nguyễn Văn Nhựt

10. Regina Tăng, con của đồng hương hội viên Tăng Soul

11. Justin Đỗ, Cháu ngoại Anh Chị Phó Hội Trưởng Nguyễn Văn Thành

12. Johnny Đỗ, Cháu ngoại Anh Chị Phó Hội Trưởng Nguyễn Văn Thành

13. Nguyễn Phạm Tâm Anh, Cháu nội Anh Chị Hội Phó Nguyễn văn Thành

14. Leyna Vương, Trường Mỹ + Trường Việt; Cháu Ngoại Nguyễn Phước Thạnh

15. Steven Vương, Trường Mỹ + trường Việt; Cháu ngoại Nguyễn Phước Thạnh

16. Mạch Kim Trang Carmie, cháu nội hội viên Đỗ Thị Hà (bà Mạch Phước Tòan)

17. Mạch Thiên Ân Janie, cháu nội hội viên Đỗ Thị Hà (bà Mạch Phước Tòan)

18. Ivy M. Hồng, cháu ngoại hội viên Đỗ Thị Hà (bà Mạch Phước Tòan)

19. Chelsea Hồng, cháu ngoại hội viên Đỗ Thị Hà (bà Mạch Phước Tòan)

20. Lê Phương Hồng Lan, cháu ngoại Bà Bùi Hải Đường (Ban Chấp Hành)

21. Lê Phương Anh Tuấn, cháu ngoại Bà Bùi Hải Đường (Ban Chấp Hành)

22. Nguyễn Quốc Vinh, cháu nội Bà Bùi Hải Đường( Ban Chấp hành)

23. Nguyễn Quyên Phương, con ông bà Nguyễn Đức Phong, cháu của anh chị Vanessa Trương Lực Fountain Valley. California

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 98

24. Sarah Ngô Trang, trường Việt Ngữ,cháu ngoại anh chị thủ quỷ Võ Văn Diệu

25. Kevin Ngô Minh Trí, cháu ngoại anh chị thủ quỷ Võ Văn Diệu.

26. Emily Ngô Trúc, cháu ngoại anh chị thủ quỷ Võ Văn Diệu

27. Nguyễn Thu Anh, con ông bà Nguyễn văn Đông, cháu của anh chị Trương Bạc Xuỗl

28. Alton Phạm, Krista Phạm; Cháu ngoại Ông Văn Tường

29. Christine Kim 30. Christine Hai cháu Henry và Christine là con

của Paul Kim Hữu Phương, Nguyễn Thị Ánh, Richardson, Texas.

31. Kevin Đòan, lớp 10Th , con ông bà Đòan Lý Đáng, Marietta Georgia.

32. Nathalie Thach, cháu nội anh chị hội phó Thạch Bông,

33. Thúy Vi Thạch cháu nội anh chị hội phó Thạch Bông, Anaheim,CA

34. Linh Thạch , cháu nội anh chị hội phó Thạch Bông, Anaheim,CA

35. Tytan Lê Nguyễn, con hội viên Lê Tany và Trang San Diego

36. Nguyễn Hữu Nghĩa, con gia đình Trần Thị Thu, cháu ngọai của anh chị Trần Hữu Quang,

DANH SÁCH Đồng Hương MạnhThườngQuân ủng hộ cho khuyến học:

Hội đã nhận được: 1. Nguyễn Văn A VA cash 50$ : Niên liễm 20 và

ũng hộ khuyến học 30$ 2. Tràn Mính Canada cash 40$ : Niên liễm 20

và ủng hộ khuyến học 20$ 3. Ông Nguyễn Ánh Nhựt CA ủng hộ khuyến học

20$ 4. Ông Văn Tường (hội trưởng) có lời nhắn “để

duy trì giải nầy, hằng năm góp 50$

Tổng cộng là 120$. Của ít lòng nhiều, bà con nào có lòng ưu ái công việc nầy, xin đến gởi ngay cho Anh trưởng ban tổ chức Picnic Hè BTC rất hoan nghinh và hoan hỉ.

Ban Tổ Chức Hè Trà Vinh 2011

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 99

THÀNH-NGUYỄN

NGƯỜI Á-RẬP Chuyện cổ cuả xứ Á-Rập kể rằng: Có một người Á-Rập phải băng qua một vùng sa mạc mênh mông để về kinh-đô. Trên đường đi Ông bị hết nước và sắp chết khát trên sa mạc. May mắn sao, đang khi nguy ngập, Ông tìm ra được một giếng nước như là một phép lạ. Sau khi uống thật no nê, Ông múc đầy túi da và tiếp tục lên đường.

Đến nơi, Ông ta xin vào bệ-kiến đức vua và trân-trọng dâng lên Ngài bầu nước đã lấy được trên sa mạc. Vì theo Ông, đây là NƯỚC CUẢ PHÉP LẠ mà thượng-đế ban cho để cứu Ông khỏi chết.

Nhà vua cảm kích tấm lòng sùng mộ cuả Ông nên tiếp nhận bầu nước và nâng lên uống một cách thoải mái, cũng không quên ban thưởng cho Ông lảo thật hậu hỉ.

Chờ cho Ông lảo đi rồi, quần thần có người mới nói: “Tâu đức vua, nước để trong bầu da nhiều ngày ắt đã trở nên hôi thối, sao Ngài lại uống mà không tỏ ra chút khó chịu nào cả…?”

Đức vua trả lời :”Ngươi nói rất đúng, nước đã không còn bình thường nửa, nhưng nếu Ta từ chối hoặc tỏ ra khó chiụ khi uống thì chẳng hoá ra phụ lòng Ông ấy biết bao ! Vì sẽ làm cho Ông ấy phải ngượng ngùng…”

Chuyện kết luận rằng : Nếu mọi người đều đối xử với nhau bằng một chút lòng TỬ-TẾ như vậy thì cuộc đời này sẽ đẹp biết bao !

Người Á-Rập đi qua sa mạc (minh hoạ)

* * *

KINH-TẾ 3 Có một người kể cho tôi nghe chuyện thật

cuả Anh: Miền Nam VN, sau khi Cộng-Sản vào ‘giải-phóng’ thì toàn dân bị làm một cuộc ĐỔI ĐỜI VÔ CÙNG BI-THẢM ! Chuyện này thì ai ai cuả miền Nam cũng đều biết nên không cần phải nhắc lại.

Bản thân anh ta, sau khi đi tù cải-tạo về, cũng như rất nhiều người thuộc Quân, Công, Cán, Chính…chế độ VNCH, rơi vào cảnh nghèo khổ. Anh phải rời gia-đình đi kiếm cách mưu-sinh. Anh cùng một người bạn thân sắm một chiếc ghe chở mọi thứ hàng hoá đi buôn bán thương-hồ. Một lần anh chở than đước từ vùng Năm-Căn, Cà-Mau, trên đường đi về ‘vùng trên’ để bán thì bị KINH-TẾ 3 bắt.

Xin mở một chút ngoặc về KINH-TẾ 3, vì có thể các Bạn Trẽ, nhất là những em cháu sinh ra ở hải-ngoại, hẳn là không biết chuyện này. Thời Cọng-sản (CS) mới vào ‘giải-phóng’ miền Nam, họ chia sinh-hoạt kinh-tế ra ba thành-phần: (1) Kinh-tế Quốc-doanh, (2) Kinh-tế hợp-tác-xả, tổ-hợp và (3) Kinh-tế thị-trường ( tư-nhân), người dân nói ngắn gọn là Kinh-tế 3 !

Thành-phần KINH-TẾ 3 này, theo CSVN lúc ấy, là xấu xa, bị nghiêm cấm. Tất cả mọi sự giao thương cuả TƯ-NHÂN đều là bất-hợp-pháp, hàng hoá bị tịch-thu, người liên can bị bắt…Biết bao cảnh ‘cười đau khóc hận’… trong giai-đọan kinh-hoàng này. Đó là thời kỳ mà ở Miền Nam NHÀ TÙ NHIỀU HƠN TRƯỜNG HỌC,TÀI-SẢN BỊ TỊCH THU (GỌI LÀ ĐÁNH TƯ-SẢN…RẤT NHIỀU NGƯỜI ĐÃ TỰ TỬ), KẺ NẰM TÙ CẢI-TẠO, NGƯỜI VẤT VƯỞNG NƠI VÙNG KINH-TẾ-MỚI, KẺ BỎ MÌNH TRÊN RỪNG SÂU BIỂN CẢ LÚC VƯỢT BIÊN TRỐN CHẠY CHẾ-ĐỘ CSVN… Những ai ‘trong cuộc’ ở Miền Nam thời gian đó, khi nhắc lại hẳn không khỏi còn cảm thấy rợn người ! ). Trở lại với câu chuyện cuả anh Bạn tôi, ghe cuả anh, chở than đước, bị bắt cùng với rất nhiều ghe khác, mổi chiếc có những loại hàng hoá khác nhau, bị bắt ở nhiều điểm khác nhau và bi gom về tại một điểm gọi là Trạm-kiểm-soát Kinh-Tế 3 .

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 100

Chiều hôm ấy trời mưa tầm tả, người trên các ghe bị bắt đều ướt như chuột lội…nhìn nhau bơ phờ, ngơ ngác, thểu nảo… không chỉ vì mưa gió mà còn vì nghĩ đến một chuyến hàng mất trắng, bị phạt vạ, bị giam cầm…gia-đình càng thêm xơ xác…!

Ghe thuyền bị kinh-tế 3 bắt

Anh Bạn tôi đang ngồi ủ rủ trong tâm trạng nảo nề như thế thì có một Ông Cụ đến hỏi chuyện, Ông nói :”Các em cháu ở dưới ghe này CÓ CƠM ĂN CHƯA ? Nếu chưa ăn để tôi bảo sắp nhỏ nó nấu cơm đem xuống…, nhà tôi ở đàng kia kià…”. Cái cách nói Miền Nam chân quê mộc mạc mà nghe sao thấm đậm tình-người. Anh Bạn tôi trả lời là đã có nấu cơm, xin khỏi làm phiền Cụ.

Dù không phải nhận bưả cơm cuả Ông Cụ trao ban, song TẤM LÒNG TỬ TẾ đó khiến anh xúc động va nhớ mải hình ảnh nhân-hậu cuả Ông.

Nếu mọi người đều đối xử với nhau bằng môt chút LÒNG TỬ-TẾ như vậy thì cuộc đời này sẽ đẹp biết bao !

* * * ÔNG MỤC-SƯ

Câu chuyện cuả một người Bạn khác: Gia-đình anh này đến Mỷ tái-định-cư theo diện H.O.” Tâm-trạng cuả người từ địa-ngục bổng chốc được vớt lên thiên-đàng thì…khó tả lắm”. Anh nói đơn giản, nhưng tôi hoàn-toàn đồng-cảm, vì…tôi cũng là dân H.O !

Nói địa-ngục VN SAU 1975, không phải vì tôi phải sống nghèo khổ, vì quê-hương tôi nghèo khổ, mà chính vì sự bức bách, vì sự phân-biệt đối xử cuả CHẾ-ĐỘ CỌNG-SẢN đối với thành phần mà họ vẩn luôn luôn xem là KẺ THÙ ! Cho nên, được vượt thoát khỏi chế-độ đó, đến bất cứ nơi nào có tự-do, cũng là…thiên-đàng !

Gia-đình anh Bạn tôi được cơ-quan IOM đưa đến Nam Cali. trong một ngày nắng đẹp cùng với hơn mười gia-đình khác. Tất cả được dành cho một khu trong nhà chờ đợi cuả phi-trường John

Wayne để chờ Hội bảo-trợ hoặc thân-nhân đã định cư trước làm bảo-trợ, đến rước về nơi tạm ngụ.

Lần lượt nhiều gia-đình đã được thân nhân hay hội bảo-trợ đem xe đến chở đi…sau cùng chỉ còn lại hai gia-đình, trong đó có gia-đình cuà Bạn tôi. Gia-đình Anh được một người ‘em họ’ đã thoát được trong những ngày 30/4/1975, đang định cư ở vùng nầy, đứng ra bảo-trợ.

Thời gian lúc ấy trôi qua thật nặng nề, anh nói: Lạ cảnh, lạ người…chân ướt chân ráo…Nếu thằng Em nó không tới được, thì sao đây ?... Đầu óc anh như cứng lại, không dám nghĩ rằng cái điều tệ hại đó có thể xảy ra !

Và rồi,gia-đình kia cũng vưà có người đến nhận, đó là vị MỤC-SƯ cuả một Hội-thánh Tin-Lành. Trong khi những người trong gia-đình đó mừng rở reo vui, thì gia-đình cuả Anh Bạn tôi… càng thêm thẩn-thờ, bối rối.

Nhưng, trước khi ra đi cùng với cả gia-đình mà Hôị-Thánh cuả Ông đứng ra bảo-trơ, Ông Mục-Sư tiến đến bên anh Bạn tôi, vì biết đó là gia-đình sau chót còn lại, hỏi qua về người bảo-trợ, rồi Ông trao cho Bạn tôi miếng thẻ cá-nhân và nói: “Nếu đến chiều tối mà người em cuả Ông không đến, Ông nhờ người đại-diện IOM gọi cho tôi, tôi sẽ đến gíup gia-đình Ông…”. Được lời như cởi tấm lòng, đúng như ngày xưa Cụ Nguyển-Du đã nói ! Anh Bạn tôi như người sắp chết đuối mà vớ được cái phao !

Sau cùng thì người em họ cũng đến, anh Bạn tôi không phải nhờ đến sự giúp đở cuả Ông Mục-sư, nhưng Anh vẩn nhớ hoài nghiả cử đó.

Nếu mọi người đối xử với nhau bằng một chút LÒNG TỬ TẾ như vậy, thì cuộc đời này sẽ đẹp biết bao !

* * * ÔNG BÀ TRẦN-XIỀU

Bây giờ là chuyện cuả… chính tôi ! Ngày tôi ra khỏi tù-cải-tạo cuả CSVN, trở lại quê nhà với hình dáng cuả một con người… thất cơ, lở vận, tương lai vô-định!...; lại mang mầm bệnh dử trong người ! Tôi đang bị ‘chai gan’, giai-đoạn đầu của ung-thư-gan ! Hậu quả cuả chuổi ngày tù đói khát đến độ phải ăn lá ăn rau, ăn bất cứ con gì “nhúc nhích”, như có người đã nói đuà, miển là được SỐNG !

Hửu bệnh thì vái tứ phương ! Để cứu lấy mạng sống, tôi ‘quơ quào’ đủ loại thuốc Tây, Tàu, Nam, Bắc…cho cái bệnh… chai gan này !

Một hôm tôi ghé thăm Anh PHẨM, bạn đồng hương mà cũng là bạn tù- cải-tạo, và tiện dịp

Đặc San Trà Vinh 2012 - Nhâm Thìn 101

chào thăm Ông bà TRẦN-XIỀU là Ông Bà Nhạc cuả anh Phẩm.

Khi biết tôi đang mang bệnh CHAI GAN, Ông Bà Trần-Xiều đã tặng cho tôi một vỉ thuốc tri bệnh gan chính hiệu cuả Pháp ! Rất tiếc thời gian đã quá lâu, tôi không nhớ được tên cuả vỉ thuốc ấy.

Tất nhiên là một vỉ thuốc thì không đũ để đẩy lùi căn bệnh quái ác kia. Điều đáng nói ở đây là cái tình người đã thể-hiện trong đó ! Bởi vì, ai đã sống ở miền Nam ngay sau thời kỳ đầu CSVN chiếm đoạt, 1975-1985, đều biết rằng, cho dù vẩn còn cất dấu được nhiều vàng bạc, song vẩn có thể không mưa được thuốc tốt để cưú mạng minh khi cần thiết ! Cho nên việc Ông Bà Trần-Xiều trao cho tôi một vỉ THUỐC TÂY CHÁNH HIỆU khi ấy phải nói là một nghiả-cử đáng trân-trọng ! Bởi vì, trong cái thời kỳ vô cùng khó khăn nghiệt ngã đó, ‘thủ-thân’ là chuyện mà ai cũng phải nghĩ đến. Cụ Nguyễn Trải đã dạy trong tập Gia Huấn Ca rằng: “Cuả tuy tơ tóc, nghiả so nghìn trùng”.

Nếu mọi người đều đối xử với nhau bằng một chút LÒNG TỬ TẾ như vậy thì cuộc đời này sẽ đẹp biết bao !

Cụ bà TRẦN-XIỀU, nhủ-danh DƯ-THỊ-HIẾU vưà ta-thế ngày 23 tháng 9, 2011 tại thành-phố Santa Ana, Nam California, thọ 89 tuổi.. Tôi xin dâng vài dòng tưởng-niệm này như một nén hương nguyện cầu ĐỨC PHẬT đưa hương-linh CỤ về miền lạc cảnh !

* * * Bạn,

Cụ Nguyễn Bá Học nói “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Làm một ĐIỀU TỬ TẾ cũng không khó, vì nó không đến nổi phải ‘đội đá vá trời’ hay là ‘dời non lấp biển’.

Điều tử-tế có khi chỉ là một hành xử tế-nhị, như Ông vua Á-rập trên kia. Có khi chỉ là một bưả cơm cho người hoạn nạn, như Ông cụ ở gần trạm kiểm-soát Kinh-Tế 3. Một lời hứa giúp đở người đang âu lo, bối rối, như Ông Mục-Sư đã làm. Hay chỉ là một vỉ thuốc tốt trao ra trong thời kỳ vô cùng khắc nghiệt mà ai cũng cần phải…thủ thân !

Nhưng muốn làm được ĐIỀU TỬ TẾ thì tiên quyết là ta phải CÓ LÒNG TỬ TẾ. Bởi vì, người ta không thể trao ra cái gì mà tự-thân người ta đã… không có !

Nó cũng tương tự như có người vì không ưa chế-độ CSVN nên đã dè bĩu rằng người CSVN đã “đánh mất tính liêm-sĩ” ! Nói thế thì khi cũng

oan cho họ, bởi vì kể từ khi lập Đảng cho đến bây giờ, họ có làm hay nói điều gì chứng tỏ họ có liêm-sĩ đâu mà… đánh mất !

TH ÀNH-NGUYỄN

* * *

VUI XUÂN TRÀ VINH

Xuân năm nay trở về thăm quê Mẹ Bao nhiêu năm lăn lóc nơi xứ người

Xuân xa quê chẳng tìm thấy niềm vui Thăm lại Trà Vinh hưởng mùa Xuân mới

Vui Xuân Trà Vinh nghe lòng phơi phới Nhìn lại con đường đưa lối em đi Thời xuân xanh của cô gái dậy thì

Lòng chớm yêu tình đơn phương mười sáu

Xuân thời nay không còn nghe tiếng pháo Những con đường rực rở những cành mai

Mua sắm vui xuân suốt cã đêm ngày Chợ Tết đông tấp nập người qua lại

Về Trà Vinh vui Xuân lòng rộn rã Nhộn nhịp phố phường hối hả bước chân

Phố đông người những kẻ sống xa gần Về quê củ vui xuân cùng đón tết

Da Lan

TRÀ VINH NGÀY NÀO

Trà Vinh đường hàng me xanh bóng mát Vẫn còn nguyên hay đã đổi thay nhiều

Bạn bè xưa giờ còn được bao nhiêu Hay tất cả bể dâu đời biến đổi

Mấy mươi năm chúng mình đời hai lối Anh còn nhớ cô bé buổi tan trường Tà áo dài gió lộng nắng chiều buông Vào quán kem bên góc đường Lê lợi

Nhớ quán kem tan trường em lui tới Lời chưa trao tim như đã gọi mời

Dáng anh gầy da trắng mái tóc oăn Nói gì đây người tình em chờ đợi

Em vẫn nhớ ...nhớ về nơi chốn đó Nhớ nụ cười nhớ dáng anh đi qua

Nhớ thật nhiều, Trà Vinh nay đã xa Nhớ chiều mưa cầu Long Bình êm ả

Dạ lan