Upload
ctthuy
View
16
Download
0
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Chăm sóc sức khỏe
Citation preview
VAI TRÒ CỦA VITAMIN VÀ KHOÁNG CHẤT VỚI CƠ THỂ QUA BÀI NÓI
CHUYỆN CỦA TIẾN SỸ WALLACH.
Giới thiệu về Tiến sĩ Wallach - Người được đề cử nhận giải Nôbel vào năm 1991,
hiện giờ rất nổi tiếng tại Mỹ với hơn 75 bài báo và công trình khoa học, xuất bản 8
quyển sách về dinh dưỡng học và y khoa, đồng thời ông cũng đã thực hiên hơn
17.000 ca phẫu thuật.
-------------------------------------------
Kính chào quý bạn! Hôm nay tôi rất hân hạnh được gặp gỡ cùng quý bạn!
Tôi lớn lên trong một trang trại thuộc Miền Tây Công quốc Saint - Louis. Vào thập
niên 50, gia đình chúng tôi bắt đầu sự nghiệp từ nghề nuôi bò thịt. Nếu các bạn đã
từng quen biết với nghề chăn nuôi gia súc, chắc các bạn đều biết rằng, con đường
duy nhất để tìm được tiền trong ngành nông nghiệp, là phải tự mình trồng trọt lấy
thức ăn để tự nuôi chúng. Chúng tôi nghiền thức ăn bằng cối xay, rồi cho vào đó
nhiều vitamine và khoáng chất. Cách thức chuẩn bị thức ăn của chúng tôi cho bò
như vậy đấy. Sáu tháng sau, có thể mang chúng ra chợ bán. Trước đó, chúng tôi
tiến hành chọn lọc, dành những con bò tốt nhất để lại cho mình. Nhờ vậy, các bạn
hãy hình dung xem cái gì đã xảy ra? Bữa ăn của chúng tôi không hề bổ sung thêm
một loại vitamine hay khoáng chất nào vào khẩu phần cả, mà gia đình tôi vẫn sống
mạnh khỏe. Tất cả đều trẻ trung, ai cũng cảm thấy mình có thể sống được đến trăm
tuổi. Bản thân tôi lúc đó rất ngạc nhiên khi so sánh với khẩu phần ăn có vitamine
và khoáng chất của bò. Một hôm, tôi hỏi cha tôi: “ Cha à! Vì sao cha không cho
thêm vitamine và khoáng chất vào khẩu phần ăn của chúng ta như đối với những
con bò vậy?”.
“ Hãy im lặng, con nghe đây. Có gì đâu, nếu hàng ngày con đều ăn những thức ăn
tươi và uống sữa trong trang trại chúng ta, thì việc bổ sung chúng là không cần
thiết. Cha tin con hiểu được điều đó!”.
Đương nhiên, tôi không muốn quấy rầy ông thêm. Và từ đó về sau, tôi cũng không
bỏ một bữa ăn trưa, ăn tối nào nữa.
Sau đó, tôi vào học ở trường Đại học Nông nghiệp. Tội nghiệp, tôi trở thành
chuyên gia chăn nuôi, trồng trọt và thổ nhưỡng. Thời gian sau, tôi đi Châu Phi
trong 2 năm. Ở đây, tôi có dịp thực hiện những ước mơ thời trẻ của mình. Tôi được
làm việc với Maur Parkinson. Có lẽ nhiều người trong các bạn còn nhớ đến ông
qua các sách viết của ông - đó là một nhà khoa học vĩ đại!
Qua hai năm làm việc ở đấy, tôi nhận được điện mời về làm việc tại sở thú Saint -
Louis. Việc chăm sóc sức khỏe quốc gia trích cho sở thú một số tiền vay 78 triệu
đô la, và họ cần có bác sỹ thú y để chuyên giải phẫu cho những con vật bị chết tự
nhiên. Tôi đồng ý chuyển sang đó công tác. Tất nhiên, nhiệm vụ của tôi không chỉ
làm việc riêng chi sở thú này, mà còn làm choàng cho các sở thú khác nữa, như sở
thú: Brookword, Chicago, Newyork… Nhiệm vụ của tôi không chỉ giải phẫu
những con vật chết tự nhiên mà còn tìm hiểu, nghiên cứu các đặc điểm về sự ảnh
hưởng của môi trường ô nhiễm ảnh hưởng đến chúng. Vì vào những năm đầu thập
niên 60, hầu như người ta không để ý gì về vấn đề sinh thái và những thảm họa do
chúng gây ra. Thế là, tôi tuần tự tiến hành 17.000 ca phẫu thuật trên con người và
động vật chết tự nhiên nhằm nghiên cứu các nguyên nhân. Qua thời gian làm việc
đó, tôi đi đến kết luận như sau: “Cái chết của con người và động vật nói trên là do
nguyên nhân thiếu dinh dưỡng (Déficit NutritifD)!”.
Các kết quả phân tích hóa, sinh học với những số liệu chính xác cũng đã chứng
minh rằng cái chết tự nhiên xảy đến là do dinh dưỡng không đúng cách. Do vậy,
không có gì là ngạc nhiên khi tôi đưa các bạn trở lại câu chuyện về những con bò.
Tôi đã viết 75 bài báo và công trình khoa học, hợp tác với một số tác giả để viết 8
quyển sách giáo khoa và một quyển do tôi tự soạn lấy. Người ta bán quyển sách
của tôi cho các sinh viên trường Y với giá 140 USD. Tôi đã viết trong 1700 tờ báo
và tạp chí, đồng thời phát biểu cả trên vô tuyến truyền hình.
Nhưng khổ nỗi, vào thập niên 60, các công trình khoa học về dinh dưỡng ít được
công chúng lưu ý tới. Không biết phải làm gì bây giờ, tôi đành phải đi học lại. Và
sau đó trở thành bác sĩ y khoa. Nhờ vậy, tôi có dịp vận dụng tất cả những điều hiểu
biết về dinh dưỡng mà tôi có được từ hồi còn học ở trường thú y. Cho nên, không
có gì lạ vì sao tôi nghiên cứu thành công đề tài này.
Tôi sống 15 năm ở Tormoond, bang Arigon, làm công việc bình thường của một
thầy thuốc lầm sàng. Và hôm nay, tôi muốn chia sẻ cùng các bạn những điều hiểu
biết, những kết luận thu được trong vòng 10 đến 12 năm đó. Nếu từ đây các bạn rút
ra chỉ 10% những điều tôi nói, các bạn sẽ tránh cho mình được rất nhiều bất hạnh,
khổ đau, tốn kém tiền bạc và có thể kéo dài cuộc sống của mình trong nhiều năm.
Sở dĩ người ta không sống được lâu theo tiềm năng sẵn có của họ là vì bản thân họ
thiếu những cố gắng cần thiết đấy thôi!
Bây giờ tôi xin phép nói với các bạn vấn đề chính:
“ Tiềm năng di truyền của đời sống con người là từ 120 đến 140 tuổi!”.
Hiện nay, người ta mới chỉ tính được 5 dân tộc, mà những người tiêu biểu của họ
sống được đến 120-140 tuổi tại phương Đông, Tây Tạng và miền Tây Trung Hoa.
Những người này do Jeams Hilton ghi nhận vào năm 1964, khi ông viết quyển “
Viễn cảnh bị che khuất”. Theo quyển sách này, người sống lâu nhất là lương y Lý,
người Trung Hoa, sinh ra ở Tây Tạng. Khi được tròn 150 tuổi, ông nhận được bằng
danh dự của triều đình Trung Quốc. Người ta đã xác nhận ông sống được 150 tuổi
và sinh năm 1667. Lúc ông tròn 200 tuổi lại nhận được bằng thứ hai. Theo các tư
liệu xác minh, ông đã sống đến 256 tuổi. Vào năm 1993, người ta đăng tải tin ông
mất trên tờ Yorktime, Londontimes. Trong các số báo này, người ta cũng xác nhận
các số liệu nói trên. Có thể, ông chỉ sống đến 200 tuổi chứ không phải 256 tuổi như
các báo đưa tin.
Tại Armenia, Apkhadia, Adecbaidan có những người sống từ 120 đến 140 tuổi.
Năm 1973, tạp chí National Geographie số ra tháng giêng, đã đăng bài đặc biệt nói
về những người sống đên trăm tuổi và cao hơn nữa. Tờ tạp chí này đã cung cấp
những tư liệu có minh họa một cách rõ ràng. Tôi còn nhớ được 3 trong rất nhiều
tấm ảnh đó. Tấm thứ nhất chụp một bà cụ sống đến 136 tuổi đang ngồi trên một
chiếc ghế bành, hút xì gà Cuba, uống rượu Vodka và tham gia vào buổi liên hoan
tối của gia đình. Bà rất vui vẻ, không phải nằm trong nhà dưỡng lão. Ở đấy phải trả
đến 2000 USD cho mỗi người gìa. Bà cụ đã sống cho đến 136 tuổi mới qua đời.
Trong ảnh thứ hai có một cặp vợ chồng làm lễ kỷ niệm 100 và 115 ngày kết hôn
của họ.
Ảnh thứ 3, một người đàn ông đang hái chè trên dãy núi Armenia, đang nghe một
máy thu thanh nỏ. Theo con ông nói lại thì, tính theo ngày sinh ông đã được 167
tuổi, Đó là người lớn tuổi nhất thế giới lúc bấy giờ.
Tại Tây bán cầu, cũng có người Indian Volcoband, những người Equador, sống
trên dãy núi Andes, thuộc Tây Nam Pêru, cũng như bộ lạc người Titi - Caca và
Machu - Picchu nổi tiếng sống lâu . Những người tiêu biểu của họ sống trên 120
tuổi.
Bà Margaret Pich, người Mỹ thuộc bang Virginia, là người đàn bà Mỹ già nhất
được ghi vào sách kỷ lục Guiness. Bà mất lúc 115 tuổi do bệnh suy dinh dưỡng.
Chính xác hơn bà chết sau những diễn biến phức tạp của lần bị ngã gục. Thật ra, vì
chứng loãng xương do thiếu calci trong cơ thể, chứ hoàn toàn không mắc phải các
chứng tim mạch, ung thư hay đái đường gì cả. Bà chết sau khi bị ngã 3 tuần lễ.
Điều thú vị là chính con gái bà nói rằng bà thiếu calci. Trước khi chết, bà Margaret
rất thèm ăn đường. Rõ ràng đó là hiện tượng đau Khớp Nối (tiếng Nga là Paikat,
tiếng Pháp là Soudure). Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này sau.
Thông thường, khi chúng ta rất thèm chocolate hoặc thèm ngọt thì đó chính là ta đã
thiếu Cr và Vanadium ( V ) trong cơ thể.
Ở Nigeria tù trưởng bộ lạc Baue chết vào tuổi 126. Tại tang lễ, một trong các bà vợ
của ông cho biết rằng, lúc ông ta chết, răng vẫn còn đủ cả. Điều đó chứng tỏ các cơ
quan khác của ông hoạt động rất tốt.
Một người đàn ông tại Syrie chết vào tháng 7/1993 thọ 133 tuổi. Nhiều người cũng
sống được đến tuổi đó, và cũng không phải vì ông ấy lấy vợ lần thứ tư vào lúc ông
80 tuổi, mà vì từ lúc cưới vợ lần này, ông có được 9 người con. Nếu ta nhẩm tính,
cứ 1 năm 9 tháng có một người con ra đời. Muốn có được 9 đứa con phải cần 20
năm sau người con út mới ra đời. Tức là lúc đó ông đang ở độ tuổi 100. Nhờ vậy
mà ông mới được đưa vào sách kỷ lục Guiness.
Vậy là, chúng ta có quyền lạc quan lắm chứ phải không các bạn?
Còn bây giờ tôi xin nói về mặt khoa học. Tháng 1/1993 tại Arizone có tiến hành
một thí nghiệm rất thú vị.
Người ta cho ba cặp thanh niên nam nữ cách ly hoàn toàn với xã hội trong vòng 3
năm. Ở đây, họ tự trồng trọt, chăn nuôi và ăn những thức ăn sạch, có lợi cho sức
khỏe, thở không khí trong lành và uống nước không bị ô nhiễm. Sau khi rời khỏi
đây, họ được các thầy thuốc khoa lão hóa của viện Khoa học California thuộc bang
LosAngeles khám nghiệm và nghiên cứu. Tất cả mọi số liệu phân tích về máu, các
thông số quan trọng về hoạt động của cơ thể đều được đưa vào máy vi tính để phân
tích. Dự báo của máy vi tính như sau: Nếu họ cứ tiếp tục sinh hoạt trong điều kiện
như vậy họ sẽ sống được đến 120 đến 140 tuổi là hoàn toàn có khả năng.
Tuổi thọ trung bình của nhân dân Mỹ theo thống kê là 75,5 % những trớ trêu thay,
tuổi thọ trung bình của các vị y sư, bác sĩ chỉ có 58!
Vậy, nếu Bạn muốn tham gia vào cuộc sống trên 20 năm nữa, thì tôi khuyên các
bạn chớ nên thi vào ngành Y (Tiếng cười T).
Có hai vấn đề cơ bản mà chúng ta cần làm để được xếp vàp hàng ngũ những người
có tuổi thọ cao. Nếu các bạn muốn sống từ 100 đến 140 tuổi, thì chớ quên những
điều quan trọng nhất là:
Trước hết, cần phải tránh xa những nơi nguy hiểm. Chớ phiêu lưu đi lên các bãi
mìn. Hãy tránh xa những nơi vớ vẩn và vô nguyên tắc đối với những nguy hiểm.
Đương nhiên, nếu bạn chơi trò Roulette của Nga, hút thuốc, uống rượu, chạy bộ
long nhong giữa xa lộ, đường cao tốc vào giờ cao điểm, thì cách gì bạn sống nổi
đến 120 tuổi!. Điều đó nói ra có vẻ kỳ cục thật. Nhưng thực tế vẫn xảy ra. Hàng
ngàn người vẫn chết vì những chuyện ngớ ngẩn như vậy đấy! Và tôi mong rằng
các bạn nên nghĩ kỹ về điều này. Nói cách khác, nếu các bạn có thể phòng ngừa,
đặc biệt không cần phải trị bệnh, các bạn nên tận dụng khả năng sau đây:
Bổ sung vào thức ăn 90 chất, trong đó: 60 khoáng chất, 16 vitamine, acide amine
đạm và 3 acide amine béo. Nếu không làm như vậy, bạn sẽ bị các chứng bệnh có
liên quan đến thiếu dinh dưỡng tấn công ngay! Hiện nay, người ta thường viết về
các vấn đề này trên báo chí, phát biểu trên vô tuyến truyền hình và đài phát thanh.
Công chúng hiểu được nó, vì nói chung người ta đang lo lắng cho sức khỏe, cho
tuổi thọ và quan tâm đến chất bổ sung vào thức ăn hàng ngày. Các thầy thuốc cũng
thường đề cập với các bạn về đề tài ấy. Nhưng không phải vì nghề nghiệp của họ
bắt buộc họ phải làm như vậy. Và họ cũng không năn nỉ báo chí, đài truyền hình
làm điều đó, mà vì loại thông tin này hiện đang rất ăn khách, làm cho các báo bán
chạy hơn nên họ đua nhau đăng.
Bài báo tâm đắc nhất của tôi đã đăng trong tạp chí Times ngày 6/4/1992. Nếu các
bạn chưa đọc, tôi thành thật khuyên các bạn tìm nó ở bất cứ trường học nào, hoặc
các thư viện cũng được. Hãy sao ra và dán nó ở cửa cái, nhà tắm hoặc trên cái máy
lạnh gì đó…
Đó là bài báo bao gồm nhiều vấn đề nhất. Trong đó có nói tới các vitamine chiến
thắng được bệnh ung thư, tim mạch và tác dụng chống lão hóa. Trong 6 trang đề
cập đến những lời khuyên của bài báo này, chỉ có một ý kiến ngược lại, khi tôi hỏi
một vị bác sĩ: “ Ông nghĩ gì về các vitamine và khoáng chất với tư cách là những
chất bổ sung vào thức ăn chúng ta?” Vị bác sĩ được chất vấn đã trả lời như thế này:
“ Sự hấp thu các vitamine không mang lại ích lợi gì cả!”. Đó là câu trả lời của Bác
sĩ Victor Hubin, giáo sư ý học của trường Y Newyork, Mausinai.... “Tất cả các
chất vitamine với tư cách là chất bổ sung vào thức ăn chỉ có mỗi việc: Biến nước
giải của chúng ta thành cái thứ đắt giá hơn mà thôi!”. Nếu dịch lời lẽ ấy cho dễ
hiểu thì có nghĩa là thế này, rằng chúng ta sẽ “ đái ra đô la”. Chúng ta làm cái việc
vô bổ! Nhưng chính vì ông không chịu nói toẹt ra như vậy đấy thôi! Và nếu điều
đó được đăng lên, có nghĩa là trong đó có vấn đề.
Về việc này, tôi xin phép thưa với các bạn như sau: Qua 17.500 ca phẫu thuật,
trong đó có 14.501 ca đặc biệt cho động vật đủ loại trên thế giới và 3000 ca cho
con người, tôi có kinh nghiệm. Từ đó rút ra kết luận rằng, nếu nói theo kiểu vị bác
sĩ kia, có nghĩa là:
Chớ nên đầu tư vào những vitamine và khoáng chất cho mình nữa mà hãy đầu tư
để làm giàu cho các vị thầy thuốc!
Tôi khẳng định một cách chắc chắn rằng, chính chúng ta tạo điều kiện để làm giàu
cho các thầy thuốc!
Từ năm 1776 cho đến cuối đệ nhị thế chiến, Hoa Kỳ đã chi khoảng 8 triệu đô la
cho nghiên cứu khoa học y học và y tế. Nhưng giờ đây, riêng về y tế, Mỹ phải chi
1, 2 ngàn tỷ đô la trong một năm, nhưng vẫn còn thiếu. Có phải chăng mọi người
chúng ta đều muốn y tế được miễn phí?
Tôi có thể nói với các bạn rằng, nếu chúng ta áp dụng hệ thống y tế cho con người
vào ngành nông nghiệp với số phí tổn như thế, thì món thịt băm mà các bạn dùng
hàng ngày sẽ có giá 550 USD /kg. Còn ngược lại, nếu chúng ta áp dụng hệ thống
chi phí y tế nông nghiệp mà ta vận dụng trong chăn nuôi vào con người, thì phí tổn
cho một gia đình 5 nhân khẩu, sẽ chỉ tốn có 10 USD / tháng.
Vậy ta chọn cho mình phương án nào?
Tôi nghĩ rằng do chúng ta tạo điều kiện để các thầy thuốc làm giàu nhờ những phí
tổn mà ta phải gánh chịu, cộng với số tiền trợ cấp của nhà nước thì về phía họ, họ
cũng phải có trách nhiệm với chúng ta một phần mới phải. Tức là họ phải có trách
nhiệm cung cấp cho chúng ta những thông tin mới nhất về những thành tựu y học.
Nhưng có mấy ai đang ngồi trong hội trường này đã nhận được những thông tin
như vậy từ các bác sĩ tư của mình chưa? Điều đó có phải là cái gì đó rất kỳ cục
không?
Nhưng ở tôi, tôi có một lượng thông tin lớn mà các bạn có thể nhận được và tôi
muốn chia sẻ cùng các bạn:
1.Bệnh loét dạ dày (Lở bao tử L)
Trong số các bạn chắc chắn có người đã từng nghe trước đây người ta cho rằng
nguyên nhân của bệnh loét dạ dày là do Stress mà ra. Nhưng 50 năm trước, ngành
thú ý chúng tôi đã hiểu được rằng, chứng loét dạ dày ở heo là do vi khuẩn. Đương
nhiên, không phải vì thế mà chúng tôi áp dụng phương pháp phẫu thuật dạ dày heo
để điều trị cho chúng. Vì như vậy sẽ rất tốn kém và sau đó, nếu bán được con heo
đó, giá bán sẽ lên đến 550 USD /kg thịt băm.
Chúng tôi biết một thứ khoáng chất, được gọi là BIZMAR, dùng nó, vẫn trị được
cho heo chứng bệnh này, không cần đến một can thiệp phẫu thuật nào cả. Chúng
tôi đã làm như vậy và chỉ phí tổn khoảng 5 USD trong một đầu heo.
Cách điều trị đơn giản chỉ bằng khoáng chất BIZMAR và khoáng chất khác, cộng
với Tðtracyline. Thế mà mãi đến năm 1994, vào tháng 2 có trường đại học quốc
gia mới công bố rằng, bệnh loét dạ dày là do vi khuẩn chứ không phải do stress
gây ra và có thể điều trị được.
Phải chăng các nhà nghiên cứu y học thường hay nói: hãy chỉ cho công chúng biết
những thành tựu y học nào có khả năng mang đến lợi nhuận cho họ. Giờ đây, các
viện và trường đại học, chính họ sử dụng từ “ trị được” mà không chút đắn đo nào.
Họ chính thức nói: bệnh loét dạ dày có thể điều trị khỏi bằng phương pháp kết hợp
các chất khoáng, Bizmar và Tétracyline!
Nếu ai chưa biết Bizmar là gì, xin cứ ghé vào cửa hàng thực phẩm và hoặc bất kỳ
hiệu thuốc nào đó để hỏi mua nó với giá 2 USD một lọ thuốc màu hồng, có tên là
PEPTOBIZMAR.
Cứ vậy đem về dùng, có thể trị được bệnh loét dạ dày. Và một lần nữa các bạn phải
chọn: trị khỏi bệnh với giá 5 USD hay đưa cổ cho người ta “ chém”!
2. Bệnh ung thư
Một căn bệnh rất đáng sợ, là nguyên nhân chết được xếp vào hàng thứ hai của
người Mỹ.
Tháng giêng năm 1993, tại bệnh viện ung thư Boston, thuộc trường Y, sau khi theo
dõi những người mắc chứng ung thư, đã công nhận việc cung cấp chế độ ăn để
phòng bệnh này. Các kết luận dựa trên công trình nghiên cứu được tiến hành ở
Trung Quốc, tại tỉnh hà Nam. Tỉnh này được chọn lọc để tiến hành các cuộc nghiên
cứu. Vì người ta ghi nhận ở đó số người mắc chứng ung thư có tỷ lệ cao nhất.
Người ta nghiên cứu 29.000 người trong vòng 5 năm. Những bệnh nhân được cấp
lượng vitamine và khoáng chất vượt gấp 2 lần liều lượng so với người Mỹ thường
dùng. Chẳng hạn, liều dùng vitamine đối với người Mỹ là 60 mg / ngày, thì người
bị chứng ung thư ở đấy được dùng đến 120 mg. Ông ALAN PAUL, người nhận 2
giải Nobel nói rằng: Nếu bạn muốn ngừa được chứng ung thư, bạn phải dùng đến
10.000mg/ ngày.
Thế là các vị thầy thuốc kiếm ăn bằng nghề nghiệp của mình lại nổ ra một cuộc
tranh luận với ông ấy. Nhưng những người đang cãi vã đó thì hiện nay đang vui vẻ
ngự trên “ Thiên đàng” rồi. Còn ALAN PAUL vẫn sống trên mặt đất và vẫn còn
khỏe mạnh. Năm nay ông đã 94 tuổi, làm việc 14 giờ trong ngày, 7 ngày trong
tuần, đang sống trong một trang trại chăn nuôi ( rainch) tại bang California và
giảng dạy cho trường đại học California ở San - Fancisco. Vậy, các bạn hãy chọn
đi! Hoặc phải nghe theo lời giáo huấn của các bác sĩ đáng kính đang ngồi chễm chệ
trên “ Thiên đàng” hoặc nghe theo lời khuyên của tiến sĩ PAUL?
Thế là, rất hoàn toàn tự nhiên và vô hại khi chúng ta sử dụng gấp đôi liều vitamine
A và C so với tiêu chuẩn lâu nay qui định.
Không kém phần quan trọng khi dùng kẽm ( Zn), Riboflavine ( Vitamine B2),
Molipden..vv..Nhưng có một nhóm đặc biệt có lợi đó là bộ ba: Vitamine E, Béta-
carotène và Selenium (Se). Ba hợp chất này cần dùng với liều gấp đôi hàng ngày.
Nếu làm được như vậy mà đạt được 50% hữu ích, cũng đã tốt lắm rồi!
Trong số những người bệnh được sử dụng Vitamine E, Béta-carotène và Selenium
(Se) trong vòng 5 năm thì trường hợp tử vong của những người mắc chứng nan y
đã giảm 10%. Còn đối với bệnh ung thư hết thuốc chữa thì bộ ba này đã cứu thoát
được 13 %.
Tại Hà Lan, cứ 100 người tình nguyện được chữa bằng phương pháp này, đã thoát
chết được 21 người.
Những thông tin như vậy, lẽ ra các thầy thuốc phải thông báo cho các bạn, đằng
này họ lại cứ điềm nhiên tọa thị, tôi cảm thấy nực cười!
3. Bệnh viêm khớp ( ARTHRITE ).
Từ tháng 09.1993, trường đại học Harvard và bệnh viện Boston đã bắt đầu dùng
chất Proteine của gà để trị bệnh viêm khớp cho người.
Những bệnh nhân này được chọn khi chữa bệnh bằng các loại thuốc khác không
mang lại kết quả. Họ đã từng được trị bằng phương pháp tiêm Aspirine,
Mésotricide, Preniselon, Cortizon và các lý liệu pháp khác. Duy còn có một điều là
họ chưa dùng đến sự can thiệp phẫu thuật nữa thôi, để thay thế các khớp xương.
Lúc đó, tôi nói với các thầy rằng: “ Các thầy nghe đây! Những bệnh nhân này đã
từng khổ sở vì chứng bệnh ấy lâu rồi. Nếu họ tình nguyện ráng chịu khổ thêm 90
ngày nữa, tức 3 tháng, tôi sẽ tiến hành một thí nghiệm nhỏ”.
Lúc đó có 29 người tình nguyện, 29 người này y học không còn khả năng chữa
chạy được nữa và tiến triển của bệnh không còn khả quan hơn.
Tôi trị cho họ như sau: Mỗi sáng, cho họ dùng một muỗng café bột sụn gà được
nghiền nát, mịn, hòa với nước cam. Tất cả những bệnh nhân này được trường Y ở
Harvard theo dõi, Và sau 10 ngày, triệu chứng viêm và cảm giác đau biến mất. Sau
30 ngày, họ tự cho phép mình đi lại, làm được một cái gì đó. Sau 3 tháng, các chức
năng của khớp xương đã hoàn toàn bình phục.
Bây giờ, tôi xin kể thêm cho các bạn một chuyện có vẻ khôi hài đấy! Chuyện nực
cười này dính đến một vị bác sĩ mà tôi đã có dịp nói ở trên. Ông làm việc tại
trường Y Harvard. Ông ta tuyên bố rằng sụn gà chính là một vị thuốc! Vì lẽ, nếu
một cái gì đó giúp ta trị được bệnh thì đích thực cái đó có thể gọi là thuốc, và có
thể đem kê đơn để bán được. Thế là cái đầu tính toán của ông ta bắt đầu cuống cà
kê lên, bấm tay vào máy tính:..300 USD một viên con nhộng, tất cả 25 bệnh nhân
sẽ là…Thực ra ta có thể đi ra hiệu thuốc nào đó để mua NOXYJELON là đủ, với
giá rất rẻ! Các bạn đều biết rõ loại thuốc này. Nó được dùng để làm cho móng ta,
móng chân và tóc không bị gãy. Hợp phần cơ bản của nó là trộn vào các dây gân
của bò. Đó là chất củng cố xương và sụn của các bạn. Nếu ta dùng nó với liều
lượng 0, 5 muỗng café/ ngày, hòa tan cùng nước cam, theo tỷ lệ cứ 1 aoxơ
( ounce)/ 100 pound trọng lượng cơ thể, kết hợp với các chất khoáng dạng keo.
Lần sau, khi tôi đến hội trường đây, các bạn nhất định sẽ nhảy lên đây ôm và hôn
tôi tới tấp cho mà xem, nếu các bạn có nhớ đến các vụ chữa viêm khớp này.
4. Bệnh Alzheimer.
Hồi trước có ai trong các bạn có nghe người ta nói tới chứng bệnh Alzheimer (còn
gọi là bệnh D’c)? Nay chắc mọi người đều đã biết rồi. Khi tôi còn trẻ, lúc đó chứng
Alzheimer chưa xuất hiện. Ngày nay nó trở thành một chứng bệnh trong các bệnh
phổ biến. Cứ 1 trong 2 người đến tuổi 70 thì bị chứng bệnh này. Con số như vậy kể
cũng đáng sợ thật! Còn trước đây, chứng bệnh ấy đã có trong gia súc rồi. Các bạn
thử hình dung xem các trại chủ sẽ tổn thất như thế nào, nếu con heo nái đang nuôi
mà không nhớ được vì sao nó đi đến máng ăn, và đến đó để làm gì? Do đó 50 năm
về trước ở nơi này đã được các trại chăn nuôi giải quyết. Từ lúc đó, chúng tôi biết
dùng Vitamine E liều cao để khắc phục nó.
Lẽ ra các bạn phải nhận được thông báo của các bác sĩ tư của mình từ tháng 7/1992
rồi mới đúng. Vì viện nghiên cứu khoa học California, San0-Diago, năm 1992 đã
công bố rằng Vitamine E có tác dụng làm chậm quá trình mất trí nhớ do bệnh
Alzheimer gây ra. Cả vấn đề này nữa, họ cũng đã lạc hậu so với ngành thú y gần
50 năm!
Nghe như vậy, có thể có bạn nào đó khi bị bệnh sẽ muốn đi đến bác sĩ thú y để
chữa cho ăn chắc chăng? (Cười C).
5. Bệnh sỏi thận.
Trong số các bạn ngồi đây đã có bạn nào từng khổ sở vì bệnh sỏi thận chưa? Vâng
tôi đã thấy một số cánh tay giơ lên rồi đấy! OK!
Khi các bạn mắc phải chứng này, bác sĩ thường khuyên các bạn hãy đề phòng,
đừng bao giờ dùng những chất dinh dưỡng có thành phần Calci. Đừng dùng bất kỳ
những chế phẩm nào từ sữa có Calci, cũng như bất cứ thực phẩm nào có nó trong
đó. Các ông ấy nói rằng Calci nếu đưa vào sẽ xuất hiện trong thận và tạo ra sỏi!
Thật ra thì Calci trong thận xuất phát từ bản thân xương chúng ta. Khi cơ thể của
các bạn thiếu Calci, xương không đặc, dễ tạo ra sỏi trong thận. Hàng ngàn năm
trước, con người đã biết cách ngăn bệnh sỏi thận, mật cho gia súc rồi. Người ta cho
nhiều calci hơn vào khẩu phần ăn của chúng. Người ta cộng thêm Mg và Bo.
Những con bò đực, cừu và các loại gia súc cho sữa, khi chúng bị chứng bệnh này,
lúc giải phẫu ra mới biết chúng chết vì thiếu Calci. Chúng ta mà mắc phải bệnh
này đôi lúc cũng muốn chết quách cho rảnh nợ!
Chúng tôi biết cách phòng ngừa chúng. Lẽ ra các bạn cũng phải được các bác sĩ
của mình cho biết từ năm 1993 mới đúng. Họ phải nói để các bạn biết rằng, Calci
có tác dụng làm giảm nguy cơ bị sỏi thận. Người ta đã nghiên cứu gần 40.000 bệnh
nhân, được chia thành 5 loại nhóm. Nhóm nhận được số lượng Calci nhiều hơn thì
không có người nào mắc bệnh sỏi thận cả. Các bạn nên nhớ, như tôi đã nói với các
bạn rằng, tuổi thọ trung bình của các bác sĩ, theo thống kê chỉ có 58 tuổi. Còn
chúng ta thì đến những 75, 5 tuổi. Hóa ra, các nhà chuyên môn, những người đang
dạy cho chúng ta phải sống thế nào cho khoa học, và cam đoan chắc với chúng ta
rằng, chúng ta chỉ nên ăn muối với lượng vừa đủ, không nên ăn kem sữa mà nên ăn
Margarine và không được làm những chuyện ngu ngốc như vậy…thì các bậc đó
trung bình chỉ sống đến 58 tuổi. Trong khi đó những người có tuổi thọ từ 120 đến
140 lại cứ thản nhiên cho muối vào tách trà và uống nó đến 40 tách trong ngày, tức
là dùng đến 40 cục muối trong 1 ngày, chế biến kem sữa với dầu ô liu, mà vẫn
sống đến 120 tuổi. Vậy bạn tin vào ai? Tin vào những người sống đến 120 tuổi hay
tin vào những người chết trong độ tuổi 58? Các bạn hãy chọn lấy!
Chí ít, tôi cũng kính trọng một số người trong họ. Trong số đó, có bác sĩ Storward
Cardred, 38 tuổi và là một bác sĩ gia đình. Ông nghiên cứu về những vấn đề của
bệnh Phình động mạch ( Aneuvrisme). Đó là chứng làm phình các động mạch do
cơ kém đàn hồi.
Nhưng từ năm 1957, chúng tôi đã biết được nguyên nhân của chứng Aneuvrisme là
do thiếu đồng (Désieit CuivriqueD) trong cơ thể. Lúc bấy giờ, chúng tôi đang
nghiên cứu đồ án về vấn đề này. Chúng tôi theo dõi 200.000 con gà lôi (gà Tây g).
Chúng tôi cho chúng khẩu phần gồm 90 chất dinh dưỡng. Trong 13 tuần lễ đầu
tiên, tròn 1 nửa số gà đã chết vì chứng phình mạch. Chúng tôi bổ sung vào khẩu
phần ăn của chúng gấp đôi số lượng đồng, các trại chủ phát huy số gà lên đến
500.000 con. Nhưng lúc đó không còn con gà lôi nào mắc chứng bệnh này nữa.
Chúng tôi tiếp tục nghiên cứu trên chuột, mèo, chó, heo… Cuối cùng đi đến kết
luận: Nguyên nhân của bệnh phình mạch chủ yếu là do thiếu đồng.
6. Bệnh sớm bạc tóc (Già trước tuổi G).
Đây là dấu hiệu cho biết bạn đang bị thiếu đồng trong cơ thể. Ngoài ra, da còn
nhăn nheo, do cơ thể kém đàn hồi, xuất hiện các quầng dưới mắt, các đường nhăn
trên mặt, làm bạn giống như một trái táo khô. Da bắt đầu võng xuống, trên hai chi
trên, ngực, bụng, cổ… Và lúc ấy bạn đi đến mỹ viện để mổ lấy ra các lớp lòng
thòng này.
Gặp trường hợp đó, thực tế hơn và an toàn hơn, bạn nên dùng các khoáng chất
dạng keo (Minéraux colloidaux M).
Tôi xin giới thiệu với các bạn một nhân vật nữa – bác sĩ Martin Carter. Ông ấy chết
vào lúc 57 tuổi, có bằng bác sĩ tại trường Y Harward, học vị tiến sĩ y học ở Yelye.
Khi mổ tử thi, người ta xác định ông ta chết do chứng phình động mạch chủ
( Aneuvrisme aortique ) theo kết luận của bệnh viện thuốc đại học Rockefeller. Tại
sao ông ta chết? Do thiếu đồng! Ông ta cũng thuộc loại người CÓ NƯỚC GIẢI RẺ
TIỀN đấy!
Lại một ví dụ khác nữa. Đó là một luật sư nổi tiếng ở Elen Josys. Bà ta chết lúc 44
tuổi. Bà có chân trong một câu lạc bộ thể thao nổi tiếng nhất. Các bạn biết đấy,
ngày nay hầu như mọi phụ nữ đều muốn có được một bộ xương rắn như thép, với
chi phí rẻ nhất bà ta cũng chết vì chứng phình động mạch. Theo kết quả khám
nghiệm tử thi cho thấy những triệu chứng của bà như bại liệt hoặc xuất huyết não.
Đó cũng là chứng thiếu đồng đặc trưng. Và bà cũng thuộc loại người CÓ NƯỚC
GIẢI RẺ TIỀN.
Có ai trong số các bạn đã từng nghe về một nhân vật có tên lag Stuward Burker
không? Ông ta đã viết 5 cuốn sách gây xôn xao dư luận về sức khỏe, ăn kiêng,
dinh dưỡng và đã nhận học vị cao học Y học của trường Y Tora. Đây là một trong
những tác giả Y học giỏi nhất của Boston. Sách của ông viết về chế độ ăn kiêng để
làm giảm trọng lượng cơ thể, được viết vào lúc ông chưa tròn 20 tuổi. Tôi muốn
các bạn theo dõi một tấm gương về ăn kiêng của vị này. Ông ta chết do chứng
bệnh NHỒI MÁU CƠ TIM ( Cardiomuopathie ). Nguyên nhân của chứng này là
thiếu Se.
Một số trại chủ chỉ đơn giản đi đến cửa hàng thức ăn gia súc và mua Selen dưới
dạng tiêm hoặc đóng viên cho gia súc của mình nhằm ngăn ngừa chứng bệnh ấy.
Bác sĩ Stuward Burker, tác giả của 5 quyển sách về dinh dưỡng lại chết vì bệnh
thiếu Selen trong thành phần dinh dưỡng của mình lúc mới có 44 tuổi. Ông ấy
cũng thuộc người có NƯỚC GIẢI RẺ TIỀN đấy thôi!
Các bạn hãy tin tưởng rằng, chúng ta có thể phòng ngừa được chứng NHỒI MÁU
CƠ TIM với giá phí tổn 10 cent / ngày. Và nếu bạn không hiểu được điều này thì
quả là lạ đấy!
Tại sao ta lại không dùng Selen với giá 10 cent / ngày để tự cứu lấy mình?
Nhiều người trong các bạn có lẽ biết đến bà này. Bà tên là Hel Clard, chết vào tuổi
47 do chứng nhồi máu cơ tim, trong lúc bà là chuyên viên khoa điện tâm đồ ở Saint
- Louis.
Chắc các bạn từng thấy thế nào về những con bò cho rất ít thành phần Calci trong
sữa. Chúng thường lân la tới những nơi có đá, xương, kiên trì nhai những vật lạ,
nhai cả những hòn cuội, những mẫu tấm lợp bằng xi măng. Đó là bệnh Panka.
Người trại chủ có kinh nghiệm biết mình phải làm gì. Ông ta bổ sung vào khẩu
phần ăn của bò sữa những khoáng chất, nếu không chúng sẽ lần lượt xơi tái tất cả
vật liệu đang có trong chuồng bò của ông ta.
Ở con người, hiện tượng này cũng thường xảy ra. Các chị phụ nữ có mang thường
hay thèm thứ này thứ nọ. Có khi họ thèm những cái có trời mới hình dung nổi,
chẳng hạn như dưa chuột muối quết với kem sữa… Có gì đâu, vì cái thai đang phát
triển, lấy đi của cơ thể thai phụ những khoáng chất cần thiết cho nó.
Xin khuyên bạn một chút. Hãy theo dõi xem tay và mắt của mình. Nếu phát hiện
thấy những đốm đỏ, đó là dấu hiệu báo trước rằng bạn đang thiếu selen đấy. Cần
uống nó dưới dạng keo trong vòng 6 tháng, mọi vết đỏ sẽ biến mất hết. Sau nửa
năm lại phải điều trị một lần nữa. Vì có thể những vết đỏ chỉ biến mất ngoài da,
nhưng lại tạo ra trong cơ quan nội tạng như ở não, tim, gan, thận.
7. Một số khoáng chất ảnh hưởng đến cơ thể
Chrome và Vanadium: trong các bạn ngồi đây, bạn nào bị lượng đường trong máu
thấp? Vâng, khoảng 10%!
Chắc các bạn thường thấy trẻ con rất háu ăn đường. Chúng đang thiếu Chrome và
Vanadium đấy. Thiếu Cr và V, lượng đường trong máu sẽ thấp, đó là hiện tượng
của bệnh tiểu đường (Diabète).
Thiếu Thiếc ( Sn ) thì sao? Hiện tượng phổ biến là hói đầu. Tôi thấy nhiều người
trong hội trường này đang thiếu thiếc đấy! Nếu không kịp thời chữa chạy các bạn
sẽ bị điếc cho mà xem.
Còn thiếu Bore ( Bo ) các bạn cần thiết và coi trọng Bo. Nó giúp ta giữ được Calci
trong xương để ngăn bệnh loãng xương (Ostéoropose O). Bo còn giúp sản xuất
Oestrogène cho nữ. Còn đối với đàn ông, bo giúp sản sinh ra Testogérone. Phụ nữ
thiếu Bo phải chịu nhiều điều phiền toái trong thời kỹ mãn kinh ( Monopause ),
thanh niên thiếu nó sẽ bị điếc, có hiểm họa bị liệt dương ( Impotension ).
Thiếu Kẽm ( Zn ) dấu hiệu đầu tiên cho thấy ai thiếu kẽm là ăn không biết ngon.
Điều đó dẫn đến suy dinh dưỡng.
Trong thí nghiệm đối với các con vật nghiệm cho thấy, có khoảng 7 chất khoáng
làm kéo dài tuổi thọ của chúng lên gấp đôi. Còn người ta, tôi xin nhắc lại ở đây:
Cần 90 thành phần dinh dưỡng, trong đó: 60 chất khoáng, 16 Vitamine, 12 acide
amine đạm, acide amine béo.
May cho chúng ta là các loại thảo mộc đã có sẵn những acide amine, Vitamine và
acide béo tối cần thiết cho cơ thể. Vậy là tốt quá rồi! Chỉ cần dùng 15 đến 20 hợp
phần có sẵn trong thảo mộc hàng ngày, được kết hợp một cách đúng đắn, sao cho
nó có thể nhận được 90 thành phần cần thiết.
Đứng về mặt lý thuyết mà nói, điều đó có thể đạt được trong tầm tay. Nhưng đa số
người Mỹ không làm như vậy. Họ cho rằng, cứ ăn một ít khoai tây nấu nhừ là đã
đạt được tiêu chuẩn sử dụng rau quả rồi!
Cần hiểu vấn đề này một cách đúng đắn!
Tuy về mặt lý thuyết có thể là đạt được đấy, nhưng thực tế ít ai nhận được số lượng
Vitamine, acide amine, acide béo như vậy trong khẩu phần ăn của mình. Vì vậy,
tôi khuyên các bạn, nếu muốn giữ mạng sống của mình cần phải bổ sung đầy đủ số
lượng nói trên. Ngược lại, các bạn không bao giờ sống đến 120 và 140 tuổi đâu!
Tôi chuẩn bị sẵn có cho các bạn một bản photocopy, tài liệu của Thượng viện Hoa
Kỳ, 2.64 trong khóa 2, đại hội lần thứ 74. Trong đó có nói rằng hàm lượng
vitamine, chất khoáng trong các trang trại của ta đã biến mất, mùa màng, ngũ cốc,
hạt, rau quả đều kém chất lượng do chúng không còn chứa khoáng chất nữa.
Những người dùng thường xuyên các loại hoa màu ấy sẽ bị các chứng bệnh liên
quan đến việc thiếu các khoáng chất.
Biện pháp duy nhất còn lại là phải bổ sung khoáng chất vào thức ăn hàng ngày
nhắm phòng ngừa và điều trị các chứng bệnh nói trên (Biên bản Đại hội toàn quốc
Hoa Kỳ đã ghi rõ như vậy đấyB!). Đó là biên bản ghi vào năm 1936.
Nhưng đến nay tình hình có được cải thiện hơn không? Không! Rất tiếc, lại còn tệ
hơn! Nguyên nhân: Các trại chủ chỉ bổ sung vào đất của họ Natri, Kali và
Phosphore thôi, ai có quyền bắt buộc họ phải bổ sung vào đất trồng của trang trại
mình đến 60 chất khoáng? Bởi lẽ, việc đó không dính dáng gì đến việc tăng sản
cho mùa màng của họ cả. Cho nên cứ sau mỗi vụ thu hoạch thì đất càng mất đi một
lượng các khoáng chất. Nếu bắt họ phải bỏ thêm các khoáng vi lượng, giá thành
sản phẩm sẽ lên cao, bán không chạy, tài khoản của họ bị thâm hụt, đưa họ đến phá
sản mất!
Tình hình thực tế như vậy đấy, và tôi có thể nói trước với các bạn rằng, chúng ta
đang đứng trên bờ vực thẳm của những tai họa. Cho nên, chúng ta phải gánh lấy
trách nhiệm đối với sức khỏe của chúng ta. Phải tự giác dùng các khoáng chất bổ
sung.
Người ta thường hay hỏi tôi: “ Vậy chứ 1000 năm về trước, con người làm gì khi
chưa có phân bón, ấy thế mà người ta vẫn sống lâu được? Ông nghĩ thế nào về
những người Ai Cập, Trung Hoa, Ân Độ?”
Vì các dân tộc đó sống quanh dòng sông lớn, như sông Nil, sông Hằng, Sông
Hoàng Hà (Trung Quốc T). Hầu như rằng hàng năm các cánh đồng đều bị một lần
ngập lụt. Mỗi lần như vậy, nước mang các chất khoáng trong các núi từ khoảng
cách hàng vạn dặm. Và người ta còn lạy trời mưa xuống cho ngập lụt, để dau đó
các cánh đồng được bổ sung những tầng phù sa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta
lạy cho trời đừng ngập lụt! Vậy, hỏi làm sao còn được khoáng chất nữa?
Bây giờ chúng tôi lấy ngay ví dụ mà ai cũng biết, một chất khoáng rất phổ biến đó
là Calci.
Thiếu CALCI: Nguyên nhân sinh ra 147 bệnh.
Bệnh béo mập: ( Bilspolz). Đây không phải là bệnh bại liệt, chỉ đơn giản là liệt nhẹ
thần kinh mặt (Liệt thần kinh số 7L). Đó là bệnh do cơ thể thiếu Calci.
Bệnh loãng xương ( Osteoporose), đây là loại bệnh đứng hàng thứ 10 trong số
những bệnh có số lượng tử vong cao giữa những người lớn, phí tổn để chữa bệnh
này là rất tốn kém. Một ca mổ để thay khớp chậu đùi, hay cổ chân phải trả 35.000
USD, nếu chẳng may bị cả hai chậu phải tốn hết 70.000 USD. Vâng nếu bạn có
bảo hiểm thì cơ quan bảo hiểm sẽ trả cho bạn. Hồi nãy tôi có nghĩ tới bà Magaret ở
bang Virginia, bà chết vào lúc 115 tuổi do thiếu calci trong cơ thể sau một trận
ngã.
Còn ở động vật theo như tôi được biết thì không hề xảy ra. Chẳng hạn, trong bầy
bò cái của bạn năm nay không có một con bê nào để bán lấy tiền mặt, bù vào vốn
lưu động, để tu sửa hàng rào vv…Bạn lo lắng về điều đó và gọi điện thoại cho bác
sĩ thú y để hỏi xem việc gì đã xảy ra, có cần phải chạy chữa cho chúng không? Bác
sĩ thú y đến ông ta khám các con bò cái và sẽ cho bạn biết rằng vấn đề rắc rối này
hoàn toàn không phải do các con bò cái gây ra. Sau đó ông ta khám đến con bò
đực, rồi kết luận: Rõ! Con bò đực bị bệnh loãng xương, khớp chậu của nó bị đau,
nên không phủ các con bò cái được. Để ngừa được bệnh này, người ta từ đâu có
các con bò cái mới được sinh ra những khẩu phần chứa calci với giá 10 cent /ngày
và các con bò con không bao giờ bị phải chứng loãng xương. Để ngừa bệnh đau
răng và sưng nướu răng (viêm lợi v), các nha sĩ thường khuyên chúng ta đánh răng
sau khi ăn và dùng Fluor. Là một bác sĩ thú y, tôi đã từng tiếp xúc với hàng trăm
ngàn động vật, bao gồm những con chuột, thỏ, chó, cừu, heo, ngựa, sư tử, cọp…
cho đến gấu chúng không bao giờ bị viêm lợi, chúng cũng chẳng hề dùng đến
Flour bao giờ đôi khi chúng thở cũng có mùi hôi, nhưng lợi luôn luôn khỏe mạnh.
Trong ngành chăn nuôi, chúng tôi chưa gặp phải bệnh viêm lợi đối với xúc vật như
thế có nghĩa là chúng không bị thiếu Calci. Đối với bệnh viêm khớp (Arthrite).
Chắc các bạn còn nhớ khi nãy tôi có nói về tác dụng của sụn gà và các khoáng keo,
85% bệnh viêm khớp là do bệnh loãng xương các khớp cùng gây ra. Người ta phân
biệt viêm khớp thường, viêm xương khớp (Osteo- arthrite), chứng đau lưng
(Lumbago), thấp khớp và tất cả các loại bệnh đó đều là hậu quả của sự loãng các
khớp xương cùng gây ra.
Bệnh cao huyết áp ( Hypertension)
Trước hết, bác sĩ khuyên bạn giảm thành phần muối trong khẩu phần ăn. Họ cứ
nhồi nhét vào đầu chúng ta điều đó, nhưng ta hãy nhớ lại chuyện những con bò cái.
Trước hết, các trại chủ đều bổ sung vào thức ăn gia súc một tảng muối, nếu không
các ông ấy sẽ phát điên nên vì phải tốn tiền cho các vị thú y đấy! Còn chúng ta, thì
các ông bác sĩ buộc chúng ta phải tin rằng chúng ta không cần muối, vì lượng muối
đã có sẵng trong bánh mì, trong rau cả rồi! Tôi xin khuyên, chớ nên tin vào lời dạy
của các vị ấy. Bác sĩ, người chỉ thọ trung bình có 58 tuổi, bảo với các bạn rằng
không nên “ ăn muối, không nên ăn kem sữa” còn những người sống đến 120 tuổi
thì vẫn ăn muối và kem sữa. Các bạn thử chon xem.
Tôi lấy một nhóm kiểm tra gồm 5000 người bị bệnh cao huyết áp để làm ví dụ. Tôi
cho vào khẩu phần ăn của họ gấp đôi lượng Calci hàng ngày so với “ tiêu chuẩn”.
Cuộc thí nghiệm kết thúc sau 6 tuần lễ, vì 85% trong nhóm này huyết áp đã trở lại
bình thường. Chỉ nhờ phương pháp cho bệnh nhân lượng Calci hàng ngày, chúng
tôi đã có được kết quả như vậy. Khi các bệnh nhân này, những người đã từng chữa
ở bác sĩ nọ đến để cho ông ấy khám lại, ông ấy bảo rằng: Ôi! Huyết áp của anh
bình thường anh chữa bằng thuốc gì thế..
Tôi tham gia vào nhóm thí nghiệm uống gấp đôi liều Calci trong ngày. Thân chủ
của bác sĩ nói vậy.
Bệnh chuột rút (vọp bẻv)
Tiếng Pháp ( Crampe) Ta ngủ nửa đêm thức dậy, chân không cử động được. Mọi
người chúng ta đã từng bị như thế rồi, thông thường đó là thiếu Calci trong cơ thể.
Những liệu chứng bực bội, nóng nảy, cáu gắt trong thời kì hành kinh.
Đây là trạng thái tâm sinh lí trong giai đoạn kinh nguyệt. Trong trường đại học
Sant -Diego ở Kaliornia đã đề nghị cho gấp đôi tiêu chuẩn calci vào khẩu phần ăn,
và 85% các triệu chứng tâm sinh lí như vậy không xuất hiện.
Đau thắt lưng :
Gần 85% người Mỹ hay bị đau ở vùng thắt lưng, không phải vì họ làm việc trước
máy tính, mang vác vật nặng hoặc lái chiếc xe tải quá lớn. Đó là nỗi bất hạnh của
người Mỹ. Thực tế đau thắt lưng là do thoái hóa cột sống (loãng đốt sống –
Osteoporosevertebralel).
Hiện tượng đó không phụ thuộc vào việc có hay không vấn đề ở các đĩa đốt sống.
Nếu như đốt sống bị nhỏ đi do bị hủy hoại thì đĩa có gì để mà đỡ. Hiện tượng đó là
nguyên nhân gì? Thiếu Đồng!
Bệnh cuối cùng tôi muốn nói với các bạn là bệnh tiểu đường (diabte).
Mọi người đều biết, tiểu đường là bệnh gây ra tử vong đứng hàng thứ 3 đối với
những người lớn tuổi ở Mỹ. Bệnh này có nhiều diễn biến phức tạp như mù mắt, rối
loạn các chức năng của thận sinh ra các chứng bệnh về tim mạch ở những mức độ
khác nhau. Và bản thân tiểu đường tự nó cũng là nguyên nhân của cái chết trong số
những người Mỹ. Nếu các bạn bị bệnh tiểu đường thì tuổi thọ của các bạn rút ngắn
dưới tuổi thọ trung bình so với những người khác không mắc phải bệnh này. Vào
năm 1957, trong ngành thú y chúng tôi người ta đã biết rằng bệnh tiểu đường có
thể phòng ngừa và chữa trị được nhờ vào các chất khoáng. Các khoáng chất đó đã
được công bố trong chuyên san khoa học thuộc các Viện y học Quốc gia, trong đó
có nói: “Bệnh tiểu đường có thể phòng ngừa và chữa trị khỏi nhờ Chrome và
Vanadium”. Chỉ riêng Vanadium theo như các số liệu của Viện Vancouver và
trường đại học Y Colombie – Britanique ( British – Colombie) thì chúng ta có đủ
sức thay thế cho insuline ở những người lớn tuổi bị tiểu đường. Đối với nhiều
người, quá trình điều trị kéo dài từ 4 đến 6 tháng, tức nó là quá trình xảy ra dần dần
với Vanadium. Chính mắt tôi thấy hàng trăm người bị chứng bệnh này đã được
chữa khỏi.
Cứ cho là tốt đi, nếu bản thân tôi thuyết phục được các bạn sử dụng các khoáng
chất, nhưng chưa tính tới việc chúng thâm nhập vào cơ thể chúng ta từ thực phẩm
như thế nào cho tối ưu. Cho chúng vào hộp, gói hay chai lọ dưới dạng nào --> Có 3
dạng khoáng chất cần lưu ý:
Dạng thứ nhất:
Các khoáng chất dưới dạng kim loại, đó là các khoáng chất được đưa vào cơ thể cơ
bản dưới dạng nham thạch (đất®, đá). Chúng chỉ được cơ thể hấp thu từ 8 đến
12%. Và khi bạn có độ tuổi từ 25 đến 40 cơ thể chỉ hấp thu có 3 đến 5%.
Dạng thứ hai:
Dạng sữa, rất tệ hại khi bạn dùng nó dưới dạng giống như dùng Calcium – Lacté
(sữa Calci s), thường được chế biến trên thị trường. Giả sử, sữa Calci đóng thành
viên với liều lượng được ghi là mg chẳng hạn: “ Thưa bác sĩ, tôi đã uống rất nhiều
Calci. Tôi nghe đài phát thanh nói về chứng viêm khớp và đã uống 2.000 mg mỗi
ngày nhưng bệnh viêm khớp của tôi vẫn không khỏi mà ngày càng tệ hại hơn!” Tôi
hỏi lại họ: “ Nhưng bạn đã dùng cụ thể dạng Calci nào?” Họ trả lời rằng, họ đã
dùng Calci dạng sữa.
Chính là lỗi tại họ, vì mỗi tablet (viên thuốcv) loại đó có ghi 1.000 mg, nhưng thật
ra chỉ có 250 mg Calci. Còn lại là Lactose và đường trong sữa. Nếu tính ra, cơ thể
bạn chỉ hấp thu có 10% số đó, thì 10% của 250 mg. Vậy, nói chung, bạn chỉ dùng
có 50 mg /ngày thôi. Muốn nhận được số lượng Calci cần thiết, bạn phải dùng đến
những 90 tabket loại đó trong 1 ngày, tức là 45 lần mỗi ngày. Và, xin bạn đừng
quên rằng, ta còn phải dùng thêm 59 khoáng chất nữa nhé!
Vào thập niên 60, trong ngành chăn nuôi đã áp dụng dạng gắn với các phân tử hữu
cơ (Míneral ChélateM). Đó là dạng mà các khoáng chất vẫn là những ion kim loại
nguyên tử kết hợp với gốc acide amine, protéine hoặc enzym. Dạng này được cơ
thể hấp thụ đến 40%. Chính vì vậy mà công nghiệp thực phẩm mới lao ầm ầm vào
điều chế dạng thực phẩm ấy!
Dạng thứ ba:
Dạng khoáng keo (Minéral colloidalM). Chúng là dạng có tính hấp thu cao nhất.
Chính độ hấp thu đó là cái hấp dẫn chúng ta hơn cả. Dạng khoáng keo hấp thụ
được đến 98%. Tức là mạnh hơn dạng kết hợp phân tử hữu cơ 2, 5 lần và 10 lần so
với dạng kim loại trong nham thạch.
Khoáng keo chỉ có thể nằm dưới dạng dung dịch và trong những phần tử rất nhỏ,
7.000 lần nhỏ hơn hồng cầu (érythrocyteÐ). Mỗi phần tử khoáng mang điện tích
âm, còn màng ruột mang điện tích dương, tạo ra một trường điện từ. Trường điện
từ này thu hút các chất khoáng bao quanh thành nang ruột. Chính vì vậy mà độ hấp
thu đạt đến 98%.
Thảo mộc đóng vai trò hết sức ngoạn mục trong việc tạo ra những khoáng keo.
Trong các cơ của chúng, những khoáng chất được hình thành dưới dạng keo. Dùng
thực vật chúng ta tích trữ được khoáng trong cơ thể và khai thác được chúng.
Khổ nỗi, đất đai trồng trọt của chúng ta ngày nay không có đủ những khoáng chất
như vậy nữa!
Tất cả những người sống thọ từ 120 đến 140 tuổi đều có điểm chung này: Họ sống
tại những bản làng trên núi cao từ 8.000 đến 14.000 bộ so với mặt nước biển. ở
đấy, hàng năm, các sa khoáng phủ lên mặt đất không đến 2 tấc Anh, hoàn toàn
không có mưa, tuyết. Đó là những vùng hết sức khô ráo. Vậy, làm sao họ nhận
được nước để uống và tưới tiêu? Nhờ vào tuyết tan từ trong núi ra. Nước đi đến với
họ từ các dòng sông băng. Nước này không sạch và trong như nước suối phun.
Nhưng khi ta nâng cốc nước lên, ta sẽ thấy nó có màu vàng - trắng hoặc màu trắng
- xanh da trời. Nó chứa trong đó từ 60 đến 72 chất khoáng. Con sông Titi -caca ở
Tây Tạng được người ta gọi là sông Sữa băng. Họ không chỉ uống loại thuốc này
để thu được từ 8 đến 12% các khoáng chất hấp thụ vào cơ thể dễ dàng, mà quan
trọng hơn họ dùng nước này để tưới nước trồng trọt từ năm này sang năm kia, từ
mùa này đến mùa khác, từ thế hệ này sang thế hệ nọ, kéo dài trong khoảng từ 2, 5
đến 5 ngàn năm nay rồi! Nhờ đó, họ không hề bị các chứng bệnh tiểu đường, tim
mạch, cao huyết áp, viêm khớp, loãng xương, ung thư, đục thủy tinh thể, nhãn
áp… Không có trường hợp dị tật ở trẻ sơ sinh, không có nhà tù, không có nạn
nghiện ma túy, không có thuế má và cũng không hề có một bác sĩ nào. Thế mà họ
vẫn sống từ 120 đến 140 tuổi chẳng bệnh tật gì!
Các bạn nghĩ thế nào về tầm quan trọng hết sức lớn lao của chất khoáng keo?
NÊN TÂM NIỆM MỘT ĐIỀU RẰNG, NẾU MỘT NGÀY BẠN KHÔNG DÙNG
CHẤT KHOÁNG, THÌ BẠN SẼ BỊ RÚT NGẮN CUỘC SỐNG CỦA MÌNH HẾT
MỘT SỐ GIỜ, THẬM CHÍ MỘT SỐ NGÀY!
MONG CÁC BẠN SUY NGHĨ KỸ VỀ NHỮNG GÌ TÔI NÓI VÀ XIN CHÚC
SỨC KHỎE CÁC BẠN!
(Dịch nguyên văn từ bài nói chuyện của Tiến sỹ Walloc
- bằng tiếng Anh được chuyển ngữ sang tiếng Nga)
Dịch từ tiếng Nga sang tiếng Việt
Hà Quang Minh
VAI TRÒ CỦA CANXI VỚI SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI
Dẫn nguồn: Tạp chí Sức Khỏe & Gia Đình
1/ Đối với xương
Trẻ em khi thiếu canxi: xương nhỏ, yếu xương, chậm lớn, lùn, còi xương, xương biến
dạng, răng không đều, răng bị dị hình, chất lượng răng kém và bị sâu răng. Trẻ em ở
độ tuổi 7-9 tuổi, 13-16 tuổi là thời kỳ quan trọng cần bổ sung canxi mỗi ngày
1000mg.
Hàng ngày nếu chúng ta ăn uống thiếu canxi thì sẽ gây ra tình trạng cơ thể phải vay
canxi từ trong xương đưa vào máu, dần dần con người sẽ bị bệnh loãng xương.
2/ Canxi trong máu, trong tổ chức phần mềm tuy chỉ chiếm 1% trọng lượng cơ
thể nhưng lại vô cùng quan trọng:
2.1. Đối với hệ miễn dịch:
Hệ miễn dịch là bác sĩ tuyệt vời trong cơ thể con người, nó đóng vai trò là vệ sỹ, bảo
vệ con người khỏi nhiễm bệnh, đồng thời phát sinh phản ứng miễn dịch với một số
bệnh đã mắc.
Canxi đóng vai trò viên sĩ quan chỉ huy của quá trình phản ứng miễn dịch. Bạch cầu là
thành viên quan trọng nhất trong hệ miễn dịch. Khi vi khuẩn độc tố gây bệnh, dị vật
và vật chất dị thường sản sinh trong cơ thể (như tế bào ung thư..) xâm nhập cơ thể,
thông tin đó truyền cho bạch cầu, bạch cầu lập tức di chuyển đến những bộ phận
nhiễm bệnh, bao vây và tiêu diệt vi khuẩn và độc tố gây bệnh. Canxi chính là nguyên
tố phát hiện sớm những tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể vì canxi giữ vai trò sứ
giả thông tin thứ hai.
Canxi còn giữ vai trò kích hoạt năng lực di chuyển và năng lực bao vây, tiêu diệt vi
khuẩn, và độc tố gây bệnh của bạch cầu.
Hiện nay có chiều căn bệnh liên quan đến hệ miễn dịch bị mất cân bằng. Ví dụ như:
Bệnh viêm gan, sơ cứng gan, liên quan trực tiếp đến hệ miễn dịch bị suy giảm.
Một trong những nguyên nhân quan trọng sinh ra bệnh ung thư là do chức năng của
bạch cầu kém đi, chúng không nhận biết được tế bào ung thư va không có khả năng
tiêu diệt tế bào ung thư. Do chức năng miễn dịch mất cân bằng mà cơ thể bị tổn hại,
sinh bệnh như viêm thận, viêm tiểu cầu thận, viêm khớp, ban đỏ, cơ năng tuyến giáp
hoạt động quá mức.
Đối với những bệnh do công năng hệ miễn dịch giảm sút, trên cơ sở chữa trị bệnh
nguyên phát, ta cần bổ sung canxi để điều chỉnh cân bằng khả năng miễn dịch cho cơ
thể sẽ đẩy lùi bệnh tật nhanh chóng.
2.2. Canxi đối với hệ thần kinh:
Ion canxi có vai trò quan trọng trong truyền dẫn thần kinh. Khi cơ thể thiếu canxi thì
hoạt động truyền dẫn thần kinh bị ức chế, công năng hưng phấn và công năng ức chế
của hệ thần kinh bị suy giảm.
Trẻ em thiếu canxi thường có biểu hiện khóc đêm, đêm ngủ giật mình hay quấy khóc,
dễ nổi cáu, rối loạn chức năng vận động, không tập trung tinh thần.
Người già thiếu canxi thường có biểu hiện thần kinh suy nhược và năng lực điều tiết
thần kinh bị suiy giảm như: hay quên, tinh thần không ổn định, mất ngủ hoặc ngủ li
bì, dễ cáu hay ngủ mơ, đau đầu, tính tình thay đổi thất thường. Có nhiều người thần
kinh suy nhược sau khi dùng dinh dưỡng canxi đều có giấc ngủ ngon, sức chịu đựng
được tăng cường.
2.3. Canxi đối với hệ cơ bắp:
Công năng sinh lý của cơ bắp chủ yếu nhờ vào sự co giãn của các sợi cơ để hoàn
thành công năng của các khí quan vận động của cơ thể, ion canxi đóng vai trò quan
trọng trong hoạt động co giãn của cơ bắp.
Thiếu canxi kéo dài thì khả năng đàn hồi của cơ bắp kém.
Thiều canxi biểu hiện ở cơ tim co bóp kém, chức năng chuyền máu yếu, khi lao động,
vận động, lên gác sẽ cảm thấy tinh thần hồi hộp, thở dốc, vã nhiều mồ hôi.
Thiếu canxi biểu hiện ở cơ trơn là chức năng tiêu hóa kém, chán ăn, đầy bụng, táo bón
hoặc ỉa lỏng, sản phụ sau khi sinh nở tử cung co chậm và yếu, khó đẻ, đẻ non…người
già đái dầm.
Thiếu canxi biểu hiện ở cơ bắp là: yếu sức, tuổi trung niên thường cảm thấy tay chân
mỏi mệt rã rời, thể lực yếu kém. Khi xuất hiện những hiện tượng như trên, nếu bổ
sung kịp thời canxi cho cơ thể thì những triệu chứng đó sẽ được cải thiện nhanh
chóng. Mọi người đều rõ, các hạng mục thể dục của Trung quốc dành được giải cao ở
thế vận hội đều là những hạng mục có tính kỹ sảo như: Thể dục dụng cụ, nhảy cầu…
còn các mục điền kinh thường kém xa kỷ lục thế giới, bởi vì môn điền kinh đòi hỏi
sức bật mạnh mẽ của cơ bắp, đòi hỏi cơ tim có công năng chuyển máu nhanh và cơ
của hệ hô hấp hoạt động rất tốt, cung cấp nhiều ô xi. Nếu những chỉ tiêu đó không đáp
ứng được thì sẽ ảnh hưởng đến thể tố chất của vận động viên. Cho nên việc bổ sung
canxi là việc rất bức xúc.
2.4. Canxi với những tác dụng khác:
*Canxi tham gia vào quá trình làm đông máu, giảm thiểu máu thấm ra ngoài mao
mạch.
*Canxi có tác dụng bổ trợ điều trị đối với một số chứng bệnh xuất huyết và những
bệnh dị ứng
*Canxi có tác dụng kích hoạt enzim nên có tác dụng giảm mỡ máu và giảm béo đối
với chứng béo phì và hỗ trợ enzim phân giải protit
*Canxi còn làm cho tế bào kết dính với nhau, hàng tỷ tế bào trong cơ thể kết dính với
nhau mà cấu trúc nên tim, gan, tỳ, phổi, thận…đó là tác dụng của ion canxi hỗ trợ quá
trình kết dính đó. Nếu trong dịch thể thiếu ion canxi thì tế bào kém khả năng kết dính,
tổ chức khí quan sẽ kém hoàn chỉnh, từ đó công năng của các khí quan sẽ bị suy giảm.
Đó là một nguyên nhân quan trọng khiến loài người sớm bị lão hóa. Bởi vậy có thể
nói ion canxi có tác dụng kích hoạt và tăng cường công năng các khí quan, Những
người kiên trì thường xuyên dùng canxi đều cảm thấy sức khỏe dồi dào, da dẻ mịn
màng, hồng hào, tư duy của họ nhanh nhậy hơn, họ có phần trẻ trung hơn so với
những người cùng trang lứa.
*Ion canxi có tác dụng bảo vệ đường hô hấp. Những người mắc bệnh phế quản mãn
tính hoặc mắc bệnh phổi nếu thường xuyên dùng canxi sẽ sớm đẩy lùi được bệnh (ở
đường hô hấp của con người có một lớp tế bào lông, lớp tế bào lông đó chuyển động
một chiều từ dưới lên (đẩy lên) để làm sạch đường hô hấp, ion canxi có tác dụng làm
cho chuyển động đó trở nên khỏe khoắn hơn, cho nên ta nói ion canxi có tác dụng bảo
vệ đường hô hấp). Người mắc bệnh phế quản mãn tính và bệnh phổi thường xuyên
dùng canxi sẽ sớm bình phục.
VAI TRÒ CỦA MAGIÊ VỚI SỨC KHỎE CON NGƯỜI
Dẫn nguồn: Tạp chí Sức khỏe và Đời sống(Cơ quan ngôn luận của Bộ Y tế) tại địa
chỉ http://suckhoedoisong.vn/7017p0c19/vai-tro-cua-magie-voi-co-the.htm
Magiê có vai tò cực kỳ quan trọng với cơ thể: xây dựng các tổ chức mô trong
đó có xương, tham gia vào thành phần của nhiều loại men điều hòa các chức
năng khác nhau của cơ thể. Một chế độ ăn thỏa mãn nhu cầu magiê của cơ thể
là một trong các yếu tố giúp tăng cường sức khỏe, phòng ngừa nhiều bệnh tật
như bệnh tim, cao huyết áp, tiểu đường và loãng xương. Những người có tuổi
có thể sử dụng magiê ở dạng dược phẩm nhưng phải có tham vấn của bác sĩ,
những người lao động thể lực nặng nhọc cũng cần phải được bổ sung thêm
magiê.
Vai trò của magiê: Magiê là một loại khoáng chất quan trọng đối với cơ thể.
Trong cơ thể, magiê tồn tại với số lượng nhỏ, khoảng 30g với cơ thể nặng 60kg,
chúng có mặt trong thành phần của gần 300 các men khác nhau - điều hòa các chức
năng khác nhau, các quá trình chuyển hóa năng lượng. Magiê có vai trò cực kỳ
quan trọng trong quá trình tạo glycogen của cơ và gan từ glucose máu. Magiê còn
tham gia vào sự phân hủy glucose, acid béo và các acid amin trong quá trình
chuyển hóa năng lượng. Magiê cũng đóng vai trò quan trọng trong tổng hợp lipid
và protein giúp quá trình tạo xương và các mô khác, bảo đảm tính bền vững dẫn
truyền thần kinh và sự co cơ.
Khoảng 50-75% lượng magiê trong cơ thể tập trung ở xương (magiê kết hợp với
canxi và phốtpho trong quá trình tạo xương), đa phần còn lại phân bố ở cơ bắp, các
tổ chức mô mềm và một lượng rất nhỏ trong máu. Hàm lượng magiê trong máu
luôn được duy trì ở mức ổn định để đảm bảo cho cơ thể hoạt động bình thường.
Magiê là một thành phần quan trọng trong hoạt động chức năng của tim, có tác
dụng làm giảm nhu cầu về ôxy của cơ tim trong yên tĩnh cũng như trong lao động,
tập luyện, giúp tăng cường chức năng của tim và phòng ngừa các bệnh tim. Những
nghiên cứu gần đây cho thấy magiê còn có tác dụng điều hòa hàm lượng đường
trong máu (phòng ngừa bệnh tiểu đường), ổn định huyết áp (phòng ngừa bệnh tăng
huyết áp). Những người có chế độ ăn giàu magiê hoặc ăn bổ sung magiê sẽ giảm
nguy cơ phát triển hội chứng chuyển hóa. Ion magiê còn giúp cải thiện nhu động
ruột, tăng khả năng tiêu tháo của ruột, có tác dụng phòng và chữa trị chứng táo
bón.
Hàm lượng magiê trong cơ thể: Magiê có trong thức ăn được hấp thụ qua ruột,
nếu cơ thể sử dụng một lượng magiê quá mức thì cũng không có gì hại cho sức
khỏe vì lượng magiê thừa được cơ thể đào thải qua đường nước tiểu và phân. Nhu
cầu về magiê ở người trưởng thành khoảng 350 - 400mg/ngày, những người lao
động thể lực nặng nhọc, vận động viên thể thao cần nhiều hơn 1,5 - 2 lần, trẻ em
cần ít hơn (6 tháng tuổi: 30mg; 1 - 3 tuổi: 80mg; 9-13 tuổi: 240mg...).
Lượng magiê trong cơ thể được đánh giá thông qua hàm lượng magiê trong máu,
bình thường khoảng 0,65mmol/lít ở người trưởng thành. Lượng magiê trong máu
cao (hypermagnesemia) có thể gặp ở những người bị bệnh thận (suy thận), bệnh
tiểu đường (diabetic acidosis), những người sử dụng các thuốc mà trong thành
phần có chứa magiê như antacids hoặc laxatives.
Lượng magiê trong máu thấp (hypomagnesemia) gặp ở những người cơ thể bị đói
triền miên, nghiện rượu, hội chứng đại tràng mạn (đi phân lỏng), xơ gan, giảm
chức năng cận giáp, viêm tụy, sử dụng thường xuyên các chất lợi tiểu trong điều trị
bệnh tăng huyết áp, hóa trị liệu trong chữa trị ung thư.
Nguồn cung cấp magiê: Magiê có trong nhiều loại thức ăn khác nhau:
- Các loại rau lá có màu sẫm như rau ngót, cải xanh, rau mùng tơi... có chứa nhiều
magiê.
- Trong thịt, sữa, kê, đậu tương, lạc, đậu xanh, khoai lang, một số loại rau thơm.
- Trong một số trái cây như chuối, quả bơ, quả mơ khô.
- Trong nước cứng, nước khoáng.
- Thực phẩm bổ xung vitamin và khoáng chất có chứa Magiê dạng viên
Tình trạng thiếu magiê trong cộng đồng: Tình trạng cơ thể bị thiếu magiê trong
cộng đồng cũng trầm trọng như tình trạng thiếu sắt, đặc biệt là ở người có tuổi.
Người già có nguy cơ cao bị thiếu magiê do ăn ít, do giảm khả năng hấp thụ magiê
của ruột, do tăng bài tiết magiê qua thận và sử dụng một số thuốc trong chữa bệnh.
Sử dụng magiê bổ sung ở dạng dược phẩm có thể giúp người già tránh khỏi tình
trạng cơ thể bị thiếu magiê. Các loại dược phẩm bổ sung magiê như: magnesium
oxide, magnesium carbonate, magnesium lactate, magnesium sulfate... Sử dụng bổ
sung magiê sẽ có hiệu quả tốt ở những người uống nhiều rượu bia, các bệnh đại
tràng mạn, sử dụng kết hợp với laxatives trong điều trị táo bón...; sử dụng magiê
liều cao để chữa chứng đau đầu, chứng đau nửa đầu
VAI TRÒ CỦA VITAMIN C ĐỐI VỚI SỨC KHỎE CON NGƯỜI
[Dẫn nguồn: Từ điển Bách khoa Việt Nam]
Chức năng chủ yếu của vitamin C là sự sản xuất collagen, một protein chính của cơ thể. Đặc biệt, vitamin C giúp nối kết một phần của phân tử amino acid proline để hình thành hydroxyproline. Kết quả là, sự cấu trúc nên collagen rất ổn định. Collagen không những là một protein rất quan trọng trong việc liên kết các cấu trúc cơ thể với nhau (mô liên kết, sụn khớp, dây chằng, vv..), vitamin C còn hết sức cần thiết cho sự lành vết thương, sự mạnh khỏe của nướu răng, và ngăn ngừa các mảng bầm ở da.
Thêm vào đó, vitamin C còn có chức năng miễn dịch, tham gia sản xuất một số chất dẫn truyền thần kinh và hormon, tổng hợp carnitine, hấp thụ và sử dụng các yếu tố dinh dưỡng khác. Vitamin C cũng là một chất dinh dưỡng chống oxy hóa rất quan trọng.
Chức năng miễn dịch
Nhiều người đã xác nhận Vitamin C làm tăng cường hệ thống miễn dịch, đặc biệt trong ngăn ngừa và điều trị cảm cúm thông thường. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều nghiên cứu lâm sàng và thực nghiệm kết quả thuận lợi, người ta vẫn còn tranh cãi nhau kịch liệt về hiệu lực của Vitamin C. theo một quan điểm về sinh hóa, Vitamin C đóng một vai trò thiết yếu trong nhiều cơ chế miễn dịch. Sự nhiễn trùng nhanh chóng làm suy giảm lượng dự trữ Vitamin C trong các bạch cầu, nhất là Lymphocyte, và thiếu hụt Vitamin C chắc chắn xảy ra nếu không được bổ sung thường xuyên.
Vitamin C ảnh hưởng lên nhiều chức năng miễn dịch bằng cách tăng cường chức năng và hoạt động của của các bạch cầu, đồng thời làm tăng nồng độ interferon, tăng nồng độ và đáp ứng kháng thể, tăng tiết hormone tuyến ức và bảo đảm sự toàn vẹn của chất nền. Vitamin C cũng có nhiều tác động sinh hóa tương tự như interferon, một hợp chất thiên nhiên của cơ thể có khả năng chống virus và ung thư
Trong suốt quá trình stress hoá học, xúc cảm, stress tâm lý hay sinh lý, Vitamin C bị gia tăng bài tiết đáng kể qua đường tiết niệu, làm tăng nhu cầu Vitamin C lên cao trong các giai đoạn này. Các tác nhân gây stress hóa học như thuốc lá, ô nhiễm môi trường, và các dị ứng nguyên. Người ta khuyên nên sử dụng các chế phẩm bổ sung Vitamin C hoặc các thực phẩm giàu Vitamin C để bù đắp sự thiếu hụt này. Là một chất chống oxy hóa
Vitamin C hoạt động như một chất chống oxy hóa trong môi trường nước của cơ thể – cả nội bào lẫn ngoại bào. Đây là phương cách bảo vệ đầu tiên của Vitamin C. Trong khi đó vitamin E là một chất chống oxy hóa tan trong mỡ. Vitamin C cũng hoạt động cùng với các enzyme chống oxy hóa khác như glutathione peroxidadase,
catalase, và superoxide dismutase. Vitamin C còn hỗ trợ cho Vitamin E trong vai trò chống oxy hóa trong cơ thể, do vậy tăng cường hiệu lực của Vitamin E.
Cùng với Vitamin C và E, glutathione đảm đương vai trò chống đỡ và ngăn ngừa các tổn thương do các gốc tự do. Những cá thể bị thiếu glutathione di truyền (do thiếu men tổng hợp) có thương tổn tế bào tăng đáng kể. Các tế bào hồng cầu, bạch cầu và mô thần kinh bị ảnh hưởng nhiều nhất. Hậu quả là vỡ hồng cầu, giảm chức năng bạch cầu, thoái hóa mô thần kinh.
Trên các cá thể bị giảm tổng hợp glutathione, để tăng cường khả năng chống oxy hóa, người ta thường dùng các chất chống oxy hóa như glutathione, 2-mercaptopropionyl-glycin, Vitamin E, Vitamin C, và N-acetylcysteine (NAC), trong đó Vitamin C và NAC có ích lợi nhiều nhất. Các nghiên cứu đã cho thấy Vitamin C làm giảm tổn thương tế bào trên các bệnh nhân thiếu glutathione di truyền hiệu quả hơn và chi phí thấp hơn NAC. Với liều 500 mg mỗi ngày, Vitamin C đảm bảo duy trì nồng độ phù hợp glutathione hồng cầu.
Ứng dụng lâm sàng
Đã có hàng loạt nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, trên lâm sàng và trong cộng đồng chứng tỏ tính hữu ích khi sử dụng vitamin C qua rất nhiều cách: giảm tỷ lệ ung thư, tăng cường khả năng miễn dịch, bảo vệ cơ thể chống ô nhiễm và thuốc lá, thúc đẩy quá trình hàn gắn vết thương, tăng tuổi thọ, giảm nguy cơ đục thủy tinh thể. Các nghiên cứu còn cho thấy sử dụng vitamin C hữu ích cho rất nhiều tình trạng sức khỏe của cơ thể nhờ đặc tính chống oxy hóa và tăng cường khả năng miễn dịch của nó. Do đó, vitamin C là một thành phần quan trọng không thể thiếu của hầu hết các chế phẩm bổ sung dinh dưỡng và mọi chương trình dinh dưỡng khác.
Chỉ định
Phòng và chữa bệnh scorbut, các chứng chảy máu do thiếu vitamin C, tăng sức đề kháng trong nhiễm khuẩn, nhiễm độc, mệt mỏi, thai nghén, thiếu máu, dị ứng, người nghiện thuốc nghiện rượu…
Liều dùng
Uống 0,2 - 0,5 gam/ngày (không nên vượt quá 1 gam/ngày)
Trẻ em dùng liều ½ liều này, nên chia thành nhiều lần trong ngày.
Vitamin C và các bệnh lý liên quan
Một số bệnh lý và tình trạng sức khỏe mà vitamin C hỗ trợ như:
Hen suyễn, Xơ vữa động mạch, Rối loạn miễn dịch, Ung thư, Bệnh nấm Candida, Giòn mao mạch (giảm sức bền thành mạch), Đục thủy tinh thể, Cảm cúm, Lành vết thương, Loạn sản đốt sống cổ, Bệnh Crohn, Bệnh mạch vành, Đái tháo đường, Chàm, Mệt mỏi, Bệnh túi mật, Viêm lợi răng, Tăng nhãn áp (Glaucoma), Chấn thương thể thao, Viêm gan, Herpes simplex, Herpes zoster, Tăng huyết áp, Phát ban, Vô sinh, Nhiễm trùng, Thoái hóa võng mạc, Mãn kinh, Loét da, Sa van 2 lá, Viêm xương khớp, Bệnh Parkinson, Bệnh viêm nha chu, Loét dạ dày, Bệnh động mạch ngoại biên, Bệnh xơ cứng rải rác (bệnh Charcot), Tiền sản giật, Viêm khớp dạng thấp.
Hen suyễn và các trường hợp dị ứng khác:
Hen suyễn thường phát triển nhiều ở trẻ em và người trẻ hơn 20 tuổi. Tỷ lệ bệnh ngày càng gia tăng, do nhiều nguyên nhân, như: tăng stress đối với hệ miễn dịch (do tăng các chất hóa học độc hại trong không khí, nước, thực phẩm, … ), trẻ nhũ nhi dứt sữa sớm và ăn dặm sớm bằng thức ăn rắn, dùng nhiều gia vị trong thức ăn, thêm vào đó là các kỹ thuật lai tạo di truyền các giống cây trồng hình thành nên những loại thực phẩm có nhiều khả năng gây dị ứng.
Một số nghiên cứu chứng tỏ thiếu hụt Vitamin C trong thực phẩm và trong máu là một yếu tố nguy cơ độc lập của hen suyễn. Con của những người nghiện thuốc lá có nguy cơ hen suyễn cao hơn những đứa trẻ khác, do thuốc lá làm cạn kiệt nguồn Vitamin C và E ở phổi), và triệu chứng hen tiếp tục tiếp diễn đến tuổi trưởng thành với môi trường ngày càng ô nhiễm bởi các chất oxy hóa. Sử dụng chế phẩm bổ sung Vitamin C giúp giảm nguy cơ này.
Tại phổi, về mặt sinh lý, Vitamin C đóng vai trò chất chống oxy hóa chủ chốt trên bề mặt khí đạo, thực hiện vai trò chống đỡ và ngăn chặn các tổn thương do các chất oxy hóa nội sinh lẫn ngoại sinh, đặc biệt là Oxide Nitric.
Về phương diện lâm sàng, những bệnh nhân hen suyễn có nhu cầu Viatmin C cao hơn những người khác trong cộng đồng. Từ năm 1973 đã có 11 nghiên cứu lâm sàng về vai trò của Vitamin C trên hen suyễn. 7 trong số đó chứng tỏ Vitamin C cải thiện đáng kể các thông số hô hấp và các triệu chứng suyễn.
Liều cao Vitamin C hữu ích cho các bệnh nhân hen suyễn nhờ làm giảm nồng độ Histamine, và tất nhiên hiệu quả tốt cho các tình trạng dị ứng khác. Nó được xem như là một chất kháng Histamine tự nhiên, có nhiều lợi điểm nổi bật, bao gồm cả tính an toàn, và gần đây người ta còn phát hiện ra tính ức chế miễn dịch của Histamine. Trong giai đoạn đầu của đáp ứng miễn dịch, Histamine khuếch đại đáp ứng này bằng cách làm tăng tính thấm thành mạch và tăng co cơ trơn, nhờ đó gia tăng dòng yếu tố miễn dịch vào khu vực bị viêm nhiễm. Tiếp sau đó, Histamine lại
ngăn chặn sự tập trung bạch cầu vào khu vực viêm trong nỗ lực ngăn chặn đáp ứng miễn dịch.
Vitamine C kháng Histamine nhờ nhiều cơ chế. Đặc biệt nó ngăn chặn sự phóng thích Histamine từ các bạch cầu và tăng cường hiệu quả giải độc của Histamine. Một nghiên cứu gần đây khảo sát tác động kháng Histamine của Vitamin C sử dụng ngắn hạn và dài hạn và hiệu quả của nó trên chức năng bạch cầu đa nhân trung tính ở những người khỏe mạnh. Trong nghiên cứu dùng Vitamin C dài hạn, liều 2 g/ngày. Mẫu máu lúc đói lấy vào 2 tuần đầu và tuần thứ 6 lúc kết thúc cho thấy nồng độ Vitamin C máu tăng cao đáng kể trong khi nồng độ Histamine giảm 38 %. Khả năng hóa ứng động bạch cầu trong các phản ứng viêm tăng 19 %, giảm đến 30 % sau khi ngưng dùng Vitamin C. Tuy nhiên những thay đổi này đều có liên quan đến nồng độ Histamine. Khả năng hóa ứng động bạch cầu lớn nhất khi nồng độ Histamine nhỏ nhất. Đối với việc sử dụng Vitamin C ngắn hạn, người ta không thấy có sự thay đổi nào về nồng độ Histamine máu và khả năng hóa ứng động bạch cầu 4 giờ sau khi dùng liều Vitamin C duy nhất. Do vậy nghiên cứu này khuyến cáo những người có xu hướng dễ bị dị ứng hay nhiễm trùng nên sử dụng Vitamin C dài hạn qua các chế phẩm bổ sung Vitamin C.
Xơ vữa động mạch, Tăng cholesterol máu, và Tăng huyết áp
Hàng loạt nghiên cứu trong cộng đồng đã chứng tỏ việc sử dụng chế độ dinh dưỡng giàu Vitamin C làm giảm đáng kể nguy cơ tử vong do nhồi máu cơ tim và đột quỵ (và nhiều nguyên nhân khác, bao gồm cả ung thư).
Một trong những nghiên cứu chi tiết nhất phân tích việc sử dụng Vitamin C trên 11.348 người trưởng thành trong 5 năm, được chia thành 3 nhóm: (1) Nhập ít hơn 50 mg Vitamin C mỗi ngày qua thực phẩm; (2) Nhập nhiều hơn 50 mg/ngày (không dùng thuốc); và (3) Hơn 50 mg/ngày qua thực phẩm cộng với thuốc bổ sung (tính bằng mg). Kết quả cho thấy tử suất của nhóm nhập trên 50 mg/ngày thấp hơn tử suất trung bình của người trưởng thành đến 48 % về các bệnh tim mạch và tử suất toàn bộ. Về mặt lâm sàng, điều này tương ứng với sự kéo dài tuổi thọ ở nam 5 – 7 năm và ở nữ 1 – 3 năm.
Làm cách nào Vitamin C có thể làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch? Trước tiên nó hoạt động như một chất chống oxy hóa, kế đến nó củng cố sự vững chắc cấu trúc collagen của thành động mạch, giảm nồng độ cholesterol toàn phần máu, giảm huyết áp, tăng nồng độ HDL-cholesterol, ức chế sự kết tập tiểu cầu.
Các tổn thương oxy hóa của LDL-cholesterol đóng vai trò trung tâm trong sự hình thành xơ vữa động mạch. Vitamin C ngăn chặn sự oxy hóa LDL hết sức hữu hiệu, ngay cả đối với người hút thuốc lá. Hơn nữa, vì vitamin C phục hồi và tái tạo Vitaqmin E từ dạng bị oxy hóa trong cơ thể, nên nó tăng cường hiệu lực chống oxy hóa của Vitamin E .
Cholesterol
Nhiều nghiên cứu và quan sát lâm sàng cho thấy nồng độ Vitamin C tỷ lệ thuận với nồng độ Cholesterol toàn phần và nồng độ HDL-cholesterol máu. Một trong những nghiên cứu tiêu chuẩn nhất đã xác định nồng độ Vitamin C máu càng cao thì nồng độ LDL, Triglyceride càng thấp đồng thời nồng độ HDL càng cao. Lợi ích của HDL trên các bệnh lý tim mạch là rất to lớn. Cứ mỗi 0.5 mg Vitamin C tăng lên trong 100 mL máu tương ứng với tăng HDL 14.9 mg/100 ml ở nữ và 2.1 mg/100 ml ở nam. Cứ tăng HDL 1 % thì nguy cơ bệnh tim mạch giảm 4 %. Ngay cả những người bình thường khỏe mạnh có chế độ dinh dưỡng tốt, nồng độ Vitamin C máu bình thường việc cung cấp thêm Vitamin C qua chế phẩm bổ sung vẫn có lợi, tuy nhiêu hiệu lực này có ngưỡng giới hạn. Ngưỡng giới hạn này vào khoảng thấp hơn 215 mg/ngày cho nữ và 345 mg/ngày cho nam.
Huyết áp.
Các nghiên cứu lâm sàng và cộng đồng chứng tỏ nồng độ Vitamin C máu tỷ lệ nghịch với huyết áp; nghĩa là càng nhập nhiều Vitamin C thì huyết áp càng giảm. Hàng loạt nghiên cứu sơ bộ cho thấy hiệu quả giảm huyết áp nhẹ của Vitamin C (ví dụ giảm 5 mm Hg) trên các bệnh nhân tăng huyết áp trung bình.
Một trong những cách mà Vitamin C giúp duy trì huyết áp trong giới hạn bình thường là thúc đẩy bài tiết Chì. Sự phơi nhiễm Chì mạn tính do ô nhiễm môi trường, bao gồm cả nước uống, có liên quan đến tăng huyết áp và tăng tử suất các bệnh tim mạch. Những vùng dân sử dụng nước mưa có nồng độ Chì cao trong nước uống, và dân cư vùng này có nguy cơ cao huyết áp. Hơn nữa, nước mưa còn có nồng độ calcium và magnesium thấp – hai chất khoáng này hết sức quan trọng trong việc bảo vệ chống tăng huyết áp.
Cầu nối mạch vành
Trong bệnh viện thường ít sử dụng Vitamin C bổ sung, mặc dù khả năng thiếu hụt Vitamin C rất cao ở các bệnh nhân nhập viện. Để minh họa cho nhu cầu bổ sung Vitamin C trong bệnh viện, một nghiên cứu phân tích tình trạng Vitamin C trên các bệnh nhân phẫu thuật nối tắt mạch vành. Nồng độ Vitamin C huyết tương tụt xuống 70 % 24 giờ sau phẫu thuật và còn duy trì ở mức thấp này 2 tuần hậu phẫu. Ngược lại, nồng độ Vitamin E và Carotenoid không thay đổi đáng kể, có lẽ do chúng là các Vitamin tan trong mỡ nên được cơ thể tích trữ lâu dài. Sự cạn kiệt nguồn dự trữ Vitamin C làm suy yếu khả năng chống đỡ bệnh tật do các gốc tự do, nhiễm trùng, hàn gắn vết thương trên các bệnh nhân này. Do đó, Vitamin C bổ sung là hết sức cần thiết cho các bệnh nhân trong giai đoạn hồi phục sau mổ nói chung và hậu phẫu cầu nối mạch vành nói riêng.
Ngăn ngừa ung thư
Vitamin C đảm nhiệm nhiều chức năng quan trọng trong bảo vệ cơ thể chống ung thư, bao gồm hoạt động chống oxy hóa và bảo vệ cấu trúc tế bào (gồm DNA) tránh các tổn thương. Vitamin C cũng giúp cơ thể đương đầu với ô nhiễm môi trường, tăng cường chức năng miễn dịch, ức chế sự hình thành các hợp chất sinh ung trong cơ thể.
Các bằng chứng dịch tễ học về vai trò bảo vệ cơ thể chống ung thư của vitamin C là không thể chối cãi. Aên nhiều vitamin C thực sự làm giảm nguy cơ của tất cả các dạng ung thư, gồm ung thư phổi, đại tràng, ung thư vú, cổ tử cung, thực quản, khoang miệng, và ung thư tụy. Điểm mấu chốt từ tất cả các nghiên cứu này là khẳng định một lần nữa mọi người cần phải sử dụng nguồn thực phẩm giàu vitamin C hay các chế phẩm bổ sung vitamin C. Hàu hết các nghiên cứu này tập trung vào khả năng ngăn ngừa ung thư của vitamin C, carotene hay những dưỡng chất tương tự trong thực phẩm mà ít chú ý đến các chế phẩm bổ sung.
Ung thư phổi
Trong 11 khảo sát về vai trò chống ung thư phổi của Vitamin C, 9 khảo sát cho thấy giảm nguy cơ ung thư với liều cao. Năm trong số này kết quả khá rõ ràng, và bốn trong đó chứng minh rằng Vitamin C hữu hiệu hơn cả beta-carotene. Gladys Block, một tác giả đi tiên phong trong phong trào sử dụng chất chống oxy hóa ngăn ngừa ung thư tại Mỹ, đã viết rằng: ”Những nghiên cứu gần đây cho thấy Vitamin C là một yếu tố bảo vệ chống ung thư phổi độc lập và hữu hiệu còn hơn cả beta-carotene như đã từng đề cập trước đây”.
Ung thư miệng, thực quản và dạ dày
7 trên 8 nghiên cứu về ung thư vòm miệng cho thấy ăn ít vitamin C là yếu tố nguy cơ cao. Những người ăn ít nhất vitamin C hàng ngày có nguy cơ ung thư vòm miệng cao gấp 2 lần so với người ăn nhiều nhất. Kết quả cũng tương tự trên ung thư thực quản. Trong khi đó 16/16 nghiên cứu cho thấy việc sử dụng nhiều vitamin C hàng ngày có hiệu quả đáng kể trong bảo vệ chống ung thư dạ dày. Ung thư dạ dày có liên quan mật thiết với một số hợp chất sinh ung được biết như nitrosamine. Nitrosamine sinh ra nhiều khi ăn các dạng thịt hun khói. Vitamin C ức chế đáng kể sự hình thành nitrosamine. Ung thư vú
Một phân tích hồi cứu về vai trò của các yếu tố dinh dưỡng trên ung thư vú kết luận rằng “Vitamin C là một yếu tố bảo vệ hữu hiệu nhất giúp cơ thể chống lại các yếu tố nguy cơ ung thư vú”. Nồng độ vitamin C còn quan trọng hơn cả acid béo bão hòa, beta-carotene và vitamin E.
Ung thư cổ tử cung
Nguy cơ bị ung thư CTC tăng lên đột ngột khi lượng Vitamin C nhập vào giảm sút. Phụ nữ ăn vào ít hơn 88 mg Vitamin C mỗi ngày có nguy cơ ung thư CTC cao gấp 4 lần so với những người ăn vào nhiều hơn. Những trường hợp loạn sản CTC (một dạng tiền ung thư) và ung thư biểu mô tại chỗ có lượng nhập và nồng độ Vitamin C máu thấp hơn những phụ nữ CTC bình thường. Như vậy sự nhập Vitamin C không đầy đủ là một yếu tố nguy cơ độc lập đối với loạn sản CTC và ung thư biểu mô tại chỗ CTC.
Ung thư tụy
6 trong 7 nghiên cứu chứng tỏ nhập nhiều Vitamin C giúp giảm nguy cơ mắc ung thư tụy tạng. Nguy cơ ung thư này tăng gấp 2,6 lần ở những người nhập ít hơn 70 mg Vitamin C mỗi ngày so với những người nhập nhiều hơn 159 mg/ngày.
Ung thư đại tràng
Vai trò bảo vệ của Vitamin C trong ung thư đại tràng được chứng minh qua 6/8 nghiên cứu, hầu hết làm giảm nguy cơ 2 lần. Theo Viện Ung Thư học Quốc gia Hoa Kỳ, Vitamin C còn làm giảm sự hình thành các hợp chất sinh ung do vi khuẩn ở đại tràng tạo ra.
Điều trị ung thư
Xu hướng chung của điều trị ung thư rất khó chấp nhận việc sử dụng vitamin C và các chế phẩm bổ sung dinh dưỡng tương tự. Tuy nhiên, vấn đề trước hết là chúng ta hãy mở rộng thế giới quan đầu óc và thay đổi quan điểm, để dần dần làm mất đi những phản ứng cho rằng chế phẩm dinh dưỡng là không khoa học.
Năm 1976, Bác sĩ Linus Pauling, một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất của thế kỷ 20 với 2 lần đoạt giải Nobel, đã đưa Vitamin C lên vũ đài khoa học khi báo cáo kết quả nghiên cứu của ông cùng với Bác sĩ Ewan Cameron. Pauling và Cameron đã cho những bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối sử dụng Vitamin C 10 g/ngày. 16 trong số 100 bệnh nhân này đã sống sót sau hơn 1 năm.
Tiếp sau đó, Cameron đã thực hiện một nghiên cứu tương tự trên một mẫu lớn hơn, 1826 bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. 294 bệnh nhân được dùng Vitamin C liều cao (10 g/ngày). 1532 bệnh nhân còn lại xem như nhóm chứng. Kết quả phân tích cho thấy những bệnh nhân được sử dụng acid ascorbic có thời gian sống thêm gấp đôi so với nhóm chứng (343 ngày so với 180 ngày).
Nhiều nhà phê bình vẫn chưa công nhận những kết quả của Pauling và Cameron. Theo họ, các nghiên cứu này không phải là nghiên cứu mù đôi, nên kết quả không đảm bảo. Một số nghiên cứu kiểm chứng đã bác bỏ kết luận của hai ông. Dù sao đi nữa, việc sử dụng Vitamin C trong ung thư là có lợi, trước hết vì nó bù đắp vào
nồng độ bị thiếu hụt trên những bệnh nhân này, đồng thời nó còn làm tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể.
Đục thủy tinh thể
Những cá thể có chế độ dinh dưỡng giàu Vitamin C và E, selenium, carotene có nguy cơ hình thành đục thủy tinh thể và thoái hóa võng mạc giảm đi rất nhiều so với những người nhập ít hơn. Bên cạnh đó, các chất chống oxy hóa này làm chậm tiến trình đục thủy tinh thể và cải thiện thị lực. Nồng độ Vitamin C trong máu bình thường vào khoảng 0,5 mg/100 ml máu, ngược lại trong các tuyến thượng thận, tuyến yên, nồng độ Vitamin C cao gấp 100 lần, còn trong gan, lách, thủy tinh thể: gấp 20 lần. Cơ thể phải sử dụng khá nhiều năng lượng để bơm Vitamin C ngược gradient nồng độ từ máu vào các cơ quan này. Do đó chúng ta cần phải cung cấp nhiều Vitamin C mỗi ngày nhằm nâng cao nồng độ trong máu, giảm bớt sự chênh lệch nồng độ giữa máu và các mô hoạt động.
Cảm lạnh thông thường
Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để khảo sát vai trò của Vitamin C trên cảm cúm, đặc biệt là khả năng tăng cường hệ miễn dịch. Đã 20 năm trôi qua kể từ khi Linus Pauling viết Vitamin C và Cảm cúm (dựa trên quan điểm của ông và hàng loạt nghiên cứu chứng tỏ Vitamin C có thể làm giảm các triệu chứng nặng lẫn thời gian nhiễm bệnh), người ta vẫn còn tranh luận về hiệu quả lâm sàng của nó.
Hiện người ta khuyến cáo sử dụng Vitamin C cho các trường hợp nhiễm trùng cấp tính, đặc biệt là ở người lớn tuổi. Mặc dù chỉ với liều thấp, Vitamin C cũng có thể làm cải thiện đáng kể các triệu chứng lâm sàng. Nên sử dụng Vitamin C trên tất cả các bệnh nhân lớn tuổi nhiễm khuẩn hô hấp cấp.
Đái tháo đường
Vì insulin hỗ trợ sự vận chuyển Vitamin C vào tế bào, nên hầu hết các bệnh nhân bệnh đái tháo đường bị thiếu Vitamin C nội bào nếu không được cung cấp Vitamin C liều cao cho dù có được sử dụng chế độ ăn đầy đủ Vitamin C như người bình thường. Bệnh nhân đái tháo đường đơn giản cần nhiều Vitamin C hơn, và Vitamin C liều cao là hoàn toàn cần thiết trong điều trị bệnh đái tháo đường. Liều dùng thông thường trong trường hợp này là 1.000 – 3.000 mg/ngày chia 2 - 3 lần.
Thiếu hụt Vitamin C nội bào âm ỉ, mạn tính dẫn đến hàng loạt vấn đề trong đái tháo đường, như tăng tính thấm thành mạch, giảm sự lành vết thương, tăng cholesterol máu, suy giảm hệ thống miễn dịch. Hơn nữa, đái tháo đường làm tăng sự hình thành gốc tự do. Vitamin C giúp cơ thể kiểm soát đường, hoạt động của gốc tự do, giảm sự tích tụ sorbitol nội bào, và ức chế sự gắn kết của glucose với protein (sự glycosyl hóa). Sự tích tụ sorbitol và sự glycosyl hóa có liên quan rất nhiều đến các biến chứng của đái tháo đường, nhất là các biến chứng về mắt và thần kinh.
Sorbitol và các biến chứng đái tháo đường
Sorbitol là một sản phẩm phụ được hình thành trong quá trình chuyển hóa glucose dưới sự hỗ trợ của men aldose reductase. Ở những người không bị đái tháo đường, một khi sorbitol sinh ra sẽ được tiếp tục chuyển hóa thành fructose nhờ men polyol-dehydrogenase. Sự chuyển hóa thành fructose này giúp sorbitol được tống xuất ra khỏi tế bào khi nồng độ tăng cao. Nhưng không may là những bệnh nhân đái tháo đường nồng độ đường huyết tăng cao nên sorbitol tích tụ ngày càng nhiều trong tế bào và đóng vai trò chủ yếu lên sự phát triển các biến chứng. Chúng ta có thể hiểu vai trò đó thông qua việc xem xét sự liên quan giữa sorbitol và sự hình thành đục thủy tinh thể. Thủy tinh thể mặc dù không có mạch máu nuôi nhưng lại là một mô chuyển hóa tích cực và biến đổi không ngừng suốt cuộc đời. Tăng đường huyết gây tăng tích tụ sorbitol từ glucose. Vì sorbitol hầu như không thấm qua màng thủy tinh thể và thiếu men polyol-dehydrogenase nên sorbitol tích tụ với nồng độ ngày càng cao, và nồng độ này không thuyên giảm ngay cả khi glucose máu về bình thường. Kết quả là nước bị kéo vào trong tế bào trong thủy tinh thể để duy trì sự cân bằng áp suất thẩm thấu. Khi nước bị kéo vào trong, tế bào phải phóng thích nhiều phân tử nhỏ như amino acid, inositol, glutathione, Niacin, Vitamin C, Mg và K để cân bằng áp suất thẩm thấu. Đây là những phân tử bảo vệ thể thủy tinh tránh các tổn thương, thiếu chúng thể thủy tinh trở nên nhạy cảm hơn, các sợi protein mỏng manh bị mất độ trong suốt và đục thủy tinh thể hình thành.
Các thuốc chuyên dùng ức chế tích tụ sorbitol thường có nhiều độc tính. Ngược lại, Vitamin C hết sức an toàn và hữu hiệu trong việc giảm nồng độ sorbitol. Có thể sử dụng Vitamin C liều thấp 100 mg hàng ngày, nhưng thường người ta dùng 1.000 mg/ngày có thể bình thường hóa nồng độ sorbitol trong tế bào hồng cầu, trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi 30 ngày.
Ức chế sự Glycosyl hóa
Sự glycosyl hóa là sự gắn kết glucose với protein, dẫn đến những thay đổi về cấu trúc và chức năng của nhiều protein trong cơ thể. Ở bệnh nhân đái tháo đường có sự glycosyl hóa quá mức của albumin và các protein của hồng cầu, của thể thủy tinh và của bao myelin (bao sợi thần kinh). Sự glycosyl hóa này làm biến đổi cấu trúc và chức năng của các tế bào và mô liên quan và góp phần rất lớn vào sự hình thành các biến chứng của đái tháo đường. Ví dụ, các phân tử LDL bị glycosyl hóa (có nồng độ cao trên bệnh nhân đái tháo đường) sẽ không được gắn kết với LDL receptor hoặc ngăn chặn sự tổng hợp cholesterol ở gan. Kết quả bệnh nhân đái tháo đường điển hình bị tăng cholesterol máu và tăng nguy cơ xơ vữa động mạch đáng kể.
May thay, Vitamin C liều cao (1 - 3 g/ngày) làm giảm đáng kể sự glycosyl hóa protein (có thể giảm 33 % albumin bị glycosyl hóa).
Giảm số lượng tinh trùng
Vitamin C (acid ascorbic) đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ chất liệu di truyền của tinh trùng (DNA) tránh các tổn thương. Nồng độ Vitamin C trong tinh dịch cao hơn rất nhiều lần so với trong các dịch khác
VAI TRÒ CỦA VITAMIN B ĐỐI VỚI SỨC KHỎE CON NGƯỜI
Vitamin nhóm B là nhóm những vitamin có thể hòa tan trong nước, đóng vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi chất của cơ thể, đặc biệt là quá trình chuyển hóa carbohydrate thành đường và chuyển hóa chất béo. Người ta phân ra 8 loại vitamin thuộc nhóm B. Mỗi loại vitamin thực hiện một chức năng khác nhau, đồng thời chúng cũng kết hợp với nhau để làm cho cơ thể khỏe mạnh. Đặc biệt, vitamin B đóng vai trò quan trọng với quá trình phát triển và sức khỏe thai nhi.
Cơ thể chúng ta không thể dự trữ vitamin B, do đó, chúng ta phải bổ sung thường xuyên thông qua chế độ ăn uống cũng như viên uống bổ sung.
Vitamin B1 (Thiamine)
Chức năng quan trọng nhất của vitmain B1 nằm ở hệ thống thần kinh, tuy nhiên, bên cạnh đó, nó còn có tác dụng giúp cơ thể tiêu hóa thức ăn. Cơ thể thiếu vitamin B1 sẽ dẫn đến nguy cơ bị bệnh beriberi (bệnh tê phù). Triệu chứng của bệnh bao gồm: mất kiểm soát chuyển động của cơ bắp, giảm cân, nhịp tim bất thường, và teo cơ.
Cơ thể thiếu hụt vitamin B1 trong một khoảng thời gian dài có thể dẫn đến viêm, dần dần suy tim.
Vitamin B1 có nhiều trong nhóm thực phẩm: bánh mì, ngũ cốc, mì ống, thịt, đặc biệt là nội tạng (gan, thận), đậu, và các loại hạt.
Vitamin B2 (riboflavin)
Vitamin B2 có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sức khỏe làn da. Nếu làn da của bạn bị tổn thương, rất có thể bạn cần phải bổ sung vitamin B2. Thiếu hụt vitamin B2 là nguyên nhân của tình trạng da nhờn, có vảy, bong da môi.
Ngoài ra, vitamin B2 còn thực hiên chức năng hỗ trợ quá trình trao đổi chất của protein, chất béo, carbohydrate. Những sản phẩm làm từ sữa, các loại rau lá xanh, thịt nạc là những nguồn thực phẩm giàu vitamin B2.
Vitamin B6 (Pyridoxine)
Vitamin B6 là một thành phần không thể thiếu trong quá trình sản xuất tế bào máu của cơ thể. Nó giúp cơ thể phá vỡ và tiêu hóa protein. Vitamin B6 rất quan trọng với sức khỏe trẻ nhỏ. Trẻ thiếu loại vitamin này thường hay cáu kỉnh, đau bụng, sụt cân, nôn mửa nhiều.
Người lớn thiếu vitamin B6 thường có một số biểu hiện như tinh thần không tốt, hay nhầm lẫn. Thịt lợn, thịt gà, cá, đậu khô, các loại hạt, trái cây, rau xanh, ngũ cốc là những nguồn vitamin B6 dồi dào.
Vitamin B12 (Cyanocobalamin)
Vitamin B12 thực hiện rất nhiều chức năng trong cơ thể như hình thành DNA, sản xuất hồng cầu, tốt cho hệ thần kinh. Cơ thể thiếu vitamin B12 gây ảnh hưởng đến não, và tủy sống. Các triệu chứng bao gồm: cơ thể suy yếu bất thường, đau lưỡi.
Thịt, sữa động vật là những nguồn thực phẩm giàu vitamin B12.
Vitamin B3 (Niacin)
Ngoài công dụng hỗ trợ quá trình trao đổi chất béo và carbohydrate, vitamin B3 còn đóng một vai trò quan trọng đối với sức khỏe thinh thần. Không những thế, niacin còn giữ vai trò chính trong quá trình sản xuất năng lượng và nuôi dưỡng da.
Người thiếu vitamin B3 thường bị triệu chứng pellagra (hay còn gọi là nứt da).Những thực phẩm giàu vitamin B bao gồm ngô, thịt nạc.
Axit folic (Vitamin B9)
Axit folic đặc biệt quan trọng với phụ nữ mang thai. Nếu thiếu nhóm vitamin B này, trẻ nhỏ sinh ra có nguy cơ cao bị dị tật ống thần kinh như tật nứt đốt sống.
Không chỉ phụ nữ mang thai, tất cả chúng ta đều cần bổ sung axit folic thông qua chế độ ăn hàng ngày để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cũng như phục vụ quá trình tạo mới tế bào. Thiếu axit folic dẫn đến nguy cơ thiếu máu, vị giác kém, lưỡi sưng đỏ.
Ngũ cốc, trái cây có múi, rau xanh, thịt và đậu khô là những nguồn thực phẩm dồi dào axit folic.