71
CÁC CHÍNH SÁCH VÀ CHƯƠNG TRÌNH DÂN SỞ ĐÔNG Á

Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á · riêng biệt của các quốc gia này trong các chính sách dân số đã được so sánh và những đường

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

CÁC CHÍNH SÁCH VÀ CHƯƠNG TRÌNH DÂN SỐ

Ở ĐÔNG Á

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

1

LỜI NÓI ĐẦU

Đây là một trong hai cuốn sách báo cáo kết quả của một dự án do Trung tâm Đông-Tây đề xướng. Các báo cáo đã được trình bày tại ba hội nghị tổ chức trong năm 1997: Hội nghị về Dân số và kỳ tích kinh tế ở châu Á (Trung tâm Đông-Tây, Honolulu, HI, từ 7-10 tháng 1 năm 1997); Diễn đàn tri thức về đà tăng dân số và kinh tế vĩ mô (Học viện Ngân hàng Thế giới và Trung tâm Đông Tây, Washington, DC, 21-22 tháng 7 năm 1997) và Hội thảo chính sách về phát triển kinh tế châu Á: Những triển vọng lâu dài (trường đại học Nihon, Trung tâm Đông-Tây và Học viện Ngân hàng Thế giới, Tokyo, 20-21 tháng 10 năm 1997). Cuốn sách thứ hai - Biến động dân số và phát triển kinh tế ở Đông Á: Đương đầu với thách thức và nắm bắt cơ hội - do nhà in Đại học Standford xuất bản, nghiên cứu những tác động của biến động dân số đối với kinh tế ở Đông Á.

Ngoài các tác giả còn có rất nhiều người đã đóng góp cho dự án này bằng cách tham gia các hội nghị, hội thảo, có báo cáo tham luận cũng như cung cấp các tư liệu có giá trị. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người có tên sau: Sajeda Amin, Mahluddin Khan Alamgir, Nancy Birdsall, David Bloom, Colin Bradford, Jeff brown, lee-jay Cho, Minja Kim Choe, Julie DaVanzo, Angus Deaton, Phil Estermann, Jacques van des Gaag, David Horlacher, Ponciano Intal, Ir., Andrew Kantner, Mitsuaki Kojima, Toshio kuroda, Sumner La Croix, Karen Mason, Thomas Merrick, Duck Woo Nam, Naohiro Ogawa, Catherine pierce, Mathana phananiramai, lant Pritchett, Robert Rethorford, Gerard Russo, Joanne Salop, T. Paul Schultz, Sara Seims, Yukiyasu Sezai, R. Paul Shaw, Young-Soo Shin, Hananto Sigit, Steven Sinding, Kenjin Sumida, Krishnamurthy Sundaram, Ann Takayesu, Noreen Tanouye, Pravin Visaria, Michael Ward, Sidney Westley, John Williamson và Sharon Yamamoto. Hai cá nhân đã có những đóng góp đặc biệt: Sandra Ward đã dành thời giờ liên tục biên tập bản thảo cho những cuốn sách này và Burnham O. Campbell - người góp phần khởi xướng dự án này- đã trở thành đồng biên tập nếu như anh không mất sớm.

Tài trợ cho dự án này là Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Quỹ tài trợ Rockefeller, Quỹ tài trợ William và Flora Hewlett, Ngân hàng Thế

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

2

giới và Bộ Ngoại giao Nhật Bản (MOFA). Tài trợ của USAID và MOFA được coi như là một phần của Chương trình hợp tác chung toàn cầu.

DANH SÁCH CÁC TÁC GIẢ

Chirapun Gullaprawit: Phó giám đốc Vụ kế hoạch nguồn nhân lực, Uỷ ban phát triển kinh tế và xã hội quốc gia, Bangkok.

Shunichi Inoue: Giáo sư, Trường cao đẳng khoa học và nhân văn, Đại học Nihon, Tokyo.

Tai-Hwan Kwon: Giáo sư xã hội học, Khoa xã hội học, Đại học Quốc gia Seoul.

Paul K.C liu: Viện sĩ Viện Kinh tế, Học viện Sinica, Taipei.

Andrew Mason: Giáo sư kinh tế, Khoa Kinh tế, Đại học Hawai, và ủy viên cao cấp của Trung tâm Đông-Tây, Honolulu.

N. Haidy A. Pasay: Giáo sư kinh tế, Khoa Kinh tế, Đại học Inđônêsia, Jakarta.

Turro S. Wonngkaren: Trợ giáo nghiên cứu tại Viện Dân số, Khoa Kinh tế, Đại học Inđônêsia, Jakarta.

Mui teng Yap: Nghiên cứu viên cao cấp, Viện nghiên cứu chính sách, Xinh-ga-po.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

3

TÓM TẮT

Biến động dân số và phát triển kinh tế ở Đông Á: Thách thức và Cơ hội

Biên tập: Andrew Mason

Mục đích của cuốn sách này là đưa ra lời giải đáp toàn diện cho câu hỏi đơn giản: “Biến động dân số đóng vai trò gì trong sự phát triển kinh tế vượt bậc ở Đông Á?” Trả lời câu hỏi này là quan trọng bởi thành tựu kinh tế phi thường của các nền kinh tế Đông Á trong suốt kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ đã trở thành tâm điểm của các cuộc tranh luận về chính sách phát triển hiện nay. Những nghiên cứu trước đây đã bỏ qua những biện pháp cơ bản và quan trọng trong đó có những ảnh hưởng của dân số đối với tăng trưởng kinh tế và hội nhập kinh tế khu vực. Do đó, những người được giao nhiệm vụ hoạch định và thực hiện các chương trình nâng cao chất lượng sống trên quy mô thế giới đã không đánh giá đầy đủ tầm quan trọng của việc giảm đáng kể mức sinh ở Đông Á, giảm tỷ lệ gia tăng dân số và gắn liền với những thay đổi đó là những biến động về cơ cấu tuổi.

Có hai nhóm vấn đề lớn được đề cập đến. Trước hết là sự biến động nhanh chóng của dân số có đóng góp cho phát triển kinh tế của Đông Á hay không? Cụ thể hơn, các xu hướng dân số đã ảnh hưởng đến những khía cạnh nào của phát triển trong khu vực - tăng trưởng kinh tế, sự bất bình đẳng, địa vị kinh tế của phụ nữ? Dân số tác động đến các nền kinh tế Đông Á thông qua những cơ chế nào? Những đặc điểm về thể chế, chính trị, xã hội và kinh tế nào là điều kiện để dân số tác động đến phát triển? Liệu kinh nghiệm của Đông Á có cung cấp những bài học hữu ích cho các nước đang phát triển khác hay chỉ là cá biệt? Hai là chính sách dân số đóng vai trò như thế nào ở Đông Á? Những chính sách và chương trình nào đã được thực hiện và chi phí là bao nhiêu? Có bằng chứng nào chứng tỏ chính sách dân số Đông Á đạt được những mục tiêu của mình? Liệu khả năng phát triển kinh tế nhanh trong khu vực có phải là yếu tố duy nhất dẫn đến những kết quả của công tác dân số hay không? Hoặc liệu có phải các chính sách dân số đã đẩy nhanh thời kỳ quá độ chuyển sang mức sinh thấp và làm chậm lại tốc độ tăng trưởng dân số hay không?

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

4

Những vấn đề này đã được giải quyết thông qua những nghiên cứu cụ thể kinh nghiệm của sáu nền kinh tế Đông Á thời kỳ 1960-90 bao gồm: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Xinh-ga-po, Thái lan và In-đô-nê-xia. Những cách tiếp cận riêng biệt của các quốc gia này trong các chính sách dân số đã được so sánh và những đường hướng quan trọng mà qua đó biến động dân số đã tác động đến sự phát triển kinh tế cũng được xem xét. Trong số những vấn đề được nghiên cứu có nội dung tác động của dân số tới năng suất lao động và sự đổi mới, cơ cấu kinh tế, tiết kiệm, đầu tư, các dòng vốn quốc tế, di cư lao động quốc tế, phát triển nguồn nhân lực, phân phối thu nhập và địa vị kinh tế của phụ nữ.

Một trong những bài học quan trọng nhất từ kinh nghiệm của Đông Á là tác động của biến động dân số đối với nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào môi trường xã hội, kinh tế và chính sách trong thời kỳ quá độ dân số. Trong những năm 1960, gia tăng nhanh dân số đã bộc lộ một số yếu tố tiềm ẩn cản trở phát triển kinh tế Đông Á. Các chính sách có hiệu quả và nhiều thể chế không liên quan trực tiếp đến dân số đã góp phần ngăn ngừa hoặc giảm thiểu những tác động bất lợi. Gia tăng nhanh dân số đã không làm suy giảm sản lượng lương thực tính theo đầu người là nhờ có các Viện nghiên cứu được thành lập để phát triển các loại giống cao sản, một yếu tố cần thiết cho thành công về kinh tế. Việc lực lượng lao động tăng trưởng nhanh ở Đông Bắc Á đã không dẫn đến nạn thất nghiệp hay thiếu việc làm ở khu vực nông nghiệp bởi thị trường lao động đã hoạt động tốt hơn đồng thời nhiều chính sách kinh tế cũng đã rất thành công trong việc thúc đẩy tăng trưởng các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ.

Tương tự như vậy, những biến động dân số tiếp theo chỉ tạo nên những cơ hội phát triển kinh tế nhanh hơn. Những tác động tích cực còn phụ thuộc vào những đặc trưng đa dạng của các quốc gia trong khu vực. Độ vênh giữa tăng trưởng lực lượng lao động và tăng trưởng dân số chỉ tạo điều kiện thuận lợi vì các chính sách phát triển – ví dụ như đẩy mạnh xuất khẩu có hiệu quả - đã tạo việc làm hấp dẫn cho lực lượng lao động đang tăng trưởng nhanh. Biến động dân số đã đem lại tỷ lệ tiết kiệm cao bởi vì sự ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển của các thể chế tài chính đã khuyến khích tiết kiệm đồng thời Chính phủ các nước đã hạn chế được các hệ thống chuyển nhượng quy mô lớn có thể làm suy giảm động cơ tiết kiệm. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao là có lợi vì các chính sách, đặc biệt là

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

5

chính sách kinh tế vĩ mô ổn định đã giữ tỷ lệ lạm phát ở mức thấp, tạo ra một môi trường kinh tế trong đó các công ty có thể hoạt động một cách có hiệu quả và duy trì tốc độ quay vòng vốn cao. Những biến động cơ cấu tuổi của dân số dẫn đến chi tiêu cho giáo dục lớn hơn vì chính sách công là ưu tiên cao cho giáo dục. Những thay đổi trong trách nhiệm sinh con của phụ nữ đưa lại hiệu quả kinh tế thuận lợi vì Chính phủ các nước đã xoá bỏ các luật và chính sách quản lý hành chính gây phân biệt đối xử với phụ nữ. Tóm lại, những biến động nhanh về dân số là điều kiện cần nhưng chưa đủ để tăng trưởng nhanh kinh tế. Những thay đổi về dân số đã tạo ra nhiều cơ hội và các quốc gia Đông Á đã nắm bắt được thông qua việc theo đuổi các chính sách kinh tế - xã hội và phát triển những thể chế hỗ trợ các nỗ lực phát triển.

Hiểu được mối quan hệ giữa sự biến động dân số và nền kinh tế sẽ giúp sáng tỏ hơn tương lai của Đông Á. Nhiều biến động dân số được nghiên cứu trong các đề tài về bản chất là diễn ra liên tục và sẽ ảnh hưởng đến các nền kinh tế Đông Á trong nhiều thập niên. Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á gần đây đã trở thành dĩ vãng nhưng những ảnh hưởng dân số vẫn gây tác động sâu sắc và chủ yếu. Các điều kiện dân số còn cho phép khu vực này phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn trong một vài thập niên tới, trừ Nhật Bản. Chỉ có thời gian mới cho câu trả lời chính xác liệu các nước Đông Á có nắm bắt được những cơ hội tiếp theo hay không.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

6

1 Giới thiệu

Andrew Manson

Thế kỷ XX là giai đoạn biến động dân số chưa từng có trong lịch sử. Dân số toàn cầu đã tăng gần gấp bốn, từ 1,6 tỷ người năm 1900 lên 6 tỷ người năm 2000 (Cohen 1995, App.2, 400-401; UN 1998). Tỷ lệ gia tăng dân số, đặc biệt trong thế giới đang phát triển, tăng nhanh hơn trong suốt nửa đầu thế kỷ và đạt đỉnh điểm vào cuối những năm 1960. Phản ứng đối với tình trạng gia tăng nhanh dân số cũng là chưa từng có trong lịch sử. Những quan ngại về ảnh hưởng của gia tăng nhanh dân số đối với môi trường và kinh tế đã thúc đẩy Liên Hợp Quốc, các cơ quan viện trợ song phương của nước ngoài, các tổ chức đa phương cũng như các quỹ tư nhân đã đầu tư hàng tỷ đô la vào các chương trình dân số. Chính phủ nhiều nước đang phát triển, đặc biệt ở châu Á, đã theo đuổi mạnh mẽ những chính sách nhằm làm chậm tốc độ gia tăng dân số.

Các quốc gia Đông Á nằm trong số những quốc gia đi đầu và tích cực trong chính sách dân số. Ngay từ đầu những năm 1960, nhiều nước đang phát triển ở Đông Á đã từ bỏ những chính sách khuyến sinh, xác định ổn định dân số là mục tiêu phát triển quốc gia và đã thông qua rất nhiều chương trình tổng thể nhằm làm chậm tốc độ gia tăng dân số. Thoáng nhìn, kinh nghiệm Đông Á tưởng như đã hỗ trợ mạnh mẽ cho các chính sách ổn định dân số. Tỷ lệ sinh và tỷ lệ gia tăng dân số ở khu vực này đã giảm nhanh hơn so với các khu vực khác của thế giới đang phát triển cũng như những quốc gia đã hoàn thành công nghiệp hoá. Trong cùng thời kỳ, các quốc gia Đông Á đã đạt được những thành công về kinh tế chưa từng có trong lịch sử. Trong ba thập niên, 1960-90, các quốc gia đó đã chuyển từ khu vực tụt hậu sang khu vực năng động nhất của kinh tế thế giới. Những đất nước nghèo khổ vào năm 1960 đã được xếp hạng và trong một số lĩnh vực đã vượt cả những nước có mức thu nhập cao ở phương Tây.

Dự án nghiên cứu được thể hiện trong cuốn sách này là một phần công việc khảo sát đánh giá các mối quan hệ gắn kết giữa biến động dân số và phát triển kinh tế ở Đông Á với mục đích xác định liệu biến động dân số nói chung và chính sách dân số nói riêng, đã đóng vai trò quan trọng như thế nào trong những

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

7

thành công về kinh tế của Đông Á. Kết quả nghiên cứu đã được trình bày trong hai cuốn sách. Trọng tâm của cuốn sách này là chính sách dân số ở Đông Á. Những chính sách và chương trình nào đã được thực hiện và mức chi phí là bao nhiêu? Có bằng chứng nào minh chứng rằng chính sách dân số của các quốc gia Đông Á đã đạt được các mục tiêu dân số? Những chương trình đó có những đặc trưng gì để đem lại thành công của các quốc gia này và đưa ra những bài học kinh nghiệm gì cho các quốc gia khác? Cuốn sách tiếp theo nghiên cứu tác động của biến động dân số đối với phát triển (Manson- Sắp xuất bản). Cụ thể là, những lĩnh vực nào của phát triển đã chịu ảnh hưởng của các xu hướng dân số khu vực? Dân số đã ảnh hưởng đến các nền kinh tế Đông Á thông qua những cơ chế nào? Những đặc điểm thể chế, chính trị, xã hội và kinh tế nào tạo điều kiện để dân số ảnh hưởng đến phát triển?

Cuộc nghiên cứu đã kiểm định kinh nghiệm của sáu nền kinh tế Đông Á thời kỳ 1960-90 gồm: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Xinh-ga-po, Thái Lan và In-đô-nê-xia. Những quốc gia này được lựa chọn vì một số lý do. Thứ nhất, các quốc gia đó nằm trong nhóm các quốc gia đang phát triển đầu tiên đạt mức sinh thấp, thấp đến mức đủ để đạt được tăng trưởng dân số bằng 0 hoặc tăng trưởng âm, trừ In-đô-nê-xia. Chuyển đổi từ mức sinh cao sang sinh thấp đã được cô đọng lại vì chúng ta đã thực sự đạt được thành tích trong thời kỳ quá độ dân số và những đổi thay về kinh tế đi kèm. Những biến động dân số – giảm mức sinh, tăng tuổi thọ trung bình và những làn sóng cơ cấu tuổi – là khá rõ nét đến mức những tác động của dân số đối với phát triển sẽ hiện hữu nếu dân số thực sự là vấn đề.

Thứ hai, Chính phủ các quốc gia Đông Á đã sớm thay đổi quyết sách đối với dân số ngay từ kỷ nguyên hậu Đại chiến thế giới thứ 2. Họ đã từ bỏ quan điểm đông dân và tăng trưởng dân số là sức mạnh của quốc gia đồng thời theo đuổi quan điểm tăng trưởng dân số là mối đe doạ đối với các mục tiêu phát triển. Trong khoảng thời gian tương đối ngắn, các chính sách khuyến sinh đã bị bãi bỏ và chỉ một thời gian sau, đủ các loại chương trình và chính sách hạn chế sinh đẻ đã được thông qua. Chính phủ các quốc gia đã tham gia vào các chương trình giáo dục, tăng cường cung ứng và tổ chức thực hiện các dịch vụ tránh thai, thuyết phục công dân chấp nhận chuẩn mực gia đình ít con và thực hiện các chính sách thưởng phạt để khuyến khích các cặp vợ chồng sinh ít con hơn. Tuy nhiên, ở

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

8

những nước được khảo sát này đã không phải sử dụng đến các chương trình mang tính áp đặt, cưỡng bức giống như chương trình triệt sản bắt buộc tồn tại trong một thời gian ngắn ở Ấn Độ hay chính sách một con của Trung Quốc.

Thứ ba, kinh nghiệm Đông Á đáng để học hỏi vì môi trường thực thi chính sách chưa thật hoàn thiện. Nhiều học giả vẫn khư khư quan điểm rằng gia tăng nhanh dân số làm tăng chi phí của chính sách kinh tế nghèo nàn. Tuy vậy, cũng không thấy rõ lắm tác động của các biến dân số trong một môi trường hoạch định và thực thi chính sách chưa hoàn thiện. Dĩ nhiên, các quốc gia Đông Á cũng đã mắc phải những sai lầm, ví dụ như những sự kiện xảy ra gần đây đã minh chứng khá thuyết phục, nhưng vài nước đã đạt được thành tích trước kỷ nguyên hậu Đại chiến thế giới thứ 2.

Tuy kinh nghiệm có thể chia sẻ được của sáu nền kinh tế này đã thúc đẩy tìm tòi nghiên cứu song những khác biệt giữa các quốc gia này cũng đáng để học hỏi. Những nền kinh tế này bao trùm phạm vi khá rộng về những điều kiện thực tế về phát triển và dân số. Mức thu nhập ở Nhật Bản và Xinh-ga-po rõ ràng cao hơn ở Thái Lan và In-đô-nê-xia vào năm 1960. Trung bình mỗi phụ nữ Nhật Bản chỉ sinh hai con vào năm 1960, trong khi đó mức sinh ở In-đô-nê-xia chỉ mới bắt đầu giảm vào những năm cuối của thập niên 60. In-đô-nê-xia và Nhật Bản nằm trong số những nước có quy mô dân số lớn nhất thế giới trong khi Xinh-ga-po nằm trong số những nước có quy mô dân số nhỏ nhất. Nhập cư là một thành tố quan trọng trong biến động dân số chỉ ở Xinh-ga-po, ngoài ra không xuất hiện ở các quốc gia khác. Những khác biệt về dân số và kinh tế của các vùng ở Thái Lan và In-đô-nê-xia là khá quan trọng để hiểu được về sự phát triển của hai quốc gia này và giúp thấy rõ hơn so với trường hợp của Đài Loan hay Hàn Quốc. Vào khoảng năm 1960, các nước Đông Bắc Á có mật độ dân cư cao nhưng lại hạn chế về nguồn tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, vào năm 1960 Thái Lan vẫn đang sử dụng đất đai vào canh tác và trong suốt thập niên 70 In-đô-nê-xia phát triển chủ yếu do có trữ lượng dầu mỏ lớn.

THÀNH CÔNG CỦA ĐÔNG Á

Trong thập niên 50, các nước Đông Á còn nghèo nàn và triển vọng chưa có gì hứa hẹn. Năm 1960, thu nhập bình quân đầu người hàng năm của Nhật Bản đã tăng xấp xỉ 3.000 đôla Mỹ, chưa bằng một phần ba mức thu nhập của Mỹ. Tuy

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

9

nhiên, ở các quốc gia khác, GDP bình quân đầu người hàng năm dao động từ mức thấp 600 đôla Mỹ ở In-đô-nê-xia đến mức cao 1.700 đôla Mỹ ở Xinh-ga-po2. Ngoại trừ Nhật Bản và Thái Lan, lịch sử chịu ách đô hộ của nước ngoài đã làm suy yếu sự phát triển của những thể chế mạnh về chính trị và kinh tế. Sự giàu có và các thể chế tồn tại ở khu vực này đã bị các cuộc cách mạng và chiến tranh tàn phá - Đại chiến thế giới thứ 2, nội chiến ở Trung Quốc và chiến tranh Liên Triều. Tỷ lệ tiết kiệm/tích luỹ và đầu tư quá thấp đã cản trở những nỗ lực tái thiết cơ sở vật chất và thực hiện công nghiệp hoá. Các nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, đặc biệt là ở Đông Bắc Á, triển vọng tăng sản lượng lương thực hoặc tăng việc làm trong nông nghiệp xem ra có vẻ ảm đạm do hạn chế cấp đất nông nghiệp. Ngoại trừ In-đô-nê-xia có trữ lượng dầu mỏ lớn, các quốc gia khác rất nghèo về tài nguyên thiên nhiên.

Tỷ lệ gia tăng nhanh dân số duy trì liên tục qua các năm thực sự đã trở thành mối quan tâm. Cả Đài Loan và Hàn Quốc đã trải nghiệm những luồng dân cư lớn. Hơn một triệu người Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc đã bỏ chạy khỏi Đại lục sang Đài Loan trong năm 1949 và 1950. Hàn Quốc trải qua hai cuộc di dân trên qui mô lớn - lần thứ nhất là sự kiện hồi hương của người Triều Tiên sau thất bại của Nhật Bản trong Đại chiến thế giới thứ 2 và lần thứ hai là dòng người từ Bắc Triều Tiên tràn sang Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) khi Trung Quốc tham gia chiến tranh Liên Triều. Tuy nhiên, những năm cuối của thập niên 50 và đầu thập niên 60, dân số tăng nhanh do mức chết giảm và mức sinh cao. Mức sinh đã giảm ở Nhật Bản, nhưng ở những quốc gia khác trung bình mỗi phụ nữ vẫn sinh khoảng sáu con trong suốt thời kỳ sinh sản của mình. Do tình hình tử vong trong những năm đầu của thế kỷ XX, nhiều trẻ em đã chết trong những năm đầu đời. Song tỷ suất chết trẻ sơ sinh và trẻ em đã giảm đáng kể dẫn đến quy mô gia đình ngày càng lớn và dân số gia tăng ngày một nhanh.

Có một số điểm cần lưu ý là mức độ bất bình đẳng trong sở hữu của cải và thu nhập ở Đông Bắc Á là tương đối thấp. Đó là hậu quả đồng thời của sự tàn phá trong thời gian chiến tranh và các chương trình cải cách ruộng đất lớn ở Đài Loan và Hàn Quốc. Ở cả hai địa bàn này tỷ lệ biết đọc biết viết là tương đối cao và có nguồn nhân lực đã qua đào tạo đáng kể. Những nỗ lực tái thiết đất nước đã nhận được trợ giúp to lớn từ nước ngoài, đặc biệt là Mỹ.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

10

Không ai dự đoán được thành quả kinh tế mà các quốc gia Đông Á sẽ được hưởng trong những thập niên tới. Sự tăng trưởng kinh tế khác thường bắt đầu ở Nhật Bản trong thập niên 50, ở Hàn Quốc, Đài Loan, Xinh-ga-po, Thái Lan trong thập niên 60 và ở In-đô-nê-xia trong thập niên 70. Trong thời kỳ 1960-90, tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người thực tế hàng năm tăng trên 6% ở Hàn Quốc, Xinh-ga-po, Đài Loan, 5,3% ở Nhật Bản, 4,4% ở Thái Lan và 3,8% ở In-đô-nê-xia. Cùng thời kỳ, tăng trưởng của Mỹ chỉ đạt trung bình 2%/năm. Thu nhập bình quân đầu người hàng năm ở Hàn Quốc tăng từ 900 đôla Mỹ năm 1960 lên 6.700 đôla Mỹ năm 1990 và tương ứng ở Xinh-ga-po là 1.700 đôla Mỹ lên 11.700 đôla Mỹ (Summer và Heston 1991).

Việc tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm chỉ là một trong những nét đặc trưng của thành tựu kinh tế trong khu vực. Mặc dù quỹ đất nông nghiệp bị hạn chế nhưng sản lượng lương thực vẫn tăng nhanh nên vấn đề gia tăng dân số dễ bị bỏ qua. Tăng trưởng trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ đã tạo đủ việc làm thích ứng với việc gia tăng nhanh dân số trong độ tuổi lao động đồng thời tăng khả năng tiếp nhận lao động nữ. Giáo dục đã có nhiều tiến bộ đáng kể và cơ bản đã xóa nạn mù chữ. Tỷ lệ tích lũy vốn và đầu tư tăng ở mức cao và những nền kinh tế tiên tiến hơn đã trở thành những chủ nợ chủ chốt trong thị trường vốn quốc tế. Địa vị của người phụ nữ ở nhiều quốc gia được cải thiện với việc giảm đáng kể khoảng cách về giới trong duy trì học tập, việc làm và tiền lương.

Biến động dân số ở Đông Á cũng gây ấn tượng sâu sắc không kém những thay đổi về kinh tế. Tỷ suất chết sơ sinh và trẻ em đã xuống tới mức thấp, đồng thời tuổi thọ bình quân lúc sinh đã gần đạt mức của phương Tây (riêng Nhật Bản cao hơn). Mức sinh giảm từ mức cao xuống mức thấp diễn ra với tốc độ khá kinh ngạc. Trong tất cả các quốc gia có mức sinh cao vào năm 1960, chỉ có sáu quốc gia và vùng lãnh thổ có mức sinh trung bình 2 con và dưới 2 con vào năm 1990. Đó là: Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Xinh-ga-po, Hồng Kông và Trung Quốc. Trong 36 nước có thu nhập bình quân đầu người hàng năm dưới 1.000 đô la Mỹ và dân số trên 2 triệu người vào thời điểm 1960, chỉ có 5 quốc gia đã đạt được mức sinh trung bình dưới 3 con vào năm 1990 là: Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, In-đô-nê-xia và Ru-ma-ni (Feeney và Mason – sắp xuất bản).

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

11

Những biến động về mức sinh, mức chết tác động đến hai biến dân số quan trọng khác là tăng trưởng dân số và cơ cấu tuổi của dân số. Vào những năm đầu của thập niên 90, tỷ lệ tăng trưởng dân số ở Nhật Bản đã giảm trung bình 0,2 % mỗi năm. Tỷ lệ tăng trưởng dân số ở Hàn Quốc, Đài Loan, Xinh-ga-po và Thái Lan đã giảm trung bình khoảng 1% mỗi năm. Ở In-đô-nê-xia, nơi mức sinh giảm hơi muộn hơn một chút, thì tỷ lệ tăng trưởng dân số đã giảm trung bình xuống 1,6% mỗi năm trong giai đoạn 1990-94. Cho dù các quốc gia Đông Á đã điều chỉnh để dân số tăng trưởng chậm hơn, song vẫn không tránh khỏi việc tăng dân số với quy mô lớn. Trong thời kỳ 1950-95, dân số Nhật Bản tăng khoảng 50%, dân số Hàn Quốc và In-đô-nê-xia tăng hơn gấp đôi còn dân số Đài Loan, Xinh-ga-po và Thái Lan tăng gần gấp ba (Feeney và Mason – sắp xuất bản).

Tại sao dân số tăng lên nhiều đến vậy mặc dù mức sinh đã giảm khá ấn tượng? Hiện tượng được gọi là đà tăng dân số này diễn ra vì dân số liên tục tăng nhanh tạo nên cơ cấu tuổi đặc trưng khiến cho dân số tăng. Tỷ lệ lớn dân số của các nhóm tuổi trẻ, trưởng thành đang trong độ tuổi sinh đẻ và chỉ có một tỷ lệ nhỏ những người thuộc nhóm dân số già có nguy cơ tử vong cao hơn. Cơ cấu tuổi như vậy sẽ dẫn đến mức sinh cao, mức chết thấp và do đó dân số tăng nhanh hơn. Cơ cấu tuổi thay đổi chậm vì mức sinh đã thấp hơn và tuổi thọ bình quân lúc sinh cao hơn. Chỉ khi tỷ lệ dân số trong tuổi sinh đẻ giảm xuống và tỷ lệ dân số có mức chết cao hơn tăng lên thì tốc độ tăng trưởng dân số mới chậm lại. Rốt cuộc dân số sẽ chỉ dừng tăng trưởng nếu trung bình mỗi phụ nữ sinh khoảng hai con trong suốt cuộc đời của họ (mức sinh thay thế) hay nếu mức sinh giảm xuống dưới mức thay thế thì dân số sẽ suy giảm.

Dự báo dân số Nhật Bản bắt đầu giảm xuống trong thập niên này, nhưng ở các quốc gia Đông Á khác dân số sẽ tiếp tục tăng trưởng ít nhất trong một vài thập niên nữa. Các phương án dự báo dân số của Liên Hợp Quốc gần đây dự kiến dân số Thái Lan sẽ tiếp tục tăng trưởng đến năm 2040 và dân số In-đô-nê-xia sẽ còn tăng trưởng đến năm 2045-2050 là giai đoạn cuối của các phương án dự báo này (UN 1998). Tuy nhiên, kỷ nguyên gia tăng nhanh dân số đã kết thúc ở Đông Á và quy mô dân số đã ít hơn nhiều so với trường hợp nếu vẫn tiếp tục duy trì mức sinh ở mức cao hay chỉ giảm từ từ.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

12

Những biến động trong cơ cấu tuổi ở các quốc gia Đông Á là khá lớn và diễn ra nhanh hơn so với các quốc gia khác. Đặc biệt quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế là những biến động về quy mô dân số trong độ tuổi lao động liên quan đến dân số phụ thuộc, tức là những người quá trẻ hoặc quá già không thể lao động. Hầu hết các quốc gia Đông Á đã trải qua ba giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, dân số phụ thuộc tăng nhanh hơn dân số lao động do mức chết sơ sinh và trẻ em giảm khiến cho số trẻ con tăng nhanh trong tổng dân số. Trong giai đoạn thứ hai, dân số lao động tăng nhanh hơn dân số phụ thuộc. Số trẻ em phụ thuộc ổn định do mức sinh thấp hơn, song dân số lao động tiếp tục được bổ sung từ những nhóm dân số trẻ. Giai đoạn hai chi phối những biến động về cơ cấu tuổi ở Đông Á trong suốt giai đoạn 1960-90. Nhật Bản đã bước vào giai đoạn thứ ba và những quốc gia khác sẽ theo sau trong những thập niên tới. Trong giai đoạn ba tăng trưởng của dân số trong độ tuổi lao động sẽ chậm lại trong khi dân số phụ thuộc già tiếp tục tăng nhanh. Vậy là, dân số lao động sẽ giảm tương quan với tăng dân số phụ thuộc.

Ba giai đoạn này được thể hiện bởi tỷ lệ hỗ trợ kinh tế, thể hiện sự tương quan giữa dân số lao động và dân số tiêu dùng3. Biểu đồ I.1 cho thấy tỷ lệ hỗ trợ của Đông Nam Á. Trong giai đoạn thứ nhất 1950-60, tỷ lệ hỗ trợ bị giảm rõ rệt. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ những năm 1970 và dự kiến kéo dài 50 năm. Trong giai đoạn này, ước tính số người lao động bình quân cho một người tiêu dùng sẽ tăng từ 0,50 lên 0,62 (tăng 24%). Những năm đầu của thập niên tới, tỷ lệ hỗ trợ dự kiến sẽ bắt đầu đi xuống và kéo dài liên tục. Đồ thị của tỷ lệ hỗ trợ được thể hiện ở phía dưới biểu đồ I.1. Trục tung cho thấy tỷ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm của từng thập niên. Trục hoành biểu thị ba giai đoạn và tỷ lệ tăng trưởng trung bình trong mỗi giai đoạn.

Các mô hình khác nhau của tỷ lệ hỗ trợ và những nét đặc trưng của Đông Á được thể hiện rõ trong biểu đồ I.2. Ở Hàn Quốc và In-đô-nê-xia, giai đoạn tăng trưởng của tỷ lệ hỗ trợ được dự báo kéo dài 50 năm và tỷ lệ tăng hàng năm là đáng kể. Đài Loan và Xinh-ga-po đã trải qua những thay đổi tương tự (không thể hiện trên biểu đồ). Những biến động cơ cấu tuổi ở Thái Lan và Phi-líp-pin cũng có triển vọng, nhưng tỷ lệ hỗ trợ tăng ít hơn một chút so với In-đô-nê-xia và Hàn Quốc. Hiện tại Nhật Bản đã hoàn tất giai đoạn tăng trưởng. Ở Ấn Độ, nơi mức

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

13

sinh bắt đầu giảm muộn hơn và giảm chậm hơn so với Đông Á, giai đoạn tăng trưởng của tỷ lệ hỗ trợ vừa ngắn về thời gian đồng thời chỉ ở mức khá khiêm tốn. Ở Băng-la-đét, nơi mà mức sinh giảm khá nhanh trong những năm gần đây, xu hướng về tỷ số hỗ trợ có triển vọng tốt hơn.

Những phân tích đưa ra trong cuốn Biến động dân số và phát triển kinh tế ở Đông Á: Đương đầu với thách thức và nắm bắt cơ hội (Manson sắp xuất bản) nhằm nghiên cứu sự gắn kết giữa những biến động dân số quan trọng diễn ra ở Đông Á và những biến kinh tế chủ yếu như đổi mới công nghệ, năng suất lao động, tích luỹ và đầu tư, dòng vốn quốc tế, y tế, giáo dục, thu nhập bình quân đầu người, và bất bình đẳng4. Những kết quả đã được mô tả ngắn gọn ở đây trước khi trở lại kết quả nghiên cứu được trình bày trong cuốn sách này.

Biểu đồ I.1: Tỷ số hỗ trợ của Đông Nam Á

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

14

NHỮNG THÁCH THỨC DO TĂNG TRƯỞNG DÂN SỐ

Năm 1960, các quốc gia Đông Á phải đối mặt với hai thách thức – cung cấp lương thực cho dân số đang gia tăng nhanh và cung ứng việc làm phù hợp cho lực lượng lao động cũng đang gia tăng nhanh, trong đó phần lớn là lao động trong lĩnh vực nông nghiệp (trừ Nhật Bản và Xinh-ga-po). Mặc dù tốc độ sinh đẻ giảm nhưng dân số vẫn tăng đáng kể vì những nguyên nhân bất khả kháng đã nói ở trên. Chính sách dân số, dù có hiệu quả thế nào đi nữa, cũng không thể một sớm một chiều đạt được sự ổn định dân số. Tuy nhiên, với một ngoại lệ quan trọng, tăng trưởng dân số đã không gây cản trở đối với những nỗ lực phát triển của Đông Á.

Biểu đồ I.2. Tỷ lệ tăng trưởng (%) của tỷ lệ hỗ trợ từ kinh tế tại một số quốc gia châu Á

Thách thức về lương thực đã được giải quyết thành công rực rỡ. Mặc dù quỹ đất nông nghiệp bị hạn chế nhưng sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng 36 % ở châu Á và 47% ở Đông Á trong thời kỳ 1963-92. Trong cùng thời kỳ, sản lượng lương thực bình quân đầu người ở Mỹ La tinh chỉ tăng 13% và thậm chí còn giảm 7% ở châu Phi. Thành công của Đông Á là do sản lượng nông nghiệp tăng rất cao. Nhu cầu về lương thực tăng chủ yếu là do gia tăng dân số

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

15

cộng với giá phân bón giảm đáng kể giúp cho việc phát triển nhiều giống gạo, lúa mì mới có sản lượng cao (Hayami – sắp xuất bản)

Thách thức việc làm ở Đông Bắc Á đã được giải quyết thành công hơn ở Đông Nam Á. Ở Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc, nơi mà quỹ đất rất hạn chế, những cơ hội việc làm được tạo ra thông qua việc chuyển đổi cơ cấu công nghiệp và cơ cấu ngành nghề. Mặc dù lực lượng lao động nói chung vẫn tăng nhưng lực lượng lao động nông nghiệp giảm 4% mỗi năm ở Nhật Bản, 2% ở Đài Loan và 1% ở Hàn Quốc trong thời kỳ 1960-90. Các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ được mở rộng nhanh chóng đến mức giá trị của đất không còn gắn với việc làm. Thái Lan và In-đô-nê-xia đã có cách giải quyết hơi khác một chút đối với việc gia tăng nhanh của lực lượng lao động. Trong giai đoạn này ở cả hai quốc gia, đất đai canh tác vẫn tăng. Cụ thể, Thái Lan đã tìm cách thu hút số lượng lớn lao động nông nghiệp cùng lúc với việc giảm không đáng kể diện tích đất trồng trọt bình quân đầu người lao động nông nghiệp. Trong số những quốc gia được lựa chọn khảo sát trong nghiên cứu này, chỉ có In-đô-nê-xia đã có sự sụt giảm đáng kể về diện tích đất trồng trọt bình quân đầu người lao động nông nghiệp. Việc làm phi nông nghiệp cũng phát triển rất nhanh ở Thái Lan và In-đô-nê-xia, nhưng năm 1960 các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ còn rất nhỏ đến nỗi sự tăng trưởng nhanh của các quốc gia này không đủ để thu hút số lượng lớn lao động mới. Ở hai quốc gia này, năng xuất lao động trong khu vực nông nghiệp tăng chậm hơn rất nhiều so với trong khu vực phi nông nghiệp. Điều này không những chỉ là trở ngại cho tăng trưởng kinh tế mà còn là nguồn gốc của bất bình đẳng (Manson – sắp xuất bản).

Hồi cứu lại, chính những e ngại về ảnh hưởng của phát triển đối với tăng trưởng dân số đã bị cường điệu hóa ở Đông Á. Dân số tăng trưởng đáng kể ở Đông Bắc Á không có những tác động bất lợi đối với kinh tế và thực tế này đã được chỉ ra một cách rõ ràng và ở Nam Á chỉ có những khó khăn vừa phải. Tuy nhiên, cần lưu ý một số điểm. Thứ nhất là những tác động bất lợi của tăng trưởng dân số có thể tránh được, một phần là do trên thực tế tăng trưởng dân số đã chậm lại trong suốt giai đoạn này.

Thứ hai, tuy kết quả thuận lợi ở Đông Á không phải là tất yếu, nhưng đó là sự kết hợp của chính sách phát triển có hiệu quả với môi trường kinh tế thuận lợi.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

16

Kinh nghiệm Đông Á về sự đổi mới nông nghiệp chứng minh cho quan điểm này. Thậm chí, trong nửa đầu của thập niên 60, dân số đã tăng đáng kể, giá phân bón giảm, các giống cao sản đã thích nghi với vùng ôn đới và đã đạt được nhiều tiến bộ lớn mặc dù những nỗ lực vừa phải. Tuy nhiên, việc tăng sản lượng không gây ấn tượng sâu sắc cho đến sau năm 1965, khi đưa ra một quyết định xã hội nhằm đầu tư cho nghiên cứu mà lẽ ra đã không xảy ra. Bên cạnh đó, so với các khu vực khác trên thế giới, châu Á có những hệ thống vận chuyển và tưới tiêu phát triển khá tốt. Đây chính là những nhân tố cơ bản của cách mạng xanh. Cả hai việc: nỗ lực nghiên cứu và hệ thống cơ sở hạ tầng đều đòi hỏi phải có những thể chế chính trị có thể nhận biết và đáp ứng một cách có hiệu quả những nhu cầu của cộng đồng (Hayami – sắp xuất bản).

Thứ ba là sự thay đổi nhanh chóng của cơ cấu tuổi, sinh đẻ và tuổi thọ bình quân đã tạo ra những cơ hội tăng trưởng kinh tế nhanh chóng hơn ở Đông Á ngay cả khi tăng trưởng dân số chậm đi. Những cơ hội này thể hiện dưới ba dạng: Sự khác biệt khá lớn giữa tăng trưởng dân số và tăng trưởng lực lượng lao động tiềm năng; những thay đổi trong chính sách khuyến khích và cơ cấu tuổi tạo điều kiện thuận lợi giúp cho tỷ lệ tích luỹ và đầu tư cao hơn; và những thay đổi trong chính sách khuyến khích và cơ cấu tuổi đã giúp cho đầu tư nhiều hơn cho nguồn nhân lực. Phần chính của câu chuyện thành công của Đông Á chính là cách mà khu vực này đã nắm bắt các cơ hội.

BIẾN ĐỘNG DÂN SỐ VÀ CÁC CƠ HỘI PHÁT TRIỂN

Trong thời kỳ 1960-90 đã có sự cách biệt lớn giữa tăng trưởng lực lượng lao động và tăng trưởng dân số khi mà lực lượng lao động trong khu vực tăng hơn 25% so với dân số, dẫn đến thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 0,6% mỗi năm. Lực lượng lao động tăng trưởng chậm đi rất nhiều so với tăng trưởng dân số do những biến động có lợi về cơ cấu tuổi và do phụ nữ tham gia lực lượng lao động ngày một tăng. Việc phụ nữ tham gia nhiều trong lực lượng lao động chính thức có thể định ra hàng loạt đổi thay phức hợp, trong đó phải kể đến những thay đổi về dân số (tuổi kết hôn lần đầu muộn hơn và giảm khả năng sinh sản), những đổi thay về kinh tế (tiền lương tăng và cơ cấu việc làm cũng thay đổi) cũng như những thay đổi về chính trị (thay đổi về bộ luật thuế và những chính sách phân biệt đối xử) (xem Bauer – sắp xuất bản, Okunishi – sắp xuất bản)

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

17

Sự gia tăng ấn tượng những khoản tiết kiệm và đầu tư thường được viện dẫn như những nguồn tăng trưởng kinh tế quan trọng ở Đông Á (Bauer – sắp xuất bản). Tác động của dân số đối với tỷ lệ tiết kiệm/tích luỹ và đầu tư là một vấn đề gây tranh cãi và sẽ được nghiên cứu kỹ lưỡng trong dự án này. Những nghiên cứu gần đây cho thấy những biến động về cơ cấu tuổi, sinh đẻ và tuổi thọ bình quân có ảnh hưởng đến tỷ lệ tiết kiệm/tích luỹ, nhưng đánh giá về quy mô ảnh hưởng thì rất khác nhau ở mỗi nghiên cứu (Williamson và Higgins – sắp xuất bản, Lee, Mason và Miller – sắp xuất bản, 2000, Toh – sắp xuất bản và Deaton và Paxson 2000). Việc đánh giá “ôn hòa” về tác động của tiết kiệm đi đến kết luận là tỷ lệ tiết kiệm/tích luỹ và đầu tư cao hơn là do những biến động dân số. Điều này giải thích nguyên nhân tăng năng suất lao động lên khoảng 1/5. Kết hợp với sự khác nhau giữa tăng trưởng dân số và tăng trưởng lực lượng lao động, xem ra dân số học giải thích được nguyên nhân sản lượng bình quân đầu người ở Xinh-ga-po và Đông Bắc Á tăng thêm khoảng ¼ trong thời kỳ 1960-90.

Ở Thái Lan, In-đô-nê-xia, trước năm 1990, dân số trong nước ít ảnh hưởng đến độ chênh giữa tăng trưởng dân số lao động và tăng trưởng dân số chung, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư. Quá độ dân số ở 2 quốc gia này diễn ra muộn hơn so Xinh-ga-po và Đông Bắc Á. Thí dụ như ở Đài Loan, dân số đã tạo điều kiện thuận lợi để tiết kiệm/ tích lũy vào khoảng năm 1970, nhưng với Thái Lan 10 năm sau mức sinh mới bắt đầu giảm và với In-đô-nê-xia còn muộn hơn. Ở Thái Lan và In-đô-nê-xia, khoảng cách chênh lệch giữa tăng trưởng dân số và tăng trưởng dân số tuổi lao động là nhỏ hơn. Ngoài ra, những quốc gia này cũng ít thành công hơn trong việc tận dụng lực lượng lao động tăng trưởng nhanh để nâng cao thu nhập bình quân đầu người bởi vì, như đã giải thích ở trên, các quốc gia này ít thành công hơn trong việc thu hút lực lượng lao động vào những khu vực phi nông nghiệp có giá trị gia tăng cao hơn. Thái Lan và In-đô-nê-xia đã được hưởng lợi do những thay đổi về điều kiện dân số ở Nhật Bản, một quốc gia đã trở thành nguồn cung cấp vốn chủ yếu trong thập niên 80. Phần nào đó có thể thấy, thặng dư tài chính khổng lồ hiện nay của Nhật Bản đã tác động đến địa vị của dân số trong việc cung cấp tiền tiết kiệm và những nhu cầu về vốn (Williamson và Higgins – sắp xuất bản)

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

18

Những biến động dân số ở Đông Á đã có những tác động thuận lợi đến sức khoẻ và giáo dục trẻ em, nhưng những cải thiện nguồn nhân lực đã ảnh hưởng không đáng kể đến bản thân sự tăng trưởng kinh tế trước năm 1990. Dân số bắt đầu tác động tích cực đến đầu tư cho nguồn nhân lực vào khoảng năm 1970 hoặc sau đó, trừ Nhật Bản. Vì sự lệch pha vốn có giữa việc đầu tư cho trẻ em với việc tận dụng các đặc trưng của dân số trưởng thành và người lao động, giảm sinh không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng lực lượng lao động cho mãi đến những năm 1980 hoặc sau đó. Những ảnh hưởng của nguồn nhân lực là quan trọng, nhưng người ta sẽ chỉ cảm nhận được nhiều hơn trong tương lai so với những gì đã chứng kiến trong thời gian qua. Tất nhiên, những cải thiện về sức khoẻ và giáo dục trẻ em đã góp phần trực tiếp hơn đến sự thịnh vượng theo những cách không bị ràng buộc bởi những thước đo kinh tế thông thường như thu nhập bình quân đầu người (Ahlburg và Jensen – sắp xuất bản, Jensen và Ahburg – sắp xuất bản).

Với những thu nhập trong sản xuất nông nghiệp đã trích dẫn ở trên, việc gia tăng mạnh mẽ công ăn việc làm, tăng tỉ lệ tiết kiệm và đầu tư cũng như đầu tư lớn vào nguồn nhân lực không phải là kết quả thường thấy do sự thay đổi dân số học ở Đông Á. Nạn thất nghiệp đang tăng lên là một khả năng dẫn đến việc gia tăng mạnh mẽ công ăn việc làm. Một loạt các chính sách phát triển thành công đã nhanh chóng tạo ra những cơ hội việc làm rộng lớn. Những cơ hội này bao gồm cả những chiến lược hướng ngoại đã khuyến khích các tổ chức kinh doanh trong nước cạnh tranh trên thị trường toàn cầu; những chính sách vĩ mô nhất quán đã bảo đảm tỉ lệ lạm phát thấp, ngăn ngừa thất thoát vốn và thúc đẩy hiệu quả kinh tế; sử dụng các khuyến khích tài chính, tiền trợ cấp và các phương tiện tín dụng để thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp then chốt. Tương tự, tăng cường đầu tư vào con người và vốn tự nhiên không những là kết quả tất yếu của thay đổi dân số học mà còn phụ thuộc vào những chính sách thúc đẩy việc tiết kiệm và tăng chi phí cho giáo dục.

NHỮNG CHÍNH SÁCH VÀ CHƯƠNG TRÌNH DÂN SỐ

Các chương trong cuốn sách này cung cấp đầy đủ các dẫn chứng về các chương trình và chính sách được thực hiện trong kỷ nguyên hậu Đại chiến thế giới thứ 2, động cơ của những chính sách đó, chi phí của các chương trình đồng

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

19

thời đánh giá đóng góp của những chính sách và chương trình này đối với kết quả giảm sinh nhanh ở Đông Á.

Các quốc gia Đông Á vẫn theo đuổi tư tưởng và chính sách khuyến sinh cho đến nửa sau của thế kỷ XX. Inoue đã mô tả tình hình ở Nhật Bản trong chương tiếp theo (Chương 2). Chính phủ Meiji của Nhật Bản đã không những nghiêm cấm các hành vi đe doạ tính mạng của trẻ em, nạo phá thai mà còn cấm sản xuất và phân phối phương tiện tránh thai vì Chính phủ này coi đông dân là yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh quân sự và kinh tế của Nhật Bản (Inoue, Chương 2). Tôn Trung Sơn, người sáng lập Cộng hoà Trung Hoa tin tưởng rằng làm giảm tốc độ tăng trưởng dân số sẽ làm giảm sức mạnh của dân tộc (Liu, Chương 4). Chính phủ Thái Lan đã thưởng tiền cho những gia đình đông con từ cuối năm 1956 (Gullaprawit, chương 6). Ở In-đô-nê-xia, tổng thống Su-các-nô không quan tâm đến việc dân số gia tăng nhanh và những nỗ lực kế hoạch hoá gia đình không được giáo chức và cộng đồng chấp nhận rộng rãi (Pasay và Wongkaren, Chương 7).

Cuối thập niên 50, đầu thập niên 60, những tư tưởng ủng hộ việc đông dân đã nhường chỗ cho những quan ngại về hậu quả và hệ luỵ của việc gia tăng nhanh dân số. Mặc dù có một vài nhóm chính trị gia phản đối nhưng Chính phủ các quốc gia vẫn khởi xướng một cách thận trọng những nỗ lực nhằm giảm tỷ lệ gia tăng dân số. Chính phủ các quốc gia bắt đầu dỡ bỏ những rào cản pháp lý đối với việc giảm sinh. Nhật Bản dẫn đầu khuynh hướng này, đã hợp pháp hoá việc sản xuất, phân phối hầu hết các loại thuốc và phương tiện tránh thai của các công ty tư nhân. (Tuy nhiên, gần đây viên uống tránh thai mới được hợp pháp hoá) Năm 1948, thực chất Nhật Bản đã hợp pháp hoá dịch vụ nạo phá thai, cho phép thực hiện thủ thuật nếu thai kỳ đe doạ sức khoẻ hoặc tình trạng kinh tế của phụ nữ mang thai (Inoue, chương 2). Năm 1961, Hàn Quốc đã bãi bỏ điều luật cấm nhập khẩu hoặc sản xuất phương tiện tránh thai. Ở In-đô-nê-xia, Bộ Y tế bãi bỏ việc cấm phân phối phương tiện tránh tránh thai trong thập niên 60. Chính phủ các quốc gia đã vào cuộc cùng với các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực kế hoạch hoá gia đình mới được thành lập trong khu vực. Các tổ chức tư nhân như Hội Dân số và Phát triển Cộng đồng của Thái Lan, Quỹ KHHGĐ của

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

20

In-đô-nê-xia và Hội KHHGĐ của Hàn Quốc đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong giai đoạn quá độ này.

Với những tốc độ nhập cuộc khác nhau, Chính phủ ở các quốc gia trong khuôn khổ của nghiên cứu này đã can thiệp ngày một nhiều trong các chính sách và chương trình dân số. Các nhóm chính trị và tôn giáo chủ yếu đã thừa nhận tầm quan trọng của việc giảm tốc độ tăng trưởng dân số đối với phát triển. Chính phủ các quốc gia cũng đã phê duyệt các kế hoạch phát triển quốc gia với những chỉ tiêu cụ thể về giảm gia tăng dân số. Họ đã khởi xướng các cuộc vận động để tuyên truyền về tầm quan trọng của việc sinh ít con hơn đối với các cặp vợ chồng. Bằng những nỗ lực giáo dục ở cả cộng đồng và trong trường học, Chính phủ các quốc gia đã tuyên chiến với tình trạng thiếu hiểu biết về những biện pháp tránh thai hiện đại. Để phương tiện tránh thai có ở mọi nơi, các phòng khám kế hoạch hoá gia đình và các hệ thống phân phối đã được thiết lập (phần lớn các dịch vụ được trợ giá là chính).

Trước hết các quốc gia tập trung nỗ lực cho giáo dục, tuyên truyền và tăng khả năng tiếp cận phương tiện tránh thai. Tuy nhiên, đầu thập niên 70, Chính phủ một số quốc gia đã thực hiện những chính sách “vượt ra ngoài khuôn khổ của kế hoạch hoá gia đình”. Xinh-ga-po đã ban hành một loạt chính sách thưởng phạt tổng thể (Yap, Chương 5) và ở một vài nơi trong khu vực cũng có những nỗ lực tương tự. Hầu hết là những chính sách khuyến khích bằng tiền, ngoài ra còn có một số chính sách khác nhằm giải quyết tận gốc nguyên nhân xã hội của mức sinh cao. Ví dụ như ở Hàn Quốc, những đổi mới về tư pháp nhằm giải quyết những quan niệm sai lầm về giới với hy vọng làm thay đổi mong muốn có con trai của các cặp vợ chồng, qua đó làm giảm mức sinh (Kwon, Chương3). Tuy nhiên, ở các quốc gia được khảo sát trong nghiên cứu này, các giải pháp dân số đã bị dỡ bỏ sau một thời gian ngắn không giống như các chương trình mang tính áp đặt, cưỡng bức, ví dụ như các chiến dịch triệt sản thảm bại ở Ấn Độ và chính sách một con ở Trung Quốc.

Điều gì đã khiến các nước châu Á đang phát triển phản ứng nhanh và dứt khoát với việc gia tăng nhanh dân số? Và tại sao phản ứng này lại nhanh hơn rất nhiều so với các khu vực đang phát triển khác? Một phần câu trả lời nằm trong những điều kiện dân số liên tục thay đổi. Châu Á là khu vực đông dân nhất thế

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

21

giới và tỷ lệ tăng trưởng dân số không ngừng tăng trong thập niên 50 và 60. Quan điểm đông dân sẽ góp phần làm tăng sức mạnh quốc gia bắt đầu bị thay thế. Các nhà lãnh đạo chính trị và trí thức chịu ảnh hưởng một phần của những quan điểm của phương Tây. Các học giả phương Tây tham gia các hoạt động tái thiết Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản đã bày tỏ những quan ngại, lo âu về tình trạng gia tăng nhanh dân số. Thí dụ, nhà hoạt động trong lĩnh vực kế hoạch hoá gia đình, Margaret Sanger là một khách mời thường xuyên và có ảnh hưởng ở Nhật Bản. Tuy nhiên, Chính phủ các quốc gia và các học giả ở Đông Á đã tự mình đánh giá và đưa ra kết luận rằng nếu dân số tiếp tục gia tăng nhanh sẽ là trở ngại lớn đối với các mục tiêu phát triển (Liu, Chương 4, Yap, Chương 5, Gullaprawit, Chương 6).

Có một vài yếu tố khác khiến Chính phủ các quốc gia hưởng ứng một cách nhanh chóng và mạnh mẽ với chính sách dân số ở châu Á. Trước hết, trái ngược với châu Mỹ La-tinh, Chính phủ một số quốc gia châu Á phải đối mặt với sự phản đối quyết liệt từ các nhóm tôn giáo có thế lực. Nhà thờ Thiên chúa giáo ở Phi-líp-pin, các lãnh tụ đạo Hồi ở Pa-kít-xtan có ảnh hưởng đáng kể trong việc chống đối sử dụng các phương tiện tránh thai hiện đại. Tuy nhiên, tại các nước được khảo sát không vấp phải những phản đối với kế hoạch hoá gia đình từ các lực lượng tôn giáo hoặc nếu có chỉ là ngầm chống đối. Ngay cả ở In-đô-nê-xia, một quốc gia Đạo Hồi lớn nhất thế giới, những người đứng đầu tôn giáo cũng không phản đối quyết liệt những quyết định của tổng thống Su-hắc-tô nhằm thúc đẩy những nỗ lực kế hoạch hoá gia đình .

Thứ hai, các quốc gia châu Á ổn định chính trị nhiều hơn so với hầu hết các quốc gia châu Mỹ La-tinh và châu Phi. Bởi vậy, Chính phủ các quốc gia này mới có thể theo đuổi những mục tiêu lâu dài một cách thực tế. Ở Hàn Quốc, tổng thống Pắc-Chung-Hy đã cầm quyền suốt 18 năm sau khi tuyên bố ủng hộ việc làm chậm đà gia tăng dân số. Ở Đài Loan, tổng thống Tưởng Giới Thạnh giữ vị trí này từ năm 1950 đến năm 1975. Lý Quang Diệu làm thủ tướng Xinh-ga-po từ năm 1959 đến năm 1990. Trước cuộc khủng hoảng chính trị và tài chính gần đây, In-đô-nê-xia chỉ có hai nguyên thủ là Su-các-nô cầm quyền từ năm 1945 đến năm 1966 và Su-hắc-tô duy trì quyền lực của mình hơn ba thập niên. Trong sáu quốc gia được khảo sát, chỉ có Thái Lan liên tục thay đổi nội các, nhưng chế độ quân

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

22

chủ ở Thái Lan vẫn có ảnh hưởng liên tục và ổn định. Sự thay đổi chính trị của Thái Lan thường tương đối hoà bình và không kèm theo những thay đổi về đường lối. Mặc dù các nhà lãnh đạo chính trị cứng rắn trong khu vực cho phép chuyển đổi rất nhanh chóng trong chính sách dân số song không đảm bảo bằng những giải pháp để có được kết quả mong muốn. Một số chính sách cụ thể được ban hành phụ thuộc vào quan điểm của giới lãnh đạo quốc gia. Ví dụ như, chỉ có thể thay đổi chính sách ở In-đô-nê-xia khi tổng thống Su-các-nô không còn đảm nhiệm vị trí này (Pasay và Wonkaren, Chương 7).

Thứ ba, Chính phủ nhiều quốc gia châu Á có khuynh hướng cánh tả. Chính phủ Ấn Độ, Xơ-ri-lan-ka, các quốc gia theo chế độ cộng sản và một số quốc gia châu Á khác trực tiếp can thiệp vào nhiều vấn đề tiểu tiết của nền kinh tế và các vấn đề xã hội. Các quốc gia được khảo sát ở Đông Á đã tránh được những hậu quả thảm khốc của nền kinh tế mệnh lệnh, nhưng Chính phủ của các quốc gia này lại sa đà vào quản lý kinh tế nhiều hơn so với các Chính phủ phương Tây đồng thời cũng tích cực nhiều hơn trong giải quyết những vấn đề xã hội.

Những chương trình kế hoạch hoá gia đình ở Đông Á có thể là những chương trình được điều hành tốt nhất thế giới. Trong một thời gian rất ngắn, các quốc gia này đã phát triển rộng rãi mạng lưới cung cấp các dịch vụ tránh thai với chi phí khiêm tốn. Những chương trình ở Đài Loan, Hàn Quốc và Thái Lan đã thành công như những mô hình mẫu cho các nước khác học tập. Tsui (sắp xuất bản) cho rằng thành công của các quốc gia này là do bốn yếu tố. Thứ nhất, mặc dù mục tiêu hàng đầu của Chính phủ các quốc gia là hạn chế gia tăng nhanh dân số song các chính sách và chương trình vẫn đặt trọng tâm vào những mục tiêu kế hoạch hoá gia đình và sức khoẻ. Thứ hai, các nhóm tôn giáo và các nhóm có quyền lực chính trị khác không phản đối quyết liệt các chương trình. Thứ ba, Chính phủ các quốc gia đã duy trì những nỗ lực lớn và liên tục, bao gồm cả việc tài trợ đáng kể về tài chính. Cuối cùng là Chính phủ các quốc gia này đã vào cuộc một cách tự nguyện và phối hợp với các thực thể phi chính phủ thực hiện thành công.

Mặc dù các quốc gia thành công trong các mục tiêu của chương trình nghị sự đặt ra tại các hội nghị, nhưng khó mà đánh giá được hiệu quả, tác động của các chính sách và chương trình dân số đối với các kết quả dân số– nghĩa là, xác

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

23

định tốc độ giảm sinh trong điều kiện không có sự can thiệp của Chính phủ. Tất cả các quốc gia được khảo sát đều đang trong thời kỳ phát triển nhanh về kinh tế và xã hội nhanh chóng. Mức chết trẻ em giảm xuống; tỷ lệ phụ nữ có việc làm tăng lên; tiền công cao; phụ nữ có nhiều cơ hội giáo dục hơn và hàng loạt các nhân tố phát triển khác đã góp phần thay đổi những quan điểm về sinh đẻ. Có thể các mô hình sinh đã thay đổi nhiều với tốc độ khá nhanh là do những sáng kiến của Chính phủ song không dễ dàng gì khi đánh giá những sáng kiến đó đã tác như thế nào. Tương tự như vậy, rất khó xác định liệu có thể thực hiện kiểm soát sinh hiệu quả hơn, an toàn và ít tốn kém hơn vì là các chương trình của Chính phủ không? Khi phân tích các yếu tố quyết định giảm mức sinh, Tsui (sắp xuất bản) ước tính mức đóng góp của kế hoạch hoá gia đình và các yếu tố phát triển. Bà kết luận rằng tổng tỷ suất sinh ở các nước đang phát triển khác trên thế giới sẽ giảm được 1 con từ năm 1982 nếu như các quốc gia này cũng thực hiện các chương trình kế hoạch hoá gia đình như ở các quốc gia được khảo sát ở Đông Á.

Thành công của các chính sách dân số ở Đông Á đạt được nhờ có nguồn chi. Các tác giả đã đưa ra những quan điểm khác nhau về tầm quan trọng của viện trợ từ bên ngoài. Liu (Chương 4) tin rằng ở Đài Loan trợ giúp từ bên ngoài đóng vai trò hết sức quan trọng vì vấn đề gây tranh luận xoay quanh bản chất của chương trình kế hoạch hoá gia đình chứ không phải là vấn đề chi phí. Đầu tư tài chính công cho kế hoạch hoá gia đình chỉ được thực hiện ở Đài Loan vào năm 1968. Kwon (Chương 3) tin rằng trợ giúp bên ngoài là hết sức quan trọng đối với những nỗ lực của Hàn Quốc vì những thúc ép về tài chính. Tất nhiên, Hàn Quốc năm 1961 nghèo hơn nhiều so với Đài Loan năm 1968.

Khi các quốc gia Đông Á đã phát triển, tuy trợ giúp từ bên ngoài giảm nhưng tài trợ cho chương trình kế hoạch hoá gia đình từ Chính phủ và những người sử dụng lại tăng lên. Thông tin có giá trị nhất thừa nhận rằng kinh phí hàng năm dành cho kế hoạch hóa gia đình bình quân đầu người khoảng 20 xu Mỹ vào giữa thập niên 70 và tăng lên khoảng 1 đôla Mỹ vào đầu thập niên 90. Ở Xinh-ga-po và Hàn Quốc, chi phí công đạt đỉnh điểm trong thập niên 80 và trong những năm gần đây đã giảm đáng kể vì ngày càng nhiều cặp vợ chồng quay sang sử dụng các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình của khu vực tư nhân.(Tsui-sắp xuất bản). Chưa khi nào chi phí cho kế hoạch hoá gia đình chiếm tỷ trọng lớn trong

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

24

tổng ngân sách nhà nước. Ví dụ như ở Thái Lan mức đòi hỏi cao nhất từ ngân sách là vào năm 1977, song chi phí cho kế hoach hoá gia đình cũng chỉ chiếm 0,38% tổng chi của Chính phủ (Gullaprawit, Chương 6, bảng 6.6). Chi phí cho kế hoạch hoá gia đình ở In-đô-nê-xia chiếm 0,6% ngân sách Chính phủ năm 1986-87 (Pasay và Wongkaren, Chương 7, bảng 7.8). Rõ ràng rằng ngân quỹ cho các chương trình dân số không phải là một gánh nặng tài chính lớnu đối với các quốc gia Đông Á.

KẾT LUẬN

Năm 1960, các quốc gia Đông Á đã phải đối mặt với nhiều khó khăn. Theo quan điểm của đa số tại thời điểm đó, gia tăng nhanh dân số là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất. Sau hơn ba thập niên, những quốc gia này đã thành công vượt trội trong giảm sinh và làm chậm tốc độ gia tăng dân số; khắc phục được những vấn đề tiềm ẩn liên quan đến việc tăng đáng kể quy mô dân số; đồng thời đã biến những biến đổi về cơ cấu tuổi và các đặc trưng dân số khác thành những lợi thế kinh tế. Kết thúc việc này như thế nào là hết sức quan trọng vì những giá trị tiềm tàng của các bài học đối với những nước đang phát triển khác khi phải đương đầu với những vấn đề phát triển tương tự.

Những bài học dưới đây là quan trọng nhất trong số những bài học kinh nghiệm của các quốc gia Đông Á:

Thứ nhất, với những điều kiện thích hợp, mức sinh sẽ giảm với tốc độ đáng kể. Trong khoảng hai đến ba thập niên tổng tỷ suất sinh đã giảm từ sáu con xuống còn hai con hoặc dưới hai con trung bình một phụ nữ. Ở hầu hết các quốc gia, ép buộc không giữ vai trò chủ yếu hay có hệ thống.

Thứ hai, có nhiều cách để giảm sinh. Ở Nhật Bản và các nước công nghiệp hoá khác, phát triển kinh tế và xã hội đã khiến cho mức sinh giảm xuống mức thấp. Chính phủ các quốc gia chỉ giữ vai trò thứ yếu bằng cách ngăn cản hoặc là tạo điều kiện thuận lợi cho công nghệ tránh thai. Nhưng ở các quốc gia đang phát triển Đông Á mức sinh đã giảm rất nhanh, một phần là kết quả của phát triển nhanh về kinh tế xã hội trong khu vực và một phần là do những chương trình tổng thể và có hiệu quả của Chính phủ khuyến

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

25

khích các cặp vợ chồng sinh ít con cũng như cung cấp cho họ những biện pháp có hiệu quả, chi phí thấp để điều chỉnh mức sinh.

Thứ ba, tác động của biến động dân số đối với phát triển là phức tạp và diễn ra ở nhiều lĩnh vực. Trong suốt thời kỳ quá độ dân số diễn ra chóng vánh khác thường ở Đông Á, các quốc gia đã trải nghiệm những biến động lớn về quy mô và tỷ lệ tăng trưởng dân số, tỷ suất sinh, tỷ suất chết và cơ cấu tuổi. Những biến động dân số học này đã gây ảnh hưởng đến quy mô dân số lao động và dân số phụ thuộc, địa vị kinh tế của phụ nữ, khuyên khích tiết kiệm và đầu tư, quyết định đầu tư cho sức khoẻ và giáo dục của trẻ em, quy mô khác nhau của sự bất bình đẳng trong thu nhập và các dòng vốn quốc tế. Ở Đông Á, thời kỳ quá độ dân số diễn ra nhanh có tác động lớn và có lợi cho phát triển.

Thứ tư, không phải bỗng nhiên mà có những lợi ích do giảm sinh và quá độ dân số đem lại cho phát triển. Những kết quả có triển vọng phụ thuộc rất lớn vào những chính sách phát triển có hiệu quả đặc trưng cho khu vực. Khoảng cách hay độ chênh giữa tăng trưởng lực lượng lao động và tăng trưởng dân số là thuận lợi vì việc đẩy mạnh xuất khẩu có hiệu quả đã cung cấp việc làm có lợi nhuận cho lực lượng lao động đang tăng nhanh. Biến động dân số dẫn đến tỷ lệ tiết kiệm/tích luỹ cao do ổn định kinh tế vĩ mô và sự phát triển của các định chế tài chính khuyến khích tiết kiệm đồng thời vì Chính phủ các quốc gia đã ngăn ngừa được các chương trình chuyển nhượng quy mô lớn có thể suy giảm hoặc không khuyến khích tiết kiệm. Những biến đổi cơ cấu tuổi của dân số đã tạo khả năng chi tiêu nhiều hơn cho giáo dục vì chính sách công và cha mẹ đều ưu tiên cho giáo dục. Những thay đổi trong trách nhiệm sinh đẻ của phụ nữ đã đem lại hiệu quả kinh tế có triển vọng do Chính phủ các quốc gia đã bãi bỏ các quy định hành chính và chính sách gây phân biệt đối xử với phụ nữ. Tóm lại, biến động dân số diễn ra nhanh là điều kiện cần nhưng không đủ cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh. Những biến động dân số tạo ra các cơ hội mà những quốc gia Đông Á này đã nắm bắt được bằng cách tiếp tục theo đuổi những chính sách kinh tế và xã hội để hỗ trợ cho những nỗ lực phát triển.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

26

Thành công của những chính sách và chương trình dân số ở Đông Á là kết luận tất yếu. Nỗ lực giảm sinh và làm chậm tốc độ gia tăng dân số kéo theo sự sụt giảm chưa từng có của mức sinh. Phát triển nhanh về kinh tế và xã hội đã đẩy nhanh những biến động dân số của khu vực, nhưng hành động của Chính phủ đã làm cho dân số biến đổi và kinh tế phát triển nhanh hơn.

Chú thích

1. Trong cuốn sách này chúng tôi sử dụng thuật ngữ Đông Á để chỉ các quốc gia ở cả Đông Bắc Á và Đông Nam Á

2. Những số liệu về GDP trong chương này được tính theo giá quốc tế 1985 và được lấy theo bảng Penn World Tables (Summers và Heston năm 1991)

3. Tỷ lệ hỗ trợ có thể được cải tiến để thống nhất sự khác biệt về tuổi trong năng xuất lao động và nhu cầu tiêu dùng. Trong trường hợp này, người đếm tăng thêm dân số trong mỗi tuổi bằng năng xuất trung bình của công nhân trong nhóm tuổi đó, thông thường được đo bằng việc sử dụng hồ sơ xin việc. Mẫu số tính đến sự biến động về tuổi trong nhu cầu tiêu dùng bằng cách sử dụng trọng lượng đặc trưng thấp hơn đối với trẻ con và có thể giảm đi hoặc tăng hơn với người già so với người mới trưởng thành. Lee, Mason và Miller (sắp xuất bản) đã cung cấp những tính toán chi tiết của Đài Loan. Những kết quả đưa ra ở đây sử dụng một trọng lượng tiêu dùng 0,5 cho trẻ con từ 0 - 14 tuổi và trọng lượng 1,0 cho tất cả các tuổi còn lại.

4. Xem Bloom và William (1998) cho một phương pháp tương tự

Nguồn tham khảo

Ahlburg, Dennis và Eric Jensen. Sắp xuất bản. Giáo dục và Điều kỳ diệu của Đông Á. Andrew Mason (ed) Thay đổi Dân số và Phát triển Kinh tế ở Đông Á. Những thách thức được đáp ứng và Những cơ hội được nắm lấy, Standford, CA: nhà xuất bản trường đại học Standford

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

27

Bauer, John. Sắp xuất bản. Tăng trưởng kinh tế và Chính sách ở Đông Á. Andrew Mason (ed) Thay đổi Dân số và Phát triển Kinh tế ở Đông Á: Những thách thức được đáp ứng và Những cơ hội được nắm lấy, Standford, CA: nhà xuất bản trường đại học Standford

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

28

2 Các chính sách và chương trình dân số tại Nhật Bản

Shunichi Inoue Không giống như những quốc gia Đông Á khác, Chính phủ Nhật Bản

không bảo trợ cho chương trình KHHGĐ trong suốt quá trình quá độ dân số, trừ một khoảng thời gian rất ngắn. Theo kết quả điều tra khảo sát định kỳ của Ban Dân số Liên Hợp Quốc về những chính sách và chương trình dân số được ban hành chính thức, hành động cụ thể duy nhất của Chính phủ Nhật Bản trong việc tác động đến các xu thế dân số là nỗ lực điều chỉnh phân bố dân cư theo vùng tại Nhật Bản (Ban Dân số Liên Hợp Quốc, 1995). Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu suy luận rằng Chính phủ không quan tâm đến các vấn đề dân số hay không hoạch định chính sách dân số.

Cũng như các quốc gia khác, những đặc trưng dân số của Nhật Bản có quan hệ mật thiết với phát triển kinh tế, và Chính phủ đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển này. Vậy thì tại sao Chính phủ lại không bảo trợ cho chương trình KHHGĐ? Tại sao mức sinh lại giảm tại Nhật Bản trong khi thiếu một chương trình như vậy? Những biến động dân số đã tác động đến phát triển kinh tế như thế nào và Chính phủ có vai trò gì trong việc định hướng các xu thế dân số để đáp ứng các nhu cầu kinh tế?

Chương này tập trung kiểm điểm từng bước phát triển của các chính sách dân số Nhật Bản và các mối quan hệ tương tác giữa những chính sách này với phát triển kinh tế trong thời kỳ hiện đại hoá, đặc biệt là sau Đại chiến thế giới thứ II. Để xác định rõ, tác giả định nghĩa chính sách dân số là chính sách do Chính phủ tuyên bố nhằm chủ yếu tác động đến quy mô, cơ cấu dân số và phân bố dân cư, và chương trình dân số là những biện pháp hành chính và pháp luật được Chính phủ ban hành nhằm đạt được những mục tiêu chính sách đó. Các chính sách dân số thường trực tiếp tác động đến mức sinh vì mức sinh ảnh hưởng mạnh mẽ đến tăng trưởng và cơ cấu dân số. Nói đúng ra, những chính sách nhằm cải thiện các điều kiện sức khoẻ của dân cư không được coi là chính sách dân số vì các mục tiêu y tế được xác định mà không tính đến những hệ quả dân số. Tuy nhiên, các biện pháp y tế cũng gây nên những ảnh hưởng về mặt dân số (Y. Okazaki 1997, 9-10), và vì thế mà tác giả sẽ đề cập đến vần đề này trong nghiên cứu của mình. Các chính sách có định hướng tác động đến di cư nội địa và quốc tế là những chính sách dân số vì tác động trực tiếp đến phân bố dân cư, mặc dù các mục tiêu trước mắt của những chính sách này chủ yếu nhằm phục vụ các mục đích kinh tế và xã hội chứ không phải vì mục đích dân số. Do vậy, nghiên cứu dưới đây được chia thành hai phần: các chính sách về tăng trưởng dân số và chính sách phân bố dân cư. CHÍNH SÁCH TĂNG TRƯỞNG DÂN SỐ

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

29

Chính sách dân số Nhật Bản trong thời kỳ hiện đại (từ giữa thế kỷ XIX) được thực hiện trong bốn giai đoạn liên tiếp, tương ứng với bốn xu thế dân số riêng biệt. Đó là (1) thời kỳ trước khi kết thúc Đại chiến thế giới thứ II; (2) Thời kỳ bùng nổ dân số sau chiến tranh và tiếp theo là mức sinh giảm mạnh trong bối cảnh điều kiện kinh tế khó khăn; (3) thời kỳ mức sinh thấp ổn định cùng với tăng trưởng kinh tế nhanh; và (4) thời kỳ hiện nay, mức sinh không đủ thay thế và tăng trưởng kinh tế chậm lại. Thời kỳ trước khi kết thúc Đại chiến thế giới thứ II

Sau hai thế kỷ cách ly mình với phần còn lại của thế giới, năm 1859 Nhật Bản mở cửa ba trong số các cảng biển của mình cho năm quốc gia: Hoa Kỳ, Nga, Anh Quốc, Hà Lan và Pháp. Sự tiếp cận với những thế lực bên ngoài rõ ràng đã tạo nên một cuộc tái cơ cấu toàn diện xã hội, đánh dấu bằng một cuộc cách mạng chính trị gọi là Phục hưng Meiji vào năm 1868. Dưới sự lãnh đạo của Chính phủ mới, Nhật Bản bắt đầu xây dựng một quốc gia hiện đại và mạnh về quân sự nhằm bảo vệ đất nước khỏi sự xâm lấn tiềm tàng và ách thuộc địa từ các thế lực phương Tây. Tác giả không có ý định thảo luận về lịch sử của công cuộc hiện đại hoá và công nghiệp hoá của Nhật Bản, mà chỉ đơn thuần ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể và liên tục của dân số trong suốt thời kỳ này. Các số liệu khảo sát dân số do Nhà nước phong kiến Ado thực hiện từ thế kỷ XIX cho thấy dân số Nhật Bản hầu như trì trệ trong suốt thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX.

Năm 1872, Chính phủ Nhật Bản mới tiến hành cuộc tổng điều tra dân số và hộ gia đình trên quy mô toàn quốc, tổng dân số thường trú là 34,8 triệu người. Từ đó đến Đại chiến thế giới thứ II, dân số Nhật Bản tăng lên hơn hai lần, đạt quy mô 71,9 triệu người vào năm 1940. Sự tăng trưởng dân số này là do mức chết giảm và mức sinh tăng. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê chính thức, từ năm 1873 đến 1920 tỷ suất sinh thô và tỷ suất chết thô đều tăng: tỷ suất sinh thô tăng từ 23,1%o lên 36,2%o và tỷ suất chết thô tăng từ 18,9 %o lên 25,4%o. Những xu hướng tăng này, đặc biệt là tỷ suất chết thô phần nào phản ánh sự cải thiện của hệ thống theo dõi báo cáo (Y. Okazaki 1987, 20-24). Nhưng thậm chí sau khi điều chỉnh số sinh và số chết chưa được báo cáo thống kê trước đó, mức sinh dường như vẫn tiếp tục tăng trong những năm đầu của thế kỷ XX. Kết quả là tỷ lệ tăng dân số hàng năm tăng mạnh từ 0,43 % năm 1873 lên 1,08% vào năm 1920 khi cuộc Tổng điều tra dân số hiện đại đầu tiên được thực hiện.

Bất chấp những khó khăn do gia tăng nhanh dân số tạo ra, Chính quyền Meiji vẫn muốn có nhiều dân để củng cố sức mạnh quân đội và kinh tế. Nhằm duy trì mức sinh cao, Chính phủ đã ban hành những quy định pháp lý cấm nạo phá thai và ngăn chặn tục lệ giết trẻ sơ sinh, một thực tế xảy ra phổ biến trong thời kỳ Edo. Ngoài ra, Chính phủ cũng cấm các hoạt động sản xuất và phân phối thuốc và dụng cụ tránh thai trong nỗ lực ngăn chặn kiểm soát sinh con.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

30

Năm 1903, lần đầu tiên vấn đề kiểm soát sinh được thảo luận rộng rãi trong một cuốn sách mang tên Cải thiện Xã hội (Shakai Kaizo Ron), nhưng không thu hút được nhiều sự quan tâm của công chúng. Tuy nhiên, sau chuyến thăm Nhật Bản đầu tiên của Maragret Sanger vào năm 1922, vấn đề kiểm soát sinh đã trở thành đề tài được tranh luận rộng khắp. Lúc đó một số tổ chức – trong đó có Tổ chức Nghiên cứu Kiểm soát sinh Nhật Bản (Nihon Sanjisengen Kenkyukai), do Isoo Abe và Keikichi thành lập, và Văn phòng Tư vấn Kiểm soát sinh (Sanji Sêign Sodanjo) do Umashima thành lập – bắt đầu tích cực ủng hộ vần đề kiểm soát sinh (A. Okazaki 1957, 38-39).

Năm 1927, khi Tổng cục Thống kê báo cáo rằng hàng năm dân số tăng trưởng đã vượt qua ngưỡng 1 triệu người, Chính phủ đã thành lập Hội đồng Điều tra các Vấn đề Dân số và Lương thực (Jinko Mondai Chosakai). Hội đồng nhận định rằng với dân số có quy mô lớn hơn là một biểu hiện đáng khích lệ của quốc gia thịnh vượng và Hội đồng chỉ luận bàn những biện pháp tăng sản xuất lương thực để theo kịp tốc độ tăng trưởng dân số (A. Okazaki 1957, 31)

Viện các vấn đề Dân số, nay là Viện Nghiên cứu Quốc gia về An sinh Xã hội và Dân số, được thành lập năm 1939 dưới sự bảo trợ của Bộ Y tế và Phúc lợi với mục đích tương tự. Năm 1941, Chính phủ quyết định tăng cường nỗ lực gia tăng dân số và soạn thảo Hướng dẫn Hoạch định Chính sách Dân số (Jinko Seisaku Kakuritsu Yoko), bao gồm các biện pháp như ưu tiên khám chữa bệnh cho bà mẹ mang thai và phụ nữ nuôi con nhỏ, trợ cấp nuôi dưỡng trẻ em, và các lợi ích liên quan đến thuế cho các gia đình đông con (A. Okazaki 1957, 32,39 Takeuchi 1996, 123; Y. Okazaki 1997, 91-93).

Những nỗ lực của Chính phủ nhằm khuyến khích quy mô gia đình lớn hơn, đặc biệt trong Đại chiến thế giới thứ II, chỉ thành công phần nào và thực tế không ngăn cản được sự suy giảm mức sinh kéo dài, bắt đầu vào khoảng năm 1920 (Oobuchi và Morioka 1981 189-94). Tỷ suất sinh thô giảm từ 36,2 %o năm 1920 xuống còn 29,4%o vào năm 1940. Sau đó, dường như đáp lại các biện pháp khuyến sinh của Chính phủ, tỷ suất sinh thô tăng nhẹ lên khoảng 30%o trong những năm 1940-43, sau đó lại giảm xuống dưới mức 30%o khi chiến tranh đi đến đoạn kết vào năm 1945. Trong những năm 1944-46, không có bất cứ một số liệu chính thức nào về số trẻ em sinh ra.

Với điểm xuất phát vào giữa thế kỷ XIX, dân số tăng trưởng tương đối chậm, trong vòng sáu thập niên từ 1870 đến cuối những năm 1920 dân số tăng tự nhiên bắt đầu lấy đà tăng dần và đạt đỉnh điểm vào những năm cuối của thập niên 20 với tỷ lệ gia tăng hàng năm khoảng 1,5%. Sau đó, tỷ lệ gia tăng dân số bắt đầu chậm lại, giảm dưới mức 1% vào cuối thập niên 30. Rõ ràng trong thời kỳ này, chính sách khuyến sinh của Chính phủ không thành công trong việc ngăn cản mong muốn của các cặp vợ chồng Nhật Bản đối với gia đình quy mô nhỏ. Mong

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

31

muốn này hình thành một phần do đô thị hoá và khu vực kinh tế hiện đại ngày một phát triển. Trong những năm từ 1920 đến 1940, tỷ lệ lực lượng lao động trong các ngành nông nghiệp và công nghiệp chủ chốt đã giảm từ 54% xuống còn 25%, và tỷ lệ dân số sống tại các khu vực thành thị đã tăng từ 18% lên đến 38% (Japan BOS 1975, Bảng 3. 32).

Bên cạnh đó, cần lưu ý rằng hệ thống giáo dục phổ thông bắt buộc của Nhật Bản bắt đầu có hiệu lực theo quy định của Luật Hệ thống Giáo dục (Gaku Sei) vào năm 1872, đã phát triển thành một hệ thống giáo dục bắt buộc sáu năm vào năm 1907. Trong những năm 1920, khi tăng trưởng dân số bắt đầu chậm lại, nạn mù chữ trong dân số lớn tuổi hầu như đã được xoá bỏ trừ một số bộ phận người già. Không còn nghi ngờ gì, phổ cập giáo dục toàn dân có quan hệ mật thiết với hành vi sinh sản hiện đại trở nên phổ biến, đóng góp cho xu thế gia đình ít con.

Chính vì thế, giai đoạn thứ hai của quá độ dân số tại Nhật Bản, trong giai đoạn này mức sinh giảm xuống mức thay thế, bắt đầu từ những năm 1920 và mất xấp xỉ 30 năm để hoàn thành. Nhìn lại quá khứ, dường như tỷ lệ gia tăng dân số bất thường chỉ xảy ra trong Đại chiến thế giới thứ II và ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Đó chỉ là bất ổn tạm thời, chứ không phải là một sự đảo ngược của quá trình chuyển đổi mức sinh bền vững. Bùng nổ dân số sau chiến tranh và giai đoạn 1945-55

Khi Đại chiến thế giới thứ II chấm dứt, một Nhật Bản thất bại phải đối mặt với nền kinh tế kiệt quệ, trong một lãnh thổ nhỏ và quá đông dân. Hầu hết các nhà máy và máy móc của Nhật Bản đã bị phá huỷ trong những cuộc tấn công của lực lượng đồng minh; những tài sản còn lại được sử dụng như những đền bù thiệt hại chiến tranh của Nhật Bản. Hàng triệu cựu chiến binh và người dân bắt đầu từ nước ngoài trở về Nhật Bản. Chỉ trong năm 1946 và 1947, số người Nhật Bản hồi hương được ước tính vào khoảng 4,5 triệu người. Những người hồi hương, chủ yếu là nam giới, được đoàn tụ với vợ hoặc lấy vợ. Bùng nổ kết hôn dẫn đến bùng nổ số trẻ em chào đời diễn ra liên tục trong một số năm. Năm 1951, tỷ lệ sinh tăng trở lại ở mức trước chiến tranh.

Trong suốt thời kỳ bùng nổ dân số này, tỷ suất sinh thô đạt 34,4%o vào năm 1947 và duy trì trên 30%o trong một số năm. Vừa tăng số người hồi hương vừa bùng nổ dân số tạo nên một làn sóng gia tăng dân số, đạt mức tăng trưởng 5% vào năm 1946 và sau đó bắt đầu suy giảm – 3,1% vào năm 1947 và 2,4% năm 1948, và 2,2% vào năm 1949. Tốc độ tăng trưởng dân số Nhật Bản là chưa có tiền lệ và làm ngạc nhiên nhiều người, bao gồm cả những chính trị gia và các nhà kinh tế học có uy tín. Đột nhiên, quá tải dân số được nhìn nhận như một mối đe doạ và rất nhiều người đã lên tiếng cảnh báo (A. Okazaki 1957, 171-74).

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

32

Thời kỳ này cũng chứng kiến những cải thiện về y tế công do những hoạt động của các trung tâm y tế công của Nhật Bản và những tiến bộ về thuốc men. Tỷ suất chết thô giảm từ 14,6%o năm 1947 xuống còn 7,8%o trong năm 1955. Mức chết giảm tạo điều kiện cho gia tăng nhanh dân số.

Từ năm 1945 đến năm 1951, lực lượng đồng minh đóng quân và cai quản Nhật Bản; quyền lực và các giá trị tinh thần đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến người dân Nhật Bản, khiến quốc gia này chuyển từ chế độ quân chủ sang chế độ dân chủ. Năm 1949, Tổng tư lệnh liên quân mời hai chuyên gia dân số người Mỹ là Warren S. Thompson và Pascal K. Whelpton đến Nhật Bản. Cả hai chuyên gia này đều cảnh báo Nhật Bản về hiểm hoạ gia tăng nhanh dân số, ủng hộ việc áp dụng các biện pháp tránh thai để kiểm soát dân số. Khi những ý kiến của họ được đăng trên các báo tại Nhật Bản, họ đã phải đối mặt với những phe đối lập, những người đại diện cho Nhà thờ Thiên chúa giáo, bao gồm cả các giáo sỹ của khu vực Tokyo Yokohama và Câu lạc bộ Phụ nữ Thiên chúa giáo Liên quân tại Tokyo. Đối mặt với những phản đối này, Tổng tư lệnh Liên quân thông báo rằng quan điểm của Warren S. Thompson và Pascal K. Whelpton là những ý kiến của chuyên gia và rằng Liên quân trung lập trong vấn đề kiểm soát sinh. Vấn đề kiểm soát sinh là do người dân Nhật Bản tự quyết định.

Tuy nhiên, quan điểm của hai chuyên gia dân số nước ngoài dường như cũng tác động đến nhiều người dân Nhật Bản. Trong vòng vài năm tiếp theo, ít nhất 16 tổ chức và nhóm được thành lập để ủng hộ kiểm soát sinh. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai bắt đầu tăng mạnh (Matsumura 1977, 167-78).

Chính phủ Nhật Bản, vốn dĩ đã không ủng hộ cuộc vận động kiểm soát dân số, vẫn giữ quan điểm rằng việc sử dụng các biện pháp tránh thai là quyền tự quyết của mỗi người dân. Nhưng vào năm 1947, Chính phủ đã thay đổi Luật Dược (Yakuji Ho) cho phép các công ty tư nhân sản xuất và phân phối các loại phương tiện tránh thai. Tháng 5 năm 1949, Chính phủ cũng thành lập Hội đồng các Vấn đề Dân số (Jinko Mondai Shingikai) và Hội đồng này trình lên nghị quyết đầu tiên về chính sách dân số cơ bản vào tháng 11 năm 1949. Trong các đề xuất của mình, Hội đồng đề nghị củng cố hoạt động của các trung tâm y tế công và các văn phòng tư vấn hôn nhân, cũng như phân phối miễn phí phương tiện tránh thai và thuốc tránh thai. Năm 1954, Hội đồng trình lên Bộ Y tế và Phúc lợi một nghị quyết ủng hộ việc kiểm soát quy mô dân số quốc gia, và vào năm 1955 Hội đồng ủng hộ việc giảm gia tăng dân số tới mức đất nước có thể tự túc được (Mainichi Shimbun Sha 1992, 345-46).

Tháng 10 năm 1951, Nội các Nhật Bản quyết định thúc đẩy kiểm soát sinh, và vào tháng 6 năm 1952, Bộ Y tế và Phúc lợi thông qua Hướng dẫn khuyến khích kiểm soát sinh. Trong những năm tiếp theo, Viện các Vấn đề Dân số và Viện Y tế Công Quốc gia trực thuộc Bộ Y tế (Koshu Eisei In) bắt đầu thúc đẩy

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

33

kiểm soát sinh tại các “quận thí điểm mô hình”. Theo ghi nhận của báo chí trong năm 1955, Bộ Y tế và Phúc lợi tiến hành mở rộng các hoạt động khuyến khích kiểm soát sinh, đảm bảo hỗ trợ khoản lớn từ ngân sách trung ương và các chính quyền địa phương cho mục đích này.

Tuy nhiên, sự tham gia của Chính phủ trong các hoạt động kiểm soát sinh không kéo dài quá lâu do các tổ chức tư nhân và bản thân các cặp vợ chồng đã gánh vác trách nhiệm KHHGĐ (Minami 1972, 67-70). Năm 1952, Sanger thăm lại Nhật Bản và ủng hộ mạnh mẽ việc tạo điều kiện để các biện pháp kiểm soát sinh sẵn có cho tất cả những ai muốn thực hiện KHHGĐ. Chuyến thăm của Bà giúp tạo nên một sự hỗ trợ nhất định trong những chuyển biến về kiểm soát sinh của Nhật Bản. Các tờ báo đăng quảng cáo về các loại phương tiện tránh thai hầu như ra hàng ngày, và nhiều các loại sách, tờ rơi được xuất bản, mô tả quá trình tái sinh sản ở người và các kỹ thuật tránh thai cụ thể. Theo kết quả khảo sát của Cục quản lý Dược, Bộ Y tế và Phúc lợi, việc cung cấp các sản phẩm tránh thai như viên uống tránh thai, viên đặt, kem, bao cao su, vòng tránh thai, băng vệ sinh và các sản phẩm vệ sinh gia tăng rất nhanh, với tổng giá trị đạt khoảng 400 triệu Yên vào năm 1953 (A. Okazaki 1952, 184-88).

Theo kết quả khảo sát của Viện các Vấn đề Dân số, với cơn sốt kiểm soát sinh lan rộng, tỷ lệ các cặp vợ chồng thành thị trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng các biện pháp tránh thai tăng từ 25% lên 28% chỉ trong vòng ba năm (1950-1952), và tỷ lệ này ở các cặp vợ chồng nông thôn thậm chí còn cao hơn, từ 12 đến 18% trong cùng thời kỳ.

Sự phổ biến các biện pháp tránh thai ở người Nhật không ngừng gia tăng. Theo các khảo sát định kỳ do Báo Mainichi thực hiện năm 1950, tỷ lệ phụ nữ Nhật Bản đang sử dụng hoặc đã sử dụng các biện pháp tránh thai tăng từ 29% trong năm 1950 lên 52% năm 1955, và lên đến 68% vào năm 1961 (Mainichi Shinbun Sha 1992, 54). Biện pháp tránh thai phổ biến nhất là bao cao su, đạt tỷ lệ hơn 50% số người sử dụng kể từ năm 1952 và thậm chí đạt mức 80% vào năm 1980. Biện pháp phổ biến thứ hai trong suốt thập niên 50 và 60 là biện pháp tính chu kỳ kinh nguyệt, khoảng 30-40% người chấp nhận thực hiện KHHGĐ sử dụng biện pháp này. Tuy nhiên, tỷ lệ thất bại cũng khá cao và rất nhiều người trong số họ phải tìm kiếm giải pháp nạo phá thai. Nạo phá thai được coi là hợp pháp tại Nhật Bản từ năm 1948 (Mainichi Shinbun Sha 1992, 54).

Vào năm 1917, các chính trị gia và các học giả Nhật Bản bày tỏ sự quan tâm về sự di truyền các bệnh thần kinh. Vào năm 1938, Bộ Y tế và Phúc lợi thành lập Uỷ ban Ưu sinh để xử lý các vấn đề ưu sinh. Hai năm sau, Chính phủ ban hành Luật Ưu sinh Quốc gia (Kokumin Yusei-ho), cho phép các bác sĩ thực hiện triệt sản “ưu sinh” theo nguyện vọng của bệnh nhân. Tuy nhiên, số ca phẫu thuật là không nhiều, chưa bao giờ vượt quá mức 200 ca một năm trong suốt thời kỳ

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

34

194-47. Quy định này không nhằm mục đích tác động đến tăng trưởng dân số và cũng không liên quan đến chính sách dân số (A. Okazaki 1957, 195-99).

Tháng 7 năm 1948, Luật Bảo vệ Ưu sinh được thông qua thay thế Luật Ưu sinh Quốc gia cũ. Luật mới có hai đặc trưng cơ bản: Cho phép chỉ định triệt sản nhằm mục đích ưu sinh với những điều kiện cụ thể, và cho phép nạo phá thai vì mục đích ưu sinh cũng như bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của người mẹ. Theo luật mới (hiện nay vẫn còn hiệu lực), nếu người mẹ có tiền sử bệnh lý, hoặc người mẹ mang thai do bị hãm hiếp, hoặc nếu có vấn đề về sức khoẻ hay kinh tế khó khăn, thì những yếu tố này được coi là nguy cơ gây hại cho cuộc sống và sức khoẻ của người mẹ. Nói khác đi, trong điều kiện đó phụ nữ mang thai có thể thực hiện nạo phá thai hợp pháp vì nếu không, việc mang thai sẽ đe doạ sức khoẻ và tình trạng kinh tế của người mẹ. Những quy định mở này cho phép các bác sĩ thực hiện các ca phá thai bất cứ khi nào sản phụ yêu cầu, bất kể lý do (A. Okazaki 1957, 199-203). Rất khó có thể coi quy định này được thông qua chỉ đơn thuần với mục đích ưu sinh; nó trở nên một biện pháp pháp lý hữu hiệu nhằm xoá bỏ những ca mang thai ngoài ý muốn. Như vậy, nó nhanh chóng kiểm soát được việc gia tăng nhanh dân số.

Sau khi ban hành Luật này, số ca nạo phá thai được báo cáo tăng từ 102.000 vào năm 1949 lên đến 1.170.000 vào năm 1955. Và còn rất nhiều ca không được báo cáo. Năm 1955, tỷ lệ nạo phá thai được báo cáo so với số ca sinh là 68% (IIP 1996, 66). Do những thất bại phổ biến trong việc sử dụng các biện pháp tránh thai trong những năm đầu, rất nhiều phụ nữ thực hiện nạo phá thai như giải pháp đơn giản chấm dứt mang thai ngoài ý muốn. Một vài cặp vợ chồng thậm chí còn không buồn sử dụng các biện pháp tránh thai, thay vào đó dựa vào nạo phá thai để hạn chế quy mô gia đình. Những con số lớn về nạo phá thai, kể cả được báo cáo và không được báo cáo cho thấy rằng biện pháp kiểm soát sinh này là nguyên nhân chính làm suy giảm nhanh mức sinh tại Nhật Bản vào đầu thập niên 50. Thời kỳ mức sinh ổn định, 1955-75

Báo cáo Kinh tế thường niên năm 1956 của Chính phủ (Keizai Hakusho) thông báo rằng thời kỳ tái thiết sau chiến tranh đã kết thúc khi thu nhập đầu người đã đạt mức trước chiến tranh vào năm 1955. Trong suốt hai thập niên sau thông báo này, Nhật Bản trải qua một thời kỳ tăng trưởng kinh tế đáng ghi nhận. Tổng thu nhập bình quân đầu người đạt mức như tại nhiều quốc gia Châu Âu. Sản lượng công nghiệp tăng nhanh chóng, và một cuộc chuyển đổi khổng lồ lực lượng lao động nông nghiệp sang công nghiệp đã xảy ra nhằm đáp ứng các nhu cầu lao động công nghiệp. Những thay đổi này đã tạo nên một dịch chuyển dân số lớn từ nông thôn đến các khu vực thành thị.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

35

Trong những năm này, nhu cầu lao động cho mở rộng các ngành công nghiệp sản xuất là rất lớn và đã được đáp ứng nhờ dân số trong độ tuổi sinh đẻ tăng nhanh (đó là đoàn hệ sinh ra từ trước chiến tranh và do tăng bù sau chiến tranh với những mức sinh khá cao). Tỷ lệ tăng hàng năm ở nhóm dân số trong độ tuổi sinh đẻ (15-49) là khoảng 2% trong những năm 50 và duy trì trên 1% trong những năm 60 (Biểu đồ 2.1). Do mức sinh đã giảm ổn định, khoảng cách giữa tỷ lệ tăng trưởng dân số (người tiêu thụ) và dân số ở độ tuổi sinh đẻ (người sản xuất) đã được nới rộng đáng kể. Điều này tạo nên cái gọi là dư lợi dân số hay còn gọi là cơ cấu dân số vàng khi số người lao động tăng nhanh hơn rất nhiều so với số người tiêu thụ.

Đặc trưng của thời kỳ này là mức sinh ổn định. Trong giai đoạn 1955-75, tỷ suất sinh thuần (số con gái trung bình của một phụ nữ sinh ra đủ thay thế họ) được duy trì ở mức sinh thay thế (từ 0,9 đến 1,06; chỉ số sai lệch không đáng kể). Mức sinh giảm mạnh trong năm 1966 là một ngoại lệ, khi tỷ suất sinh thuần giảm xuống mức 0,73. Đó là năm Hinoeuma, năm Ngựa bạch theo lịch âm của Trung Quốc. Theo mê tín truyền thống của Trung Quốc, con gái sinh vào năm này sẽ sát chồng. Rất nhiều các cặp vợ chồng Nhật Bản tránh sinh con vào năm này nhằm ngăn chặn những khó khăn về cưới xin trong tương lai cho con gái.

Trong suốt thời kỳ mức sinh ổn định này, các biện pháp tránh thai được thực hiện rộng rãi hơn. Theo kết quả khảo sát của Mainichi Shinbun, tỷ lệ phụ nữ có chồng dưới 50 tuổi đang sử dụng các biện pháp tránh thai tăng từ 33,6% lên 60,5% trong giai đoạn 1955-75. Nếu cộng thêm cả những người đã từng một lần sử dụng các biện pháp tránh thai, tỷ lệ này tăng từ 52,5% lên đến 81,5% (Mainichi Shinbun Sha 1992, 4). Kết quả là Chính phủ dừng việc coi KHHGĐ như một vấn đề chính sách dân số và bắt đầu chuyển ngân sách đầu tư cho chương trình KHHGĐ sang cho y tế và phúc lợi xã hội của người dân. Năm 1959, Bộ Y tế và Phúc lợi chuyển các nhiệm vụ liên quan đến KHHGĐ cho Vụ Bảo vệ Bà Mẹ và Trẻ em.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

36

Biểu đồ 2.1. Dư lợi dân số tại Nhật Bản.

Ban đầu lượng lao động di cư từ nông thôn đến thành thị và lượng dân số trẻ của thời kỳ bùng nổ dân số sau chiến tranh đáp ứng được các nhu cầu lao động công nghiệp. Nhưng đến cuối thời kỳ này bắt đầu xuất hiện hiện tượng thiếu lao động trong các ngành công nghiệp xây dựng và sản xuất quy mô nhỏ, nơi mà công việc thường được coi là vất vả và nguy hiểm. Các nhà kinh tế học đã cảnh báo về khả năng thiếu lao động (Oobuchi 1992, 135-51) và rất nhiều lãnh đạo kinh tế yêu cầu Chính phủ thông qua chính sách khuyến sinh và cấp thị thực cho các công nhân nước ngoài không có tay nghề.

Trước Hội nghị Dân số Thế giới lần đầu tiên được tổ chức tại Bucherest năm 1977, các vấn đề dân số Nhật Bản được các chuyên gia dân số thảo luận tại Hội Đồng các Vấn đề Dân số. Hội đồng đã nhận thấy sự gia tăng dân số toàn cầu và kiến nghị Nhật Bản thông qua chính sách nhằm ổn định dân số trong tương lai (Matsumura 1977, 176). Đề xuất này, cùng với tác động của suy giảm kinh tế trong nửa cuối những năm 70 đã khởi nguồn cho những tranh cãi về khuyến sinh của Nhật Bản. Thời kỳ tiếp tục giảm mức sinh, từ 1975 đến nay

Sau cuộc khủng hoảng dầu lửa 1973-80, kinh tế Nhật Bản không còn tăng trưởng nhanh, bất chấp những đổi mới trong công nghiệp và những nỗ lực không mệt mỏi của công nhân. Mức tăng GDP hàng năm giảm hơn 1,5 lần so với trước khủng hoảng. Bỗng nhiên, tình hình trở nên khó khăn cho lớp trẻ trong việc vay tiền để lo đám cưới và các nhu cầu về nhà ở. Cùng thời gian này, sự tham gia của nữ giới tại các trường đại học và cao đẳng gia tăng, đạt 32% vào năm 1975 và tiếp tục tăng những năm sau đó. Lượng học sinh nữ tại các trường trung học phổ thông vượt trội so với học sinh nam vào năm 1989 và đạt 48% vào năm 1995. Xu

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

37

hướng này gắn với xu hướng lực lượng lao động nữ ngày càng tăng. Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 1955, 74% phụ nữ ở nhóm tuổi 20-24 và hơn 50% độ tuổi 20-60 tham gia lực lượng lao động (IPP 1966, 133,144).

Có lẽ tất cả những nhân tố này đã tạo nên xu hướng lập gia đình muộn và tiếp theo là giảm mức sinh. Tỷ lệ phụ nữ chưa từng lập gia đình ở nhóm tuổi 25-29 tăng từ 21% năm 1975 lên 49% vào năm 1995. Mặc dù quy mô gia đình mong muốn của các cặp vợ chồng không thay đổi ở mức hai con, tỷ lệ gia tăng người độc thân tiếp tục làm đình trệ mức sinh. Không giống như các nước phương Tây, chung sống với nhau khi chưa cưới không phải là hiện tượng phổ biến ở Nhật Bản và phụ nữ độc thân sinh con cũng rất hiếm. Số ca sinh con ngoài giá thú vào năm 1994 là dưới 15.000, hay 1,2% trên tổng số ca sinh (IPP 1996,65). Kết quả là tổng tỷ suất sinh, trước năm 1974 duy trì ở mức trên 2,0 đã giảm xuống dưới mức 2,0 vào năm 1975 và vẫn tiếp tục giảm, đạt 1,76 vào năm 1985 và 1,43 vào năm 1996.

Mức sinh rất thấp này gây sự quan tâm đặc biệt từ phía các quan chức Chính phủ và công chúng. Những quan ngại chủ yếu tập trung vào vấn đề dân số già và tác động của nó đến những chi tiêu phúc lợi công cộng trong tương lai. Hơn nữa, đáng lẽ phải quan tâm nhiều hơn đến khả năng thiếu lao động ngay từ khi tổng tỷ suất sinh của Nhật Bản chưa giảm xuống dưới mức sinh thay thế; suy thoái kinh tế khởi phát vào năm 1991 đã khiến cho mức sinh tiếp tục giảm xuống dưới mức thay thế, tạo nên một làn sóng dịch chuyển các ngành công nghiệp Nhật Bản sang các nước đang phát triển. Như tác giả được biết, khi đó chỉ có duy nhất một tờ báo thúc giục Chính phủ quan tâm nhiều hơn đến mức sinh như một phương cách giải quyết vấn đề dân số già. Chính phủ đã quyết định không can thiệp đến cuộc sống riêng của người dân và chính sách dân số tiếp tục là chính sách tự do. Chỉ trong những chính sách xã hội để cải thiện điều kiện cho phụ nữ và các gia đình, Chính phủ mới bắt đầu áp dụng các biện pháp khuyến sinh như nghỉ đẻ, xây dựng nhà trẻ, tăng trợ cấp cho trẻ em, và tạo điều kiện cho phụ nữ quay trở lại nơi làm việc sau khi sinh con (Y.Okazak 1997, 131-36). CÁC CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN PHÂN BỐ DÂN CƯ

Như đã đề cập, bùng nổ kinh tế nhanh chóng xảy ra tại Nhật Bản từ giữa thập niên 50 đến thập niên 70 kèm theo cuộc tái phân bố lực lượng lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp, về mặt địa lý là từ các khu vực nông thôn đến các khu vực thành thị. Cụ thể là thành phố Tokyo, khu vực chiếm khoảng 16% dân số Nhật Bản vào năm 1950, đã tăng lên 26% vào năm 1994. Tỷ trọng dân số tại ba khu vực thành thị lớn nhất – Tokyo, Osaka, và Fukuoka – tăng từ 37% lên 51% trong cùng thời kỳ.

Tuy nhiên, sự dịch chuyển khổng lồ lực lượng lao động trẻ từ các vùng nông thôn đã tạo nên những phân bố dân cư không đều tại Nhật Bản. Các khu

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

38

vực thành thị trở nên quá tải trầm trọng trong khi dân số tại các vùng nông thôn sụt giảm. Việc tái phân bố dân cư này đã gây nên những khó khăn tại các khu vực nhỏ hơn, nơi các hoạt động kinh tế và xã hội bình thường đã bị phá vỡ.

Để giải quyết tình trạng này, không lâu sau chiến tranh, Chính phủ đã thông qua những kế hoạch tái phân bố dân cư. Công cuộc phát triển đất đai quốc gia bắt đầu từ năm 1950 với việc thông qua Luật Phát triển Đất đai Quốc gia (Kokudo Sogo Kaihatsu Ho). Năm 1962, Nội các Nhật Bản quyết định thực hiện Kế Hoạch Hợp nhất cho Phát triển Đất đai Quốc gia (Zenkoku Sogo Kaihatsu Keikaku), với mục tiêu giảm sức ép dân số lên các khu vực thành thị và tạo lập các trung tâm phát triển tại các khu vực khác. Cùng thời gian này, Luật Đặc biệt về Xây dựng các Thành phố Công nghiệp Mới được thông qua, tạo lập 13 khu vực vệ tinh (sau này mở rộng thành 15 khu) xung quanh các khu vực thành thị như những trung tâm phát triển khu vực. Năm 1969, quy hoạch được sửa đổi nhằm tập trung vào phát triển hạ tầng, và tên quy hoạch cũng được đổi thành Quy Hoạch Hợp nhất Mới (Shin Zen So). Tận dụng việc tái phân bố dân cư nhanh, năm 1972 Thủ tướng Chính phủ Kakuei Tanaka phát hành một cuốn sách có tựa đề Nihon Retto Kaizoron (Tổ chức lại Quần đảo Nhật Bản) và mạnh mẽ thực hiện các chương trình của mình. Trong những năm gần đây, Quy hoạch Hợp nhất Mới được sửa đổi định kỳ, và hiện nay vẫn đang là công cụ chính cho phát triển đất đai quốc gia.

Tất cả các kế hoạch này đều nhằm mục đích khuyến khích chuyển dịch dân số từ các thành phố lớn đến các thành phố vệ tinh bằng cách tạo nên các ngành công nghiệp và cung cấp hạ tầng cơ sở và các tiện nghi tại những vùng dân cư mới. Mặc dù các kế hoạch đã thành công trong việc tái phân bố lại các ngành công nghiệp, nhưng mục tiêu dân số nhằm tái phân bố dân cư khó trở thành hiện thực trong nhiều trường hợp do nhu cầu lao động tại các thành phố lớn vẫn rất cao và rất nhiều ngành công nghiệp tại các thành phố vệ tinh không có nhu cầu lao động cao. Chính vì vậy, chính sách của Chính phủ nhằm tái phân bố dân cư đến các thành phố vệ tinh chủ yếu chỉ phục vụ các mục tiêu chính trị nội bộ. Nó thất bại trong việc đưa ra đối trọng với lực lượng kinh tế đang thu hút lao động tới các thành phố lớn hiện hữu, nơi các nhu cầu lao động lớn và tự phát đã tồn tại. TÓM TẮT VÀ KẾT LUẬN

Từ giữa thế kỷ XIX, sự gia tăng dân số đáng kể đã song hành cùng công cuộc hiện đại hoá và bùng nổ kinh tế của Nhật Bản. Trong suốt giai đoạn đầu tiên của lịch sử cận đại, cho đến khi Đại chiến thế giới thứ II kết thúc, Nhật Bản theo đuổi hai mục tiêu quốc gia: Thịnh vượng và sức mạnh quân sự. Để có được sức mạnh quân sự, Chính phủ tìm cách gia tăng dân số. Chính phủ khuyến khích mức sinh cao và cấm các hoạt động kiểm soát sinh. Tuy nhiên, chính sách này không hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của Chính phủ là xây dựng một quốc gia thịnh

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

39

vượng. Tốc độ tăng trưởng dân số nhanh vượt lên trên tất cả những đòi hỏi của nền kinh tế và năng lực việc làm, tạo ra nạn thất nghiệp và thiếu việc làm nghiêm trọng, đặc biệt tại các khu vực nông thôn. Tuy nhiên, bất chấp chính sách phát triển dân số của Chính phủ, mức sinh vẫn giảm, đi cùng là những thay đổi xã hội bắt đầu vào khoảng những năm 20. Nó vẫn tiếp diễn cho đến hiện tại trừ một số thời gian gián đoạn ngắn.

Trong giai đoạn thứ hai bắt đầu sau Đại chiến thế giới thứ II, tăng trưởng dân số và phát triển kinh tế duy trì một quan hệ đôi bên cùng có lợi, một phần là do thời điểm tăng trưởng kinh tế bất ngờ, và một phần do chính sách dân số tự do của Chính phủ. Ngay sau Đại chiến thế giới thứ II, Chính phủ thực hiện một bước tiến mạnh mẽ trong việc hợp pháp hoá nạo phá thai. Bất chấp tác động đáng kể đối với các vấn đề ưu sinh, nhưng nói một cách chính thống, biện pháp này không phải là chính sách dân số. Tuy nhiên, dường như hiện tại đã rõ ràng hơn, rằng đó là biện pháp nhằm mục đích giúp đất nước vượt qua những khó khăn kinh tế thời kỳ sau chiến tranh. Nhìn lại quá khứ, đây là một chính sách dân số không chính thức xác định rõ các mục tiêu kinh tế và xã hội. Nhưng sự tự nguyện và nhanh chóng chấp nhận sử dụng các biện pháp tránh thai của đại bộ phận dân số đã buộc Chính phủ phải điều chỉnh lại mức sinh. Tăng trưởng trong các lĩnh vực kinh tế hiện đại và giáo dục bắt buộc áp dụng cho cả nam và nữ đã giúp tạo lập mô hình gia đình ít con của Nhật Bản.

Trong suốt 25 năm đầu sau chiến tranh, lực lượng lao động tiếp tục tăng trưởng nhanh, đây cũng là kết quả của mức sinh cao tồn tại trong những năm trước chiến tranh và bùng nổ sinh bù sau chiến tranh. Lượng cung ứng lao động lớn, cùng với sự tái phân bố lực lượng lao động từ các khu vực nông thôn đến thành thị, đã giúp việc mở rộng các ngành công nghiệp nặng và hoá chất. Trong khi đó, Chính phủ vẫn duy trì chính sách dân số tự do, cho phép các cặp vợ chồng thực hiện KHHGĐ. Khi nhu cầu công nghiệp về lao động bổ xung đột nhiên suy giảm vào giữa những năm 70, tác động của mức sinh thấp, ổn định trở nên rõ ràng hơn, vì số lao động trẻ tham gia vào thị trường lao động ít hơn. Trong những năm 80 và 90, khi nguồn cung lao động nội địa suy giảm và tình trạng khan hiếm lao động trở nên trầm trọng, một lượng lớn vốn và công nghệ của Nhật Bản đã được chuyển ra nước ngoài, do vậy đã giảm được sức ép của nguồn cung lao động trong nước một cách hiệu quả.

Tóm lại, Nhật Bản đã phải đối mặt mới hai bức tranh dân số kể từ Đại chiến thế giới thứ II. Bức tranh đầu tiên là tăng trưởng dân số với tốc độ nhanh ngay sau chiến tranh. Thứ hai là viễn cảnh thực tại của một bộ phận dân số già ngày càng tăng. Trong cả hai trường hợp, chính sách của Chính phủ là rất hạn chế. Trước đó, Chính phủ loại bỏ hầu hết các trở ngại pháp lý về kiểm soát sinh, bao gồm cả nạo phá thai, phó mặc các hoạt động KHHGĐ cho các cá nhân và các

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

40

tổ chức tư nhân. Trong những năm gần đây, Chính phủ đã tiến hành những nghiên cứu về quan hệ giữa các xu thế dân số và thay đổi kinh tế xã hội và đã nhận thức được những ảnh hưởng đối kinh tế xã hội do mức sinh thấp chưa từng có ở Nhật Bản. Tuy nhiên, Chính phủ đã từ chối thực hiện chính sách khuyến sinh để giải quyết thực trạng dân số.

Rõ ràng là các chính sách hiện tại của Chính phủ phù hợp với tinh thần hiến pháp tôn trọng tự do và lòng tự trọng của mỗi cá nhân. Tháng 10 năm 1998, Hội đồng Tư vấn Dân số của Bộ Y tế và Phúc lợi đã trình báo cáo mới nhất, và Thủ tướng Nhật Bản đã tổ chức một nhóm công tác để đưa ra các vấn đề về mức sinh thấp. Những lựa chọn chính sách của cả hai nhóm chủ yếu nhằm cải thiện các điều kiện nuôi con của các bà mẹ đang làm việc và khuyến khích các mô hình sống mới có thể thay thế phân chia lao động truyền thống giữa vợ và chồng.

Các biện pháp này dường như là cách gián tiếp và khá yếu để tăng mức sinh (Ozaki và Kaizuka 1994, 41-45). Trong các khía cạnh khác, chính sách của Chính phủ có thể được miêu tả là một “phản ứng với triệu chứng” khi nó không đưa ra được nguyên nhân của tình hình – mức sinh dưới mức thay thế - mà lại tập trung vào các biện pháp xoa dịu. Hiện tại, Chính phủ đang điều chỉnh các hệ thống bảo hiểm y tế, trợ cấp và phúc lợi xã hội cho người già nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính lên vai nhóm dân số trong độ tuổi lao động do số lượng người già ngày càng tăng.

Chính phủ không thực hiện những bước đi trực tiếp để khuyến khích mức sinh cao hơn. Tuy nhiên các chính sách và chương trình nhằm cải thiện phúc lợi gia đình, vị thế phụ nữ, và đặc biệt là hoàn cảnh khó khăn của các bà mẹ đang làm việc chưa mang lại những tác động dân số đáng kể hay khả quan.

Hơn nữa, việc Chính phủ gần đây thờ ơ với việc áp dụng chính sách khuyến sinh một phần là do thất bại của Nhật Bản trong việc áp dụng chính sách này trước và trong suốt Đại chiến thế giới thứ II. Nỗ lực ngăn cản sử dụng các biện pháp kiểm soát sinh trong thời kỳ đầu của thế kỷ XX là không hiệu quả. Tuy nhiên, nếu Chính phủ không hạn chế việc phổ biến các thông tin KHHGĐ, quá trình quá độ dân số ở Nhật Bản đã có thể xảy ra êm thuận hơn. Rất nhiều vấn đề xã hội, như tình trạng thất nghiệp trầm trọng tại các thành phố và làng mạc, về cơ bản đưa đất nước vào chiến tranh, có thể đã không xảy ra.

Một bài học quan trọng từ kinh nghiệm của Nhật Bản rằng thời gian được hưởng dư lợi dân số diễn ra rất ngắn. Nếu một nền kinh tế thất bại trong việc hưởng dư lợi dân số thì sẽ nhanh chóng phải đối mặt với cái gọi là bất lợi dân số. Sự gia tăng lực lượng lao động Nhật Bản là những lợi thế đối với bùng nổ kinh tế trong thập kỷ 50 và 60. Tỷ lệ dân số phụ thuộc trẻ so với dân số trong độ tuổi lao động ở mức thấp, kết quả của mức sinh thấp trong những năm 50 và 60, đã khuyến khích đầu tư, nạp nhiên liệu cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, thời kỳ

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

41

triển vọng này trôi qua nhanh chóng. Với sự suy giảm dân số và tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm 70, viễn cảnh dân số già ngày càng nhiều và các vấn đề do dân số già đã xuất hiện. Giai đoạn quá độ dân số mới đã đặt ra những thách thức chưa từng có trong lịch sử.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

42

3 Chương trình kế hoạch hoá gia đình quốc gia

và chuyển đổi mức sinh tại Hàn Quốc Tai-Hwan Kwon

Xã hội Hàn Quốc đã chuyển đổi kinh tế và quá độ dân số từ đầu thập niên 60, khi mà nền kinh tế do chiến tranh tàn phá vẫn chưa hồi phục; người dân vẫn còn đang phải chịu cảnh đói nghèo và hệ thống chính trị phải đối mặt với một tương lai bất ổn. Thu nhập bình quân đầu người một năm khi đó vào khoảng 80 đôla Mỹ. Khoảng 72% dân số Hàn Quốc sống ở các khu vực nông thôn và kiếm sống bằng nghề trồng lúa. Tỷ lệ thất nghiệp tại các thành phố vào khoảng 30%. Đa phần Seoul, thành phố thủ đô, là các khu nhà ổ chuột.

Bất chấp đói nghèo, mức chết đã tương đối thấp và vẫn tiếp tục giảm. Tỷ suất chết giảm mạnh từ những năm đầu của thế kỷ 20 là kết quả của những cải thiện về chăm sóc sức khoẻ và y tế. Việc giới thiệu các loại thuốc kháng sinh của Liên Hợp Quốc trong cuộc chiến tranh Liên Triều đã giảm đáng kể mức chết ở trẻ sơ sinh và trẻ em, tăng tỷ lệ sống sót. Mức chết giảm cộng với mức sinh vốn dĩ đã cao khiến cho dân số gia tăng rất nhanh. Trong suốt những năm 1955-60, tỷ lệ tăng dân số hàng năm là 2,9%, tỷ lệ cao nhất trong lịch sử Hàn Quốc. Dân số tăng nhanh càng tạo thêm gánh nặng cho nền kinh tế.

Rồi bất ngờ có những chuyển biến trong nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau ở Hàn Quốc. Mức sinh giảm mạnh. Nền kinh tế bắt đầu cất cánh, khởi đầu bằng công cuộc công nghiệp hoá. Một lượng lớn cư dân nông thôn bắt đầu di chuyển đến các khu vực thành thị. Ổn định chính trị được đảm bảo bằng việc thành lập Chính phủ dân sự thông qua bầu cử. Những thay đổi này đã tác động đến mô hình sống và chất lượng cuộc sống của người dân Hàn Quốc. Tiến trình này diễn ra liên tục trong vòng gần bốn thập niên. Hiện tại, tỷ lệ phát triển dân số hạ xuống dưới 1% và tổng tỷ suất sinh dưới mức thay thế. Thu nhập bình quân đầu người hàng năm đạt 10.000 đôla Mỹ và tỷ lệ dân số thành thị chiếm 80%. Tỷ lệ học sinh tại các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông tăng từ 26% năm 1955 lên 98% vào năm 1990.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

43

Quá trình chuyển đổi này có rất nhiều nét đặc trưng: Bất ngờ khởi phát, tác động đến tất cả các lĩnh vực của xã hội, được thực hiện với tốc độ chưa từng thấy và được Chính phủ tạo điều kiện bằng những hoạt động can thiệp. Những nét đặc trưng này thường được nhắc tới như sự thay đổi “toàn diện, có trọng tâm và có kế hoạch”. Trong tình hình đó, rất khó giải thích rõ ràng, tuần tự từng bước của toàn bộ quá trình cải biến xã hội mặc dù phát triển kinh tế được cho là nguyên nhân chính.

Những lý giải về mặt văn hóa xã hội của phát triển kinh tế và chuyển đổi mức sinh của Hàn Quốc cũng rất tiến bộ. Đặc biệt là Chính phủ đã đầu tư vốn để phát triển kinh tế, công nghiệp hoá và chuyển đổi nhanh mức sinh; Chính phủ đã đưa những mục tiêu này vào trong một loạt kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế, kể từ năm 1962. Tuy nhiên, can thiệp của nhà nước và các chính sách của Chính phủ không thành công bằng các khu vực khác. Ví dụ như mặc dù chính sách dân số của Chính phủ hướng vào mức sinh đã phát huy tác dụng nhưng nếu xét về mặt di cư và phân bố lại dân cư thì hoàn toàn thất bại. Bởi vậy, rất khó thiết lập những mối quan hệ nhân quả đơn thuần trong hầu hết các lực lượng xã hội bởi các mối quan hệ đó tác động đan xen một cách chặt chẽ trong hệ thống. Để thay đổi xã hội, phát triển kinh tế hay quá độ dân số, không thể chỉ có một con đường duy nhất. Tư tưởng này đã được thừa nhận rộng rãi. Vì thế, với mỗi trường hợp, điều quan trọng nhất là giám sát từng chi tiết của quá trình biến động, cơ chế thực hiện cụ thể, cũng như các yếu tố môi trường để có thể hiểu biết đầy đủ sự chuyển biến đầy ý nghĩa về mặt xã hội đó. Tác giả đã sử dụng cách tiếp cận này để nghiên cứu hầu hết những đặc điểm của chính sách kiểm soát sinh của Chính phủ, các xu thế và hình thái chuyển đổi mức sinh cũng như những tác động, ảnh hưởng của chính sách đối với chuyển đổi mức sinh ở Hàn Quốc.

CHƯƠNG TRÌNH KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH QUỐC GIA

Quá trình chuyển đổi mức sinh ở Hàn Quốc bắt đầu từ những năm đầu của thập niên 60 thế kỷ XX cùng với việc triển khai chương trình KHHGĐ của Chính phủ. Thực tế này thường được đưa ra để minh chứng Chính phủ là yếu tố quyết định nhất của việc chuyển đổi mức sinh. Chương trình đã nhận được mọi sự hỗ trợ cần thiết của Chính phủ cho đến cuối những năm 80, khi mà tổng tỷ suất sinh giảm xuống dưới mức thay thế. Sự ủng hộ của Tổng thống Hàn Quốc được xem

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

44

là hết sức quan trọng trong nỗ lực giảm mức sinh vì lúc đó xã hội Hàn Quốc còn rất độc tài. Chương trình đã nhận được sự ủng hộ tuyệt đối của cả hai tổng thống điều hành đất nước trong suốt 26 năm từ 1961 đến 1987.

Người ta thường cho rằng mô hình và nhịp độ chuyển đổi mức sinh trong xã hội phụ thuộc vào việc các cặp vợ chồng có nhu cầu sinh ít con và có biện pháp để giải quyết nhu cầu đó. Bằng cách cung cấp các biện pháp KHHGĐ, chắc chắn chương trình KHHGĐ Hàn Quốc là công cụ để giảm mức sinh của Hàn Quốc. Nhưng nhìn chung người ta cũng thừa nhận rằng chương trình đã tạo nhu cầu và vì thế dẫn dắt toàn bộ công cuộc giảm sinh. Quan điểm này dựa vào luận điểm rằng mô hình gia đình truyền thống, đông con là mô hình lý tưởng vào những năm đầu thập niên 60 nên tránh thai và KHHGĐ là khá xa lạ đối với xã hội Hàn Quốc, và thực tế công chúng đã không hưởng ứng phong trào KHHGĐ do khu vực tư nhân khởi xướng. Tuy nhiên, ngày nay các nhà dân số học đã phản đối quan điểm này với lý do đất nước đã phải chịu sức ép rất lớn của dân số từ năm 1960 và khi đó mong muốn có gia đình ít con hơn đã nhanh chóng lan rộng khắp nơi. (Kwon 1993, 43-45). Với luận điểm này, chính sách của Chính phủ đã khá thành công. Tuy nhiên, không được đánh giá thấp vai trò của Chính phủ trong việc chuyển đổi mức sinh. Chính phủ đã đáp ứng nhu cầu của một bộ phận lớn trong xã hội bằng cách loại bỏ các rào cản trong việc sử dụng rộng rãi các phương tiện tránh thai và hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất cho các dịch vụ KHHGĐ. Do đó, Hàn Quốc cần có một đề xuất chương trình KHHGĐ mới.

Hình thành chính sách kiểm soát sinh

Việc thực hiện chính sách kiểm soát sinh tại Hàn Quốc đơn giản và minh bạch. Tháng 5 năm 1961, tướng Pắc-chung Hy, lãnh đạo quân đội dành quyền kiểm soát đất nước và thành lập Hội đồng tối cao Tái thiết Đất nước (SCNR). Đây là cơ quan đưa ra những quyết định hàng đầu của Chính phủ lâm thời. Công việc chính của Hội đồng là đưa ra các quyết sách nhằm khởi động nền kinh tế trì trệ truyền thống của quốc gia. Thành công quan trọng nhất của Hội đồng là phác thảo Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất. Tư tưởng kiểm soát dân số hay kiểm soát sinh khởi phát từ Uỷ ban tư vấn xã hội (SAC) thuộc Hội đồng này. Giáo sư Koh Whang-Kyung, một nhà xã hội học, đã kêu gọi một chính sách kiềm chế số ca sinh và bà đã nhận được sự hỗ trợ từ một đồng nghiệp nam, Giáo sư

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

45

Lee Hae-Young. Họ đề xuất chính sách kiểm soát sinh lên Uỷ ban trên cơ sở luận chứng rằng gia tăng dân số là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo và tác động xấu đến nền kinh tế của đất nước. Ủy ban tư vấn xã hội và Uỷ ban tư vấn kinh tế đã xem xét nghiên cứu đề xuất này. Với sự ủng hộ của hai Uỷ ban này, đề xuất được đệ trình và cuối cùng được Hội đồng tối cao tái thiết đất nước thông qua. Toàn bộ quá trình chỉ mất có hai tháng (Caldwell 1969; Kim, Ross, and Worrth 1972, 39-44). Tháng 10 năm 1961, tướng Pắc, Chủ tịch Hội Đồng Tối cao tuyên bố áp dụng chính sách KHHGĐ tại một hội nghị báo chí quốc gia. Thông cáo báo chí ngày 19 tháng 10 năm 1961 mô tả quyết định của Chính phủ như sau:

Tướng Pác đã tuyên bố Bộ Y tế và Các Vấn đề Xã hội đang xem xét và chuẩn bị một đề xuất cho một phong trào toàn quốc mới gọi là “KHHGĐ”. Nếu không kiểm soát được tình hình gia tăng dân số thì sẽ ảnh hưởng đến thành công của kế hoạch kinh tế, ông cũng chỉ ra rằng một kế hoạch quốc gia mới sẽ được thực thi, không phải là bắt buộc mà thông qua phong trào tự nguyện. (Dong-A Ilbo,3)

Từ thông điệp ngắn gọn nhưng mang tính lịch sử này, có thể thấy rõ những nét đặc trưng của chương trình KHHGĐ Hàn Quốc trong thời kỳ sơ khai. Mục tiêu cơ bản của chính sách là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Biện pháp thực hiện chính sách này là tuyên truyền vận động. Với cách tiếp cận này, Bộ trưởng Bộ Y tế và các vấn đề xã hội được giao đảm nhận nhiệm vụ và Hội KHHGĐ Hàn Quốc là tổ chức thực hiện các chương trình dân sự. Hội KHHGĐ Hàn Quốc được thành lập chỉ trước khi quân đội tiến hành đảo chính và hầu hết các thành viên là bác sỹ. Trên thực tế, chương trình đã từng là nỗ lực tự nguyện của khu vực tư nhân. Nhà nước đã can thiệp vào mọi mặt của chương trình, một minh chứng rõ ràng nhất là chương trình luôn là cấu phần không thể tách rời của tất cả các Kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân. Thực tế này được đánh giá là điểm mạnh nhất của chương trình KHHGĐ Hàn Quốc.

Việc thông qua chính sách quá nhanh, không có quá nhiều tranh luận và chuẩn bị khiến cho một số bộ phận ưu tú trong dân chưa sẵn sàng thảo luận về các vấn đề dân số. Vào khoảng năm 1960, một số bác sỹ, nhà khoa học xã hội và các nhà truyền giáo đã nỗ lực truyền bá, thúc đẩy ý tưởng hạn chế quy mô gia đình và kiểm soát dân số (Yang 1991). Ý tưởng này dường như xuất phát từ Mỹ. Kết quả Tổng điều tra dân số Hàn Quốc đã gióng hồi chuông cảnh báo về “bùng

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

46

nổ dân số” tại một số vùng, nhưng hầu hết người dân Hàn Quốc, bao gồm cả các chính trị gia và các nhà hoạch định chính sách vẫn chưa nhận thức rõ về ý tưởng kiểm soát sinh trước khi Chính phủ áp dụng chính sách dân số. Bất chấp nhu cầu rất lớn về các biện pháp tránh thai, thể hiện bằng việc gia tăng số ca nạo phá thai ở phụ nữ có chồng, quan điểm khuyến sinh vẫn tồn tại ở các cấp quản lý nhà nước. Những kiến thức về dân số hầu như không tồn tại. Cho đến năm 1960, mới chỉ có một số khoá học về dân số được tổ chức tại các trường đại học và trước năm 1962 vẫn chưa thực hiện bất cứ một cuộc nghiên cứu toàn diện nào về dân số. (Lee 1970) Chính vì vậy, việc ban hành chính sách dân số của Chính phủ chưa nhận được sự hỗ trợ của cộng đồng và giới chuyên môn, chỉ dừng lại ở mức thúc đẩy nghiên cứu và giảng dạy về dân số.

Xây dựng cơ sở vật chất

Với việc ban hành chính sách kiểm soát dân số, Chính phủ bắt đầu xây dựng cơ cấu tổ chức cho chương trình KHHGĐ Hàn Quốc. Năm 1962, các phòng cung cấp dịch vụ KHHGĐ được thiết lập tại 183 trung tâm y tế hạt (gun), quận (gu), và vào năm 1964 khoảng 1.473 nhân viên KHHGĐ được tuyển dụng và được cử xuống các eups, myuns và dongs (các đơn vị hành chính cấp dưới) với mục đích tiếp cận các gia đình (KIHASA 1991, 103-4). Các hoạt động KHHGĐ được thực hiện đầy đủ vào năm 1965. Ban đầu, chương trình tập trung vào các khu vực nông thôn, nơi mức sinh cao nhất và kiến thức về KHHGĐ rất hạn chế. Sau đó chương trình vươn đến các khu vực thành thị. Biện pháp tổ chức này được đánh giá là đóng góp đáng kể vào việc phát triển hệ thống y tế của đất nước, tạo điều kiện cho người dân nông thôn và dân nghèo thành thị tiếp cận được các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Vẫn biết giảm mức chết là điều kiện tiên quyết để chuyển đổi mức sinh tại hầu hết các xã hội, nhưng cũng cần theo sát những tác động ngược chiều của chương trình đối với mức chết.

Việc thiếu hiểu biết về thái độ và hành vi sinh sản của người dân Hàn Quốc là rào cản chính trong quá trình xây dựng một chương trình kiểm soát sinh khả thi. Để thu thập được những thông tin cơ bản cần thiết cho hoạch định và đánh giá các chính sách kiểm soát sinh, Chính phủ đã tiến hành cuộc điều tra khảo sát KHHGĐ cấp quốc gia lần đầu tiên vào năm 1964. Kể từ đó, các cuộc điều tra về kiến thức, thái độ và hành vi thực hiện KHHGĐ của người dân Hàn

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

47

Quốc được thực hiện thường xuyên, nội dung trọng tâm được thay đổi qua từng thời kỳ. Năm 1968, Bộ Y tế và các vấn đề xã hội thành lập Trung tâm KHHGĐ Quốc gia để thực hiện các nghiên cứu về KHHGĐ (sau đó được đổi thành Viện KHHGĐ Hàn Quốc, Viện Dân số và Y tế Hàn Quốc, và sau này là Viện các vấn đề xã hội và Y tế Hàn Quốc). Vào nửa cuối thập niên 60, một số viện nghiên cứu KHHGĐ và dân số độc lập hoặc trực thuộc các trường đại học được thành lập với hỗ trợ tài chính của Chính phủ và các tổ chức nước ngoài như Hội đồng Dân số Thành phố New York. Hầu hết các viện này đều tham gia nghiên cứu các chính sách liên quan đến KHHGĐ. Vào năm 1964, Trung tâm nghiên cứu dân số (sau này đổi tên thành Trung tâm Nghiên cứu dân số và phát triển, và tiếp theo là Viện phát triển xã hội và nghiên cứu chính sách) được thành lập chỉ với mục tiêu tiến hành các nghiên cứu dân số và tạo dựng các nguyên tắc cho ngành dân số Hàn Quốc. Bất chấp các tác động không mong muốn từ những điều chỉnh dân số của Chính phủ, việc phát triển các nghiên cứu dân số đóng góp một phần không nhỏ vào thành công của chương trình KHHGĐ Hàn Quốc.

Phát triển Chương trình

Bảng 3.1 tóm lược các đặc trưng cơ bản của chương trình quốc gia. Chương trình được phát triển trong ba giai đoạn, mỗi giai đoạn kéo dài khoảng 10 năm.

Giai đoạn đầu tiên bắt đầu từ thập niên 60, bao gồm việc xây dựng nền tảng cho chương trình: Loại bỏ những rào cản pháp lý, thành lập các tổ chức quốc gia về KHHGĐ, tuyển dụng nhân viên KHHGĐ, ban hành hệ thống chỉ tiêu… Cán bộ ý tế đi tiên phong, chương trình tập trung hướng tới phụ nữ nông thôn tại các khu vực có mức sinh cao nhất và chưa có phương tiện để kiểm soát sinh. Chương trình triển khai rộng rãi các loại phương tiện tránh thai, đặc biệt là Vòng tránh thai và cố gắng thay đổi quy mô gia đình mong muốn từ 5 xuống 3 con. Tuyên truyền vận động cá nhân thông qua trao đổi trực tiếp là biện pháp thực hiện chính của chương trình nhằm tránh xúc phạm đến các vị cao niên đáng kính tại địa phương, rất nhiều trong số họ phản đối ý tưởng KHHGĐ. Chương trình được tiếp nhận tốt, mức sinh giảm nhanh chóng.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

48

Bảng 3.1. Những đặc trưng cơ bản của Chương trình KHHGĐ Hàn Quốc

Đặc trưng Thập niên 60 Thập niên 70 Thập niên 80 Các chính sách được áp dụng

Chính sách KHHGĐ và bãi bỏ các quy định pháp luật cấm nhập khẩu, sản xuất phương tiện tránh thai (1961) Các mục tiêu dân số và KHHGĐ (1965) Ký Tuyên bố Dân số Liên Hợp Quốc (1966)

Luật Bà Mẹ và Trẻ em (1973) Thành lập Uỷ ban Chính sách Dân số (1976)

Chính sách Tăng cường Kiểm soát Dân số (1981) Sửa đổi Luật Bà Mẹ và Trẻ em (1986)

Cơ quan đảm trách

Bộ Y tế và các Vấn đề Xã hội

Bộ Y tế và các Vấn đề Xã hội

Tất cả các Bộ tham gia

Đối tượng Dân nông thôn (1962) Thêm dân nghèo thành thị và công nhân các nhà máy, xí nghiệp

Các nhóm dễ bị tổn thương (20-29 tuổi)

Các biện pháp chính

Các biện pháp tạm thời, bao gồm cả vòng tránh thai

Triệt sản nữ Sản xuất PTTT

Triệt sản nam và nữ

Vận động và giáo dục

Khuyến khích gia đình ba con Tập trung gắn kết quan hệ giữa nhân viên KHHGĐ và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ

Khuyến khích gia đình 2 con Sử dụng rộng rãi báo chí Giáo dục dân số trong chương trình THCS & THPT

Khuyến khích gia đình 1 con Sử dụng rộng rãi các đài phát thanh và truyền hình

Hỗ trợ xã hội

Sửa đổi Luật thuế thu nhập cá nhân, chỉ giảm trừ thuế cho gia đình có 1- 2 con Vợ chồng thực hiện triệt sản, có 2 con có thể nộp đơn xin nhà thuộc sở hữu nhà nước Sửa đổi Luật Gia Đình (1978)

Đa dạng hoá các hình thức hỗ trợ cho gia đình 2 con Miễn phí dịch vụ chăm sóc sinh và chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho gia đình 1 con Những thay đổi pháp lý nhằm nâng cao vị thế phụ nữ và không khuyến khích sinh con trai

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

49

Các Tổ chức Phi Chính phủ

Hội KHHGĐ Hàn Quốc (thành lập 1961) Câu lạc bộ các Bà mẹ KHHGĐ (thành lập năm 1968)

Hội KHHGĐ tại các làng mới Câu lạc Bộ Phụ nữ (1977)

Trong những năm đầu của thập niên 70, mức giảm sinh của Hàn Quốc bắt đầu chậm lại. Cùng thời gian này, trong khi Chính phủ đang chuẩn bị bản báo cáo quốc gia cho Diễn đàn Dân số Thế giới của Liên Hợp Quốc năm 1974, các nhà khoa học xã hội đã dấy lên cuộc tranh luận về các giải pháp dân số “vượt quá giới hạn của KHHGĐ”. Đáp lại những bước phát triển này, Chính phủ đã kết hợp thêm những nhân tố mới vào chương trình. Chương trình giáo dục dân số, mà trọng tâm là những bất lợi kinh tế và xã hội do gia tăng nhanh dân số đối với quốc gia và mỗi cá nhân, đã được đưa vào các chương trình giảng dạy tại các trường THCS và THPT. Cách tiếp cận bằng chính sách khuyến khích đã được áp dụng nhằm hỗ trợ cuộc vận động, khuyến khích thực hiện gia đình hai con, không phân biệt trai hay gái. Chính sách bao gồm cả việc cắt giảm thuế cho gia đình có một hoặc hai con và quyền đăng ký nhà ở thuộc sở hữu nhà nước của các cặp vợ chồng đã có một hoặc hai con và đã thực hiện biện pháp tránh thai. Nhằm thích ứng với tốc độ đô thị hoá nhanh, Chính phủ mở rộng đối tượng bao gồm cả nhóm dân nghèo thành thị và công nhân lao động trong các nhà máy, xí nghiệp. Để thu hút nam giới tham gia KHHGĐ, nhiều bài thuyết trình đặc biệt đã được trình bày tại nơi làm việc và các chương trình huấn luyện lính làm nghĩa vụ quân sự. Truyền thống trọng nam của người Hàn Quốc là rào cản lớn nhất để tiếp tục duy trì xu thế giảm sinh, vì thế chương trình đã triển khai các chiến dịch vận động với những khẩu hiệu và áp phích tấn công tư tưởng trọng nam và củng cố vị thế trẻ em gái. Tuy nhiên, cuối thập niên 70, các nhà khoa học xã hội và hoạch định chính sách bắt đầu chỉ trích chương trình do quá phụ thuộc vào Chính phủ và đặt ra câu hỏi liệu chương trình có tác động đến hành vi sinh sản trong tương lai nhiều như đã từng có trước đây không. Những chỉ trích này đã dẫn đến việc một số nhà hoạch định chính sách phải cân nhắc việc giảm dần sự tham gia của Chính phủ trong lĩnh vực KHHGĐ.

Tuy nhiên, vào đầu những năm 1980, Chính phủ quân sự do Chung-đô-Hoan đứng đầu đã tăng cường sự hỗ trợ của mình đối với chương trình KHHGĐ.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

50

Lý do căn bản của việc này là Chính phủ muốn kiềm chế cuộc bùng nổ dân số lần thứ hai, do thế hệ “bùng nổ dân số” sau chiến tranh của Hàn Quốc bước vào độ tuổi sinh đẻ và thời kỳ này dự kiến kéo dài đến hết thập niên 80. Chính phủ đã ban hành chương trình kiểm soát tăng trưởng dân số toàn diện; chương trình này là một cấu phần của Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm lần thứ 5. Kế hoạch yêu cầu (1) thay đổi việc thực hiện chương trình và hệ thống quản lý nhằm đem lại sức sống mới cho các hoạt động KHHGĐ, (2) Tăng cường các chính sách bảo trợ xã hội nhằm kiến tạo mô hình gia đình ít con lý tưởng, (3) Thay đổi định chế xã hội nhằm xoá bỏ tư tưởng trọng nam, (4) Tăng cường các chiến dịch giáo dục dân số và KHHGĐ, và (5) Thiết lập hệ thống bảo trợ của nhà nước nhằm đảm bảo hiệu quả kiểm soát tăng trưởng dân số thông qua sự tham gia tích cực của tất cả các bộ ngành trong Chương trình KHHGĐ (KIHASA 1991, 91-98).

Các biện pháp chính sách quan trọng được thông qua nhằm khuyến khích giảm mức sinh hơn nữa, triệt sản được coi là biện pháp chủ yếu để kiểm soát sinh và là cơ sở để thực hiện các chính sách khuyến khích thực hiện gia đình có một hoặc hai con. Những chính sách khuyến khích đó bao gồm trợ cấp gia đình và hỗ trợ học phí cho đứa con đầu lòng (hai đứa con đầu trong trường hợp bố mẹ là công chức viên chức nhà nước), và miễn phí chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho cả mẹ và con nếu bố hoặc mẹ đồng ý triệt sản sau lần đẻ thứ nhất. Chính phủ cũng phát động những chiến dịch tuyên truyền vận động quy mô lớn nhằm quảng bá gia đình lý tưởng có một hoặc hai con. Để gắn liền khái niệm “chất lượng dân số” với chính sách dân số của mình, Chính phủ đã sửa đổi Luật Sức khoẻ Bà mẹ và Trẻ em. Nhằm làm suy yếu tư tưởng trọng nam, nhiều điều khoản phân biệt đối xử về giới trong các quy định bảo hiểm, y tế và luật gia đình đã được xoá bỏ. Đáp lại, mức sinh đã giảm rất nhanh, đạt dưới mức thay thế vào khoảng giữa thập niên 80, và quá trình giảm sinh tiếp tục diễn ra cho đến đầu những năm 90. Kết quả bất ngờ này đã giúp cảnh tỉnh Chính phủ vì thế Chính phủ đã bắt đầu rút lui dần khỏi chương trình KHHGĐ vào cuối thập niên 80. Hàn Quốc thay đổi chính sách dân số cùng thời gian thay đổi nhiệm kỳ tổng thống.

Từ kết quả quan sát này có thể khắc hoạ chương trình KHHGĐ Hàn Quốc có những đặc trưng sau: Nhà nước khởi xướng và vào cuộc một cách mạnh mẽ, đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu kinh tế trong việc giảm mức sinh, hỗ trợ tối đa của

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

51

đội ngũ lãnh đạo nhằm tạo sự đồng thuận của cộng đồng, thực hiện thông qua hệ thống y tế công, xác định chỉ tiêu, cách tiếp cận đa dạng, diện bao phủ toàn quốc, và đảm bảo tài chính. Nói ngắn gọn, nó được mô tả là “một chương trình mạnh mẽ” (Ross và Finnigan 1968, 682-86).

Phổ biến các biện pháp KHHGĐ

Trước khi thành lập chương trình quốc gia vào năm 1962, ý tưởng tránh thai còn xa lạ và kiến thức về các biện pháp tránh thai còn rất hạn chế. Mặc dù rất nhiều đàn ông Hàn Quốc biết về bao cao su, nhưng họ dùng chủ yếu để tránh các bệnh lây qua đường tình dục từ gái mại dâm.

Bảng 3.2. Tỷ lệ người sử dụng các biện pháp tránh thai trong phụ nữ có chồng, 15-44 tuổi, theo vùng và biện pháp: Hàn Quốc, 1971-94

Khu vực hoặc biện pháp 1971 1976 1982 1985 1988 1991 1994 Khu vực Toàn quốc 24,6 44,2 57,7 70,4 77,1 79,4 77,4 Thành thi 27,4 48,0 58,7 71,5 77,1 79,3 77,1 Nông thôn 22,7 40,2 55,7 67,7 75.5 80.0 78.4 Biện pháp Triệt sản nữ 4,1 23,0 31,6 37,2 35,3 28,6 Triệt sản nam 3,3 4,2 5,1 8,9 11,0 12,0 116 Vòng 7,2 10,5 6,7 7,4 6,7 9,0 10,5 Viên uống tránh thai 6,8 7,8 5,4 4,3 2,8 3,0 1,8 Bao cao su 3,2 6,3 7,2 7,2 10,2 10,2 14,3 Các biện pháp khác 4,2 11,3 10,3 11,0 9,2 9,9 10,6

Nguồn: Park, Choi, và Kwon (1979, 188); Hong M-S.et al (1984,85)

Hậu quả là tạo cho cộng đồng một ấn tượng xấu về bao cao su. Một vài cặp vợ chồng, mặc dù không nhiều, sử dụng vòng tránh thai. Trong suốt thời gian đầu, thử thách lớn nhất của Chương trình KHHGĐ là giới thiệu những phương pháp tránh thai an toàn và tin cậy. Do ngay từ đầu đã thiếu các biện pháp tránh thai dẫn đến nạo phá thai nhiều. Việc triển khai vòng tránh thai và các loại thuốc tránh thai vào giữa những năm 60 đã giúp chương trình vượt qua thử thách đầu tiên. Tỷ lệ các cặp vợ chồng thực hiện KHHGĐ tăng nhanh chóng, từ 16% năm 1965 lên 25% năm 1971, và 44% vào năm 1976. Hai biện pháp tránh thai này là 2 biện pháp KHHGĐ chính của chương trình đến tận giữa thập niên 70.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

52

Năm 1976, chương trình bắt đầu coi triệt sản nữ là biện pháp chủ yếu để kiểm soát sinh và kể từ đó biện pháp triệt sản nữ đã trở nên phổ biến, như kết quả trình bày tại bảng 3.2. Với bước phát triển này, chương trình đã đánh dấu bước đột phá mới. Tỷ lệ phụ nữ có chồng sử dụng biện pháp tránh thai tăng một cách ấn tượng trong nửa đầu của thập niên 80 và tiếp tục tăng cho đến năm 1991. Tỷ lệ nam giới chấp nhận thắt ống dẫn tinh và sử dụng bao cao su để giảm sinh tăng kể từ năm 1971, trong khi các biện pháp tránh thai bằng thuốc đã giảm xuống ở mức không đáng kể, kể từ giữa thập niên 70. Nhìn chung, các cặp vợ chồng Hàn Quốc vẫn thích các biện pháp tránh thai nữ hơn là các biện pháp cho nam giới, mặc dù mức chênh lệch giữa tỷ lệ tránh thai ở nam giới và nữ giới đã được thu hẹp đáng kể. Hơn nữa, những biện pháp được sử dụng nhiều nhất đã trở nên đa dạng hơn kể từ năm 1982. Xu thế này xuất hiện ở các cặp vợ chồng ít phụ thuộc vào các chương trình quốc gia trong việc lựa chọn các biện pháp tránh thai và mức độ tham gia ngày càng nhiều của khu vực tư nhân trong dịch vụ tránh thai.

Bảng 3.3. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai theo biện pháp và nguồn cung cấp dịch vụ: Hàn Quốc 1973-94.

1973 1979 1985 1994 Biện pháp Chính

phủ Thị

trường Chính phủ

Thị trường

Chính phủ

Thị trường

Chính phủ

Thị trường

Khác

Tất cả các biện pháp

21,4 14,9 29,5 25,0 39,7 30,7 34,7 38,3 4,3

Triệt sản nữ - - 9,8 4,7 26,1 5,5 21,4 4,9 2,2 Triệt sản nam 4,6 - 5,4 0,5 7,4 1,5 8,9 1,4 1,3 Vòng 7,9 - 9,0 0,6 4,3 3,1 3,4 6,4 0,7 Viên uống tránh thai

5,3 2,7 3,7 3,5 0,8 3,5 0,1 1,7 -

Bao cao su 3,6 2,9 1,6 3,6 1,1 6,1 0,9 13,3 0,1 Biện pháp khác - 9,3 - 12,1 - 11,0 - 10,6 -

Trong năm 1965, 21% phụ nữa có chồng trong độ tuổi sinh đẻ ở khu vực thành thị sử dụng các biện pháp tránh thai; ở khu vực nông thôn, tỷ lệ này là 14%. Với việc khởi động Chương trình KHHGĐ vào giữa thập niên 60, sự khác biệt giữa thành thị và nông thông được thu hẹp. Trong những năm gần đây, khu vực nông thôn đã đạt được tỷ lệ sử dụng cao hơn khu vực thành thị. Những xu hướng này phản ánh sự thay đổi về cơ cấu tuổi của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại cả hai khu vực. Khoảng thời gian sinh đẻ của phụ nữ thành thị thường ngắn

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

53

hơn phụ nữ nông thôn và hầu hết phụ nữ ở độ tuổi này chưa đạt được số con mong muốn. Một bước phát triển quan trọng khác được thể hiện tại Bảng 2.3. Đó là kết quả sử dụng các biện pháp tránh thai tại cả khu vực nông thôn và thành thị, đạt đỉnh điểm vào những năm đầu của thập niên 90.

Trong những năm đầu thực hiện chương trình, thị trường các dịch vụ tránh thai chưa phát triển và hiển nhiên Chính phủ là nguồn cung cấp chính các biện pháp tránh thai. Số liệu điều tra khảo sát trên phạm vi quốc gia cho thấy, khoảng 40% trong số những người sử dụng các biện pháp tránh thai đã mua phương tiện tránh thai trên thị trường trong năm 1973 (Bảng 3.3). Phần đông những người này sống tại thành thị, nơi họ có thể có được các biện pháp tránh thai từ các nhà thuốc và trung tâm y tế dễ hơn rất nhiều so với những người sống ở khu vực nông thôn. Tỷ lệ các nhà cung cấp tư nhân tăng liên tục và ngày càng có nhiều các cặp vợ chồng nhận dịch vụ từ những nhà cung cấp tư nhân thay vì sử dụng các dịch vụ do Chính phủ cung cấp để thoả mãn nhu cầu tránh thai của họ. Một trong những lý do là các dịch vụ của Chính phủ chỉ hạn chế trong hai hoặc ba biện pháp thực sự có hiệu quả - phần lớn là đặt vòng trong những năm 60, triệt sản nữ trong những năm đầu của thập niên 70, và triệt sản nam từ cuối những năm 70.

Hỗ trợ tài chính cho chương trình

Mặc dù Chính phủ Hàn Quốc đã thiết lập chương trình quốc gia và phát triển nền tảng cho chương trình này vào đầu những năm 60, nền kinh tế nghèo nàn đã đặt Chính phủ vào tình trạng khó khăn về ngân sách cho đến cuối thập niên. Chính vì thế ngân sách dành cho chương trình ban đầu rất nhỏ và các hỗ trợ của nước ngoài là nguồn cung cấp tài chính chủ yếu cho các dịch vụ của chương trình. Hội KHHGĐ Hàn Quốc được chỉ định như cánh tay phải của chương trình quốc gia, nhưng cho đến tận năm 1977, đóng góp của Chính phủ cho chương trình chỉ vào khoảng 13%, hỗ trợ nước ngoài chiếm đến 83% trong suốt thập niên 60. 4% đóng góp còn lại là từ phí hội viên, các khoản thanh toán của các chi Hội và kinh phí còn dư chuyển từ năm trước sang. Tỷ lệ đóng góp của Chính phủ tăng lên 36% trong năm 1977, nhảy vọt lên 66% trong năm 1982 và đạt đỉnh điểm 77% trong năm 1984 (KIHASA 1991, 314-15).

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

54

Vai trò quan trọng của các tổ chức nước ngoài trong việc thúc đẩy các hoạt động KHHGĐ cho đến tận giữa những năm 70 được thể hiện qua thực tế rằng tổng số hỗ trợ nước ngoài dành cho KHHGĐ vượt qua tổng ngân sách của Chính phủ dành cho tất cả các dịch vụ KHHGĐ. Năm 1975, ngân sách Chính phủ dành cho Chương trình KHHGĐ là 834 triệu Won, hay 931 triệu Won bao gồm cả ngân sách dành cho Chương trình Sức khoẻ Bà mẹ và Trẻ em. Ngân sách này tăng vọt lên hơn 10 lần trong năm 1980, vào một đợt tăng ngân sách khác cũng được ghi nhận trong năm 1983. Hỗ trợ ngân sách của Chính phủ dành cho Chương trình KHHGĐ đạt mức cao nhất vào năm 1986, với gần 32 tỷ Won. Và sau đó ngân sách bắt đầu giảm, giảm nhiều vào năm 1990 (Bảng 3.4). Bất chấp những con số ấn tượng này, tỷ lệ ngân sách quốc gia phân bổ cho Chương trình KHHGĐ không vượt qua 0,1% cho đến tận giữa thập niên 70. Tỷ lệ này tăng lên 0,2% vào 1983 và 0,25% vào năm 1985. Nếu tính cả ngân sách dành cho Chương trình Sức khoẻ Bà mẹ và Trẻ em, ngân sách lên đến 0,3% trong năm 1983. Năm 1990, ngân sách dành cho KHHGĐ chỉ vào khoảng dưới 0,01% tổng ngân sách quốc gia.

Bảng 3.4 Ngân sách Chính phủ dành cho Chương Trình KHHGĐ (FP) và Sức khoẻ Bà mẹ và Trẻ em (MCH): Hàn Quốc 1975-96

Năm Tổng (tỷ won)

FP (triệu Won)

MCH (triệu Won)

Tỷ giá (Won/USD)

Tỷ lệ trong tổng ngân sách FP MCH

1975 1.587 934 97 400 0,053 0,006 1980 5.804 8.457 988 485 0,146 0,017 1981 7.851 8.709 5.240 600 0,111 0,067 1982 9.314 9.826 12.953 715 0,106 0,139 1983 10.417 20.534 12.253 768 0,197 0,118 1984 11.173 22.227 9.981 780 0,199 0,089 1985 12.275 30.237 2.294 780 0,246 0,023 1986 13.801 31.760 2.975 900 0,230 0,022 1987 15.560 27.599 4.240 865 0,177 0,027 1988 17.464 26.767 4.273 790 0,153 0,024 1989 19.228 22.026 3.554 700 0,115 0,018 1990 22.689 10.932 3.458 665 0,048 0,015 1991 28.973 9.459 4.157 715 0,033 0,014 1992 36.224 7.563 4.636 725 0,021 0,012 1993 41.939 5.644 4.632 770 0,013 0,011 1994 47.939 4.514 4.703 800 0,009 0,010 1995 54.845 3.618 4.776 800 0,007 0,009 1996 64.927 2.358 2.776 750 0,004 0,004

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

55

Nguồn: Cho N.H (1996, 95); ROK NSO (1996,226)

Ghi chú: Ngân sách KHHGĐ và Sức khoẻ Bà mẹ và Trẻ em chỉ dành cho các hoạt động của chương trình, không bao gồm chi phí nhân lực KHHGĐ tại các trung tâm y tế địa phương và các tổ chức tư nhân như Hội KHHGĐ Hàn Quốc.

CHUYỂN ĐỔI MỨC SINH

Dân số Hàn Quốc chịu ảnh hưởng của thuyết Man-tuýt trong suốt Triều đại Chousun (1392 – 1910). Dân số đã hai lần đạt đỉnh điểm; lần thứ nhất vào những năm cuối của thế kỷ XVI, và lần thứ hai vào giữa thế kỷ XIX. Mỗi lần đạt đỉnh điểm đều kéo theo bất ổn xã hội, mất mùa, xâm lược nước ngoài hoặc nội chiến (Kwon và Shin 1977). Việc chiếm đóng của Nhật Bản vào đầu thế kỷ XX xảy ra trong thời kỳ Man-tuýt. Thế kỷ trước được khắc hoạ bằng những bất ổn xã hội và chính trị do nạn đói hoành hành, dịch bệnh và các cuộc khởi nghĩa. Dân số giảm từ khoảng 18,6 triệu xuống còn 17,4 triệu người trong khoảng từ năm 1807 đến năm 1910. Từ năm 1910 đến 1920 dân số Hàn Quốc bắt đầu chuyển đổi.

Thời kỳ đầu dưới chế độ thuộc địa (những năm 20 và 30) dân số khá ổn định. Từ năm 1925 đến 1930 tổng tỷ suất sinh vào khoảng 6,2 con/ một phụ nữ (Kwon 1977b, 347).

Mức sinh tương đối thấp ở đầu thế kỷ dường như có quan hệ với hệ thống gia đình truyền thống Hàn Quốc, hệ thống có rất nhiều yếu tố ngăn cản mức sinh cao. Chẳng hạn, goá phụ bị cấm tái hôn, văn hoá Yangban (tầng lớp quí tộc) yêu cầu kiềm chế nhục dục, các bà mẹ thường can thiệp vào quan hệ của con trai và vợ - đặc biệt trong trường hợp con trai trưởng, người thường ở tại nhà cùng bố mẹ sau khi cưới. Hơn nữa các cặp vợ chồng thường không có điều kiện ở phòng riêng do tình trạng nhà ở nghèo nàn (Kwon 1984, 49-54). Tuổi trung bình kết hôn lần đầu của phụ nữ tăng liên tục, đạt 21,5 tuổi vào năm 1960. Song tác động của tuối kết hôn đối với mức sinh đã được điều chỉnh bằng những kết quả cải thiện điều kiện y tế và mức chết.

Bảng 3.5 Thay đổi trong tổng tỷ suất sinh (TFR) và các yếu tố tác động: Hàn Quốc 1960-90

TFR và các yếu tố tác động 1960-65 1965-70 1970-75 1975-80 1980-85 1985-90

TFR -16,8 -17,6 -13,4 -24,6 -25,7 -18,3 Nhân tố cấu thành Hôn nhân -6,3 -3,7 -3,5 -5,6 -6,4 -6,5

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

56

Tuổi kết hôn -7,6 -3,4 -3,7 -4,9 -6,7 -7,9 Huỷ hôn 1,3 0,5 0,2 0,7 0,3 1,4 Mức sinh -10,5 -14,1 -9,9 -19,1 -19,3 -11,8 Tránh thai -1,7 -9,5 -5,9 -23,0 -23,9 -13,4 Phá thai -5,1 -4,6 -4,0 3,9 4,6 1,6 Nguồn: Jun (1996, 36).

Sau khi đạt đỉnh điểm vào năm 1960, mức sinh tại Hàn Quốc đã có những biến đổi mang tính cách mạng. Mặc dù số liệu dự báo thiếu nhất quán nhưng cũng đã khẳng định thực tế mức sinh đã giảm nhanh trong thập niên 60. Chương trình KHHGĐ bắt đầu từ năm 1962 và chỉ thực sự bắt đầu trên phạm vi toàn quốc vào năm 1965. Vì thế, chưa hẳn chương trình đã là yếu tố duy nhất tác động đến giảm mức sinh. Nhìn vào các yếu tố tác động giảm mức sinh có thể thấy việc trì hoãn lập gia đình của phụ nữ và phá thai là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến giảm mức sinh trong những năm đầu của quá trình chuyển đổi (bảng 3.5). Chương trình KHHGĐ bắt đầu tác động đến mức sinh sau năm 1965 như dự kiến. Trong suốt thời kỳ từ năm 1965 đến 1970, biện pháp tránh thai nổi lên như một yếu tố chính tác động đến giảm mức sinh mặc dù hiệu quả của hai yếu tố còn lại cũng không nhỏ. Nhìn chung ba yếu tố này dường như đóng vai trò như nhau trong giai đoạn đầu tiên của quá trình chuyển đổi mức sinh.

Các điều kiện kinh tế và dân số trong những năm đầu thế kỷ tạo ra áp lực lớn buộc phải giảm mức sinh. Trong suốt những năm dưới chế độ thuộc địa 1910-45 một số lượng lớn người Triều Tiên di cư sang Man-chet-xtơ (Vương quốc Anh) và Nhật Bản, giải toả áp lực dân số tại bán đảo Triều Tiên. Nhưng dân số đã bùng nổ cùng lúc với cuộc giải phóng Triều Tiên khỏi ách chiếm đóng của Nhật Bản vào năm 1945 và phân chia phe phái chính trị ngay sau đó. Cả hai sự kiện này tạo nên làn sóng hồi hương khổng lồ từ Nhật Bản và Trung Quốc, và người tị nạn từ Bắc Triều Tiên. Số người Triều Tiên nhập cư vào Hàn Quốc giai đoạn 1945-49 vào khoảng 2,6 triệu người, tương đương 12% tổng dân số năm 1949 (Kwon et al. 1975, 32-35). Dân di cư không trở về các làng quê của họ mà đi thẳng đến những thành phố gần nơi họ đã sinh sống trước đây. Kết quả là tất cả các thành phố bị quá tải dân số.

Mức chết cao do chiến tranh Liên Triều (1950-53) chỉ tạm thời kìm hãm tăng trưởng dân số, nhưng không cắt giảm được quy mô dân số ở phía Nam Bán

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

57

đảo Triều Tiên do người tị nạn từ miền Bắc đổ vào. Sau chiến tranh, Hàn Quốc chứng kiến sự bùng nổ dân số do các cặp vợ chồng được đoàn tụ và các đám cưới bị trì hoãn do chiến tranh được thực hiện.

Điều kiện sống cơ cực tại các vùng nông thôn làm khoảng 17% dân số nông thôn chuyển lên Seoul vào nửa cuối thập niên 60, thời gian xảy ra mất mùa trong hai năm liên tục. Việc di cư này là hệ quả của sức ép gia tăng dân số nông thôn, gây nên đô thị hoá nhanh chóng từ năm 1945 đến năm 1970.

Các khảo sát ban đầu về lịch sử mức sinh và mong muốn về giới tính của con dành cho đối tượng phụ nữ Hàn Quốc đã chứng minh áp lực ghê gớm của dân số đè lên mỗi người dân. Cuộc khảo sát điều tra về nạo phá thai cho thấy nạo phá thai đã diễn ra phổ biến ở phụ nữ có chồng trong những năm đầu của thập niên 60 (Hong S.B 1971). Năm 1965, Lee Hae –Young tiến hành khảo sát mức sinh tại Ichon gần Seoul, và phát hiện ra rằng phụ nữ muốn hạn chế sinh con và rất nhiều người trong số họ đã cố gắng sử dụng các biện pháp dân gian hoặc các biện pháp tránh thai chưa được kiểm chứng, mua của những người bán rong. Điều này giải thích lý do tại sao Chương trình KHHGĐ lại được chấp nhận nhanh đến vậy. Các số liệu khảo sát chỉ ra rằng sức ép dân số đặt lên mỗi cá nhân là nhân tố quan trọng nhất trong công cuộc chuyển đổi mức sinh tại Hàn Quốc. Đối với các cặp vợ chồng Hàn Quốc, đói nghèo và tương lai vô định thôi thúc họ hạn chế quy mô gia đình. Mức sinh bắt đầu gia tăng tại các trung tâm đô thị lớn trong lúc Chương trình KHHGĐ đang tập trung tại các khu vực nông thôn.

Bảng 3.6. Tỷ suất sinh theo các nguồn số liệu ước tính: Hàn Quốc 1925-93)

Thời kỳ hoặc Năm Kwon T.-H.et al. (1975,12)

L.-J Cho, Arnold và Kwon (1982,35)

Hong M.-S.et al (1994,65)

1925-30 6,2 1930-35 6,1 1935-40 6,2 1940-45 6,1 1945-50 6,0 1950-55 5,6 1955 5,5 1955-60 6,3 1960 6,0 6,0 1960-65 6,0 1965 4,6

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

58

1966 5,3 1968 4,2 1965-70 4,6 1970 4,2 1971 4,4 1970-75 4,2 1973 3,9 1974 3,6 1975 3,1 1976 3,2 1980 2,7 1982 2,7 1984 2,1 1990 1,6 1993 1,8

Những cuộc điều tra khảo sát cấp quốc gia về KHHGĐ và mức sinh đã cho thấy những xáo trộn trong giảm mức sinh trong khoảng năm 1970, đặt ra những câu hỏi về chất lượng cũng như tính so sánh của các cuộc khảo sát được thực hiện từ năm 1968 đến 1971 (bảng 3.6). Tuy nhiên những con số khác dựa trên số liệu điều tra dân số lại khẳng định rằng tốc độ chuyển đổi mức sinh chậm lại trong cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70. Tốc độ giảm sinh nhanh chóng được khôi phục. Tổng tỷ suất sinh năm 1970 dao động từ 4,2 đến 4,5 con trên một phụ nữ. Trong khoảng từ thời gian này đến năm 1990 mức sinh vẫn tiếp tục giảm và ngày càng nhanh hơn. Số liệu từ các cuộc khảo sát điều cấp quốc gia đưa ra tổng tỷ suất sinh là 3,9 (năm 1973); 3,2 (năm 1976); 2,7 (năm 1982); 2,1- mức sinh thay thế (năm 1984) và 1,6 (năm 1990). Từ năm 1990 mức sinh dao động dưới mức thay thế. Thành quả của Hàn quốc trong việc đạt được mức sinh thay thế trong vòng chỉ có 25 năm là ngoài sức tiên liệu và gây sốc với nhiều nhà lập kế hoạch và dân số, những người đã tin tưởng rằng Hàn Quốc sẽ không thể thành công nếu không khắc phục được tư tưởng trọng nam của người Hàn Quốc.

Những động lực của chuyển đổi muộn

Mức sinh giảm từ giữa những năm 70 có những đặc điểm khác biệt so với giảm mức sinh trong những năm 60. Trước hết, mức sinh giảm trong môi trường kinh tế- xã hội truyền thống và do sức ép nặng nề của dân số. Để có thể tồn tại, rất nhiều cặp vợ chồng cần hạn chế quy mô gia đình, điều này là động lực quan trọng nhất thúc đẩy xã hội Hàn Quốc bước vào thời kỳ chuyển đổi mức sinh. Tuy

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

59

nhiên, giữa thập niên 70 kinh tế Hàn Quốc bắt đầu cất cánh cùng với việc thực thi Kế hoạch Kinh tế Xã hội 5 năm lần thứ Nhất vào năm 1962. Mặc dù cuộc sống vẫn rất khó khăn tại các thành phố nhưng người dân đã bắt đầu thấy được những thành quả của tăng trưởng kinh tế và tin tưởng vào tương lai của đất nước. Di cư từ nông thôn ra thành thị vẫn tiếp diễn, kết quả là vị thế thống trị của dân số nông thôn đã chấm dứt và dân số nông thôn bắt đầu suy giảm toàn diện. Với những thay đổi này, vấn đề tồn tại không còn là yếu tố quan trọng trong việc giảm sinh. Thay vào đó, sự quan tâm của các bậc cha mẹ đến tương lai của con cái mới là lý do chính để hạn chế quy mô gia đình.

Sự thay đổi động lực này xảy ra khi phụ nữ trẻ hơn bước vào độ tuổi sinh đẻ. Thế hệ phụ nữ trước biết về KHHGĐ và các biện pháp tránh thai sau khi lấy chồng hoặc đã có từ hai đến ba con. Còn thế hệ mới được tiếp cận những vấn đề này qua các phương tiện truyền thông đại chúng và đã hình thành được những ý tưởng kiên định về quy mô gia đình mong muốn của bản thân trước khi lập gia đình. Chính vì vậy họ có động lực để thực hành hạn chế quy mô gia đình trước cả khi sinh con.

Đời sống của người dân Hàn Quốc được cải thiện, các giá trị tình cảm của bố mẹ dành cho con cái gia tăng khi giá trị thiết thực bị thu nhỏ lại. Coi con cái là tài sản vô giá của mình, hầu hết các bậc cha mẹ đều cố gắng dành cho con những gì tốt đẹp nhất, bao gồm cả mức giáo dục cao nhất trong khả năng của họ. Suy nghĩ này đã ăn sâu trong hệ giá trị truyền thống Hàn Quốc, và vì thế số con ít hơn chưa chắc đã làm giảm mà còn gia tăng gánh nặng kinh tế trên vai các bậc cha mẹ (Kwon 1993,48-49).

Giữa thập niên 80, xã hội Hàn Quốc bắt đầu chuyển đổi mạnh hơn. Chính phủ ban hành một loạt biện pháp phúc lợi xã hội và các mô hình sống mới bắt đầu. Hệ thống bảo hiểm y tế được triển khai thực hiện với quy mô dân số khá hạn chế và được từng bước mở rộng, đến năm 1990 thì áp dụng cho toàn dân. Trong suốt thập niên 80, hệ thống lương hưu được áp dụng cho toàn bộ khu vực công. Phong trào lao động ngày một sôi động góp phần cải thiện mức sống của người lao động. Tỷ lệ học sinh nữ tại các trường trung học tăng từ 30% năm 1970 lên 97% vào năm 1990, báo hiệu sự cải thiện quan trọng trong giáo dục trong nữ giới. Lực lượng lao động nữ ở độ tuổi 20 bắt đầu bùng nổ vào những năm giữa

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

60

thập niên 80. Sở hữu ô tô tư nhân tăng gấp đôi trong những năm đầu và gần gấp ba trong những năm cuối của thập niên 80.

Với xu thế này, thái độ làm việc cũng thay đổi. Theo kết quả của nhiều cuộc điều tra khảo sát, vào đầu thập niên 80, người dân Hàn Quốc hăm hở làm thêm giờ để kiếm tiền. Nhưng đến giữa thập niên, mong muốn được nghỉ ngơi thư giãn đã bắt đầu thế chỗ cho những công việc vất vả mà có thu nhập cao. Đối với những gia đình bình dân việc sở hữu ô tô, tham gia các hoạt động bên ngoài và du lịch trở nên phổ biến, và dần dà xe ô tô được thế hệ trẻ coi như một nhu cầu thiết yếu. Khái niệm “mỗi gia đình có một xe ô tô” gắn chặt, không thể tách rời ý tưởng gia đình có từ một đến hai con.

Các yếu tố làm giảm mức sinh

Từ lâu, các nhà dân số học đã nhận thức rõ tầm quan trọng của các biến trung gian và tính tương đối trong lý giải thích việc giảm sinh. Lập gia đình muộn, các biện pháp tránh thai và nạo phá thai được biết đến như những biến trung gian chủ yếu trong quá trình chuyển đổi mức sinh ở Hàn Quốc và qua năm tháng, những biến đổi về vai trò quan trọng của những biến này phản ánh những mô hình chuyển đổi nhận thức về sinh sản của phụ nữ Hàn Quốc. Theo số liệu điều tra dân số, tuổi trung bình kết hôn lần đầu của phụ nữ Hàn Quốc tăng liên tục từ 21,5 tuổi năm 1960 lên 25,2 tuổi vào năm 1990. Tỷ lệ phụ nữ có chồng tuổi từ 20 đến 44 sử dụng các biện pháp tránh thai tăng từ 16% năm 1965 lên đến 79% vào năm 1991. Tỷ lệ phụ nữ nạo phá thai là 16% vào năm 1966, tăng lên 53% vào năm 1985 và dao động một chút ít trong giai đoạn 1985-91. Việc sử dụng các biện pháp tránh thai và nạo phá thai ở phụ nữ có chồng giảm nhẹ trong những năm đầu thập niên 90. Nhưng số ca nạo phá thai đã tăng đáng kể trong số những phụ nữ trẻ chưa chồng, cùng với sự dễ dãi ngày càng tăng của xã hội về các vấn đề tình dục của phụ nữ chưa chồng. Từ những thực tế đơn giản này, có thể phỏng đoán rằng ba yếu tố làm thay đổi mức sinh này – tăng tuổi kết hôn, tránh thai, và nạo phá thai - đóng vai trò quan trọng trong việc giảm mức sinh tại Hàn Quốc. Một phân tích riêng biệt sẽ đưa ra bức tranh rõ nét hơn về tầm quan trọng tương đối của mỗi yếu tố.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

61

Quay trở lại bảng 3.5 chúng ta có thể thấy trong suốt giai đoạn thứ hai của quá trình chuyển đổi mức sinh, bắt đầu từ giữa thập niên 70, một mô hình mới đã xuất hiện. Bất chấp việc gia tăng số ca nạo phá thai tại Hàn Quốc, tác động của yếu tố này đối với giảm mức sinh trong hôn nhân dường như giảm đi do số ca nạo phá thai ở phụ nữ chưa chồng ngày càng nhiều. Ngược lại, các biện pháp tránh thai xuất hiện như một yếu tố chi phối giảm sinh. Hiệu quả của kết hôn muộn cũng tăng.

CHÍNH SÁCH DÂN SỐ VÀ HÀNH VI SINH ĐẺ

Mục tiêu chính sách của Chính phủ Hàn Quốc là giảm mức sinh xuống đến mức thay thế và các giải pháp để đạt được mục tiêu này là cung cấp các dịch vụ KHHGĐ trên diện rộng và khuyến khích mô hình gia đình nhỏ đã không gặp sự phản kháng lớn từ công chúng. Mục tiêu đã đạt được trong một thời gian rất ngắn, và Chương trình KHHGĐ được đánh giá là rất thành công. Thành công của chương trình làm nhiều nhà quan sát ngạc nhiên bất chấp tác động của mức sinh cao sẵn có trong hệ thống gia đình truyền thống Hàn Quốc, đặc biệt là tư trưởng trọng con trai. Quy mô gia đình trung bình, bao gồm cả quy mô gia đình mong muốn và gia đình đã hoàn thiện, giảm nhanh trong khi tư tưởng trọng nam vẫn còn rất mạnh.

Các giá trị của quy mô gia đình

Số liệu từ các cuộc khảo sát được thực hiện trong năm 1960 chỉ ra rằng với hầu hết phụ nữ Hàn Quốc trong độ tuổi sinh đẻ, gia đình lý tưởng hoặc mong muốn là gia đình có khoảng 5 con, bao gồm 3 trai và 2 gái (bảng 3.7). Quy mô lý tưởng này được thu nhỏ dần, liên tục trong suốt thời kỳ chuyển đổi mức sinh. Quy mô hạ xuống còn 4 con vào giữa thập niên 60, 3 con vào những năm đầu của thập niên 70 và 2 con vào giữa thập niên 80. Những thay đổi này chậm hơn quy mô gia đình lý tưởng do Chương trình KHHGĐ đề xướng. Năm 1968, chương trình triển khai mô hình 3 con, mô hình 2 con vào năm 1971, và 1-2 con vào đầu thập niên 80. Ngoài ra, mô hình lý tưởng của cuộc vận động thấp hơn rất nhiều so với mô hình mong muốn của phụ nữ có chồng trong độ tuổi sinh đẻ và quy mô gia đình lý tưởng ở Hàn Quốc luôn nhỏ hơn tổng tỷ suất sinh ghi nhận được trong

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

62

cùng năm. Tuy nhiên, khoảng cách giữa quy mô lý tưởng và mức sinh thực tế đã được thu hẹp.

Những biến đổi này chỉ ra rằng chiến dịch có thể đã tác động dây chuyền tới mức sinh – Chiến dịch đã tạo ra biến đổi trong các giá trị của quy mô gia đình, dẫn đến giảm tỷ lệ sinh. Tuy nhiên, rất khó có thể xác định mức độ ảnh hưởng của những thông điệp của chiến dịch đối với những biến động về quy mô gia đình mong muốn. Ví dụ quy mô gia đình mong muốn hoặc lý tưởng biến động không đáng kể trong giai đoạn 1968-71, có nghĩa là tuyên truyền vận động không tác động bao nhiêu. Tuy nhiên, trong thập niên 70, số con lý tưởng đã giảm đáng kể, cho thấy rằng tuyên truyền vận động đã có tác động lớn. Trong bất cứ trường hợp nào, yếu tố quan trọng của chiến dịch tuyên truyền vận động là đóng góp để tạo sự đồng thuận của công chúng về quy mô gia đình lý tưởng dẫn dắt phụ nữ chủ động sử dụng các biện pháp tránh thai sau khi đã có 2-3 con. Trong một xã hội độc đoán như Hàn Quốc trước những năm 80, những thông điệp cứng rắn của Chính phủ có thể được coi như một bắt buộc mang tính quy chuẩn đối với người dân. Bảng 3.7 chỉ ra rằng trong vòng ba thập niên phụ nữ trẻ có gia đình quy mô nhỏ hơn những phụ nữ lớn tuổi. Điều này cho thấy xu thế ưa thích gia đình quy mô nhỏ hơn đã xuất hiện từ đầu những năm 60.

Một quan sát quan trọng khác từ bảng 3.7, so sánh quy mô gia đình lý tưởng của phụ nữ ở độ tuổi 25-29 và tổng tỷ suất sinh của đoàn hệ phụ nữ 25 tuổi tại thời điểm tiến hành khảo sát, số liệu thu được là gần giống nhau. Điều này chỉ rõ rằng từ những năm đầu của thập niên 60, việc phổ biến và quán triệt quy mô gia đình cho phụ nữ trước hoặc ngay tại thời điểm lập gia đình là yếu tố quyết định nhất hình thành thái độ của họ về mức sinh sau này. Trong trường hợp này, chiến dịch tuyên truyền vận động quốc gia nhằm đẩy mạnh thực hiện quy mô gia đình lý tưởng chỉ tác động không đáng kể với mức sinh ngay trong thời gian trước mắt. Bảng 3.7. Tổng tỷ suất sinh (TFR), quy mô gia đình lý tưởng, tỷ suất sinh đặc trưng theo đoàn

hệ: Hàn Quốc 1960-94 Số con lý tưởng của phụ nữ ở

độ tuổi Năm Tổng tỷ suất sinh 15-44 25-29

Năm sinh Tỷ suất sinh

đặc trưng theo đoàn hệ

1960 6,0 5 1935 5,1

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

63

1965 3,9 1940 4,3 1966 5,3 1971 4,4 3,7 3,4 1945 3,2 1973 3,9 3,1 2,9 1974 3,6 2,8 1976 3,2 2,8 2,5 1950 2,5 1982 2,7 2,5 2,2 1955 2,2 1984 2,1 1985 2,0 1,9 1960 2,0 1988 2,0 1,9 1990 1,6 1991 2,1 2,0 1993 1,8 1994 2,2 2,1

Trọng nam Cuộc tấn công vào tư tưởng trọng nam là nhiệm vụ chính của chương trình

quốc gia cho đến tận những năm cuối thập niên 80; Chính phủ coi tư tưởng trọng nam là một trở ngại lớn đối với mục tiêu giảm sinh. Trong một nghiên cứu trước đây (Kwon 1977a), tác giả đã chỉ ra rằng quan điểm này dựa trên một giả định thiếu căn cứ: Rằng các cặp vợ chồng sẽ quyết định liệu có sinh thêm con chỉ sau khi đã đạt được quy mô gia đình mong muốn của mình. Theo giả định này, nếu các cặp vợ chồng chưa có được số con trai như mong muốn hoặc chưa có con trai, họ sẽ tiếp tục đẻ. Nhưng số liệu của một cuộc khảo sát chỉ ra rằng quyết định dừng hay không dừng sinh con chỉ xuất hiện khi các căp vợ chồng đạt được số lượng con trai mong muốn, thậm chí khi chưa có con gái hoặc có số con gái ít hơn mong muốn. Tác động tiêu cực của quá trình ra quyết định này đối với mức sinh lại tạo ra tác động tích cực đối với việc sinh con liên tục, do tư tưởng trọng nam mặc dù cặp vợ chồng đã đạt được quy mô gia đình lý tưởng của mình. Nói một cách khác, ưu tiên giới tính tác động đến hành vi sinh sản cả mỗi cá thể, không chỉ theo một hướng mà là hai chiều ngược nhau. Vì vậy, tác động của nó với mức sinh ở cấp độ xã hội là không đáng kể.

Hơn nữa, tư tưởng trọng nam xem ra lại hỗ trợ được Chương trình KHHGĐ, mặc dù gián tiếp bằng cách gia tăng tốc độ giảm quy mô gia đình mong muốn. Như tác giả đã trình bày, quy mô gia đình lý tưởng hoặc mong muốn trung bình là 5 con trước thời điểm bắt đầu chuyển đổi mức sinh tại Hàn Quốc vào khoảng năm 1960. Quy mô gia đình giảm xuống còn 3 con trong vòng 15 năm.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

64

Đối với mỗi cá nhân biến đổi giá trị về quy mô gia đình thậm chí còn đáng chú ý hơn, giảm trực tiếp từ 5 xuống 3 con. Cả hai mô hình, 5 và 3 con, đều có biểu hiện của tư tưởng nam; Trong cả hai trường hợp, người dân Hàn Quốc đều muốn có nhiều con trai hơn con gái. Vì vậy, với hầu hết các gia đình, giảm số con mong muốn có nghĩa là giảm số con trai mong muốn từ 3 xuống 2 con. Do ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam, số con gái mong muốn thay đổi còn lại là 1 và tổng số con mong muốn là 3. Sau này, quy mô gia đình mong muốn giảm xuống còn 2 con. Nhưng rất khó để có thể nhìn nhận thái độ này từ khía cạnh tự do giới tính do mô hình gia đình 2 con nghiễm nhiên mặc định có ít nhất 1 con trai. Xã hội Hàn Quốc đã hoàn thành chuyển đổi mức sinh nhưng tư tưởng trọng nam vẫn hiện hữu, bằng chứng là ngày càng xuất hiện nhiều ca nạo phá thai để lựa chọn giới tính ở lần mang thai thứ ba hoặc thứ tư.

Tư tưởng trọng nam tồn tại trong xã hội Hàn Quốc đã tác động đến mối quan hệ giữa các gia đình và công cuộc chuyển đổi mức sinh. Đó là sự phân biệt đối xử giữa con trai cả và những đứa con trai khác. Trong hệ gia đình truyền thống, tầm quan trọng của con trai cả là rất rõ ràng. Tất cả chức năng quan trọng nhất của gia đình đều được đặt lên vai người con trai cả, người được hưởng những đặc quyền không giống như những người con khác và gánh hầu hết những tránh nhiệm gia đình. Anh ta là người nối dõi dòng họ, có tránh nhiệm bảo tồn những nghi lễ thờ cúng tổ tiên và chăm sóc cha mẹ già. Những người con trai khác chỉ có trách nhiệm gánh vác trọng trách này trong trường hợp người anh cả chết sớm (Kwon 1984). Thậm chí trước khi dân số Hàn Quốc thống trị khu vực thành thị, giá trị của con cái như một lực lượng lao động vẫn còn hạn chế do hầu hết các gia đình không đủ đất. Câu nói cửa miệng “quá nhiều miệng ăn” luôn là nỗi lo sợ lớn nhất của các bậc cha mẹ. Chính vì thế, thậm chí những gia đình truyền thống Hàn Quốc cũng có xu hướng mức sinh thấp. Việc ưu tiên ít nhất một con trai, nhân tố không kém phần quan trọng đóng góp vào việc chấp nhận mô hình gia đình có 1-2 con và xa hơn nữa là quá trình chuyển đổi mức sinh nhanh chóng.

Chi phí nuôi dạy con

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

65

Trong những năm đầu của thập niên 60, xã hội Hàn Quốc coi việc có nhiều con trai là nhà có phúc. Tuy nhiên, rõ ràng nhiều con có nghĩa là cuộc sống vất vả cho hầu hết các gia đình. Cùng với khả năng sống sót ngày càng tăng của trẻ, một số lượng lớn trẻ em trở thành gánh nặng.

Tuy nhiên điều này không có nghĩa là các gia đình ít con hơn sẽ có ích cho kinh tế gia đình tại Hàn Quốc. Mặc dù tăng trưởng kinh tế và cải thiện mức sống đã gắn với giảm sinh trong suốt quá trình, chi phí ngày càng tăng cho con trẻ đã vượt rất nhiều những lợi ích kinh tế của các gia đình có quy mô nhỏ hơn, phần lớn là vì những mong muốn của các bậc cha mẹ dành cho con cái gia tăng một cách mất cân đối. Giá trị truyền thống coi giáo dục là con đường dẫn đến thành công đã tăng đáng kể trong suốt bốn thập niên đổi mới xã hội, và các bậc cha mẹ nhận thức rõ trách nhiệm lo cho con cái có được giáo dục tốt nhất trong khả năng của mình. Cạnh tranh để có được giáo dục tốt hơn tăng lên đồng thời với những cơ hội giáo dục có chất lượng ngày một nhiều và kết quả là tăng gánh nặng tài chính dành cho đối với các bậc phụ huynh. Các chi phí chính thống tại các trường tiểu học và trung học cơ sở là không đáng kể. Nếu tốt nghiệp từ một trường đại học tốt người lao động sẽ được đảm bảo một sự nghiệp thành công trong tương lai. Vì thế các bậc cha mẹ đã huy động mọi nguồn lực có thể để đảm bảo con cái họ được nhận vào những trường đại học uy tín. Họ phải trả những khoản phí khổng lồ cho những buổi học tư, và rất nhiều bà mẹ hy sinh chính sự nghiệp của mình để lo cho con cái.

Chi tiêu lớn cho giáo dục trẻ em không chỉ là vấn đề của các gia đình, mà còn gây ra nhiều vần đề cho xã hội. Đây được cho là nguyên nhân gây nên những quy định bất nhất trong giáo dục chính thống, cản trở phát triển tình cảm của trẻ em, tạo điều kiện cho tính ích kỷ trong con trẻ.

Chi phí kiểm soát sinh

Điều kiện kinh tế của các cặp vợ chồng tác động trực tiếp đến quyết định thực hiện kiểm soát mức sinh trong tình hình nghèo đói. Nhiều cặp vợ chồng không có khả năng mua phương tiện tránh thai cho dù họ rất muốn thực hiện các biện pháp tránh thai. Đây là thực tế của những năm đầu thập niên 60 tại Hàn Quốc. Bằng chứng là thủ thuật nạo phá thai đã được sử dụng phổ biến; các cặp

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

66

vợ chồng Hàn Quốc mong muốn hạn chế quy mô gia đình của mình nhằm giảm bớt những khó khăn kinh tế. Mặc dù vẫn tồn tại những khác biệt về kinh tế, cơ hội tiếp cận và chi phí cho các biện pháp tránh thai giữa khu vực nông thôn và thành thị, trong những năm 60, tốc độ giảm sinh tại nông thôn diễn ra nhanh hơn tại thành thị. Tuy nhiên, biến đổi mô hình sinh cho thấy giảm sinh diễn ra tại các trung tâm đô thị nhanh hơn tại các làng quê mặc dù chương trình tập trung chủ yếu các nỗ lực tại các vùng nông thôn.

Trong thập niên 60, cuộc sống của người dân thành thị cũng chẳng khấm khá hơn dân nông thôn. Kết quả khảo sát về thực trạng nghèo đói ở đô thị cho thấy khoảng 55% dân số Seoul sống dưới mức nghèo khổ vào năm 1965 (Suh et al. 1981,102). Tình trạng nghèo đói tại Seoul càng trầm trọng thêm bởi làn sóng di cư lớn từ khu vực nông thôn nghèo. Tuy nhiên mức sinh lại giảm nhiều nhất tại Seoul và biện pháp chủ yếu để kiểm soát sinh là nạo phá thai, một biện pháp luôn sẵn có trên thị trường dịch vụ chợ đen. Điều này dường như cho thấy mong muốn mãnh liệt và sự sẵn có các phương tiện tránh thai là những yếu tố quan trọng quyết định kiểm soát sinh hơn là việc phân phối miễn phí phương tiện tránh thai, thậm chí trong những cộng đồng rất nghèo.

Năm 1966, mức sinh giảm xuống gần đến mức thay thế tại thành phố Seoul, nơi mà thị trường chợ đen của dịch vụ nạo phá thai đã được thiết lập. Mong muốn kiểm soát sinh đặc biệt mãnh liệt trong năm 1966 vì năm này là năm Ngựa bạch theo lịch âm của Trung Quốc. Người ta tin rằng trẻ em gái được sinh ra trong năm này sẽ trở thành goá phụ hoặc gây hại cho chồng và vì vậy họ không được lấy chồng. Đức tin này còn mạnh hơn tại Nhật Bản, nơi mà, theo báo cáo, mức sinh đã giảm khoảng 30% trong năm 1966. Tại Hàn Quốc, những đức tin truyền thống thường mạnh hơn tại các vùng nông thôn nhưng tác động của đức tin trên chỉ được ghi nhận tại Seoul, nơi người dân có thể dễ dàng tiếp cận các biện pháp tránh thai hơn đồng thời nạo phá thai cũng là dễ dàng nhất. Tốc độ giảm sinh tại Hàn Quốc chậm lại sau năm 1966; nhưng trái ngược với tình hình ở Nhật Bản, mức sinh tại Hàn Quốc không tăng trở lại. Sự kiện này cho thấy chiến lược của Chính phủ trong việc sẵn sàng cung cấp phương tiện tránh thai thông qua các hiệu thuốc tư nhân tại các khu vực đô thị có hiệu quả hơn việc phân phối miễn phí các phương tiện tránh thai ở khu vực nông thôn.

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

67

Những hạn chế của chương trình KHHGĐ

Như đã đề cập ở trên, yếu tố tác động chủ yếu đến mức sinh ở Hàn Quốc là việc kết hôn muộn ở phụ nữ. Xu hướng kết hôn muộn đã liên quan trực tiếp đến luồng di cư lớn của phụ nữ trẻ, độc thân từ các vùng nông thôn ra thành thị và việc tăng cơ hội việc làm tại các nhà máy đô thị và lĩnh vực dịch vụ. Những biến đổi này đã dẫn đến tính độc lập ngày càng lớn của phụ nữ độc thân và nới lỏng kiểm soát của cha mẹ và xã hội đối với những hoạt động tình dục trước hôn nhân. Theo kết quả khảo sát được thực hiện năm 1992, khoảng 70% phụ nữ trẻ làm việc trong ngành công nghiệp giải trí và 30% làm việc tại các ngành sản xuất trong các khu công nghiệp đã sinh hoạt tình dục trước hôn nhân (Kwon, Jun và Cho 1997, 43-44). Những phụ nữ trẻ mà trong số đó có cả lứa tuổi thanh niên, đang đối mặt với những rủi ro cao về các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục cũng như rủi ro mang thai trước hôn nhân và nạo phá thai. Họ ít được tiếp cận với giáo dục tình dục và thông tin phù hợp về tránh thai trước khi có trải nghiệm tình dục đầu đời, thông thường là tình cờ.

Chương trình KHHGĐ không chú trọng nhiều cho lứa tuổi thanh niên và phụ nữ trẻ chưa lập gia đình, mặc dù nhu cầu cần được trợ giúp ngày càng tăng ở nhóm này đã được dự báo trước. Sinh hoạt tình dục không có sự chuẩn bị thường dẫn đến mang thai và hầu hết các trường hợp mang thai trước hôn nhân đều được giải quyết bằng nạo phá thai do áp lực của định kiến xã hội nặng nề về việc không chồng mà có con đối với phụ nữ độc thân và con cái của họ.

Các chính sách hỗ trợ xã hội thường được nhắc đến như một trong những điểm mạnh của chương trình. Tuy nhiên, trên thực tế có rất ít bằng chứng chứng minh tác động của các chính sách này đối với mức sinh và các chính sách không phù hợp với khái niệm phúc lợi gia đình và xã hội. Hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các gia đình có dưới hai con không đủ để thúc đẩy các cặp vợ chồng coi con cái như một “mặt hàng thương mại” thay vì một “tài sản tuyệt đối”. Chẳng hạn như quyền được đăng ký nhà ở thuộc sở hữu nhà nước không phải là một ưu đãi hấp dẫn vì người dân Hàn Quốc muốn được tự sở hữu nhà ở, một tài sản rất quan trọng đối với họ và là một biểu tượng đảm bảo cuộc sống. Giảm thuế thu nhập cho gia đình có hai con và miễn phí các dịch vụ y tế công cộng cho mẹ và con đối với gia đình có một con cũng không tạo nên sự khích lệ trong việc hạn chế quy

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

68

mô gia đình. Những lợi ích về thuế được hưởng là rất nhỏ so với mức thu nhập, chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và y tế công cộng của chương trình thấp hơn rất nhiều so với các dịch vụ tư nhân. Do giá trị tình cảm đối với con cái ngày càng tăng gắn với việc giảm quy mô gia đình, những hỗ trợ xã hội này dường như không có ảnh hưởng nhiều đến hành vi sinh đẻ của các cặp vợ chồng. Hơn nữa, nếu suy nghĩ rằng một gia đình quy mô lớn khiến cho cuộc sống của những gia đình nghèo khó khăn hơn so với các gia đình khá giả, những ưu đãi trên của chương trình nhằm hạn chế mức sinh có thể được hiểu là sự trừng phạt đối với các gia đình nghèo hơn bằng cách tước bỏ các phúc lợi xã hội của họ. Chương trình KHHGĐ Hàn Quốc thiếu phúc lợi và công bằng xã hội thực sự, chủ yếu là do các nhà khoa học xã hội chưa tham gia nhiều trong công tác hoạch định chính sách của chương trình.

TÓM TẮT VÀ KẾT LUẬN

Chuyển đổi mức sinh ở Hàn Quốc bắt đầu từ những năm đầu thập niên 60 và vào giữa thập niên 80, mức sinh đã đạt dưới mức thay thế. Quá trình chuyển đổi có ít yếu tố giống như kinh nghiệm của các quốc gia phương Tây. Chuyển đổi mức sinh diễn ra cùng với sự hiện diện của phát triển xã hội và được tiến hành đồng thời với những chuyển đổi kinh tế- xã hội trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hoá, đô thị hoá, và cải thiện hệ thống giáo dục. Mức sinh bắt đầu giảm khi Chính phủ ban hành chính sách kiểm soát sinh. Quá trình chuyển đổi mức sinh ở Hàn Quốc có thể được đánh giá trên nhiều phương diện khác nhau. Nó có thể được xem xét trên phương diện quá độ dân số, trong mối quan hệ tương tác với phát triển xã hội, hay trên phương diện can thiệp nhà nước để thay đổi theo kế hoạch.

Trong thời gian đầu thời kỳ thuộc địa, mức chết bắt đầu giảm nhờ triển khai thực hiện các dịch vụ y tế và thuốc men của phương Tây. Tuy nhiên, sự bóc lột thuộc địa tàn nhẫn đã đẩy người lao động và nông dân Hàn Quốc vào cảnh ngày càng cơ cực và sức ép dân số ngày càng tăng. Tình hình kinh tế, xã hội, và dân số xấu đi sau giải phóng Hàn Quốc năm 1945 và tiếp theo là cuộc chiến tranh Liên Triều. Những điều kiện và sự kiện này tạo nên tình trạng khẩn cấp về dân số tại Hàn Quốc khi những số dân di tản khổng lồ từ Nhật Bản và Trung Quốc trở về và số người tị nạn trở về từ miền Bắc. Trong thời kỳ tuyệt vọng này, tỷ lệ sinh bắt

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

69

đầu rơi tự do. Lực lượng chủ yếu đằng sau chuyển đổi mức sinh mạnh mẽ này chính là chuyển đổi mức chết trong suốt thời kỳ 40-50 năm trước đó và nguyên nhân chủ yếu là cuộc sống cơ cực của người dân Hàn Quốc trong thời kỳ này.

Quá trình chuyển đổi mức sinh luôn song hành cùng công cuộc phát triển kinh tế và xã hội, và thực tế đã chứng minh rằng phát triển kinh tế và hiện đại hoá là những lực lượng đằng sau quá độ dân số tại Hàn Quốc. Một điều chắc chắn rằng định hướng xã hội hướng tới giảm mức sinh đã tiến triển tốt tại Hàn Quốc trong quá trình chuyển đổi kinh tế xã hội suốt bốn thập niên. Nhưng câu hỏi về giá trị quan điểm tiếp nhận vẫn còn bỏ ngỏ. Chẳng hạn như Hàn Quốc được biết đến là quốc gia hoàn thành chuyển đổi mức sinh mà không có bất cứ cải thiện nào về điều kiện sống hay y tế trong vòng ít nhất 15 năm. Người Hàn Quốc sinh sống tại Trung Quốc cũng đạt được mức sinh dưới mức thay thế vào cuối những năm 70, trước khi diễn ra những phát triển bền vững (Han et al. 1988). Cả hai trường hợp này đều nêu lên tầm quan trọng của can thiệp nhà nước trong kiểm soát mức sinh. Nhưng can thiệp của Chính phủ cũng đã thất bại trong kiểm soát mức sinh tại nhiều quốc gia trên thế giới. Nghiên cứu văn hoá của một xã hội dường như là điều kiện tiên quyết để hiểu thấu đáo quá trình chuyển đổi mức sinh của xã hội đó.

Nhiều nhà quan sát nhìn nhận những kinh nghiệm của Hàn quốc trên quan điểm rằng, một chương trình KHHGĐ mạnh, cùng với một chương trình phát triển kinh tế xã hội cao là cần thiết trong việc đạt được mức sinh thấp tại các nước đang phát triển (Berelson 1978). Chương trình KHHGĐ Hàn Quốc phủ khắp toàn quốc, ban đầu tập trung tại các vùng nông thôn và sau đó lan đến các khu vực đô thị nghèo. Sử dụng một phương pháp đa chiều, chương trình nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ giới lãnh đạo và gặp phải rất ít kháng cự từ công chúng. Trái với dự đoán của các cơ quan chức năng, các nhà hoạch định chính sách và hầu hết các nhà dân số học, việc chuyển đổi từ mô hình gia đình lớn sang mô hình gia đình nhỏ diễn ra rất nhanh và không gặp trở ngại gì. Sự phản kháng yếu ớt đối với Chương trình chứng tỏ rằng các điều kiện xã hội thuận lợi đã tồn tại trước khi chương trình bắt đầu. Sức ép kinh tế đối với các bậc cha mẹ chính là một nguyên nhân khiến họ chấp nhận các biện pháp tránh thai, bất kể do khả năng kinh tế kém hoặc hy vọng ngày càng lớn của cha mẹ đối với con cái. Chiến

Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020 Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế

70

dịch tuyên truyền vận động rộng khắp và hỗ trợ mạnh mẽ từ giới lãnh đạo có thể là những nguyên nhân khác. Nhưng nhân tố quan trọng nhất trong việc giảm qui mô gia đình mong muốn có lẽ là hệ thống gia đình Hàn Quốc truyền thống, coi trọng các con trai, đặc biệt là con trai cả. Bất chấp những lo sợ tác động ngược, vấn đề trọng nam không một chút ngăn cản quá trình giảm mức sinh; hơn nữa nó còn tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi. Ngoài ra, các bậc cha mẹ lớn tuổi phụ thuộc vào con trai cả trong các gia đình Hàn Quốc có xu hướng ủng hộ mô hình gia đình một con trai, điều này phù hợp với mức sinh thấp dưới mức thay thế.