52
ĐẠI HC HUTRƯỜNG ĐẠI HC KHOA HC HUNH THANH VÂN CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): SỰ HÌNH THÀNH VÀ NGHI THỨC TẾ TỰ Chuyên ngành: Lch sVit Nam Mã s: 62.22.03.13 TÓM TT LUN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SHU- NĂM 2016

CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

  • Upload
    others

  • View
    3

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

HUỲNH THỊ ANH VÂN

CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945):

SỰ HÌNH THÀNH VÀ NGHI THỨC TẾ TỰ

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 62.22.03.13

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HUẾ - NĂM 2016

Page 2: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

Công trình được hoàn thành tại khoa Lịch sử,

trường Đại học Khoa học, Đại học Huế

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. Đỗ Bang

TS. Phan Thanh Hải

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3

Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Đại học Huế

họp tại: số 3, đường Lê Lợi, TP Huế.

Vào hồi…….ngày….. tháng…… năm 2016

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện trường Đại học Khoa học, Đại

học Huế và Thư viện Quốc gia.

Page 3: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

1

MỞ ĐẦU

1.1. Tính khoa học và thực tiễn của đề tài

Về ý nghĩa khoa học: Việc nghiên cứu các công trình đàn

miếu và nghi lễ đại tự trong mối liên hệ thống nhất về ý nghĩa triết lý

và vai trò của các công trình này đối với các triều đại quân chủ ở Việt

Nam, đặc biệt dưới triều Nguyễn, là một việc cần thiết nhằm cung

cấp thêm cơ sở khoa học cho các hoạt động bảo tồn và phát huy giá

trị di sản văn hóa Huế hiện nay. Đây cũng sẽ là luận án đầu tiên tập

trung đánh giá đầy đủ, khách quan và hệ thống về quá trình hình

thành và phát triển của các đàn miếu đại tự triều Nguyễn tại Huế và

nghi thức tế tự.

Mặt khác, phần lớn các bài viết, công trình nghiên cứu về các

đàn miếu và nghi thức tế đại tự đều chỉ dừng lại ở việc mô tả về lịch

sử, quy mô kiến trúc hoặc sự kiện chứ chưa đi sâu phân tích vai trò

và ý nghĩa về mặt xã hội của các đàn miếu và nghi thức tế đại tự

trong những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể. Việc nghiên

cứu các đàn miếu và nghi thức tế đại tự trong mối tương quan với

những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể sẽ giúp đưa ra

những đánh giá toàn diện và khách quan đối với các hoạt động này

trong lịch sử cũng như trong giai đoạn hiện nay.

Về ý nghĩa thực tiễn, luận án sẽ hỗ trợ việc nghiên cứu và

giảng dạy về triều Nguyễn ở những khía cạnh có liên quan trong nhà

trường và cho công tác bảo tồn, phục dựng, đáp ứng nhu cầu du lịch

văn hóa, đặc biệt là văn hóa tâm linh vùng Huế. Đồng thời, dựa trên

những kết quả nghiên cứu về đặc điểm của các đàn miếu và nghi lễ đại

tự triều Nguyễn ở Huế, luận án sẽ đưa ra một số đề xuất hướng bảo tồn

và phát huy giá trị các đàn miếu đại tự trong giai đoạn hiện nay, đặc

biệt là khi các nghi thức tế đại tự của triều Nguyễn hiện đang được

phục dựng ở những quy mô khác nhau và có nhiều ý kiến khác nhau

về việc phục dựng này. Từ những ý nghĩa trên, tác giả chọn vấn đề

“Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945): sự hình thành

và nghi thức tế tự” làm đề tài luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử

Việt Nam.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các đàn miếu đại tự triều

Nguyễn ở Huế, bao gồm: đàn Nam Giao, các miếu thờ tổ tiên của họ

Nguyễn trong khu vực Hoàng thành Huế (Triệu Tổ Miếu, Thái Tổ

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

HUỲNH THỊ ANH VÂN

CÁC ĐÀN MIẾU VÀ NGHI LỄ ĐẠI TỰ CỦA TRIỀU

NGUYỄN Ở HUẾ

(1802-1945)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 62.22.03.13

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HUẾ - NĂM 2015

Page 4: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

2

Miếu, Thế Tổ Miếu và Hưng Tổ Miếu) và đàn Xã Tắc, cùng các nghi

lễ tế tự tương ứng, bao gồm lễ tế Giao, lễ tế miếu và lễ tế Xã Tắc.

Không gian nghiên cứu của đề tài là tại Huế, tập trung chủ yếu

ở khu vực đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc và các miếu thờ của triều

Nguyễn trong Hoàng thành Huế.

Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian của đề tài là quá trình

hình thành và phát triển của các đàn miếu đại tự triều Nguyễn tại Huế

từ khi mới lập nên triều đại cho đến khi kết thúc (1802-1945). Tuy

nhiên, sự hình thành của các đàn miếu đại tự của triều Nguyễn có sự

kế thừa từ các hình thức đàn miếu đại tự cùng loại của các triều đại

trước nên luận án sẽ có phần sơ khảo về lịch sử hình thành và phát

triển của các hình thức đàn miếu đại tự dưới các triều đại trước

Nguyễn ở Việt Nam. Mặt khác, các đàn miếu đại tự hiện vẫn đang

được bảo tồn và phát huy giá trị cùng với những hoạt động văn hóa

đặc sắc. Vì vậy, luận án cũng sẽ tìm hiểu về các đàn miếu đại tự và

hoạt động nghi lễ trong thời gian từ sau 1945 đến thời điểm hoàn tất

luận án (cuối năm 2015) để có thêm cơ sở cho những đề xuất hướng

nghiên cứu trong tương lai.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Nhìn chung, đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về

các đàn miếu đại tự và những nghi lễ liên quan dưới triều Nguyễn.

Tuy nhiên, các công trình này chỉ dừng lại ở việc mô tả từng đối

tượng riêng lẻ hoặc đề cập đến đối tượng ở những khía cạnh và mức

độ nhất định. Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của những người

đi trước, luận án sẽ tiếp tục đi sâu tìm hiểu cơ sở của sự ra đời, quá

trình hình thành và phát triển qua các thời kỳ trong lịch sử cũng

như các đặc điểm của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn

ở Huế, từ đó làm rõ ý nghĩa và vai trò của các công trình đàn miếu và

nghi lễ đại tự đối với triều đại này trong lịch sử Việt Nam.

Dưới nhiều tác động của các bối cảnh chính trị, xã hội khác

nhau, các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế hiện đã và

đang được bảo tồn, phát huy giá trị tích cực trong bối cảnh mới. Quy

mô và nhiều yếu tố gắn liền với chúng như trình tự nghi thức, trang

phục, đồ tự khí và lễ vật cúng tế cũng có nhiều thay đổi nhằm thích

nghi với hoàn cảnh hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án cũng

nhằm góp thêm cơ sở khoa học để đảm bảo sự cân bằng giữa mục

Page 5: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

3

tiêu bảo tồn tính chân xác của di sản với việc phát huy giá trị di sản

văn hóa phục vụ phát triển du lịch một cách bền vững.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được những mục đích nêu trên, luận án cần tập hợp

thành hệ thống những thông tin liên quan đến lịch sử hình thành,

việc quy hoạch và xây dựng đàn miếu đại tự thời Nguyễn tại Huế,

tìm hiểu các cơ quan tham gia vào quá trình chuẩn bị, tổ chức nghi

lễ đại tự, âm nhạc và múa, trang phục, văn tế, trình tự nghi thức...

để qua đó phân tích, đánh giá những đặc điểm của các đàn miếu và

nghi lễ đại tự triều Nguyễn, ý nghĩa cũng như vai trò của chúng

đối với đời sống văn hóa tinh thần của triều đại này từ 1802-1945.

Luận án cũng cần có sự tham khảo để so sánh, đối chiếu với những

hình thức tương tự ở một số nước đồng văn khác trong khu vực, rút

ra những nét đặc trưng của triều Nguyễn nhìn từ các đàn miếu và

nghi lễ đại tự ở Huế.

Bên cạnh đó, luận án cũng cần tiếp tục khảo sát tình hình bảo

tồn đàn miếu và thực hành nghi lễ sau khi triều Nguyễn cáo chung

năm 1945 cũng như những biến đổi trong cách tổ chức, thực hành

văn hóa và tác động tâm lý xã hội từ việc tham gia nghi lễ để tìm hiểu

ý nghĩa, bản chất của những nghi lễ phục dựng hiện nay nhằm đưa ra

những đề xuất định hướng cho việc bảo tồn và phục dựng các nghi lễ

đại tự trong bối cảnh mới dựa trên sự tôn trọng lịch sử và thể hiện nét

đặc trưng văn hóa đặc sắc của địa phương.

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tư liệu

Nguồn tư liệu có tính quyết định đến sự thành công của đề tài

này bao gồm các loại thư tịch của triều Nguyễn và các công trình

nghiên cứu về văn hóa, lịch sử, địa lý...Ngoài ra còn có các luận văn,

các loại tạp chí, các bài viết của các tác giả trong và ngoài nước về

tôn giáo và nghi lễ và các tài liệu thu được từ khảo sát thực địa.

Trước hết, có thể kể đến nguồn thư tịch phong phú, gồm các bộ sử đồ

sộ của Quốc sử quán và Nội Các triều Nguyễn mang tính biên niên,

ghi chép các sự kiện liên quan đến chính sự, chế độ, điển chế,..

v.v..như: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam thực lục chính

biên đệ lục kỷ phụ biên, Đại Nam thực lục Chính biên đệ thất kỷ,

Đồng Khánh Khải Định chính yếu và các châu bản triều Nguyễn có

liên quan đến đề tài; hoặc các loại tư liệu về địa chí như bộ Đại Nam

Page 6: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

4

nhất thống chí (một bộ biên soạn đời Tự Đức năm 1865-1882; ngoài

ra còn có bộ Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán đời Duy Tân

biên soạn, chỉ có các tỉnh Trung kỳ và được khắc in năm 1909. Các

bản này được dịch sang tiếng Việt và tái bản vào các năm 1960,

1969, 2006….). Ngoài ra còn có một số công trình khảo cứu trực

tiếp về nghi lễ đại tự triều Nguyễn trước và sau khi triều Nguyễn

cáo chung, như tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH /

Những người bạn cố đô Huế) của Hội đô thành hiếu cổ (1914-1944)

hoặc tác phẩm của những người trực tiếp chứng kiến nghi lễ đại tự

thời Nguyễn như Lễ tế Nam Giao của Hồng Hoài Lê Văn Hoàng

(1972) hoặc luận án Sự tích đàn Nam Giao và các cuộc lễ tế Giao

tại Huế (1973) của tác giả Lê Văn Phước. Bên cạnh đó còn có

nhiều tác phẩm khác viết về nguồn gốc tư tưởng, phong tục, tập quán,

âm nhạc, nghi thức, sự ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc

v..v..liên quan đến vấn đề được bàn đến trong nội dung đề tài, tiêu

biểu có Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam của Đỗ Bằng

Đoàn và Đỗ Trọng Huề (in lần đầu năm 1968), Việt Nam phong tục

của Phan Kế Bính (xuất bản lần đầu tiên năm 1915, tái bản năm

2005), Nho giáo của Trần Trọng Kim (in lần đầu vào những năm

1929-1933, tái bản năm 1992), Lịch sử tư tưởng phương Đông và

Việt Nam của Nguyễn Minh Tường (2012). Ngoài ra còn có các bài

viết của nhiều tác giả trên các Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Nghiên

cứu Lịch sử, Nghiên cứu Huế, Huế Xưa & Nay, Nghiên cứu và Phát

triển, các kỷ yếu Hội thảo về triều Nguyễn,v.v.. viết về những khía

cạnh liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án.

Luận án cũng tham khảo các công trình nghiên cứu, luận văn,

luận án của các nhà nghiên cứu nước ngoài như Li Tana, Yu Insun…;

các kỷ yếu hội thảo, hội nghị hoặc các bài viết đã được đăng tải trên

các Tạp chí uy tín hay đã được xuất bản của một số tác giả trong và

ngoài nước. Đặc biệt, có một số bài viết phân tích khá sâu về tôn giáo

và nghi lễ của các triều đình ở Việt Nam, như: “Religion and Ritual in

the Royal Courts of Đại Việt” của John K. Whitmore đăng trong Asia

Research Institute Working Paper Series No. 128 (Loạt bài viết của

Viện Nghiên cứu châu Á, Đại học Quốc gia Singapore, tháng 12/2009)

hoặc những mô tả của các nhân chứng là người nước ngoài có dịp tiếp

xúc hoặc chứng kiến các hoạt động tế tự của triều đình Nguyễn. Những

bài viết này cung cấp một cách nhìn nhận và đánh giá tính chất đặc

Page 7: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

5

trưng các Nhà nước phong kiến ở Việt Nam dưới nhiều góc độ khác

nhau, trong đó có nhiều khía cạnh liên quan đến đề tài.

Các nguồn tư liệu thu được từ khảo sát thực địa tại một số di

tích có liên quan (đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc, các miếu thờ hoàng

gia) ở trong và ngoài nước, tư liệu khảo cổ, các sưu tập hiện vật bảo

tàng và thông tin từ phỏng vấn nhân chứng trong quá trình khảo sát,

điền dã cũng đem lại những cơ sở khoa học đáng tin cậy cho đề tài.

Ngoài những tài liệu trong và ngoài nước có liên quan đến đề

tài nêu trên, chúng tôi cũng tiếp cận, khai thác một số tài liệu đăng tải

trên internet. Có thể nói những tài liệu này hết sức phong phú, đa

dạng và mức độ đề cập cũng rất khác nhau. Do đó chúng tôi sẽ phân

loại và thẩm định kỹ lưỡng trước khi sử dụng để nghiên cứu đề tài.

4.2 Phương pháp nghiên cứu

Để đáp ứng yêu cầu thực hiện đề tài thuộc lĩnh vực khoa học

xã hội, phương pháp chuyên ngành khoa học lịch sử là phương pháp

chủ yếu được áp dụng trong luận án, kết hợp với phương pháp logic

để trình bày một cách hệ thống quá trình hình thành, phát triển, suy

tàn và được phục hồi của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn

ở Huế, đồng thời làm rõ tính kế thừa từ các triều đại trước trong

lịch sử Việt Nam. Đồng thời, kết quả nghiên cứu bằng các phương

pháp này cũng giúp đánh giá sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo

trong việc xây dựng và củng cố quyền lực của triều Nguyễn thông

qua hình thức các đàn miếu và nghi lễ đại tự ở Huế và vai trò của

chúng đối với sự tồn tại và phát triển của vương triều Nguyễn.

Trong quá trình phân tích và đánh giá, luận án cũng chú ý vận dụng

các phương pháp liên ngành, như các phương pháp phân tích thư tịch,

nghiên cứu kết quả khảo cổ học, phương pháp thống kê - phân loại

và so sánh, đối chiếu các loại bảng biểu, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ,

ảnh chụp, v..v..để tìm hiểu những thông tin chi tiết về những đặc

điểm của các đàn miếu đại tự và thực hành nghi lễ liên quan dưới

triều Nguyễn tại Huế.

Đặc biệt, những phương pháp này được kết hợp với phương

pháp so sánh lịch sử đồng đại và lịch đại để tìm ra những nét đặc trưng

của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn so với các hình thức

tương tự của Trung Quốc và Hàn Quốc, thể hiện bản sắc và tinh thần

tự tôn dân tộc trong quá trình tiếp thu những ảnh hưởng văn hóa từ bên

ngoài một cách chủ định và có chọn lọc, làm rõ tính mục đích của việc

thiết lập các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế.

Page 8: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

6

Phương pháp hệ thống-cấu trúc kết hợp với phương pháp

nghiên cứu liên ngành bao gồm điền dã dân tộc học, phỏng vấn

nhân chứng, quan sát và quan sát tham dự trong nhân học văn hóa

cho phép tác giả luận án tìm hiểu những tác động của bối cảnh

chính trị, xã hội đối với quá trình hình thành đàn miếu và nghi lễ

đại tự. Mặc khác, kết quả nghiên cứu cũng giúp tác giả tìm hiểu

vai trò của các đàn miếu và nghi lễ phục dựng hiện nay đối với

cộng đồng trong sự thích ứng với bối cảnh văn hóa, chính trị, xã

hội ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.

Trong việc xử lý tư liệu, tác giả sẽ cố gắng bám vào tư liệu

gốc và các tư liệu dịch thuật bởi các cơ quan chuyên môn có uy tín.

Tuy nhiên, trong trường hợp tác giả không thể tiếp cận tư liệu gốc

mà phải trích dẫn lại, tác giả đều nói rõ nguồn.

5. Đóng góp của luận án

5.1 Về mặt thực tiễn, luận án sẽ cung cấp một cách đánh giá

tổng quan về đề tài thông qua việc hệ thống hóa các thông tin thu

thập được trong quá trình nghiên cứu tư liệu và điền dã, góp phần

phục vụ cho công tác nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa vật thể và

phi vật thể liên quan đến các đàn miếu và nghi lễ đại tự. Việc hiểu

đúng và hiểu sâu về các đàn miếu và nghi thức đại tự triều Nguyễn sẽ

góp phần đưa ra định hướng và phương pháp đúng đắn trong việc bảo

tồn và phát huy các giá trị di sản đã được công nhận là di sản văn hóa

quốc gia cấp đặc biệt và là di sản văn hóa thế giới.

5.2 Về mặt lý thuyết, kế thừa các kết quả của các nhà nghiên

cứu đi trước, khắc phục những điểm còn hạn chế và kết hợp với cách

kiến giải dựa trên sự phân tích, tổng hợp các thông tin thu được từ quá

trình nghiên cứu tư liệu, luận án sẽ đưa ra cách nhìn mới về các đàn

miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế. Mặc dù đề tài và đối tượng nghiên

cứu không mới và đã được nhiều tác giả đề cập tới từ đầu thế kỷ,

nhưng việc vận dụng cách tiếp cận liên ngành kết hợp với kỹ năng lập

luận, phân tích, luận án sẽ góp phần chứng minh các đàn miếu và nghi

lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế cũng là hình thức thể hiện tính chính

thống của quyền lực nhà vua dưới thời quân chủ. Nói cách khác, nghi

lễ đại tự cũng chính là nghi lễ của quyền lực. Mọi chi tiết về quy hoạch

và xây dựng, trang trí kiến trúc hay những thủ tục trình tự nghi thức,

nhạc, múa, trang phục, lễ phẩm v..v...của các đàn miếu và nghi lễ đại

tự đều nhằm mục đích thể hiện quân quyền, cùng với đó là thần quyền

trong một ý nghĩa tâm linh huyền bí mà nghi lễ đem lại.

Page 9: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

7

5.3 Bên cạnh đó, luận án cũng sử dụng những thông tin tư liệu

để so sánh và khảo sát thực tế để xác định đâu là những nét bản sắc

của triều Nguyễn thể hiện bản lĩnh và sự sáng tạo trong cách vận

dụng tư tưởng Nho giáo Trung Quốc vào điều kiện thực tế của Việt

Nam và kế thừa các triều đại trước. Đó chính là những nét đặc trưng

thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc của các vua Nguyễn, đặc biệt là vào

buổi đầu của triều đại. Điều này thể hiện qua việc quy hoạch và xây

dựng đàn miếu có phần khác với Trung Quốc và Hàn Quốc, cũng như

việc thực hành nghi lễ tế tự một cách quy củ. Mặt khác, kết quả điền

dã thực địa cho thấy trong số các nghi lễ đại tự của triều Nguyễn, chỉ

có lễ tế miếu – hay nói đúng hơn là lễ kỵ giỗ của Nguyễn Phúc Tộc,

đã và vẫn đang được dòng họ tổ chức trong gia đình và ở các tông

miếu hoàng gia tại hoàng cung, thể hiện truyền thống thờ cúng tổ

tiên, mang đậm nét địa phương và bản sắc của một triều đại. Nghi lễ

này cho dù có nhiều thay đổi nhưng vẫn tồn tại như một cách thích

ứng trước áp lực của sự toàn cầu hóa và hiện đại hóa trong bối cảnh

hiện nay và vẫn giữ nguyên những giá trị văn hóa và tinh thần.

6. Bố cục của luận án

Ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (4 trang), Danh mục các

công trình khoa học liên quan đã công bố (3 trang), Tài liệu tham khảo

(15 trang), Bảng Chú giải một số từ vựng (3 trang), Phụ lục (70 trang),

nội dung chính của luận án được chia làm 4 chương:

Chương 1:Tổng quan tình hình nghiên cứu (17 trang)

Chương 2: Sự hình thành các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế

(39 trang)

Chương 3. Nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế (32 trang)

Chương 4. Đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế:

những đặc trưng và vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị (30 trang)

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1 Tình hình nghiên cứu

1.1.1 Các công trình nghiên cứu trước năm 1975

Trước hết, liên quan trực tiếp đến đề tài của luận án có các

công trình nghiên cứu đã được thực hiện và ấn hành từ những năm

triều Nguyễn chưa chấm dứt, tiêu biểu là bộ Bulletin des Amis du

Vieux Hué (BAVH/Những người bạn cố đô Huế) của Hội đô thành

hiếu cổ với nhiều bài viết của L. Cadière [147]; [148]; [149]; Nguyễn

Page 10: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

8

Đình Hoè [151], R. Orband [153]; [154]; [155]; [156], H. De Pirey

[157], A. Sallet [158]...cung cấp nhiều thông tin tư liệu đáng quý về

các đối tượng của đề tài, trong đó có nhiều bài viết mô tả cụ thể về

đàn Nam Giao và nghi thức tế Giao hoặc đàn Xã Tắc thời Nguyễn

kèm theo bản vẽ hoặc ảnh chụp, được xem là cơ sở cho việc phục

dựng các lễ tế Giao hiện nay.

Mặc dù các kết quả nghiên cứu khác ở giai đoạn trước 1975

chỉ mang tính chất hồi ký, mô tả, nhưng cũng rất có giá trị tham khảo

bởi phần lớn các tác giả cũng là những nhà trí thức, những nhân

chứng lịch sử hoặc những người có nhiều cơ hội để tiếp cận và kiểm

chứng thực tế về những nội dung liên quan đến đề tài. Nổi bật trong

số đó có Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam của Đỗ

Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề (in lần đầu năm 1968) với những thông

tin khá đầy đủ về các đại lễ quan trọng nhất dưới thời các triều đại

quân chủ ở Việt Nam cùng những chi tiết về nghi thức, âm nhạc, kèm

theo một số hình ảnh minh họa.

Tuy nhiên, tác phẩm này chỉ đề cập đến việc lập đàn Xã Tắc

(vào đời Trần) đúng một câu trong mục “Lễ Tịch điền qua các triều

đại”, ngoài ra không có thông tin gì thêm về lễ tế đàn Xã Tắc dưới

thời Trần và các triều đại khác, kể cả triều Nguyễn. Thông tin về lễ tế

miếu trong tác phẩm này cũng khá sơ sài và hoàn toàn không mô tả

vị trí hay đặc điểm kiến trúc của các công trình. Riêng đối với lễ tế

miếu thời Nguyễn, tác phẩm đưa ra những thông tin khá chi tiết về lễ

vật tế, trình tự tổ chức và các nghi thức, kèm theo nội dung nhạc tế

nhưng chỉ đề cập đến lễ tế kỵ ở Thế Miếu nhà Nguyễn. Một nội dung

khác khá quan trọng là việc trong tác phẩm này, lễ tế kỵ ở Thế Miếu

nhà Nguyễn có múa nhạc, trong khi theo quy chế triều Nguyễn, chỉ

có lễ tế hưởng (tế theo mùa) ở miếu mới có múa Bát dật.

Bên cạnh đó, thông tin về các lễ tế được tổ chức sau khi triều

Nguyễn đã cáo chung cũng rất cần thiết để giúp tác giả luận án hiểu

thêm vai trò của các đàn miếu và những nghi thức tế đại tự triều

Nguyễn đối với đời sống văn hóa tinh thần vùng Huế, đặc biệt là

sau khi triều đại quân chủ đã chấm dứt. Các tác phẩm viết về hoạt

động này có: Lễ tế Nam Giao của Hồng Hoài Lê Văn Hoàng (1972)

hoăc Sự tích đàn Nam Giao và các cuộc lễ tế Giao tại Huế của Lê

Văn Phước (1973) với nhiều thông tin chi tiết mô tả kiến trúc và

cách thức tổ chức nghi lễ tế Giao nhưng chưa đi sâu lý giải về mặt ý

nghĩa triết lý hoặc phân tích những tác động về mặt xã hội của các

Page 11: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

9

hình thức tế đại tự mà luận án đề cập. Ngoài ra còn có một số bài

viết trên các tập san chuyên đề như Sử Địa (Sài Gòn), Đại học (Huế),

Nam Phong (Sài Gòn) nhưng cũng chỉ cung cấp thông tin sơ lược về

đàn Nam Giao và lễ tế Giao. Trong đó, đáng chú ý có một vài thông

tin ghi được vào thời điểm 1942 về Trai Cung và những chứng tích

còn sót lại như: dấu tích kiến trúc, thẻ bằng đá treo trên cây

thông..v..v..

1.1.2 Các công trình nghiên cứu từ năm 1975 đến nay

Căn cứ vào sự thay đổi về cơ bản trong cách nhìn nhận, đánh

giá về triều Nguyễn sau thời kỳ đổi mới (1986), có thể tạm chia thời

kỳ sau năm 1975 đến nay ra làm 2 giai đoạn.

a. Giai đoạn từ năm 1975-1986

Ở giai đoạn này, mặc dù người ta không cấm đoán việc tế tự,

nhưng với quan điểm coi triều Nguyễn là “thối nát”, “phản động” và

chủ trương bài trừ mê tín dị đoan, nhiều hình thức sinh hoạt tín

ngưỡng bị đình trệ trong khoảng thời gian từ 1975-1985. Trước tình

hình đó, việc nghiên cứu về triều Nguyễn nói chung và về các đàn

miếu hay nghi thức tế đại tự ở Huế giai đoạn này gần như không có

gì tiến triển.

b. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay

* Nhóm công trình nghiên cứu về triều Nguyễn và di sản

kiến trúc đàn miếu ở Huế

Năm 1994, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường đã chọn

chủ đề Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn,

những vấn đề đặt ra trong thực tiễn đổi mới đất nước hiện nay làm

đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước (mã số KX-ĐL: 94-16), do

PGS.TS. Đỗ Bang làm chủ nhiệm đề tài đã đánh dấu sự vào cuộc

chính thức về mặt nhà nước trong việc nghiên cứu khách quan và

toàn diện hơn về triều Nguyễn.

Cùng chung mối quan tâm về triều Nguyễn giai đoạn này còn

có nhiều nhà nghiên cứu với những công trình quy mô khác nhau,

trong đó có thể kể đến: Tín ngưỡng dân gian Huế của Trần Đại Vinh

(1995), Kinh thành Huế của Phan Thuận An (1999), Phú Xuân-Huế

từ đô thị cổ đến hiện đại, bao gồm nhiều bài viết của các tác giả do

UBND thành phố Huế tập hợp (1999), Những vấn đề lịch sử về triều

đại cuối cùng ở Việt Nam của nhiều tác giả do Trung tâm Bảo tồn Di

tích Cố đô Huế và tạp chí Huế-Xưa & Nay xuất bản (2002), Tuyển

tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn của nhiều tác giả do Sở

Page 12: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

10

Khoa học, Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên Huế phối hợp với

Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản (2002). Tuy nhiên,

hầu hết các tài liệu này đều ít đề cập đến những đối tượng nghiên cứu

của đề tài. Đáng lưu ý có tác phẩm Dấu ấn Nguyễn trong văn hóa Phú

Xuân của Phan Thanh Hải (2002). Đây là tập hợp nhiều bài khảo cứu

về triều Nguyễn và văn hóa Huế, trong đó có những bài viết liên quan

trực tiếp đến đề tài với nhiều thông tin có giá trị.

Với kết quả khảo sát thực tế tại Trung Quốc, tác giả là người

đầu tiên đưa ra những nhận xét so sánh giữa đàn tế Trời thời Minh-

Thanh ở Bắc Kinh và đàn tế của triều Nguyễn ở Huế. Dựa trên mô tả

về đàn Nam Giao triều Nguyễn ở Huế với 3 tầng (một tầng tượng trưng

cho Trời, một tầng tượng trưng cho Đất, một tầng tượng trưng cho Con

người), tác giả đã có lý khi cho rằng lối kiến trúc này “thể hiện mối quan

hệ vừa có tính cách biệt tương đối, vừa thống nhất trong mối liên kết có

tính tuyệt đối”. Theo nhận xét của tác giả, ở Trung Quốc, tế Giao được

tổ chức riêng rẽ, trong đó yếu tố Trời, Đất và các vị thần linh luôn đóng

vai trò quan trọng và bao trùm lên tất cả: “Trên thực tế ở Trung Quốc,

giai cấp thống trị luôn luôn tìm cách đẩy xa khoảng cách giữa thần linh

và con người”.

Liên quan đến việc quy hoạch kiến trúc và mối tương quan giữa

vị trí các công trình với những yếu tố tự nhiên mang ý nghĩa triết lý

phong thủy, tác phẩm Kinh thành Huế của Phan Thuận An là một tác

phẩm cung cấp những thông tin đầy đủ nhất về quá trình hình thành

Kinh thành Huế. Tác giả nhận xét: “...Với cách đưa kiến trúc Kinh thành

vào giữa các thực thể địa lý ở ngoại cảnh thiên nhiên.., chúng ta thấy

việc quy hoạch và xây dựng công trình kiến trúc này đã và đang tiểm ẩn

một nội dung triết lý thật sâu sắc”.

Trong bài khảo cứu của mình về “Tư tưởng quy hoạch Kinh

thành Huế dưới triều Gia Long” trong Huế-triều Nguyễn, một cái nhìn

(2004), tác giả Trần Đức Anh Sơn tiến thêm một bước trong việc

nghiên cứu về khía cạnh này và kết luận: “Việc quy hoạch và kiến

thiết Kinh thành Huế dưới triều Gia Long là một sự kết hợp tài tình,

khéo léo các yếu tố: lịch sử, Dịch lý và thuật phong thủy và tri thức

khoa học...”.

Cùng chung mối quan tâm đến đặc điểm quy hoạch của các di tích

triều Nguyễn ở Huế, tác giả Phan Thanh Hải cũng nhận định: “Ở Kinh đô

Huế, ngoài trục (thần đạo) của kinh đô chạy theo hướng Tây Bắc-Đông

Nam, bên ngoài Kinh thành còn có một trục chạy theo hướng Bắc-Nam,

Page 13: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

11

nối từ Kỳ Đài đến đàn Nam Giao. Chính trục thứ hai này cùng với dòng

sông Hương đã tạo nên sự liên kết rất chặt chẽ, hài hòa giữa kinh đô với

các công trình kiến trúc bên ngoài Kinh thành, nhất là miền lăng tẩm của

hoàng gia ở phía Tây và Tây-Nam”.

Các kết quả nghiên cứu trên đây là một trong những cơ sở giúp

tác giả luận án xem xét mối quan hệ giữa các đàn miếu đại tự triều

Nguyễn với toàn bộ quần thể di tích cố đô Huế và đặc điểm của các

đàn miếu đại tự nhìn từ ý nghĩa triết lý trong quy hoạch. Riêng bài

viết “Quy hoạch khu di tích đàn Xã Tắc-thực trạng và giải pháp”

của Nguyễn Việt Dũng cung cấp thêm một số thông tin khá chi tiết

về việc quy hoạch đàn Xã Tắc để trùng tu, phục hồi sau một thời

gian dài bị xuống cấp nghiêm trọng.

Bên cạnh đó còn có nhiều công trình nghiên cứu là những

Luận văn, Luận án Tiến sĩ liên quan đến một số khía cạnh trong đối

tượng nghiên cứu của đề tài. Nổi bật trong số đó có Luận án Tiến sĩ

về Quan xưởng ở Kinh đô Huế từ 1802 đến 1884 của Nguyễn Văn

Đăng năm 2002 đem lại nhiều thông tin bổ ích về các cơ quan sản

xuất, cung cấp các vật dụng của triều đình. Luận án Tiến sĩ về Vai

trò của bộ Công trong việc xây dựng kinh đô Huế dưới triều Nguyễn

(giai đoạn 1802-1884) của Phan Tiến Dũng năm 2005 với những

thông tin về việc xây dựng các công trình đàn miếu dưới triều

Nguyễn, cung cấp những kết quả thống kê khoa học về số lượng và

hình thức các loại gạch, ngói xây dựng kiến trúc cung đình Nguyễn.

Ngoài ra còn có nhiều kết quả nghiên cứu được công bố tại

các hội nghị, hội thảo khoa học bàn về triều Nguyễn và được in

thành kỷ yếu. Đó là kỷ yếu của các Hội thảo về Những vấn đề văn

hóa – xã hội thời Nguyễn (Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ

Chí Minh, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh tổ

chức, lần thứ nhất năm 1992, lần thứ hai năm 1995), hội thảo khoa

học quốc gia về Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời Nguyễn ở đại

học, cao đẳng sư phạm và phổ thông do trường Đại học Sư phạm

Hà Nội và Bộ Giáo dục Đào tạo tổ chức năm 2002, Hội nghị

chuyên gia Đánh giá quỹ kiến trúc đô thị Huế do UBND thành phố

Huế tổ chức năm 2003, Hội thảo khoa học về Chúa Nguyễn và

vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ

XIX do UBND tỉnh Thanh Hóa và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam

tổ chức năm 2008, Hội thảo về Thuận Hóa-Phú Xuân Thừa Thiên

Huế-700 năm hình thành và phát triển do Hội Khoa học Lịch sử

Page 14: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

12

tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức năm 2010, các Hội thảo Việt Nam học

lần thứ nhất (1998), lần thứ hai (2004), lần thứ 3 (2008), lần thứ 4

(2012), Hội thảo Văn hóa Huế, đặc điểm lịch sử và vấn đề bảo tồn,

phát triển do Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức

năm 2014, Hội thảo Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống thơ văn

trên kiến trúc cung đình Huế do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô

Huế tổ chức năm 2015 cùng nhiều hội thảo, hội nghị chuyên đề

khác ở cấp quốc gia và quốc tế trên nhiều lĩnh lực khác có liên quan

ít nhiều. Hầu hết các hội thảo đều đề cập đến những mảng đề tài

rộng và mang tính tổng quan nhiều hơn là đi vào chi tiết hoặc đề

cập đến những trường hợp cụ thể như đối tượng nghiên cứu của

luận án. Đặc biệt, Hội thảo Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống thơ

văn trên kiến trúc cung đình Huế do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố

đô Huế tổ chức đã công bố nhiều kết quả nghiên cứu có giá trị về

những giá trị độc đáo và quý hiếm của hệ thống thơ văn trên kiến

trúc cung đình Huế. Đây cũng là những cứ liệu chân xác và nguyên

gốc đặc biệt quý hiếm phản ánh tư tưởng trị nước an dân của các

vua Nguyễn dựa trên nền tảng của Nho học, tinh thần tự tôn dân tộc

hoặc vị thế cảnh quan đặc biệt của Kinh đô Huế.

Trong những công trình nghiên cứu của người nước ngoài

viết về Việt Nam, đặc biệt là về triều Nguyễn, tác giả Hoàng Lan

Tường là người đầu tiên đưa ra cái nhìn so sánh giữa quy hoạch

kiến trúc các miếu thờ hoàng gia triều Nguyễn và tông miếu triều

Minh – Thanh Trung Quốc trong bài viết “Lược khảo quy hoạch

thành thị Huế, quốc đô Việt Nam thế kỷ XIX” năm 2003.

Từ những so sánh về vị trí của các công trình có cùng chức

năng giữa hai kinh đô Huế và Bắc Kinh, tác giả nhận xét: “Hoàng

thành Huế Việt Nam có cách phối trí đặc trưng, thể hiện việc coi

trọng thờ cúng tổ tiên”. Đây là một trong những nhận xét khá hiếm

hoi của người nước ngoài đề cập trực tiếp đến nét đặc trưng trong

quy hoạch các miếu thờ tổ tiên của triều Nguyễn ở Huế. Nhận xét

này của tác giả khá xác đáng, tuy nhiên vẫn chưa lý giải được ý nghĩa

của sự khác biệt này cũng như mối liên hệ về mặt tổng thể trong việc

triều Nguyễn tiếp thu có chọn lọc những ảnh hưởng của tư tưởng

Nho giáo Trung Quốc để xây dựng các công trình đàn miếu đại tự ở

Huế.

Page 15: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

13

* Nhóm các công trình nghiên cứu về nguồn gốc tư tưởng và

nghi lễ

Về khía cạnh này, nhiều công trình khảo cứu công phu của

các tác giả với những phân tích sâu về đời sống chính trị, kinh tế, xã

hội Việt Nam, đặc biệt là vai trò của vua theo cách nhìn của Nho

giáo và sự vận dụng tư tưởng Nho giáo Trung Quốc vào Việt Nam

dưới triều Nguyễn một cách có chọn lọc cũng được tác giả luận án

quan tâm tìm hiểu. Trong số các tác phẩm viết về Nho giáo và văn

hóa Trung Quốc có Nho giáo của Trần Trọng Kim xuất bản năm

1992, Kinh điển văn hóa 5000 năm Trung Hoa của Dương Lực xuất

bản năm 2002, Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê

Thánh Tông đến Minh Mệnh của Nguyễn Hoài Văn xuất bản năm

2002, Nho giáo Trung Quốc của Nguyễn Tôn Nhan xuất bản năm

2005. Những công trình này đã cung cấp nhiều thông tin cơ bản cho

việc đánh giá, so sánh và xác định những nét đặc trưng của triều

Nguyễn trong quá trình tiếp thu và vận dụng tư tưởng Nho giáo

Trung Quốc vào việc xây dựng đàn miếu và tiến hành nghi lễ đại tự

ở Huế.

Trong số các nghi lễ đại tự, lễ tế miếu có nguồn gốc từ truyền

thống thờ cúng tổ tiên của người Việt. Về vấn đề này có một số

công trình như: Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ

cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay của Trần

Đăng Sinh xuất bản năm 2002, Một số phong tục nghi lễ dân gian

truyền thống Việt Nam của Quảng Tuệ xuất bản năm năm 2002,

cùng các bài viết của nhiều tác giả trên các Tạp chí Văn hóa Nghệ

thuật, Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu Huế, Huế Xưa & Nay,

Nghiên cứu và Phát triển, v.v.. đã giúp tác giả có thêm nhiều thông

tin bổ ích về những khía cạnh liên quan đến đề tài nghiên cứu của

luận án nhưng vẫn chưa xác định được truyền thống thờ cúng tổ

tiên của người Việt ra đời từ khi nào. Một số tác phẩm không đề

cập trực tiếp đến các đối tượng nghiên cứu của đề tài nhưng giúp

tác giả luận án hiểu thêm về ý nghĩa của những địa điểm xây dựng

các đàn miếu nhìn từ khía cạnh phong thủy hoặc những bối cảnh

kinh tế-xã hội của Việt Nam ở giai đoạn chính quyền quân chủ

Nguyễn dần đánh mất quyền lực, chuyển tiếp sang chế độ thuộc địa.

Kể từ sau năm 1986, vấn đề về triều Nguyễn được giới học

thuật trong nước quan tâm nhiều hơn, mở ra một giai đoạn mới

trong lịch sử nghiên cứu về triều Nguyễn ở Việt Nam với những

Page 16: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

14

bài viết, công trình khảo cứu ở nhiều mức độ khác nhau, trong đó

có nhiều bài viết cung cấp những thông tin khá chi tiết liên quan

đến đối tượng nghiên cứu của đề tài.

Ở một góc độ nghiên cứu về những tác động của bối cảnh

chính trị, xã hội đối với văn hóa, tác giả Trần Đại Vinh trong công

trình nghiên cứu về Tín ngưỡng dân gian Huế năm 1995 [134] xác

nhận sự gián đoạn của hoạt động cúng tế trong dân gian thời kỳ 1985.

Điều này khá hữu ích cho tác giả luận án, giúp thêm cơ sở cho việc

tìm hiểu về sự tác động của những bối cảnh chính trị, xã hội khác

nhau đối với các đối tượng nghiên cứu của đề tài.

Liên quan đến hoạt động nghi lễ cung đình ở Huế còn có

nhiều công trình nghiên cứu khác như: “Lễ hội ở Huế dưới thời

Nguyễn” của Lê Văn Thuyên năm 2003, “Vài nét về lễ tết trong

cung đình Huế” của Nguyễn Văn Đăng năm 2002, “Một số lễ nghi

liên quan đến nông nghiệp dưới triều Nguyễn” của Phương Hà năm

2012, “Lễ hội cung đình Nguyễn-giải pháp bảo tồn và phát huy giá

trị phục vụ nhu cầu tâm linh của nhân dân và phát triển du lịch bền

vững trong bối cảnh hiện nay ở tỉnh Thừa Thiên Huế” của Lê Thị

An Hòa năm 2012, “Phụng Tiên-điện thờ của hoàng tộc Nguyễn”

của Thúy Vân-Tiến Đặng năm 2012, “Các đàn tế thời Nguyễn ở

Huế: đàn Xã Tắc, đàn Tiên Nông, đàn Sơn Xuyên” của Phan Thuận

An năm 2013, v..v..Phần lớn những bài viết này đều có liên quan ít

nhiều đến đề tài luận án nhưng không có sự đánh giá toàn diện về

vai trò và ý nghĩa của hoạt động tế đại tự dưới triều Nguyễn ở Huế.

Trải qua thời gian, những công trình nghiên cứu về triều

Nguyễn ngày càng dày dặn và có chiều sâu. Trong các bài khảo cứu

của mình, tác giả Trần Đức Anh Sơn cung cấp thêm nhiều thông tin

liên quan đến một số thay đổi ở đàn Nam Giao thời kỳ sau năm 1975

và hoạt động tu sửa đàn Nam Giao năm 1994. Riêng đối với nội dung

liên quan đến miếu thờ các vua Nguyễn ở Huế, tác giả cho rằng việc

sắp xếp các án thờ trong Thế Tổ Miếu cần có sự thay đổi nhỏ về vị trí

các án thờ 3 vị vua Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân để phù hợp

với thế thứ trong phả hệ của dòng họ. Mặt khác, tác giả cũng cho

rằng các vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân

là “phế đế” (vua bị phế truất) và “xuất đế” (vua bị đi đày) và nên

không được thờ trong Thế Tổ Miếu. Về điểm này, tác giả luận án sẽ

có cách giải thích khác trong nội dung luận án.

Page 17: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

15

Về chủ đề "Lễ hội cung đình Huế và vấn đề bảo tồn và phát

huy giá trị để phục vụ nhân dân và phát triển du lịch Huế", tác giả

Trần Đức Anh Sơn cũng cung cấp những thông tin một cách hệ thống

về các hình thức lễ hội cung đình Huế và những đề xuất giải pháp

cho việc phát triển du lịch dựa trên việc tổ chức, phục dựng một số lễ

hội cung đình như lễ tế Giao, trình bày tại Hội thảo khoa học do Hội

Văn nghệ Dân gian Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 26 tháng 6 năm

2011 tại Huế. Tuy nhiên, tác giả cũng mới chỉ dừng lại ở những khái

niệm về “lễ”, về “hội” và những nội dung bàn về hình thức tổ chức

phục dựng chứ chưa xem xét các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều

Nguyễn trong cái nhìn tổng thể về kiến trúc, hoạt động nghi lễ và

những ý nghĩa văn hóa, xã hội liên quan.

Trong số ít công trình nghiên cứu cụ thể về văn hóa cung

đình Huế, tác phẩm Văn hóa Huế xưa-Đời sống văn hóa cung đình

của Lê Nguyễn Lưu năm 2006 là công trình nghiên cứu khá toàn

diện về đối tượng mà luận án đề cập với tiểu mục “Đàn miếu” mô tả

lịch sử hình thành đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc và các miếu thờ

hoàng gia triều Nguyễn ở hoàng cung Huế. Tuy nhiên, trong một số

lễ tiết cụ thể được nêu làm ví dụ, lễ tế Giao được tác giả liệt vào

hàng “Lễ thuộc triều đình” chứ không liệt kê theo cách phân loại

của triều Nguyễn như: lễ đại tự, trung tự và quần tự; cũng không

mô tả lễ tế Xã Tắc hoặc lễ tế miếu. Ngoài ra, bài viết “Thành phố

ngày hội: Lễ Nam Giao” của A.De Rotalier được tác giả đưa vào

phần Phụ lục, cung cấp nhiều thông tin mô tả sinh động về một lễ tế

Giao vào cuối thời Nguyễn. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là tác giả

không ghi rõ bài viết này được trích từ sách nào, dịch từ nguyên bản

tiếng Pháp hay tiếng Anh, v..v..nên người đọc không có điều kiện

kiểm chứng, và vì vậy ảnh hưởng đến độ tin cậy và tính xác thực

của tài liệu.

Trong một số luận văn tại trường Đại học Khoa học Huế có

các Luận văn Thạc sĩ năm 2003 của các tác giả Đặng Đức Diệu Hạnh

về Lễ tế Nam Giao tại Huế dưới triều Nguyễn, Lê Thị An Hòa với đề

tài Một số lễ nghi liên quan đến nông nghiệp dưới triều Nguyễn tại

kinh đô Huế năm 2003 và gần đây là luận văn của tác giả Huỳnh Thị

Anh Vân về Hệ thống miếu thờ vua Nguyễn và nghi lễ tế Miếu tại

Huế (1802-1945) năm 2010. Những luận văn này đều đề cập đến các

đàn miếu đại tự của triều Nguyễn (Giao, Miếu, Xã Tắc) và nghi thức

tế lễ ở những mức độ khác nhau nhưng ở phạm vi hẹp, riêng lẻ từng

Page 18: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

16

đối tượng liên quan đến đề tài chứ chưa có cái nhìn tổng thể về các

đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn nói chung cũng như vai trò,

ý nghĩa và tác động của chúng về mặt xã hội ở những hoàn cảnh khác

nhau trong lịch sử.

Về các tài liệu xuất bản ở nước ngoài viết về Việt Nam hoặc

đưa ra cách nhìn nhận mối quan hệ giữa nghi lễ, chính trị và quyền

lực, trong tác phẩm Vietnam and the Chinese Model: A

Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the

First Half of the Nineteenth Century (Việt Nam và mô hình của

Trung Quốc: một nghiên cứu đối sánh về chính quyền Việt Nam và

Trung Quốc vào nửa đầu thế kỷ 19, nguyên bản tiếng Anh năm

1971), tác giả Alexander Barton Woodside cho rằng ở Việt Nam,

hình thức trung ương tập quyền của tư tưởng “Thiên tử” Trung

Quốc được kết hợp với vai trò của thủ lĩnh làng xã trong truyền

thống bản địa và vì thế, “Một vị vua Việt Nam thành công, như một

thủ lĩnh tối cao của làng xã, có thể yêu cầu thần linh trợ giúp một

cách oai phong hơn mà những vị vua Trung Quốc không thể làm

được”.

Trong luận án của mình, tác giả cũng chứng minh rằng tính

chủ động trong việc vận dụng tư tưởng Nho giáo của Trung Quốc

dưới thời Nguyễn được thể hiện rõ qua sự hình thành các đàn miếu

đại tự ở Huế. Điều này đã làm nên những đặc trưng của triều đại và

góp phần khẳng định bản sắc văn hóa cung đình Huế.

Tác phẩm Jongmyo Royal Ancestral Shrine-Jongmyo Royal

Ancestral Rite (Tông miếu hoàng gia-Nghi lễ tế tông miếu) của The

Preservation Society of the Jongmyo Royal Ancestral Rite (Hội Bảo

tồn Nghi lễ Tông miếu hoàng gia, Seoul, 2005) là một tài liệu hữu ích

khác đối với tác giả luận án ở góc độ đối chiếu trường hợp tương tự ở

Hàn Quốc-một nước đồng văn trong khu vực, góp phần hoàn thiện

những nhận xét của tác giả luận án sau khi khảo sát thực địa đàn Nam

Giao, đàn Xã Tắc triều Joseon tại Seoul. Việc nghiên cứu những tác

phẩm này giúp tác giả có được những nhận xét tổng hợp và khách

quan về Việt Nam thời cận đại và so sánh với hình thức tương đồng ở

một số nước đồng văn trong khu vực. Đặc biệt, những vấn đề mang

tính lý luận trong tác phẩm Ritual, Politics & Power (Nghi lễ, Chính

trị & Quyền lực) của David I. Kertzer (nguyên bản tiếng Anh năm

1988, Anh) giúp tác giả luận án củng cố thêm những nhận định của

mình trong việc nghiên cứu đề tài luận án.

Page 19: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

17

Ngoài những tài liệu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài

nêu trên, chúng tôi cũng tiếp cận, khai thác một số tài liệu đăng tải

trên internet. Có thể nói những tài liệu này hết sức phong phú, đa

dạng và mức độ đề cập cũng rất khác nhau. Do đó chúng tôi sẽ phân

loại và thẩm định kỹ lưỡng trước khi sử dụng để nghiên cứu đề tài.

.1.2 Kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra

Trước hết, đó là những vấn đề mang tính lý luận trong việc nhìn

nhận, đánh giá dựa trên các dữ liệu tổng hợp thông tin từ các nguồn

tư liệu và kết quả nghiên cứu liên ngành về lịch sử, khảo cổ, văn

hóa... để đưa ra những luận điểm đảm bảo tính khách quan về bản

chất của vấn đề đang được luận án nghiên cứu.

Thứ hai, luận án cũng kế thừa được những thông tin đã được

các tác giả đi trước tập hợp, kết hợp với những kết quả nghiên cứu tư

liệu và điền dã trong quá trình thực hiện đề tài để tổng hợp và so

sánh, phân tích, đánh giá toàn diện cả ba loại hình đại tự triều

Nguyễn (Giao, miếu, Xã Tắc) dưới sự chi phối chung của hoàn cảnh

chính trị-xã hội đương thời và trong mối tương quan với một số loại

hình đồng đại ở một số nước đồng văn trong khu vực như Trung

Quốc, Hàn Quốc.

Secondly, the dissertation based on the previous researches,

combined with the documentation and field surveys to synthesize,

analyze and assess comprehensively three ritual national cerenonies

(Giao, royal ancestral temples and Xa Tac) under the general socio-

political context at the time and in correspondance with the similar

forms in China or Korea, etc.

Trong số các nghi lễ đại tự thời quân chủ, lễ tế Xã Tắc là

hình thức nghi lễ được thực hiện sớm nhất (từ năm 1048, thời Lý)

và thời điểm ra đời của đàn Xã Tắc trước đàn Nam Giao cho thấy

việc lập đàn Xã Tắc thể hiện mối quan hệ gắn bó thiêng liêng giữa

sự sinh tồn của một quốc gia, dân tộc có nền kinh tế chủ yếu dựa

vào nông nghiệp. Mục đích “bốn mùa cầu đảo cho mùa màng” là

mục đích đầu tiên của nghi lễ này, hoàn toàn không vì mục đích

chính trị. Tuy nhiên, thông tin về đàn Xã Tắc và lễ tế Xã Tắc

không nhiều, những công trình nghiên cứu sâu về đề tài này, đặc

biệt là về đàn Xã Tắc các triều đại trước Nguyễn còn nhiều hạn

chế. Trong bối cảnh Việt Nam là một nước nông nghiệp lâu đời,

câu hỏi đặt ra là đàn Xã Tắc và lễ tế Xã Tắc trong lịch sử Việt

Page 20: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

18

Nam, đặc biệt là trước triều Nguyễn ra sao, hình thức và vai trò

của đàn Xã Tắc cùng lễ tế Xã Tắc của các triều đại trước Nguyễn

đối với Nhà nước và cư dân nông nghiệp ở Việt Nam buổi đương

thời như thế nào?

Theo quan điểm của Nho giáo: “Vạn vật bản hồ thiên, nhân

bản hồ tổ” (Muôn vật gốc ở Trời, người gốc ở tổ), nên có tác giả đã

nhận xét: “Xem thế thì biết rằng người đời xưa lấy việc tế tự làm

quan trọng lắm, mà trong sự tế tự của người Tàu có cái đặc sắc là

việc thờ cúng tổ tiên”. Điều này liên quan đến việc chứng minh rằng

lễ tế miếu có nguồn gốc Nho giáo.

Mặt khác, việc thờ cúng tổ tiên cũng luôn được coi là truyền

thống văn hóa của người Việt. Vậy người Việt bắt đầu có tục thờ

cúng tổ tiên từ khi nào? Cách thức thờ cúng ra sao? Có chứng cứ

khảo cổ học nào cho thấy trước khi Nho giáo thâm nhập vào Việt

Nam (tức là khoảng cuối thế kỷ thứ II trở về trước), người Việt cổ

có thờ cúng tổ tiên không? Việc tìm được lời giải cho câu hỏi này

sẽ góp thêm cơ sở xác đáng để giải thích vì sao việc tế tông miếu

hoàng gia triều Nguyễn lại được đặc biệt chú trọng như vậy. Điều

này cũng sẽ góp phần chứng minh thêm một biểu hiện đặc trưng

khác của triều Nguyễn trong quá trình khẳng định mình trước sự

tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng Nho giáo của các triều đại

phương Bắc.

Chương 2

SỰ HÌNH THÀNH CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN

Ở HUẾ

Nội dung của chương này theo bố cục như sau:

2.1 Khái niệm, nguồn gốc của đàn miếu đại tự và nghi lễ cúng tế

2.2 Cơ sở của việc hình thành các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở

Huế

2.2.1 Các đàn miếu đại tự của các triều đại trước triều Nguyễn ở Việt

Nam

2.2.2 Bối cảnh ra đời của các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế

2.2.3 Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế từ khi xây dựng đến

trước năm 1885

2.2.4 Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế từ năm 1885 đến năm

1945

Tiểu kết chương 2

Page 21: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

19

Chương 3

NGHI LỄ ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ

Nội dung của chương này được trình bày theo bố cục như sau:

3.1 Các cơ quan tham gia quá trình chuẩn bị và thực hiện nghi lễ đại

tự

3.2 Những vấn đề chung về các nghi lễ đại tự

3.3 Nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế từ 1802 đến trước năm 1885

3.4 Hoạt động tế đại tự triều Nguyễn ở Huế giai đoạn 1885-1945

Tiểu kết chương 3

Chương 4

ĐÀN MIẾU VÀ NGHI LỄ ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ:

NHỮNG ĐẶC TRƯNG VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN,

PHÁT HUY GIÁ TRỊ

Nội dung của chương này được trình bày theo bố cục như sau:

4.1 Những đặc trưng của đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở

Huế

4.2 Vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị các đàn miếu và nghi lễ đại tự

triều Nguyễn ở Huế

Tiểu kết chương 4

KẾT LUẬN

1. Lịch sử hình thành và phát triển của các đàn miếu và nghi lễ

đại tự của các triều đại quân chủ ở Việt Nam cho thấy việc xây dựng

các đàn miếu và thực hành nghi lễ tế Giao, miếu, Xã Tắc đã có từ rất

sớm và mang nhiều ảnh hưởng của tư tưởng triết lý Trung Quốc.

Triều Nguyễn đã có những nét riêng thể hiện tính độc lập của triều

đại mình trong quá trình vận dụng mô hình điển chế của Trung Quốc

vào việc xây dựng, quy hoạch kiến trúc và thiết lập hệ thống lễ nghi

đại tự trên cơ sở cân nhắc sự hợp tình hợp lý, đảm bảo đủ ý nghĩa

trong lễ nghi, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, xã hội và truyền thống

văn hóa của Việt Nam. Điều này được thể hiện qua cách quy hoạch

đàn miếu, lựa chọn vị trí, quyết định số lượng và đặc biệt là thực hiện

nghi thức tế tự. Mặt khác, các tông miếu hoàng gia triều Nguyễn

được xây dựng trước cả đàn Nam Giao và đàn Xã Tắc, cho thấy triều

Nguyễn đặc biệt coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, duy trì và xiển dương

đạo hiếu cho con cháu dòng họ và dân chúng noi theo.

Đặc biệt, nét nổi bật của triều Nguyễn là tinh thần tự tôn dân

tộc được thể hiện qua việc thiết lập các đàn miếu đại tự, xây dựng các

Page 22: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

20

điển lệ về nghi lễ và tự mình tế Trời, đựng đàn Xã Tắc với đầy đủ

“ngũ sắc”, khẳng định vị thế “hoàng đế” của một quốc gia độc lập.

2. Thực tế lịch sử cho thấy tùy theo sự lựa chọn hệ tư tưởng

của tầng lớp thống trị ở mỗi thời kỳ, nghi lễ và quyền lực có những

tác động qua lại, chi phối lẫn nhau ở những mức độ khác nhau. Nói

cách khác, nghi lễ thực ra chỉ là một công cụ của quyền lực chính trị

thời quân chủ. Dưới thời Nguyễn, các đàn miếu đại tự được xây

dựng từ những năm đầu triều đại. Điều này cho thấy vua Gia Long

đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt tư tưởng và xác định quan điểm

chính trị rõ ràng, nhất quán trong đường lối “trị dân bằng đạo

hiếu”. Tư tưởng “kính thiên, pháp tổ” được tiếp tục duy trì dưới

các đời vua kế vị sau này, đặc biệt là thời vua Minh Mạng.

Theo đó, việc chú trọng hoàn bị các đàn miếu và nghi lễ đại

tự không chỉ nhằm mục đích giáo hóa dân chúng mà còn nhằm xây

dựng ý thức về quyền lực, tính tôn ti trật tự, niềm tin tuyệt đối vào

nhà vua và khẳng định tính chính thống của địa vị hoàng đế thông

qua nghi lễ. Đây cũng là những hình thức thể hiện rõ nhất tư

tưởng “Thiên mệnh” thời quân chủ ở Việt Nam thông qua những

quy định từ quá trình chuẩn bị, lựa chọn lễ phẩm, thành phần

tham dự (quan trọng nhất vẫn là các thành viên trong hoàng tộc),

trang phục, số lượng, chất liệu, màu sắc, phương hướng, âm

nhạc, múa v.v..Quá trình thực hiện các nghi lễ từ khi chuẩn bị cho

đến khi kết thúc đã huy động sự tham gia của gần như cả bộ máy

triều đình, thậm chí cả quan lại từ các địa phương lân cận. Tất cả

đều thể hiện ý nghĩa triết lý sâu sắc và tính điển chế cao. Nói

cách khác, các đàn miếu và nghi lễ đại tự được các vua Nguyễn

xây dựng và tiến hành một cách có chủ đích trong quá trình củng

cố vương quyền; sử dụng văn hóa, đặc biệt là nghi lễ, làm công

cụ. Sự tồn tại và quá trình phát triển của các đàn miếu và nghi

thức tế đại tự dưới triều Nguyễn phản chiếu sự hưng thịnh hoặc

suy tàn của triều đại.

Đặc biệt, những quy định nghiêm ngặt về nghi lễ tế đại tự

thời quân chủ cho thấy sự phân biệt mang tính đẳng cấp giữa

cung đình và dân gian. Trong môi trường thực hành văn hóa tâm

linh, điều này có tác động nhất định đến tâm lý xã hội, để lại

những dấu ấn ảnh hưởng sâu sắc trong văn hóa dân gian vùng

Huế và lan tỏa đến nhiều nơi khác tại Việt Nam.

Page 23: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

21

3. Trong số các đàn miếu đại tự thời quân chủ, đàn Xã Tắc có

lịch sử lâu đời nhất, ra đời trước tiên dưới thời Lý (1048) và trước khi

có đàn Nam Giao (năm 1154) đến hơn một thế kỷ. Dưới triều Trần

không thấy sử liệu ghi việc lập đàn Nam Giao và làm lễ tế Giao

nhưng vẫn có việc tế đàn Xã Tắc và gia phong thần Xã, thần Tắc.

Điều này cho thấy đàn Xã Tắc có vai trò quan trọng nhất định

đối với các triều đại này, có lẽ bởi ý nghĩa của nó đối với cư dân

nông nghiệp. Dưới triều Nguyễn, mặc dù có sự kế thừa từ các triều

đại trước nhưng việc lập ra những định chế về nghi lễ với thứ tự

Giao-miếu-Xã Tắc và sự phân biệt hơn kém trong số lượng lễ vật

hoặc nhạc chương, quy mô và thành phần tham dự, v..v.. của lễ tế Xã

Tắc cho thấy nghi lễ này dưới thời Nguyễn không được chú trọng

bằng lễ tế Giao và lễ tế miếu- hai nghi lễ gắn với tính chính thống

của vương quyền và với chân mệnh “Thiên tử” của người thuộc dòng

dõi đế vương. Nói cách khác, triều Nguyễn chú trọng việc khẳng định

và đề cao các nghi lễ đại tự phục vụ cho lợi ích của nhà vua và dòng

họ hơn là nghi lễ vì lợi ích của dân chúng. Điều này có thể thấy rõ

trong quá trình phát triển của các đàn miếu và nghi lễ đại tự ở Huế,

đặc biệt trong giai đoạn cuối Nguyễn. Ngay cả khi triều đình Huế đã

mất thực quyền, lễ tế Giao cũng vẫn được gắng gượng duy trì để thể

hiện chút uy danh của “Thiên tử” trong khi lễ tế Xã Tắc bị giản lược

bớt rồi đi đến hủy bỏ hẳn từ cuối thế kỷ XIX.

4. Các đàn miếu và nghi lễ đại tự của triều Nguyễn là những

hình thức biểu đạt tư tưởng của thời quân chủ còn lại nguyên vẹn

nhất ở Việt Nam. Đây cũng là những di sản văn hóa vật thể và phi

vật thể đã được thế giới ghi nhận giá trị nổi bật toàn cầu, mang

tính đại diện của văn hóa nhân loại, gồm quần thể di tích cố đô

Huế (trong đó có các đàn miếu đại tự, được công nhận là Di sản

Văn hóa Thế giới năm 1993) và di sản Nhã nhạc-nhạc cung đình

Việt Nam (được công nhận là Tuyệt tác di sản văn hóa phi vật thể

và truyền khẩu của nhân loại năm 20031). Vì thế, việc bảo tồn và

phát huy giá trị các đàn miếu đại tự cần gắn với việc tổ chức phục

dựng các nghi lễ liên quan để đảm bảo tính toàn vẹn về mặt ý

nghĩa nhân văn của di sản và duy trì nét đẹp văn hóa trong đời

sống của cộng đồng, góp phần giới thiệu bản sắc văn hóa Huế nói

1Năm 2005, danh hiệu này được đổi thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân

loại

Page 24: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

22

riêng và văn hóa Việt Nam nói chung trong quá trình hội nhập và

phát triển.

Kết quả quan sát, nghiên cứu quá trình bảo tồn phục dựng của

các nghi lễ đại tự hiện nay cho thấy tính đại diện về mặt quyền lực

của nghi lễ đại tự, đặc biệt là lễ tế Giao, có thể mất đi khi Nho giáo

không còn là hệ tư tưởng chi phối, nhưng ý nghĩa tâm linh của hoạt

động tín ngưỡng thì vẫn còn. Thông qua quá trình phục dựng trong 8

kỳ Festival, nghi lễ đại tự ở Huế hiện nay đang dần chuyển hướng về

mặt bản chất. Những tác động về mặt tâm lý xã hội của nghi lễ đã

đem lại cho con người niềm tin vào “tính thiêng”.

Bằng sự tác động về mặt tâm lý trước nhu cầu về một cuộc

sống bình yên, no ấm, một nghi lễ được phục dựng để quảng diễn đã

dần dần có được ý nghĩa về mặt tâm linh, tác động đến tâm lý xã hội

của cộng đồng. Nói cách khác, mặc dù thiếu vắng những yếu tố mang

tính triết lý và không còn đại diện cho quyền lực hay sự hồi tưởng

ánh hào quang của vương quyền, sự tham gia thực hành nghi lễ dựa

trên nền tảng tâm lý hướng thiện của người dân đã góp phần tái tạo

niềm tin vào nghi lễ như một sự thích ứng văn hóa trong bối cảnh

mới.

5. Mặc dù các nghi thức tế tự triều Nguyễn được bảo tồn khá

nguyên vẹn, hiện được coi là chuẩn mực để phục hồi nhiều nghi lễ ở

các địa phương khác, nhưng khi tham khảo để phục hồi nghi lễ cần

chú ý đến những đặc trưng của từng vùng miền, từng thời kỳ, triều

đại trong lịch sử. Các sinh hoạt văn hóa luôn chịu sự chi phối của

hoàn cảnh kinh tế-xã hội và sự tác động của môi trường sống. Mỗi

vùng đất đều có những phong tục, tập quán khác nhau. Mỗi thời kỳ

lịch sử, mỗi triều đại có những định hướng tư tưởng mang đặc trưng

riêng. Vì thế không nên áp đặt, sao chép nguyên mẫu khi phục dựng

nghi lễ trong tổ chức lễ hội. Điều này làm ảnh hưởng đến việc giữ gìn

sự đa dạng trong bản sắc văn hóa dân tộc và rối loạn nhận thức lịch

sử trong giới trẻ từ góc độ truyền thống văn hóa và phong tục, tập

quán, nghi lễ.

Page 25: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

23

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

1. Huỳnh Thị Anh Vân (2010), “Heritage Tourism in Hue: Impacts

and Threats” (Du lịch di sản ở Huế: Những tác động và mối đe dọa),

Perspectives on Heritage Tourism (Những cách nghĩ về du lịch di

sản), published by SEAMEO- SPAFA, Thailand 2010, tr. 51-66,

(ISBN: 978-974-7809-36-7).

2. Huỳnh Thị Anh Vân (2012), “Phát triển du lịch thông qua hình

thức phục dựng nghi lễ cung đình Huế và vấn đề thể hiện bản sắc”,

Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Tiềm năng và hướng phát triển du lịch

Bắc Trung Bộ”, 15/4/2012, tr. 204-210.

3. Huỳnh Thị Anh Vân (2012), “Văn hóa cung đình Huế nhìn từ vấn

đề bản sắc qua các miếu thờ vua Nguyễn tại Huế và nghi lễ tế miếu”,

Hội thảo Việt Nam học lần thứ IV, Hà Nội, 11/2012.

4. Huỳnh Thị Anh Vân (2012), “Những nét đặc trưng trong hệ thống

miếu thờ tổ tiên của các vua nhà Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu và

Phát triền, số 2 (91). 2012, tr. 3-11, ISSN 1859-0152.

5. Huỳnh Thị Anh Vân (2012), “Hiểu thêm về cách gọi tên miếu,

điện thờ vua Nguyễn tại Huế”, Tạp chí Huế Xưa & Nay số 110 (3-

4/2012), tr. 104-110, ISSN 1858-2163.

6. Huỳnh Thị Anh Vân (2012), “Vài nét về nghi lễ tế miếu của triều

Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 11 (439), tr. 19-36, ISSN

0866-7497

7. Huỳnh Thị Anh Vân (2012), “Quần thể di tích Huế với tác động

của biến đổi khí hậu”, Tạp chí Nghiên cứu & Phát triển số 7 (96),

tr. 83-92, ISSN 1859-0152.

8. Huỳnh Thị Anh Vân (2012), “Đôi điều cần bàn thêm về định

hướng phát triển du lịch thông qua hình thức phục dựng nghi lễ cung

đình”, Di sản văn hóa Huế, nghiên cứu & Bảo tồn, tập II, Trung tâm

Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản, Huế(2012), tr. 435-441.

9. Huỳnh Thị Anh Vân (2013),“The Hue Monuments complex

under the impact of climate change” (Quần thể di tích Huế dưới tác

động của biến đổi khí hậu), Museum & Cultural Heritage-Facing

Climate Change (Bảo tàng & Di sản văn hóa- Đối mặt với Biến đổi

khí hậu), Kỷ yếu Hội thảo quốc tế do Viện Nghiên cứu Văn hóa và

Nghệ thuật Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Dân tộc học tổ chức,

Page 26: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

24

Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2013, tr. 498-507, ISBN 978 6049

02 1787.

10. Huỳnh Thị Anh Vân (2013), “Hiểu thêm về những vấn đề liên

quan đến di sản thế giới hiện nay và trường hợp của Huế”, Di sản văn

hóa Huế, nghiên cứu & Bảo tồn, tập III, Trung tâm Bảo tồn Di tích

Cố đô Huế xuất bản, Huế, tr. 510-514.

11. Huỳnh Thị Anh Vân (2014), “Văn hóa cung đình Huế nhìn từ

nghi lễ tế tự: tính điển chế và ý nghĩa biểu tượng”, Kỷ yếu hội thảo

Văn hóa Huế-Đặc điểm lịch sử và vấn đề bảo tồn, phát triển, Hội

Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế, 12/2014, tr. 70-81.

12. Huỳnh Thị Anh Vân (2014), “Từ câu chuyện của L. Cadièrre,

bàn tiếp về sự khủng hoảng ở Đàng Trong vào thế kỷ XVIII”, Kỷ yếu

Tọa đàm khoa học 100 năm BAVH và vấn đề tiếp xúc văn minh

Đông-Tây đầu thế kỷ XX, Phân viên Văn hóa Nghệ thuật quốc gia

Việt Nam và Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, 12/2014.

13. Huỳnh Thị Anh Vân (2014), “Triết lý Nho giáo trong nghi lễ tế

tự triều Nguyễn (1802-1945), Tạp chí Huế Xưa và Nay, số 126 (11-

12/2014), tr. 59-69, ISSN 1858-2163.

14. Huỳnh Thị Anh Vân (2014), “Lễ tế Giao ở Huế: phục dựng nghi

lễ và tái tạo niềm tin”, Di sản văn hóa trong xã hội Việt nam đương

đại, Tủ sách Khoa học xã hội, chuyên khảo về Di sản văn hóa do

viện Harvard Yenching tài trợ, Nxb. Tri thức, Hà Nội, tr. 155-192.

15. Huỳnh Thị Anh Vân (2014), “Cải cách của Võ vương Nguyễn

Phúc Khoát thế kỷ XVIII và con đường đến với Nho giáo ở Đàng

Trong”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 11 (137), (tr. 62-77), ISSN

1859-0403

16. Huỳnh Thị Anh Vân (2015), “Nghiên cứu văn hóa cung đình

Nguyễn qua cách gọi tên miếu, điện”, Tạp chí Văn hóa Dân gian số 1

(157), tr. 47-50, ISSN 0866-7284.

17. Huỳnh Thị Anh Vân (2015), “Nghi thức tang lễ cung đình châu

Á nhìn từ triều Nguyễn Việt Nam và triều Joseon Hàn Quốc”, Tạp

chí Nghiên cứu Lịch sử số 7 (473), tr. 52-67, ISSN 0866-7497

18. Huỳnh Thị Anh Vân (2015), “Văn hóa cung đình Huế nhìn từ

trang phục lễ nghi thời Nguyễn qua tư liệu”, Bảo tàng Cổ vật Cung

đình Huế, tập VII.

Page 27: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

HUE UNIVERSITY

UNIVERSITY OF SCIENCES

HUYNH THI ANH VAN

THE RITUAL CONSTRUCTIONS OF GREAT

NATIONAL WORSHIP UNDER THE NGUYEN

DYNASTY IN HUE (1802-1945): THE ESTABLISHMENT

AND RITUAL CEREMONIES

Major: History of Vietnam

Code: 62.22.03.13

THE SUMMARY OF DOCTORAL DISSERTATION

ON HISTORY

HUẾ - 2016

Page 28: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

The work was completed at the Faculty of History,

University of Sciences, Hue University

The scientific supervisors:

Ass.Prof.Dr. Do Bang

Dr. Phan Thanh Hai

Reviewer 1:

Reviewer 2:

Reviewer 3:

The dissertation was defended at the Council of dissertation

assessment of Hue University

Council held at: No. 3, Le Loi street, Hue city, Thua Thien Hue

province, at …. a.m on …./…./2016

.

The dissertation can be further referred at the Library of the

University of Sciences, Hue University and the National

Library.

Page 29: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

1

PREFACE

1. The scientific and practical significance of the research

For the scientific significance: On the one hand, it is necessary

to do the research on the ritual constructions of great national

worship and related ceremonies in a united relationship in terms of

phylosophical meaning and their roles toward the monarchical

dynasties in Vietnam, especially to the Nguyen dynasty. The result of

this research will provide more scientific foundation to the

conservation and promotion of Hue cultural heritage values at

present. It is also the first dissertation evaluating comprehensively,

objectively and systematically the formation and development of the

ritual constructions of great national worship and related ceremonies.

On the other hand, most of papers and researches that have

been working on the ritual constructions of great national worship

and related ceremonies only concentrated on the description of

historical events or architectural information but not analyzed their

role and social significance in the economic, political and social

contexts. Doing research on these subjects in their corresponding

contexts can evaluate them comprehensively and objectively in the

past and at present.

For the practical significance: The dissertation provides data

to support the research and teaching about the Nguyen dynasty on the

related aspects as well as in the conservation and restoration. It also

can help to meet the demand of the cultural tourism development,

especially the spiritual culture of Hue region. Simultaneously, the

research results on characteristics of ritual constructions of great

national worship and related ceremonies under the Nguyen in Hue

can help to propose the orientation in preserving and promoting their

values in the present period. This result will also be very important

since royal ceremonies have been revived in various scopes and

received different opinions from the public.

For the above significances, the topic of “The ritual

constructions of great national worship under the Nguyen dynasty in

Hue (1802-1945): the establishment and ritual ceremonies” is selected

to be the theme of this doctoral dissertation specializing in history of

Vietnam.

Page 30: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

2

2. Research subjects and research scope

Research subjects of the dissertation are ritual constructions of

great national worship and related ceremonies in Hue under the

Nguyen. Ritual constructions of great national worship include Nam

Giao esplanade, royal ancestral temples of the Nguyen in Hue

Imperial City (Trieu To temple, Thai To temple, The To temple and

Hung To temple) and Xa Tac esplanade.

Research space of the dissertation is in Hue, mainly at the

areas of Nam Giao esplanade, Xa Tac esplanade and royal ancestral

temples of the Nguyen in Hue Imperial City.

Time scope of the research is the process of establishment and

development of ritual constructions for the great national worship

under the Nguyen in Hue from the beginning to the end of the

dynasty (1802-1945). Having relation to ritual constructions of the

same functions under previous dynasties in Vietnam, the ritual

constructions of the Nguyen dynasty should be examined with their

establishment and development. Moreover, they have been preserved

and promoted their values together with other distinguished forms of

royal culture. Hence, the dissertation also examines them in the

context after 1945 to 2015 when the dissertation is completed.

3. Research objectives and tasks

3.1 Research objectives

In general, there have been several researches on the ritual

constructions of great national worship and related ceremonies under

the Nguyen. But these researches only concentrated on each of them

seperately or studied them in certain aspects and circumstances.

Based on the previous researches, the dissertation continues to

examine the ritual constructions of great national worship and related

ceremonies from the aspect of their foundation, establishment and

development process throughout different historical periods as well

as their characteristics for further understanding on their significance

and their role toward the Nguyen dynasty in the Vietnamese history.

Under the impacts of different socio-political circumstances,

the ritual constructions of great national worship and related

ceremonies under the Nguyen in Hue have been being well preserved

and promoted with positive values in the new context. The dimension

and other ritual elements such as the ritual procedures, ritual clothes,

ritual items and ritual offerings also have many changes in order to

Page 31: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

3

adapt to the present condition. The research results provide more

scientific basis to maintain the balance between the preservation of

heritage’s authenticity and the promotion of heritage’s values for the

sustainable development of tourism.

3.2 Research tasks

In order to achieve the above purposes, the dissertation must

systematize the related information including the establishment of

ritual constructions, their planning and building under the Nguyen

in Hue, investigate information on the organizations that took part

in the process of preparation and implementation of ritual

ceremonies, ritual music and dance, ritual costumes, ritual texts,

ritual procedures to analyze and evaluate their characteristics,

their meaning as well as their role in the cultural and spiritual life

of this dynasty from 1802 - 1945.

The dissertation also refers to the similar constructions and

ceremonies in other co-culture orginated countries in the region in

order to identify the specificities of the Nguyen viewed from the

ritual constructions of great national worship and related ceremonies.

In addition, the dissertation continues to examine the building

preservation and ceremony practice after the end of Nguyen dynasty

in 1945. It also takes into careful consideration of changes in the

ritual procedures, cultural practices and psychological influence from

the participation in ritual ceremony. These help understand the

significance, nature of the newly-revived ceremonies in the present

period for the proposed trend of preservation and reconstruction of

great national ceremonies in the new context based on the respect of

history and specificities of local culture.

4. Material sources and research methods

4.1. Material sources The decisive source of materials useful for the dissertation is

the historical documents of the Nguyen dynasty and other research

works on culture, history, geography, etc. Additionally, there are also

many thesis or dissertations, magazines, papers on religion and ritual

ceremonies of Vietnamese and international authors together with the

field survey’s data.

Firstly, they are historical documents of the National

Historiographer's Office of Nguyen dynasty and the Nguyen

dynasty's cabinet recorded political matters, politics and codification

Page 32: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

4

chronologically. Among them are Đại Nam thực lục (Records of the

most important historical events during the Nguyen dynasty),

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (Repertory of the

Administrative regulations in the Kingdom of Dai Nam), Khâm

định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên (The Continuation of

Repertory of the Administrative regulations in the Kingdom of

Dai Nam), Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên (The

extra 6th volume of the rrecord of the most important historical

events during the Nguyen dynasty), Đại Nam thực lục Chính biên

đệ thất kỷ (The 7th volume of the rrecord continuation of the most

important historical events during the Nguyen dynasty), Đồng

Khánh Khải Định chính yếu (Basic Policies under the reigns of

Dong Khanh and Khai Dinh emperors) or Đại Nam nhất thống

chí (The Gazetteer of the Unified Dai Nam ), other royal edicts

of the Nguyen relating to the dissertation’s content or the topic. In addition, there are also some researches on the great

national ceremonies of the Nguyen before and after the end of the

dynasty, such as papers in the Bulletin des Amis du Vieux Hué

(BAVH) or writing on the Nam Giao ceremony by Hong Hoai Le

Van Hoang who witnessed the ceremony (1972), or the thesis on the

Legend of Nam Giao esplanade and Giao sacrificial ceremonies in

Hue by Le Van Phuoc (1973).

There are also books on ideology, customs, music, ritual

procedure, the Chinese influence, etc. relating to the dissertation’s

theme. Among them are Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt

Nam (Great ceremonies and dances of Vietnamese lords and

emperors) by Đỗ Bằng Đoàn and Đỗ Trọng Huề (first edition in

1968), Việt Nam phong tục (Vietnamese customs) by Phan Kế Bính

(first edition in 1915, reprinted in 2005), Nho giáo (Confucism) by

Trần Trọng Kim (first edition in 1929-1933, reprinted in 1992), Lịch

sử tư tưởng phương Đông và Việt Nam (Ideological History of

Eastern countries and of Vietnam) by Nguyễn Minh Tường (2012).

In addition, many relating papers from different magazines

such as Văn hóa Nghệ thuật (Culture and Arts), Nghiên cứu Lịch sử

(Historical Studies), Nghiên cứu Huế (Research on Hue), Huế Xưa &

Nay (Hue Then & Now), Nghiên cứu và Phát triển (Research and

Page 33: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

5

Development) together with papers from seminars or conferences on

the Nguyen dynasty are also useful for this dissertation. More

importantly, some research’s results, thesises or doctoral dissertations

of foreign researchers such as Li Tana, Yu Insun, etc. are also

referred in the dissertation. Especially, some papers with deep

analysis on the region and ritual in the courts of Vietnam, as

“Religion and Ritual in the Royal Courts of Đại Việt” by John K.

Whitmore (Asia Research Institute Working Paper Series No. 128) or

descriptions of foreign witnesses who had chance to involve or

witnessed the ritual activities of the Nguyen dynasty. They provide

various views and assessments towards the Vietnamese monarchical

gorvenments from different angles relating to the dissertation’s

theme.

Information collected from the field surveys at ritual

constructions (Nam Giao esplanade, Xa Tac esplanade and ancestral

royal temples) in Vietnam and other countries, from the

archaeological surveys, museum collections and interviews also bring

the confidential base for the dissertation.

Apart from the above documents, information from internet are

also accessed, carefully considered and checked before using in the

dissertation.

4.2 Research method

The historical approach is taken as the main method in this

dissertation of social sciences. It is combined with the logical method

to systemize the information of the establishment, development,

degradation and restoration of ritual construction in Hue and related

ceremonies under the Nguyen. Simultaneously, it also helps clarify

the continuity from the previous dynasties in Vietnamese history and

assess the influence of Confucius ideology in the building up and

strengthening the power of the Nguyen dynasty through the

formation of ritual constructions and related ceremonies in Hue as

well as their role in the existence and development of this dynasty.

Other interdisciplinary methods, documentation,

archaeological survey, statistics and classification, comparison

together with mapping, making tables, drawings, taking photos,

etc. are also applied in the process of analyse and assessment.

These methods are also combined with the synchronical and

diachronic methods in order to understand the specific features of

Page 34: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

6

the ritual constructions of great national worship and related

ceremonies under the Nguyen in Hue. The comparison between the

ritual constructions of great national worship and related ceremonies

under the Nguyen in Hue and the similar types of constructions and

ceremonies in China and Korea can help identify the specificities

and the national self-respect spirit of the Nguyen in the selective

integration of culture with clear intention. It can be seen as the

purposefulness in the establishment of ritual constructions for the

great national worship in Hue.

The systematic - structural method combined with the

disciplinary research including the ethnographic field survey,

interview, observation and participated observation in cultural

anthropology allow the dissertation author understand the impact

of socio-political context on the establishment of ritual

constructions and ceremonies. Furthermore, the research results

also help understand the role of ritual constructions and the

revived ceremonies at present toward the community in the

adaptation to the present cultural, political and social context.

The author has tried to rely as much as possible on the original

materials and the documents translated with high quality. Any

extraction must be attached to its source.

5. Contributions of dissertation

5.1 Practically, the dissertation contributes a comprehensive

evaluation on the topic through the systematization of data collected

from the documentation and field research. This helps the study on

tangible and intangible cultural heritage properties relating to the

ritual constructions of great national worship and related ceremonies.

The correct and deep understanding on these heritages can help

outlining the proper orientation and solutions for the preservation and

development of the heritage’s values that were recognized as the

special national cultural heritages and the World Cultural Heritage

properties.

5.2 Theoretically, the dissertation applies a new perspective on

the ritual constructions of great national worship and related

ceremonies under the Nguyen in Hue. It is based on the results of

previous researches, prevented from their weakness and combined

with the analyzation and data synthetization for the new

conceptualization.

Page 35: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

7

Even thought the topic and research subject have been studied

since the beginning of the XXth century, the dissertation bases on the

interdisciplinary approaches combined with the convincing

arguments and analyses to give the new perspective in which the

ritual constructions of great national worship and related ceremonies

under the Nguyen in Hue are seen as forms of the imperial orthodox

power. In the other word, the ceremonies of great national worship

(Dai tu) is the ceremony of power. Every matter of the constructional

design, building and decoration of the historic constructions

(esplanades and temples) as well as the ritual procedure, offerings,

music and dance, etc. of the related ceremonies of “Dai tu” were all

for expressing the imperial power together the holy power of the cult

in a mysterious spiritual meaning given through the process the ritual

cermony.

5.3 Additionally, data from historical documents are checked

with data from the field survey in order to identify what is the

identity of the Nguyen reflecting their spirit and initiatives in

applying the Confucius ideology in the real condition of Vietnam as

well as in inheriting from the previous dynasties. That is the spirit of

the national superiority built by Nguyen emperors, especially first

emperors of the dynasty. This spirit was reflected through the design

and construction of ritual esplanades and temples that were more or

less different from those of China and Korea. It was also proved by

the strongly-codified ritual procedures. In particular, the field data

shows that among ritual ceremonies of “Dai tu” (great national

worship) of the Nguyen, only the ancestral worship ceremony of

Nguyen Phuc royal clan has been being conducted in their families

and in royal ancestral temples in the Imperial City till now. This

ceremony, nowaday mainly the deathday anniversary ceremony, is

the continuity of the ancestral cult tradition that deeply bears the

identity of royal culture and identity. With many unpreventable

changes, this sort of ceremony still remains as an adaptation with its

intact cultural and spiritual values under the impact of globalization

and modernization in the present context.

6. Structure of the dissertation

Apart from the Opening (10 pp), Conclusion (4 pp), List of the

author’s publications (2 pp), Bibliography (14 pp), Glossary (5 pp),

Appendices (70 pp), main content of the dissertation includes 4 chapters:

Page 36: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

8

Chapter 1: Overview of research situation (17 pp)

Chapter 2: The establishment of ritual constructions of great

national worship in Hue (40 pp)

Chapter 3: The related ceremonies of great national worship in

Hue (32 pp)

Chapter 4: Ritual constructions of great national worship and

related ceremonies in Hue: specificities and the matter of

preservation, promotion of their values (31 pp)

Chapter 1

OVERVIEW OF RESEARCH SITUATION

1.1 Research situation

1.1.1Research works before 1975

Firstly, some research works related directly to the subject

were carried out and published before the end of Nguyen dynasty.

Among them are the collection of Bulletin des Amis du Vieux Hué

(BAVH) carried out by the Association des Amis du Vieux Hué with

many papers by L. Cadière [147]; [148]; [149]; Nguyễn Đình Hoè

[151], R. Orband [153]; [154]; [155]; [156], H. De Pirey [157], A.

Sallet [158]...They provide valuable information on the research

subject, in which many papers describe Nam Giao esplanade and the

sacrificial ceremony or Xa Tac esplanade under the Nguyen together

with drawings or photos. These documents are seen as the basic

information for the revival of Giao ritual ceremony at present.

Thought other researches conducted before 1975 only provide

description as memoirs, they are valuable references because their

authors were intellectuals, witnesses or people who have had chances

to access and examine many contents relating to the subject. For

instance, the book on Great cereminies and dances of Vietnamese

emperors by Do Bang Doan and Do Trong Hue (first edition in 1968)

is the remarkable reference on many details of ritual procedures or

music with illustrative of the most important ceremonies under the

Vietnamese monarchical dynasties.

However, there is only one sentence on the establishment of

Xa Tac under the Tran dynasty without any further information of the

ceremony during this time as well as under other dynasties including

the Nguyen dynasty. There is also no information of the location or

architectural characteristics of the ancestral temples in monarchical

time except for very few details of the ceremonies. For the ancestral

Page 37: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

9

worship ceremony under the Nguyen, more information of the

offerings, ritual process and procedures together the content of ritual

music for The To temple ceremony are provided. According to this

book, it is said that the deathday anniversary at The To temple also

had music and dance meanwhile it was only for the seasonal

ceremonies as regularized under the Nguyen.

Besides, information of ceremonies organized after the end of

the Nguyen dynasty is also very important to understand the role of

riutal constructions of great national worship and related ceremonies

toward the spiritual life of Hue region, especially when the

monarchical dynasty collapsed. Publications on these activities

include Nam Giao ceremony by Hong Hoai Le Van Hoang (1972) or

the Legend of Nam Giao esplanade and Giao ceremonies in Hue by

Le Van Phuoc (1973) giving detailed information of architecture and

the ritual ceremony but not explanation of social impact of other

ceremonies discussed in the dissertation. Additionally, there are some

papers in the magazine Su Dia (History and Geography, Sai Gon),

Dai hoc (University, Hue), Nam Phong (Southern Wind, Sai Gon)

but they only provide few information of Nam Giao esplanade and

related ceremony. Remarkably, they provide information about Trai

Cung in 1942 and some other relics, such as: architectural remains,

stone plaques for the pine trees, etc.

1.1.2 Researches after 1975 till now

Based on the basic change in the point-of-view and evaluation

on the Nguyen dynasty after the renovation (doi moi) in 1986, it can

be devided into two periods after 1975 till now.

a. Period from 1975-1986

In this period, there was no clear forbiddance of the worship

activity but from the point of seeing the Nguyen dynasty as

something “deteriorate” and “reactionary”, together with the policy

of the superstition suppression, many forms of ritual practices were

stagnated from 1975-1985. In this circumstance, the study on the

Nguyen dynasty as well as on the ritual constructions of great

national worship and related ceremonies achieved no new results.

b. Period from 1986 till now

* Researches on the Nguyen dynasty and its heritage of ritual

constructions in Hue

Page 38: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

10

In 1994, the Ministry of Technology and Environment selected

the topic Study on the economy and structural organization of the

Nguyen government: matters to raise in the renovation context of the

country at present to be the national independent research (code KX-

ĐL: 94-16) leaded by As. Prof. Dr. Do Bang. It marked the official

involvement of the government in the more objective and

comprehensive study on the Nguyen dynasty.

Sharing the same concern on the Nguyen dynasty in this

period, there were some more researchers with their works in

different scopes. They were Tín ngưỡng dân gian Huế (The folk

ritual beliefs in Hue) by Trần Đại Vinh (1995), Kinh thành Huế (Hue

citadel) by Phan Thuận An (1999), Phú Xuân-Huế từ đô thị cổ đến

hiện đại (Phu Xuan-Hue, from the ancient town to the modern city)

including many papers collected by the Municipal People’s

Committee in Hue (1999), Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối

cùng ở Việt Nam (The historical matters of the last monarchical

dynasty in Viet Nam) by many authors, published by Hue

monuments Conservation Centre together with Hue Then and Now

(2002), Collection of papers studying on the Nguyen dynasty

published by the provincial department of Sciences, Technology and

Environment in Thua Thien Hue province in cooperation with Hue

Monuments Conservation Centre (2002). However, most of the

aboved-mention materials did not much refered to the dissertation’s

subject.

The book Nguyen imprint in Phu Xuan culture by Phan Thanh

Hai (2002) is a remarkable publication. This is a collection of many

research papers on the Nguyen dynasty and Hue culture, in which

some papers relate directly to the dissertation subject with valuable

information.

Based on the on-site survey results in China, the author is the first

one giving comparative comments on the Heaven temple of Ming-Ching

dynasties in Beijing and that of the Nguyen dynasty in Hue. He

described Nam Giao esplanade in Hue with 3 stages symbolizing the

Heaven, the Earth and Humanity and supposed that this style of

architecture “presented the relation of both relative isolation and extreme

unified linkage”. In his comments, the sacrificial ceremony for the

Heaven was organized separately in China in which the spirit of Heaven,

the Earth and other natural spirits alway play the supreme important role:

Page 39: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

11

“In China, the ruling class always try to extend the gap between the

spirits and human beings”

Relating to the architecture planning and the relationship

between manmade buildings and the feng-shui natural elements, the

book “Hue citadel” by Phan Thuan An provided fullest information

on the establishment of Hue citadel. The author comments: “The fact

that putting the citadel in between the natural geographical factors,

we can see the planning and architectural building have been

embedded certain profound significance of philosophy.”

In the research on “Ideas in planning Hue citadel under the reign

of Gia Long” published in Hue-the Nguyen dynasty: an Overview

(2004), Tran Duc Anh Son achieved one more step when he

concluded: “The planning and building of Hue citadel under the reign

of Gia Long was a wonderful combination between various factors:

history, principles of changes and feng-shui, and the scientific

knowledge”

Sharing the same concern on the planning characteristic of the

Nguyen’s monuments in Hue, Phan Thanh Hai suggested: “In Hue

capital city, apart from the main axis running from Northwest-

Southeast, there is one more axis from North-South connecting from

the Flag tower to Nam Giao esplanade. This axis itself and Perfume

river create the close and harmonious linkage between the capital

city and architectures outside, especially to the royal tombs at the

West and Southwest.”

The above perspectives are among basic foundations for the

dissertation in considering the relationship between the ritual

constructions of the great national worship and other constructions in

Hue monument complex as a whole, as well as their philosophical

significance in planning.

The paper on “Planning the area of Xa Tac esplanade-

current situation and solution” by Nguyen Viet Dung provides

more details on the planning of Xa Tac esplanade area for the

restoration and conservation after a long time in severe

degradation.

There are also some master theses and doctoral dissertations

relating to some aspects of the research subject. The dissertation on

Imperial workshops in Hue capital city from 1802 to 1884 by

Nguyen Van Dang in 2002 provides many useful information on the

Page 40: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

12

organizations making and providing facilities to the court. The

doctoral dissertation on The role of the Construction Ministry in

building the Hue capital city under the Nguyen (in the period 1802-

1884) by Phan Tien Dung in 2005 giving information on the building

of ritual constructions with the statistic of number and types of

different bricks and tiles for royal architectures under the Nguyen.

Moreover, many research results have also been introduced at

a number of seminars or conferences on the Nguyen dynasty,

published in the proceedings. They are proceedings of conference

on Cultural and social issues under the Nguyen (organized by the

Institue of Social Sciences in Ho Chi Minh city and the Museum of

Vietnamese History in Ho Chi Minh city, first time in 1992 and

second time in 1995); the national conference on Doing research

and teaching the history of the Nguyen time in univeristy, colleges

and high schools organized by the University of Pedagogy in Ha

Noi and the Ministry of Education and Training in 2002; the

workshop on Assessing the urban architectural fund of Hue

organized by the Hue City People’s Committee in 2003; the

conference on Nguyen Lords and the imperial court of the Nguyen

in the history of Vietnam from XVIth to XIXth century organized by

the Thanh Hoa provincial People’s Committee and the Vietnamese

Association of Historians in 2008; the conference on Thuan Hoa-

Phu Xuan- Thua Thien Hue: 700 years of establishment and

development organized by the Thua Thien Hue provincial

Association of Historians in 2010; internation conferences on

Vietnam Studies the 1st (1998), the 2nd (2004), the 3rd (2008), the

4th (2012); the conference on Hue culture: historical features and

the matter of preservation and development organized by the Thua

Thien Hue provincial Association of Historians in 2014; the

conference on Preservation and development of the literal system’s

values on the royal architectures in Hue organized by the Hue

Monuments Conservation Centre in 2015 together with many

national and international workshops on other related aspects. Most

of conferences and workshops focused rather on broad topics than

the detail or case study such as the dissertation subject.

In particular, the conference on Preservation and

development of the literal system’s values on the royal architectures

in Hue organized by the Hue Monuments Conservation Centre have

Page 41: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

13

introduced many valuable results on the uniqueness of the literal

system on the royal architectures in Hue. These are also authentic

and original evidences expressing the ruling concepts of the Nguyen

emperors based on the Confucism, their national self-respect and

the distinguished natural settings of the Hue capital city.

In the studies conducted by foreign researchers about

Vietnam, especially the Nguyen dynasty, Hoang Lan Tuong was the

first author made the comparison between the planning of ancestral

temples under the Nguyen and that of the Ming-Ching dynastires in

China in his paper “Brief survey on the Hue urban planning,

national capital of Vietnam in XIXth century” in 2003.

From the comparison on locations of architectures of the same

function in Hue capital and Beijing capital, he commented: “The

imperial city in Hue of Vietnam had the specific arrangment that

presented the respect of ancestors”. This is among rare comments

made by foreign researchers refering directly to the specific planning

of the Nguyen’s ancetral temples in Hue. His comment is correct but

not enough to explain the reason of this specificity as well as the

general relation to the selective decision of the Nguyen dynasty in

applying the Chinese Confucius ideology in building up the ritual

constructions of great national worship in Hue.

* Researches on the source of ideology and ritual ceremonies

On this aspect, there are many researches with deep analyses

of the political, economic and social life in Vietnam, especially the

role of emperor in the Confucius view and the adaptation of the

Chinese Confucism in the context of Vietnam under the Nguyen.

Books on the Confucism and Chinese culture, there are Nho

giáo (Confucism) by Trần Trọng Kim published in 1992, Kinh điển

văn hóa 5000 năm Trung Hoa (Classic knowlege of 5000-year

culture of China) by Dương Lực in 2002, Tìm hiểu tư tưởng chính

trị Nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh

(Understanding the Confucius political concept from Le Thanh

Tong to Minh Menh) by Nguyễn Hoài Văn in 2002, Nho giáo

Trung Quốc (Chinese Confucism) by Nguyễn Tôn Nhan in 2005.

These works provide many basic information for the assessment,

comparison and identification of the Nguyen’s specificities in the

process of accepting and adapting the Chinese Confucism ideology

Page 42: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

14

into the building of ritual constructions of great national worship

and related ceremonies in Hue.

Among ritual ceremonies of great national worship, the

ancestral worship ceremony orginated from the Vietnamese

ancestral worship tradition. Some researchese such as The

philosophical aspects in the ancestral worship belief of the Viet

people in the Northern plain at present by Tran Dang Sinh (2002),

Some Vietnamese traditional ceremonies of folk custom by Quang

Tue (2002) or other papers on maganizes of Culture and Arts,

Historical Research, Hue research, Hue Then & Now, Research

and Development, etc. giving useful information on the related

aspects of the subject but not the time when this tradition came into

being. Some did not refer directly to the research subjects but

facilitated further understanding on the meaning of ritual

construction’s location viewed from the feng-shui principles or the

socio-economic context of Vietnam when the monarchical dynasty

lost their power and shifted to the colonial time.

After 1986, the Nguyen dynasty have received more

attention from the Vietnamese academic circle. A new period of

doing research on the Nguyen dynasty in Vietname was started

with various papers and researches at different levels, many of

them provided detailed information relating to the research

subject. From the aspect of socio-political impacts on culture, Tran

Dai Vinh in The folk belief in Hue (1995) [134] mentioned the

interruption of ritual worship ceremony in community in the period

1985. This information provides more information to understand the

impact of different socio-political contexts on the research subject.

Relating to the royal ceremony in Hue, other papers such as

“Festivities in Hue under the Nguyen” by Le Van Thuyen in 2003,

“Some information on festivities in the court of Hue” by Nguyen

Van Dang in 2002, “Some ceremonies relating to the argriculture

under the Nguyen dynasty” by Phuong Ha in 2012, “Royal

festivities of the Nguyen-solutions for preservation and promotion

to serve the spiritual demand of people and sustainable tourism

development in the present context in Thua Thien Hue province” by

Le Thi An Hoa in 2012, “Phung Tien-the temple of the Nguyen

royal family” by Thuy Van-Tien Dang in 2012, “The ritual

esplanades under the Nguyen in Hue: Xa Tac, Tien Nong, Son

Page 43: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

15

Xuyen” by Phan Thuan An in 2013, etc. Most of these papers more

or less related to the subject but no comprehensive assessment of

the role and significance of the great national worship under the

Nguyen in Hue.

Recently, researchese on the Nguyen dynasty have been more

abundant and deeper. In his research, Tran Duc Anh Son provided

more information of changes at Nam Giao esplanade after 1975 and

the restoration in 1994. For the royal ancestral temples of Nguyen

emperors in Hue, he supposed that it was neccessary to change the

location of 3 altars for 3 emperors Ham Nghi, Thanh Thai and Duy

Tan as they must be in the hierarchical order of royal family. He also

explained that emperors Duc Duc, Hiep Hoa, Ham Nghi, Thanh Thai

and Duy Tan were “deposed” emperors or “exiled” emperors,

therefore they were not worshipped in The To temple. For this point,

the author has another explanation in the dissertation.

On the topic “Hue royal festivities adn the matter of

preservation and promotion of their values to serve people and

develop tourism in Hue”, in the conference organized by the Thua

Thien Hue provincial Association of the Folk Culture (June 26, 2011,

Hue) Tran Duc Anh Son systematized information of royal festivities

in Hue and proposed some solutions for tourism development based

on the reconstruction and revival of some royal ceremonies, such as

Giao sacrificial ceremony. However, he only discussed on the

concepts of “ceremony” (le) and “festival” (hoi) and revival forms

but not the ritual constructions of great national worship and related

ceremonies in the overview of architecture, ritual ceremonies and

related cultural and social significances.

Among very few research works relating directly to the royal

culture of Hue, the book Hue ancient culture-The royal cultural life

by Le Nguyen Luu in 2006 was one of them. It provided a

comprehensive research in which the sub-title “Ritual

constructions” was described with the establishement of Nam Giao,

Xa Tac esplanades and royal ancestral temples of the Nguyen in

Hue Imperial City.However, the sacrificial ceremony at Nam Giao

was classified as “Ceremony of the court”, not classified as the

great ceremony (Dai tu), medium ceremony (Trung tu) and popular

ceremony (Quan tu). There was no description of ceremony at Xa

Tac or royal ancestral temples. The paper on “The city of festival:

Page 44: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

16

Nam Giao ceremony” by A.De Rotalier was put in the Appendices

with the vivid description of a ceremony at Nam Giao esplanade in

the late Nguyen dynasty. Nevertheless, it had no source of material

and original language. This affects the credibility and authenticity

of the paper.

There are also some Master theses at the University of

Sciences including The Nam Giao sacrificial ceremony in Hue under

the Nguyen of Dang Duc Dieu Hanh in 2003, Some ritual ceremonies

relating to argiculture underthe Nguyen in Hue capital city of Le Thi

An Hoa in 2003 and The system of royal ancestral temples for

Nguyen emperors and related ritual ceremonies in Hue (1802-1945)

of Huynh Thi Anh Van in 2010. These theses refered the ritual

constructions of great national worship under the Nguyen (Giao,

ancestral temple/Mieu, and Xa Tac) and related ceremonies at

different levels but they were all separated reseaches, not for the

overall ritual constructions and related ceremonies under the Nguyen

as well as their role, significance and social impacts in different

contexts in history.

For the materials published abroad about Vietnam or the

relation among ceremony, politics and power, in Vietnam and the

Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese

Government in the First Half of the Nineteenth Century (1971),

Alexander Barton Woodside commented that in Vietnam, the

centralizing mandate of the Chinese “Son of Heaven” was

combined with the more parochial, less centralizing tradition of

communal chieftainship, thus, “A successful Vietnamese emperor, as

a supreme communal chief, could command genuine popular support

in a way more august Chinese emperors could not”

The dissertation also proves that under the Nguyen, the

Chinese Confucism in establishing the ritual constructions was also

the adaptation in the indigenous initiative that made the specificities

of this dynasty and build up the identity of royal culture in Hue.

The book Jongmyo Royal Ancestral Shrine-Jongmyo Royal

Ancestral Rite by The Preservation Society of the Jongmyo Royal

Ancestral Rite is another valuable materials from the aspect of

making comparison between the case study of the Nguyen dynasty in

Hue (Vietnam) and that of the Joseon dynasty in Seoul (Korea).

These materials helped to contribute the comprehensive and objective

Page 45: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

17

recommendations on the neo period time in Vietnam as well as in

other culture-sharing countries in the region. Especially, the

theoretical issues in the Ritual, Politics & Power by David I. Kertzer

(1988) also helped confirm results of the research.

Apart from the above materials, some other materials were also

accessed from the internet. Due to their abundance and diversity, they

were catergorized and carefully examined before being used.

1.2 The research results and remaining matters

Firstly, they are the theoretical matters relating to the

assessment based on information collected from various materials

and interdisciplinary research of history, archaeology, culture, etc. in

order to propose the objective perspective on the research subject.

Secondly, the dissertation based on the previous researches,

combined with the documentation and field surveys to synthesize,

analyze and assess comprehensively three ritual national cerenonies

(Giao, royal ancestral temples and Xa Tac) under the general socio-

political context at the time and in correspondance with the similar

forms in China or Korea, etc.

Among ritual ceremonies of great national worship, the

ceremony at Xa Tac esplanade was the earliest ceremony that

came into being in 1048 under the Ly dynasty. The date of Xa Tac

ceremony’s establishment reflects the important relation between

the nation’s existence and the importance of argriculture. The first

purpose was to “pray for the good harvest every four seasons”,

not for the political target. However, there were not many

information or deep researches on this subject, especially the Xa

Tac esplanade and the related ceremony in history of Vietnam.

There still remain several questions about its form and role toward

the monarchical governments and argricultural inhabitants before

the Nguyen dynasty.

In the Confucius ideology “Everything originates from the

Heaven, people come from their ancestors”, it was considered that

“In the ancient time, the worshipping ceremony was very important.

Especially, the Chinese worshipping ceremony was remarkable for

its ancestral worshipping ceremony”. This relates to the argument

that the ancestral worshipping ceremony originated from the

Confucism.

Page 46: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

18

On the other hand, it is also believed that the cult of ancestors

has been the Vietnamese cultural tradition. But the questions are

that when had it come into being? How were the ritutal procedures?

Whether it had any archaeological evidence to prove that the

Vietnamese cult of ancestors appeared before the introduction of

Chinese Confucism into Vietnam (i.e not later then the end of 2nd

century). Answers of these questions will help provide the critical

foundation to explain why the ancestral worship ceremony under

the Nguyen were paid special attention to. And this also helps to

prove another specificity of the Nguyen dynasty in their self-

affirmation when they made the selective acception of Chinese

Confucism.

Chapter 2

THE ESTABLISHMENT OF RITUAL CONSTRUCTIONS OF

GREAT NATIONAL WORSHIP UNDER THE NGUYEN IN

HUE

This chapter is arranged as follows:

2.1 Definitions and origins of ritual constructions of the great

national worship and related ceremonies

2.2 Bases of the establishment of ritual constructions under the

Nguyen in Hue

2.2.1 Ritual constructions of the great national worship of prior-

Nguyen dynasties in Vietnam

2.2.2 The context of the ritual constructions’ establishment under the

Nguyen in Hue

2.2.3 Ritual constructions of the great national worship under the

Nguyen in Hue from their establishment to prior-1885.

2.2.4 Ritual constructions of the great national worship from 1885-

1945

Sub-conclusion of Chapter 2

Chapter 3

RITUAL CEREMONY OF GREAT NATIONAL WORSHIP

UNDER THE NGUYEN IN HUE

This chapter is arranged as follows:

3.1 Organizations participated in the preparation and implementation

of ritual ceremony of great national worship

3.2 General matters on the ritual ceremonies of great national

worship

Page 47: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

19

3.3 Ritual ceremonies of great national worship under the Nguyen in

Hue from 1802 to prior-1885

3.4 Ritual ceremonies of great national worship under the Nguyen in

Hue from 1885-1945

Sub-conclusion of chapter 3

Chapter 4

RITUAL CONSTRUCTIONS OF THE GREAT NATIONAL

WORSHIP AND RELATED CEREMONIES UNDER THE

NGUYEN IN HUE: SPECIFICITIES AND THE MATTERS OF

PRESERVATION AND PROMOTION OF THEIR VALUES

This chapter is arranged as follows:

4.1 Specificities of ritual constructions of great national worship and

related ceremonies under the Nguyen in Hue

4.2 The preservation and promotion of ritual constructions and

related ceremonies of the Nguyen in Hue

Sub-conclusion of chapter 4

CONCLUSION

1.The history of establishment and development of ritual

constructions of great national worship and related ceremonies under

the monarchical dynasties in Vietnam showed that they came into

being from very early time and beared many Chinese philosophical

influences.The Nguyen dynasty presented their own specific

independence in the application of the Chinese codified model in

architectural building and planning as well as in establishing the

ceremonial system of great national worship based on the reasonable

modification with full meaning and the appropriate adaptation to the

economic, social and cultural tradition of Vietnam. It can been seen

in planning the temples’s, selecting the location, making the decision

on the ceremony number and ritual ceremonies.

On the other hand, the royal ancestral temples of the Nguyen

were built before the constructions of Nam Giao and Xa Tac

esplanade. It can be seen that the Nguyen paid special attention to the

ancestral worship, maintained and encouraged the filial piety in the

royal family and the public.

In particular, the specificity of the Nguyen was the national

self-respect presented throught the establishment of ritual

constructions of great national worship. The emperor acted himself as

the main officiant in the sacrificial ceremony of Heaven and Earth,

Page 48: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

20

built up the esplanade of Xa Tac with 5-coloured base and helped

confirm the position of “emperor” in an independent country.

2. The historical reality showed that depending on the

ideological selection of the ruling class in different periods, the

ceremony and power have had inter-influence at different levels.

In the other word, ceremony was indeed the political power in the

monarchical time. Under the Nguyen, the ritual constructions of

great national worship were built in the first years of the dynasty.

This showed that Gia Long emperor had the careful preparation in

ideology and identified the clear and unified point-of-view in his

policy “ruling by the filial piety”. The ideology of “respecting the

heaven, following ancestors” had been continued under the

dynasties in succession, especially under the reign of Minh Mang.

Accordingly, the special attention focusing on the

completion of architectures and ceremonies was not for educating

the society but also for building up the cognition of the imperial

power, hierarchy, the absolute belief in the emperor and for

affirming the orthodoxy of the imperial position through the

ceremony. This was one of the most obvious reflection of the

“Heaven’s Will” in the monarchical time of Vietnam through the

process of preparation, offering and participant selection (with the

most importance participants from the royal family), ritual

costumes, the matter of quantity, material, colours, directions,

music and dance, etc. The process of ritual implementation from

the preparation to the end of ceremony gathered most of the

court, even mandarins from the neighbouring provinces. All

present the profound philosophical significance and the high

codification. In the other word, ritual constructions of great

national worship and related ceremonies were established and

implemented intentionally in the process of strengthening the

imperial power and using culture, especially the ceremony, as

their means.

Their existence and development under the Nguyen reflect

the prosperity or the depression of the dynasty.

In particular, the strict regulations of the great national

worship in the monarchical time shows the hierarchical

classification between the royalty and the community. In the

environment of spiritual practices of culture, this matter left a

Page 49: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

21

certain impact on the social psychology that remained deep

influence in the folk culture in Hue region as well as in many

other places in Vietnam.

3. Among ritual constructions of the great national worship in

the mornachical time, Xa Tac esplanade was the first one that came

into being in 1048 under the Ly dynasty, more than century before

the establishment of Nam Giao esplanade (in 1154). Under the Tran

dynasty, there was no information on the establishment of Nam Giao

esplanade and its ritual but the ceremony at Xa Tac esplanade and the

conferment of Xa Tac Spirits. This fact shows that Xa Tac ceremony

had played important role toward these dynasties due to its

significance toward the agricultural inhabitants. The Nguyen had

inheritated this ceremony but the codification of ritual procedures and

the ritual hierarchy in the number of offerings, or the number of

musical pieces, the scale and the participants, etc. of Xa Tac

ceremony prove that Xa Tac ceremony was not paied as much

attention to as the ceremony at Nam Giao esplanade or at the royal

ancestral temples – two ceremonies attached closely to the orthodoxy

of the imperial power and the emperor’s role as “the Will of God” of

the successor who was born in the royal family. In the other words,

the Nguyen dynasty paid more attention to the ceremony that served

the imperial benefits than that of the community’s benefit. This can

be seen in the process of the ritual construction development,

especially in Hue at the late of Nguyen dynasty. Even thought when

the dynasty lost their real power, the Giao ceremony was still

maintained to present a pieace of real imperial requirement

meanwhile the ceremony at Xa Tac was reduced in its scope and then

completedly canceled from the end of XIX century.

4. The ritual constructions of great national worship and

related ceremonie under the Nguyen were the typical forms

presenting the monarchical ideology. They included tangible and

intangible heritages recognized intentionally with the outstanding

universal values and the representativeness of the human culture,

such as the complex of Hue Monuments (including the ritual

constructions that were also recognized as the World Heritage in

1993) and the Nha nhac-the Vietnamese court music, Hue city

(recognized as the Masterpice of the Oral and Intangible Heritage

of humanity in 2003). Therefore, the preservation and promotion

Page 50: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

22

of the ritual construction’s values should be attached to the revival

of ceremony for the integrity of human significance and the

cultural identity in the process of integration and development.

The research results on the reconstruction of present ceremony

show that the representativeness of power in ritual ceremony,

especially in Giao ceremony, can be lost when the Confucism lost its

role of a decisive ideology in the society, but the spiritual

significance of the belief still remains. After being revived in eight

Festivals, the monarchical great ceremony of national worship has

been changed in its nature. The social psychological influences of the

ceremony have brought people the belief on the “sacredness”.

From the desire for a peaceful and healthy life, a ceremony

reconstructed for tourism has gained the spiritual significance and

affected on some aspects of the social psychology. In the other word,

even thought there are not many philosophical factors in the revived

ceremony and it does not stand for the representative of power or the

nostalgia of the imperial glory, the participation into the cermony

with the wish for the goodness has contributed to the recreation of the

belief in ceremony as the cultural adaptation in the new context.

5. Thought the ritual ceremonies of the Nguyen have been well

preserved and seen as the ceremonial standard for the revival of many

other festivals in other places, it is also neccessary to take into careful

consideration of the distinguished features of each region, each

period and each dynasty in the history. Cultural activities are always

under the impact of socio-economic circumstances and of the

habitats. Each region has its own custom and cultural practice. Each

historical period or each dynasty has distinguished ideological

orientation. Therefore, it should not make a similarity in revival of

festival or ceremony because it will affect the cultural diversity and

lead to the confusion in historical cognition in the young generation

from the aspect of cultural tradition, custom and ritual ceremony.

Page 51: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

23

PUBLISHED RESEARCH WORKS OF THE AUTHOR

1. Huỳnh Thị Anh Vân (2010), “Heritage Tourism in Hue: Impacts

and Threats” (Du lịch di sản ở Huế: Những tác động và mối đe dọa),

Perspectives on Heritage Tourism (Những cách nghĩ về du lịch di

sản), published by SEAMEO- SPAFA, Thailand 2010, tr. 51-66,

(ISBN: 978-974-7809-36-7).

2. Huỳnh Thị Anh Vân (2012), “Phát triển du lịch thông qua hình

thức phục dựng nghi lễ cung đình Huế và vấn đề thể hiện bản sắc”,

Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Tiềm năng và hướng phát triển du lịch

Bắc Trung Bộ”, 15/4/2012, tr. 204-210.

3. Huỳnh Thị Anh Vân (2012), “Văn hóa cung đình Huế nhìn từ vấn

đề bản sắc qua các miếu thờ vua Nguyễn tại Huế và nghi lễ tế miếu”,

Hội thảo Việt Nam học lần thứ IV, Hà Nội, 11/2012.

4. Huỳnh Thị Anh Vân (2012), “Những nét đặc trưng trong hệ thống

miếu thờ tổ tiên của các vua nhà Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu và

Phát triền, số 2 (91). 2012, tr. 3-11, ISSN 1859-0152.

5. Huỳnh Thị Anh Vân (2012), “Hiểu thêm về cách gọi tên miếu,

điện thờ vua Nguyễn tại Huế”, Tạp chí Huế Xưa & Nay số 110 (3-

4/2012), tr. 104-110, ISSN 1858-2163.

6. Huỳnh Thị Anh Vân (2012), “Vài nét về nghi lễ tế miếu của triều

Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 11 (439), tr. 19-36, ISSN

0866-7497

7. Huỳnh Thị Anh Vân (2012), “Quần thể di t ch Huế v i tác động

của biến đổi kh hậu”, Tạp chí Nghiên cứu & Phát triển số 7 (96),

tr. 83-92, ISSN 1859-0152.

8. Huỳnh Thị Anh Vân (2012), “Đôi điều cần bàn thêm về định

hư ng phát triển du lịch thông qua hình thức phục dựng nghi lễ cung

đình”, Di sản văn hóa Huế, nghiên cứu & Bảo tồn, tập II, Trung tâm

Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản, Huế(2012), tr. 435-441.

9. Huỳnh Thị Anh Vân (2013),“The Hue Monuments complex

under the impact of climate change” (Quần thể di tích Huế dư i tác

động của biến đổi khí hậu), Museum & Cultural Heritage-Facing

Climate Change (Bảo tàng & Di sản văn hóa- Đối mặt v i Biến đổi

khí hậu), Kỷ yếu Hội thảo quốc tế do Viện Nghiên cứu Văn hóa và

Nghệ thuật Việt Nam phối hợp v i Bảo tàng Dân tộc học tổ chức,

Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2013, tr. 498-507, ISBN 978 6049

02 1787.

Page 52: CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): …ĐẠi hỌc huẾ trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc huỲnh thỊ anh vÂn cÁc ĐÀn miẾu ĐẠi tỰ triỀu

24

10. Huỳnh Thị Anh Vân (2013), “Hiểu thêm về những vấn đề liên

quan đến di sản thế gi i hiện nay và trường hợp của Huế”, Di sản văn

hóa Huế, nghiên cứu & Bảo tồn, tập III, Trung tâm Bảo tồn Di tích

Cố đô Huế xuất bản, Huế, tr. 510-514.

11. Huỳnh Thị Anh Vân (2014), “Văn hóa cung đình Huế nhìn từ

nghi lễ tế tự: t nh điển chế và ý nghĩa biểu tượng”, Kỷ yếu hội thảo

Văn hóa Huế-Đặc điểm lịch sử và vấn đề bảo tồn, phát triển, Hội

Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế, 12/2014, tr. 70-81.

12. Huỳnh Thị Anh Vân (2014), “Từ câu chuyện của L. Cadièrre,

bàn tiếp về sự khủng hoảng ở Đàng Trong vào thế kỷ XVIII”, Kỷ yếu

Tọa đàm khoa học 100 năm BAVH và vấn đề tiếp xúc văn minh

Đông-Tây đầu thế kỷ XX, Phân viên Văn hóa Nghệ thuật quốc gia

Việt Nam và Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, 12/2014.

13. Huỳnh Thị Anh Vân (2014), “Triết lý Nho giáo trong nghi lễ tế

tự triều Nguyễn (1802-1945), Tạp chí Huế Xưa và Nay, số 126 (11-

12/2014), tr. 59-69, ISSN 1858-2163.

14. Huỳnh Thị Anh Vân (2014), “Lễ tế Giao ở Huế: phục dựng nghi

lễ và tái tạo niềm tin”, Di sản văn hóa trong xã hội Việt nam đương

đại, Tủ sách Khoa học xã hội, chuyên khảo về Di sản văn hóa do

viện Harvard Yenching tài trợ, Nxb. Tri thức, Hà Nội, tr. 155-192.

15. Huỳnh Thị Anh Vân (2014), “Cải cách của Võ vương Nguyễn

Phúc Khoát thế kỷ XVIII và con đường đến v i Nho giáo ở Đàng

Trong”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 11 (137), (tr. 62-77), ISSN

1859-0403

16. Huỳnh Thị Anh Vân (2015), “Nghiên cứu văn hóa cung đình

Nguyễn qua cách gọi tên miếu, điện”, Tạp chí Văn hóa Dân gian số 1

(157), tr. 47-50, ISSN 0866-7284.

17. Huỳnh Thị Anh Vân (2015), “Nghi thức tang lễ cung đình châu

Á nhìn từ triều Nguyễn Việt Nam và triều Joseon Hàn Quốc”, Tạp

chí Nghiên cứu Lịch sử số 7 (473), tr. 52-67, ISSN 0866-7497

18. Huỳnh Thị Anh Vân (2015), “Văn hóa cung đình Huế nhìn từ

trang phục lễ nghi thời Nguyễn qua tư liệu”, Bảo tàng Cổ vật Cung

đình Huế, tập VII.