39
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ PHƢƠNG THẢO CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2017

CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

  • Upload
    others

  • View
    3

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

LÊ THỊ PHƢƠNG THẢO

CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017

Page 2: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

LÊ THỊ PHƢƠNG THẢO

CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật kinh tế

Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGÔ HUY CƢƠNG

HÀ NỘI – 2017

Page 3: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình

nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính

xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh

toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc

gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể

bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Phƣơng Thảo

Page 4: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƢƠNG NHÂN ........ 6

1.1 Khái niệm và đặc điểm về thương nhân ............................................. 6

1.1.1 Khái niệm về thương nhân ....................................................................... 6

1.1.2 Đặc điểm về thương nhân ........................................................................ 9

1.2 Điều kiện trở thành thương nhân .............................................................. 11

1.3 Điều chỉnh của pháp luật về thương nhân ................................................. 13

1.3.1 Lược sử phát triển pháp luật về thương nhân ở Việt nam ..................... 13

1.3.2 Chức năng của pháp luật về thương nhân ở Việt Nam .......................... 15

1.3.3 Nguồn của pháp luật về thương nhân ở Việt Nam ................................. 18

1.4 Phân loại thương nhân ............................................................................... 22

1.4.1 Các cách phân loại thương nhân ............................................................ 22

1.4.2 Thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân ................................ 23

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ

THƢƠNG NHÂN ....................................................................... 31

2.1 Thương nhân thể nhân ............................................................................... 31

2.1.1 Khái niệm và Điều kiện của thương nhân thể nhân theo pháp

luật Việt Nam. ...................................................................................... 31

2.1.2 Các loại thương nhân thể nhân ............................................................... 32

2.2 Thương nhân pháp nhân ............................................................................ 46

2.2.1 Khái niệm và Điều kiện của thương nhân pháp nhân theo pháp

luật Việt Nam. ...................................................................................... 46

2.2.2 Các loại thương nhân pháp nhân ............................................................ 47

CHƢƠNG 3 NHỮNG BẤT CẬP, ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI

PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THƢƠNG NHÂN

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................................... 66

Page 5: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

3.1. Một số bất cập và định hướng hoàn thiện pháp luật về thương nhân ở

Việt Nam. .............................................................................................. 66

3.2 Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật về thương nhân

ở nước ta hiện nay ................................................................................. 68

3.2.1 Luật thương mại 2005 ............................................................................ 69

3.2.2 Luật Doanh nghiệp 2014 ........................................................................ 72

3.2.3 Bộ luật Dân sự 2015 ............................................................................... 75

KẾT LUẬN .......................................................................................... 78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................. 80

Page 6: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ cái viết tắt/ Ký hiệu Cụm từ đầy đủ

BLDS Bộ luật Dân sự

DNXH Doanh nghiệp xã hội

LDN Luật doanh nghiệp

TNHH Trách nhiệm hữu hạn

Page 7: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.

Sau khi giành được độc lập năm 1945, một thời gian dài, nhiều thập

niên sau đó nền kinh tế của Việt Nam bị lâm vào khủng hoảng và trì trệ. Với

nhiều lý do khác nhau, nước ta đã trở thành một trong những nước nghèo nhất

thế giới. Chỉ đến những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, đất nước mới

bắt đầu thời kỳ mở cửa và hội nhập với thế giới bên ngoài. Đồng thời khi đó

nền kinh tế Việt Nam bước và thời kỳ “sửa sai” và “đổi mới”. Bước chuyển

mình này đã có một số kết quả ban đầu, kinh tế phát triển vượt bậc, đưa nước

ta từ nhóm nước có thu nhập thấp vào năm 1988 trở thành một nước có thu

nhập bình quân trung bình trên thế giới.

Trong sự thành công này, pháp luật về kinh tế đã góp một vai trò rất

quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển ổn định và bền

vững của các quan hệ kinh tế. Nhiều văn bản pháp luật về kinh tế đã dần được

ban hành theo những quan điểm của Đảng và Nhà nước thành pháp luật để áp

dụng trong đời sống kinh tế.

Trong hệ thống pháp luật về kinh tế, Luật thương mại và Luật Doanh

nghiệp là những văn bản pháp luật quan trọng nhất. Luật Thương mại ra đời

từ năm 1997 và Luật Doanh nghiệp 1995 là những cơ sở pháp lý đầu tiên điều

chỉnh mọi quan hệ phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại của Việt

Nam. Chủ thể cơ bản chịu sự điều chỉnh của luật thương mại chính là các

thương nhân. Vì vậy, ở một chừng mực nào đó luật thương mại được coi là

luật của các thương nhân. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi pháp luật các

văn bản này đã bộ lộ nhiều hạn chế và thiếu sót, chưa điều chỉnh được hết mọi

vấn đề phát sinh trong đời sống kinh tế. Sau những lần sửa đổi, Luật thương

mại 2005 và Luật Doanh nghiệp 2014 mới ra đời đã phần nào loại bỏ được

những nhược điểm của những văn bản Luật đầu tiên, cơ chế thương nhân

Page 8: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

2

được quy định rõ ràng và đầy đủ hơn nhưng vẫn chưa hoàn toàn giải

quyết được những vấn đề còn tồn tại. Chính vì thế, việc nghiên cứu để từng

bước hoàn thiện các quy định của pháp luật về thương nhân là việc làm quan

trọng và cần thiết - nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà các quan hệ mua

bán hàng hoá cũng như các quan hệ liên quan đến nó ngày càng phong phú và

đa dạng, đặt ra yêu cầu điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật.

Xuất phát từ nhận thức trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Chế định

Thương nhân ở Việt Nam” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Chế định thương nhân là nội dung quan trọng của pháp luật thương

mại, được nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau quan tâm nghiên

cứu. Ở những phạm vi và mức độ khác nhau đã có những công trình đề cập

đến quy chế pháp lý về thương nhân, về doanh nghiệp, cụ thể như sau:

- "Giáo trình luật thương mại - phần chung và thương nhân" của

PGS.TS Ngô Huy Cương được xuất bản tại Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,

năm 2013. Giáo trình đã nêu lên được một cách hệ thống những vấn đề lý

luận về thương nhâ, phân loại thương nhân theo pháp luật của các quốc gia

trên thế giới và của Việt Nam.

- "Chuyên khảo luật kinh tế" của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa được xuất

bản tại Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004. Cuốn chuyên khảo đã phân

tích, đánh giá về các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

- "Giáo trình luật kinh tế Việt Nam" do PGS.TS Nguyễn Như Phát làm

chủ biên được xuất bản tại Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2013. Cuốn giáo trình

này đã nêu lên những vấn đề tổng quan về luật thương mại, những vấn đề lý

luận về luật thương mại và trình bày khái quát một số vấn đề về hành vi

thương mại và thương nhân.

- "Giáo trình luật thương mại" do TS. Bùi Ngọc Cường làm chủ biên

được xuất bản tại Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 2008. Giáo trình đã phân tích,

Page 9: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

3

bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định thương nhân, các loại

thương nhân theo pháp luật Việt Nam.

- "Thương gia theo thương luật Hoa Kỳ" của TS. Trần Đình Hảo đăng

trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật của Viện Nhà nước và Pháp luật, số 2, năm

2002. Bài viết đã giới thiệu khái quát về các loại hình công ty đối nhân và đối

vốn theo pháp luật của Hoa Kỳ nhằm cung cấp thông tin so sánh để học hỏi

kinh nghiệm nước ngoài nhằm hoàn thiện pháp luật công ty ở Việt Nam.

- "Dự án sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Bình luận những vấn đề pháp

lý chủ yếu", của PGS.TS Ngô Huy Cương đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,

số 13 (269), Kỳ 1 - Tháng 07/2014. Bài viết này đã lý luận sâu sắc về ý nghĩa

pháp lý của sự phân loại thương nhân thành thương nhân thể nhân và thương nhân

pháp nhân. Tuy nhiên không trình bày toàn bộ nội dung của sự phân loại này.

- Luận văn “Phân loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam”, của

ThS. Nguyễn Thị Vân Anh. Luận văn đã nêu ra các cách thức phân loại

thương nhân và các qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành về phân loại

thương nhân từ đó đưa ra những kiến nghị sửa hoàn thiện pháp luật hiện hành.

Ngoài các công trình kể trên còn có những luận văn, luận án nghiên

cứu riêng về từng loại hình công ty.

Những công trình kể trên đã có những thành tựu quan trọng nhất liên

quan tới việc xây dựng pháp luật về thương mại ở Việt Nam. Tác giả luận văn

kế thừa những luận điểm khoa học của các công trình đó trong quá trình viết

luận văn. Tuy nhiên, đề tài mà tác giả nghiên cứu chuyên sâu về Chế định

thương nhân. Vì vậy, mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

luận văn không hoàn toàn trùng lặp với các công trình đã công bố nêu trên.

3. Mục tiêu, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1 Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về thương nhân,

cũng như việc phân tích các quy định pháp luật cụ thể về thương nhân ở Việt

Page 10: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

4

Nam, luận văn rút ra một số kết luận và kiến nghị nhằm góp phần xây dựng

và hoàn thiện hơn các quy định pháp luật về thương nhân.

3.2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn

Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề về khái niệm thương

nhân, phân loại thương nhân, quyền và nghĩa vụ của thương nhân từ đó

đưa ra những nhận định về địa vị pháp lý của các loại thương nhân trong

nền kinh tế Việt Nam.

3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn

Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề liên quan trực tiếp tới chế định

thương nhân và các qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thương

nhân để kiến nghị sửa hoàn thiện pháp luật hiện hành. Luận văn không phân

tích sâu về lịch sử pháp luật liên quan và chế định thương nhân của các quốc

gia khác trên thế giới trừ khi đề cập tới các vấn đề đó với tính cách là một

phương pháp để hướng tới mục tiêu nghiên cứu của đề tài.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được hoàn thành dựa trên các nguyên tắc, phương pháp luận

của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng

ta về Nhà nước và pháp luật.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng bao gồm: Phương

pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để giải quyết các vấn đề đặt ra.

5. Tính mới của Luận văn

Luận văn đã phân tích được một cách logic pháp luật về thương nhân, cũng

như đưa ra được các chức năng cơ bản của nó. Đồng thời, phân tích các quy

định pháp luật về thương nhân ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ

sở phân tích đó, khoá luận đã rút ra một số kết luận và định hướng hoàn thiện

các quy định pháp luật về thương nhân ở Việt Nam.

Page 11: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

5

6. Cấu trúc của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá

luận được cấu trúc bao gồm ba chương:

Chương I: Những vấn đề chung về thương nhân.

Chương II: Thực trạng pháp luật Việt Nam về thương nhân.

Chương III: Một số bất cập và định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp

luật về thương nhân ở Việt Nam hiện nay.

Do hạn chế về khuôn khổ luận văn, thời lượng, nguồn tài liệu cũng như

khả năng nhận thức của bản thân, chắc chắn luận văn không tránh khỏi những

thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.

Page 12: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

6

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƢƠNG NHÂN

1.1 Khái niệm và đặc điểm về thƣơng nhân

1.1.1 Khái niệm về thƣơng nhân

Thương nhân là một khái niệm quen thuộc trong lĩnh vực thương mại

và đây cũng được coi là chủ thể chủ yếu của Luật thương mại. Khái niệm

thương nhân luôn được xác định trong pháp luật của các nước nói chung và

Việt Nam nói riêng. Trước hết chúng ta tìm hiểu về khái niệm thương nhân

được quy định trong hệ thống pháp luật thương mại của các quốc gia trên thế

giới. Theo thực tế pháp luật hiện nay, mỗi quốc gia đều có những phương

pháp định nghĩa khác nhau về khái niệm thương nhân.

Theo Điều 1 Luật thương mại Pháp 1807 - Bộ luật thương mại đầu tiên

được pháp điển hóa trên thế giới thì “Thương nhân là những người thực hiện

các hành vi thương mại và lấy chúng làm nghề nghiệp thường xuyên của

mình.” Như vậy, luật thương mại Pháp định nghĩa thương nhân theo bản chất

của chủ thể. Luật Pháp không quy định về trách nhiệm đăng ký kinh doanh

mà chỉ quy định về loại hành vi thương mại mà chủ thể thực hiện để được coi

là thương nhân. Ngoài việc thực hiện nhiều hành vi thương mại, chủ thể cần

đáp ứng được điều kiện về những hành vi đó như “lấy chúng làm nghề nghiệp

thường xuyên của mình”. Chỉ khi thực hiện các hành vi thương mại một cách

thường xuyên, lâu dài mang tính chất nghề nghiệp (tức hoạt động kinh doanh

mang tính ổn định, lâu dài, có sinh lời mang lại nguồn thu nhập chính cho chủ

thể) thì chủ thể thực hiện hành vi đó mới được coi là thương nhân.

Luật thương mại Đức – một trong những bộ luật thương mại tiêu biểu

trên thế giới đại diện cho họ pháp luật La Mã - Đức quy định về thương nhân

có phần phức tạp hơn. Thương nhân theo định nghĩa của Bộ luật thương mại

Page 13: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

7

CHLB Đức là những người hành nghề kinh doanh. Hành nghề kinh doanh là

bất kì cơ sở hành nghề nào mang lại lợi nhuận, ngoại trừ các doanh nghiệp mà

căn cứ theo tính chất, phạm vi của nó không đòi hỏi phải thiết lập cơ sở để

hoạt động kinh doanh (Khoản 2 Điều 1 Bộ luật thương mại Đức).[37]

Doanh nghiệp hành nghề mà cơ sở hoạt động của nó chưa phải là hành

nghề kinh doanh theo quy định trên vẫn được coi là hành nghề thương mại

theo định nghĩa của Bộ luật này nếu hãng của doanh nghiệp có đăng ký trong

danh bạ thương mại. Khi đã đăng ký thì việc xóa tên của hãng cũ có thể xảy

ra theo đơn đề nghị của doanh nghiệp, trong trường hợp không có cơ sở theo

quy định tại khoản 2 Điều 1 Bộ luật thương mại. Khi một hãng đã đăng ký

trong danh bạ thương mại thì không thể bị ai đó dựa vào việc đăng ký để cáo

buộc rằng cơ sở ngành nghề trực thuộc hãng không phải là cơ sở hành nghề

thương mại (Điều 5 Bộ luật thương mại Đức). Các quy định đối với thương

nhân cũng được áp dụng cho các công ty thương mại (Khoản 1 Điều 6 Bộ luật

thương mại Đức).[37]

Như vậy, theo Bộ luật thương mại Đức thì thương nhân là người thực

hiện một cách tự chủ hoạt động ngành nghề kinh doanh, mục đích nhằm thu

lợi nhuận. Tuy nhiên, công việc kinh doanh phải đạt phạm vi giao dịch và đòi

hỏi một mức độ tổ chức doanh nghiệp nhất định (như thiết lập cơ sở hoạt

động kinh doanh). Điều này không có ở những người kinh doanh nhỏ lẻ, với

họ luật thương mại không có hiệu lực áp dụng. Tuy nhiên, những người này

vẫn có thể tự nguyện nhận được tự cách thương nhân khi đăng ký trong danh

bạ thương mại. Đối với các công ty đối vốn và hợp tác xã thì bắt buộc phải

dựa vào hình thức pháp lý là các thương gia.

Tóm lại, luật thương mại của các nước theo họ Pháp luật La Mã - Đức

quan niệm công ty thương mại là các thương nhân bởi hình thức. Theo đó, bất

kỳ một thực thể có cơ sở để hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có tên hãng

được đăng kí trong danh bạ thương mại hoặc những người kinh doanh nhỏ lẻ

Page 14: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

8

đăng ký tên trong danh bạ thương mại sẽ đều được coi là thương nhân và

được điều chỉnh bởi pháp luật thương mại.

Theo pháp luật Hoa Kỳ - Đại diện cho họ pháp luật Anh-Mỹ, khái

niệm “thương nhân (thương gia)” được định nghĩa trong Bộ luật Thương mại

Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code -1990). Theo bộ luật này, có 3 loại hình

thương nhân chủ yếu là cá nhân kinh doanh (sole propration), công ty đối

nhân (partnership) và công ty đối vốn (corporation)[38]. Nhìn chung, thương

nhân trong luật Hoa Kỳ bao gồm một nhóm người thực hiện các hoạt động

kinh doanh hàng hóa như những công việc thường xuyên lâu dài của họ. Luật

thương mại Hoa Kỳ không điều chỉnh với các loại hàng hóa là bất động sản

và dịch vụ mà chỉ điều chỉnh với các loại hàng hóa động sản.

Pháp luật Việt Nam đã có những quy định về thương nhân từ những

văn bản pháp luật về thương mại đầu tiên là Luật thương mại 1997 và sau đó

là Luật thương mại 2005.

Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 quy định tại Khoản 6 Điều 5 về

thương nhân như sau: “Thương nhân bao gồm cá nhân, pháp nhân, tổ hợp

tác, hộ gia đình có đăng ký hoạt động thương mại một cách độc lập, thường

xuyên”.[26]

Sau quá trình sửa đổi, Luật thương mại 2005 định nghĩa lại về khái

niệm thương nhân tại Điều 6 như sau: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế

được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập

thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”.[27]

Từ quy định trên, ta có thể thấy Luật thương mại Việt Nam đang định

nghĩa thương nhân theo kiểu hình thức. Theo đó, các chủ thể chỉ được công

nhận là thương nhân khi đáp ứng đủ yêu cầu về hình thức như “tổ chức kinh

tế được thành lập hợp pháp, cá nhân có đăng ký kinh doanh ”. Tư cách

thương nhân được xác định dựa theo việc đăng ký với cơ quan nhà nước có

Page 15: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

9

thẩm quyền mà không căn cứ vào hoạt động thương mại do chủ thể kinh

doanh thực hiện.

Tóm lại, các quốc gia trên thế giới hiện nay có những các thức định

nghĩa về thương nhân rất khác nhau. Mỗi cách thức định nghĩa sẽ đem đến

những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Với cách định nghĩa thương nhân

theo bản chất hành vi thương mại, các quốc gia này cần xác định rõ căn cứ để

nhận biết hành vi thương mại trong rất nhiều loại hành vi được các thương

nhân thực hiện trong đời sống kinh tế xã hội. Bên cạnh đó, với các quốc gia

xác định tư cách thương nhân bằng hình thức đăng ký hoạt động với cơ quan

nhà nước có thẩm quyền thì việc nhận biết tổ chức nào là thương nhân là một

vấn đề tương đối phức tạp và còn nhiều vấn đề cần tranh cãi. Ví dụ trong pháp

luật Việt Nam, thương nhân bao gồm “các tổ chức kinh tế được thành lập hợp

pháp...” nhưng Luật Thương mại lại chưa đưa ra được định nghĩa về tổ chức

kinh tế. Và thực tế hiện nay có những loại tổ chức kinh tế được thành lập hợp

pháp theo đúng quy định của pháp luật như “Hợp tác xã” nhưng không được

coi là thương nhân. Vấn đề này sẽ được tác giả bàn luận sâu hơn ở những

chương sau của luận văn.

1.1.2 Đặc điểm về thƣơng nhân

Từ việc xem xét các khái niệm về thương nhân như trên, ta có thể đưa ra

một số đặc điểm chung nhất về thương nhân như sau

Trước hết, thương nhân là những người thực hiện các hành vi thương

mại và coi đó như nghề nghiệp của mình.

Mỗi cá nhân tồn tại trong xã hội khi đủ tuổi vị thành niên hầu hết đều

có một nghề nghiệp riêng. Nghề nghiệp chính là những hoạt động thường

xuyên, lâu dài, mang lại những nguồn lợi nhất định là nguồn sinh sống cho

cá nhân và gia đình của chủ thể đó. Số lượng hành vi thương mại do một chủ

thể thực hiện không đem lại tư cách thương nhân cho chủ thể. Một chủ thể chỉ

Page 16: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

10

được coi là thương nhân khi thực hiện một hoạt động thương mại lặp đi lặp lại

mang tính chất nghề nghiệp thường xuyên và có sinh lời.

Thứ hai, thương nhân hoạt động thương mại một cách độc lập.

Trong quá trình hoạt động thương mại, thương nhân có thể trực tiếp thực

hiện các hành vi thương mại hoặc ủy quyền cho người thứ ba thay mình thực

hiện hành vi thương mại đó. Tuy nhiên, mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hoạt

động mà người được ủy quyền thực hiện do ủy quyền thì đều thuộc về người ủy

quyền. Điều này được hiểu là người làm công, người quản lý được trả công đều

không phải là thương nhân. Ngược lại, người thuê và quản lý một cơ sở kinh

doanh để kinh doanh mới là thương nhân. Thương nhân là chủ thể chịu trách

nhiệm với toàn bộ quyền và nghĩa vụ của cơ sở kinh doanh do mình làm chủ.

Ngoài ra, đối với một số nước có quy định công ty hợp danh và công ty

hợp vốn đơn giản là pháp nhân – hoạt động của những công ty này được nhà

nước bảo hộ như những doanh nghiệp khác thì những thành viên của công ty

hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản dù những hoạt động của họ vì lợi ích

chung của cả công ty nhưng họ vẫn được coi là thương nhân vì họ phải chịu

trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty.

Thứ ba, thương nhân hoạt động phải có đăng ký kinh doanh.

Đặc điểm này được áp dụng với những quốc gia quy định về thương

nhân theo hình thức. Ở những quốc gia này, để trở thành thương nhân chủ thể

thực hiện hành vi thương mại cần đăng ký kinh doanh với cơ quan nhà nước

có thẩm quyền. Chỉ khi có đăng ký kinh doanh, chủ thể sẽ được công nhận tư

cách thương nhân và được nhà nước thừa nhận, bảo hộ quyền lợi hợp pháp

của mình trong đời sống kinh doanh.

Như vậy, hiểu một cách chung nhất, thương nhân là những người thực

hiện các hoạt động thương mại như một nghề nghiệp thường xuyên, lâu dài và

chịu mọi trách nhiệm với các hoạt động thương mại do mình thực hiện.

Page 17: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

11

1.2 Điều kiện trở thành thƣơng nhân

Dựa theo quy định về thương nhân của mỗi quốc gia, các điều kiện về

thương nhân của các nước là khác nhau. Tuy nhiên nhìn chung lại, các cá

nhân và tổ chức cần đáp ứng được những điều kiện cơ bản sau để được thừa

nhận tư cách thương nhân:

Điều kiện thứ nhất: Để trở thành thương nhân, trước hết các chủ thể

phải tồn tại dưới dạng: cá nhân hoặc tổ chức.

- Cá nhân: được hiểu là công dân có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự

và năng lực hành vi dân sự và không bị pháp luật cấm kinh doanh thương

mại. Theo Luật thương mại Việt Nam, cá nhân đủ 18 tuổi trở lên có năng lực

hành vi dân sự đầy đủ nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì được cơ quan

nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp tư nhân, giấy

chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân.[29]

- Tổ chức: Những tổ chức được công nhận tư cách thương nhân trước hết

phải là những tổ chức được thành lập hợp pháp, hoạt động độc lập và hoạt

động của tổ chức không phụ thuộc vào ý chí riêng của các thành viên tổ chức đó.

Theo thông lệ pháp luật quốc tế, thương nhân được phân loại thành hai

loại chính là thương nhân thể nhân là các cá nhân kinh doanh và thương nhân

pháp nhân là những tổ chức được hành lập hợp pháp chủ yếu tồn tại dưới

dạng các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân.

Điều kiện thứ hai: Các chủ thể trên chỉ trở thành thương nhân nếu tiến

hành các hoạt động được coi là các hành vi thương mại.

Trên thế giới có rất nhiều quan điểm về phân loại hành vi thương mại

khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đưa ra một cách phân loại cơ

bản nhất gồm hai loại: hành vi thương mại thuần túy và hành vi thương mại

do phụ thuộc.

Page 18: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

12

- Hành vi thương mại thuần túy: gồm những hành vi có tính chất thương mại:

Những hành vi do thương nhân thực hiện: hoạt động thương nhân cho

thuê động sản.

Những hành vi liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa: hoạt động

giao nhận hàng hóa.

Những hành vi mà hình thức của nó được pháp luật coi là hành vi

thương mại vì bản chất của nó thuộc về công việc buôn bán: hoạt động kí phát

hối phiếu, hành vi thành lập công ty thương mại.

- Hành vi thương mại phụ thuộc:

Những hành vi có bản chất dân sự nhưng do thương nhân thực hiện

theo yêu cầu nghề nghiệp: hoạt động kí hợp đồng mua bán hàng hóa của

thương nhân.

Những hành vi dân sự dân sự nhưng được thực hiện do phụ thuộc vào

một hành vi thương mại khác

Nhìn chung, mọi hành vi do thương nhân thực hiện trong hoạt động

kinh doanh đều là những hành vi thương mại trừ trường hợp thương nhân

chứng minh được rằng hành vi đó thực hiện không vì mục đích thương mại.

Ví dụ: Việc thương nhân quyên góp từ thiện cho tổ chức từ thiện.

Khái niệm thương nhân và hành vi thương mại là hai khái niệm có mối

quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Một hành vi chỉ được coi là hành vi thương mại

khi nó được thực hiện bởi các thương nhân hoặc thực hiện trong khuôn khổ

các hoạt động thương mại của thương nhân. Bên cạnh đó, một chủ thể chỉ

được coi là thương nhân khi thực hiện các hành vi thương mại.

Ở Việt Nam, khái niệm “hành vi thương mại” được ghi nhận trong

Luật thương mại 1997 đã được Luật thương mại 2005 thay thế bằng thuật ngữ

“hoạt động thương mại”. Điều 45 Luật thương mại 1997 quy định Hành vi

thương mại chỉ gồm đúng 14 loại hành vi cụ thể, Luật thương mại 2005 quy

Page 19: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

13

định các loại hoạt động thương mại mang nghĩa rộng hơn và bao quát hơn bao

gồm các hoạt động nhằm mục đích sinh lời: “mua bán hàng hóa, cung ứng

dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời

khác”. (Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005).[27]

1.3 Điều chỉnh của pháp luật về thƣơng nhân

1.3.1 Lƣợc sử phát triển pháp luật về thƣơng nhân ở Việt nam

Trong lịch sử kinh tế của Việt Nam, thương mại hầu như chỉ được biết

đến bắt đầu từ thời kỳ phong kiến khi có những hoạt động mua bán hàng, sản

xuất hàng hóa ra đời. Vào thời kì này, xã hội bắt đầu có sự xuất hiện của một

tầng lớp mới thực hiện các hoạt động mua bán hàng hóa để kiếm lợi, được gọi

chung ở thời kì đấy là các thương gia. Tuy nhiên, hoạt động thương mại trong

thời kỳ phong kiến chưa được xã hội đề cao, tầng lớp thương gia luôn đứng ở

vị trí thấp nhất trong “sĩ nông công thương”. Bởi lẽ đó, các quy định pháp luật

điều chỉnh hoạt động thương mại cũng hầu như chưa được đề cập đến. Mãi

đến thời kỳ Pháp thuộc thì pháp luật Việt Nam mới có những chế định đầu

tiên về luật thương mại. Năm 1864 người Pháp đem Bộ luật thương mại của

mình áp dụng vào Nam kì và áp dụng ở Bắc kì năm 1988. Năm 1892, Pháp

ban hành Sắc lệnh quy định việc hành nghề thương mại của người á Đông

ngoại quốc và người Việt Nam sinh tại các vùng là thuộc địa của Pháp (Hà

Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật Pháp.

Ngoài những văn bản đó, về sau cũng có những văn bản khác quy định

về từng vấn đề cụ thể như sau: Đạo luật về bán và cầm cố cửa hàng thương

mại 1909; Đạo luật về bảo vệ quyền sở hữu cửa hàng thương mại 1926; Luật

về hối phiếu, thương phiếu năm 1894, 1922, 1935...

Mãi đến năm 1942, triều đình Huế mới ban hành bộ luật thương mại

Trung phần có nội dung cơ bản giống như Bộ luật thương mại của Pháp, có

hiệu lực thi hành tại Trung bộ từ ngày 25/1/1944.

Page 20: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

14

Năm 1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền với chế độ chính trị

khác nhau. Ở miền Nam, chính phủ Việt Nam cộng hòa đã ban hành nhiều

văn bản pháp luật về thương mại quan trọng như : Luật số 13/57 về nhãn hiệu

thương mại; Luật số 12/5 về bằng sáng chế Nghị định số 92/BKT/CKN ngày

9/4/198 và Nghị định số 406/BKT/ND ngày 11/10/1968 về danh sách các

ngành nghề tiểu công nghệ...quan trọng nhất là Bộ luật thương mại ban hành

20/12/1972 với nội dung khá phong phú, đề cập đến nhiều vấn đề của đời

sống thương mại lúc đó ở miền Nam Việt Nam như nhiệm vụ nghề nghiệp

của nhà buôn hay thương gia và sự hành nghề thương mại... Trái lại, ở miền

Bắc, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, việc kinh doanh chủ yếu được

các tổ chức thuộc thành phần kinh tế quốc doanh tiến hành. Do đó, luật kinh

tế điều chỉnh những quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình kinh doanh

XHCN tập trung ghi nhận các chế độ pháp lý liên quan đến việc tổ chức và

hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc doanh.

Đến khi chúng ta bắt đầu bước vào xây dựng nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã làm thay

đổi cơ bản tính chất của các quan hệ trong kinh doanh. Về thực chất, luật kinh

tế trong giai đoạn này vẫn được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do

Nhà nước ban hành, điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá

trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp hoặc giữa chúng

với cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế,

xã hội của đất nước. Để đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới, Nhà

nước đã ban hành một loạt văn bản pháp luật kinh tế mới thay thế những văn

bản ban hành trước đây như Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp

Nhà nước 1995, Luật hợp tác xã 1996, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993,

Luật thương mại 1997...

Cho đến nay, cùng với sự phát triển và mở cửa hội nhập của nền kinh tế

Việt Nam chúng ta đang có gắng tạo một hành lang pháp lý thông thoáng,

Page 21: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

15

hiệu quả nhằm tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường ổn định và hiệu quả cho

các nhà kinh doanh trong và ngoài nước đầu tư vào nền kinh tế. Do đó, chung

ta cũng đã sửa đổi, bổ sung vào những văn bản đang hiện hành sao cho phù

hợp với sự phát triển, đồng thời ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật

về thương mại mới, nhằm giúp cho nền kinh tế ngày càng phát triển như: Luật

thương mại 2005, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật cạnh tranh, Luật đầu tư,

Luật phá sản, Luật đấu thầu...

Nói tóm lại thương nhân và hoạt động thương mại xuất hiện ở nước ta

từ rất sớm, song sự phát triển của chúng lại là những thăng trầm. Tựu chung,

Việt Nam không có truyền thống trong lĩnh vực thương mại giống như các

quốc gia nông nghiệp khác. Cho mãi tới những năm gần đây, nhận thức về

hoạt động thương mại và vị trí của các thương nhân mới được đổi mới theo

đúng xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới. Chúng ta đã có những thay

đổi lớn về cả nội dung lẫn hình thức của các văn bản pháp luật nói chung và

các văn bản liên quan đến kinh tế, thương mại nói riêng, từ đó có thể thấy sự

phát triển của hệ thống pháp luật nước ta ngày càng tiến gần tới sự hoàn thiện.

1.3.2 Chức năng của pháp luật về thƣơng nhân ở Việt Nam

Pháp luật về thương nhân ra đời và phát triển là một hệ quả tất yếu của

quá trình hoạt động kinh doanh thương mại. Các giao dịch thương mại ngày

càng đa dạng và phức tạp thì yêu cầu điều chỉnh của pháp luật càng trở lên

cấp thiết hơn. Chính bởi vậy, mà các quy định của pháp luật về thương nhân

cơ bản phải chứa đựng những chức năng sau:

- Trước tiên, pháp luật về thương nhân đóng vai rò là khuôn khổ pháp

lý quan trọng nhất quy định về tư cách chủ thể của các loại hình thương nhân

– chủ thể chính của pháp luật thương mại. Việc xác định tư cách thương nhân

cho một chủ thể có ý nghĩa hết sức quan trọng vì mỗi loại chủ thể lại chịu sự

điều chỉnh của các quy chế khác nhau vì chúng hàm chứa trong mình những

Page 22: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

16

đặc đặc điểm tương đối khác nhau. Xác nhận địa vị pháp lý, tư cách của

thương nhân trên thương trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

thương nhân cũng như những người có quan hệ kinh doanh đối với họ. Trên

cơ sở các quy định pháp luật, thương nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ của

mình để tiến hành các giao dịch thương mại với thương nhân cũng như với tổ

chức và cá nhân khác trong và ngoài nước.

- Các chủ thể tham gia vào các hoạt động thương mại dựa trên nguyên

tắc tự do, bình đẳng và độc lập nhưng luôn phải dưới dự chỉ đạo và quản lý

chung của Nhà nước. Nhà nước thực hiện việc kiểm soát đối với hoạt động

của các thương nhân cũng như diễn biến của nền kinh tế nói chung thông qua

các quy định pháp luật về thương nhân. Trên cơ sở nắm bắt các thông tin về

nhu cầu và hoạt động thực trạng của thương nhân trong từng thời kỳ, Nhà

nước hoạch định, điều chỉnh hay thay đổi các chính sách thích ứng phù hợp

với chính sách phát triển kinh tế của mình.

- Các quy định pháp luật về thương nhân còn là cơ sở cho thương nhân

thực hiện các dự định hoặc kế hoạch. Pháp luật đưa ra những nguyên tắc hoạt

động nhất định như trung thực, thiện chí tạo niềm tin cho các chủ thể trong

quá trình hoạt động kinh doanh thương mại. Trong tình hình nền kinh tế hiện

nay, các hoạt động diễn ra sôi động, một thương nhân phải suy nghĩ và thay

đổi chiến lược kinh doanh không ngừng để bắt kịp được xu thế cũng như tận

dụng được thời gian, trí lực, thể lực. Việc tính toán trước những kế hoạch hoạt

động trong tương lai phải dựa trên sự tin tưởng vào pháp luật, tin tưởng vào

các quy định của pháp luật thương mại bảo đảm cho các dự định kinh doanh

trở thành hiện thực hay nói đúng hơn là tạo ra các khả năng để thương nhân

có thể hoạch định các công việc của mình. Vì thế, các nguyên tắc như trung

thực, thiện chí trong hoạt động kinh doanh được luật thương mại rất đề cao.

- Các quy định pháp luật thương mại nói chung và pháp luật về thương

nhân nói riêng còn là tiền đề cho sự phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ

Page 23: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

17

pháp luật về thương mại; mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài. Chính

các quy định pháp luật về thương nhân là điều kiện để thương nhân tiến hành

các hoạt động thương mại của mình phù hợp với sự phát triển chung của nền

kinh tế. Qua đó, tạo ra môi trường bình đẳng cho hoạt động của thương nhân,

thương nhân được cạnh tranh hợp pháp trong hoạt động thương mại và

nghiêm cấm các hành vi đầu cơ, lũng đoạn thị trường, bán phá giá để cạnh

tranh, dèm pha thương nhân khác, đe doạ nhân viên hoặc khách hàng của

thương nhân khác, vi phạm quyền sở hữu công nghiệp. Chính điều này đã có

tác dụng tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế. Bởi lẽ, các hoạt động

thương mại của thương nhân trên thị trường là nhằm mục đích phục vụ các

nhu cầu trực tiếp của xã hội.

- Như chúng ta đã biết khi xây dựng pháp luật thương mại người ta

thường dựa vào hai mảng vấn đề lớn: hoặc là chủ thể, coi luật thương mại là

luật riêng của thương nhân như cách làm của Bộ luật Thương mại Đức ban

hành năm 1897 tập trung các quy định vào thương nhân; hoặc là theo khách

thể, coi luật thương mại là luật điều chỉnh hành vi mang tính thương mại như

cách làm của Bộ luật Thương mại Pháp ban hành năm 1807 tập trung các quy

định vào hành vi thương mại. Song thực tiễn phát triển pháp luật thương mại

đã chứng minh rằng cả hai phương pháp trên đều hàm chứa cả vấn đề chủ thể

lẫn vấn đề khách thể. Bởi, thương nhân là chủ thể chính thực hiện các hành vi

thương mại. Do đó, khi xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về

thương nhân cũng là điều kiện tiền đề cho các hành vi thương mại được hiện

thực hoá trên thương trường.

Nói tóm lại, pháp luật về thương nhân đang ngày càng khẳng định được

vị trí quan trọng của mình đối với sự phát triển của thương mại nói riêng và

của đất nước nói chung. Bởi lẽ, với tư cách là một bộ phận cấu thành quan

trọng của nền kinh tế thị trường, thương nhân là người trực tiếp tiến hành các

Page 24: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

18

hoạt động thương mại với nhiều mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa

các mảng của quan hệ kinh doanh đa dạng, phức tạp, phần nào chịu sự điều

tiết của các ngành luật khác là một vấn đề rất phức tạp. Một hệ thống pháp

luật hoàn thiện về thương nhân sẽ là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của

thị trường thương mại.

1.3.3 Nguồn của pháp luật về thƣơng nhân ở Việt Nam

Nguồn của một ngành luật là tổng hợp những văn bản pháp luật do cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh một quan hệ xã hội

nhất định. Nguồn pháp luật ghi nhận về thương nhân cũng chính là nguồn của

pháp luật thương mại vì thương nhân và quan hệ giữa các thương nhân là chủ

thể và đối tượng điều chỉnh chính của luật thương mại. Đặc thù trong việc

điều chỉnh các quan hệ thương mại nên nguồn của luật thương mại không chỉ

bao gồm các văn bản pháp luật mà còn có thể là các văn bản quy phạm khác.

Nguồn của luật thương mại bao gồm các nhóm văn bản cơ bản sau:

1.3.3.1 Các văn bản quy phạm pháp luật

a) Hiến pháp

Đây là đạo luật cơ bản của Nhà nước, xác định chế độ chính trị, kinh tế

– xã hội của đất nước nên Hiến pháp có giá trị cao nhất và là nguồn của nhiều

ngành luật, trong đó có luật thương mại. Trong hiến pháp có ghi nhận những

vấn đề quan trọng sau:

- Xác định rõ định hướng cũng như mục đích xây dựng nền kinh tế

của đất nước

- Xác định rõ chế độ sở hữu Nhà nước

- Ghi nhận các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư

- Ghi nhận quyền tự do kinh doanh của công dân

Ngoài ra còn nhiều những quy định khác trong Hiến pháp quy định về hoạt

động thương mại. Hiến pháp là nguồn rất quan trọng của luật thương mại.

Page 25: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

19

b) Bộ luật Dân sự

Sau Hiến pháp, Bộ luật dân sự là đạo luật có vị trí quan trọng trong hệ

thống pháp luật, liên quan mật thiết đến mọi mặt của đời sống thường ngày

của người dân, trong đó có lĩnh vực thương mại. Thông qua những quy định

về các vấn đề như tài sản, quyền sở hữu, bảo vệ quyền sở hữu, hợp đồng, sở

hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ,...Bộ luật Dân sự quy định các chuẩn mực

pháp lý cho các quan hệ thương mại phát triển trong môi trường thuận lợi,

đưa lại cho các giao dịch độ tin cậy pháp lý cao. Cùng với các văn bản khác

trong hệ thống pháp luật kinh tế, Bộ luật dân sự góp phần xây dựng lên khung

pháp lý cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường, tạo nên môi

trường pháp lý thuận lợi, thống nhất cho các thương nhân hoạt động và phát triển.

c) Các luật do Quốc hội thông qua

Ở Việt Nam hiện nay, các văn bản là nguồn luật thương mại do Quốc

hội thông qua có một số lượng khá lớn:

- Các luật quy định về địa vị pháp lý của các thương nhân: Luật Doanh

nghiệp 2014, Luật hợp tác xã 2012...

- Các luật quy định cụ thể về các loại hành vi thương mại như: Luật

thương mại 2005, Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng 2010, Luật đầu tư

2014, Luật chứng khoán...

- Các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản đối với thương nhân

lâm vào tình trạng phá sản được quy định tại Luật phá sản 2014.

d) Các văn bản dƣới luật

Các văn bản dưới luật cũng là nguồn quan trọng của Luật thương mại

bao gồm Pháp lệnh của ủy ban thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính

Phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính Phủ và các Thông tư của các Bộ, Cơ

quan ngang Bộ.

Page 26: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

20

1.3.3.2 Điều ước quốc tế

Điều ước quốc tế là sự thỏa thuận giữa các chủ thể của công pháp quốc

tế (chủ yếu là các quốc gia) trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện nhằm thiết lập

nguyên tắc pháp lý bắt buộc, là cơ sở cho hoạt động thương mại.

Điều ước quốc tế có thể chi ra làm hai loại: Các điều ước có tính chất

chỉ đạo, quy định những nguyên tắc chung về hoạt động thương mại giữa các

quốc gia tham gia kí kết, ví dụ như Hiệp định thương mại hàng hải, Hiệp định

thương mại Việt Mỹ... Và các điều ước điều chỉnh trực tiếp các quan hệ

thương mại cụ thể như Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế,

Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS, thỏa ước Madrid về đăng ký

quốc tế nhãn hiệu hàng hóa...

Ở Việt Nam, việc áp dụng Điều ước quốc tế được pháp luật quy định: đối

với Điều ước quốc tế về thương mại Nhà nước đã tham gia kí kết và phê chuẩn,

chúng ta sẽ tuân theo những quy định trong Điều ước quốc tế. Còn đối với Điều

ước quốc tế mà Nhà nước vẫn chưa tham gia và chưa công nhận, chúng ta có

quyền bảo lưu, không áp dụng những quy định trái với pháp luật Việt Nam.

1.3.3.3 Tập quán thương mại

Nói đến nguồn của Luật thương mại, không thể không nói đến tập quán

thương mại. Tập quán thương mại có thể hiểu là thói quen được thừa nhận

rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực

thương mại có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và

nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Tập quán thương mại có ý

nghĩa đặc biệt trong việc giải thích và bổ sung các nghĩa vụ hợp đồng. Trong

hoạt động, nếu các bên đương sự cùng làm một nghề và cùng là thương gia,

không viện dẫn rõ ràng một số điểm đã được thói quen chấp nhận thì các bên

đó mặc nhiên công nhận tập quán.

Mặc dù hệ thống pháp luật nước ta không phải là hệ thống luật tập

quán, các án lệ không được coi là nguồn của luật, nhưng trong hoạt động

Page 27: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

21

thương mại tập quán thương mại thường được áp dụng, đặt biệt trong hoạt

động thương mại với thương nhân nước ngoài, ví dụ, trong thanh toán theo

thể thức L/C (thư tín dụng), quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng

chứng từ (UCP) cũng thường được các bên thanh toán áp dụng hoặc trong

giao nhận hàng hóa với thương nhân, INCOTERMS 2000 và INCOTERM

2010 (Các điều khoản thương mại quốc tế) thường được áp dụng.

Pháp luật Việt Nam cũng có những quy định về việc áp dụng tập quán

trong những trường hợp nhất định. Theo Điều 5 Bộ luật dân sự Việt Nam

2015, hay điều 3 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005, trong trường hợp pháp luật

không quy định về các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán,

nếu tập quán này không trái với các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam. Tại

khoản 1 Điều 5 Luật thương mại Việt Nam 2005 cũng cho phép các bên trong

quan hệ hợp đồng quốc tế được thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại quốc

tế nếu tập quán đó không trái với pháp luật Việt Nam.

Trong điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế hiện nay, các quan hệ

song phương và đa phương giữa các quốc gia đang phát triển tích cực cả về

chiều sâu và chiều rộng thì tập quán thương mại quốc tế càng có ý nghĩa trong

việc điều chỉnh các quan hệ thương mại.

1.3.3.4 Điều lệ của thương nhân

Bên cạnh những nguồn quan trọng kể trên, điều lệ về tổ chức và hoạt

động của thương nhân (đặc biệt thương nhân là pháp nhân) cũng được coi là

nguồn của luật thương mại. Trên cơ sở quy định của pháp luật, điều lệ của

thương nhân là văn bản do chính thương nhân ban hành và được Nhà nước

thừa nhận thông qua một hình thức nhất định nhằm cụ thể hóa, chi tiết hóa các

quy định của pháp luật cho phù hợp với điều kiện về tổ chức và hoạt động của

mỗi thương nhân. Các quy định trong điều lệ của thương nhân được sử dụng

chủ yếu để điều chỉnh quan hệ trong nội bộ của thương nhân. Tuy nhiên trên

Page 28: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

22

thực tế, trong nhiều trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước

sử dụng điều lệ như là một căn cứ pháp lý để xử lý các vấn đề liên quan đến

quyền và nghĩa vụ của thương nhân cũng như các bộ phận cấu thành của nó.

Điều đó thể hiện điều lệ của thương nhân cũng là nguồn của luật thương mại.

1.4 Phân loại thƣơng nhân

1.4.1 Các cách phân loại thƣơng nhân

Thương nhân là chủ thể cơ bản của luật thương mại và khái niệm

thương nhân là khái niệm quan trọng bậc nhất trong pháp luật thương mại của

các nước trên thế giới. Mặc dù các quốc gia đều đã đưa ra rất nhiều quy định

để điều chỉnh về chế định thương nhân nhưng đây vẫn là một vấn đề rất rộng

và cần được tìm hiểu sâu hơn nữa. Trước tiên để hiểu cơ bản về thương nhân,

ta có thể phân loại thương nhân thành những loại khác nhau để phân tích.

Trên thế giới hiện nay có rất nhiều cách phân loại thương nhân: xét về

tư cách thương nhân gồm: thương nhân có tư cách đầy đủ và thương nhân

khuyết tư cách, xét về quốc tịch của thương nhân gồm: thương nhân trong

nước và thương nhân nước ngoài, xét về cơ sở hoạt động kinh doanh của

thương nhân gồm: thương nhân có cơ sở kinh doanh và thương nhân không

có cơ sở kinh doanh, xét về ngành nghề kinh doanh của thương nhân gồm:

thương nhân hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, thương nhân hoạt động trong

lĩnh vực đầu tư... Nói chung, xét theo mỗi khía cạnh ta đều có những cách

phân loại thương nhân khác nhau tùy theo cách tiếp cận về thương nhân của

mỗi quốc gia trên thế giới.

Tuy nhiên, nhìn chung cách phân loại thương nhân phổ biến nhất được

các nhà học thuật tập trung nghiên cứu hiện nay là cách phân loại theo hình

thức tổ chức kinh doanh của thương nhân chia thương nhân thành hai loại:

Thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân.

Pháp luật Việt Nam cũng đi theo quan điểm chung của thế giới, chia

thương nhân thành hai loại chính gồm thương nhân thể nhân (cá nhân kinh

Page 29: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

23

doanh và doanh nghiệp tư nhân) và thương nhân pháp nhân (chủ yếu là các

loại hình doanh nghiệp)... Tuy nhiên, bên cạnh đó luật thương mại và các văn

bản pháp luật liên quan của Việt Nam còn đề cập đến một số đối tượng chủ

thể khác như: hộ gia đình, tổ hợp tác. Đây là những chủ thể còn gây nhiều

tranh cãi trong việc xác định tư cách thương nhân, tác giả sẽ bàn luận trong

những phần sau của luận văn.

1.4.2 Thƣơng nhân thể nhân và thƣơng nhân pháp nhân

1.4.2.1 Thương nhân thể nhân

Từ thời kì khai nguyên, các cá nhân đều thực hiện hoạt động kinh

doanh một cách đơn lẻ. Bởi vậy, thương gia thể nhân chính là hình thức chủ

thể đầu tiên thực hiện các hành vi thương mại cũng như tham gia vào các

quan hệ thương mại. Trên thế giới, mỗi quốc gia đều có những cách gọi khác

nhau về thương nhân thể nhân. Theo Pháp luật Anh Quốc thương nhân thể

nhân được gọi là “Sole trader”, pháp luật Hoa Kỳ gọi là “Sole

propriertorship” [39]. Trong khi đó, thương nhân thể nhân trong pháp luật

Việt Nam có thể được hiểu là “cá nhân kinh doanh”.

Thương nhân thể nhân là hình thức kinh doanh đơn giản và sơ khai

nhất. Từ khi các quan hệ mua bán hàng hóa ra đời, những người trực tiếp thực

hiện hoạt động mua và bán hàng hóa để kiếm lời được gọi là các “nhà buôn”,

“thương gia”. Những chủ thể này ban đầu chỉ thực hiện các hoạt động kinh

doanh mua bán đơn thuần cho đến khi quan niệm về thương mại được mở

rộng, hoạt động của các thương nhân cũng đa dạng hơn như các hành vi cung

ứng dịch vụ, đầu tư, khuyến mại, quảng cáo... Tất cả các hành vi thương mại

phục vụ cho việc kinh doanh của thương nhân thể nhân đều do thương nhân

hoặc những người được thương nhân ủy quyền thực hiện, quyền và nghĩa vụ

phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh do thương nhân chịu trách

nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của chính bản thân mình.

Page 30: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

24

Trong thực tế đời sống kinh tế hiện nay, thương nhân thể nhân vẫn luôn

đóng vai trò vô cùng quan trọng. Tất cả các quan hệ thương mại, hoạt động

thương mại của cá nhân hay tổ chức đều có xuất phát điểm từ các mối quan

hệ giữa các cá thể riêng biệt. Mỗi quốc gia trên thế giới đều có những quy

định riêng về thương nhân thể nhân.

Do quan điểm về khái niệm để xác định thế nào là thương nhân khác

nhau nên các yêu cầu và điều kiện để được công nhận là thương nhân thể

nhân của các quốc gia cũng khác nhau.

Ở Pháp, quốc gia này có quan điểm xác định thương nhân theo bản chất

hành vi mà chủ thể thực hiện. Như vậy, theo luật thương mại Pháp, một chủ

thể để được xác định là thương nhân thể nhân ngoài việc đáp ứng đủ yêu cầu

về năng lực pháp luật và năng lực hành vi thì chủ thể cần đủ những điều kiện sau:

- Thực hiện các hành vi thương mại một cách thường xuyên và lấy chúng

làm nghề nghiệp của mình;

- Tự thân mình thực hiện các hành vi thương mại, các hành vi thương

mại được thực hiện dưới danh nghĩa và tài khoản của chính bản thân họ (điều

này ngoại trừ người hoạt động thương mại dưới danh nghĩa và tài khoản của

người khác như người làm công, người quản lý cửa hàng, cơ sở thương mại,

người được ủy quyền...)

Ở Đức, Bộ luật Thương mại của Đức không định nghĩa cụ thể thế nào

là một thương nhân và những trường hợp nào được coi là có tư cách thương

nhân. Các thương nhân thể nhân nói chung được tự do hoạt động, ít bị ràng

buộc bởi các quy định của quy chế thương nhân. Bộ luật về thương nhân của

Cộng hoà Liên bang Đức cho rằng những thương nhân nhỏ là những

thương nhân khuyết tư cách nên không bắt buộc phải thực hiện hết mọi

nghĩa vụ của thương nhân như không phải đăng ký vào danh bạ thương

mại, không phải có cửa hiệu riêng… nhưng vẫn phải tuân thủ theo các quy

định của pháp luật thương mại.[15]

Page 31: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

25

Ở Hoa Kỳ, Bộ luật Thương mại Hoa Kỳ (UCC-1990) điều chỉnh vấn đề

thương nhân theo bản chất hành vi thương mại do thương nhân thực hiện.

Theo đó, các cá nhân chỉ cần đáp ứng đủ điều kiện về năng lực hành vi dân sự

đều có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh tên họ hoặc tên gọi

thương mại mà không cần làm thủ tục xin phép. Tuy nhiên, ngoài những điều

kiện được quy định trong luật, cá nhân muốn tham gia vào nền kinh tế Hoa

Kỳ cần trang bị đầy đủ các điều kiện vật chất về vốn, tài sản... cũng như kiến

thức về chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cần thiết để có thể tồn tại trong

nền kinh tế cạnh tranh khốc liệt đó.[16]

Ở Việt Nam, thương nhân thể nhân được xác định theo hình thức. Luật

thương mại 2005 quy định “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành

lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên

và có đăng ký kinh doanh”. Như vậy, quy định tiên quyết để được xác nhận tư

cách thương nhân là các chủ thể cá nhân phải có đủ năng lực dân sự, tổ chức

phải được tồn tại dưới dạng pháp nhân và tất cả các loại chủ thể đều phải có

đăng ký kinh doanh, đăng ký doanh nghiệp theo đúng quy định của pháp luật.

1.4.2.2 Thương nhân pháp nhân

Pháp nhân

Trong hoạt động thương mại, ngoài các chủ thể là thương nhân thể

nhân, còn có các loại tổ chức và thực thể khác.

Để các tổ chức tham gia vào các quan hệ pháp luật nói chung và các quan

hệ thương mại nói riêng với tư cách là một chủ thể riêng biệt, pháp luật cần có

những quy định cụ thể điều chỉnh hoạt động thương mại của các loại chủ thể

này. Từ đó, khái niệm thương nhân pháp nhân ra đời nhằm phân biệt với các

thương nhân thể nhân là những cá nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật.

Trước hết, thương nhân pháp nhân là một loại tổ chức có tư cách pháp

nhân. Do đó, để hiểu thế nào là thương nhân pháp nhân, ta cần tìm hiểu khái niệm

về pháp nhân và các vấn đề liên quan đến loại chủ thể được gọi là “pháp nhân”.

Page 32: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

26

Pháp nhân là một tổ chức tồn tại độc lập với sự tồn tại của các thành

viên tham gia. Pháp nhân được coi như một thực thể riêng biệt, có lĩnh vực

hoạt động riêng, có ý chí riêng, không trùng hợp với ý chí và đời sống các

thành viên trong pháp nhân đó. Pháp nhân được hình thành dựa trên ý chí của

những người sáng lập. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, sự tồn tại và phát

triển của pháp nhân không phụ thuộc vào sự thay đổi của các thành viên pháp

nhân. Mỗi pháp nhân đều được coi như một chủ thể riêng biệt trong các quan

hệ thương mại, nó có ý chí riêng, lĩnh vực hoạt động riêng do những người

đứng đầu cùng thống nhất quyết định dựa trên ý chí chung của các thành viên

mà không bị lệ thuộc vào ý chí riêng của bất kì thành viên cụ thể nào.

Pháp nhân là khái niệm ra đời sau cùng khi nền kinh tế tư bản phát

triển. Mỗi quốc gia đều có rất nhiều quy định điều chỉnh về hoạt động của

pháp nhân nhưng dường như chưa có quốc gia nào đưa ra một định nghĩa

chính xác nhất thế nào là một pháp nhân. Nhìn chung, quan điểm cơ bản nhất

được đưa ra để xác định tư cách pháp nhân của một chủ thể là dựa vào năng

lực pháp luật và chế độ tài sản của chủ thể.

Việt Nam cũng theo xu thế chung của thế giới và đưa ra quy định về

điều kiện để trở thành pháp nhân tại Điều 74 Bộ luật Dân Sự 2015. Theo đó, để

được công nhận là pháp nhân, một tổ chức cần có đủ những điều kiện như sau:

- Pháp nhân là một tổ chức được thành lập hợp pháp theo quy định của

pháp luật. Một tổchức được coi là hợp pháp nếu có mục đích, nhiệm vụ hợp

pháp và được thành lập hợp pháp theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy

định. Mỗi loại pháp nhân đều có những quy định về điều kiện thành lập, hoạt

động riêng... và chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền về

toàn bộ hoạt động của tổ chức mình.

- Pháp nhân có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và đầy đủ theo quy định của pháp

luật. Tổ chức là một tập thể người được liên kết với nhau theo một hình thái

nhất định phù hợp với chức năng, lĩnh vực hoạt động của loại hình tổ chức đó.

Page 33: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

27

Cơ cấu tổ chức chặt chẽ nhằm biến một tập thể người thành một thể thống

nhất có khả năng thực hiện hiệu quả nhất nhiệm vụ của tổ chức đó đặt ra khi

thành lập. Việc chọn lựa hình thức tổ chức như thế nào căn cứ vào mục đích,

nhiệm vụ của tổ chức đó, căn cứ vào cách thức góp vốn thành tài sản của tổ

chức. Pháp nhân là một tổ chức độc lập xong vẫn chịu sự chi phối bởi cá

nhân, tổ chức khách hoặc nhà nước. Sự độc lập của pháp nhân chỉ giới hạn

trọng quan hệ dân sự, kinh tế, lao động với các chủ thể khác.

- Tổ chức khi là pháp nhân thì phải có tài sản độc lập và tự chịu trách

nhiệm độc lập bằng tài sản của mình. Để tham gia vào quan hệ tài sản với tư

cách là một chủ thể độc lập thì pháp nhân phải có tài sản riêng của mình. Tài

sản riêng của pháp nhân không chỉ là tài sản thuộc sở hữu của pháp nhân mà

còn có thể có tài sản của Nhà nước gia cho dưới hình thức Nhà nước đầu tư,

góp vốn. Tài sản của pháp nhân độc lập với tài sản của cá nhân - thành viên

của tổ chức pháp nhân, độc lập với cơ quan cấp trên của tổ chức pháp nhân

đó. Ngoài ra tài sản của pháp nhân thuộc quyền sở hữu của pháp nhân, do

pháp nhân chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong phạm vi nhiệm vụ, mục đích

của pháp nhân được thể hiện dưới dạng vốn đầu tư, tư liệu sản xuất và một số

loại tài sản khác. Pháp nhân có tài sản riêng thông qua việc góp vốn, việc hoạt

động, kinh doanh, sản xuất...của pháp nhân.

Pháp nhân tham gia vào quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân như một

chủ thể độc lập, khi xảy ra sự vi phạm thì pháp nhân phải chịu trách nhiệm

bằng tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, trách nhiệm của pháp nhân thuộc

dạng trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi tài sản riêng của pháp nhân.

- Tổ chức muốn trở thành pháp nhân thì phải nhân danh mình tham gia vào

các quan hệ pháp luật một cách độc lập, có thể trở thành bị đơn hoặc nguyên đơn

trước tòa. Với tư cách là chủ thể độc lập, pháp nhân có khả năng hưởng quyền

cũng như chịu trách nhiệm và thực hiện nghĩa vụ do pháp luật quy định.

Page 34: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

28

Các quốc gia trên thế giới nhìn chung có sự thống nhất tương đối trong

việc xác định các dấu hiệu cơ bản cần có của một pháp nhân. Tuy nhiên

những dấu hiệu trên là chưa hoàn toàn đầy đủ. Mỗi loại pháp nhân lại có

những đặc điểm riêng biệt khác nhau. Và với một tổ chức có đầy đủ những

điều kiện trên cũng chưa chắc chắn được coi là pháp nhân. Điều này được đặt

ra trong trường hợp những thương nhân đặc biệt như công ty hợp danh. Các

công ty này không được công nhận là pháp nhân ở Đức, Mỹ và Anh, nhưng

lại được công nhận là pháp nhân ở Pháp, Nhật Bản. Tóm lại, những quy định,

định nghĩa về pháp nhân trong các văn bản và tài liệu khoa học có lẽ vẫn chỉ

mang tính chất tương đối và trừu tượng.

Thƣơng nhân pháp nhân

Bên cạnh những quy định chưa thực sự rõ ràng và cụ thể về khái niệm

pháp nhân, pháp luật thế giới hiện cũng chưa có một khẳng định chính xác

nhất thế nào được coi là thương nhân pháp nhân. Hiện nay, mỗi quốc gia cũng

có một cách định nghĩa cũng như cách xác định thương nhân pháp nhân khác

nhau. Nhưng nhìn chung, tất cả các loại tổ chức tồn tại dưới dạng công ty -

doanh nghiệp đều được coi là thương nhân. Nền kinh tế của các quốc gia trên

thế giới hiện nay tồn có nhiều các loại hình công ty khác nhau như: công ty

trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, công ty hợp vốn,

công ty nhà nước... Người ta có thể phân loại các loại hình công ty theo nhiều

cách khác nhau như theo tính chất liên kết, chế độ trách nhiệm của thành viên,

ý chí của cơ quan lập pháp. Nhưng dưới góc độ pháp lý, người ta chia công ty

thành hai loại cơ bản là các công ty đối nhân và công ty đối vốn.

a) Công ty đối nhân

Công ty đối nhân là những công ty được thành lập trên cơ sở tư cách cá

nhân và sự tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên. Loại hình công ty này có đặc

điểm chung là các thành viên đều có trách nhiệm vô hạn và có tính chất may

rủi rất lớn khiến cho các thành viên có thể mất hết sản nghiệp nếu kinh doanh

Page 35: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

29

thua lỗ. Loại hình đặc trưng nhất cho công ty đối nhân là loại hình công ty

hợp danh. Công ty hợp danh là loại hình công ty có ít nhất hai thành viên hợp

danh (đều là cá nhân và thương nhân) cùng hoạt động thương mại dưới cùng

một pháp nhân chung và liên đới chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản

của mình về các khoản nợ của công ty. Ngoài các thành viên hợp danh, công

ty còn có thể có các thành viên góp vốn. Các thành viên góp vốn chỉ chịu

trách nhiệm với các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào

công ty. Do chế độ trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh là vô hạn với các

thành viên hợp danh và hữu hạn với các thành viên hợp vốn nên việc xác định

tư cách pháp nhân của công ty hợp danh vẫn còn khá nhiều tranh cãi. Tùy

theo pháp luật mỗi quốc gia, tư cách pháp nhân của công ty pháp nhân được

xác định khác nhau. Như đã nói ở trên, các nước Đức, Mỹ và Anh thừa nhận

tư cách pháp nhân của công ty hợp danh còn các nước Pháp, Nhật Bản thì

không. Pháp luật Việt Nam xác định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân

theo quan điểm pháp luật của các nước Đức, Anh, Mỹ.

Do chế độ trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh, loại hình công

ty đối nhân có ưu thế nhất định trong lĩnh vực vay tín dụng. Mặt khác, các

công ty này thường ít đầu tư vào khu vực có nhiều rủi ro vì độ trách nhiệm vô

hạn. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, công ty đối nhân dường như

không có một quy định cụ thể nào về cơ chế điều hành hoạt động, điều lệ hoạt

động, vốn pháp định cụ thể nên cũng gây không ít tâm lý e ngại cho các nhà

đầu tư khi muốn hợp tác với những công ty có loại hình kinh doanh này.

b) Công ty đối vốn

Ngược lại với công ty đối nhân, công ty đối vốn chỉ quan tâm đến phần

vốn góp vào công ty của các thành viên. Trong công ty đối vốn, tài sản của

công ty có sự tách biệt hoàn toàn với tài sản của các cá nhân thành viên. Mỗi

thành viên của công ty chỉ chịu trách nhiệm và nghĩa vụ với công ty trong

phần vốn góp của mình. Công ty đối vốn trên thế giới gồm hai loại hình chính

là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần:

Page 36: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

30

Công ty cổ phần: là hình thức công ty mà trong đó vốn của nó được

chia thành các phần nhỏ nhất bằng nhau được gọi là cổ phần được tự do

chuyển nhượng trên thị trường và các cổ đông là những người nắm giữ các cổ

phần đó chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn đã đầu tư.

Thành viên công ty (cổ đông) có thể là người không có kiến thức về kinh

doanh, không cần quen biết nhau; công ty có thể có rất nhiều thành viên nên

việc quản lý của công ty này chịu rất nhiều sự ràng buộc của các văn bản

pháp luật. Đây cũng chính là điểm khiến cho các nhà đầu tư có phần e dè khi

tham gia vào hoạt động của công ty cổ phần – mô hình điều hành hoạt động

phức tạp do có quá nhiều thành viên là cổ đông của công ty.

- Công ty trách nhiệm hữu hạn: là hình thức công ty lai tạp giữa công ty

hợp danh và công ty cổ phần. Khác với tất cả các loại hình công ty khác do

các thương gia lập ra, pháp luật thừa nhận và góp phần hoàn thiện; công ty

trách nhiệm hữu hạn là sản phẩm của hoạt động lập pháp, do các chuyên gia

lập ra, pháp lý sáng tạo ra. Mô hình công ty TNHH được ra đời nhằm giải

quyết những nhược điểm của công ty cổ phần. Số lượng thành viên công ty

tối đa của công ty TNHH là một con số hạn chế tùy theo pháp luật mỗi nước.

Nhờ vậy, mô hình tổ chức và hoạt động của công ty TNHH đơn giản và ít rủi

ro hơn những loại hình công ty quá lớn như công ty cổ phần. Chính vì vậy mà

loại hình công ty này đã được các nhà đầu tư hào hứng hưởng ứng.

Trên đây là những khái quát chung về một số loại hình công ty đang

tồn tại trong nền kinh tế hiện nay. Bên cạnh đó còn có rất nhiều loại hình công

ty hỗn hợp khác, chúng có những đặc điểm mà pháp luật cần điều chỉnh riêng

biệt. Các công ty này tuỳ thuộc theo quy định của mỗi nước mà được coi là có

tư cách thương nhân hay không. Các công ty - thương nhân này đã và đang

góp phần rất lớn vào sự phát triển của thương mại nói riêng và các hoạt động

kinh tế nói chung trên thế giới.

Page 37: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chính phủ (2000), Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 về

đăng ký kinh doanh, Hà Nội

2. Chính phủ (2004), Nghị định số 109/NĐ-CP ngày 03/02/2000 về đăng ký

kinh doanh, Hà Nội

3. Chính phủ (2006), Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về đăng

ký kinh doanh, Hà Nội

4. Chính phủ (2010), Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 về đăng

ký kinh doanh, Hà Nội

5. Chính phủ nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 về Đăng ký doanh

nghiệp, Hà Nội

6. Chính phủ nghị định 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 Quy định chi tiết

một số điều của Luật Doanh nghiệp, Hà Nội

7. Ngô Huy Cương (2002), “Hành vi thương mại”, Nghiên cứu lập pháp,tr.

39-43.

8. Ngô Huy Cương (2012), Luật Thương mại, Bài giảng điện tử.

9. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình luật thương mại – phần chung và

thương nhân, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

10. Ngô Huy Cương (2014), "Sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Phân tích,

bình luận và kiến nghị", Nghiên cứu lập pháp, 10(266), Kỳ 2, tr. 25-33.

11. Ngô Huy Cương (2014), "Dự án sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Bình luận

những vấn đề pháp lý chủ yếu", Nghiên cứu lập pháp, 13(269), Kỳ 1, tr. 21-29.

Page 38: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

81

12. Ngô Huy Cương (2009), “Phân tích pháp luật về hộ kinh doanh để tìm ra các bất

cập”, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 25, 2634 – 245

13. Bùi Ngọc Cường (2008), Giáo trình Luật thương mại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. “Doanh nghiệp xã hội - Giải pháp bù đắp khiếm khuyết của thị trường”-

Báo Tia sáng - Ngày 26/3/2015

15. GS. TS. Friedrich Kòbur vµ GS.TS Jògen Simon - MÊy vÊn ®Ò ph¸p luËt

kinh tÕ CHLB §øc. Nxb Ph¸p lý 1992. tr. 25.

16. Trần Đình Hảo (2002), “Thương gia theo luật Hoa Kỳ”, Tạp chí Nhà nước

và pháp luật số 2/2002, tr. 18.

17. Lê Nguyên Hùng (2012), Bài viết “Doanh nghiệp xã hội là gì”, Báo Tuổi

trẻ 21/2/2012.

18. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật kinh tế Việt

Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

19. Phạm Duy Nghĩa (2002), Giáo trình luật thương mại Việt Nam, tr.54, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

20. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo luật kinh tế, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

21. Nguyễn Như Phát (Chủ biên) (2013), Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam,

Nxb Tư Pháp, Hà Nội.

22. Quốc hội (1995), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

23. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

24. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

25. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội

26. Quốc hội (1997), Luật Thương mại, Hà Nội

27. Quốc hội (2005) Luật Thương mại, Hà Nội.

28. Quốc hội (2005) Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

29. Quốc hội (2014) Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

Page 39: CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAMrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33163/1/00050008258.pdf · bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định

82

30. Quốc hội (2014) Luật Đầu tư, Hà Nội.

31. Quốc hội (2005), Luật Hợp tác xã, Hà Nội.

32. Quốc hội (2012), Luật Hợp tác xã, Hà Nội.

33. Quốc hội (2014), Luật Phá sản, Hà Nội.

34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam,

Tập 1, Nxb Công an Nhân dân 2000, Hà Nội.

35. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật thương mại, Tập 1,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

36. Tổng cục thống kê

37. Viện Khoa học pháp lý (2002), Bộ luật Dân sự Pháp 1804, (Tài liệu dịch

tham khảo), Hà Nội.

38. Viện Khoa học pháp lý (2002), Bộ luật Thương mại Đức 1897, (Tài liệu

dịch tham khảo), Hà Nội

39. Viện Khoa học pháp lý (2002), Bộ luật Thương mại Nhất thể (UCC) của

Hoa Kỳ, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.

40. Viện Khoa học pháp lý (2002), Bộ luật Thương mại Nhật Bản 1899, (Tài

liệu dịch tham khảo), Hà Nội

41. Viện Khoa học pháp lý (2002), Bộ Luật Thương mại Pháp 1807, (Tài liệu

dịch tham khảo), Hà Nội.

42. ThS. Nguyễn Thị Vân Anh (2014), Luận văn “Phân loại thương nhân

theo pháp luật Việt Nam”, Hà Nội.