1
"HỐ HÒ KHOAN" Huỳnh long lộ vĩ; Bạch-sĩ tiên sanh, (1) Nam-quốc công khanh; Ra đời cứu tế; Hò xang xự xế; Mắc kế Trương-Lương, Tự giác thôn-hương; Qua dương cơ-khí. Lập chí hiền nhơn; Nên mới có cơn (2) Thất-Sơn tiếng nổ; Qui cổ diệt kim. Cửu cửu y nhiên; Tình riêng tham báu, Đổ máu tuôn rơi; Khùng mới nói chơi, Chư bang hàng phục. Anh hố hò khoan; Tình lang xự xế, Bỏ phế hương thôn; Ác đức vô môn. Rồng-Mây hội yến; Ra đời bất chiến, (3) Nổi tiếng từ-bi; Lời lẽ ráng ghi. Thành công êm thấm; Có lắm người yêu. Đức Thy viết Hòa-Hảo tháng 8 năm Kỷ-Mão 1939 (1 , 2 &3) Bạch Sĩ Tiên Sanh tức Trạng Trình cũng là tiền kiếp của Đức Huỳnh Giáo Chủ & Đức Phật Thầy ra đời xưng hiệu Khùng Điên, hành đạo nhẫn nhục “bt chiến tnhiên thành…Nổi tiếng tbi”. Trong bài Để Chơn Đất Bắc viết năm Canh thìn 1940, Đức Huỳnh Giáo Chủ thần thông hóa thân một vị thầy thuốc ra làng Đồng Thạnh ở Bắc kỳ, thầy trò đi lang thang vừa trị bịnh vừa ca hát nghêu ngao thiên cơ sấm giảng hư hư thực thực, có đoạn cho biết hành trạng Ngài là Trạng Trình sanh quán ở làng Cổ Am, tu ở Bạch Vân Am, tái thế vào Nam thuyết sấm giảng kêu gọi toàn dân chống giặc ngoại xâm Tây U và thọ tử tại Đốc Vàng năm 1947 để tạo điều kiện đại đoàn kết dân tộc cho công cuộc chống ba trận giặc ngoại xâm Tây U Tàu, kết cuộc đưa đến chiến thắng vẻ vang “Quy hi quc thy tiện phương hoaNam-thiền vô ngại đại Hoành-Sơn, Nhiên khước hành vi kỷ khách huờn. Tân tạo huyền sanh hồi châu ngọc, Hữu nhựt Tiên Thần hiệp luyện đơn. Vân-vân bạch-bạch thức sinh thần, * Ngài tu Bch Vân am Cổ quán thôn-hương nhứt dị nhân. * Sanh quán làng Cam Tiên-sinh hiện kiếp phò Lê-chúa, Hậu truyền độ chúng cảm hoài ân. Liên hồng cảm-kích vĩ long tuyền, Đồng-Thạnh hàng kỳ tác thiện duyên. Kiểng sám truyền danh lưu hậu thế, Nam-Việt trung-thần đệ nhứt Tiên. Nhơn danh ly biệt ngạn Bắc-hà, * Ngài tái thế vào min Nam Cổ súy lương thần vị phong ca. Thọ tử tâm trung trưng hùng khí, * Ngài thttại Đốc Vàng 1947 Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa. (trích Để Chơn Đất Bắc, Đức Thầy viết tháng giêng năm Canh thìn 1940) Sydney, 19-1-2018, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/ Ngài bày kế cho Nguyễn Hoàng vào đất Hoành Sơn lập nghiệp với câu sấm bất hủ: “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC Để chơn đất bắc Thầy trò, Dân còn quê kịch hát hò nghêu-ngao. Xóm làng Đồng-Thạnh xôn-xao, Cùng nhau bàn-tán khác nào trong Nam. Chúng dân tựu ngũ tùng tam, Kẻ ma người mị kẻ ham người cười. Làng nầy đông-đúc nhiều người, Dân tình cũng được đôi mươi tu hành. Nhiều người già cả lòng lành, Có nhiều kỳ lão biết rành tích xưa. Tới đâu cũng ít người ưa, Nằm lăn ca hát sớm trưa dỗ-dành. Trưng bày tích cũ đành-rành, Thiên-cơ đạo-đức tu hành phận tôi. Dân quê nghe nói hỡi ôi! Hung-đồ cường nghịch một hồi cười reo. Đâu đây mà có hùm beo,* Khéo bày bá-láp nghe theo làm gì? Thấy trong lê-thứ cũng kỳ, Đi đâu cũng bị dân thì ghét vơ. Ngày đầu nhiều kẻ còn mơ, Trị chơi ít bịnh ngẩn-ngơ xóm diềng. Cũng không thèm trọng bạc tiền, Quyết lòng tìm kiếm người hiền mà thôi. Bắc-kỳ dân ít mép-môi, Cũng còn cúng kiếng chè xôi ê-hề. Thương dân nên chịu nặng-nề, Lời ăn tiếng nói nhiều bề thấp cao. Tớ thầy nào nệ cần-lao, Thương dân dạy-dỗ xiết bao nhọc-nhằn. Ngũ-luân lễ nghĩa năm hằng, Tam cang trung-trực người rằng ngu-si. Viết ra mới bốn bài thi, Đặng cho trần thế biết thì Thần Tiên. Cũng xưng rằng hiệu Khùng Điên, Nhắc ra nhiều khúc Rồng-Tiên Hồng-Bàng. (trích phần đầu bài Để Chơn Đất Bắc, Đức Thầy viết năm 1940) Lời bình: Đức Huỳnh Giáo Chủ thần thông hóa ra thầy thuốc trị bịnh và thừa cơ nhiều người tụ hội đông, Ngài ca hát sấm giảng: Ri sau sthy hùm beo, Khp trong bá tánh hiểm nghèo đáng thương! Có những người không hiểu lời sấm tiên tri thiên cơ cao siêu, vội dèm pha rằng: Đâu đây mà có hùm beo, Khéo bày bá láp nghe theo làm gì! Cụm từ “hùm beo” trong quyển sấm Khuyên Người Đời Tu Niệm viết năm 1939 là tiên báo Thế Chiến Ba Tận Thế sẽ khởi từ năm con Cọp Canh Dần 2010 {hùm beo} khi Mohamed Bouazizi tự thiêu lật đổ nhà độc tài Ben Ali tổng thống xứ Tunisia ở Bắc Phi, hậu quả chiến tranh lan rộng khắp vùng Trung Đông như Libya, Ai Cập, Yemen, Bahrain, Iraq, Syria…Trong Chuyện Bên Thầy, Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết: “Ngòi nổ Thế Chiến Ba chắc chắn sẽ khởi từ Trung Đông. Khi cuộc chiến trung Đông tạm ngưng, sẽ đến vùng Á Đông”. Phiêu-phiêu mây bạc trắng lòa, Ấy la tại lịnh Ngọc-tòa sai Ta. Xuống trần thấy chúng thiết-tha, Vì đâu sắp đến hằng hà lụy rơi. Chừng nào mới đặng thảnh-thơi? Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân. Tây-Vức liên Nam hiệp định phân, Tam giáo qui nguơn viện lý cân. Hùng anh Phiên-quốc lai hàng phục, Đinh Hợi đáo niên tạo thiện nhân. (Trông Mây, Đức Thầy viết năm 1940) Ngài tiên báo có một vị Thiện nhân cứu thế sẽ tái sanh vào năm Đinh Hợi 1947 cũng là năm Ngài ra đi ở Đốc Vàng. Bạch Sĩ Tiên Sanh

ạch Sĩ Tiên Sanh - kinhsamthatson.files.wordpress.com · (1 , 2 &3) Bạch Sĩ Tiên Sanh tức Trạng Trình cũng là tiền kiếp của Đức Huỳnh Giáo Chủ & Đức

  • Upload
    others

  • View
    0

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: ạch Sĩ Tiên Sanh - kinhsamthatson.files.wordpress.com · (1 , 2 &3) Bạch Sĩ Tiên Sanh tức Trạng Trình cũng là tiền kiếp của Đức Huỳnh Giáo Chủ & Đức

"HỐ HÒ KHOAN"

Huỳnh long lộ vĩ; Bạch-sĩ tiên sanh, (1) Nam-quốc công khanh; Ra đời cứu tế; Hò xang xự xế; Mắc kế Trương-Lương, Tự giác thôn-hương; Qua dương cơ-khí. Lập chí hiền nhơn; Nên mới có cơn (2) Thất-Sơn tiếng nổ; Qui cổ diệt kim. Cửu cửu y nhiên; Tình riêng tham báu, Đổ máu tuôn rơi; Khùng mới nói chơi, Chư bang hàng phục. Anh hố hò khoan; Tình lang xự xế, Bỏ phế hương thôn; Ác đức vô môn. Rồng-Mây hội yến; Ra đời bất chiến, (3)

Nổi tiếng từ-bi; Lời lẽ ráng ghi. Thành công êm thấm; Có lắm người yêu. Đức Thầy viết ở Hòa-Hảo tháng 8 năm Kỷ-Mão 1939

(1 , 2 &3) Bạch Sĩ Tiên Sanh tức Trạng Trình cũng là tiền kiếp của Đức Huỳnh Giáo Chủ & Đức Phật Thầy ra đời xưng hiệu Khùng Điên, hành đạo nhẫn nhục “bất chiến tự nhiên thành…Nổi tiếng từ bi”.

Trong bài Để Chơn Đất Bắc viết năm Canh thìn 1940, Đức Huỳnh Giáo Chủ thần thông hóa thân một vị thầy thuốc ra làng Đồng Thạnh ở Bắc kỳ, thầy trò đi lang thang vừa trị bịnh vừa ca hát nghêu ngao thiên cơ sấm giảng hư hư thực thực, có đoạn cho biết hành trạng Ngài là Trạng Trình sanh quán ở làng Cổ Am, tu ở Bạch Vân Am, tái thế vào Nam thuyết sấm giảng kêu gọi toàn dân chống giặc ngoại xâm Tây U và thọ tử tại Đốc Vàng năm 1947 để tạo điều kiện đại đoàn kết dân tộc cho công cuộc chống ba trận giặc ngoại xâm Tây U Tàu, kết cuộc đưa đến chiến thắng vẻ vang “Quy hồi quốc thủy tiện phương hoa”

Nam-thiền vô ngại đại Hoành-Sơn, Nhiên khước hành vi kỷ khách huờn. Tân tạo huyền sanh hồi châu ngọc, Hữu nhựt Tiên Thần hiệp luyện đơn.

Vân-vân bạch-bạch thức sinh thần, * Ngài tu ở Bạch Vân am Cổ quán thôn-hương nhứt dị nhân. * Sanh quán làng Cổ am Tiên-sinh hiện kiếp phò Lê-chúa, Hậu truyền độ chúng cảm hoài ân.

Liên hồng cảm-kích vĩ long tuyền, Đồng-Thạnh hàng kỳ tác thiện duyên. Kiểng sám truyền danh lưu hậu thế, Nam-Việt trung-thần đệ nhứt Tiên.

Nhơn danh ly biệt ngạn Bắc-hà, * Ngài tái thế vào miền Nam Cổ súy lương thần vị phong ca. Thọ tử tâm trung trưng hùng khí, * Ngài thọ tử tại Đốc Vàng 1947 Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa. (trích Để Chơn Đất Bắc, Đức Thầy viết tháng giêng năm Canh thìn 1940)

Sydney, 19-1-2018, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Ngài bày kế cho Nguyễn Hoàng vào đất Hoành Sơn lập nghiệp với câu sấm bất hủ: “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân”

ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC

Để chơn đất bắc Thầy trò, Dân còn quê kịch hát hò nghêu-ngao. Xóm làng Đồng-Thạnh xôn-xao,

Cùng nhau bàn-tán khác nào trong Nam. Chúng dân tựu ngũ tùng tam,

Kẻ ma người mị kẻ ham người cười. Làng nầy đông-đúc nhiều người,

Dân tình cũng được đôi mươi tu hành. Nhiều người già cả lòng lành, Có nhiều kỳ lão biết rành tích xưa.

Tới đâu cũng ít người ưa, Nằm lăn ca hát sớm trưa dỗ-dành. Trưng bày tích cũ đành-rành,

Thiên-cơ đạo-đức tu hành phận tôi. Dân quê nghe nói hỡi ôi!

Hung-đồ cường nghịch một hồi cười reo.

Đâu đây mà có hùm beo,*

Khéo bày bá-láp nghe theo làm gì? Thấy trong lê-thứ cũng kỳ, Đi đâu cũng bị dân thì ghét vơ.

Ngày đầu nhiều kẻ còn mơ, Trị chơi ít bịnh ngẩn-ngơ xóm diềng. Cũng không thèm trọng bạc tiền,

Quyết lòng tìm kiếm người hiền mà thôi. Bắc-kỳ dân ít mép-môi,

Cũng còn cúng kiếng chè xôi ê-hề. Thương dân nên chịu nặng-nề, Lời ăn tiếng nói nhiều bề thấp cao.

Tớ thầy nào nệ cần-lao, Thương dân dạy-dỗ xiết bao nhọc-nhằn.

Ngũ-luân lễ nghĩa năm hằng, Tam cang trung-trực người rằng ngu-si.

Viết ra mới bốn bài thi, Đặng cho trần thế biết thì Thần Tiên. Cũng xưng rằng hiệu Khùng Điên,

Nhắc ra nhiều khúc Rồng-Tiên Hồng-Bàng. (trích phần đầu bài Để Chơn Đất Bắc, Đức Thầy viết năm 1940)

Lời bình: Đức Huỳnh Giáo Chủ thần thông hóa ra thầy thuốc trị bịnh và thừa cơ nhiều người tụ hội đông, Ngài ca hát sấm giảng:

Rồi sau sẽ thấy hùm beo,

Khắp trong bá tánh hiểm nghèo đáng thương!

Có những người không hiểu lời sấm tiên tri thiên cơ cao siêu, vội dèm pha rằng:

Đâu đây mà có hùm beo,

Khéo bày bá láp nghe theo làm gì!

Cụm từ “hùm beo” trong quyển sấm Khuyên Người Đời Tu Niệm viết năm 1939 là tiên báo Thế Chiến Ba Tận Thế sẽ khởi từ năm con Cọp Canh Dần 2010 {hùm beo} khi Mohamed Bouazizi tự thiêu lật đổ nhà độc tài Ben Ali tổng thống xứ Tunisia ở Bắc Phi, hậu quả chiến tranh lan rộng khắp vùng Trung Đông như Libya, Ai Cập, Yemen, Bahrain, Iraq, Syria…Trong Chuyện Bên Thầy, Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết: “Ngòi nổ Thế Chiến Ba chắc chắn sẽ khởi từ Trung Đông. Khi cuộc chiến trung Đông tạm ngưng, sẽ đến vùng Á Đông”.

Phiêu-phiêu mây bạc trắng lòa, Ấy la tại lịnh Ngọc-tòa sai Ta. Xuống trần thấy chúng thiết-tha, Vì đâu sắp đến hằng hà lụy rơi. Chừng nào mới đặng thảnh-thơi?

Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân.

Tây-Vức liên Nam hiệp định phân, Tam giáo qui nguơn viện lý cân. Hùng anh Phiên-quốc lai hàng phục, Đinh Hợi đáo niên tạo thiện nhân. (Trông Mây, Đức Thầy viết năm 1940)

Ngài tiên báo có một vị Thiện nhân cứu thế sẽ tái sanh vào năm Đinh Hợi 1947 cũng là năm Ngài ra đi ở Đốc Vàng.

Bạch Sĩ Tiên Sanh