42
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy “Chơn Pháp Lưu Truyền” là nhcô Ngô MHnh Biên Hòa đã bỏ công copy và gi cho chúng tôi. Nhn thy giá trquý báu ca quyn Kinh, chúng tôi phát nguyện đánh lại vào máy vi tính để có thđưa lên mng phân phát cho mọi người cùng đọc và tìm hiu. Vì đánh máy lại nên e rng không tránh khỏi được nhng li lm. Xin quí vđộc ginim tình tha thvà đồng thi xin chbo nhng chsai lầm để chúng tôi có thsa cha và btúc. Xin chân thành cm t, Viễn Lưu, Jun/25/2014. Email: [email protected] *Hình đồ btúc của ĐH. HĐạo Hnh cui sách, 07/01/2016 --oOo-- LỜI NÓI ĐẦU Xưa Thánh Nhơn nói rng: “Vạn lý hu bn mt shu chung th, stri tin hu tc cận đạo hỉ”. Nghĩa là: Hầu hết các lý strên đời này, đều có cái gc ngn của nó, đều có cái trước sau ca nó. Nếu ai mà biết được đầu đuôi manh mối y thì t gn với Đạo vy. Mà nay như hầu hết nhơn loại đã đi sâu vào lò (Hậu-Thiên-Bát- Quái) clăn lộn theo nếp sng hin sinh ca khoa hc vt cht hóa con người toàn din, nên lý trí hu hn ln áp tinh-thn vô song, tương tranh thì nhiều, mà tương trợ li ít. Nay xét thy kba này, Đức Thượng-Đế mlượng T-Bi ân xá, khai Hunh-Đạo đặng độ dn các Linh-căn Nguyên-Chưởng tu hành theo Tân-Pháp mà trvngôi xưa vị cũ hiệp cùng Đức Thượng-Đế. Nhưng: Lý đạo rt u-huyn thâm vin khó hiu khó tm. Nó li đòi hỏi rt nhiu công trình, móc moi tng khi óc, tìm kiếm đủ sách cũ kinh xưa, mới truy nguyên lý-đạo hầu đoạt-vthành công. Chúng tôi toàn thTịnh Trường không ntài hèn trí mn, mo mui nói lên nhng shc tm li dy ca Tiên-ngôn Thánh-ng, chsthật chúng tôi cũng còn mang xác phàm phu tục tánh nào có biết chi đâu mà nói lên những lời cao thượng. Nhưng: hằng ái ngi trong lòng rng “Thân tằm lo trndâu” nên chng ni gian lao khkhó, bao quản đêm ngày với tm lòng tn ty hy-sinh, để đền đáp Tứ-n trọng đại vy thôi.

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

1

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN

Chúng tôi nhận được bản soft copy “Chơn Pháp Lưu Truyền” là

nhờ cô Ngô Mỹ Hạnh ở Biên Hòa đã bỏ công copy và gửi cho

chúng tôi. Nhận thấy giá trị quý báu của quyển Kinh, chúng tôi

phát nguyện đánh lại vào máy vi tính để có thể đưa lên mạng phân

phát cho mọi người cùng đọc và tìm hiểu.

Vì đánh máy lại nên e rằng không tránh khỏi được những lỗi lầm.

Xin quí vị độc giả niệm tình tha thứ và đồng thời xin chỉ bảo những

chỗ sai lầm để chúng tôi có thể sửa chữa và bổ túc.

Xin chân thành cảm tạ,

Viễn Lưu, Jun/25/2014.

Email: [email protected]

*Hình đồ bổ túc của ĐH. Hồ Đạo Hạnh ở cuối sách, 07/01/2016

--oOo--

LỜI NÓI ĐẦU Xưa Thánh Nhơn nói rằng:

“Vạn lý hữu bổn mạt sự hữu chung thỉ, sở tri tiền hậu tắc cận đạo

hỉ”. Nghĩa là: Hầu hết các lý sự trên đời này, đều có cái gốc ngọn

của nó, đều có cái trước sau của nó.

Nếu ai mà biết được đầu đuôi manh mối ấy thì ắt gần với Đạo vậy.

Mà nay như hầu hết nhơn loại đã đi sâu vào lò (Hậu-Thiên-Bát-

Quái) cứ lăn lộn theo nếp sống hiện sinh của khoa học vật chất hóa

con người toàn diện, nên lý trí hữu hạn lấn áp tinh-thần vô song,

tương tranh thì nhiều, mà tương trợ lại ít.

Nay xét thấy kỳ ba này, Đức Thượng-Đế mở lượng Từ-Bi ân xá,

khai Huỳnh-Đạo đặng độ dẫn các Linh-căn Nguyên-Chưởng tu

hành theo Tân-Pháp mà trở về ngôi xưa vị cũ hiệp cùng Đức

Thượng-Đế.

Nhưng: Lý đạo rất u-huyền thâm viễn khó hiểu khó tầm. Nó lại

đòi hỏi rất nhiều công trình, móc moi từng khối óc, tìm kiếm đủ

sách cũ kinh xưa, mới truy nguyên lý-đạo hầu đoạt-vị thành công.

Chúng tôi toàn thể Tịnh Trường không nệ tài hèn trí mọn, mạo

muội nói lên những sự học tầm lời dạy của Tiên-ngôn Thánh-ngữ,

chớ sự thật chúng tôi cũng còn mang xác phàm phu tục tánh nào có

biết chi đâu mà nói lên những lời cao thượng.

Nhưng: hằng ái ngại trong lòng rằng “Thân tằm lo trả nợ dâu” nên

chẳng nại gian lao khổ khó, bao quản đêm ngày với tấm lòng tận

tụy hy-sinh, để đền đáp Tứ-Ấn trọng đại vậy thôi.

Page 2: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

2

Nay chúng tôi tham khảo Thánh-Giáo tri tầm Thiên-cơ diệu lý,

đặng làm tài liệu lưu truyền Chơn-Pháp để lại hậu lai, cho xứng với

công các Đấng Thiêng-Liêng đã từ lâu chỉ giáo.

Kể từ lúc sơ khởi ban đầu, tự nhiên Thiên-cơ tuần hườn, chuyển

phục, “Vật cực tắc phản” thì ra cơ Tạo-Hóa hóa sanh có đủ huyền

linh, nhưng cũng phải tuân y luật chung tùy duyên nhứt lý.

Phải đi theo Thiên-cơ động-tịnh chuyển-biến, rồi “Nhứt bổn tán ư

vạn thù” và vạn thù cũng phải qui hườn về nhứt bổn vậy.

Nhưng: Trước khi Vô-Cực thủ xuất (Xưng-Tôn) rồi lần lần đến

Lưỡng-Nghi, mới có Âm Dương phân biệt, kế đến vô số mãn khai,

sanh-sanh hóa-hóa.

Nay bằng muốn trở về chỗ vạn thù qui nhứt, thì cũng phải thuận

tùng theo Thiên-lý mà qui hiệp nhứt nguyên, nhưng các Thánh-

Giáo các kinh xưa, cũng đã dạy hết không sót một lời, mà rất thâm

u huyền-bí, khuất ẩn lộn-xộn đuôi-đầu khó tầm khó hiểu, khó ráp

đặng máy Thiên-cơ.

Nên ơn Trên hằng dạy đi dạy lại, không ngoài “Cơ Nhứt-bổn Tán

vạn thù” đến cùng cực rồi vạn thù cũng phải qui về nhứt bổn, mới

đắc quả thành công chỗ Thiên-cơ chuyển phục, mà qui hườn như

nhứt mới được cho.

Nay chúng tôi cố gắng đem hết khả năng sưu tập kinh sách theo sự

hiểu biết hữu hạn, mà sắp bày Đạo-lý tuần tự theo lớp lang đuôi đầu

từ sơ-thỉ khai Trời lập Đất, đến cơ phản bổn hườn nguyên, Thiên-

Địa-Nhơn tam-tài giả hiệp, là cơ phanh tu thể luyện theo các Đấng

ban truyền tự bấy lâu nay, cho khỏi phụ ơn các Đấng đó vậy.

Nếu chúng tôi có điều chi thiếu xót, mong quí Đại-Đức Cao-Minh

bổ cứu cho rất mong thay!

BAN PHỔ-MINH CHƠN-ĐẠO

TRƯỜNG TỊNH CAO-MINH-QUANG

LỚP SIÊU-HÌNH THƯỢNG-HỌC CHƠN-ĐẠO VÔ VI

Ngày 01-11 Đông-Chí Bá-Nhựt Trúc-Cơ

Niên Đạo 48 Nhâm Tý 1972-1973

Tài liệu học tập trong Trường Chơn-Đạo lớp Bá-Nhựt Trúc-Cơ.

Kỳ Đông-Chí do toàn cả Tịnh Trường luận giải, sắp thành trật tự

lớp lang sau trước. Theo sự học tập trong kinh sách của các Đấng,

để Lưu-Truyền Chơn-Pháp di-tích hậu lai.

THÁNH TỰA PHÂN MINH

TRƯỜNG-CANH THÁI-BẠCH

--oOo--

THI

-Nhựt thường viên mãn túc chơn dương.

Nghĩa: Mặt Nhựt đầy tròn không khuyết là vì chơn dương đầy đủ,

như thế mãi vận hành.

- Nguyệt khuyết âm trầm tại thiếu dương.

Nghĩa: Mặt Nguyệt khi khi khuyết đầy vơi không chừng là vì Mặt-

Nguyệt thiếu phần chơn dương, cho nên phải chịu khi đầy khi vơi

luân chuyển.

- Nhãn định nội quang hà hữu ám.

Nghĩa: Cặp Thần-quang bế lại soi rọi nơi tâm, tuy tối: Nhưng trong

lòng không tối dẫn sáng soi Ngũ-tạng phân minh, biết chỗ thiếu hầu

bổ-túc, biết chỗ thừa mà chuyên chế để điều-hòa Ngũ-tạng, đó là

quan sát nội tâm không bao giờ mờ ám.

- Tâm vô xúc ngoại thị tiên phương

Nghĩa: Lòng của Chư Hiền thông sáng suốt, chỉ giữ-gìn Phật tại

tâm trung, không bao giờ ngoại cảm, tức là: Một phương tiên dược

Tịnh Trường an dưỡng.

- Tinh thần yểu yểu tầm tu chứng

Nghĩa: Tịnh tâm êm lặng diệu diệu thâm thâm, lặng lẽ tầm đường

giải thoát, không giao động bên ngoài, từ tiếng nghe nhỏ nhặt đó là:

Chứng vị của lòng tu.

- Vật thể sinh-sinh chướng ngại trường.

Nghĩa: Nếu tâm không tịnh-định, bao tiếng động bên ngoài, tâm

vẫn phát sinh nhiều tư tưởng, đó là một chướng ngại của người

đang thu hấp.

- Bá niệm mạc hành nan đắc lộ.

Page 3: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

3

Nghĩa: Dầu cho muôn ngàn câu niệm, nhưng chưa đạt được một

điểm gì, tất nhiên không sao đạt được Đạo-Pháp mầu vi tối trọng.

- Nhứt ngôn đạt Đạo thử năng phương.

Nghĩa: Một câu niệm nhưng được đạt thành Chánh-Pháp, đó là:

Một phương thức đạt quả vị của lòng chơn thật kết quả lòng tu.

Giờ Bần-Đạo chiếu điển vô-hình cùng Chư-Hiền trong giờ xuất

Tịnh, đây là Bần-Đạo giải phớt qua cho chư hiền cần trau luyện, để

khai thác thêm những điều huyền-bí trong những câu văn, lúc điều

hành tịnh-định đừng sơ sót, e một ngày gần đây khó đạt được công

tu bao năm đã rủ vào xác đất, như vậy bao vọng ước phải trôi đi, rồi

phải hoài công tu của đời thừa hành của Đạo-Pháp, nhưng: Về phần

Tịnh-Trường Nhứt-Ngoạt chia ra đôi phần:

1. Về phần Tịnh-Dưỡng trí để trưởng dưỡng thân tâm, hầu bổ

túc nhục thân trong khi đã gặp phần suy kém.

2. Phần khác thì Chư-Hiền phác họa Chương-Trình tạo căn-cơ

lưu-hành bút-tích, đó là điều cần thiết Lưu-Truyền, nhưng mà

Chư-Hiền nên hội ý tế nhị trong Chương-trình vận dụng về khai

thông hậu nhân, để tránh điều ngăn chận. Vì sự ngăn chận vô tình

mà Chư-Hiền chưa đạt tròn lý cao siêu, một khoảng đường dội lại

chận ngừng, đó là phần ngưng trệ giao động lòng mình, lằn điển

quang chuyển qua thiếu phần cực thịnh, tức không đạt thành quả

vị đề tài khai thông, dù những đề tài đã bao năm học tập Lưu-

Truyền nói cảm-ứng cho thế nhân Đạo-Pháp trong quảng đường

cấu tạo để phát triển chương trình Đạo-Đức.

Kìa trước một ánh bình quang chói rọi xẹt vào, hòa chung nhau

đốm lửa còn lấp-le, như vậy cũng gọi là đạt được phần nào trong

tâm trung thu-thập. Giờ Bần-Đạo diễn dụ tiền đàn, sau Thiên-

Mạng hội ý sắp xếp tinh-thần kết chặt để tạo thành mối tương-

quang lưu lại cho hậu nhân là điều tối cần cho thế hệ. Giờ Bần-

Đạo chiếu sắc tiền đàn điển chỉ dẫn

Bài:

Giờ mãn Tịnh Trường-Canh rọi bút

Nơi Tam-Thanh trong lúc đêm nồng.

Điển Thiên quá khứ khai thông

Hiệp cùng nhơn điển chơn đồng diễn ra.

Lưu lại thế trần mà ghi nhớ

Sức Trường-Canh điển trở thiên môn

Lòng hằng tịnh-định triêu-hôn

An thần định trí chơn hồn thanh cao.

Đàn ngày 15-09 AL Năm Quý Sửu 1973

--oOo--

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

CÔNG BÌNH BÁC ÁI TỪ-BI

TIÊN THIÊN HƯ VÔ

Chiếu theo lời Lý-Đại Tiên-Trưởng dạy.

Đàn 01-06-48 Quý Sửu 1973

Giờ Bần-Đạo chuyển qua trên đài Thiên-Đạo.

Một ý chí chơn thành, một linh tâm phát xuất, lòng đã phát huệ,

“kiến vật vô nhơn kiến, kiến tánh vô nhơn tri”.

Như thế khác phần phàm thể, dụng tánh điều hành, dụng tâm tiếp

ứng.

Đó là mục đích khai thông tư-tưởng, đạo pháp hoằng dương lòng

sở nguyện của Thiên Mạng Chư Hiền định Lưu-Truyền Chơn-

Pháp, thì văn tự phải kiện toàn.

1. Nhứt ngôn yếu lý, nhứt ngôn thành.

2. Nhứt ngôn bại lý, nhứt ngôn hoại.

Vậy phần này, Bần-Đạo trao quyền cho Tịnh-Trường, từ hướng

dẫn cho đến tất cả, đồng chung nghiên-cứu sẽ ban hành Chơn-

Pháp cho chư Thiên Mạng trung đàn.

Chiếu-Y-Lịnh GIÁO TÔNG chỉ-phán.

Tịnh-Trường Đồng Kính Bái.

--oOo--

Page 4: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

4

CHƠN-PHÁP LƯU-TRUYỀN THIÊN-KINH DIÊU DỤNG

(Cửu-Chuyển Khai-Thiên)

CHƯƠNG I

KHAI TRỜI DỰNG ĐẤT SANH HÓA MUÔN LOÀI

Vô-cực-Đồ Cửu-Chuyển Tịnh-Động sanh cơ.

THI

Càn khôn cơ nhứt chuyển

Vô cực Đồ nhứt quyện

Vô sắc thị Diêu-Trì

Niệm quang Cổ Mẫu Biến.

BÀI

Cơ nhứt chuyển Càn-Khôn Vũ-Trụ

Vô-Cực-Đồ chứa đựng Âm-Dương

Vô sắc tượng thể Diêu-Trì

Trong bờ Kim-Mẫu động thành biến đi

Trái lại: người tu luyện đến mức nầy kêu là hườn về khí Vô-Cực

(Hườn-Vô).

Từ thuở Hồng-Mông dị phán, thì Vô-Cực xưng Tôn, ban đầu thủ

xuất, vòng Vô-Cực bằng vàng chứa đựng hai khí, (Hư-Linh) nóng

lạnh lẫn lộn ở trong bầu Vô-Cực, nên kêu là Kim-Mẫu bao trùm

hai khí dường thể ao sâu, mờ mờ mịch-mịch lấn qua ép lại, diêu-

động bất mãn nên gọi Diêu-Trì Kim-Mẫu là Mẹ, là cái gốc sáng

tạo ra Trời Đất cùng vạn vật muôn loài, do hai khí Hư-Linh chứa

đựng trong ao Diêu-Trì, rồi Kim-Mẫu ngoại tịnh nội động bất

mãn, hai khí đun đẩy nhau đến cực độ, mới gom lại thành Hư-Linh

hai khối tẻ ra mà đun nấu bờ vàng đến cùng cực. (Vật cực tắc phản

ắt có biến sanh).

Đến khi lập thành xong Trời đất

Ngài phân ra tứ chất khí quang

Tứ trụ trấn vị chủ đàn

Khí quang tứ hướng phục hoàn lập nguyên

Trụ một điểm Huyền-Thiên Thượng-Đế

Là khí huyền lập để cao ngôi

Huyền-Thiên chưởng chấp phân rồi.

Thứ ngôi lập vị chủ ngôi Cao-Đài.

Trụ hai điểm mở khai từ chỗ

Là Hồng-Quân Lão-Tổ phổ thông

Phân từ cực phẩm khí hồng

Vô-minh điểm sắc ấn đồng Hồng-Quân

Trụ ba điểm tự xưng chánh giáo

Đông dương Thiên công tạo lập thành

Tượng đồ ứng chiếu khí thanh

Do trong khí tượng lập thành mỗi quan

Trụ bốn điểm Mẫu-Hoàng tượng ảnh

Tây-Vương-Mẫu Thánh Đức truyền

Khí bạch sắc chiếu hườn nguyên

Huyền-Hồng Thanh-Bạch tứ kiên phô trương

Còn chính Trung-Ương Thái-Cực

Ngài mới xưng danh đức Thánh-Hoàng

Đó là Ngũ-Khí gia ban

Triều ngương trưng tượng Thánh-Hoàng tá danh.

Các vế thi bài để chứng minh cho những hình đồ từ cửu-chuyển

lập thành Trời đất đã soạn ra đây đều do một vị Tiên mới Thiện-

Hỏa Chơn-Thiên chỉ dạy.

Về phần Cửu-Chuyển lập thành Trời đất và sanh hóa muôn loài

trong cơ Tạo-Hóa sanh ra vạn vật.

Nên người tu cần học cho hiểu biết cơ Trời đất, rồi mới rõ trong

cơ thể con người hầu ráp máy Thiên-cơ mà đắc thành quả vị. Vì

Trời người đồng nhứt lý, vậy người tu đơn luyện đạo, cần phải học

hiểu cho tột lý mới thông cơ Tạo-Hóa, mà làm theo Thiên lý lưu

hành mới mong thành đạt được.

Page 5: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

5

Vì trong cơ Tạo Thiên lập địa do Đức Đạo-Tổ Thái-Thượng dùng

cơ động tịnh mà phân lập Lưỡng-nghi, tứ-tượng ngũ-hành thành

Bát-Quái, xong rồi mới có ngày đêm sáng tối đặng dưỡng dục

sanh hóa muôn loài.

Vì Đức Ngài là Giáo-Chủ Đạo-Tiên, nay bằng ai tu hành theo

Tiên-Đạo cũng đều phải tuân y theo luật tuần hườn của Thiên-cơ

diệu-lý mới được cho.

Trái lại: Người tu đến mức nầy kêu là Ngũ-Khí Triều-Ngươn hay

là Ngũ-Hành hiệp nhứt.

--oOo--

CƠ LỤC, THẤT, BÁT, CỬU, CHUYỂN LẬP THÀNH BÁT-

QUÁI

TIÊN-THIÊN, HÓA-SANH VẠN VẬT MUÔN LOÀI

Lục Chuyển: thành Càn, Khôn

Thất Chuyển: thành Đoài, Cấn

Bát Chuyển: thành Ly, Khảm

Cửu-Chuyển: thành Chấn, Tốn

Khi lập ngôi thứ nhứt của Đức Thượng-Đế là ngôi Thái-Cực rồi,

lại động sanh dương làm hỏa, mà hỏa là Thần-Linh của Đức

Thượng-Đế. Vì vậy mà Đơn thơ gọi Thượng-Đế là (Mộc). Vì Mộc

năng sanh hỏa. Rồi đến cực tịnh mà sanh Âm, Âm tức là tinh, tinh

thuộc thủy, mà tinh là Chơn-Linh của Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu, là

Mẹ linh hồn của chúng sanh đó. Vì kim năng sanh thủy nên kêu

Kim-Mẫu là Mẹ vậy. Đó là ngôi thứ nhứt của Thượng-Đế là Thái-

Cực sanh ra, hình nó tròn ở giữa lăn trong vòng Vô-Cực.

Rồi Âm Dương mới giao cảm cùng nhau mà sanh ra vạn vật. Vì

lớn như Càn-Khôn Võ-Trụ, nhỏ nhít tế vi như một tế bào cũng

phải chịu dưới Nhị thể Âm Dương giao cảm, đặng làm căn bản

cho Ngươn-Khí, rồi cứ vận chuyển trong ngôi Thái-Cực, một

động, một tịnh mà sanh ra hai Ngươn-Khí là Thái-Âm và Thái-

Dương tức là Càn Tam Liên và Khôn Lục-Đoạn, hai khí ấy cũng

giao cảm nhau, mà sanh ra hai khí Thiếu Âm trung hư là Quẻ Ly,

và thiếu Dương trung mãn là Quẻ Khảm mà hiệp lại thành hai quẻ

Khảm Ly đối diện, cùng kết lại với hai khí Thái Âm và Thái

Dương, là thành Tứ-Tượng ra Bát-Quái Tiên Thiên, mà tạo thành

Càn-Khôn Võ-Trụ cùng vạn vật muôn loài.

Khi lập thành Bát-Quái xong rồi Đức Thượng-Đế mới tuần tự cho

Bát-Phẩm Chơn-Hồn xuống đầu thai trong thế giới hữu hình nầy

mà tấn hóa học hỏi cho khôn ngoan đến khi nào được chí thiện chí

mỹ sẽ trở về nguyên-vị mà hiệp nhứt với Đại Linh-Quang của

Thượng-Đế. Bát-Phẩm Chơn-Hồn:

1. Vật chất hồn (Kim thạch sắt đá) 2. Thảo mộc hồn

3. Thú vật hồn 4. Nhơn hồn

5. Thần hồn 6. Thoát hồn

7. Tiên hồn 8. Phật hồn.

Rồi Đức Thượng Đế hóa chơn linh phân ra làm 12 vị Chơn Nhơn

để cai trị Thập-Nhị Thời-Thần là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ,

Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Đó là 12 địa chi. Vì thế con số 12

là con số riêng của Thượng-Đế. Xong rồi:

1. Trên Trời có Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần, Phong, Vân, Lôi, Võ.

2. Dưới Đất có Sơn, Xuyên, Thảo, Mộc, Kim, Thạch, Hườn, Châu,

do Bát-Phẩm Chơn-Hồn đầu sanh ra trước hết là vật chất Kim-

Thạch núi non sanh kim loại. Kim sanh thủy là rịn ra nước thành

sông rạch biển dã.

3. Có nước rồi Thảo-Mộc hồn mới sanh cây cối Lâm-Tòng cỏ hoa

đủ loại mới có sâu bọ dế trùn.

4. Thú vật hồn trong các loại cây cối nước non đất đá tổng hợp tinh

hoa, liên hòa cùng Âm Dương mà sanh ra phi cầm tẩu thú, từ Tý

hội và Sửu hội đến Dần hội. Trời sanh người là Nhơn Hồn.

5. Đến Dần hội thì Đức Thái-Thượng vận chuyển Ngũ-Hành khai

Thiên tịch địa xong rồi kết Nhơn Hồn xuất thế, là Bàng-Cổ-Thuần-

dương thủ xuất trong đá nở ra làm căn cội cho loài người do 2 khí

Âm-Dương hội lại lâu đời mà thành Tiên sanh Chơn-Nhơn vậy.

Page 6: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

6

Đến thời kỳ nầy Đạo-Huỳnh khai sáng phục hồi Thượng-cổ: Đa

Tạ, Đa Tạ. Thiên, Địa linh Phật, Tiên, Thánh, Thần lai tá trợ.

Vậy ai là bậc hữu căn hữu phước, nhớ bổn nguyện xưa, hãy nương

theo đạo mạch phản bổn hườn nguyên, phục hồi Thượng-Cổ, thì

trước tầm học Chơn-truyền Bá-Nhựt Trúc-Cơ phân hào định Quái,

chiết Khảm Điền Ly, cho Càn-Khôn định vị Cửu-chuyển hườn

Đơn, song tu tánh Mạng, bế Tử-Lộ-Khai sanh Môn, mà qui hồi cựu

vị đền trả nợ Tứ-Ân, cứu Cửu-Huyền, độ Thất-Tổ đồng siêu thăng

về Cực-Lạc. Đó là thuận tùng Thiên-Lý vậy.

Tóm lại: Nay đã đến thời kỳ mạt hạ Thiên Khai Huỳnh-Đạo tức là

đời tận diệt. Hạ ngươn cuối tận, thì con người phải cần tịnh tu cho

thuận theo Thiên-Lý, nếu không sẽ bị tán tiêu theo lằn Âm-Khí

trong lò Hậu-Thiên Bát-Quái của thế hệ vật chất điêu tàn, nên

người cần phải học hiểu máy Trời mà cầu phương giải thoát mới

được chứng quả an nhàn mà tiêu diêu tự tại.

ĐỒ VÔ CỰC SỐ 1 TỊNH CƠ

Trở thành sang động cơ nhị chuyển: (Đồ số 2) tiếp Hồng-Mông

biến chuyển hai khí Hư-Linh đốt bờ Kim-Mẫu, chảy thành khối

Kim-Quang hóa hình tam giác Kim-Chuyển hiện ra (Móng-Bạc)

ba màu Vàng-Xanh-Đỏ hiện.

CƠ NHỊ CHUYỂN ĐỒ SỐ 2

THI

Càn-khôn cơ nhị chuyển

Thái-Cực trung nhứt khí

Thái-Thượng thị pháp danh

Huỳnh-Quang thành hữu thỉ

Thái-Thượng-Đạo-Quân

Cơ nhị-chuyển thành Móng-Bạc

Do Hư-Linh khai hoát căn nguyên

Bạch nhựt thanh Tạo-hóa liền

Kim-quang Huỳnh-Đạo cơ nguyên Kiện toàn

Mới xuất lộ Kim-Quang linh sắc

Hiện Móng-Bạc qui tắc cơ mầu

Ba màu ứng chiếu cao sâu

Page 7: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

7

Đỏ-Vàng-Xanh tượng gồm thâu quang thần

Điển Hư-Linh chuyển đàn Bắc-Cực

Chạy dòng theo đúng mức cơ thiên

Đến phương giáp mí nối liền

Thành hình vô cực Kim-Chuyên tịnh hành.

THÁI-CỰC-TỊNH-CƠ-TAM-CHUYỂN

ĐỒ SỐ 3

Rồi Móng-Bạc Tam-Giác Kim-Chuyển nổ tung bầu Vô-Cực ra

muôn đạo Kim-Quang chiếu ánh hào quang sáng cả không gian thì

khối Kim-Quang rút vào giữa trung tâm mà thành hình Thái-Cực.

BÀI

Cơ Tam chuyển phân danh Thái-Cực

Thiên Đồ xây cho tức Hư-Vô

Căn cứ tại Vô-Cực-Đồ

Vô-Cực Chơn-Tịnh động đồ hà-phanh

Nung nấu đến Kim hành xẹt lộ

Ánh Kim-Quang khắp chỗ sáng hừng

Muôn ngàn ánh chiếu tượng trưng

Chưa phân Thiên-Địa hội chừng điểm ra.

THÁI-CỰC-ĐỘNG-CƠ-TỨ-CHUYỂN ĐỒ-SỐ 4

THÁI-THƯỢNG-TRUNG-GIAN-THỦ-XUẤT-PHÂN-LƯỠNG-

NGHI

Ngài dùng điển lực phi thường xé một lằn kinh tâm, làm hình

trạng Thái-Cực-Đồ, danh là sắc thái tức thị Đạo-Quân.

THI

Càn-khôn cơ tứ sanh

Hữu tượng lưỡng-nghi thành

Vô động huyền hồng chuyển

Giáng thăng Xích-Hắc-Huỳnh

Page 8: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

8

BÀI

Đồ số bốn phân minh Thái-Thượng,

Xưng Lão-Quân hình tượng hoát khai

Bẩm khí Vô Cực thường ngày

Trung Tâm hấp thụ-Đắc tài Tiên-Thiên.

ĐỒ SỐ 5: NGŨ-CHUYỂN

HOÀNG CỰC ÂM DƯƠNG TỊNH-CƠ HÓA NGŨ-HÀNH

Thái-Thượng dùng kinh tâm trạng thái

Băng ngan qua biến tại cực vô

Biến sanh ra Thái-Cực-Đồ

Danh đề sắc Thái điểm vô thường hành.

Ngược lại người tu đến mức này kêu là Quy Tam-Bửu (Tinh-Khí-

Thần) hiệp đảnh nên gọi Tam-Huê đứng vào Bực Tam-Tài Huyền-

Huỳnh-Hồng, (Thiên, Nhơn, Địa).

THI

Càn khôn ngũ chuyển sanh

Hoàng-Cực hóa ngũ-hành

Xích-Hắc Thanh-Bạch sắc

Ngũ quang bổn vô hình

Do công đức Thiên-Triền phục mạng

Thái-Cực thiên căn bản chủ trương

Phân minh tứ trí khí tri tường,

Huyền-Hồng Thanh-Bạch biểu dương Trung-Huỳnh

Đến khi lập thành xong Trời đất

Ngài phân ra tứ chất khí quang

Tứ trụ trấn vị chủ đàn

Khí quang tứ hướng phục hoàn lập nguyên

Trụ một điểm Huyền-Thiên Thượng-Đế

Là khí huyền lập để cao ngôi

Huyền-Thiên chưởng chấp phân rồi.

Thứ ngôi lập vị chủ ngôi Cao-Đài.

Trụ hai điểm mở khai từ chỗ

Là Hồng-Quân Lão-Tổ phổ thông

Phân từ cực phẩm khí hồng

Vô-minh điểm sắc ấn đồng Hồng-Quân

Trụ ba điểm tự xưng chánh giáo

Đông dương Thiên công tạo lập thành

Tượng đồ ứng chiếu khí thanh

Do trong khí tượng lập thành mỗi quan

Page 9: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

9

Trụ bốn điểm Mẫu-Hoàng tượng ảnh

Tây-Vương-Mẫu Thánh Đức truyền

Khí bạch sắc chiếu hườn nguyên

Huyền-Hồng Thanh-Bạch tứ kiền phô trương

Còn chính giữaTrung-Ương Thái-Cực

Ngài mới xưng danh đức Thánh-Hoàng

--oOo--

CHƯƠNG II

LUẬN VỀ KIẾP NHƠN SINH TRONG VÒNG ĐỊNH LUẬT

DINH HƯ TIÊU-TRƯỞNG

Về sự sanh sản ra con người do chỗ tinh Cha huyết Mẹ, giao hiệp

nhau mà thành hình thể cũng trong vòng Cửu-Chuyển chín tháng

cưu mang, cũng y như Cửu-Chuyển khai Thiên lập Địa vậy. Nên

Trời Đất là đại Võ-Trụ, còn Nhơn-thân con người là tiểu Võ-Trụ.

Nên nói Nhơn thân Tiểu Thiên-Địa.

Vậy trước khi con người chưa phát tình dục thì còn lặng yên trong

khí Vô-Cực. Rồi Vô-Cực, cực tịnh niệm sanh, là lúc người Mẹ tịnh

niệm mà Hàm-Linh Xung-Động, trong Noãn-Châu biến chuyển

khiến cơ thể dục giao, lại gặp lúc người Cha qui đầu bộc khởi, hạo

khí sanh Dương dục tình phát động, Phụ Mẫu tương giao Dương thí

Âm thọ tình ý dung hòa, tinh huyết hợp giao, Âm Dương bao bọc

lẫn nhau ở trong Noãn-Châu giữa bầu Vô-Cực, tức thị Thái-Cực-

Đồ.

Rồi hết tịnh đến động, động tịnh bất mãn trong Cửu-Chuyển chín

tháng mười ngày mà tạo thành hình thể của con người, có đủ bá hài

tứ thể bì bao khổng khiếu, xuất thế chào đời đặng học hỏi tình đời

lý đạo, cho hoạt bát thâm uyên, mà trở về ngôi Tiên Thánh Phật.

Đây là luật Tạo-Hóa Thiên-sanh Địa-Thành.

1. Thiên-nhứt sanh Thủy là tinh Cha hiệp cùng huyết Mẹ cấu giao

rồi ngưng lại tịnh yên trong Noãn-Châu tháng thứ nhứt chuyển sanh

biến hóa tứ thể bá hài. Ở trên sanh con ngươi bên mắt tả, ở dưới

sanh tại Bàng-Quang (Bong bóng).

2. Địa-nhị sanh Hỏa là phần huyết Mẹ ở trên cái bao con mắt hữu,

ở dưới sanh Tâm-Linh (trái tim).

3. Thiên-Tam sanh Mộc phần tinh Cha, ở trên sanh tròng đen con

mắt tả, ở dưới sanh Đởm (cái mật).

4. Địa-Tứ sanh Kim phần huyết Mẹ, ở trên sanh tròng trắng con

mắt hữu, ở dưới sanh Phế (cái phổi).

5. Thiên-Ngũ sanh Thổ phần tinh Cha, ở trên sanh da bao con mắt

tả, ở dưới sanh Vị-bào (bao-tử).

6. Địa-Lục thành Quí-Thủy phần huyết Mẹ, ở trên thành con

ngươi bên mắt hữu, ở dưới thành Thận đường (trái cật).

7. Thiên-Thất thành Bính-Hỏa phần tinh Cha, ở trên thành cái bao

con mắt tả, ở dưới thành Tiểu trường (ruột non).

8. Địa-Bát thành Ất-Mộc phần huyết Mẹ, ở trên thành tròng đen

con mắt hữu, ở dưới thành Can (lá gan).

Page 10: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

10

9. Thiên-Cửu thành Canh-Kim phần tinh Cha, ở trên thành tròng

trắng con mắt tả, ở dưới thành Đại-trường (ruột già)

10. Địa-Thập thành Mồ-Thổ phần huyết Mẹ, ở trên thành cái bao

con mắt hữu, ở dưới thành Tỳ (lá lách hay lá mía).

Đó là trong Cửu-Chuyển đủ chín tháng mười ngày mới nói Thập-

Ngoạt hoài thai, là trong vòng mười tháng mà sanh đủ bá hài tứ thể,

bì mao, khổng khiếu rồi mới phá bào thai là bầu Vô-Cực mà tung ra

xuất thế chào đời, đặng học hỏi điều hay lẽ dở, hầu tiến bộ đến khi

nào được hoàn toàn chơn thiện mỹ, lo tu sửa tánh lành luyện thành

xá lợi quang, mà hồi về nguyên bổn là Tiên-Nhơn đó. Lúc con

người ở trong thai bào thì còn ở về khí Tiên-Thiên Vô-Cực nên

không ăn mà lớn, không thở mà sống, bởi hai mạch Nhâm-Đốc còn

nối liền nhau nên hơi thở đi vòng theo đó mới kêu là (Thai Tức) hơi

thở trong thai mà cũng kêu là Nội-Tức (thở bên trong).

Khi phá thai bào vừa ra khỏi lòng Mẹ thì bị khí Hậu-Thiên nó phủ

lên, tức thì giựt mình rống khóc oa-oa-oa, làm cho hai mạch Nhâm-

Đốc vì đó mà chia lìa ra, rồi phải thở khí Hậu-Thiên nơi mũi miệng.

Dường ấy mới có thọ mạng ngắn dài, theo cơ Tuần-Hườn của

Tạo-Hóa, do luận thiện ác mà thưởng phạt sống dai hoặc chết yểu.

Nếu con người không biết hướng thiện tầm tu, thì sẽ bị Lạc-Thơ

phàm đạo biến chuyển thuần âm, mà khắc lại trở hại bản thân, hễ

lành thì thăng, còn dữ thì đọa.

Và con người hồi mới sơ sanh bổn tánh còn thiện lương thuần mỹ,

rồi từ một tuổi đến năm tuổi tánh chất còn ở trong khí Tiên-Thiên,

Hà-Đồ, nên còn thuần chơn chất phát. Rồi từ sáu tuổi trở lên lại

theo khí chất của Ngũ-Hành Hậu-Thiên Lạc-Thơ chuyển biến mới

có tánh nhiễm việc gần thấy việc xa, làm cho nhứt dạ sanh bá kế,

nhứt bổn tán vạn thù, mới có sanh đều tội phước, thiện ác theo báo

ứng như bóng theo hình, rồi phải chịu trong cảnh luân hồi mãi-mãi.

Mà Ngũ-hành Tiên-Thiên là Hà-Đồ sanh Ngũ-Ngươn trong Ngũ-

Tạng như:

1. Nhâm-Thủy ở cung Khảm (Thận) sanh ngươn tinh.

2. Đinh-Hỏa ở cung Ly (Tâm) sanh ngươn Thần.

3. Giáp-Mộc ở cung Chấn (Can) sanh ngươn tánh.

4. Tân-Kim ở cung Đoài (Phế) sanh ngươn tình.

5. Mồ-Thổ ở trung ương (Tỳ) sanh ngươn khí.

Đó là Ngũ-Khí của Tiên-Thiên hóa thành Ngũ-Ngươn hay Ngũ-

Vận biến thành Hậu-Thiên hay Lạc-Thơ.

1. Quí-Thủy ở Bàng-Quang sanh trược tinh

2. Bính-Hỏa ở Tiểu-Trường sanh thức Thần

3. Ất-Mộc ở Đởm sanh vu-hồn.

4. Canh-Kim ở Đại-Trường sanh quỉ phách.

5. Kỷ-Thổ Trung Huỳnh ở vị bao-tử sanh vọng ý.

Vậy là trọn về Hậu-Thiên Lạc-Thơ đã thành trong Ngũ-Tạng và

Lục-Phủ của con người, rồi hóa ra Ngũ-Thức sanh Ngũ-Dục trong

Ngũ-Ngươn mà thông lưu vận hành toàn cả châu thân, đặng điểm

nhuận bá hài bổn thể, bì mao khổng khiếu của con người.

Trong cơ thể con người có ba trăm sáu mươi lăm lóng xương và

tám mươi bốn ngàn lỗ chơn lông, bì mao khổng khiếu đó là Hà-Đồ

sanh tánh vậy, mà sanh Thánh hay Phàm cũng đều do nơi đó cả.

Con người có Ngũ-Thức Ngũ-Dục thì cũng do Lạc-Thơ khí chất

của Hậu-Thiên biến ra phàm tánh, tức là Phụ Mẫu tánh chi (Là gốc

của Cha Mẹ truyền sang) mà phải chịu khiển xiêng thọ khổ.

Mà Ngũ-Hành Hậu-Thiên Lạc-Thơ nó lại tương khắc lẫn nhau, rất

có hại cho cơ thể lắm vậy.

1. Trung-Ương Thổ-Khứ khắc Bắc-Phương Nhâm-Thủy. Là

vọng ý sanh tạp niệm dục tình thì thận Thủy bị hao kém.

2. Bắc-Phương Thủy-Khứ khắc Nam-Phương Đinh-Hỏa. Thì

dục tình sanh Hỏa vọng làm cho Tâm-Hỏa bị suy mòn.

3. Nam-Phương Hỏa-Khứ khắc Tây-Phương Tân-Kim. Là Hỏa

vọng làm việc mệt nhọc thì Phế bị hư hoại.

4. Tây-Phương Kim-Khứ khắc Đông-Phương Ất-Mộc. Khí

phể bị lao nhọc còn gắng gượng thì Đởm bị tiết hao.

5. Đông-Phương Mộc-Khứ khắc Trung-Ương Kỷ-Thổ. Rồi

vọng ý phát sanh làm hại cho Vị là bao tử hư suy mất ăn

quên ngủ, đó là Ngũ-Dục dấy khởi, Ngũ-Khí tiêu hao, Ngũ-

Page 11: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

11

Tạng xiêu bè thì ôi! Còn chi cuộc đời, sống cũng như chết

có thú vị chi đâu?

Mà nay Nhơn sanh hầu hết chín chục phần trăm đã lâm vào tình

trạng: Danh lợi, ái-ân, sắc-tài, tửu-khí, chạy theo Ngũ-Dục mà

chẳng kể tu kỷ luyện thân, chỉ lo sung bổ cho xác thân giả tạm chớ

không chú trọng tinh-thần Đạo-Đức, mất hẳn tình thương không

còn đồng chủng chẳng kể đồng bào, nồi da xáo thịt. Thì ôi! Làm

sao hưởng được cảnh vui an nhàn lạc, của đời Thượng-Ngươn

Chúa-Thánh tôi hiền, tiêu diêu tự tại muôn đời ngàn kiếp há chẳng

quí sao?.

Vì Ngũ-Ngươn là Chơn-Tánh bổn sơ, bởi động-tịnh mới sanh ra

Thức-Tánh trược mạng, nên phải chịu xuất thế chào đời, rồi cũng

do chỗ động tịnh ấy mà biến sanh ra muôn ngàn chuyện khúc khổ.

Vậy khá ẩn tâm tầm cho rõ căn nguyên động-tịnh, mà lo tu phản

bổn hườn sơ, đặng có ra cho khỏi vòng tử sanh lục đạo luân hồi, thì

phải mau mau dẹp cái máy sanh-tử đó đi cho rồi, vì hữu sanh thì

hữu tử, mà vô sanh thì ắt vô tử vậy.

Muốn đoạn dứt luân hồi thì phải mau dứt Lục-Căn, vì Lục-Căn

thông Lục-Trần, nên thường gây duyên nghiệp do tâm tự tạo! Vậy

hãy mau dứt hết sự ham muốn cho rồi đi. Đó là cách dẹp máy luân

hồi, thì còn chi nữa mà nói (luân-hồi). Nhưng nay đã đến thời kỳ

tận diệt cuộc Dinh-Hư-Tiêu-Trưởng sắp bày, mà người người còn

mê mẩn đắm say, theo Tửu-Khí, Sắc-Tài nào có hay sự đời là bể

khổ, cơ xáo lộn biến thiên đã đến, đó là nạn muôn vật phải chịu

cảnh tiêu diệt đọa đày trong cõi Thiên-Địa luân hồi. Cơ Mạt-Kiếp

cận kề, nếu người không lo hành Đạo-Đức mến chuộng tinh thần, lo

cho ích nước lợi dân, để làm điều hung ác bạc mê say vật chất, mến

tình đời xa đường Thiên-Đạo thì phải chung chịu trong cơ biến đổi

của cuộc tang thương, bằng thức tỉnh tầm tu theo Đại-Đạo học

đường, là (Minh-Đức Tân-Dân, chí ư chí thiện). Đó là phương pháp

thoát ra khỏi đường sanh tử luân hồi vĩnh viễn vậy.

THI

Tỉnh đời tầm đạo thoát nàn tai

Giác thể lo tu trở gót quầy

Mê mến hồng trần thân khổ lụy.

Ấp yêu danh lợi phải tàn phai

Trăm năm lẩn quẩn đường sanh tử

Ngàn tuổi luyện tu bậc sĩ tài.

Đắc pháp thăng Thiên thành Chánh quả

Đạo thành muôn thuở ngự Bồng-Lai.

Nay đến lớp Hạ-Ngươn tận diệt kiếp số đa mang đưa đẩy con

người vào đường thống khổ, nên chi: Đức Chí-Tôn Thượng-Đế

không nỡ để cho đám con cả hiền lẫn dữ, chung lộn trong lò Hậu-

Thiên tận diệt hay sao?

Than ôi! ách nước tai Trời dồn dập nào là nắng lửa mưa dầu, đó là

cái họa chung cả nhơn loại. Hiềm vì cuộc truy hoan biến đổi, cả

đoàn người sao cứ chen lẫn mãi vào nẻo lợi-danh, cư sâu xé dựt

dành vì sắc tài tửu khí mới có gây tai họa cho xã hội nhơn quần

phải chịu lầm than khổ sở.

Ôi! kẻ trí hiếp người ngu, hễ khôn thì còn dại thì mất, mạnh đặng

yếu thua, nào để chút tâm ái vật yêu nhơn, miễn mặc đẹp vợ con

phu phỉ, quên đường Đạo-Đức nên phải chịu tiều-tụy tinh-thần mà

bao nỡ dùi thân lấp thể!

Nếu ai là người tỉnh ngộ, sớm thấy cuộc đời nào khác chi phù vân

mộng ảo, thoạt có thoạt không, sớm đổi chiều dời, ắt cuộc tang

thương nào đâu tránh khỏi!

Nay Đức Thượng-Đế xót thương hồng trần lắm khổ nên ân xá mở

đạo kỳ ba, mà độ dẫn đoàn con hiếu cảm biết nghe lời giáo huấn mà

phản bổn hườn nguyên về nơi cảnh Bồng-Lai toại hưởng.

Hỡi ai sớm biết tỉnh ngộ xét suy, tri tầm coi nơi đâu mà có khổ và

chết, thì ắt sẽ thấy rõ là do chỗ Lạc-Thơ phàm đạo, tương khắc làm

cho ngũ-tạng bị hao mòn, rồi tâm linh mê muội mới lưu lãng vọng

tình tạp niệm mà ra. Mọi sự khúc khổ mà có ra đây, cũng vì chỗ

dục, mà có ra mảnh thân Tứ-Đại nầy, rồi bá hài vạn cốt chi thể của

con người cũng do gốc Hà-Đồ Tiên-Thiên và Hậu-Thiên Lạc-Thơ

biến dịch chuyển di mà thành ra (Nhứt bổn tán ư vạn thù) làm cho

con người phải chịu luân vơi trong vòng sanh tử mà thôi.

Page 12: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

12

Tại sao con người cứ vẫn ham mê danh lợi ái ân, sắc tài, tửu khí,

nó làm cho con người mất hẳn cái bổn tánh chơn nguyên thuần mỹ.

Nhơn chi sơ tánh bổn thiện, mà hấp thụ chi cái giả dung trược khí

bẩn nhơ, làm cho bổn thể suy đồi, cũng vì bị Hậu-Thiên tạp hỏa dục

tình vọng ý, xâm nhập vào cơ thể đều là trược khí toàn âm, thì há

lại chẳng chết sao? Ôi! Chơn-Linh đã mất, thì cái chết ấy là cái máy

luân hồi như sóng dậy ba đào, đưa nhồi từ lượng, tấp qua khỏa lại

luân chuyển không ngừng, làm cho chìm đắm linh-căn trong sông

mê biển khổ, nên mới nói lưu lãng vào đường luân-hồi sanh-tử vậy.

Mà sao con người vẫn lấy cái khổ làm vui? Thiệt là vì khổ trung vi

lạc, ấy là cũng do nghiệp vô minh vô âm chất, mà không biết chỗ

căn-nguyên chơn lý số của thế hệ dịch từ, bao hàm vạn tượng mà ra

đến đổi, luân hồi cổn-cổn, chuyển kiếp man man cũng chẳng hề

nao!.

Nên Tam-Giáo đã nhiều lần chỉ dạy, mà đời đà chẳng kể, chỉ cứ

toan lòng độc ác, ngang dọc trong cõi trần ai, mới chịu dưới pháp

luật hình, để phạt răn lòng tà vạy. Cơ báo ứng không sai, cân

Thiêng-Liêng đâu xê xích đặng. Hễ làm lành thì gặp phước, toan

làm dữ thì họa lai, hễ nhơn nào thì quả nấy.

Chưởng hoa đắc hoa còn chưởng đậu mà đắc hoa xưa nay chưa hề

có thấy. Như người làm lành thì được phước, còn kẻ nào ác dữ thì

mắc họa chẳng sai. Bởi vậy Tam-Giáo Thánh-Nhơn thấy đời lầm

lạc, cứ gây tạo nghiệp luân hồi, chuyển kiếp mà đền bồi tội trước,

nên mới ra đời để phát hưng cái lý-thuyết Đạo-Đức tinh-thần mà

dìu dắt đám lương nhân thoát ra khỏi lòng trần giam hãm, dạy cho

chúng sanh ăn ở theo luật Thiên-nhiên, chỉ tâm pháp bí truyền hầu

phanh luyện đặng có siêu phàm nhập Thánh.

Vì đã sanh đứng làm người là chúa tể của muôn vật sao chẳng tầm

máy bí nhiệm của Thiên-cơ đặng tu hành thoát ra cho khỏi phạm vi

chật hẹp, để chi chịu mãi tội tình đày-đọa luân hồi chuyển kiếp, lúc

thì mang vi cánh hồi lại sừng lông, Ôi thảm! Ôi thảm!.

Luật tấn hóa của con người nó cứ từ-từ mà tăng tiến mãi, nếu

không chịu tiến ắt sẽ bị thối hóa trở lại.

Vậy người là gốc của muôn vật, muôn vật là ngọn của loài người,

nên mới làm chúa cả vạn vật. Nếu ai làm người đốn ngộ, tầm tu cho

phục hườn về cảnh Tiên-Thiên chánh-khí hầu chứng quả Bồ-Đề, y

như thỉ sơ chơn chưởng nhập cảnh Hư-Vô Thiên, mới siêu thoát

được khỏi bến luân hồi, hầu hết trầm luân trong cõi uế-trược trần

nhơ nầy. Thì phải mau mau hoàn diện hồi đầu, vạn tất vi thiện cùng

hồi quang nội chiếu diệt dứt phàm tâm vạn duyên đốn tuyệt, rồi

thanh khí sẽ hườn nguyên và Ngũ-Hành cũng qui nhứt, đó là đã dẹp

được hết cái máy Luân-Hồi rồi, sau sẽ học các pháp luyện tu hườn

đơn Cửu-Chuyển, đoạn dứt dâm căn y như hồi mới sơ sanh.

Vậy Trời Đất là gốc loài người, còn loài người là ngọn của Trời

Đất. Nên con người không vì lý do gì mà kỳ thị ngoại cuộc, không

nhập đạo tầm tu phản bổn, đặng trở về gốc là Trời Đất mà hườn

nguyên cựu vị, để chạy theo chi phàm tình thế cuộc, đa kiếp nhiễm

trần lao, cho phiền não đa đoan vô minh mãn tệ, thành ra quên hết

cả căn nguyên, vì chỗ nhiễm trần mà sanh ra nịch ái, lưu lãng, sanh-

tử, tử-sanh tranh giành hơi thở chỗ ở miếng ăn mà tiều tụy tinh-

thần, lần lần thêm hư thế cuộc. Than ôi! đến cái chết đã kề bên mà

cũng không biết đường về, rồi đành cam chịu nghiêng ngã theo cơ

luân-hồi của phàm tình thế sự, mà chịu lấy lẽ báo ứng của luật tuần

hườn vay trả, trả vay, vần theo chỗ thuận hành của ngoại cơ Thiên

chuyển trong Võ-Trụ Càn Khôn. Ôi! Rất thảm thương thay!

Nay đức Thượng Đế dĩ đức háo sanh, cải cựu hoán tân, ân xá

muôn loài, lập ra Cao-Đài Tân-Pháp mà độ dẫn con cái của Ngài trở

về ngôi xưa vị cũ, vì đời Hạ-Ngươn đã đến cơ tận diệt diễn tuồng,

hãy gấp rút học tu cho kịp kỳ Long-Hoa Đại-Hội, vì trước khi đầu

thai xuống thế có thề trên Thiên-Cung sẽ lo tu trở lại, còn ghi chép

trong Thiên-Thơ rành rạnh kia mà.

Thật quí quá thay cho cái đạo! vi diệu thay cho cái Đạo. Gẫm lại

trong khoảng Trời Đất này, con người muốn làm một việc vẻ-vang

Đệ-Nhứt, thì có chi cho bằng đọc sách, còn trong hạng người đọc

sách mà muốn nên bậc cao thượng thì có chi bằng học đạo.

Nên các bậc Thánh Chúa Đế-Vương đã lo đạo làm Vua mà lại

gồm cả đạo làm Thầy, dạy dẫn ăn ở theo điều Đạo-Đức. Nên được

Page 13: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

13

an ban Tế thế vĩnh cửu trường lưu nơi nơi an lạc, cổ phúc ca ngâm

Thánh-Vương chi đức.

Vả chăng Đạo như con đường cái, thì có phải khó biết đâu? Lỗi tại

người không cần đến nó mà thôi, chớ cần chắc đặng. Nên bậc

Thiên-Tử mà đặng đạo thì gìn giữ được thiên hạ, các chư hầu mà

đặng đạo thì giữ được đất nước. Công-Khanh Đại-Phu mà đặng đạo

thì giữ được cửa nhà, kẻ sĩ thứ đặng đạo thì gìn giữ được thân mình,

cho nên đạo cả vô danh mà hằng bền hằng còn, người Quân Tử chỉ

lo cho được cái đạo nầy, còn công danh phú quý đều coi như phù

vân, mặc nó lại lại đi đi, trong lòng vẫn không không chẳng có chút

nào xao-động cả.

Vậy học đạo là học cái ở nơi ta. Tâm phải mở rộng tha thứ cho

mọi người mọi vật, thân phải được tươi nhuần, bịnh có thể mạnh,

chết có thể khỏi. Sự ích như thế này, thì còn sự ích lợi nào hơn nữa

đâu?

Nên trước khi muốn hành đạo, cần phải lập căn khí cao và phải

siêng đọc kinh sách nhiều. Nếu căn khí chẳng cao thì có mong gì

xuất thế được, còn chểnh mảng không đọc kinh sách thì không thể

thấy lý mà biết ngay được, và nếu không gặp Thầy sớm thì hay lầm

vào nẻo Bàng-Môn, vậy hành giả cần nên cẩn-thận, tạo đủ các điều

kiện học tập chắc chắn sẽ đắc thành đạo quả chẳng sai.

Nên có câu “Tu hành chẳng Phật thì Tiên, không Vương thì Bá

cũng nền Công Khanh”. Chỉ e cho con người không trọn đủ tín

thành mà thiệt lòng tu học đó thôi, chớ thành tâm thì chắc đặng.

PHÚ LỐI VĂN

---***---

- Ôi! ai là người học đạo quyết chí tu Tiên,

- Mau chỉnh đốn ý tư riêng đừng biết đến

- Tu thì phải chí công đừng trễ trện.

- Nếu dần dà ắt không khỏi bến Luân-Hồi.

- Hễ quyết tu muôn việc hãy thôi thôi

- Đoạn cho dứt oan-gia cùng nghiệp báo

- Ở trần thế trược thanh còn lộn lạo

- Biết tu thì học cho thạo cách phân thanh

- Gắng chí Tâm Trời Phật cũng sẵn dành

- Ngôi vị cũ trở về an lạc cảnh

- Nợ trần thế trả rồi mới rảnh

- Lo trau giồi quét cho sạch sánh sành sanh

- Làm sao cho tâm chí đặng thanh

- Vào Bá-Nhựt Chí-Đông thâu điển báu.

- Kết linh dược linh đơn cấu tạo

- Yểu minh hình lặng lẽ kiếm mò trăng

- Đáy biển sâu hăng hái ráng tầm phăng

- Trăm ngày tịnh trì tâm yên lặng gió

- Đông chí đến lần dò học hỏi

- Bí diệu tìm chủng tử được an nhàn

- Thành đạo rồi trực chỉ đến Tây-Phang

- Cảm thấy rõ Ngọc-Hoàng tâm ấn khuyết.

--oOo--

CHƯƠNG III --oOo—

TRI HÀNH HIỆP NHỨT Nay bằng ai thức tỉnh tình đời là giả tạm trong giấc mộng huỳnh

lương, thì khá mau lo tầm tham cầu học hỏi, cho rõ lẽ giả chơn, thì

phải cần sự học làm đầu, để khai thông tâm trí mới có hiểu biết mà

thực hành.

Ở trên đời này có chi quí hơn là sự học đâu? Nhưng: Học chữ

nghĩa, học văn chương, học thi phú, đó là hữu dụng đầu tiên của sự

học, để gầy tạo công danh tại thế cũng rất hay cho kiếp người lắm

đó, nhưng hữu dụng trong thời giả tạm của xác thân ngắn ngủi mà

thôi, thoảng mãn ngày qua tháng lại, chưa rồi với ý nguyện, thì quỷ

vô thường lại đến, rồi phải đành cam lộ thượng huỳnh tuyền lưỡng

thủ không. Nghĩa là: Khi chết chỉ có hai tay không với muôn điều

tội lỗi theo mình mà thôi! Dầu tiền muôn bạc vạn cũng không

Page 14: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

14

chuộc đặng mạng sống và tội tình, thì rất than ôi! Đáng tiếc lắm

thay! . .

Sao bằng học Đạo mầu, trước độ được mình và Cửu-Huyền Thất-

Tổ, sau độ cả quần linh sanh chúng mới là hay tột đỉnh vậy.

ĐỨC THÁNH XƯA CÓ DẠY: 5 ĐIỀU MỤC SAU ĐÂY:

Một Bác học chi: Nghĩa là học cho sâu rộng các lý các sự trên trần

thế nầy, dầu hay, dầu dở cũng đều làm bài học cho ta được, nếu hay

thì ta tiến tới mà hành y, còn dở thì hãy cố tránh xa ra cho khỏi điều

phiền lụy. Nên bất luận kinh sách nào trong Tam-Giáo ngoại Cửu-

Lưu cũng đều nên học cả, vậy mới đạt lý Thiên-Minh mà thấy xa

hiểu rộng và lịch lãm tình đời lý đạo, được vậy sự hỏi mới cao sâu,

đó là (cách vật).

Hai Thẫm vân chi: là học phải hỏi cho sâu xa mới tránh được sự

nghi nan ngờ vực, nó sẽ làm ngăn cản bước đường tiến bộ của mình

mà trở thành lầm lạc, đó là (trí tri).

Ba Thận tư chi: phải cẩn thận mà suy nghĩ cho chính chắn kỹ

càng, coi sao phải sao quấy, rồi mới vững lập trường mà thực hành

đúng mức mới là (thành ý được).

Bốn Minh biện chi: phải biện minh lẽ thiện ác, chánh tà, quán xét

sự vật cho rõ lý tình, hầu nhận định được đường lối cao siêu chơn

lý đạo, mới gọi (Chánh tâm).

Năm Đốc hành chi: là bắt tay vào việc mà thi-hành ngay liền, chớ

không còn ngần ngại gì nữa và phải gấp rút (tu thân).

Rồi phải lo tri tầm Tánh-Mạng mà hạ thủ xuống tay công phu liền,

chớ không còn ngần ngại gì nữa mà để cho mất thì giờ thêm. Nên

có câu: (Triêu văn đạo, tịch tử khả hỉ), là sớm mơi nghe được đạo,

chiều chết cũng vui.

Còn việc tu hành bất luận già hay trẻ gì cũng đều tu được cả càng

sớm càng hay. Nếu người còn nhỏ tuổi mà lo tu, là bậc Thượng-

Đức vì tinh huyết còn đầy đủ, chưa kém suy hao hớt hay tiết lậu ra

ngoài y như trai đồng nhân mười sáu tuổi.

Còn phần già Lão là bậc Hạ-Đức, vì đã mất Đức, bị tinh hao huyết

kém rất khó tu. Vậy nên cần phải chấp Đức lại, lo công quả bố thí

cho cảm động lòng Trời sẽ vào tu học theo Tân-Pháp Cao-Đài,

dụng lấy chỗ động tịnh của Âm-Dương mà hườn sanh trở lại cho

đặng y như hồi còn trai trẻ, thì phải tốn nhiều công mới được.

Đức Phật có nói rằng:

Chớ đợi đến già mà niệm Phật

Thiếu chi mồ trẻ đã qua đời.

Nghĩa là: Kiếp người sanh có hạn, còn tử lại không kỳ, mà nay hẹn

để già sẽ tu biết mai nầy còn sống được không, lại có thi rằng:

THI

Người sanh trăm tuổi là hạng cao

Thọ yểu cùng không hiểu đặng nào

Sáng sớm ngoài đường còn cỡi ngựa

Chiều vào trong quách xác khô khao

Gia tài con vợ đều buôn ráo

Tội nghiệp theo mình chịu chớ sao.

Nếu sớm ăn năn noi bước đạo

Đắc thành quả vị mới là cao.

Xét lại kiếp người trăm năm như nháy mắt, lệ tợ thoi đưa, như

chiêm bao bay bổng thấy đó mất đó có chắc gì đâu? Mà nay đã già

rồi thì còn làm gì thêm được nữa. Vì từ 60 tuổi mỗi năm thấy mỗi

già, qua 70 tuổi mỗi tháng thấy mỗi già, đến 80 tuổi mỗi ngày thấy

mỗi già thêm hoài, nên càng lớn tuổi chừng nào lại càng thấy mau

già thêm hơn mãi mãi. Than ôi! Tuổi chẳng chờ ta rồi kế tiếp theo

bịnh tật liên-miên thì đời sống trở thành vô dụng kế chết.

Vậy từ đây về sau, nếu sống thêm được ngày nào, ấy là Trời ban

ân cho ngày nấy, thì hà lại dám để cho nó luống mất đi hay sao? Mà

dầu cho có được Đạo nữa thì cũng trễ lắm rồi khá dám để cho trễ

nữa hay sao? Thế nên người trí chẳng để mất thời giờ, kể dông

không tính hai lần.

Hễ ngày nay biết Đạo, thì ngày nay lo hạ thủ xuống tay liền, còn

giờ này biết Đạo, tức là giờ hạ thủ đó. Nếu nói nay chưa rảnh để

chờ khi khác, thì e cho đến chừng muốn thi-hành lại không có đủ

Page 15: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

15

thì giờ mà thi-hành đó. Tại sao vậy? Vì Tam-Bửu đã tiêu hao hết

rồi, thì há chẳng trễ muộn lắm sao?

Mà con người chỉ có Tam-Bửu là: Tinh, Khí, Thần rất nên hệ

trọng cho việc tu hành, nếu để đợi đến già rồi, thì e cho Tinh khô, e

cho Khí tận, e cho Thần lìa ắt cái chết đã đến rồi, làm sao mà tu cho

kịp. Than ôi! Lão hỉ thị thùy chi khiên rồi !!!

Vậy ai là người Thượng-Sĩ thông minh đĩnh ngộ, Đạo-Đức siêu

quần nên tùng sanh nhựt vãng nguyệt lai, mà giải thoát tục trần hầu

về nơi Thánh Đạo cho kịp kỳ ân xá Đạo khai.

Còn bậc Hạ-Sĩ chấp Đức, Tam-Bửu không đầy đủ mà phải bị tiêu

vong khá học cho thông, nên tùng cơ Đạo mà chấp Đức lại cho kịp

lúc tuổi già, nếu để âm dương tiêu trưởng rành phân, thì mau dùng

tấn Hỏa thối Phù mà dưỡng nuôi Âm Dương trở lại.

1. Như trăng ngày 30 kíp sang mùng một mới tượng một chút

Dương, ví như con người trong thai mới tượng. Đến 3 tuổi 960

ngày mới có một điểm Tinh.

2. Mồng 1 đến mồng 3 thì sanh đặng nhứt Dương như người 1 tuổi

biến Khôn thành Quẻ Phục.

3. Nguyệt từ mồng 3 đến mồng 7 có hai Dương là biến Phục thành

Lâm. Như người từ 5 tuổi 4 tháng mới có 2 điểm Tinh.

4. Nguyệt từ mồng 8 được tam Dương biến Lâm thành Thới,

người đặng 8 tuổi mới có đặng 3 điểm Tinh.

5. Nguyệt từ ngày mồng 10 có được tứ Dương biến Thới thành

Tráng. Người đặng 11 tuổi có đặng 4 điểm Tinh.

6. Nguyệt ngày 14 được ngũ Dương biến Tráng thành Ương,

người được 13 tuổi 4 tháng có 5 điểm Tinh.

7. Nguyệt ngày 16 được Lực Dương biến Ương thành Càn. Người

16 tuổi có được 6 điểm tinh, thì Càn-Khôn chói rạng, lục Dương

trưởng thành, tinh thần đầy đủ, nếu sớm biết Đạo là bậc Thượng-

Đức chi nhơn, bằng trì hưỡn chẳng lo.

8. Qua 24 tuổi lại biến sanh một Hào-Âm, thì như nguyệt ngày 18

khuyết 1 Dương, biến Càn thành Quẻ Cấu.

9. Đến 32 tuổi sanh 2 điểm Âm, thì như nguyệt đến ngày 21

khuyết hết 2 Dương, thì Quẻ Cấu biến Độn.

10. Đến 40 tuổi sanh 3 điểm Âm, ắt khó hườn lại rồi. Nhưng gắng

công lâu ngày thì ắt cũng được mà rất khó khăn lắm lắm. Như

nguyệt đến ngày 23 khuyết 3 điểm Dương biến Độn thành Bỉ.

11. Đến 48 tuổi sanh 4 Âm, như nguyệt đến ngày 25 biến Bỉ thành

Quan.

12. Đến 56 tuổi sanh 5 Âm như nguyệt đến ngày 28 có Ngũ-Âm

biến Quan thành Bát.

13. Đến 64 tuổi Lục-Âm toàn tột, tinh thần đã hết Lục-Dương tiêu

hao mòn mõi, thì ô hô! Lâm mạng chung thời. Như nguyệt đến

ngày 30 ánh sáng đã tắt nhìn Trời tối đen Quẻ-Bát thành Khôn-Vi-

Địa. Trăng đã hết rồi. Nơi con người tuy tinh đã hết nhưng cũng hơi

hám sót lại chút ít chơn Dương, nếu có học đạo luyện tu cũng có

thể dụng lấy âm trung luyện phản thành dương cũng được. Nhưng

rất khó thay, nếu chí đức gắng công phục hồi thì cũng đoạt thành

Thần-Đạo, rất thảm thương thay!

Nên bộ máy con người cũng ví như mặt trăng trên trời, hễ có sanh

thì có diệt. Nếu nay con người muốn trường tồn mãi mãi thì học

theo mặt Nhựt, mà Đạo nhựt thường hành.

Tại sao Nhựt thường tròn thường đầy? Còn Nguyệt thường tán

thường tiêu?

Vì mặt Nhựt hay giữ được mức độ chơn thường, mỗi ngày cứ đi

đúng y theo độ số của nó, và đứng ngay một chỗ mà vận động chơn

Dương chi khí, nên được thường tròn đầy.

Còn trái lại mặt Nguyệt thường tán thường tiêu, vì mặt Nguyệt

phần nhiều âm khí nặng nề, chậm lụt hơn mặt Nhựt, nên không giữ

được mức chơn thường, mỗi ngày thường đi chậm hơn mặt Trời,

nên lúc mới sanh thì có được chút Dương rồi lần-lần lớn lên đầy đủ

tròn sáng đến rằm 16 thì tột độ của ánh Dương khí, vì không giữ

được mức chơn thường như mặt Trời, nên lần-lần sụt mất hào

Dương hao kiệt, rồi Âm khí lấn lên làm cho đen tối trở lại. Đến 30

là chết mất. Qua mồng một tượng sanh trở lại như ở trong thai bào,

rồi lần lần lại lớn sáng ra, cứ hết sáng đến tối rồi hết tối đến sáng, vì

vậy mới có lưng đầy tròn khuyết mãi mãi.

Page 16: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

16

Con người cũng thế, chẳng khác mặt Trăng trên Trời, hễ chết đầu

sanh trở lại, nên kêu là luân hồi.

Nếu con người muốn khỏi lưng đầy tròn khuyết như mặt Trăng,

thì phải học theo Đạo Nhựt thường hành như mặt Trời, cứ giữ một

bực trung bình sòng phẳng một chiều, không trồi, không sụt, không

xê, không dịch, không lúc ít hồi nhiều, không chênh không lệch,

không phiền não, không không hết ráo, mọi việc đều không, cứ giữ

đạo trung dung mà thường hành, thì sẽ được sáng sủa tròn đầy như

mặt Nhựt, không còn chết đi sống lại như mặt Trăng, đó là bằng

chứng đắc quả vậy.

--oOo--

VỀ PHẦN HỌC

TRƯỚC PHẢI HỌC NGŨ-HÀNH BÁT-QUÁI

Thiên Can Địa Chi, tương sanh, tương khắc, bốn mùa tám tiết 24

khí, ngoại thân và nội thể. Đó là điều nên hiểu trước nhứt của người

tu, thì trí huệ mới dễ mở khai thông tư-tưởng, thì đường tu mới

sáng tỏ.

PHẦN NGŨ-HÀNH CÓ NĂM HÀNH

1. Kim: Là kim loại như: Vàng, Bạc, Đồng, Thau, Chì, Kẽm, Thiếc,

Sắt, Thép, Gang, Nhôm và I-nóc.

2. Mộc: Mộc là các loại cây cỏ hoa lá, rau cải.

3. Thủy: Thủy là các thứ nước mưa, nước sông, nước biển, suối

rạch, ao, hồ, đầm.

4. Hỏa: Hỏa là lửa Trời, lửa điển, lửa đá, lửa củi.

5. Thổ: Thổ là đất núi, đất đá, đất set, đất bùn, đất sình.

PHẦN THỨ TỰ CỦA NGŨ-HÀNH:

O Nhứt Thủy: tánh nó trầm trọng nên đi xuống.

O O Nhì Hỏa: tánh nó hướng thượng đi lên

O O O Tam Mộc: tánh nó cứng và chắc

O O O O Tứ Kim: tánh nó cứng chắc và dẻo dai

O O O O O Ngũ Thổ: tánh nó bao dung 4 hành kia vì Đức nó

rộng lớn hơn hết.

Thánh nhân đã có ngụ ý mà sắp thành thứ tự của nó như vậy, dầu

muôn đời cũng không xê-dịch được.

NGŨ-HÀNH TƯƠNG SANH:

1. Kim sanh Thủy: Các loại kim khí đều rịn mồ hôi mà sanh ra

nước.

2. Thủy sanh Mộc: Có nước các loại cây mới sống được.

3. Mộc sanh Hỏa: Cây đốt ra lửa hay lấy lửa trong cây.

4. Hỏa sanh Thổ: Lửa đốt ra tro thành đất.

5. Thổ sanh Kim: Các hầm mỏ kim loại đều ở trong đất sanh ra cả.

NGŨ-HÀNH TƯƠNG KHẮC:

1. Kim khắc Mộc: Các loại kim khí như: dao, búa, cưa, đục, khoan

dùi, đều làm cho cây chết.

2. Mộc khắc Thổ: Các loại cây cỏ đều chăm rễ ăn đất hao lủng hết

chất.

3. Thổ khắc Thủy: Là nước càn ngập đến lấy đất đắp ngăn nước lại

để trị nó.

4. Thủy khắc Hỏa: Nước tưới lửa tắt, nước trị được lửa.

5. Hỏa khắc Kim: Lửa đốt Kim mềm và chảy ra nước.

MƯỜI THIÊN CAN: NĂM ÂM DƯƠNG

Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mồ, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí

(Có gạch là dương)

THIÊN CAN THUỘC NGŨ-HÀNH Ở NGŨ-PHƯƠNG ĂN VỚI

NĂM MÀU:

Đông-Phương Giáp-Ất thuộc Mộc màu (xanh)

Tây-Phương Canh-Tân thuộc Kim màu (trắng)

Nam-Phương Bính-Đinh thuộc Hỏa màu (đỏ)

Page 17: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

17

Bắc-Phương Nhâm-Quý thuộc Thủy màu (đen)

Trung-Ương Mồ-Kỷ thuộc Thổ màu (vàng)

THIÊN CAN TƯƠNG SANH:

Giáp-Ất (Mộc) sanh Bính-Đinh (Hỏa)

Bính-Đinh (Hỏa) sanh Mồ-Kỷ (Thổ)

Mồ-Kỷ (Thổ) sanh Canh-Tân (Kim)

Canh-Tân (Kim) sanh Nhâm-Quý (Thủy)

Nhâm-Quý (Thủy) sanh Giáp-Ất (Mộc)

THIÊN CAN TƯƠNG KHẮC:

Giáp-Ất (Mộc) khắc Mồ-Kỷ (Thổ)

Mồ-Kỷ (Thổ) khắc Nhâm-Quý (Thủy)

Nhâm-Quý (Thủy) khắc Bính-Đinh (Hỏa)

Bính-Đinh (Hỏa) khắc Canh-Tân (Kim)

Canh-Tân (Kim) khắc Giáp-Ất (Mộc)

MƯỜI HAI ĐỊA CHI: SÁU ÂM SÁU DƯƠNG

Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất, (thuộc Dương)

Sửu, Mẹo, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi (thuộc Âm)

ĐỊA CHI NGŨ-HÀNH:

Hợi-Tý thuộc (Thủy), Dần-Mẹo thuộc (Mộc)

Thân-Dậu thuộc (Kim), Tỵ-Ngọc thuộc (Hỏa)

Thìn-Tuất-Sửu-Mùi thuộc (Thổ)

ĐỊA CHI TƯƠNG SANH:

Hợi-Tý (Thủy) sanh Dần-Mẹo (Mộc)

Dần-Mẹo (Mộc) sanh Tỵ-Ngọ (Hỏa)

Tỵ-Ngọ (Hỏa) sanh Thìn-Tuất- Sửu-Mùi (Thổ)

Thìn-Tuất-Sửu-Mùi (Thổ) sanh Thân-Dậu (Kim)

Thân-Dậu (Kim) sanh Hợi-Tý (Thủy).

ĐỊA CHI TƯƠNG KHẮC:

Hợi-Tý (Thủy) khắc Tỵ-Ngọ (Hỏa)

Tỵ-Ngọ (Hỏa) khắc Thân-Dậu (Kim)

Thân-Dậu (Kim) khắc Dần-Mẹo (Mộc)

Dần-Mẹo (Mộc) khắc Thìn-Tuất-Sửu-Mùi (Thổ)

Thìn-Tuất-Sửu-Mùi (Thổ) khắc Hợi-Tý (Thủy)

BÁT-QUÁI TRÊN HÌNH LƯNG QUI: CÓ 8 QUÁI LÀ:

Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài

Thiên Thủy Sơn Lôi Phong Hỏa Địa Trạch

Trời Nước Núi Sấm Gió Lửa Đất Đầm

BÁT-QUÁI THUỘC NGŨ-HÀNH:

Càn-Đoài thuộc (Kim) Khôn-Cấn thuộc (Thổ)

Khảm thuộc (Thủy) Ly thuộc (Hỏa)

Chấn-Tốn thuộc (Mộc)

SỐ THỨ-TỰ CỦA BÁT-QUÁI TIÊN-THIÊN:

Càn Nhứt, Đoài Nhì, Ly Tam, Chấn Tứ,

Tốn Ngũ, Khảm Lục, Cấn Thất, Khôn bát.

*****

BÀI

--oOo--

PHỤC HY THỈ SÁNG

BÁT-QUÁI TIÊN-THIÊN

HÀ-ĐỒ TƯỢNG-SỐ

Page 18: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

18

Quái chấn Đông-Bắc ngưỡng du

Tây Nam hạ đoạn Tốn phù nhị dương.

Đây là lúc Ngũ-Đế Cổ-Thánh Phục-Hy đi tuần thú trên sông

Mạnh Tân, tức là sông Huỳnh Hà, gặp một con thú đầu rồng

Mình ngựa, trên lưng có điểm kêu là Long-Mã phụ Đồ Thơ

BÀI

--oOo--

TRƯỜNG THIÊN

Tiên-Thiên đồ quái trình tường

Huyền cơ Đại-Đạo miên trường giáo dân

Tam tài lý số mới phân

Hào ly chẳng lọt như cân song bằng

Hồng-Mông điềm ứng lành thay

Phục-Hi Long-Mã phụ rày Âm Dương

Vẽ ra Bát-Quái khôn lường

Phân minh Trời-Đất định đường cửu qui

Tam-Liên Càn-Quái dương nghi

Bắc-Khôn lục đoạn gọi thì Lão âm

Trung hư Ly-Quái đông tầm

Khảm là trung mãn Quái nằm phía Tây

Đông Nam Đoài thượng khuyết đây

Tây Bắc phúc bồn Cấn rày Khôn ngăn.

--oOo--

TRONG MÌNH LONG –MÃ CÓ VẰN ĐIỂM NHƯ:

Số 1 là số 6 thuộc (Thủy) ở nơi sau lưng, số 2 là số 7 thuộc (Hỏa)

ở trước lưng, số 3 là số 8 thuộc (Mộc) ở bên vai tả, số 4 là số 9

thuộc (Kim) ở bên vai hữu, số 5 là số 10 thuộc (Thổ) ở ngay giữa

lưng.

Vì gặp trên sông Huỳnh-Hà nên kêu là Hà-Đồ

Phần Hà-Đồ Tương-Sanh như dưới đây:

1. Trung ương (Thổ) khứ Đông-Phương sanh Giáp Ất (Mộc)

2. Đông-Phương (Mộc) khứ Nam-Phương sanh Bính-Đinh (Hỏa)

3. Nam-Phương (Hỏa) khứ Tây-Phương sanh Canh-Tân (Kim)

4. Tây-Phương (Kim) khứ Bắc-Phương sanh Nhâm-Quý (Thủy)

5. Bắc-Phương (Thủy) khứ Trung-Ương sanh Mồ-Kỷ (Thổ)

Đó là sanh tam ngũ số của Ngũ-Hành Tiên-Thiên như:

Mộc-Hỏa nhứt gia, Kim-Thủy nhứt gia, Nhì-Thổ nhứt gia cứ tròn

vòng như vậy hoài thì chơn khí của Ngũ-hành tương sanh vậy.

TRỜI ĐẤT NGƯỜI ĐỀU LIÊN ĐỚI NHAU:

Trời có Tiên-Thiên ngũ khí thuộc Ngũ-Hành:

1. Khinh khí màu (xanh) 2. Dưỡng khí màu (vàng)

3. Đạm khí màu (đỏ) 4. Thán khí màu (trắng)

5. Huyền khí màu (đen)

ĐẤT CÓ NGŨ-PHƯƠNG THUỘC NGŨ-HÀNH:

1. Đông-Phương Giáp-Ất (Mộc), Khinh khí màu (xanh)

2. Tây-Phương Canh-Tân (Kim), Thán khí màu (trắng)

3. Nam-Phương Bính-Đinh (Hỏ), Đạm khí màu (đỏ)

4. Bắc-Phương Nhâm-Quý (Thủy), Huyền khí màu (đen)

5. Trung-Ương Mồ-Kỷ (Thổ), Dưỡng khí màu (vàng)

Page 19: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

19

Còn con người có Ngũ-Tạng thuộc Ngũ-Hành:

1. Can và Đởm thuộc (Mộc) Phong khí màu (xanh)

2. Tâm và Tiểu-Trường thuộc (Hỏa) Hỏa khí màu (đỏ)

3. Phế và Đại-Trường thuộc (Kim) Táo khí màu (trắng)

4. Thận và Bàng-Quang thuộc (Thủy) Hàn khí màu (đen)

5. Tỳ và Vị thuộc (Thổ) Thấp khí màu (vàng)

Vì thế nếu người không biết tu kiêng cử theo giáo điều giới răn

cấm kỵ, thì sẽ bị cơ Tạo-Hóa vận hành mà thâu lấy Ngũ-Khí ở năm

tạng của ta phải bị hao mòn, mà sanh điều bịnh hoạn liên-miên, kế

chết, và còn mắc tội với Trời Đất là khác.

VẬY NGƯỜI TU CẦN PHẢI GIỮ NĂM ĐIỀU NÀY ĐẶNG

CỨU ĐỜI ĐỘ THẾ.

1. Nếu chẳng răn sát sanh thì mất lòng nhơn, mà không nhơn thì bị

khuyết Can và Đởm nó thuộc Mộc, vì ở trên Trời sao Tuế-Tinh

phải động, thì ở dưới đất có tai nạn xáo lộn ở Phương-Đông, rồi bá

tánh ở đây phải bị khổ sở, chết chóc bất an vì chiến tranh đạo tặc,

thất mùa đói khát v.v.

2. Nếu chẳng răn trộm cắp thì mất điều nghĩa, mà không nghĩa thì

bị hại Phế và Đại Trường nó thuộc Kim, vì ở trên Trời sao Thái-

Bạch phải động, thì ở dưới đất có tai nạn xáo trộn ở Phương Tây rồi

bá tánh ở đây bị khổ sở, chết chóc bất an vì chiến tranh đạo tặc, thất

mùa đói khát v.v.

3. Nếu chẳng răn tà dâm thì mất chữ lễ, mà không lễ thì bị khuyết

Tâm và Tiểu Trường nó thuộc Hỏa, vì ở trên trời sao Dinh-Hoặc

phải động, thì ở dưới đất có tai nạn xáo trộn ở Phương-Nam, rồi bá

tánh ở đây bị khổ sở, chết chóc bất an vì chiến tranh đạo tặc, thất

mùa đói khát v.v.

4. Nếu chẳng răn rượu thịt thì bị mất trí khôn, mà không trí thì bị

Thận và Bàng-Quang nó thuộc Thủy, vì ở trên Trời các Thần-Tinh

phải động, thì ở dưới đất có tai nạn xáo trộn ở Phương-Bắc, rồi bá

tánh ở đây bị khổ sở, chết chóc bất an vì chiến tranh đạo tặc, thất

mùa đói khát v.v.

5. Nếu chẳng răn nói dối thì bị mất tín, mà không tín thì khuyết Tỳ

và Vị nó thuộc Thổ vì ở trên Trời sao Trấn-Tinh phải động, thì ở

dưới đất có tai nạn xáo trộn ở Trung-Ương, rồi bá tánh ở đây bị khổ

sở, chết chóc bất an vì chiến tranh đạo tặc, thất mùa đói khát v.v.

Vì thế người tu cần ngăn ngừa các điều răn ấy để tịnh an, thì cơ

thể sẽ được kiện toàn bồi bổ lại. Là Trời Đất cũng an hòa, và cõi

trần này cũng được an tịnh mà trở thành Cực-Lạc tại thế. Nên nói

Đạo cứu đời là đây vậy.

Nếu người người đều tu tịnh luyện cho an thần nhập định, thì khỏi

phạm năm bộ sao trên Trời và năm Phương dưới Đất. Rồi năm tạng

được tươi nhuần mà thần an khí định, sẽ phát ra điển lực thanh cao

hiệp cùng Trời Đất, thì Thế-Giới được an bình nơi nơi lạc nghiệp

mưa thuận gió hòa ca ngâm cổ-phúc, an hưởng cõi đời Thượng-

Ngươn Thánh-Đức. Vậy mới gọi cứu đời độ thế, làm cho cõi đời

xáo lộn trở lại cảnh thanh bình an lạc.

Còn trái lại người mà không tin Đạo lý cứ chạy theo thị dục, dụng

ý tư riêng của cá tánh, bắt bẻ giới răn, cứ vi phạm Thiên-Cơ hoài thì

khó mong thoát khỏi cảnh đời tận diệt, vì nạn chiến tranh chết chóc

cũng do chỗ tư tâm bản ngã mà ra, thì dầu cho Đạo lý có siêu quần

đến mức nào, cũng khó cứu vãn cuộc đời như thế ấy, ắt phải chịu

trong cơ Trời Đất khắc hại mà diệt vong thì ô hô! “Tam thốn khí tại

Thiên ban dụng, nhứt đáng vô thường vạn sự hưu”, thì sự điêu tàn

của cõi đời trong vòng tận diệt khó bề cứu chữa mà thôi !!!

Kệ rằng:

Nhứt thiết chúng sanh vô sát nghiệp

Thập phương hà xứ tận đao binh

Gia gia hộ hộ đồng tu thiện

Thiên hạ hà sầu bất thái bình

CÒN SỐ THIÊN SANH ĐỊA THÀNH CỦA HÀ-ĐỒ LÀ:

1. Thiên-Nhứt sanh (Nhâm-Thủy) Ngươn-Tinh, Bàng Quang

2. Địa-Lục thành (Quí-Thủy) Ngươn-Huyết, Thận

3. Thiên-Tam sanh (Giáp Mộc) Đởm

4. Địa-Bát thành (Ất Mộc) Can

Page 20: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

20

5. Thiên-Ngũ-sanh (Mồ Thổ) Vị, bao tử

6. Địa-Thập thành (Kỷ Thổ) Tỳ, lá lách hay lá mía

7. Địa-Nhị sanh (Đinh Hỏa) Tâm, thức thần

8. Thiên-Thất thành (Bính Hỏa) Tiểu trường

9. Địa-Tứ sanh (Tân-Kim) Phế

10. Thiên-Cửu thành (Canh Kim) Đại trường, quỉ phách.

Đó là bắt đầu từ Hồng-Mông phân phán chí hậu, rồi Càn Khôn áo

hết khí Tiên-Thiên, trở thành Hậu-Thiên Quái-Hào Khảm-Ly chánh

vị, do Văn-Vương họa Quái soạn ra vì (Càn-Khôn đà thất chánh)

mới giao qua (Khảm-Ly) là thuận sanh nhơn vật nên bị hao tán tiêu

mòn đó vậy.

--oOo--

VĂN VƯƠNG ĐỒ THUYẾT

BÁT-QUÁI HẬU-THIÊN

LẠC THƠ BIẾN SỐ

Bát-Quái phương-vị của Hậu-Thiên-Lạc-Thơ lúc vua Hạ-Võ đi trị thủy trên sông

Lạc, gặp một con Linh-Quy có những vết lưng phân ra tám Quái: Càn, Khảm,

Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Đến nhà Châu Văn-Vương ở nơi Dũ Lý 7 năm mới chấn chỉnh lại Tiên-Thiên

Bát-Quái làm ra Hậu-Thiên là (Hà-Đồ biến làm Lạc-Thơ)

Nên hình Lạc-Thơ sắp theo chữ Tính ( ), có 9 Cung như hình lưng

qui. Theo thứ tự của Lạc-Thơ lấy con số 5 ở giữa, đó là trong con

số 15 ở trung tâm Hà-Đồ làm nòng cốt như cái nhân của Vũ-Trụ.

Nên con số 5 ở giữa Lạc-Thơ đầu đội (9) chơn đạp (1) 2 và 4 làm

vai, bên tả 3, bên hữu 7, 6 và 8 làm 2 chơn.

Cách sắp đặt hình Lạc-Thơ như vậy, còn số thứ tự 8 Quái nằm

trong Lạc-Thơ như: Nhứt Khảm, Nhì Khôn, Tam Chấn, Tứ Tốn,

Ngũ Trung, Lục Càn, Thất Đoài, Bát Cấn, Cửu Ly.

(Số này bất di bất dịch)

4 9 2

3 5 7

8 1 6

Lấy theo ma phương, cứ cộng theo hàng ngang, hàng dọc, hàng

xéo, hàng vuông cũng đều được con số 15 tất cả. Vì con số 15 là

con số trung tâm của Hà-Đồ vậy.

PHƯƠNG VỊ CỦA BÁT QUÁI HẬU-THIÊN LÀ:

Càn tam liên Tây-Bắc Tuất-Hợi

Khảm trung mãn chánh Bắc ư Tý

Cấn phúc uyển Đông-Bắc Sửu-Dần

Chấn ngưỡng bồn chánh Đông đương Mẹo

Tốn hạ đoạn Đông-Nam Thìn-Tỵ

Ly trung hư chánh Nam ư Ngọ

Khôn lục đoạn Tây-Nam Mùi-Thân

Đoài thượng khuyết chánh Tây đương Dậu.

Page 21: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

21

Đây là Thánh ý Vua Phục-Hy sáng chế ra Quái Tiên-Thiên và

Hậu-Thiên Hào-Quái cho Dân gian để biết mà tầm Thiên-Lý, lấy

những dấu chẵn lẻ nơi hình con Long-Mã có phụ Đồ-Thơ tại sông

Mạnh Tân, có đủ Âm Dương nhị khí mà định ra Hà-Quái, lấy chỗ

động tịnh chẵn lẻ của Tứ-Tượng mới phân biệt được lẽ phù trầm hư

thiệt do khí tượng chẳng đổi.

Trong 1 năm có 4 mùa 12 tháng theo Địa-chi.

Tháng Giêng Dần, tháng Hai Mẹo thuộc (Mộc)

“ Ba Thìn “ Tư Tỵ thuộc (Thổ-Hỏa)

“ Năm Ngọ “ Sáu Mùi thuộc (Hỏa-Thổ)

“ Bảy Thân “ Tám Dậu thuộc (Kim)

“ Chín Tuất “ Mười Hợi thuộc (Thổ-Thủy)

“ 11 Tý “ 12 Sửu thuộc (Thủy-Thổ)

PHẦN BỐN MÙA NHƯ:

Mùa Xuân tháng 1 tháng 2 Dần Mẹo thuộc (Mộc) tháng 3 Thìn

thuộc (Thổ) Quí Xuân.

Mùa Hạ tháng 4 tháng 5 Tỵ Ngọ thuộc (Hỏa) tháng 6 Mùi thuộc

(Thổ) Quí Hạ.

Mùa Thu tháng 7 tháng 8 Thân Dậu thuộc (Kim) tháng 9 Tuất thuộc

(Thổ) Quí Thu.

Mùa Đông tháng 10 tháng 11 Hợi Tý thuộc (Thủy) tháng 12 Sửu

thuộc (Thổ) Quí Đông.

PHẦN TÁM TIẾT NHƯ:

Mùa Xuân có 2 tiết: Lập-Xuân, Xuân-Phân

Mùa Hạ có 2 tiết: Lập-Hạ, Hạ-Chí

Mùa Thu có 2 tiết: Lập-Thu, Thu-Phân

Mùa Đông có 2 tiết: Lập-Đông, Đông-Chí.

PHẦN 24 KHÍ NHƯ:

Tháng 1-2 Lập-Xuân, Vũ-Thủy, Kinh-Trập, Xuân-Phân

Tháng 3-4 Thanh-Minh, Cốc-Vũ, Lập-Hạ, Tiểu-Mãn

Tháng 5-6 Mang-Chủng, Hạ-Chí, Tiểu-Thử, Đại-Thử

Tháng 7-8 Lập-Thu, Xử-Thử, Bạch-Lộ, Thu-Phân

Tháng 9-10 Hàn-Lộ, Sương-Giáng, Lập-Đông, Tiểu-Tuyết

Thang 11-12 Đại-Tuyết, Đông-Chí, Tiểu-Hàn, Đại-Hàn

--oOo--

BÁT-QUÁI NHƠN THÂN Tâm thuộc (Hỏa) cung Ly, Can thuộc (Mộc) Chấn Tốn

Tỳ thuộc (Thổ) Khôn Cấn, Phế thuộc (Kim) Càn Đoài

Thận thuộc (Thủy) cung Khảm

Ngũ-Tạng thuộc Bát-Quái ăn với Ngũ-Hành

Ly Tâm Hỏa, Khảm Thận Thủy, Chấn Can Mộc,

Đoài Phế Kim, Cấn Bàng-Quang Thủy, Tốn Đởm Mộc,

Càn Tiểu Trường Kim, Khôn Đại Trường Hỏa.

Page 22: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

22

Cung Khảm tại Thận (Hắc Khí) sanh trược-tinh

Cung Chấn tại Can (Thanh Khí) sanh vu-hồn

Cung Đoài tại Phế (Bạch Khí) sanh quỉ-phách

Cung Ly tại Tâm (Xích Khí) sanh thức-thần

Trung-điền tại Tỳ (Huỳnh Khí) sanh Chơn-ý Mồ Thổ

NHƠN THÂN NGŨ TẠNG ĐỒ VÀ LỤC PHỦ

Lục Phủ ăn với Ngũ-Khí

Cung Càn tại (Tiểu Trường) Bạch-Hắc Khí

Cung Tốn tại (Đởm) Thanh-Xích Khí

Cung Khôn tại (Đại-Trường) Bạch-Xích Khí

Cung Cấn tại (Bàng-Quang) Thanh-Hắc Khí

Hạ-Điền-Vi (Bao-Tử) vọng-ý Kỷ-Thổ Huỳnh Khí.

--oOo--

TRONG THÂN NGƯỜI CÓ NGŨ-NGƯƠN

THUỘC NGŨ-HÀNH

1. Ngươn-Thần thuộc (Hỏa) 2. Ngươn-Khí thuộc (Thổ)

3.Ngươn-Tinh thuộc (Thủy) 4. Ngươn-Tình thuộc (Kim)

5. Ngươn-Tánh thuộc (Mộc)

TRỜI-ĐẤT-NGƯỜI ĐỒNG CHUNG MỘT LÝ

Người có Ngũ-Tạng, bậc chơn tu biết giữ gìn Ngũ-Tạng đắc thành

Tiên-Phật đó là Đạo vậy.

Vậy người phải ăn đủ năm chất để bổ cho năm Tạng là: mặn, ngọt,

đắng, cay, chua nếu thèm món nào, thì tất nhiên mình bị thiếu chất

đó.

1. Chất cay thuộc (Kim), đó giúp cho Phổi sinh khí khô ráo, mở

đường nhuận tả.

2. Chất chua thuộc (Mộc), đó làm cho Gan ấm áp có thể thâu liễm

rút lại và sáp lợi.

3. Chất mặn thuộc (Thủy), nó làm cho Thận được bền bỉ mềm mại

sanh hàn hóa khí.

4. Chất đắng thuộc (Hỏa), nó làm cho Tim được sanh ra khí nhiệt

và ráo.

5. Chất ngọt thuộc (Thổ), sanh khí ẩm thấp nó đi vô Tỳ là lá-lách.

NÊN ĂN NĂM SẮC ĐẬU THƯỜNG BỔ NĂM TẠNG:

1. Đậu xanh bổ được Can hay Đởm thuộc (Mộc)

2. Đậu trắng bổ được Phế và Đại-Trường thuộc (Kim)

3. Đậu đỏ bổ được Tâm và Tiểu-Trường thuộc (Hỏa)

4. Đậu đen, bổ được Thận và Bàng-Quang thuộc (Thủy)

5. Đậu vàng bổ được Tỳ và Vị thuộc (thổ)

Page 23: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

23

TRONG BỐN MÙA CÓ LIÊN QUAN VỚI NGŨ-TẠNG:

Nên món ăn có 5 sắc năm màu tương sanh hay tương khắc với

Ngũ-Tạng, tùy theo mùa tiết nên tăng hay giảm tùy nghi mà xử

dụng món ăn cho hợp thời.

1. Mùa xuân thuộc (Mộc) khắc Tỳ (Thổ), nên Can Đởm vượng, nên

Tỳ Vị suy, nên ăn vị ngọt và màu vàng nhiều, đặng bổ trợ cho Tỳ,

Vị được quân bình trở lại, và bớt ăn vị chua với màu xanh ít lại, kẻo

lâm vào tình trạng thái quá của Can-Đởm mà Tỳ-Vị thọ hại.

2. Mùa Hạ thuộc (Hỏa) nó khắc Phế thuộc (Kim), còn Tâm và Tiểu-

Trường thuộc (Hỏa) nên vượng. Trái lại Phế Đại-Trường Thận

(Thủy) với bàng-quang đều bị Tâm (Hỏa) nó tương khắc, phải nên

ăn vị cay, mặn màu đen với màu trắng nhiều, còn bớt ăn vị ngọt,

đắng màu vàng và màu đỏ ít lại, cho quân bình lại được Phế Tâm và

Tỳ Thận khỏi sanh điều khắc hại.

3. Mùa Thu thuộc (Kim) khắc Mộc, nên Phế với tiểu-trường vượng,

mà khắc với Can và Đởm phải bị suy, vậy phải ăn vị chua và màu

xanh nhiều đặng bổ sung cho Can-Đởm lại, trái lại bớt ăn vị cay và

màu trắng ít cho được sự quân bình Can-Đởm khỏi bị hại, mà sanh

bịnh.

4. Mùa Đông thuộc (Thủy) khắc Hỏa nên Thận Thùy và bàng-

quang vượng mà khắc với Tâm-Hỏa và đại trường phải bị suy, nên

ăn vị đắng và màu đỏ nhiều, để bổ sung cho Tâm và đại trường lại,

trái lại bớt ăn vị mặn và màu đen ít lại, cho quân bình Tâm trường

vô bịnh vậy.

Trước cần bổ dưỡng sau cần giữ gìn 10 điều tổn thì sự bổ dưỡng

mới có ấn chứng nên thế nhơn thường nói khéo giữ hơn là khéo tạo.

Nếu tạo mà không giữ gìn thì sẽ bị hư mất, rồi tạo hoài cũng không

đủ.

BÀI

Phần thập tổn tri tầm ngăn chận

1. Đi nhiều thì lần thốn tổn Gân

2. Đứng lâu Xương tổn lãnh phần

3. Ngồi lâu tổn Huyết truyền phân điểm này

4. Ngủ lâu thì gây Mạch tổn

5. Nghe lâu thời lại tổn Tinh

6. Xem lâu thì Thần tổn khó sinh

7. Nói lâu tổn Khí phân minh lối đường.

8. Ăn no thì Can Trường Tâm tổn

9. Lo nhiều thì khốn đốn cho Tỳ.

10. Dâm thì tổn Mạng tường tri.

Cần nên phân tách ấn ghi vào lòng.

THI

Năm sắc hoa lành nở ngổn ngang

Sáu mùi hương vị phất trung đàn

Son lòng chẳng vấy bùn nhơ vướng

Nhị trổ thơm tho thả cánh vàng

Đơm kết nụ bồng kìa quả đẹp

Nước phân vun tưới mới chu toàn

Trì tâm ngũ dục Ngũ-Ngươn biến

Định trí Lục-Căn lục đạo hàng.

(Đạo-Tổ)

LẠI CÒN CÁI HẠI CỦA THẤT TÌNH CŨNG CẦN NÊN GIỮ

--oOo--

Thất tình là: Hỉ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Cụ.

Hỉ là mừng, có hại cho (Tâm)

Nộ là giận, có hại cho (Can)

Ái là yêu, có hại cho (Thần)

Ố là ghét, có hại cho (Tình)

Ai là buồn, có hại cho (Phế và Tỳ)

Lạc là vui, sanh dục có hại cho (Thận-Dâm)

Cụ là sợ, có hại cho (Đởm-Mật)

Ấy là cái hại của thất tình nó khiến dẫn lòng người đó.

Page 24: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

24

CÒN LỤC DỤC Ở TRONG LỤC CĂN CÓ HẠI NHƯ:

--oOo--

Lục Căn là: Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý.

Vậy người tu cần dẹp nó cho yên rồi thần mới được an, trí mới

được định mà tu hành, mới khỏi sa đọa vào vòng Lục đạo luân hồi.

Vì Lục-Căn nó sanh Lục-Thức, có Lục-Thức sanh Lục-Trần, có

Lục-Trần sanh Lục-Tặc, có Lục-Tặc sanh Lục-Thần, có Lục-Thần

liền sanh Lục-Đạo là sáu nẻo luân hồi đó.

Nên Trời Phật hằng dạy người tu phải đóng bế sau căn là: Nhãn

kiến Sắc, Nhỉ thinh Âm, Tỉ vị Hương, Thiệt vị Ngon, Thân xúc

Động, Ý móng Tưởng, Pháp.

Thế nên (thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong). Trước hết

con người mới sơ sanh, thì Ngươn-Thần chủ trương nơi tâm vị, lối

ấy thì Ngươn-Thần bất thức bất tri, vô-ưu, vô-lự, thì vạn thần đều

gom về căn cội, nên nhơn thân thường tịnh ấy là Nhơn chi sơ tánh

bổn thiện vậy.

Bởi bị Lục-Dục tương truyền, làm cho Ngươn-Thần thất vị, vọng

tâm sanh thức thần chủ sự vọng động, làm cho Càn-Khôn biến sanh

vạn tượng.

Hãy biết: Lục-Thức sanh thì Lục-Thần bị tiêu diệt, rồi Lục-Đạo,

làm sao tránh khỏi.

NẾU CON NGƯỜI CHẠY THEO LỤC-DỤC THÌ:

1. Là Mắt xem sắc đẹp lắm, mãi đến sau cái điểm Linh tánh phải

đọa vào đường Noãn sanh Địa-Ngục, biến làm loài Phi-Cầm chim

chóc đẻ trứng, mình mang những lông ngũ-sắc, xem coi tốt đến bực

nào?

2. Là Tai tham nghe tiếng tà chẳng nhàm, mãi đến sau cái điểm

Linh tánh phải đạo vào đường Thai sanh Địa-Ngục, biến làm loài

Tẩu-Thú đẻ con như Voi, Cọp, Ngựa, Bò, Trâu, Heo, Chó, đeo đầy

lục-lạc, chuông reo nghe ra hay đến bực nào?

3. Là Mũi tham ngửi mùi thơm và mùi thịt cá đắm mê chẳng dứt,

mãi đến sau cái Linh tánh phải sa đọa vào Thấp sanh Địa-Ngục,

biến làm loài Thủy-Tộc như: Cá Trạnh, Tôm, Cua thường ở nơi bùn

sình tanh hôi, đặng hửi coi ra mùi thích thú đến bực nào?

4. Là Lưỡi tham ưa nếm mùi Ngũ-Huân là Ngũ-Vị Tân, Hành, Hẹ,

Tỏi, Nén, và Kiệu, mỗi ngày ba bữa ăn chẳng nhàm, mãi đến sau

cái điểm Linh-tánh phải sa đọa vào Hóa sanh Địa-Ngục. Biến làm

loài sâu nhộng hóa bướm, hay muỗi mòng rận rệp ruồi lằng, lấy

miệng ra cắn người cắn vật mà hút máu tanh hôi coi ngon đến bực

nào?

5. Là Thân tham ưa xúc động đắm mê dâm dục chẳng biết nhàm,

mãi đến sau cái điểm Linh-tánh phải sa đọa nơi Âm-Đồ Địa-Ngục

biến làm gà vịt mỗi ngày giao cảm vô độ, như vậy duyệt ý coi khoái

sướng đến bực nào?

6. Là Tâm ý Pháp, lòng tham của chẳng nhàm, mãi đến sau cái

điểm Linh-tánh phải bị sa đọa nơi loài súc vật chuyên chở đồ nặng

trọn đời, cho người đi đây sang kia, hoặc của cải bạc vàng hàng hóa

ngọc ngà châu báu thường chẳng lìa thân cho thỏa mãn lòng tham,

coi giàu đến bực nào?

Tóm lại: Luân hồi quả báo đều do nơi người chạy theo sáu dục mà

đào tạo sáu nẻo luân hồi, vì bị thiên tánh cảm xúc Linh thần mà ra

đến thế, nên người luyện phải ráng dẹp trừ sáu mối dục này cho

sạch thì việc tu hành ắt khá đặng thành công mau chóng, ấy là dẹp

Lục-Đạo luân hồi rồi sẽ đặng tiêu diêu nơi miền Cực-Lạc.

Lại còn cái hại của Tam-Thi ở trong thân mình kêu là Tam-Độc

hay Tam-Bành cũng thế:

Thần Thượng-Thi là Bành-Cư cai quản người lành dữ chốn

Thượng-Tiêu ải (Ngọc-Chẩm).

Thần Trung-Thi, là Bành-Chấp cai quản người lành dữ chốn

Trung-Tiêu ải (Hiệp-Tích)

Thần Hạ-Thi, là Bành-Kiều cai quản người lành dữ chốn

Hạ-Tiêu ải (Vĩ-Lư)

Hễ đến ngày Canh-Thân, Giáp-Tý, thì về Trời tâu các việc lành

hay dữ của người làm. Nó lại có tay chơn bộ hạ là Cửu-Cổ, chín

con ma này làm hại chẳng ít, nó làm ngăn lấp chín Khiếu của con

Page 25: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

25

người, khiến cho khí chơn dương khó thăng lên ba ải. Mà Cửu-Cổ

có tên là:

Thứ nhứt Phục-Cổ ở ải Ngọc-Chẩm

Thứ hai Long-Cổ ở Khiếu Thiên-Trụ

Thứ ba Bạch-Cổ ở Khiếu Đào-Đạo

Thứ tư Nhục-Cổ ở Khiếu Thần-Đạo

Thứ năm Xích-Cổ ở ải Hiệp-Tích

Thứ sáu Cách-Cổ ở Khiếu Huyền-Xưu

Thứ bảy Phế-Cổ ở Khiếu Mạng-Môn

Thứ tám Vĩ-Cổ ở Khiếu Long-Hổ

Thứ chín Khương-Cổ ở ải Vĩ-Lư

Thần Tam-Thi thì ở ba ải, Cửu-Cổ ở chín Khiếu biến hóa đa đoan,

ẩn hiện mạt trắc, hoặc hóa gái tốt trai lành, làm cho nam mộng di

tinh, nữ phải bị bạch dâm vệ hạ, hoặc hóa Huyển-Cảnh khiến trong

giấc ngủ sanh ra nhiều phiền não sợ hãi kinh hồn hoảng vía, khiến

cho đạo cả khó thành.

TRONG ĐƠN KINH CÓ KỆ RẰNG:

Tam -Thi Cửu-Cổ ở trong mình

Ngăn lấp Huỳnh-Hà độc khí sinh

Hành giả đánh tan ba Động-Phủ

Cửu-Cổ tiêu diệt mới trường sanh.

Hựu: Ông Võ Cấu Tử

Thất tình lục dục ấy phong trần

Mưa lớn một đêm rửa sạch thân

Chờ đến Địa-Lôi vừa phát động

Ba thây quỉ trốn mới an thân.

Hựu: Ông Đạt-Ma Tổ-Sư

Nhứt dương sơ động dụng tâm tư

Chín quỉ, ba yêu mới khử trừ

Đến trận giữ gìn cho chính chắn

Đề phòng quan hệ chớ sật sừ

Vậy người tu phải cố gắng diệt trừ mấy mối hại to tác nầy cho hết

sạch, và quét tam tâm trừ tứ tướng, thì lòng dục sẽ lặng yên.

TAM TÂM LÀ

1. Phàm-Tâm là Thất tình (quá khứ Tâm)

2. Sắc-Tâm là Lục-Dục (hiện tại Tâm)

3. Huyết-Tâm là lòng dục (vị lai Tâm)

Còn Tứ-Tướng ở trong là Nhơn Tướng, Ngã Tương, Chúng Sanh

Tướng, Thọ Giả Tướng. Tứ-Tướng ngoài là: Nhãn, Nhỉ, Tỉ, Thiệt.

Vì lòng chưa lóng nên nhơn tâm chưa chết, thì đạo tâm khó sanh,

nên tượng con người sanh ra trong Trời Đất mà chẳng đặng thành

Tiên, Phật, Thánh Hiền ấy là: bởi chẳng hay trừ được Ngũ-Dục là:

Hỉ, Nộ, Ái, Lạc, Dục mà ra hư hại vậy.

Như quả trừ đặng Hỉ tình thì sẽ hóa thành Ngươn-Tánh.

“ Nộ tình “ Ngươn-Tình

“ Ái tình “ Ngươn-Tinh

“ Lạc tình “ Ngươn-Thần

“ Dục tình “ Ngươn-Khí

Như vậy Ngũ-Dục hóa Ngũ-Ngươn thì Tiên, Phật đâu có khó

thành.

ĐẠO NHO NÓI RẰNG

Giới thận hồ kỳ sở bất đổ

Khủng cụ hồ kỳ sở bất văn

Nghĩa là: Răn dè nơi chỗ chẳng thấy

E sợ nơi chỗ chẳng nghe.

(Tức là sợ khi vắng vẻ một mình không thấy ai, mà tâm sanh điều tà

vậy)

ĐẠO TIÊN NÓI RẰNG:

Hoảng hoảng, hốt hốt, yểu yểu, minh minh

Nghĩa là: Chán chán, nhán nhán, lu lu, mờ mờ.

Page 26: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

26

ĐẠO THÍCH NÓI RẰNG:

Không Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý (lục-dục)

Không Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp (lục-thức)

Như chiếu theo Tam-Giáo mà giữ gìn làm y thì lòng tư dục nào

mà không trừ đặng. Tại sao Tam-Giáo đều dạy trừ lòng tư dục?

Vì lòng tư dục nó thuộc âm khí, nên mới dạy trừ bỏ nó, đặng giữ

gìn Thiên-Lý thuộc khí Dương mới dễ thăng lên mà thành Tiên, nếu

thuận theo khí âm thì bị trọng trược phải thành quỉ. Vì lẽ đó nên

người tu phải cần sớm tấn dương hỏa chiều thối âm phù (để dưỡng

dương diệt giả âm).

CHUNG LY TỔ SƯ KỆ RẰNG:

Luyện Tánh trước tua luyện Lão bành,

Một vầng Nga Nguyệt hướng khôn sanh

Âm phù lui tới Đơn Càn chính

Dương Hỏa đầy vơi Nguyệt lần sanh.

Đem Khảm lấp Ly về ngôi cũ

Cầm Ô bắt Thố phục sơ thành

Từ đây tránh khỏi đường Diêm-Chúa

Thành bậc Thần Tiên đến Ngọc-Thanh.

Trong Lạc-Thơ còn sanh âm khí dục vọng tham cầu của ngũ ma

như: Hai, Bốn, Sáu, Tám, Mười là Năm số Âm như:

1. Địa-Lục thành Quí-Thủy là tinh giao cảm, tánh tham sắc

đẹp.

2. Địa-Thất thành Đinh-Hỏa là Thần tư lự, tánh tham cầu

vinh qui.

3. Địa-Bát thành Ất-Mộc là Khí chất tánh tham cầu giàu có.

4. Địa-Cửu thành Tân-Kim là Tình Ái tánh tham cầu vọng

tình.

5. Địa-Thập thành Kỷ-Thổ là tư ý tánh hay tham cầu rượu

thịt, ưa cầu cao lớn lối, ấy là năm con ma trong khí Hậu-thiên, nó

làm cho tiêu hết khí Ngũ-Hành trong Ngũ-Tạng của thân mình.

Thứ Nhứt: Tham dâm hại tinh, thận (Thủy) bị suy kém.

Thứ Nhì: Tham sang hại thần, tâm (Hỏa) suy kém.

Thứ Ba: Tham giàu có hại tánh Can (Mộc) suy kém.

Thứ Tư: Tham sát sanh hại tinh Phế (Kim) kém.

Thứ Năm: Tham hờn giận hại khí, Tỳ (Thổ) suy kém.

Trừ các món hại được rồi, Bát-Quái sẽ thay hào đổi tượng trở lại

khí Tiên-Thiên, là Lạc-Thơ trở lại Hà-Đồ mà chứng quả Thần-Tiên

tọa vị.

Còn năm món Ngũ-Huân: Hẹ, Hành, Tỏi, Nén, Kiệu ráng mà

kiêng cử vì ăn nó thì sanh nhiều trược khí mà khó nổi luyện đơn

nên khá nhớ tiểu tâm kiêng cử vì nó hay sanh (Ngũ-Dục).

Thậm chí đến các món như: Trầu, Thuốc, Cà-phê, Trà các món

nầy nó làm cho kích-thích thần kinh của con người mà sanh ghiền

rồi sanh vọng niệm mà tổn hại tinh-thần, sanh điều trược nhiễm của

Hậu-Thiên lôi cuốn vào sông mê biển khổ.

CHƯƠNG IV TUÂN Y GIỚI LUẬT NHẬP THẤT LUYỆN TU

--oOo--

Người tu muốn cho có ấn chứng kết quả mỹ-mãn, thì trước hết

phải học Qui-Điều và gìn-giữ Tam-Qui, Ngũ-Giới Tứ-Đại và bài

thương yêu phải ghi nhớ nằm lòng.

TAM QUI LÀ:

1. Qui Y Phật: thường tồn Ngươn-Thần

2. Qui Y Pháp: thường gìn Ngươn-Khí

3. Qui Y Tăng: thường giữ Ngươn-Tinh

Đó là Tam-Qui.

PHẦN NGŨ-GIỚI CẤM LÀ:

1. Nhứt bất sát-sanh: Chẳng nên sát hại sanh vật, giết chết, hay

đánh đập làm cho đau đớn rên la, không những con người

hay cầm thú mà thôi, lần-lần cũng phải giữ đừng sát hại vô

Page 27: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

27

cớ đến côn-trùng thảo-mộc nữa. Nếu không răn thì mất lòng

nhơn rồi trong mình sẽ bị khuyết Mộc lâu ngày tại Can-

Đởm có hại.

2. Nhì Bất Du-Đạo: Chẳng nên trộm cướp hay lấy ngang,

lường gạt của người mượn vay không trả, chứa đồ gian và

lượm lấy của rơi, hoặc sanh lòng tham của quấy, hay để ý

hại người mà lợi cho mình, cờ gian bạc lận. Nếu không răn

thì mất điều nghĩa, rồi trong mình sẽ bị khuyết Kim thì Phế

và Đại-Trường phải có hại.

3. Tam Bất Tà Dâm: Cấm lấy vợ hoặc chồng người hay thả

theo đàng điếm, xúi giục người làm loạn luân thường, hoặc

thấy sắc đẹp mà dậy lòng tà, hay lấy lòng trêu-hoa ghẹo

nguyệt. Nếu không răn được ắt mất lễ, hễ mất lễ thì khuyết

Hỏa ắt Tâm và Tiểu-Trường có hại.

4. Tứ Bất Tửu-Nhục: Cấm uống rượu ăn thịt cá, làm rối loạn

tâm thần, hoặc miệng ước mơ đồ cao lương mỹ vị bụng tư

tưởng món này ngon hay vật kia quý lạ. Nếu không cử được

ắt bị mất trí: Không trí thì khuyết Thủy làm cho Thận và

Bàng-quang có hại.

5. Ngũ Bất Vọng Ngữ: Cấm xảo trá láo xược, nói xấu người

khoe mình bày lỗi người, chuyện phải nói quấy chuyện quấy

nói phải, ngạo báng, chê bai, nói hành kẻ khác, xúi giục

người hờn giận kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mãng thô tục,

chửi rủa người hay hủy báng Tôn-Giáo, hoặc nói ra không

giữ lời hứa. Nếu không răn được thì mất tín, không tín ắt

Thổ khuyết thì Tỳ-Vị sẽ bị thọ hại.

Vậy hãy khá nhớ để làm sự bổ khuyết cho năm tạng khỏi suy hư

mà lâm bịnh. Vì năm tạng khuyết thì Hạo-Nhiên chi-khí không

còn tồn tại nên người chơn tu chí đạo, lúc nào cũng phải chú

trọng lắm lắm.

PHẦN TỨ ĐẠI ĐIỀU QUI LÀ:

--oOo--

1. Phải tuân y lời dạy bề trên, chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn

điều độ, lấy lễ hòa người, có lỡ lầm lỗi ăn năn chịu thiệt.

2. Chớ khoe tài, đừng kiêu ngạo, quên mình mà làm nên cho

người, giúp người nên đạo, đừng nhớ cừu riêng, chớ che lấp

người hiền.

3. Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả, đối

với bề trên thì đừng lờn dễ, trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên

đừng thất lễ khiêm cung.

4. Trước mặt sau lưng cũng đồng một mực, đừng kính trước rồi

khi sau, đừng thấy đồng đạo tranh nhau mà ngồi xem không hề

để lời hòa giải, đừng lấy của chung làm của riêng, đừng vụ

riêng mà bỏ việc chung, pháp luật phải tuân, đừng lấy ý riêng

mà trái trên dễ dưới, đừng cậy quyền mà yểm tài người.

BÀI THƯƠNG YÊU:

Thầy là Cha của sự thương yêu, do bởi sự thương-yêu mới tạo

thành thế-giới và sanh sản các con. Vậy các con sản-xuất nơi sự

thương-yêu là cơ thể của sự sống còn.

Sự thương-yêu là giềng mối bảo sanh của Càn-Khôn Thế-Giới,

bởi thương-yêu mà vạn loài được hòa-bình Càn-Khôn an tịnh.

Đặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, không thù nghịch

lẫn nhau mới không tàn hại nhau, không tàn hại nhau mới giữ

bền cơ sanh hóa.

Nghịch lại cơ sanh hóa là Quỉ-Vương là tay diệt hóa cũng như

có cái sống của Thầy, ắt có cái chết của Quỉ-Vương.

Quỉ-Vương giục sự ghét mà làm hại các con. Vì ghét nhau mà

vạn loại mới khi nhau mới nghịch nhau, mà càn hại lẫn nhau là

cơ diệt thế.

Vậy Thầy cấm các con từ đây: Ví không đủ sức thương nhau

thì cũng không được phép ghét nhau nghe à.

Tóm lại: Giới luật là khuôn vàng thước ngọc, để đưa người tu

đến nơi đến chốn tận thiện và tận mỹ.

Page 28: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

28

Khi giữ tròn qui giới rồi, hành giả cũng cần học thông rành

Cửu-Chuyển, để dọn mình vào Tịnh Bá-Nhựt-Trúc-Cơ tu hành

cho trúng cách Thượng-Thừa như:

1. Sơ Nhứt-Chuyển: dẹp hết Thất-Tình Lục-Dục, tập hơi thở điều

hòa tâm thần yên lặng, tinh khí thượng thăng, điều hành dinh-vệ.

2. Sơ Nhị-Chuyển: Bế Ngũ-Quan điều thần hiệp khí cho Tứ-Tổ

Qui-Gia, âm dương thăng giáng điều-hòa khai thông Cửu-Khiếu.

3. Sơ Tam-Chuyển: Khử trược lưu thanh cho Hậu-Thiên giáng

xuống, thần khí giao thông, thân thể nhẹ nhàng, hồn linh minh huệ,

cách-vật trí-tri Kim-Đơn thành tựu đắc Tha Tâm-Thông, mọi sự ở

thế gian đều thông hiểu hết, ấy là tròn xong Bá-Nhựt Trúc-Cơ. Kết

qua Thập-Ngoạt Hoài-Thai mới hoàn thành nhứt bộ.

4. Sang Tứ-Chuyển: Tịnh thủ Hư-Vô cho cơ Trời phát lộ bá mạch

lưu thông điều hòa thai tức, thoát khổ trần ai trong ngoài êm tịnh,

thất nhựt thể dương đó là Đại-Dược Kỳ-Xương, thân hình cường

tráng mạnh khỏe tốt tươi.

5. Ngũ-Chuyển: lo Nhũ-Bộ Tam-Niên tập hườn hư vô-cực điều

thần xuất xác, học pháp bí truyền, cao siêu xuất sắc trên cõi Thần

Tiên.

6. Đến Lục-Chuyển: tâm thần bất động, vô thân, vô thể, vô trần, vô

cấu, mọi việc đều không, không nhiễm bụi trần vào tâm đắc thành

nhị-bộ, suốt thông Giáo-Lý mở khiếu nhãn quang các hiện tượng

trên cõi siêu hình hay nơi trung giới đều nghe thấy hết. Ấy là triệu

chứng Thiên-Nhãn-Thông, Thiên-Nhĩ-Thông.

7. Sang Thất-Chuyển: hạo nhiên thường trụ trên Nê-Hườn tụ đảnh

Tam-Hoa, cởi bảy thể thoát ra thân xác, ngoại hữu thân hoạt bát cơ

thiên, côn lôn đảnh báo chỉ truyền, an thần nuôi dưỡng kiền-thiền

chớ sai.

8. Bát-Chuyển đắc Ngũ-Thông túc mạng, lọc âm dương hai tâm

thành cấu, hồn còn nương náo xác thân nhưng không dính líu bụi

trần vào tâm.

9. Đến Cửu-Chuyển: chín năm Diện-Bích, hườn vô rồi thì đắc Lục-

Thông, lần dò đến Lậu-Tận-Thông, Đơn-Thơ lai chiếu Ngọc-Kinh

Tiên-Tòa.

Vậy người tu luyện đạo trước phải dọn mình cho trong sạch, trí

não cho thanh cao học hành được mau nghe dễ nhớ, mới thoát được

cõi trần biển khổ sông mê mà khỏi luân hồi chuyển kiếp. Bởi xác

thân con người là Tứ-Đại giả-hiệp, mộng huyễn bào ảnh ráp thành,

không lâu dài bền bỉ.

Linh hồn chỉ mượn nó một thời gian trên cõi tạm để trả rồi nghiệp

quả, thì nó phải tan rã theo thể chất, còn Linh hồn trở lại cõi hư-vô

mà lãnh điều tội phước, an nhàn tự tại hay chuyển kiếp đầu thai,

đều do căn cơ sở tạo.

Nếu muốn được trường sanh bất diệt thì cần phải luyện Cửu-

Chuyển hườn đơn, Kim-thân bất hoại vĩnh kiếp trường tồn nơi Đào

nguyên Tử-Phủ mới tròn nợ Tứ-Ân.

Nay nhằm buổi Hạ-Ngươn Tam-Kỳ mạt hậu, Đạo-Giáo phát hưng,

ai là người hữu duyên tỉnh ngộ lo tu, học Tân-Pháp bí truyền luyện

đặng Thánh-Thai Phật-Tử, thì chẳng uổng kiếp làm người sanh trên

cõi tạm.

--oOo--

PHẦN TỊNH LUYỆN:

Phép tịnh luyện có hai mùa: Chánh-dương là Đông-Chí, Chánh-

Âm là Hạ-Chí.

Tiết Đông-Chí dương khí mới sơ sanh ở vào châu niên hành vận

trong 12 tháng thuộc 12 quẻ.

Nên tháng 11 là Tý Ngoạt thuộc quẻ Địa-Lôi-Phục, có nhứt dương

phục hồi trở lại thì vạn vật đều qui căn, nên cần phải nhập thất

luyện tu Tứ-thời phanh luyện đặng thâu hấp dương khí ấy để bồi bổ

sự hao khiếm khuyết của cơ thể lại, mà tạo thành Xá-Lợi Kim-Đơn.

Nhưng: Chánh tiết dương sanh vào ngày Chúa giáng sanh lễ Noel,

là ngày chơn dương xuất hiện, duy cũng có chậm mau, vì thời tiết

có khi sớm trễ, nên lúc thì trước lễ Noel 10 ngày, khi lại sau 8 ngày.

Page 29: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

29

Lấy theo quẻ thì Thiên-Nhứt sanh Thủy là thận Thủy phát hưng,

cũng như trai 16 tuổi qui đầu bộc khởi, dục ý dấy lên niệm sanh

tình tứ.

Còn gái 14 tuổi Xuân động Hàm-linh phát niệm ái ân ước mơ tình

dục, nên cần phải vào trong tịnh thất Bá-Nhựt Trúc-Cơ liễm thâu

chơn khí ấy thì đắc quả trường sanh, tức là Kim-Đơn Đại-Đạo.

Vì trong quẻ Phục có nhứt dương sơ động lấn dành hãm âm trong

thời Đông-Chí, nên có sanh đại tiết khí hành, khá cần đại tịnh Hư-

Vô thâu hườn dương ở tại Khảm-Cung, tức là Khôn làm Càn nhứt,

mà đắp vào cái tánh chơn dương đó lại.

Tháng 12 Sửu ngoạt quẻ Địa-Trạch-Lâm nhầm tiết Tiểu-Hàn, Đại-

Hàn, có nhị dương lấn thị âm lui, làm cho Thủy khí thăng lên Tâm

Vị; thì phải tịnh thường giữ chặt Tam-Quan (ba ải):

1. Vĩ-Lư, 2. Giáp-Tích, 3. Ngọc-Chẩm, đặng đưa dương khí vào

Thái-Cực-Đồ.

Tháng Giêng Dần ngoạt quẻ Địa-Thiên-Thái, tiết lập-xuân vũ-

thủy, thiên-khí giáng địa khí thăng, âm dương giao cảm Tâm-Thận

tương hòa, tam dương khai thái nên cần tịnh thủ cho Đơn-dược.

Tháng 2 Mẹo ngoạt quẻ Lôi-Thiên Đại-Tráng vào tiết Kinh-Trập

Xuân-Phân thiệt chánh khí xuân tươi nhuần mát mẻ muôn vật yên

vui tứ dương thuần thục mười phần xinh tươi, cần tịnh định cho khí

Linh-huyền nơi hạ điền cung Cấn thăng lên trung điền, rồi ráng tịnh

cho vong ngã mà thâu khách khí vào Huyền-Quang mà giúp thêm

cho chánh khí.

Tháng 3 Thìn ngoạt quẻ Trạch-Thiên-Khuyết, tiết Thanh-Minh

Cốc-Vũ, đến đây lại được ngũ dương vật người đều sung thanh, cần

tịnh thủ liễm thâu chơn khí để phòng âm thăng hầu nuôi lấy chơn

căn Linh-Chưởng.

Tháng 4 Tỵ ngoạt quẻ Càn-Vi-Thiên, tiết Lập-Hạ Tiểu-Mãn đúng

nên chánh khí thuần dương, đến đây chủ khách tương dương, 6 hào

dương đủ vào đường Thủy cung, cần đại định cho thường đề phòng

âm sanh, vì dương cực âm sanh khá biết.

BÀI

Cơ Bá nhựt nêu cao Đông-Chí

Tiết sang Đông yếu lý động cơ

Nhứt dương sanh động định giờ

Tiết trời giao chí đợi chờ qui căn

Cùng vạn vật thọ tăng bẩm chất

Thảo mộc đều gom tất tinh hoa

Hấp thụ đầy đủ chan hòa

Nhứt dương sanh khí đó là thuần cơ

Còn định chất thời giờ Đông-Chí

Phải phân theo tiết khí chậm mau

Mười ngày đi trước tiếp giao

Noel chuyển sắp đài cao tiết thời

Chậm tám ngày máy trời xoay trở

Đi theo vòng nên nhớ chủ căn

Là ngày chánh tiết nắm phăng

Đúng thời Đông-Chí qui căn đạo hành

Đông-Chí nhứt dương sanh vạn vật

Đều hấp thâu bẩm chất dương sanh

Trai thì hai tám là thành

Qui đầu bộc khởi động hành sơ khai

Nữ hai bảy nên tay nữ liệt

Hàm linh thông hiểu biết sự tình

Tự nơi Xuân-động tác hình

Biểu dương chí khí tượng hình tri cơ.

Mới điểm ngay Thiên-Thơ bất tử

Mối Đạo-vàng gìn giữ bao lâu

Trường-sanh Kim-Khí qui đầu

Đủ đầy đức tín phục hầu Trường-sanh.

Page 30: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

30

Vậy trước khi vào tịnh tọa theo Tân-Pháp của thoàn-môn cho có

điều chứng chỗ chánh đạo tu chơn luyện khí, định thần. Phải có

người hộ đạo có đủ tài đức hướng dẫn đến trước Thiên-bàn lập lời

đại-thệ cho thấu động lòng Trời, rồi Thần-Thánh Tiên-Phật mới

chứng tri hộ trợ thì sự học sẽ đem lại kết quả khả-quan, và phải có

đủ đức tin mạnh mẽ mới chẳng uổng công tu luyện ngàn năm một

kiếp.

Trước phải dọn mình cho trong sạch, đoạn tuyệt trần duyên và bảo

thủ giữ gìn chơn tánh lý của Ngũ-tướng cho hoàn toàn, sát Ngũ-ma

và bất tương quan đến xã-hội.

Cần yếu: phải đoạn tuyệt dâm thân, dâm tâm, làm cho hết khởi

niệm dâm, rồi vào tịnh thoàn sẽ đoạn dứt dâm căn mới được kết nên

thai Thánh, nhưng phải thoàn tọa cho thường, thì sẽ được ngoại-

tịnh nội-động, mới có triệu chứng chơn cơ phát hiện dương sanh, ắt

sẽ được thanh khí hườn nguyên túc bộ.

Mà phải trường chay giới sát luôn cho cảm động lòng trời, rồi

chơn cơ sẽ phát hiện đủ đầy duyên mãn, cần phải Hành-Trụ Tọa-

Ngọa định thần luôn luôn, mặc-mặc vô ngôn (làm thinh không nói)

hồi quang phản chiếu vào Tâm-điền.

Tóm lại: khi vào Bá-Nhựt thì không cần biết đến thế sự phàm tình,

cho đến Trời Đất gì cũng đều không hay biết chi chi hết ráo. Tập

quen được như vậy lâu ngày sẽ đặng có Thiên-Khí Thượng-Phù (là

thanh khí thăng lên), còn trược âm tạp hỏa hạ giáng, đó là chỗ nói

(chiết Khảm điền Ly) hay luyện hồn chế phách.

Đó là tròn xong lớp tu Đông-Chí, rồi nên tiếp hạ sang, vào mùa

Hạ-Chí nhứt âm sanh, vạn vật đều nhờ khí chơn âm ấy mà trưởng

thành, nên người tu phải vào tịnh thất thâu liễm chơn âm mà nuôi

dưỡng khí chơn dương đã thâu trong kỳ Đông-Chí cho được trường

tồn vĩnh-cửu mạnh mẽ thêm hơn.

Vì nếu có dương mà không âm thì sẽ bị cô dương đạo ắt khó

thành, còn có âm mà không dương thì ra cô âm đạo cũng không

thành được. Thế nên Âm Dương Nhị-Khí phải có đủ nửa cân tám

lượng hiệp thành một cân đại dược thì đạo ắt thành.

BẮT ĐẦU VÀO HẠ-CHÍ:

Vào Hạ-Chí tháng 5 Ngọ ngoạt quẻ Thiên-Phong-Cấu, tiết Mang-

Chủng Hạ-Chí khá tường, nơi Bắc-phương lai tận Nam-phương.

Thối-Phù Dương-cực lọc đường bổn âm (tịnh lọc khí thuần âm).

Thủ Huỳnh-đình gom dương khí vào tâm vị.

Tháng 6 Mùi ngoạt lâm Mạc-hạ quẻ Thiên-Sơn-Độn, tiết Tiểu-

Thử Đại-Thử nên trược âm thâm nhập trung tâm, khá tịnh thủ giữ

gìn tà khí nó phá rối làm cho Kim-Đơn khô héo, cần thủ Huyền-

Quang và nhị kiều cho lắm vì có nhị âm sanh tranh lấn hãm dương.

Tháng 7 Thân ngoạt quẻ Thiên-Địa-Bỉ, tiết Lập-Thu, Xử-Thử khí

thiên hạ giáng, địa khí xung lên, vậy nên đạo phải cần gìn thủ trung.

Nghĩa là: Đạo bất khả tu du ly giả: Là chẳng khá rời đạo vậy.

Tháng 8 Dậu ngoạt quẻ Phong-Địa-Quán, tiết Bạch-Lộ Thu-Phân

thần quang nhán sáng, cần phải thống hiệp tam chơn, không cho

ngoại trần âm khí nhiễm vào để giữ ánh minh cho sáng tỏ.

Tháng 9 Tuất ngoạt quẻ Sơn-Địa-Bát, tiết Hàn-Lộ Sương-Giáng

khí chất lờ mờ, anh nhi hiện lộ xuất hữu vô trung phải cần huân

chưng ngày giờ cẩn mật, cho hết tạp chất hầu đắc quả vô-hình phá

tướng.

Tháng 10 Hợi ngoạt quẻ Khôn-Vi-Địa tiết Lập-Đông Tiểu-Hàn thì

dương tuyệt Mạt-âm, phải cần hồi quang nội chiếu tịnh định diệt

trần tâm, để cần giữ ngươn tinh chánh khí.

Đến đây cần phải tập trung hết tinh-thần gom vào Thái dinh giữ

tánh không không cho châu nhi phục-thỉ đặng mạt âm xây đổ đến

giờ thuần dương, hễ mạt âm thì hỏa thượng nơi Can. Đó là Long-

Hổ vầy đoàn, âm dương hội hiệp thuần toàn lục âm. Nên cần giữ

tháng ngày mùa tiết mà luyện phanh hoán triệt Đất-Trời Âm-Dương

xoay trở chiều mơi, Càn-Khôn định vị thành thời ngôi Tiên.

THI

Ngôi tiên phải đoạt máy Âm-Dương

Nuôi khí dưỡng thần Đạo khuếch-trương

Báu vật gom về nơi huyệt cốc

Page 31: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

31

Vững lòng trọn kiếp đắc sanh trường.

HỰU

Trường sanh bất lão tại nơi ta

Luyện tánh tâm chơn thoát giái ba

Không mến trần gian không bợn tục

Không hờn không oán phép Tiên gia.

Khi hết tịnh rồi cứ hồi quang nội chiếu trong tứ oai nghi mà chờ

Thiên-cơ tái động, mới thành chiếu diệu linh quang huy hoàng linh

chơn vậy.

BÀI

Ngồi tịnh tọa tham thoàn luyện kỷ

Phải đúng giờ Ngọ Tý liễm thâu

Mẹo Dậu mộc dục đặng lâu

Ngươn khí tự nhập là đầu Hư-Vô

Khởi Hấp y Cực-đồ Tề-hạ

Phải ba hơi khí giả đến nơi

Nam-Mô-Cao nhớ y lời

Mật niệm ta hiểu ngoài đời nan tri

Hô củng ba hành y pháp độ

Đài-Tiên-Ông là chỗ rún lên

Nơi mũi thở chẳng lệch chênh

Như vậy ba lượt mới nên định thần

Cách ngồi tịnh đồng cân thân thể

Thòng hai chơn giụm để tréo lên

Chơn hình chữ bát làm nền

Lưng như gỗ thẳng phải quên việc trần

Tịnh Hư-Vô đắp lần Cơ-Trúc

Ngồi thiền định năm phút một giờ

Sửa ngay hô hấp chuyển cơ

Ngươn thần mở rộng Thiên-Thơ mật truyền

Có tính thiện mới yên tâm tánh

Diệt lục trần mới tránh khổ gay

Tròn ròng tánh thiện tâm chay

Thâu thanh diệt trược hằng ngày chớ quên.

Kềm ý mã mới yên Quân-Tử

Đạo tâm sanh diệt tử nhơn tâm

Nhơn tâm tử phách tán âm

Ngươn thần chủ sự đạo tâm đắc thành

Diệt lục thất khí thanh mới ở

Lục thất còn lỡ-dở đường tu

Tu nhờ tịnh ráng cần cù

Mỗi ngày bốn buổi công phu chớ rời

Vậy người tu cần phải gìn giữ sự công phu thường ngày như đạo

nhựt thường hành. Đến lâu ngày thì Khảm sẽ hồi Ly, làm cho Ly

trở thành Càn, tức là chơn dương và tinh-thần hườn nguyên hiệp

nhứt đầy đủ y như hồi thỉ sơ, sơ tạo bổn tánh thiện chơn cơ chánh

khí, mà theo buổi đầu là gốc Tiên-chơn, hoàn toàn thiện-mỹ.

Rồi Ly sẽ hồi Khảm biến Khảm thành Khôn tức thị chơn âm

thành. Thì ra dĩ dương diệt giả âm dỉ chơn âm mà dưởng lại dương,

mới có Miêu căn chơn chưởng Linh-tử phát hiện.

Nếu có đặng Âm-Dương hòa hiệp ở trong đạo tâm rồi, là nên chỗ

Đại-Đạo Tiên-Thiên chi khí phục hườn, ắt sẽ có linh-quang chơn

điển xuất hiện linh đài mà thăng phù nơi Hư-Không cảnh giới. Mà

Tiên-Thiên chi-khí là bổn-tánh chơn-như của Trời trường tồn vĩnh-

cửu.

Page 32: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

32

Nếu không tu luyện cho phục vô hườn hữu, thì sẽ bị Khảm-Ly

tương đối khắc hại lại bản thân ắt sẽ bị diệt vong không ai tránh

khỏi.

Nay bằng muốn tu cho được hườn nguyên phản bổn, thì trước phải

lo đoạn dứt máy luân hồi, cho không còn chuyển kiếp nữa, tức là

phải tu cơ siêu thoát tịnh luyện công-phu diệt trừ tâm-viên ý-mã,

lục-thất tiêu vong, thì phải tập lần lưỡng đoạn công-phu thỉ chung

như nhứt, tiên tấn dương hỏa hậu thối âm phù trong tứ-thời công

phu theo hình lục-âm lục-dương dưới đây mà hành sự.

HÌNH ĐỒ LỤC ÂM LỤC DƯƠNG:

Thập nhị quẻ tứ thời công-phu tấn dương hỏa, thối âm phù.

LỤC ÂM LỤC DƯƠNG

TAM QUAN CỬU KHIẾU ĐỒ

THI

Tý Địa-lôi tấn Vi-Lữ quan

Ngọ Thiên-phong thối đáo Nê-Hườn

Mẹo quái Lôi-Thiên lai Hiệp-Tích

Dậu thời Phong-địa hội Trung-gian

THI

Nam tử luyện tinh thủ thận đường

Tỳ-lư khí hải hộ Trung-ương

Nội-Ngoại dược phanh thâu Bắc-Cực

Vạn-Thù qui nhứt hiệp Thủy-xương

Khảm-ly chiết bổ thành Càn tượng

Càn-Khôn giao cấu cực minh chương

Thập-nhị thời trung vô giải đãi

Hỏa-phù ôn-dưỡng nạp Thuần-Dương

HỰU

Tả-hữu Âm Dương khả biệt tầm

Can-nhu tứ thể đạo hoằng tâm

Thượng-hạ lưỡng đồ phân nhị-bát

Tánh mạng Càn-Khôn Tỷ thận-tâm

Căn đề lư đảnh nghi tri thử

Mạng-môn Đơn-thất thủ Thân-chăm

Kim (Diên) Mộc (Hống) châu sa dược

Thủy ngân huyền diệu diệt phàm tâm.

(Đạo Tổ)

--oOo--

YẾU LÝ Nam thì giữ lấy bầy trâu

Nữ thì giữ lấy nhao đầu trấp môn

Page 33: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

33

Tấn dương hỏa từ Tý đến Tỵ làm cho âm trung phản dương, là tấn

tới chưn đức can nhu, ấy là chỗ dùng phục lấy khí Tiên-Thiên trở

lại, nhưng phải tấn cho đến chỗ Lục-dương thuần toàn tại Tỵ, là nơi

Càn kiện cao-minh mới thiệt chỗ công dương hỏa.

Mà phải lấy Hô làm Đại-Hào đưa ra năm bực, còn hấp làm Tiểu-

Hào thâu vào chín rún, cần nhớ tịnh trong giờ Tý phải nhíu Cốc-đạo

đặng bắt hạ Thước-Kiều, mà đưa hào dương qua Đốc Mạch mới

được, và phải dùng chơn ý mà đưa qua Vĩ-Lư quan mới lên Giáp-

tích rồi thẳng đến Ngọc-Chẩm quan là nơi Lục-dương Càn-kiện.

Trong kinh có nói chỗ này là: Cầu nại hà bắt ngang sông lớn, tội

nhơn qua óc rởn rùng mình, cọp đồng rắn sắt hãi kinh, sẩy chơn sụp

xuống Cua-kình rỉa thây. Nghĩa là: Lúc công-phu mà phải bị đọa sa

xuống cầu, thì ắt uổng công tu luyện, và có hại cho bản thân nữa.

Còn ngồi cũng quay mặt qua hướng Bắc, để kỉnh trọng tôn thờ

Đức Thượng-Đế, vì Đức Thượng-Đế ngự tại chánh hướng Bắc, nên

Đức Khổng-Tử thuở xưa nói: Lúc nửa đêm Trời chuyển mưa vần

vũ, thì Ngài mau mau ngồi dậy quay mặt về hướng Bắc, là cốt ý nói

chỗ đoạn nầy.

Nay ta tu hành cũng phải giữ lẽ khiêm-cung như bậc Thánh nhơn

thuở trước, vì giờ Tý dương sanh tại dưới trung tâm cung Khôn-vi-

Địa, nên giờ Tý dùng tấn dương hỏa 36 lần trong mỗi giờ từ Tý đến

Tỵ trọn đủ 6 giờ dương, lấy 6x36 = 216 hào.

BÀI

Tý tấn dương vòng tròn ba sáu

Khá bế nhâm di tháo chế hàn

Nghịch-hành chuyển-vận lục-quan

Châu hườn như nhứt tổ đàng cho xinh

Khá hết dạ Huỳnh-đình tụng niệm

Khỏi khổ mà ráng luyện cho thuần

Đó là lưỡng khí huân chưng

Chuyển bồi vận khí siêu quần là hay

Vậy mới biết tam tài chi đạo

Khá thâu về khí hạo Tiên-Thiên

Phải lo Khảm chiết Ly điền

Nhứt công dỉ mãn tiếp liền nhị công.

ĐÂY ĐÃ HẾT PHẦN TẤN DƯƠNG HỎA.

--oOo--

Thối âm phù từ Ngọ chí Hợi trong dương sanh âm, dùng đó mà

vận cho đến kỳ thuận nhu chi đức, là chỗ dùng chơn âm mà bảo

dưỡng lấy khí Tiên-Thiên.

Nhưng thối âm-phù cũng phải vận cho đến chỗ lục âm toàn tột,

đến nơi nhu thuận tại Hợi mới thiệt là chơn âm phù, mà phải dùng

Hấp làm Đại-Hào hít vô năm bậc cho chí rún, còn Hô làm Tiểu-Hào

đưa ra chí mũi, mà phải nhớ trụ lưỡi chống lên ổ gà là bắt thượng

Thước-Kiều đặng đưa Hào-âm về Nhâm-mạch, xuống Trung-chiên

đến Giáng-Tắc cung mà sanh dương trở lại.

Thế nên dương Hỏa, Âm-phù dùng trong tứ thời công phu Đại-

tịnh, công lực cũng đều đến chỗ can-nhu tương đương kiên thuận

khiêm toàn, dương trung hữu âm, âm trung hữu dương, âm dương

nhứt khí, đó là dấu có thai hườn trong Thái-Cực-Đồ hay là Huyền-

Quang nhứt khí. Đến giờ dậu công phu cũng y như giờ Ngọ, lấy

Hấp làm Đại-Hào, Hô làm Tiểu-Hào, đến đây tứ âm thuần nên

trang Nữ-Liệt, Đoài Tây-Gia-Nữ hiệp Đông-Xá-Lan tại Huỳnh

phòng kêu là (Long-Hổ hội).

BÀI

Ngọ thối phù chơn không xuất hữu

Âm-khí trong mới tựu dương-thuần

Lóng nghe ký-tế mà ngưng

Soi hồn cho rõ mấy từng Đẩu tinh

Dùng nhứt Bính quân bình phục chuyển

Dĩ Thất-tinh phản biến Càn-Khôn

Page 34: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

34

Tịnh tâm Mộc-dục độ hồn

Độ hà cậy thước vong tồn chớ kinh

Phải bền chí lặng thinh ôn dưỡng

Hai tám đây cân lượng cho đồng

Rồi sang qua phép tam thông

Mẹo khai tam số dưỡng phòng anh nhi.

Đem trạch nữ phùng kỳ nhứt số

Cậy Huỳnh-nương nâng đỡ dầy đôi

Thời này yếu diệu lắm ôi!

Thần minh phát chuyển phục hồi sơ công.

Mẹo chí Mùi gìn lòng chớ nhiễm

Cần phải lo phòng kiểm lúc nguy

Rồi sang trích hạ chi kỳ

Dậu thời Mộc dục chơn di cho rồng

Đem chơn khí vào trong chơn thất

Đóng lục căn Mộc ất lai hườn

Mới là biết đặng linh chơn

Thiên cơ huyền bí nổi cơn đó là

Vậy từ Tý chí Mẹo tấn Hỏa cho đủ tứ Dương, thuộc về lục dương

sơ sanh phân làm hai đoạn đến Tỵ. Từ Ngọ đến Dậu thì luyện thối

phù. Nghĩa là: luyện cho tuyệt âm đoạn rồi Mộc-Dục tại Dậu rồi từ

Dậu chí Hợi cũng hành công Thối-phù, mỗi thời là 24x6 = 144 hào.

Đến Dậu đây cũng gọi là ô-thố giao hòa tại huỳnh phòng hay

Thái-Cực-Đồ, nên kêu là hội. Thử-mễ Bửu-châu treo nơi Thái-

không tịch nhiên bất động, thường tịnh thường ứng, nó vốn là

lương tri lương năng bổn lai diện mục toàn hiện, nên gọi là Linh-

đơn đó. Nhưng ngoài bốn giờ đại tịnh ra thì mấy giờ kia cũng định

thần luôn luôn trong các huyệt ở tứ-Điệp để bảo dưỡng Linh-Đơn,

hoặc hành trụ Tọa-Ngọa, đi đứng nằm ngồi cũng định thần soi luôn

trong các huyệt, có câu:

Nhứt liệp Linh-đơn thâu nhập phúc

Thùy tri Ngã Mạng do Ngã-Bất do Thiên

Nên Thượng Tôn có dạy: Tịnh rồi định lại cho hoàn, là phải định

thần soi vào các huyệt, theo mỗi giờ trong đồ hình Lục-âm Lục-

dương đó, và thành hay không chỗ ngó là rồi, ngó sao chứng đặng

cao ngôi, ngó sao ma quỉ trì lôi sa vòng.

Là thủ cho trúng huyệt khiếu trong châu thân, chớ đừng để cho

Lục-Thất nó dẫn đi là bị nó trì lôi mà sa vòng Lục-đạo luân hồi.

Vậy dầu làm công việc gì đâu đâu cũng đều phải giữ định thần

luôn. Nên có câu: “Thủ-tắc-tồn Xả-tắc-vong”, vì đạo giả bất khả tu

du lu giã, lụ giã phi đạo giã.

Nghĩa là: Nếu giữ gìn kiên cố thì còn, bằng lãng quên thì mất, nên

đạo chẳng khá lìa xa, nếu lìa xa thì không phải đạo vậy. Bằng gắng

chí tu hành cho đúng mức y-khuôn của ơn trên chỉ dạy, lo Tứ-Thời

công phu cho đầy đủ tịnh định cho hoàn toàn, thì ngũ khí sẽ triều

ngươn và Tam-hoa Tụ-đảnh.

Thời Tý thuộc Thủy ở tại Khảm cung, nằm trong tạng thận làm

cho Hắc-khí qui về, là Hắc-đế Triều-ngươn tại Trung-ương Huỳnh-

Thổ.

Thời Mẹo thuộc Mộc ở tại Chấn-cung, nằm trong tạng Can làm

cho thanh khí qui về, là Thanh-Đế Triều-Ngươn.

Thời Ngọ thuộc Hỏa ở tại Ly cung nằm trong tạng Tâm làm cho

Xích-khí qui về, là Xích-đế Triều-ngươn.

Thời Dậu thuộc Kim ở tại Đoài-cung, nằm trong tạng Phế làm cho

Bạch-khí qui về là Bạch-đế Triều-Ngươn, ngươn tức là Trung-ương

Huỳnh-đế vậy.

Trong kinh dịch có 64 quẻ, nhưng về phần Tấn-hỏa, Thối-phù của

Tiên gia, chỗ Âm Dương tịnh động chuyển biến, Tả-chuyển, Hữu-

chuyển, rồi Hữu-chuyển Tả-chuyển cũng chỉ dùng 12 quẻ của 12

giờ trong một châu thiên Thời-nhựt, biến chuyển âm-dương thì đủ

số Hỏa-phù rồi.

Page 35: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

35

1. Như Tấn-dương thì khởi công tại giờ Tý ở Giáng-tắc

cung qua Vĩ-lư, nó thuộc quẻ Phục có một hào dương phái-phái ở

trong cung Khảm, nên phải bắt Hạ-thước-kiều làm liên lạc cho hào

dương đi qua Đốc-mạch mà thẳng đến Giáp-Tích, rồi đến Ngọc-

Chẩm tại Tỵ mới đúng chỗ lục dương càn kiện.

2. Kế qua thối âm phù thì khởi công tại giờ Ngọ ở Nê-hườn

cung xuống quan-ngươn thuộc quẻ Cấu có một hào âm phái phái

trong Nê-hườn, nên bắt Thượng-thước-kiều đưa hào âm qua tiền

nhâm, xuống trung chiên giờ Dậu, tuột đến giáng-cung giờ Hợi,

mới được lục-âm toàn tột, đặng sanh dương trở lại trong giờ Tý, cứ

vậy làm hoài cho đến khi thành tựu qui-nguyên vào Huyền-quan-

khiếu hay (Thái-Cực-Đồ) mà kết đơn hay Thánh thai.

Trong 12 quẻ có 6 quẻ âm và 6 quẻ dương:

6 quẻ dương là: Phục, Lâm, Thái, Tráng, Ương, Thiên.

6 quẻ âm là: Cấu, Độn, Bỉ, Quan, Bát, Địa

Tả dương Quái, dụng Tấn dương mà phục cái khí Tiên-Thiên trở

lại.

Hữu âm Quái, dụng thối âm phù mà nuôi dưỡng cái khí Tiên-

Thiên được bền bỉ.

Tóm lại: vào tu Bá-Nhựt phải cần vạn sự giai vong, bất tri Thiên-

địa thế sự như hà tại giả-đả, là muôn việc đều không còn biết đến

trong mắt tai hay trong tư tưởng nữa.

Giữ vậy lâu ngày sẽ được Thiên-khí Thượng thăng còn tạp-Hỏa sẽ

hạ giáng mà qui hườn về Chánh-pháp.

Đó là Đạo-pháp siêu quần của Tiên gia, các pháp đã minh chỉ rõ

ràng, nhưng: Phải giữ gìn trường chay giới sát, cho cảm động lòng

Trời rồi sẽ có Minh-Sư Thượng-Đế chỉ truyền thì nhập tịnh an thần

muôn điều không mất một, còn sự ở đời cũng phải cho có phước

huệ song toàn, mới có âm chất được tương phò mà cảm đến Hư-

không Thượng-giới, rồi Thần-Tiên sẽ chỉ dạy cách làm tiên, chẳng

có chi là khó cả.

BÀI:

Kinh Chơn pháp Lưu-truyền hậu thế

Bực Thượng-Thừa Chơn-Pháp ngộ tri

Kỉnh thành mộ ái hành-y

Trăm phần trăm đắc Huyền-vi nhiệm mầu

Đức Mẹ Diêu-Trì có dạy rằng:

Tập Thượng-Thừa ít dòng nhiều chữ

Không phải ai muốn giữ được đâu

Nhiệm-mầu lý đạo cao-sâu

Phát lời Đại-nguyện mới cầu Thiên-ngôn.

Nghĩa là: Pháp tự hành chỉ có bấy nhiêu đó, nếu làm xong công đắc

thành quả-vị được, lựa là phải học chi cho nhiều mà làm không rồi,

lại bỏ dở thì cũng như không học có ích gì đâu?

Nếu quyết chí tu hành phải lập lời Đại-Nguyện tu hành Thế-Thiên

Hành-Hóa, đại-Phật tuyên ngôn phổ-độ quần sanh mà đền ơn Tứ-

đại.

Trời Phật sẽ chứng minh mà ban bố điển lành xuống cho, ắt sẽ

được minh-tâm kiến tánh đạt huệ thiên-minh, mà tỏ ngộ Thiên ngôn

Thánh-ngữ.

Đức Đạt-Ma nói rằng: (Thiên-kinh vạn quyển tổng giai vô nhứt

tự) Nghĩa là: Ngàn kinh muôn sách, cộng lại không có một chữ, tức

là kinh Vô-tự vậy, chỉ dụng chỗ tâm không mà đạt lý đạo, là trở về

khí Vô-cực thì thành.

Nhưng: Tâm không đây không phải là vô tri vô giác, ví nó là

ngoan không, nên không có hột giống Như-Lai cũng không thành

được giống gì!

Chớ kỳ thiệt tâm không, tức là tâm toàn giác, không mê nhiễm,

không chấp cứ việc phàm tình thế sự, coi đời như phù vân mây nổi,

thoạt có thoạt không còn mất không chừng, nên cần phải phủi sạch

cái phàm tâm ấy, thì Thiên-tâm sẽ lộ ra, nên kêu là phàm tâm tử,

đạo tâm sanh.

Vậy khi vào tu đệ nhứt thoàn: Phải gắng chí làm sao phủi sạch hết

hồng trần thế sự, đốn tuyệt vạn duyên do tâm mục tương-y, hấp hô

hữu-độ, bất vọng ngoại trần, được vậy thì trong cơ thể sẽ có động

Page 36: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

36

mà xuất hiện Huyền-linh điển chiếu. Mà sự động đây tức là động

kiến Thiên-tâm, hoán trược hoàn thanh thâu chơn âm và diệt giả

dương mà hóa thành chơn dương, rồi giả âm nhờ Linh-điển chuyển

vận hóa thành chơn âm nơi tâm-vị mới vận chuyển cho lục-âm lục-

dương được thuần hoàn điều hòa nhau mà nên Chơn-đạo.

Mồ-Kỷ nhị Thổ kết thành minh châu mới trọn câu tịnh thoàn.

Khi mới vào tịnh thất ngồi tịnh định thân hình cho đoan trang,

nghiêm thân chi tướng, hình như cây khô không diêu không động,

ta người như một, muôn việc đều không tưởng nhớ chi-chi hết ráo,

được vậy mới là phương pháp vô-thượng của Tiên-gia bí-truyền.

Khi ngồi xong trước hết hít từ mũi chí rún và mật niệm: Nam-Mô-

Cao, rồi thở ra từ rún chí mũi niệm: Đài-Tiên-Ông ba hơi như vậy

rồi bắt đầu, hễ thời tấn dương thì một hít năm hà, đủ 36 lần, còn

thối âm thì năm hít một hà đủ 24 lần, tấn dương nhớ bắt Hạ-thước-

kiều, thối âm nhớ bắt Thượng-thước-kiều ở đằng trước có nói.

Các công việc xong rồi thì cứ làm thinh mà tịnh định, đừng tưởng

nhớ chi-chi nữa hết cũng không để ý vào đâu đâu, để tự nhiên như-

nhiên mà tịnh, hơi thở thì riêu-riêu nhẹ-nhẹ, không hô-hấp mạnh

như thường lệ, để trong tâm yên tịnh mắt ngó tai nghe trở vào trong

mà tự chuyển pháp-luân, tâm-tức tức-tâm, tức-tự tâm sanh, tâm-tức

tự sanh mỗi ngày theo 4 thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu cứ tâm-tức tương

y cửu thành thắng định mà phanh luyện, cứ y vậy tịnh hành chẳng

nên vọng tưởng việc chi bên ngoài mà có hại cho việc công phu.

Được vậy lâu ngày tâm phàm phải chết rồi đạo tâm phục lại, vì

dục vọng đã bặt dứt thì sẽ hiện chơn tâm ra, rồi nhờ có chơn khí trở

về bổ nhuận, được lâu ngày mặt mày hình thể nở nang vui vẻ trong

lòng khoan-khoái lạ thường, kêu là lạc tại Kỳ-trung bởi chẳng còn

tư tưởng xấu-xa xâm nhiễm nữa.

Kế bước qua Đệ-nhị-Thoàn: Cứ tịnh tọa luôn luôn cho đúng ba

tháng dư ngày thì bổn chơn ngươn sẽ định an, rồi có Linh-điển hội

trợ điều hòa khí huyết thì tạp hỏa tán tiêu cho đến khi dâm thân

dâm tâm không còn bộc khởi nữa, thì Chánh-pháp nhãn tạng đã nên

rồi, ví có Nhị-âm tấn thì Giả-hỏa phải lui.

Điều cần yếu: Là phải bế môn tịnh khẩu, mà luyện lòng dứt tưởng

thì trăm điều y như ý nguyện, cứ một lòng Đại-tịnh Hư-vô thì hoàn

toàn nội cơ thoàn-định. Theo lối nầy Chơn-âm Chơn-dương nhờ

ngoại tịnh mà nội phát động nên hai khí đã về hòa hiệp nhau tại

Thái-Cực-Đồ, hoán trược hườn thanh phát sanh ra điển lực hóa khí

mà phụ trợ Thần-quang, rồi Thần-quang đặng mãnh lực sáng tỏ và

sung túc, mà sung đượm là nhờ được nhiều ngày trọn Tịnh Hư-vô.

Tóm lại: Đi, đứng, nằm ngồi đều phải định thần luôn luôn được

lâu ngày thì nội cơ sanh điển dồi dào, xung lên mà diệt trừ hỏa tánh,

hóa chơn thăng thượng Nê-Hườn-cung, tụ nơi đó mà sanh Minh-trí

(Là cốt Minh-Châu) hễ đặng có Minh-trí rồi thì tánh tình cao

thượng tư-tưởng siêu nhiên mà diệt trừ hạ trí.

Đệ Tam-Thoàn: Nhờ phương thường tịnh thường định mà được

thần khí tương thông điều-hòa dinh vệ, rồi Nhâm-Đốc lưỡng mạch

giao phản hậu thông-tiền, thì thần mới qui vào trung-ương (Hạ-

điền) Thái-Cực đồ là nơi Mồ-Kỷ-Thổ.

Và nhờ tịnh định mà lưỡng giả tăng tiến, chỉ có lưỡng khí cần âm-

dương tương hòa rồi thần khí tương liên mới có sanh lực, mà nhờ

có sanh lực mới đủ quyền diệt trừ làm cho:

- Giả-hỏa biến ra Chơn-hỏa.

- Giả-thủy biến thành Chơn-thủy.

Chơn Thủy-Hỏa đồng cân mới chiêu dinh thống vệ, thần khí tương

liên thấu nhập Trung-ương: Là (chiết Khảm điền Ly đó). Nhờ được

chiết Khảm điền Ly lâu ngày mà thần khí tựu thành linh-điển Thần-

quang, bèn tựu hiệp ở trong Thái-Cực-đồ hầu chờ ngày thăng

thượng Nê-Hườn-cung.

Khi thần khí ở trong Thái-Cực-Đồ có hỏa điển lực rồi, bèn rút giả

hỏa ở trong tâm vị xuống biến Chơn-hỏa đem vào khoảng giữa

thận. Khi hai khí Hỏa-Thủy ở tại trung-gian lưỡng thận rồi, thì

Linh-điển bèn tống Chơn-thủy lên Tâm-vị kéo Chơn-hỏa vào nội

thận, thì Thủy-hỏa điều hòa mà có linh Chơn điển ấy là Thủy-hỏa

Ký-tế vậy.

Page 37: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

37

Từ đây có Linh-điển rất dồi dào, mà thể chế được giả thần cư-ngu.

Ngươn-thần hườn cư mới an tịnh được.

Ấy nói: Nhà cũ không có tâm nhờ có tịnh-định lâu ngày mới qui vị

được, vì tánh nóng của tạp Hỏa tháo thứ chủ sự hư-hại cho ta, nó

làm chủ sự bấy lâu nay rối loạn nội tâm nên hết biết sanh tử là gì,

cứ lấy khổ làm vui mà toại chí (thiệt là: Dĩ khổ trung di lạc).

Nay nhờ tịnh định nên tán tiêu mà hết làm hại ta được nữa, thì bây

giờ Nhơn-tâm đã biến thành Thiên-tâm rồi, là ta đã có Linh-quang

điển ở tại bên trong đó. Rồi Linh-điển lại vận-dụng làm nội công

mà điều-hòa lưỡng chơn cho thành Chơn-điển nữa.

Điển hóa khí, khí hóa điển là nhờ thường tịnh và rút Thần-công

đem chơn khí thăng thượng Huỳnh-đình mà bổ dưỡng cho Ngươn-

Thần. Tuy là khí khi vận động chuyển luân ở ngoài mà khi vào

trong Thái-Cực-đồ lại hóa ra Chơn-thần mới thiệt là kỳ tài.

Qua Đệ-Tứ-Thoàn: Đến đây đã được 75 ngày là 2 tháng rưỡi thì

thấy trong mình Thần-khí sung-dinh điều-hòa kinh huyệt hô-hấp độ

lượng đều đều cho thân thể được tươi nhuận cả con người. Rồi

lưỡng khí đều vào trong Huyền-Quang khiếu nên Linh-điển thường

hoạt động cho Thần-khí chuyển luân đặng giao thông được tam

quan Cửu-khiếu mà lấy sanh lực của thiên nhiên đem về bồi bổ

Chơn-ngươn làm cho con người trở lại đồng nhan tươi đẹp và nay

đặng Thủy-thăng Huỳnh-đình cung và Hỏa giáng xuống Tắc-cung y

như hồi 16 tuổi Xuân xanh đó là phép (Chiết-Khảm Điền-Ly rồi).

Mà Chiết-Khảm Điền-Ly là đem lửa ở cung Ly (tâm) xuống ráp

vô cung Khảm (Thận Thủy). Rồi lấy nước ở Thận Thủy đun lên cho

nó trở về nhà cũ là cung Ly (Tâm) đó vậy.

Ấy là Thủy-Hỏa đồng cung, nhờ lấy Điển-lực của khí Hư-vô

chuyển vận cho nó điều hòa. Khi nó điều hòa được rồi, nhờ có

Linh-điển trong châu thân chuyển nó manh động theo lưỡng mạch

mà vào Huyền-quang khiếu hay Thái-Cực-Đồ.

Khi Linh-điển ở tại Huyền-quang khiếu thì nó qui tựu Tinh-huyết

mà hóa ra Ngươn-thần, rồi Ngươn-thần được đầy đủ, lại có sanh khí

bắt từ dưới rún trào lên họng (Huyền-Ưng) hơi ngọt ngọt

Thế ấy nên chậm chậm mà nuốt đem vào Thái-Cực-Đồ, nuốt lâu

càng hay, nếu mạnh mà mau thì nó chun vào Tỳ-lư Khí-hải lại càng

vô ích, nó sẽ hóa ra trược tinh, rồi sanh vọng tình mà xuất ngoại là

sa đọa Địa-ngục vậy.

Còn Ngươn-Thần nhờ tịnh an mà ngày càng sanh thêm lực,

chuyển vận cho Ngươn-Thần thêm điển lực dồi dào, rồi Linh-điển

bèn nhán sáng ra là có Linh-quang hiện vậy.

Rồi từ dưới Hạ-điền trong Huyền-quang-khiếu mà thông lên tới

ấn-đường Ngươn-môn, mới xuất hiện xuất ra ngoài, sẽ có Huỳnh-

quang nhị hiện đến Tam-hiện, vì đã gần đủ 300 Châu-thiên nên mới

có hiện xuất như vậy.

Đến đây là cảnh phải thôi lửa, kêu chỉ Hỏa-Hầu là đây, cứ giữ đại

tịnh Hư-vô mà chờ cho Huỳnh-quang tái hiện sẽ vận qua phép

Tiểu-châu-thiên.

Tại sao biết có đủ 300 Châu-thiên? Hễ có đủ 300 Châu-thiên y

như Nhựt-Nguyệt lưng hành theo vòng Trời-Đất, thì lại có phát ra 3

cảnh:

1. Tại Rún chung quanh nóng hổi dường như có bánh xe

lửa lăn qua kêu là (Tiễn-nhiệt-than)

2. Sau ót như có gió thổi ù ù mát mát và dường như (Có

tiếng chim cu kêu)

3. Tại giữa chân mày ấn-đường hiện ra điển-quang nhán

sáng như chớp, đó là dấu đã kết điển thai (Thai-tiên) là

nhờ Tịnh Nhứt-thoàn, Nhị-thoàn, Tam-thoàn từ 75 ngày

đến 100 ngày Bá-Nhựt Trúc-Cơ.

Nếu được có Huỳnh-quang tái hiện thì phải mau Tịnh-thủ Hư-vô

để tâm không là tốt. Chờ khi nào Huỳnh-quang xuất hiện rõ ràng sẽ

vận hành theo Tiểu-châu-thiên, bắt đầu từ 100 ngày tới 10 tháng

ôn-dưỡng Thánh thai tức là Ôn-dưỡng hỏa-phù vậy.

Vậy người tu Đại-Đạo phải cố gắng mình cho trong sạch, tánh ý

cho ôn hòa không buồn thương giận ghét, thì cõi lòng mới thanh

tịnh được.

Page 38: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

38

BÀI

Chước luyện kỷ đầu công trước nhứt

Tập hườn vô-cực vô minh

Là điều thắng định trường sinh

Hằng ngày kiên cố dương tinh lưu tồn

Mỗi triêu-tịch Thần-hồn trứ ý

Thời công phu tâm chí cho thanh

Giờ Dậu là giờ Âm sanh

Giờ Mẹo dương khởi vận hành cố tinh

Hợi giao Tý dương minh tấn hỏa

Ngọ đến Mùi thối hỏa âm phù

Tấn-thối cho biết Can-nhu

Can thì hữu tướng hóa nhu trở kiều

Tu phải thuận Thiên điều chi đức

Cần ăn chay lợi vật ái nhơn

Lòng hằng chí chánh chí chơn

Dầu lâm khổ hạnh chớ sờn chớ nao.

Tu chớ có cầu cao vọng ngữ

Tu cũng đừng gian lự tà dâm

Đêm ngày luyện tánh tu tâm

Lục-căn giái định Lục-trần ắt siêu

Giờ Tịnh-định như miêu bộ-thủ

Ngồi đoan trang thân thể chớ lay

Lưng ngồi cho thẳng cho ngay

Mắt xem đừng nháy ngó ngay đứng tròng

Êm êm phục vào trong nội chiếu

Tự nhiên thần yểu yểu phản quang

Ấy là Chánh-pháp nhãn tàng

Đừng bôn trứ ý hồi quang mắt lờ

Thêm động não thêm khờ hoại đạo

Dầu Hoa-Đà Tư-mạo khó chuyên

Muốn cầu chứng quả Kim-Tiên

Yếu cần Tuất Hợi tham thiền định thân

Sẽ thấy rõ Bửu-trân rất quí

Dễ đâu bày huyền-bí Thiên-cơ

Tu hành chớ khá u-ơ

Chuyên trì nhứt niệm có giờ ắt nên.

Chót lưỡi gác kề trên răng ngọc

Giữ cho thường hứng bộc cam-lồ

Nước hơi dùng ý đưa vô

Lưu vào giái địa chế hồ Quí-ly

Hễ thời chí thần tri khá nhớ

Kẻ phàm phu ú ớ nan thành

Ấy là dương động dược sanh

Thoạt nhiên phát hiện vận-hành Châu-Thiên

Ba hiệp vận Châu-thiên mới đúng

Hỏa khí về dưới rún Hạ-điền

Đây là mới phải Thanh nguyên

Trược nguyên khỏi lộn thanh truyền chuyển lên

Lại đến lúc bèn quên hơi thở

Đừng sợ mà lỡ vỡ công phu

Khí hồi mới tụ Hỏa-Châu

Kim-đơn vừa kết Đạo-mầu tự khai

Chừng nghe rõ bên tai như nổ

Ngồi định thần mắt đổ kim-quang

Page 39: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

39

Hạ điền như lửa phắt ngang

Sau lưng lưỡng thận nóng càng nước sôi

Sau ót gió từng hồi mát-mát

Nơi Ấn-đường mỏ ác như soi

Các điều ấn chứng hẳn hòi

Từ đây mới ắt có mòi trường sinh

Ấn-đường xảy dương minh phát hiện

Hiện hào-quang như điển xẹt ra

Hiện vừa lối bốn cùng ba

Biết là hỏa túc thì ta đã huề

Lần lần tựu Tam-Huê hiệp đảnh

Ngũ-khí truyền chót đảnh Côn-lôn

Muốn cho kiếp số trường tồn

Tịnh thân mười tháng thần hồn dưỡng an

Trong giác mê Ông Lê-Công-Cẩn chỉ rõ sự ấn chứng của lớp Bá-

Nhựt Trúc-Cơ. Đây hết phần Bá-Nhựt.

Từ đây cứ tịnh thủ Hư-vô, thường thường hồi-quang nội-chiếu

trong vòng 10 tháng có Ấn-chứng Thần-quang nhán sáng thì bổ thể

chơn ngươn được cường tráng và tươi nhuần sẽ đếm cảnh Tam-niên

cho có đặng Tam-thông, rồi cứ Tịnh-thủ Hư-vô và hồi-quang nội-

chiếu thường thường cho lục-trần êm bặt thì Lục-căn còn đâu mà

rối loạn chơn tánh nữa.

Cứ coi chừng hễ có động-cơ phát hiện thì rút thần công thâu về mà

nuôi Ngươn-thần, hễ Thần mạnh thì được tiêu-diêu sảng khoái.

Đệ-Ngũ-Thoàn: Đây đã qua một năm đến chín năm nếu có hiện

tượng dương điển động ra thì cứ rút Thần công và Đại-tịnh Hư-vô

hoài hoài là tốt. Chờ khi đặng siêu phàm hơn người thường và tròn

vẹn Ngũ-thông là đến cảnh xuất nhập Thần-quang ra vào trong bổn

thể xác phàm đặng dễ dàng đó là đắc thành Tiên vị, mà chứng làm

Đại-Giác Kim-Tiên thần thông quảng đại.

BÀI

Đây đến lớp hóa quang phục thực

Lại gia thêm Thất-nhựt thể-dương

Kêu là Đại-dược Kỳ-xương

Luyện thần cường tráng Trung-ương hóa hình

Dưỡng thai tại Huỳnh-đình Thập-ngoạt

Nuôi anh-nhi thông hoạt Tiên-Thiên

Bực nầy chứng bực Thần-Tiên

Ngũ-thông đã biết hậu tiền kiếp lai

Đã nghe thấy họa tai nhơn vật

Việc trên Trời dưới đất đều thông

Phải cần định tánh hườn không

Chuyền trì bồi dưỡng vun-trồng Chơn-ngươn

Tìm Tịnh xứ thâm sơn thắng cảnh

Hầu hóa-quang Thượng-đảnh xuất Thần

Đến đây nguy hiểm muôn phần

Ba năm Đại-định ân cần xuất thâu

Xuất Xá-lợi vô câu ắt biệt

Không giữ-gìn Yêu-nghiệt dẫn đi

Dời thần lự hiểm ngừa nguy

Đạo lành thố lộ Tiên-tri cho tường

Đắc quả vị Đế-vương khó sánh

Bậc Tiên-Thiên nhiếp chánh Kiền-khôn

Chín năm thêm định trường tồn

Không sanh không diệt thọ đồng Âm-Dương

Page 40: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

40

Ngồi một chỗ bốn phương khí thoại

Cả Tiên-Thiên Thế-Giới đều thông

Mạng đồng sánh với hư-không

Ngao du ba cõi thông đồng Thiêng-Liêng

Ngồi Đại-định thâm niên công đức

Mới được về Tây-Vức Liên-Đài

Hầu kề Đức-Phật Như-Lai

Chứng làm Bồ-Tát chuốt hài bước lên

Học đạo gắng cho nên mới đúng

Khó cũng đừng chán ngán mà thôi

Tới chẳng tới lui chẳng lui

Nửa chừng Quỉ kéo Ma lôi nan đào

Tu lập chí cam đao đoạn tuyệt

Lưới hồng trần giải quyết mới xong

Vợ-chồng danh lợi còn mong

Mẹ Cha còn tưởng thì lòng chẳng thanh

Tu còn ở canh-ranh với thế

Tu đừng toan mưu kế thua hơn

Hằng ngày tổn đức hao nhơn

Thần hao khí tán lắm cơn bạo tàn

Tầm Tịnh xứ thâm sang giác hải

Giả ngư-tiều tự tại tu thân

Phải thì làm nghĩa thi-ân

Không thì tự bảo lấy thân châu toàn

Muốn tu hiệp một đoàn chơn chánh

Mặc dầu ai Hiển-Thánh Thành-Tiên

Tiên là cội gốc Thiêng-Liêng

Tiên cao là Phật về miền Mật-đa

Y kinh sách Thích-Ca trung xuất

Tiên khai-Trời dựng đất chuyển luân

Khai Trời hiện có Hồng-Quân

Thành đạo dành sẵn ngôi quần giáo Tiên

Thái-Thượng Ngươn-Thỉ Thông-Thiên-Chủ

Là Tam-Thanh Giáo-Chủ Tiên-Gia

Hồng-Quân Tiên biến hà-sa

Như-Lai Phật-Giáo Thích-Ca Đạo-Tràng

Tạo riêng cảnh Niết-Bàn Tây-Vức

Là cao ngôi cao đức cao niên

Phật là Đại-Giác Kim-Tiên

Khác nào hai giống chớ riêng rộn ràng

Thương những kẻ nói ngang quá nghiệt

Học đạo mà chẳng biết giống-nòi

Sách kinh Tam-Giáo không coi

Đạo mình mình học trở xoi đạo mình

Đạo Tiên-Phật u-minh huyền-bí

Nào hỡi ai Tu-Sĩ chớ lầm

Thiệt là hai chữ thậm-thâm

Sâu xa nghĩa lý khó tầm Thiên-Cơ

Lời ngạn ngữ thô sơ thố lộ

Nét mực tào đau gỗ gỗ nên

Cầu cho Quốc-độ nhiều tên

Soi gương trí-huệ bước lên Thượng thừa.

Tóm lại vào tu Bá-Nhựt là đánh dẹp giặc lòng trừ yên ngủ ma

(Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) vì năm con ma nầy nó làm hại năm

tạng của con người mà lại còn thêm quỉ Lục-dục Thất-tình, tam-tâm

Page 41: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

41

và tứ tướng các mối giặc nổi lên quấy phá, nếu dẹp trừ xong hết, thì

khí Hậu-Thiên phản hồi về khí Tiên-Thiên tức là bớt Hào đổi

Tượng làm cho Lạc-Thơ trở lại Hà-Đồ mà làm bậc kỳ nhân trong

thiên hạ.

Vậy Hào-quái thay đổi như dưới đây:

1. Là đem Hào-dương ở giữ Quái-Khảm trở về giữa Hào-âm của

Quái-Ly thì biến Quái-Ly thành Quái-Càn.

2. Đem Hào-âm giữa Quái-Ly trở về giữa Hào-dương của Quái-

Khảm thì biến Quái-Khảm thành Quái-Khôn.

3. Đem Hào-âm trên của Quái-Chấn trở về Hào-dương của Quái-

Đoài thì biến Quái-Đoài thành Quái-Khảm.

4. Đem Hào-dương dưới của Quái-Đoài trở về Hào-âm trên của

Quái-Chấn thì biến Quái-Chấn thành Quái-Ly.

5. Đem hai Hào-dương trên của Quái-Càn trở về hai Hào-âm trên

của Quái-Khôn thì biến Quái-Khôn thành Quái-Tốn.

6. Đem hai Hào-âm trên của Quái-Khôn trở về hai Hào-dương

trên của Quái-Càn thì biến Quái-Càn thành Quái-Chấn.

7. Đem Hào-âm trên và Hào-dương dưới của Quái-Chấn trở về

Hào-dương trên và Hào-âm dưới của Quái-Tốn thì biến Quái-

Chấn trở thành Quái-Cấn (Xem qua hình đồ thì biết).

Tức nhiên trở thành Bát-Quát Tiên-Thiên tỏ rõ: Càn-Khôn, Ly-

Khảm, Chấn-Tốn, Cấn-Đoài. Đó là thành Tiên Phật vậy.

LỚP SIÊU-HÌNH THƯỢNG-HỌC

CHƠN-PHÁP LƯU-TRUYỀN

BÁ-NHỨT CÔNG-LINH MẶC TRIỀU THƯỢNG-ĐẾ

PHẢN BỔN HƯỜN-NGUYÊN CAO-ĐÀI TÂN-PHÁP

--oOo- -

THI

Ban hành Chơn-Pháp ký lưu đời

Phổ-độ quần sanh chỉ tận nơi

Minh biện Thiên-cơ phân tỏ rõ

Chơn-truyền tu luyện hết đầy vơi

Đạo-Đời hai lẽ nương nhau bước

Thiên võng thoát ra mới thảnh thơi

Giác tỉnh thấy đời đâu mấy lát

Tin lành bố rải khắp cùng nơi

HỰU

Xả thân hành Đạo phải quên mình

Đại-Nguyện tu hành độ chúng sinh

Bá-Nhựt công linh lo tịnh tọa

Tam-Niên đại-định xuất anh-linh

Cổi rồi bảy thể muôn vàn nhẹ

Tự tại chín năm chiếu Ngọc-kinh

Đắc quả an nhàn nơi Cực-Lạc

Công thành Viên-mãn chốn Thiên-đình

HỰU

Người tu ở kiệm với ăn cần

Bớt sự tiêu xài khỏi cực thân

Xa-xí chi nhiều thêm khổ xác

Tương rau no bụng khỏe tinh-thần

Xác thân giả tạm không bền bỉ

Cõi Thánh an vui sớm liệu cần

Thoảng mãn ngày qua cùng tháng lại

Trì tâm luyện tánh lánh Hồng-Trần

--oOo--

BÁT-QUÁI NHỊ-THIÊN

TIÊN-HẬU GIAO-HỒI

1) Càn khôn tương thủ

2) Cấn chấn tương tâm

Page 42: CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN - bachyhuynhde.org · CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ 1 CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Chúng tôi nhận được bản soft copy Chơn

CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ

42

CHUNG

--oOo--

DANH SÁCH QUÍ-VỊ HẢO-TÂM ỦNG HỘ TÀI VẬT

---****---

1. A. Liêm-Trinh-Tinh Gò-Vấp :1 hộp

giấy sáp

2. Đại Úy Lâm-Văn-Tường, Thánh Danh: Chơn-Đạt-Tâm 1

hộp giấy sáp.

3. Thanh-Huệ-Trí Đà-Lạt : 5.000$

4. Hồng-Thiện-Ngộ Hàng-Sanh : 1.000

5. Huỳnh-Hương-Lan Sài-Gòn : 2.000

6. Ngọc-Huỳnh-Thu Chợ Kinh (Long Hữu): 2.000

7. Thiên-Huệ-Quang Tam-Thanh : 2.000

8. Địa-Minh-Tinh Mỹ-An-Phú : 1.000

9. Thiện-Thành-Tín Khánh Hậu : 500

10. Thiên-Phước-Tinh Lợi-Bình-Nhơn : 500

11. Chơn-Kiến-Quang An-Lục-Long : 500

12. Ngọc-Đông-Lan Dương-Xuân-Hội : 500

13. Thiên-Đắc-Tinh Thủ-Tự Tam-Thanh : 200

155.000$

Mua giấy sáp và mực xóa hết thảy: 2.700

10.000 kỳ trước Huệ Hương in hết còn lại: 2.800$

--oOo—

LỤC ÂM LỤC DƯƠNG

TAM QUAN CỬU KHIẾU ĐỒ

Hình Đồ Bổ Túc của Đạo Hữu Hồ Đạo Hạnh, 07/01/2016