Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
Đao Bua La Pha BA VÔNG PHẾT
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA
CỦA ĐẢNG NHÂN DÂN CÁCH MẠNG LÀO
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
Đao Bua La Pha BA VÔNG PHẾT
CHÊT L¦îNG C¤NG T¸C KIÓM TRA
CñA §¶NG NH¢N D¢N C¸CH M¹NG LµO
TRONG GIAI §O¹N HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
Mã số: 62 31 02 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN VĂN GIANG
2. TS. LÊ TIẾN HÀO
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Đao Bua La Pha BA VÔNG PHẾT
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 6
1.1. Các công trình của các nhà khoa học nước ngoài 6
1.2. Các công trình nghiên cứu ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào 19
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố có
liên quan và những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết 31
Chương 2: CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG NHÂN
DÂN CÁCH MẠNG LÀO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN
ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 33
2.1. Đảng Nhân dân cách mạng Lào và công tác kiểm tra của Đảng 33
2.2. Chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào -
khái niệm, tiêu chí đánh giá 54
Chương 3: CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG NHÂN DÂN
CÁCH MẠNG LÀO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 77
3.1. Thực trạng chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào trong giai đoạn hiện nay 77
3.2. Nguyên nhân của thực trạng và vấn đề đặt ra 113
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG NHÂN DÂN
CÁCH MẠNG LÀO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 121
4.1. Dự báo tình hình thuận lợi, khó khăn và phương hướng nâng cao chất
lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai
đoạn hiện nay 121
4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay 128
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 161
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Lãnh đạo đúng nghĩa là:
1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng;
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng;
3. Phải tổ chức sự kiểm soát [37, tr.285].
Như vậy kiểm tra là một khâu không thể thiếu trong hoạt động lãnh đạo của
Đảng, nó đan xen vào tất cả các khâu, tạo nên sự hoàn thiện của quá trình lãnh đạo
và đồng thời công tác kiểm tra còn là công việc hết sức quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng.
Vai trò đó của công tác kiểm tra càng nổi bật lên trong giai đoạn hiện nay
đối với sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào và công tác xây dựng
Đảng. Tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay có diễn biến phức tạp và khó
lường, tình hình đó có cả những thuận lợi và khó khăn, thử thách đối với quá
trình bảo vệ và xây dựng nước Lào, tác động rất lớn đến công tác xây dựng
Đảng. Mặt khác, việc mở rộng quan hệ hợp tác hội nhập khu vực và quốc tế, thu
hút sự đầu tư của nước ngoài đã tạo ra kẽ hở cho một số cán bộ, đảng viên lợi
dùng chức quyền vi phạm điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước để thu lợi ích cho
cá nhân và bộ phận.
Nhận thức được điều đó, trong thời gian qua Đảng Nhân dân cách mạng
Lào đã quan tâm củng cố và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, ra nhiều nghị
quyết và chỉ thị chuyên đề về công tác kiểm tra, lãnh đạo và chỉ đạo các cấp ủy
củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy ban kiểm tra, coi trọng việc đào tạo cán bộ
làm công tác kiểm tra chuyên trách và tiến hành kiểm tra theo thẩm quyền. Trên
thực tế trong những năm qua, do các cấp ủy đã tiến hành công tác kiểm tra nghiêm
túc, nên đã đạt được một số kết quả nhất định, góp phần quan trọng vào việc xây
dựng Đảng theo hướng trong sạch, vững mạnh. Cấp ủy, ban kiểm tra các cấp phần
lớn đã nghiên cứu, quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo triển khai, xác định nội dung,
2
hình thức, phương pháp kiểm tra trong phạm vi quyền hạn lãnh đạo của cấp mình
và tổ chức thực hiện khá tốt, sáng tạo, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mỗi tổ chức và đạt được kết quả nhất định.
Kết quả cuộc kiểm tra ấy đã đóng góp rất quan trọng cho việc củng cố và xây
dựng toàn Đảng trong sạch vững mạnh. Tuy vậy trong thực tế đã có tình trạng sự
giảm sút về ý chí cách mạng, sự suy thoái về đạo đức và tinh thần phục vụ đất
nước, phục vụ nhân dân của một số đảng viên, cán bộ lãnh đạo. Số cán bộ đó tuy
không nhiều nhưng có ảnh hưởng rất tiêu cực đối với uy tín, việc nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu và sự cầm quyền của Đảng.
Tình trạng ấy xảy ra có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân
là do công tác kiểm tra chưa đủ mạnh, vẫn còn một số tổ chức đảng, cấp ủy và ban
kiểm tra nhận thức vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra chưa sâu và chưa
đúng theo quan điểm của Đảng; thực hiện chưa tốt một số nội dung, hình thức,
nguyên tắc kiểm tra. Trong tiến hành một cuộc kiểm tra còn có lúc, có nơi chưa
thực hiện đồng bộ các phương pháp kiểm tra đã được Đảng quy định. Sự kiểm tra
của cấp trên đối với cấp dưới, kiểm tra của tổ chức đối với đảng viên của từng cấp
từng ngành chưa nghiêm theo nguyên tắc và quan điểm của Đảng; việc thi hành
và xử lý kết luận kiểm tra chậm, chưa hiệu lực, hiện tượng tiêu cực trong bộ máy
và đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa được khắc phục và giải quyết tận gốc và dứt
điểm; năng lực và hiệu quả kiểm tra của ban kiểm tra các cấp, các ngành chưa cao.
Bộ máy tổ chức cơ quan ban kiểm tra của một số cấp ủy chưa được củng cố đúng
theo hướng dẫn của Ban kiểm tra Trung ương; số lượng cán bộ làm công tác kiểm
tra hiện nay còn hạn chế, kiến thức và năng lực chưa cao.
Thực trạng chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào trên đây đang đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết như: vấn đề xác
định nội dung kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên; vấn đề xác định hình thức,
phương pháp kiểm tra; vấn đề phối hợp công tác kiểm tra Đảng với thanh tra Nhà
nước và các tổ chức khác; vấn đề ban kiểm tra cấp trên kiểm tra cấp ủy và ban
kiểm tra cấp dưới; vấn đề về bộ máy cơ quan ban kiểm tra các cấp và kiến thức,
năng lực cán bộ kiểm tra; vấn đề về thi hành và xử lý kết luận kiểm tra…
3
Trước tình trạng đó và yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn
hiện nay, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng như Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng Nhân dân cách mạng Lào khẳng
định: Để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, chúng ta phải quan tâm coi trọng
đối với việc nâng cao chất lượng công tác kiểm tra cùng với nâng cao năng lực
của cán bộ kiểm tra… Muốn nâng cao chất lượng công tác kiểm tra theo tinh thần
đó, đòi hỏi phải có lý luận chỉ dẫn một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn sự
lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong từng giai đoạn cách mạng cụ
thể. Vì vậy, để góp phần giải quyết vấn đề cấp bách nêu trên, làm rõ về mặt lý
luận và thực tiễn liên quan đến chất lượng công tác kiểm tra của Đảng, tôi chọn và
thực hiện đề tài luận án tiến sĩ: “Chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của chất lượng công tác
kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở
đó, luận án đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay.
2.2.Nhiệm vụ của luận án
- Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
- Làm rõ những vấn đề lý luận về chất lượng công tác kiểm tra của Đảng
Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào trong những năm qua; phân tích các nguyên nhân và vấn đề đặt ra.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai
đoạn hiện nay.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án khảo cứu chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào từ năm 2006 đến 2016. Phương hướng và những giải pháp nêu trong
luận án có giá trị đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
Luận án được tiến hành nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Mình, quan điểm của Đảng Nhân dân cách mạng Lào và
Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng, về công tác kiểm tra; tiếp thu và
phát triển những kết quả nghiên cứu lý luận về công tác kiểm tra, chất lượng công
tác kiểm tra trong các công trình, đề tài, bài viết có liên quan.
Cơ sở thực tiễn của luận án là thực tiễn công tác kiểm tra của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào trong những năm qua, bao gồm quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện và những kết quả, hạn chế, nguyên nhân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin và sử dụng các phương pháp chuyên ngành, liên ngành, như: phân tích,
tổng hợp, lôgic kết hợp với lịch sử; tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh…
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Làm rõ khái niệm, tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất hai giải pháp trọng tâm để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra
của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay là: củng cố bộ máy tổ
chức của ban kiểm tra các cấp, các ngành và đào tạo đội ngũ cán bộ kiểm tra thành
cán bộ chuyên môn nghiệp vụ chuyên nghiệp; tăng cường sự thống nhất, đồng bộ
giữa công tác kiểm tra của Đảng với công tác thanh tra của Nhà nước và sự phối
hợp với công tác kiểm tra chuyên môn của các ngành, của các tổ chức đoàn thể.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về chất lượng công tác kiểm
tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, nhất là làm rõ khái niệm, những yếu tố tác
5
động, tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào, đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của
Đảng trong tình hình mới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ cho việc nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của các cấp ủy đảng và
Ban Kiểm tra Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Thanh tra Chính
phủ Lào.
- Kết qủa nghiên cứu của luận án còn có thể làm tài liệu tham khảo cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy môn công tác kiểm tra ở Học viện Chính trị và
Hành chính Quốc gia Lào; các trường chính trị cấp tỉnh ở Lào.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác giả
đã công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Kiểm tra là một khâu rất quan trọng trong thực hiện vai trò lãnh đạo của
Đảng, nó đan xen vào tất cả các khâu, tạo nên sự hoàn thiện của quá trình lãnh đạo
và đồng thời công tác kiểm tra còn là công việc hết sức quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng. Công tác kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của
Đảng. Bởi vậy, đây là vấn đề được nhiều nhà khoa học và hoạt động thực tiễn ở
Việt Nam, Trung Quốc, Lào quan tâm nghiên cứu. Sau đây là những công trình
khoa học đã công bố có những nội dung liên quan đến đề tài luận án “Chất lượng
công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện
nay” trong thời gian qua.
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH CỦA CÁC NHÀ KHOA HỌC NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Các công trình của các nhà khoa học Việt Nam
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có nhiều nhà khoa học
nghiên cứu về công tác kiểm tra trong nhiều khía cạnh và nhiều góc độ. Việt Nam
và Lào là hai nước láng giềng, có nhiều điểm tương đồng về vị trí, địa lý, chế độ
chính trị và xã hội, do vậy những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Việt
Nam liên quan đến đề tài, là nguồn tư liệu quan trọng cho sự tiếp thu, kế thừa và
chọn lọc để viết luận án này. Một số công trình khoa học liên quan đến công trình
nghiên cứu của đề tài này gồm những các đề tài như sau:
1.1.1.1. Sách
- Nguyễn Anh Liên, “Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và nâng cao hiệu
quả thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng” [34]. Tác giả cuốn
sách đã trình bày hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn của thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra của Đảng, từ đó trình bày những vấn đề cần thiết
đổi mới và nâng cao hiệu quả thẩm tra, xác minh các vụ việc có dấu hiệu vi
phạm kỷ luật Đảng.
7
- Nguyễn Thị Doan, “Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật nhằm nâng cao
sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới” [7]. Sách đề cập những
luận cứ khoa học của đổi mới công tác kiểm tra kỷ luật của Đảng, gồm: khái niệm,
đặc điểm, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác kiểm tra; yêu cầu của giai đoạn
cách mạng mới đòi hỏi phải đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng; đánh giá
thực trạng công tác kiểm tra kỷ luật Đảng từ năm 1986 đến năm 2003. Trong cuốn
sách nêu ra quan điểm, định hướng, yêu cầu và giải pháp chủ yếu đổi mới công
tác kiểm tra, kỷ luật Đảng trong giai đoạn cách mạng mới.
- Lê Hồng Liêm, “Một số giải pháp tháo gỡ khó khăn trở ngại của ủy ban
kiểm tra các cấp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm” [33].
Trong cuốn sách đã trình bày khá rõ khái niệm kiểm tra và kiểm tra của Đảng, dấu
hiệu vi phạm và kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, khó khăn trở ngại trong kiểm
tra khi có dấu hiệu vi phạm. Cuốn sách nêu lên quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác kiểm tra và nâng cao chất lượng công tác
kiểm tra trong Văn kiện Đại hội Đảng và các Nghị quyết của Đảng; phân tích thực
tiễn những khó khăn trở ngại của ủy ban kiểm tra các cấp trong thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và đã đề xuất 4 giải pháp cơ bản tháo gỡ.
- Cao Văn Thống, “Đổi mới phương thức kiểm tra, giám sát của Đảng giai
đoạn hiện nay” [49]. Đây là một trong những tài liệu có giá trị về công tác kiểm
tra và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện
nay và chính là tư liệu quan trọng có nhiều gợi ý cả về lý luận và thực tiễn cho
luận án. Cuốn sách đã trình bày khá công phu những vấn đề về phương thức kiểm
tra, giám sát, về xây dựng cơ quan kiểm tra và đổi ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng.
Những quan điểm được phân tích sâu bao gồm: cấp ủy đảng các cấp phải có sự
lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát một cách khoa
học, thận trọng, chặt chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp; thực hiện cả kiểm
tra, giám sát trực tiếp (kể cả kiểm tra, giám sát lưu động) và kiểm tra, giám sát
gián tiếp; kết hợp cả kiểm tra, giám sát từ trên xuống và từ dưới lên, từ trong ra và
từ ngoài vào; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức với phát huy vai trò,
8
trách nhiệm của công dân, nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát để tạo ra
sức mạnh tổng hợp, đạt kết quả cao nhất. Phải công khai hóa công tác kiểm tra,
giám sát; xây dựng cơ quan kiểm tra chuyên trách khoa học, tương xứng, ngang
tầm; cán bộ kiểm tra đảm bảo phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn, kỹ
năng nghiệp vụ, đủ sức thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; cán bộ làm
công tác kiểm phải thật sự là những người mẫu mực nhất “không thể chê trách
được”, họ phải có kiến thức lý luận, công tác đảng, công tác tổ chức, quản lý nhà
nước, pháp luật, nghiệp vụ chuyên môn; phải có và thực hiện tốt chế độ đãi ngộ
đối với cán bộ kiểm tra để tạo điều kiện cho họ toàn tâm, toàn lực thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao.
Trong cuốn sách này tác giả đã căn cứ vào tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trình bày vấn đề lý luận, thực tiễn và đưa ra
những giải pháp để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Giải pháp ấy bao gồm: nâng cao nhận thức cho các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban
kiểm tra các cấp và cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò, mục đích, ý nghĩa, tác
dụng của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ
đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp ủy các cấp nhằm tạo
ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của
Đảng; đổi mới nội dung, phạm vi kiểm tra, giám sát trong đó phải tập trung kiểm
tra, giám sát cả nhận thức, năng lực cụ thể hóa, tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách và pháp luật, cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên; phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nội dung,
đối tượng, phạm vi kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm
tra các cấp; chủ động phối hợp với cơ quan liên quan trong thực hiện công tác
kiểm tra, giám sát; phải xây dựng tổ chức bộ máy ủy ban kiểm tra các cấp tương
xứng và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền theo quy
định của Điều lệ Đảng.
- Cao Văn Thống, “Nâng cao chất lượng công tác tham mưu của ủy ban
kiểm tra trong tình hình hiện nay” [50]. Nội dung của cuốn sách này là tư liệu
khoa học về nâng cao chất lượng trong việc thực hiện chức năng tham mưu cho
9
cấp ủy của ủy ban kiểm tra các cấp ở Việt Nam. Cuốn sách có trình bày khái niệm
về tham mưu và công tác tham mưu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
của ủy ban kiểm tra; nêu ra và phân tích các tiêu chí đánh giá chất lượng và các
nhân tố tác động đến chất lượng công tác tham mưu về công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật đảng. Cuốn sách còn phân tích thực trạng công tác tham mưu về công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ủy ban
kiểm tra các tỉnh, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương từ 2001 - 2009, đề
xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác tham mưu về công tác kiểm
tra, giám sát, kỷ luật đảng của ủy ban kiểm tra trong tình hình hiện nay.
1.1.1.2. Các bài báo khoa học đăng trên các tạp chí khoa học
Đã có nhiều bài báo khoa học bàn về công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản
Việt Nam như: Phạm Văn Trà, “Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng, thiết
thực nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ Quân đội trong tình
hình mới” [52]; Trần Đình Hoan, “Tăng cường mối quan hệ giữa công tác tổ
chức cán bộ với công tác kiểm tra trong xây dựng Đảng hiện nay” [21]; Nguyễn
Cao Huy, “Bác Hồ với công tác kiểm tra và kỷ luật trong Đảng” [23]; Đặng Xuân
Tỉnh, “Công tác phối hợp kiểm tra ở Đảng bộ Quân khu 2” [51]; Đỗ Hữu Cường,
“Kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm” [5]; Lê Hữu Đức, “Trích tham luận
Hội nghị kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm tạo bước chuyển biến mới
trong công tác xây dựng Đảng ở thành phố Hồ Chí Minh” [17]; Hữu Hà, “Công
tác kiểm tra với việc khắc phục sự suy thoái trong cán bộ đảng viên” [19]. Nội
dung đề cập đến công tác kiểm tra với mục đích khắc phục sự suy thoái trong cán
bộ đảng viên; Trần Nam, Lê Quang Giản, “Công tác kiểm tra góp phần xây dựng,
chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [42]; Thiên Lương, “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về trách nhiệm của các cấp ủy đối với công tác kiểm tra” [36].
Các bài báo nêu trên đây đều có trình bày vấn đề lý luận về vai trò quan
trọng của công tác kiểm tra đối với sự lãnh đạo của Đảng và xây dựng nội bộ đảng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh giá thực trạng thực
hiện công tác kiểm tra của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra theo chủ đề của
từng bài và đưa ra các giải pháp. Nội dung chung nhất của các bài báo trên có liên
10
quan đến đề tài nghiên cứu của luận án này là vấn đề vai trò quan trọng của công
tác kiểm tra đối với thực hiện chức năng lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng
Đảng. Còn các giải pháp bài báo đề ra thì mỗi bài báo đều có một số vấn đề liên
quan đến đề tài của luận án.
Ngoài các bài báo nêu trên thì có một số bài báo sau đây bàn sâu và hệ
thống về công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam như:
- Nguyên Văn Chi, “Công tác kiểm tra của Đảng qua 20 năm đổi mới”
[4]. Nội dung đã tổng kết những kết quả hoạt động kiểm tra trong 20 năm (giai
đoạn từ năm 1986 đến năm 2005), chỉ ra thành tựu đạt được, những mặt hạn chế,
nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; đề xuất giải pháp tăng cường công tác kiểm
tra trong giai đoạn mới như: 1. Công tác kiểm tra phải góp phần giữ vững nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, giữ nghiêm kỷ luật và sự thống nhất trong Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; 2. Công tác
kiểm tra phải đạt được yêu cầu: là một chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ phận
quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ trực tiếp, thường
xuyên của tổ chức đảng các cấp; 3. Nâng cao nhận thức cho toàn Đảng về vị trí,
vai trò, mục đích, ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra, kỷ luật đảng; 4. Xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nội dung, đối tượng, phạm vi kiểm tra,
giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp; 5. Tăng cường sự lãnh đạo tổ
chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra của cấp ủy các cấp. Các cấp ủy, tổ chức đảng
phải trực tiếp và thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra; 6. Công tác kiểm tra
của ủy ban kiểm tra các cấp phải đi vào trọng tâm, trọng điểm. Đầu tư đẩy mạnh
công tác nghiên cứu, vận dụng có hiệu quả các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn
xảy ra vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; 7. Kiện toàn tổ chức bộ máy ủy
ban kiểm tra các cấp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền
theo quy định của Điều lệ Đảng.
- Ngô Văn Dụ, “Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng”
[8]. Nội dung đã nêu lên quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh về công tác kiểm tra, xác định kiểm tra, giám sát là một trong những
chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng
11
Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát đối với các tổ chức đảng và đảng viên trong hệ thống chính trị về chấp hành và
thể chế hóa chủ trương, nghị quyết, chỉ thị và các quy định của Đảng bằng hệ
thống quy chế, quy định, quy trình thực hiện cụ thể để thực hiện Điều lệ Đảng là
đòi hỏi tất yếu khách quan và cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra;
đã nêu lên thực trạng hoạt động kiểm tra của ủy ban kiểm tra các cấp trong năm
2013 và từ thực trạng ấy, để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng thì đã đưa ra 5 vấn đề cần tập trung thực hiện như: 1. Tiếp tục nâng cao
nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của
công tác kiểm tra, giám sát theo Đảng đã khẳng định: “Lãnh đạo mà không kiểm
tra thì coi như không có lãnh đạo”. Lãnh đạo đến đâu thì kiểm tra đến đó, người
đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng phải đích thân lãnh đạo và tiến hành công tác kiểm
tra, giám sát; 2. Cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp cần tổ chức thực hiện toàn diện
các nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định và nhiệm vụ cấp ủy giao, nhưng cần tập
trung kiểm tra, giám sát và xử lý đảng viên và tổ chức đảng vi phạm kỷ luật đảng
trong các lĩnh vực: tư tưởng chính trị, công tác tổ chức cán bộ, trách nhiệm người
đứng đầu các tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể chính trị, xã hội, trong quản lý và
sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, quản lý, sử dụng ngân sách, vốn, xây
dựng cơ bản, lĩnh vực ngân hàng, các hoạt động tư pháp; 3. Hằng năm, mỗi cấp
ủy, tổ chức đảng phải xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm túc các chương trình,
kế hoạch kiểm tra, giám sát. Các chương trình kiểm tra, giám sát cần thiết thực,
vừa đảm bảo tính toàn diện; đồng thời tập trung vào một số vấn đề then chốt, đặc
biệt những vấn đề xã hội quan tâm, những vấn đề bức xúc của xã hội tại địa
phương, cơ quan, đơn vị; 4. Ủy ban kiểm tra các cấp phải chủ động kiểm tra dấu
hiệu vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên, thực sự coi đây là nhiệm vụ trọng tâm,
xuyên suốt của mình. Phải tìm hiểu, nghiên cứu, chọn lọc thông tin qua nhiều
kênh (qua tự phê bình và phê bình trong nội bộ, qua đơn thư tố cáo, qua báo chí,
qua nhận xét, đánh giá có căn cứ của cán bộ theo dõi...) để chủ động, phát hiện
dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên mà tiến hành kiểm tra; 5. Các cấp
ủy đảng thường xuyên quan tâm kiện toàn tổ chức bộ máy và tăng cường cán bộ
12
kiểm tra bảo đảm tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao; tạo điều kiện
thuận lợi và phát huy đầy đủ vai trò của ủy ban kiểm tra trong tham mưu, giúp cấp
ủy lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát; chỉ đạo sự phối hợp
chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công
tác thanh tra, điều tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị xã hội.
- Đới Văn Tặng, “Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng Cộng sản Việt
Nam thời kỳ đổi mới - thực trạng và những vấn đề đặt ra” [47]. Nội dung đã nêu
lên vai trò quan trọng của công tác kiểm tra đối với công tác xây dựng Đảng và
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng, nêu ra sự tác động của kinh tế thị
trường, mở cửa, hội nhập cả tích cực và tiêu cực đối với cán bộ, đảng viên. Tình
hình đó càng chỉ ra vai trò đặc biệt quan trọng của công tác kiểm tra và đã đặt ra
nhiều vấn đề cần giải quyết để tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; đã đánh giá
thực trạng hoạt động của ủy ban kiểm tra các cấp trong nhiệm kỳ Đại hội X của
Đảng Cộng sản Việt Nam và đã đưa ra vấn đề cần quan tâm luận giải để nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng như: 1. Về mô hình tổ
chức bộ máy: nên tổ chức nghiên cứu trên quy mô lớn, tổng kết và triển khai tư
tưởng của V.I.Lênin việc hợp nhất ủy ban kiểm tra của Đảng với cơ quan thanh tra
nhà nước; 2. Có chủ trương, giải pháp khả thi tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về
công tác giám sát và hướng dẫn thực hiện một cách cụ thể, chi tiết; 3. Về sự phối
hợp giữa ủy ban kiểm tra với các cơ quan liên quan trong công tác kiểm tra, giám
sát cần chặt chẽ hơn và phải có quy chế phối hợp một cách cụ thể, chi tiết và cần
bổ sung hoàn thiện quy chế hiện tại; 4. Tăng cường kiểm tra, thanh tra trong xử lý
mối quan hệ lợi ích, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Thanh tra Chính phủ cần
phải hoàn thiện quy trình, thủ tục sớm sửa đổi, bổ sung các quy định pháp lý cũng
như quy chế phối hợp của các ngành chức năng trong xử lý vấn đề này.
- Lê Lục, “Cán bộ kiểm tra phải có tinh thần trách nhiệm cao” [35]. Nội
dung đã nêu lên vai trò công tác kiểm tra liên quan mật thiết đến sinh mạng chính
trị của cán bộ, đảng viên. Vì vậy yêu cầu cán bộ làm công tác kiểm tra phải nêu
cao tinh thần trách nhiệm trong khi thực hiện công việc được giao. Nâng cao tinh
13
thần trách nhiệm thể hiện ở việc như: tìm hiểu nghiên cứu kỹ các thông tin liên
quan và tìm cho được điểm mẫu chốt cần làm rõ; nắm vững những quy định về
công tác xây dựng Đảng và công tác kiểm tra; phải xây dựng kế hoạch thật cụ thể
để xem xét, giải quyết và xác định nội dung cần làm rõ, xác định đối tượng chính
và đối tượng có liên quan; phải có tính trung thực, khách quan, quan điểm lập
trường vững vàng toàn diện; khi tiếp xúc làm việc với cán bộ, đảng viên phải thật
sự dân chủ, lắng nghe họ…
Các bài báo khoa học nêu trên, từ các góc độ, mối quan tâm của từng tác
giả đã bàn nhiều vấn đề lý luận; đánh giá tình hình nhiều mặt của công tác kiểm
tra và đề xuất nhiều giải pháp có tính thực tiễn cao để làm tốt công tác kiểm tra
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là những kết quả nghiên cứu có giá trị tham
khảo, gợi ý rất tốt cho luận án.
1.1.1.3. Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
- Trương Thị Thông, “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra
chuyên trách của Đảng trong tình hình hiện nay” [48]. Tác giả đã trình bày hệ
thống những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tầm quan trọng, vai trò, mục đích
của công tác kiểm tra đối với việc thực hiện chức năng lãnh đạo của Đảng và
công tác xây dựng Đảng; vị trí, vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ kiểm tra
chuyên trách của Đảng; phân tích cơ sở khoa học của quan niệm mới về tiêu
chuẩn phẩm chất và năng lực của người cán bộ kiểm tra chuyên trách từ Trung
ương đến cấp tỉnh, thành phố, quận, huyện và tương đương; đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách
trong tình hình hiện nay.
Nội dung chính của luận án này là nghiên cứu, phân tích về vị trí, vai trò
của đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác kiểm tra. Chất lượng của đội ngũ
cán bộ này có tác động nhất định đến chất lượng công tác kiểm tra và từ đó tác
giả dựa trên cơ sở khoa học đã đưa ra tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị và năng
lực đòi hỏi cán bộ kiểm tra chuyên trách phải có. Năm giải pháp tác giả đề ra,
toàn liên quan đến việc giải quyết vấn đề chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra thể
14
hiện: thống nhất nhận thức, quan điểm và khẩn trương tiêu chuẩn hóa đội ngũ
cán bộ kiểm tra chuyên trách; khẩn trương xây dựng chiến lược về tạo nguồn
đào tạo - bồi dưỡng cán bộ kiểm tra chuyên trách; từng thời kỳ cần rà soát, đánh
giá lại để kịp thời đào tạo lại, tuyển chọn, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ kiểm
tra chuyên trách; có chính sách đãi ngộ theo hướng ưu đãi đội ngũ cán bộ kiểm
tra chuyên trách, tăng cường quản lý và thiết lập cơ chế bảo đảm an toàn cho đội
ngũ cán bộ kiểm tra; đổi mới cơ chế hoạt động của ủy Ban Kiểm tra các cấp theo
tư tưởng của Lênin.
Từ những nội dung chính nêu trên, có thể khẳng định là luận án này chưa
nghiên cứu đến hết các nhân tố chủ yếu góp thành chất lượng công tác kiểm tra,
mới giải quyết một nhân tố tạo nên chất lượng công tác kiểm tra của Đảng trong
giai đoạn hiện nay. Vì vậy, kết quả nghiên cứu về mặt lý luận của luận án này chỉ
liên quan đến hai vấn đề mà luận án mới sẽ nghiên cứu giải quyết. Hai vấn đề có
liên quan bao gồm: 1. Vai trò quan trọng và mục đích của công tác kiểm tra đối
với thực hiện chức năng lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng; 2. Vấn đề
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra.
- Lê Tiến Hào, “Công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội trong giai đoạn
hiện nay” [20]. Tác giả đã tập trung trình bày về vai trò của công tác kiểm tra đối
với sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng; phân tích và đưa ra quan
niệm về chất lượng, hiệu quả và những tiêu chí đánh giá chất lượng và hiệu quả
công tác kiểm tra; đánh giá kết quả công tác xây dựng Đảng và thực trạng công
tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội trong thời kỳ 1996 - 2002. Qua đánh giá thực
trạng, tác giả đề xuất 6 giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm
tra của Thành ủy Hà Nội. Sáu giải pháp bao gồm: 1. Phải nâng cao nhận thức cho
các tổ chức đảng và đảng viên về công tác kiểm tra của Đảng; 2. Cần tăng cường
sự lãnh đạo, chỉ đạo của thành ủy đối với công tác kiểm tra của các cấp ủy đảng và
các tổ chức đảng; 3. Đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng các cuộc
kiểm tra của thành ủy; 4. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt
động của ủy Ban Kiểm tra thành ủy và ủy Ban Kiểm tra các cấp; 5. Phát huy vai
trò kiểm tra của quần chúng, thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, phối kết hợp chặt chẽ
15
giữa thanh tra nhân dân với đoàn thể chính trị - xã hội trong kiểm tra, giám sát,
đóng góp ý kiến xây dựng Đảng; 6. Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm
tra Trung ương và các Ban của Trung ương Đảng.
Nội dung của luận án này đã giải quyết những vấn đề có liên quan đến đề
tài nghiên cứu của luận án mới là: 1.Vai trò của công tác kiểm tra đối với sự lãnh
đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng; 2. Chất lượng và tiêu chí đánh giá chất
lượng công tác kiểm tra; 3. Những giải pháp luận án đề ra.
Những kết quả nghiên cứu của luận án này tương đối rõ và phong phú về
một số mặt của công tác kiểm tra. Trong chất lượng công tác kiểm tra thì luận án
chưa đề cập đến nhân tố bộ máy tổ chức cơ quan ủy Ban Kiểm tra và đội ngũ cán
bộ kiểm tra mà luận án mới được coi là vấn đề cần quan tâm làm rõ. Hơn nữa
phạm vi nghiên cứu của luận án chỉ trong một thành phố Hà Nội.
- Nguyễn Thế Tư, “Nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu
hiệu vi phạm của Ủy ban Kiểm tra huyện ủy ở các tỉnh duyên hải miền Trung giai
đoạn hiện nay” [54]. Luận án đã nêu ra quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò công
tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; trong đó đã trình bày khái niệm
kiểm tra, dấu hiệu vi phạm, vai trò công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm. Tác giả đã trình bày quan niệm về chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu
hiệu vi phạm, 7 yếu tố cấu thành chất lượng đó và đưa ra 5 tiêu chí đánh giá chất
lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Nêu lên tình hình dấu hiệu vi
phạm của đảng viên ở các huyện duyên hải miền Trung từ năm 1996 đến năm
2004 và đánh giá thực trạng công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
của Ủy ban Kiểm tra huyện ủy ở các tỉnh duyên hải miền Trung. Qua đánh giá
thực trạng, luận án đưa ra phương hướng, quan điểm chỉ đạo và 6 giải pháp nâng
cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của Ủy ban Kiểm tra
huyện ủy ở các tỉnh duyên hải miền Trung như: 1. Nâng cao nhận thức trách
nhiệm của các cấp ủy đảng, ủy Ban Kiểm tra huyện ủy và đảng viên về công tác
kiểm tra; 2. Kiện toàn tổ chức, cải tiến phương thức hoạt động của ủy Ban Kiểm
16
tra huyện ủy đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới; 3. Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra
ngang tầm đòi hỏi thời kỳ mới; 4. Chủ động phát hiện sớm dấu hiệu vi phạm, kiên
quyết đấu tranh làm rõ đúng, sai, kết luận chính xác, kịp thời; 5. Tăng cường sự
phối hợp giữa ủy Ban Kiểm tra huyện ủy với các ban xây dựng Đảng, thanh tra
Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật trên địa bàn, coi trọng sự chỉ đạo của
ủy Ban Kiểm tra cấp trên; 6.Phát huy vai trò, trách nhiệm xây dựng Đảng của
quần chúng đối với công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.
Luận án này chỉ tập trung giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn có
liên quan đến chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giải pháp
đưa ra là nhằm nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.
Nội dung luận án này có liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án mới về một
số vấn đề như: 1. Khái niệm chung về kiểm tra; 2. Một số yếu tố cấu thành chất
lượng kiểm tra và một số tiêu chí để đánh giá chất lượng kiểm tra; 3. Giải pháp
một, hai, ba và sáu.
Vì vậy, kết quả nghiên cứu của luận án này so với yêu cầu cần nghiên cứu
giải quyết của luận án mới, luận án này chỉ giải quyết một khía cạnh cấu thành
chất lượng công tác kiểm tra của Đảng với phạm vi toàn Đảng, và hơn nữa phạm
vi nghiên cứu chỉ một mặt công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
của ủy ban kiểm tra cấp huyện.
Ở trình độ thạc sĩ có một số luận văn đã nghiên cứu, khảo luận đến các
khía cạnh khác nhau của công tác kiểm tra như: Huỳnh Quốc Cường, “Công tác
kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của Ủy ban Kiểm tra quận, huyện,
Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay” [6]; Huỳnh Văn Hồng, “Nâng cao
chất lượng công tác kiểm tra của Đảng bộ huyện Đỉnh Quán, tỉnh Đồng Nai hiện
nay - thực trạng và giải pháp” [22]; Phạm Huy Giáp, “Chất lượng công tác kiểm
tra của ủy ban kiểm tra quận, huyện ủy ở Thành phố Hà Nội trong giai đoạn
hiện nay” [18].
Kết quả nghiên cứu của các luận văn thạc sĩ trên đây đã giải quyết vấn đề lý
luận về công tác kiểm tra như: khái niệm chung về công tác kiểm tra, chất lượng
công tác kiểm tra của cấp ủy và của ủy ban kiểm tra, chất lượng kiểm tra đối với
17
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm và qua đánh giá thực trạng thực hiện công tác
kiểm tra theo chủ đề nghiên cứu thì đã đưa ra giải pháp. Nội dung của các luận
văn trên có liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án này là: khái niệm kiểm tra,
chất lượng công tác kiểm tra và một số nội dung giải pháp. Những mức độ nghiên
cứu ở cấp luận văn và phạm vi nghiên cứu chỉ ở một cấp huyện và tương đương,
do vậy còn nhiều nội dung thì chưa sâu, chưa đáp ứng được yêu cầu cần làm rõ so
với mức độ nghiên cứu của luận án.
Các công trình khoa học nêu ra ở trên đã luận giải khá rõ nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn trong công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó
có vấn đề chất lượng công tác kiểm tra của Đảng. Nhưng do đặc điểm riêng của
mỗi Đảng và đặc điểm đối tượng lãnh đạo của Đảng có những điểm khác nhau thì
đối với công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, cần phải tiếp thu và
làm rõ thêm những kết quả trên để vận dụng có hiệu quả và chất lượng cao.
Những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam đã nêu ra trên đây rất
có ích cho việc tiếp thu để nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác kiểm tra của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2. Các công trình của nhà khoa học Trung Quốc
- Xie Chuntao, “Tăng cường mạnh mẽ trong xây dựng đảng là sự đảm bảo
cơ bản cho sự kiên trì và phát triển xã hội chủ nghĩa theo đặc điểm của Trung
Quốc” [115]. Bài viết đã trình bày thực trạng công tác xây dựng Đảng trong
những năm qua và đưa ra nhiều nội dung để tiếp tục xây dựng Đảng như: tăng
cường giáo dục tư tưởng tạo sự tin tưởng vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tăng
cường xây dựng phong cách của Đảng vững vàng, tăng cường đào tạo đội ngũ cán
bộ có đạo đức cách mạng cao, kiên quyết phòng, chống tham nhũng… Trong nội
dung kiên quyết phòng chống tham nhũng đã nhấn mạnh cần tăng cường giám sát,
kiểm tra và hạn chế quyền lực; làm cho công tác giám sát, kiểm tra có hiệu lực. Để
làm cho công tác giám sát, kiểm tra có hiệu lực, tác giả đã nêu ra một số giải pháp
như: phải đi sâu cải cách hệ thống kiểm tra và kỷ luật Đảng; việc giới thiệu người,
giám sát và bổ nhiệm sử dụng bí thư, phó bí thư ủy ban kiểm tra kỷ luật đảng cấp
dưới phải giao cho ủy ban kiểm tra kỷ luật đảng cấp trên cùng với ban tổ chức cấp
18
trên tiến hành; kiểm tra việc thi hành kỷ luật phải do ủy ban kiểm tra kỷ luật cấp
trên là chính; số liệu về kiểm tra thi hành kỷ luật ngoài báo cáo cấp ủy cấp trên,
cần phải báo cáo ủy ban kiểm tra kỷ luật cấp trên; Ủy ban kiểm tra kỷ luật của
Trung ương phải có đoàn vào thường trực tại Văn phòng Trung ương Đảng, Ban
Tổ chức trung ương, Ban Tuyên huấn Trung ương, Mặt trận thống nhất Trung
ương, Văn phòng Chính phủ và Hội đồng Cố vấn chính trị toàn quốc; nâng cấp
công tác kiểm tra cơ động cùng với tăng cường phương pháp và trang bị các
phương tiện, công cụ cho hoạt động này, mỗi một cuộc kiểm tra cơ động phải giao
quyền, quy định rõ vai trò đoàn kiểm tra là tìm kiếm để phát hiện vấn đề, nếu có
vấn đề mà không phát hiện coi như không hoàn thành nhiệm vụ, phát hiện vấn đề
nhưng không báo cáo cơ quan có thẩm quyền coi là phớt lờ, bỏ sót nhiệm vụ.
- Jiang Wenpeng, “Tăng cường giám sát, kiểm tra trong đảng cần thiết
phải xây dựng mạng lưới giám sát, kiểm tra dày rộng” [101]. Nội dung đã đề cập
và trình bày sự quan trọng của công tác giám sát, kiểm tra và sự cần thiết phải xây
dựng mạng lưới giám sát kiểm tra. Trong đó có nêu: trong điều kiện hiện nay và
sau này, sự tin tưởng không thể thay thế giám sát, kiểm tra được; chỉ xây dựng
được mạng lưới giám sát, kiểm tra trong Đảng dày đặc và rộng khắp, kiện toàn hệ
thống giám sát, kiểm tra cho hoàn chỉnh và đầy đủ, xây dựng quy chế phòng
chống vi phạm có tính khoa học sẽ tăng cường sự vững mạnh của Đảng trong việc
tự xây dựng sự trong sạch, kiện toàn hoàn chỉnh bản thân, tự đổi mới và tự nâng
cao năng lực. Bài viết đã nêu nội dung cơ bản cần giám sát, kiểm tra như: việc
chấp hành và thực hiện Điều lệ Đảng và các quy định quy chế của Đảng; việc bảo
vệ sự lãnh đạo thống nhất tập trung của Trung ương Đảng; việc tiến hành giám sát
kiểm tra theo chế độ tập trung dân chủ; việc tổ chức thực hiện trách nhiệm quản lý
Đảng nghiêm minh và toàn diện; việc tổ chức thực hiện quy chế về xây dựng
phong cách của Đảng, về tiêu chuẩn cán bộ trong lựa chọn và bố trí sử dụng, về
thực trạng thực hiện các công việc của Trung ương Đảng và các tổ chức đảng cấp
trên đề ra. Đồng thời còn nêu ra đối tượng phải tăng cường giám sát, kiểm tra là:
cơ quan của Đảng cấp trung ương, các cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra kỷ luật đảng
các cấp, tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.
19
- Li zhiyong, “Giám sát, kiểm tra đảm bảo cho việc thực thi quyền lực đúng
theo quy định, vừa là biện pháp quan trọng trong tăng cường và xây dựng trật tự
cho sinh hoạt chính trị trong nội bộ đảng” [102]. Nội dung đã đề cập đến vấn đề
sau đây: về sự quan trọng của công tác giám sát, kiểm tra là bảo đảm cho Điều lệ
và kỷ luật của Đảng được tổ chức thực hiện có hiệu lực trong toàn đảng, bảo vệ sự
đoàn kết thống nhất của đảng, làm cho sự quản lý đảng nghiêm minh toàn diện,
bảo đảm cho tổ chức đảng phát huy vai trò hạt nhân và mọi đảng viên phát huy
tính tiên phong gương mẫu, cán bộ lãnh đạo trung thành, trong sạch và có trách
nhiệm; về đối tượng phải tăng cường giám sát, kiểm tra là cơ quan lãnh đạo và cán
bộ lãnh đạo của đảng; về căn cứ của giám sát, kiểm tra là chủ nghĩa Mác, tư tưởng
Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng Ba đại diện và quan điểm
phát triển theo quy luật khoa học; về tổ chức và cơ quan có trách nhiệm giám sát,
kiểm tra là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Thường trực Bộ Chính trị
lãnh đạo toàn diện công tác giám sát, kiểm tra trong toàn Đảng, cấp ủy có trách
nhiệm chính giám sát, kiểm tra trong phạm vi, quyền hạn lãnh đạo của mình, trong
đó bí thư cấp ủy là người có trách nhiệm thứ nhất, ủy ban kiểm tra các cấp phải
thực hiện vai trò giám sát, kiểm tra thi hành kỷ luật và theo đuổi về trách nhiệm,
các cơ quan công tác đảng giám sát, kiểm tra theo phạm vi trách nhiệm, tổ chức cơ
sở đảng giám sát, kiểm tra đảng viên thực hiện nhiệm vụ và tiêu chuẩn đảng viên,
mọi đảng viên thực hiện quyền giám sát, kiểm tra đối với cán bộ lãnh đạo của
đảng về thực thi dân chủ.
Các công trình của nhà khoa học Trung Quốc trên đây rất bổ ích cho tác giả
luận án tiếp thu kết quả và gậy ý cho tiếp tục triển khai những điều mà ở Đảng
Nhân dân cách mạng Lào chưa làm như đoàn kiểm tra cơ động và chưa quy định
rõ vai trò, trách nhiệm giám sát, kiểm tra của tổ chức và các cơ quan.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN
DÂN LÀO
1.2.1. Sách
“Cẩm nang công tác kiểm tra” của Ủy ban Kiểm tra - Thanh tra Trung
ương [113]. Cuốn sách có bài viết của Tổng bí thư Cayxỏn Phômvịhản với đề:
20
“Công tác kiểm tra là trách nhiệm của cấp ủy đảng và cán bộ lãnh đạo các cơ quan
đảng, nhà nước, các tổ chức đoàn thể”. Trong bài có những nội dung quan trọng
chỉ đạo cấp ủy, ban kiểm tra các cấp và cán bộ làm công tác kiểm tra phải tiếp tục
nghiên cứu, triển khai thành cái cụ thể từng vấn đề một. Nội dung chính của bài
bao gồm: 1. Đã nêu vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra đối với Đảng
cầm quyền và trong thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, Người đã đưa ra luận
điểm, thứ nhất: “Công tác kiểm tra có tầm quan trọng hết sức to lớn trong hệ
thống quản lý các tiến trình xã hội nói chung, tầm quan trọng đó càng được tăng
thêm rất nhiều sau khi đã lật đổ giai cấp bóc lột, thành lập chính quyền của dân”,
thứ hai: “Việc chuẩn bị và đưa ra nghị quyết của Đảng là nhân tố quan trọng trong
hệ thống đường lối của Đảng và sự quản lý của Nhà nước... Nhưng dù sao, tuy
nghị quyết ấy có nội dung đầy đủ, tỉ mỉ mấy nó chỉ là điều kiện để giải quyết các
vấn đề cho đạt kết quả tốt nhất, bởi vì các công việc đã xác định trong nghị quyết
mới là những vấn đề chính, là cái cốt lõi và tương đối phức tạp, do vậy khi tổ chức
thực hiện thì đòi hỏi phải có sự kiểm tra - thanh tra một cách có hệ thống được đặt
lên hàng đầu trong quá trình tiến hành quy trình lãnh đạo, quản lý đã trở thành
nhiệm vụ tất yếu”; 2. Đã chỉ ra trách nhiệm của cấp ủy mà trong đó và trước hết là
người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền các cấp, các ngành đối với công tác
kiểm tra; để thực hiện có hiệu quả vai trò lãnh đạo, quản lý trong phạm vi quyền
hạn của mình thì người lãnh đạo, quản lý phải coi trọng công tác kiểm tra, coi
công tác kiểm tra là công việc của chính mình và thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra;
3. Đã phân tích quan điểm của Lênin về các nguyên tắc kiểm tra và đã đưa ra 5
nguyên tắc kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào bao gồm: nguyên tắc tính
Đảng, nguyên tắc tính quần chúng, nguyên tắc tính chính xác khách quan, nguyên
tắc tính công khai và nguyên tắc tính hiệu quả; 4. Đã phân tích quan điểm của
Lênin về hình thức kiểm tra Đảng, từ đó chỉ ra trong công tác kiểm tra của Đảng
Nhân dân cách mạng Lào phải thực hiện hình thức kiểm tra: kiểm tra thường
xuyên, kiểm tra theo kế hoạch hoặc định kỳ và kiểm tra đột xuất; 5. Đã đưa ra
hình thức tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra là một cơ quan làm hai chức
năng: kiểm tra Đảng và thanh tra Nhà nước; 6. Chỉ ra phương pháp tiến hành kiểm
21
tra của cấp ủy và ban kiểm tra các cấp: là kiểm tra từ trên xuống dưới, kiểm tra từ
dưới lên trên, kiểm tra từ trong ra ngoài, kiểm tra từ ngoài vào trong, giáo dục
tuyên truyền cho mỗi đảng viên tự kiểm tra bản thân, phối kết hợp giữa kiểm tra
Đảng với thanh tra Nhà nước và kiểm tra của các tổ chức đoàn thể, các tổ chức
chuyên môn nghiệp vụ trong hệ thống chính trị.
Những nội dung của bài nêu trên đã trình bày chủ yếu ở dạng hướng dẫn
cho việc chỉ đạo thực tiễn một số vấn đề cụ thể của công tác kiểm tra. Nội dung đó
rất có giá trị cho việc tham khảo và tiếp tục nghiên cứu, phân tích trong triển khai
luận án này.
1.2.2. Các bài báo khoa học đăng trên các tạp chí khoa học
- Chummaly Xaynhạxỏn, “Nâng cao vai trò lãnh đạo bằng cách phối hợp
giữa đề ra đường lối, bố trí cán bộ và kiểm tra” [84]. Nội dung của bài đã chỉ ra
tầm quan trọng của công tác kiểm tra đối với sự lãnh đạo của Đảng, kiểm tra là
công việc gắn với mọi khâu của quá trình lãnh đạo. Trong bài có sự phân tích cho
thấy sự tất yếu khách quan của việc kiểm tra trong khâu nghiên cứu đưa ra đường
lối, bố trí cán bộ để tổ chức thực hiện đường lối. Bài đã nhấn mạnh: để đảm bảo
cho đường lối có tính khoa học, phù hợp với tình hình, hoàn cảnh cụ thể của đất
nước cũng như của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi địa phương thì cần thiết cấp ủy phải
có sự kiểm tra; khi đã có đường lối, kế hoạch, xác định công việc cụ thể rồi, thì
cần cán bộ có năng lực tổ chức thực hiện, vì vậy ở khâu này cũng đòi hỏi phải
kiểm tra đối với việc bố trí cán bộ. Bài đã kết luận: để nâng cao vai trò lãnh đạo và
lãnh đạo có hiệu quả đòi hỏi cấp ủy và người lãnh đạo phải coi trọng làm công tác
kiểm tra ở tất cả mọi khâu trong quá trình lãnh đạo; cấp ủy các cấp phải lãnh đạo
và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, lãnh đạo, chỉ đạo ban kiểm tra trong phạm vi,
quyền hạn của cấp mình.
- Uthoon Maxỉxônxay, “Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác
kiểm tra đáp ứng tình hình mới” [112]. Trong bài đã nêu ra tầm quan trọng của
công tác kiểm tra đối với sự lãnh đạo của Đảng; chỉ ra hoàn cảnh trong những
năm tới là Đảng tiếp tục lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, phát triển đất nước
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự hòa nhập khu vực và
22
quốc tế. Với điều kiện như vậy, để xây dựng đảng trong sạch vững mạnh thì bài
đã đặt ra sự cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác kiểm tra và một trong
nhân tố để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra thì đòi hỏi phải có đội ngũ cán
bộ làm công tác kiểm tra có chất lượng. Bài đã chỉ ra thực trạng chất lượng đội
ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra và công tác đào tạo đội ngũ cán bộ kiểm tra
trong những năm qua như:
1) Mặt mạnh: thứ nhất, phần lớn và cơ bản cán bộ kiểm tra hiện nay thì có
đức, có tài và năng lực chuyên môn đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị
được giao phó; thứ hai, số cán bộ kiểm tra đã có đều đã được bồi dưỡng và tập
huấn nghiệp vụ kiểm tra; thứ ba, cán bộ kiểm tra ngày càng được tăng về số lượng
và trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng được nâng cao.
2) Mặt yếu: thứ nhất, cán bộ lãnh đạo ban kiểm tra luôn luôn thay đổi theo
mỗi khóa Đại hội Đảng các cấp, nhiều cấp thay đổi hết cả ban kiểm tra, làm cho
thiếu tính kế tục, phó chủ nhiệm không có điều kiện để làm chủ nhiệm, bởi vì
trong ban kiểm tra các cấp chỉ có một đồng chí cấp ủy là thường vụ làm chủ
nhiệm, đến Đại hội nếu phó chủ nhiệm được vào ủy viên ban chấp hành đảng ủy
vẫn chỉ là cấp ủy viên thì không đủ tiêu chuẩn làm chủ nhiệm, nên phải chuyển
phụ trách công việc khác; thứ hai, đội ngũ cán bộ kiểm tra hiện nay thì phần lớn là
cán bộ trẻ, chưa được học lý luận chính trị, vì vậy khi đi kiểm tra còn có trường
hợp phân tích, đánh giá các sự kiện, hành vi của đối tượng kiểm tra chưa khách
quan; thứ ba, công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kiểm tra thì chưa đáp ứng
được yêu cầu của nhiệm vụ kiểm tra, bởi sự đáp ứng về ngân sách cho việc này có
hạn, việc phân bố chỉ tiêu của các cơ quan có thẩm quyền cho ngành kiểm tra đưa
người đi đào tạo qua các trường lớp là rất ít ỏi.
Qua đánh giá thực trạng, bài đã đưa ra 4 giải pháp như: thứ nhất là, Trung
ương Đảng nên ra quy định về cơ cấu ban kiểm tra các cấp thì ít nhất phải có hai
đồng chí cấp ủy, một đồng chí thường vụ làm chủ nhiệm và một đồng chí là ủy
viên làm phó chủ nhiệm ban kiểm tra các cấp; thứ hai là, cấp ủy và ban kiểm tra
các cấp cần phải có quy hoạch cán bộ kiểm tra của cấp mình, và căn cứ vào quy
hoạch đó để đào tạo cho đúng đối tượng; thứ ba là, tập trung đào tạo bằng hình
23
thức đào tạo qua công việc thực tế ở cơ quan, qua tham gia trong đoàn đi kiểm tra
và qua tổ chức hội thảo rút kinh nghiệm về các mặt trong công tác kiểm tra cụ thể
và thứ tư là, ban kiểm tra các cấp cần phối kết hợp với các cơ quan hữu quan để
tranh thủ chỉ tiêu của họ đưa cán bộ kiểm tra đi học tập hoặc bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ của các ngành liên quan.
- Vănxay Xôngxagiu, “Nâng cao chất lượng và năng lực của cán bộ kiểm
tra” [55]. Tác giả đã nêu lên vai trò của cán bộ kiểm tra trong việc thực hiện chức
năng của ban kiểm tra các cấp, để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra theo tinh
thần Đại hội IX của Đảng Nhân dân cách mạng Lào xác định: “Để xây dựng đảng
trong sạch vững mạnh, chúng ta phải coi trọng và quan tâm nhiều hơn nữa cho
việc nâng cao chất lượng công tác kiểm tra đi đôi với nâng cao năng lực của cán
bộ kiểm tra” [95] thì cần thiết phải nâng cao chất lượng cán bộ kiểm tra cho tương
xứng với nhiệm vụ kiểm tra trong giai đoạn mới. Sau đó bài đã nêu ra thực trạng
chất lượng và năng lực của cán bộ kiểm tra hiện nay, mà trong đó đã đánh giá là:
trong giai đoạn Đại hội Đảng khóa IX thì số lượng cán bộ kiểm tra có tăng lên
nhiều so với các khóa trước và trình độ về nhiều mặt của cán bộ kiểm tra được
nâng cao, nhưng nhìn nhận một cách khách quan về mặt năng lực thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra có những mặt còn hạn chế và cần được quan tâm khắc phục, nhất là
năng lực triển khai thực hiện nguyên tắc kiểm tra của Đảng, chưa khéo về giao
tiếp và giáo dục vận động đối tượng kiểm tra và quần chúng nhân dân có liên quan
để cho họ chủ động tự kiểm tra bản thân, kiểm tra tổ chức của họ và tự giác thực
hiện kết luận kiểm tra.
Từ đó, đã đề ra 4 giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng và năng lực cán
bộ kiểm tra như: thứ nhất là, Ban Kiểm tra Trung ương phải nghiên cứu, soạn
thảo cho được những chuyên để cụ thể để mở lớp bồi dưỡng cán bộ kiểm tra cùng
với việc bồi dưỡng lý luận chính trị ngắn hạn nhằm nâng cao năng lực cho họ; thứ
hai là, đối với cán bộ còn trẻ nên đưa đi đào tạo chính quy qua các trường lớp
trong nước và nước ngoài, kể cả lớp cử nhân kiểm tra tại Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Lào; thứ ba là, hằng năm ban kiểm tra các cấp phải tiến hành
đánh giá chất lượng và năng lực cán bộ kiểm tra thuộc trách nhiệm lãnh đạo, quản
24
lý của mình và qua đánh giá để có hướng bồi dưỡng đạo tạo đúng người, đúng
trình độ và thứ tư là, cấp ủy và ban kiểm tra các cấp phải có chính sách rõ ràng và
công khai chính sách đối với cán bộ kiểm tra để tạo động lực và khuyến khích cho
cán bộ kiểm tra tự phấn đấu rèn luyện bản thân, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực và bản lĩnh chính trị. Thực hiện tốt 4 giải pháp ấy sẽ góp phần
cho việc nâng cao chất lượng và năng lực của cán bộ kiểm tra.
Các bài đăng tạp chí nêu trên, đã quan tâm giải thích vấn đề lý luận và thực
tiễn về tầm quan trọng của công tác kiểm tra đối với sự lãnh đạo của Đảng, từ tầm
quan trọng đó đòi hỏi phải nâng cao chất lượng công tác kiểm tra về các mặt cụ
thể, trong đó đã chỉ ra trách nhiệm của cấp ủy đối với công tác kiểm tra và đội ngũ
cán bộ kiểm tra là nhân tố quan trọng tạo thành chất lượng của công tác kiểm tra;
đã đánh giá thực trạng ưu điểm và khuyết điểm của công tác kiểm tra theo chủ đề
bài và đề xuất nhiều giải pháp có tính khả thi để làm tốt và nâng cao chất lượng
công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Những nội dung các bài đó
là kết quả nghiên cứu về các khía cạnh của công tác kiểm tra, nhưng chưa đề cập
đến tiêu chí để đánh giá chất lượng công tác kiểm tra. Nhưng kết quả nghiên cứu
của các bài thì có giá trị cao cho việc tham khảo và gợi ý rất tốt cho việc triển khai
luận án này.
1.2.3. Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
- Phuthăc Phítthạnusỏn, “Công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào trong giai đoạn hiện nay” [45]. Trong luận án, tác giả đã trình bày cơ sở lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
Nhân dân cách mạng Lào về công tác kiểm tra Đảng, trong đó đã giải thích, phân
tích quan niệm về kiểm tra và đưa ra quan niệm về công tác kiểm tra của Đảng
Nhân dân cách mạng Lào, vai trò của công tác kiểm tra đối với sự lãnh đạo của
Đảng; đã phân tích thực trạng ưu, khuyết điểm về một số mặt trong công tác kiểm
tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào từ ngày thành lập cơ quan làm công tác
kiểm tra đến năm 2002, sự phân tích đánh giá chủ yếu là về sự lãnh đạo của cấp
ủy đối với công tác kiểm tra và hoạt động thực hiện nhiệm vụ kiểm tra của ban
kiểm tra các cấp; qua đánh giá thực trạng đã nêu lên bài học kinh nghiệm. Tác giả
25
đã đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường công tác kiểm tra của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Tuy nhiên, luận án này chưa nghiên cứu chuyên
biệt về vấn đề chất lượng công tác kiểm tra. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
xây dựng Đảng và sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay thì luận án mới
sẽ đi sâu nghiên cứu những vấn đề về chất lượng công tác kiểm tra mà luận án này
chưa đề cập đến.
- Khămphăn Milavông, “Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng (cấp
tỉnh) ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay” [24]. Luận án đã phân
tích quan niệm về ủy ban kiểm tra, đội ngũ cán bộ kiểm tra của đảng (cấp tỉnh) ở
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào mà tác giả đã khẳng định về đội ngũ cán
bộ kiểm tra cấp tỉnh là một bộ phận trong đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước
Lào, nhưng họ là cán bộ được bố trí vào trong biên chế cơ quan ủy ban kiểm tra
cấp tỉnh, là người thi hành chức năng kiểm tra của ủy ban kiểm tra cấp tỉnh; đã
trình bày vai trò của đội ngũ cán bộ kiểm tra (cấp tỉnh) đối với việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ kiểm tra của ủy ban kiểm tra cấp tỉnh; đã tập trung đánh giá thực
trạng đội ngũ cán bộ kiểm tra và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra của
Đảng (cấp tỉnh) ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào từ năm 1996 đến năm
2004; đồng thời tác giả đã nêu ra phương hướng và những giải pháp chủ yếu để
xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng (cấp tỉnh) ở nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào. Luận án này đã nghiên cứu về một khâu trong công tác kiểm tra,
đó là về đào tạo đội ngũ cán bộ kiểm tra, chưa nghiên cứu sâu về chất lượng công
tác kiểm tra của đảng.
- Sẻngkhămdoong Phômmạpănnha, “Chất lượng công tác kiểm tra của
Đảng bộ Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn
hiện nay” [46]. Luận án đã trình bày những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn
của chất lượng công tác kiểm tra của Đảng bộ Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào; đã phân tích thực trạng, nguyên nhân và rút ra những kinh
nghiệm. Từ đó, tác giả đã đưa ra phương hướng và 7 giải pháp chủ yếu nâng cao
chất lượng công tác kiểm tra của Đảng bộ Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào như sau: thứ nhất là, nâng cao nhận thức cho cấp ủy, tổ chức
26
đảng và cán bộ đảng viên trong đảng bộ về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác
kiểm tra; thứ hai là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy Bộ Quốc phòng đối
với công tác kiểm tra của các cấp ủy đảng và các tổ chức đảng trực thuộc; thứ ba
là, xây dựng và thực hiện tốt các quy chế, quy định về công tác kiểm tra của các
cấp ủy trong đảng bộ; thứ tư là, kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán
bộ kiểm tra chuyên trách ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới; thứ năm là, đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động kiểm tra của đảng bộ Bộ Quốc phòng; thứ sáu
là, phát huy vai trò của các đoàn thể, của cán bộ, đảng viên và chiến sĩ trong công
tác kiểm tra và thứ bảy là, chủ động giải quyết mối quan hệ, phối hợp các cấp, các
ngành, các tổ chức trong tiến hành công tác kiểm tra của Đảng bộ Bộ Quốc phòng.
Luận án này có sự phát triển nhiều vấn đề về công tác kiểm tra so với hai
luận án trước, đã trình bày khá rõ khái niệm, vị trí, vai trò công tác kiểm tra đảng;
đưa ra quan niệm chất lượng công tác kiểm tra và các khâu hợp thành chất lượng
công tác kiểm tra của Đảng bộ Bộ Quốc phòng khá phong phú, nhưng đưa ra tiêu
chí để đánh giá chất lượng công tác kiểm tra chưa đầy đủ. Trong 7 giải pháp luận án
đề ra, đầu đề của mỗi giải pháp thì rất sát cho việc giải quyết thực trạng công tác
kiểm tra của đảng ở Lào nói chung, nhưng nội dung trình bày của mỗi giải pháp chỉ
trong phạm vi của một bộ, chưa bao trùm hết công tác kiểm tra của toàn Đảng. Qua
nghiên cứu, nội dung của luận án này rất có giá trị cho đề tài về công tác kiểm tra,
nhưng chỉ trong phạm vị công tác kiểm tra của Đảng bộ Bộ Quốc phòng. Vì vậy,
luận án mới sẽ tiếp thu những kết quả nghiên cứu này để mở rộng nghiên cứu về
chất lượng công tác kiểm tra trong toàn Đảng Nhân dân cách mạng Lào.
- Chănsỉ Sẻngxổmphu, “Nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tra của Ủy
ban Kiểm tra tỉnh Phông xa li hiện nay” [3]. Dựa trên cơ sở lý luận Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tác giả đã
trình bày và đưa ra quan niệm chất lượng hoạt động kiểm tra của Ủy ban Kiểm tra
tỉnh Phông xa li; phân tích thực trạng ưu, khuyết điểm về hoạt động kiểm tra của
Ủy ban Kiểm tra tỉnh Phông xa li từ năm 1996 đến năm 2000 và bài học kinh
nghiệm. Trong luận văn, tác giả còn đưa ra phương hướng, giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng hoạt động kiểm tra của Ủy ban Kiểm tra tỉnh Phông xa li.
27
- Phonxạmáy Miênglavăn, “Chất lượng công tác kiểm tra của Đảng bộ tỉnh
Ắt ta pư nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn hiện nay” [44]. Tác giả
đã phân tích vấn đề lý luận về kiểm tra và chất lượng công tác kiểm tra của Đảng
bộ cấp tỉnh; đã phân tích thực trạng chất lượng công tác kiểm tra của Đảng bộ tỉnh
Ắt ta pư trong giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2003, nêu ra nguyên nhân ưu -
khuyết điểm và kinh nghiệm; từ đó tác giả đề xuất phương hướng và giải pháp
nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng bộ tỉnh Ắt ta pư nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào. Luận văn này đã trình bày khái niệm kiểm tra, nhưng
chưa đề cập đến khái niệm công tác kiểm tra; trình bày chất lượng công tác kiểm
tra như là chất lượng của một cuộc kiểm tra. Vì vậy, chất lượng công tác kiểm tra
trong luận văn này cũng chưa bao trùm được hết theo đúng nghĩa chất lượng công
tác kiểm tra của đảng và mặt khác chỉ trong phạm vi của tỉnh và ở trình độ thạc sĩ.
- Xổmlon Bunnạvông, “Kiểm tra cán bộ diện Ban Bí thư Trung ương Đảng
quản lý” [116]. Tác giả đã phân tích vấn đề lý luận và thực tiễn về cán bộ diện
Ban Bí thư Trung ương Đảng quản lý và về kiểm tra đội ngũ cán bộ đó; luận văn
đã làm rõ khái niệm kiểm tra và kiểm tra cán bộ diện Ban Bí thư Trung ương
Đảng quản lý, vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc kiểm tra cán bộ diện Ban Bí
thư Trung ương Đảng quản lý; đánh giá mặt ưu điểm, khuyết điểm của việc kiểm
tra cán bộ diện Ban Bí thư Trung ương Đảng quản lý từ năm 2006 đến năm 2010
và đưa ra phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kiểm tra cán bộ
diện Ban Bí thư Trung ương Đảng quản lý.
- Yênphon Bavôngphết, “Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra trong điều
kiện Đảng cầm quyền” [115]. Trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, quan niệm của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tác giả đã phân tích nêu ra khái niệm kiểm tra,
công tác kiểm tra, chất lượng công tác kiểm tra; đã luận chứng khoa học về vị trí,
vai trò, tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng công tác kiểm tra trong điều
kiện Đảng cầm quyền; nêu ra quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước Lào
về yêu cầu nâng cao chất lượng công tác kiểm tra; đánh giá và phân tích thực
trạng ưu điểm, khuyết điểm công tác kiểm tra của Đảng trong phạm vi cả nước từ
năm 2006 đến năm 2011 và chỉ ra 7 vấn đề đặt ra cần quan tâm giải quyết như: 1.
28
Phải làm cho cấp ủy các cấp và đảng viên trong toàn Đảng có nhận thức đúng đắn
về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra; 2. Các cấp, các ngành phải
thể chế hóa các văn bản, quy chế, quy định của cấp trên thành của cấp mình để
làm căn cứ cho công tác lãnh đạo, quản lý cụ thể trong phạm vi, quyền hạn và đó
là vừa làm căn cứ để tiến hành kiểm tra việc chấp hành và tổ chức thực hiện; 3. Về
bộ máy tổ chức cơ quan ban kiểm tra các cấp phải được củng cố kiện toàn để đáp
ứng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra trong giai đoạn mới; 4. Cần tăng cường số lượng
cán bộ kiểm tra và coi trọng việc nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ đó; 5.
Cần tạo điều kiện thuận lợi về tinh thần và vật chất cho ban kiểm tra và cơ quan
ban kiểm tra có khả năng hoạt động thực hiện nhiệm vụ; 6. Cấp ủy, ban kiểm tra
và cán bộ được giao nhiệm vụ đi kiểm tra cần nắm chắc và sử dụng đúng nguyên
tắc kiểm tra của Đảng; 7. Cần thực hiện tốt mối quan hệ thường xuyên giữa cấp ủy
và ban kiểm tra, giữa ban kiểm tra trên và dưới.
Tác giả đã đề xuất phương hướng và 7 giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công tác kiểm tra trong điều kiện Đảng cầm quyền. Bảy giải pháp luận văn
đề xuất bao gồm: thứ nhất là, tạo ra tư duy mới về công tác kiểm tra của Đảng,
phù hợp với đường lối đổi mới một cách toàn diện và có nguyên tắc; thứ hai là,
xây dựng, hoàn thiện các văn bản làm căn cứ cho hoạt động kiểm tra của Đảng
ngày càng đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với thực tế trong từng giai đoạn; thứ ba là,
củng cố bộ máy tổ chức cơ quan ban kiểm tra các cấp, các ngành có sự vững
mạnh; thứ tư là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm
tra đạt tiêu chuẩn cán bộ kiểm tra theo quy định của Đảng; thứ năm là, cấp ủy và
chính quyền các cấp tạo điều kiện thuận lợi, ứng ngân sách, bố trí công cụ và
phương tiện cho cơ quan ban kiểm tra một cách thích hợp; thứ sáu là, nắm vững
và sử dụng đúng các nguyên tắc, hình thức, phương pháp kiểm tra Đảng và phối
kết hợp giữa kiểm tra Đảng với thanh tra và kiểm tra của các tổ chức trong hệ
thống chính trị và thứ bảy là, tăng cường mối quan hệ giữa ban kiểm tra với cấp
ủy cùng cấp và giữa ban kiểm tra cấp trên với ban kiểm tra cấp dưới.
Luận văn đã phân tích tương đối rõ khái niệm kiểm tra, chất lượng công tác
kiểm tra trong điều kiện Đảng cầm quyền, các yếu tố hợp thành chất lượng công
29
tác kiểm tra. Phương hướng và giải pháp luận văn đề ra đã trình bày rất phong
phú, đúng với thực tiễn để giải quyết vấn đề đặt ra. Nhưng nội dung của phương
hướng, giải pháp có một số mặt chưa sâu. Mặt khác, với mức độ nghiên cứu cấp
thạc sĩ, việc phân tích vấn đề liên quan cũng chưa sâu. Vì vậy, luận án này sẽ tiếp
tục khai thác và triển khai các vấn đề ấy sâu hơn.
- Sỉphăn Hươngkhămmạni, “Tăng cường vai trò của công tác kiểm tra ở Bộ
An ninh” [107]. Luận văn đã phân tích và nêu vai trò của công tác kiểm tra đối với
sự lãnh đạo của Đảng bộ Bộ an ninh và việc xây dựng lực lượng công an vững
mạnh, có phong cách hiện đại; nêu ra quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà
nước Lào về tăng cường công tác kiểm tra - thanh tra; đánh giá và phân tích thực
trạng hoạt động kiểm tra trong phạm vi lãnh đạo của Đảng ủy Bộ từ năm 2006 đến
năm 2012; đề xuất phương hướng và giải pháp tăng cường vai trò của công tác
kiểm tra ở Bộ an ninh. Luận văn này đã nghiên cứu, giải quyết về vai trò của công
tác kiểm tra đối với sự lãnh đạo của cấp ủy các cấp trực thuộc đảng bộ Bộ An
ninh, vai trò của công tác kiểm tra đối với việc xây dựng lực lượng công an đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị giai đoạn mới. Do vậy, những nội dung của luận
văn này mới nghiên cứu giải quyết một số khía cạnh của công tác kiểm tra và chỉ
trong phạm vi của một bộ.
- Pâukẹo Phumsạvăn, “Tăng cường công tác kiểm tra để phòng chống các
hiện tượng tiêu cực và tham nhũng ở tỉnh Bò kẹo” [103]. Tác giả đã phân tích, giải
quyết vấn đề lý luận về công tác kiểm tra và vai trò của công tác kiểm tra trong
phòng chống hiện tượng tiêu cực và tham nhũng trong tổ chức và đội ngũ cán bộ
đảng viên; nêu ra quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước Lào về tăng
cường công tác kiểm tra để phòng chống các hiện tượng tiêu cực và tham nhũng;
đánh giá và phân tích thực trạng ưu - khuyết điểm công tác kiểm tra ở tỉnh Bò kẹo
từ năm 2006 đến năm 2012. Từ đó, tác giả đề xuất phương hướng và giải pháp
tăng cường công tác kiểm tra để phòng chống các hiện tượng tiêu cực và tham
nhũng ở tỉnh Bò kẹo.
- Sỉnay Miênglavăn, “Tăng cường công tác kiểm tra của cấp ủy các bộ
trong giai đoạn mới” [106]. Tác giả đã phân tích, giải quyết vấn đề lý luận về
30
công tác kiểm tra; trình bày vị trí, vai trò, sự quan trọng của việc tăng cường
công tác kiểm tra của đảng ủy các bộ trong giải đoạn mới; đã nêu ra nội dung
tăng cường công tác kiểm tra của đảng ủy các bộ; nêu ra quan điểm của Đảng và
chính sách của Nhà nước Lào về tăng cường công tác kiểm tra trong điều kiện
mới; nêu lên đặc điểm tổ chức đảng và đặc điểm bộ máy tổ chức làm công tác
kiểm tra của các bộ và cơ quan ngang bộ; đánh giá và phân tích thực trạng ưu -
khuyết điểm công tác kiểm tra của đảng ủy các bộ trong khoảng thời gian từ năm
2006 đến năm 2013. Từ đó, tác giả đề xuất phương hướng và 7 giải pháp tăng
cường công tác kiểm tra của đảng ủy các bộ như: thứ nhất là, tổ chức phổ biến,
tuyên truyền các văn bản, quy định, quy chế của Đảng và Nhà nước về công tác
kiểm tra - thanh tra cho sâu, rộng đến tới tất cả các tổ chức đảng và cán bộ, đảng
viên trong phạm vi quyền hạn lãnh đạo, quản lý; thứ hai là, tích cực rà soát lại
các văn bản, quy chế, quy định đã có của Đảng và Nhà nước và các ngành liên
quan để sửa đổi những điểm không phù hợp, bổ sung những điểm thiếu sót chưa
đẩy đủ và ra thêm cái mới cho phù hợp với tình hình cụ thể của giai đoạn mới để
làm căn cứ cho việc kiểm tra; thứ ba là, quan tâm nhiều hơn nữa việc nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ cán
bộ làm công tác kiểm tra ở đảng ủy các bộ; thứ tư là, đảng ủy các bộ tăng cường
trách nhiệm nhiều hơn nữa trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra trong phạm
vi của bộ; thứ năm là, cấp ủy, ban kiểm tra, lãnh đạo vụ kiểm tra và cán bộ kiểm
tra của các bộ nghiên cứu, nắm vững thực hiện đúng nguyên tắc kiểm tra trong
thi hành nhiệm vụ kiểm tra; thứ sáu là, phát động và sử dụng sức mạnh tổng hợp
của tất cả các tổ chức trong cơ quan của bộ và bộ phận liên quan tham gia vào
công tác kiểm tra trong bộ và thứ bảy là, tăng cường và thực hiện tốt mối quan
hệ theo chiều dọc và chiều ngang giữa Đảng ủy bộ và ban kiểm tra, vụ kiểm tra
của bộ, giữa Đảng ủy bộ, ban kiểm tra bộ, vụ kiểm tra bộ với Ban Kiểm tra
Trung ương.
Luận văn này, chủ yếu đã phân tích tương đối sâu về tăng cường công tác
kiểm tra cấp bộ, trong đó có đề cập đến một số nội dung về chất lượng công tác
kiểm tra, nhưng chỉ trong phạm vi của cấp bộ.
31
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã giải quyết cơ sở lý luận và thực
tiễn về các vấn đề có liên quan đến công tác kiểm tra và chất lượng công tác kiểm
tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong lĩnh vực ngành, cấp, địa phương
khác nhau và ở mức độ rộng, hẹp, chiều sau khác nhau, và đây là cơ sở gợi mở
cho tác giả trong quá trình nghiên cứu, triển khai đề tài luận án này một cách có hệ
thống, rộng và sâu hơn.
1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH
KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN
CẦN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố có liên quan đến đề tài luận án
Các công trình khoa học ở Việt Nam, Trung Quốc và Lào đã nghiên cứu
và luận giải khá rõ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác kiểm tra, trong
đó đã nêu, trình bày khái niệm kiểm tra; vị trí, vai trò, mục đích, ý nghĩa, tác
dụng của công tác kiểm tra đối với sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng
Đảng, phân tích các nhân tố góp thành công tác kiểm tra và chất lượng công tác
kiểm tra với nhiều mức độ khác nhau theo sự xác định mục đích và phạm vi của
từng đề tài; đánh giá thực trạng ưu - khuyết điểm, những vấn đề đặt ra và đưa ra
những giải pháp củng cố, tăng cường công tác kiểm tra, nâng cao chất lượng
công tác kiểm tra.
Kết quả các công trình nghiên cứu khoa học trên rất phong phú, đã giải
quyết nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn có liên quan đến công tác kiểm tra và
chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Trung
Quốc và Đảng Nhân dân cách mạng Lào ở nhiều lĩnh vực, phạm vi và mức độ
khác nhau. Kết quả các công trình khoa học ấy rất có ích cho luận án mới này tiếp
thu và phát triển ở trình độ sâu hơn. Những nội dung của các công trình đã gợi ý
cho tác giả luận án mới phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ thêm trong hoàn cảnh
công tác xây dựng Đảng và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào giai đoạn hiện nay.
32
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học nào chuyên sâu nghiên
cứu hệ thống về chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào
trong giai đoạn hiện nay.
1.3.2. Những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết
Qua khảo cứu các công trình đã trình bày ở phần trên, luận án này sẽ tập
trung nghiên cứu, giải quyết một số vấn đề chủ yếu sau:
Một là, khái quát về Đảng Nhân dân cách mạng Lào; quá trình thành lập,
đặc điểm bộ máy tổ chức và sự phát triển cơ quan ban kiểm tra của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào.
Hai là, làm rõ khái niệm công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào; khái niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào.
Ba là, đánh giá thực trạng chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào trong giai đoạn từ năm 2006 đến hết năm 2016 về những ưu điểm,
kết quả đạt được; nhược điểm, yếu kém theo tiêu chí đánh giá chất lượng công tác
kiểm tra đã phân tích ở phần trước; phân tích các nguyên nhân của ưu điểm,
nguyên nhân của khuyết điểm và xác định những vấn đề đặt ra đối với chất lượng
công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay.
Bốn là, dự báo tình hình có liên quan đến chất lượng công tác kiểm tra
trong thời gian tới, qua đó xác định phương hướng nâng cao chất lượng công tác
kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào.
Năm là, đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác
kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay.
33
Chương 2
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG NHÂN DÂN
CÁCH MẠNG LÀO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY -
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. ĐẢNG NHÂN DÂN CÁCH MẠNG LÀO VÀ KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
2.1.1. Khái quát về Đảng Nhân dân cách mạng Lào và quá trình thành
lập và phát triển cơ quan kiểm tra của Đảng
2.1.1.1. Khái quát về Đảng Nhân dân cách mạng Lào
Đảng Nhân dân cách mạng Lào được thành lập ngày 22 tháng 3 năm 1955
do sự kết hợp nhuần nhuyễn phong trào yêu nước của nhân dân các bộ tộc Lào với
chủ nghĩa Mác-Lênin do chủ tịch Hồ Chí Minh là người truyền bá vào Đông
Dương. Đảng Nhân dân cách mạng Lào là người kế thừa sự nghiệp vẻ vang của
Đảng Cộng sản Đông Dương, trong bản báo cáo thành lập Đảng đã chỉ rõ:
Đảng Nhân dân cách mạng Lào là Đảng được hình thành trong nước
nông nghiệp lạc hậu, số đông nhân dân là nông dân, nhưng là Đảng đi
theo chủ nghĩa Mác-Lênin, là Đảng kế thừa sự nghiệp của Đảng Cộng
sản Đông Dương, là đại diện thực sự của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động; kiên quyết bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân các bộ
tộc, của tầng lớp người trong toàn quốc [90, tr.96].
Về thực chất của Đảng, từ ngày thành lập đến nay, Đảng Nhân dân cách
mạng Lào là đảng mác-xít-lê-nin-nít của giai cấp công nhân Lào, là đội tiên phong
và là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân Lào, là đại diện trung thành
với quyền và lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động Lào yêu nước
và của toàn dân tộc Lào. Bằng bản chất cách mạng và khoa học, từ ngày hình
thành đến nay Đảng Nhân dân cách mạng Lào lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và truyền
thống tốt đẹp của Đảng làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho tổ chức và hành
động, phát huy chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng của giai cấp công nhân, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại để đề ra
chủ trương, đường lối và nâng cao năng lực, chất lượng lãnh đạo của Đảng. Đảng
đã thực hiện chức năng, vai trò lãnh đạo của mình xứng đáng với niềm tin của
34
nhân dân các bộ tộc, luôn nâng cao tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên quyết đấu
tranh bất khuất với kẻ thù, trung thành với lợi ích của giai cấp và Tổ quốc, biết
nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm của các
đảng anh em để giải quyết những vấn đề cách mạng phù hợp với tình hình thực tế
mọi mặt của đất nước và tình hình của quốc tế, đưa cách mạng từng bước tiến lên
một cách vững chắc.
Từ ngày thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (ngày 2 tháng 12
năm 1975) đến nay, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã trở thành Đảng duy nhất
cầm quyền. Đảng là hạt nhân lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị của chế
độ dân chủ nhân dân, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân; Đảng là người lãnh
đạo và đưa ra đường lối, chính sách, phương hướng phát triển của đất nước phù
hợp với quy luật phát triển của xã hội và xu thế của thời đại, đáp ứng nguyện vọng
của nhân dân các bộ tộc Lào, đảm bảo sự đoàn kết thống nhất của toàn dân tộc;
Đảng là người lãnh đạo phát huy vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, sự chủ
động của các tổ chức đoàn thể và các tổ chức xã hội; Đảng tôn trọng và hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Sau khi đã trở thành Đảng cầm quyền
đến nay, Đảng đã trải qua 8 kỳ đại hội (nhiệm kỳ 5 năm): Đại hội III (1982), Đại
hội IV (1986), Đại hội V (1991), Đại hội VI (1996), Đại hội VII (2001), Đại hội
VIII (2006), Đại hội IX (2011) và Đại hội X (2016). Trong công tác xây dựng và
củng cố Đảng, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào thực hiện theo 5 nguyên tắc và 3
phương châm như sau:
5 nguyên tắc bao gồm:
(1) kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng lý luận của
Đảng, phát huy tính tiên phong, tính chiến đấu của giai cấp công nhân,
xây dựng và củng cố Đảng cho trong sạch vững mạnh. (2) Tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, có kỷ
luật nghiêm. (3) Lấy khối đoàn kết là nguyên tắc cơ bản để đảm bảo sự
thống nhất về chính trị, tư tường tổ chức và hành động của Đảng. (4)
Lấy dân làm gốc, trung thành phục vụ nhân dân, hoạt động theo đường
lối quần chúng của Đảng, dựa vào quần chúng và thông qua phong trào
35
cách mạng của quần chúng để xây dựng và phát triển Đảng. (5) Lấy tự
phê bình, phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng [94, tr.4-5].
3 phương châm bao gồm:
(1) Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ
chức và lề lối lãnh đạo. (2) Lấy chất lượng làm gốc trong xây dựng và
củng cố Đảng, kết nạp những người xuất sắc có đủ tiêu chuẩn và đủ
điều kiện vào Đảng, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng đối với những người
thoái hóa biến chất, Đảng không ngừng tự kiện toàn và phát triển để
tương xứng với yêu cầu lãnh sự đạo của Đảng trong từng giai đoạn. (3)
Kết hợp chặt chẽ giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với nâng cao
hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò làm chủ của Mặt trận
xây dựng Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể quần chúng và xã hội [94, tr.6].
Thực hiện theo nguyên tắc và phương châm xây dựng Đảng nêu trên, từ
ngày thành lập đến nay, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào không ngừng lớn mạnh
về mặt tổ chức, thể hiện bằng con số phát triển tổ chức đảng và đảng viên. Trong
báo cáo trước Đại hội thành lập Đảng ngày 22 tháng 3 năm 1955, toàn quốc có
400 đảng viên [90, tr.96]; đến Đại hội VIII của Đảng (năm 2006), toàn quốc có
11.784 chi bộ đảng, và 153.572 đảng viên [70, tr.29, 31]; và đến Đại hội X (2016),
toàn quốc đã có 19.284 tổ chức cơ sở đảng, 268.431 đảng viên [71, tr.76].
Cùng với số lượng, thì về chất lượng của tổ chức đảng và đảng viên cũng
được nâng lên không ngừng tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ lãnh đạo phát
triển đất nước của mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Đến nay, mọi cấp, mọi ngành
trong hệ thống tổ chức chính quyền Nhà nước đều có đảng viên và tổ chức đảng
lãnh đạo.
Sự lớn mạnh của Đảng đã nêu trên, đáp ứng được vai trò lãnh đạo toàn hệ
thống chính trị và toàn dân Lào bảo vệ và xây dựng đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, nhất là trong
giai đoạn 30 năm bảo vệ và xây dựng phát triển đất nước theo đường lối đổi mới
(1985-2015), đã tạo ra được sự tin cậy đối với nhân dân các bộ tộc Lào và bạn bè
quốc tế. Uy tín của Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào đối với khu vực và quốc tế
36
ngày càng nổi bật lên. Sự phát triển kinh tế - xã hội của Lào đã đạt được thành tựu
quan trọng và có bước phát triển liên tiếp, vững chắc. Con số sự tăng trưởng kinh
tế: Sự tăng trường của tổng sản phẩm quốc nội trong từng giai đoạn: 1986-1990 là
4.8%/năm, 1991-1995 là 6,4%/năm, 1996-2005 là 6,2%/năm, 2006-2010 là
7,9%/năm, và năm khóa 2012-2013 là 8,0%/năm. Về thu nhập bình quân đầu
người đã không ngừng tăng lên: năm 1985 là 114 đôla Mỹ, năm 1995 là 380 đôla
Mỹ, năm 2006 là 534 đôla Mỹ, năm 2012 là 1.355 đôla Mỹ, năm 2013 là 1.534
đôla Mỹ [71, tr.6], và năm 2014-2015 là 1.970 đôla Mỹ [99, tr.12].
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã kiên định
thực hiện tốt 5 nguyên tắc xây dựng Đảng như: trung thành và kiên định tư tưởng
- lý luận Mác - Lênin và mục tiêu xã hội chủ nghĩa, không giáo điều, nhưng rất
chủ động sáng tạo trong vận dụng lý luận và những kinh nghiệm vào điều kiện cụ
thể và tình hình, đặc điểm của đất nước; đã kiên định thực hiện các nguyên tắc cơ
bản về tổ chức và hoạt động của Đảng, đó là nguyên tắc tập trung dân chủ, phát
huy sự đoàn kết thống nhất trên cơ sở chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
tập thể lãnh đạo, có sự phân công cho cá nhân phụ trách, coi trọng việc phát huy
dân chủ đi đôi thực hiện nghiêm điều lệ và chế độ sinh hoạt chính trị, tự phê bình
và phê bình, chống chủ nghĩa quan liêu gia trưởng và dân chủ vô nguyên tắc; đã
kiên định bản chất giai cấp công nhân và trung thành với lợi ích chung của đất
nước, của nhân dân, coi sự ủng hộ của nhân dân là cái quyết định vai trò lãnh đạo
và cầm quyền của Đảng; không ngừng nâng cao tính tiên phong của Đảng và sự
nêu gương của đảng viên, kiên quyết khắc phục và xử lý nghiêm các hiện tượng
tiêu cực, chủ động tự củng cố, tư đổi mới bản thân Đảng, quan tâm và coi trọng
đào tạo bồi dưỡng đội ngũ đảng viên; kiên định tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự
cường, phát huy sức mạnh trong nước kết hợp với sự hợp tác giúp đỡ của các
nước bạn và quốc tế. Trong thực hiện nguyên tắc xây dựng Đảng, Đảng coi công
tác kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo, là một công tác quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng. Ngay từ khi có tổ chức Đảng, thì có hoạt động
kiểm tra, và theo sự trường thành lớn mạnh của Đảng, thì tổ chức ban kiểm tra và
bộ máy tổ chức cơ quan của ban kiểm tra đã được thành lập và có sự trường thành,
phát triển tương ứng.
37
2.1.1.2. Quá trình thành lập và phát triển cơ quan kiểm tra của Đảng
Ngay từ khi được thành lập, Đảng Nhân dân Lào (Đảng Nhân dân cách
mạng Lào hiện nay) đã coi công tác kiểm tra gắn chặt với hoạt động lãnh đạo của
Đảng. Nhưng do điều kiện lúc ấy còn nhiều khó khăn thì chưa thành lập Ban
Kiểm tra được. Đến Đại hội II đã có quy định về ban kiểm tra là:
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
Tổng bí thư và Ban Kiểm tra Trung ương. Ban Chấp hành Trung ương,
tỉnh và cấp tương đương lựa chọn một số cấp ủy viên để tổ chức thành
ban kiểm tra của cấp mình, có thể chọn lấy cán bộ không phải là ủy
viên ban chấp hành cũng được tham gia trong ban kiểm tra. ở cấp
huyện phải phân công cho một đồng chí cấp ủy viên phụ trách công tác
kiểm tra [86].
Sau khi giải phóng, Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, thì đồi hỏi phải
tăng cường công tác kiểm tra với trình độ mới và ban kiểm tra các cấp phải có cơ
quan chuyên trách giúp việc. Vì vậy, trong nghị quyết hội nghị lần thứ 8 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa II có quy định: “Phải thành lập ngay ban kiểm
tra để giúp Trung ương Đảng, chính phủ và Hội đồng nhân dân tối cao kiểm tra về
thực hiện pháp luật, các quy định của Nhà nước” [59, tr.354]. Căn cứ vào quan
điểm đó, trước Đại hội III (Đại hội III được tổ chức ngày 27 tháng 4 năm 1982),
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thường vụ Hội đồng nhân dân tối cao và Hội
đồng bộ trưởng đã ra Nghị định chung số 2, ngày 16 tháng 2 năm 1982 về tăng
cường kiểm tra và thanh tra việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
chính phủ, trong đó có quy định: “Thành lập cơ quan của ủy ban kiểm tra và thanh
tra các cấp. Tất cả các tổ chức đó hình thành một hệ thống cơ quan kiểm tra và
thanh tra của Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào” [113, tr.100]. Căn cứ vào Nghị
định đã nêu trên, thì cơ quan Ủy ban Kiểm tra - thanh tra trung ương đã được
thành lập, và sau đó ủy ban kiểm tra - thanh tra các cấp lần lượt được thành lập.
Tại Đại hội III Đảng đã có quan điểm chỉ đạo: “Phải xây dựng và củng cố, kiện
toàn cơ quan kiểm tra - thanh tra của cấp ủy và chính quyền các cấp” [87, tr.84].
Trong nhiều nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III đã có quan
điểm chỉ đạo về xây dựng và củng cố bộ máy ủy ban kiểm tra như: Nghị quyết 3
38
có xác định: “Phải xây dựng, kiện toàn hệ thống kiểm tra - thanh tra, ra quy định
về chức năng, mối quan hệ và quy chế lề lối làm việc của ngành nay”; Nghị quyết
5 có xác định: “Tiếp tục kiện toàn cơ quan kiểm tra của đảng các cấp và các ngành
cả về mặt tổ chức, phương thức và lề lối làm việc, có kế hoạch bồi dưỡng và nâng
cao trình độ chuyên môn, đạo đức cho đội ngũ cán bộ kiểm tra”…
Dựa vào quan điểm chỉ đạo trên, từ ngày thành lập đến nay, bộ máy tổ chức
của ủy ban kiểm tra các cấp đã được củng cố, kiện toàn cho phù hợp với tình hình
phát triển của bộ máy tổ chức Đảng, Nhà nước, kinh tế - xã hội và theo nhiệm kỳ
của các kỳ Đại hội Đảng. Do đặc điểm riêng của thể chế lãnh đạo và quản lý của
Lào là nhất thể hóa bí thư cấp ủy và người đứng đầu cơ quan đảng, chính quyền,
Mặt trận, các tổ chức đoàn thể các cấp, các ngành, thì từ ngày thành lập đến nay
bộ máy tổ chức ban kiểm tra - thanh tra của Lào xét trong toàn hệ thống là một cơ
quan hợp nhất, chỉ riêng bộ máy tổ chức ở cấp trung ương có 2 giai đoạn thì tách
cơ quan kiểm tra và thanh tra thành 2 cơ quan, đó là giai đoạn 1992 - 1996 và
2002-2006.
Theo phạm vi nghiên cứu của luận án là thời gian từ năm 2006 đến nay, thì
bộ máy tổ chức của Ban Kiểm tra các cấp, các ngành đã được củng cố theo quy
định trong điều lệ Đảng khóa VIII, IX và khóa X. Về tên gọi từ khóa III, năm
1982 đến hết khóa VIII tháng 3 năm 2011 là ủy ban kiểm tra, đến khóa IX, năm
2011 đến nay là ban kiểm tra.
- Giai đoạn 2006 - 2011, nhiệm kỳ Đại hội VIII của Đảng. cấp ủy các cấp,
các ngành đã củng cố bộ máy tổ chức kiểm tra về các mặt như:
+ Về nhân sự, ủy ban kiểm tra các cấp bao gồm chủ nhiệm, phó chủ nhiệm
và một số ủy viên là ủy viên cấp ủy và còn một số không phải là ủy viên cấp ủy;
chủ nhiệm và phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra các cấp là do hội nghị lần thứ nhất
ban chấp hành đảng ủy cùng cấp bầu; ủy viên ủy Ban Kiểm tra cấp trung ương do
Bộ Chính trị bổ nhiệm; ủy viên ủy ban kiểm tra cấp nào là do thường vụ cấp ủy
cấp đó bổ nhiệm; ở tổ chức cơ sở Đảng đã bổ nhiệm người làm kiểm tra hoặc lập
đội kiểm tra. Điểm mới được củng cố thêm ở đây là chủ nhiệm và phó chủ nhiệm
ủy ban kiểm tra các cấp là do hội nghị ban chấp hành đảng ủy bầu ra, mà các khóa
trước, hội nghị ban chấp hành đảng ủy chỉ bầu chủ nhiệm, còn phó chủ nhiệm và
39
ủy viên ủy ban kiểm là do thường vụ đảng ủy bổ nhiệm. So với các khóa trước, số
lượng ủy ban kiểm tra các cấp đã được bổ sung như:
1) Ủy ban Kiểm tra Trung ương có một chủ nhiệm, 3 phó chủ nhiệm và 4
ủy viên (không có ủy viên kiêm nhiệm). Các khóa trước có 1 chủ nhiệm, 2 phó
chủ nhiệm, có một số ủy viên và trong đó, ủy viên kiêm nhiệm là phần lớn. Chủ
nhiệm Ủy ban Kiểm tra khóa VIII là ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương
Đảng, phó Thủ tướng Chính phủ.
2) Ở cấp ủy các cấp cũng có tăng cường số lượng ủy ban kiểm tra tương tự
ở cấp trung ương, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra của cấp ủy là phó bí thư chiếm 15%,
thường vụ là 80 % và cấp ủy viên là 5%. Số lượng ủy ban kiểm tra của các bộ là
từ 5 - 9 đồng chí (trước đây chỉ 3 - 5), cấp thủ đô và tỉnh là từ 7 - 9 đồng chí (trước
đây chỉ 5 - 7), cấp huyện là 3 - 5 đồng chí (trước đây chỉ 3).
+ Về chế độ làm việc, ủy ban kiểm tra làm việc theo nguyên tắc tập thể
lãnh đạo, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ban chấp hành đảng ủy cùng cấp và ủy ban
kiểm tra cấp trên trực tiếp.
+ Về chức năng, ủy ban kiểm tra các cấp có trách nhiệm làm tham mưu cho
cấp ủy về công tác kiểm tra; lập kế hoạch, phương thức, biện pháp hoạt động kiểm
tra của cấp ủy vả của cơ quan kiểm tra; chỉ đạo hoạt động kiểm tra, củng cố bộ
máy tổ chức, đạo tạo bồi dưỡng cán bộ kiểm tra thuộc phạm vi của cấp mình.
+ Về nhiệm vụ và quyền hạn của ủy ban kiểm tra các cấp: kiểm tra đảng
viên (kể cả cấp ủy viên cùng cấp) khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên,
tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong thực hiện nhiệm vụ của đảng viên; kiểm tra tổ
chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm chủ trương, đường lối, chính sách,
nghị quyết, chỉ thị, điều lệ, nguyên tắc tổ chức của Đảng, về thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra và xử lý kỷ luật trong đảng; đánh giá, kết luận các vụ việc vi phạm kỷ
luật của đảng, đề xuất cấp ủy xử lý kỷ luật và giáo dục đảng viên thực hiện
nghiêm điều lệ Đảng; kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và tài chính của cấp
ủy cùng cấp; giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu
nại về thi hành kỷ luật của đảng; có quyền yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới và đảng
viên cung cấp tài liệu, số liệu liên quan đến nội dung kiểm tra; ủy ban kiểm tra cấp
trên có quyền kiểm tra về quyết định thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng
40
viên cấp dưới đã vi phạm Điều lệ Đảng và có quyền xóa bỏ quyết định kỷ luật của
cấp dưới nếu thấy không đúng Điều lệ Đảng; ủy ban kiểm tra cấp trên có quyền
kiểm tra, củng cố hoạt động của ủy ban kiểm tra cấp dưới.
Điểm đã được củng cố, xác định mới trong nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra
các cấp so với các nhiệm kỳ trước là kiểm tra đảng viên (kể cả cấp ủy viên cùng
cấp) khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và
trong thực hiện nhiệm vụ của đảng viên; kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có
dấu hiệu vi phạm chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị, điều lệ,
nguyên tắc tổ chức của đảng, về thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và xử lý kỷ luật
trong đảng.
+ Về cơ cấu bộ máy của cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp
1) Bộ máy tổ chức của cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương được củng cố
theo nghị quyết của Bộ Chính trị số 97/ BCT, ngày 28 tháng 7 năm 2006 về việc
củng cố bộ máy tổ chức của cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nhập lại cơ
quan Thanh tra chính phủ vào Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Bộ máy bao gồm 7
vụ và 1 văn phòng như: văn phòng ủy ban, vụ nghiên cứu tổng hợp, vụ nghiên cứu
đơn thư khiếu tố, vụ kiểm tra đảng ở cơ quan trung ương, vụ kiểm tra đảng ở địa
phương, vụ thanh tra hành chính, vụ thanh tra kinh tế và vụ thanh tra chống tham
nhũng. So với khóa trước đã tăng thêm 3 vụ. Biến chế cán bộ của cơ quan Ủy ban
Kiểm tra Trung ương là 129 người.
2) Ở các bộ, trong nhiệm kỳ Đại hội VIII hậu hết cấp ủy của các bộ đã
thành lập cơ quan của ủy ban kiểm tra cấp mình thành vụ kiểm tra - thanh tra. Cơ
cấu tổ chức của vụ kiểm tra - thanh tra bao gồm: văn phòng hành chính - tổng
hợp, phòng kiểm tra đảng, phòng thanh tra hành chính, phòng thanh tra chống
tham nhũng và nghiên cứu đơn thư. Biến chế cán bộ của vụ kiểm tra các bộ là từ
12 người trở lên.
3) Cấp tỉnh, cơ cấu bộ máy của cơ quan ủy ban kiểm tra - thanh tra tỉnh và
thủ đô bao gồm: văn phòng ủy ban, phòng kiểm tra đảng, phòng thanh tra và
chống tham những, phòng nghiên cứu đơn thư. Biến chế cán bộ của ủy ban kiểm
tra - thanh tra tỉnh là từ 15 người trở lên.
41
4) Cấp huyện, cơ cấu bộ máy của cơ quan ủy ban kiểm tra - thanh tra huyện
bao gồm: văn phòng ủy ban, đơn vị kiểm tra đảng, đơn vị thanh tra hành chính và
chống tham những. Biến chế cán bộ của ủy ban kiểm tra - thanh tra huyện là từ 5
người trở lên.
- Giai đoạn 2011 đến nay, nhiệm kỳ Đại hội IX của Đảng, bộ máy tổ chức
của kiểm tra các cấp, các ngành được củng cố theo Điều lệ Đảng khóa IX. Trước
hết đã thay đổi tên gọi từ ủy ban kiểm tra thành ban kiểm tra. Đó là vì cơ cấu nhân
sự không có ủy viên, nhưng tăng số lượng phó chủ nhiệm ban kiểm tra các cấp
nhiều hơn các khóa trước.
+ Về hệ thống tổ chức ban kiểm tra đảng bao gồm: Ban Kiểm tra Trung
ương, ban kiểm tra bộ - cơ quan ngang bộ, ban kiểm tra tỉnh - thành phố, ban kiểm
tra huyện - thị xã và cơ sở đảng.
+ Về nhân sự ban kiểm tra các cấp bao gồm: chủ nhiệm và một số phó chủ
nhiệm là do hội nghị lần thứ nhất của ban chấp hành đảng ủy cấp đó bầu ra; chủ
nhiệm và phó chủ nhiệm ban kiểm tra là ủy viên cấp ủy và một số không phải là
ủy viên cấp ủy, nhưng được sự chuẩn y của cấp ủy cấp trên trực tiếp. Ở tổ chức cơ
sở đảng đều bầu ban kiểm tra hoặc người phụ trách công tác kiểm tra.
Ban Kiểm tra Trung ương khóa IX (2011-2016) có một chủ nhiệm và 6 phó
chủ nhiệm (không có ủy viên), chủ nhiệm là ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung
ương Đảng. Ban Kiểm tra Trung ương khóa X (Từ tháng 2 năm 2016 - 2020)
được tăng cường thêm số nhân sự là 9 người (1 chủ nhiệm và 8 phó chủ nhiệm,
chủ nhiệm là ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, phó Thủ tướng
Chính phủ).
+ Về chế độ làm việc: ban kiểm tra các cấp thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ, tập thể lãnh đạo, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ban chấp hành đảng ủy
cùng cấp và ban kiểm tra cấp trên trực tiếp.
+ Về chức năng, ban kiểm tra các cấp làm tham mưu cho cấp ủy về công
tác kiểm tra; soạn thảo các văn bản về công tác kiểm tra, lập kế hoạch, phương
thức, biện pháp hoạt động kiểm tra của cấp ủy vả của cơ quan kiểm tra; hướng
dẫn, chỉ đạo và kiểm tra cấp ủy và cơ quan kiểm tra cấp dưới hoạt động thực hiện
42
nhiệm vụ kiểm tra; củng cố bộ máy tổ chức, đạo tạo bồi dưỡng cán bộ kiểm tra
thuộc phạm vi của cấp mình.
+ Về nhiệm vụ và quyền hạn của ban kiểm tra các cấp, nhiệm kỳ Đại hội
IX của Đảng được bổ sung thêm nhiệm vụ giám sát như: giám sát cấp ủy viên
cùng cấp, đảng viên và tổ chức đảng thuộc quyền quản lý của cấp ủy cấp mình
trong hoạt động thực hiện nhiệm vụ, tổ chức thực hiện chủ trương đường lối, điều
lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng; giám sát và kiểm tra về phẩm chất chính trị, đạo
đức cách mạng của đảng viên; giám sát lối sống và nắm tình hình tài sản của đảng
viên là cán bộ lãnh đạo thuộc quyền quản lý của cấp ủy cấp mình và quyền quản
lý của cấp trên nhưng hoạt động trong phạm vi trách nhiệm của cấp ủy cấp mình.
Đây là điểm mới đã được xác định thêm trong nhiệm vụ của ban kiểm tra các cấp.
Đến Đại hội X của Đảng đã bổ sung thêm cho ban kiểm tra từ cấp huyện và tương
đương trở lên có quyền quyết định thi hành kỷ luật mức cảnh cáo đối với đảng
viên thuộc cấp ủy cấp mình và cấp ủy cấp dưới quản lý khi đã kiểm tra phát hiện
có sự vi phạm.
+ Về cơ cấu bộ máy của cơ quan ban kiểm tra các cấp đã được tăng cường
thêm các đơn vị chuyên môn nghiệp vụ như sau:
1) Bộ máy tổ chức của cơ quan Ban Kiểm tra Trung ương, năm 2011 đã
được tăng thêm 2 vụ, và đến cuối năm 2014 đã thành lập thêm 2 vụ. Hiện nay Ban
Kiểm tra Trung ương có 11 vụ và 1 văn phòng Ban như: văn phòng Ban, vụ tổ
chức đảng và cán bộ, vụ nghiên cứu và tạp chí kiểm tra, vụ quan hệ đối ngoại, vụ
nghiên cứu đơn thư, vụ kiểm tra đảng ở các cơ quan trung ương, vụ kiểm tra đảng
ở địa phương, vụ giám sát kiểm tra thực hiện kết luận kiểm tra, vụ thanh tra các cơ
quan trung ương, vụ thanh tra các cơ quan ở địa phương, vụ thanh tra chống tham
nhũng và vụ điều tra - thẩm tra tham nhũng.
2) Ở các bộ và cơ quan ngang bộ, cơ cấu của vụ kiểm tra đã được củng cố
bao gồm: văn phòng, phòng kiểm tra đảng, phòng thanh tra hành chính và chống
tham nhũng, phòng nghiên cứu đơn thư. Biến chế cán bộ của vụ kiểm tra các bộ là
từ 12 người trở lên.
3) Cấp tỉnh, cơ cấu bộ máy của cơ quan ban kiểm tra - thanh tra tỉnh và thủ
đô bao gồm: văn phòng ban, phòng kiểm tra đảng, phòng thanh tra hành chính,
43
phòng thanh tra chống tham những, phòng nghiên cứu đơn thư. Biến chế cán bộ
của ban Kiểm tra - thanh tra tỉnh và thủ đô là từ 20 người trở lên.
4) Cấp huyện, cơ cấu bộ máy của cơ quan ban kiểm tra - thanh tra huyện
bao gồm: văn phòng ban, đơn vị kiểm tra đảng, đơn vị thanh tra hành chính và
chống tham những. Biến chế cán bộ của ban kiểm tra - thanh tra huyện là từ 7
người trở lên.
Qua 35 năm thành lập đến nay, cơ quan kiểm tra của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào đã từng bước trưởng thành về bộ máy và nhân sự làm công tác kiểm
tra. Bộ máy tổ chức cơ quan ban kiểm tra đã thành lập và củng cố ở tất cả tổ chức
đảng cấp huyện, cấp sở của tỉnh, cấp tỉnh, cấp bộ và cơ quan ngang bộ và cấp
trung ương. Cùng với bộ máy tổ chức, thì đã quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của ban kiểm tra và cơ quan của ban kiểm tra các cấp, các ngành ngày
càng rõ hơn và cụ thể hơn. Về đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra trong biên chế
cơ quan ban kiểm tra đã được tăng cường về số lượng và trình độ năng lực,
chuyên môn, nghiệp vụ (xem phụ lục 10, 11).
2.1.2. Khái niệm, nguyên tắc, nội dung, hình thức, phương pháp, quy
trình kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào
* Khái niệm
Kiểm tra là một cách thức và phương pháp hành động của con người và của
mọi tổ chức trong xã hội, được tiến hành thường xuyên; là một trong những cách
thức được sử dụng để điều chỉnh các hoạt động trong đời sống của xã hội; là một
hoạt động phổ biến trong các tổ chức của hệ thống chính trị.
Trong các từ điển Tiếng Việt đã giải thích từ “Kiểm tra” với ý nghĩa rộng,
hẹp khác nhau tùy theo mục đích sử dụng, như:
Với ý nghĩa chung nhất, kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá,
nhận xét” [43, tr.523].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, với ý nghĩa kiểm tra luật, có giải
thích: “Kiểm tra (luật) là một chức năng quản lý, một khâu trong quy trình quản
lý, có chức năng xem xét tình hình và kết quả thực tế thi hành pháp luật, chính
sách, chủ trương của Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ chính trị - kinh tế được
giao” [53, tr.587].
44
Và theo Từ điển Luật học: “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế thi hành
pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung hay một công tác cụ thể được
giao để đánh giá, nhận xét” [2, tr.267].
Theo Từ điển Tiếng Lào: “Kiểm tra là sự xem xét rất tỉ mỉ để nhận xét,
đánh giá đúng thực tế” [108, tr.72].
Từ sự giải thích ý nghĩa của từ “Kiểm tra” trong các từ điển và ý nghĩa
trong việc lãnh đạo, quản lý đã nêu ở trên thì: Kiểm tra là hoạt động có mục đích
của tổ chức, con người xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét đối tượng
kiểm tra so với yêu cầu đề ra.
Trong lãnh đạo, quản lý, kiểm tra là một chức năng lãnh đạo, quản lý; một
khâu trong quy trình lãnh đạo. Kiểm tra được xem như là một nhiệm vụ quan
trọng của bất kỳ hệ thống lãnh đạo, quản lý nào. Kiểm tra bao gồm: kiểm tra của
cấp trên đối với cấp dưới và tự kiểm tra.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: kiểm tra là chức năng lãnh đạo
của Đảng. Khác với các tổ chức khác, kiểm tra của Đảng là hoạt động nội bộ
Đảng, hoạt động của những người cùng chung mục đích, lý tưởng nhằm hướng tới
đích là làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch và các tổ chức đảng vững
mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, từng bước thực hiện thắng lợi
mục đích, lý tưởng của Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên phải thường xuyên tự
kiểm tra. Tổ chức đảng cấp trên kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên.
Quy định số 30-QĐ/TW, ngày 26 tháng 07 năm 2016 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về thi hành Chương VII và chương VIII
Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng định nghĩa: Kiểm
tra của Đảng là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm,
khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong
việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị,
quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Điều lệ Đảng Nhân dân cách mạng Lào chỉ rõ: “Giám sát, kiểm tra một
trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, mọi tổ chức đảng phải tiến hành giám
sát, kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên trực thuộc quyền quản lý về tổ
45
chức thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị, Điều lệ của
Đảng, pháp luật và các quy chế của Nhà nước” [94, tr.85-86].
Từ các quan niệm về kiểm tra, quy định của Điều lệ và hướng dẫn thực
hiện Điều lệ Đảng trình bày ở trên, rút ra khái niệm: Kiểm tra của Đảng là việc
chủ thể kiểm tra xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm
của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
* Nguyên tắc kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào
Nguyên tắc kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào bao gồm:
Nguyên tắc đảm bảo tính Đảng, có nghĩa công tác kiểm tra là do Đảng lãnh
đạo, do Đảng quyết định. Đảng là người đề ra chủ trương, đường lối, nghị quyết,
chỉ thị về công tác kiểm tra, quy định cơ cấu ban kiểm tra, bộ máy tổ chức, quy
chế hoạt động của cơ quan ban kiểm tra và đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra.
Công tác kiểm tra là căn cứ vào chủ trương, đường lối. nghị quyết, chỉ thị, Điều lệ
Đảng; lấy phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng làm mục đích, phương châm và
nội dung kiểm tra. Mọi cuộc kiểm tra phải dưới sự lãnh đạo của Đảng (trực tiếp là
cấp ủy các cấp), là do cấp ủy quyết định tiến hành kiểm tra, quyết định về đối
tượng, nội dung kiểm tra; đích thân chỉ đạo cuộc kiểm tra đó; phê duyệt, công
nhận kết luận kiểm tra và chỉ đạo việc thi hành (giải quyết) kết luận kiểm tra.
Nguyên tắc đảm bảo tính quần chúng. Xuất phát từ quan điểm: sự nghiệp
cách mạng là của quần chúng, dựa vào quần chúng và qua phong trào cách mạng
của quần chúng để xây dựng Đảng, và công tác kiểm tra cũng là một công tác xây
dựng Đảng; vì vậy, Đảng xác định đây là một nguyên tắc kiểm tra hết sức quan
trọng. Công tác kiểm tra là công việc khó, khi tiến hành một cuộc kiểm tra đối với
một đối tượng nào đó thì nó liên quan đến nhiều tổ chức và nhiều cá nhân. Mặt
khác, mỗi đối tượng kiểm tra đã hoạt động và cư trú tại nơi quần chúng đó cư trú
và hoạt động, do đó họ là người biết rõ hơn đối tượng kiểm tra so với cấp ủy và
đoàn kiểm tra. Để làm cho công tác kiểm tra có hiệu quả, phải biết sử dụng sức
mạnh tổng hợp của quần chúng, phát động quần chúng tham gia vào công tác
kiểm tra. Muốn phát động quần chúng tham gia, phải phổ biến tuyên truyền cho
46
quần chúng hiểu rõ mục đích, ý nghĩa, nội dung của công tác kiểm tra; hiểu rõ
quyền và nghĩa vụ của họ đối với công tác xây dựng Đảng cầm quyền. Nhận thức
đúng về điều đó quần chúng sẽ cung cấp số liệu, chứng cứ, phản ánh về thực tế
của đối tượng kiểm tra cho đoàn kiểm tra nắm được chính xác hơn. Chủ tịch
Caysỏn PhômVịHản đã chỉ bảo: “Kiểm tra phải nắm chắc quần chúng. Muốn
kiểm tra đạt kết quả, ngoài nghe báo cáo của các cấp, ngành và cơ quan rồi, người
kiểm tra phải sâu sát với quần chúng, tìm hiểu tình hình từ quần chúng, biết vận
động quần chúng tham gia vào công tác kiểm tra” [82, tr.579].
Thực hiện tốt nguyên tắc này, không chỉ làm cho công tác kiểm tra có hiệu
quả, mà còn thắt chặt thêm sự gắn bó Đảng với quần chúng, làm cho quần chúng
càng hiểu rõ Đảng và chủ động, tích cực tham gia công tác kiểm tra.
Nguyên tắc đảm bảo tính chính xác, khách quan. Mục đích của kiểm tra là
tìm ra sự thật về các mặt để nhận xét, đánh giá đúng, sai, tốt, xấu. Vì vậy, kết luận
kiểm tra phải chính xác và khách quan mới xử lý các vấn đề qua kiểm tra đúng
thực tế và đạt hiệu quả thực sự. Yêu cầu của nguyên tắc này, khi thu thập được
thông tin, tài liệu, số liệu, chứng cứ thì sự nhận xét, đánh giá từng vấn đề phải kỹ
càng, phải so sánh từng sự kiện, từng hành vi với thực tế; xem xét đánh giá phải
căn cứ vào các điều kiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, các văn bản pháp lý có
hiệu lực sử dụng khi xảy ra vấn đề cần nhận xét, đánh giá đó. Kết luận kiểm tra
phải dựa vào những số liệu, chứng cứ thực tế đã có thật. Thực hiện tốt nguyên tắc
kiểm tra này, sẽ bảo đảm quyền lợi chính đáng của đối tượng kiểm tra, việc xử lý
sau cuộc kiểm tra có hiệu quả.
Nguyên tắc công khai. Công khai là một nguyên tắc phải tổ chức thực hiện
trong công tác kiểm tra. Công khai trong công tác kiểm tra là tạo điều kiện cho các
tổ chức trong hệ thống chính trị - xã hội và các đoàn thể quần chúng tham gia vào
công tác kiểm tra. Khi tiến hành mỗi cuộc kiểm tra đều phải cho đối tượng kiểm
tra biết về: kế hoạch tiến hành, mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp, các
bước tiến hành tại đối tượng đó. Làm như vậy để cho tổ chức đảng và đảng viên là
đối tượng kiểm tra chủ động tham gia trong cuộc kiểm tra đó, đồng thời là để họ
tự kiểm tra bản thân và tổ chức của mình. Sau khi có bản thảo kết luận kiểm tra
47
cần phải cho tổ chức và đảng viên (đối tượng kiểm tra thảo luận, bàn bạc về các
vấn đề đã đánh giá và kết luận) đi đến nhất trí giữa đối tượng kiểm tra và chủ thể
tiến hành kiểm tra. Việc công khai kết quả và kết luận kiểm tra cũng như việc xử
lý sau kiểm tra sẽ đảm bảo cho cuộc kiểm tra trong sạch và nghiêm minh, nhưng
công khai rộng hẹp mức nào là phải đảm bảo đảm nguyên tắc Đảng lãnh đạo, tức
là do cấp ủy có thẩm quyền quyết định. Công khai kết quả kiểm tra và xử lý sau
kiểm tra sẽ có tác dụng trong việc giáo dục chính trị tư tưởng không chỉ riêng ở
đối tượng kiểm tra mà còn tác động rộng đến các tổ chức đảng và đảng viên khác
phát huy những thành tích và ưu điểm, tự kiểm tra tìm ra để ngăn chặn, hạn chế và
khắc phục mặt yếu, điều tiêu cực trong trách nhiệm và phạm vi lãnh đạo.
Nguyên tắc tính hiệu quả. Tính hiệu quả thể hiện, mỗi cuộc kiểm tra đối với
một đối tượng nào đó thì phát hiện, nhận xét, đánh giá và kết luận các vấn đề rõ
ràng, chính xác, đúng sự thật về mặt ưu, nhân tố mới và tích cực, những khuyết
điểm, hạn chế hoặc vi phạm theo hướng phát huy ưu điểm và nhân tố tích cực,
khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, vi phạm hoặc thi hành kỷ luật nghiêm minh
theo Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước. Ngoài ra, qua cuộc kiểm tra đó phát
hiện được những sơ hở, điểm sai trong các văn bản, chế độ, quy chế mà Đảng và
Nhà nước đề ra, đề xuất ý kiến đến các cơ quan có thẩm quyền chỉnh sửa. Sau
cuộc kiểm tra, đối tượng kiểm tra có sự chuyển biến theo hướng tích cực.
Năm nguyên tắc trên đây có quan hệ hữu cơ với nhau, quyết định lẫn nhau,
trong đó nguyên tắc tính đảng là xuyên suốt chỉ đạo mọi nguyên tắc và cần phải
thực hiện tốt, đồng bộ trong tiến hành cuộc kiểm tra thì mới làm cho công tác
kiểm tra có hiệu quả và chất lượng cao.
Chủ thể kiểm tra trong Đảng Nhân dân cách mạng Lào là: chi bộ, đảng ủy
cơ sở, ban thường vụ cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, ban kiểm tra các cấp, các ban đảng, văn phòng
cấp ủy (gọi chung là các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy)
Đối tượng kiểm tra: gồm chi bộ, đảng ủy cơ sở; ban thường vụ cấp ủy,
thường trực cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; ban kiểm tra; các cơ quan tham mưu
giúp việc cấp ủy; đảng viên, cơ quan nhà nước và cán bộ.
48
* Nội dung kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào: Khi bàn về tăng
cường công tác kiểm tra, Tổng bí thư Cayxỏn Phômvịhản đã nhấn mạnh nội dung
kiểm tra là:
Trước hết, phải kiểm tra chính sách và các nghị quyết của Đảng đã
được tổ chức thực hiện từ đầu đến cuối không; kiểm tra việc thực hiện
Điều lệ Đảng và nguyên tắc gốc của Đảng (nguyên tắc tập trung dân
chủ); kiểm tra sự đoàn kết thống nhất trong cấp ủy và chính quyền các
cấp; kiểm tra mối quan hệ của cấp ủy, chính quyền, cơ quan đoàn thể
với quần chúng [82, tr.427-429].
Trong thời gian qua, Đảng nhân dân cách mạng Lào đã xác định nội dung
kiểm tra chung nhất là: “Tiến hành công tác kiểm tra trong thời gian tới, phải tập
trung vào việc thực hiện Điều lệ Đảng và thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, đảng
viên” [91, tr.59]. Khi quy định nhiệm vụ của ban kiểm tra trong Điều lệ Đảng
cũng thể hiện nội dung kiểm tra như: nội dung chủ trương, đường lối, nghị
quyết, chỉ thị, các quyết định của Đảng (cấp ủy) đã đề ra có đảm bảo tính khoa
học, khách quan sát thực tế và phục vụ quyền lợi của giai cấp và đất nước
không? tìm ra những cái khiếm khuyết, sơ hở hoặc sai lệch trong đố, kiến nghị
kịp thời sửa đổi; các tổ chức đảng quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện
đường lối, nội dung trong nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, nghị quyết của Ban
Chấp hành Trung ương, nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư và cấp ủy các cấp; sự chấp hành và thi hành Điều lệ Đảng, phong cách lãnh
đạo và lề lối làm việc của cấp ủy và cán bộ lãnh đạo các cấp, nhất là sự thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ, chống quan liêu, xa rời thực tế, bao biện, cửa
quyền; phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần
trách nhiệm và sự rèn luyện bản thân của cấp ủy viên và mỗi đảng viên; về củng
cố xây dựng Đảng, nhất là xây dựng chi bộ đảng mạnh biết lãnh đạo toàn diện,
nội dung sinh hoạt chính trị trong nội bộ cấp ủy và tổ chức cơ sở đảng, thực hiện
tự phê bình và phê bình trong cấp ủy và trong chi bộ; quyết định kỷ luật trong
Đảng và tài chính của Đảng.
Nội dung kiểm tra trên đây, khái quát lại bao gồm: việc chấp hành Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
49
nước; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ công
tác, thực hiện dân chủ trong đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; việc lãnh đạo, chỉ đạo
thực hành tiết kiệm; phòng chống tham nhũng, lãng phí; việc lãnh đạo, chỉ đạo các
cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; việc
thực hiện các khâu và quy trình của công tác cán bộ; việc lãnh đạo, chỉ đạo và giải
quyết khiếu nại, tố cáo; việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và rèn
luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
* Hình thức kiểm tra
Hình thức kiểm tra là cách thức bể ngoài được các chủ thể kiểm tra sử dùng
tiến hành cuộc kiểm tra đối với đối tượng kiểm tra. Trong thời gian qua, Đảng
nhân dân cách mạng Lào đã xác định và thường dùng 3 hình thức kiểm tra là:
kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ và kiểm tra bất thường.
Một là, kiểm tra thường xuyên: Hoạt động lãnh đạo và xây dựng Đảng là
một quá trình diễn ra thường xuyên, liên tục. Lãnh đạo là kiểm tra, do đó công tác
kiểm tra cũng phải được tiến hành thường xuyên. Kiểm tra thường xuyên là hình
thức kiểm tra quan trọng nhất, nó giúp chủ thể kiểm tra nắm chắc tình hình mọi
mặt và có hệ thống. Qua kiểm tra thường xuyên, các cấp ủy thu được những thông
tin cần thiết, kịp thời uốn nắn, bổ sung hoàn chỉnh quyết định và có những biện
pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát thực tế. Đồng thời kiểm tra thường xuyên thúc đẩy sự
hoạt động nhịp nhàng của tổ chức, nhắc nhở mọi đảng viên giữ vững và phát huy
vai trò tiền phong gương mẫu, sáng tạo trong công việc nhằm đạt kết quả cao nhất.
Hai là, kiểm tra định kỳ: Đây là hình thức kiểm tra giúp chủ thể kiểm tra
nắm chắc tình hình đều đặn trong từng giai đoạn nhất định. Tùy chủ thể, đối tượng
kiểm tra, yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng mà xác
định nội dung và thời gian kiểm tra cho phù hợp. Thông thường hình thức này
thường được tiến hành theo nhiệm kỳ đại hội, chu kỳ sản xuất, chương trình năm
học, nhiệm vụ công tác… Nội dung kiểm tra định kỳ có thể kiểm tra toàn diện đối
với tổ chức đảng và đảng viên, có thể kiểm tra chuyên sâu một số nội dung. Yêu
cầu đặt ra đối với hình thức kiểm tra này là phải chặt chẽ, khoa học, tiến hành
khéo léo.
50
Ba là, kiểm tra bất thường (hay còn gọi là kiểm tra đột xuất, kiểm tra
chuyên đề): Hình thức kiểm tra bất thường được tiến hành khi có những vụ việc
đột xuất xảy ra cần kiểm tra hoặc khi có yêu cầu kiểm tra của tổ chức đảng cấp
trên. Đối tượng kiểm tra bất thường nếu so với kiểm tra thường xuyên và kiểm tra
định kỳ thường có số lượng ít; nội dung kiểm tra tập trung vào một số vấn đề,
chuyên đề nhất định; yêu cầu kiểm tra phải xem xét kết luận nhanh chóng để phục
vụ kịp thời công tác lãnh đạo. Ưu điểm nổi bật của hình thức kiểm tra bất thường
là chủ thể kiểm tra có thể nắm bắt bản chất vụ việc nhanh chóng, khách quan; đối
tượng kiểm tra khó che giấu, bóp méo sự thật.
* Phương pháp kiểm tra
Phương pháp là cách thức, con đường, biện pháp để thực hiện một hoạt
động nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Phương pháp kiểm tra là cách thức, con
đường, biện pháp để tiến hành kiểm tra đạt kết quả. Đảng Nhân dân cách mạng
Lào đã học tập, kế thừa và triển khai vào thực tiễn của Đảng mình các phương
pháp kiểm tra do Lênin và các đảng cộng sản để ra. Đó là phương pháp kiểm tra
trực tiếp, gián tiếp, kiểm tra từ trong ra và từ ngoài vào, kiểm tra từ trên xuống và
từ dưới lên, kiểm tra tại chỗ và từ xa, kiểm tra có sự phối hợp giữa các cơ quan
chức năng có liên quan. Tổng bí thư Cay xỏn Phôm vị hản đã chỉ bảo: “Nói về
công tác kiểm tra, thì phải tiến hành từ trên xuống, từ dưới lên…, tiến hành kiểm
tra phải có trọng tâm, trọng điểm” [81, tr.193].
Các phương pháp kiểm tra nêu trên đã được các tổ chức đảng và ban kiểm
tra các cấp sử dụng cụ thể tùy theo yêu cầu, nội dung, đối tượng kiểm tra. Trong
kiểm tra thường xuyên, cấp ủy và tổ chức đảng các cấp đã thực hiện phương pháp
kiểm tra liên tục, trực tiếp trong tổ chức mình. Trong kiểm tra định kỳ và kiểm tra
đột xuất, cấp ủy và ban kiểm tra các cấp đã thực hiện phương pháp kiểm tra trực
tiếp và kiểm tra gián tiếp, cả kiểm tra từ xa và tại chỗ, tiến hành kiểm tra từ trên
xuống và từ dưới lên, từ trong ra và từ ngoài vào; coi trọng tự phê bình và phê
bình trong nội bộ Đảng, cả phê bình của nhân dân đối với tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên. Những phương pháp kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã
tiến hành này, thì đúng theo phương pháp kiểm tra của V.I.Lênin chỉ đạo: “Những
hình thức và phương pháp kiểm tra từ dưới lên càng phải muôn vẻ để làm tê liệt
51
mọi khả năng, dù nhỏ đến đâu dẫn tới xuyên tạc chính quyền Xô Viết, để tiếp tục
và luôn luôn trừ cho tiệt cái thứ cỏ dại chủ nghĩa quan liêu” [27, tr.253-254], kiểm
tra phải rực tiếp, tại chỗ như: “Giám sát tại chỗ từng pút lúa mì, từng pút nhiên
liệu” [27, tr.449], phải kiểm tra từ trong ra và từ ngoài vào như: “Phổ biến hóa chế
độ kiểm kê và kiểm soát toàn bộ việc sản xuất và phân phối sản phẩm, hơn thế
nữa việc kiểm kê và kiểm soát đó lúc đầu phải do các tổ chức công nhân tiến
hành, rồi sau đó mới do toàn thể dân cư tiến hành” [27, tr.94]. Các phương pháp
kiểm tra đã được thực hiện nhiều trong thời gian qua ở Đảng Nhân dân cách mạng
Lào là như sau:
Một là, dựa vào tổ chức đảng và đảng viên
Đây là phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, vừa là vấn đề có tính
nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Tổ chức đảng là nơi lãnh đạo, quản lý,
giáo dục, rèn luyện đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới. Do đó, dựa chắc vào tổ
chức đảng và đảng viên thì chủ thể kiểm tra mới có đủ cơ sở để xem xét, kết luận
vụ việc toàn diện chính xác. Ở những tổ chức đảng yếu kém, cần có cách vận
dụng thích hợp. Nếu xét thấy cần thiết có thể củng cố kiện toàn tổ chức trước khi
tiến hành kiểm tra. Cấp ủy cần căn cứ vào nghị quyết, chỉ thị của cấp trên và cấp
mình, căn cứ vào những nhiệm vụ mà tổ chức đảng phải lãnh đạo thực hiện trong
khoảng thời gian nhất định để xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác kiểm
tra của tổ chức đảng cấp mình và chỉ đạo kiểm tra, đôn đốc, giám sát tổ chức đảng
cấp dưới thực hiện những công việc nêu trên. Cấp ủy có thể gợi ý, hướng dẫn cấp
ủy và tổ chức đảng cấp dưới xây dựng phương hướng, nhiệm vụ công tác kiểm tra
của họ. Trong phương hướng đó phải chỉ rõ trọng tâm, trọng điểm của công tác
kiểm tra và phải có chương trình, kế hoạch kiểm tra.
Hai là, phát huy tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên
Tính tự giác là phản ánh phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, ý thức kỷ
luật của tổ chức đảng và đảng viên. Song đây là một quá trình và mức độ tự giác
của từng đối tượng không giống nhau; tự kiểm tra mình là việc khó nhất. Do đó,
khi vận dụng phương pháp này, cần làm tốt công tác tư tưởng để khơi dậy tinh
thần tự giác của đối tượng kiểm tra; kiên trì động viên, thuyết phục kết hợp với
đấu tranh kiên quyết và làm tốt công tác thẩm tra, xác minh.
52
Ba là, phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng
Liên hệ mật thiết với quần chúng vừa là truyền thống vừa là nguyên tắc của
Đảng. Do đó khi tiến hành công tác kiểm tra cần phải phát huy trách nhiệm xây
dựng Đảng của quần chúng. Muốn đạt hiệu quả cao, cần phải tổ chức, hướng dẫn
và có cách làm phù hợp; tiến hành tổng kết việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở, rút ra bài học kinh nghiệm để thực hiện tốt.
Bốn là, thẩm tra, xác minh
Trong thực tiễn hiện nay, nhiều tổ chức đảng và đảng viên khi được kiểm
tra đã tự giác, thành khẩn trình bầy nghiêm túc mọi ưu điểm và khuyết điểm, song
vẫn còn không ít tổ chức đảng và đảng viên thiếu tinh thần tự giác, tự phê bình và
phê bình, tính đảng yếu, cố tình quanh co, giấu diếm khuyết điểm, thậm chí gây
khó khăn cho hoạt động kiểm tra. Với loại đối tượng này, ngoài việc kiên trì áp
dụng phương pháp phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên, tính
tích cực trong xây dựng Đảng của quần chúng thì cần phải làm tốt công tác thẩm
tra, xác minh. Thực tế cho thấy, do làm không tốt công tác thẩm tra, xác minh nên
nhiều trường hợp giải quyết đơn thư tố cáo đã xếp vào diện không có cơ sở để kết
luận. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tâm tư nguyện vọng của tổ chức đảng và
đảng viên. Làm tốt công tác thẩm tra, xác minh nghiêm túc, kiên trì đấu tranh
buộc đối tượng không thể không thừa nhận những hành vi sai phạm của mình.
Năm là, phối hợp công tác kiểm tra của Đảng với công tác thanh tra nhà
nước, thanh tra nhân dân, công tác kiểm tra của các tổ chức chính trị - xã hội và
các ban ngành liên quan.
Đảng Nhân dân cách mạng Lào là đảng cầm quyền, đảng viên vừa là thành
viên của tổ chức đảng, vừa là công dân, thành viên của các tổ chức chính trị - xã
hội khác. Do đó, đảng viên vi phạm chính sách, pháp luật… cũng là vi phạm kỷ
luật của Đảng. Nếu không có cơ chế chặt chẽ, phù hợp nhất là trong công tác kiểm
tra thì rất dễ dẫn đến thiếu tập trung thống nhất, giải quyết các vụ việc không kịp
thời, chính xác. Các cơ quan thanh tra, các ban tham mưu giúp việc của cấp ủy,
các cơ quan bảo vệ pháp luật có đủ các điều kiện để xem xét mọi khía cạnh và kết
luận các vi phạm một cách chính xác. Sự phối hợp này càng thực hiện nghiêm túc,
chặt chẽ bao nhiêu càng đem lại hiệu quả cao bấy nhiêu cho công tác kiểm tra. Do
53
đó, để đảm bảo tính khách quan, chính xác, cấp ủy và ban kiểm tra các cấp trong
tiến hành kiểm tra đã phối hợp thu thập thông tin, số liệu, chứng cứ nhiều chiều
qua các kết luận kiểm tra, thanh tra của cấp ủy cấp trên, của các tổ chức đoàn thể
và của cơ quan chuyên môn nghiệp vụ theo chiều dọc và chiều ngang.
* Quy trình kiểm tra
Quy trình kiểm tra là khâu, bước, trình tự phải thực hiện trong tiến hành các
cuộc kiểm tra. Quy trình kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào thực hiện
theo 3 bước lớn: bước chuẩn bị cho cuộc kiểm tra; bước tiến hành kiểm tra; bước
tổng kết báo cáo kết quả kiểm tra và chỉ đạo thực hiện kết luận kiểm tra. Mỗi bước
đã thực hiện những việc như sau:
Bước chuẩn bị: cơ quan tham mưu của cấp ủy (ban kiểm tra) nắm tình hình
khái quát về đối tượng kiểm tra và làm bản báo cáo trình cấp ủy để ra quyết định
kiểm tra và lập đoàn kiểm tra; đoàn kiểm tra lập kế hoạch tiến hành kiểm tra,
chuẩn bị các điều kiện vật chất, kinh phí, các văn bản cụ thể có liên quan đến nội
dung, mục đích, yêu cầu của cuộc kiểm tra; lãnh đạo của đoàn kiểm tra thông báo
cho lãnh đạo đối tượng kiểm tra trước để chuẩn bị làm việc với đoàn kiểm tra.
Bước tiến hành kiểm tra: đoàn kiểm tra gặp và làm việc với lãnh đạo đối
tượng kiểm tra, thông báo kế hoạch, mục đích, yêu cầu, nội dung, thời gian và
giao các bản câu hỏi gợi ý, bàn bạc và thống nhất về kế hoạch hoạt động kiểm tra.
Sau đó tiến hành các việc đã quy định trong kế hạch tiến hành kiểm tra: tổ chức
cuộc họp toàn thể đảng viên trong đối tượng kiểm tra để giáo dục tư tưởng, phổ
biến các văn bản liên quan đến nội dung kiểm tra; thu thập, phân tích, nhận xét,
giám định thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan và đánh giá đúng - sai, ưu -
khuyết hoặc vi phạm; soạn bản kết luận kiểm tra và tổ chức cuộc họp với đối
tượng kiểm tra thông qua bản thảo kết luận kiểm tra để họ có ý kiến và đi đến
thống nhất; đoàn kiểm tra báo cáo kết quả kiểm tra và bản thảo kết luận kiểm tra
cho ban kiểm tra và cấp ủy đã ra quyết định kiểm tra, khi đã có ý kiến chỉ đạo rồi
thì đoàn kiểm tra họp với lãnh đạo đối tượng kiểm tra ký xác nhận vào kết luận
kiểm tra và họp rút kinh nghiệm.
Bước tổng kết, báo cáo kết quả kiểm tra và chỉ đạo thực hiện kết luận kiểm
tra: trong bước này đoàn kiểm tra báo cáo kết quả kiểm tra cho ban kiểm tra, sau
54
ban kiểm tra họp thông qua và phê duyệt kết luận kiểm tra thì làm bản báo cáo về
kết quả và kèm theo kết luận kiểm tra trình cấp ủy; cấp ủy họp và ra nghị quyết
công nhận kết luận kiểm tra, ra thông báo chỉ đạo các tổ chức có liên quan và đối
tượng kiểm tra thực hiện kết luận kiểm tra; ban kiểm tra theo dõi việc thi hành và
thường xuyên bao cáo cấp ủy.
2.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA VÀ CHẤT
LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG NHÂN DÂN CÁCH MẠNG LÀO
2.2.1. Công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào - khái
niệm, nội dung, đặc điểm, vai trò
* Khái niệm công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào
Việc kiểm tra của Đảng không phải là một hoạt động đơn lẻ mà là một
công tác quan trọng gồm hệ thống các hoạt động, từ đề ra chủ trương, kế hoạch
công tác kiểm tra đến tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; từ tiến hành các cuộc
kiểm tra cụ thể đến sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, phát triển lý luận về kiểm tra,
do cấp ủy, tổ chức đảng tiến hành đối với tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm
vi quyền hạn lãnh đạo, nhằm nắm vững tình hình, nhận xét, đánh giá việc chấp
hành các quy định, quyết định của Đảng; xác định sự đúng - sai hay vi phạm của
các hành vi có liên quan đến kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Công tác kiểm tra của
Đảng là sự tác động sâu sắc, có hệ thống và định hướng vào quá trình giải quyết
các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội và công tác xây dựng Đảng, nhằm xây
dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Từ thực tiễn và khái niệm kiểm tra của Đảng, có thể hiểu: Công tác kiểm
tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào là hệ thống hoạt động của các cơ quan, tổ
chức đảng thực hiện nhiệm vụ xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm
hoặc vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên chấp hành Điều lệ
Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
nhiệm vụ của tổ chức đảng và đảng viên.
Mục tiêu của công tác kiểm tra là: kịp thời đánh giá đúng ưu điểm của tổ
chức đảng và đảng viên để phát huy, phát hiện, làm rõ thiếu sót, khuyết điểm để
uốn nắn, khắc phục và xử lý nghiêm minh khi có vi phạm, góp phần xây dựng
55
Đảng trong sạch, vững mạnh; phục vụ việc tổng kết thực tiễn, nhân rộng những
nhân tố mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, cục bộ, bản
vị, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng, sự đoàn kết thống nhất và bảo đảm thực hiện dân chủ
trong Đảng, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng; phòng ngừa, ngăn chặn sự suy
thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, bảo vệ quan
điểm, đường lối của Đảng, tránh các nguy cơ sai lầm về đường lối, quan liêu, xa
dân của Đảng cầm quyền.
* Nội dung công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào
Công tác kiểm tra của Đảng từ Trung ương đến các cấp bao gồm nhiều
công việc với sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức, lực lượng trong Đảng, trong
hệ thống chính trị và xã hội. Từ thực tiễn có thể khái quát các nội dung chủ yếu
của công tác kiểm tra của Đảng như sau:
(1) Xây dựng đường lối, chủ trương, chương trình, kế hoạch công tác
kiểm tra
Để tiến hành công tác kiểm tra của Đảng đúng đắn và có kết quả phải có
đường lối, chủ trương lãnh đạo đúng đắn, kịp thời, có chương trình, kế hoạch cụ
thể. Vì vậy, Trung ương Đảng có trách nhiệm đề ra đường lối, chủ trương lãnh
đạo công tác kiểm tra của toàn Đảng; cấp ủy, cơ quan kiểm tra các cấp phải xây
dựng chương trình, kế hoạch công tác kiểm tra của mình. Đây là nội dung quan
trọng hàng đầu để định hướng toàn bộ công tác kiểm tra của Đảng từ Trung ương
đến các cấp.
(2) Tiến hành kiểm tra theo chương trình, kế hoạch, phương pháp, quy trình
Trên cơ sở đường lối, chủ trương, chương trình, kế hoạch công tác kiểm tra,
nội dung tiếp theo của công tác kiểm tra là tiến hành kiểm tra theo chương trình, kế
hoạch, nguyên tắc, hình thức, phương pháp, quy trình, thủ tục đã quy định.
(3) Tổ chức phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị, các
cơ quan chức năng và nhân dân trong công tác kiểm tra
Công tác kiểm tra của Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền phải có sự
tham gia của các tổ chức trong hệ thống chính trị, các cơ quan chức năng và nhân
56
dân, vì vậy, một nội dung quan trong của công tác kiểm tra của Đảng là tổ chức
phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị, các cơ quan chức năng
và nhân dân trong công tác kiểm tra. Nội dung này thuộc trách nhiệm của các cơ
quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến các cấp, trong đó, ban kiểm tra có
trách nhiệm tham mưu và trực tiếp thực hiện sự phối hợp này để phục vụ cho công
tác kiểm tra.
(4) Xử lý kết quả kiểm tra
Kiểm tra là để xác định đúng, sai trong việc chấp hành Cương lĩnh Chính
trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, các nguyên tắc tổ chức của Đảng. Đúng thì
tiếp tục phát huy, sai thì kịp thời sửa chữa, ngăn chặn. Nếu vi phạm nghiêm trọng
thì xử lý kỷ luật để đảm bảo kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Chính vì vậy, xử lý đúng
kết quả kiểm tra là một nội dung quan trọng của công tác kiểm tra.
(5) Xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ kiểm tra
Trong phạm vi công tác kiểm tra không chỉ là việc tiến hành các hoạt động
kiểm tra mà còn phải quan tâm đến một nội dung cơ bản là xây dựng, kiện toàn tổ
chức bộ máy cơ quan kiểm tra và xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra ngày càng
trong sạch, vững mạnh, tinh thông nghiệp vụ.
(6) Sơ kết, tổng kết, phát triển lý luận công tác kiểm tra
Công tác kiểm tra muốn có chất lượng, hiệu quả phải thường xuyên được
rút kinh nghiệm để nhân rộng các kinh nghiệm hay, khắc phục các vấn đề không
phù hợp và phải không ngừng phát triển, nâng cao lý luận kiểm tra của Đảng. Do
đó, cần thực hiện tốt việc sơ kết, tổng kết, phát triển lý luận công tác kiểm tra.
* Đặc điểm công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào hiện nay
Công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào là công tác kiểm tra
của một đảng mácxít-lêninnít, tuy nhiên, do những đặc thù của đất nước, của
Đảng là Đảng duy nhất cầm quyền, là hạt nhân lãnh đạo tất cả các tổ chức trong
hệ thống chính trị và xã hội, đảng viên của Đảng là người nắm giữ chức đứng đầu
tổ chức của Đảng và cơ quan Nhà nước trong tất cả các lĩnh vực và các cấp các
ngành theo mô hình nhất nguyên. Từ tính đặc thù ấy, cho nên công tác kiểm tra
của Đảng có một số đặc điểm sau:
57
Thứ nhất, đối tượng kiểm tra của công tác kiểm tra Đảng Nhân dân cách
mạng Lào bao gồm cả tổ chức đảng, đảng viên, cơ quan nhà nước, và cán bộ
các cấp
Đối tượng kiểm tra của Đảng là các tổ chức của đảng, đảng viên và những
công việc của tổ chức và đảng viên đảm nhiệm thực hiện, như Lênin nhấn mạnh:
“Kiểm tra nhân viên công tác và kiểm tra việc chấp hành thực tế công tác - mấu
chốt của toàn bộ công tác, của toàn bộ chính sách hiện nay là ở đây, vẫn ở đây và
chỉ có ở đây” [32, tr.19]. Đối với công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào, đối tượng kiểm tra là tất cả tổ chức đảng và đảng viên (kể cả cấp ủy viên các
cấp) của Đảng Nhân dân cách mạng Lào theo quy định trong Điều lệ Đảng: “Tổ
chức đảng các cấp và tất cả đảng viên của Đảng phải dưới sự kiểm tra của Đảng”
[92, tr.76]. Đi đôi với kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên, trong điều kiện Đảng
cầm quyền, có trách nhiệm đối với toàn xã hội, thì Đảng Nhân dân cách mạng Lào
còn tiến hành kiểm tra đối với hoạt động của cơ quan Nhà nước, như Tổng bí thư
Cayxỏn Phômvịhản đã chỉ đảo:
Trong điều kiện sử dụng kinh tế nhiều thành phần và cơ chế kinh tế
mới, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân, và mở rộng
quan hệ kinh tế với các nước như hiện nay, kiểm tra hoạt động của cơ
quan Đảng, cơ quan Nhà nước, kể cả cán bộ, đảng viên các cấp, vừa là
cần thiết, vừa là điều kiện để thực hiện thành công các nhiệm vụ xây
dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân [82, tr.426-427].
Người còn nhấn mạnh: “Phải tăng cường kiểm tra cán bộ, kiểm tra sự thực
hiện các nhiệm vụ” [82, tr.436]. Từ những câu trích dẫn nêu trên đã chỉ ra đối
tượng kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào bao gồm cả tổ chức đảng,
đảng viên, cơ quan nhà nước, và cán bộ các cấp. Theo quy định của Điều lệ Đảng
thì đối tượng kiểm tra là: chi bộ, đảng ủy cơ sở, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy,
thường trực cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên, ban kiểm tra, các cơ quan tham mưu
giúp việc của cấp ủy và đảng viên (gọi chung đối tượng kiểm tra là các tổ chức
của đảng và đảng viên).
Các đối tượng kiểm tra nêu trên có những đặc điểm sau đây:
58
- Các tổ chức đảng được tổ chức theo hệ thống bộ máy tổ chức hành chính,
bao gồm: ban chấp hành đảng bộ các cấp (cấp trung ương, cấp bộ - cơ quan ngang
bộ và cấp tỉnh - thủ đô, cấp huyện, đảng ủy cơ sở và chi bộ), trong ban chấp hành
đảng bộ các cấp còn có ban thường vụ. Ngoài các tổ chức trên, trong khóa VIII và
khóa IX của Đảng còn có tổ chức đảng mà tổ chức lên không theo hệ thống hành
chính, đó là đảng ủy cụm bản (tổ chức đảng cấp trên trực tiếp của các chi bộ đảng
bản. Từ 3 - 10 chi bộ bản đã tổ chức lên một đảng ủy cụm bản). Các tổ chức đảng
này hoạt động lãnh đạo ở cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước, ở lực lượng vũ trang,
ở các tổ chức kinh tế - xã hội, ở cơ sở bản và các tổ chức đại diện của Nhà nước
Lào ở nước ngoại.
- Đảng viên của Đảng Nhân dân cách mạng Lào (kể cả cấp ủy viên các cấp)
số đông có nguồn gốc sinh ra từ gia đình nông dân sản xuất nhỏ, dựa vào tự nhiên;
khoảng 20% là sinh ra từ gia đình công chức và người buôn bán nhỏ. Từ đặc điểm
nguồn gốc sinh ra đó có ảnh hưởng không nhỏ đến đặc điểm tâm lý, phong cách
lãnh đạo và hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng. Số đông đảng viên có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có trình độ học vấn và
chuyên môn nghiệp vụ từ trung cấp trở lên, 70% của tổng số đảng viên đã qua lớp
bồi dưỡng và học lý luận chính trị Mác-Lênin. Cùng với đặc điểm nêu trên, còn có
một số đảng viên ở tổ chức đảng cơ sở bản nông thôn, vùng sâu vùng xa, thì trình
độ học vấn thấp, khả năng tiếp thu kiến thức mới và đường lối, chính sách của
Đảng còn hạn chế và chưa sâu. Tuy có những đặc điểm như vậy, trong thời gian
qua, đảng viên phần lớn trung thành với mục đích, lý tưởng của Đảng, không
ngừng phấn đấu rèn luyện, giữ vững bản chất giai cấp của Đảng. Nhưng đồng thời
do đặc điểm nguồn gốc sinh ra, hoàn cảnh sống và làm việc, thì có lúc, có nơi đã
xảy ra dấu hiệu vi phạm.
- Về đối tượng cơ quan Nhà nước và cán bộ các cấp. Đây cũng là đối tượng
kiểm tra của Đảng. Bởi vì, tổ chức đảng được tổ chức lên trong các cơ quan Nhà
nước các cấp, đảng viên phần lớn là cán bộ làm việc trong cơ quan Nhà nước các
cấp, các ngành. Cán bộ lãnh đạo cấp đứng đầu cho đến cán bộ nhân viên trong cơ
quan Nhà nước, phần lớn là đảng viên. Chính tổ chức đảng và đảng viên trong các
cơ quan đó đã lãnh đạo, tổ chức thực hiện chức năng, vai trò, nhiệm vụ của cơ
59
quan ấy. Vì vậy, khi tiến hành kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên, cũng đồng thời
kiểm tra cả cơ quan và cán bộ nhà nước.
Thứ hai, hợp nhất cơ quan kiểm tra của Đảng và thanh tra của Nhà nước
để làm cả chức năng kiểm tra và thanh tra với cùng một ban lãnh đạo.
Tổ chức cơ quan kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào giai đoạn
hiện nay đã có ở tất cả các cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước, Mặt trần Lào xây
dựng đất nước, cơ quan đoàn thể, các lực lượng vũ trang từ cấp trung ương đến
cấp huyện. Cơ quan kiểm tra này nhập 2 cơ quan thành 1, về mặt Đảng là cơ quan
kiểm tra, về mặt Nhà nước là cơ quan thanh tra. Đây là một cơ quan đảm nhiệm cả
kiểm tra và thanh tra, cùng một ban lãnh đạo. Trong cơ quan này đã thành lập các
đơn vị giúp việc, mà trong đó có một số đơn vị phụ trách mạng nghiệp vụ kiểm
tra, có đơn vị phụ trách mạng nghiệp vụ thanh tra và có đơn vị phụ trách công việc
chung của cơ quan như: văn phòng - hành chính, quan hệ đối ngoại, đơn vị tổ
chức-cán bộ, đơn vị nghiên cứu khiếu tố và đơn vị nghiên cứu-tổng hợp. Cơ quan
kiểm tra này hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo 2 quy chế. Về mạng
kiểm tra, thì hoạt động theo nghị quyết của thường vụ cấp ủy cấp mình về tố chức
và hoạt động của Ban Kiểm tra, còn mạng thanh tra thì hoạt động theo quy định
của các cấp có thẩm quyền về tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra.
- Cấp Trung ương, về kiểm tra có tên gọi là Ban Kiểm tra Trung ương
Đảng, hoạt động theo nghị quyết của Bộ Chính trị về tổ chức và hoạt động của
Ban Kiểm tra Trung ương; về thanh tra có tên gọi là Thanh tra chính phủ, hoạt
động theo nghị định của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh
tra chính phủ.
- Ở các bộ và cơ quan ngang bộ, có ban kiểm tra của Đảng ủy bộ và cơ
quan ngang bộ, và có bộ máy tổ chức cơ quan kiểm tra với tên gọi là vụ kiểm tra -
thanh tra. Về kiểm tra đảng, vụ này hoạt động theo quyết định của Đảng ủy bộ và
cơ quan ngang bộ về tổ chức và hoạt động của vụ kiểm tra, về thanh tra thì hoạt
động theo quy định của bộ trưởng cơ quan về tổ chức và hoạt động của vụ thanh
tra. Vụ trưởng của vụ này là ủy viên đảng ủy bộ và cơ quan ngang bộ. Một số vụ
trưởng của vụ này, vừa là chủ nhiệm ban kiểm tra đảng ủy bộ và cơ quan ngang
bộ, còn phần nhiều là phó chủ nhiệm ban kiểm tra đảng ủy.
60
- Ở cấp tỉnh, cơ quan kiểm tra và thanh tra là một cơ quan, làm chức năng
kiểm tra và thanh tra với 2 tên gọi. Về kiểm tra có tên gọi là ban kiểm tra tỉnh,
hoạt động theo nghị quyết của ban thường vụ tỉnh ủy về tổ chức và hoạt động của
ban kiểm tra tỉnh. Về thanh tra có tên gọi là sở thanh tra tỉnh, hoạt động theo quy
định của Tổng thanh tra chính phủ về tổ chức và hoạt động của sở thanh tra tỉnh.
- Ở cấp huyện cũng tổ chức cơ quan kiểm tra như cấp tỉnh. Về kiểm tra có
tên gọi là ban kiểm tra huyện, hoạt động theo nghị quyết của ban thường vụ huyện
ủy về tổ chức và hoạt động của ban kiểm tra huyện. Về thanh tra có tên gọi là
phòng thanh tra huyện, hoạt động theo quy định của Tổng thanh tra chính phủ về
tổ chức và hoạt động của phòng thanh tra huyện.
- Ở các sở cấp tỉnh, có ban kiểm tra của đảng ủy sở và có tổ chức cơ quan
kiểm tra và thanh tra với tên gọi là phòng kiểm tra - thanh tra sở. Cơ quan này là
đơn vị giúp việc của ban kiểm tra đảng ủy sở về công tác kiểm tra - thanh tra. Về
mạng kiểm tra, phòng này hoạt động theo nghị quyết của đảng ủy sở về tổ chức và
hoạt động của phòng kiểm tra sở. Về thanh tra, thì hoạt động theo quy định của Bộ
trưởng ngành về tổ chức và hoạt động của phòng thanh tra sở.
Như vậy, tổ chức cơ quan kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã
có từ cấp trung ương đến cấp huyện theo tổ chức chính quyền và đến cấp sở của
tỉnh theo tổ chức ngành. Cơ quan kiểm tra này làm cả chức năng kiểm tra và thanh
tra, cùng một ban lãnh đạo.
* Vai trò công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào
Thứ nhất, công tác kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của
Đảng, có vai trò quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Trong
quy trình lãnh đạo của một cấp ủy thì có ba khâu chủ yếu: ra quyết định, tổ chức
thực hiện quyết định, kiểm tra sự thực hiện. Do đó, khi đánh giá sự lãnh đạo của
một cấp ủy thì phải căn cứ vào kết quả đánh giá cả ba khâu đó. Và do vậy, kiểm
tra là một khâu không thể thiếu được trong thực hiện chức năng lãnh đạo, làm cho
quy trình lãnh đạo hoàn chỉnh, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Lãnh đạo đúng
nghĩa là: Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng… Phải tổ chức sự thi
hành cho đúng… Phải tổ chức sự kiểm soát” [37, tr.285].
61
Xếp thứ tự như vậy, nhưng kiểm tra không phải là khâu cuối cùng trong
quy trình lãnh đạo, mà là đan xen vào tất cả các khâu, tạo cho quy trình lãnh đạo
được hoàn chỉnh. Chủ tịch Cayxỏn Phômvịhản đã chỉ ra:
Việc chuẩn bị và soạn thảo nghị quyết của Đảng là yếu tố quan trọng
trong hệ thống đường lối của Đảng và quản lý của Nhà nước. Nhưng
nghị quyết đó tuy rất chi tiết, kỹ và đầy đủ mấy, nó chỉ là điều kiện để
giải quyết các vấn đề đặt lên cho đạt kết quả tốt, bởi vì sự tổ chức thực
hiện công việc cụ thể đã xác định trong nghị quyết đó là vấn đề chính
và tương đối phức tạp. Vì vậy, tiến hành kiểm tra, thanh tra một cách có
hệ thống trong tổ chức thực hiện phải đặt lên hàng đầu trong quy trình
lãnh đạo, quản lý [113, tr.14-15].
Vì vậy, công tác kiểm tra là một chức năng không thể thiếu được trong sự
lãnh đạo, điều này được Đảng Nhân dân cách mạng Lào khẳng định: “Nếu không
kiểm tra cũng có nghĩa là không có sự lãnh đạo. Đây đã chỉ ra, kiểm tra là nguyên
tắc quan trọng, là một trong những chức năng chính của sự lãnh đạo của Đảng”
[93, tr.77]. Khi nói đến vai trò của công tác kiểm tra đối với sự lãnh đạo của
Đảng,Tổng bí thư Cayxỏn Phômvịhản đã nhấn mạnh: “Kiểm tra là bộ phận quan
trọng cấu thành sự lãnh đạo, không kiểm tra cũng như không có sự lãnh đạo. Lãnh
đạo sẽ có hiệu quả hay không, một phần là phụ thuộc vào công tác kiểm tra” [82,
tr.517]. Đó là bởi vì quy trình lãnh đạo của Đảng phải thực sự khoa học và hoàn
chỉnh, không thể cắt xén hoặc giảm bớt, xem nhẹ bất cứ khâu nào. Sự chia tách
quy trình lãnh đạo đó thành các khâu cũng chỉ mang tính tương đối, vì kiểm tra
không chỉ là khâu cuối cùng của quy trình lãnh đạo, mà nó đã đan xen vào tất cả
các khâu, tạo nên sự hoàn chỉnh của cả quy trình lãnh đạo; là một trong những nội
dung quan trọng trong phương thức, phong cách lãnh đạo của Đảng.
Mục đích công tác kiểm tra là nhằm phòng ngừa, phát hiện các hành vi vi
phạm của tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành và tổ chức thực hiện
chủ trương, đường lối, chính sách, điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng; phát hiện
những sơ hở trong đường lối, chính sách với tổ chức đảng có thẩm quyền các biện
pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; làm cho Đảng năm bắt được thực tiễn
sự lãnh đạo, và qua đó khắc phục, củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo trong mọi
62
lĩnh vực công việc của đất nước, Tổng bí thư Cayxỏn Phômvịhản đã khẳng định
mục đích và vai trò này: “Kiểm tra là nhằm nâng cao và phát huy vai trò lãnh đạo
của Đảng trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội” [82, tr.518].
Giai đoạn hiện nay, Đảng lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, hội nhập
khu vực và quốc tế, thì vai trò của công tác kiểm tra đối với sự lãnh đạo của Đảng
càng hết sức quan trọng. Đó là bởi vì đòi hỏi trong sự lãnh đạo của Đảng phải đưa
ra được chủ trương, đường lối, chính sách phù hợp với điều kiện mới và với từng
giai đoạn cụ thể. Mặt khác, giai đoạn hiện nay có rất nhiều vấn đề mới phát sinh;
đối tượng, phạm vi, nội dung lãnh đạo của Đảng ngày càng đa dạng, phong phú,
phức tạp hơn giai đoạn trước. Để có được chủ trương, đường lối, chính sách đúng
và phù hợp; có giải pháp thực hiện tối ưu, kịp thời phát hiện sai sót, hoàn chỉnh
đường lối, chính sách và các quyết định, thì cần tăng cường công tác kiểm tra,
điều này đã được Đảng Nhân dân cách mạng Lào khẳng định:
Xã hội luôn luôn có sự biến đổi, vì vậy đường lối của Đảng không phải
chỉ đưa ra một lần, một cái là xong, mà phải luôn luôn bổ sung và kiện
toàn đường lối đó thông qua sự kiểm tra trong thực tiễn. Vì lý do đó,
tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong giai đoạn mới đã bao
trùm cả tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện đường lối, làm cho
đường lối trở thành cái chi tiết và cụ thể [88, tr.35].
Trong thực tiễn, nghị quyết, chỉ thị, các quyết định của Đảng, tuy đã trình
bày rất chi tiết, cụ thể, nhưng khi tổ chức thực hiện ở các cơ quan, đơn vị và địa
phương, thì kết quả tổ chức thực hiện đạt được khác nhau. Do đó, để làm cho việc
tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị, các quyết định của Đảng đạt hiệu quả cao,
thì đòi hỏi tăng cường công tác kiểm tra và kiểm tra một cách có hệ thống. Đảng
đã khẳng định: “Công tác kiểm tra là một chức năng chính của cấp ủy. Không
kiểm tra cũng có nghĩa không có sự lãnh đạo. Tiến hành kiểm tra là để tăng cường
hiệu lực của sự chỉ đạo, đảm bảo cho các quyết định được tổ chức thực hiện và kịp
thời bổ sung cái chưa đủ” [87, tr.119].
Như vậy, công tác kiểm tra có vai trò hết sức quan trọng đối với sự lãnh
đạo của Đảng, là một bộ phận không thể thiếu được trong thực hiện quy trình
lãnh đạo, làm cho sự lãnh đạo hoàn chỉnh đúng nghĩa khoa học của sự lãnh đạo;
63
làm cho sự lãnh đạo gắn với thực tiễn hơn, đảm bảo sự thống nhất giữa nghị
quyết và sự chấp hành, giữa lời nói và việc làm; giúp phòng ngừa, khắc phục
bệnh quan liêu, chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo. Điều này đã được khẳng
định: “Tiến hành kiểm tra là để tăng cường hiệu lực của sự chỉ đạo, đảm bảo cho
các quyết định được thực hiện và bổ sung kịp thời cái chưa đủ” [87, tr.119]. Như
vậy, công tác kiểm tra có vai trò cho việc giữ vững sự lãnh đạo của đảng để lãnh
đạo đất nước phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa, như V.I.Lênin đã dạy:
“Không tiến hành kiểm kê và kiểm soát toàn diện đối với việc sản xuất và phân
phối sản phẩm, thì chính quyền của những người lao động, nền tự do của họ sẽ
không thể nào duy trì được và nhất định họ sẽ phải sống trở lại dưới ách của chủ
nghĩa tư bản” [27, tr.224].
Thứ hai, công tác kiểm tra là một phương thức lãnh đạo của Đảng. Thông
qua công tác kiểm tra mà Đảng tác động đến các đối tượng lãnh đạo để đảm bảo các
nội dung lãnh đạo, tức là đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng được thực
hiện đúng đắn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ:
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và
xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về
chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục,
vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu
của đảng viên [13, tr.88].
Với vai trò là phương thức lãnh đạo, công tác kiểm tra góp phần quyết định
thắng lợi của đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc
thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ,
và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”
[37, tr.520].
Thứ ba, công tác kiểm tra của Đảng là một mặt công tác xây dựng Đảng,
góp phần xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức. Trong công tác
xây dựng Đảng, công tác kiểm tra được tiến hành trong tất cả các mặt xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và góp phần làm nên chất lượng,
64
hiệu quả tất cả các mặt công tác này; chọn được và phát hiện hạn chế, hoàn thiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Trong xây dựng nội bộ Đảng, công
tác kiểm tra là công cụ rất hiệu nghiệm để ngăn ngừa khuyết điểm, sai lầm và phát
hiện, động viên người tốt, việc tốt. Trên cơ sở kiểm tra, Đảng thấy rõ ưu, khuyết
điểm, mặt mạnh, mặt yếu trong quá trình lãnh đạo của các tổ chức đảng, các cấp
ủy và của đội ngũ cán bộ, đảng viên, từ đó phát huy những ưu điểm, kịp thời khắc
phục những khuyết điểm, thúc đẩy công việc tiến bộ hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu rõ:
Nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đèn “pha”.
Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu cán
bộ, chúng ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm
trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra. Nếu tổ chức sự
kiểm tra được chu đáo, thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp
mười, gấp trăm [37, tr.521].
Kiểm tra góp phần củng cố Đảng về tư tưởng, tổ chức. Qua công tác kiểm
tra, việc tốt được ghi nhận, phát huy; việc kém được phát hiện khắc phục; đảng
viên, tổ chức đảng vi phạm được xử lý thích đáng, làm trong sạch tổ chức, đội ngũ
đảng viên. Trong bài nói chuyện tại hội nghị tổng kết công tác kiểm tra của Đảng
(ngày 29/7/1964), Hồ Chí Minh nói: “Vì kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo
dục đảng viên và cán bộ làm tròn nhiệm vụ đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt
cho nhân dân. Do đó, mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ
chức” [41].
Mục tiêu công tác kiểm tra là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của Đảng, sự đoàn kết thống nhất và bảo đảm thực hiện dân chủ trong Đảng,
giữ vững kỷ cương, kỷ luật trong Đảng; phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, bảo vệ quan điểm
đường lối của Đảng, tránh các nguy cơ sai lầm về đường lối, quan liêu, xa dân của
đảng cầm quyền. Tăng cường công tác kiểm tra là nhằm phát hiện và khẳng định
sự đúng đắn của đường lối; phát huy năng lực, sức chiến đấu của Đảng và sự nêu
gương tiên phong của đảng viên, phát hiện những nhân tố mới, nhân tố tích cực và
những người hăng hái, xuất sắc trong phong trào công việc thực tiễn để nhân rộng,
65
biểu dương và giao nhiệm vụ trọng trách; không ngừng nâng cao uy tín và vai trò
của Đảng. Đồng thời phát hiện sự sơ sài, yếu kém, hiện tượng tiêu cực để kịp thời
khắc phục. Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã khẳng định:
Công tác kiểm tra là đảm bào vững chắc sự đoàn kết thống nhất trong
nội bộ Đảng, trước hết là trong ban lãnh đạo đảng các cấp; làm cho hoạt
động của cấp ủy và chính quyền ngày càng có chất lượng cao, đúng
điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước; làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
trung thành và thật thà thực hiện nhiệm vụ, ngăn chặn, hạn chế bệnh
quan liêu và tham nhũng [89, tr.63].
Qua tiến hành kiểm tra đã kịp thời phát hiện và đánh giá đúng ưu điểm của
tổ chức đảng và đảng viên để phát huy, đồng thời cũng phát hiện và làm rõ về sự
thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn, khắc phục và xử lý nghiêm minh khi có vi
phạm, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phục vụ tổng kết thực
tiễn, nhân rộng những nhân tố mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối,
chủ trương của Đảng; chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, cục bộ, bản vị; chống quan
liêu, tham nhũng, tiêu cực. Vai trò này được Đảng Nhân dân cách mạng Lào
khẳng định:
Trong điều kiện hiện nay công tác kiểm tra càng có vai trò nổi bật, đã
giúp chúng ta kịp thời phát hiện, khai thác và phát huy mặt tích cực và
nhân tổ mới, nhân tố tiến bộ được nhanh, đồng thời đã giúp phòng
ngừa, ngăn chặn và kịp thời khắc phục các hiện tượng tiêu cực, sự suy
thoái tác động đến uy tín của Đảng [93, tr.77-78].
2.2.2. Khái niệm, tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào
2.2.2.1. Khái niệm chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào
Chất lượng là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong đời sống, nhưng tùy
theo góc độ xem xét mà người ta có định nghĩa khác nhau. Theo Từ điển bách
khoa tiếng Việt:
Chất lượng theo định nghĩa triết học, là phạm trù triết học biểu thị
những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định
66
tương đối của sự vật phân biệt nó với các sự vật khác. Chất lượng là
đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngoài qua
các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại là một,
gắn bó với sự vật như một tổng thể, bao quát toàn bộ sự vật và không
tách khỏi sự vật. Sự vật trong khi vẫn còn là bản thân nó thì không thể
mất chất lượng của nó. Sự thay đổi chất lượng kéo theo sự thay đổi của
sự vật về căn bản. Chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn liền với tính
quy định về số lượng của nó và không thể tồn tại ngoài tính quy định
ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất của chất lượng và số
lượng [53, tr.419].
Ở lĩnh vực kinh tế, chất lượng được quan niệm là tập hợp những tính chất
của sản phẩm thể hiện mức độ thỏa mãn những yêu cầu định trước cho nó, trong
điều kiện xác định về kỹ thuật, kinh tế, xã hội.
Với nghĩa thường dùng trong đời sống xã hội, chất lượng được hiểu là: “1.
Cái làm nên phẩm chất, giá trị của con người, sự vật; 2. Cái tạo nên bản chất sự
vật, làm cho sự vật này khác với sự vật khác” [55, tr.331].
Qua một số khái niệm nêu trên về chất lượng cho thấy khái niệm về chất
lượng tùy thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể, nhưng đều có cái chung là: chất lượng
của sự vật là tổng hợp các thuộc tính bản chất, những giá trị đặc trưng của sự vật,
quy định sự tồn tại và mức độ đáp ứng của sự vật so với yêu cầu, hoặc nhu cầu
xác định của con người, của xã hội.
Như vậy khái niệm "chất lượng" hàm chứa trong nó tính chỉnh thể, tổ hợp
các thuộc tính, cấu thành nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật.
Chất lượng luôn gắn liền với sự vật, hiện tượng, để nói lên thực chất của sự vật,
hiện tượng đó. Ví dụ, chất lượng của tổ chức đảng A, tổ chức đảng B; chất lượng
công tác tổ chức, cán bộ; chất lượng công tác đảng viên; chất lượng công tác bảo
vệ chính trị nội bộ đảng,...
Công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào bao gồm nhiều nội
dung, biện pháp công tác được đặt ra với các yêu cầu xác định để phục vụ công
tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, như yêu cầu về tính chủ động, về thực
hiện hình thức, phương pháp kiểm tra, về phát hiện, xử lý các sai phạm, về hiệu
67
quả giáo dục, phòng ngừa... Việc thực hiện tốt hay không tốt các yêu cầu đó xác
định chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào.
Về chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, từ
cách nhìn khác nhau, mỗi nhóm người hay mỗi người có thể có nhiều cách hiểu
khác nhau. Nhưng dù hướng đánh giá đến từ đâu, từ cấp trên hay từ phía tổ chức
đảng, đảng viên, người dân thì chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào chung quy vẫn được quy về việc công tác kiểm tra đáp ứng được
đến mức nào các yêu cầu mà Đảng đặt ra cho công tác này.
Từ khái niệm chất lượng và khái niệm công tác kiểm tra của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào có thể thấy chất lượng công tác kiểm tra là những cái làm nên
giá trị của các hoạt động kiểm tra, là kết quả xem xét làm rõ bản chất của sự việc,
hiện tượng; làm rõ cái đúng, cái sai trong hoạt động kiểm tra, từ đó mà góp phần
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Với ý nghĩa này, có thể thấy: Chất lượng
công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào là tổng hợp những tính
chất thể hiện mức độ đạt được của việc xây dựng đường lối, chủ trương, kế hoạch
công tác kiểm tra; việc thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp kiểm tra và
kết quả công tác kiểm tra của Đảng.
Chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào được
quy định bởi nhiều yếu tố, như:
- Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
chủ trương của Đảng về công tác kiểm tra. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu tạo
nên chất lượng công tác kiểm tra của Đảng. Bởi vì, nó là căn cứ để xác định
phương hướng, nhiệm vụ kiểm tra của Đảng; xác định cơ cấu ban kiểm tra, cơ
quan ban kiểm tra và đội ngũ cán bộ kiểm tra; xác định mục đích, nội dung,
phương pháp kiểm tra và chính đây là căn cứ cho đánh giá, nhận xét và kết luận
kiểm tra. Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã chỉ ra về tăng cường và nâng cao chất
lượng công tác kiểm tra thì phải cụ thể hóa chủ trương, đường lối, điều lệ, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật Nhà nước thành các chế độ, quy định, quy
chế về công tác kiểm tra: “Trước hết phải quy định rõ và chi tiết chế độ, quy chế
về công tác kiểm tra” [91, tr.59]. Nếu chủ trương, đường lối, điều lệ, nghị quyết,
chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước đảm bảo khách quan, có tính khoa
68
học, đồng bộ, hoàn chỉnh sẽ làm cho công tác kiểm tra thuận lợi, và chính đây đã
tạo điều kiện cho công tác kiểm tra có chất lượng.
- Đường lối, phương hướng, nhiệm vụ, nguyên tắc, nội dung, hình thức,
phương pháp kiểm tra. Ở cấp toàn Đảng, Trung ương Đảng đưa ra phương hướng,
nhiệm vụ, quan điểm, nguyên tắc, chỉ thị, kế hoạch, nội dung, phương pháp kiểm
tra tầm vĩ mô. Căn cứ vào đó thì Ban Kiểm tra Trung ương có văn bản hướng dẫn
cho các cấp ủy cấp dưới triển khai. Cấp ủy các cấp theo thẩm quyền cần cụ thể
hóa thành phương châm, tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc, chỉ thị, kế hoạch, nội dung,
hình thức, phương pháp kiểm tra trong phạm vi lãnh đạo cho phù hợp nhưng phải
đảm bảo đúng với văn bản của cấp trên đề ra. Đây là yếu tố rất quan trọng, là chỗ
dựa, là những vấn đề có tính nguyên tắc và là công cụ đảm bảo cho công tác kiểm
tra hoạt động đúng, tránh được sai lầm, và đồng thời nó là phương thức tác động
để công tác kiểm tra đạt được mục đích, yêu cầu, có hiệu quả và chất lượng cao.
- Chất lượng chủ thể kiểm tra. Chủ thể kiểm tra của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào bao gồm: các tổ chức đảng, các cấp ủy đảng, ban kiểm tra các cấp, cán
bộ làm công tác kiểm tra, đội ngũ đảng viên. Nếu các tổ chức này, cán bộ làm
công tác kiểm tra và đội ngũ đảng viên nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của công
tác kiểm tra đối với sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng, chủ động
tổ chức thực hiện công tác kiểm tra trong phạm vi, quyền hạn đúng theo quan
điểm, chủ trương, đường lối, Điều lệ Đảng sẽ làm cho công tác kiểm tra được tiến
hành thường xuyên và thành nề nếp, sẽ phát hiện, phòng ngừa và khắc phục ngay
từ đầu các hiện tượng tiêu cực, kịp thời phát huy các ưu điểm và nhân rộng các
nhân tố mới tích cực. Mặt khác, sự trong sạch vững mạnh của tổ chức đảng, các
cấp ủy và phẩm chất của đội ngũ đảng viên cộng với năng lực của ban kiểm tra và
cán bộ làm công tác kiểm tra tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kiểm tra. Có
thể nói, đây là yếu tố quyết định chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào.
- Các lực lượng tham gia công tác kiểm tra. Công tác kiểm tra của Đảng
được tiến hành theo phương pháp của công tác Đảng, xây dựng Đảng thông qua
phong trào cách mạng của quần chúng. Công tác kiểm tra là một trong những
công tác xây dựng Đảng, vì vậy công tác kiểm tra có chất lượng như thế nào, nó
69
còn phụ thuộc vào các lực lượng tham gia. Các lực lượng tham gia công tác kiểm
tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào bao gồm: các tổ chức trong hệ thống chính
trị và tổ chức xã hội, đội ngũ cán bộ và quần chúng trong các tổ chức trên, quần
chúng nhân dân nơi tổ chức đảng và đảng viên cư trú. Các tổ chức đảng và đảng
viên hoạt động và sinh sống trong các tổ chức đó và trong xã hội. Do đó, họ là
người thấy, biết, hiểu về hoạt động của tổ chức đảng và mỗi đảng viên trong tổ
chức của họ, trong mối quan hệ với họ và với xã hội là thế nào. Vì vậy, sự tham
gia của các lực lượng này vào công tác kiểm tra đúng theo quan điểm của Đảng về
công tác xây dựng Đảng sẽ đảm bảo tính khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời
của hoạt động kiểm tra. Do vậy, nó góp phần quan trọng làm cho công tác kiểm
tra có chất lượng. Nhưng muốn đạt được như vậy, thì cấp ủy và ban kiểm tra các
cấp cần công khai hóa công tác kiểm tra, phát động và khơi dậy tinh thần trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức, quần chúng, nhân dân đối với công tác xây dựng
Đảng và qua đó phát huy vai trò, trách nhiệm trong công tác kiểm tra để xây dựng
Đảng như Đảng Nhân dân cách mạng Lào xác định: “Cần phối hợp kiểm tra của
Đảng với thanh tra Nhà nước và kiểm tra của nhân dân; tạo điều kiện cho quần
chúng có khả năng tham gia vào công tác kiểm tra một cách chủ động” [95, tr.51].
- Các điều kiện và phương tiện để hoạt động của cơ quan kiểm tra và cán
bộ kiểm tra tiến hành cuộc kiểm tra. Điều kiện và phương tiện cho công tác kiểm
tra bao gồm: điều kiện về không gian, thời gian; cơ sở vật chất kỹ thuật, kinh phí;
các chính sách đối với cơ quan và cán bộ kiểm tra, đối với lực lượng tham gia
công tác kiểm tra. Đây là yếu tố không thể thiếu được để công tác kiểm tra được
tổ chức thực hiện trong thực tế. Trong điều kiện hiện nay, yếu tố này càng có vai
trò quan trọng làm cho ban kiểm tra và cơ quan ban kiểm tra các cấp có đủ khả
năng thực hiện chức năng chính xác, khách quan, kịp thời. Nếu đáp ứng được tốt
yếu tố này sẽ tạo ra động lực thúc đẩy cho cơ quan kiểm tra các cấp, đội ngũ cán
bộ kiểm tra chủ động thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định
của Điều lệ Đảng và đồng thời sẽ phát động được tính tự giác tham gia công tác
kiểm tra của đông đảo quần chúng, nhân dân, vì vậy làm cho công tác kiểm tra
của Đảng Nhân dân cách mạng Lào được hoạt động mạnh mẽ hơn nhiều.
70
- Mức độ hiệu lực thực hiện kết luận kiểm tra. Mức độ hiệu lực thực hiện
kết luận của từng cuộc kiểm tra có tác động rất lớn đối với chất lượng công tác
kiểm tra chung của toàn Đảng. Bởi vì qua mỗi cuộc kiểm tra hoàn thành thì tổ
chức và đảng viên được kiểm tra đã phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, sai
lầm, ngăn chặn những tiêu cực, làm cho tổ chức đảng và đảng viên nơi đó thi hành
nhiệm vụ tốt hơn, tổ chức được củng cố mạnh lên. Sau cuộc kiểm tra, mỗi đối
tượng kiểm tra được củng cố cả về tổ chức và hoạt động đều tốt lên thì làm cho
toàn Đảng vững mạnh lên. Nếu không tổ chức thực hiện kết luận kiểm tra có hiệu
lực, thì cuộc kiểm tra đó không đạt được mục đích và yêu cầu đề ra. Do đó, thực
hiện kết luận của từng cuộc kiểm tra có hiệu lực cũng là một yếu tố tạo nên chất
lượng của công tác kiểm tra.
Các yếu tố trên đây gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại một cách
biện chứng, quy định nên chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào. Điều này, đã được xác định:
Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra đi đối với nâng trình độ năng
lực của cán bộ kiểm tra; khẩn trương nghiên cứu, ra các chế độ, quy
chế và cơ chế kiểm tra từng việc, từng mặt cụ thể; phối hợp kiểm tra
của Đảng với thanh tra Nhà nước và kiểm tra của nhân dân; tạo điều
kiện cho quần chúng có khả năng tham gia vào công tác kiểm tra một
cách chủ động; phải củng cố hoạt động của Ban Kiểm tra các cấp cho
có hiệu quả. Cái quan trọng là phải thực hiện có hiệu lực kết luận
kiểm tra [95, tr.51].
2.2.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào
Đánh giá đúng chất lượng công tác kiểm tra là một việc khó, bởi vì chất
lượng của công tác kiểm tra vừa cụ thể, vừa trừu tượng; vừa tác động trực tiếp,
vừa tác động gián tiếp đến công tác xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính
trị của địa phương. Vì vậy, việc đánh giá chất lượng công tác kiểm tra cần phải
được xem xét, đánh giá một cách toàn diện với quan điểm lịch sử, cụ thể theo
những tiêu chí khoa học.
71
Theo Từ điển tiếng Việt, tiêu chí là: “Tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để
nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm” [56, tr.990].
Tiêu chí đánh giá thường được xây dựng thành các chuẩn, các “thước đo”
định tính và định lượng để từ đó mà đối chiếu vào để nhận xét, đánh giá.
Theo nghĩa này, có thể hiểu: Tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm
tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào là dấu hiệu, tính chất mà dựa vào đó có
thể nhận biết, đánh giá được chất lượng công tác kiểm tra của Đảng là tốt hay
chưa tốt, đạt hay chưa đạt mục đích, yêu cầu đặt ra.
Tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm tra mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn
khác nhau cũng có sự khác nhau về tính chất, các dấu hiệu và mức độ yêu cầu để
đáp ứng việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng, mục tiêu, yêu
cầu về công tác kiểm tra do Đảng để ra.
Từ khái niệm về chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào, thực tiễn công tác xây dựng Đảng và công tác kiểm tra của Đảng, có
thể xác định tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào như sau:
Thứ nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, trực tiếp là cấp ủy các cấp đối với công tác
kiểm tra là tiêu chí đầu tiên để đánh giá chất lượng công tác kiểm tra. Bởi vì
công tác kiểm tra là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch
Caysỏn PhômVị Hản đã nhấn mạnh: “Đảng ta coi sự lãnh đạo công tác kiểm tra
và kiểm tra đối với sự tổ chức thực hiện là nhiệm vụ quan trọng hơn hết của
mình” [113, tr.16].
Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra là tính Đảng của công tác kiểm tra, là
Đảng xác định vị trí, vai trò, nguyên tắc của công tắc kiểm tra; đề ra chủ trương,
phương hướng, nội dung, nhiệm vụ kiểm tra; xác định tổ chức bộ máy, cơ cấu ban
kiểm tra, cơ quan của ban kiểm tra và đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ làm công tác
kiểm tra; quyết định kế hoạch, nội dung, đối tượng cụ thể của mỗi cuộc kiểm tra;
lãnh đạo phối hợp các ngành, các cấp trong tiến hành kiểm tra; quyết định kết luận
kiểm tra và chỉ đạo thực hiện kết luận kiểm tra. Ở cấp toàn Đảng và cấp trung
ương là Ban Chấp hành Trung ương và trực tiếp là Ban Bí thư và Bộ Chính trị có
72
trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra. Ở tổ chức đảng cấp còn lại là cấp
ủy của cấp đó lãnh đạo chỉ đạo công tác kiểm tra của cấp mình. Do đó, công tác
kiểm tra được tổ chức thực hiện như thế nào đều phụ thuộc vào sự lãnh đạo, chỉ
đạo của cấp ủy. Điều lệ Đảng Nhân dân cách mạng Lào xác định: “Cấp ủy là
người chỉ đạo trực tiếp công tác kiểm tra, giám sát; có trách nhiệm lãnh đạo nhiệm
vụ kiểm tra và xử lý kết luận kiểm tra” [94, tr.85]. Nếu cấp ủy nào nhận thức đúng
vị trí, vai trò, mục đích, ý nghĩa và tác dụng của công tác kiểm ta đối với sự lãnh
đạo của mình, biết lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt công tác kiểm tra của cấp ủy, của
tổ chức đảng và của ban kiểm tra đúng theo quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng; chủ động xử lý kết quả qua kiểm tra theo phạm vi quyền hạn của mình thì
nhất thiết công tác kiểm tra của cấp đó có chất lượng. Từ chất lượng công tác
kiểm tra của mỗi cấp ủy như vậy sẽ tạo thành chất lượng công tác kiểm tra của
toàn Đảng.
Để giải quyết vấn đề này, Ban Bí thư Trung ương và Ban Kiểm tra Trung
ương cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến quan điểm, chủ trương, đường lối,
điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác kiểm tra bằng nhiều hình thức
nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức cho cấp ủy, tổ chức đảng về vị trí, vai trò, mục
đích, ý nghĩa, tác dụng công tác kiểm tra. Cấp ủy và ban kiểm tra cấp trên cần tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc cấp ủy cấp dưới về sự lãnh đạo, chỉ
đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra. Tổng kết công tác kiểm tra hàng năm
của ban kiểm tra cấp trên, nên nêu gương và biểu dương cấp ủy cấp dưới trực tiếp
đã lãnh đạo, chỉ đạo tốt đối với công tác kiểm tra, đồng thời cũng nêu lên cấp ủy
chưa làm tốt chức năng này.
Thứ hai, việc xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm
tra; nội dung kiểm tra.
Cần xem xét việc tổ chức đảng các cấp xây dựng và tổ chức thực hiện
chương trình, kế hoạch kiểm tra toàn khóa, hằng năm; việc xác định trọng tâm,
trọng điểm kiểm tra; việc dự kiến lực lượng tiến hành và phương thức thực hiện;
việc cán bộ kiểm tra nhận thức và quán triệt chương trình, kế hoạch đó như thế
nào. Xem xét việc triển khai thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm tra,
73
đồng thời xem xét việc kiểm tra cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra và thi hành kỷ luật đảng, kiểm tra tài chính đảng.
Thứ ba, việc thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc và
quy trình kiểm tra của Đảng.
Việc thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc và quy trình
kiểm tra đúng hay không là yếu tố có tính quyết định đến tính chính xác của việc
xem xét, đánh giá, kết luận kiểm tra, đến kết quả kiểm tra, phản ánh rõ chất lượng
công tác kiểm tra của Đảng. Do đó để đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào cần xem xét việc thực hiện nội dung, hình thức,
phương pháp, nguyên tắc và quy trình kiểm tra như thế nào. Việc thực hiện nội
dung, hình thức, nguyên tắc và các quy trình kiểm tra là một trong những tiêu chí
quan trọng để đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào. Thực hiện các vấn đề trên đúng và tốt là yếu tố làm cho công tác kiểm
tra có chất lượng cao.
Thứ tư, sự phối hợp của các cơ quan chức năng và sự tham gia của các tổ
chức chính trị - xã hội vào công tác kiểm tra của Đảng.
Công tác kiểm tra của Đảng là một trong những công tác xây dựng Đảng,
đối tượng kiểm tra là tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các cơ quan
Đảng, Nhà nước, mặt trận, đoàn thể quần chúng và các tố chức xã hội. Các tổ
chức đảng và đảng viên không chỉ chấp hành và thi hành đường lối, Điều lệ, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, mà còn chấp hành và thi hành pháp luật của Nhà nước,
chế độ, quy chế, quy định của tổ chức và cơ quan mình hoạt động làm việc. Đó
bởi vì mỗi một đảng viên vừa là đảng viên, vừa là cán bộ của Nhà nước, vừa là
đoàn viên của các tổ chức đoàn thể và là công dân. Do đó mỗi một đảng viên đều
sống và hoạt động trong các tổ chức ấy và dưới sự kiểm tra, thanh tra của các tổ
chức mà mình là thành viên, và Đảng cũng đã xác định: “Đảng tôn trọng và hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” [94, tr.4].
Mặt khác, ở Lào có sự kiểm tra, thanh tra, kiểm toán của các cơ quan chức
năng, của tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức đoàn thể. Tất cả hoạt động công
tác kiểm tra, thanh tra đó hợp thành một hệ thống công tác kiểm tra, thanh tra dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Ngoài ra đối với hoạt động của lĩnh vực kinh tế, tài chính,
74
ngân hàng, doanh nghiệp lớn của Nhà nước còn thuê cơ quan kiểm toán quốc tế có
uy tín vào kiểm tra, xác nhận năng lực hoạt động kinh doanh và sự trong sáng
trong hoạt động tài chính.
Mỗi một cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các tổ chức đoàn thể hiện
nay, đều có quy định chức năng kiểm tra và có tổ chức bộ máy chuyên trách làm
công tác này. Như vậy, tất cả các cơ quan trong hệ thống tổ chức chính trị - xã hội
của Lào đều có tổ chức và hoạt động kiểm tra, thanh tra theo chức năng, nhiệm
vụ, phạm vi quyền hạn của mỗi cơ quan. Hoạt động kiểm tra của mỗi cơ quan này
đều đụng chạm tới cán bộ là đảng viên hoạt động tại cơ quan đó và sự lãnh đạo
của cấp ủy cơ quan. Do đó, nó có quan hệ liên quan và tác động đến sự lãnh đạo
chung của Trung ương Đảng. Trong thực tiễn, khi kiểm tra sự lãnh đạo của một
cấp ủy, bởi vì cấp ủy lãnh đạo toàn diện thì phải xem xét kết luận kiểm tra, thanh
tra, kiểm toán của các cơ quan chức năng theo ngành dọc của họ trong phạm vi sự
lãnh đạo của cấp ủy đó, mới đánh giá đúng và khách quan.
Sự tham gia của xã hội (quần chúng, nhân dân, các thông tin đại chúng) vào
công tác kiểm tra là tăng thêm sức mạnh thúc đẩy cho công tác kiểm tra có chất
lượng. Đó là vì lực lượng này hết sức rộng lớn, có ở mọi lúc, mọi nơi, tiếp xúc với
tổ chức đảng và đảng viên tại nơi họ hoạt động và cư trú. Nếu họ nhận thức đúng
mục đích, ý nghĩa, nội dung công tác kiểm tra của Đảng thì họ sẽ là người theo
dõi, nắm tình hình hoạt động, rồi góp ý kiến cho tổ chức đảng và đảng viên ở đó,
đồng thời họ sẽ phản ánh tình hình đó cho tổ chức đảng cấp trên nắm được.
Vì vậy, đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của Đảng cần xem xét cả sự
phối hợp của các cơ quan chức năng và sự tham gia của các tố chức chính trị - xã
hội vào công tác kiểm tra của Đảng như thế nào. Nếu chủ thể kiểm tra Đảng biết
phối hợp với các cơ quan chức năng, biết tạo điều kiện và thu hút sự tham gia của
các tổ chức chính trị - xã hội vào công tác kiểm tra, thì chất lượng công tác kiểm
tra sẽ nâng cao. Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã xác định: “Phối hợp nhuần
nhuyễn giữa kiểm tra của Đảng với thanh tra của Nhà nước và kiểm tra của nhân
dân” và: “Phải thực hiện chế độ khuyến khích cho tổ chức và quần chúng được
kiểm tra, giám sát và đánh giá về hoạt động của đảng viên một cách thuận lợi
hơn” [95, tr.51-52].
75
Thứ năm, kết quả tiến hành kiểm tra
Công tác kiểm tra có chất lượng hay không, dấu hiệu cuối cùng và chính
xác nhất là xem kết quả đạt được của việc kiểm tra như thể nào. Kết quả tiến hành
kiểm tra được thể hiện trong kết luận kiểm tra, trong đó có nhận xét, đánh giá thực
trạng về ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm, đưa ra phương hướng và giải pháp để
khuyến khích, phát huy ưu điểm, nhân tố mới - nhân tố tích cực và khắc phục, sửa
chữa mặt khuyết điểm, hạn chế hoặc xử lý sự vi phạm. Ngoài ra, kết quả kiểm tra
còn ở kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền hữu quan xóa bỏ các văn bản pháp lý
không còn phù hợp, chỉnh sửa, bổ sung thêm nội dung của các văn bản có sơ hở
hoặc ra thêm các quy định, quy chế mới. Để đưa ra được phương hướng, giải pháp
có khả năng tổ chức thực hiện sau cuộc kiểm tra thì đòi hỏi việc thu thập và phân
tích, đánh giá thông tin, tài liệu, chứng cứ phải rõ ràng, chính xác.
Kết quả tiến hành kiểm tra không chỉ xem ở kết luận kiểm tra đó phát hiện
các vấn đề và nhận xét, đánh giá rõ, đúng thực tế, mà còn xem xét hiệu quả việc
thực hiện kết luận kiểm tra của đối tượng kiểm tra, của các tổ chức và cơ quan có
liên quan. Sau cuộc kiểm tra, các nhân tố tích cực, ưu điểm đã được phát huy và
nhân rộng ra ở nhiều tổ chức; còn mặt khuyết điểm, hạn chế hoặc vị phạm đã
được khắc phục, xử lý nghiêm minh và tiêu cực đã được ngăn chặn không xảy ra
ở nơi khác nữa. Kết quả tiến hành kiểm tra đạt được đúng mục đích, yêu cầu của
công tác kiểm tra hay không, đây là một tiêu chí đánh giá chất lượng công tác
kiểm tra của Đảng, Chủ tịch Caysỏn PhômVịHản đã chỉ ra rằng:
Kiểm tra là để nâng cao và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong
mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Vậy kiểm tra phải phát hiện mặt ưu và
nhân tố mới, nhân tố tích cực để khuyến khích và vun đắp thêm. Phát
hiện hành vi vi phạm và nguyên, nguyên nhân và động lực của nó để đề
phòng, ngăn chặn và khắc phục [82, tr.578].
Các tiêu chí để đánh giá chất lượng công tác kiểm tra nêu trên, chúng có
quan hệ biện chứng với nhau. Do đó để đánh giá đúng chất lượng công tác kiểm
tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào thì phải xem xét đồng bộ việc thực hiện
nội dung các tiêu chí trên.
76
Kết luận chương 2
Công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào là hệ thống hoạt
động của các tổ chức đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ xem xét, đánh giá, kết
luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của tổ
chức đảng.
Công tác kiểm tra của Đảng có vai trò rất quan trọng: là một trong những
chức năng lãnh đạo của Đảng; là một phương thức lãnh đạo của Đảng; là một mặt
công tác xây dựng Đảng, góp phần xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào là tổng
hợp những tính chất thể hiện mức độ đạt được của việc xây dựng đường lối, chủ
trương, kế hoạch công tác kiểm tra; việc thực hiện nội dung, hình thức, phương
pháp kiểm tra và kết quả công tác kiểm tra của Đảng.
Tiêu chí chủ yếu đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào là: sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra; việc xây dựng và tổ
chức thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, nội dung kiểm tra; việc thực hiện
nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc và quy trình kiểm tra của Đảng; sự
phối hợp của các cơ quan chức năng và sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã
hội vào công tác kiểm tra của Đảng; kết quả tiến hành kiểm tra.
77
Chương 3
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG NHÂN DÂN
CÁCH MẠNG LÀO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY -
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
NHÂN DÂN CÁCH MẠNG LÀO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1.1. Ưu điểm
3.1.1.1. Về sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra
Ngay từ khi thành lập Đảng, nhất là từ khi có Nghị định liên tịch của Ban
chấp hành Trung ương Đảng, Thường vụ Hội động nhân dân tối cao và Hội đồng
Bộ trưởng số 02 ngày 16 tháng 2 năm 1982 về thành lập cơ quan Ban Kiểm tra -
Thanh tra của Đảng và Nhà nước Lào, thì Đảng Nhân dân cách mạng Lào nói
chung, các cấp ủy đảng nói riêng đã coi trọng và quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công
tác kiểm tra theo phạm vi quyền hạn của mình.
Trong phạm vi giới hạn về thời gian nghiên cứu của luận án từ 2006 đến
nay (khóa Đại hội VIII và IX của Đảng), thì Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng và cấp ủy các cấp đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo
công tác kiểm tra. Điều này được thể hiện thông qua cấp ủy các cấp ra văn bản về
công tác kiểm tra, bầu nhân sự ban kiểm tra do thành viên cấp ủy làm chủ nhiệm
ban kiểm tra, tổ chức cơ quan ban kiểm tra, tạo điều kiện về tinh thần và vật chất
cho ban kiểm tra được hoạt động, quyết định đối tượng và nội dung kiểm tra mỗi
một cuộc kiểm tra cụ thể và cử một đồng chí thường vụ cấp ủy chỉ đạo cuộc kiểm
tra đó, họp nghiên cứu và phê chuẩn kết luận kiểm tra và quyết định hình thức xử
lý kết quả kiểm tra. Điều đó thể hiện cụ thể như sau:
- Đảng ban hành các văn bản về công tác kiểm tra. Ở cấp trung ương, đã
quy định nội dung về công tác kiểm tra trong văn kiện Đại hội Đảng và trong Điều
lệ Đảng. Trong đó đã quy định quan điểm của Đảng về công tác kiểm tra, vị trí,
vai trò, nguyên tắc, các tổ chức và cá nhân có trách nhiệm tiến hành kiểm tra và
dưới sự kiểm tra, nội dung kiểm tra, cơ cấu nhân sự ban kiểm tra và cách thức bầu
78
ban kiểm tra, nhiệm vụ, quyền hạn ban kiểm tra, phương pháp tiến hành kiểm
tra… Ngoài quy định trong văn kiện Đại hội và điều lệ Đảng, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Ban Bí thư và Bộ Chính trị đã ra nghị quyết, quy định, chỉ thị
cụ thể về công tác kiểm tra như: Nghị quyết của Bộ Chính trị số 98, ngày 15 tháng
8 năm 2006 về tổ chức và hoạt động của Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Chỉ thị của
Ban Bí thư số 22, ngày 21 tháng 8 năm 2006 về đánh giá hoạt động kiểm tra của
cấp ủy các cấp; Chỉ thị của Bộ Chính trị số 09, ngày 17 tháng 12 năm 2007 về
tăng cường trách nhiệm của cấp ủy đối với công tác kiểm tra; Nghị quyết của Bộ
Chính trị số 28, ngày 15 tháng 8 năm 2011 về tổ chức và hoạt động của Ban Kiểm
tra Trung ương; Nghị quyết của Ban Chấp hành trung Đảng số 02, ngày 31 tháng
5 năm 2012 về tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, phòng chống tham nhũng
trong điều kiện mới; Quy định của Ban Bí thư số 01, ngày 25 tháng 6 năm 2012
về công tác giám sát của cấp ủy đối với tổ chức đảng và đảng viên; Quy định của
Bộ Chính trị số 02, ngày 26 tháng 6 năm 2012 về những điều đảng viên không
được làm; Quy định của Bộ Chính trị số 03, ngày 26 tháng 6 năm 2012 về trách
nhiệm đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý;
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng số 022, ngày 13 tháng 1 năm
2017 về giải quyết bệnh quan liêu và phòng, chống tham nhũng. Các văn bản và
những quy định đó là cắn cứ làm cơ sở cho cấp ủy và ban kiểm tra các cấp quán
triệt, triển khai thành các văn bản, quy chế, cơ chế cụ thể và tổ chức thực hiện
công tác kiểm tra ở cấp và ngành mình.
- Ban chấp hành bầu nhân sự ban kiểm tra. Chủ nhiệm ban kiểm tra các
cấp, các ngành là thành viên ban chấp hành đảng ủy. Chủ nhiệm Ban Kiểm tra
Trung ương từ 2006 đến nay (khóa VIII đến khóa X của Đảng) là Bộ Chính trị
trung ương Đảng; chủ nhiệm ban kiểm tra các cấp, các ngành phần lớn là thường
vụ đảng ủy và một số nơi là phó bí thư đảng ủy.
- Các cấp ủy đảng, nhất là thường vụ cấp ủy ra nghị quyết về tổ chức, bộ
máy, chức năng, nhiệm vụ,quy chế làm việc của ban kiểm tra và cơ quan ban kiểm
tra cấp mình; quyết định tiến hành kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong phạm
vi quyền hạn lãnh đạo, quản lý, theo dõi và chỉ đạo đoàn kiểm tra tiến hành kiểm
79
tra, tổ chức nghe báo cáo kết luận mỗi một cuộc kiểm tra, phê chuẩn kết luận kiểm
tra và hình thức xử lý, chỉ đạo và theo dõi các tổ chức đảng thực hiện kết luận
kiểm tra. Hàng tháng thường vụ đảng ủy tổ chức nghe báo cáo giao ban về hoạt
động kiểm tra của ban kiểm tra cấp mình. Bí thư hoặc phó bí thư dự và chỉ đạo hội
nghị tổng kết công tác kiểm tra hàng năm và toàn khóa.
- Các cấp ủy đảng đã quan tâm chú trọng việc đạo tạo, bồi dưỡng cán bộ
làm công tác kiểm tra. Nổi bật nhất là Bộ Chính trị có chỉ đạo Ban Kiểm tra Trung
ương và Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Lào phối hợp soạn chương
trình và giáo án dạy học hệ đào tạo 4 năm cử nhân kiểm tra - thanh tra. Đến khóa
học năm 2014-2016 đã đào tạo học viên tốt nghiệp đại học kiểm tra 3 khóa, gồm
46 người.
Ngoài ra, trong những năm qua Ban Bí thư Trung ương Đảng và cấp ủy các
cấp đã tạo điều kiện cho ban kiểm tra quan hệ, trao đổi kinh nghiệm với ủy ban
kiểm tra các cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy ban Kiểm tra và kỷ luật của
Đảng Cộng sản Trung quốc và Ủy ban Kiểm tra của Đảng Nhân dân Campuchia.
Như vậy, có thể khẳng định rằng trong những năm qua, Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp đã coi trọng việc lãnh đạo,
chỉ đạo công tác kiểm tra theo phạm vi, quyền hạn. Công tác kiểm tra và cơ quan
ban kiểm tra của Đảng ngày càng có uy tín đối với tổ chức đảng, đảng viên và
quần chúng nhân dân.
3.1.1.2. Về việc thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc
và quy trình kiểm tra
- Thực hiện nội dung kiểm tra
Trong Văn kiện Đại hội VII Đảng đã xác định là: “Tiến hành công tác kiểm
tra sau này, phải tập trung kiểm tra vào việc thực hiện điều lệ Đảng, thực hiện
nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên” [91, tr.59], trong Văn kiện Đại hội VIII Đảng đã
xác định là: “Tập trung kiểm tra nhiều hơn nữa việc thực hiện Điều lệ Đảng, thực
hiện nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên” [93, tr.78]. Văn kiện Đại hội IX đã xác
định: “Tập trung kiểm tra cho sâu và thường xuyên việc thực hiện điều lệ Đảng,
thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên” [95, tr.51]. Triển khai tinh thần về
80
công tác kiểm tra trong Văn kiện Đại hội VII, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 27
(năm 2004) về phương hướng nhiệm vụ công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn
2003 - 2010 xác định nội dung kiểm tra là: kiểm tra việc thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, tổ chức quán triệt, triển khai nghị quyết, chỉ thị của Trung
ương Đảng; kiểm tra việc thực hiện nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trong
đó tập trung vào việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình, phát huy dân chủ của
đảng viên trong sinh hoạt đảng, tăng cường đoàn kết thống nhất nội bộ; kiểm tra
thực hiện nhiệm vụ, chấp hành Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước, giữ gìn
phẩm chất, đạo đức cách mạng và tính giai cấp của cán bộ, đảng viên; kiểm tra việc
tiếp nhận, nghiên cứu và giải quyết đơn thư khiếu tố. Nghị quyết số 2, ngày 31
tháng 5 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định nội dung kiểm
tra là: kiểm tra, giám sát việc triển khai và tổ chức thực hiện đường lối, nội dung
trong nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc, của cấp ủy các cấp trong từng khóa, các
nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quyết định
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương và cấp ủy các cấp; kiểm tra, giám sát việc
thực hiện Điều lệ Đảng, phương thức lãnh đạo, phong cách làm việc của cấp ủy và
cán bộ lãnh đạo các cấp mà trong đó là về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
của Đảng, vấn đề bệnh quan liêu xa rời quần chúng, bao biện, cửa quyền; kiểm tra,
giám sát phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức, kỷ luật của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, tinh thần trách nhiệm và rèn luyện tu dưỡng bản thân của
cấp ủy và mỗi đảng viên; kiểm tra, giám sát về củng cố xây dựng Đảng ở các lĩnh
vực theo phương châm xây dựng chi bộ đảng mạnh biết lãnh đạo toàn diện; kiểm
tra nội dung sinh hoạt chính trị trong nội bộ cấp ủy và tổ chức cơ sở đảng, thực hiện
tự phê bình và phê bình trong nội bộ cấp ủy và chi bộ đảng; kiểm tra về quyết định
kỷ luật trong nội bộ Đảng và kiểm tra tài chính của Đảng.
Cấp ủy và ban kiểm tra các cấp đã nghiên cứu, triển khai nội dung kiểm tra
do Trung ương Đảng đề ra, rồi xác định nội dung kiểm tra của cấp mình từng giai
đoạn và cho một cuộc kiểm tra đối với từng đối tượng kiểm tra cụ thể cũng như
theo yêu cầu và mục đích của một cuộc kiểm tra, mà phần lớn là hợp lý và đạt
81
hiệu quả nhất định. Trong những năm qua cấp ủy đảng và ban kiểm tra các cấp đã
thực hiện nội dung kiểm tra sau đây:
Nội dung kiểm tra của cấp ủy
Trong tiến hành kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên trong phạm vi,
quyền hạn lãnh đạo đã tập trung vào nội dung: quán triệt và triển khai nghị quyết,
chỉ thị của cấp ủy cấp trên thành nghị quyết, chủ trương, kế hoạch của cấp mình;
sự chấp hành và tổ chức thực hiện Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của
Đảng, của cấp ủy cấp trên và cấp mình; phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc
của cấp ủy và cán bộ lãnh đạo; phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, ý thức tổ
chức và kỷ luật; tinh thần trách nhiệm và tu dưỡng rèn luyện bản thân của cấp ủy
và mỗi đảng viên; việc xây dựng chi bộ đảng vững mạnh biết lãnh đạo toàn diện;
nội dung sinh hoạt nội bộ của cấp ủy và tổ chức cơ sở đảng; việc thực hiện tự phê
bình và phê bình trong nội bộ cấp ủy và chi bộ đảng.
Nội dung kiểm tra của ban kiểm tra các cấp
Nội dung kiểm tra của ban kiểm tra thì căn cứ vào nhiệm vụ được xác định
trong Điều lệ Đảng và yêu cầu cụ thể của mỗi cuộc kiểm tra và từng đối tượng
kiểm tra để thực hiện. Nội dung kiểm tra thường được thực hiện như:
Kiểm tra đảng viên (cả cấp ủy viên cùng cấp) khi có dấu hiệu vi phạm
tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chẩn cấp ủy viên và trong thực hiện nhiệm vụ
của đảng viên; kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm
chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị, điều lệ và nguyên
tắc tổ chức của Đảng, việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ
luật trong Đảng; kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và tài chính của
cấp ủy cùng cấp; kiểm tra theo nội dung khiếu nại và tố cáo của tổ chức
đảng và đảng viên; ban kiểm tra cấp trên kiểm tra đối với hoạt động của
ban kiểm tra cấp dưới [92, tr.79-80].
Trong khóa IX, ban kiểm tra các cấp đã thực hiện nội dung kiểm tra là:
Kiểm tra đảng viên (cả cấp ủy viên cùng cấp) khi có dấu hiệu vi phạm
tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chẩn cấp ủy viên và vi phạm trong thực
hiện nhiệm vụ của đảng viên; kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có
82
dấu hiệu vi phạm chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ
thị, Điều lệ Đảng, vi phạm trong thi hành kết luận kiểm tra và thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn và thi hành kỷ luật trong Đảng; kiểm tra tài
chính của cấp ủy cấp dưới và tài chính của cấp ủy cùng cấp; kiểm tra
theo nội dung khiếu nại và tố cáo của tổ chức đảng và đảng viên; ban
kiểm tra cấp trên kiểm tra, giám sát hoạt động của ban kiểm tra cấp
dưới [94, tr.89-90].
Kết quả thực hiện nội dung kiểm tra
Thực hiện nội dung kiểm tra nêu trên, đã thúc đẩy tổ chức đảng và đảng
viên phần nhiều chủ động chấp hành chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị,
Điều lệ Đảng; tu dưỡng rèn luyện bản thân, xây dựng tổ chức và lãnh đạo tổ chức
thực hiện hoàn thành nhiệm vụ, tổ chức đảng ngày càng được củng cố và phát
triển theo hướng xây dựng chi bộ đảng vững mạnh biết lãnh đạo toàn diện. Số
lượng tổ chức đảng và đảng viên đã phát triển như:
Đến cuối năm 2011, toàn quốc có 14.408 chi bộ đảng, tăng lên 2.590
chi bộ so với năm 2006, trong đó có 4.526 chi bộ đã đạt danh hiệu chi
bộ đảng vững mạnh biết lãnh đạo toàn diện; có 199.013 đảng viên, tăng
lên 45.441 đảng viên so với năm 2006, số đảng viên đó phần nhiều giữ
được phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, trung thành với Đảng
với Tổ quốc, tích cực thực hiện nhiệm vụ dược giao phó [63, tr.2].
Qua kiểm tra sự chấp hành, thực hiện điều lệ Đảng và nhiệm vụ được giao
trong giai đoạn 2006-2011 cũng phát hiện một số đảng viên thiếu tinh thần trách
nhiệm, vi phạm điều lệ Đảng, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng, lợi
dụng chức quyền để tham ô, tham nhũng, sống xa hoa hưởng lạc phải thi hành kỷ
luật 587 đảng viên, trong đó khiển trách 68, cảnh cáo 46, cách chức 50, tạm định
chỉ sinh hoạt đảng 89 và khai trừ ra khỏi Đảng 334.
Trong năm 2012, cấp ủy và Ban Kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra
11.721 chi bộ đảng (Toàn quốc có 15.118 chi bộ), số đảng viên được kiểm tra
164.015 đảng viên (Toàn quốc có 212.140 đảng viên) [64, tr.4]. Nội dung kiểm tra
phần lớn đã tập trung vào việc xây dựng chi bộ đảng vững mạnh biết lãnh đạo
83
toàn diện; chất lượng của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Qua kiểm tra đã đánh
giá, phân loại chi bộ đảng và đảng viên như: có 6.249 chi bộ mạnh biết lãnh đạo
toàn diện, 3.691 chi bộ mạnh, 1.672 chi bộ trung bình và 109 chi bộ kém; về đảng
viên có 56.388 đảng viên mạnh biết lãnh đạo toàn diện, 73.918 đảng viên mạnh,
31.827 đảng viên trung bình, 1.776 đảng viên kém và 106 đảng viên sa sút phẩm
chất. Đồng thời cũng phát hiện tổ chức đảng và đảng viên chấp hành và thực hiện
Điều lệ Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình không
nghiêm, thậm chí có vi phạm nghị quyết, chỉ thị, Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà
nước, thiếu ý thức tổ chức, lợi dụng chức quyền và sơ hở của cơ chế tham ô tham
nhũng, quan hệ xã hội không lành mạnh, sống xa hoa hưởng lạc, làm giàu bất
chính phải thi hành kỷ luật 334 đảng viên; trong số này là ở bộ và cơ quan ngang
bộ 53 đảng viên và ở các tỉnh 281 đảng viên, trong đó có 10 huyện ủy viên và 36
chi ủy viên (bao gồm cả bí thư và phó bí thư chi ủy). Trong 334 đảng viên bị thi
hành kỷ luật mức khiển trách 21, cảnh cáo 49, cách chức 23, tạm định chỉ sinh
hoạt đảng 38 và khai trừ ra khỏi đảng 203.
Trong năm 2013 cấp ủy và ban kiểm tra các cấp của thủ đô, 16 tỉnh, 16
bộ và cơ quan ngang bộ đã tiến hành kiểm tra chất lượng của 12.651 chi bộ đảng
(Toàn quốc có 15.848 chi bộ), số đảng viên được kiểm tra là 185.990 đảng viên
(Toàn quốc có 236.885 đảng viên) [65, tr.4]. Nội dung kiểm tra là tập trung vào
việc thực hiện Điều lệ Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng,
tự phê bình và phê bình, việc phát triển đảng, giữ gìn phẩm chất và đạo đức cách
mạng của đảng viên, việc thực hiện vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng và thực
hiện nhiệm vụ của mỗi cấp ủy viên và đảng viên. Trong năm 2013, để tiến hành
Đại hội cấp chi bộ đảng, cấp ủy và ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra nội dung
sinh hoạt chính trị của 7.628 chi bộ và sau đó có 7.300 chi bộ đã tổ chức Đại hội
của cấp mình.
Qua kiểm tra đã phân loại có 7.332 chi bộ đảng vững mạnh biết lãnh đạo
toàn diện, cấp ủy viên và đảng viên được kiểm tra phần lớn giữ được phẩm chất
chính trị, đạo đức cách mạng, tiêu chuẩn cấp ủy viên và đảng viên. Đồng thời
cũng phát hiện có một số cấp ủy thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không
84
nghiêm, thực hiện tự phê bình và phê bình có tính hình thức; việc phát triển đảng
của một số chi bộ không đúng theo quy định của Điều lệ Đảng; một số đảng viên
(có cả cấp ủy viên) ý thức giác ngộ và tinh thần trách nhiệm chính trị chưa cao và
một số đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, sa sút phẩm chất đạo đức, nảy sinh bệnh
quan liêu, cố ý làm trái, không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, lợi dụng chức quyền
tham ô tham nhũng. Do đó phải thi hành kỷ luật đối với 341 đảng viên, trong đó
có 6 huyện ủy viên. Trong 341 đảng viên bị kỷ luật thì hình thức kỷ luật mức
khiển trách 40, cảnh cáo 55, cách chức 18, tạm đình chỉ sinh hoạt đảng 49 và khai
trừ ra khỏi đảng 179. Về tổ chức đảng đã thi hành kỷ luật cánh cáo đối với 1 tập
thể tỉnh ủy.
Trong năm 2014,cấp ủy và ban kiểm tra các cấp của thủ đô, 15 tỉnh, 29 bộ
và cơ quan ngang bộ đã kiểm tra đối với 13.787 chi bộ đảng và 232.157 đảng
viên. Ban Kiểm tra Trung ương phối hợp với Ban thường vụ thủ đô và tỉnh ủy đã
tiến hành kiểm tra đối tượng nhân sự tham gia huyện ủy và nội dung sinh hoạt
chính trị của các huyện ủy để tiến hành đại hội cấp huyện, của 128 huyện (Toàn
quốc có 148 huyện) [66, tr.2].
Nội dung kiểm tra chi bộ đảng và đảng viên là việc thực hiện vai trò, nhiệm
vụ, quyền hạn, cách thức lãnh đạo, lề lối làm việc, chấp hành và thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ, việc giữ gìn phẩm chất và đạo đức cách mạng, tinh thần
trách nhiệm đối với công việc được giao, lối sống. Qua kiểm tra đã đánh giá được
như: có 7.228 chi bộ đạt chi bộ đảng mạnh biết lãnh đạo toàn diện, 3.338 chi bộ
đạt chi bộ đảng mạnh, 916 chi bộ đạt chi bộ đảng trung bình và có 50 chi bộ đảng
kém; về phân loại đảng viên, có đảng viên mạnh 163.456, đảng viên trung bình
23.204, đảng viên kém 1.007 và đảng viên sa sút phẩm chất 69. Đồng thời đã phát
hiện một số tổ chức đảng và đảng viên, tinh thần trách nhiệm không cao, cố ý làm
trái chính sách, pháp luật và các quy định của Nhà nước, lợi dụng chức quyền và
sơ hở của cơ chế, tham ô tham nhũng, có quan hệ xã hội không lành mạnh, sống
sa hoa và làm gàu bất chính, phải thi hành kỷ luật bằng các hình thức khác nhau
như: thi hành kỷ luật đối với 314 đảng viên, trong đó mức khiển trách 26 đảng
85
viên (trong đó có 1 phó bí thư tỉnh ủy, 1 thường vụ tỉnh ủy, 9 tỉnh ủy viên, 1 bí thư
chi bộ và 1 phó bí thư chi bộ), cảnh cáo 15 đảng viên (trong đó có 1 bí thư tỉnh ủy,
1 bí thư chi bộ), cách chức 9 đảng viên (trong đó có 1 thường vụ tỉnh ủy, 1 tỉnh ủy
viên, 1 phó bí thư huyện ủy, 2 huyện ủy viên, 1 bí thư và 3 phó bí thư chi bộ), tạm
đình chỉ sinh hoạt đảng 69 đảng viên (trong đó có 6 bí thư và 4 phó bí thư chi bộ),
khai trừ ra khỏi đảng 195 đảng viên (trong đó có 1 ủy viên đảng ủy cơ sở, 5 bí thư
và 6 phó bí thư chi bộ).
Trong năm 2015, cấp ủy và ban kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra
14.456 chi bộ đảng (Toàn quốc có 19.284 chi bộ), số đảng viên được kiểm tra
201.742 đảng viên (Toàn quốc có 268.431 đảng viên). Qua kiểm tra đã đánh giá là
chi bộ đảng và đảng viên phần lớn chấp hành, tổ chức thực hiện tốt chủ trương,
đường lối, chính sách, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật Nhà
nước. Điều này thể hiện qua phân loại, có 9.064 chi bộ mạnh biết lãnh đạo toàn
diện, 4.312 chi bộ mạnh, 1.043 chi bộ rung bình; về phân loại đảng viên, có
175.624 đảng viên mạnh, 24.725 đảng viên trung bình. Đồng thời đã phát hiện chi
bộ và đảng viên chưa chấp hành tốt và thực hiện không nghiêm Điều lệ, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật Nhà nước, qua đánh giá có 32 chi bộ kém,
1.114 đảng viên kém, 79 đảng viên sa sút phẩm chất và có 576 đảng viên vi phạm
đến mức bị thi hành kỷ luật bằng hình thức khác nhau như: khiển trách 67 (trong
đó có 5 phó bí thư huyện ủy, 15 huyện ủy viên, 1 bí thư và 3 phó bí thư đảng bộ
cơ sở), cảnh cáo 102 (trong đó có 16 bí thư và 3 phó bí thư chi bộ), cách chức 14
(trong đó có 11 huyện ủy viên) tạm đình chỉ sinh hoạt đảng 78 (trong đó có 1 ủy
viên đảng bộ cơ sở, 1 bó thư và phó bí thư chi bộ), khai trừ ra khỏi đảng 306
(trong đó có 1 huyện ủy viên) [67, tr.2-3].
Trong năm 2016, cấp ủy và ban kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra
15.865 chi bộ đảng (bằng 81% số chi bộ toàn quốc) và 246.692 đảng viên (bằng
87% số đảng viên toàn quốc). Qua kiểm tra đã đánh giá phân loại: 60% chi bộ
đạt vững mạnh biết lãnh đạo toàn diện, 28% đạt chi bộ mạnh, 11,7% chi bộ trung
bình và 0,3% là chi bộ yếu; về đảng viên đạt loại mạnh 93%, trung bình 6% và
kém 1% [69].
86
- Thực hiện hình thức kiểm tra ở Đảng Nhân dân cách mạng Lào
Hình thức kiểm tra được sử dụng ở Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong
những năm qua là 3 hình thức chủ yếu như: kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định
kỳ và kiểm tra đột xuất. Nội dung kiểm tra thường xuyên chủ yếu là tập trung vào
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức và mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên;
việc chấp hành và thực hiện Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật và
các quy định của Nhà nước; việc giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng, tiêu
chuẩn của cấp ủy viên và đảng viên; phong cách lãnh đạo, tinh thần trách nhiệm
đối với công việc và nhiệm vụ được giao, lề lối làm việc và lối sống.
Thực hiện hình thức kiểm tra thường xuyên
Kiểm tra thường xuyên đã được cấp ủy, ban kiểm tra và người phụ trách
công tác kiểm tra của chi bộ thực hiện rộng rãi ở tất cả các cấp, các ngành. Đây là
một hình thức kiểm tra của cấp ủy và của mỗi đảng viên tự kiểm tra, tự đánh giá
bản thân và công việc phụ trách.
Hình thức kiểm tra thường xuyên này đã được cấp ủy thực hiện trong hoạt
động lãnh đạo hàng ngày, hàng tháng như: thực hiện kiểm điểm việc thực hiện
điều lệ Đảng và nhiệm vụ chính trị của tổ chức Đảng và mỗi đảng viên trong sinh
hoạt đảng hàng tháng; các đồng chí cấp ủy xuống theo dõi việc theo ngành và
phạm vi phụ trách tại cơ sở, ngay tại các tổ chức trực thuộc, nghe báo cáo của tổ
chức và cán bộ, đảng viên; nắm tình hình qua bản báo cáo và phản ánh của cấp
dưới, tổ chức tiếp dân để thu thập ý kiến phản ánh đối với tổ chức đảng và đảng
viên. Bời thực hiện hình thức kiểm tra thường xuyên này, đã làm cho phần lớn cấp
ủy nắm chắc được tình hình, phát hiện kịp thời những nhân tố mới tích cực và đã
khuyến khích, phát huy các nhân tố ấy; đồng thời đã kịp thời phát hiện yếu tố có
dấu hiệu vi phạm và đã xử lý ngay từ khi nó mới nảy sinh. Qua thực hiện hình
thức kiểm tra thường xuyên này, giúp cho cấp ủy đề ra chủ trương, phương hướng
sát với thực tế hơn và có phương thức lãnh đạo phù hợp có hiệu quả cao hơn.
Trong những năm qua, ban kiểm tra các cấp thực hiện hình thức kiểm tra
thường xuyên bằng biện pháp phân công cho cán bộ kiểm tra phụ trách theo dõi,
nắm tình hình của các tổ chức đảng và đảng viên thuộc quyền quản lý của cấp ủy
87
cấp mình. Những cán bộ này thường xuyên theo dõi, nắm tình hình đối tượng
mình phụ trách bằng cách trực tiếp gặp và làm việc với lãnh đạo và cá nhân đối
tượng, tham dự một số đợt sinh hoạt đảng và sinh hoạt chính trị của tổ chức đó,
nắm qua các văn bản sơ kết - tổng kết công việc hàng tháng và từng giai đoạn,
nắm qua sự phản ánh của cán bộ, đảng viên và quần chúng. Qua theo dõi nắm tình
hình, nếu không có vấn đề bất thường xảy ra thì hàng tháng, cán bộ phụ trách theo
dõi đó có bản báo cáo cho ban kiểm tra và ban kiểm tra phản ánh lên cấp ủy; khi
thấy có những dấu hiệu dẫn đến vi phạm thì cán bộ theo dõi này đã có bản báo cáo
ngay trình ban kiểm tra. Qua thực hiện hình thức kiểm tra thường xuyên này đã
giúp cho ban kiểm tra các cấp có thông tin, số liệu và căn cứ đề xuất cấp ủy ra
quyết định tiến hành cuộc kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu
hiệu vi phạm.
Người phụ trách công tác kiểm tra của chi bộ cũng thực hiện hình thức
kiểm tra thường xuyên bằng cách theo dõi đảng viên trong chi bộ mình. Qua theo
dõi, trong ngày sinh hoạt đảng hàng tháng đã có thông tin phản ánh cho mỗi đảng
viên biết về ưu điểm và khuyết điểm của họ. Từ đó, khuyến khích thúc đẩy mỗi
đảng viên phát huy điểm tích cực, khắc phục mặt hạn chế và thi đua phấn đấu
vươn lên.
Thực hiện hình thức kiểm tra định kỳ
Kiểm tra định kỳ là sự tiến hành cuộc kiểm tra theo sự xác định trong kế
hoạch toàn khóa và hàng năm của cấp ủy và của ban kiểm tra các cấp. Cuộc kiểm
tra này có xác định nội dung, đối tượng kiểm tra cụ thể, thời hạn kiểm tra, thành
lập đoàn kiểm tra và tiến hành theo các bước trong quy trình kiểm tra. Nội dung
cuộc kiểm tra thì tùy theo yêu cầu của công tác xây dựng Đảng như: để đánh giá
sự lãnh đạo toàn diện của cấp ủy chuẩn bị cho đợt sinh hoạt chính trị tiến hành Đại
hội Đảng; để tổng kết đánh giá việc triển khai và tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ
thị nào đó của Đảng; để đánh giá phân loại tổ chức đảng và đảng viên; để duyệt
công nhận chi bộ đảng mạnh, biết lãnh đạo toàn diện.
Để tiến hành hình thức kiểm tra này, cấp ủy đã chỉ đạo ban kiểm tra cấp
mình soạn thảo chủ trương, kế hoạch về công tác kiểm tra toàn khóa và hàng năm
88
của cấp ủy và ban kiểm tra để cấp ủy duyệt. Dựa vào chủ trương, kế hoạch công
tác kiểm tra đó cấp ủy đã ra quyết định tiến hành cuộc kiểm tra, thành lập đoàn
kiểm tra. Tùy theo nội dung và đối tượng kiểm tra cụ thể thì đoàn kiểm tra chỉ có
thể là cán bộ của ban kiểm tra hoặc lấy cán bộ từ nhiều ngành tham gia. Cuộc
kiểm tra và đoàn kiểm tra này hoạt động dưới sự điều hành của ban kiểm tra và
một đồng chí thường vụ cấp ủy đã ra quyết định kiểm tra trực tiếp chỉ đạo.
Trong những năm qua, theo quyết định của cấp ủy cấp mình, ban kiểm tra
các cấp đã thực hiện hình thức kiểm tra này về việc chuẩn Đại hội Đảng các cấp,
việc xây dựng chi bộ đảng mạnh biết lãnh đạo toàn diện.
Để tiến hành Đại hội Đảng, ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra cấp ủy cấp
dưới trực tiếp về trách nhiệm chính trị, sự lãnh đạo triển khai và tổ chức thực hiện
nghị quyết của cấp ủy cấp trên và cấp mình, thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ, thực hiện chế độ sinh hoạt, thực hiện tự phê bình và phê bình trong nội bộ
cấp ủy, sự đoàn kết thống nhất của nội bộ cấp ủy về việc thảo luận bàn bạc, quyết
định chủ trương, phương hướng và giải pháp công tác. Qua kiểm tra đã nắm được
thông tin và tình hình các mặt làm nội dung gợi ý cho bản kiểm điểm sự lãnh đạo
toàn diện của cấp ủy và bản báo cáo chính trị của cấp ủy trước Đại hội. Từ đó, cấp
ủy có thẩm quyền có căn cứ quyết định cho tổ chức Đại hội như: trong năm 2013,
cấp ủy và Ban Kiểm tra các cấp đã kiểm tra 7.628 chi bộ chuẩn bị tiến hành Đại
hội và sau đó có 7.300 chi bộ đã tổ chức Đại hội của cấp mình [65, tr.4] và trong
năm 2014, Ban Kiểm tra Trung ương phối hợp với Ban thường vụ thủ đô và tỉnh
ủy các tỉnh kiểm tra các mặt chuẩn bị tiến hành Đại hội cấp huyện, sau kiểm tra,
đến hết cuối tháng 11 năm 2014, có 128 huyện đã tổ chức Đại hội (Toàn quốc có
148 huyện) [66, tr.4]. Trong kiểm tra chuẩn bị Đại hội cấp chi bộ và cấp huyện, đã
có kiểm tra nội dung về triển khai và thực hiện nghị quyết 03 của Bộ Chính trị,
ngày 15 tháng 2 năm 2012 về việc xây tỉnh thành đơn vị chiến lược, xây huyện
thành đơn vị vững mạnh toàn diện và xây bản thành đơn vị phát triển. Trong đó đã
tập trung kiểm tra việc lãnh đạo xây dựng bản thành đơn vị phát triển theo 4 chỉ
tiêu và 4 nội dung như sau:
89
Bốn chỉ tiêu bao gồm:
+ Bản có hệ thống chính trị vững mạnh, trong đó có chi bộ đảng được xây
dựng và công nhận là chi bộ mạnh; có chính quyền, Mặt trận Lào xây dựng đất
nước và các tổ chức đoàn thể hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ một cách
thường xuyên, tập trung được sự đoàn kết của nhân dân các tầng lớp, các bộ tộc
trong bản, vận động và tổ chức lãnh đạo dân bản xây dựng phát triển bản.
+ Dân bản được giáo huấn về tư tưởng chính trị, giác ngộ về chính trị và
hăng hái, chủ động tham gia vào công việc chung của bản cũng như trong làm ăn
khắc phục sự nghèo khổ, cải thiện đời sống làm giàu cho gia đình; có sự đoàn kết
hòa hợp và giúp đỡ đùm bọc lẫn nhau thành cụm dân có sự quản lý chắc, biết hòa
giải các vấn đề một cách đúng đắn và hợp lý.
+ Bản có cơ sở hạ tầng hoặc cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất
và đời sống ở mức đảm bảo cho dân bản tiến hành sản xuất và dịch vụ thành hàng
hóa, tạo thu nhập ổn định cho gia đình; trong bản không có gia đình nghèo khổ,
mọi gia đình đều có đủ ăn đủ dùng và có đời sống khá ổn định; trẻ con trong độ
tuổi học được vào học trên 98%, người từ 15 tuổi trở lên đều phải tốt nghiệp phổ
thông cơ sở và có chủ trương không ngừng nâng cao trình độ học vấn; bản được
công nhận là bản làm gương về ý tế, mọi gia đình ăn ở có vệ sinh, có nước sạch và
hố sĩ dùng, trẻ con được tiêm thuốc phòng bệnh trên 95%; tỷ trọng tử vong của trẻ
sơ sinh và bà đẻ phải thấp hơn chỉ tiêu chung của Nhà nước để ra trong từng giai
đoạn; là bản có trật tự tốt đẹp và có môi trường tốt.
+ Bản có trật tự an ninh, không có ma túy, không có vụ án, do chính dân bản
tham gia thành lực lượng chính của đội dân quân và đội bảo vệ an ninh của bản.
Bốn nội dung bao gồm:
+ Tuyên truyền giáo dục tư tưởng chính trị gắn với xây dựng, củng cố cơ sở
chính trị cho vững mạnh. Coi việc này là cái quyết định sự thành công của đơn vị
phát triển.
+ Tập trung mọi lực lượng, mọi sự chỉ đạo vào việc giải quyết sự nghèo
khổ bằng cách khuyến khích sản xuất và dịch vụ thành hàng hóa, cải thiện và củng
90
cố chất lượng đời sống của dân nông thôn tốt lên. Coi đây là nhiệm vụ công tác
trọng tâm của xây bản thành đơn vị phát triển.
+ Phát triển văn hóa xã hội tương xứng với kinh tế nhất là phải khuyến
khích giáo gục và phát triển mạng lưới dịch vụ ý tế đến từng bản để tạo điều kiện
cho đạt chỉ tiêu thiên niên kỷ về phát triển vào năm 2015 và làm cơ sở vững chắc
cho sự phát triển trong bước tiếp theo.
+ Thực hiện đường lối quốc phòng an ninh toàn dân toàn diện ở bản và
cụm bản thành hệ thống liên tiếp và thường xuyên; xây bản cứ địa và cụm bản
chiến đấu nối liền trong các khu và vùng trọng tâm; giải quyết được các mầm
mống và nhân tố tạo nên mất an ninh trật tự.
Qua kiểm tra thực hiện nghị quyết 03 của Bộ Chính trị về 3 xây ở 51 huyện
và 109 bản đối tượng thí điểm đã nhận định có 34 huyện đủ tiêu chuẩn thành
huyện vững mạnh toàn diện và 82 bản thành bản phát triển.
Trên đây là đối tượng và nội dung kiểm tra đã tiến hành kiểm ta định kỳ ở
Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong thời gian qua. Do thực hiện hình thức kiểm
tra này đã làm cho cấp ủy (người quyết định tiến hành kiểm tra) nắm được tình
hình đúng với thực tế về tổ chức bộ máy, hoàn cảnh hoạt động và thực hiện nhiệm
vụ của đối tượng kiểm tra, làm cho đánh giá, kết luận chính xác, khách quan. Từ
đó, cấp ủy đề ra chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ công tác và phương thức
lãnh đạo đúng đắn.
Thực hiện hình thức kiểm tra đột xuất
Kiểm tra đột xuất là kiểm tra khi có hiện tượng, có dấu hiệu vi phạm của
các tổ chức đảng và đảng viên xảy ra hoặc khi cần xem xét, đánh giá và kết luận
việc tổ chức thực hiện một nghị quyết, chỉ thị, quyết định nào đó của cấp ủy. Nội
dung kiểm tra đã tập trung vào một số vấn đề và một số đối tượng có dấu hiệu vi
phạm hoặc vấn đề cần đánh giá kết luận làm rõ. Sử dụng hình thức kiểm tra này là
để làm rõ vấn đề xảy ra và có biện pháp xử lý đúng, kịp thời, ngăn chặn và hạn
chế những hậu quả xấu, không cho phát triển và lan rộng. Đối với kiểm tra việc
thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quyết định là để kết luận, đánh giá tính khoa học,
tính thực tiễn và những sơ hở cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện.
91
Trong thời gian qua, cấp ủy và tổ chức đảng đã sử dụng hình thức kiểm tra
này tiến hành kiểm tra đối với tố chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
hoặc có đơn thư khiếu nại, tố cáo. Để tiến hành cuộc kiểm tra này, ban kiểm tra đã
thu thập thông tin, số liệu, dữ liệu ban đầu liên quan đến đối tượng và nội dung có
dấu hiệu vi phạm làm bản báo cáo khái quát trình cấp ủy. Cấp ủy họp thường vụ,
nghiên cứu, bàn bạc và thống nhất ra quyết định tiến hành kiểm tra. Trong quyết
định có xác định đối tượng, nội dung kiểm tra, thời hạn kiểm tra, và đồng thời
cũng ra quyết định thành lập đoàn kiểm tra, mà thường và phần lớn là do lãnh đạo
ban kiểm tra của cấp đó làm trưởng đoàn cùng với một đồng chí trong thường vụ
cấp ủy chỉ đạo trực tiếp.
Từ năm 2012 đến 2014, Ban Kiểm tra Trung ương đã tiến hành kiểm tra
đột xuất theo quyết định của Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng đối với
Ban Chấp hành tỉnh ủy của 2 tỉnh và Ban Chấp hành huyện ủy của 7 huyện. Nội
dung kiểm tra là xem xét, làm rõ hành vi vi phạm do quần chúng tố cáo. Qua kiểm
tra đã phát hiện Ban Chấp hành tỉnh ủy của 2 tỉnh và Ban Chấp hành của 7 huyện
ấy đã ra nghị quyết không đúng với thẩm quyền, chức năng và vi phạm pháp luật.
Đó là: ban chấp hành của một tỉnh ủy đã ra nghị quyết cho chính quyền
quyết định khai thác và bán gỗ vừa không đúng thẩm quyền mà quyết định khai
thác gỗ này là thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ và vừa vi phạm pháp luật,
làm mất trật tự an ninh tại địa phương; còn một tỉnh và 7 huyện là ra nghị quyết
giao cho chính quyền làm văn bản thanh toán ngân sách cho dự án đầu tư bằng
vốn nhà nước ở huyện và tỉnh, tiền đã thanh toán hết, nhưng công trình chưa xong
và nhiều công trình chưa được làm.
Ban kiểm tra cấp tỉnh và vụ kiểm tra của các bộ - cơ quan ngang bộ và cấp
huyện cũng có tiến hành kiểm tra đột xuất theo quyết định của cấp ủy. Nhưng
phần lớn là kiểm tra khi có dấu hiệu là lãnh đạo cấp ủy cấp dưới trực tiếp vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ trong quyết định về nhân sự, quyết định chính sách
đối với cán bộ nhân viên, quyết định duyệt các dự án đầu tư của Nhà nước trong
phạm vi của ngành và địa phương mình, vi phạm tiêu chuẩn cấp ủy viên và đảng
viên, có quan hệ xã hội không lành mạnh.
92
Qua kiểm tra theo hình thức đột xuất này, đã phát hiện có vi phạm thật về
nhiều vấn đề và đã kết luận làm rõ các vấn đề vi phạm ấy so với Điều lệ, nghị
quyết, chỉ thị, các quyết định Đảng cũng như của cấp ủy cấp trên và pháp luật của
Nhà nước. Qua cuộc kiểm tra này đã giúp cho cấp ủy các cấp năm rõ tình hình sự
vi phạm của tổ chức Đảng và đảng viên, nguyên nhân sự vi phạm, những sơ hở
trong các văn bản của Đảng và Nhà nước. Từ đó có quyết định xử lý những vấn
đề vi phạm chính xác, đúng người, đúng tội, đảm bảo sự nghiêm minh của Điều lệ
Đảng, pháp luật Nhà nước; đồng thời nắm rõ hơn về cán bộ, đảng viên trong
quyền và phạm vi lãnh đạo, quản lý của cấp ủy cấp mình mà qua đó đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng và thực hiện các chính sách cán bộ sát hợp; có sự điều chỉnh và
hoàn thiện các văn bản, các quy định, quy chế, chế độ chính sách cho phù hợp
hơn. Phần lớn tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải thi hành kỷ luật ơ mức
khác nhau hàng năm đều phát hiện do kiểm tra theo hình thức này,
- Thực hiện phương pháp kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào
Trong những năm qua, cấp ủy và ban kiểm tra các cấp đã thực hiện phương
pháp kiểm tra theo nguyên tắc hoạt động và xây dựng Đảng như sau:
Đã sử dụng tất cả hệ thống tổ chức kiểm tra của bộ máy tổ chức trong hệ
thống chính trị tiến hành kiểm tra theo chức năng, phạm vi lãnh đạo, quản lý của
cấp ủy và chính quyền các cấp các ngành. Khi đã có nghị quyết, chỉ thị, quyết
định của cấp ủy cấp trên và cấp mình thì cấp ủy các cấp phần lớn đã sử dụng hình
thức kiểm tra thường xuyên, đốc thức sự thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quyết định
ấy. Ở Lào, tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị đều có tổ chức bộ máy làm
công tác kiểm tra, thanh tra như: có ban kiểm tra của cấp ủy từ cấp trung ương đến
tổ chức cơ sở đảng; có cơ quan của ban kiểm tra của cấp ủy từ trung ương đến cấp
huyện theo hệ thống tổ chức chính quyền; có ban kiểm tra - thanh tra và cơ quan
của ban đó của Mặt trận Lào xây dựng đất nước, của các tổ chức đoàn thể quần
chúng, của các bộ - ngành chuyên môn nghiệp vụ từ trung ương đến huyện. Do
đó, đã có sự kiểm tra một cách chủ động tại từng tổ chức đảng hoạt động trong các
tổ chức trong hệ thống chính trị. Phương pháp này chính đã thực hiện theo nguyên
tắc tổ chức, phương thức hoạt động của Đảng và xây dựng Đảng, dựa vào tổ chức
93
đảng và đảng viên tự kiểm tra, tự nhận xét, đánh giá về mặt ưu điểm, khuyết điểm,
tự nhận thức những vấn đề cần khắc phục và xác định giải pháp khắc phục, xử lý
cái yếu kém; đây là kiểm tra theo phạm vi, trách nhiệm lãnh đạo, quản lý của cấp
ủy và tổ chức đảng các cấp, đã phát động tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra
chủ động tham gia vào tất cả các quy trình tiến hành kiểm tra, có trách nhiệm tự
kiểm tra bản thân. Trong kiểm tra này, cấp ủy và tổ chức đảng các cấp đã thực
hiện phương pháp kiểm tra thường xuyên, liên tục, trực tiếp trong tổ chức mình.
Đây là sự tự kiểm tra của mỗi tổ chức đảng.
Trong kiểm tra định kỳ và kiểm tra đột xuất, cấp ủy và ban kiểm tra các cấp
đã thực hiện phương pháp kiểm tra trực tiếp và kiểm tra gián tiếp, cả kiểm tra từ
xa và tại chỗ, tiến hành công tác tư tưởng, phát động sự gác ngộ, khơi dậy ý thức
tự giác và trách nhiệm đối với công tác xây dựng Đảng của tổ chức và cán bộ,
đảng viên cả trong đối tượng kiểm tra và bộ phận có liên quan. Cuộc kiểm tra
phần lớn là đảm bảo sự khách quan, toàn diện, thận trọng và chặt chẽ; được tiến
hành từ trên xuống và từ dưới lên, từ trong ra và từ ngoài vào; coi trọng tự phê
bình và phê bình trong nội bộ Đảng, cả phê bình của nhân dân đối với tổ chức
đảng, cán bộ, đảng viên. Tức là đoàn kiểm tra đã tiến hành kiểm tra trực tiếp, tại
chỗ các đối tượng được kiểm tra, trao đổi về nội dung kiểm tra, gợi ý cho đối
tượng kiểm tra trả lợi, trình bày, giải trình, báo cáo, cung cấp thông tin, số liệu,
chứng cứ liên quan đến nội dung kiểm tra; đi nắm tình hình, xem xét, thẩm tra,
xác minh các số liệu, chứng cứ tận nơi xảy ra vấn đề. Đồng thời đoàn kiểm tra đã
thực hiện phương pháp kiểm tra gián tiếp và từ xa bằng cách thu thập thông tin, số
liệu, chứng cứ qua đối tượng là tổ chức và cá nhân có mối quan hệ về công tác, xã
hội, có sự giao lưu với đối tượng kiểm tra; thu thập số liệu, chứng cứ qua các đơn
thư khiếu nại - tố cáo và các thông tin đại chúng. Trước, trong và sau quá trình
tiến hành kiểm tra đều coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho tổ chức
và đảng viên, phát động sự giác ngộ của đảng viên và quần chúng có liên quan,
phát huy tinh thần trách nhiệm của họ đối với việc xây dựng Đảng, làm cho họ
thấy được muốn xây dựng Đảng vững mạnh thì trước hết là phải xây dựng từ
chính mỗi bản thân đảng viên và tổ chức đảng nơi mình sinh hoạt.
94
Để đảm bảo tính khách quan, chính xác, cấp ủy và ban kiểm tra các cấp
trong tiến hành kiểm tra theo 2 hình thức trên đã phối hợp thu thập thông tin, số
liệu, chứng cứ nhiều chiều qua các kết luận kiểm tra, thanh tra của cấp ủy cấp trên,
của các tổ chức đoàn thể và của cơ quan chuyên môn nghiệp vụ theo chiều dọc và
chiều ngang. So sánh các thông tin, số liệu đó với thực tế hoạt động của đối tượng
và những số liệu, chứng cứ đã thu thập qua kiểm tra tại chỗ trực tiếp, xem xét
đánh giá hoàn cảnh, nguyên nhân. Sự nhận xét, đánh giá các vấn đề theo nội dung
kiểm tra trong kết luận kiểm tra đều có chứng cứ và căn cứ rất chắc, đảm bảo lợi
ích chính đảng của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra vừa đảm bảo được sự
nghiêm minh của Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, các quy định của Đảng, pháp luật
của Nhà nước.
Do thực hiện các phương pháp nêu trên khá tốt đã làm cho hầu hết các kết
luận kiểm tra trong những năm qua đều được đối tượng kiểm tra và các tổ chức, cá
nhân có liên quan chấp nhận và phần lớn đã chủ động tổ chức thực hiện.
- Thực hiện nguyên tắc kiểm tra ở Đảng Nhân dân cách mạng Lào
Trong những năm qua, cấp ủy và ban kiểm tra các cấp đã thực hiện tương
đối tốt nguyên tắc kiểm tra của Đảng. Thể hiện như sau:
Nguyên tắc tính Đảng: Cấp ủy và ban kiểm tra các cấp đã căn cứ vào
đường lối, chính sách, điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về xây dựng
Đảng và công tác kiểm tra đã xác định chủ trương, kế hoạch, chương trình hoạt
động kiểm tra toàn khóa và hàng năm; lấy nội dung quy định trong các văn bản đó
làm nội dung kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên để đánh giá sự chấp hành
và tổ chức thực hiện. Mỗi một cuộc kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên
đều do thường vụ cấp ủy quyết định, một đồng chí thường vụ trực tiếp chỉ đạo
đoàn kiểm tra. Khi mỗi cuộc kiểm tra đã có kết luận, kết luận kiểm tra đó được
trình lên thường vụ đảng ủy, và hội nghị thường vụ nghiên cứu, xem xét công
nhận, ra quyết định hình thức xử lý kết luận kiểm tra, lãnh đạo, chỉ đạo thi hành
kết luận kiểm tra.
Hội nghị lần thứ nhất ban chấp hành đảng ủy của mỗi khóa Đại hội bầu ra
chủ nhiệm và phó chủ nhiệm ban kiểm tra của cấp mình, và khi có sự thay đổi,
95
luân chuyển chủ nhiệm, phó chủ nhiệm ban kiểm tra đều do hội nghị Ban Chấp
hành đảng ủy quyết định. Như vậy, trong thời gian qua thì công tác kiểm tra của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào đều thực hiện đúng theo nguyên tắc tính đảng.
Các cấp ủy đảng đã chú trọng lãnh đạo công tác kiểm tra về mọi mặt, từ đưa ra
quan điểm, ra các văn bản về công tác kiểm tra, bầu ra chủ nhiệm - phó chủ nhiệm
ban kiểm tra, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban kiểm tra, bố trí
đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, đào tạo - bồi dưỡng cán bộ kiểm tra, quyết
định chủ trương - kế hoạch hoạt động kiểm tra toàn khóa và hàng năm, cho đến
tiến hành mỗi một cuộc kiểm tra, và xử lý kết luận kiểm tra đều do cấp ủy các cấp
theo phạm vi quyền hạn là người lãnh đạo và quyết định.
Nguyên tắc tính quần chúng: Khi tiến hành mỗi một cuộc kiểm tra, cấp ủy
và ban kiểm tra các cấp đã tiến hành công tác tư tưởng, phát động sự giác ngộ,
khơi dậy ý thức tự giác và trách nhiệm đối với xây dựng Đảng của tổ chức và cán
bộ, đảng viên cả trong đối tượng kiểm tra và bộ phận có liên quan.; coi trọng tự
phê bình và phê bình trong nội bộ Đảng, cả phê bình của nhân dân đối với tổ chức
đảng, cán bộ, đảng viên. Tức là đoàn kiểm tra đã tiến hành kiểm tra trực tiếp, tại
chỗ các đối tượng được kiểm tra, trao đổi về nội dung kiểm tra, gợi ý cho đối
tượng kiểm tra trả lợi, trình bày, giải trình, báo cáo, cung cấp thông tin, số liệu,
chứng cứ liên quan đến nội dung kiểm tra; đi nắm tình hình, xem xét, thẩm tra,
xác minh các số liệu, chứng cứ tận nơi xảy ra vấn đề. Đồng thời đoàn kiểm tra đã
thực hiện phương pháp kiểm tra gián tiếp và từ xa bằng cách thu thập thông tin, số
liệu, chứng cứ qua đối tượng là tổ chức và cá nhân có mối quan hệ về công tác, xã
hội, có sự giao lưu với đối tượng kiểm tra; thu thập số liệu, chứng cứ qua các đơn
thư khiếu nại - tố cáo và các thông tin đại chúng. Trước, trong và sau quá trình
tiến hành kiểm tra đều coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho tổ chức
và đảng viên, phát động sự giác ngộ của đảng viên và quần chúng có liên quan,
phát huy tinh thần trách nhiệm của họ đối với việc xây dựng Đảng, làm cho họ
thấy được muốn xây dựng Đảng vững mạnh thì trước hết là phải xây dựng từ
chính mỗi bản thân đảng viên và tổ chức đảng nơi mình sinh hoạt. Thực tiễn trong
giai đoạn 2011 đến nay, chính quần chúng nhân dân là người báo cáo, tố cáo các
96
hành vi vi phạm của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên cho cơ quan đảng có thẩm
quyền và khi tiến hành kiểm tra đã phát hiện có thật.
Qua thực hiện như đã nêu trên, công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào trong những năm qua đã được đông đảo cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân ủng hộ, cung cấp thông tin, số liệu khá chính xác và làm cho kết
luận mỗi một cuộc kiểm tra có độ chính xác khá cao.
Nguyên tắc tính chính xác, khách quan: trong những năm qua, cấp ủy và
Ban Kiểm tra các cấp trong tiến hành kiểm tra đã phối hợp thu thập thông tin, số
liệu, chứng cứ nhiều chiều qua các kết luận kiểm tra, thanh tra của cấp ủy cấp trên,
của các tổ chức đoàn thể và của cơ quan chuyên môn nghiệp vụ theo chiều dọc và
chiều ngang. So sánh các thông tin, số liệu đó với thực tế hoạt động của đối tượng
và những số liệu, chứng cứ đã thu thập qua kiểm tra tại chỗ trực tiếp, xem xét
đánh giá hoàn cảnh, nguyên nhân. Sự nhận xét, đánh giá các vấn đề theo nội dung
kiểm tra trong kết luận kiểm tra đều có chứng cứ và căn cứ rất chắc, hình thức xử
lý các vi phạm được đưa vào kết luận đảm bảo sự khách quan, bảo vệ lợi ích chính
đáng của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra, đảm bảo được sự nghiêm minh
của Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Cuộc kiểm tra phần lớn là đảm bảo sự khách quan, toàn diện, thận trọng và chặt
chẽ; được tiến hành từ trên xuống và từ dưới lên, từ trong ra và từ ngoài vào. Do
thực hiện được như nêu trên đã làm cho các kết luận kiểm tra đối với nhiều đối
tượng trong những năm qua được đối tượng kiểm tra và các tổ chức, cá nhân có
liên quan tự giác chấp nhận và chủ động tổ chức thực hiện.
Nguyên tắc tính công khai: đây là một nguyên tắc được cấp ủy và ban kiểm
tra các cấp thực hiện tương đối tốt. Điều này thể hiện cụ thể là: thứ nhất, cấp ủy và
ban kiểm tra các cấp đã tổ chức phổ biến, tuyên truyền tất cả các văn bản của
Đảng và Nhà nước về công tác kiểm tra và các văn bản có liên quan đến công tác
kiểm tra bằng nhiều hình thức, nhiều biện pháp; thứ hai, khi tiến hành mỗi một
cuộc kiểm tra đối với một đối tượng kiểm tra cụ thể thì đoàn kiểm tra đã thông
báo cho ban lãnh đạo đối tượng kiểm tra trước ngày tiến hành kiểm tra 7-10 ngày
về nội dung, mục đích của cuộc kiểm tra (trừ kiểm tra đột xuất); thứ ba, khi tiến
97
hành bước kiểm tra, trước hết đoàn kiểm tra đã phối hợp ban lãnh đạo đối tượng
kiểm tra tổ chức cuộc họp tất cả thành viên trong đối tượng kiểm tra phổ biến các
văn bản liên quan đến mục đích, yêu cầu, nội dung kiểm tra và qua đó cho mỗi
thành viên tự kiểm tra, đánh giá, kiểm điểm bản thân và tổ chức mình về mặt ưu,
khuyết, vi phạm và đưa ra giải pháp xử lý; thứ tư, khi đã có bản thảo kết luận
kiểm tra, trưởng đoàn kiểm tra đã đưa cho lãnh đạo đối tượng kiểm tra có ý kiến
và có buổi họp trao đổi về sự nhận xét, đánh giá trong kết luận đi đến thống nhất;
thứ năm, khi đã thống nhất rồi có sự phổ biến kết luận kiểm tra đó cho tất cả thành
viên trong đối tượng kiểm tra; thứ sáu, sau khi đoàn kiểm tra trình kết luận kiểm
tra cho thường vụ cấp ủy và được cấp ủy duyệt, có quyết định hình thức xử lý kết
luận kiểm tra đã thông báo quyết định đó cho đối tượng kiểm tra để thực hiện kết
luận kiểm tra.
Như vậy, khi có kết luận mỗi một cuộc kiểm tra phần nhiều đã được đối
tượng kiểm tra chủ động tổ chức thực hiện các giải pháp xử lý xác định trong kết
luận. Đánh giá chung, công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào ở tầm
vĩ mô thời gian qua đã thực hiện khá tốt nguyên tắc tính công khai.
Nguyên tắc tính hiệu quả: Trong thực hiện công tác kiểm tra thời gian qua,
cấp ủy và ban kiểm tra các cấp đã coi trọng tính hiệu quả. mỗi cuộc kiểm tra đối
với một đối tượng đã nhận xét, đánh giá và kết luận rõ ràng, chính xác, đúng sự
thật và thực tế. Vì vậy, sau khi có nghị quyết của thường vụ cấp ủy về công nhận
kết luận kiểm tra, thì đối tượng kiểm tra và các tổ chức liên quan đã chủ động thi
hành, xử lý theo trách nhiệm, đúng điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước;
những sơ hở, điểm sai trong các văn bản, chế độ, quy chế của Đảng và Nhà nước
được các cơ quan có thẩm quyền chỉnh sửa, bổ sung và hủy bỏ; đối tượng kiểm tra
có sự chuyển biến theo hướng tích cực; những điểm yếu, điểm sai trái đã kiểm tra
phát hiện ở các đối tượng kiểm tra, được ngăn chặn không cho xảy ra ở các tổ
chức khác và những nhân tố mới tích cực đã được phổ biến, phát huy nhân lên ở
nhiều tổ chức. Qua hoạt động công tác kiểm tra đã làm cho các tổ chức đảng và
đảng viên phần lớn có ý thức chấp hành và thực hiện chủ trương, đường lối, các
98
văn bản của Đảng, Nhà nước đề ra; nâng cao trách nhiệm và phấn đấu rèn luyện
bản thân.
- Thực hiện quy trình kiểm tra
Trong tiến hành một cuộc kiểm tra đối với một đối tượng cụ thể những năm
qua, cấp ủy và ban kiểm tra các cấp đã quan tâm thực hiện các quy trình kiểm tra
theo quy định của Đảng.
Bước chuẩn bị: ban kiểm tra tiến hành nắm tình hình khái quát về đối tượng
kiểm tra và làm báo cáo trình ban thường vụ cấp ủy. Căn cứ báo cáo đó, thường
vụ ra quyết định kiểm tra và lập đoàn kiểm tra. Đoàn kiểm tra lập kế hoạch tiến
hành kiểm tra, chuẩn bị phương tiện vật chất và kinh phí cho cuộc kiểm tra, soạn
bản gợi ý và câu hỏi theo nội dung kiểm tra, ra nội quy và quy chế hoạt động của
đoàn kiểm tra, phân công trách nhiệm cho từng người trong đoàn, lập bảng biểu
hoạt động hàng ngày của đoàn. Lãnh đạo đoàn kiểm tra phối hợp với lãnh đạo đối
tượng kiểm tra để thống nhất ngày tiến hành kiểm tra và lập tổ hoặc phân công
người phối hợp công tác với đoàn kiểm tra.
Bước tiến hành kiểm tra: Đoàn kiểm tra gặp và làm việc với lãnh đạo đối
tượng kiểm tra, thông báo kế hoạch, mục đích, yêu cầu, nội dung, thời gian tiến
hành kiểm tra, giao các bản câu hỏi gợi ý cho họ chuẩn bị bản báo cáo; bàn bạc và
thống nhất về kế hoạch hoạt động kiểm tra; tổ chức họp toàn thể tổ chức và đảng
viên trong đối tượng kiểm tra, tiến hành giáo dục tư tưởng, phổ biến kế hoạch,
mục đích, nội dung, thời gian kiểm tra, phát động họ chủ động tham gia vào cuộc
kiểm tra; đoàn kiểm tra phân công người đi gặp các tổ chức và cá nhân thu thập
thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung kiểm tra; phân công người
tiếp, nghe báo cáo của các tổ chức, cá nhân và tiếp nhận các tài liệu, thông tin,
chứng cứ mà họ cung cấp; phân tích, nhận xét, giám định các thông tin, số liệu và
chứng cứ đã thu được, đánh giá đúng - sai, ưu - khuyết hoặc vi phạm so sánh với
các quy định của Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, nội quy của Đảng và pháp luật của
Nhà nước; soạn bản kết luận kiểm tra và tổ chức cuộc họp đối tượng kiểm tra
thông qua bản thảo kết luận kiểm tra cho lãnh đạo và cán bộ, đảng viên đã được
kiểm tra góp ý kiến và thống nhất về nội dung kết luận đó; đoàn kiểm tra báo cáo
99
kết quả kiểm tra và bản thảo kết luận kiểm tra cho ban kiểm tra và thường vụ cấp
ủy đã ra quyết định kiểm tra; ban kiểm tra và thường vụ cấp ủy có ý kiến; đoàn
kiểm tra chỉnh kết luận kiểm tra theo ý kiến của thường vụ và ban kiểm tra và báo
cho lãnh đạo đối tượng kiểm tra tổ chức cuộc họp tổ chức đảng và đảng viên đã
được kiểm tra để thông báo kết luận kiểm tra; lãnh đạo của đoàn kiểm tra và của
đối tượng kiểm tra ký xác nhận vào kết luận kiểm tra và họp rút kinh nghiệm với
nhau về hoạt động trong quá trình tiến hành kiểm tra.
Bước tổng kết, báo cáo kết quả kiểm tra và chỉ đạo thực hiện kết luận kiểm
tra: Đoàn kiểm tra làm báo cáo khái quát kết quả kiểm tra kèm theo kết luận kiểm
tra cho ban kiểm tra, ban kiểm tra họp thông qua và phê duyệt kết luận kiểm tra và
làm bản báo cáo về kết quả và kết luận kiểm tra trình thường vụ cấp ủy; thường vụ
cấp ủy họp, bàn bạc và ra nghị quyết công nhận kết luận kiểm tra, các giải pháp
thực hiện kết luận kiểm tra và hình thức xử lý các trường hợp vi phạm, ra thông
báo và chỉ đạo các tổ chức có liên quan, đối tượng kiểm tra thi hành kết luận kiểm
tra; ban kiểm tra theo dõi việc tổ chức thực hiện và có bản báo cáo thường vụ cấp
ủy theo thời hạn quy định.
Qua thực hiện như đã nêu trên, đánh giá chung thì cấp ủy đảng và ban kiểm
tra các cấp, phần lớn đã thực hiện tốt quy trình kiểm tra của Đảng. Vì vậy, kết quả
của mỗi một cuộc kiểm tra đạt được yêu cầu và mục đích đề ra.
3.1.1.3. Về sự phối hợp của các cơ quan chức năng và sự tham gia của
các tổ chức chính trị - xã hội vào công tác kiểm tra
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của quần chúng và các tổ chức trong hệ
thống chính trị đối với xây dựng Đảng và công tác kiểm tra, ngay từ khi ra văn
bản về công tác kiểm tra, Đảng đã quy định rõ về sự phối hợp của các cơ quan
chức năng và sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội vào công tác kiểm tra.
Trong Nghị quyết số 2, ngày 31/5/2012 về tăng cường công tác giám sát, kiểm tra,
phòng chống tham nhũng trong điều kiện mới có quy định: phối hợp chặt chẽ,
nhịp nhàng kiểm tra đảng, thanh tra nhà nước với kiểm tra của các tổ chức đoàn
thể và của nhân dân; tạo điều kiện cho quần chúng chủ động tham gia vào công
100
tác kiểm tra một cách rộng rãi. Trong Nghị quyết này cũng có quy định trong điều
tổ chức thực hiện: mọi tổ chức đảng, cơ quan Nhà nước, Mặt trận Lào xây dựng
đất nước, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cơ quan thông
tin đại chúng, cán bộ, đảng viên, quân đội, công an và các tầng lớp người trong xã
hội phải chủ động tham gia vào công tác kiểm tra, phòng chống tham nhũng một
cách mạnh mẽ và có hiệu quả. Đồng thời đã quy định: ban kiểm tra, cơ quan thanh
tra, ban tổ chức và các cơ quan bảo vệ pháp luật các cấp phải có sự phối kết hợp
nhịp nhàng trong kiểm tra và đề xuất giải pháp xử lý, giải quyết các vấn đề liên
quan đến tổ chức, cán bộ, đảng viên và mọi công dân để đảm bảo sự đúng đắn và
công bằng.
Trong thực hiện thực tế, Bộ chính trị và Ban Bí thư đã coi trọng chỉ đạo
cấp ủy các cấp phổ biến chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy
chế về xây dựng đảng và công tác kiểm tra; chỉ đạo các tổ chức đảng và cấp ủy
các cấp tạo điều kiện cho các cơ quan thông tin đại chúng, quần chúng, nhân dân
tham gia vào công tác kiểm tra bằng báo cáo, phản ánh,cung cấp thông tin về các
mặt hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên.Thực tiễn Ban bí thư Trung ương
đã có quyết định tiến hành kiểm tra đối với Ban Chấp hành Tỉnh ủy tỉnh U Đôm
Xay và 7 Ban Chấp hành Huyện ủy của tỉnh này trong năm 2015, đã phát hiện ra
có một số đồng chí cấp ủy vi phạm luật ngân sách làm thất thoát 62 tỷ kíp, phải
thi hành kỷ luật, chính là do có giấy báo cáo của quần chúng ở cơ sở trình Ban
Kiểm tra Trung ương và Ban Bí thư Trung ương. Ban kiểm tra cấp trên giám sát,
theo dõi tổ chức đảng và cấp ủy trực thuộc cấp ủy cấp mình lãnh đạo, quản lý về
việc tổ chức thực hiện. Vì vậy, mỗi tổ chức đảng đều đã tiến hành kiểm tra trong
phạm vi, quyền hạn. Khi tiến hành mỗi cuộc kiểm tra, cấp ủy và ban kiểm tra các
cấp đã thực hiện tương đối tốt việc phối hợp giữa các cấp - ngành có liên quan,
với cơ quan kiểm toán, các cơ quan nghiệp vụ làm chức năng kiểm tra - thanh
tra, cơ quan bảo vệ pháp luật, các tổ chức xã hội, các cơ quan thông tin đại
chúng; lấy thông tin, số liệu, sự nhận xét đánh giá qua kiểm tra - thanh tra, kiểm
toán của các cơ quan ấy làm nguồn cơ bản để kiểm tra của cấp ủy và ban kiểm
tra tiếp tục làm rõ.
101
Khi tiến hành kiểm tra đối với các đối tượng mà nội dung kiểm tra liên
quan đến chức năng quản lý của nhiều cấp, nhiều ngành và nhiều địa phương,
thành viên đoàn kiểm tra được bố trí từ các cơ quan có hữu quan. Điển hình trong
tiến hành kiểm tra vụ vi phạm của tỉnh ủy tỉnh U Đôm Xay và 7 Ban chấp hành
huyện ủy của tỉnh này thì Ban Bí thư trung ương ra Nghị quyết tiến hành kiểm tra,
quyết định thành lập đoàn kiểm tra do phó chủ nhiệm Ban Kiểm tra Trung ương
làm trưởng đoàn, lấy cán bộ cấp vụ từ Ban Kiểm tra Trung ương, Thanh tra Chính
phủ, Văn phòng Thủ tướng, Bộ An ninh, Bộ Quốc phòng, Viên Kiểm sát tối cao,
Tòa án tối cao, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư tham gia vào đoàn kiểm tra.
Đồng thời trong quá trình tiến hành cuộc kiểm tra, cấp ủy và đoàn kiểm tra đã
phát động các tổ chức có liên quan, đảng viên, quần chúng trong đối tượng kiểm
tra và ngoài đối tượng kiểm tra tự giác tham gia bằng cách cung cấp tài liệu, số
liệu, chứng cứ và báo cáo sự thật mà họ biết, nắm được về các mặt của đối tượng
kiểm tra.
Do thực hiện tương đối tốt sự phối hợp kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, các
tổ chức hữu quan trong hệ thống chính trị, làm cho kết luận mỗi cuộc kiểm tra
trong thời gian qua có độ chính xác cao, đảm bảo tính khách quan và được các tổ
chức đảng, đảng viên trong đối tượng và ngoài đối tượng kiểm tra, kể cả đông đảo
quần chúng nhân dân ủng hộ, phát động được người tham gia vào công tác kiểm
tra ngày càng rộng.
3.1.1.4. Về kết quả tiến hành kiểm tra
Trong những năm qua, do có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát thực của cấp ủy, xác
định phù hợp các chương trình, kế hoạch, nội dung, hình thức, phương pháp,
nguyên tắc, quy trình kiểm tra và thực hiện tương đối tốt đã làm cho sự tiến hành
mỗi cuộc kiểm tra và công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đạt kết
quả khả quan. Kết quả tiến hành kiểm tra đã làm rõ các mặt ưu, nhân tố mới tích
cực rồi phát huy nhân rộng; đồng thời cũng phát hiện, làm rõ các mặt yếu kém,
những hạn chế, điều vi phạm trong bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên
rồi đề xuất các giải pháp hữu hiệu xử lý, khắc phục; phát hiện ra những sơ hở,
thiếu sót và điểm không phù hợp trong các văn bản của Đảng và Nhà nước rồi
102
trình các cấp có thẩm quyền hữu quan sửa đổi, bổ sung và làm mới. Kết quả theo
tổng kết công tác kiểm tra toàn quốc 5 năm [68] thể hiện một số số liệu như sau:
- Qua kiểm tra thường xuyên, đã phát hiện những cán bộ, đảng viên ưu tú
giới thiệu tham gia vào cấp ủy đảng khóa mới của cấp tỉnh và cấp bộ chuẩn bị cho
Đại hội X của Đảng, ban chấp hành tỉnh ủy 17 tỉnh và thủ đô Viêng Chăn có 553 ủy
viên, nữ 57 thì có người mới tham gia chiếm 65%, ban chấp hành đảng ủy của19 bộ
và cơ quan ngang bộ có 121 ủy viên, nữ 48 thì có người mới tham gia 77%.
- Đã phát hiện ra tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải thi hành kỷ luật,
để làm cho Đảng trong sạch vững mạnh và củng cố đoàn kết thống nhất trong nội
bộ đảng. Trong giai đoạn 2011 - 2015, qua kiểm tra đã phát hiện tổ chức đảng vi
phạm phải thi hành kỷ luật hình thức cảnh cáo đối với một ban chấp hành tỉnh ủy,
7 ban chấp hành huyện ủy; phát hiện 10.806 đảng viên vi phạm phải thi hành kỷ
luật bằng nhiều hình thức, trong đó khai trừ ra khỏi đảng 1.007. Đảng viên trong
lực lượng quốc phòng bị thi hành kỷ luật 116, trong đó khai trừ ra khỏi đảng 33.
Trong lực lượng an ninh đã kiểm tra và thi hành kỷ luật đối với đảng viên vi phạm
bằng hình thức khác nhau 1.343, trong đó cảnh cáo 144, cách chức 101, khai trừ ra
khỏi đảng và đuổi ra khỏi biên chế 737.
- Đã thu lại một số tài sản cho nhà nước: đất 15. 892 héc ta; tiền 790 tỷ kíp,
10 triệu đô la Mỹ, 36 triệu bát Thái lan, 536.518 nhân dân tệ.
- Đã đề xuất sửa và bổ sung thêm những điều đảng viên không được làm
đưa vào Điều lệ Đảng khóa X.
Như vậy có thể khẳng định kết quả các cuộc tiến hành kiểm tra của cấp ủy
và ban kiểm tra các cấp từ năm 2006 đến nay phần lớn đã đạt được yêu cầu, mục
đích của công tác kiểm tra Đảng. Điều này đã được Đảng nhận định:
Qua tiến hành kiểm tra theo hệ thống và kiểm tra chuyên trách, chúng ta
đã phát huy được mặt ưu, nhân tố tích cực của cấp ủy và cán bộ, đảng
viên; đồng thời cũng đã ngăn chặn, khắc phục và xử lý những hiện tượng
tiêu cực trong tổ chức Đảng, Nhà nước và xã hội về nhiều mặt. Công tác
kiểm tra đã góp phần xứng đáng vào việc củng cố, xây dựng Đảng và
quản lý nhà nước theo hướng trong sạch, vững mạnh [95, tr.19].
103
Khi nói chuyện với cán bộ kiểm tra tại Hội nghị kiểm tả toàn quốc lần thứ
hai, Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào,
Chummaly Xaynhạxỏn đánh giá:
Trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền và Ban Kiểm tra các cấp,
các ngành đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra và tiến
hành kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức và sự thực hiện nhiệm
vụ của cán bộ, đảng viên bằng nhiều hình thức, nhiều phương pháp,
đã đóng góp vào việc củng cố xây dựng tổ chức Đảng, Nhà nước và
đội ngũ cán bộ, đảng viên có sự trong sạch vững mạnh. Đồng thời
cũng giúp ngăn ngừa và đánh lùi được ở mức độ nhất định các hiện
tượng tiêu cực trong bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên
cũng như trong xã hội. Thành quả đó đã góp rất quan trọng vào việc
bảo vệ và phát triển đất nước theo đường lối đổi mới toàn diện và có
nguyên tắc của Đảng ta [85].
Và tại Đại hội Đảng tiếp tục khẳng định:
Qua tiến hành giám sát, kiểm tra thường xuyên và chuyên trách đã phát
huy được những mặt tích cực của tổ chức đảng, chính quyền và cán bộ,
đảng viên. Đồng thời đã giúp hạn chế, giải quyết được các hiện tượng
tiêu cực trong tổ chức, cũng như trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Công
tác kiểm tra đã góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng, cán bộ,
củng cố bộ máy tổ chức và quản lý hành chính Nhà nước có sự minh
bạch, vững mạnh [83].
3.1.2. Khuyết điểm
3.1.2.1. Về sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra
Trong thực tế công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào thời
gian qua cho thấy, bên cạnh những thành tích, kết quả đạt được, cũng còn những
thiếu sót, khuyết điểm, hạn chế và bất cập như: một số cấp ủy chưa nhận thức
đúng vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra Đảng nói chung, của
cấp ủy và các tố chức đảng nói riêng. Từ đó chưa trực tiếp, đích thân lãnh đạo, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra của cấp ủy thuộc phạm vi phụ
104
trách; một số cấp ủy nhất là cấp ủy của bộ trong lĩnh vực kinh tế chưa xây dựng
được phương hướng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch kiểm tra của cấp mình và
không sâu sát chỉ đạo cấp ủy cấp dưới trực tiếp tổ chức thực hiện nhiệm vụ công
tác kiểm tra; vai trò của các cấp ủy viên đối với công tác kiểm tra thuộc lĩnh vực
được phân công phụ trách còn hạn chế; chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các ban
tham mưu của cấp ủy, nhất là ban kiểm tra thực hiện nhiệm vụ kiểm tra; chưa
thường xuyên chỉ đạo và trực tiếp tiến hành sơ kết, tổng kết việc thực hiện công
tác kiểm tra; chưa chủ động chỉ đạo các tổ chức đảng liên quan trong việc phối
hợp với ban kiểm tra thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra; một số cấp ủy, phần
lớn là cấp huyện còn giao khoán nhiệm vụ kiểm tra cho ban kiểm tra thực hiện;
cấp ủy của một số bộ và một số tỉnh chưa quan tâm đúng mức việc củng cố bộ
máy cơ quan ban kiểm tra cấp mình, về bố trí cán bộ có kiến thức và năng lực
cũng như bồi dưỡng, đào tạo cán bộ làm công tác kiểm tra; cán bộ kiểm tra xét
chung là tăng lên hàng năm, nhưng xét thực tế từng cơ quan ban kiểm tra của một
số tỉnh và huyện phần lớn còn thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ chuyên môn
và năng lực.
Điều nêu trên đã thể hiện rõ trong thực tiễn, nhiều tường hợp đã xảy ra vi
phạm hơi nặng, mất đoàn kết trong nội bộ, tiền quả bị thất thoát tương đối lớn mà
trong trách nhiệm của cấp đó, ngành đó thì không kiểm tra dẫn đến có sự bất bình
và có đơn thư của quần chúng tố cáo lên cấp trên. Khi cấp trên tiến hành kiểm tra
đã phát hiện ra là mất cả người và của.
3.1.2.2. Về việc thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc
và quy trình kiểm tra
- Thực hiện nội dung kiểm tra
Nội dung kiểm tra đã được xác định trong Điều lệ Đảng, trong Văn kiện
Đại hội Đảng và trong các văn bản hướng dẫn của Ban Kiểm tra Trung ương.
Nhưng nội dung ấy mới ở dạng chung và khái quát nhất để làm cơ sở cho tổ chức
đảng và cấp ủy các cấp triển khai, chọn nội dung khi tiến hành kiểm tra cụ thể.
Nhưng trong tổ chức thực hiện thực tiến còn có một số khuyết điểm như sau:
105
Việc xác định nội dung kiểm tra ở một số cấp ủy và một số ban kiểm tra
của các cấp, các ngành chưa chính xác và chưa khách quan.
Nội dung kiểm tra trong tiến hành kiểm tra thường xuyên còn thực hiện
chung chung, dàn trải như nhau hết đối với mọi đối tượng kiểm tra. Việc chọn và
xác định nội dung kiểm tra chưa gắn với vị trí, chức năng, vai trò, trách nhiệm và
nhiệm vụ cụ thể của từng tổ chức đảng và đảng viên; chưa gắn với vai trò và
nhiệm vụ của cơ quan mà tổ chức đảng và đảng viên đó hoạt động, sinh sống. Do
đó không khai thác và phát hiện được hết ưu điểm và khuyết điểm của đối tượng
kiểm tra, và khi nhận xét, đánh giá có một số trường hợp chưa chính xác, mà thể
hiện trong thực tế sau cuộc kiểm tra thì tổ chức đảng và đảng viên số nhiều được
đánh giá loại mạnh, nhưng tình hình nhiều mặt của cơ quan nơi tổ chức đảng và
đảng viên ấy hoạt động yếu kém, thậm chí có sự vi phạm. Ví dụ, qua kiểm tra cấp
ủy của bộ và cấp ủy trực thuộc bộ tài chính trong 5 năm đã phân loại 548 đảng
viên (toàn đảng bộ của bộ có 587 đảng viên), có đảng viên đạt loại mạnh 522 đảng
viên [61]; nhưng thực tế thì còn nhiều cán bộ, đảng viên ở đây trách nhiệm chưa
cao và đến tháng 10 năm 2016 có cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt bị truy tố trách
nhiệm hình sự theo luật chống tham nhũng 9 người.
Trong tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm ở một số cấp ủy và một
số ban kiểm tra, tuy đã căn cứ vào dấu hiệu vi phạm xác định nội dung kiểm tra,
nhưng còn có trường hợp không xác định được nội dung chính, chủ yếu để tập
trung thực hiện; còn chạy theo các hiện tượng xảy ra. Điều này có cả đoàn kiểm
tra của cấp trung ương do Ban Bí thư quyết định tiến hành kiểm tra, nhất là kiểm
tra đối với việc lạm dụng quyền hạn của một số bí thư kiêm tỉnh trưởng trong việc
cho phép khai thác gỗ, mỏ và cho thuê đất không đúng phạm vi quyền hạn.
Vì vậy đã làm cho cuộc kiểm tra mất nhiều thời gian, nhưng lại nắm và
đánh giá vấn đề không rõ, chưa đúng với thực chất của vấn đề vi phạm và dẫn tới
hiệu quả kết luận kiểm tra không cao, việc xử lý tình hình vi phạm của tổ chức
đảng và đảng viên không nghiêm và có nơi tình hình vi phạm vẫn tiếp tục diễn ra.
Trong khi đó, dư luận cán bộ, đảng viên và nhân dân rất bức xúc, lo ngại về tình
hình vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên ở nơi đã tiến hành kiểm tra, nhất là
106
trong các lĩnh vực tài chính, xây dựng, quản lý và sử dụng đất đai, khai thác và
quản lý kinh doanh gỗ, khai thác mỏ.
Thực hiện nội dung kiểm tra đã xác định chưa sâu và chưa toàn diện
Nhiều cấp ủy chưa quan tâm kiểm tra việc thực hiện tiêu chuẩn cấp ủy viên
và đảng viên; do không quan tâm kiểm tra thường xuyên về nội dung này, khi tiến
hành kiểm tra định kỳ và kiểm tra đột xuất đã phát hiện không ít cấp ủy viên và
đảng viên vi phạm tiêu chuẩn cấp ủy viên và đảng viên, nhất là tiêu chuẩn về đạo
đức cách mạng, phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc và lối sống đến mức phải thi
hành kỷ luật từ hình thức cách chức trở lên. Về thực hiện kiểm tra việc phát triển
đảng, hàng năm cấp ủy đã tiến hành kiểm tra tương đối nhiều, nhưng do chọn và
xác định nội dung cụ thể để kiểm tra chưa sát và chưa hợp lý làm cho số lượng tổ
chức đảng và đảng viên tăng lên nhiều, mà chất lượng lại chưa tương xứng.
Một nội dung quan trọng được quy định trong Điều lệ Đảng là kiểm tra tài
chính của Đảng, nhưng thực tế cấp ủy và ban kiểm tra các cấp chưa quan tâm
đúng mức kiểm tra nội dung này. Có một số ban kiểm tra tiến hành kiểm tra nội
dung này nhưng chỉ kiểm tra về sự tự giác nộp đảng phí của đảng viên hàng tháng.
Còn việc giữ, sử dụng tiền đó như thế nào và việc sử dụng tài chính do ngân sách
Nhà nước ứng, các khoản tiền đóng góp từ các tổ chức kinh tế-xã hội và quần
chúng nhân dân cho tổ chức đảng và cơ quan đảng thì hầu như chưa tiến hành
kiểm tra.
Có thể khái quát, khuyết điểm trong thực hiện nội dung kiểm tra của Đảng
Nhân dân cách mạng Lào trong những năm qua là một số cấp ủy và ban kiểm tra
của một số cấp, một số ngành vừa chưa thực hiện được hết nội dung kiểm tra theo
quy định của Đảng, nội dung đã thực hiện lại chưa sâu và có trường hợp chọn nội
dung không sát với đối tượng kiểm tra. Khi phân tích đánh giá đối tượng kiểm tra
về sự chấp hành và thực hiện Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và cấp ủy các
cấp có tình trạng chung chung, chưa xác định rõ được nội dung nào đối tượng
kiểm tra làm được tốt nhất, từng nội dung kiểm tra có người vi phạm bao nhiêu và
nội dung nào có sự vi phạm nhiều nhất, con số cụ thể người vi phạm mỗi nội dung
là không chính xác, không phát hiện được hết cái ưu điểm, khuyết điểm, nhân tố
107
mới tích cực và mầm mống của dấu hiệu vi phạm để kịp thời khắc phục và ngăn
chặn. Vì vậy, có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác kiểm tra của Đảng
trong giai đoạn hiện nay.
- Thực hiện hình thức kiểm tra ở Đảng Nhân dân cách mạng Lào
Trong thực tế thời gian qua, một số ấp ủy và một số ban kiểm tra các cấp
chưa thực hiện được tốt các hình thức kiểm tra, thể hiện như sau:
Thực hiện hình thức kiểm tra thường xuyên
Có rất nhiều cấp ủy nhận thức chưa đúng về nhiệm vụ kiểm tra thường
xuyên của cấp ủy, còn có tư tưởng nếu không có vấn đề xấu xảy ra không cần
kiểm tra, chưa quan tâm tiến hành kiểm tra thường xuyên đối với tố chức đảng và
đảng viên trong phạm vi, quyền hạn lãnh đạo của cấp mình. Ở các tổ chức này, chỉ
khi nào có chỉ thị của cấp ủy cấp trên và có dư luận của quần chúng, nhân dân về
tình hình vi phạm, mới thành lập đoàn đi kiểm tra. Do không kiểm tra thường
xuyên, thì không phát hiện kịp thời những dấu hiệu tiêu cực từ lúc nó chỉ là mầm
mống, khi có cuộc kiểm tra đã phát hiện nhiều vấn đề yếu kém và thậm chí có sự
vi phạm trầm trọng phải xử lý bằng thi hành kỷ luật với hình thức khác nhau.
Thực hiện hình thức kiểm tra định kỳ
Cấp ủy và ban kiểm tra các cấp đều có tiến hành kiểm tra định kỳ hàng năm
và cuối khóa Đại hội Đảng, nhưng so với yêu cầu thì cũng thấy rằng cuộc kiểm tra
định kỳ là rất ít. Trong nội dung kiểm tra có xác định kiểm tra về thực hiện nghị
quyết, chỉ thị, các quy định của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, mà kiểm tra nội dung
này đòi hỏi phải tiến hành kiểm tra định kỳ để đánh giá tính khoa học, tính thực
tiễn và kết quả tổ chức thực hiện nhằm rút kinh nghiệm và sửa đổi, bổ sung;
nhưng trong thực tiễn thì cấp ủy các cấp tiến hành kiểm tra định kỳ riêng nội dung
rất ít. Kiểm tra định kỳ trong thời gian qua, phần lớn là tiến hành để thẩm định
việc xây dựng chi bộ đảng mạnh biết lãnh đạo toàn diện, kiểm tra để đánh giá sự
lãnh đạo tố chức thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng các cấp, kiểm tra về thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy, việc thực hiện tiêu chuẩn cấp ủy, kiểm tra lý
lịch và hoạt động của đối tượng sẽ tham gia ban chấp hành đảng ủy các cấp khóa
mới.Nhưng cuộc kiểm tra này ở nhiều nơi chất lượng không cao, không khách
108
quan, gấp rút chạy theo thời gian để kịp tiến hành Đại hội, chưa phát hiện hết
những vấn đề cần khắc phục sửa chữa và những nhân tố mới tích cực cần phát huy
nhân rộng. Thực tế trong việc kiểm tra nhân sự đối tượng tham gia vào ban chấp
hành tỉnh ủy và huyện ủy các khóa trước, sau Đại hội lại phát hiện lý lịch gia đình
không rõ ràng, có trường hợp thì có quan hệ xã hội không lành mạnh.
Thực hiện hình thức kiểm tra đột xuất
Đây là hình thức kiểm tra được thực hiện nhiều và phổ biến trong thời gian
qua. Nhưng lại là kiểm tra các đối tượng đã có dấu hiệu vi phạm, được dư luận và
quần chúng nhân dân tố cáo. Cuộc kiểm tra theo hình thức này tuy đã đạt được kết
quả khá tốt, giúp cho cấp ủy phát hiện và xử lý những vấn đề tiêu cực trong tổ
chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhưng đồng thời hầu hết các đối tượng được
kiểm tra thì phát hiện có sự vi phạm tương đối trầm trọng và có một số đối tượng
đến mức phải thi hành kỷ luật nặng và đưa ra xử theo pháp luật như trường hợp
kiểm tra 52 cán bộ, đảng viên phụ trách tài chính ở ngành giáo dục cấp tỉnh và
huyện của tỉnh Hủa phăn tham nhũng 17 tỷ kíp thì phải đưa ra xét xử theo pháp
luật đến 20 người. Vì vậy, không phát huy được tác dụng của công tác kiểm tra để
bảo vệ cán bộ, đảng viên.
Mặt khác, tuy đã thực hiện hình thức kiểm tra này nhiều, nhưng tác dụng về
ngăn chặn những tiêu cực đã phát hiện và xử lý chưa cao, chưa nhân rộng được
mấy. Đã xử lý các hiện tượng tiêu cực ở đối tượng được kiểm tra, nhưng hiện
tượng tiêu cực như vậy tiếp tục nảy sinh ở các tổ chức khác, ví dụ về vấn đề cố ý
làm trái Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước của một số bí thư tỉnh ủy về khai
thác gỗ, mỏ, quản lý và sử dụng đất. Đến hiện nay, hiện tượng này vẫn tiếp tục
xảy ra ở tỉnh miền đông bắc và miền nam của Lào.
- Thực hiện phương pháp kiểm tra
Một số cấp ủy, một số ban kiểm tra chưa thực hiện tốt phương pháp kiểm
tra của Đảng thể hiện như sau:
Về thực hiện phương pháp giáo dục, vận động tính tự giác của đối tượng
kiểm tra và bộ phận liên quan
Có một số cấp ủy, ban kiểm tra và đoàn kiểm tra khi kiểm tra một số đối
tượng có dấu hiệu vi phạm, có lúc lại quên giáo dục tư tưởng, không vận động sự
109
tự giác của đối tượng, lẫn lộn giữa phương pháp kiểm tra của Đảng với phương
pháp thanh tra của Nhà nước và phương pháp điều tra - thẩm tra theo nghiệp vụ
của cơ quan bảo vệ pháp luật. Có khi còn coi đối tượng kiểm tra là người có tội,
và sử dụng phương pháp điều tra của cảnh sát điều tra bắt buộc đối tượng phải
chấp nhận là có vi phạm do chủ thể kiểm tra quy ra, tuy vấn đề đó chưa rõ. Có
một số cuộc kiểm tra chạy theo thời gian, chưa tiến hành đầy đủ kiểm tra từ trên
xuống, từ dưới lên, từ trong ra và từ ngoài vào và chưa thu hút được nhiều sự tham
gia của các tổ chức và quần chúng vào công tác kiểm tra.
- Về thực hiện nguyên tác kiểm tra
Trong thực hiện nguyên tắc kiểm tra, có một số nguyên tắc thì cấp ủy và
ban kiểm tra thực hiện chưa được tốt, như sau:
Về nguyên tắc tính Đảng: việc triển khai nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy
chế của cấp trên về công tác kiểm tra thành văn bản của cấp mình để lãnh đạo, chỉ
đạo tổ chức thực hiện của một số cấp ủy còn ít và có những nội dung chưa sát với
thực tế; xác định nhiệm vụ kiểm tra từng giai đoạn không rõ;;việc lãnh đạo, chỉ
đạo ban kiểm tra cấp mình và cấp ủy cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra không
sát; khi đã có kết luận kiểm tra, thì việc xét duyệt có nhiều trường hợp rất chậm;
khi có nghị quyết công nhận kết quả kiểm tra, thì không chú trọng chỉ đạo các cơ
quan, cá nhân có liên quan thi hành kết luận kiểm tra.
Về nguyên tắc tính quần chúng: có một số đoàn kiểm tra khi tiến hành kiểm
tra đối với một đối tượng, thì chưa biết giáo dục, vận động quần chúng kể cả trong
đối tượng và bộ phận có liên quan tham gia vào quá trình kiểm tra; chưa biết khai
thác tông tin, số liệu, chứng cứ từ các tổ chức và cá nhân trong xã hội; còn có tư
tưởng và quan điểm coi đối tượng kiểm tra là đối tượng sai phạm. nếu mở rộng
cho các tổ chức và quần chúng biết hoặc tham gia vào cuộc kiểm tra sẽ không giữ
được bí mật của nghiệp vụ. Việc phổ biến các văn bản về công tác kiểm tra ở một
số cấp ủy chưa được quan tâm đúng mức, một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần
chúng hiểu chưa đúng và sợ công tác kiểm tra.
Về nguyên tắc tính chính xác, khách quan: sự nhận xét, đánh giá vi phạm
của đối tượng kiểm tra của các đoàn kiểm tra có một số trường hợp thì chưa đảm
110
bảo được sự thống nhất tương đối giữa tính chính xác và tính khách quan. Một số
thông tin, số liệu, chứng cứ do các tổ chức có liên quan cung cấp chưa được thẩm
tra xác minh cũng đưa vào nội dung kết luận kiểm tra và nhiều trường hợp khác.
Như vậy, trong tiến hành công tác kiểm tra, thì có lúc, có nơi thực hiện nguyên tắc
tính chính xác, khách quan chưa được tốt.
Về nguyên tắc công khai: có một số đoàn kiểm tra thực hiện nguyên tác
tính công khai chưa được tốt, khi có thông tin về mặt yếu và sự vi phạm, thi đã
nhận xét, đánh giá ngay và đưa vào kết luận mà không trao đổi ý kiến với đối
tượng, chưa tạo điều kiện cho đối tượng được trình bày, giải thích và đem chứng
cứ chứng minh. Có một số cấp ủy công khai kết quả và kết luận kiểm tra còn ở
mực hẹp, đây đã làm cho có dư luận nói xấu về công tác kiểm tra.
Về nguyên tắc tính hiệu quả: xét toàn Đảng thì cuộc tiến hành kiểm tra đã
có tính hiệu quả nhất định; nhưng nhìn nhận từng cuộc kiểm tra một thì có một số
cuộc kiểm tra chưa đảm bảo được tính hiệu quả. Vấn đề này thể hiện ở chỗ sau khi
kiểm tra một số vấn đề yếu kém, vi phạm ở mức thấp không được giải quyết, trái
lại từ điểm yếu kém đã trở thành vi phạm và từ vi phạm nhỏ đã trở thành sự sai
phạm trầm trọng, phải xử lý theo pháp luật.
- Về thực hiện quy trình kiểm tra
Việc thực hiện các bước trong quy trình tiến hành một cuộc kiểm tra ở một
số cấp ủy và một số ban kiểm tra chưa được tốt, nhất là trong bước chuẩn bị.
Trong bước chuẩn bị, kém nhất là việc nắm tình hình và thông tin ban đầu của đối
tượng sẽ tiến hành kiểm tra, từ đó làm cho xác định nội dung kiểm tra trọng tâm
và thời hạn tiến hành không khách quan. Vấn đề này thể hiện khi kiểm tra cụ thể
thì chạy theo dư luận và thời hạn tiến hành cuộc kiểm tra phải kéo dài, nhưng hiệu
quả và chất lượng của kết luận kiểm tra lại không cao.
Bước tiến hành kiểm tra
Trong bước tiến hành kiểm tra, có một số đoàn kiểm tra chưa làm tốt việc
giáo dục tư tưởng, động viên đối tượng tự giác và chủ động tự kiểm tra, đánh giá;
việc thu thập - nắm số liệu, thông tin, chứng cứ chưa có trọng tâm, trọng điểm;
việc nhận xét, đánh giá về các mặt của đối tượng kiểm tra có điểm chưa chính xác
111
khách quan; việc khai thác số liệu, dữ liệu, chứng cứ từ các tổ chức và cá nhân có
liên quan ngoại đối tượng kiểm tra chính chưa được mấy… Điều này thể hiện khi
đưa bản thảo kết luận kiểm tra cho đối tượng kiểm tra có ý kiến thì còn có sự tranh
luận về nhiều văn đề, nhất là việc đánh giá sự sai trái và vi phạm, có một số cái thì
chứng cứ chưa chắc cần phải sửa đi sửa lại nhiều lần.
Bước tổng kết, báo cáo kết quả kiểm tra và chỉ đạo thực hiện kết luận
kiểm tra
Điểm yếu nhất trong bước này là khi có kết luận kiểm tra rồi, việc làm bản
báo cáo kết quả kiểm tra để trình ban kiểm tra và thường vụ cấp ủy của nhiều đoàn
kiểm tra rất chậm, có bản báo cáo không nêu được điểm nổi bật về mặt mạnh, mặt
yếu, sai phạm, hình thức cần xử lý. Vấn đề này làm việc ra nghị quyết của thường
vụ cấp ủy về công nhận kết luận kiểm tra và chỉ đạo thi hành kết luận kiểm tra
không kịp thời. Một số ban kiểm tra chưa thực hiện vai trò theo dõi các tổ chức, cá
nhân có liên quan và đối tượng kiểm tra thực hiện kết luận kiểm tra.
3.1.2.3. Về sự phối hợp của các cơ quan chức năng và sự tham gia của
các tổ chức chính trị - xã hội vào công tác kiểm tra
Việc phối kết hợp trong kiểm tra ở một số cấp ủy thực hiện chưa tốt, chưa
quan tâm mấy đến việc giáo dục, phổ biến các văn bản của Đảng và Nhà nước về
công tác kiểm tra, chưa phát động các tổ chức, cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân thấy và hiểu về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với xây dựng Đảng, chưa thu
hút được sự tham gia rộng rãi của các tổ chức và lực lượng trong xã hội tham gia
vào công tác kiểm tra. Có trường hợp ở một số cấp ủy của ngành và địa phương
khi tiến hành kiểm tra các đối tượng trong phạm vi lãnh đạo, chưa chú ý thu thập
thông tin và số liệu nhiều chiều, chưa quan tâm dư luận của quần chúng nhân dân
và các bộ phận có liên quan đến đối tượng kiểm tra, chỉ dựa vào thông tin và số
liệu của chính đối tượng cung cấp để đánh giá, kết luận. Dư luận thì nhiều, nhưng
khi đi thu thập rất ít tổ chức và cá nhân cung cấp thông tin, số liệu, chứng cứ cho
đoàn kiểm tra. Tình trạng này đã xảy ra nổi bật trong tiến hành kiểm tra nhân sự
để đưa vào bầu ban chấp hành đảng ủy cấp tỉnh và cấp huyện. Sau Đại hội, có một
số đồng chí ủy viên cấp ủy có đơn thư tố cáo mà cấp trên phải tiến hành kiểm tra
112
lại. Tình trạng này xảy ra, chính là do sự phối hợp chưa tốt giữa ban kiểm tra, ban
tổ chức, cơ quan bảo vệ nội chính của ngành an ninh, quốc phòng và các tổ chức
có liên quan các cấp trong kiểm tra nêu trên.
Do đó, kết luận kiểm tra ở đây tuy là đúng, nhưng chưa toàn diện và chưa
chính xác. Điều này thể hiện sau kiểm tra và thực hiện kết luận kiểm tra thì hiện
tượng tiêu cực chưa giải quyết được hết, vẫn có dư luận bức xúc của quần chúng,
nhân dân.
3.1.2.4. Về kết quả tiến hành kiểm tra
Kết quả tiến hành kiểm tra đã đạt được trong những năm qua là rất khả
quan, nhưng còn có một số khuyết điểm, yếu kém thể hiện là hiệu quả công tác
kiểm tra và xử lý tổ chức đảng, đảng viên vi phạm chưa cao; nhiều khuyết điểm,
sai phạm chậm được kiểm tra phát hiện; các tình trạng tiêu cực trong bộ máy tổ
chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa được giải quyết một cách tích cực; sự
đoàn kết thống nhất ở một số cơ sở đảng và cấp ủy bị rối ren, nghi ngờ lẫn nhau,
có đơn thư mạo danh, nặc danh nói xấu nhau về các mặt, nhưng chưa quan tâm
kiểm tra cho rõ và giải quyết triệt đề. Việc xử lý sau kiểm tra còn nhiều hạn chế.
Từ đó làm cho kết quả kiểm tra không cao. Những yếu kém này, thể hiện một số
điểm và trường hợp như sau:
- Sau khi cấp ủy quyết định tiến hành kiểm tra, được cấp trên công nhận kết
luận kiểm tra và có nghị quyết xử lý, giao cho cấp ủy và các tổ chức có liên quan
thi hành, nhưng có một số trường hợp họ không thi hành hoặc thi hành không đủ,
chưa nghiêm, điển hình là trường cuộc kiểm tra trách nhiệm của một tỉnh ủy viên,
giám đốc sở giao thông của tỉnh về xây dựng đường trong tỉnh. Trường hợp này,
năm 2012 cấp ủy cấp trên giao cho tỉnh thu lại tiền bị thất thoát 12, 6 tỷ kíp,
nhưng đến nay vẫn chưa thu. Đối với đồng chí tỉnh ủy viên thiếu trách nhiệm, làm
thất thoát tiền chỉ thi hành kỷ luật cách chức tỉnh ủy viên và giám đốc sở, chuyển
về bộ liên quan.
- Qua kiểm tra phát hiện tiền, quả bị thất thoát nhiều nhưng việc thu lại
được rất ít. Theo số liệu tổng kết kiểm tra 5 năm đã phát hiện tiền của thất thoát do
hành vi vi phạm của đảng viên là cán bộ chủ chốt của các cấp, ngành 4.145 tỷ kíp,
113
70 triệu đô la Mỹ, 381 triệu bạt Thái Lan, nhưng thu hồi lại được chỉ 790 tỷ kíp,
10 triệu đô la Mỹ và 36 triệu bat Thái Lan [68].
Vấn đề yếu kém trên được Đảng đánh giá:
Việc tiến hành công tác kiểm tra của cấp ủy các cấp, các ngành chưa
nghiêm theo nguyên tắc và quan điểm của Đảng; việc xử lý một số vấn
đề trong kết luận kiểm tra chậm trễ, không dứt khoát và không hiệu lực;
hiện tượng tiêu cực trong bộ máy và đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa
giải quyết tận gốc và dứt điểm; năng lực và hiệu quả tiến hành kiểm tra
của ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra các cấp, các ngành chưa cao [83].
3.2. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.2.1. Nguyên nhân của thực trạng
3.2.1.1. Nguyên nhân của ưu điểm
Những ưu điểm đạt được trong thực hiện nội dung, hình thức, phương
pháp, nguyên tắc, quy trình kiểm tra thời gian qua bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân, nhưng khái quát thì có nguyên nhân chính sau đây:
Một là, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung
ương Đảng có nhiều văn bản quy định và hướng dẫn về thực hiện công tác kiểm
tra. Mỗi kỳ Đại hội Đảng đã có phương hướng, nội dung, nghị quyết, chỉ thị, quy
định, quyết định, quy chế về công tác kiểm tra. Nhất là trong khóa VIII và khóa
IX Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra nhiều văn bản về công tác
kiểm tra. Trong đó có quy định quan điểm, nội dung, hình thức, phương pháp, quy
trình tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, kể cả kiểm tra của cấp ủy và kiểm tra
của ban kiểm tra các cấp. Sau khi có văn bản của Trung ương Đảng thì Ban Kiểm
tra Trung ương kịp thời ban hành các hướng dẫn thực hiện các văn bản đó. Đây đã
tạo cơ sở pháp lý, giúp cho cấp ủy và ban kiểm tra các cấp xác định cụ thể và thực
hiện nội dung, hình thức, phương pháp, quy trình kiểm tra đúng theo chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của từng tổ chức.
Hai là, cấp ủy các cấp phần lớn, ngày càng nhận thức rõ về tác dụng của
công tác kiểm tra đối với sự lãnh đạo của cấp mình và xây dựng nội bộ đảng. Từ
114
đó đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, triển khai các văn bản của Trung
ương Đảng về xây dựng đảng và công tác kiểm tra; xác định nội dung kiểm tra và
thực hiện tiến hành kiểm tra theo các nội dung, hình thức và phương pháp kiểm tra
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, hoàn cảnh và đặc điểm hoạt động
của tổ chức mình và đối tượng kiểm tra trong phạm vi lãnh đạo. Khi đã có kết
luận kiểm tra, cấp ủy có lãnh đạo, chỉ đạo cho các tổ chức, cá nhân có liên quan và
đối tượng kiểm tra quyết tâm tổ chức thi hành.
Ba là, sự chủ động làm công tác tham mưu của ban kiểm tra của các cấp,
các ngành và sự tích cực thực hiện của cán bộ kiểm tra. Ban kiểm tra của nhiều
cấp, nhiều ngành đã chủ động làm tham mưu cho cấp ủy trong việc lựa chọn, xác
định nội dung, hình thức, phương pháp kiểm tra cụ thể đối với mỗi một cuộc kiểm
tra và đội ngũ cán bộ kiểm tra tích cực thực hiện một cách nhuần nhuyễn nội
dung, hình thức, phương pháp kiểm tra ấy. Đồng thời đội ngũ các bộ kiểm tra
ngày càng được nâng cao về phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, trưởng thành qua thực tiễn công tác, có phẩm chất, đạo đức, bản lĩnh, tính
chiến đấu và ý thức trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ.
Bốn là, có sự tham gia của các tổ chức, cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân ngày càng tăng. Ngày càng được tổ chức đảng, đông đảo cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân ủng hộ và tham gia trong công tác kiểm tra, nhất là
trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kiểm tra, cung cấp thông tin, số
liệu, chứng cứ cho ban kiểm tra và đoàn kiểm tra, tố cáo tổ chức đảng và đảng
viên mà họ thấy có vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước.
3.2.1.2. Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm
Những khuyết điểm trong thực hiện công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào thời gian qua có nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Một là, các văn bản về công tác kiểm tra của Đảng đến hiện nay chưa đủ và
nhiều văn bản quy định chung chung. So với thực tế sự phát triển kinh tế, xã hội
trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự
thay đổi nhiều mặt của đối tượng lãnh đạo, thì các văn bản của Đảng về xây dựng
đảng và công tác kiểm tra chưa đủ và cái đã có thì một số văn bản nội dung rất
115
rộng, chưa rõ, chưa cụ thể. Đồng thời việc phổ biến các văn bản về công tác kiểm
tra nói chung, và nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc và quy trình kiểm
tra do Trung ương Đảng đề ra nói riêng chưa rộng và chưa sâu. Vì vậy, làm cho sự
nhận thức để triển khai, cụ thể hóa, xác định nội dung kiểm tra của một số cấp ủy
và một số ban kiểm tra chưa phù hợp và thực hiện nội dung, hình thức, phương
pháp, nguyên tắc kiểm tra của Đảng hiệu quả không cao.
Hai là, trình độ và năng lực của một số cấp ủy và ban kiểm tra của cấp ủy
đó còn hạn chế, chưa biết triển khai những quy định của Trung ương để xác định
nội dung, lựa chọn hình thức, phương pháp kiểm tra cho phù hợp với mục tiêu,
yêu cầu của một cuộc kiểm tra đối với một đối tượng kiểm tra cụ thể trong phạm
vi, quyền hạn của cấp mình. Mặt khác, trách nhiệm của một số cấp ủy và ban kiểm
tra của một số cấp, một số ngành đối với công tác kiểm tra chưa cao. Còn có tư
tưởng dựa vào cấp trên, công tác kiểm tra là trách nhiệm của cấp ủy và ban kiểm
tra cấp trên. Việc củng cố tổ chức bộ máy cơ quan ban kiểm tra của một số cấp ủy
về quy định tổ chức, hoạt động và bố trí cán bộ sau Đại hội Đảng cấp mình chậm;
số lượng và năng lực cán bộ kiểm tra so với yêu cầu của nhiệm vụ kiểm tra từng
giai đoạn còn hạn chế. Điều kiện về phương tiện vật chất, ngân sách cho ban kiểm
tra và cán bộ kiểm tra cấp tỉnh và huyện thực hiện chức năng, nhiệm vụ rất ít.
Ba là, cấp ủy và ban kiểm tra cấp trên chưa thường xuyên đi kiểm tra, đôn
đốc cấp ủy và ban kiểm tra cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, xác định và
thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc và quy trình kiểm tra đối
với từng đối tượng kiểm tra cụ thể. Vì vậy, có tình trạng một số cấp ủy không
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, ban kiểm tra không chủ động thực
hiện nhiệm vụ mà không kịp thời uốn nắn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ và năng lực tổ chức thực hiện công tác kiểm tra của ban kiểm tra
cấp dưới.
Bốn là, Ban Kiểm tra Trung ương chưa tiến hành tổng kết hoặc sơ kết riêng
về việc xác định và thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc, và
quy trình kiểm tra, sự phối kết hợp để tiến hành một cuộc kiểm tra; chưa đánh giá
tổ chức đảng, cấp ủy và ban kiểm tra về thực hiện vấn đề này. Vì vậy không nắm
116
được và không đánh giá chính xác, khách quan về việc xác định và thực hiện
trong thực tiễn có phù hợp, có hiệu quả mức nào; cần sửa, bổ sung và ban hành
mới vấn đề nào.
Chính từ các nguyên nhân trên đã làm cho có tình trạng tuy tiến hành kiểm
tra tương đối nhiều, việc xử lý kết luận kiểm tra có nơi không nghiêm, không đầy
đủ, ít tính răn đe và không ngăn chặn được hết sự xảy ra tham nhũng, tiêu cực ở
một số cấp, một số ngành.
3.2.2. Những vấn đề đặt ra
Từ thực trạng và nguyên nhân chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào trong những năm qua có một số vấn đề đặt ra như sau:
3.2.2.1. Về vấn đề xác định nội dung kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên
Việc xác định nội dung kiểm tra đối với tổ chức đảng và đối với đảng viên
ở một số cấp ủy và ban kiểm tra của các cấp các ngành khi tiến hành kiểm tra cụ
thể không chính xác, chưa phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm và hoàn
cảnh hoạt động, sinh sống của đối tượng kiểm tra. Vì vậy, làm hạn chế hiệu quả
của mỗi cuộc kiểm tra và ảnh hưởng đến chất lượng công tác kiểm tra chung của
toàn Đảng.
Để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng, đòi hỏi việc xác định
nội dung kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên thì trước hết ở tầm vĩ mô, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Ban Kiểm tra Trung ương phải xác
định nội dung, hình thức và phương pháp kiểm tra phù hợp với nhiệm vụ xây
dựng Đảng và chức năng lãnh đạo của Đảng trong từng giai đoạn; ở mỗi cấp, mỗi
ngành phải đảm bảo đúng tinh thần quy định chung của trung ương Đảng và Ban
Kiểm tra Trung ương, nhưng nội dung kiểm tra ấy phải đảm bảo tính chính xác
khách quan, tức là khi lựa chọn xác định nội dung kiểm tra cụ thể đối với tổ chức
đảng và đảng viên phải đúng với mục tiêu và yêu cầu của từng cuộc kiểm tra,
đúng với chức năng, nhiệm vụ của đối tượng kiểm tra, đúng với dấu hiệu vi phạm
đã thu thập thông tin ban đầu, đảm bảo phục vụ công tác xây dựng đảng trong
sạch, vững mạnh tương xứng với sự tin cậy của quần chúng nhân dân.
117
3.2.2.2. Về vấn đề xác định hình thức, phương pháp kiểm tra
Trong thời gian qua kết quả của nhiều cuộc kiểm tra không cao và hạn chế
hiệu quả thực hiện công tác kiểm tra là do việc xác định hình thức và phương pháp
kiểm tra không phù hợp. Vì vậy, đòi hỏi là phải xác định hình thức và phương
pháp kiểm tra cho đúng với từng nội dung kiểm tra.
- Đối với nội dung kiểm tra thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
đảng và kiểm tra đảng viên thực hiện Điều lệ Đảng, phong cách và lề lối làm việc,
lối sống, thực hiện trách nhiệm và nhiệm vụ được giao là cần thực hiện hình thức
kiểm tra thường xuyên và hình thức kiểm tra này cần được thực hiện nhiều nhất,
rộng rãi nhất ở tất cả mọi tổ chức đảng. Còn kiểm tra định kỳ và kiểm tra đột xuất
hoặc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm thì đòi hỏi ban kiểm tra chủ động làm tham
mưu đề xuất cấp ủy quyết định cho phù hợp.
- Về phương pháp kiểm tra đối với từng nội dung, từng đối tượng kiểm tra
cần xác định phù hợp và cụ thể, vừa sử dụng phương pháp cơ bản của công tác
Đảng là giáo dục tính tự giác, tinh thần trách nhiệm của tổ chức, đảng viên, quần
chúng trong đối tượng kiểm tra và bộ phận có liên quan đối với xây dựng Đảng,
vừa sử dụng phương pháp riêng theo nội dung kiểm tra cụ thể, phù hợp với đặc
điểm và hoàn cánh riêng của mỗi đối tượng kiểm tra.
Việc xác định hình thức và phương pháp kiểm tra đúng và phù hợp với
từng nội dung kiểm tra và từng đối tượng kiểm tra sẽ làm cho cuộc kiểm tra được
tiến hành thuận lợi, thu hút được sự tham gia công tác kiểm tra của các tổ chức và
quần chúng nhân dân và kết quả cử cuộc kiểm tra đạt được sẽ cao.
3.2.2.3. Về vấn đề sự thống nhất công tác kiểm tra Đảng và thanh tra
Nhà nước và phối hợp với công tác kiểm tra của các tổ chức trong hệ thống
chính trị
Sự thống nhất công tác kiểm tra Đảng và thanh tra Nhà nước và phối hợp
với công tác kiểm tra của các tổ chức trong hệ thống chính trị và tổ chức kinh tế -
xã hội là một trong những phương pháp thực hiện công tác kiểm tra của Đảng đạt
kết quả cạo. Trong thực tế thực hiện công tác kiểm tra của nhiều cấp ủy, một số
ban kiểm tra và đoàn kiểm tra đã thực hiện tương đối tốt công tác kiểm tra và công
118
tác thanh tra bởi 2 việc này là một cơ quan và cùng một ban lãnh đạo đảm nhiệm
nhưng lại chưa thực hiện được tốt sự phối hợp với các tổ chức và bộ phận liên
quan. Từ thực tế ấy, để thực hiện tốt nội dung, hình thức, phương pháp kiểm tra
của Đảng, làm cho công tác kiểm tra có chất lượng thì đòi hỏi phải thực hiện tốt
sự thống nhất công tác kiểm tra Đảng và thanh tra Nhà nước, đồng thời cần phối
hợp tốt với các tổ chức và bộ phận liên quan. Nhưng để đảm bảo cho sự phối hợp
đó có hiệu quả thì phải có các yếu tố sau đây:
- Bộ Chính trị hoặc Ban Bí thư Trung ương đảng và Ban Kiểm tra Trung
ương nên ra quy chế về sự phối hợp giữa ban kiểm tra với cơ quan kiểm toán, cơ
quan bảo vệ pháp luật, các tổ chức đoàn thể và các tổ chức có liên quan. Trong
quy chế phải quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm, biện pháp phối hợp, cung cấp
thông tin số liệu liên quan đến công tác kiểm tra, chế độ giao ban…
- Khi có quyết định tiến hành kiểm tra đối với một đối tượng kiểm tra, ban
kiểm tra cần chú trọng và tăng cường theo dõi, chỉ đạo đoàn kiểm tra thực hiện sự
phối hợp với các tổ chức, cơ quan hữu quan một cách có hiệu quả.
3.2.2.4. Về vấn đề ban kiểm tra cấp trên kiểm tra cấp ủy và ban kiểm tra
cấp dưới xác định và thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp kiểm tra
Với đặc điểm tâm lý của người Lào thích sự quan tâm, gần gũi sát sao của
cấp trên, thì trong công tác kiểm tra cũng cần vận dụng đặc điểm tâm lý đó để thúc
đẩy cấp ủy và ban kiểm tra cấp dưới thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra nói chung,
trong việc xác định và thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp kiểm tra nói
riêng. Thực tiễn trong thời gian qua thì ban kiểm tra cấp trên chưa làm được mấy
việc này. Trong thời gian tới, đây là một nhiệm vụ mà ban kiểm tra cấp trên cần
chú trọng thực hiện cho tốt. Làm tốt việc này sẽ giúp cấp ủy và ban kiểm tra cấp
dưới nâng cao nhận thức về các mặt của công tác kiểm tra, xác định nội dung, lựa
chọn hình thức tiến hành và phương pháp kiểm tra đúng, phù hợp với mỗi đối
tượng và từng giai đoạn cụ thể, đáp ứng được đòi hỏi nhiệm vụ xây dựng Đảng và
đồng thời làm cho ban kiểm tra cấp trên, trong đó là Ban Kiểm tra Trung ương
tổng kết, thiết lập được hệ thống dữ liệu về thực hiện nội dung, hình thức, phương
pháp, quy trình kiểm tra của tổ chức đảng, cấp ủy, ban kiểm tra các cấp.
119
3.2.2.5. Về vấn đề bộ máy tổ chức ban kiếm tra và cán bộ làm công tác
kiểm tra
Ban kiểm tra các cấp là tham mưu cho cấp ủy về công tác kiểm tra, chất
lượng công tác kiểm tra một phận không nhỏ là thuộc vào chất lượng ban kiểm tra
và cán bộ kiểm tra. Thực tiễn cho thấy ban kiểm tra của cấp nào và cán bộ kiểm
tra ở cơ quan ban kiểm tra nào có trình độ, năng lực tương xứng với nhiệm vụ
được giao thì công tác kiểm tra của cấp ủy đó được hoạt động có hiệu quả. Nhưng
xét chung, ban kiểm tra, cơ quan ban kiểm tra và cán bộ làm công tác kiểm tra
trong thời gian qua còn nhiều mặt bất cập cần quan tâm khắc phục như: nhận sự
ban kiểm tra các cấp thiếu tính kế tiếp, việc sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức
bộ máy cơ quan ban kiểm tra theo kỳ Đại hội Đảng chậm, số lượng và trình độ
chuyên môn của cán bộ kiểm tra chưa đáp ứng. Đây là vấn đề cần quan tâm và có
giải pháp xử lý hữu hiệu.
Kết luận chương 3
Nhận thức được ý nghĩa, tác dụng, tầm quan trọng của công tác kiểm tra
đối với việc củng cố, xây dựng Đảng, qua các kỳ Đại hội, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư đã ban hành nhiều văn bản làm cơ sở pháp lý cho công tác kiểm tra, trong văn
bản đó có xác định về phương hướng, nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên
tắc, quy trình kiểm tra của Đảng. Ban Kiểm tra Trung ương đã kịp thời hướng dẫn
tổ chức thực hiện nội dung các văn bản ấy.
Căn cứ vào các văn bản về công tác kiểm tra đã có, tổ chức đảng, cấp ủy,
Ban Kiểm tra các cấp phần lớn đã nghiên cứu, quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo triển
khai, xác định nội dung, hình thức, phương pháp kiểm tra trong phạm vi quyền
hạn lãnh đạo của cấp mành và tổ chức thực hiện khá tốt, sáng tạo, phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ, quyển hạn, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mỗi tổ chức và
đạt được kết quả nhất định. Kết quả cuộc kiểm tra đã đóng góp rất quan trọng cho
việc củng cố và xây dựng toàn Đảng trong sạch vững mạnh.
120
Tuy nhiên, còn có một số tổ chức đảng, cấp ủy và ban kiểm tra thực hiện
chưa tốt một số nội dung, hình thức, nguyên tắc kiểm tra. Trong tiến hành một
cuộc kiểm tra còn có lúc, có nơi chưa thực hiện đồng bộ các phương pháp kiểm
tra đã được Đảng quy định. Điều này, được thể hiện ở chỗ hiệu quả của một số
cuộc kiểm tra không cao, sau kiểm tra có nhiều hiện tượng tiêu cực không phát
hiện và không được xử lý. Nguyên nhân khuyết điểm có cả khách quan và chủ
quan. Từ thực trạng chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào đang đặt ra 5 vấn đề cần qua tâm giải quyết: Vấn đề xác định nội dung kiểm
tra tổ chức đảng và đảng viên; vấn đề xác định hình thức, phương pháp kiểm tra;
vấn đề phối hợp công tác kiểm tra Đảng với thanh tra Nhà nước và các tổ chức
khác; vấn đề ban kiểm tra cấp trên kiểm tra cấp ủy và ban kiểm tra cấp dưới xác
định và thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp kiểm tra; vấn đề bộ máy tổ
chức ban kiểm tra và cán bộ làm công tác kiểm tra.
121
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
NHÂN DÂN CÁCH MẠNG LÀO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
4.1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG NHÂN
DÂN CÁCH MẠNG LÀO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
4.1.1. Dự báo tình hình thuận lợi, khó khăn của công tác kiểm tra
Trong những năm tới, tình hình quốc tế và khu vực sẽ tiếp tục diễn biến
theo hướng vừa đua tranh và mâu thuẫn, vừa hợp tác liên kết dựa vào nhau vì lợi
ích chung và lợi ích của mỗi bên; nhưng sự tạo ra hòa bình, hữu nghị và hợp tác
nhằm phát triển vẫn là xu hướng chung trong quan hệ quốc tế. Quá trình toàn
cầu hóa và hòa nhập sẽ mạnh mẽ song song với sự đua tranh để phát huy ưu thế
của mình cùng với sự liên kết và hợp tác nhiều lên. Sự nghiên cứu sáng chế và
ứng dụng khoa học công nghệ mới hiện đại ngày càng nhiều, kinh tế trí thức sẽ
ngày càng có vai trò và vị trí quan trọng.
Tình hình trong nước, với tác động của sự hòa nhập sẽ tạo ra yêu cầu phải
phát triển đất nước theo kịp để tồn tại và đáp ứng nhu cầu về mọi mặt của đời
sống chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước, công dân và trong khi đó điều kiện
cơ sở nhiều mặt còn khó khăn. Điều này đòi hỏi Đảng Nhân dân cách mạng Lào
phải nâng cao kiến thức, năng lực và tính tiên phong, làm cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên gương mẫu về chấp hành điều lệ Đảng pháp luật Nhà nước và trong
thực hiện chức trách.
Tình hình trên đây vừa tạo ra thuận lợi và đồng thời cũng có những khó
khăn đối với công tác xây dựng Đảng và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra
của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay.
4.1.1.1. Thuận lợi
Thứ nhất, Đảng Nhân dân cách mạng Lào tiếp tục khẳng định vai trò quan
trọng của công tác kiểm tra đối với sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng
122
Đảng: “Công tác kiểm tra là một trong những chức năng và phương thức lãnh
đạo quan trọng của Đảng” [99, tr.73]. Quan điểm này là phương châm chỉ đạo
cho người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng nâng cao nhận thức về công tác kiểm
tra để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm trong công tác kiểm tra. Điều này được chỉ ra là: “Trong điều
kiện kinh tế thị trường và mở rộng quan hệ hợp tác, hòa nhập quốc tế, cấp ủy các
cấp phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc giám sát, kiểm tra của cấp trên đối
với cấp dưới, của tổ chức đối với từng người theo nguyên tắc của Đảng và pháp
luật Nhà nước” [99, tr.73]. Đây là cơ sở rất quan trọng và cơ bản tạo điều kiện
thuận lợi cho việc triển khai, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra trong giai
đoạn hiện nay.
Thứ hai, với xu thế toàn cầu hóa, hỏa nhập và sự phát triển nhanh của
khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin sẽ làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
nắm bắt được nhanh những sự kiện, kiến thức mới và qua đó tự phấn đấu rèn
luyện nâng cao bán lĩnh, kiến thức, năng lực và tính tổ chức, kỷ luật để đáp ứng
nhiệm vụ chính trị được giao phó cũng như hoàn thành chức trách trong điều
kiện mới. Phần lớn cán bộ, đảng viên trung thành với Đảng, với Tổ quốc, luôn
luôn phấn đấu rèn luyện, giữ vững phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng,
tích cực phòng chống các hiện tượng tiêu cực trong tổ chức và đội ngũ của mình.
Qua đó góp phần rất quan trọng vào việc xây dựng tổ chức, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng và đây là điều kiện thuận lợi cho việc
nâng cao chất lượng công tác kiểm tra.
Thứ ba, Mặt trận Lào xây dựng đất nước, các tổ chức đoàn thể quần
chúng, Hội liên hiệp cựu chiến binh và các tổ chức kinh tế-xã hội đều ủng hộ,
tham gia công tác xây dựng Đảng và công tác kiểm tra theo chức năng, vai trò
của mỗi tổ chức. Trong đó là sau khi có Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương 3 khóa X về giải quyết bệnh quan liêu và tham nhũng, quy định cho
quần chúng nhân dân phản ánh, bổ phiếu tín nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước thông qua các tổ chức nêu trên. Đây là sự phát huy dân chủ
123
cho quần chúng nhân dân được thực hiện quyền kiểm tra đối với cán bộ, đảng
viên là người lãnh đạo, quản lý các cấp và là một trong những thuận lợi cho việc
nâng cao chất lượng công tác kiểm tra.
Thứ tư, trình độ học vấn của phần lớn quần chúng nhân dân ngày càng
cao, nhận thức và hiểu biết về các quy định, quy chế của Đảng và pháp luật của
Nhà nước ngày càng rõ. Nếu tổ chức, cán bộ, đảng viên nào có dấu hiệu vi phạm
thì họ sẽ phản ánh ngay thông qua các tổ chức mà họ là thành viên hoặc báo cáo
cho các cơ quan có thẩm quyền giám sát, kiểm tra từ đầu. Vì vậy, sẽ làm cho
công tác kiểm tra phát huy được chức năng bảo vệ tổ chức và cán bộ, đảng viên
ngay từ đầu để không xảy ra vi phạm hoặc ngăn chặn không cho vi phạm nhỏ
thành sự sai trái lớn, từ vi phạm cá nhân riêng lẻ thành vi phạm của tổ chức và
nhiều người. Do vậy, làm cho chất lượng công tác kiểm tra được nâng cao.
Thứ năm, được sự quan tâm của Trung ương Đảng và cấp ủy các cấp thì
trong những năm tới, bộ máy tổ chức ban kiểm tra, cơ quan ban kiểm tra các cấp
sẽ được tăng cường củng cố về nhiều mặt; đội ngũ cán bộ kiểm tra sẽ được tăng
cường về số lượng và nâng cao về trình độ kiến thức, năng lực, phẩm chất, đồng
thời sẽ được ưu tiên về ngân sách cho hoạt động, trang bị các phương tiện, công
cụ phục vụ nghiệp vụ và tạo điều kiện thuận lợi cho thi hành chuyên môn nghiệp
vụ. Đây sẽ làm cho cơ quan ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra được hoạt động theo
chức năng, nhiệm vụ tạo ra chất lượng ngày càng cao. Đồng thời, bạn thân đội
ngũ cán bộ kiểm tra hiện có phần lớn có bản lĩnh vững vàng, có tinh thần trách
nhiệm cao, có ý thức tổ chức và kỷ luật, là tấm gương cho thế hệ tiếp noi theo.
Chính đây là một yếu tố làm cho việc nâng cao chất lượng kiểm tra thuận lợi.
Thứ sáu, quá trình toàn cầu hóa và hòa nhập mở rộng cho Đảng, cấp ủy và
ban kiểm tra các cấp mở rộng giao lưu học hỏi, trao đổi thông tin, kinh nghiệm
về công tác kiểm tra, mở rộng tầm nhìn, đổi mới tư duy về quan điểm và nhận
thức đối với vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra trong giai đoạn
mới. Từ đó tăng cường sự quan tâm nhiều hơn nữa trong lãnh đạo và thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra. Đây là một yếu tố tạo sự thuận lợi làm cho công tác kiểm tra
của toàn Đảng có chất lượng cao.
124
4.1.1.2. Những khó khăn
Thứ nhất, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, có cả một số cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp cao giảm sút về phẩm chất, đạo đức cách mạng, coi lợi ích
cá nhân và bộ phận trên hết.Từ đó vi phạm điều lệ, các quy định của Đảng và
pháp luật Nhà nước. Tình trạng tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong
tổ chức Đảng, Nhà nước, đội ngũ cán bộ, đảng viên và trong xã hội trong những
năm qua chưa giải quyết nghiêm và dứt điểm; nó vẫn sẽ tiếp diễn với nhiều mức
độ và có tính phổ biến. Điều này được Đảng khẳng định: “Phẩm chất chính trị,
gương đi đầu trong đấu tranh chông tiêu cực của cán bộ, đảng viên chưa tương
xứng với đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị trong điều kiện và môi trường mới.
Ngoài ra còn có các hiện tượng tiêu cực như: tham nhũng, vi phạm pháp luật có
tác động xấu đến vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng” [99, tr.34]. Tình trạng
này mặc dù được Đảng quan tâm coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết, nhưng
nó sẽ kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định. Do vậy, nó là một trong
những khó khăn cho công tác kiểm tra và ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
công tác kiểm tra trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, các chế độ chính sách, cơ chế, quy chế về lãnh đạo, quản lý cụ
thể của mỗi cấp, mỗi ngành trong những năm qua nhiều cái chưa chi tiết, rõ
ràng, chuẩn xác và có cái không còn phù hợp với tình hình mới. Việc tổ chức
thực hiện nhiều nơi chưa nghiêm. Mặt khác, các chế độ chính sách và các quy
chế hiện hành nhiều cái chưa phổ biến sau rộng, quần chúng nhân dân chưa biết.
Điều này đòi hỏi cấp ủy và chính quyền các cấp, các ngành và các tổ chức có
thẩm quyền hữu quan phải rà soát, sửa đổi, bổ sung, quy định thêm và sau đó tổ
chức phổ biến, quán triệt để các tổ chức, cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu rõ, tổ
chức thực hiện và tham gia giám sát, kiểm tra.
Thứ ba, với mục tiêu phát triển đất nước mà Đại hội Đảng lần thứ X đề ra,
đến năm 2020 phải thoát khỏi tốp các nước chậm phát triển, đến năm 2025 sẽ là
nước có thu nhập ở mức trung bình với tổng sản phẩm quốc nội tăng hơn 2 lần
so với năm 2015 và đến năm 2030 là đạt thu nhập trung bình cao, với tổng sản
125
phẩm quốc nội nhiều hơn 4 lần so với năm 2015. Để đạt được mục tiêu ấy, Đảng
và Nhà nước phải chi vốn đầu tư rất nhiều của nội bộ, kể cả thu hút vốn từ bên
ngoài vào các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và trực tiếp vào các dự án phát triển sản xuất… Đây là mảnh đất
và môi trường béo bở cho các tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên có thẩm
quyền hữu quan lợi dụng những sơ hở của các văn bản pháp luật, dùng chức-
quyền để cắt xén, ăn bớt, đút lọt, cho và nhận hối lộ vì lợi ích cá nhân và bộ phận
không hợp pháp. Tình trạng này nhất định sẽ xảy ra ở nơi này, nơi kia với mức
độ khác nhau. Đây là một khó khăn, thách thức đối với công tác kiểm tra và việc
nâng cao chất lượng công tác kiểm tra trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, một số cán bộ, đảng viên và trong đó kể cả một bộ phận cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp cao của Đảng và Nhà nước tuy đã qua học tập một cách
bài bản lý luận Mác-Lênin, đã rèn luyện thử thách qua phong trào cách mạng của
quần chúng và thực tiễn nhiều năm, những khi đã có chức, có quyền đã xuất hiện
tâm lý gốc sản sinh ra, đó là tâm lý nông dân sản xuất nhỏ trong cách nghĩ, cách
làm. Điều đó thể hiện là sự quan liêu, xa rời quần chúng, xa rời thực tiến, thích
nịnh hót, thích sướng, bè cánh, tham nhũng, lãng phí, ngại khó, ngại đổi mới, vi
phạm nguyên tắc làm việc của Đảng…Vấn đề này được Đảng chỉ ra:
Còn có một số cán bộ, đảng viên thì có cái lời nói không đi đối với việc
làm, xa rời nhân dân, xa rời thực tiễn, xem xét xử lý một số vấn đề
không theo pháp luật, vi phạm nguyên tắc của Đảng và pháp luật Nhà
nước; phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, phong cách làm việc,
tinh thần phục vụ nhân dân và hy sinh cho tập thể giảm sút [98, tr.2].
Những tình trạng này, sẽ vẫn xuất hiện ở cấp này cấp kia và nơi này nơi
khác không thể xử lý ngay một cách nhanh chóng. Vì vậy, nó là một khó khăn
cho công tác kiểm tra.
Thứ năm, bọn xấu và các thế lực thù địch lợi dụng quá trình toàn cầu hóa,
hòa nhập, kết quả sự phát triển công nghệ thông tin và khó khăn về đời sống
kinh tế trong nước tiếp tục thực hiện âm mưu chống phá Đảng, tiến hành diễn
126
biến hòa bình, thúc giục tự diễn biến từ nội bộ. Trong thực tiễn những năm qua
đã có một số cán bộ, đảng viên có sự tha hóa về mặt này hoặc mặt khác, nhưng
việc xử lý đối với người đó chưa nghiêm, chưa dứt khoát. Đây đã trở thành một
căn bệnh lây lan, khó chữa và tiếp tục ẩn nấu chờ thời điểm trỗi dậy. Tình hình
này sẽ còn kéo dài trong những năm tới và nó là một trong những khó khăn đối
với công tác kiểm tra, ảnh hưởng xấu đến nâng cao chất lượng công tác kiểm tra.
4.1.2. Phương hướng nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng
Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay
Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã xác định:
Để lãnh đạo đất nước thoát khỏi tình trạng chậm phát triển trong năm
2020 và tiến vào bước ngoặt mới của sự phát triển một cách vững
chắc theo hướng xã hội chủ nghĩa, thì việc nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu mới của Đảng, phát huy tính tiền phong và gương
mẫu của đảng viên có ý nghĩa quan trọng, là nhân tố quyết định sự
nghiệp ấy. Trong những năm tới Đảng ta phải tăng cường củng cố,
chỉnh đốn bản thân cho trong sạch vững mạnh, đảm bảo bản chất là
đội tiền phong của giai cấp công nhân, là đại diện cho lợi ích của
người lao động và dân Lào toàn quốc. [99, tr.57].
Để góp phần thực hiện đường lối trên, công tác kiểm tra của Đảng nên
nâng cao chất lượng theo phương hướng sau đây:
Thứ nhất, các cấp ủy, cán bộ, đảng viên, trong đó và trước hết là người
đứng đầu các cơ quan, tổ chức phải nhận thức đúng về công tác kiểm tra và nâng
cao chất lượng công tác kiểm tra. Nghiên cứu, quán triệt và nhận thức đúng quan
điểm của Đảng sau:
Công tác giám sát, kiểm tra là một trong chức năng lãnh đạo của
Đảng, cấp ủy là người chỉ đạo trực tiếp công tác giám sát, kiểm tra; có
trách nhiệm lãnh đạo thực hiện công tác giám sát, kiểm tra, chống
tham nhũng và xử lý kết quả của cuộc kiểm tra; tổ chức đảng mọi cấp
và mọi đảng viên phải dưới sự giám sát, kiểm tra của Đảng; tất cả các
127
tổ chức của Đảng phải tiến hành giám sát, kiểm tra đối với tổ chức
đảng và đảng viên trong quyền quản lý của cấp mình về việc tổ chức
thực hiện đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị, Điều lệ Đảng,
pháp luật và quy định, quy chế của Nhà nước [97, tr.57].
Thứ hai, cấp ủy và cơ quan có thẩm quyền hữu quan chủ động rà soát, sửa
đổi, bổ sung và đề ra mới các chế độ, chính sách, quy định, quy chế về công tác
Đảng, công tác cán bộ, công tác lãnh đạo - quản lý của cấp, ngành cho cụ thể, rõ
ràng, chuẩn xác, chặt chẽ, phù hợp với tình hình của đất nước giai đoạn hiện nay.
Các văn bản này phải tổ chức phổ biến, quán triệt sâu rộng trong tổ chức Đảng,
cơ quan chính quyền, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Thứ ba, cấp ủy các cấp quan tâm nhiều hơn nữa và chủ động, tích cực
củng cố, kiện toàn ban kiểm tra và cơ quan ban kiểm tra của cấp mình về các
mặt. Làm cho lực lượng kiểm tra có đủ sức mạnh và năng lực thực hiện chức
năng, nhiệm vụ và uy tín đối với tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân theo phạm vi hoạt động.
Thứ tư, tiến hành giám sát, kiểm tra phải đảm bảo thắt chặt sự đoàn kết
thống nhất trong nội bộ cấp ủy, tổ chức đảng các cấp. Giám sát, kiểm tra làm cho
tổ chức đảng trong sạch vững mạnh thật sự về mặt chính trị - tư tưởng, tổ chức
và có phong cách lãnh đạo khoa học - cách mạng, mở rộng và phát huy được dân
chủ trong Đảng; cán bộ, đảng viên chủ động và tích cực tham gia tự phê bình và
phê bình trong tổ chức, thật thà và có trách nhiệm phản ánh những hành động,
việc làm có dấu hiệu vi phạm của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Thứ năm, công tác kiểm tra trong giai đoạn hiện nay phải chủ động thực
hiện đường lối ngoại giao của Đảng, mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu học hỏi
và trao đổi kinh nghiệm với các cơ quan kiểm tra - thanh tra của các Đảng bạn,
các nước trong khu vực và các tổ chức quốc tế, qua đó rút ra những bài học kinh
nghiệm có thể vận dụng vào thực tiễn của đất nước và tích cực đấu tranh chống
luận điểm xuyên tạc của lực lượng kẻ địch.
128
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG
TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG NHÂN DÂN CÁCH MẠNG LÀO TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
4.2.1. Tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm trong toàn Đảng
về nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, trước hết là thuộc vào nhận thức,
trách nhiệm lãnh đạo của cấp ủy và người đứng đầu mỗi tổ chức đảng từ trung
ương đến cơ sở đối với công tác kiểm tra. Sau đó là sự tích cực, chủ động chấp
hành và tham gia của đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Những
người nêu trên có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về chức năng, vai trò, tác dụng
của công tác kiểm tra đối với sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng đảng,
xây dựng chính quyền Nhà nước binh mạch vững mạnh; hiểu rõ và đúng về trách
nhiệm đối với công tác kiểm tra, sẽ dấn đến việc tổ chức thực hiện đúng hướng
và có hiệu quả. Đây là một yếu tố quan trọng, mở đường cho việc thực hiện được
các yếu tố khác để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra.
Để tạo ra sự chuyển biến về nhận thức đối với công tác kiểm tra và nâng
cao chất lượng công tác kiểm tra trong giai đoạn hiện nay, các tổ chức đảng, cấp
ủy các cấp phải tổ chức nghiên cứu, quán triệt sâu trong nội bộ cấp ủy những nội
dung Văn kiện Đại hội Đảng, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của
Đảng về xây dựng đảng và công tác kiểm tra, về chức năng nhiệm vụ của cấp ủy
và ban kiểm tra các cấp đã đề ra trong khóa IX và khóa X. Sau khi quán triệt,
nhận thức rõ trong cấp ủy cần phải tổ chức phổ biến sâu rộng cho mọi cán bộ,
đảng viên được học tập, nghiên cứu. Công việc này phải được tiến hành thường
xuyên và tiến hành bằng nhiều hình thức theo hoàn cảnh, điều kiện và đặc điểm
công việc của mỗi tổ chức đảng hoạt động.
Cấp ủy các cấp cần nhận thức đầy đủ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của
Đảng về tấm quan trọng, ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra đối với sự lãnh
đạo của Đảng và xây dựng đảng trong sạch vững mạnh trong giai đoạn hiện nay
nói chung, sự lãnh đạo của mỗi cấp ủy và quá trình xây dựng từng tổ chức cơ sở
129
đảng nói riêng. Từ đó phải hiểu đúng trách nhiệm của cấp ủy về lãnh đạo, chỉ
đạo công tác kiểm tra, về thực hiện nhiệm vụ kiểm tra cũng như lãnh đạo, chỉ
đạo ban kiểm tra và cơ quan ban kiểm tra đúng theo chức năng, nhiệm vụ của
cấp ủy. Từng cấp ủy viên phải tích cực tự giác nghiên cứu nắm vững mục đích,
yêu cầu, nội dung, phương thức tiến hành kiểm tra trong từng giai đoạn, đối với
một cuộc kiểm tra và từng đối tượng kiểm tra cụ thể. Đồng thời cấp ủy các cấp,
trước hết là thường vụ và bí thư phải gương mẫu kiên quyết, đấu tranh khắc phục
những nhận thức không đúng về công tác kiểm tra của một số cán bộ, đảng viên
kể cả một số cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời gian qua như: coi thường công
tác kiểm tra, kiểm tra là vạch lá tìm sâu và truy tìm khuyết điểm sai trái để thi
hành kỷ luật, sợ kiểm tra, định kiến đối với người làm kiểm tra, buông lỏng công
tác kiểm tra hoặc khoán trắng công tác kiểm tra cho cơ quan chuyên môn và ỷ lại
vào cấp trên.
Cấp ủy phải nhận thức rõ và giáo dục cho mọi cán bộ, đảng viên trong tổ
chức thuộc phạm vi lãnh đạo nhận thức sâu sắc rằng, kiểm tra là biện pháp hữu
hiệu để tạo nên sức mạnh của từng tổ chức đảng và đảng viên, phòng ngừa sự
suy thoái tư tưởng chính trị, phai nhạt về lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí
phấn đấu, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức lối sống… Đồng thời,
kiểm tra là để phát hiện những nhân tố mới tích cực, những gương năng động
sáng tạo trong tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên để phát huy nhân rộng.
Có thể khái quát, cấp ủy các cấp phải nghiên cứu, quán triệt và nhận thức
đúng ý nghĩa quan trọng và tác dụng của công tác kiểm tra theo quan điểm:
“Trong giai đoạn hiện nay có nhiều vấn đề mới mà chúng ta chưa có kinh
nghiệm mấy. Vì vậy, rất cần thiết phải tăng cường công tác kiểm tra nhằm phát
huy cái tốt, khắc phục xử lý kịp thời cái sai trái. Chính đây là ý nghĩa thật sự
quan trọng, không nên hiểu công tác kiểm tra là để săn bắt hoặc để thi hành kỷ
luật” [81, tr.198] và quan điểm: “Kiểm tra để nâng cao và phát huy vai trò lãnh
đạo của Đảng trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Do đó, kiểm tra phải tìm ra
cho được cả cái tốt và nhân tố mới tích cực để phát huy nhân rộng và cả hành vi
130
vi phạm, cùng với nguyên nhân, động cơ của nó để phòng ngừa, ngăn chặn và
giải quyết” [82, tr.158]. Đồng thời phải hiểu rõ trách nhiệm, nhiệm vụ kiểm tra:
“Cấp ủy mọi cấp phải coi công tác giám sát, kiểm tra và thường xuyên tự phê
bình, phê bình là biện pháp quan trọng trong phòng chống cái tiêu cực trong nội
bộ Đảng. Cấp ủy cấp trên phải gương mẫu và thường xuyên giám sát, kiểm tra
cán bộ, đảng viên trong phạm vi lãnh đạo, quản lý của mình” [95, tr.52].
Từ sự nhận thức đúng về ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra, cấp ủy
phải nâng cao trách nhiệm và tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác kiểm tra,
ban kiểm tra và cơ quan ban kiểm tra để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra,
coi công tác kiểm tra là nhiệm vụ của mình như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
“Người lãnh đạo phải tự mình làm việc kiểm tra, mới đủ kinh nghiệm và uy tín”
[37, tr.521].
Trách nhiệm của cấp ủy trong lãnh đạo công tác kiểm tra, trước hết là phải
có trách nhiệm cao trong nghiên cứu nhân sự đưa vào bầu ban kiểm tra của cấp
mình cho đúng tiêu chuẩn; nghiên cứu xác định phương hướng, nhiệm vụ công
tác kiểm tra toàn khóa, hàng năm và quyết định kế hoạch kiểm tra từng đối
tượng; nghiên cứu quán triệt và triển khai các văn bản, Điều lệ Đảng, nghị quyết,
chỉ thị, quy định, quy chế, hướng dẫn của cấp ủy cấp trên về công tác kiểm tra
thành quy định, quy chế cụ thể của cấp mình để tổ chức thực hiện; bố trí cán bộ
cho cơ quan ban kiểm tra cho hợp lý về số lượng và chất lượng; tạo điều kiện về
mặt tinh thần và vất chất cho ban kiểm tra, cơ quan ban kiểm tra và cán bộ kiểm
tra được thực thi nhiệm vụ; tổ chức giao ban, nghe báo cáo, họp phê duyệt kết
luận kiểm tra và chỉ đạo thực hiện kết luận kiểm tra; quan tâm củng cố bộ máy tổ
chức cơ quan ban kiểm tra và thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra.
Có thể khẳng định đây là trách nhiệm của cấp ủy các cấp đối với công tác kiểm
tra như Tổng bí thư Cay sỏn Phôm vị hản đã nhấn mạnh: “Cấp ủy và chính
quyền các cấp, các đồng chí phụ trách mỗi ngành, mỗi cơ quan đơn vị phải tự
mình làm công tác kiểm tra, tổ chức cho đại quần chúng và cấp dưới góp ý kiến
đối với công việc của cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước và cấp trên. Đây là cần
131
thiết và rất quan trọng” [80, tr.98-99]. Chính trách nhiệm này là cần nâng cao và
đồng thời phải tăng cường lãnh đạo tổ chức thực hiện trong những năm tới để
nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng.
4.2.2. Cụ thể hóa các chế độ, quy định của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước thành những văn bản cụ thể, chi tiết phục vụ công tác
kiểm tra
Công tác kiểm tra có chất lượng cao hay không thì một trong những yếu
tố quan trọng phải có văn bản cụ thể, chi tiết, rõ ràng, tương đối đầy đủ phù hợp
theo từng giai đoạn cụ thể và bao trùm mọi lĩnh vực công việc lãnh đạo, quản lý
và xây dựng đảng để làm cơ sở xác định nội dung kiểm tra, xem xét, đánh giá,
kết luận đúng-sai qua kiểm tra. Vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra
của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi tổ chức
đảng, cấp ủy, các cơ quan chính quyền Nhà nước triển khai, cụ thể hóa các chế
độ, quy định của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước thành những văn
bản cụ thể, chi tiết trong lãnh đạo, quản lý từng lĩnh vực, từng cấp và từng ngành
để phục vụ công tác kiểm tra Đảng:
Nghiên cứu đề ra chế độ, quy chế, cơ chế giám sát, kiểm tra cho đầy
đủ và chặt chẽ, trong đó bao gồm cơ chế cho cấp dưới, Mặt trận Lào
xây dựng đất nước và các tổ chức đoàn thể được giám sát, kiểm tra
các cơ quan quyền lực Nhà nước về thi hành pháp luật, các quy chế và
giải quyết các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng đã xảy ra trong bộ máy
tổ chức [99, tr.73-74].
Ban Kiểm tra Trung ương với chức năng là tham mưu cho Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác kiểm tra
phải chủ động, tích cực nghiên cứu triển khai nội dung Văn kiện Đại hội X, Điều
lệ Đảng khóa X thành các nghị quyết, chỉ thị, quy định cụ thể, chi tiết của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng về các việc
liên quan và trực tiếp về công tác kiểm tra; có hướng dẫn tổ chức thực hiện các
văn bản đó. Trước mặt và phải làm nhanh là cụ thể hóa nội dung Văn kiện Đại
132
hội X, Điều lệ Đảng khóa X thành Quy định của Bộ Chính trị hoặc Ban Bí thư
Trung ương Đảng về quy chế cho cấp dưới, Mặt trận Lào xây dựng đất nước, các
tổ chức đoàn thể, thông tin đại chúng và nhân dân được tham gia giám sát, kiểm
tra đối với việc thực hiện quyền, nhiệm vụ của cấp ủy, của lãnh đạo cơ quan
chính quyền và việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên; Quy định của Bộ
Chính trị hoặc Ban Bí thư Trung ương Đảng về quy chế ban kiểm tra và thanh
tra phối hợp với cơ quan điều tra, tòa án, viện kiểm sát trong xử lý vụ án cán bộ,
đảng viên tham nhũng; chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương về quy chế và cách
thức cho cán bộ, đảng viên bỏ phiếu tín nhiệm đối với người đứng đầu tổ chức
mình. Trong phạm vi, quyền hạn của Ban Kiểm tra Trung ương phải ra các quy
định về quy chế thực hiện chuyên môn nghiệp vụ làm cơ sở cho ban kiểm tra các
cấp thi hành đúng phạm vi, quyền hạn như: quy định về thực hiện giám sát, kiểm
tra việc tổ chức thực hiện kết luận kiểm tra; quy định về quy chế tiếp nhận,
nghiên cứu, xem xét đơn thư khiếu tố. Các quy định, quy chế đã nêu ở trên, Ban
Kiểm tra Trung ương và các tổ chức tham mưu có trách nhiệm liên quan cần ra
văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện có nội dung chi tiết, rõ ràng. Đồng thời
phải rà soát lại các chế độ, quy định, quy chế hiện hành để kiến nghị các cơ quan
hữu quan sửa đổi, bổ sung cho chặt chẽ.
Các cấp ủy, căn cứ vào các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của cấp
trung ương ban hành cấn phải nghiên cứu quán triệt và triển khai cụ thể thành
các quy định, quy chế về lãnh đạo, quản lý và về công tác kiểm tra theo phạm vi
quyền hạn và nhiệm vụ của cấp mình. Trong tiến hành một cuộc kiểm tra đối với
một đối tượng cụ thể cần phải soạn ra các nội dung văn bản cụ thể như: quy định
của cấp ủy hoặc ban kiểm tra về quy chế làm việc của đoàn kiểm tra, trách
nhiệm của trưởng đoàn và mỗi thành viên của đoàn kiểm tra; quy chế phối hợp
giữa đoàn kiểm tra với các tổ chức và bộ phận liên quan. Các văn bản cụ thể này
cần có văn bản nào để phục vụ cho cuộc kiểm tra có hiệu quả và chất lượng là
cấp ủy ra quyết định tiến hành kiểm tra đó quy định và chỉ đạo ban kiểm tra soạn
ra. Ban kiểm tra của cấp ủy cấp đó phải chủ động làm tham mưu trong việc này.
133
Ngoài quy định trong Đảng, Bộ chính trị và Ban bí thư Trung ương Đảng
lãnh đạo Quốc hội, chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và các tổ chức đoàn thể cấp trung ương ra mới, sửa đổi các văn bản trong
lĩnh vực và trách nhiệm lãnh đạo, quản lý của mình. Cấp ủy các cấp, ngành phải
lãnh đạo, chỉ đạo bên chính quyền triển khai, cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật Nhà nước, nghị định, chỉ thị, thông tư của Thủ tướng
Chính phủ thành các văn bản pháp lý về quản lý công việc, quản lý cán bộ, về sự
phối hợp giữa các ngành, các cấp… Các văn bản này có đầy đủ, nội dung chi tiết
rõ ràng và chính xác được bao nhiêu thì làm cho việc kiểm tra có căn cứ, là tiêu
chí để đánh giá việc tổ chức thực hiện đúng, sai, kết quả đạt được chính xác,
khách quan… và đây là một nhân tố quan trọng, là điều kiện cho công tác kiểm
tra đạt hiệu quả và chất lượng cao.
Nội dung các văn bản đề ra, cấp ủy cần quan tâm là phải bảo đảm tính
khách quan, chính xác, chặt chẽ, khả thi, phù hợp với tình hình thực tiễn; bảo đảm
tính Đảng, đồng bộ, thống nhất trong toàn bộ hệ thống tổ chức đảng và hệ thống tổ
chức của Nhà nước. Các chế độ, quy định, quy chế do từng cấp ủy để ra phải cụ
thể, rõ ràng, chi tiết, dễ nhớ, dễ thực hiện, sát với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của từng tổ chức; phải bám sát nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của cấp ủy
cấp trên; phải căn cứ vào Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời phải bảo
đảm phát huy đầy đủ vai trò của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân được
tham gia thực hiện theo tinh thần chỉ đạo của Đảng: “Tạo điều kiện cho các thông
tin đại chúng và nhân dân được tham gia vào công tác giám sát, kiểm tra đối với
hoạt động thực hiện nhiệm vụ và cuộc sống của cán bộ, đảng viên” [99, tr.74].
4.2.3. Củng cố bộ máy tổ chức của ban kiểm tra các cấp, các ngành và
đào tạo đội ngũ cán bộ kiểm tra thành cán bộ chuyên môn nghiệp vụ
chuyên nghiệp
4.2.3.1. Củng cố bộ máy tổ chức của ban kiểm tra các cấp, các ngành
Củng cố bộ máy tổ chức ban kiểm tra các cấp, các ngành là một nhân tố
tạo nên chất lượng công tác kiểm tra của Đảng. Bộ máy tổ chức của ban kiểm tra
134
hợp lý và mạnh sẽ góp phận quan trọng cho công tác kiểm tra và hoạt động kiểm
tra của Đảng có chất lượng cao như V.I.Lênin đã tuyến bố: “Hãy cho chúng tôi
một tổ chức những người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo ngược nước Nga lên”
[25, tr.162]. Vì vậy, củng cố bộ máy tổ chức ban kiểm tra các cấp, các ngành
phải tiến hành đồng bộ, tất cả các mặt, đảm bảo tính hợp lý. Củng cố cả ban
kiểm tra và cơ quan của ban kiểm tra các cấp, các ngành; kiện toàn các văn bản
liên quan và phục vụ công tác kiểm tra.
- Về bầu ban kiểm tra các cấp.
Cần phải thực hiện đúng, công khai việc ban chấp hành đảng ủy bầu ra
chủ nhiệm, phó chủ nhiệm ban kiểm tra của cấp mình. Những đối tượng đưa ra
để bầu đó phải thật sự là người mẫu mực, trong sạch, có uy tín đối với cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân như V.I.Lênin khẳng định: “Những công
nhân mà chúng ta chỉ định là ủy viên Ban Kiểm tra Trung ương phải là những
người cộng sản không thể chê trách được” [32, tr.446].
Cấp ủy cấp trên, tiểu ban nhân sự Đại hội Đảng các cấp phối hợp chặt
chẽ với ban kiểm tra của cấp ủy cấp đó trong việc tuyển chọn nhân sự để đưa ra
bầu ban kiểm tra. Tuyển chọn đối tượng được rồi, trước khi duyệt và quyết
định danh sách vào bầu, ngoài thăm dò ý kiến trong tổ chức đảng nên tổ chức
thăm dò ý kiến của lãnh đạo các tổ chức đoàn thể quần chúng để có được người
được tín nhiệm cao vào bầu. Làm như vậy là để đảm bảo cho việc lãnh đạo, chỉ
đạo cơ quan kiểm tra và cán bộ kiểm tra tiến hành nhiệm vụ có hiệu quả đúng
như V.I.Lênin yêu cầu về nhân sự ban kiểm tra: “Những đồng chí được tuyển
lựa sẽ phải trải qua, với tư cách là đảng viên, một cuộc thẩm tra giống như cuộc
thẩm tra mà tất cả các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải trải qua, vì các
đồng chí ấy sẽ có hết thảy mọi quyền lực của chức vụ ấy” [32, tr.436]. Với
nhiệm vụ chính trị của công tác kiểm tra trong điều kiện hiện nay và sau này,
ngoài thực hiện đúng sự tuyển chọn nhân sự, nên tăng cường số lượng ban
kiểm tra các cấp, các ngành khóa sau lên ít nhất 1/3 của khóa trước, và nên có 2
đồng chí là ủy viên ban chấp hành đảng ủy, chủ nhiệm phải là thường vụ, chủ
135
nhiệm Ban Kiểm tra Trung ương khóa nào nên là ủy viên Bộ Chính trị. Một
phó chủ nhiệm nên là ủy viên ban chấp hành để khóa sau có thể lên thường vụ
và có điều kiện làm chủ nhiệm, đảm bảo tính kế tiếp. Chủ nhiệm ban kiểm tra
có chức vụ tương đối cao trong tổ chức đảng, đây là nhân tố rất tốt tạo thuận
lợi cho hoạt động kiểm tra và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra trong điều
kiện của Lào và đặc điểm tâm lý của người Lào hiện nay, điều này cũng được
V.I.Lênin chỉ ra: “Muốn biết cách điều khiển công tác kiểm tra, thì cần phải có
một người có uy tín đứng đầu” [32, tr.146].
- Về bộ máy tổ chức cơ quan ban kiểm tra
Tiếp tục củng cố kiện toàn bộ máy cơ quan ban kiểm tra các cấp theo
hướng gọn nhẹ, không chồng chéo, tiếp tục giữ mô hình kiểm tra và thanh tra
cùng một cơ quan, một ban lãnh đạo, phân công các đơn vị phụ trách các nhiệm
vụ một cách rõ ràng và thực hiện chức trách, nhiệm vụ một cách chuyên môn
hóa, chuyên nghiệp hóa. Cấp ủy và ban kiểm tra các cấp, các ngành phối hợp
nghiên cứu thành lập các đơn vị của cơ quan ban kiểm tra cấp mình, làm sao để
đảm đương và làm tròn nhiệm vụ được giao phó. Ban Kiểm tra Trung ương phải
soạn và ra các quy định, quy chế đồng bộ, nội dung rõ ràng về công tác và hoạt
động trong lĩnh vực kiểm tra. Cái cần thiết phải làm nhanh là quy chế về quy tắc
ứng xử của cán bộ kiểm tra. Đồng thời Ban hiểm tra trung ương phải ra văn bản
hướng dẫn cho cấp ủy và ban kiểm tra cấp dưới quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của ban kiểm tra của cấp và ngành mình.
- Về biên chế cán bộ kiểm tra
Thực hiện Nghị quyết 03 của Bộ Chính trị, ngày 15 tháng 2 năm 2012 về
xây tỉnh thành đơn vị chiến lược, xây huyện thành đơn vị vững mạnh toàn diện
và xây bản thành đơn vị phát triển, trong đó có quy định phải tăng cường cán bộ
cho các ngành cấp tỉnh và huyện, trong ngành kiểm tra nên tăng cường số lượng
cán bộ kiểm tra cho địa phương, nhất là cho cấp huyện. Tăng số lượng cán bộ
kiểm tra cho cấp huyện, chính là vừa thực hiện Nghị quyết 03 của Bộ Chính trị,
vừa là tăng lực lượng cho ban kiểm tra để đủ sức thực hiện chức năng, nhiệm vụ
136
tiến hành kiểm tra, thức đẩy việc tổ chức thực hiện Nghị quyết này cho đạt kết
quả trong thực tiễn.
Việc tăng cường số lượng cán bộ cho biên chế cơ quan ban kiểm tra các
cấp, các ngành phải thực hiện hình thức mà trước hết là cấp ủy có quyết định
luân chuyển cán bộ có đủ điều kiện, tiêu chẩn cán bộ kiểm tra từ các ngành khác
sang cơ quan ban kiểm tra, tăng thêm chỉ tiêu cho cơ quan ban kiểm tra tiếp nhận
những sinh viên mới tốt nghiệp cao đẳng và đại học về các ngành có liên quan
vào làm ở cơ quan kiểm tra.
4.2.3.2. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra để họ trở thành những cán bộ chuyên
nghiệp là công việc rất cần thiết và phải làm thường xuyên của cấp ủy và ban
kiểm tra các cấp, các ngành như chủ tịch Hồ Chí Mịnh đã dạy: “Huấn luyện cán
bộ là công việc gốc của Đảng” [37, tr.520]. Hiện nay, công việc này càng cấp
bách, và Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã khẳng định:
Trong điều kiện mới này, Đảng ta càng cần thiết phải có đội ngũ cán
bộ có kiến thức, năng lực, đạo đức, bản chất lập trường chính trị vững
vàng, trung thành với Tổ quốc và sự nghiệp của Đảng, hết lòng phục
vụ đất nước và nhất dân, có lối sống trong sáng và tiên tiến, có sự rèn
luyện tu dưỡng bản thân và cần cù nghiên cứu học tập không ngừng
nâng cao trình độ về mọi mặt,có ý thức tổ chức và kỷ luật, tôn trọng
và chấp hành nghiêm luật pháp và Điều lệ của Đảng [95, tr.53].
Công tác kiểm tra là công việc có tính nghiệp vụ, liên quan trực tiếp với tổ
chức và con người, mà con người ở đây lại là cán bộ, đảng viên có vị trí công tác
và chức trách quan trọng trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Vì vậy, đòi
hỏi đối với cán bộ kiểm tra phải không ngừng nghiên cứu, học tập nâng cao trình
độ mọi mặt công tác có tính nghề nghiệp của mình. Khi nói về tiêu chẩn cán bộ
kiểm tra, chủ tịch Cayxỏn PhômVịHản đã nhấn mạnh: “Cán bộ làm công tác
kiểm tra phải là người trung thực, nắm vững chủ trương chính sách, có trình độ
chuyên môn và biết dựa vào quần chúng” [81, tr.194]. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
137
kiểm tra là phải toàn diện về các mặt phẩm chất đạo đức, kiến thức chuyên môn,
năng lực công tác, phong cách làm việc…, đảm bảo tiêu chuẩn cán bộ kiểm tra
như sau:
- Trung thành với Tổ quốc, có quan điểm lập trường chính trị vững vàng,
có đạo đức cách mạng, trung thực, kiên quyết bảo vệ đường lối, chính sách, Điều
lệ của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện nghiêm pháp luật, không tin vào
những lời xuyên tạc.
- Có trình độ kiến thức, năng lực, nắm vững chủ trương, đường lối, chính
sách, Điều lệ của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có trình độ về chuyên môn
nghiệp vụ nào đó nhất định, có tinh thần trách nhiệm cao, dũng cảm, kiên quyết
và linh hoạt trong thực hiện nhiệm vụ, trong sạch, công tâm và giữ bí mật
chuyên môn nghiệp vụ, có tinh thần phục vụ đất nước, bảo vệ quyền và lời ích
chính đáng của công dân.
- Nghiêm minh và nêu gương trong thực hiện Điều lệ của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, có ý thức tổ chức, không nhân nhượng, kiên quyết ngăn chặn
và phòng chống mọi hiện tượng lợi dụng để tham nhũng, nhận hối lộ…
- Có vốn sống, có kinh nghiệm thực tiễn, có quan điểm nhìn nhận, xem
xét các vấn đề sâu sắc, toàn diện, khách quan, thẳng thắn, không ngả nghiêng,
không định kiến và phân tích thông tin, số liệu một cách đúng đắn và chính xác.
- Không bị xử lý kỷ luật mức nặng hoặc vi phạm luật dân sự về nợ, không
bị tòa án xử tù về hành vi tội phạm và tham nhũng.
- Có sức khỏe tốt.
Để thực hiện được yêu cầu trên, cấp ủy và ban kiểm tra các cấp, các
ngành phải quan tâm và coi trọng nhiều hơn nữa đối với việc đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ kiểm tra, và phải thực hiện tốt một số việc sau đây:
* Ban kiểm tra các cấp, các ngành chủ động làm quy hoạch cán bộ kiểm
tra và đào tạo, bồi dưỡng đúng theo quy hoạch đó
Ban kiểm tra các cấp, các ngành phải có quy hoạch cán bộ 5 năm đến 15
năm, hoặc dài hơn, bao gồm các chức danh cán bộ kiểm tra từ chủ nhiệm cho
138
đến cán bộ chuyên viên. Quy hoạch đó phải đảm bảo tính đảng, tính khoa học và
có khả năng tổ chức thực hiện. Trong quy hoạch phải đảm bảo về lớp tuổi vừa có
lớp cao niên, trung niên và lớp trẻ có sự nối tiếp từng chức danh; đảm bảo có cả
nam lẫn nữ và bộ tộc, có nhiều ngành nghề chuyên môn nghiệp vụ. Để có được
quy hoạch như vậy, trong tiến hành xây dựng quy hoạch, cấp ủy và ban kiểm tra
phải mở rộng dân chủ, công khai, thăm dò ý kiến và cho tất cả cán bộ, đảng viên
trong cơ quan ban kiểm tra bỏ phiếu đề xuất danh sách cán bộ vào từng chức
danh, lấy theo ý kiến số đông để đưa vào quy hoạch, sau đó cấp ủy và ban kiểm
tra quyết định quy hoạch. Quy hoạch cán bộ kiểm tra này 3 năm nào phải tiến
hành thăm dò lại ý kiến cán bộ, đảng viên và quần chúng trong cơ quan để sửa
đổi, bổ sung cho khách quan. Làm được như vậy, cấp ủy và ban kiểm tra các
cấp, các ngành sẽ có nguồn cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng và bố trí vào các chức
danh của cơ quan kiểm tra tương đối chính xác.
Khi có quy hoạch cán bộ kiểm tra rồi, từng bước công khai cho người trong
quy hoạch biết để họ phấn đấu rèn luyện bạn thân về các mặt theo tiêu chí của
chức danh. Lúc tuyển chọn cán bộ đưa đi đào tạo, bồi dưỡng và bố trí vào các
chức danh hoặc giao nhiệm vụ nào đó theo yêu cầu của công việc trong từng giai
đoạn, cấp ủy và ban kiểm tra trước hết cần phải nghiên cứu xem xét tạo điều kiện
cho cán bộ nằm trong quy hoạch, căn cứ vào quy hoạch để tổ chức thực hiện.
* Thực hiện tốt các hình thức đào tạo, bồi dưỡng
+ Kết hợp hình thức đào tạo chính quy qua hệ thống nhà trường với hình
thức đào tạo qua công tác thực tiễn.
Căn cứ vào quy hoạch cán bộ kiểm tra, hàng năm ban kiểm tra các cấp,
các ngành phải có kế hoạch đề nghị ban tổ chức, xin chỉ tiêu đưa cán bộ trẻ có
triển vọng đi đào tạo qua hệ thống nhà trường cả trong nước và ở nước ngoại về
lý luận chính trị và các chuyên môn khác cần thiết cho công tác xây dựng Đảng,
chính quyền Nhà nước cũng như nghiệp vụ kiểm tra. Đào tạo cán bộ kiểm tra về
lý luận chính trị và công tác xây dựng Đảng là cái cần thiết trong giai đoạn hiện
nay cũng như sau nay, bởi vì cán bộ kiểm tra phần lớn hiện nay tốt nghiệp về
139
luật, kinh tế và tài chính, và đây cũng đúng với chủ trương của V.I.Lênin về đào
tạo cán bộ kiểm tra: “Họ cũng có nhiệm vụ phải học lý luận, nghĩa là lý luận về
tổ chức công tác mà họ có ý định chuyên làm” [32, tr.450].
Ban kiểm tra các cấp, các ngành phải coi trọng và tiến hành nhiều hơn nữa
hình thức đào tạo cán bộ kiểm tra thông qua công tác thực tiễn. Đây là hình thức
đào tạo mà không cần nhiều chi phí, nhưng kết quả đạt được khá cao. Thực hiện
hình thức đào tạo này, ban kiểm tra phải bố trí cán bộ tham gia đoàn đi kiểm tra
hoặc giao công việc cụ thể cho mỗi cán bộ phụ trách làm, có quy định về yêu
cầu, thời hạn, có sự theo dõi, đốn đốc, kết luận, đánh giá kết quả công việc, và
đánh giá người làm việc đó. Đối với người hoàn thành tốt công việc được giao,
thì tiếp tục giao công việc mới phức tạp hơn quan trọng hơn trước cho họ làm để
khai thác thế mạnh của họ và đào tạo họ thành cán bộ chuyên nghiệp theo từng
chức danh cụ thể. Qua làm những việc cụ thể như vậy, làm cho họ vận dụng kiến
thức từ lý luận đã học vào thực tế công việc và sẽ nâng cao được nhận thức, sự
hiểu biết cũng như nâng kỹ năng thực hiện nghiệp vụ và nâng cao năng lực của
cán bộ kiểm tra.
+ Tăng cường thực hiện hình thức bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra - thanh tra
cơ bản với việc bồi dưỡng nghiệp vụ theo yêu cầu của một cuộc kiểm tra cụ thể.
Để thực hiện hình thức bồi dưỡng đã nêu trên có chất lượng, Ban Kiểm tra
Trung ương phải chủ động rà soát lại giáo trình bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra -
thanh tra cơ bản hiện nay, có thể sửa đổi và hoàn chỉnh cho phù hợp với mỗi
nhiệm kỳ Đại hội Đảng; chỉ đạo vụ nghiên cứu và các vụ chuyên môn nghiên
cứu soạn bài tập huấn nghiệp vụ theo các nội dung kiểm tra cụ thể nhằm bồi
dưỡng cho các đoàn đi kiểm tra. Cấp ủy và chính quyền các cấp phải có trách
nhiệm cung cấp tài chính nhiều hơn trước đây cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ kiểm tra.
+ Tăng cường quan hệ hợp tác với nước ngoài trong việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ kiểm tra.
Ban Kiểm tra Trung ương phải tăng cường quan hệ hợp tác với các nước
bạn láng giềng và trong khu vực để trao đổi kinh nghiệm và tranh thủ sự giúp đỡ
140
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra của Lào. Riêng quan hệ với Việt Nam, ngoài
cấp trung ương, thì nên thúc đầy và tạo điều kiện cho vụ kiểm tra của các bộ, cơ
quan ngang bộ và ban kiểm tra các tỉnh kết nghĩa tiến hành nhiều hơn nữa sự
trao đổi đoàn sang thăm, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, và thông qua đó là một
hình thức bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra cho cán bộ mình.
* Xây dựng và thực hiện tốt các chính sách khuyến khích, phát huy sự chủ
động, hăng hái của người được đi đào tạo, bồi dưỡng
Một điều quan trọng nữa để làm cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm
tra có hiệu quả và chất lượng, cần có và thực hiện tốt các chính sách khuyến
khích để phát huy sự chủ động, nỗ lực hăng hái học tập, phấn đấu đạt loại giỏi và
xuất sắc.
+ Trước hết, phải đổi mới và đột phá về tư duy, mà lâu nay coi người
được đi học trong nước và nước ngoại hơn 1 năm là đã được hưởng chính sách
ưu đãi rồi, do vậy đã cắt 10% tiền lương hàng tháng và cắt các khoản tiền phụ
cấp. Nhưng thực tiễn người đi học lại phải chi phí nhiều hơn so với giai đoạn
làm việc ở cơ quan. Tình trạng nay đã ảnh hưởng không nhỏ đến một số người
được đi đào tạo, có tư tưởng chỉ học để tốt nghiệp. Vì vậy, nên có tư duy khách
quan hơn về thực hiện chính sách đối với người đi học, tức là không nên cắt bớt
tiền lương của họ, và nên cho phụ cấp thêm 15% tiền lương hàng tháng để cho
họ yên tâm và tập trung vào học tập.
+ Nên triển khai chủ trương của Đảng và thực hiện trong thực tiễn về
chính sách khuyến khích và sử dụng người học tốt, học giỏi. Tức là, phải bố trí,
sử dụng cán bộ sau khi đào tạo xong trở về cho đúng với kiến thức và năng lực;
đối với người học tốt, học giỏi có thể cho cấp bậc tiền lương cao hơn người học
khá và trung bình khá.
4.2.4. Tăng cường sự thống nhất, đồng bộ giữa công tác kiểm tra của
Đảng với công tác thanh tra của Nhà nước và sự phối hợp với công tác kiểm
tra chuyên môn của các ngành, của các tổ chức đoàn thể
Tăng cường sự thống nhất, đồng bộ giữa công tác kiểm tra của Đảng với
công tác thanh tra của Nhà nước và sự phối hợp với công tác kiểm tra chuyên
141
môn của các ngành, của các tổ chức đoàn thể, mục đích là nhằm bảo đảm phát
huy vai trò của các tổ chức và quần chúng vào việc xây dựng đảng, bảo đảm tính
đảng và tính chính xác khách quan của công tác kiểm tra, làm cho việc đánh giá,
kết luận kiểm tra có độ chuẩn xác cao, được đối tượng kiểm tra nhất trí về kết
luận kiểm tra, làm cho kết luận kiểm tra có tính khả thi trong thực tiễn và có sự
thống nhất cao giữa các tổ chức có liên quan.
Hệ thống tổ chức kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai
đoạn hiện nay được tổ chức ở tất cả các tổ chức đảng, cơ quan quyển lực Nhà
nước, Mặt trận Lào xây dựng đất nước, các đoàn thể quần chúng. Ở các cơ quan
đó đều có bộ máy cơ quan ban kiểm tra hợp nhất với thanh tra làm nhiệm vụ
kiểm tra đảng, thanh tra quản lý hành chính và thanh tra theo chuyên môn nghiệp
vụ. Mặt khác, đối tượng kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đối với
đảng viên, thì đảng viên hơn 90% là cán bộ và là đoàn viên của các tổ chức đoàn
thể; do đó họ vừa là đối tượng kiểm tra của Đảng và vừa là đối tượng thanh tra
và kiểm tra của các tổ chức mà họ là thành viên,
Với mô hình hệ thống bộ máy tổ chức kiểm tra này và đối tượng kiểm tra,
để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra đòi hỏi cấp ủy, ban kiểm tra các cấp
phải tăng cường sự thống nhất, đồng bộ công tác kiểm tra của Đảng, thanh tra
của nhà nước và làm tốt sự phối hợp với công tác kiểm tra chuyên môn của các
ngành, của các tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị của Lào.
Tăng cường sự thống nhất, đồng bộ và sự phối hợp này, trước hết là trách
nhiệm củacấp ủy, người lãnh đạo cơ quan chính quyền và ban kiểm tra các cấp,
các ngành theo phạm vi và quyền hạn lãnh đạo, quản lý. Để làm tốt việc này cần
lưu ý:
- Ở cấp trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ, lãnh
đạo chỉ đạo cấp ủy và người đứng đầu các bộ, cơ quan ngang bộ và cấp tỉnh, Ban
Kiểm tra Trung ương Đảng và Thanh tra chính phủ thực hiện tốt sự thống nhất,
đồng bộ và phối hợp chặt chẽ trong việc xác định phương hướng nhiệm vụ kiểm
tra, thanh tra hàng năm. Phương hướng nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra của Ban
142
Kiểm tra Trung ương và Thanh tra Chính phủ cần có tính vĩ mô bao trùm toàn hệ
thống kiểm tra, thanh tra của đất nước và đồng thời cũng cần quy định rõ, cụ thể
trong phạm vi lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và quản lý trực tiếp của
Thủ tướng Chính phủ. Phương hướng nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra của các bộ,
cơ quan ngang bộ và cấp tỉnh phải bám sát phương hướng nhiệm vụ kiểm tra,
thanh tra của Ban Kiểm tra Trung ương và Thanh tra Chính phủ.
Trong mỗi một cuộc kiểm tra về nội dung cụ thể đối với một đối tượng
nào đó mà vụ việc liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhiều ngành, nhiều
cấp thì cần thiết phải là Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định kiểm tra,
phải bố trí cán bộ kiểm tra, thanh tra từ các bộ, ngành có liên quan tham gia vào
đoàn kiểm tra và do một đồng chí Bộ Chính trị hoặc chủ nhiệm Ban Kiểm tra
Trung ương chủ trì trực tiếp. Làm như vậy là để thuận lợi trong việc lãnh đạo sự
phối hợp giữa các ngành và các cấp, giữa kiểm tra đảng với thanh tra và kiểm tra
- thanh tra theo chuyên môn nghiệp vụ.
- Ở cấp mỗi một tổ chức, cơ quan, cấp. Cấp ủy và người đứng đầu chính
quyền tổ chức đó phải lãnh đạo chỉ đạo cấp ủy trực thuộc, ban kiểm tra và thanh
tra cấp mình thực hiện tốt sự thống nhất, đồng bộ công tác kiểm tra, thanh tra và
phối hợp chặt chẽ với công tác kiểm tra chuyên môn nghiệp vụ của ngành và tổ
chức đoàn thể trong phạm vi cơ quan mình. Hình thức tiến hành cần thực hiện
như ở cấp trung ương.
- Nội dung sự phối hợp. Trước hết là phối hợp thống nhất về phương
hướng nhiệm vụ kiểm tra - thanh tra ở cấp vĩ mô của từng cấp, nhưng phương
hướng nhiệm vụ đó phải bám sát phương hướng nhiệm vụ của cấp trên; phủ hợp
với chức năng, nhiệm vụ của tổ chức, cấp và ngành mình. Trong tiến hành một
cuộc kiểm tra đối với một đối tượng kiểm tra cụ thể cần phối hợp về mặt thông
tin, số liệu, chứng cứ; lấy thông tin, số liệu, chứng cứ qua kết luận thanh tra và
kiểm tra của tổ chức hữu quan để xem xét, đánh giá kết luận kiểm tra về đảng.
Cái quan trọng nữa, là sự thống nhất, đồng bộ về hình thức và mức xử lý qua kết
luận kiểm tra đối với các đối tượng theo trách nhiệm, phạm vi lãnh đạo quản lý.
143
Sau đó, trong thực hiện kết luận kiểm tra, cần phối hợp trong việc giám sát, thúc
đẩy đối tượng kiểm tra và các tổ chức có liên quan chủ động thi hành; qua đó
cần phải phản ánh, báo cáo cho nhau, nhưng việc giám sát, thúc đẩy thực hiện
kết luận kiểm tra này là phải đúng theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức.
- Ban Kiểm tra Trung ương và ban kiểm tra các cấp, các ngành phải chủ
động làm tham mưu cho cấp ủy cấp mình trong việc tăng cường sự thống nhất,
đồng bộ kiểm tra Đảng, thanh tra Nhà nước và sự phối hợp với công tác kiểm tra
của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong những công việc cụ thể như: xác
định phương hướng, nhiệm vụ kiểm tra của toàn khóa, hàng năm; xác định nội
dung chủ yếu cần kiểm tra từng giai đoạn. Có hướng dẫn cấp ủy và ban kiểm tra
cấp dưới triển khai và tiến hành giám sát, kiểm tra việc tổ chức thực hiện một
cách thường xuyên để kịp thời có ý kiến chấn chỉnh và phản ánh cấp ủy cấp
mình có sự chỉ đạo. Trong sơ kết, tổng kết công tác kiểm tra từng giai đoạn cấp
ủy và ban kiểm tra nên có nội dung đánh giá việc thực hiện sự thống nhất, đồng
bộ công tác kiểm tra Đảng, thanh tra Nhà nước và sự phối hợp với công tác kiểm
tra của các tổ chức có liên quan ở cấp mình và cấp dưới; rút ra bài học, nguyên
nhân, qua đó cần biểu dương, nêu gương đối với cấp ủy và ban kiểm tra đã làm
tốt việc này.
Cấp ủy, ban kiểm tra các cấp, các ngành thực hiện tốt những việc nêu trên
thì sẽ tăng cường được sự thống nhất, đồng bộ công tác kiểm tra Đảng, thanh tra
Nhà nước và sự phối hợp chặt chẽ với công tác kiểm tra chuyên môn của các
ngành, của các tổ chức đoàn thể theo đúng tinh thần kiểm tra là một trong những
chức năng lãnh đạo của Đảng. Qua việc này sẽ góp phần quan trọng cho việc
nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong
giai đoạn hiện nay.
4.2.5. Tổ chức thực hiện tốt kết luận kiểm tra, xử lý một cách nghiêm
minh, chính xác, đầy đủ và kịp thời những trường hợp vi phạm đã phát
hiện qua kiểm tra
Tổ chức thực hiện tốt kết luận kiểm tra; xử lý nghiêm, chính xác, đầy đủ
và kịp thời những vấn đề vi phạm đã phát hiện qua từng cuộc kiểm tra sẽ làm
144
cho công tác kiểm tra của Đảng có hiệu quả, chất lượng cao. Việc xử lý kết quả
của cuộc kiểm tra bảo đảm sự đúng đắn, minh bạch, công bằng; nghiêm minh thi
hành kỷ luật và kỷ luật đúng người, đúng tội sẽ khuyến khích, bảo vệ cái tích cực
trong nội bộ tổ chức và xã hội, góp phần trực tiếp trong việc phát động toàn xã
hội tham gia theo dõi, giám sát đối với hoạt động của các tổ chức, cán bộ, đảng
viên, các đơn vị kinh tế - xã hội và qua đó sẽ làm cho cá nhân, các tổ chức này
có ý thức tổ chức kỷ luật cao lên. Do vậy, Đảng đã chỉ đạo: “Tăng cường trách
nhiệm của cấp ủy và lãnh đạo các cấp đối với việc giải quyết kết quả của cuộc
kiểm tra cho kịp thời, nghiêm, hiệu lực theo Điều lệ Đảng, pháp luật và các quy
định của Nhà nước” [99, tr.74].
Để bảo đảm cho việc xử lý những vấn đề vi phạm được nghiêm, đầy đủ,
chính xác và kịp thời thì cấp ủy và ban kiểm tra các cấp cần nắm vững và thực
hiện tốt nguyên tắc, nội dung, phương pháp, quy trình kiểm tra của Đảng; sự
đánh giá, kết luận kiểm tra phải chính xác, khách quan có chứng cứ, được đối
tượng kiểm tra và các tổ chức có liên quan khẩu phục, tâm phục. Muốn đạt được
như vậy cần lưu ý thực hiện như sau:
- Cấp ủy phải lãnh đạo, chỉ đạo ngay từ khâu quyết định kiểm tra, xây
dựng kế hoạch tiến hành kiểm tra, trong kế hoạch đó xác định rõ nội dung,
phương pháp kiểm tra phù hợp với từng đặc điểm công việc, hoàn cảnh hoạt
động cụ thể của đối tượng kiểm tra; xác định đối tượng chính, đối tượng liên
quan, mục đích - yêu cầu của cuộc kiểm tra đó cần đạt được; bố trí trưởng đoàn
và thành viên tham gia đoàn kiểm tra có năng lực tiến hành kiểm tra phù hợp với
nội dung và đối tượng; dự báo những vấn đề sẽ nảy sinh trong khi tiến hành
kiểm tra và biện pháp xử lý vấn đề đó. Trong quá trình tiến hành kiểm tra, cấp
ủy và ban kiểm tra phải chỉ đạo sát, nghe báo cáo và có ý kiến chỉ đạo kịp thời
về từng vấn đề một. Khi đã có kết luận kiểm tra phải nghiên cứu tỉ mỉ, kỹ càng
để đi đến ra quyết định công nhận kết luận và kết quả của cuộc kiểm tra. Trong
quyết định thực hiện kết luận kiểm tra và xác định hình thức xử lý những vi
phạm đã phát hiện qua kiểm tra cấn phải cân nhắc kỹ để quyết định đúng đắn,
145
mang tính giáo dục, răn đe và ngăn chặn không cho hiện tượng tiêu cực và vi
phạm đó nảy sinh nữa.
- Để cho cấp ủy có được quyết định đúng, nhanh, kịp thời trong việc duyệt
kết luận kiểm tra và quyết định xử lý những vi phạm đã phát hiện, thì đoàn kiểm
tra phải có trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Phải tiến hành
giáo dục thuyết phục cán bộ, đảng viên trong đối tượng kiểm tra nhận thức đúng
và rõ về mục đích, yêu cầu của cuộc kiểm tra. Vận động cho họ tự kiểm tra, đánh
giá, báo cáo đúng sự thật về thành tích, ưu điểm và những hạn chế, khuyết điểm,
sự vi phạm, sai trái của bản thân, của người khác và của tổ chức, đồng thời tự đề
xuất biện pháp giải quyết, hình thức xử lý. Thông tin, số liệu, chứng cứ đoàn
kiểm tra thu thập được phải phân tích, so sánh với các văn bản của Đảng, Pháp
luật và các quy chế của Nhà nước có hiệu lực thực hành trong quãng thời gian vụ
việc xảy ra, đồng thời phải so sánh vào hoàn cảnh, thực tiễn của ngành, cấp và
địa phương nơi đối tượng kiểm tra hoạt động. Việc đánh giá các vấn đề trong kết
luận kiểm tra là phải rõ ràng, chính xác, khách quan về mặt ưu điểm, khuyết
điểm, cái hạn chế, mặt đúng, mặt sai, thuộc trách nhiệm của bộ phận nào và
người nào. Những kết luận này phải được lãnh đạo, cán bộ, đảng viên trong đối
tượng kiểm tra công nhận. Kết luận kiểm tra của đoàn kiểm tra đã nêu trên khi
trình Ban Kiểm tra sẽ được duyệt nhanh và Ban Kiểm tra báo cáo, trình cấp ủy
cũng sẽ được thông qua và có quyết định nhanh. Kết luận kiểm tra của từng cuộc
kiểm tra đạt được như vậy, thì cấp ủy sẽ không ngại ra quyết định xử lý những vi
phạm đã phát hiện qua kiểm tra.
- Quyết định của cấp ủy về xử lý những vi phạm đã phát hiện qua kiểm tra
phải quy định rõ hình thức và mức độ vi phạm, hình thức xử lý, các tổ chức và
người chấp hành, các tổ chức giám sát, kiểm tra việc thi hành, thời gian thi hành,
các tổ chức cần phổ biến. Ban kiểm tra các cấp phải chủ động phối hợp với ban
tổ chức làm tham mưu cho cấp ủy cấp mình chuẩn bị và soạn thảo quyết định
này. Đồng thời ban kiểm tra trực tiếp giám sát, thúc đẩy việc tổ chức thực hiện
146
của các tổ chức và cá nhân có liên quan đã quy định trong quyết định về việc xử
lý kết luận kiểm tra.
Việc xử lý những vi phạm đã phát hiện qua kiểm tra nghiêm, chính xác,
đầy đủ, kịp thời, bảo đảm tính đảng, thống nhất cao trông nội bộ tổ chức, chủ
động, đấu tranh và giáo dục sẽ thúc đẩy tính tự giác của đội ngũ cán bộ, đảng
viên chấp hành Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước; sẽ có tính ngăn chặn không
cho cán bộ, đảng viên vi phạm. Việc xử lý cần thực hiện bằng nhiều hình thức,
mà trong đó lấy hình thức giáo dục thuyết phục cho tự giác, tự giải quyết là
chính, dùng hình thức kỷ luật theo Điều kệ Đảng và theo pháp luật Nhà nước
quy định là quan trọng. Hình thức xử lý là tùy theo mức độ vi phạm để quyết
định cho phù hợp.
4.2.6. Mở rộng quan hệ đối ngoại để học hỏi kinh nghiệm và tranh
thủ sự giúp đỡ của quốc tế trong công tác kiểm tra
Trong xu hướng hòa nhập, hội nhập để tồn tại và phát triển của mỗi
nước, công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào không thể ở ngoài
quá trình đó, không thể chỉ dựa vào truyền thống và kinh nghiệm của Đảng
mình mà hoạt động thực hiện chức năng kiểm tra. Để nâng cao chất lượng công
tác kiểm tra, đòi hỏi phải học hỏi kinh nghiệm của các đảng cầm quyền trong
khu vực và quốc tế. Đây là một việc mà cấp ủy và ban kiểm tra các cấp cần
quan tâm thực hiện.
Mở rộng quan hệ, giao lưu học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, tranh thủ sự ủng
hộ, giúp đỡ trong công tác kiểm tra là một trong chủ trương, phương hướng công
tác kiểm tra trong những năm tới như sự chỉ đạo của Tổng bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào:
Phải quan tâm trao đổi kinh nghiệm với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và các nước khác về kiểm
tra, phòng chống tham nhũng, cái quan trọng phải nghiên cứu chi tiết,
rõ ràng từng bài học để xác định các biện pháp thực hiện phù hợp với
đặc điểm của nước ta [78].
147
Trong mở rộng quan hệ hợp tác cần coi trọng đặc biệt việc tăng cường
thắt chặt quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống với Ủy ban Kiểm tra của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Thanh tra Việt Nam, làm cho quan hệ hợp tác đi vào
chiều sâu với nhiều nội dung, nhiều hình thức, kể cả trao đổi tài liệu, thông tin
cập nhật về hình thức vi phạm, cách xử lý và những kinh nghiệm qua thực tiễn.
Để thực hiện việc này có kết quả, Ban Kiểm tra Trung ương phải nghiên
cứu xây dựng kế hoạch quan hệ đối ngoại chung từng giai đoạn và hàng năm
trình Ban Bí thư Trung ương phê duyệt. Nội dung kế hoạch này phải xác định sẽ
quan hệ với cơ quan nào, cơ quan của nước nào, nội dung cần trao đổi học hỏi,
trao đổi đoàn cấp nào và trong kế hoạch này phải có khoản quy định cho cấp ủy
cấp bộ và cấp tỉnh tạo điều kiện, chỉ đạo ban kiểm tra của cấp mình được quan
hệ trao đổi đoàn để giao lưu học hỏi kinh nghiệm về công tác kiểm tra, phòng
chống tham nhũng với các tổ chức và cơ quan cùng chuyên môn nghiệp vụ cấp
tương đương của nước bạn.
Ngoài kế hoạch chung, Ban Kiểm tra Trung ương và ban kiểm tra các cấp
phải có kế hoạch quan hệ riêng với mỗi cơ quan kiểm tra và các tổ chức chuyên
môn nghiệp vụ của nước bạn và quốc tế. Kế hoạch này phải xác định chi tiết và
rõ ràng mục tiêu yêu cầu cần đạt được, nội dung cần trao đổi học hỏi, vấn đề cần
phổ biến, thời gian, số đoàn mình sẽ đi và số đoàn bạn sẽ đến. Trong mỗi cuộc
trao đổi đoàn giao lưu cụ thể, căn cứ vào kế hoạch quan hệ hợp tác với mỗi cơ
quan của nước bạn, ban kiểm tra đưa đoàn đi thăm và trao đổi kinh nghiệm phải
xác định cho được đề tài, chuyên đề cụ thể cần trao đổi và gửi đầu đề đó cho bạn
trước trong khoảng thời gian nhất định; bố trí đoàn giao lưu phải phù hợp với nội
dung cần trao đổi; trong cuộc họp trao đổi, ngoài nội dung đã được chuẩn bị
trước các thành viên đoàn cần chủ động học hỏi thêm về các vấn đề liên quan mà
bạn đã làm tốt và những điều mà bạn thấy cần đề phòng.
Trong tham dự Hội nghị quốc tế và khu vực về phòng chống tham nhũng.
Ban Kiểm tra Trung ương phải chủ động cử đoàn tham dự, chuẩn bị nội dung
cần trao đổi cho kỹ để đạt được hiệu quả. Dùng các diễn đàn đó trình bày cho đại
148
biểu các nước và tổ chức tham dự hội nghị hiểu chủ trương, đường lối phòng
chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước Lào để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ
của họ đối với công tác kiểm tra - thanh tra của Lào.
Qua trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và tham dự các Hội nghị quốc tế của
mỗi đoàn phải rút ra cho được những vấn đề trọng tâm, bài học kinh nghiệm, bài
học nào vận dụng được ngay vào thực tế, đặc điểm của Đảng và đất nước Lào
báo cáo cho ban kiểm tra và cấp ủy cấp mình. Hàng năm, ban kiểm tra này phải
tiến hành tổng kết những bài học kinh nghiệm đã rút ra được về công tác kiểm
tra, thanh tra, phòng chống tham nhũng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra
của nước bạn và các tổ chức quốc tế. Bài học kinh nghiệm đó phải tập hợp làm
thành bộ tài liệu hoặc in thành sách, tiến hành phổ biến cho cấp ủy và ban kiểm
tra các cấp cho đến đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác kiểm tra.
149
KẾT LUẬN
1. Công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào là hệ thống hoạt
động của các tổ chức đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ xem xét, đánh giá, kết
luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới
và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính
trị của tổ chức đảng.
Công tác kiểm tra của Đảng có vai trò rất quan trọng: là một trong những
chức năng lãnh đạo của Đảng; là một phương thức lãnh đạo của Đảng; là một mặt
công tác xây dựng Đảng, góp phần xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào là tổng
hợp những tính chất thể hiện mức độ đạt được của việc xây dựng đường lối, chủ
trương, kế hoạch công tác kiểm tra; việc thực hiện nội dung, hình thức, phương
pháp kiểm tra và kết quả công tác kiểm tra của Đảng.
Tiêu chí chủ yếu đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào là: sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra; việc xây dựng và tổ
chức thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, nội dung kiểm tra; việc thực hiện nội
dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc và quy trình kiểm tra của Đảng; sự phối
hợp của các cơ quan chức năng và sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội vào
công tác kiểm tra của Đảng; kết quả tiến hành kiểm tra.
2. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác kiểm tra, Đảng Nhân dân
cách mạng Lào đã rất quan tâm làm tốt công tác kiểm tra. Căn cứ vào các văn
bản về công tác kiểm tra đã có, tổ chức đảng, cấp ủy, ban kiểm tra các cấp phần
lớn đã nghiên cứu, quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo triển khai, xác định nội dung,
hình thức, phương pháp kiểm tra trong phạm vi quyền hạn lãnh đạo của cấp
mành và tổ chức thực hiện khá tốt, sáng tạo, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ,
quyển hạn, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mỗi tổ chức và đạt được kết quả nhất
định. Kết quả cuộc kiểm tra ấy đã đóng góp rất quan trọng cho việc củng cố và
xây dựng toàn Đảng trong sạch vững mạnh. Tuy nhiên, so với yêu cầu, chất
150
lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào vẫn còn những hạn
chế, bất cập. Một số tổ chức đảng, cấp ủy và ban kiểm tra thực hiện chưa tốt một
số nội dung, hình thức, nguyên tắc kiểm tra. Trong tiến hành một cuộc kiểm tra
còn có lúc, có nơi chưa thực hiện đồng bộ các phương pháp kiểm tra đã được
Đảng quy định. Điều này, được thể hiện ở chỗ hiệu quả của một số cuộc kiểm tra
không cao, sau kiểm tra có nhiều hiện tượng tiêu cực không phát hiện và không
được xử lý. Nguyên nhân khuyết điểm này có cả khách quan và chủ quan.
3. Để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ hiện nay, cấp ủy và ban kiểm
tra các cấp cần nắm vững những yếu tố tác động, mục tiêu, phương hướng của
Đảng về công tác kiểm tra và thực hiện tốt, đồng bộ các giải pháp chủ yếu: Nâng
cao nhận thức, trách nhiệm về nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, tăng cường
sự lãnh đạo của cấp ủy đối với công tác kiểm tra; cụ thể hóa các chế độ, nội quy,
quy định trong Đảng, của cơ quan nhà nước thành những văn bản cụ thể, chi tiết
về công tác kiểm tra; củng cố bộ máy tổ chức của ban kiểm tra các cấp, các ngành
và đào tạo đội ngũ cán bộ kiểm tra thành cán bộ chuyên môn nghiệp vụ; tăng
cường sự thống nhất, đồng bộ giữa công tác kiểm tra của Đảng với công tác thanh
tra của Nhà nước và sự phối hợp với công tác kiểm tra chuyên môn của các ngành,
của các tổ chức đoàn thể; xử lý nghiêm, đầy đủ, chính xác, kịp thời những vấn đề
vi phạm đã phát hiện qua từng đối tượng kiểm tra; mở rộng quan hệ đối ngoại để
học hỏi kinh nghiệm và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế trong công tác kiểm tra.
4. Nhân tố quyết định chất lượng và sự thành công của công tác kiểm tra là
sự quan tâm của cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, nhất là Bộ Chính trị, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng; sự trong sạch, vững mạnh và trí tuệ của các cơ quan
kiểm tra của Đảng.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đao Bua La Pha BA VÔNG PHẾT (2012), “Quán triệt, nắm vững và thực
hiện đúng tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Caysỏn Phômvịhản về công tác
kiểm tra” Tạp chí Xây dựng Đảng, tr.31-35 (Ban Tổ chức Trung ương
Đảng Nhân dân cách mạng Lào).
2. Đao Bua La Pha BA VÔNG PHẾT (2015), “Tăng cường giám sát, kiểm tra sự
chấp hành và thực hiện Điều lệ Đảng là nhân tố bảo đảm cho Đảng mạnh
về tổ chức và kỷ luật”, Tạp chí Kiểm tra, tr.15-20 (Ủy ban Kiểm tra Trung
ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào).
3. Đao Bua La Pha BA VÔNG PHẾT (2015), “Để nâng cao chất lượng công tác
kiểm tra trong giai đoạn mới cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ kiểm tra”, Tạp chí Xây dựng Đảng, tr.31-35 (Ban Tổ chức Trung ương
Đảng Nhân dân cách mạng Lào).
4. Đao Bua La Pha BA VÔNG PHẾT (2015), “Bộ máy tổ chức Cơ quan
Ban Kiểm tra Đảng Nhân dân Cách mạng Lào - thuận lợi và khó khăn”,
Tạp chí Kiểm tra, tr.59-61 (Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam).
5. Đao Bua La Pha BA VÔNG PHẾT (2016), “Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
đào tạo bồi dưỡng cán bộ kiểm tra”, Tạp chí Xây dựng Đảng, tr.61-63
(Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam).
6. Đao Bua La Pha BA VÔNG PHẾT (2016), “Về thực hiện nguyên tắc kiểm tra
của Đảng Nhân dân cách mạng Lào”, Tạp chí Kiểm tra, tr.58-60 (Ủy ban
Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam).
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1. Lê Đức Bình (2002), Mấy vấn đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Tư pháp (1999), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
3. Chănsỉ Sẻngxổmphu (2001), Nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tra của Ủy
ban Kiểm tra tỉnh Phông xa li hiện nay, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
4. Nguyên Văn Chi (2006), “Công tác kiểm tra của Đảng qua 20 năm đổi mới”,
Tạp chí Kiểm tra, (1+2), tr.4-5.
5. Đỗ Hữu Cường (2003), “Kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm”, Tạp chí
Kiểm tra, (3) tr.22.
6. Huỳnh Quốc Cường (2005), Công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm của Ủy ban Kiểm tra quận, huyện, Thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Doan (2006), Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật nhằm nâng cao
sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, Mã số 3KV4,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Ngô Văn Dụ (2013), “Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng” tại trang http://www.baomoi.com, [truy cập ngày 20/2/2016].
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Điều lệ Đảng (Khóa X), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 (Khóa X) Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
153
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng (Khóa XI), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 (Khóa XI) Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Quy định của Ban Chấp hành Trung ương
số 30-QĐ/TW ngày 26 tháng 7 năm 2016 về thi hành chương VII và
chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng,
Hà Nội.
17. Lê Hữu Đức (2004), “Trích tham luận Hội nghị kiểm tra đảng viên khi có
dấu hiệu vi phạm tạo bước chuyển biến mới trong công tác xây dựng
Đảng ở thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Kiểm tra, (3), tr.5.
18. Phạm Huy Giáp (2006), Chất lượng công tác kiểm tra của Ủy ban Kiểm tra
quận, huyện ủy ở Thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, Luận văn
thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
19. Hữu Hà (2004), “Công tác kiểm tra với việc khắc phục sự suy thoái trong cán
bộ đảng viên”, Tạp chí Kiểm tra, (7), tr.9.
20. Lê Tiến Hào (2004), Công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội trong giai đoạn
hiện nay, Luận án tiến sĩ, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
21. Trần Đình Hoan (2003), “Tăng cường mối quan hệ giữa công tác tổ chức cán
bộ với công tác kiểm tra trong xây dựng Đảng hiện nay”, Tạp chí Kiểm
tra, (10), tr.5.
22. Huỳnh Văn Hồng (2005), Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng
bộ huyện Đình Quán, tỉnh Đồng Nai hiện nay - thực trạng và giải pháp,
Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
154
23. Nguyễn Cao Huy (2003), “Bác Hồ với công tác kiểm tra và kỷ luật trong
Đảng”, Tạp chí Kiểm tra, (9), tr.2.
24. Khămphăn Milavông (2005), Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng
(cấp tỉnh) ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay, Luận án
tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
25. V.I. Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
26. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
27. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
28. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
29. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
30. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
31. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
32. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
33. Lê Hồng Liêm (2010), Một số giải pháp tháo gỡ khó khăn trở ngại của Ủy
ban Kiểm tra các cấp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra khi có dấu hiệu
vi phạm, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
34. Nguyễn Anh Liên (2001), Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và nâng cao hiệu
quả thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, Đề tài khoa
học, mã số KHBĐ 0015.
35. Lê Lục (2016), Cán bộ kiểm tra phải có tinh thần trách nhiệm cao”, Tạp chí
Kiểm tra, (11), tr.50.
36. Thiên Lương (2006), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của các cấp ủy
đối với công tác kiểm tra”, Tạp chí Kiểm tra, (2), tr.8.
37. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (2002) Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
42. Trần Nam, Lê Quang Giản (2005), “Công tác kiểm tra góp phần xây dựng,
chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Kiểm tra, (10).
155
43. Hoàng Phê (Chủ biên) (2000), Từ điển Tiếng Việt (2000), Nxb Đà Nẵng.
44. Phonxạmáy Miênglavăn (2004), Chất lượng công tác kiểm tra của Đảng bộ
tỉnh Ắt ta pư nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn hiện
nay, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45. Phuthăc Phítthạnusỏn (2003), Công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
46. Sẻngkhămdoong Phômmạpănnha (2010), Chất lượng công tác kiểm tra của
Đảng bộ Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong
giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
47. Đới Văn Tặng (2014), “Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng Cộng sản Việt
Nam thời kỳ đổi mới - thực trạng và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Kiểm
tra Lào, (13), tr.52.
48. Trương Thị Thông (1996), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra
chuyên trách của Đảng trong tình hình hiện nay, Luận án tiến sĩ,
chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
49. Cao Văn Thống (2012), Đổi mới phương thức kiểm tra, giám sát của Đảng
giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
50. Cao Văn Thống (2012), Nâng cao chất lượng công tác tham mưu của Ủy ban
Kiểm tra trong tình hình hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
51. Đặng Xuân Tỉnh (2003), “Công tác phối hợp kiểm tra ở Đảng bộ Quân
khu 2”, Tạp chí Kiểm tra, (9), tr.3.
52. Phạm Văn Trà (2001), “Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng, thiết thực
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ Quân đội trong
tình hình mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (05), tr.1.
53. Trung tâm Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách
khoa Việt Nam, Tập 1, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
156
54. Nguyễn Thế Tư (2005), Nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu
hiệu vi phạm của Ủy ban Kiểm tra huyện ủy ở các tỉnh duyên hải miền
Trung giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ, chuyên ngành Xây dựng
Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
55. Viện Ngôn Ngữ (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
56. Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ
điển học.
57. Viện Xây dựng Đảng (2003), Giáo trình Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
* Tài liệu tiếng Lào đã dịch sang tiếng Việt
58. Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quy định số 02, ngày 26 tháng 6 năm 2012
về công tác giám sát của cấp ủy đối với tổ chức Đảng và đảng viên,
Viêng Chăn.
59. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1980), Nghị quyết hội nghị lần thứ 8 khóa
II, Văn phòng Thủ tướng, Viêng Chăn.
60. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2012), Nghị
quyết số 02, ngày 31 tháng 5 năm 2012 về tăng cường công tác giám sát,
kiểm tra, phòng chống tham nhũng trong điều kiện mới, Viêng Chăn.
61. Ban Kiểm tra Đảng ủy Bộ Tài chính (2016), Bản báo cáo tại Hội nghị công
tác kiểm tra toàn quốc lần thứ 3, ngày 18/7/2016, Viêng Chăn.
62. Ban Kiểm tra Trung ương (2011), Quy định số 1015, Ngày 14tháng 9 năm 2011
về quy chế làm việc của Ban Kiểm tra Trung ương Đảng, Viêng Chăn.
63. Ban Kiểm tra Trung ương (2012), Tổng kết công tác kiểm tra toàn quốc giai
đoạn 2006-2011, số 226, ngày 15/5/2012, Viêng Chăn.
64. Ban Kiểm tra Trung ương (2013), Tổng kết công tác kiểm tra toàn quốc năm
2012, số 42, ngày 25/1/2013, Viêng Chăn.
65. Ban Kiểm tra Trung ương (2014), Tổng kết công tác kiểm tra toàn quốc năm
2013, số 15, ngày 16/1/2014, Viêng Chăn.
157
66. Ban Kiểm tra Trung ương (2015), Tổng kết công tác kiểm tra toàn quốc năm
2014, số 34, ngày 26/1/2015, Viêng Chăn.
67. Ban Kiểm tra Trung ương (2016), Tổng kết công tác kiểm tra toàn quốc năm
2015, số 21, ngày 26/1/2016, Viêng Chăn.
68. Ban Kiểm tra Trung ương (2016), Tổng kết công tác kiểm tra toàn quốc
giai đoạn 2011-2015, số 330, ngày 10/8/2016, Viêng Chăn.
69. Ban Kiểm tra Trung ương (2017), Tổng kết công tác kiểm tra toàn quốc năm
2016, số 23 ngày 30/1/2017, Viêng Chăn.
70. Ban Tổ chức Trung ương (2009), Sách tổng hợp nội dung quan trọng của hội
nghị tổ chức toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Quốc gia Lào, Viêng Chăn.
71. Ban Tuyên huấn Trung ương, Tài liệu hội thảo kỷ niệm 60 năm ngày
thành lập Đảng Nhân dân cách mạng Lào 22/3/1955-22/3/2015, Nxb
Quốc gia Lào, Viêng Chăn.
72. Bộ Chính trị Trung ương Đảng (2004), Nghị quyết số 27, ngày 8 tháng 6 năm
2004 về công tác kiểm tra giai đoạn năm 2003 - 2010, Viêng Chăn.
73. Bộ Chính trị Trung ương Đảng (2006), Nghị quyết số 98, ngày 15 tháng 8
năm 2006 về tổ chức và hoạt động của Ủy ban Kiểm tra Trung ương,
Viêng Chăn.
74. Bộ Chính trị Trung ương Đảng (2007), Chỉ thị số 09, ngày 17 tháng 12 năm
2007 về tăng cường trách nhiệm của cấp ủy đối với công tác kiểm tra,
Viêng Chăn.
75. Bộ Chính trị Trung ương Đảng (2011), Nghị quyết số 28, ngày 25 tháng 8
năm 2011 về tổ chức và hoạt động của Ban Kiểm tra Trung ương Đảng,
Viêng Chăn.
76. Bộ Chính trị Trung ương Đảng (2012), Quy định số 02, ngày 26 tháng 6 năm
2012 về những điều đảng viên không được làm, Viêng Chăn.
77. Bộ Chính trị Trung ương Đảng (2012), Quy định số 03, ngày 26 tháng 6 năm
2012 về trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo - quản lý trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị, Viêng Chăn.
158
78. Bun nhăng Vo la chit (2016), Bài phát biểu tại Hội nghị công tác kiểm tra
toàn quốc lần thứ III ngày 20 tháng 7 năm 2016, Viêng Chăn.
79. Caysỏn Phômvịhản (1985), Tuyển tập, tập 1, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
80. Caysỏn Phômvịhản (1986), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng trước Đại hội IV của Đảng, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
81. Caysỏn Phômvịhản (1997), Tuyển tập, tập 3, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
82. Caysỏn Phômvịhản (2006), Tuyển tập, tập 4, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
83. Caysỏn Phômvịhản, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX trước Đại hội X, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
84. Chummaly Xaynhạxỏn (2012), “Nâng cao vai trò lãnh đạo bằng cách phối
hợp giữa đề ra đường lối, bố trí cán bộ và kiểm tra”, Tạp chí A lun mày,
(2), tr.11.
85. Chum ma ly Xay Nhạ Xỏn (2012), Bài phát biểu tại hội nghị công tác kiểm
tra toàn quốc lần thứ 2, thủ đô Viêng Chăn, ngày 28/3/2012, Viêng Chăn.
86. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1972), Điều lệ Đảng khóa II, Viêng Chăn.
87. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1982), Văn kiện Đại hội III, Nxb Quốc gia,
Viêng Chăn.
88. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội IV của Đảng, Nxb
Quốc gia, Viêng Chăn.
89. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội VI của Đảng, Nxb
Quốc gia, Viêng Chăn.
90. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1997), Lịch sử Đảng khái quát, Nxb Thủ đô
Viêng Chăn.
91. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội VII, Nxb Quốc gia,
Viêng Chăn.
92. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2006), Điều lệ Đảng khóa VIII, Nxb Quốc
gia, Viêng Chăn.
93. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
94. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2011), Điều lệ đảng khóa IX, Nxb Thanh
niên, Thủ đô Viêng Chăn.
159
95. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
96. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2013), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (Khóa IX), Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
97. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2016), Điều lệ Đảng (Khóa X), Nxb Quốc
gia, Viêng Chăn.
98. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2016), Nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương 3 khóa X, Viêng Chăn.
99. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
100. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2017), Nghị quyết Ban Chấp hành Trung
ương số 022, ngày 13/1/2017 về giải quyết bệnh quan liêu và tham
nhũng, Viêng Chăn.
101. Jiang Wenpeng (2016), Tăng cường giám sát, kiểm tra trong đảng cần thiết
phải xây dựng mạng lưới giám sát, kiểm tra dày rộng, Tài liệu hội thảo lý
luận lần thứ V giữa Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Đảng Cộng sản
Trung Quốc, Viện Khoa học xã hội quốc gia Lào, Thủ đô Viêng Chăn.
102. Li zhiyong (2017), Giám sát, kiểm tra đảm bảo cho việc thực thi quyền lực
đúng theo quy định, vừa là biện pháp quan trọng trong tăng cường và
xây dựng trật tự cho sinh hoạt chính trị trong nội bộ đảng, Báo cáo tại
cuộc họp trao đổi kinh nghiệm giữa Đảng Nhân dân cách mạng Lào và
Đảng Cộng sản Trung Quốc, Thủ đô Viêng chăn.
103. Pâukẹo Phumsạvăn (2013), Tăng cường công tác kiểm tra để phòng chống
các hiện tượng tiêu cực và tham nhũng ở tỉnh Bò kẹo, Luận văn thạc
sĩ chuyên ngành Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Lào.
104. Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2007), Luật Thanh tra,
Thủ đô Viêng Chăn.
105. Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2012), Luật Phòng chống
tham nhũng, Thủ đô Viêng Chăn.
160
106. Sỉnay Miênglavăn (2013), Tăng cường công tác kiểm tra của cấp ủy các bộ
trong giai đoạn mới, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Lào.
107. Sỉphăn Hươngkhămmạni (2013), Tăng cường vai trò của công tác kiểm tra ở
Bộ An ninh, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Lào.
108. Thongkhăm ÒnMạNiSỏn (1972), Từ điển Tiếng Lào, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
109. Thủ tướng Chính phủ (2006), Nghị định số 195, ngày 21 tháng 8 năm 2006
về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Chính phủ, Thủ đô Viêng Chăn.
110. Thủ tướng Chính phủ (2011), Nghị định số 249, ngày 16 tháng 8 năm 2011
về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Chính phủ, Thủ đô Viêng Chăn.
111. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chiến lược chống tham nhũng từ năm 2012
đến năm 2020 số 02, ngày 4 tháng 12 năm 2012, Thủ đô Viêng Chăn.
112. Uthoon Maxỉxônxay (2013), “Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ làm công
tác kiểm tra đáp ứng tình hình mới”, Tạp chí Kiểm tra, (6), tr.16.
113. Ủy ban Kiểm tra - Thanh tra trung ương (1987), Sách cẩm nang về công tác
kiểm tra, Nxb Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.
114. Vănxay Xôngxagiu (2014), “Nâng cao chất lượng và năng lực của cán bộ
kiểm tra”, Tạp chí Kiểm tra, (14), tr.5.
115. Xie Chuntao (2016), Tăng cường mạnh mẽ trong xây dựng đảng là sự đảm
bảo cơ bản cho sự kiên trì và phát triển xã hội chủ nghĩa theo đặc điểm
của Trung Quốc, Tài liệu hội thảo lý luận lần thứ V giữa Đảng Nhân dân
cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Viện Khoa học xã hội
quốc gia Lào, Thủ đô Viêng Chăn.
116. Xổmlon Bunnạvông (2010), Kiểm tra cán bộ diện Ban Bí thư Trung ương
Đảng quản lý, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Lào, Viêng Chăn.
117. Yênphon Bavôngphết (2012), Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra trong
điều kiện Đảng cầm quyền, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng
Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Lào, Viêng Chăn.
161
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Sơ đồ hệ thống cơ quan lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào
(Giai đoạn 2001 - nay)
Nguồn: [88]
Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Ban Chấp hành đảng ủy
Bộ, cơ quan ngang Bộ
Ban Chấp hành tỉnh ủy,
thành ủy
Đảng ủy
vụ
Ban Chấp hành
huyện ủy
Chi ủy
vụ
Chi ủy
vụ
Đảng ủy
sở
Chi ủy Chi ủy
Ban Chấp hành đảng ủy
Bộ Quốc phòng,
Bộ An ninh
Chi ủy phòng
trực thuộc
huyện ủy
Đảng ủy cơ
sở cụm bản
Chi ủy
bản
Chi ủy
bản
Chi ủy
bản
Đảng ủy
Tổng cục
Đảng ủy
Cục
Đảng ủy cục,
các học viện
Chi ủy
Chi ủy
162
Phụ lục 2
Sơ đồ hệ thống tổ chức Ủy ban kiểm tra
của Đảng Nhân dân cách mạng Lào (khóa VIII 2006 - 2011)
Nguồn: [60]
Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Ủy ban Kiểm tra đảng ủy Bộ, cơ quan ngang Bộ
Ủy ban Kiểm tra tỉnh ủy, thành ủy
Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy
vụ
Ủy ban Kiểm tra huyện ủy
Ủy ban Kiểm tra hoặc người phụ
trách kiểm tra Chi ủy vụ
Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy
sở
Người phụ trách kiểm tra
chi ủy
Người phụ trách kiểm tra chi ủy
Ủy ban Kiểm tra hoặc người phụ
trách kiểm tra chi ủy phòng
Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy cụm bản
Người phụ trách kiểm tra
chi ủy bản
Ủy ban Kiểm tra hoặc người phụ
trách kiểm tra chi ủy bản
Ủy ban Kiểm tra của đảng ủy Bộ Quốc phòng, Bộ An ninh
Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Tổng cục
Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy
Cục
Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy
Cục
Ủy ban Kiểm tra hoặc người phụ trách kiểm
tra chi ủy
Ủy ban Kiểm tra hoặc người phụ trách kiểm
tra chi ủy
163
Phụ lục 3
Hệ thống tổ chức Ban kiểm tra của Đảng Nhân dân cách mạng Lào
Khóa IX-X (2011 - nay)
Nguồn: [65]
Ban Kiểm tra Trung ương
Ban Kiểm tra Đảng ủy Bộ - Cơ quan ngang Bộ
Ban Kiểm tra tỉnh ủy, thành ủy
Ban Kiểm tra Đảng ủy vụ
Ban Kiểm tra hoặc người phụ trách kiểm tra
chi ủy vụ
Người phụ trách kiểm tra
chi ủy trực thuộc Đảng
ủy vụ
Ban Kiểm tra huyện ủy
Ban Kiểm tra Đảng ủy sở
Người phụ trách kiểm tra chi ủy
Ban Kiểm tra hoặc người phụ trách kiểm tra
chi ủy
Ban Kiểm tra hoặc người phụ
trách kiểm tra chi ủy bản
Ban Kiểm tra Đảng ủy cơ sở
cụm bản
Ban Kiểm tra hoặc người phụ
trách kiểm tra chi ủy bản
164
Phụ lục 4
Cơ cấu bộ máy tổ chức cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương
(Khóa VIII năm 2006 - 2011)
Nguồn: [60]
Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Văn phòng Ủy ban Vụ Nghiên cứu - Tổng hợp
Vụ Kiểm tra Đảng
ở cơ quan trung ương
Vụ Kiểm tra Đảng
địa phương
Vụ Nghiên cứu
đơn khiếu tố
Vụ Thanh tra
hành chính
Vụ Thanh tra
chống tham nhũng
Vụ Thanh tra
kinh tế
165
Phụ lục 5
Cơ cấu bộ máy tổ chức cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương
(Khóa IX năm 2011 đến nay)
Nguồn: [65]
Ban Kiểm tra Trung ương
Vụ Đối ngoại Vụ Nghiên cứu - Tạp chí
Vụ Nghiên cứu
khiếu tố
Vụ Kiểm tra Đảng
ở cơ quan trung ương
Vụ Kiểm tra Đảng
địa phương
Vụ Thanh tra
cơ quan trung ương
Vụ Thanh tra
địa phương
Vụ Thanh tra
chống tham nhũng
Văn phòng Ban Vụ Tổ chức - Cán bộ
Vụ Điều tra
tham nhũng
Vụ Giám sát - Kiểm tra tổ
chức thực hiện kết luận kiểm
tra - thanh tra
166
Phụ lục 6
Cơ cấu bộ máy tổ chức cơ quan Ban Kiểm tra Bộ - cơ quan ngang Bộ
(Giai đoạn 2011 - nay)
Nguồn: [65]
Ban Kiểm tra Bộ, cơ quan ngang Bộ
Phòng
Hành chính - Tổng hợp
Phòng
Kiểm tra Đảng
Phòng
Nghiên cứu đơn thư
Phòng Thanh tra hành chính
và chống tham nhũng
Vụ Kiểm tra - Thanh tra
167
Phụ lục 7
Cơ cấu bộ máy tổ chức cơ quan Ban Kiểm tra tỉnh ủy - thành ủy
(Giai đoạn 2011 - nay)
Nguồn: [65]
Văn phòng Ban
Phòng
Kiểm tra Đảng
Phòng Nghiên cứu
đơn khiếu tố
Phòng Thanh tra
hành chính - kinh tế
Ban Kiểm tra tỉnh ủy - thành ủy
Phòng Thanh tra
chống tham nhũng - kinh tế
168
Phụ lục 8
Cơ cấu bộ máy tổ chức cơ quan Ban Kiểm tra huyện ủy
(Giai đoạn 2011 - nay)
Nguồn: [65]
Văn phòng
Ban
Đơn vị thanh tra hành chính
và chống tham nhũng
Ban Kiểm huyện ủy
Đơn vị
Kiểm tra Đảng
169
Phụ lục 9
THỐNG KÊ KẾT QUẢ CUỘC KIỂM TRA TOÀN KHÓA VIII
(2006 - 2011)
Số đối tượng kiểm tra Xử lý kỷ luật đối với đảng viên qua kiểm tra Tổ chức
tiến hành
kiểm tra Chi bộ Đảng viên Khiển trách Cảnh cáo Cách chức Tạm đình chỉ
sinh hoạt Đảng
Khai trừ ra
khỏi Đảng
Cấp ủy
các cấp 6.427 172. 291 40 29 30 60 210
Ban kiểm tra
các cấp 4.171 72.768 28 17 20 39 124
Tổng cộng 10.598 172.291 68 46 50 89 334
(Không có kỷ luật đối với tổ chức đảng)
Nguồn: [60]
170
Phụ lục 10
THỐNG KÊ KẾT QUẢ KIỂM TRA TRONG NĂM 2012
Số đối tượng được kiểm tra Xử lý kỷ luật đối với đảng viên qua kiểm tra Tổ chức
tiến hành
kiểm tra Chi bộ Đảng viên Khiển trách Cảnh cáo Cách chức Tạm đình chỉ
sinh hoạt Đảng
Khai trừ ra
khỏi Đảng
Cấp ủy
các cấp 7.319 115.325 13 29 18 29 130
Ban kiểm tra
các cấp 4.402 51.690 8 20 5 9 73
Tổng cộng 11.721 164.015 21 49 23 38 203
Trong số bị thi hành kỷ luật có đảng viên ở cơ quan trung ương 53, ở các tỉnh 281; trong này có 10 huyện ủy viên, 36 chi ủy viên
- 4 huyện ủy viên bị khiển trách
- 5 huyện ủy viên bị cảnh cáo
- 1 huyện ủy viên bị cách chức
Nguồn: [61]
171
Phụ lục 11
THỐNG KÊ KẾT QUẢ KIỂM TRA TRONG NĂM 2013
Số đối tượng kiểm tra Xử lý kỷ luật qua kiểm tra
Đảng viên Tổ chức
tiến hành
kiểm tra Chi bộ Đảng viên Tổ chức Khiển trách Cảnh cáo
Cách
chức
Tạm đình
chỉ sinh
hoạt Đảng
Khai trừ
ra khỏi
Đảng
Cấp ủy
các cấp 7.231 113.589 29 32 10 31 129
Ban kiểm tra
các cấp
1 Ban Chấp
hành tỉnh ủy 5.420 72.411
Khiển
trách 1 tập
thể tỉnh ủy
11 23 8 18 50
Tổng cộng 12.651 185.990
Khiển
trách 1 tập
thể tỉnh ủy
40 55 18 49 179
(Trong mức khiển trách 40 đảng viên có 6 huyện ủy viên)
Nguồn: [62]
172
Phụ lục 12
THỐNG KÊ KẾT QUẢ KIỂM TRA TRONG NĂM 2014
Số đối tượng được kiểm tra Xử lý kỷ luật qua kiểm tra Tổ chức
tiến hành
kiểm tra Chi bộ Đảng viên Khiển trách Cảnh cáo Cách chức Tạm đình chỉ
sinh hoạt Đảng
Khai trừ ra
khỏi Đảng
Cấp ủy
các cấp 7.341 139.095 10 5 3 28 100
Ban kiểm tra
các cấp 6.446 93.062 16 10 6 41 95
Tổng cộng 13.787 232.157 26 15 9 69 195
- Trong khiển trách 26: có 1 phó bí thư tỉnh ủy, 1 thường vụ tỉnh ủy, 9 tỉnh ủy viên
- Trong cảnh cáo 15: có 1 bí thư tỉnh ủy, 1 bí thư chi bộ
- Trong cách chức 9: có 1 thường vụ tỉnh ủy, 1 tỉnh ủy viên, 1 phó bí thư huyện ủy, 2 huyện ủy viên
Nguồn: [63]
173
Phụ lục 13
THỐNG KÊ KẾT QUẢ KIỂM TRA TRONG NĂM 2015
Số đối tượng được kiểm tra Xử lý kỷ luật qua kiểm tra Tổ chức
tiến hành
kiểm tra Chi bộ Đảng viên Khiển trách Cảnh cáo Cách chức Tạm đình chỉ
sinh hoạt Đảng
Khai trừ ra
khỏi Đảng
Cấp ủy
các cấp 8.572 104.203 30 59 2 38 201
Ban kiểm tra
các cấp 5.384 97.539 37 53 12 40 105
Tổng cộng 14.456 201.742 67 102 14 78 306
- Trong khiển trách 67: có 5 phó bí thư huyện ủy, 1 huyện ủy viên
- Trong cảnh cáo 102: có 16 bí thư và 3 phó bí thư chi bộ
- Trong cách chức 14: có 11 huyện ủy viên
- Trong khai trừ 306 có 1 huyện ủy viên
Nguồn: [64]
174
Phụ lục 14
THỐNG KÊ PHÂN LOẠI CHI BỘ VÀ ĐẢNG VIÊN QUA KIỂM TRA
(Từ năm 2012 - 2015)
- Trong khiển trách 26: có 1 phó bí thư tỉnh ủy
Chi bộ đảng Đảng viên
Năm Số được
kiểm tra
Vững mạnh
biết lãnh đạo
toàn diện
Mạnh Trung
bình Kém
Số được
kiểm tra
Mạnh biết
lãnh đạo
toàn diện
Mạnh Trung
bình Kém
Sa sút
phẩm
chất
2012 11.721 6.249 3.691 1.672 109 164.015 56.388 73.918 31.827 1.776 106
2013 12.651 7.332 2.129 3.089 101 185.990 151.725 33.175 1.019 71
2014 13.787 7.288 3.338 916 5 323.157 163.456 23.204 1.007 69
2015 14.456 9.064 4.312 1.043 32 201.742 175.624 24.725 1.114 79
Nguồn: [65]
175
Phụ lục 15
Thống kê số cán bộ kiểm tra chuyên trách
của Đảng Nhân dân cách mạng Lào từ khóa VIII - X (2006 - 1/2016)
Sự phân bố
Năm
Tổng số
toàn
quốc
Ở cơ quan
Ban Kiểm tra
Trung ương
Ở cơ quan Ban
kiểm tra Bộ - cơ
quan ngang Bộ
Cấp tỉnh Huyện
2006 967 96 238 275 367
2011 1.211 129 251 288 543
2016 2.499 239 623 489 1.148
Nguồn: [65]
176
Phụ lục 16
Thống kê trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị
của đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách
(Giai đoạn 2006 - 2016)
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tỷ lệ %
của tổng số
Trình độ lý luận chính
trị tỷ lệ % Năm
Tổng
số Trên
đại học
Đại
học
Cao
đẳng
Trung
cấp
Sơ
cấp
Cao
cấp
Trung
cấp
Sơ
cấp
2006 967 5% 38% 41% 12% 4% 15% 28% 30%
2011 1.211 9% 45% 37% 7% 2% 25% 32% 35%
2016 2.499 11% 47% 35% 6% 1% 38% 41% 15%
Nguồn: [65]