188
Hồ Đình Ba DANH VỌNG THẦN QUYỀN (Tiểu thuyết luận đề) TRỞ LẠI QUÊ NHÀ. Thánh lễ ban sáng trong nhà nguyện của chủng viện vừa kết thúc với lời chúc đi bình an của cha chủ tế. Các chủng sinh làm dấu thánh giá đứng dậy rời chỗ ngồi theo thứ tự từ hàng ghế trên cùng sát cung thánh xuống dưới. Họ im lặng, kính cẩn khoanh tay đi hàng một vào lối đi giữa hai dãy ghế. Chỉ khi họ ra khỏi nhà thờ họ mới buông thõng hai tay. Như thường lệ, người ra sau cùng vì còn nán lại từ năm đến mười phút để cầu nguyện trước Thánh Thể là Gioan Baotixita Phan Minh Vũ. Dù có người nào đó hoài nghi thái độ sùng kính của Vũ thì long sùng kính đã là thói quen của anh từ ngày vào chủng viện. Hôm đó là một ngày mùa thu năm 1953 ở Phnôm Pênh. Như mọi ngày các chủng sinh có được mười lăm phút để giải lao sau đó họ đến ăn sáng tại phòng ăn của chủng viện Nam Vang. Trong bữa ăn họ có thể nghe thấy tiếng hoan hô của dân chúng ngoài phố vọng lại. Dân Kam-pu-chia hoan hô lãnh tụ của họ là ông hòang Norodom Sihanuc đã giành lại độc lập cho đất nước họ từ tay thực dân 1

cvdvn.files.wordpress.com€¦ · Web viewCần gì phải bạo lực thái quá như thế kiểu giết lầm hơn bỏ sót. Chính cô đã mấy lần nhúng tay vào máu để

  • Upload
    others

  • View
    4

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

H Đình Baồ

DANH VỌNG THẦN QUYỀN(Tiểu thuyết luận đề)

TRỞ LẠI QUÊ NHÀ.

Thánh lễ ban sáng trong nhà nguyện của chủng viện vừa kết thúc với lời chúc đi bình an của cha chủ tế. Các chủng sinh làm dấu thánh giá đứng dậy rời chỗ ngồi theo thứ tự từ hàng ghế trên cùng sát cung thánh xuống dưới. Họ im lặng, kính cẩn khoanh tay đi hàng một vào lối đi giữa hai dãy ghế. Chỉ khi họ ra khỏi nhà thờ họ mới buông thõng hai tay. Như thường lệ, người ra sau cùng vì còn nán lại từ năm đến mười phút để cầu nguyện trước Thánh Thể là Gioan Baotixita Phan Minh Vũ. Dù có người nào đó hoài nghi thái độ sùng kính của Vũ thì long sùng kính đã là thói quen của anh từ ngày vào chủng viện.

Hôm đó là một ngày mùa thu năm 1953 ở Phnôm Pênh. Như mọi ngày các chủng sinh có được mười lăm phút để giải lao sau đó họ đến ăn sáng tại phòng ăn của chủng viện Nam Vang. Trong bữa ăn họ có thể nghe thấy tiếng hoan hô của dân chúng ngoài phố vọng lại. Dân Kam-pu-chia hoan hô lãnh tụ của họ là ông hòang Norodom Sihanuc đã giành lại độc lập cho đất nước họ từ tay thực dân Pháp, sau một thời kỳ ngắn tranh đấu ôn hòa, không hy sinh nhiều xương máu.

Có lẽ vì những tiếng ồn ào ấy mà trong giờ ăn sáng hôm nay, cha giám thị không cho đọc sách đạo đức. Dù vậy mọi chủng sinh đều im lặng ăn, tiếng muỗng nĩa chạm vào nhau rất khẽ. Khi cha giám thị cho biết lý do có tiếng ồn ào huyên náo ngòai tường bao chủng viện: hôm nay là ngày đón mừng độc lập cùa dân chúng Kampuchia, vẻ ưu tư hiện lên mọi khuôn mặt, không chỉ nơi các chủng sinh người Việt thuộc địa phận Tây đàng trong mà cả thiểu số chủng sinh người bản địa. Ai cũng biết rằng văn hóa Đông phương và cả tình tự dân tộc (nếu có) đều không chấp nhận Ki-tô giáo thậm chí đạo mới này còn bị coi là “tả đạo”.

Trước tình hình này, một số chủng sinh trong đó có Phan Minh Vũ lo lắng cho con đường tu hành của họ. Họ đoán già đoán non rằng chủng viện sẽ bị giải tán

1

và các chủng sinh sẽ bị đuổi về làm dân thường, trở thành những nông dân, thợ thủ công hoặc thương gia hoặc một nghề nào khác…Vĩnh biệt chức thánh.

Những tiên đoán của họ chỉ đúng một nửa. Hai tháng sau và theo thỏa thuận giữa giáo quyền và chính quyền hoàng gia, chủng viện tạm thời ngừng hoạt động và tất cả các chủng sinh người Việt phải lên đường về nước.

Ngày 23 tháng chạp, còn hai tuần nữa thì đến tết âm lịch, hai chiếc xe ca xuất phát từ chủng viện Phnom Pênh, đưa gần năm mươi chủng sinh người Việt về nước qua ngã Xvây Riêng. Chuyến đi dài làm các cậu trai đều mệt mỏi, đặc biệt Minh Vũ mà theo khoa tướng số thuộc loại người ”ngũ trường”, tay chân dài và mặt dài hình chữ nhật. Chiều cao của anh thuộc loại nhất lớp gần một mét tám. Anh ngồi ghế trong, hai đầu gối xiên vào lối đi giữa của xe để giữ chân vuông góc. Khi xe gặp ổ gà sâu, cả chiếc xe tưng lên làm cho đầu anh chạm vào trần. Anh không hề thấy đau vì khuôn mặt dài với trán thấp của anh không hề có một biểu lộ nào như anh vừa đội quả bóng đến đúng tầm những lúc anh chơi bóng đá trong chủng viện. Đến Xvây Riêng, hai xe chở các chủng sinh dừng lại để ăn cơm rồi đi qua biên giới Miên-Việt để hướng thẳng về Cần Thơ. Hơn chin giờ tối, hai xe ca đến trước tiểu chủng viện Cần Thơ sau khi dừng lại dùng cơm tối trước khi vào thành phố. Các chủng sinh bước xuống xe chờ mở cổng. Mười phút sau người gác cổng và cha tổng giám thị tiểu chủng viện xuất hiện. Ông nói các chủng sinh vừa đến nghỉ tạm qua đêm sau một cuộc hành trình dài, sau thánh lễ sáng sớm ngày mai, họ sẽ có buổi làm việc với cha Tổng đại diện để được thông báo hướng giải quyết của tòa Giám mục về con đường tu hành của họ.

Sáng hôm sau, sau bữa ăn sáng, các chủng sinh mới về nước tập họp trong hội trường. Cha tổng đại diện vừa từ nhà thờ chánh tòa đến. Đọc kinh Lạy Cha cùng các bạn trẻ xong, ông đi thẳng vào vấn đề. Ông chia ra ba trường hợp: thứ nhất những người không còn muốn tu vì bất cứ lý do nào thì có thể xin thôi, về bản quán làm giáo dân; thứ hai những người muốn tu tiếp thì ghi tên lại và danh sách sẽ được chuyển về Đại chủng viện Sài-gòn và phải đợi hết năm học này qua năm học mới để được xét tuyển; việc xét tuyển căn cứ vào học bạ đã được chuyển từ Phnôm Pênh về. Trong khi chờ xét tuyển, chủng sinh đó phải đến giáo xứ nơi mình đang sống đăng ký với cha xứ để tham gia sinh hoạt và được cha xứ hướng dẫn thêm. Thứ ba là những người muốn tiếp tục tu hành nhưng không trong dòng triều mà trong các dòng hành khất hoặc chiêm niệm sẽ được tòa giám mục giới thiệu cho dòng ấy. Sau buổi họp, Vũ cùng mười sáu bạn khác đăng ký vào diện

2

thứ hai. Trong buổi họp ấy các chủng sinh biết được cuộc chiến tranh Pháp-Việt đang bước vào giai đoạn quyết liệt. Sau chiến thắng trong chiến dịch biên giới, lực lượng Việt Minh tiến về cứ điểm Điện Biên Phủ, chuẩn bị trân đánh quyết định này.

Chiều hôm đó, Vũ cùng các bạn đồng tu rời tiểu chủng viện về lại gia đình ở Chợ Lách Bến Tre. Anh gặp lại cha mẹ, em gái Dung và hai em trai Luật và Luận trong bữa cơm chiều. Sau mấy năm trời xa nhà nay mới trở về, anh thấy cha mẹ anh đã già đi nhiều. Hiện nay ông bị nám phổi không làm việc nặng được, mẹ anh vẫn bán hàng rau củ ở chợ để kiếm thêm tiền mua thức ăn. Mấy mẫu ruộng gần nhà cung cấp đủ gạo ăn sau khi đã trả tiền công thợ. Cha anh là con thứ hai một trung nông tên ông Cả Tiếp, ông này có ba người con: người con trai đầu lòng là bác Hai Thâu của Vũ hiện ở Hàm Luông, kế đến là con trai thứ, Ba Tùng, cha Vũ, sau cùng, người con gái út là cô Lai lấy chồng lập nghiệp ở Tiên Đông gần Hàm Luông. Đến đời cha Vũ, chỉ còn mình ông ở lại trên mảnh đất của tổ tiên, gần ngôi nhà thờ cổ. Dân ở đây theo đạo Chúa ngay từ những ngày đầu được truyền giáo. Giữa vùng đất bao la của người lương, ơn theo đạo Chúa quả là một ơn đặc biệt cho người dân ở đấy.

Vũ bước vào nhả trong lúc mẹ anh lom khom cời lửa than ra khỏi cái bếp đặt nồi cơm sôi vừa cạn nước. Anh gọi mẹ; mẹ anh sững sờ quay lại kêu lên,

-“Vũ, con của mẹ mới về đó hả”, rồi bà bước lại ôm lấy con gục đầu vào ngực của Vũ hai giọt lệ lăn xuống trên đôi má đã có những nếp nhăn.

-“Dạ con mới về…”

-“Con về ăn Tết phải không, sau Tết mùng mấy con đi?”

-“Không phải vậy, chủng viện bị chính quyền đóng cửa nên con phải về... ”

Bây giờ mẹ anh nắm lấy hai cánh tay anh, đẩy ra xa rồi hỏi tiếp,

-“Còn việc tu hành của con thì sao?”

-“Dạ, con sẽ về Sài-gòn tu tiếp. Trong khi chờ đợi con sẽ ở nhà một thời gian ngắn.”

-“Ờ, vậy cũng phải. Con đừng bỏ tu, tội lắm đó.”

Như mọi tín hữu, lòng sợ tội là một phần quan trọng nếu không nói là quan trọng nhất trong cách sống đạo của mẹ anh. Phần anh, trong sâu thẳm của tâm hồn, anh

3

chưa bao giờ tự hỏi anh có thật sự muốn đi tu không. Nó là một sự kiện nhưng có lẽ chưa bao giờ là một chọn lựa.

Nửa giờ sau, ông Tùng cha Vũ từ ruộng trở về, lần này chính mẹ anh giải thích mọi việc cho cha anh hiểu. Anh im lặng, thỉnh thỏang đưa ra một vài chi tiết để giải thích thêm. Sau đó bữa ăn được dọn ra, họ nói về những câu chuyện khác, trong đó ông Tùng có một nhận xét về thời cuộc “Cứ theo những diễn tiến hịên nay, chắc chắn Việt Minh sẽ chiến thắng ở Điện Biên Phủ và ông Hồ sẽ lên ngôi thay cho nhà Nguyễn vì Bảo Đại đã trao ấn tín cho ông ấy.” Nhận xét này kèm theo một tiếng thở dài trên khuôn mặt chùng xuống một vẻ đăm chiêu khó hiểu dưới mái tóc đã bạc hơn một nửa. Phải nói rằng trong chủng viện, Vũ và các bạn không hề biết những thời sự chính trị ngòai đời. Hóa ra cách tu công giáo cũng xa lìa thế gian như cách tu đạo Phật. Các chủng sinh được học chút ít lịch sử Giáo Hội phần lịch sử vinh quang hơn là lịch sử bóng tối; còn lịch sử thế gian họ chỉ biết một câu nổi tiếng: Nos ancêtres sont des Gaulois [Tổ tiên chúng ta là người Gô-loa]. Lâu dần, họ không quan tâm đến lịch sử thế gian nữa. Vì thế anh không thể đồng cảm với cha anh và anh hỏi sang chuyện khác,

-“Các em con lúc này thế nào rồi ba?”

Bây giờ khuôn mặt ông Tùng, cha anh và cả mẹ anh sáng lên, phấn khởi, ông nói,

-“Ơn Chúa thương gia đình mình: cả ba đứa đều đã được nhận vào nhà tập, con Dung thì vào nhà tập dòng Chúa Quan Phòng, Luật thì khấn tạm trong dòng Đa Minh còn Luận trong dòng La-san.”

Từ lúc đó cho đến lúc ăn xong, họ nói vài câu chuyện về mùa màng và thời tiết. Buổi tối trước khi đi ngủ, cả nhà đọc một chục kinh Mân côi, vài kinh cầu. Giọng đọc buồn bã, mang nỗi niềm tâm sự của những sinh linh còn ở chốn lưu đày, nhưng vẫn phôi pha một niềm hy vọng sẽ đến quê trời mai sau.

*&*

Hôm sau, sau giờ thánh lễ Vũ từ nhà thờ đi qua nhà xứ trình diện cùng cha xứ. Ông này vui mừng gặp lại người con tinh thần của ông trong giáo xứ, mặc dù ông không chọn Vũ vào nhóm các nghĩa tử của ông có lẽ vì cái dáng người to cao và trán thấp của Vũ trông giống một võ tướng hơn một thầy tu đắc đạo và ông thường liên tưởng đến nhà sư hung dữ Lỗ Trí Thâm trong truyện tàu. Cha xứ chấp nhận chăm sóc tinh thần và việc tu đức cho Vũ, và quy định một tuần phải gặp

4

nhau một lần vào tối thứ năm. Nếu có việc cần vắng mặt, Vũ phải xin phép trước. Còn việc tham dự thánh lễ và hai tuần xưng tội một lần là điều bắt buộc. Điều này cũng giúp cha xứ theo dõi hạnh kiểm của anh một cách gián tiếp. Dĩ nhiên những điều kiện ấy không khó đối với anh vì anh đã quen nếp ấy trong chủng viện. Tuy nhiên chỉ sau bốn tháng, cha xứ đánh giá rằng Vũ có ơn gọi đi tu thật sự nên đã bỏ dần những quy định chặt chẽ ví dụ như tối thứ năm nếu Vũ vắng mặt Vũ có thể nhờ người nhà xin phép cho anh. Đến tháng thứ chín khi đại chủng viện Sài-gòn gọi anh nhập học, anh sẽ đàng hòang đến trình diện và tíếp tục việc tu hành với phong thái luôn nghiêm trang, kính cẩn.

Những ngày sau đó, anh đến thăm vài người bạn học chung tiểu học trường làng. Đặc biệt là anh Trọng, một người lai Miên sắp vào tu trong một chùa ở Sóc Trăng. Lần này Vũ sẽ đưa Trọng vào chùa và ở lại ít ngày. Hành động này là để đáp lại nghĩa cử của Trọng lần trước Trọng đã theo cha anh đến tận Phnom Pênh tiễn đưa anh vào chủng viện.

5

CÔ EM HỌ CON NUÔI

Qua hết một tuần, thứ ba đầu tuần là ngày 23 âm lịch, ngày bên lương cúng đưa ông Táo về trời. Và theo thông lệ, đáng lẽ bà Tùng đã làm hoặc mua nửa chục bánh tét gởi biếu bác Hai Thâu và cả cô Lai, nhưng mấy ngày qua, Vũ thấy cha mẹ anh không hề nhắc đến họ. Trong bữa ăn trưa hôm đó, lúc gần xong, mẹ anh bưng ra một tô chè chuối nấu bột báng, nói của chị hàng xóm cúng đầy tháng đứa cháu ngọai. Nhân dịp này Vũ nói với mẹ,

-“Con định đi thăm bác Hai và cô Lai, mẹ có gởi bánh trái gì cho bác và cô không?”

Mẹ anh chưa đáp lại thì cha anh đã ngắt lời,

-“Con không cần thăm họ. Quan tâm đến họ làm gì khi họ đã theo Chúa khác và từ bỏ gia đình mình…” ông nói, mặt ông đanh lại cau có. Câu nói giận dữ của ông làm bầu khi trở nên nặng nề. Cả nhà im lặng lui vào chỗ của mình. Riêng Vũ sau khi ăn chén chè mà mẹ anh đưa cho rồi về phòng đọc kinh thần vụ chờ cho đến lúc cha anh ra ruộng coi thợ cày làm đất chuẩn bị cho vụ lúa đông xuân.

Khi cha Vũ đi rồi, anh đến gần mẹ anh lúc đó đang nhặt lúa ra khỏi rá gạo trước khi vo. Anh ngồi xuống bên cạnh mẹ và hỏi:

-“Bác Hai và cô Lai con thế nào mà cha con giận họ vậy mẹ?”

Bà mẹ ngần ngừ một lúc rồi nói,

-“Chuyện này lâu rồi từ lúc ông nội con chia gia sản cho các con ông. Nhưng mẹ chỉ kể chuyện gần đây thôi…” Bà vừa nói vừa đẩy rá gạo qua một bên.

Gần đây kể từ ngày Việt Minh về họat động và gầy dựng cơ sở ở vùng này, ông Hai Thâu, bác của Vũ đã lấy ruộng đất của cha Vũ ở vùng sâu Cổ Vịt hiến cho Việt Minh. Mảnh đất ấy hai anh em đã tranh chấp nhiều lần, nhưng rõ ràng là sở hữu của ông Tùng, cha Vũ được ông nội anh cho. Khi cha anh biết chuyện đến gặp anh mình để hỏi cho ra lẽ thì ông Thâu nói đất ấy không cho cũng mất vì nó nằm trong vùng của Việt Minh kiểm soát, dượng Quý, chồng cô Lai cũng đã hiến mảnh đất trong đó cho họ. Bác anh còn thách thức cha anh có gan thì vào trong đó đòi lại… Khi ông Tùng lấy lẽ công bằng trong đạo để trách cứ anh mình thì

6

ông này nói, “Làm gì có công bằng trong đạo và ngoài đạo, nếu có hẳn người vô thần đã không nổi dậy để phản kháng cả đạo lẫn đời…” Rồi mẹ Vũ thở dài nói,

-“Nghe những lời ấy, ba con uất hận nói lời đọan tuyệt với bác con rồi ra về không quên nguyền rủa bác con là đồ “vô đạo””

-“Bây giờ con hiểu sự bất hòa giữa bác Hai và ba rồi, dù sao khi qua Sóc Trăng về con sẽ ghé thăm cô Lai, dượng Quý và em Ngọc. Mẹ đừng nói việc này cho ba con biết vì có thể ba con sẽ giận lây dượng Quý khuyên bác Hai con hiến đất.”

-“Nhưng con nhớ về sớm đấy vì chỉ còn mười một ngày nữa là Tết rồi. Mẹ sẽ chuẩn bị trước quà cáp tết cha xứ để khi con về, con sẽ biếu ngài.”

-“Vâng, con sẽ về sớm để tết cha.” Nói xong anh lui về phòng đọc sách tu đức của linh mục Olier dòng Xuân Bích.

Sáng sớm hôm sau, Vũ tiễn Trọng vào một chùa Miên ở Sóc Trăng. Trước các tì kheo ngồi kiết già thành hai hàng trong chính điện trước bàn thờ Phật tổ, Trọng đọc ba lời quy y: quy y Pháp, quy y Phật, quy y Tăng. Rồi một nhà sư đại diện cho tăng đòan, đắp y vàng lên người Trọng với cái đầu đã được cạo trọc trước đó. Kế đó vị sư trụ trì giảng pháp cho người sa-môn mới và cho các thiện tín đến dự. Ông nói về sự cám dỗ của nhan sắc phụ nữ mà người xuất gia phải luôn cảnh giác, ông trich dẫn lời Đức Phật dạy:

-“Này các Tỳ-kheo, ta không thấy một hình sắc nào làm say đắm đàn ông như hình sắc của đàn bà. Ta không thấy một âm thanh, một mùi hương, một vị một xúc nào làm say đắm tâm trí đàn ông như âm thanh, mùi hương, vị, xúc của đàn bà.” Rồi để kết luận, sư thuyết pháp lấy chính lời kinh Phật để dặn dò các đệ tử mới xuất gia, “Này Ànanda, không nên nhìn họ…đừng nói chuyện với họ…hãy tỉnh giác phòng hộ”.

Sau đó tăng đòan cùng thiện tín tụng kinh rồi thọ thực. Vũ tham gia vào các nghi thức ấy một cách chiếu lệ. Anh luôn ý thức mình là người đạo Chúa. Vả lại thử hỏi trong cử tọa có được mấy người biết anh là ngọai đạo?

Tối đó khi nằm nghỉ trong hậu liêu, chờ mai đến nhà cô Lai, nhớ lại bài giảng buổi sáng. Anh thấy mình đã rơi vào sức cuốn hút của nữ nhi. Lúc đó anh còn trong chủng viện; vào một buổi chiều mưa buồn trên thành phố Phnom Pênh, cây cối trong khuôn viên chủng viện ướt sủng đứng lạnh lùng bên nhau dưới bầu trời âm u mây giăng kín, những chiếc lá vàng rụng trong mưa nằm đầy mặt đất và có

7

những chiếc lá rơi dọc hành lang lầu một. Trong khung cửa sổ, Vũ cảm thấy một nỗi buồn man mác len lén tràn ngập lòng anh và cùng với nỗi buồn ấy, một nỗi nhớ bất chợt đến với. Anh khẽ kêu tên nỗi niềm nhung nhớ đó: “Bích Ngọc”. Vâng Bích Ngọc, con cô Lai, con nuôi. Câu chuyện ấy dượng Quý kể lại như sau: sau một cuộc hành quân của lính Tây càn quét vào vùng kháng chiến, dượng Quý từ dưới bờ ruộng sâu, nơi cậu núp trốn vội chạy về nhà coi tình hình ra sao, mặt dù nhà không có người vì cô Lai về thăm bố mẹ. Đi qua một ngôi nhà bị phá nát, cậu vào thấy hai xác chết của một đôi vợ chồng, dượng sợ hãi lùi lại bước ra thì nghe có tiếng trẻ sơ sinh đang khóc. Dượng vòng ra sau nhà thấy một bé gái dính đầy tro bụi nằm khóc trên nền nhà bếp. Động lòng trắc ẩn, dượng Quý bế bé lên, ôm bé về nhà làm con nuôi, đặt tên là Bích Ngọc. Mỗi lần kể lại, luôn luôn có một chi tiết thường bị dượng thay đổi: khi thì ông nói mình trốn dưới bờ ruộng, khi thì sau một gò mối, khi thì dưới lòng con lạch đầy bùn dẫn nước vào ruộng. Còn một chi tiết khác về thời gian ông thường lẫn lộn: khi thì ông nói trước lễ Nô-en; khi thì sau Nô-en. Đôi lúc ông còn gọi Ngọc là con-liệt-sĩ để nói về nguồn gốc anh hùng của nó. Bây giờ thì Ngọc Bích đã mười tám tuổi, đẹp người đẹp nết là con duy nhất của cha mẹ nuôi vô sinh. Tuy Vũ mới gặp cô có vài lần nhưng khuôn mặt trái soan, mũi thanh, mắt bồ câu với rèm mi cong, nhân trung sâu làm nổi rõ môi trái tim chạy một đường chỉ đậm màu, đường nét than thể cô hấp dẫn đã ghi sâu vào tâm trí của một chủng sinh sẽ cam kết sống đời khiết tịnh. Tối hôm đó, Vũ đã đi vào giấc ngủ đong đầy nỗi nhớ miên man với hình ảnh duyên dáng của Bích Ngọc.

Sáng hôm sau, anh giả từ sư Trọng rồi ra đi sớm đón xe đến nhà cô Lai. Anh đến nơi đúng vào lúc gia đình cô Lai đang dùng bữa trưa. Chào hỏi xong một lượt, cô Lai nói,

-“Cháu ngồi xuống đây dùng bữa luôn với cô dượng và em Ngọc, rồi kể chuyện tu hành trong chủng viện của cháu cho cả nhà nghe. Con Ngọc hay nhắc về cháu đó. Mà này có món canh chua cá lóc em Ngọc nấu ngon lắm!”

Câu nói ấy làm Ngọc thẹn đỏ mặt cuối đầu nhưng vẫn len lén nhìn Vũ trong lúc chạy vội ra sau lấy thêm chén đũa, rồi quay xuống bếp lấy thêm cơm và món canh. Vũ đã ngồi xuống kế bên dượng Quý và kể lại câu chuyện các chủng sinh phải về lại Việt Nam và chờ khóa mới của chủng viện Sài-gòn. Lúc đó Ngọc hỏi chen vào,

8

-“Vậy anh ở lại quê mình có lâu không?”

-“Ít nhất cũng sáu tháng. Em có gì làm cho anh phụ làm với.”

-“Trước giờ em chỉ thêu áo cưới và áo gối nhưng em định đi dạy học các cháu tiểu học. Nếu cần em nhờ anh dạy thêm kiến thức.”

-“Ừ để xem…”

Sau đó Vũ nói tiếp câu chuyện tu hành với cô dượng, thỉnh thoảng anh dừng lại và trong giây lát quay nhìn Bích Ngọc và bất chợt thấy cô hạ thấp rèm mi sau một cái nhìn đăm đắm. Lòng anh cũng cảm thấy xôn xao.

Sau bữa ăn hội ngộ, cô Lai dọn dẹp sau vườn cho gà vịt ăn, Bích Ngọc rửa chén, Vũ ngồi nói chuyện với dượng Quý. Giọng điệu ông sặc mùi “cách mạng” nhưng Vũ có vẻ bái phục vì, Vũ thiếu khá nhiều kiến thức lịch sử hiện đại. Sau này Vũ mới biết dượng Quý theo phe đỏ từ năm 45. Bất chợt, ông Quý đổi đề tài hỏi Vũ,

-“Cháu có thể dạy môn tiếng Pháp, và toán đố cho các cháu tiểu học được không, nhất là giúp các cháu thi lấy bằng tiểu học.”

-“Cháu nghĩ là được. Nhưng chi vậy dượng?”

-“À thế này, dượng và Bác Hai cháu định mở một trường tiểu học tư thục lấy tên là trường Tương Lai, đang cần giáo viên. Ngày mốt bác Hai cháu và dượng sẽ gặp giáo Lộc, để gút vấn đề. Giáo Lộc là người Bác Hai cháu nhờ đứng làm hiệu trưởng và giao dịch với ngành giáo dục. Nếu rảnh ngày mốt, dượng và cháu cùng qua nhà Bác Hai gặp giáo Lộc…”

-“Dạ, dượng cho cháu đi cùng; tiện thể cháu thăm bác Hai và các anh chị bên đó. Còn chuyện dạy học, cháu sẽ sắp xếp lại vì tháng chin cháu sẽ về lại chủng viện.” Vũ nói thế vì đã quên lời cha anh nói phải cắt đứt quan hệ với bác Hai anh.

-“Thế cũng phải. Vậy cháu ở lại đây ngày mai. Ngày mốt theo dượng qua Bác Hai cháu rồi từ đó về nhà luôn. Dượng sẽ nói con Ngọc ngày mai đưa cháu đi chơi vườn trái cây Cái Mơn để thư giản trong những ngày cuối năm này.”

-“Dạ, cháu cám ơn dượng.”

Tối hôm đó, nằm trên ghế bố, Vũ nhớ lại cái bàn tay mềm mại, nuột nà của Ngọc khi anh nắm tay cô nói lời chúc ngủ ngon. Lúc ấy cô thẹn thùng cúi mặt, trong khi anh nói một câu với lòng mến dạt dào trong lòng anh,

9

-“Đêm nay anh sẽ nằm mơ thấy em.”

Rồi anh tự nhủ, “Anh yêu em thật rồi Ngọc ơi, có oan trái không em? Nhưng như hai nhân vật trong Hồn Bướm Mơ Tiên anh sẽ yêu em với một tình yêu lý tưởng, chỉ để nhớ thương mà không sở hữu. Như cô Lan trong tiểu thuyết đo, anh sẽ trung tín giữ tròn sự khiết tịnh của đời tu.” Anh tự nhủ như thế mà không biết mình đang ngụy tín, thái độ ngụy tín này thường thấy nơi những người đạo đức giả. Một lúc sau, anh kiểm điểm lại đời tu và ơn gọi của mình. Anh không chắc về ơn gọi của anh lắm. Có lẽ đó là cái để lấp đầy sự trống rỗng mà thời cuộc, kinh tế, văn hóa và gia cảnh đã đưa vào lòng anh và sự trống rỗng ấy ngày một lớn dần. Dù sao là người công giáo, anh đương nhiên thuộc về một thiểu số bị các vua triều Nguyễn và những bề tôi sau lưng vua loại trừ. Có lẽ trong phản ứng lại những vua quan bất nhân, cả nền văn hóa nho-Phật suy vi, sự tập quyền độc đoán của phong kiến, anh tưởng mình có ơn gọi. Vả lại trong chủng viện, sự đồng phục và tính đồng lọat trong hành xử đã tạo ra các ảo tưởng không cho anh nhìn thẳng vào những động cơ đích thực và hẳn là trần trụi trong lòng mình. Anh nhớ lại việc tu học của anh: anh thích nhất giờ ngọai ngữ và văn chương nhưng anh thường ngủ gục trong các giờ triết học và thần học. Phải cố gắng lắm anh mới có thể ngủ gục mà luôn mở mắt. Phải nói, kỹ năng đối phó cách quanh co này anh thua vài bạn đồng môn khác. Vâng, giờ đây tình yêu đối với Bích Ngọc đang trở thành thuốc-thử và có thể là thuốc chữa cho cái được gọi là “ơn gọi” ấy. Cũng có thể là thuốc-giảm-đau hơn là thuốc chữa! Sau khi đã xem xét đời tu của mình, Vũ quyết định ngày mai trong lúc đi chơi vườn trái cây cùng Ngọc, anh sẽ tỏ tình với cô rồi sẽ để mọi việc sau đó xoay vần theo ý Chúa. Vâng, « theo ý Chúa » là một câu tránh né vấn đề một cách vô thưởng vô phạt. Nửa giờ sau, anh đi vào giấc ngủ.

Hôm sau, Bích Ngọc trong chiếc áo bà ba kiểu màu hồng nhạt, quần bằng soie Pháp, tóc kẹp bằng kẹp nhựa màu tím ngòai những cái kẹp tăm tạo dáng. Sự ăn mặc ấy làm nổi khuôn mặt đẹp và đường nét gợi cảm của thân thể cô: mông mẫy, eo nhỏ và ngực đầy. Cô nói với Vũ,

-“Mình đi đi anh; em có mang theo nước uống và khăn mặt, cùng ít đồ ăn vặt…”

-“Ừ đi! Nhưng anh phải nói hôm nay trông em đẹp lắm.”

-“Cám ơn anh, em luôn nghĩ là trái lại…”

Câu đáp này của Ngọc khiến Vũ phải khen cô đẹp thêm vài lần nữa.

10

Một giờ sau họ mua vé vào vườn; trái cây hái được muốn mang về sẽ được cân và tính tiền ở cổng vào lúc ra khỏi vườn.

Vườn cây lúc ấy rợp bóng còn giữ hơi lạnh trong đêm. Họ bước đi bên nhau, lúc đầu anh định nắm tay cô nhưng thôi. Cô hỏi anh,

-“Cuối năm nay, anh vào lại chủng viện thì mấy năm sau anh sẽ trở thành linh mục?”

-“Ít nhất anh phải mất ba năm ròng rã, với điều kiện năm nào cũng phải lên lớp dù hạnh kiểm tốt…”

-“Như vậy ngoài Chúa, anh đâu được quyền thương nhớ một ai phải không?”

-“Không hẳn thế… ” Rồi Vũ hỏi lại, “Theo em, anh còn phải thương nhớ ai trong thời gian đó.” Cùng lúc nói chữ ‘ai’, anh lấy ngón tay trỏ chỉ vào cô như để gợi ý.

-“Em không biết… Anh xấu quá…” Nói xong Ngọc trao cái giỏ lác cho Vũ rồi vùng bỏ chạy vừa nói, “Đố anh đuổi được em…”

Vũ phải mất ba mươi giây mới khởi động để chơi trò “mèo bắt chuột”, anh tưởng tượng mình đang đuổi theo quả bóng trên sân bóng rổ. Ngọc chạy rất giỏi, đến một khúc quanh, Vũ không còn thấy cô đâu cả. Trong lúc anh dừng lại để chọn hướng ở một ngã ba, thì sau bụi rậm, Ngọc xuất hiện lấy hai bàn tay bịt mắt Vũ lại, làm anh hơi giật mình. Ngọc nói,

-“Anh thua rồi…”

-“Thua rồi thì sao?”

-“Thì phải lấy bánh và nước mời em với cả hai tay.”

-“Anh đồng ý.”

Gần đấy có một thân cây dừa mới hạ, để thay bằng cây khác, họ đến ngồi bên nhau trên thân cây, cùng uống nước và ăn bánh. Vũ nói,

-“Anh mến em nhiều, em có biết không. Không chỉ như anh em họ, không chỉ bởi lòng thương cảm cho em sớm mất cha mẹ ruột, nhưng còn hơn thế nữa…”

Đến đây, như không nghe những chữ cuối của câu, Ngọc ngắt lời,

-“Anh đi tu mà sao nhiều cảm xúc thế. Như vậy sẽ khó “đắc đạo” lắm! Dù sao em cũng cám ơn anh đã nghĩ và nhớ đến em.” Trong lúc Vũ định nói người tu sĩ cũng là người như bao người khác thì Ngọc nói tiếp,

11

-“Phần em, bây giờ khi em biết rõ số phận của em thì lòng căm thù thực dân và đế quốc của em càng thêm sâu sắc. Em sẽ trả thù cho cha mẹ em bị Tây sát hại

-“Trả thù?”

-“Không, Chúa dạy phải tha thứ,” Ngọc ấp úng nói, “Ý em muốn nói em phải đứng vào hàng ngũ cha anh để tham gia kháng chiến giành lại độc lập cho dân tộc. Anh nghĩ sao, anh có ủng hộ em không?”

-“Dĩ nhiên anh sẽ ủng hộ việc giành độc lập; hơn thế nữa anh sẽ luôn ủng hộ em.”

Sau đó họ đi một vòng giữa những hàng cây dưới bóng râm mát, hái những trái ngon nhất, ăn thử trái đẹp nhất, rồi bỏ vào giỏ lát phần còn lại để mua đem về. Vũ theo sau nhìn bước đi uyển chuyển, linh hoạt của Ngọc giữa các hàng cây làm nổi rõ đường nét thân thể cô, anh càng thêm xúc động. Phải kềm chế bản thân lắm, anh mới không vượt qua giới hạn lễ giáo trong lúc ấy để trở nên suồng sã, lả lơi. Lúc ấy, anh tự nhủ như một nho sinh ngày xưa kềm chế ái dục để tập trung vào mục tiêu lớn nhất của họ: “Chưa đại đăng khoa thì chưa thể tiểu đăng khoa được”, hay nôm na hơn, “Khi chưa thi đỗ thì chưa động phòng. ” Phương pháp chuyển dịch và thăng hoa tâm lý này xem ra có hiệu quả, nó đúc kết trong câu thơ chữ nho: “Thư trung hữu nữ nhan như ngọc” [Trong sách thánh hiền có một cô gái mặt đẹp như ngọc]. Vậy khoan hãy chạy theo nữ sắc giữa đời mà nên tập trung vào kinh sử hoặc chức thánh.

Họ đến ngồi xuống trên một băng ghế gỗ mà hai chân là thân cây cưa ngắn chôn xuống đất để nghỉ ngơi và nghe tiếng chim hót buổi trưa. Ngọc lấy đồ ăn nhẹ ra để hai người cùng ăn. Trong lúc ăn họ dõi theo vài con chim bay đuổi nhau như chơi đùa; có những lúc họ dừng lại trong ít giây nhìn nhau đắm đuối. Sau khi ăn xong, Ngọc nói,

-“Lạ lắm anh ạ, lúc sau này em hay nằm mộng thấy một điều rất khó hiểu, đặc biệt trong giấc mộng nào cũng có khung cảnh Nô-en: một hang đá, mấy bóng đèn trên cây thông, có cả nhạc Giáng Sinh du dương vọng lại tiếng hát của thiên thần. Nhưng khi bài hát được một nửa thì một con sóng lớn màu đỏ ào đến nhấn chìm xuống nước tất cả trong một tiếng nổ to. Lần khác không phải là sóng mà một cơn lốc xóay như một cái vòi xoắn ốc; lần khác nữa là đất rung chuyển nứt nẻ, làm sụp đổ. Nhưng lần nào cũng có tiếng nổ to. Và sau tiếng nổ to là tiếng kêu đau đớn của một bà mẹ: “Con ơi, Bè-đảng giết chết ba má rồi con ơi!” Những lần nằm mộng như thế thì cả ngày hôm sau lòng em nặng trĩu nỗi buồn, một nỗi buồn

12

mênh mông mà em không biết tại sao. Rồi em cảm thấy một nỗi cô đơn khủng khiếp như khi người ta lạc vào sa mạc…”

Dù Vũ không thông minh và tinh tế lắm, Vũ cũng thấy rằng các giấc mộng ấy tái hiện trong vô thức cảnh cha mẹ Ngọc bị giết trong dịp lễ Giáng Sinh; Vũ nói,

-“Đó chỉ là mộng mị thôi em ạ. Những lúc đó em nên tìm một việc gì khó nhọc một tí mà làm hoặc tìm đến một người bạn để tâm sự, vui chơi cho khuây khỏa.”

-“Vâng, bây giờ em sẽ làm theo lời anh chỉ bảo. Trước đây em chỉ biết một cách duy nhất là lấy lòng thù hận để chiến thắng đau thương, nhưng không hiệu quả gì.”

-“Riêng những người đi tu như bọn anh, trong những trường hợp ấy thì tìm vào kinh nguyện...” Ngừng một lúc rồi Vũ nói tiếp, “Thôi mình về đi Ngọc.”

Nói xong những lời ấy, Vũ đứng lên năm lấy hai bàn tay của Ngọc kéo cô đứng dậy. Cái kéo tay hơi mạnh, làm cho Bích Ngọc khi đứng dậy đổ vào người anh. Bộ ngực mẩy mượt của Ngọc dính vào ngực Vũ. Cả hai đều cùng lúc nói lời xin lỗi. Khuôn mặt Ngọc đỏ lên vì e thẹn; sự e thẹn này làm cô đẹp hơn. Họ ra khỏi vườn lúc hơn hai giờ chiều và về đến nhà lúc cô Lai đang thiu thiu ngủ trên võng. Trên bàn có phần ăn trưa của họ dưới cái lồng bàn. Có một lúc khi ngồi ăn họ dùng hai bàn chân ve vuốt nhau trong sự im lặng ngây ngất.

13

TRƯỜNG TƯ THỤC TƯƠNG LAI

Sáng hôm sau, Vũ theo dượng Quý qua nhà Bác Hai Thâu.Tới nơi họ đã thấy có mặt Thầy giáo Quách Tấn Lộc. Với họ Quách, xem ra giáo Lộc có gốc gác người Hoa qua An Nam thời phân tranh Trịnh Nguyễn. Ông có khuôn mặt choắt dưới cái trán vồ tạo thành một vết cắt sâu của ổ mắt. Hai con mắt sáng nhưng hơi có vẻ lấm lét nhìn mọi sự với vẻ suy tính. Sau khi chào hỏi họ đi ngay vào việc chung. Giáo Lộc trình bày kết quả của việc xin giấy phép mở trường tư và theo giấy tờ hồ sơ, hai tháng nữa họ sẽ có giấy phép chính thức, nhưng ty giáo dục cho phép trước việc chuẩn bị phòng ốc của các lớp và việc chiêu sinh. Phần việc này là của bác Hai và dượng Quý. Họ đã thuê lại ngôi trường nhỏ của một chùa Hoa trứơc đây Hoa kiều dùng dạy chữ tàu phổ thông cho con cháu họ. Nay họ dời sang một địa điểm khác đông Hoa kiều hơn. Chỉ cần cho quét vôi lại và sửa chữa các bàn ghế bị hư là ngôi trường sẽ nhận học sinh và đi vào hoạt động. Chính dượng Quý trình bày phần chuẩn bị này. Phần cuối, dượng Quý cũng giới thiệu một vài khuôn mặt giáo viên trong đó có ba người cháu: Thanh Huyền, con Bác Hai, Bích Ngọc, con dượng Quý và Minh Vũ con của ông Tùng, em ông hai Thâu. Nhân dịp này, dượng Quý cho Giáo Lộc biết sự tu hành của Minh Vũ trong chủng viện. Dù sao Vũ có thể giúp cho trường cho đến cuối năm trong các giờ Pháp văn hay toán pháp, phần của Ngọc Bích là môn khoa học thường thức và vệ sinh, Ngọc Bích kiêm luôn thủ quỹ; phần của Thanh Huyền là môn chính tả, tập làm văn và công dân giáo dục. Giáo Lộc làm hiệu trưởng.

Như thế mọi việc được tiến hành suông sẻ, thuận lợi hứa hẹn rằng ánh sáng tri thức sẽ đến với các em nhỏ trong vùng. Buổi họp kết thúc trong bầu khi vui vẻ, phấn khởi. Giáo Lộc được mời ở lại dùng bữa với gia đình.

Để có thêm vài món nhậu, bà Hai Thâu nhờ Vũ lấy xe đạp chở Thanh Huyền ra chợ mua ít thịt heo quay, một bộ lòng gà với cần tây và dưa leo.

Trong lúc Minh Vũ ra chợ, Giáo Lộc đưa ra nhận xét về tôn giáo vì bản thân Giáo Lộc là một người tu xuất, về nhà buồn bực nên tham gia kháng chiến, ông nói:

-“Công giáo vẫn tự hào là đạo yêu thương, bác ái, nhưng hình như tín hữu vẫn bị sự đố kỵ và chia rẽ từ sau thời Lê mạt chi phối nên không phát huy được đạo yêu thương ấy. Vì thế những tật xấu cố hữu như vị kỷ, bè phái, kiêu ngạo, hờn giận vẫn còn đó khiến các xứ đạo thành những ốc đảo co cụm và khép kín với cách sống

14

đạo hình thức tập trung vào việc thờ tự mà thôi và an tâm mình sẽ được cứu như Tôn Ngộ Không an tâm mình nhảy cao hơn năm ngón tay của Phật tổ, không ngờ mình vẫn còn bị vướng mắc trong ngũ hành, ngũ uẩn… ”

-“Xin thầy nói rõ hơn được không?” Hai Thâu hỏi. Ông này và người em rể là ông Quý cũng đã bỏ đạo theo kháng chiến, vì cả hai ông suy nghĩ theo như bên Tuyên huấn thường nói - đúng hơn là tuyên truyền sai lệch - rằng đạo Chúa là đạo Tây. Hồi còn bé ở với cha mẹ, cha xứ của ông là một ông Tây người Đức ở Bavière, nói sõi tiếng Pháp và tiếng Việt mà ngọai hình làm cậu bé Thâu rất sợ như sợ một ông kẹ.

-“Tôi muốn nói rằng để đi theo Đức Giêsu, người Việt sống đạo nghi thức sẽ vô tình rời xa chân lý cứu độ mà Đức Giêsu rao giảng. Lại còn cái đạo đức hương nguyện cùng các hủ tục vẫn còn được duy trì trong các giá trị mới có khi còn lấn át nữa…” Giáo Lộc nói trong lúc Hai Thâu nóng lòng ngắt lời,

-“Vậy theo thầy ta phải làm sao cho đúng?”

-“Theo tôi phải vực dậy đạo-làm-người mà phong kiến cát cứ đã làm cho hỏng, coi đó là tiền phòng trước khi vào chánh điện Tin Kính-Credo,” đến đây Giáo Lộc ngừng lại một lúc rồi cười nói tiếp, “mình đang nói một việc quá lớn, không thuộc thẩm quyền của mình. Hẳn là khi giữ cỏ lùng lại trong ruộng lúa, Chúa đã có kế hoạch nào đó cũng nên.” Sau khi “đùn đẩy” mọi trách nhiệm cho Chúa chí ít khi mùa gặt chưa đến và cỏ lùng còn mọc chung với lúa mì (ai mà biết được việc xấu nào chẳng xảy ra!), ông cười to rồi nghiêm mặt nói,

-“Phần anh em mình phải nhớ rằng cuộc kháng chiến này sẽ mang lại cho chúng ta cơ hội nên-người khi sống đạo-làm-người Việt Nam. Trong xu thế đó tôi có một kế hoạch nhỏ bé là làm sao cho cậu Vũ thành một linh mục cách mạng và rồi một giám mục đỏ, và trong kế họach đó phải có sự giúp sức của thế hệ con của hai anh, dĩ nhiên chúng ta cũng phải tiếp tay…”

Giáo Lộc bất chợt dừng lại giữa câu và ra dấu cho ông Quý biết việc này sẽ được tiếp tục bàn bạc riêng. Lý do giáo Lộc dừng lại vì Vũ và Huyền vừa về đến. Họ nói qua chuyện khác, sau đó bữa ăn bắt đầu. Trong bữa ăn, tùy tửu lượng mỗi người sẽ uống vài chung rượu, từ bình rượu men da xanh rót ra. Gíao Lộc nhân dịp này lôi kéo Vũ tham gia “phong trào”. Ông tránh dùng hai từ “kháng chiến” và

15

“nổi dậy”. Thỉnh thỏang ông có nói vài từ “giành độc lập”. Ông cố tình nhập nhằng giữa ranh giới “chủ nghĩa quốc gia dân tộc” và “chủ nghĩa cộng sản đại đồng”. Với xác tín này, ông nói với Vũ như một người anh nói với em mình,

“Chúng ta tham gia phong trào này để xây dựng dân trí nhưng đồng thời cũng hướng đến một nước Việt Nam dân chủ và độc lập, em cũng biết đó dân tộc mình không những anh hùng mà còn xuất chúng. Độc lập rồi ta sẽ còn mạnh hơn Nhật Bản, xứng đáng sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Có một số đàn anh đi trước, cũng có một số em cùng trang lứa với em sẽ chỉ vẽ kinh nghiệm đấu tranh của họ cho em. Vả lại việc này không ảnh hưởng gì đến việc tu hành trở thành linh mục của em, trái lại nó còn bổ sung cho em cái đạo-làm-người mà chủng viện do khuynh hướng duy thần thường không chú trọng hoặc không dành thời gian đào tạo. Chú nói có đúng không nào,” ông bất chợt hỏi Vũ.

-“Chú nói đúng, chủng viện tập trung vào việc đào tạo người thừa tác chính trong phụng vụ để quản lý các bí tích và qua đó quản lý các giáo dân… Mặc dù trong giáo lý không thiếu đạo-làm-người theo gương con người Giêsu Nadarét.”

-“Đúng vậy, con người này bị các giáo sĩ lãng quên như Chúa Thánh Thần bị lãng quên.” Rồi giáo Lộc nói tiếp với mọi người, “Thế này nhé, mọi người cứ tiến hành công việc của mình. Sau Tết gặp lại, rằm tháng giêng mở lớp dạy học luôn. Các giáo viên lúc đó sẽ có thời khóa biểu lớp mình phụ trách. Riêng Vũ chú sẽ xếp giờ vào hai ngày đầu tuần để tiện việc Vũ trình diện với cha xứ trong lúc chờ vào lại chủng viện.”

Rồi mọi người nói qua chuyện khác cho tới cuối bữa ăn. Riêng Vũ, anh cứ bị day dứt bởi câu chuyện trao đổi với Thanh Huyền khi chở cô ra chợ. Khi ngồi uống nước rau má, Huyền đã nói với anh một sự cố là cha cô cấm cô đi lễ nhà thờ có lẽ vì ông nội cô đã cho nhà thờ một mảnh đất mà trước giờ cha cô nghĩ ông sẽ nhận được như một phần tài sản kế thừa. Trước quyết định ấy, cô ôn tồn nói,

-“Ba ơi, con phải đến nhà thờ thờ phượng Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng qua đó hòan thiện bản thân mình… ”

-“Tao có rửa tội mày đâu mà đòi đi lễ.” Ông Thâu chối phăng. Sau một lúc im lặng rất nặng nề, ông Thâu nói tiếp, “Mày đi chùa đi, trong chùa có ‘cả đống’ các đấng

16

thiêng liêng…” Nói xong ông định bỏ đi nhưng ông quay lại nói thêm, “Nếu vào chùa mà học được đạo-làm-người thì cũng nên đi chùa… ”,

Thanh Huyền vặn lại,

“Hôm trước con nghe thầy Tú đang giúp xứ mình nói trong Chùa người ta ít nói con-người mà nói nhiều về chúng-sinh. Thầy còn nói đạo Phật hình như dạy phải buông bỏ đạo làm người để thành Phật, vậy mà hôm nay ba nói khác…”

“Mày muốn đi đâu kệ mày, nhưng không được đi lễ nhà thờ nhớ không,” Ông Hai Thâu cau mặt gắt gỏng nói rồi bỏ đi và câu chuyện chấm dứt ở đó.

Nghe Thanh Huyền kể lại câu chuyện, Vũ phần nào thấy thầy Tú có lý. Dù vậy anh vẫn hỏi Huyền,

“Vậy chị có đi chùa không?”

“Mặc dù chị vẫn ngờ rằng ba chị dối chị khi nói chị chưa rửa tội vì hồi nhỏ khi sống chung với ông bà nội, việc rửa tội đều do bà nội lo liệu cho các cháu. Nhưng chị vẫn thỉnh thoảng đi chùa với một cô bạn học trước kia. Vũ biết tại sao không? Vì chị có lòng khao khát sự hướng thượng. Đó cũng là lòng khát vọng cái Một vĩnh cửu. Chính sự hướng thuợng khỏi thế giới trần tục này làm nên phẩm giá con người. Người Phật tử muốn giải thoát thành Phật, theo chị, cũng có lòng hướng thượng đấy, miễn là họ đừng hóa ra mê tín. Chị nói vậy đúng không Vũ?”

-“Vâng chị nói có lý. Trong đạo Phật có thừa luân lý giúp người ta nên người…”

-“Còn một việc này chị nói với em là em rán trở thành linh mục để rửa tội cho chị và dạy chị sống xứng đáng với tình yêu Thiên Chúa. Vũ hứa với chị đi.”

Vũ hơi bất ngờ trước ý định này, Nhưng anh tự nhủ đó cũng là một động lực, một dấu chỉ cho ơn-gọi của anh nên anh nghiêm trang đáp,

-“Vâng, em xin hứa.”

Vừa nói Vũ vừa nhìn khuôn mặt tròn, đôi mắt bồ câu và đôi môi mọng bên ngòai hàm răng đều và trắng, cùng dáng người thanh tú của người chị họ. Mười phút sau hai người về đến nhà. Vũ được ngồi vào bàn với cánh đàn ông.

17

Sau bữa ăn với gia đình bác Hai, dượng Quý và Giáo Lộc, Vũ lần khân nói chuyện với các anh chị khác con bác Hai. Sau đó anh ra đón xe. Một giờ sau về đến nhà. Lúc đó là chiều ngày 25 Tết.

*&*

Về đến nhà, anh nói riêng với mẹ việc ghé thăm cô Lai-dượng Quý. Anh cũng cho biết dượng Quý sẽ mở trường học và đã mời anh dạy vài môn. Dù anh không nhắc gì đến bác Hai Thâu, mẹ anh cau mày không nói gì vì bà biết dượng Quý đã theo phe đỏ từ lâu rồi còn lôi kéo Hai Thâu tham gia nữa. Trước đây có một giáo dân trong giáo xứ làm việc cho phòng nhì Pháp còn nói với bà ông Quý ấy ở trong ban ám sát, nhưng phòng nhì Pháp không có chứng cứ cụ thể nên còn để đó, chưa đụng đến ông ta. Có lúc bà nghĩ biết đâu con Bích Ngọc chẳng là con một “Việt gian” nào đó mà Tứ Quy (biệt danh trong tổ chức của ông Quý) nhặt về để cải tạo nó thành một phần tử kiên cường của phe họ). Vâng, một nỗi nghi ngại thoảng qua trong lòng bà. Sau một lúc im lặng bà nói,

“Không làm chính trị mà mở trường là tốt rồi, nhưng con sẽ qua bên Hàm Luông mấy ngày một tuần, có khi không kịp đón xe về con phải ở lại nên mẹ nghĩ con phải trình cha xứ việc này trước khi trả lời dượng Quý.”

“Vâng con hiểu ý mẹ; ngày mốt 28 Tết, con mang quà qua biếu cha xứ, con sẽ trình cha việc ấy luôn.”

“Ừ cứ thế đi cho phải phép” bà nói thế vì bà luôn tin rằng các cha, nhất là cha linh hướng luôn được Chúa soi sáng đường ngay, nẻo chính.

Khi Vũ đem quà Tết đến nhà xứ, anh thấy cha xứ đang đọc cuốn tiểu thuyết “La Dame aux camélias” [Trà Hoa Nữ]. Vũ biết đó là cuốn tiểu thuyết vì chữ roman viết ngay dưới tên nhan đề, nhưng không biết là lọai tiểu thuyết gì. Hồi ở Chủng viện, anh thường thấy mấy chủng sinh gốc Miên đọc các truyện tình cảm xã hội là sách cấm trong chủng viện và để qua mắt cha giám thị, họ phải đọc sau chin giờ tối, trong giờ ngủ. Họ trùm mền kín mít giả vờ ngủ và dùng đèn pin để đọc.

-“Con mang gì khệ nệ thế?”

-“Dạ, mẹ con nói mang ít quà biếu cha ăn Tết…”

18

-“Mẹ con chỉ khéo bày vẽ. Khi có lễ lớn trong đạo ngoài đời nào là mẹ con đều mang quà sang. Về bảo mẹ con dẹp bỏ cái lệ đó đi,” ông cười vì biết rằng không thể dẹp bỏ được cái lệ ấy vì nó là một phần của văn hóa ngàn đời, từ cái Lễ Nghĩa của nho giáo và ngày nay nó thể hiện lòng đạo đức của người tín hữu, khi mà Chúa và cha xứ không thể tách rời nhau trong một nền thần học trọng giáo sĩ. Văn hóa phụ quyền và quan điểm giáo sĩ trị quả là hợp nhau như rồng mây khánh hội. Chẳng phải một câu hát đồng dao trong đạo đã chẳng nói thế sao: Đêm nằm nhớ Chúa, nhớ cha./ Đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn… Đã nhớ Chúa thì phải nhớ cha, không thể thiếu. Lúc ấy, cha xứ nói tiếp,

-“Để cha xem lần này quà gì nào?” Vừa nói ông bước tới vài bước, ông thấy một con gà mái tơ, một con vịt xiêm lai, ba đòn bánh tét, một hộp trà tàu, nửa ký mứt gừng. Cha xứ kêu lên, “Sao nhiều thế,” rối nói thêm với Vũ, “Tiện thể, con đem gà vịt bánh trái xuống cho chị bếp, chỉ để trà và mứt lại thôi, rồi lên cha con mình nói chuyện”. Vũ đưa quà cho chị bếp cất rồi rửa tay và lên lại phòng khách. Trong một giây anh cũng kịp nhận ra chị bếp mới trông còn trẻ trung với mái tóc kẹp không bới, duyên dáng hơn bà bếp già ngày xưa.

Trong phòng khách, Vũ kể lại cuộc đi thăm Bác Thâu và cô Lai, sau đó anh hỏi ý kiến cha xứ về việc dạy học. Cha xứ hỏi,

-“Cái lý tưởng của những người mở trường tư thục ấy là gì?”

-“Theo con biết,” Vũ đáp, “đó là đại đòan kết dân tộc để xây dựng một “tương lai” tốt đẹp cho dân cho nước. Do đó về chính trị là hòan toàn trung lập và học sinh sẽ trở thành những người công dân tốt phục vụ cho sự đòan kết và độc lập ấy sau này.”

-“Thế thì được, con có thể tham gia và khi được phân công, nhớ báo cho cha biết thời khóa biểu của con. Vả lại có một điều làm cha an tâm vì hai cô giáo đều là em họ của con chứ không phải là người-dưng-khác-họ…” Cha xứ nói và trong câu nói ông có liên tưởng đến câu ca dao: Gió đưa cây cải về đồng / Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương…

Dĩ nhiên, Vũ cám ơn cha xứ vì lòng tin tưởng và quảng đại mà ông dành cho anh. Sau đó cha trở lại đề tài đại đòan kết, khi ông hỏi Vũ,

-“Con nghĩ dân mình có đoàn kết hay không?”

19

-“Con nghĩ là không đoàn kết mấy vì như một ông thực dân đã nói: trong mỗi người An-nam đều có một ông quan và như thế không ông quan nào trong chốn quan trường chịu nhận ông kia là tốt, là tài giỏi. Thế là sinh ra sự ganh tị, chia rẽ trong khi cùng nhau tìm mọi cách nịnh hót vua và bề trên. Từ đó sinh ra tính cách đội trên đạp dưới gây chia rẽ trầm trọng… ”

“Phải, sự chia rẽ là nhược điểm lớn của dân mình. Theo cha, đừng nên nói người Pháp áp dụng chính sách chia rẽ để cai trị vì thực tế chia rẽ ba miền Trung Nam Bắc đã có từ thời vua Lê chúa Trịnh và tiếp tục với việc Trịnh Nguyễn phân tranh. Người Pháp chỉ lợi dụng thực tế đó để cai trị và làm cho chia rẽ ngày thêm sâu sắc.”

“Vâng, cha hòan tòan nói đúng; chính vì thế con sẽ tham gia dạy học ở trường Tương Lai ấy dù có lẽ chỉ trong một hoặc hai học kỳ trước khi vào lại chủng viện.”

Sau đó hai người nói sang chuyện khác. Trong các ý kiến của cha xứ về chiến trường Điện Biên Phủ, ông này cho rằng người Pháp sẽ thắng và sẽ trao nhà nước cho một chính quyền quốc gia sẽ được thành lập nay mai sau khi Pháp chiến thắng. (!!??) Mặc dù không rành về chính trị, Vũ cũng thấy quan niệm của cha xứ là không-tưởng. Sau đó, anh cáo từ ra về, không quên chúc Tết trước cho cha một câu mà có lần anh nghe được từ sân khấu hát bội. Đó là thọ tỉ Nam San, phúc dư Đông Hải. Lúc đó chị bếp mang bình trà nóng mới chế lại nghe thấy, nở một nụ cười dù chị không hiểu ý nghĩa của lời chúc ấy.

20

THẦY GIÁO VÀ CÔ GIÁO

Sau Tết, Vũ bắt đầu nhận lớp và dạy học, anh có giờ ba ngày đầu tuần trong đó có bốn giờ cuối hai buổi, Bích Ngọc cũng có giờ như thế trong một lớp khác vì thế khi đến giờ tan học, họ cùng nhau về nhà cô Lai. Vũ thường dùng xe đạp chở Ngọc về. Buổi dạy cuối anh mới đón xe muộn của bạn hàng về Chợ Lách và trở lại nhà. Sự trùng khớp giúp họ ra về cùng lúc trong mấy ngày đầu tuần chắc chắn không phải ngẫu nhiên mà là dụng ý của Giáo Lộc trong kế hoạch xây dựng Vũ thành một linh mục đỏ, thậm chí một giám mục đỏ sau này.

Quả thật sau ba tháng dạy học, Bích Ngọc nói với Vũ,

-“Anh có thể giúp em học một ít tiếng Pháp và văn chương Việt Nam không anh?”

-“Được thôi, mỗi tối anh có thể bỏ ra hai giờ dạy em tiếng Anh trước khi đi ngủ nếu muốn…”

-“Sao lại tiếng Anh?”

-“Em phải biết tiếng của đế quốc để sau này còn có dịp giáo hóa chúng lý tưởng dân tọc và lý tưởng thế giới đại đồng… ”

-“Vậy cũng phải, vả lại em tính thế này: vì những ngày có mặt anh ở đây, anh và em ra về cùng lúc nên thay vì về nhà sớm để làm việc bếp núc với mẹ em, có khi đến khuya, anh và em ở nán lại trường thêm một tiếng rưỡi nữa và anh sẽ tranh thủ dạy cho em học.”

Vũ suy nghĩ một lát rồi nói, “Thế cũng được, nhưng em phải báo cho ba mẹ biết sẽ về trễ, đồng thời báo cho bác bảo vệ biết mình ở lại.”

-“Dạ, việc đó để em lo cho,” Bích Ngọc nhanh nhẩu nói vẻ vui mừng vì tính cô ham học.

Lúc đó là cuối tháng ba năm 1954. Một thầy một trò như thế làm cho tình cảm ngày thêm sâu đậm. Câu nói của Minh Vũ trước đây trong vườn cây ăn trái “Anh mến em nhiều, em có biết không. Không chỉ như anh em họ, không chỉ bởi lòng thương cảm cho em sớm mất cha mẹ ruột, nhưng còn hơn thế nữa…” bây giờ được anh viết tiếp để nói rõ “còn hơn thế nữa” có nghĩa là một tình yêu say đắm.

21

Có những lúc anh ngừng dạy học một lúc để chiêm ngưỡng dung nhan Bích Ngọc. Rồi họ trao nhau những lời âu yếm. Rồi tới giai đọan trên băng ghế trong lớp, họ trao nhau nụ hôn và những cử chỉ vuốt ve dịu dàng đằm thắm. Xem ra những cử chỉ ấy có sức an ủi lạ lùng vì sau một đêm thấy ác mộng về cái chết thương tâm của cha mẹ ruột, lòng cô trĩu nặng một nỗi buồn như đá tảng thì một nụ hôn của Vũ trên môi cô làm cho nỗi buồn ấy tan biến ngay. Lúc ấy môi cô tê dại và một luồng cảm xúc hoan lạc chạy khắp châu thân. Cô biết cô cần tình yêu và sự âu yếm của Vũ. Như thế là đủ và đẹp nữa. Và không được để cho cuộc phiêu lưu ấy đi xa hơn thế … Có lần Vũ kéo cô nằm xuống trên cái bục gỗ kê bàn giáo viên và bàn tay anh lướt xuống người cô từ ngực cao qua rốn, cô choàng ngồi dậy như tỉnh mộng và ấp úng nói,

-“Anh yêu, không phải lúc này… chuyện đó… mình chưa… ”

-“Chưa gì em? Và phải đến bao giờ…?”

-“Anh không nhớ anh phải trở thành linh mục sao?” Cô nhìn cơn mưa dai dẳng bên ngòai cửa sổ cao đáp lại. Hai tiếng “linh mục” - một địa vị rất cao sang - làm anh tỉnh lại.

-“Liệu lúc đó em có còn chờ anh hay đã đi lấy chồng theo lệnh cô dượng anh…”

-“Em sẽ chờ anh cho hết kiếp. Em sẽ không lấy chồng vì em chỉ yêu một mình anh thôi.”

-“Em nói thật đấy chứ?”

-“Em nói thật. Em hứa đấy, nhưng anh cũng phải hứa với em.”

-“Hứa gì?”

-“Hứa sẽ sớm trở thành linh mục rồi giám mục.” Ngọc nói rõ từng lời: vâng, cái mộng công danh không phải là cái mộng của riêng nam giới mà của cả các phụ nữ mơ ước cho người yêu hoặc chồng và con mình: “Không công danh thì nát với cỏ cây,”. Vâng nát như tương, như cám heo, như bùn đất. Vũ nhìn Ngọc đầy tình tứ rồi nói,

-“Vâng, anh xin hứa để em luôn hạnh phúc.”

Tối hôm đó khi nằm trên chiếc chỏng tre cạnh buồng ngủ của Ngọc, anh nhớ lại buổi chiều mưa tình tứ ấy rồi anh nghĩ ngợi mông lung. Dòng chảy chính của đời anh như con sông lớn trong xanh chảy về Đại-Dương-Cứu-Độ và không đổi chiều

22

trong chức thánh, nhưng đến giai đọan lịch sử này của đất nước thì Bích Ngọc xuất hiện như một con sông nhỏ ngồn ngộn phù sa chảy vào hợp lưu với dòng sông chính. Dòng sông chính vẫn chảy nhưng không còn êm ả như xưa. Từ đây sông có hai màu, bên trong, bên đục; bên xanh bên đỏ. Đỏ vì dòng phụ chứa phù sa và nó bao gồm cả một quan điểm hoặc ý thức hệ như sẽ nói đến sau đây.

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, trận chiến Điện Biên Phủ chấm dứt và quân đoàn lê dương Pháp đã thảm bại ê chề. Sau đó là cuộc di cư vào Nam và cuộc tập kết ra Bắc. Và như cây kim giấu trong bọc vải lâu ngày cũng ló ra, ông Quý, cha nuôi của Bích Ngọc lộ diện là một người của Việt Minh và có tên trong danh sách phải đi tập kết. Điều này làm cho Minh Vũ hết sức bàng hòang; thì ra cái phong trào mà ông Quý nói đến và anh nghĩ là một phong trào quốc gia nào đó, chỉ là cái chiêu bài của đảng, cái cửa hàng treo đầu dê để bán thịt chó của họ. Thật ra nếu anh tìm hiểu kỹ càng lai lịch dượng Quý của anh, hẳn anh đã không cộng tác dạy học cho trường. Ông Quý vốn là người làng Hạc, con trai thứ của một tri phủ Văn Thân người Thanh Hóa theo đảng khi mới lớn lên ngòai Bắc. Năm 1939, ông được tổ chức cài vào đoàn dân nghèo vào Nam làm phu đồn điền cao su. Ở Dầu Tiếng được một năm, ông xúi giục công nhân biểu tình chống đối, nên bị chủ Pháp đuổi cổ. Sau đó chạy xuống miền Tây, đứng đầu nhóm bốc xếp ở chợ Bến Tre, gặp cô Lai bán khoai củ ở chợ, cậy người mai mối để cưới về. Đối với ông cái chuyện ông vờ theo đạo để lấy cô Lai là chuyện nhỏ. Vài tháng sau ngày cưới ông không lui tới nhà thờ nữa. Đúng như câu mà người đời mượn để chế giễu: Con quỳ lạy Chúa Ba Ngôi/ Con lấy được vợ con thôi nhà thờ. Ông còn nói cách mỉa mai rằng nhiều người có đạo nhưng có sống theo đạo-nghĩa gì đâu, họ cũng độc ác và vô tâm như bọn vua quan phong kiến hoặc đạo đức giả như bọn nhà nho hương nguyện, v.v… Dù vậy ông phải để cho bà Lai bế Ngọc đi rửa tội, vì lúc đó ông đang chờ cha mẹ vợ ông chia điền sản cho con gái út của họ. Hiện nay mặc dù ông vẫn để cho bà Lai cùng Ngọc đi dự các thánh lễ, nhưng khi Ngọc đến tuổi dậy thì, ông đã nhờ một nữ cán bộ nằm vùng, miệng nói năng trơn tru như bôi mỡ đến gặp Ngọc tìm cách trò chuyện, tuyên truyền lôi kéo cô tham gia vào đảng. Cô đã mau chóng lột xác thành một con gái trung kiên của đảng bởi lòng thù hận cha mẹ cô bị Tây giết chết mà nếu mối nghi ngờ của mẹ Vũ là xác thực thì đó chỉ là một thù hận ảo do ông Quý hư cấu mà thôi trong bối cảnh chiến tranh nhập nhằng ba phe bảy phái. Ngay cả bà Lai, vợ ông Quý cũng không hề biết

23

chồng bà là phần tử quan trọng của đảng và dù có biết việc ấy bà chẳng thể làm gì được để ngăn cản.

Trước tin ông Quý tập kết, Minh Vũ bàng hòang, sửng sốt, nhưng anh không hề nói lại việc này cho cha mẹ anh và nhất là cho cha xứ, vì trường học vẫn được hoạt động bình thường với ông Giáo Lộc làm hiệu trường và bác Hai Thâu là người sáng lập. Nhưng khi sự bàng hoàng nguôi đi, một nỗi tức giận chán ngán trào dâng trong lòng anh.

Một tuần sau ngày ông Quý lên tàu hỏa ra Bắc, sau giờ dạy cuối ngày anh gặp Bích Ngọc trong phòng giáo viên, cô đến bên anh nói như thường lệ,

-“Mình qua phòng số 4 để anh dạy em tiếng Anh đi.”

Vũ lẵng lặng đi theo vào phòng học ngồi xuống băng ghế đối diện với Ngọc, anh nói,

-“Kể từ hôm nay anh không dạy cho em học tiếng của thực dân Anh Mỹ nữa. Em làm anh buồn quá,” Trong lúc Ngọc đóng vai cô gái ngây thơ vô tội, Vũ gằn giọng nói tiếp, “Tại sao em biết cha dượng em là một đảng viên gộc mà em không báo cho anh biết một tiếng. Nếu biết sự thể thế này, anh đã không đến đây dạy học… Anh rất thất vọng về em…”

Bích Ngọc làm ra vẻ mặt hoảng hốt, giọng tức tưởi nói,

-“Em xin lỗi anh nhưng cho tới hôm nay em hoàn tòan không biết ông ấy như thế. Chính mẹ em cũng không biết nữa là… Anh biết không sự cố này xảy đến như sét đánh bên tai em…” Rồi cô lấy tay che mặt khóc tổn thức, “Anh ơi, anh tha lỗi cho em… Anh đừng bỏ em một mình trong lúc này chỉ còn em với mẹ... ”

-“Anh chán lắm rồi,” Vũ thở dài nói trong khi Ngọc quỳ xuống ôm lấy đầu gối anh, khóc thật và khóc nhiều khi nghĩ đến cảnh mồ côi của chính cô. Cái lưng cúi xuống của cô rung lên theo tiếng khóc. Và những giọt nước mắt ấy đã từ từ làm mềm lòng anh lại. Càng nhìn cô khóc, mối thương cảm càng trào dâng, sau cùng anh nói,

-“Hôm nay anh bỏ qua việc này, nhưng không dạy thêm cho em nữa.”

Nói xong, anh đẩy cô ra khỏi chân anh đứng lên bỏ về. Ngọc đi theo anh ra tới cửa nói dịu dàng,

-“Anh đừng ghét em nghe anh, lúc nào em cũng yêu anh.”

24

Lúc đầu Vũ đi ra bến xe định đón chuyến xe muộn về Hàm Luông, nhưng anh ra quá muộn. Anh kêu chiếc lôi đạp về lại nhà cô Lai. Anh ngạc nhiên khi thấy cô Lai và Ngọc đang chờ cơm anh. Mặt cô sạch sẽ không còn giọt lệ nào với nỗi buồn buồn vốn có về thân phận. Với vẻ mặt ấy, trông cô đẹp và quyến rũ lạ lùng. Cô Lai hỏi sao về trễ thế, anh nói anh phải ra chợ bỏ thư gởi về Đại chủng viện Sài-gòn. Sau đó ba người làm dấu thánh giá, đọc thầm kinh Lạy Cha rồi bữa ăn bắt đầu. Trong lúc ăn Ngọc không quên gắp bỏ vào chén anh, miếng thức ăn cô cho là anh thích nhất.

Tồi hôm đó, khi nằm trằn trọc, anh lại tự trách mình đã giận dỗi cô, đã làm cô khóc. Nhưng nhờ vậy anh biết được tình yêu của cô đối với anh tha thiết đến mức nào. Anh nói với chính mình, “Ngọc ơi anh không thể không yêu em dù không hay lắm vì anh chọn đường tu,” rồi anh bóp cái trán thấp, vuốt mái tóc cứng cắt ngắn rồi tiếp nói một mình, “Cho dù bây giờ em có là Việt Minh, anh vẫn cứ yêu em say đắm.” Và trước khi chìm vào giấc ngủ, anh cảm thấy một nỗi căm giận bọn thực dân và đế quốc đã làm Ngọc rơi vào cảnh mồ côi từ lúc sơ sinh và lần đầu tiên trong đời anh nghĩ người Việt Minh hẳn đã có chút chính nghĩa nào đó. Dù vậy, phải đợi đến khi anh “tình cờ” gặp được chị Đinh Thị Nguyện trên đường đạp xe đưa Ngọc về nhà sau giờ dạy học, anh mới thật sự là một cảm tình viên của “đảng cách mạng” dưới lớp áo tu hành. Chị Nguyện này hơn họ mười lăm tuổi sau trở thành một nữ tướng của quê-hương-đồng-khởi. Thế đấy, khi chưa phân biệt đúng sai mà có lẽ vì chưa hiểu rõ, Vũ đã có một quyết định chính trị quan trọng của đời anh; tất cả đều do mối tình đam mê của anh đối với Bích Ngọc. Và lắm khi với những đam mê chồng chéo, những yêu, ghét điên cuồng, lịch sử trở thành câu chuyện do một thằng điên kể lại.

Lúc đó, còn hơn một tháng nữa Minh Vũ sẽ vào chủng viện, tiếp tục việc tu học. Thời gian còn lại ở bên nhau này, Ngọc muốn dâng hiến thân xác cho Vũ, nhưng thôi vì cô muốn lấy thời gian để thử thách tình yêu khác thường này của Vũ, cũng để thử thách sự gắn bó của anh đối với “lý tưởng” mà chị Nguyện kêu gọi anh theo. Phần anh cũng thế, anh đã vuốt ve, âu yếm cô trên mọi phần da thịt, nhưng dừng lại vào phút cuối: anh nghĩ mình phải trong sạch và xứng đáng đôi chút khi trở lại đời tu.

*&*

25

Hai tháng sau ngày Vũ vào lại chủng viện, Bích Ngọc được kết nạp đảng dưới sự chứng kiến của chị Nguyện, được chị huấn luyện tiếp và hoạt động ngầm dưới sự hướng dẫn của chị. Ngoài việc dạy học, cô còn phụ bán rau củ với bà Lai những ngày không có giờ dạy, nhờ số vốn khiêm tốn là tiền lương dạy học của Vũ mấy tháng sau cùng Vũ trao hết cho cô Lai và em Ngọc để giúp họ ổn định cuộc sống sau ngày ông Quý tập kết. Về việc canh tác trên một mẫu ruộng của gia đình, cô Lai giao cho một tá điền trong thân tộc và như thế quanh năm có gạo ăn cho hai mẹ con, tiền lương Ngọc dạy học và tiền thu được từ việc bán rau củ để mua thức ăn và xoay xở trong cảnh nghèo.

Hai năm sau ngày đất nước chia đôi là hai năm gia đình cô Lai chờ đợi. Họ chờ ngày hiệp thương thống nhất theo Hiệp định Genève. Những cán bộ của đảng còn cài lại Miền Nam cũng ở yên, không bạo động chờ lệnh từ Hà Nội và quốc tế cộng sản. Phần Ngọc, hai năm đó đủ để cho làng xóm quên đi việc cha cô là người cộng sản. Thậm chí chính quyền mới ở địa phương hầu như không biết việc đó, chỉ có vài người trong phòng anh ninh tình báo quận biết theo hồ sơ lưu trữ. Suốt hai năm ấy cô luôn luôn nhớ về Minh Vũ. Cô không bao giờ có khả năng để lý giải tại sao lại đem lòng yêu một kẻ tu hành. Một người tinh ý và sành đời sẽ nói một cách đơn giản rằng cô có phức cảm một trẻ mồ côi, luôn thấy mình không xứng đáng với bất kỳ tình yêu nào trừ chàng trai nào khi yêu cô cùng lúc trả lại cho cô cái giá trị mà cô đã bị tước đọat từ lúc sơ sinh. Và một cách ngẫu nhiên nhưng cũng may mắn là cái địa vị linh mục dù trong tương lai sau thời gian tu học sẽ mang lại cho cô sự đáp ứng ấy, vì nói cho cùng cái vẻ ngòai khá đẹp trai và đầy nam tính của Vũ có thể là quá đủ với một cô gái bình thường khác, nhưng chưa đủ với cô nếu không có cái địa vị tương lai của Vũ trong cơ chế giáo quyền. Niềm say mê quyền bính không phải chỉ có nơi nam giới mà hình như của con người nói chung mặc dù biểu hiện khác nhau: đó là cám dỗ của Adam và Eva muốn ngang bằng Thiên Chúa. Mặt khác từ khi rời chủng viện Phnom Penh, ơn gọi cũng như lòng đạo của Vũ trở nên hâm hẩm: không nóng và cũng không lạnh. Thế nên cái tình yêu hiện tại của Bích Ngọc đối với Minh Vũ đã bao gồm cái tương lai huy hoàng ấy của anh. Và tuy là một đảng viên trẻ vô thần, cô cũng hay cầu nguyện cho anh sẽ đạt được chức thánh. Đó là những lần cô lấy cái ảnh làm thẻ giáo viên của Minh Vũ, gói trong tờ giấy kiếng cô giấu trong áo gối ra sờ mó hôn hít trước khi cầu xin khấn khứa.

26

Theo lời dặn của Vũ trước khi trở lại chủng viện và theo gợi ý của Giáo Lộc, một ông tu xuất, hai năm trời xa Vũ, cô không viết lá thư nào cho anh. Vũ chỉ nhận được thư của cô Lai hai lần. Hai lần đó trước khi dán thư và đem ra bưu điện cô viết thêm vào cuối thư ở phần tái bút những lời nhắn gởi yêu thương, tình tứ với tâm trạng chờ mong và rất nhiều kỳ vọng. Ngoài bì thư chỗ ghi tên người nhận cô ghi thêm hai chữ “gởi cháu …” và chỗ người gởi cô ghi rõ “Bà Phan thị Lai, cô ruột”. Cô phải cẩn thận ghi rõ như thế vì theo kinh nghiệm của Giáo Lộc: các tu viện đều theo dõi tần số thư từ gởi đến và người gởi là ai để đánh giá “sự lìa bỏ thế gian” của tu sinh như lời Kinh Thánh nói: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”. Và các cha giám thị của chủng viện không ngờ có một trường hợp “hồng điệp đề thư” đi qua trót lọt trước mắt họ.

27

NGƯỜI BẠN ĐỒNG TU

Hai năm đầu trong chủng viện, Vũ được các cha giáo dạy môn triết học. Như phần lớn các chủng sinh khác, nhiều lúc họ tưởng mình như vịt nghe sấm, vì não trạng Đông Phương không quen tư duy lý luận, nhưng giỏi suy nghĩ bằng trực giác, nhất là trực giác cảm tính. Tuy nhiên họ phải cố theo với việc học thuộc lòng giáo trình như con vẹt. Vậy mà cũng xong. Trong số các bạn đồng môn có Trương Trình Diễn, người gốc Hoa, cái tên dường như cho biết cha anh họ Trương mẹ anh họ Trình, từ một gia đình Phật giáo, tu chùa thiền tông được ba năm, sau đó một mình trở lại đạo, đi tu vào chủng viện, xem ra rất ung dung trong giờ học triết. Khi được Vũ hỏi vì sao hắn tiếp thu môn triết khá nhanh, hắn cười bỡn cợt nói, (chính cái thói bỡn cợt này nên anh thường bị các tu sinh khác đặt cho biệt danh là Trình “Điên” thay vì Diễn. Và anh rất tự hào về biệt danh này vì Đức Giêsu, tôn sư của anh cũng có lần bị gọi là “điên”)

-“Tại vì trán bạn thấp, còn trán tôi tuy hẹp mà cao.”

-“Tôi hỏi bạn nghiêm túc đó, trả lời đàng hoàng đi.” Vũ cau có nói.

-“Ừ, đó là nhờ tôi tu trong chùa thiền tông. Sau khi qua lớp sơ đẳng Phật học, sư thầy cho tôi giải các “công án”, chính nhờ các công án này mà tôi đã luyện tập được suy tư lô-gích, dù cách suy tư này chỉ là phương tiện mà khi liễu ngộ ta phải vứt bỏ đi…” Diễn nói một hơi không nghỉ.

-“Bạn giải thích rõ hơn về công-án được không?”

-“Đó là những nan đề cho ta suy gẫm bằng trí tuệ, nhưng liễu ngộ bằng một trực giác bất chợt, lúc đó ta thấy mình ở trong công-án và là một với nó… ”

-“Bạn cho mình vài ví dụ về công án xem,” Minh Vũ nài xin trong lúc Diễn cau mày suy nghĩ để nhớ lại rồi anh nói,

-“Tôi nhớ lại một vài công-án. Ví dụ như “Cái gì nhỏ không trong mà lớn không ngoài” hay “Cái tâm ta ở bên phải hay bên trái, đàng trước hay đàng sau, bên trên hay bên dưới?” vân vân…”

Câu chuyện đến đó tạm dừng, vì tới giờ ăn và hai người đi vào phòng ăn. Khi ăn mọi người phải im lặng trừ một vài anh được phân công đọc sách thánh hoặc sách đạo đức.

28

Chiều hôm đó, trong giờ giải trí trước bữa cơm chiều, Vũ hỏi Diễn lý do anh cải giáo. Diễn chậm rãi nói,

-“Tôi có xu hướng muốn hướng thượng và tìm cái cao cả của tinh thần từ nhỏ, nên trong đời sống tôn giáo, tôi luôn chú trọng vào việc ‘phản bổn hoàn nguyên’, nói một cách bình dị là ‘tìm về cội nguồn uyên nguyên ’ và chỉ một cội nguồn mà thôi. Thế nhưng khi tu thiền tông, tôi thấy nhiều Phật quá, Phật Thích Ca cũng chỉ là một trong vô số Phật. rồi mỗi Phật lại có cảnh giới riêng. Tôi rất hoang mang, không biết nên cầu điều gì nơi Phật nào, nên theo ông nào cho đến cùng (nói theo quan điểm của Do Thái giáo là có quá nhiều ngẫu-tượng). Đã thế trong chùa còn có một cuốn sách khổ to giấy dày vẽ chân dung của các ông Phật và nam nữ Bồ tát. Người này khuôn mặt hiền lành, người kia thì dữ dội, hoặc nhẫn nại, hoặc sầu bi, hoặc trắc ẩn, hoặc nghiêm khắc, hoặc vui tươi hoặc cau có. Lúc đó tình cờ tôi đọc được một câu trong Kinh đạo Chúa, “Ta là Đức Chúa đã chọn các ngươi, Thiên Chúa của các ngươi, không có Chúa nào khác. ” Câu kinh ấy làm tôi suy nghĩ, rồi tôi mầy mò tìm kiếm và chọn lựa vì để đắc đạo bên nào cũng khó: nếu bên Phật có câu xuất gia như ngưu mao, đắc đạo như giác thố thì bên Chúa có câu người giàu có vào Nước Trời khó như lạc đà chui qua lỗ kim mà anh em mình thì giàu có quá với chức thánh và kiến thức thần học, được cái bên này có ơn Chúa phù trợ nên một năm sau tôi rời chùa về nhà, cải giáo và đi tu cho đến nay…”

Câu chuyện này làm Vũ quý mến Diễn, nếu không nói là thán phục. Thế nhưng cái thói mỉa mai, khích bác đôi khi trổi dậy. Đợi khi Trình Diễn quay lưng đi, Vũ nói một mình với hắn, “Điên ơi, rồi sẽ tới lúc mày chính thức bước vào bộ máy giáo quyền vốn coi ơn thánh là trọng, lúc đó ‘trong chăn mới biết chăn có rận’ rồi mày sẽ thất vọng và tìm quên trong danh vọng tiền bạc và lạc thú yêu đương cùng phụ nữ trong khi tiền bạc và nữ sắc có ngay trước mặt mời gọi, cám dỗ …” Xem ra Vũ đang nói về chính lộ trình tu hành của anh, sau này rồi sẽ rõ. Vâng sự ganh tị, thù ghét nhau là cố tật thường thấy trong giới “sĩ-phu” của xứ này kể cả trong đạo.

Lần khác Vũ có mộng tinh khi nằm mơ thấy Ngọc lõa thể trong đêm, anh không dám nói với cha giám thị vì sợ bị đánh giá, anh hỏi nhỏ Trình Diễn, “như vậy liệu có sao không?” Diễn hỏi lại, “Có hay như thế không?” Minh Vũ đáp “Trước nay chưa bao giờ bị…” Diễn cười nói, “Trước nay chưa bị dù đã từng mộng thấy ‘yêu nữ’ chứ gì. Vậy thì không sao đâu, tốt là đàng khác”, rồi Trình Diễn giải thích,

29

-“Đó là vì xung lực của bạn cường tráng, nhưng không có chỗ thóat. Mấy ngày nay mưa nhiều bạn không chơi bóng chuyền được, không cho năng lượng có chỗ thoát, mặt khác bạn không có khả năng ‘thăng hoa’ tốt vào một cảnh giới cao siêu nên nó phải thóat ra bằng lối đó.”

-“Vậy hả!” Vũ kêu lên vừa ngạc nhiên vừa vui sướng rồi nói, “Sao bạn biết được việc này?”

-“Đơn giản thôi. Trong Mật tông Phật giáo người ta cho phép sau một bữa ăn thịnh sọan mà một tăng sĩ đuợc thiện tín ‘cung dưỡng’ có quyền sử dụng một nữ nhân thuộc đẳng cấp hạ tiện để xả bỏ những tạp chất nặng nề làm ứ trệ việc thiền định. Lúc đó tăng sĩ thực hiện việc giao cấu với người nữ ấy như một nghi thức.”

-“Ngay trong tu viện sao?” Vũ hỏi.

-“Không ở trong tu viện nhưng trong những bãi đất trống của nghĩa trang. Cái hay là ở chỗ đó: đem tình dục đến gần với cái chết làm người chết bị trầm luân.”

-“Như vậy phải chăng bên bờ vực sự chết thì sự giao cấu ấy sẽ rất cuồng nhiệt và man rợ nữa.” Vũ hỏi và không ngờ mình nói trước điều sẽ xảy ra với Vũ sau này.

-“Cái này thì tôi không biết. ”

Chợt nhớ ra một từ ngữ lạ mà Diễn đã dung trong câu nói, Vũ hỏi,

-“Bạn nói “cung dưỡng” phải chăng là “cúng dường”?

-“Phải, ý nghĩa ban đầu là cung dưỡng, tín hữu cung cấp lương thực và sự cần dùng để nuôi sư sải. Nhưng khi tăng sĩ ngạo mạn biến mình thành ngẫu tượng (không do tay người làm mà do tâm ngã mạn) thì sự cung dưỡng biến thành của lễ cúng dường. Đó là sự tà vạy của lòng người làm chánh pháp tà vạy theo…”

Câu chuyện giữa hai người chấm dứt vì đến giờ họ phải vào lớp để học môn phụng vụ thánh.

Hai hôm sau Trình Diễn đưa cho Minh Vũ tập thơ thiền chép tay gồm hai mươi bài thơ thiền. Vũ chỉ còn nhớ lại hai bài mà anh đã vất vả học thuộc và Diễn cũng vất vả ‘cắt nghĩa’ cho Vũ hiểu được chút ít như một thầy giáo giải thích cho một học trò dốt một bài thơ khó. Xin chép lại như sau:

30

TỰ NGÃ

Ngăn ngại của tự-ngã

Nguy hiểm hơn ăn bả

Tập trung hết năng lực,

Chưa chắc tự ngã nhả.

Kiên định tối đa

Buông… Đạt.

GÓC VƯỜN

Ngay tại một góc vườn

Bên cạnh cây dạ-lý-hương,

Chó cái đứng bình thường;

Phía sau con đực đến bất thường

Xum xoe và hồ hỡi

Vô minh và ái dục

Sinh một lứa năm con

Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ;

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Từ đó Diễn truyền thụ (một cách bí truyền) cho Vũ chút ít Phật pháp đủ để đối thoại và đồng cảm với một nhà sư sơ cấp Phật học như sư Trọng ở Sa- đéc hiện nay. Dĩ nhiên những gì trong Phật Pháp mà Diễn giảng giải đều thuộc phạm vi triết học vô thần mà Đức Phật Thích Ca trực tiếp truyền thụ chứ không thuộc phạm vi tôn giáo hay văn hóa. Diễn phân biệt điều đó với phát biểu như sau:

-“Nếu Đức Phật lịch sử tống cổ các thần linh Vệ-đà ra cửa trước bằng giáo lý chính truyền của ngài thì các môn đệ đại thừa sẽ rước họ vào lại cửa sau dưới tước hiệu các bồ tát. Vì thế nói Phật giáo vô thần hay đa thần đều đúng.”

31

-“Sao lại có sự mâu thuẩn lạ lùng này?” Vũ hỏi lại.

-“Đơn giản là vô thần nửa mùa thì rất nhiều, nhưng vô thần chính danh và đích thực thì rất hiếm, trong số này Đức Phật Thích Ca là tấm gương sáng giá vô song.”

Dù được giải thích như thế, Vũ vốn sống bằng cảm tính hơn lý tính không bao giờ hiểu nổi điều quan trọng đó trong đạo Phật. Sau này khi đổi hướng tu hành và vào làm trợ sĩ dòng Xi-tô, một dòng khổ tu chiêm niệm, Trình Diễn viết ý tưởng ấy thành bài kệ:

Chánh pháp Phật Cồ Đàm

Đuổi thần linh Vệ-đà

Ra khỏi nhà cửa trước;

Các hậu duệ đại thừa

Đưa vào lại cửa sau

Bàn thờ dựng vô số

Nghi ngút khói hương bay,

Thế nhân cay mờ mắt

32

LÁ THƯ TÌNH

Về phần Thanh Huyền con gái của Hai Thâu, lúc sau này hay viếng các chùa và thành tâm nghe pháp, từ khi cha cô phủ nhận việc đã rửa tội cô hồi nhỏ và khuyên cô vào chùa để học đạo-làm-người. Chỉ có điều ông không biết là trong Phật giáo ít khi nói đến người vì đó là giả danh nhưng nói nhiều về “chúng sinh” với ngũ hành, ngũ uẩn. Lúc đầu cô lui tới một chùa người Hoa với các ông sư mặc áo nâu, cô thấy nhiều tượng La-hán và Bồ Tát quá. Trong số chư vị này, có những khuôn mặt rất nghiêm khắc và khổ hạnh. Cô sợ. Sau đó cô qua một chùa áo vàng của người Miên mà cô rất thích các hoa văn trang trí và các bảo tháp vừa cao đẹp, vừa thanh thoát. Từ đó cô chỉ đến chùa Miên này để nghe giảng Pháp. Sau một buổi giảng, một tín nữ tuổi trung niên đến gần cô nói,

-“Hôm nào đi coi bói nha cô Huyền…”

-“Sao vậy thím?” cô đáp.

-“Có ông thầy từ Phúc Kiến bên Tàu mới về sau hai mươi năm qua bên đó làm đạo sĩ. Ổng đoán việc như thần. Hôm nào cô không bận dạy học trường Tương Lai Mình đến xem thử đi.”

Cô nghĩ bụng “biết sự việc trước càng thêm lo”, nhưng sau cùng bị thuyết phục và vì tò mò cô nhận lời và hẹn đi. Vừa ra khỏi chùa và chia tay với bà tín nữ ấy, cô gặp ngay anh Tuân, con trai cả của Giáo Lộc. Tuân mời cô vào quán nước gần đó để hỏi cô một việc mà anh nói rất quan trọng, anh nói mãi cô mới chịu vào. Khi ngồi xuống ghế xong, cô hỏi,

-“Việc quan trọng gì, Tuân nói đi, chị bận lắm…” Huyền xưng mình bằng chị và gọi Tuân là em.

-“Thế này, chị Huyền đừng cười em nghe. Lâu nay em đã thầm yêu Bích Ngọc con cô Lai, em họ chị cũng là đồng nghiệp của em. Nhưng em không dám ngỏ lời vì cô ấy đẹp và duyên dáng quá. Nhưng tình yêu thúc bách em phải bộc bạch nỗi lòng với Ngọc. Em chỉ muốn hỏi chị rằng Ngọc đã có người yêu chưa để em còn liệu.”

33

Nghe xong những lời có vẻ chân thành của Tuân, Huyền suýt bật cười vì dù có ăn học chút ít, nhưng tác phong Tuân vẫn còn quê mùa chất phác. Thế nhưng điều Tuân muốn hỏi làm cho Huyền áy náy. Từ lâu cô đã biết sự dan díu giữa Vũ và Ngọc. Nếu cô có hỏi Ngọc thì cô này chối “tình yêu sét đánh” ấy, nói chỉ là anh em họ, và nếu đôi khi chân thành hơn Ngọc cũng chỉ nói đó là tình bạn đồng nghiệp mà thôi. Nghe vậy, Huyền nói với Ngọc, “Chị chỉ hỏi thế thôi, em phải để cho Vũ tu hành tốt, trở thành cha xứ lo cho tín hữu”, và Ngọc đáp lại, “Em biết mà chị… ” Dù được trấn an như thế nhưng Huyền vẫn áy náy, băn khoăn khi nhìn nhan sắc của Ngọc ngày càng thêm đẹp, mắt bồ câu, môi trái tim, mũi dọc dừa và những đường nét cân đối trên cơ thể mẫy mượt như có hơi hám đàn ông làm cho phát tiết. Giờ đây nghe Tuân bày tỏ nỗi lòng, Huyền nghĩ phải giúp cho anh chàng này được như nguyện, để kéo Vũ ra khỏi sự quyến rũ nếu không nói là thèm khát của Bích Ngọc. Cô nói với Tuân đầy khích lệ,

-“Tuân hay thật khi chọn Ngọc để yêu, nói cho em yên tâm tuy Ngọc đẹp nhưng cho tới nay vẫn chưa có bạn trai. Vì thế em nên mạnh bạo ngỏ lời trước tiên như ngày xưa Sơn Tinh đến trước và cưới được Mị Nương”, rồi Huyền cười nói tiếp với Tuân, “Gọi tôi bằng chị, tôi sẽ giúp cho hai người đến gần nhau.”

-“Vâng chị Tư giúp em đi, nhưng em phải làm gì?”

-“Sao em lại hỏi chị điều đó. Tuân phải mạnh dạn nói cho Ngọc biết em yêu Ngọc, rồi thì hẹn hò một thời gian sau thì đi đến quyết định hôn nhân nếu tình yêu em được đáp lại…”

-“Vâng em hiểu rồi, việc đầu tiên là em sẽ viết cho cô ấy một lá thư tỏ tình nhờ chị chuyển hộ. Sau đó em sẽ mời cô ấy đi ăn chè, ăn cháo buổi tối và duy trì sự hò hẹn, bày tỏ mối quan tâm săn sóc thật âu yếm cho đến ngày cô ấy yêu em…”

-“Ừ vậy cũng được,” Huyền nói với tâm trạng hơi chán nản Tuân và cả kế họach mà cô bày vẽ. Dù vậy trước khi cô về, cô vẫn nói với Tuân, “Bây giờ Tuân về nhà viết thư, khi nào viết xong sẽ gặp lại chị.”

Cái ý kiến viết thư quả là cái phao cứu hộ cho Tuân, vì ngoài lý do nhan sắc, Ngọc còn là đội trưởng đội giao liên và thám báo trong khi Tuân chỉ là một đội viên.

Giữa tuần sau, như đã hẹn Thanh Huyền đi xem bói cùng với bà Phật tử. Thầy bói ở trên một căn gác. Người xem được mời vào phải leo một cầu thang đúc. Theo

34

thứ tự trước sau khi một người đi xuống, thì cô cháu gái của gia chủ lại mời một người khác lên lầu. Khi bà Phật tử xuống cầu thang với vẻ mặt lo lắng đăm chiêu, Huyền được mời lên lầu. Căn phòng nơi ông thầy bói đang ngồi nặng mùi khói nhang treo đầy hoành phi và câu đối bằng Hoa ngữ. Ông thầy ngồi sau một cái bàn thấp bằng gỗ cẩm lai. Giữa bàn trải một cái khăn nhung vuông màu đỏ, có thêu hình Thái cực bằng chỉ đen và trắng. Ông đội một cái mũ bánh tiêu có viền một vành hoa văn màu xanh lá. Phía sau cái mũ lòng thòng cái bím tóc giả dài chừng tấc rưỡi. Khi Thanh Huyền ngồi xuống trước mặt ông thì cô cháu gái rót trà cho ông thầy bói và cho cô, rồi lui ra hành lang. Ông thầy hỏi,

-“Cô cho biết tên tuổi và muốn xem về điều gì: công danh, tài lộc hay tình duyên, gia đạo…”

Sau mọi thủ tục ban đầu ấy, ông thầy đưa cho cô ba đồng tiền bằng bạc, có lẽ là tiền thông bảo của nhà Thanh bảo cô hồi tâm khấn vái rồi gieo vào một cái dĩa kiểu da xanh có vành cao. Huyền gieo ba lần xong, mỗi lần ông đều nói tên quẻ đã hiện. Sau một lúc suy nghĩ khấn khứa, ông nói ra tính tình, gia thế, sự giao thiệp. Cô thấy những gì ông nói đều đúng tám phần mười. Về tình duyên sau này của cô, ông thở dài nói giọng trọ trẹ một thứ tiếng Việt rất khó nghe,

-“Sau này cô sẽ gặp một người đội mũ trắng. Cô yêu người ấy nhưng cha cô buộc cô phải lấy một người đội mũ đỏ làm chồng. Vì thế cô sẽ không có hạnh phúc trọn vẹn dù cô có một con trai với anh đội mũ đỏ.”

Thanh Huyền muốn hỏi thêm nhưng thôi, dù sao quẻ này cũng không xấu dù có vài nghịch cảnh. Vả lại ở xứ này giữa buổi lọan ly, có mấy cô gái lấy được người mình yêu. Bỗng cô nhớ đến Bích Ngọc mà ngày hôm qua cô vừa trao lại bức thư tình của Tuân. Cô hỏi ông thầy,

-“Cháu muốn coi giùm cho em gái họ của cháu được không?”

Ông thầy nghĩ ngợi một lúc rồi nói,

-“Được, nhưng cô phải tập trung nghĩ về cô em họ ấy, phần tôi, tôi sẽ xin sự linh ứng của Quan Thánh Đế Quân”, nói xong ông đứng dậy bước lại bàn thờ Quan Công thắp nhang khấn khứa. Sau đó chừng năm phút ông trở lại gieo quẻ. Ông kêu lên một tiếng ta thán nhưng vẫn hỏi,

35

-“Có phải cô này là con nuôi?”

-“Dạ phải.”

-“Vậy thì người cha nuôi này là ‘bè-đảng’ đã sát hại cha mẹ ruột cô ấy. Nhưng vì người cha này là bề-tôi-của-vua nên còn xứng đáng hơn cha ruột cô ấy…Sau này cô ấy sẽ gá nghĩa với một vị ‘giáo chủ’ của ‘bàng môn tả phái’ và có con nối nghiệp vị giáo chủ ấy…”

Thanh Huyền nghe những lời ấy sững sờ kinh ngạc nếu không nói là sợ hãi. Cô không muốn tin vào điều đó. Cô nhất quyết không tin. Thế nhưng khi cô đã trả tiền xem bói và sắp đứng dậy ra về thì ông thầy bói nói,

-“Thiên cơ bất khả lậu” (Cơ trời không thể tiết lộ), tôi xin cô đừng cho cô em họ cô biết chuyện này, Quan Thánh sẽ giận ghét cô. Vả lại, khi biết chuyện thì cô ấy sẽ đau buồn và căm giận bị đánh lừa, nhưng như thế chẳng đi đến đâu cả vì chỉ có tình thương mới xóa được hận thù…” Câu nói này của thầy bói như xóa bỏ mọi nghi ngờ của Huyền về quẻ bói: xem ra ông nói đúng với quẻ bói và được thần linh ứng.

Trên đường về, Huyền miên man suy nghĩ. Nếu cho Ngọc biết sự thật này, hẳn cô sẽ quay ra căm ghét cha mẹ nuôi cô, là những người đã nuôi dưỡng Ngọc khôn lớn và họ nhận nuôi con của kẻ thù mà họ sát hại có khi vì lòng sám hối, và như thế tiết lộ sự thật này chẳng phải là bất công với dượng Quý và cô Lai của mình sao? Không, mình không thể để họ thù oán nhau, phải làm như tôn giáo là lấy yêu thương xóa bỏ hận thù. Huyền tự nhủ.

Chính tình thương ở bên trên mọi quy phạm dù đó là quy phạm của vua hay của chữ hiếu. Vâng tình thương vượt lên trên thiện ác như mưa rơi xuống trên ruộng người lành cũng như trên ruộng của kẻ dữ. Cô sẽ không bao giờ nói cho Bích Ngọc biết chuyện này. Và để luôn giữ vững quyết tâm ấy, khi cô đi qua một nhà thờ, cô bước đến hang Lộ Đức và cầu nguyện,

“Lạy Mẹ con mang trong người sự thật này quả là rất nặng nề như sự bàn hòan của Mẹ khi được truyền tin. Xin Mẹ hãy trả nó vào lãng quên của lòng khoan dung và tha thứ. Xin Mẹ đừng cho con lỡ lời mà tiết lộ cho Bích Ngọc, nhưng hãy cho con biết chôn vùi nó vào chốn âm-ty… ”

36

Ra khỏi khuôn viên nhà thờ, cô thấy nhẹ nhàng thanh thản, cô nghĩ ngày mai, sau giờ dạy học cô sẽ hỏi Ngọc cảm tưởng của cô này về bức thư tình của Tuân mà cô đã chuyển.

Hôm sau khi Huyền nói đến bức thư, Ngọc lấy tờ thư trong giỏ đựng sách giáo khoa và nói,

-“Chị đọc đi rồi em sẽ nói những suy nghĩ của em.”

Huyền làm ra vẻ thờ ơ đọc bức thư, và cô ấn tượng nhất đoạn kết của thư dĩ nhiên với một thứ văn chương vừa quê mùa vừa huê dạng, nhưng cũng rất chân thành:

“Ngọc ơi, em là viên Ngọc quý mà anh đã đi tìm từ muôn kiếp trước. Anh rất muốn tình yêu say đắm của anh được em đáp lại để cho hai ta từ chỗ có cùng chiến tuyến trong kháng chiến, sẽ cùng nhìn về một hướng rạng ngời ánh sáng và cùng nhau xây dựng gia đình theo lý tưởng của giai cấp vô sản. Anh mong em cho anh cơ hội cực kỳ quý giá ấy, anh hứa sẽ yêu thương, chiều chuộng em, săn sóc và bảo vệ em, đồng sanh, đồng tử với em cho đến trọn đời…”

Đọc xong, Thanh Huyền bật cười hỏi Bích Ngọc,

-“Vậy em nghĩ sao về tấm chân tình này?”

-“Còn nghĩ sao khi em chưa có bạn trai, chưa có ai yêu mình thì nay lại có. Nhưng phải có thêm thời gian để tình cảm nảy sinh và chin muồi chứ.” Ngọc nhấn mạnh vào chữ ‘chưa’ để Huyền không liên tưởng đến Minh Vũ và tình cảm bí mật giữa cô với Vũ. Còn nhu cầu bạn trai, lúc nào cô lại chẳng có, chí ít để qua chàng trai nào đó, cô tìm lại được hình bóng của người cha bị sát hại khi cô còn là trẻ nhỏ từ trong vô thức của cô được phóng chiếu vào chàng trai đó. Trong vô thức của cô có một ngăn kéo trống cần được lấp đầy. Về phương diện này, xem ra Vũ có ưu thế ngự trị trong lòng cô hơn, nhất là sau này anh sẽ trở thành “cha” trong đạo. Lúc đó Huyền hỏi tiếp,

-“Vậy khi nào em cho Tuân cái hẹn đầu tiên để hai người bắt đầu tìm hiểu?”

-“Khi nào mà chẳng được chị, cậu ta là tổ phó giao liên và tình báo của em, em là tổ trưởng. Khi nào thuận tiện thì ngồi lại với nhau, tâm tư cùng chia sẻ.”

-“Nhưng phải sớm, đừng để lâu ngày làm cậu ta nản chí đó.”

37

-“Vâng, em sẽ nghe theo lời chị.”

*&*

Ngọc thật tình muốn hẹn hò, dù là miễn cưỡng để chị họ cô không thắc mắc về nỗi sầu muộn mênh mông đậu lại trên đôi mắt cô từ ngày Vũ vào lại chủng viện. Nỗi buồn ấy đã tạo nên một vẻ đẹp kỳ bí trên khuôn mặt cô. Và cơ hội đã đến. Đó là lần cả hai phải vào chiến khu để học kỹ thuật tình báo và nhất là học cách thông tin bằng mật mã. Một buổi chịều sau giờ học, Ngọc rủ Tuân ra bờ con rạch nhỏ với hàng dừa nước ken kín. Mặt trời lúc đó đã từ từ lặn xuống làm đỏ rực một khoảng trời Tây. Những cánh chim ríu rit gọi nhau về tổ, tiếng nước chảy róc rách đưa hơi mát lạnh lên hai người ngồi trên một thân cây mục. Sau một hồi im lặng, Ngọc mở lời,

-“Em đã nhận được thư anh gần hai tháng rồi, nhưng không có dịp nào để cám ơn anh tấm lòng chân thành của anh dành cho em mặc dù em thấy mình không xứng đáng. Không phải em không có lòng mến anh, nhưng em không nghĩ mình có thể đi xa hơn tình bạn chiến đấu trong cùng một chiến tuyến, mặc dù em vẫn biết rằng trái tim của đảng rất bao la, bát ngát. Khổ nỗi, em đã có tâm nguyện rằng khi nào ta toàn thắng, đất nước sạch bóng quân thù em mới nghĩ đến việc hôn nhân. Vì thế em mong anh cũng có tâm nguyện với em như thế. Em vẫn nghĩ là trong một vài năm nữa chiến thắng sẽ về ta. Nếu anh thấy rằng thời gian ấy quá dài thì em không dám ngăn cản anh đi tìm hạnh phúc bên cạnh một người khác…”

Rõ ràng cô trì hoãn một câu trả lời tích cực vì cô vẫn còn yêu Minh Vũ và chờ đợi ngày anh được phong chức linh mục, được mọi người gọi bằng “cha” và cúi đầu vái lạy. Cho dù cô chỉ sẽ là một người tình đàng sau cung thánh của Vũ, cô có thể tự phong cho mình là Mẹ Mẫu. Nghe những lời ấy của Ngọc, Tuân muốn trào lệ cảm: anh hoàn toàn có thể trở thành chồng cô, chỉ cần chờ đợi và trong thời gian ấy, anh sẽ vun đắp tình yêu, sẽ chăm sóc cô và nếu cần vào sinh ra tử với cô trong chiến đấu. Anh nói,

-“Mặc dù tâm nguyện của em làm khó anh, một trái tim đang yêu nồng cháy, anh cũng xin đi theo tâm nguyện ấy, qua đó em sẽ thấy anh yêu em thế nào và vun đắp tình yêu ấy ngày một to lớn hơn và cao cả hơn. Chúng ta sẽ lập nhiều công dâng đảng để trở thành đôi bạn anh hùng và tỏ lòng tri ân đảng sẽ xây dựng đôi ta thành gia thất.” Tuân còn nói nhiều nữa, những câu nói vừa tình tứ vừa hào hùng của một

38

trang nam tử đang yêu và anh cũng ngạc nhiên sao lúc đó văn chương trong lòng anh dào dạt. Ngọc cúi đầu e thẹn

Nói xong anh cầm lấy bàn tay cô, và nghiêng người hôn vào mái tóc mà cô đã cởi nón tai bèo, thả buông lơi trên đôi vai và quanh cổ bên ngòai cái khăn rằn, một cánh tay đã quàng qua eo cô. Lúc đó có tín hiệu báo động, từ tiểu khu địch sẽ nả pháo vào mật khu vì bộ chỉ huy tỉnh có tin tình báo tướng Nguyễn Thánh Tri đã từ Bắc vào Nam để chỉ đạo đường lối đang có mặt ở đấy, phía bên kia sông.

Ngọc và Tuân chạy đến hầm trú ẩn gần nhất. Nửa phút sau tiếng đạn đại bác xé không khí trên đầu họ, rồi tiếng đạn nổ với tiếng cây gãy đổ, tiếng đất đá văng rào rào. Đây là hầm cá nhân, nhưng vì các học viên tình báo làm quân số tăng nên hai người phải đứng trong hầm chật. Ngọc quay mặt vào vách hầm, Tuân phía sau cô nhưng khó giữ khoảng cách. Mười phút sau cô thấy người Tuân dính vào mông cô. Trong cô hai cảm giác sợ hãi và thích thú hòa trộn. Tuy nhiên cô phải kiềm chế cho xứng đáng với tình yêu của Minh Vũ vì có những khỏanh khắc thoáng qua cô thấy Tuân như Vũ. Cô xoay người lại và lấy hai bàn tay giữ vai Tuân, vừa làm chỗ dựa, vừa để giữ bộ ngực mây mẩy của cô khỏi chạm ngực anh, cô hỏi bâng quơ,

-“Không biết hai tướng Nguyện và Tri thế nào rồi?”

-“Chắc là cũng an tòan như chúng mình thôi.”

Tuân đoán mò để trấn an Ngọc nhưng lại đúng. Họ chung một hầm không xa đó lắm và cũng không cần giữ khỏang. Họ vốn là đôi tình nhân gái-sắc-trai-tài, họ dính vào nhau vuốt ve, âu yếm và khi báo động chấm dứt, khi Tuân và Ngọc trở về láng trại, họ ra khỏi hầm dẫn nhau vào một gò đất rậm rạp để làm tinh với phong cách cuồng nhiệt của hai trang hào kiệt; tiếng rên rỉ của họ hòa lẫn vào tiếng côn trùng và ếch nhái khi bóng tối dần bao phủ mật khu...

Qua tuần và sau một đêm quần thảo hành lạc cuồng nhiệt với tướng Thánh Tri, xem ra cuộc âm dương giao hòa và giao chiến ấy phần thắng thuộc về nữ tướng Đinh Thị Nguyện bởi lẽ “Đó là tướng thì đây cũng tướng, đó lấy mạnh thắng yếu, đây lấy kiên trì làm nhụt chí đối phương”, nữ tướng đến thăm lớp giao liên tình báo và có bài phát biểu: “Ta không phải chỉ đánh đuổi Mỹ mà còn tiêu diệt ngụy cùng bọn tay sai. Phải đào tận gốc, trốc tận rễ bọn chúng, phải tàn sát chúng không chút xót thương v.v…” Bích Ngọc là người vỗ tay hào hứng nhất trong lớp sau bài

39

phát biểu. Tội nghiệp cô không hề biết gốc rễ của cô là một người cha cộng tác với Pháp. Phòng nhì Pháp đã ghi vào hồ sơ vụ việc với kết luận: “Nghi can ám sát vợ chồng Monsieur XYZ là Tứ Quý từ Hàm Luông. Đứa bé sơ sinh con họ mất tích, đang được tìm kiếm để trao lại cho Cô nhi viện của các xơ nữ tử Dòng Charité de Chartres…”

Trước ngày Ngọc và Tuân về lại địa phương để làm nhiệm vụ, nữ tướng Định có nói riêng với Ngọc, “Cô thấy em với Tuân xứng đôi lắm lại cùng chí hướng. Nếu hai em muốn thành hôn thì cô sẽ đứng ra tổ chức tuyên hôn cho hai em.” Ngọc nói, “Có lẽ tụi em sẽ nhờ cô nhưng không phải lúc này, vì tụi em còn phải lập công dâng đảng nữa. Tuân cũng đồng ý chờ thêm một vài năm nữa”. “Vậy cũng phải”. Rồi hai người nữ ôm chầm nhau nhỏ lệ lúc chia tay. Không biết từ lúc nào, một tình cảm đồng chí pha chút tình mẫu tử đã nẩy sinh giữa họ. Phải chăng họ có “duyên” hiểu theo nghĩa Phật giáo? Có lẽ vậy, nhưng chí ít lúc này với sự phê chuẩn của nữ tướng Nguyện, Tuân đã có một vị trí nhất định dù hơi khiêm tốn trong trái tim cô. Cũng chẳng có gì là ghê gớm khi Ngọc có cùng một lúc hai ngã tình yêu vì theo lẽ thường tình, cô gắn yêu đương vào quyền lợi và phe phái, nhất là phe phái chính trị khi quá trình phân ly đất nước đã bắt đầu với Lý Trần và sau đó là Trịnh Nguyễn. Nói cho cùng, ngoài tình dục mà xung năng rất mạnh mẽ trong cô, tình yêu tự thân của Ngọc không có đủ nội lực vạch ra con đường chuyên nhất của riêng nó. Nó giống thời cuộc lúc ấy khiến đất nước này đứng giữa hai nẻo đường tự do và cộng sản.

40

SĨ QUAN TIỂU KHU

Từ ngày vào lại chủng viện, mấy năm đầu Vũ ở luôn trong chủng viện kể cả các ngày hè và lễ Tết. Từ năm thứ ba trở đi, mỗi kỳ nghỉ hè của chủng viện, Vũ đều về quê nhà tham gia giúp xứ với cha xứ. Nhưng để được gần với Bích Ngọc, anh nói dối với cha xứ khi thì về trường xưa để giúp các em học yếu, hoặc đi thăm người nghèo hoặc giúp cô Lai canh tác v.v… Trong những lần ấy Ngọc thu xếp để anh thay Tuân đi công tác với cô. Khi thì họ chèo ghe đưa cán bộ cấp trên thị sát địa hình, khi thì họ đích thân nắm tình hình quân số của địch, khi thì họ chuyển thuốc men lương thực từ thành phố vào mật khu, khi thì cùng nghiên cứu tin tình báo của địch mà các nhân viên tình báo hai-mang đánh cắp và trao cho họ. Thời gian công tác chung như thế không nhiều vì chỉ trong mấy tháng hè, nhưng giữa hai người lại có rất nhiều những lời tình tứ, những cử chỉ âu yếm trong giờ nghỉ ngơi hoặc sau khi hoàn thành công việc. Dù vậy cả hai đều cùng kỳ vọng và nuôi dưỡng giấc mơ Vũ sẽ trở thành linh mục có chức thánh. Trong nơi sâu thẳm của cô luôn có hình ảnh một ngẫu tượng mang dáng dấp người cha nơi Vũ và một Mẹ Mẫu nơi cô có đủ năm áo năm màu của ngũ hành ngũ sắc.

Trong mấy năm đầu ấy ở chủng viện, với nỗi niềm nhớ thương Bích Ngọc, Vũ thường suy nghĩ hai điều: thứ nhất là đời sống khiết tịnh của linh mục, thứ hai là liệu Việt Minh có đủ chính nghĩa để anh cộng tác, dù với những việc không đáng kể hay không?

Về câu hỏi thứ nhất anh cho rằng luật sống khiết tịnh là luật của Giáo Hội chứ không phải luật của Chúa, cho nên Tin Lành không mắc lỗi gì khi cho mục sư lấy vợ. Vả lại trong tôn giáo đã trở thành hình thức như hiện nay, các cha xứ ít nhiều đã trở thành “thầy-cúng”, việc phạm sắc giới rất thường xảy ra nên việc duy trì luật này chẳng có lợi. Khi Vũ trao đổi ý kiến này với bạn đồng tu Trình Điên (biệt danh của Trình Diễn), anh này cười to đưa cả hàm răng trên ra và nói,

-“Ai cấm nổi cậu thành cha xứ phá giới. Giám mục chăng? Khi cậu đã là cha xứ, cậu như ông vua một cõi rồi, ai dám cãi, cả khi cậu nói điều ngu ngốc nhất.”

-“Rồi cậu cũng thế chớ có hơn ai trước sự khuynh đảo của nữ sắc,” Minh Vũ đáp lại, cau cái trán thấp trên khuôn mặt dài.

41

-“Không hẳn thế. Tớ ghét công danh, tớ ghét phụ nữ. Có lẽ sau này tớ sẽ chuyển qua tu dòng khổ hạnh. Nhưng việc này để sau sẽ tính: còn phải suy nghĩ và cầu nguyện nhiều vì tớ không có cái thuận lợi xuất thân từ gia đình đạo gốc như cậu.”

-“Thế cậu chưa từng sống khổ hạnh khi tu thiền tông Phật giáo sao?” Minh Vũ ngạc nhiên hỏi.

-“Hai cái khổ hạnh đó khác nhau nhiều lắm: khổ hạnh Phật giáo là buông-bỏ cái mình nhận thấy là nó không có giá trị gì, còn khổ hạnh bên đạo Chúa là vì Tình Yêu Thiên Chúa, mình hy sinh cái mình biết là có giá trị nhất định có khi là vô giá.”

-“Tớ chưa hiểu ý cậu,” vốn không thông minh và chậm hiểu, Vũ hỏi lại.

-“Thế này nhé, ví dụ như đối với một thiền sư thì Thúy Vân hay Thúy Kiều đều là hai cái bình chứa đầy đồ nhơ uế, không có giá trị gì, còn mình thì suy nghĩ và đánh giá theo kiểu Nguyễn Du và hơn thế nữa: nào là Mai cốt cách, tuyết tinh thần, nào là Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh/ Một hai nghiêng nước, nghiêng thành/ Sắc đành đòi một tài đành họa hai. Và hơn thế nữa, nên khi phải từ bỏ là ta từ bỏ một giá trị, cậu hiểu chưa?”

-“Ừ hiểu,” Minh Vũ nói mặc dù vẫn chưa hiểu lắm. Vả lại lúc đó tiếng chuông reng báo giờ đọc kinh chiều cho hết thảy chủng sinh.

Về câu hỏi thứ hai thì phong trào Việt Minh lôi kéo được nhìều người chứng tỏ nó có chính nghĩa nào đó. Nó cũng đáp ứng lòng yêu nước của người dân. Khi gắn lòng yêu nước với một khuynh hướng bạo lực giết sạch kẻ thù và các đảng phái khác thì nó đã thừa hưởng tính cách bạo lực thù hận vốn đã được huân tập từ mối thù Trịnh Nguyễn và Tây Sơn luôn tìm cách tru diệt nhau để lên ngôi bá chủ và lần này sẽ bộc lộ với nhiều sự nhẫn tâm tàn ác. Vũ tự nhủ, “không thể tránh được sự đổ máu trong hòan cảnh này nhưng chí ít mình cũng là một người yêu nước trong một phong trào yêu nước.” Vũ nghĩ thế vì anh không biết Việt Minh là một phân nhánh ở Đông Dương của phong trào cộng sản quốc tế.

xOx

Về tình hình miền Nam lúc bấy giờ, một sử gia nghiệp dư người Pháp đã viết khá đúng:

42

“Những vụ mưu sát và những cuộc phục kích gia tăng. Sự khủng bố của các vùng du kích ngự trị trên đất nước này. Sự sợ hãi khủng bố đã làm cho những người có thành ý với dân tộc phải im hơi, lặng tiếng.

“Đứng đầu quốc gia, tổng thống Ngô Đình Diệm thực hiện mọi biện pháp để ngăn chặn dòng nước lũ. Nhiệm vụ của ông càng khó khăn hơn nữa khi ông càng ngày càng bị phê bình vì những phương pháp cai trị. Việt Minh biết lợi dụng sự bất mãn ấy. Hội nghị toàn thể của ủy ban trung ương họp tại Hà Nội tháng năm 1959 đã quyết định “tiến hành bạo lực vũ trang vào Miền Nam”. Như thế một sự xâm nhập vào Miền Nam bởi đường mòn Hồ Chí Minh dọc theo biên giới và ở bên ngoài, đi từ miền Bắc xuống tới Sài-gòn ở Miền Nam. Khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã chắc chắn được sự hỗ trợ của Liên Xô, phong trào giải phóng quốc gia nhắm lật đổ ông Ngô Đình Diệm và những người Mỹ, sẽ có được sự lan rộng của nó.

“Ngày 20 tháng mười hai 1960 Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (FLN) được thành lập. Mặt trận mới này không đồng nhất, nó gồm những người Việt miền Bắc ở lại tại chỗ sau Hiệp định Genève, cả những người Miền Nam nhưng thuộc về những giáo phái khác nhau. Nhất là, Mặt trận miền Nam bị Miền Bắc điều khiển!

“Tuy nhiên vị trí của tổng thống vẫn còn vững chắc. Ông hưởng nhờ – vì không thể bỏ qua – sự giúp đỡ của người Mỹ. Hơn thế nữa ông không phải là người đơn độc. Xung quanh ông là một gia đình mạnh mẽ: em ông và cố vấn Ngô Đình Nhu và bà vợ của ông này: bà Nhu nổi tiếng lúc nào cũng khiến cho sự thù ghét của những người chống đối tập trung vào bà. Tổng thống, một người chính trực, được kính trọng mặc dù sự độc đoán của ông và ông luôn luôn nhận được sự hỗ trợ của những người công giáo, nhất là những người công giáo Miền Bắc. Một âm mưu đảo chính nổ ra chống lại ông ngày 11 tháng mười một 1960 đã thất bại và ông thoát khỏi đồng thời vị trí được củng cố thêm. Nhưng đó là sự ngừng nghỉ tạm thời.” [Hết trích dịch]

*&*

Ngày 21 tháng mười hai, một trung đội quân báo của quân lực VNCH được điều động về chi khu Chợ Lách, với đôi bạn chuẩn úy Khiêm và thiếu úy Khánh. Họ có nhiệm vụ phải nắm rõ tình hình tổ chức của địch để từ đó giữ ngăn chặn và tiêu

43

diệt đối phương từ bên ngòai tỉnh, bảo vệ an ninh chiến lược của tỉnh Kiến Hòa. Họ cập nhật hồ sơ tình báo mà người Pháp còn để lại, điều tra những thành phần họat động ngầm, theo dõi các hoạt động nằm vùng khả nghi.

Trong một buổi liên hoan mừng Quốc khánh, Thiếu úy Khánh lập một danh sách riêng và đề nghị tiểu khu chuyển thư mời. Chuẩn úy Khiêm liếc qua danh sách và ngạc nhiên hỏi Khánh,

-“Cậu mời mấy khuôn mặt tình nghi họat động hoặc có cảm tình với phe đỏ chi vậy?”

-“Để mình lập một cầu nối ngõ hầu tiếp cận họ và từ chỗ tình nghi, mình sẽ biết mặt trái của họ. Tới lúc đó mới biết dưới cái vỏ xanh, cái lòng của nó đen hay đỏ.”

-“Cậu đúng là có bản năng làm tình báo…”

-“Và rồi cậu cũng có việc để làm… Tớ sẽ nói rõ với cậu sau.”

Thật vậy, trong danh sách khách mời mà thiếu úy Khánh đề nghị có “Ban giám hiệu và thầy cô giáo trường Tương Lai”.

Đến ngày liên hoan mừng Quốc Khánh, trường Tương Lai có ba đại biểu: Giáo Lộc, Hai Thâu và cô giáo Thanh Huyền, con gái ông Thâu. Sau các bài thuyết trình về tình hình an ninh trong tỉnh và nỗ lực bình định của chính quyền là một bữa ăn nhẹ buổi trưa. Chuẩn úy Khiêm được bố trí ngồi cạnh Thanh Huyền và nhân dịp này, anh hỏi han cô trước hết về trường học sau đó là về gia cảnh. Huyền cũng biết trước khi nhập ngũ, gia đình Khiêm là giáo dân giáo xứ Tân Hòa Sài-gòn. Trước khi tiệc tàn họ đã có chút tình cảm với nhau, Huyền đã cho Khiêm biết địa chỉ của gia đình cô và mời Khiêm đến nhà như một người bạn của gia đình. Hai hôm sau, thiếu úy Khánh gặp Khiêm và nói,

-“Cô giáo Huyền mà cậu đã làm quen thì tốt lành và vô tư. Nhưng cô giáo Bích Ngọc mới thật sự có vấn đề thậm chí còn nguy hiểm nữa. Tôi vừa được thông tin, hôm mừng quốc khánh, cô ta vắng mặt vì bận họp chi bộ đảng. Hôm nào cậu đến nhà Huyền nhớ dò hỏi cô này, vì cô này là em họ cô Huyền. Thế nhé.”

-“Thiếu úy giao việc này cho người khác đi. Làm như vậy, tôi không những không khai thác được gì mà có khi còn phải lòng và yêu cô ấy mất.”

44

-“Cậu yêu cô ta rồi phải không, nói thật đi để tôi liệu? Tôi cũng như cậu dứt khóat không lợi dụng tình yêu.”

-“Thật tình mà nói, tôi đã cảm mến cô giáo Huyền ngay trong lần gặp đầu tiên. Mỗi lần tôi đến thăm cô ấy tại nhà, cô ấy mừng rối rít và tiếp đãi ân cần. Có lẽ sau mấy tháng nữa tôi sẽ ngỏ lời với cô ấy.”

-“Nếu cô ấy là thật sự là Việt cộng, cậu sẽ tính sao?” Thiếu úy Khánh cười to nói.

-“Chắc là tôi sẽ tuyệt tình rồi âm thầm xin đổi ra đơn vị tác chiến để quên đi mối tình nồng thắm này. Nhưng chắc không phải thế đâu, cô ấy sống không thù hận, lại hay đi chùa nghe giảng đạo lý; lễ lớn bên đạo Chúa thì đi nhà thờ… ”

-“Tôi cũng mong cô ấy như lời chuẩn úy nói. Chỉ xin góp ý là trước khi đổi đi đơn vị khác, cố mà cưới được cô ấy để đem cô ấy đi theo ra khỏi vùng đất khúc hiểm này,” Thiếu úy Khánh ngừng mấy giây rồi nói trước khi bỏ đi, “Thôi được để tôi tính lại và nhờ tuy-dô khác.”

Còn lại một mình trong phòng, chuẩn úy Khiêm trở lại tủ hồ sơ tình báo mà quân đội Pháp còn để lại. Những hồ sơ này viết bằng chữ Pháp, đã lạc hậu so với hồ sơ cập nhật hiện tại. Chiều nay Khiêm sẽ đốt bỏ theo lệnh cấp trên cho phép, sau khi cấp trên đã nhận được báo cáo của Khiêm.

Buổi chiều lúc ba giờ, chuẩn úy Khiêm và hạ sĩ Phục đem các hồ sơ cũ ra góc khuôn viên đơn vị, nơi có đặt cái thùng phuy cắt đôi. Hạ sĩ tưới xăng vào bó hồ sơ đầu tiên trong thùng, sau đó đốt mồi lửa thảy vào. Khiêm tay cầm tờ biên bản, đứng quan sát. Bỗng dưng anh cảm thấy đau bụng. Lúc đó còn lại bó hồ sơ cuối cùng. Anh đưa biên bản cho hạ sĩ ký trước rồi đi về phía nhà xí. Đã hẳn Khiêm tin rằng hạ sĩ Phục sẽ đốt hết, nhưng đó là chỗ bất cẩn của anh. Phục là một người làm việc ngầm cho phe đỏ. Anh đã giấu bó hồ sơ cuối cùng ấy và chuyển vào mật khu mà người nhận đầu tiên là Ngọc Bích. Tình cờ cô này thấy trong một cuốn sổ bìa đen một ghi chép ngày 27 tháng 12 năm 19xx, nội dung như sau:

“Hai ngày trước 24-12 gia đình ông XYZ, nhân viên phòng nhì bị ám sát khi ăn rê-vây-dông. Cả hai vợ chồng đều tử tử vong. Bé gái nhỏ tên trong giấy khai sinh là Xuân Trang bị mất tích, còn đang được tìm kiếm. Nghi can Tư Quý, còn đang theo dõi vì khi thẩm vấn hắn nói mình ngọai phạm và đi thăm bạn ở Cái Bè. Đề xuất: theo dõi tiếp vụ này.”

45

Đọc xong ghi chép ấy, Ngọc Bích choáng váng, thất thần. Cô không ngờ cha ruột cô là người có tội với đảng mà cô đang phục vụ. Đảng này đã là kẻ thù của cha cô khi ông còn sống. Một nỗi tức giận trào lên trong lòng cô về người cha ruột. Cha cô đã làm cho cô mắc tội lây và lý lịch của cô sẽ có một tì vết ghê tởm nếu “tổ chức” biết được việc này. Tổ-chức mà biết được thì “tiền-đồ” của cô trong đảng sẽ tiêu tan. Có thể cô sẽ bị giết, bị thanh trừng vì dám che giấu, lừa gạt đảng mặc dù …đảng vẫn tha hồ giấu giếm và dối gạt nhiều người. Vâng, cô nguyền rủa số phận của cô, thế mà bao lâu nay cô vẫn sống hoan hỉ trong giấc mơ đẹp: được sinh ra, lớn lên và trưởng thành trong vòng tay của Đảng. Cô vẫn thường có giấc mơ lãnh-tụ ôm cô trong vòng tay khiến lòng cô rạo rực. Bây giờ cô thất vọng về mình quá như một người bị mắc chứng tự ti mặc cảm. Bản ghi chép tình báo ấy đã làm cô rơi vào tình cảnh của một kẻ “cô thần, nghịch tử”. Dù không ai chọn cửa để vào thế gian này, nhưng cô thấy mình bất hạnh và vô cùng tội lỗi. Cảm xúc vừa sợ hãi, vừa tội lỗi ấy làm cô gào lên, “Tại sao như thế này?” trong khi nước mắt cô trào ra giàn giụa. Rồi cô thầm cám ơn cha nuôi Tư Quý đã nuôi cô và đã tái sinh cô vào một cuộc đời gắn liền với vua và lãnh tụ khi được làm “bề tôi hèn mọn” của các đấng.

Nửa giờ sau, Ngọc mới trở lại bình tĩnh, cô chạy lại, xé rời trang ghi chép ấy ra khỏi cuốn sổ bìa đen, vò nó trong tay đúng lúc bà Lai kêu cô xuống gầy bếp lửa nấu chè cho suất bán buổi tối. Và cô đã dùng tờ giấy trong tay cô làm mồi nhen lửa.

Bà Lai tất bật với việc sắp xếp rau củ, rồi việc nấu chè bán lúc chiều tối không thấy vẻ mặt cô sầu não. Buổi tối khi đi bà gánh gánh chè về, đã thấy Ngọc vào giường ngủ sớm, bà tự nhủ, “Thôi mình cứ để nó ngủ, ngày mai nó phải dạy học cả ngày.”

Hôm sau trong giờ giải lao trong phòng giáo viên, khi chỉ còn lại Thanh Huyền và Bích Ngọc, cô này hỏi,

-“Chị có biết gì về cha ruột của em không chị?”

-“Làm sao chị biết được, những gì chị biết là do người lớn nói lại…” Thanh Huyền giữ vẻ mặt bình thản đáp.

-“Nghĩa là ba em bị Tây giết chết lúc chúng đi càn quét?”

-“Chị nghĩ sự thật là thế. Vả lại ngòai dượng Quý đã đi tập kết, các chứng nhân khác đã hy sinh trong chiến đấu. Hôm nay nhìn thấy sự ngoan cường của em trong

46

chiến đấu chị càng tin dòng máu anh hùng của ba em còn sôi sục trong em.” Thanh Huyền nói như đọc diễn văn và cô biết cô đang làm văn chương, vả lại cô vẫn cho rằng nhớ đến lịch sử quá khứ hỗn độn ấy khác nào nghe câu chuyện do một thằng điên kể lại, nhiều âm thanh và cuồng nộ mà còn vô nghĩa nữa.

Ngọc Bích cảm thấy được an tâm vì theo Thanh Huyền, bên quân báo của tiểu khu cũng đã thừa nhận “truyền thuyết” cha cô bị Tây đi càn, giết chết. Với thông tin này, Thanh Huyền khuyên Ngọc Bích phải thận trọng, coi chừng đang bị theo dõi hành tung. Lẽ dĩ nhiên Huyền giấu kín chuyện cô và chuẩn úy Khiêm đã yêu nhau. Cô lo lắng sầu muộn vì Khiêm muốn nhờ người mai mối đến gặp ông Hai Thâu để xin cưới cô mà không biết cha cô là một việt cộng nằm vùng.

Những lời trấn an của Huyền làm Ngọc an tâm, nhưng sự an tâm này không lâu. Dù không nhiều lắm, cô cảm thấy có lỗi với người cha bị ám sát. Văn hóa xưa theo Khổng Mạnh đòi hỏi sự trả thù hay ít nhất là sự truy cứu hình sự như lời ông Khổng nói, “Dĩ đức báo đức, dĩ trực báo oán”. Cô bị giằng co giữa hai ba bổn phận: bổn phận báo ơn Đảng, ơn Lãnh tụ thay trời hành đạo như vua ngày xưa, và ơn dưỡng dục của ông Quý, bà Lai, nên cô phải đành giủ bỏ ơn cha mẹ sinh thành.

Mặt khác, khi biết mình có cha mẹ “phản động”, hào quang của Đảng cô theo, có lúc đã làm cô xuất-thần ngây ngất, tình trạng mà các tu sĩ thần bí thường gặp, dần dần tàn lụi. Cần gì phải bạo lực thái quá như thế kiểu giết lầm hơn bỏ sót. Chính cô đã mấy lần nhúng tay vào máu để lập “thanh tích”. Chính cô đã nhìn thấy dân vô tội kể cả trẻ nhỏ chết oan vì đạn pháo kích. Một niềm hối hận nhỏ nhoi mà cô tưởng không còn nay lại hồi sinh.

Vì thế trong thời gian gần đây cô hay thấy ác mộng. Thường trong ác mộng, cô thấy xuất hiện trên một phông nền xám, lỗ chỗ những vết máu cái bóng trắng mà cô biết đó là cha cô, những thương tích trên thân thể làm cho cái bóng trắng đó móp méo, giập nát. Cái bóng ấy kêu van cô: “Con ơi, Trang ơi, bè-đảng giết chết ba má rồi…” Lần khác, cái bóng ấy còn thêm một chi tiết rung rợn: “Ba má chết rồi mà Tư Quý và đồng bọn còn đâm ba mười lăm nhát dao găm, má con sáu nhát.” Sau cùng cái bóng trắng xỉn màu, tan dần vào trong cái nền xám tro và biến mất. Trong những lần gặp ác mộng, chỉ có một lần ông nài xin, “Trả thù cho ba má con ơi!”

47

Sau lần ấy, cô tự nhủ, “Làm sao con trả thù được khi ngày nay con là nghĩa tử của họ được ưu ái, nâng đỡ. Một bề-tôi nhỏ bé. Làm sao con có thể ‘lấy đũa chống trời’. Vả lại họ giương cao ngọn cờ vệ quốc còn được ‘thiên mệnh’ phù trì (như lời Giáo Lộc thường nói) khi được vua truyền trao ấn tín bên ngoài thành nội. Cha tha lỗi cho con.”

Thế nhưng mỗi lần gặp ác mộng mồ hôi cô đổ ra thành giọt, sau đó cô cảm thấy tâm trạng bồi hồi, trống rỗng, vừa sợ hãi vừa chán chường, cô cảm thấy cần phải bám víu vào một cái gì đó để nhờ đó lấp đầy nỗi bồn chồn, trống rỗng và trở lại bình tĩnh. Tôn giáo chăng? Dĩ nhiên những ngày lễ lớn trong đạo Chúa cô theo bà Lai đến nhà thờ, nghe bà đọc kinh rất nhuyễn. Nhưng thử hỏi một tôn giáo hình thức giúp được gì cô, mặt khác một người theo đảng vô thần như cô trông chờ gì từ tôn giáo. Nỗi xao xuyến trong lòng ấy thể hiện ra nơi đôi mắt xa vắng, u hoài của cô như một hồ nước trên núi cao trong bóng râm của mùa thu ảm đạm tạo thêm một nét đẹp kỳ bí, lạ lung trên khuôn mặt thanh tú của cô.

*&*

48

MỘT CHUYẾN ĐI CÔNG TÁC

Mùa hè năm đó, chiến cuộc nóng lên với một vài thắng lợi của phe đỏ. Lúc đó Minh Vũ có mặt tại giáo xứ Yên Bằng, một giáo xứ nhỏ cách Chợ Lách khoảng bảy cây số. Anh về đây để giúp xứ, đỡ đần việc mục vụ cho một linh mục già trên sáu mươi tuổi sau khi anh nhận được chức phó tế. Ông cha già ấy hiền và ngây ngô như bụt, hôm Vũ mượn xe đạp của ông để đến thăm cô Lai, anh nói,

-“Hôm nay con về Tiên Đông thăm cô ruột con, chiều tối mới về.”

-“Vậy hả, vậy mà cha không biết thầy có cô ruột ở đó… Thầy ăn cơm rồi hãy đi.”

-“Con ăn cơm với cá sặt kho tiêu rồi cha ạ.”

-“Có tô mắm thái người ta cho thầy thấy không?”

-“Con không ăn được mắm cha ạ?”

-“Vậy hả. Vậy con xin phép Chúa rồi đi cho sớm.”

-“Dạ,” nói rồi anh vào nhà thờ, đứng trang nghiêm trước Thánh Thể và mấp máy lời xin theo kiểu mà cha già đã chỉ cho anh. Sau đó anh làm dấu rồi lui ra.

Sau đó anh đi và trong suốt dọc đường, anh hình dung lại khuôn mặt khả ái của Bích Ngọc, mắt hai mí, vành mi đen cong như mái đình, má tóc dầy mượt mà óng ả và cả những đường nét trên thân thể cân đối của cô. Vâng, anh vẫn luôn yêu cô dù sẽ trở thành một linh mục sống đời thánh hiến khiết tịnh. Những kỷ niệm ngọt ngào, thân thiết bên cô luôn sống động trong anh.

Anh đến nhà cô Lai lúc Ngọc sắp sửa ra ngoài, cô nắm cổ tay anh mừng rỡ và nói,

“Em đang nghĩ về anh thì anh đến. Em mừng anh vẫn khỏe.

Trong lúc cô nói, anh nhìn cô đắm đuối, rõ ràng cô đã già giặn và đẹp hơn xưa với đôi mắt u buồn sau làn mi mướt. Bây giờ anh hỏi,

49

-“Cô đâu rồi em?”

-“Mẹ em mới ở chợ về và đang chuẩn bị nấu chè bán buổi tối… Anh gặp mẹ em rồi sau đó cùng em đi đến chỗ ‘người quen’ bàn việc.”

-“Ừ vậy đi, hôm nay anh sẽ ở bên em cả ngày.”

Sau đó, Ngọc đưa Vũ xuống nhà sau nơi cô Lai bận rộn với việc đãi đậu xanh và gọt khoai môn cho nồi chè. Anh đứng gần cô chào hỏi chuyện một lúc. Cô Lai hỏi,

-“Cháu được ‘tấn phong’ chức gì rồi?”

-“Dạ cháu được chức phó tế rồi cô, trong vòng hai năm nữa cháu sẽ có chức thánh.”

-“Vậy thì tốt quá. Còn anh cháu và chị cháu sao rồi?”

-“Dạ anh Luân cháu đã khấn trọng dòng La-san và qua Pháp học thần học và sẽ được thụ phong linh mục còn chị Dung cháu đã khấn trọng dòng Chúa Quan Phòng và qua Pháp học thêm về luật dòng và mục vụ để về Việt Nam làm phó cho một chị bề trên người Pháp.”

-“Vậy là anh chị em nhà cháu đều có ơn Chúa gọi đặc biệt để có chức vụ cao trọng trong các dòng làm sáng danh Chúa và sang danh cho dòng tộc…”

Những lời cô Lai, mẹ nuôi Bích Ngọc, nói làm Ngọc xúc động, cô thấy nơi Vũ một tiền đồ không chỉ trong tôn giáo mà cả trong chính trị nếu chính trị sử dụng chính sách hòa giải và liên tôn thêm vào chiêu bài đòan kết dân tộc. Dĩ nhiên cô sẽ xác tín điều ấy như một đường lối đúng đắn, một đường lối thiên tài của đảng và không hề nghĩ đó là một chiêu bài. Về phẩn Vũ, anh không nhận thấy cô Lai dùng sai từ “tấn phong” là từ chỉ dùng trong chính trị, vì với anh hệ thống giáo sĩ cũng là một hệ thống quyền lực như chính trị. Hai hệ thống khi thì song song, khi thì đối đầu và sẵn sàng thôn tính nhau. Và anh vẫn thường tự nhủ nếu hoàn cảnh cho phép anh sẽ hòa tan tôn giáo nặng tính giáo sĩ ấy vào quyền lực chính trị. Còn bây giờ, anh cảm thấy tự hào và mãn nguyện bời những lời cô Lai khen ngợi.

Sau gần nửa tiếng đứng nói chuyện với cô Lai đang tất bật nấu nướng, Minh Vũ chào cô khi thấy Ngọc ra dấu phải xuất phát. Lúc đó anh lấy xe đạp của cha-già Hòang chở cô đi lòng vòng ra vùng ven thị xã, đến một xóm nhỏ giáp những cánh

50

đồng, lúa xanh mơn mởn cao được hai tấc, sắp trổ đòng đòng. Cuối cánh đồng loang lóang dòng sông nhỏ dưới nắng trưa với những đám mây trắng như bông trôi nhẹ trong bầu trời xanh như ngọc biếc. Đến một chỗ đường hẹp và gồ ghề, họ quẹo vào một con hẻm nhỏ và đến một căn nhà lá tồi tàn, lá ken vách đã rách ra từng mảng. Đây là căn nhà thằng Cà-rem sống với bà ngọai nó vì cha mẹ nó đang họat động trong khu. Đôi nam nữ phải cúi đầu bước qua cửa và thấy thằng Cà-rem mà Vũ đã biết trong các lần hoạt động trước ngồi đợi Ngọc và Vũ với một thằng nhóc lứa tuổi nó, khoảng mười bốn tuổi, vẻ mặt loắt choắt, đôi mắt láo liên, môi thâm, tai nhọn như tai dơi. Đợi hai người mới đến ngồi xuống chiếc chiếu rách, thằng Cà-rem giới thiệu người mới có cái tên rất ấn tượng là thằng Tiểu Quỷ. Theo lời của Cà-rem, Tiểu Quỷ là một cô nhi trốn ra ngoài từ một viện cô nhi do các xơ phụ trách. Sở dĩ nó phải trốn đi vì mỗi khi đọc kinh chung nó cảm thấy rất khó chịu trong người, thậm chí có lần trong giờ chầu Thánh Thể nó đau đớn như có cả chục mũi kim đâm vào người. Dĩ nhiên Cà-rem không biết chi tiết này, chỉ biết là nó ghét các xơ khó tính. Cũng theo Cà-rem, khi hoạt động Tiểu Quỷ rất xuất quỷ nhập thần như làm pháp thuật. Có lần đi ngang một sạp vải, nó chôm một khúc vải gấm Thượng Hải, tiếp tục đi ung dung giữa chợ Kiến Hòa. Khi chủ sạp phát hiện đuổi theo, nó bắt đầu chạy ra tới đường lớn có hàng cây dầu cổ thụ, không ai tìm thấy nó nhưng thấy xấp vải gấm vắt lủng lẳng trên một cành cây cách mặt đất tám mét. Sau đó Cà-rem mới biết nó trốn trong thùng xe ba-gác chở rác. Sự thật là Tiểu Quỷ ẩn mình trong chính gốc cây. Bích Ngọc cắt ngang,

-“Các em phải nhớ, đã họat động ngầm, các em đừng làm cho người ta chú ý đến mình nhất là với những trò nghịch ngợm vô bổ đó.”

Nói rồi, cô lấy trong người ra một bản đồ thị xã bắt đầu nói về công tác tiếp tế thuốc men và vật dụng vào khu. Sau hơn một giờ bàn thảo, họ gút lại hai phương án: phương án một Ngọc và Vũ xuống ghe cùng hàng hóa đi ngược dòng đến trạm trung chuyển, xuống hàng rồi qua ghe khác về nhà; phương án hai là khi bị theo dõi Cà-rem và Tiểu Quỷ cùng hàng hoá ngụy trang xuống thuyền đến trạm trung chuyển thay Ngọc và Vũ để giao hàng. Hai người này phải tìm cách đánh lạc hướng thám báo và lập tức rời khỏi thị xã. Khi đã bàn xong việc, bà nội Cà-rem bưng trên một cái nia cơm và thức ăn mời khách trong nia có tô canh bầu nấu đầu cá lóc, thân cá cắt khúc kho làm món mặn. Bốn người ăn uống và trò chuyện vui vẻ sau đó ra về. Trên đường về Vũ và Ngọc ghé vào đến một con lạch nhỏ nghỉ chân, họ cùng ngồi trên một gò đất khuất đám cây lá, nói với nhau những lời yêu

51

đương. Đến lúc những cử chỉ âu yếm của Vũ có chiều hướng lả lơi vì giữa trưa vắng vẻ nếu họ muốn họ có thể làm tình trên gò đất ấy, vốn cách xa làng xóm và vắng bóng người chỉ nghe thấy tiếng gà ban trưa từ xa xao xác gáy. Ngọc liền dịu dàng nói,

-“Khoan đã anh, anh quên là khi chưa thi đổ thì chưa động phòng sao.” Cô nói trong lúc một bàn tay của Vũ đã lấn sâu xuống chỗ tam giác nhô cao giữa hai đùi cô.

Vũ hiểu ngay “chưa thi đỗ” là khi chưa có chức thánh; Ngọc liền sửa người đứng dậy và đòi về. Vũ không dám miễn cưỡng bước ra dắt xe đạp chở cô về. Giữa lùm cây trong đám lá ken kín có hai con mắt nhìn theo họ từ sau lưng. Cũng đôi mắt ấy đã nhìn thấy cảnh tượng hai người âu yếm lả lơi. Đó là đôi mắt của Tiểu Quỷ vì nó là quỷ thật và mặc dù chỉ sống bằng thù hận, không bao giờ biết yêu thương là gì, nhưng khi thấy con người yêu thương âu yếm dù là kiểu gì nó vừa ganh tức vừa thèm thuồng. Nó ao ước trái tim đã hóa đá mà vẫn đập của nó mềm mại trở lại như trái tim bằng thịt máu của con người nhưng không được. Nó đã bị Trời Cao kết án. Khi thấy Minh Vũ và Bích Ngọc đã đi khuất, nó chạy lại gò đất giẫm chân và khua tay bày tỏ nỗi bực tức và nói, “Chưa diễn xong màn cuối mà mấy người lại nói vãn tuồng là sao vậy.” Nó nghĩ giá mà nó khóc được… Than ôi, đôi mắt nó không còn tuyến lệ nữa. Sau cùng để nguôi ngoai cơn giận, nó nghêu ngao bài thơ mà nó học lóm của một nhà nho bất đắc chí: Mẹ ơi, con muốn lấy chồng/ Bỏ công trang điểm má hồng răng đen/Tìm ai danh vị, cao quyền/ Vênh vang chức thánh giữa miền linh thiêng.

Tối hôm đó, khi về đến nhà thờ, cha già còn đang lần chuỗi Mân côi. Vũ vào ngồi gần đó cùng đọc với cha cho hết chuỗi. Đọc kinh xong, cha già hỏi,

-“Xe cộ có sao không mà con về trễ vậy?”

-“Dạ không, chiếc xe đạp của cha chạy tốt… Vì cô con và các em con níu kéo mãi, bảo con phải ăn cơm rồi mới về nên con về trễ.”

-“Vậy hả.”

Đúng là cô Lai có giữ Vũ ở lại để ăn cơm chiều, nhưng đó không phải là lý do duy nhất.

52

*&*

Đến ngày thực hiện kế họach Vũ xin phép cha-già về thăm bác hai Thâu ở Hàm Luông, anh nói,

-“Con xin phép ở lại một đêm với hai bác và các anh chị.”

-“Vậy hả” cha già nói tiếp, “Con đi và về sớm”

Vũ đi bộ xa nhà thờ một khoảng để không ai thấy anh đón xe đi hướng ngược lại. Hôm đó anh và Ngọc ăn mặc chỉnh chu đón xe đến chỗ hẹn trong thị xã. Anh gặp cô tại điểm hẹn đúng giờ; cô mặc áo bà ba màu hồng nhạt, cô mặc quần lụa đen, chân đi dép như các cô gái ở tỉnh, đầu đội nón vải hoa rộng vành màu tím nhạt, tay cầm túi vải màu nâu. Trông họ như một đôi thầy cô giáo đi mua sắm. Cà-rem và Tiểu-quỷ theo sau họ một khoảng cách chừng mười lăm mét. Việc trước tiên, Ngọc và Vũ đến gặp một đại gia đưa cho xem tờ giấy liệt kê các món phải mua, đại gia này trao tiền rồi đốt tờ giấy. Nhận được tiền xong, cả hai đi đến các cửa hàng quen biết gom đủ hàng. Sau đó cho tất cả hàng vào giỏ tre to, dưới cùng là lố thuốc trụ sinh Péniciline một triệu đơn vị, giữa là bông băng, thuốc sát trùng, bột ngọt, thuốc lá đồ khô, trên cùng là cá khô. Sau đó thằng Cà-rem thuê xe ba gác chở ra bến, Cà-rem ngồi trên yên sắt sau lưng anh đạp xe ba-gác. Ngọc và Vũ đi bộ nhanh sau xe, sau cùng là Tiểu Quỷ. Khi hàng tiếp tế còn cách bến đò vài chục mét thì Tiểu quỷ trờ tới, nói nhỏ với Ngọc, “Có ‘cớm’ đang lục lạo, tìm hai người đó, quay lại phố đi, để tụi em lo vụ này cho.” Nói xong nó dúi vào tay Vũ chai rượu tây mà nó chôm được lúc đi đường, nói nhỏ, “Vào trong nhà hàng nào đó uống cái này, chờ êm rồi rút... ” Nói xong nó chạy lên trước hối thúc Cà-rem. Ngọc và Vũ tái mặt rẽ trái vào phố người Hoa. Lẩn trước họ cũng đã trốn thóat khi chui vào rạp chiếu bóng lúc cô bán vé sắp đóng cái ô cửa của bức lưới sắt quây xung quanh quầy vé vì trong rạp đã chiếu xong phần phim thời sự. Đó là lần đầu tiên họ xem một phim Nhật với đôi nhân tình hôn hít và âu yếm như người Tây. Sau hai lần rẽ trái và rẽ phải nữa, họ thấy mình đứng trước một khách sạn của người Hoa. Ngọc kéo tay Vũ vào phòng tiếp tân trên tường bên phải, dán hình mấy ngôi sao điện ảnh Hồng Kông. Ngọc nói với Vũ,

-“Mình thuê một phòng đợi đến tối trả phòng rồi đón xe từ Sài-gòn về muộn để về nhà.”

53

-“Ừ cũng được.”

Nhận phòng trên lầu và đặt hai phần cơm trưa xong, họ vào căn phòng hơi tối với một bóng đèn điện vàng vọt, hai cửa sổ đóng kín. Sau khi mở ra một cửa sổ cho ánh sáng trời lọt vào, họ ngả lưng xuống hai bên tấm nệm giường, trao đổi vài câu tâm trạng lo lắng. Được một lúc, Ngọc ngủ thiếp trong lúc Vũ ngồi dậy vào nhà, tắm để tắm rửa cho mát với nước múc từ cái lu cao tráng men vàng. Bên ngòai khu phố, sinh hoạt chậm lại giữa buổi trưa oi bức. Vừa mặc lại quần áo, Vũ nghe thấy tiếng kêu thảng thốt và tức tưởi của Ngọc bên ngoài “Cha ơi!” Cô đã gặp trong ác mộng người cha đầm đìa máu của cô khiến cô đã bật dậy kêu to. Vũ thấy Ngọc ngồi dậy, trán lấm tấm mồ hôi, ngồi xuống bên cạnh hỏi,

-“Em đã gọi anh? Em có sao không?”

-“Không, em gặp ác mộng và thấy khó thở. Anh mở hết cửa sổ cho em đi.”

Vũ làm theo, trong lúc đẩy hai cánh cửa còn đóng ra, đàng sau bức màn dài, anh chợt thấy một bóng người mặc áo màu nâu như màu áo của Tiểu Quỷ rơi xuống. Anh cho rằng mình nhìn lầm vì lóa mắt. Thế nhưng đúng là Tiểu Quỷ, nó rơi xuống, không hề hấn gì, đi một vòng trong chợ rồi trở lại, núp lơ lửng sau bức màn cửa sổ: nó tò mò xem đôi nam nữ làm gì với chai rượu mà nó dúi vài tay Vũ.

Một làn gió nhẹ theo cửa sổ vào phòng, làm Ngọc bình tĩnh trở lại. Lúc đó có tiếng gõ cửa, Vũ ra mở cửa nhận hai phần cơm của người hầu phòng mang lên, Vũ nói,

-“Cơm chiều chúng tôi sẽ xuống phòng ăn khỏi phiền mang lên.”

-“Dạ, thưa ông.” người thanh niên hầu phòng đáp lại rồi lui đi.

Sau khi ăn xong, hai người nói chuyện một lúc. Họ nghĩ mình thoát nạn khỏi tay bọn cớm, nhưng Ngọc vẫn băn khoăn việc chuyển hàng có trót lọt không. Vũ trấn an cô khi nhắc đến tài biến báo của Cà-rem và hành trạng xuất quỷ nhập thần của Tiểu-quỷ.

Rồi trong lúc Ngọc đi tắm, Vũ cầm chai rượu tây lên ngắm nghía. Mảnh giấy nhãn trên thành chai trình bày rất mỹ thuật một cái khung hoa văn. Bên trong khung, dưới dòng chữ tên rượu Tristan et Yseult vẽ một chiếc thuyền với cánh buồm màu hồng. Trên nền hồng ấy vẽ một đôi nam nữ. Chàng thanh niên có vẻ là một hiệp sĩ, còn cô thiếu nữ tóc vàng có vẻ là một tiểu thư khuê các. Dĩ nhiên một thầy-sáu như

54

Vũ không hề biết truyền thuyết Tristan đón cô dâu công chúa tóc vàng Yseult về cho ông vua, chú của Tristan. Khi còn lênh đênh trên biển, họ uống nhầm rượu mê dành cho đôi tân hôn vương giả. Thế là họ si mê nhau và cùng thông dâm trên thuyền. Xem hình vẽ trên nhãn rượu Vũ chỉ đoán mò là rượu dành cho đôi vợ chồng trẻ trên chiếc du thuyền của tuần trăng mật vì ở góc tranh vẽ có hình trăng lưỡi liềm ở giữa ba ngôi sao. Với nỗi cao hứng mà bức tranh gây ra, Vũ mở nắp chai, dốc ngược vào miệng một ngụm lớn. Cùng lúc đó, Ngọc đã tắm xong sắp sửa bước ra, cô bỗng cảm thấy tâm hồn bồn chồn xao xuyến như vẫn xảy ra sau ác mộng nửa canh giờ. Cô cảm thấy một nỗi trống rỗng tăm tối mờ mịt cần phải được cảm xúc lấp đầy, thế nên cô xin Vũ rót cho cô một cốc nhỏ. Cô uống thấy rượu ngon màu vàng mật ong và thơm nồng. Vài phút sau cô không còn thấy bồn chồn nữa bởi rượu đã làm cô rộn ràng ngây ngất. Thế nên Ngọc để yên khi Vũ một tay lau và chải tóc ướt cho cô, một tay vòng ra trước cởi dần nút áo để bộ ngực ngồn ngộn và sau đó thân thể cô bày biện ngời ngời. Vâng đây là giờ cô tình nguyện dâng hiến xác thân. Hăm hở dâng hiến vì một cha nhà thờ sẽ an ủi nỗi dằn vặt bồn chồn mà hình ảnh cha ruột cô trong ác mộng gây ra. Rồi nụ hôn của Vũ chạy dài trên thân thể của cô như một tượng khỏa thân bằng cẩm thạch. Cô cong người đón nhận những cảm giác kỳ diệu xâm nhập từ da thịt. Cô thì thầm hỏi Vũ : “Bây giờ sao anh?” – “Ừ, anh yêu em vô hạn” rồi, “Hôm nay sao anh?” – “Ừ, hôm nay… em đừng bắt anh chờ đợi mãi giây phút này” Rồi, cô co hai chân dài lên dạng hai đùi ra để Vũ trượt sâu vào cô gọn gàng và dứt khoát. Sau đó cả hai dập dềnh lắc lư như con thuyền trên sóng cả: cô là đáy thuyền, anh là cánh buồm gió đẩy tới nhịp nhàng mạnh mẽ vào khung trời khoái lạc. Ngọc khẽ khàng rên rỉ, thỉnh thoảng kêu rõ to: “anh ơi, thầy ơi, cha ơi, vua của lòng em ơi… Sao tuyệt quá vậy anh, anh làm em chết mất…” Nửa giờ sau họ trần truồng ôm nhau chìm vào giấc ngủ, vẫn còn dính vào nhau, lưng trần của cô dính vào ngực trần của anh. Vô cùng mãn nguyện. Trong lúc họ ngủ say, Tiểu-quỷ nắm lấy một màn cửa đu đưa qua lại như khỉ làm xiếc: trước đó nó đã quan chiêm cảnh đôi bạn làm tình. Một lúc sau nó nhào ra ngoài cửa sổ, bỏ đi và do bản tính hay gây thù hận của quỷ nhỏ, cùng với long ganh tị không biết và cũng không thể yêu thương, nó định bụng sẽ tìm dịp nói với Tuân biết sự thông dâm này vì nó biết Tuân muốn cưới Ngọc làm vợ.

Họ xuống phòng cơm hơi muộn nhưng không hề gì. Công tác coi như hòan thành, họ hoàn tòan thư thả để sống cho nhau và nâng ly chúc mừng. Vũ rót rượu Tristan

55

et Yseult vào một ly nhỏ và mời Ngọc uống trước. Ngọc uống một hớp nhỏ rồi đẩy ly rượu lại cho Vũ. Trong bữa ăn, họ nhìn nhau mỉm cười và chỉ nói được vài câu.

-“Em thật tuyệt vời và hơn thế nữa…”

-“Em cám ơn anh đã đoái thương em, nhưng anh không được bỏ tu. Anh phải giành được chức thánh.”

-“Anh sẽ có chức thánh trong vòng một năm nữa, với điều kiện… ”

-“Điều kiện gì?”

-“Em không được cấm cản anh ‘chuyện đó’,” Vũ nói giọng tinh quái.

-“Điều kiện đó, em còn phải xét lại,” cô đỏ mặt nói.

Dù nói thế, sau khi đi dạo một vòng nhỏ trong khu phố người Hoa, họ trở về phòng ham hố quấn quyện vào nhau và miệt mài quần thảo với việc làm tình thêm lần nữa giữa tiếng kêu rên quằn quại trong khoái cảm. Hơn hai giờ sáng họ mới chìm vào giấc ngủ. Năm giờ rưỡi sáng trời còn mờ tối, họ trả phòng, ra đón xe chở bạn hàng về lại Chợ Lách. Lúc về đến nhà thờ Yên Bằng, cha già vừa làm lễ sáng xong, đang chuẩn bị ăn sáng, ông hỏi Vũ,

-“Tối qua con ngủ đâu, cha cứ ngồi đọc kinh chờ con về”

-“Con định về buổi chiều nhưng lúc đó tự nhiên đau bụng và đau đầu quá, các em họ đưa con một viên thuốc than và một viên Kalmine hình trứng nhện. Khi con bớt đau thì đã hết xe về.”

-“Vậy hả. Con ăn cơm rồi vào phòng nghỉ đi.”

-“Con phải nhịn ăn để cho êm cái bụng. Bây giờ con xin phép cha đi nằm nghỉ.”

-“Vậy hả, con đi nghỉ đi để cha bảo chú ba buổi chiều nấu cháo cho con.”

-“Cám ơn cha.” Nói rồi Vũ vào phòng, ngả lưng ngay xuống chiếu, cảm nhận dư vị khoái lạc còn đọng lại trong thân thể, sau đó Vũ ngủ mê mệt cho đến giờ kinh chiều mới thức dậy.

56

ĐẾN HẸN LẠI LÊN

Một tháng sau khi nỗi nhớ Bích Ngọc đã nguôi ngoai trong lòng Vũ, thì một công tác khác được giao cho hai người. Ngọc phải đi họp Đoàn thanh niên Ba Miền, trong đó có các đại diện Đòan Thanh Niên từ Bắc vào động viên đoàn Miền Nam chiến đấu chống Mỹ, đồng thời học tập tinh thần quyết chiến của các đồng chí Miền Nam. Địa điểm họp là chiến khu Hố Bò Tây Ninh gần biên giới Việt Nam-Campuchia. Theo kế hoạch, Vũ sẽ cùng đi với Ngọc đến Tây Ninh, tại đây Vũ sẽ ở lại nhà Trình Diễn đi tham quan Thánh Thất. Còn Ngọc có người của tổ chức hướng dẫn vào mật khu sau khi đã kiểm tra mật khẩu lấy từ một câu thơ của lãnh tụ.

Trước đó Tuân con trai giáo Lộc đề nghị đi thay Vũ, Tuân nói,

-“Sao em cứ để cho thầy tu tầm thường đó có dịp lập công với đảng hòai vậy.”

-“Chính vì tầm thường mà anh ấy mới quy phục ta. Vả lại anh ấy chỉ tham gia vào những lúc chủng viện nghỉ hè. Em phải tạo cơ hội cho anh ấy trở về với tổ quốc và dân tộc thay vì loại trừ ra khỏi cộng đồng dân tộc, vì theo em loại trừ như cách làm của các vua Nguyễn qua việc phân-sáp còn ác hơn là giết chết. Khi anh ấy ủng hộ chính nghĩa của đảng ta là anh ấy đã bắt đầu trở về cùng dân tộc.”

-“Anh thấy em có vẻ thiên vị anh ấy nhưng liệu anh họ của em có thật lòng không, không khéo lại như chị Huyền của em…”

-“Chị Huyền sao?”

-“Chị ấy vốn đã không tham gia tổ chức mà bây giờ còn yêu chuẩn úy Khiêm, có lúc chị ấy đi chơi với hắn tới khuya mới về.”

-“Chị Huyền thì em không biết, nhưng anh Minh Vũ không vậy đâu. Chính anh ấy nói Chúa cũng có sứ mạng giải phóng người nghèo như đảng. Vả lại anh phải ở lại nhà chuẩn bị đám cưới cho chúng mình. Sau chuyến công tác này một tháng rưỡi chúng ta sẽ thành vợ chồng rồi. Anh phải ở nhà chuẩn bị và nhất là xin ý kiến chuẩn nhận của chị Nguyện nữa.”

57

-“Ừ vậy cũng được, em sẽ đi với anh Vũ và nhớ thật cẩn thận giữa bầy sói dữ Mỹ ngụy.”

Thật vậy, sau lần chuyển hàng tiếp tế và dâng hiến thân xác cho Vũ, cô thấy nguy cơ bị bắt ngày càng cao. Mặt khác Vũ có thể bị vạ lây, ảnh hưởng xấu đến con đường công danh trong cơ chế Giáo Hội. Vâng, cô sẵn sàng hy sinh đời cô, hy sinh cả tình yêu của cô cho công danh của Vũ. Nếu cổ nhân từng có người sát thê cầu tướng (giết vợ để cầu sự phong làm tướng quốc) cô cũng có thể nói: Có khi mình phải giết chết bản thân để lập phong hầu cho “chàng”. Vì thế cô đã quyết định giết chết con tim mình và làm lễ cưới với Tuân. Sau cùng nếu tổ chức nội thành bị vỡ, cô và Tuân sẽ chạy vào mật khu, tiếp tục chiến đấu. Với Vũ, cô đã đạt được thân xác tràn đầy dục lực của anh, được anh vuốt ve bên trong và bên dưới làn da. Như thế là quá đủ, phần hồn của anh cô nào dám tranh giành với Giáo Hội và Thiên Chúa theo lăng kính của Giáo Hội ấy. Nhưng có một khả năng khác mà cô không tính đến: quỷ dữ…Vẫn là cơn cám dỗ thiên thu của E-và trần tục.

*&*

Trên chuyến xe đò từ Sài-gòn đến Tây Ninh, Vũ và Ngọc đi qua lộ trình trót lọt. Họ phải xuống xe hai lần cầm căn cước trình cho cảnh sát rồi đi bộ qua trạm gác, trong lúc hai cảnh sát lên xe, xem có hàng hóa gì khả nghi không.

Đến thị xã, họ vào một quán nước vắng khách và ngồi ở hai bàn riêng. Từ một bàn trong góc, một anh có vẻ nông dân, đôi mắt hơi man dại, quần tây đã cũ, áo màu chàm đã sờn vai đến trước Ngọc nói vài tiếng rồi ngồi xuống. Mười lăm phút sau theo anh ta ra ngòai, chỉ một thoáng đã biến mất. Hai mươi phút sau, Minh Vũ cũng rời khỏi quán tìm đến nhà Trương Trình Diễn. Trình Diễn tiếp bạn đồng tu nồng hậu vì anh vẫn coi Vũ là một đệ tử được anh bí truyền Phật học. Diễn muốn anh ở lại chơi một tuần vì còn hơn tháng nữa, họ mới về trình diện chủng viện để học môn phụng vụ. Nhưng Vũ nói chỉ ở chơi ba ngày thôi. Đang nói cả hai giật mình im lặng khi một loạt đạn đại bác vang lên từ hướng núi Bà Đen. Trình Diễn sau đó thở dài im lặng, nếu cần nói gì chỉ nói nhát gừng từng câu chữ.

Hai giờ trưa cùng ngày, sau bữa cơn trưa với gia đình Diễn với món thịt bò Trảng Bàng nhúng giấm, Vũ ngồi đánh cờ tướng ở hành lang bên hông một thánh thất gần nhà bạn. Anh đã thắng ba ván và được chủ hội cờ thưởng cho một chai mật ong rừng mà theo ông nói lấy từ núi Bà Đen có trộn thêm phấn hoa và sữa ong

58

chúa. Đang chuẩn bị sắp bàn cờ thứ tư, thì Minh Vũ thấy Trình Diễn dẫn theo Ngọc ra gặp anh. Diễn nói, “Có em họ bạn đến tìm này, cô ấy nói từ Tân Châu ra.” Vũ giữ vẻ bình tĩnh nói, “À, cô ấy muốn dẫn mình vào Tân Châu thăm bà cô đấy”. Nhìn vẻ mặt hốt hoảng của Ngọc, dù cô gượng cười, Vũ biết xảy ra biến cố chẳng lành, kéo Ngọc ra chỗ khác hỏi,

-“Có việc chẳng lành phải không Ngọc?”

-“Cuộc họp bị địch phát hiện và đã cho pháo kích vào địa điểm họp, giết chết các anh chị đòan viên hết rồi anh ạ, lúc em còn cách nơi đó một cây số...” Ngọc dừng lại nghẹn ngào, nước mắt lưng tròng hàng mi cong ướt lệ, rồi nói tiếp, “mình phải đi khỏi chỗ này thôi vì có thể bị chỉ điểm.”

-“Phải, anh cũng nghĩ như em nên lúc nãy anh nói với Diễn sẽ cùng em vào Tân Châu.”

-“Vậy mình đi nghe anh, ra khỏi đây mình sẽ tính tiếp.”

Hai người với tư cách anh em họ quay lại nhà Diễn lấy túi xách đựng ít hành trang, Vũ tặng chai mật ong do thắng cờ tướng cho ba mẹ Diễn và khoảng ba mươi phút sau, họ đón xe lam ra chợ Long Hoa vì Vũ nói không nên về Sài-gòn ngay nhưng nên để qua ngày mai. Họ đến Long Hoa là nơi gần Thánh thất, nếu phải thuê khách sạn cũng an toàn hơn.

Đúng năm giờ chiều, họ thuê khách sạn gần bờ sông, cô gái tiếp tân cứ nghĩ họ là đôi vợ chồng ở quê ra tỉnh có việc, nhưng phải công nhận họ đẹp đôi dù anh chồng cao hơn cô vợ nửa cái đầu. Sau khi nhận phòng và tắm rửa xong, hai người khóa phòng ra chợ dùng cơm tối. Lúc đó Ngọc cởi bỏ bộ áo bà ba, cô mặc áo kiểu và quần mỹ-a mới mua ở chợ. Ăn cơm xong, hai người ra một quán nước sát bờ sông, ngồi bên nhau hóng mát. Mặt trăng liềm cũng vừa hiện ra trên bầu trời, chiếu những tia yếu ớt vào các làn sóng, làm mặt sông loang lóang ánh bạc. Thỉnh thoảng một vài chiếc thuyền đánh cá đi qua làm sóng vỗ lao xao vào bờ. Bất chợt Bích Ngọc cúi đầu thổn thức. Cô khóc tức tưởi. Vũ lắc vai cô hỏi,

-“Em có sao không?… Điều gì làm em khóc vậy?…”

-“Em thương tiếc các anh chị bị pháo giết chết sáng nay…”

59

-“Anh xin em, sự việc đã qua rồi. Anh cũng buồn lắm, anh sẽ xin cha già một thánh lễ cầu hồn cho họ. Em đừng khóc nữa, chiến tranh là thế đấy.” Vũ nói và lấy tay bóp chặt bàn tay ngón bút và mềm mại của Ngọc.

-“Anh biết không, trong số các anh chị đó, có mấy người là kỹ sư, tiến sĩ học ở Đông Âu về, có mấy người khác sắp qua Liên xô học tiến sĩ. Bấy nhiêu nhân tài phải chết oan uổng.” Ngọc lại nức nở.

-“Không oan uổng đâu em, họ cũng giống các thánh tử đạo trong tôn giáo và như những hạt giống sẽ làm trổ sinh hoa trái độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân mình.” Vũ nói đúng lý lẽ và rất chân tình.

-“Vậy mà có những người còn lợi dụng cái chết của họ. Anh biết không tay du kích dẫn đường lúc về cứ chăm chăm nhìn em như chiếu đèn pha từ đầu đến gót chân em, lại còn cười đểu và gạ gẫm, ‘em ở lại chỗ anh cũng gần mé rừng, anh sẽ có cách làm cho em vui thú, quên đi sự mất mát vừa rồi’. Biết hắn nổi máu dâm ô, em cương quyết đi một mình ra đường cái. Hắn lủi thủi theo sau chỉ đường; sau đó hắn đuổi bắt một con gà rừng rồi biến mất. Em đi một đọan nữa thì tới đường cái. Thử hỏi em không uất ức sao được?”

-“Anh hiểu điều em nói, nhưng biết làm sao được vì có thể nhiều khi hắn cũng tìm đến sự dâm dục để chạy trốn nỗi kinh hòang của chết chóc trong chiến tranh. Những kẻ ương hèn như thế sẽ bị tổ chức loại trừ.”

Những lời khoan dung ấy của Vũ làm Ngọc bình tĩnh lại dần, cô nắm cánh tay anh gục đầu vào vai anh, mái tóc mà cô đã xỏa ra, chảy xuống lưng anh rồi cô nói,

-“Những lời của anh làm em lấy lại tinh thần. Vậy ngoài lễ cầu hồn cho các anh chị ấy, anh nhớ xin cho em một thánh lễ tạ ơn Đức Mẹ đã cứu em thoát chết và thoát khỏi bàn tay dâm dục của một con quỷ râu xanh.”

-“Vâng, anh sẽ xin-lễ cho em và đồng đội mới mất như em nói.” Vũ cảm động đáp và lần đầu tiên anh cho cô biết anh thường cầu nguyện cho cô được bình an giữa bom đạn, khói lửa của chiến tranh.

Khoảng tám giờ tối họ quay lại khách sạn. Trong lúc Ngọc đang tắm rửa, từ cửa sổ khách sạn, Vũ thấy bên kia sông hỏa châu bắn lên chiếu sáng với cái đuôi khói trắng. Chắc hẳn, hai bên đang đụng độ. Anh thở dài khi nghĩ người Việt Nam

60

giống như “gà nhà bôi mặt đá nhau”, một bên bôi vôi trắng, một bên bôi vô đỏ rồi lao vào cơn cuồng sát, mà kẻ thủ lợi chính là những thế lực nước ngoài muốn xưng bá xưng hung một phương trái đất.

Anh định chợp mắt thì Ngọc từ nhà tắm ra, người quấn trong chiếc khăn lông lớn đến ngồi kế bên anh nói,

-“Anh lau tóc cho em với.”

-“Ừ, à…”

Trong lúc Vũ lấy khăn lau mái tóc ướt trên tấm thân lõa thể với những đường nét mỹ miều, hấp dẫn của Ngọc, cô lấy tay cởi cúc áo anh và sờ soạn bộ ngực ấy, sau đó là các nút quần. Cô nghĩ đây là lần cuối cùng họ dâng hiến cho nhau vì một tháng sau cô sẽ trở thành vợ của Tuân cho đến hết một kiếp người.

Mười phút sau vuốt ve hôn hít, Vũ chồm lên thận thể mẫy mượt, với mông ngực ngồn ngộn của cô: lên xuống tới lui. Lúc này hai người trở thành một khối cảm xúc hoan lạc, rung động nhịp nhàng theo hơi thở của Vũ và tiếng kêu rên của Ngọc, “Ôi, anh ơi, thầy ơi…Em chết mất…”

Và như thế họ bày tiệc truy hoan cho đến hơn hai giờ sáng. Trong thời gian tạm nghỉ giữa hai lần hành lạc, Ngọc òn ĩ nói,

-“Anh yêu của em ơi, sau này nếu hai chúng ta phải sinh ly tử biệt thì mãi mãi anh là tình yêu đầu đời và duy nhất của em,” cô nói thế vì nghĩ đến sau này hai người không còn cơ hội bên nhau.

-“Không có tử biệt đâu em, còn sinh ly nếu có chỉ là tạm thời cho đến ngày ta chiến thắng,” rõ ràng Vũ đã hiểu sinh ly tử biệt trong bối cảnh chiến tranh.

-“Vậy anh có yêu em mãi mãi không?” cô hỏi lại.

-“Trong tim anh lúc nào cũng chỉ có hình ảnh của em. Em đã chiếm cứ trái tim anh mãi mãi rồi.”

-“Em cám ơn anh…” Nói rồi cô chồm lên ngực anh hôn vào lồng ngực chỗ trái tim. Rồi cô chống hai tay để người lọt vào giữa hai đùi săn chắc của Vũ, lắc lư lên xuống như một nữ kỵ sĩ trên lưng ngựa chiến và tiếp tục kêu rên trong khoái cảm.

61

Hôm sau lúc 5 giờ rưỡi sáng, khi ngồi ổn định bên nhau trong chiếc xe đò từ Tây Ninh về lại Sài-gòn, đôi môi hình trái tim và toàn thân Ngọc rã rời, tê dại, lẩy bẩy. Xe chạy được ba mươi phút, cô đã ngủ thiếp và gục vào vai Vũ cho đến khi xe vào bến đường Lý Thái Tổ lúc gần trưa. Họ vội vàng tìm nơi ăn cơm vì bụng đã đói, sáng nay họ chỉ mua hai ổ bành mì ở bến xe Long Hoa và ăn lúc xe chạy. Chuyến xe chở họ về Kiến Hòa là chuyến cuối trong ngày. Hơn tám giờ tối xe vào bến Kiến Hòa. Vũ quyết định ở lại thị xã và bảo Ngọc về Tân Đông trước trong chuyến xe cuối cùng vì giờ này, cha già đã ngủ, sẽ không có người mở cửa nhà xứ. Ngọc băn khoăn hỏi,

-“Anh ở lại sẽ ngủ ở đâu?”

-“Anh sẽ thuê giường bố trong nhà trọ ngủ tạm, mai về.”

Lúc đó, Ngọc định đề nghị anh cùng cô về nhà cô Lai ngủ tạm, nhưng sợ Vũ biết câu chuyện đám cưới sắp đến của cô. Mặt khác vì cô e ngại trong nhà trọ, anh sẽ bị bọn mặt-rô gã gẫm thậm chi ép buộc chuyện mua dâm nơi các ả gái điếm rẻ tiền. Sau cùng Ngọc nói,

-“Vậy thì em cũng ở lại với anh, mình sẽ thuê xích lô chở đến khách sạn ở khu phố người Hoa. Sáng mai hãy về sớm.”

-“Vậy cũng được.” Sau đó hai người ra khỏi bến xe đã thưa thớt người, kêu xích lô về khách sạn và lại thêm một tối truy hoan cuồng nhiệt. Mới biết Minh Vũ dâm lực mạnh mẽ như con ngựa chiến của một tướng tài. Thế nên có một lúc cô quằn quại kêu lên như một nô tỳ khốn khổ: “Anh ơi, em chết mất.” Tối đó họ quần thảo đến quá nửa đêm và cô cũng rất kiên cường trong cuộc âm dương giao đấu. Những tiếng kêu rên của Ngọc cũng nhịp nhàng trầm bổng như tiếng than thở của một cô đào thương trên sân khấu.

*&*

Hơn một tháng sau trước khi Vũ vào chủng viện học môn mục vụ, anh không gặp lại Ngọc. Sau ngày Vũ về lại Sài-gòn mười ngày, giáo Lộc tổ chức đám cưới cho con trai. Tuân cưới Ngọc về làm vợ, trong khi cô này biết mình có thai gần hai tháng. Chính Minh Vũ là tác giả của bào thai đó, Và tình yêu si mê, cuồng dại của hai người đã biến bản năng cơ bản của họ thành một cái có vẻ giống tình yêu. Tuân không nghi ngờ về sự đẻ non này, dù anh luôn nghi ngờ sự tham gia chân thành

62

của Vũ vào phong trào cách mạng trong làn sóng thứ ba mà Vũ là một thành phần tiến bộ của xã hội đã thức tỉnh tham gia cách mạng, bởi lẽ hơn nửa năm sau khi có cơ hội mà nó vẫn rình chờ, Tiểu Quỷ mới ám chỉ xa gần để Tuân biết việc Vũ và Ngọc đã thông dâm. Nó buồn chán với kịch bản cũ nên đã tìm cách thay đổi vở tuồng. Từ đó mỗi lần Tuân và Ngọc gần nhau, người chồng đã hành động như một kẻ bạo hành đầy phẫn nộ.

*&*

Về đến chủng viện Vũ tham gia cuộc thi đấu giao hữu bóng chuyền giữa chủng viện và các tập sinh dòng Phan-xi-cô. Khán giả là các tu sinh của cả hai đội trong đó có Trình Diễn. Trận giao hữu đem lại chiến thắng cho chủng viện nhờ những cú ném chính xác của Vũ vào rỗ đối phương từ những vị trí khó nhất. Sau giờ thi đấu, Diễn gặp Vũ ở chỗ giải lao, thấy đôi mắt Vũ vừa đờ đẫn vì mệt nhọc vừa có những tia man dại, Diễn nói, “Cậu bệnh rồi”. Vũ vặn lại, “Tôi mà bệnh thì đội nhà đã thua rồi”. Diễn vội đính chính, “Tôi xin lỗi, tôi đang nghĩ đến sinh, lão, bệnh, tử” trong khổ đế của Phật giáo.” Thật ra Vũ không hiểu hàm ý sâu xa của Diễn. Anh này muốn nói Vũ đã bị bệnh tâm hồn, khi hình ảnh lả lơi của Ngọc và cảnh dâm dục luôn hiện lại trong đầu Vũ. Vả lại cả thế gian này đang “bệnh”, biết làm sao được với thầy sáu Vũ bây giờ. Sau cùng Diễn nghĩ như thế rồi bỏ đi. Bản thân Diễn cũng sợ điều đó, nhất là khi vướng vào công danh: công danh thường kéo theo tình ái. Vì thế anh đã dò hỏi ý kiến của một dòng khổ tu. Cha Viện phụ ở đó bảo anh cứ nhận chức thánh, sau đó cha sẽ nhận anh vào nhà tập của dòng để tu làm trợ sĩ. Vả lại khi chưa vào chủng viện, ở nhà hoặc ở chùa, Diễn rất giỏi việc làm nông. Như thế chắc chắn anh sẽ làm tốt châm ngôn Ora et Labora (Chiêm niệm và lao động) của dòng Xi-tô ấy.

Phần Minh Vũ, tối hôm đó anh nằm mộng thấy chơi bóng với Ngọc. Ngọc đứng trên bục cao, phô đôi chân dài với ngực mẫy. Cô ôm trước bụng cái rỗ lưới và Vũ ném vào đó từ mọi tư thế và mọi góc độ. Mỗi lần bóng lọt rỗ, cô kêu lên vừa sung sướng vừa quằn quại. Sau cùng có lẽ vì muốn tạm dừng cuộc chơi cô túm rỗ lưới và giữ bóng lại không trả cho Vũ. Sáng dậy sớm, Vũ thấy tâm hồn rất hưng phấn, vui tươi. Chưa bao giờ anh thấy hy vọng được truyền chức thánh rõ ràng như lúc đó.

63

CẤM YÊU

Ít người biết được rằng ông Hai Thâu xuất thân từ một gia đình đạo gốc, vì từ khi theo công hội đỏ, ông bỏ đạo và thay đổi hòan tòan mọi hành vi tôn giáo. Ông ứng xử như một Văn Thân: ông bình Tây và sát tả. Thái độ cực đoan ấy ông coi như một cách lập công chuộc tội với triều Nguyễn ngày xưa và với tổ chức bây giờ. Ông ném ảnh tượng Chúa xuống sông chỗ người ta đổ rác, rước tượng Thần tài về thờ. Đúng ra ông muốn thay tượng lãnh tụ cho tượng Chúa nhưng như thế thì nguy hiểm quá vì cuộc phân tranh chưa đến hồi kết thúc. Ông tuyên bố mình theo đạo Phật nhưng đó không phải là chánh pháp của Đức Phật Thích Ca mà là Phật pháp của vua hoặc của lãnh tụ cùng các sư sải bề tôi vua. Mạt pháp là như thế, điều này kinh Phật cũng đã nói. Thế nên ông đã không cho vợ ông rửa tội cho Thanh Huyền. Ông còn chơi chữ: “Thanh là trong sạch” cần gì phải rửa. Rồi khi ý thức tôn giáo của cô xuất hiện, ông bảo cô hãy vào chùa mà học đạo-làm-người, dù rằng đạo Phật nói nhiều về chúng-sinh hơn về người. Ông cũng không bảo cô hãy học đạo thành Phật vì để thành Phật phải là nam nhân, trong khi cô là nữ giới. Khi cô đã trưởng thành, những vẻ đẹp của cô phát tiết, nào là mắt bồ câu, môi mọng chạy đường viền, ngực nở, đường nét thon thả, ông lo nên đã đặt thêm rào chắn. Ông nói với con gái với giọng nói quyền uy của một gia trưởng chuyên chế,

-“Bây giờ mày đã trở thành một bông hoa đẹp sắp nở lại có chút danh phận là giáo viên nên ba phải nói trước điều này là mày không được có bạn trai vướng mắc vào ba điểm mà ba thù ghét nhất.”

-“Ba điểm gì thưa ba?” Thanh Huyền hồi hộp hỏi.

-“Một là thằng theo đạo Chúa, hai là nó đi lính cộng hòa và ba là nó nghèo mạt.” Ông Hai Thâu gằn giọng nói. Và khi gộp cái thứ ba “nghèo mạt” vào hai cái trước, ông đã làm cho phát biểu của ông trở thành một thái độ của văn hóa truyền thống: “Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bỏ công tô điểm má hồng răng đen”.

-“Nhưng nếu có người nào vướng vào một trong ba điểm mà ba nói nhưng hiền lành, đạo đức, và trung thực thì ba có chấp nhận không?”

64

Ông Thâu trừng mắt suýt hét to khi ông đập tay xuống bàn nói,

-“Thứ đó không thể hiền lành đạo đức được. Mày mà chọn thứ đó, tao sẽ từ mày. Thà mày vào chùa tu làm ni cô, thậm chí ni cô phá giới, còn hơn.”

Thanh Huyền mặt mày tái xanh, tay chân run rẫy vì sợ hãi cái trừng mắt của cha cô Trong lúc cha cô bỏ đi không quay lại, dĩ nhiên dứt khoát không chút khoan nhượng.

Thế nhưng, như người ta thường nói, “ghét của nào, trời trao của đó,” vì ông Trời hình như rất thích “chơi khăm”. Vả lại, con tim có những lý lẽ mà lý trí không biết được (nếu cứ cho là lời ông Thâu có đủ trí tuệ sáng suốt và hữu lý). Và gần đây, cô đã rơi vào vùng-cấm của cha cô. Từ ngày dự tiệc mừng quốc khánh tại tiểu khu, dù không muốn, cô đã quen biết chuẩn úy Khiêm. Trong khi lui tới nhà hai Thâu để dò xét quan điểm của ông này, một tình bạn đã nẩy sinh giữa Khiêm và Thanh Huyền. Cô mến anh vì anh hiền lành, ngay thẳng nếu không nói là thật thà lại là người có học trước khi chọn binh nghiệp: anh tốt nghiệp khoa sử-địa trường Đại Học Văn Khoa. Khổ nỗi anh mắc phải hai điều cấm kỵ của ông hai Thâu: anh theo đạo Chúa và còn là lính trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Thanh Huyền muốn đẩy lui hình bóng Khiêm ra khỏi trái tim cô nhưng không được. Sức đẩy tâm lý ấy luôn tạo ra một phản-lực lớn hơn khiến cô ngày càng yêu anh tha thiết. Chuẩn úy Khiêm cũng vậy, dù biết gia đình Huyền có dây dưa với việt cộng – chí ít anh và thiếu úy Khánh đã nghi ngờ nhưng chưa tìm ra chứng cứ để bắt giam – anh cũng không thể cưỡng lại nổi nét đẹp duyên dáng và tính nết thuần hậu, dịu dàng của cô. Vâng một thứ tình yêu kiểu Roméo và Juliette. Họ hẹn hò đi uống cà-phê, đi xem cải lương, chiếu bóng hoặc đến những nơi phong cảnh hữu tình để trò chuyện, để tình tự và âu yếm. Xem ra họ không thể sống thiếu nhau. Trong một lần đi chơi như thế mới đây, anh nói với cô,

-“Huyền em, vừa rồi anh có nói ba mẹ anh đã tìm được ý trung nhân ở nơi này, xin ba mẹ xuống hỏi cưới em ông bà có vẻ mừng và đồng ý. Nhưng khi anh nói gia đình em đạo Phật thì ba mẹ anh nói “Nếu vậy ba má sẽ không đến được, vì nếu họ khéo léo chối từ thì cũng không sao, nhưng rủi vì sự bất mãn như của vua quan trước đây đối với đạo Chúa, họ sỉ nhục ba má sẽ ảnh hưởng không tốt đến con…”

-“Thấy chưa, em đã bảo anh đừng đến gặp ba em xin cưới hỏi nữa. Chúng ta cứ yêu nhau dưới danh nghĩa tình bạn như thế này thôi. Sau này hãy tính, vả lại nếu

65

sự thể bất thành, anh phải về Sài-gòn lấy vợ, em sẽ vẫn ở vậy mà yêu anh.” Thanh Huyền từ tốn đáp: đúng là cô đã nói với anh nhiều lần câu này mỗi lần anh ngỏ ý định cưới xin vì hơn ai hết, cô biết quan điểm cực đoan của ông Hai Thâu, ba cô.

-“Sở dĩ anh muốn cưới hỏi em vì anh muốn đưa em về Sài-gòn, tránh xa nơi khúc hiểm này, khúc hiểm về địa dư và cả khúc hiểm về lòng người. Vả lại cuối năm nay có thể anh sẽ qua Mỹ học về khoa sử dụng không ảnh để lập bản đồ quân sự.”

-“Dù sao thì việc cưới xin là không thể được với ba em…”

-“Được rồi, anh sẽ vì em mà liều một phen.”

-“Em sợ lắm anh ơi…”

-“Em đừng sợ: Không vào hang cọp, sao bắt được cọp con?” Khiêm trấn an Huyền.

Dù vậy cô cũng không hết lo lắng. Chỉ những sự âu yếm nhẹ nhàng của anh mới làm cô quên đi nỗi lo cho đến lúc họ chia tay. Họ rời quán nước lúc chín giờ tối.

Và một sáng chủ nhật, Khiêm mang quà cáp gồm một chai rượu tây Martel, một gói trà Bảo Lộc hạng nhất, một hộp bánh Gibral đến để thỉnh ý ông Thâu về việc anh muốn cưới Thanh Huyền. Lúc đó cô này đứng sau bức bình phong bồn chồn, lắng nghe câu chuyện. Lúc đầu ông Thâu miễn cưỡng nhận quà, nhưng khi nghe Khiêm giải bày tình yêu anh với con gái ông, ông cau mày đứng dậy rời cái bàn vuông có lớp kính dày trên cái khăn bàn đến ngả lưng xuống cái võng cói mắc vào một khung sắt sơn xanh sau lưng Khiêm. Điều này khiến Khiêm cũng phải đứng lên quay lại phía ông để tiếp tục giải bày. Nhưng tất cả những gì Khiêm nói đều bị đáp lại thẳng thừng bằng những tiếng “không”, “không thể được”, “cậu là ai mà dám hỏi xin con gái tôi…”. Những lời nhát gừng của ông Thâu nặng nề như búa đập xuống, dứt khóat như một lưỡi liềm chém rạ. Vâng “búa-liềm” cay độc và tàn nhẫn. Cuối cùng Khiêm khóc như một đứa trẻ bị ăn đòn oan uổng, rồi trong bộ đồ dân sự tươm tất, anh quỳ xuống lạy lục van xin, nhưng vô ích. Ông Thâu đã trở thành sắt đá, lạnh lùng vô cảm, thực thi lệnh vua xưa và lãnh tụ hôm nay được trao ban ấn tín là phải “bình Tây sát tả”. Ông vẫn luôn đu đưa nhẹ nhàng trên võng, nhìn trừng trừng vào đầu tóc và cái lưng khom của Khiêm đang quỳ lạy. Bản năng thù hận của ông trào lên hung dữ như hỏa sơn phun lửa hoặc sóng thần tràn bờ tàn phá một miền duyên hải. Sau cùng ông nói,

66

-“Cậu lạy thế đủ rồi. Bây giờ cậu lấy lại quà cáp của cậu rồi về đi. Tôi không nhận; từ nay cậu đừng đến nhà tôi nữa, cũng đừng đến gần con Huyền nhà tôi nữa.”

Như chợt tỉnh ngộ, Khiêm, lau nước mắt lùi lại xách quà cáp ra về. Ra đến đường cái, Khiêm nói lớn nhưng chỉ với chính mình,

-“Chết tiệt thằng Thâu, thằng mắc dịch … có ngày bọn tao sẽ còng đầu mày lại.” Nói xong, Khiêm lấy tay bịt chính miệng anh lại. Anh hối hận: lần đầu tiên trong đời anh chửi-thề, lần đầu tiên nỗi uất ức khiến anh sử dụng ngôn ngữ của những người mà anh cho là hạ cấp. Sau đó anh đi vội về tiểu khu.

Cùng lúc đó, Thanh Huyền cũng chùi nước mắt rời khỏi chỗ cô đứng sau bức bình phong, lũi trốn qua vườn nhà hàng xóm, cô sợ cha cô lại trút giận lên cô. Vâng, cô đã khóc tức tưởi khi thấy Khiêm hạ mình khóc lóc và van lạy. Nhưng trong những giọt nước mắt đau thương ấy của cô hẳn phải có mấy giọt vui mừng: hôm nay cô thấy rõ tình yêu của Khiêm đối với cô chân thành và mãnh liệt đến mức nào. Sự hạ mình chịu nhục của Khiêm lúc nãy là một bằng chứng.

Sau biến cố đau buồn ấy, Huyền vẫn âm thầm khóc mỗi đêm, nhưng cô không cho cha cô thấy, vì nếu ông biết được ông sẽ giận điên lên. Có lần đang đứng lớp, đọc chính tả cho các học sinh lớp nhì, cô bỗng trào lệ cảm, cô vội vàng chạy ra hành lang lau đôi mắt lệ tủi thân, một phút sau mới vào lại. Thời gian ấy đủ để cho mấy học sinh nghịch ngợm và học dốt quay cóp bài của nhau.

Cuối tuần nhà chùa tổ chức cho các thiện tín đi hành hương. Cô đăng ký tham gia để tránh mặt cha cô những ngày cuối tuần cũng để tìm khuây khỏa trong tín ngưỡng vì dù vẫn kính yêu cha mình, nhưng khi nhìn vào vẻ mặt đắc thắng, vênh váo của cha cô đã làm nhục Khiêm mà ông coi như một kẻ thù, cô không chịu nổi. Chẳng phải một trong các chức năng quan trọng của tôn giáo là an ủi, nâng đỡ người ta sao?

Phần Khiêm khi về đến tiểu khu và gặp lại Khánh, anh không thể giấu bộ mặt thảm hại của anh trước con mắt soi mói của Khánh, vì suốt buổi sáng, anh đang chờ kết quả lời cầu hôn của bạn mình. Là một chiến sĩ, Khánh vẫn coi thắng bại là chuyện thường, vấn đề là phải “tận nhân lực”, làm hết sức mình, thì mới biết ý trời, “tri thiên mạng”. Khánh nhẹ nhàng hỏi,

-“Sao thế nào rồi?”

67

-“Tôi đã làm hết sức mình nhưng hoàn tòan thất bại. Ông ta như một bức màn sắt vô tri, vô giác.

-“Hết sức mình là sao?”

-“Tôi khóc lóc, tôi lạy lục, tôi van xin với con tim tan nát… Đủ chưa?”

Lúc này Khánh lạnh gáy, trợn mắt lên nhìn Khiêm nói,

-“May mà bạn không mặc quân phục. Nếu bạn mặc quân phục mà đi lạy lục khóc lóc như vậy, tôi sẽ nhốt bạn vào con-nét rồi, vì như thế là làm mất danh dự của Quân lực Cộng hòa, một quân đội lấy đại nghĩa thắng hung tàn lấy chí nhân thay cường bạo như lời Nguyễn Trãi đã nói.”

Thiếu úy Khánh ngừng lại một phút, rồi nói tiếp,

-“Nhưng nghĩ lại, hạ mình chịu nhục vì tình yêu cũng đáng. Chẳng phải Chúa Giê-su của bạn đã vì yêu mà chịu nhục khi xuống thế trong thân phận con người, rồi cũng vì yêu lại hạ mình chịu nhục khi bị xét xử bất công, bị chửi rủa, bị đóng đinh sao? ”

-“Vậy theo thiếu úy, tôi phải làm gì bây giờ đây?” Khiêm cảm thấy nguôi ngoai đôi chút ngắt lời Khánh hỏi.

-“Tôi nghĩ cô ấy còn đau khổ hơn bạn nữa nên theo tôi nghĩ bạn nên tìm cách gặp cô ấy để an ủi và trước khi qua Mỹ học về không ảnh, bạn phải hứa sẽ yêu cô ấy mãi bất chấp hoàn cảnh sau này ra sao,” nói đến đây Khánh ngân nga: “cớ sơra sờra giơ temơ à gia-me” [“Que sera, sera… je t’aime à jamais”].

-“Nhưng làm sao tôi gặp lại Huyền đây khi mà cha cô ấy cấm cách chúng tôi?” Khiêm hỏi vẻ lo lắng.

-“Chúng ta làm quân báo mà bạn còn hỏi câu ấy. Hãy để tôi lo chí ít là một lần đầu.” Sau đó hai người tự mình mà xoay xở.

Hôm ấy, khi chiếc xe chở khách hành hương rời khỏi sân chùa nhắm hướng Sóc Trăng, nơi có ngôi chùa Miên mà họ sẽ đến viếng và nghe giảng pháp hai ngày, Huyền đã yên vị trên ghế ngồi gần băng cuối. Khi xe vào trạm kiểm sóat đầu tiên trước khi rời thị trấn, tài xế xuống trình giấy tờ xe và giấy đăng ký hành khách. Lúc lên lại cabin, tài xế dẫn theo một thanh niên mặc áo nâu nhạt, đầu đội mũ kết,

68

đeo kính nâu mà trưởng trạm gởi đi quá giang đến chùa hành hương. Và một cách ngẫu nhiên (hay do sự an bài huyền nhiệm nào đó) băng ghế Huyền ngồi còn trống một chỗ. Chỉ khi Khiêm ngồi xuống, giở nón kết ra, Huyền mới biết là anh, cô kinh ngạc suýt kêu lên, nhưng anh đã nói nhỏ vào tai cô, “Anh nhớ em quá nên phải gặp em bằng cách này…” Rồi trên đường đi, họ nói nhỏ vào tai nhau sợ những khách hành hương khác để ý. Có lẽ các tín đồ trên xe lơ mơ đóan rằng hai người là đồng nghiệp và là bạn học cũ của nhau. Và dĩ nhiên cả hai đều là Phật tử.

Khi đoàn hành hương đến chùa, sau khi vái lạy tượng Phật Thích Ca Mâu Ni ở chính điện, mọi người được sư trụ trì mời thọ trai trong trai đường, ở đây họ được thông báo chương trình hành lễ và nghe giảng pháp từ ba giờ chiều hôm ấy đến ba giờ chiều hôm sau. Đó là lúc họ lên xe quay về và sẽ đến Hàm Luông khỏang chin giờ tối.

Thọ trai xong, Huyền thay bộ áo dài lam bằng bộ bà ba lụa màu nâu nhạt, quần lụa đen cùng Khiêm ra phố vì cô muốn mua ít đặc sản cho mẹ và hai em cô. Cô định hai giờ sẽ quay lại chùa, trước bài thuyết pháp đầu tiên một tiếng. Ra đến phố họ đi một vòng chợ Sóc Trăng rồi vào một quán nước. Khi ngồi vào bàn họ mới nhận thấy, đối diện với quán nước bên kia đường là một khách sạn có tên Tulipe. Ngay trước cửa một bên lối vào, có một người đàn ông ngồi trên một cái ghế dựa bằng mây, đọc báo. Ông ta có vẻ là chủ khách sạn. Trời nóng nên thỉnh thoảng ông ta phe phẩy tờ báo làm quạt. Rồi ông ta bỏ tờ báo xuống, đi qua quán nước để mua một chai nước sô-đa chanh. Khi thấy Khiêm lúc ấy vừa nói chuyện, vừa đắm đuối nhìn Huyền bởi nét đẹp của cô – mắt lá răm, môi trái tim, mũi thẳng – đã được nỗi sầu muộn tình yêu pha thêm vẻ huyền hoặc, kỳ bí, người đàn ông kêu lên,

-“Khiêm văn khoa phải không?”

-“À ừ, Trọng đấy phải không?” Khiêm nhận ra bạn học tại Văn khoa là Hồ Kim Trọng, còn có biệt danh là Trọng Lõi. Anh này người gốc Hoa lớn hơn Khiêm năm tuổi, anh được hoãn dịch vì là người Hoa quốc tịch Pháp, anh ghi tên học Văn khoa để biết lịch sử Việt Nam và thế giới như lời anh thường nói. Hiện nay anh làm quản lý khách sạn Tulipe mà cha mẹ anh là chủ nhân. Sau khi biết đôi bạn Khiêm-Huyền đi hành hương và ba giờ phải có mặt ở chùa, Trọng nói,

-“Thế này nhé, chiều nay hai bạn đừng ăn cơm chùa vì tôi sẽ mời hai bạn ăn cơm hải sản tiệm ngon nhất ở đây. Rồi đi xem cải lương tối về khách sạn tôi nghỉ; sáng

69

sớm mai có người lấy xe hơi đưa hai bạn về chùa. Chiều mai tôi đưa hai bạn đi xem vườn măng cụt của tôi. Sáng mốt hãy về.”

Khiêm bất ngờ trước lời mời này và như thế sẽ có thêm thời gian an ủi vỗ về Huyền trước khi anh chia tay cô qua Mỹ. Dù vậy anh cũng hỏi ý kiến của cô: “Anh Trọng mời vậy em tính sao?” Cô nhẹ nhàng đáp, “Anh tính sao cũng cũng được, em sẽ theo ý anh.” Khiêm nhận lời mời của Trọng, rồi đôi bạn trở về chùa. Buổi chiều, sư trụ trì giảng pháp “Thập nhị nhân duyên” và sư nhấn mạnh đến ba mắc xích quan trọng trong mười hai mắc xích ấy là “ái”, “thủ”, “hữu”. Vâng, cô có thể “yêu” nhưng cha cô không cho cô giữ lại tình yêu ấy cho mình. Thế nên cô muốn có một kỷ niệm sau cùng thật đẹp, thật ấn tượng với Khiêm. Đến khi bài giảng kết thúc, cô biết rằng cô đã không thể tập trung và hiểu thêm được gì. Dù vậy một câu hỏi luôn ám ảnh cô, “Mình phải làm gì để đáp lại tình yêu chân thành, nồng cháy của Khiêm: anh ấy đã yêu mình đến nỗi sẵn sàng chịu cha mình sỉ nhục?”

Buổi tối, sau bữa ăn khá thịnh soạn tại nhà hàng, ba người bạn đi xem tuồng cải lương “Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài”. Mối tình bất trắc của hai nhân vật ấy đã làm Huyền chảy nhiều nước mắt. Ngồi cạnh Khiêm trong rạp hát, mỗi lần cô khóc, cô lại dựa đầu vào vai Khiêm và anh cảm nhận những tiếng nấc nghẹn ngào của cô. Lúc đó anh vuốt vai và lưng cô để an ủi.

Lúc ra khỏi rạp hát, trời đã khuya. Khiêm và Huyền về nghỉ trong một phòng của khách sạn Tulipe mà Trọng đã dành cho hai người. Việc Trọng tiếp đãi Khiêm như thượng khách làm Khiêm vừa thích thú vừa ngại ngùng. Anh còn nhớ khi cùng học Văn Khoa, có lần anh nói: người Hoa đích thực phải có đủ trong dòng máu mình hai tinh thần: thương nhân và hiệp khách. Lúc đó anh đang đọc cuốn truyện Hiệp Khách Hành nên nhận lời Kim Trọng. Vả lại Kim Trọng có lẽ là một trong số ít người Hoa còn giữ tinh thần hành hiệp ấy mà óc lý tài chưa làm cho thui chột. Mặt khác anh là người quốc tịch Pháp nên phần nào được nuôi dưỡng bởi tình huynh đệ/fraternité một châm ngôn của cách mạng Pháp. Dù vậy Khiêm vẫn thấy ái ngại sự hào hiệp của Trọng, anh nghĩ sau này anh sẽ có dịp để trả ơn Trọng. Thật vậy, sau năm 1975, họ gặp lại nhau tại Hoa Kỳ và câu chuyện đầu tiên họ nói là chuyện hôm nay trong khách sạn hoa Tulipe.

Sau khi khép cửa phòng, Khiêm nói luôn,

-“Lát nữa, em ngủ trên giường, còn anh sẽ ngủ ngồi trên ghế bành …”

70

Huyền bước lại giường ngồi xuống và nói

-“Nhưng em đã ngủ đâu, lại đây với em một lúc đi…” Khi Khiêm đến ngồi sát bên, cô nói tiếp, “Anh có biết em buồn và cô đơn lắm không?”

-“Anh biết chứ: tình cờ mà truyện tình trên sân khấu lại giống chuyện tình anh và em, nhưng em đừng buồn nữa chí ít chúng mình sẽ không có cái kết cuộc bi thảm như thế. Chúng ta sẽ luôn sống để nhớ về nhau.”

-“Thật không anh?”

-“Anh nói bằng tất cả trái tim mình.”

-“Em biết và em có kỷ vật này cho anh.”

Nói rồi Huyền lấy trong túi xách một cây kéo thủ công mà trưa nay cô đã mua ở chợ, cô cắt một đoạn ở đuôi tóc cô gói nó vào chiếc khăn tay màu hồng nhạt ở góc phải trên cao có thêu đôi chim uyên-ương đậu trên một cành đào rồi lấy kim băng đính khăn lại và nói khi đưa cho Khiêm, “Tóc mây em cắt tặng chàng/ Theo chàng trên mọi nẻo đàng nhân sinh/ Hướng dương lòng thiếp chung tình/Dõi theo ai đó bình minh mặt trời. ” Khiêm trào lệ cảm trước món quà kỷ niệm ấy, nên khi Huyền giục anh cầm lấy, anh ấp úng nói,

-“Biết rõ lòng em, anh càng thấy mình không xứng đáng…” Khiêm nói và ép cái khăn gói tóc vào ngực anh chỗ trái tim. Thật vậy Khiêm đã giữ cái khăn ấy theo anh cho đến tuổi già khi anh di cư qua Hoa Kỳ.

Ngay sau đó Khiêm cởi sợi dây chuyền có thánh giá năm chỉ vàng tây mẹ anh đã đeo cho anh sau khi anh tốt nghiệp trường sĩ quan Thủ Đức và trước khi anh về đơn vị. Rồi anh đeo tặng vật ấy của mẹ anh cho Huyền,

-“Anh và mẹ anh tặng em,” anh nói và không quên hôn vào cái cổ dài mềm mại thơm mùi lá dứa của Huyền, trong lúc Huyền ấp úng,

-“Anh còn đáng được hơn thế đấy,” cô nói, “Em còn một tặng vật khác để anh nhớ về em mãi mãi…”

Và trong lúc anh chưa hiểu ‘tặng vật khác’ là gì, Huyền đã giục anh, “Anh yêu em đi kẻo muộn!” Anh lóng ngóng ôm chặt cô vào lòng nói lời âu yếm. Một lúc sau cô nói, “Anh yêu em nhiều hơn nữa đi”. Lúc này anh chưa biết làm gì thêm thì cô cầm

71

bàn tay anh đặt vào gò ngực cô, trong khi một bàn tay kia cô cởi mấy cúc áo của cô để cho những ngón tay anh chạm vào ngực cô mượt mà, mềm mại. Rồi như đã chuẩn bị trước cô e ấp nói, “Mình làm tình đi anh.” Vâng, vài tuần trước, anh và cha cô đã lâm chiến để make the war khiến anh bị ông nhục mạ, còn hôm nay với cô thì ‘make love not war’. ‘Làm tình không gây chiến’, lời nói mộc mạc đơn sơ và chân thành của cô làm anh phấn khích. Thì ra đây là “tặng vật khác” của cô: cô chân thật nghĩ rằng nếu không trao tặng thân xác, nếu cô khư khư giữ chặt nó cho mình trước tình yêu chân thành, nồng nàn của Khiêm, hẳn cô sẽ trở nên người xấu. Vả lại “Người yêu ta xấu với người / Yêu nhau thì cũng bằng mười phụ nhau”. Tình yêu hiến-ngã của cô là như thế… Bây giờ cả hai nằm dài ra trên giường, Huyền phô bày những đường cong gợi cảm từ bộ ngực vung đầy đến mông tròn mẫy mượt để đón nhận bàn tay rồi đôi môi anh kéo rê trên da thịt cô và hôn hít. Mái tóc cắt ngắn của cô xòe ra trên nền drap trắng như những cánh hoa hướng dương màu đen bóng. Cô cong người đón nhận anh đi sâu vào cô từ giữa hai chân dài như đôi trụ ngọc cong lên ép chặt vào đùi anh, mở đầu cuộc phi ngựa băng đồng qua rừng cây, qua sông, qua suối. Một làn sóng khoái cảm tràn ngập thân xác cô làm cô rộn ràng, lẩy bẩy theo động tác lui tới nhịp nhàng của Khiêm; Thỉnh thoảng anh dừng lại, vùi đầu vào ngực cô giữa hai quả núi đôi thơm mùi hoa cỏ; tiếng cô rên rỉ như tiếng gió rừng thu pha lẫn tiếng cô gọi tên anh tha thiết… cho đến lúc lạc thú đạt tới mức viên mãn tột cùng làm cô bật ra một tiếng kêu thảng thốt. Sau đó hai người ôm nhau tâm sự trước khi đi vào giấc ngủ cho đến lúc họ thức dậy quay về chùa tập ngồi thiền-minh-sát dưới sự hướng dẫn của một đại đức già. Có một lúc, khi tâm thức của Huyền nhờ sự minh sát mà trở nên vắng lặng, cảm xúc hoan lạc đêm qua nương theo khoảng trống đó thị hiện lại mạnh mẽ làm ngón chân cô run rẩy, chỗ kín giữa hai chân cô nóng lên và cô nhắm mắt buông mình theo cảm thọ kỳ diệu ấy.

Lúc ba giờ khi xe hành hương đã rời khỏi chùa, cô và Khiêm cùng nhau về khách sạn Tulipe: buổi chiều họ theo Kim Trọng đi thăm vườn măng cụt, sau đó là một buổi tối đi ăn chung với Hồ Kim Trọng, rồi đi xem hát bội, tuồng Kim thạch kỳ duyên của cụ Bùi Hữu Nghĩa, mười giờ rưỡi đêm họ quay về khách sạn. Kim Trọng đưa đôi bạn đến cửa phòng với lời chúc “ngủ ngon nhiều mộng đẹp”. Lại một đêm nữa họ quấn quyện, lăn lộn dìu nhau vào lạc thú yêu đương có lẽ không chỉ một lần. Sáng hôm sau, lúc sáu giờ rưỡi, họ lên xe đò trở về Hàm Luông. Mẹ

72

cô, tức bà Hai Thâu thấy có vài sự đổi khác trong cô mà cụ thể cô không còn buồn thảm nữa chỉ còn lại sự sầu muộn nhẹ nhàng và mái tóc cô bị cắt ngắn, bà hỏi,

-“Con cắt tóc con lúc nào vậy?”

-“Dạ, con định xuống tóc đi tu, nhưng các bà tín nữ cản con lại…”

-“Không được đâu con, con đừng có dại dột: ông nội con là giáo dân đạo gốc. Ba con dù theo đạo Phật nhưng lúc nhỏ đã được rửa tội rồi.”

-“Vâng, con cũng nghĩ như mẹ nên thôi,” cô giả lả nói. May mà mẹ cô không thấy sợi dây chuyền có thánh giá bằng vàng tây năm chỉ mà Khiêm đã đeo vào cổ cô.

Phần Khiêm, hai tuần sau anh về Sài-gòn chờ qua Mỹ và không bao giờ trở lại Hàm Luông. Nhưng anh thỉnh thoảng vẫn viết thư cho cô gởi qua thiếu úy Khánh. Ngược lại cô cũng viết thư hồi âm cho Khiêm và nhờ Khánh chuyển giùm. Sau hai năm việc thư từ gián đoạn, có lẽ khi về lại Sài-gòn Khiêm đã lập gia đình theo sự sắp đặt của cha mẹ anh là dân miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Vả lại trong thời gian ấy, cuộc đời cô đã bước qua một khúc quanh khác khi Đấng Tối Cao đã lên tiếng gọi cô.

73

TIẾNG GỌI TỪ ĐẤNG TỐI CAO

Một tuần sau ngày Khiêm về Sài-gòn, Huyền đi dạy với tâm trạng vô cùng uể oải. Không còn người yêu bên cạnh, dù tình yêu chung thủy luôn tồn tại, cô thấy đời buồn chán, trống rỗng. Chỉ lúc đêm về, cô lấy hình Khiêm và cô chụp ở Sóc Trăng ra ngắm nghía và trò chuyện cùng anh, những lúc ấy cô nhẹ lòng đôi chút. Hôm ấy trong giờ nghỉ giữa giờ, Bích Ngọc kéo cô ra hành lang nói,

-“Chị Dung con bác ba Tùng sẽ khấn trọn đời trong dòng Chúa Quan Phòng có mời mẹ em và em đến dự thánh lễ tại Cù Lao Giêng. Em đi không được vì con em mới tám tháng còn nhỏ quá, mặt khác em sợ tổ chức đánh giá nên em nhờ chị đi với mẹ em.”

-“Vậy mà gia đình chị không ai được mời.”

-“Chị biết rồi mà Bác Ba đã đoạn giao với Bác Hai từ ngày Bác Hai bỏ đạo,” rồi Ngọc hỏi lại “Chị đi với mẹ em được không?”

-“Nhưng chị phải biết vào những ngày nào?” Huyền hỏi lại.

-“Cuối tuần này, đi thứ sáu, thánh lễ thứ bảy, chủ nhật về.”

-“Nếu em giúp chị hai giờ chính tả chiều ngày thứ sáu, chị sẽ đi được với mẹ em.”

-“Vâng, em sẽ dạy thay chị. Sáng thứ sáu chị qua bên em rồi cùng mẹ em đón xe đi Cù Lao Giêng. Chị nhớ nhé.”

-“Ừ cứ vậy đi”

Sau đó họ trao đổi thêm vài chuyện khác. Trong lúc nói chuyện, Ngọc vô tình để hai cánh tay cô thò ra từ tay áo rộng, Huyền thấy trên một tay có các vết bầm xanh tím, còn tay kia có những vết xước như bị cào, Huyền liền hỏi Ngọc,

-“Tay em làm sao mà bị bầm tím vậy?”

-“À ừ, em cũng không biết nữa, mẹ chồng em nói là bị ma cắn.” Ngọc ấp úng một lời nói dối. Lúc đó chuông reo báo mười lăm phút nghỉ giữa giờ chấm dứt. Ngọc vội vã quay về lớp. Huyền cũng về lớp nhưng cô không tin vào lời Ngọc nói vì nếu vết bầm là do ma cắn, vậy vết xước thì do ai làm.

74

Ngọc biết mình nói dối, nhưng cô không thể nói thật được: Tuân là một kẻ bạo dâm, đã biến những lần vợ chông gần nhau thành một sự cưỡng dâm bằng bạo lực, trước những lúc làm tình, anh phải đánh đập và cào cấu cô, thậm chí đã xé nát của cô vài cái quần và áo. Vừa bạo hành, anh vừa kêu van, “Sao em lại đối xử với anh như thế; thằng thầy tu đó có gì hơn anh…?” Lúc đó, cô nằm chịu trận như tảng đá vô tri và nhớ về Minh Vũ với sự nuối tiếc khôn nguôi. Rồi khi Tuân đã ngủ say, cô úp mặt vào gối khóc thổn thức cho đến khi ngủ thiếp. Bây giờ khắp người cô đều có vết bầm, vết xước mới hoặc cũ. Và cô đã che giấu rất kỹ những chứng tích thô bạo, tàn nhẫn ấy. Đến hôm nay, người duy nhất phát hiện chúng là chị họ cô, Thanh Huyền!! Khi đến cửa lớp Ngọc cầu xin Trời Phật cho chị Huyền tin thật những gì cô nói dối. Cô thở dài, “Dù sao Tuân cũng là một ‘đồng chí’ gan dạ và liều lĩnh của cô”. Trong chiều sâu vô thức của cô, cô coi sự bạo hành trong khi Tuân hành dâm như cái giá công bằng mà cô phải trả cho Tuân nghĩa là như hình phạt mà cô phải chịu vì đã thông dâm với Minh Vũ, đã dâng hiến trinh tiết và cả tình yêu cho thầy tu ấy, trước ngày xuất giá.

Đó là những lần sau cùng Bích Ngọc nói chuyện với Huyền vì mấy tháng sau khi bé Khâm con của Ngọc từ mối tình dan díu với Minh Vũ được hơn tuổi rưỡi, Ngọc gởi con cho chị gái lỡ thời của Tuân, chị Hậu, rồi cô và Tuân theo lệnh của nữ tướng Đinh Thị Luyện vào mật khu tham gia chiến đấu.

Cuối tuần hai cô cháu – Bà Lai và Thanh Huyền đón xe đò đi Cù Lao Giêng dự lễ khấn trọn của nữ tu Agnès Dung, chị họ của Thanh Huyền, em gái kế của Gioan Baotixita Minh Vũ. Hôm ấy Minh Vũ đã về dự cùng một cha người Pháp Daniel dâng lễ đồng tế. Minh Vũ đã được thụ phong linh mục ba tháng trước đó và được đưa về làm phó xứ tại chính giáo xứ nơi mà anh đã từng giúp xứ. Cha già nhận “bài sai” của Vũ nói,

-“Vậy hả, đúng là ‘bài-sai’, vì nếu là ‘bài-đúng’, cha phải về giáo xứ chính tòa để sau này còn lên giám mục. Tướng ngũ-trường như cha làm giám mục mới oai.”

Dù Huyền không hiểu biết gì về giáo lý và thần học nhưng trong bài giảng của cha chủ tế Daniel mà cha Vũ là người phiên dịch, Thanh Huyền có ấn tượng mạnh với một câu Chúa nói trong Sách Thánh, “Ai trung tín trong điều nhỏ sẽ trung tín trong điều lớn”. Cô tự hỏi, “Mình đã hứa sẽ yêu Khiêm suốt đời, suốt kiếp và anh ấy cũng thế. Vậy điều này là lòng trung tín trong điều nhỏ hay trong điều lớn?” Lúc

75

ấy cô nghĩ đó là một điều lớn vì nó đã ghi dấu ấn vào chính thân xác cô trong hai đêm ở khách sạn Tulipe . Sau này có lẽ cô sẽ nghĩ khác.

Trước bữa tiệc buổi trưa mà tu viện đãi khách dự lễ, Thanh Huyền đi thơ thẩn ngắm những bức tuợng các thánh. Bỗng nhiên cô nghe thấy một tiếng nói như có một người giấu mặt nói qua một bức màn, “Ta đã chờ con ở đây từ lâu, và từ hôm nay ta chờ con trở lại…” Phải chăng một trong hai pho tượng ở gần cô nhất, một là tượng thánh Giuse, hai là tượng thánh Martino da đen, nói với cô. Không thể được, một tượng đá không thể nói được vì nó vô tri, vô giác. Thế nên một nỗi sợ hãi chạy dọc sống lưng trước đìều bí ẩn mà cô không hiểu, cô vội trở lại phòng ăn và cô thấy mọi người đã yên vị để đọc kinh nhập tiệc. Và thật ngẫu nhiên, Huyền ngồi cùng bàn và đối diện với xơ Dung. Trong bữa ăn, cô buột miệng nói với Dung một câu mà cô không hề chuẩn bị trước, “Sau bữa ăn, chị gặp em một lát được không?” Xơ Dung đáp lại khuôn mặt rạng rỡ, “Được chứ, em cũng có chuyện để nói với chị.”

Sau bữa ăn, Dung và Huyền kéo nhau ra hành lang tu viện, chỗ khúc quanh của hành lang dẫn vào khu nội vi, Huyền nói,

-“Em biết đấy, cha chị đã bỏ đạo Chúa và không rửa tội cho chị khi chị còn nhỏ. Nhưng như người ta thường nói ‘lá rụng về cội’, chị muốn trở lại đạo công giáo nhưng không biết phải làm thế nào. Em cho chị một lời khuyên đi…”

Xơ Agnès Dung trầm ngâm trong mấy phút rồi nói,

-“Thế thì tốt quá! Em cũng định khuyên chị trở lại đạo. Theo ý em trước hết chị phải học giáo lý tân tòng nơi cha Vũ, anh của em, hiện đang là phó xứ Mân Côi, gần nhà chị nhất rồi sau đó chính cha sẽ rửa tội cho chị. Sau này chị hành đạo thì đến giáo xứ ấy như một giáo dân tại đấy.”

-“Em tính như thế là rất thuận tiện cho chị, chị cám ơn em…”

-“Dù sao ta cũng phải thưa với cha Vũ một lời. Lát nữa hai chị em mình sẽ gặp cha để cha cho ý kiến và sắp xếp ngày chị đến học.”

-“Nhưng chị yêu cầu em một việc là tuyệt đối không cho ai biết việc này, nhất là với cha chị. Em biết không, để đến đây mẹ chị phải nói với cha chị rằng chị đưa cô Lai đến gặp một thầy đông y để bốc thuốc.”

76

-“Em biết mà, chị cứ yên tâm.”

Sau khi thu xếp mọi việc, Huyền cùng cô Lai trở về Tân Đông. Ngồi trên xe đò lòng cô phơi phới. Cô nhớ lại lần đi chùa Miên với Khiêm khi hai người ngồi cạnh nhau trên xe. Tuy tình yêu của họ không thành, nhưng tình yêu ấy đã mang lại cho cô những thời khắc hạnh phúc và cả lạc thú yêu đương nữa. Về đến nhà, Huyền kể lại buổi lễ trang nghiêm và long trọng, mẹ cô rất thích thú và cảm động, nước mắt lưng tròng, cổ họng nghẹn ngào vì dù bị chồng buộc bỏ đạo Chúa, nhưng tối nào, bà cũng tìm cách đọc kinh Mân Côi, ít nhất là một chục kinh. Riêng kinh Lạy Cha trước mỗi chục kinh, bà cố gắng đọc thật chậm để thời gian đọc kinh ấy cũng dài bằng chục kinh Kính Mừng vì bà sợ – theo suy nghĩ đơn sơ của bà – Cha trên trời của bà nghe không rõ. Trước khi Huyền đi chuẩn bị bài giảng cho học sinh, bà nói,

-“Có thư gởi cho con lúc con đi Cù Lao Giêng, mẹ còn giữ cho con.”

Huyền giật mình: may mắn người nhận thư là mẹ cô, nếu là cha cô thì chắn chắn ông sẽ xé thư ra đọc trước để kiểm duyệt và đánh giá hạnh kiểm của cô.

-“Thư của ai vậy mẹ?”

-“Mẹ không biết,” mẹ cô nói trong lúc cô cầm lấy phong bì dầy cộm còn dán kín, cô đưa mắt nhìn vào phong bì nói cho mẹ yên tâm,

-“À thư của bạn con, mẹ ạ,” rồi cô về phòng ngồi xuống bàn viết, xé thư ra đọc.

Phải đọc đến dòng thứ ba, Huyền mới biết đó là thư của nhà sư Thích Vô Phương, cháu của sư trụ trì chùa Huỳnh Quang nơi Huyền thường đến nghe pháp. Nhà sư ấy theo dự kiến sẽ lên làm trụ trì thay cho bác của ông. Nhưng tại sao ông lại viết trên năm trang giấy cho Huyền? Thưa rằng ông đã thầm yêu trộm nhớ Thanh Huyền mà pháp danh là Nhủ Hương: Một tình yêu đam mê, say đắm. Trong thư đoạn mở đầu sư viết,

“Nhũ Hương hiền muội,

“Lâu quá không thấy hiền muội đến viếng chùa, khiến lòng huynh vô cùng thương nhớ. Liệu có ai nhớ muội như huynh không? Đó không phải do lòng bi mẫn, thương xót một chúng sinh như bao chúng sinh khác. Muội ơi, không phải thế mà như một con người, một nữ nhân duyên dáng, xinh đẹp khiến cho lòng huynh say đắm nhớ nhung. Nghiệp chăng, duyên chăng, nói sao cũng được, nhưng huynh

77

thường nghĩ nếu duyên nợ này nếu huynh không trang trải đủ thì con đường đạo khó mà viên mãn.

“Hương ơi, xin muội hiểu cho anh vì trước khi làm sa-di rồi tì kheo và cả sau này nữa, huynh luôn là một con người có con tim rung động, xao xuyến vì muội. Than ôi! (đúng hơn là “may thay”) muội đã chiếm lĩnh trái tim huynh từ lúc ban đầu. Những lúc ngồi thiền, huynh cố vận dụng sự quán chiếu để xua tan hình ảnh của muội nhưng muội không phải là bóng tối để bị xua đuổi mà là một ánh sáng khác, long lanh như thanh ngọc, man mác như ánh trăng rằm. Hoặc khi huynh làm cho tâm mình hoàn toàn trống rỗng, thì ngay sau đó, hình ảnh của muội lại lồng lộng quay về như mặt trời nguyên sơ mọc lên trong bầu trời tờ mờ sáng, […]. Vâng huynh đã yêu Nhũ Hương tha thiết, mãnh liệt khiến huynh thù ghét cuộc sống khổ hạnh và độc thân và thật sai lầm khi đồng hóa tình yêu với ái dục. Và Hương đã gây ra trong trái tim huynh một vết thương nghiêm trọng mà chỉ có Hương mới làm cho nó hết đau và lành lại.”

Ở đoạn gần cuối bức thư sư Chân Phương víết,

“Nếu muội thuận tình, huynh sẽ xây một tổ ấm gia đình trên mảnh đất của chùa cũng là đất của tổ tiên để lại bên kia con lạch nhỏ. Và với tài thuyết pháp và tụng kinh với giọng cao và mạnh huynh hứa sẽ bảo đảm cho muội và các con, nếu có, một đời sống hạnh phúc và an lạc, một góc riêng của cảnh giới Di Lặc hôm nay, v.v…”

Đọc xong bức thư của Vô Phương nửa cổ đỉển, nửa hiện đại vì áp dụng cái thể chế cha truyền con nối của các nhà sư bên Nhật Bản: nó cho phép một ông sư lấy vợ. Huyền cảm kích tấm chân tình của sư Phương, vì cô đã trải qua những cảm xúc mà nhà sư đã mô tả trong thư, dĩ nhiên là đối với Khiêm. Thế nên cô định theo thói thường là im lặng không hồi đáp, nhưng nghĩ lại thấy rằng giữ im lặng là không phải phép vì có thể bị hiểu là coi thường người gởi. Và Huyền đã viết ngắn gọn ít dòng để hồi âm:

“Sư huynh rất đáng kính,

“Muội không ngờ huynh đã có tấm lòng bao dung chiếu cố đến phận nữ hèn này với tâm tình yêu thương thành khẩn dường ấy. Muội cảm kích vô cùng tấm lòng của huynh không chỉ yêu mến muội như một Nhũ Hương giả định, một cái vô ngã

78

giả danh. Nhưng khi nghĩ mình là thân “bọt trong biển khổ bèo đầu bến mê”, muội không dám nói lời ‘xin-vâng’ để thuận tình cùng huynh. Dù sao, muội cũng thật lòng cầu mong huynh sẽ gặp được người xứng đáng hơn muội gấp vạn lần mà duyên lành sẽ đưa đến… Phần muội, muội sẽ không bao giờ quên được các kỷ niệm đẹp những ngày bên huynh cầu tìm Phật pháp v.v… ”

Thật vậy, cô nghĩ mình đã trao duyên gởi phận cho Khiêm rồi và chỉ một mình anh thôi. Thật lòng và chung thủy… Bức thư này, trên đường đi học giáo lý tân tòng, Huyền đã bỏ vào hòm thư Bưu điện, trên bì thư ghi địa chỉ chùa Hùynh Quang.

Thấm thoắt hơn hai tháng đã trôi qua và cha Vũ đã dạy cô gần hết cuốn giáo lý Tân Định, chỉ còn lại ba bài cuối và một số kinh đọc mỗi ngày. Cha Vũ không lấy tư cách cha phó và thầy dạy nhưng với tư cách là em họ rất quý trọng cô, gọi cô bằng chị và không cho cô gọi lại bằng ‘cha’ mà chỉ với hai từ đơn sơ là ‘chú Vũ’ ví dụ, “Chú cắt nghĩa cho chị hiểu mầu nhiệm này, bí tích kia v.v…”

Một hôm khi đến giáo xứ Mân Côi học giáo lý, cô thấy từ phòng cha-phó một thiếu nữ xinh đẹp vội vã bước ra và hướng về cổng nhà thờ. Cô này trông giống hệt Bích Ngọc từ vẻ mặt cho đến dáng người, khác một điều là tóc hơi bị rối, áo quần hơi bị nhàu làm màu sắc mất tươi. Vì sự giống nhau như hai giọt nước ấy nên khi đi ngang qua mặt Huyền, Huyền buột miệng nói,

-“Cô giống hệt em họ tôi, súyt nữa tôi nhận lầm là nó.”

-“Có thể là thế…” cô gái nọ sẵng giọng đáp.

-“Vậy xin hỏi quý danh của cô, biết đâu lại cũng giống…”

-“Em tên Giả Bích Ngọc, có chữ ‘thị’ nhưng không đúng nên em bỏ.”

Rồi trong lúc Huyền thắc mắc trong lòng về cái tên cũng giống, chỉ khác họ, lại là họ hiếm thấy; hình như cô chỉ gặp họ ‘Giả’ này trong tiểu thuyết Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần, cô gái nọ nói vội, “Chút nữa nói chuyện tiếp nghe,” rồi lỉnh đi mất, trong lúc Huyền chỉ nghe loáng thoáng câu nói cuối của cô gái nọ.

Một giờ học giáo lý hôm đó qua nhanh, Huyền thấy chú Vũ uể oải như bị ma làm, có một lúc cô tưởng mình còn ngửi thấy mùi của bồ kết cháy.

79

Rồi cô đón xe lam ba bánh về lại Hàm Luông, lúc xe đi được hơn nửa đọan đường và trong xe chỉ còn một mình Huyền là khách, xe dừng lại đón thêm một người khách đàn bà. Khi cô ta ngồi xuống băng ghế đối diện, Huyền giật mình vì đó là Giả Bích Ngọc, có lẽ trong một giờ qua, cô đã đi bộ đến đây để đón gặp Huyền. Không đợi Huyền hỏi, cô kể tiếp về cô,

-“Trưa nay em đến để cha dạy em về tình-yêu”

-“Bác ái chứ.”

-“Làm gì anh ấy đạt đến trình độ đó, chỉ là tình yêu xác thịt thôi,” Giả Bích Ngọc trơ trẽn nói. Lúc này, Huyền muốn tát một cái vào mặt ả, nhưng cô kềm chế và nói,

-“Cô làm ơn tôn trọng chức thánh một chút đi: dù họ là những vật-đựng bí tích mỏng dòn, nhưng vật họ đựng là bảo vật Chúa ban.”

-“Này cô Thanh Huyền, cô tưởng ai cũng biết yêu như Chúa yêu sao, kể cả những người có chức thánh. Tóm lại người ta chỉ yêu bằng môi miệng thôi.” Giả Bích Ngọc gằn giọng đáp lại, rồi đập tay vào lưng bác tài, kêu xe ngừng lại cho cô ta xuống.

Trong lúc Huyền còn đang choáng váng vì ả đã gọi đúng tên cô và lời đáp lại của ả tuy trắng trợn nhưng cũng khá thuyết phục, chiếc xe lam ba bánh đã chồm lên chạy tiếp một mạch đến bến xe Hàm Luông. Khi bác tài xe lam mở cái hộp sắt cạnh tay lái để bỏ vào đó tiền đi xe mà Huyền vừa trả. Bác hoảng hốt kêu lên,

-“Trời ơi, cái cô xinh đẹp hồi nãy, trả tiền-vàng-mả cho tôi không phải tiền thật. Nó là con quỷ cái hiện hình người…”

Rồi quay lại Thanh Huyền còn đứng đó xanh mặt vì sợ, bác tài nói,

-“Cô có bị con quỷ đó làm gì không; hồi nãy tôi thấy nó bắt chuyện với cô…”

-“Không có đâu bác.”

-“Vậy là may cho cô rồi, cô nhớ lên chùa xin phép trừ tà của các vị hộ pháp nghe.”

-“Dạ, cám ơn bác” Nói xong cô đi chậm ra khỏi bến xe để xem có sự cố gì tương tự xảy ra cho mấy tờ tiền giấy mà cô vừa trả. Không có gì và cô thở dài nhẹ nhỏm.

80

Tối hôm ấy, cô viết thư cho xơ Dung, vì cô băn khoăn một việc: cha Minh Vũ đã bị quỷ cái dâm dục khuấy nhiễu liệu có còn đủ chức năng để làm phép thanh tẩy nhập đạo cho cô vào giữa tháng sau không. Hai tuần sau, thư hồi đáp của xơ Dung đến. Trong đó, có đọan viết,

“Chị cứ yên tâm để cho anh Vũ em rửa tội nhập đạo cho chị … Chị hãy biết rằng các thừa tác viên dù có chức thánh cũng chỉ là những công cụ hèn mọn, bất tòan trong tay người Thợ Cả là chính Thiên Chúa. Chị hãy nghĩ rằng chính Chúa sẽ ban bí tích thánh tẩy cho chị mặc dù qua đôi tay dơ bẩn của người thừa tác. Phần em, em và một vài chị em trong dòng đang cầu nguyện cho anh Vũ không bị tiêu trầm vì cơn cám dỗ mà ma quỷ đã tiết lộ cho chị để anh ấy không trở thành người bất tín, bất trung với Chúa v.v…”

Vì thế, ba tuần sau, Huyền đã trở thành tín hữu của giáo xứ Mân Côi mà cha cô không hề hay biết. Cuối năm học đó cô xin về Cần Thơ dạy một trường công giáo gần tu viện của xơ Dung với lý do đồng lương trường mới cao hơn vì học sinh đông hơn. Thật ra, đồng lương có cao hơn nhưng đó không phải là lý do chính. Lý do chính là cô muốn rời xa gia đình, rời xa cái bầu khí luôn ngột ngạt vì tính cách độc đoán gia trưởng của cha cô. Vả lại cô muốn trung tín với tình yêu đầu đời của Khiêm: cô nghĩ nếu cô lấy chồng, nhất là khi do cha cô sắp đặt thì hoặc cô sẽ không yêu người ấy như đã yêu Khiêm, hoặc cô sẽ phải sống chung với người mà cô oán hận; trong cả hai trường hợp cô đã làm hỏng hạnh phúc đáng có của cô và của cả người chồng ấy. Và như thế suốt đời cô sẽ bất công với người chồng ấy và bất công với cả chính mình. Còn nếu cô thăng hoa tình yêu đẹp với Khiêm vào cảnh giới yêu thương của Chúa, cô sẽ chọn phần hơn nhưng vẫn giữ lòng chung thủy với Khiêm như lời cô đã hứa. Như thế cô vừa trung tín trong điều nhỏ lại vừa trung tín trong điều cao cả siêu nhiên.

Một năm sau khi đến Cần Thơ, cô vào nhà tập dòng Chúa Quan Phòng mà xơ Dung là bà giáo tập. Vâng, từ nay cô tiếp tục yêu Khiêm trong chính tình yêu Thiên Chúa: một tình yêu tận hiến cho Đức Giêsu Kitô. Xơ Lucie Huyền khấn trọn sau tết Mậu Thân 1968 hai tháng.

Thời gian đó cha cô, ông hai Thâu bị bắt đưa ra Côn đảo vì cuộc đột kích Mậu thân thất bại đã làm cho ông lộ nguyên hình một Việt cộng nằm vùng. Cùng bị đưa ra Côn đảo cầm tù có cả giáo Lộc, cha chồng của Bích Ngọc. Nghe tin con gái ông

81

trở thành nữ tu, ông đạp vào song cửa sắt nhà tù, rồi ngước mặt ra ngòai song cửa, ông chửi ông Trời một trận te tua. Sau đó ông gào lên,

-“Huyền ơi, mày có biết tao vừa mới tìm cho mày một tấm chồng xứng đáng, một anh hùng cách mạng thuộc một dòng họ bất khuất, oai hùng; nó đã vào sinh ra tử và hiện nay cùng một trại giam với tao và bây giờ tao biết làm sao đây. Rõ ràng mày không xứng đáng với nó khi trở thành con gái, phải rồi ‘nữ tử’ của một Chúa ngu và điên thiên niên, vạn cổ, v.v… ” Nói xong, ông ngồi bệt xuống đất, lấy hai bàn tay lau sàn nhà nhớp nhúa, bẩn thỉu, khóc lóc như một trẻ nhỏ hờn dỗi nằm vạ. Tội nghiệp cho ông và tội nghiệp cho Chúa-của-ông bị ông chửi như tát nước.

Tối đó ông giật mình la hét giữa khi đang ngủ vì thấy ác mộng: quan án sát triều đình với cân đai áo mão, ngồi ghế sơn son thếp vàng ra lệnh cho đao phủ lôi Thanh Huyền từ đại lao ra chặt đầu giữa chợ. Khi thấy ông đứng gần đó giữa đám dân quê hiền hậu, đao phủ cầm cái đầu còn mở mắt của Thanh Huyền, tóc tai bê bết máu và hai dòng máu tươi chảy ra khóe miệng tái tím, dí sát vào mặt ông, đó là lúc ông hét to trong giấc mộng. Và ông thao thức tới sáng, từ đêm đó ông bị chứng mất ngủ. Thật tội nghiệp cho ông.

82

TRẢ NGHIỆP?

[Ma đưa lối, quỷ dẫn đường/ Cứ tìm những nẻo đoạn trường mà đi - Kiều]

Mọi người đều biết sau cái chết của ông Diệm, chế độ Miền Nam rơi vào sự chia rẽ trầm trọng. Không còn người đủ tầm cỡ để lãnh đạo Miền Nam. Điều này trở thành một trong các lý do quan trọng để khối đỏ nghĩ có thể kết thúc cuộc chiến bằng một cuộc tiến công và nổi dậy. Sự nổi dậy này nếu xảy ra càng làm thế giới tin rằng cuộc chiến mà khối đỏ chủ xướng là chính nghĩa của nhân dân. Thế nhưng lịch sử đã chứng minh trận chiến Mậu Thân chỉ có tiến công mà không hề có nổi dậy và đó cũng là thuốc thử của lòng dân. Vấn đề này lớn quá, chỉ xin trở lại câu chuyện của Bích Ngọc.

Theo cô vào mật khu còn có Tiểu Quỷ, một trẻ mồ côi trốn cô nhi viện và Cà Rem. Hai đứa này nay đã mười sáu tuổi. Tiểu Quỷ rất thân thiết với vợ chồng Ngọc-Tuân. Nó thường đến chòi tranh của họ, lân la trò chuyện, nó cũng hay cùng đi hành quân với họ. Nhờ sự nhanh nhẹn, nó đã tránh được cái chết trong đường tơ kẻ tóc. Điều đặc biệt là nó giỏi tìm thức ăn để bồi dưỡng cho mình và cho đôi vợ chồng đàn anh của nó. Ví dụ một con gà rừng (có thể là gà bắt của dân), một con rắn nước, vài con vịt trời, một cái đùi của con heo bị trúng đạn. Tất thảy nó đều đem tặng lại cho Tuân, thậm chí cả các gia vị - tiêu hành tỏi ớt - để Ngọc làm món. Và cả rượu cho Tuân nữa. Thật ra nó không vô tư để cho không và miễn phí. Nó cấp dưỡng cho hai người như bầu gánh hát lo cho đào kép no đủ để hát tuồng trên sân khấu. Tuồng gì? Thưa tuồng vô minh và ái dục mà theo Phật pháp làm cho con người mãi trôi lăn trong bể khổ. Sân khấu là cái nệm rơm trên đó Tuân mượn sự no say để cưỡng dâm và bạo dâm Bích Ngọc; khán giả duy nhất là Tiểu Quỷ. Nó thu nhỏ người, móc ngược hai chân chỗ đầu gối vào cành cây bên ngòai căn chòi khá trống trải “chiêm quan” kịch bản ấy như một loài dơi mặt quỷ. Tiểu Quỷ nghiện sự thị-dâm ấy.

Gần đến ngày xuất kích, thì âm thanh cuồng nộ cùng tiếng rên rỉ giữa khuya trong cái chòi ấy vang lên thống thiết lọt vào tai tiểu quỷ, làm chân nó run rẩy, súyt rơi

83

khỏi cành cây. Nó sung sướng khi thấy Tuân dùng sợi dây nịt mà đầu dây đã tách rời một đoạn thành hình chữ V như lưỡi rắn để mở màn cho tấn tuồng ấy…Xem ra Ngọc đã quen sự chịu đựng này, lúc đầu như một sự trừng phạt “xứng đáng” của Tuân nhưng càng về sau đau đớn trở thành một đối chiếu tạo tương phản với khoái lạc sau đó, tạo cho khoái lạc một ý vị khác thường như người thích ăn ớt sẽ thấy hương vị món ăn đậm đà và kích thích hơn.

Dù vậy, sáng hôm sau, thân thể Ngọc xanh xao hơn, bèo nhèo như giẻ rách, chân đi giạng ra mệt mỏi. Hôm ấy cô phải giải mã bức điện khu ủy gởi về mà anh phụ trách không giải mã nổi. Trước đây cũng thế, cô thường giải mã được các bức điện khó của địch giúp anh phụ trách vì có thể cô kiên nhẫn hơn và cô khám phá chìa khóa địch thường sử dụng, căn cứ vào bối cảnh nhanh hơn. Lần nay hình như bức điện nói về kế hoạch lính cộng hòa sẽ phản công trong dịp Tết khi bị địch tấn công bất ngờ với quân số ít hơn mọi khi vì có một số quân nhân về gia đình ở xa ăn Tết. Tối hôm qua sau cơn cuồng dâm của Tuân, cô chợp mắt được một giờ và trong ác mộng, cô lại thấy cha cô hiện về khóc lóc cùng cô, “Con phải làm gì đó cho cha đi, cha chết oan ức lắm…” Với thân xác rã rời như hôm nay, cô không thể làm được gì cho đồng đội trong đó có Tuân và Tiểu Quỷ, tối ngày mai họ sẽ xuất kích, vì khi cô nhìn vào mấy ký hiệu ở dòng đầu tiên, cô cảm thấy đau đầu như búa bổ và không đọc được ký tự nào. Chưa bao giờ cô bị như thế sau khi hành dâm. Cùng lắm là lờ đờ và buồn ngủ với chút ít cảm giác lâng lâng. Sau cùng, cô phải nói với anh phụ trách rằng cô không giải mã được, vả lại cô còn bị nhức đầu. Anh này nói,

-“Để tôi báo cáo là bức điện này là hỏa mù của địch, ta không phải bận tâm. Vả lại, tiến công kết hợp với nổi dậy, chắc chắn ta sẽ thành công…”

-“Nhưng đồng chí quên là kế hoạch này gấp quá, ta chưa chuẩn bị tốt việc nổi dậy.”

-“Chị cứ yên chí đi, chỉ cần nghe súng lệnh của ta là toàn dân sẽ tự phát nổi dậy ngay. Họ vẫn coi Mỹ Ngụy và tả đạo là kẻ thù không đội trời chung mà,” người phụ trách nói với tinh thần “lạc quan cách mạng”, có lẽ thế.

-“Vâng, tôi cũng mong như vậy.” Nói xong cô bỏ đi tìm nước uống và giấp nước vào những chỗ bầm trên người. Sáng nay cô đã mang theo ít muối và bột ngọt để chữa các vết thương do Tuân gây ra. Cô thật tình mong phe cô thắng trận, vì về mặt khách quan, kế họach này có yếu tố bất ngờ, còn về chủ quan cô muốn nhìn

84

thấy Tuân khải hoàn trở về và trở thành “anh hùng nhân dân”. Còn một cái cần thiết khác của chiến thắng mà cô không thấy nằm trong vô thức: cô đã quen với sự khổ dâm bị tập nhiễm lâu ngày mà sự bạo hành của Tuân gây ra. Chí ít cô được an ủi là sau cùng cô cũng làm cho một đối phương sừng sỏ trong cuộc âm-dương giao chiến ấy phải xuôi tay, nằm yên một đống trong giấc ngủ mê của một con dã thú no mồi.

Nhưng lịch sử thường không đi theo ý chí của con người, dù con người rất muốn cho nó một định hướng và một chung cuộc vinh quang nào đó. Trước giờ xuất kích, Tuân tranh thủ thực hiện sự cưỡng dâm sau cùng với lời hẹn “mã đáo thành công” và thêm nhiều cuộc ‘mây-mưa’ như bão tố khác.

Một giờ sau khi đi vào ranh giới của tỉnh lỵ và vài phút sau khi toán quân do Tuân chỉ huy và do Tiểu Quỷ dẫn đường khai hỏa thì họ biết họ đã rơi vào ổ phục kích của địch. Súng trung liên và đại liên của địch bắn trực diện vào họ và họ bị nghiền nát bởi cái ‘máy xay thịt’ của kẻ thù đã bố trí ở đó chờ họ. Tuân và Tiểu Quỷ ngả xuống trong lọat đạn đầu tiên của đối phương, Cà Rem ngả xuống trong lọat đạn kế tiếp. Chiến tranh là thế: tàn nhẫn và lạnh lùng. Đúng như câu nói của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh: “Thiên địa bất nhân dĩ vạn vật vi sô cẩu/ Thánh nhân bất nhân dĩ bách tính vi sô cẩu.” Sô cẩu là “chó rơm”, đồ vàng mã, khi thánh nhân cúng tế xong, trời đất hưởng dùng xong thì đốt bỏ. Trong chiến tranh, thánh nhân là vua quan, tướng lãnh cầm quân

Sáng hôm sau anh thư ký ban hành quân của tiểu khu đếm lại các tử thi, anh nhận thấy chỉ có xác một thiếu niên, trong khi trước đó anh đã biết có hai thiếu nhi trong cánh quân mà Tuân chỉ huy. Thật vậy, dù nhanh nhẹn tinh quái, Tiểu Quỷ cũng không thoát khỏi cái lò “bát quái” với hỏa lực của súng trường, trung liên, đại liên và lựu đạn ấy. Nhưng ngay khi nó tắt thở, thì toàn thân nó bốc cháy thành một ngọn lửa nhỏ của giấy bồi và nan tre như một hình nộm vàng mã, người ta đốt đi sau khi cúng tế. Dĩ nhiên một đống tro nhỏ xám xịt còn lại từ giấy bồi và nan tre cháy ấy không làm anh thư ký ban hành quân chú ý, vì nó nằm lẫn lộn với xác người ngổn ngang cùng da thịt bị xé nát bắn tung tóe trên mặt đất dính máu khô đã bắt đầu bốc hơi làm anh ta muốn lộn mữa. Vì thế trong báo cáo anh viết chỉ có xác một thiếu niên mà đồng đội của anh xác nhận đó là Cà Rem.

85

Sau thất bại thê thảm của cuộc tiến công, một bầu khí buồn bã và gần như tuyệt vọng bao trùm mật khu. Bích Ngọc sụt sùi khóc, dĩ nhiên vì mất chồng, nhưng quan trọng hơn, lần đầu tiên cô cảm nhận nỗi đau cái chết oan ức của cha cô từ những suy nghĩ về quy luật “sát nhân giả tử” trong dân gian. Riêng các cấp trên của cô, ngoài nỗi buồn mất quân, cơ sở bị phá tan, lần đầu tiên họ nhận ra rằng chưa bao giờ họ chủ động lèo lái cuộc chiến này. Mọi quyết định liên quan đến vận mệnh dân tộc, cái sống và cái chết của họ được quyết định từ xa. Không phải từ Hà Nội mà từ Bắc Kinh, từ Mạc-Tư-Khoa, từ các trung tâm quyền lực của phong trào đệ tam quốc tế. Dù đỏ hay trắng, thân phận nhược tiểu vẫn như nhau. Trong khi ở chỗ này, chỗ kia, bọn sĩ phu lạc hậu vẫn mơ màng đến một thời đại Lý-Trần đã đánh tan bao vạn quân Mông Cổ.

Hai tháng sau Bích Ngọc được điều về nội thành công tác với căn cước giả tên Ngọc Bích. Cô phải nắm lại các cơ sở kinh tài trong tỉnh, không để họ chán nản buông xuôi. Ngoài ra để có đủ thuốc men cho mật khu, cô phải đóng vai một trình dược viên đi tiếp thị. Ngoại hình của Bích luôn đạt chuẩn, mặt đẹp, chân dài, đường cong thân thể đầy đặn, mẫy mượt và ấn tượng. Trước khi rời mật khu, nữ tướng Đinh Thị Nguyện nói với cô,

-“Em cũng đừng quên công tác trí vận, đặc biệt các thầy tu đạo Phật và đạo Chúa. Nếu chị nhớ không lầm, em có một người anh họ là linh mục. Hãy chú ý làm nóng lại tinh thần cách mạng của anh ta, lôi kéo anh ta tham gia trở lại. Em hãy nhớ “Dụng nhân như dụng mộc” [dùng người như dùng gỗ] và gỗ quý như người anh họ ấy nếu thuận tiện sẽ được dùng để đóng cái ‘bàn tròn’ của kế sách “hòa hợp và hòa giải” dân tộc đấy.”

Bà Nguyện nói với vẻ mặt vui tươi, phấn khởi, với tinh thần lạc quan, không còn sự buồn bã của những ngày trước đây, vì cách nay hai hôm, bà được tin tướng Nguyễn Thánh Tri sẽ vào Nam để trực tiếp chỉ huy các lực lượng vũ trang, vực dậy tinh thần chiến đấu của chiến sĩ sau thất bại Mậu Thân. Ông ấy là bạn cố tri cũng là người tình thầm kín của bà.

Dĩ nhiên, Bích hứa sẽ hòan thành tốt mọi việc như một đảng viên trung kiên và nhiệt thành, rồi khi đêm xuống, cô cùng người đồng hành, chú Đương, được một du kích dẫn đường ra khỏi mật khu về thành hoạt động.

86

KIM KIỀU TÁI HỢP

Một tháng sau vào một ngày đầu tuần, có một phụ nữ ăn mặc tân thời, tóc uốn xỏa ngang vai, áo kiểu quần ống loa, vai đeo túi vải cùng đi một một ông tuổi trung niên đến tìm gặp cha phó giáo xứ Mân Côi sau giờ kinh chiều và đó chính là Ngọc Bích cùng chú Đương. Người gác cổng vào phòng Minh Vũ báo có người nhà cha đến gặp. Minh Vũ buông xâu chuỗi Mân côi và sách suy niệm xuống bàn vội ra phòng khách.

Gặp lại Ngọc Bích, cha Vũ vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Kinh ngạc vì gặp lại nhau giữa lúc chiến tranh ngày càng khốc liệt phải là chuyện hiếm có, vui mừng vì từ sau tết Mậu Thân, ông thường băn khoăn tự hỏi không biết cô có được bình an giữa lằn tên mũi đạn hay không. Bây giờ thấy cô ăn mặc tân thời lại còn xức nước hoa của Pháp ông thật sự vui sướng. Sau khi giới thiệu chú Đương, cô nói với Vũ,

-“Tụi em sẽ qua đêm ở đây, sáng mai chú Đương đi ra Kiến Hòa còn em về Tân Đông thăm mẹ rồi qua thăm nhà chồng em.”

-“Không sao đâu, có hai phòng trống dành cho chú Đương và em.” Vũ nói.

Bích quay lại chú Đương hỏi,

-“Chú có đi nghỉ sớm không, cháu thấy chú có vẻ mệt.”

-“Ừ phải, tôi thấy hơi mệt.”

Trong lúc cha Vũ dẫn chú Đương đến một phòng nhỏ gần nhà kho, trong phòng có một cái ghế bố đã mắc mùng sẵn, Bích đến trước tấm kính treo một góc phòng khách để ngắm mình trong gương. Dưới ánh đèn bóng tròn vàng vọt, hình ảnh cô trong gương toát ra một vẽ đẹp man dại, mơ màng. Cô vuốt lại mái tóc quăn, về lại ghế ngồi, ngay sau đó, Vũ bước vào, ngồi đối diện với cô, có một lúc bàn chân anh chạm vào bàn chân cô nhỏ nhắn. Vũ nói,

-“Em hãy kể lại anh nghe chuyện của em từ sau khi mình đi Tây Ninh rồi anh về Sài-gòn nhận chức thánh cho đến nay đi. Tính ra cũng đã gần chín năm rồi.”

87

-“Vâng em sẽ kể hết anh nghe để anh đừng nghĩ em là kẻ phụ tình,” nói rồi Bích kể lại việc cô đã nhận lời cầu hôn của Tuân khi biết mình mang thai với Vũ, vì cô không muốn anh vì quyến luyến cô mà mất đi một danh vị trong giáo quyền. Vả lại cô không muốn vì cô mà anh bị cảnh sát quấy rầy vì lúc đó, thiếu úy Khánh ở tiểu khu cho an ninh chìm theo dõi cô rất gắt gao, thậm chí khi xơ Dung khấn trọn cô cũng không đi được. Đến đây, Vũ kêu lên thảng thốt, nắm chặt lấy hai cổ tay của Bích làm cô đau phải nhăn mặt. Sau đó cô kể lại chuyện Tuân tử trận trong trận Mậu thân, đôi mắt rưng rưng lệ, thật sự tiếc nuối. Vũ thở dài, im lặng một lúc, lấy tay lau lệ cho Bích rồi nói,

-“Chúa ơi, anh có con mà em lại giấu anh không cho anh biết, em biến anh thành một người cha vô trách nhiệm. Anh nói em đừng giận anh nghe: Em tốt với anh mọi sự trừ việc em giấu anh có con thì em xấu với anh đó,” Vũ lại thở dài rồi nói tiếp. “Thằng bé con anh tên gì và hiện nay nó ở đâu?”

-“Trước khi vào bưng, em đã giao bé Khâm con mình cho chị Hậu, em chồng em, một cô gái lỡ thời. Khi còn trong mật khu cách vài tháng em thường lén về thăm nó. Nay anh Tuân chết rồi, em muốn anh nhận nó và cùng em chăm sóc nó.”

-“Ngày mai anh sẽ qua Tân Đông thăm nó. Nhà giáo Lộc thì anh có biết nên em cứ về Sài-gòn công tác, anh sẽ đi một mình.”

-“Ngày mai anh và em sẽ cùng về và em sẽ bảo nó gọi anh bằng ba. Vả lại nó chưa bao giờ gặp Tuân và chỉ được chị Hậu nói là ba con đi làm ăn phương xa chưa thể về được những lần nó xin cô Hậu dẫn nó đi tìm ba nó. Thăm con mình rồi em sẽ từ Tân Đông ra Kiến Hòa đón xe về Sài-gòn ”

-“Vậy thì tốt quá, sau này anh sẽ một mình qua gặp nó thường xuyên và gởi tiền thù lao trả công cho cô Hậu chăm sóc nó.”

-“Cái việc đền đáp công bằng với cô Hậu em đã lo rồi, anh khỏi bận tâm. Và điều em kỳ vọng ở anh hôm nay là anh còn phải trở thành Giám mục và Hồng y nữa.”

-“Sao mà em nhiều tham vọng thế… Để xem…” Vũ nói trong khi hai bàn tay ông vuốt nhẹ đôi má cô dưới một lớp phấn hồng nhạt, và bàn chân anh vuốt nhẹ vào lưng bàn chân cô. Sau nửa phút nhìn nhau đắm đuối vào đôi mắt có giọt lệ rưng rưng của cô, Vũ hỏi,

88

-“Những năm sống với Tuân em có hạnh phúc không?”

Câu hỏi này làm cho giọt lệ lưng tròng trào ra khóe mắt, kéo theo nhiều giọt khác, cô khẽ lắc đầu và nghẹn ngào nói,

-“Anh ấy đã làm cho những lúc hai đứa bên nhau lẽ ra là một địa đàng lại trở thành hỏa ngục bởi sự bạo hành của anh ấy.”

Thấy Vũ nghẹn ngào, đôi mắt rưng rưng giọt lệ, cô nói tiếp,

-“Nhưng em thấy mình đáng bị bạo hành vì em luôn yêu anh nhiều hơn Tuân rất nhiều dù sau này Tuân biết rằng Khâm là con anh. Vì tình yêu em đáng bị trừng phạt.”

Vũ thấy câu nói này có hơi hướng thần học, hơi giống câu cha giáo thường nói, “Vì tình yêu nhân loại, Chúa Giêsu phải chịu đau khổ.” Nhưng anh chỉ hiểu được ý nghĩa ẩn kín của nó sau này, khi Vũ nhập vai của Tuân không phải để trừng phạt tình yêu ngoài khuôn phép mà trừng phạt lòng hiếu thảo của cô đối với cha cô.

Thấy Bích tức tưởi, Vũ nói,

-“Anh xin lỗi đã làm em phải phiền muộn,” rồi ông nói sang chuyện khác.

Đến mười giờ đêm, Vũ nói, “Mình đi ngủ đi, sáng mai còn đi sớm.”

Rồi ông dẫn Bích đến phòng ông có đóng lưới ở cửa vào và cửa sổ để ngăn muỗi và nói,

-“Lát nữa, em ngủ trên cái giường không nệm của anh; anh sẽ nằm tạm dưới nền xi-măng. Sáng mai sau thánh lễ lúc bốn giờ, anh xin phép cha xứ rồi mình đi.”

-“Không anh cứ nằm giường đi, em nằm đất cho.” Bích phản đối.

-“Nghe lời anh đi, em nằm đất nhiều rồi. Hôm nay em là khách-quý của anh mà, phải không?” Vũ cười nói và giữ vững đề nghị của ông.

Sau đó, Bích vào nhà tắm thay bộ đồ bà-ba mà cô mang theo, khi cô xuất hiện lại như một thôn nữ duyên dáng ngày nào, Vũ thấy lòng ông xao xuyến và trong lúc ông đắm đuối nhìn cô, chiêm ngưỡng những đường cong gợi cảm của cô, thì cô ngước nhìn trên vách, ngay phía trên giường một bức họa chân dung khổ lớn vẽ Đức Giêsu đầu đội vương miện bằng vàng cẩn kim cương lấp lánh, một tay cầm

89

quả địa cầu, tay kia giơ lên ban phép-lành. Điều đặc biệt của bức họa này là ngòai bộ râu quai nón và bộ ria mép của một người đàn ông Do Thái, họa sĩ lấy chính khuôn mặt của Minh Vũ để vẽ chân dung Chúa. Bên trên theo đường cong hình cầu vồng trên nền trời xanh, có câu nói: “Đây là con ta yêu dấu, các ngươi hãy vâng lệnh Ngài”. Trong lúc Bích ngước đầu đọc câu Phúc Âm ấy với sự thán phục, Vũ lại thêm xao xuyến nhưng ông kềm chế và tự nhủ, “Không phải lúc này là lúc mình nối lại tình xưa với cô ấy, khi mà chấn thương Tuân để lại trong lòng cô ấy vẫn chưa lành.” Và để làm tốt suy nghĩ ấy, sau lời chúc Bích ngủ ngon, ông cầm lấy xâu chuỗi Mân Côi trước khi ngả lưng xuống tấm chăn trải trên nền nhà sau cái bàn viết đã được đẩy gọn sang một bên. Bên ngoài trăng thuợng huyền lên cao dần, có tiếng vạc kêu sương bay qua bầu trời đêm đưa giấc ngủ của con người vào một không gian huyền hoặc.

Quá nửa đêm, Ngọc Bích mộng thấy Chúa từ bức họa bước ra đến đứng ở đầu giường cô, nhưng với khuôn mặt thật theo truyền thống trong đạo, bàn tay ban phép-lành của ngài hạ xuống vuốt đầu cô. Ngài nói: “Ta chữa lành mọi chấn thương mà đứa nghịch tử ác độc đã gây ra cho con trong thời gian qua.” Nói xong ngài biến mất. Và thật kỳ diệu: sáng hôm sau khi thức dậy cô thấy người khinh khoái nhẹ nhàng, như vừa trút bỏ một cái ách nặng nề. Vâng niềm vui sống đã trở lại và Buồn ơi, xin nói cùng mi lời tạm biệt. Vâng tạm biệt vì một chấn thương khác sẽ đến với cô và do chính Vũ sẽ gây ra.

*&*

Ngày hôm sau, khi thánh lễ ban sáng kết thúc, Vũ và Bich đón xe về Tân Đông. Chú Đương đón xe về Kiến Hòa. Bích và Vũ ghé chợ Hàm Luông để mua ít sách vở lớp ba, đồ chơi bằng nhựa và bánh kẹo cho bé Khâm. Vũ muốn gây ấn tượng cho đứa con mà ông còn chưa biết mặt. Ông nghĩ sau này ông đến, ông sẽ mua cho nó đồ chơi do nước ngoài sản xuất.

Khoảng mười giờ sáng, họ bước vào nhà và chị Hậu ra đón họ với vẻ mặt vừa vui mừng vừa ngạc nhiên. Bích kéo chị Hậu ra riêng để nói lý do cô về bất ngờ, không báo trước. Đại khái cô tìm cho Khâm một người cha dượng để cùng với chị Hậu chăm lo việc dưỡng dục Khâm cho đến tuổi trưởng thành. Vả lại Khâm đang cần có một người cha yêu thương nó, để nó tự hào với các bạn cùng lớp v.v… Chị Hậu lúc đầu có vẻ không bằng lòng, nhưng khi chị nhìn kỹ từ xa vẻ sang trọng, quý

90

phái, điềm đạm của Vũ và khi Ngọc Bích nói rằng từ nay mỗi tháng cô sẽ gởi gấp đôi tiền cấp dưỡng cho thằng bé và chị là bảo mẫu. Số tiền này, Bích tự nhủ, cô sẽ lo nổi khi quản lý các cơ sở kinh tài của tổ chức. Sau cùng chị Hậu cũng phải thuận theo đề nghị của Bích vì chị vẫn giữ thằng bé mà chị yêu thích bên mình và cha dượng nó thỉnh thoảng mới đến thăm.

Đúng lúc đó, thằng Khâm từ nhà bạn trong xóm chạy về, nó ngẩn người khi má Hậu (nó thường gọi chị Hậu bằng ‘má’ và gọi gọi Bích bằng ‘mẹ’) bảo nó,

-“Con khoanh tay chào mẹ và cha con đi.”

-“Cha con đây sao?”

-“Phải.”

-“Cha con không đi làm ăn xa sao?”

-“Cha con chỉ ghé thăm rồi lại đi tiếp.”

Thằng Khâm không nói gì, nó chỉ cúi đầu rồi im lặng quan sát. Phần Vũ, ông vô cùng xúc động khi lần đầu gặp con, thằng bé có khuôn mặt thanh tú giống mẹ hơn giống ông, đủ để chị Hậu không nghi ngờ ông là cha ruột. Nó là kết quả của tình yêu đam mê giữa ông và Ngọc Bích năm nào, một tình yêu mãnh liệt đã khiến ông vượt qua rào chắn mà Giáo Hội dựng lên cho một thầy tu. Trước mặt chị Hậu ông phải kềm nén cảm xúc ấy. Tuy nhiên ông cũng hồi hộp lo lắng không biết con ông nghĩ gì về ông. Sau đó lúc cả má và mẹ ra nhà sau nấu ăn, ông đưa nó đồ chơi, bánh kẹo và sách vở, rồi ông bày trò chơi cho nó, nó im lặng chơi và làm theo chỉ dẫn của ông. Một lúc sau, nó nhìn ông không nói, đủ trí khôn để biết đó không phải là ba Tuân, nhưng vẫn mỉm cười thật tươi. Chỉ khi đó, ông mới thở ra, nhẹ nhỏm: nụ cười của nó là nụ cười hài lòng và chấp nhận sự an bài của người lớn. Vả lại có một điều may mắn là chị Hậu luôn giữ đạo Chúa của ông bà, tổ tiên dù cha cô, ông giáo Lộc, một chủng sinh hồi tục sau đó vì bất mãn đã chia tay với đạo Chúa, đúng hơn với Giáo hội, nên ông đã ngăn cản việc chị Hậu rửa tội cho thằng bé. Ngay khi giáo Lộc bị bắt đưa đi Côn Đảo cùng lúc với ông Hai Thâu, chị đã nhờ cha xứ rửa tội cho Khâm và ghi tên nó vào lớp giáo lý thiếu nhi.

Giờ đọc kinh buổi tối hôm đó dĩ nhiên là do chị Hậu chủ trì, Minh Vũ ngồi trong một góc nhà như một giáo dân bình thường khác vì ngoài Ngọc Bích, không ai biết

91

Vũ là linh mục. Vả lại một linh mục đương nhiên có đàn-chiên trong giáo xứ là con của mình, thậm chí những người con lớn tuổi hơn mình, dại gì phải nhận thằng Khâm là con ruột.

Trong suốt buổi đọc kinh, Vũ chăm chú nhìn bé Khâm, khuôn mặt ngây thơ của thằng bé luôn hướng về bàn thờ với ánh mắt đầy sự thán phục và cậy trông. Sau giờ đọc kinh, như những lần trước có mẹ về thăm, nó nằm ngủ giữa mẹ Bích và má Hậu. Còn Vũ nằm trên một ghế bố đặt ở phòng khách. Sáng hôm sau, khi chị Hậu và Bích đi dự thánh lễ về, họ ghé qua chợ nhỏ mua thức ăn sáng cho cả nhà. Sau bữa ăn sáng, Vũ và Bích ra đón xe để Vũ về giáo xứ và Bích đi Kiến Hòa. Nhưng khi xe đi được hơn một phần ba đọan đường, sắp đến ngã ba dẫn vào giáo xứ, Bích nắm tay Vũ nói,

-“Hay là anh ra Kiến Hòa với em để em mua ít bộ quần áo học sinh cho Khâm, anh mang về, hôm nào tiện anh đưa lại cho chị Hậu giúp em,” cô vừa nói vừa ngả đầu vào vai anh.”

-“Ừ cũng được, với lại anh cũng định mua cho Khâm vài món đồ chơi nhập từ nước ngoài.”

-“Em cám ơn anh,” Bích ỏn ẻn nói.

Gần một giờ sau xe vào bến. Hai người vào chợ mua sắm. Bích mua hai bộ áo quần học sinh may sẵn cho Khâm, còn Vũ mua một chiếc ô-tô đồ chơi và một quả banh da nhỏ cho thằng bé. Rồi Vũ đưa cô ra bến xe đi Sài-gòn. Lần này họ đi vòng qua khu người Hoa. Tiếng người nói xí xô, xí xào, mùi các món ăn nhiều dầu mỡ từ vài hàng ăn bay ra, âm thanh các bài hát tiếng Hoa léo nhéo cả giọng hát the thé của các diễn viên nữ theo nhịp chiêng và phách trong các tuồng kinh-kịch. Rồi các cửa hàng bán đồ gia dụng treo đầy các loại hàng từ trần nhà xuống. Có cả mùi thuốc Bắc từ một cửa hàng đông dược. Tất cả đều nhắc Ngọc Bích nhớ lại những kỷ niệm khi xưa cả tâm cảnh rộn ràng khi ấy làm cô bồi hồi xao động. Đúng lúc họ đi ngang qua khách sạn nơi họ lần đầu trao thân gởi phận cho nhau, Bích nắm tay Vũ giữ ông đứng lại, cô nói,

-“Mình vào đây nghỉ ngơi rồi mai sớm hãy đi, vì em không gấp lắm.”

-“Ừ, vậy đi em. Mai đi sớm cho mát.” Đúng là trời rất oi bức với cái nắng giữa tháng tư. Vũ như cởi được tấm lòng vì như thế có nghĩa là cô đã nguôi ngoai

92

những đau buồn mà Tuân đã để lại. Ông cầm tay cô cùng quay lại khách sạn và bước vào.

Sau khi nhận phòng và mở cái cửa sổ duy nhất ra, họ ngồi nhìn nhau và nhắc lại chuyện xưa, Bích nói,

-“Có phải cái phòng này ngày xưa không anh?”

-“Có lẽ thế. Bây giờ họ bài trí khác trước và đẹp hơn.”

Sau khi nhận phòng, hai người đi xuống phố ăn trưa. Lúc về lại phòng họ mở cái quạt trần cánh dài, bên dưới bầu quạt có một bóng đèn màu hồng làm hiện ra bóng các cánh quạt xoay tròn trên trần nhà. Trước đó họ đã đóng cửa sổ lại vì những giọt mưa rào đầu mùa bắt đầu trút xuống cùng với tiếng sấm từ xa. Họ nằm bên nhau nhắc lại những kỷ niệm cũ, một lúc sau Bích cầm bàn tay mềm mại của Vũ đặt trên hai chỗ cao ở ngực cô và lấy tay cô sờ soạn bộ ngực vuông săn chắc của anh. Cơ thể của hai người được kích thích cho cơn say xác thịt. Một lúc sau Vũ đã đi sâu vào Bích cùng với những động tác lui tới nhịp nhàng và mạnh mẽ. Bích hạ thấp rèm mi, vành môi hình cung của cô hé mở thốt ra những tiếng rên lúc đầu còn nhỏ sau biến thành tiếng kêu la không cần thiết, đó là phản xạ còn sót lại từ những lần cô bị Tuân cưỡng đoạt nhưng tiếng la to ấy bị tiếng mưa bên ngoài nhấn chìm. Bây giờ không còn đau đớn, chỉ có khoái cảm mênh mông lồng lộng đi về cùng với nụ hôn của Vũ trên môi trên mặt cô, cùng với những cái ấn sâu miệt mài vào giữa hai đùi cô tưởng chừng như vào nơi vô tận. Và Vũ thích thú với tiếng rên rỉ của cô như thứ gia vị thêm vào bữa ăn của bản năng cơ bản kéo dài thành một tiếng ngân khi tàn cuộc. Kịch bản này sẽ được tái hiện mấy lần trong buổi tối hôm đó như một liệu pháp cho các chấn thương của Bích hồi ở mật khu.

Sáng hôm sau khi về đến giáo xứ, lúc cha chính xứ đang ngắm mấy chậu cây thược dược mới trổ hoa, Vũ chào cha chính xứ và nói,

-“Hoa nở đẹp quá chứng tỏ tài chăm sóc của người chủ vườn.”

-“Vậy hả. Bộ cha chưa biết tài trồng hoa của ta sao?” cha chính xứ hỏi.

-“Dạ chưa.”

-“Vậy cha lầm rồi.”

93

-“Vâng con lầm và xin chịu lỗi.”

Nói rồi ông Vũ xách đồ mua cho Khâm đựng trong túi giấy màu vàng vào nhà. May mà cha chính xứ không thấy trong túi giấy có đồ chơi cho trẻ nhỏ. Phần Vũ, ông định cuối tuần sau ông sẽ mang qua con ông và sẽ đi về trong vòng một buổi sáng. Cha chính xứ nhìn theo sau lưng Vũ nói thầm, “chăm hoa thì đã chưa từng, nhưng hái hoa thì đã lắm lần xông pha,” rồi ông nghêu ngao, “Hoa khi đang nở ta nên hái/ Chớ để trơ cành hoa đã xa.”

Sau đó hai tuần, được một ân nhân cho tiền mua thêm ít ghế quỳ trong nhà thờ, Vũ trình cha già chính xứ và đích thân thực hiện. Nhờ mua được giá rẽ Vũ còn dư một phần ba số tiền, ông trình báo lại cha già đồng thời đề nghị sửa sang căn phòng cho khách nghỉ qua đêm nơi chú Đương đã ngủ. Vì bổn phận “cho khách đỗ nhà” là một bổn phận bác ái phải có của người tín hữu đạo Chúa dù người xin tá túc có thể trở mặt hại mình hoặc có thể có những lập trường hoặc chính kiến khác mình. Chính căn phòng ấy Vũ đã dùng để tiếp đón cô em họ Ngọc Bích, những lần cô tìm gặp lại ông với con tim cháy bỏng và cơn khát yêu đương như lời cô đã hứa với ông đêm cuối cùng trong khách sạn người Hoa. Tình hình đó kéo dài cho đến năm 1971 khi cha già ngả bệnh phải về hưu và Vũ lên làm chính xứ, sau đó lại kéo dài cho đến tháng tư năm 1975. Suốt thời gian ấy, nữ tướng Đinh Thị Nguyện có ghé lại nhà xứ mấy đêm khi đi hoạt động, trong những lần ấy, chỉ có một lần bà đi chung với tướng Thánh Tri, như cặp vợ chồng tá túc qua đêm. Vả lại theo binh pháp Tôn Tử, để tìm nơi tá túc, nơi an toàn nhất là nơi nguy hiểm nhất và chẳng phải nhà thờ nơi thờ Thần Tối Cao chẳng phải là nơi nguy hiểm nhất của những kẻ vô thần sao? Nhưng lại là nơi an toàn nhất.

94

THIẾU NỮ ĐẠO HỒI

Hai tuần sau ngày 30 tháng tư, khi cơn say chiến tháng đã dịu lại, một nỗi hoài nghi về sự chiến thắng quá dễ dàng đã len lỏi vào đầu óc của những người đa nghi khi thấy hình như đế quốc Mỹ đã biếu không cho họ vinh quang này, khi đã kín đáo đi đêm với Trung Cộng. Lúc ấy, nữ tướng Đinh thị Nguyện cho gọi Bích đến và nói với cô,

-“Chị đã nghĩ đến một điều là em trước sau cũng phải xuất ngũ vì những chỗ trong bộ máy chính quyền sắp tới sẽ ưu tiên cho các cán binh và đảng viên ngoài Bắc, nên chị nghĩ em phải giữ lại ít vốn liếng để sau này còn có điều kiện sinh sống nuôi con em và cô Lai mẹ em… còn cha em hẳn sẽ không quay về Nam, vì một cán binh ở Thanh Hóa đã cho chị biết chú Quý hai năm sau ngày tập kết đã cưới vợ khác ở Thanh Hóa, có bà con xa với anh ta… ”

-“Chị muốn nói điều gì em chưa hiểu,” Bích ngập ngừng nói.

-“Chị muốn em giao nộp một vài cơ sở kinh tài mà em duy trì và gầy dựng thêm sau trận Mậu thân cho tỉnh ủy, phần còn lại em giữ cho em để làm vốn sinh sống sau này. Chị sẽ xác nhận điều này.”

-“Cám ơn chị đã tốt với em…” Bích mừng rỡ nói.

-“Tốt thì chưa biết, nhưng công bằng thì chị có. Này nhé thứ nhất em là con liệt sĩ và vợ liệt sĩ, thứ hai em có công lớn trong công tác dân vận và trí vận, đặc biệt em đã lôi kéo một linh mục họat động ngầm cho ta và kiên định cho đến bây giờ.”

Qua lời nữ tướng Nguyện nói, Bích biết ngay bà đã tin vào “dã sử” đời cô mà ông Quý đã dàn dựng rồi cô phân vân không biết có nên nói ra chuyện Khâm nay đã mười lăm tuổi là con của cô với linh mục Gioan Baotixita Minh Vũ: sở dĩ cô muốn nói sự thật về con cô vì cô không muốn chuyện thằng Khâm mà mọi người vẫn nghĩ là con của cô với Tuân sẽ trở thành một “dã sử” hoặc một “truyền thuyết” khác. Cô muốn con cô được nhận chân trong chính lịch sử thật của nó. Cô định nói thì bà Nguyện đã ngắt lời cô và bắt đầu tâm sự về mình. Người chồng thời con gái mới lớn của bà là một đàn anh trong trường cùng họat động trong một tổ chức.

95

Khổ nỗi bà tỏ ra xuất sắc, giỏi giang hơn trong khi họat động, điều này làm cho chồng bà bực tức mà bà không hay biết. Trong tổ chức còn có một thiếu nữ khác có nhan sắc hơn người biết được nỗi bực tức này nên lúc nào cũng ca ngợi chồng bà và chê bai bà điều này điều nọ, sau cùng đã quyến rũ chồng bà vào lưới tình mà cô ta đã giăng ra. Tình yêu đam mê này làm chồng bà mù quáng. Sau cùng họ gởi thư nặc danh cho phòng nhì Pháp. May mà cô có tay trong ở phòng nhì, một người học trò cũ của cha cô và có lẽ đã rất mến cô, nên trước khi lính bảo an đến bắt cô, cô đã kịp thời trốn thóat. Sau đó chồng chị cùng tình nhân bỏ tổ chức ra cộng tác với Pháp rồi về Sài-gòn xây tổ uyên ương… Bà im lặng một lúc, rồi bà kết luận,

-“Từ đó chị vô cùng thất vọng với mọi đàn ông, nhất là những kẻ ngạo mạn và nặng óc gia trưởng, coi vợ như tôi tớ, phải luôn vâng phục và ca ngợi mình cả trong những điều ngu xuẩn nhất. Sau này chị gặp tướng Thánh Tri, rất tâm đầu ý hợp, nhưng anh ấy không được lòng các tướng lãnh Trung quốc. Năm ngoái, chị được báo tin anh ấy qua đời vì trúng bom máy bay Mỹ oanh tạc. Chị vô cùng đau khổ cùng với nỗi hoài nghi: chắc gì là máy bay Mỹ. Có thể là máy bay của Trung quốc! Từ ngày tướng Tri mất, ngòai nỗi buồn chị không còn tha thiết việc gì khác. Chị muốn quy y vì chị cứ nhớ hòai câu Phật tổ nói: ‘Bỏ gươm đao xuống, Niết Bàn sẽ thị hiện’, thậm chí khi ngủ lời Phật nói đó còn vang vọng trong tai.” Bà ngừng lại một phút rồi bất chợt hỏi Bích,

-“Hình như khi còn sống, Tuân rất thô bạo với em phải không và em chịu đựng cũng giỏi?” Câu hỏi này của nữ tướng Nguyện như một lối-mở để Ngọc Bích nói rõ thân phận của con cô, cô nói,

-“Thật ra trước khi cưới nhau, em đã biết anh ấy rất thô bạo, dữ tợn nhưng vì em đã lỡ có thai hai tháng… ”

-“Việc đó có lỗi phạm gì to tát đâu, tụi em còn trẻ mà lại luôn gần gũi nhau và hoạt động chung… ” Nữ tướng Nguyện hiểu lầm Bích và Tuân đã “ăn cơm trước kẻng”.

-“Không phải vậy đâu chị,” rồi cô ngừng lại dò hỏi nữ tuớng, “Nhưng chị hứa không ghét bỏ em, em mới dám nói thật.”

-“Được chị hứa, em nói thật đi,” sau mấy giây cau mày nghĩ ngợi bà nói.

-“Đứa con trong bụng em giữa ngày cưới là con của linh mục Minh Vũ lúc anh ấy đưa em đi dự đại hội đòan thanh niên cộng sản ở Tây Ninh.”

96

-“Chúa ơi, có vậy sao? Hèn chi em chịu đựng giỏi sự ngược đãi của Tuân. Nhưng cha Vũ có biết con mình chưa.”

-“Dạ biết, và điều này cũng thêm một lý do để anh ấy kiên trì làm việc cho tổ chức.”

Rồi cả hai cùng im lặng một lúc lâu. Đó là thời gian hai người đối thọai ăn hết bốn miếng xoài cát và uống hai ngụm nước trà. Sau đó nữ tướng nói,

-“Sự kiên trung ấy rất tốt. Khi gặp cậu ấy lần đầu chị đã đánh giá là người‘có thể tin dùng’. Chị nói với em trước điều này: chị sẽ phát huy cái sở-dụng ấy để Minh Vũ được lên làm giám mục và hồng y. Như thế mới xứng đáng với cha Vũ và cũng xứng đáng với những hy sinh của em nữa.” Nói xong bà cười to thoải mái. Nụ cười đã tắt từ ngày tướng Thánh Tri qua đời nay lại hồi sinh trên khuôn mặt đẹp lão của bà. Sau bữa ăn trưa với nữ tướng, Ngọc Bích quay về thị xã

Bốn tháng sau, Giám mục giáo phận Xuân Phúc gởi bài-sai gọi cha Vũ về làm cha xứ chính tòa kiêm cha tổng-đại-diện giáo phận Xuân Phúc tại thị xã Phúc Khánh. Hai tháng sau, Ngọc Bích được cấp cho một biệt thự ngoại ô thị xã Phúc Khánh là tiêu chuẩn dành cho hai danh hiệu của cô: vợ liệt sĩ và nữ anh hùng theo sự đề bạt của nữ tướng. Biệt thự ấy trước đây là ngôi nhà của phó tỉnh trưởng tỉnh nhà, cách tòa Giám mục mười phút chim bay với khu vườn trồng hoa và cây kiểng vừa đẹp, vừa lãng mạn. Phía sau biệt thự giữa các bồn hoa, có một ao sen tự nhiên được chỉnh trang với bờ kè ốp đá, nước từ con sông nhỏ chảy vào theo một máng xây bằng đá và cống xi măng giữ nước trong ao lên xuống từ bốn mét đến bảy mét. Ở bờ ao phía đông có một nhà thủy tạ bằng gỗ trên những cột đúc bê-tông. Ngôi biệt thự và khung cảnh đó là điểm hẹn yêu đương của đôi Minh Vũ-Ngọc Bích. Dân nghèo đi soi ếch kháo nhau nhà ấy có ma vì khi cầm đèn ra ruộng soi ếch, thỉnh thoảng họ nghe thấy tiếng rên la lạ lùng từ bên trong tường bao vọng ra, không phải để kêu cứu cũng không phải để hô hào, tiếng rên rỉ lạc đi giữa côn trùng ra rả và tiếng ếch nhái ồm oang. Khuynh hướng khổ dâm mà Tuân đã gây ra cho cô lại xuất hiện: nó trở thành nhu cầu của bản năng từ khi cô tiết lộ cho Minh Vũ biết cô là con gái của một tai sai trong phòng nhì Pháp và kẻ ám sát cha cô là ông Quý, cha nuôi. Những lúc hành dâm cô van nài đối tác: “Hãy hành hạ em đi với ít nhất hai trọng tội: bất hiếu với cha và bất trung với đảng.” Sau cùng khuynh hướng khổ dâm của Ngọc Bích đã tác động ngược chiều vào Minh Vũ làm ông trở thành một

97

quan-đạo thích bạo dâm. Vả lại thần học trong một tôn giáo coi việc sợ tội là quan trọng, sẽ đề cao việc trừng phạt tội lỗi như đánh tội mình và thực hành khổ chế bản thân. Trong vai trò một linh mục, Vũ nghĩ mình có quyền áp dụng sự đánh tội cho người khác, nhất là khi được nài xin như trường hợp Ngọc Bích. Vả lại khi thể hiện uy quyền qua việc trừng phạt, ông càng có thêm tự tin khi giao chiến tình dục với đối tác. Vô hình trung, khoái lạc được đau đớn thể xác kích hoạt và hoàn tất trong nỗi thống khoái lạ lùng và quái ác. Tội nghiệp Ngọc Bích bị đày đọa trong nghiệp báo dục tình như một chứng nghiện.

Hai năm sau Ngọc Bích trở thành đại gia của tỉnh nhờ trúng thầu cung cấp thuốc men, lương thực cho các đoàn thể, bà cũng có cổ phần trong công ty dược của tỉnh. Khâm coi việc mẹ anh thông dâm với linh mục là việc không tránh khỏi, vì cha nuôi anh đã thay cha ruột anh chăm sóc anh ngay từ ngày cha anh bị lính Ngụy giết chết trong Tết Mậu thân. Việc ông ta là một giáo sĩ chỉ là chuyện nhỏ. Nhưng từ khi vào trường phổ thông do tính tò mò của tuổi trẻ anh tình cờ khám phá ông Vũ chính là cha ruột, một nỗi buồn mênh mông tràn ngập tâm hồn anh. Nhất là một nỗi cô đơn len lén dày vò anh. Vâng, anh là đứa con sinh ra trong tội theo cách nói của má-Hậu, người đã chuyển giao đức tin tôn giáo cho anh.

Lúc đó là đầu năm học mới, Khâm vào học trường cấp ba Châu Thành lớp 12, lớp tuyển gồm các học sinh khá và giỏi. Giai đọan sau ngày 30 tháng tư, sinh họat đòan thể trong trường rất sinh động và náo nhiệt. Nào là Đoàn thanh niên rộng rãi, nào là Đoàn thanh niên cộng sản. Rồi việc học tập lịch sử đảng, rồi việc nghiên cứu lý tưởng chiến đấu của chủ nghĩa Mác-Lênin, sống và học tập theo gương Bác v.v… Trong bối cảnh hoạt động sôi nổi ấy, Khâm xuất hiện như một hạt nhân nòng cốt và là một đối tượng của đảng, có thể trở thành đảng viên. Mẫu hình lý tưởng anh quyết noi theo là anh Lê Văn Tám, người thiếu niên biến mình thành mồi lửa để đốt kho xăng của kẻ thù trong một câu chuyện hư cấu.

Thế nhưng chính nỗi cô đơn trong lòng làm anh ít nói, và rất dễ cộc cằn. Và anh vào đại học sư phạm ban sinh hóa với tâm trạng ấy cùng với danh hiệu đối tượng đảng. Anh được làm bí thư của lớp và với vóc dáng cao ráo đẹp mã anh sẵn sàng kết dây thân ái bí mật với ít cô sinh viên, lý lịch có liên quan đến chế độ cũ. Họ thậm chí còn dâng hiến thân xác trẻ trung, mơn mởn cho anh để tìm sự che chở trong chính sách. Vài cô còn hy vọng biết đâu họ cũng có thể chính thức bước vào gia đình của một nữ đại gia, giàu có tiền muôn bạc ức. Khi làm tình với các bạn gái

98

ấy, anh thường để cho cảm xúc sân hận chen vào và giày vò đối tác trong lúc nghĩ thầm, “Như vậy mới xứng đáng với sự che chở của tôi trước sự loại trừ và buộc tội của đảng, hoặc với cái gia tài gớm ghiếc mà cô vọng tưởng…”

Vậy đó, anh không hề yêu thương họ, anh ghét họ vì từ đầu anh đã ghét chính anh. Anh ghét anh vì anh là kết quả của một tình yêu bất chính, bởi sự phạm giới của một linh mục và bởi hành động bất công mẹ anh đã gây ra cho ông Tuân, người bạn chiến đấu của bà. Rồi với sự tự ti mặc cảm ấy, anh sinh ra lòng sân hận với chính mình. Nhiều lần ý muốn tự tử xuất hiện và ám ảnh anh như một cách chuộc tội cho anh cho cha mẹ anh, anh nghĩ thế; và gần đây nhất anh muốn tự sát ngay trước phòng ngủ của mẹ anh trong lúc bà đang hành dâm với Minh Vũ. Có lẽ phản xạ kêu la của bà trong lúc hành dâm đã làm cho anh đổi ý; anh tự nhủ, “Mẹ minh đang kêu la đau đớn như thế hẳn phải chết đứng khi thấy mình tự sát ngay trước cửa phòng bà. Mình không thể hành xử ngu ngốc như thế.” Từ đó mỗi lần ý nghĩ tự tử xuất hiện, anh vật vã chống cự bằng một ý nghĩ lạc quan nào đó như bóng tối đêm dài sẽ nhường chỗ cho một bình minh tươi sáng của dân tộc hoặc như sau một Lê Thái Tông buộc Nguyễn Trải phải dâng nàng Thị Lộ sẽ có một Lê Thánh Tông anh minh sáng suốt. Lâu ngày nỗi ám ảnh tự tử tiêu tan và biến mất.

Hai ngày sau, anh dẫn lớp đi làm thủy lợi vì năm đó trời hạn thiếu nước cho các cánh đồng.

99

ĐẠO HỒI V À NGẪU TƯỢNG

Buổi xuất quân làm thủy lợi hôm đó có cả cô bạn cùng lớp Rêbêtisa, thường được gọi là Tiên Sa một nữ sinh viên sắc tộc Champa đạo Hồi xinh đẹp với đôi mắt nâu vàng, chân mày cong đen đậm trên ổ mắt sâu, lông mi dài và cong vút, chân dài, ngực nở, hông to. Khi phát cho Tiên Sa cây cuốc len để đào đất ngăn dòng, Khâm nói mỉa mai,

-“Ồ, hôm nay cũng có Tiên Sa sa xuống chỗ làm thủy lợi nữa sao?”

Cô này nguýt mắt quay đi, không thèm đáp lại.

Thật vậy, Khâm rất ghét cô này nhưng phải chịu đựng vì chính sách chiếu cố các dân tộc thiểu số. Đặc biệt, những lần anh đứng trên bục giảng để thuyết trình về lịch sử đảng, những chiến công oai hùng của chiến sĩ cách mạng và cả chủ nghĩa Mác-Lênin, cô ngồi giữa các cô sinh viên khác thỉnh thoảng cười khẩy và khẽ lắc đầu trong chiếc khăn trùm. Một lần quá khó chịu, sau buổi họp anh đến trước mặt cô, nghiêm mặt hất hàm hỏi,

-“Hồi nãy Tiên Sa cười khẩy việc gì vậy?”

-“Có gì ghê gớm đâu,” Tiên Sa đáp; ý cô muốn nói về chuyện cô cười, trong khi Khâm muốn hỏi về những điều anh giảng thuyết và anh gằn giọng hỏi tiếp,

-“Thế nào mới là ghê gớm?”

Lần này cô đã hiểu và cô bực dọc đáp,

-“Cắm cờ đỏ trên đầu tượng Thần Tự Do đã bị đánh sập ngay trước mũi nước Mỹ.”

-“Tiên Sa nói như thế thì đại ngôn và cường điệu quá; vả lại việc đó chắc chắn sẽ xảy ra nhưng không phải bây giờ.” Khâm cười nói vì không biết mình mắc bẫy, vì ngay sau đó cô nói,

-“Có lẽ em đại ngôn, mong anh bỏ qua vì đó là thói xấu của những kẻ có mặc cảm tự ti (…) như em.” Cô tách rời hai chữ “như em” bằng một khoảng lặng nhỏ vì trong thâm tâm cô thực lòng muốn nói “như bọn các anh”; vả lại khi nhắm câu nói

100

vào chính mình, cô muốn kết thúc cuộc đối thoại chẳng có gì thú vị ấy. Ngay sau đó Khâm cười thoải mái và bỏ đi.

Mặt trời lên cao dần và đến trưa, công việc ngăn dòng giữ nước cũng hoàn thành. Các sinh viên ra một ao nước gần đó mà nước sâu hơn năm thước để rửa cuốc len và tay chân lấm bẩn. Tiên Sa cũng đến bên bờ ao vừa rửa vừa nghêu ngao, “Bàn tay ta làm nên tất cả,/ với sức người sỏi đá cũng thành cơm”. Và không biết làm thế nào Tiên Sa trượt chân rơi xuống ao nước, hai tay quơ quào trên mặt nước. Đúng lúc ấy, Khâm vừa đến nơi Tiên Sa để thu gom các cuốc len, anh vội vàng nhảy xuống ao nắm tay cô từ phía sau kéo vào bờ cho một anh sinh viên khác vói tay xuống kéo cô lên. Rồi một cô sinh viên khác phụ trách y tế cũng vừa chạy đến trong lúc Khâm bước lên bờ và đi thẳng.

Hai hôm sau, cuối giờ phẩu thuật sinh học, Tiên Sa đến gần Khâm nói,

-“Em cám ơn anh đã cứu em khỏi chết đuối…”

-“Có gì đâu, em đừng bận tâm.”

-“Em không biết đền đáp ơn này thế nào…”

Câu nói này làm bật ra trong Khâm một ước muốn mà từ lâu anh đã giữ kín,

-“Đơn giản thôi: Em hãy trở thành bạn thân của anh và cho phép anh được thỉnh thoảng đến nhà em.”

-“Vâng, em đồng ý đề nghị của anh và mời anh đến nhà.”

Sau đó Khâm mời cô vào một quán cà-phê gần đó nhưng có lẽ theo quy định của đạo Hồi, cô không được đi chung với con trai lạ ra ngoài nên hai người chia tay. Lúc đó mặt trời đã xuống thấp sau những ngôi nhà cao của thị trấn. Lần đầu tiên trong đời, Khâm thấy mình vui trở lại và con tim anh như ca hát một bài tình ca mượt mà, một bản nhạc vàng theo sự phân loại của ban thông tin văn hóa.

Cuối tuần sau Khâm tìm ngôi làng Champa đến trước nhà Rêbêtisa. Đó là ngôi nhà xây ba gian lợp ngói đỏ, phía trước có một sân gạch rộng lót gạch tàu để phơi lúa; xung quanh nhà trồng những cây ăn trái như mít, xoài, chôm chôm. Tiên Sa đứng trên hàng hiên đón Khâm, cô mặc sắc phục của người Chàm với váy dài đến mắt cá chân, áo lụa hồng dài tay, ống tay hẹp, đầu đội khăn trùm bằng lụa tím làm nổi rõ

101

khuôn mặt trắng xanh của cô với cái mũi dọc dừa thanh tú. Khâm ngỡ ngàng đứng ngắm cô một lúc trong khi Sa cười nói,

-“Vào nhà đi anh.”

-“À ừ, tại vì anh thấy em hôm nay đẹp quá khiến anh như chìm vào sóng mắt của em…”

-“Anh khéo nói mà thôi, dù sao em cũng cám ơn anh,” cô đỏ mặt thẹn thùng nói.

Sau đó họ bước vào nhà, Tiên Sa đem ra hai ly nước trà xanh pha với mật ong rừng, rồi họ bắt đầu câu chuyện, trong lúc Khâm quan sát phòng khách. Trong phòng, không có bàn thờ và tranh vẽ, nhưng có bốn bức thủ bút lộng kiếng treo cao trên các bức vách. Những thủ bút ấy chép lại bằng tiếng Ả-rập những câu trích từ kinh Coran của Muhammad. Và khi giải thích như thế cho Khâm, Rêbêtisa nói,

-“Đạo Hồi cấm treo ảnh tượng mà Đấng Tiên Tri gọi là các ngẫu tượng. Đó là trường hợp mà Ki-tô giáo đã vướng mắc khi có nhiều ảnh tượng trong nhà riêng và trong nhà thờ.”

-“Như vậy, phải chăng đạo Hồi đã hiểu ngẫu tượng với một ngoại trương lớn nhất và cũng khắc khe nhất như đạo Do Thái và đạo Tin Lành?”

-“Có lẽ thế…” Tiên Sa đáp rồi nói qua đề tài khác.

Dù sao điều này cũng làm Khâm khó chịu nên một lúc sau, anh bất chợt hỏi Tiên Sa,

-“Em có căm thù đế quốc Mỹ đã xâm lược nước ta không?”

-“Dĩ nhiên là em căm thù đế quốc mà, sao anh lại hồ nghi…”

-“Vậy còn Liên Xô thì em nghĩ sao?” Khâm hỏi đầy vẻ kiêu hãnh của một người rất chuyên-chính.

Tiên Sa làm thinh không đáp khiến Khâm phải đưa ra một gợi ý là đọc câu thơ của Tố Hữu viết về Xtalin: Thương cha, thương mẹ, thương chồng/ Thương anh thương một thương ông thương mười. Sau cùng Tiên Sa phải nghiêm mặt nói,

-“Em nói thật là em căm ghét cả hai đế quốc Mỹ cũng như Liên Xô…”

102

-“Đế quốc Liên Xô, em dám nói thế hả?”

-“Chẳng phải là Liên Xô đã từng xâm lăng nước Afghanistan theo Hồi giáo sao? Vả lại tiêu chuẩn đánh giá của em không theo chính sách mà dựa vào đạo Hồi: Liên xô thì vô thần lý thuyết và lấy lãnh tụ và dân tộc Nga làm ngẫu tượng, còn Mỹ thì vô thần thực tiễn và lấy tiền bạc, đồng đô-la hoặc sự thành công trên thương trường làm ngẫu tượng. Thế đấy!”

Khâm không biết phản biện thế nào nên anh phải “nuốt” lời giải thích của Rêbêtisa cùng lúc với ngụm nước trà xanh pha gừng và mật ong. Sau đó anh nói giả lả thêm vài câu rồi ra về. Bởi tính hiếu thắng nên lòng anh còn bực tức, dù vậy anh tự nhủ: “Mình yêu cô ấy mất rồi, nhưng từ khi nào nhỉ?” Câu hỏi này còn treo lơ lửng trong đầu anh suốt đoạn đường về.

*&*

Lần sau đó Khâm đến mang theo cuốn Tân Ước cho Tiên Sa mượn theo yêu cầu của cô. Đó là một cuốn sách bìa bọc da, gáy mạ vàng mà ông Minh Vũ cho Khâm ngày ông về nhậm chức cha tổng đại diện ở nhà thờ chính tòa. Đã mấy năm rồi nhưng sách còn mới nguyên vì có bao giờ Khâm chịu mở ra đọc đâu. Xem ra người cho sách cũng không khuyên anh phải đọc.

Tiên Sa cám ơn Khâm đã đem sách đến, cô mở ra thấy ở dưới trang bìa có lời đề tặng: Cha tặng con/ngày 18-05-1978/Cha tổng đại diện G.B. Minh Vũ ký tên. Cô tò mò hỏi với vẻ mặt ngây thơ trong chiếc khăn trùm màu xanh lá mạ,

-“Cha đây là ‘cha nhà thờ’ phải không anh?”

-“Phải, vừa là cha ruột vừa là cha nhà thờ được không?” Khâm nói với giọng thách thức chỉ để tự trấn an nỗi dày vò trong lòng anh. Nhưng trực giác của phụ nữ đã làm cho Tiên Sa đoán ra một nỗi niềm riêng, một tâm sự bí ẩn của anh, cô ôn tồn nói,

-“Cha em cũng thế, ông là một Imăm nghĩa là một giáo sĩ được đào tạo chính quy nên việc em là con ông ấy trở thành một niềm tự hào lớn” cô im lặng một lúc để Khâm lắng lòng nghe cô nói tiếp, “Khác một điều là đạo em cho phép Imăm có vợ, còn bên đạo anh, khi bắt linh mục sống độc thân và dán cho họ ‘bí tích’ truyền chức thánh, cách nào đó đã làm cho các linh mục dễ rơi vào cám dỗ biến mình

103

thành ngẫu tượng và cái hào quang giả ảo ấy sẽ khiến nhiều cô gái tự ti chạy đến như con thiêu thân bay vào ngọn lửa. Vả lại các cô gái ấy hình như còn đi theo một mô hình văn hóa mà phong kiến còn để lại trong vô thức…”

-“Sao lại có văn hóa phong kiến trong việc này chứ!” Khâm vội ngắt lời cô, cặp lông mày anh cau lại.

-“Có chứ và em sẽ cho anh một ví dụ, nhưng anh muốn nghe thì em mới nói,” cô nói đôi mắt lung linh lướt qua anh như để giúp anh thêm bình tĩnh.

-“Nói đi,” anh đáp với giọng gia trưởng trịch thượng.

-“Này nhé, khi một ông vua Á Đông xưng mình là ‘thiên tử’, ông ta đẩy ông Trời-thật ra sau hậu trường, lúc đó các bề tôi gọi ông ta là ‘thánh thượng’ hiểu là ‘rất thánh’ và từ đó ông vua trở thành ngẫu tượng với một kho lễ vật mà bọn nịnh thần chuẩn bị sẵn để dâng lên cho vua trước khi vua xuống ơn mưa móc từ cửu trùng cho lê dân bá tánh.”

-“Một kho lễ vật dâng tiến cho vua?”

-“Đúng vậy, kho lễ vật dâng cho thiên-tử-ngẫu-tượng ấy bao gồm cả tam cung lục viện của các ông vua nơi giữ các cung phi mỹ nữ cung phụng tình dục cho vua. Vả lại được ăn nằm với vua là một niềm vinh dự cho các cung nữ. Có được long-chủng của vua nghĩa là được mang thai con trai trong một lần nào đó hành dâm với vua càng vinh dự hơn nữa vì sẽ được trở thành bán-thần trong Panthéon/ đền chư thần của triều đại ấy…Đấy các cha xứ có thể hành xử như một ông-vua-ngẫu-tượng áo đen một lúc nào đó và một nơi nào đó, đặc biệt trong giáo xứ của ông…”

-“Em dám nói thế sao?”

-“Tại sao không? Em là người ngoại cuộc mà.”

Lúc này, Khâm lấy hai tay ôm trán, lắc đầu; những ngón tay anh cong lại đan vào mái tóc đen dài của anh, khẽ kêu lên đau đớn sau một tiếng thở dài. Rêbêtisa nói một câu an ủi, không hề hàm chứa sự mỉa mai nào, “Anh phải tự hào về cha anh mới phải..” Nhưng khi thấy Khâm vẫn lắc đầu, cô thấy sự an ủi của mình thất bại và cô đứng lên nói,

104

-“Thôi không nói chuyện đó nữa. Bây giờ em sẽ dẫn anh đi một vòng qua làng em, trên đường ta sẽ ghé đền thờ Hồi giáo của làng rồi đến trưa em mời anh ăn cơm nhà em.”

Khâm lấy xe gắn máy chở Tiên Sa, và cô này cẩn thận đặt ở giữa anh và cô trên chỗ ngồi cái cặp da cô dùng khi đến trường để tạo ra ranh giới, mặc dù cô ngồi với hai chân để qua một bên yên xe. Trên đường cô gặp mấy bạn gái gọi theo cô từ hiên nhà hay từ sau hàng dậu. Cô tươi cười đáp lại. Họ trao đổi bằng tiếng champa nên Khâm không hiểu. Sau này cô giải thích họ hỏi Khâm có phải là chồng sắp cưới của cô không; cô nói không Khâm chỉ là anh họ ở xa về thăm. Lúc xe quay đầu lại về nhà, Khâm nói,

-“Có lẽ anh về luôn, không ở lại ăn cơm nhà em.”

Tiên Sa nói qua vai anh,

-“ Anh rán ở lại đi vì hôm trước khi em kể lại việc anh đã cứu em khỏi chết đuối, cha em nói phải làm một bữa ăn đãi anh để tạ ơn ”

-“Tiên Sa ơi, đâu cần phải thế.” Khâm nói khi cả hai đã thấy lại mái nhà cô lợp ngói đỏ.

-“Anh đừng ngại, hôm nay cũng là sinh nhật của cha em mà.”

-“Vậy hả… em không nói trước để anh mua quà cho ba.”

-“Cuốn Tân Ước mà em mượn cho ba tạm thay món quà rồi.”

Lần đầu tiên ăn cơm theo phong tục người đạo Hồi, Khâm thấy rất thú vị, món thịt cừu nướng và món thịt bò nấu cà ri; có cả xúc xích thịt bò cuốn rau sống mà Tiên Sa cùng mẹ cô chuẩn bị làm Khâm rất khoái khẩu. Trong bữa ăn, như đã định trước, ông Ali, cha của Rêbêtisa, đã nói với Khâm, “Lần sau tôi và cậu sẽ cùng xem một đoạn Tân Ước nhé?”, và Khâm đáp, “Cháu sẽ cố và chắc sẽ học được nhiều điều từ bác”.

Hai ngày sau cuối buổi học, Khâm trao cho Tiên Sa một bức thư bày tỏ tình yêu cùng với ý định được lấy cô làm vợ. Lời lẽ trong thư dịu dàng, trang trọng; đoạn cuối bức thư viết: “Sa ơi, anh không thể sống thiếu em trong phần đời còn lại và trong cuộc hành trình dài trước mắt trong khi quá khứ lại ghi đậm dấu ấn của điều

105

tủi nhục mà chỉ mình em được biết. Anh mong sớm có hồi đáp của em về tình yêu của anh. Lòng anh sẽ mãi xao xuyến cho đến khi nhận được câu trả lời của trái tim em v.v…” Buổi học ngày hôm sau, Tiên Sa trả lời Khâm bằng một bức thư ngắn, trong đó cô viết, “Sa rất cảm kích những lời yêu thương chân thành mà anh dành cho em. Xin anh cho em chút thời gian suy nghĩ và lần sau anh đến nhà, em sẽ chính thức mở lòng cho trái tim em lên tiếng.”. Sở dĩ cô phải làm chậm lại câu trả lời là để kềm hãm bớt tính “cuồng” của một dân tộc đã làm dân champa cô mất nước và cũng để cho Khâm thấy rằng cô không nhìn vào gia tài kếch xù của mẹ Khâm và cả tiền đồ chính trị của anh. Vậy sự thật trong lòng cô là gì? Cho đến nay sau những lấn cấn lúc đầu trong đó có sự ghen tức của cô đối với mấy bạn nữ dễ dãi đã đeo bám Khâm, cô cảm thấy tình yêu cô đối với Khâm đã lớn lên như một cây xương rồng sắp trổ hoa. Vâng, cô đã yêu Khâm nhiều, nhiều hơn cô vẫn tưởng.

Mười ngày sau Khâm đến, Tiên Sa đứng trên sân phơi lúa đón anh. Cô cho anh biết sáng hôm ấy cha cô sẽ trao đổi với anh những suy nghĩ của ông về một đoạn Phúc Âm chừng một giờ, sau đó cô và anh sẽ nói chuyện riêng và cô sẽ cho anh biết quyết định của lòng cô trước lời tỏ tình của anh.

Bước vào phòng khách, anh thấy cha cô, ông Ali với khuôn mặt khắc khổ, mái tóc hoa râm, đã yên vị trước hai cuốn sách: một cuốn kinh Coran bằng tiếng Ả-rập và cuốn Phúc Âm mà Sa mượn của anh. Sau vài lời thưa gởi, Khâm ngồi xuống trước mặt ông Ali. Ông này cầm lấy cuốn Phúc Âm mở ra ở trang có đoạn Tin Mừng Gioan đoạn 21 từ câu 15 đến câu 19. Rồi ông giơ tay cảm tạ “Đấng Thượng Đế cao cả và tiên tri của Ngài” và đọc lớn đoạn ấy cho Khâm cùng nghe. Sau đó ông tập trung giải thích hai câu 18 và 19: “Thật, thầy bảo thật cho anh biết: ‘lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.’ Người nói vậy, có ý ám chỉ Phêrô phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa… ” Ông Ali nói với Khâm,

-“Cậu thấy đấy, tiên tri Isa (Chúa Giêsu) nói trước Phêrô phải chết cách nào lúc đó, nhưng câu tiên tri này còn nhắm đến cái chết của Giáo Hội công giáo hiện nay giữa thế kỷ thứ XX này mà hai nguyên nhân của sự tiêu vong ấy là: lúc còn trẻ thì nó theo ý riêng, và khi về già nó theo ý người khác.”

106

-“Những gì bác nói đều đúng theo văn bản, nhưng xin lỗi bác, sự suy diễn của bác hơi xa với một khoảng thời gian dài gần hai mươi thế kỷ.” Khâm ngắt lời ông Ali.

-“Thời gian không là vấn đề đối với một đấng tiên tri. Điều đáng nói ở đây Phêrô không hề tính đến ý Chúa trong các hành động của ông lúc còn trẻ cũng như lúc về già.”

-“Vậy xin bác nói rõ hơn về hai cái mốc tuổi trẻ và tuổi già của Phê-rô mà bác cũng hiểu là của Giáo Hội.”

-“Này nhé Kitô giáo ở buổi sơ khai đã xây dựng một cơ chế giáo hội với ban bệ và quyền lực của nó không thua kém triều đình thế tục của vua chúa. Đó là theo ý riêng của tuổi trẻ. Điều này khiến nhiều người tin hụt hẫng đến nỗi Gm. Alfred de Loisy đã phải thốt lên: ‘Tôi đang đợi Vương quốc Thiên Đàng, thì kìa Giáo Hội đến’ [J’attends le Royaume des cieux, et voilà l’Église qui vient]. Đến sau thời trung cổ trở đi, tức là tuổi già của Giáo Hội, nó hoàn toàn bị thế quyền lèo lái, thế quyền cột dây vào lưng dắt Giáo Hội đi đâu tùy ý, mà biểu hiện tệ hại nhất là tôn giáo pháp đình. Và ngày nay chẳng phải là Giáo Hội đó đang trên con đường tiến vào chỗ tiêu vong sao…”

Trong lúc ông Ali thao thao bất tuyệt thì Khâm chợt nhớ đến những nhận định của Rêbêtica về cha cô. Trước hết ông là một người có lòng trung thành vô biên vào Thượng Đế Allah mà tiếng Ả-rập gọi là elhamdũlillah. Thứ đến là như bao người theo Hồi giáo khác, ông cho rằng Giáo Hội Ki-tô giáo đã làm sai ý của tiên tri Isa khi xây dựng một giáo hội phẩm trật đầy quyền bính không thua một triều đình phong kiến. Cuộc trao đổi của ông Ali với Khâm sáng nay xác nhận những nhận định của Tiên Sa về cha cô hoàn toàn đúng. Vì thế ông đã bỏ qua một chi tiết quan trọng miễn thứ cho mọi sai lầm của Phêrô là ông này đã dùng cái chết để làm vinh hiển Thiên Chúa (câu 19). Phần Khâm anh muốn kết thúc cuộc trao đổi này để được gặp riêng với Tiên Sa. Anh gật đầu vâng dạ làm ông Ali hài lòng, đắc thắng; ông còn khen anh không cuồng tín. Sau đó ông đứng lên chỉ cho Khâm lối vào vườn cây ăn trái, nơi Tiên Sa ngồi trên ghế gỗ bằng thân cây to cưa ngắn. Một khúc thân cây to khác trên để hai ly nước trà gừng pha mật ong, và một khúc gỗ khác là chỗ ngồi dành cho Khâm.

107

Đợi cho Khâm yên vị và mất vài phút nhìn ngắm cô trong chiếc khăm trùm đầu màu tím than, cái áo liền váy màu hồng thêu hoa văn bên ngoài cái quần ống nhỏ màu xanh ngọc, Tiên Sa nhìn khu vườn qua vai anh và nói,

-“Thú thật, em có một quyết định khó khăn vì em biết trước đây anh không thích em. Nhưng khi lắng lòng nghe trái tim mình lên tiếng, em biết rằng em yêu anh nhiều hơn em tưởng, mặc dù em không thích cái vỏ bọc màu đỏ của anh. Em vui mừng biết bao khi anh ngỏ lời yêu em; từ hôm nay ta là của nhau và em mong rằng anh đừng có quan hệ bí mật với cô bạn gái nào khác. Họ đóng vai Huyền Trân công chúa giỏi quá còn anh thì có lúc không kềm chế được.”

Lúc đó, Khâm mừng rỡ và rối rít hứa sẽ giữ mình trước các cám dỗ của kế mỹ nhân và anh xin lỗi đã làm cô buồn lòng về chuyện ấy. Sau cùng anh nói,

-“Anh hứa có đất trời chứng giám anh sẽ chỉ yêu một mình em suốt đời, suốt kiếp,” ngừng lại một phút, Khâm trang trọng nói,

-“Anh muốn cưới em làm vợ cuối năm học này, ngay sau khi anh và em tốt nghiệp kỹ sư sinh hóa, có được không em?”

Tiên Sa cau mày suy nghĩ một lúc rồi nói,

-“Dĩ nhiên em cũng muốn sớm làm vợ anh nhưng trước hết em phải xin ý kiến của cha em, cũng như anh phải báo cho gia đình anh. Kế đến anh phải theo đạo Hồi như các Kitô hữu những thế kỷ đầu của đạo Hồi phải cải giáo theo đạo Islam khi được các Hồi vương thu dụng…”

-“Vì yêu em, anh sẵn sàng chấp nhận mọi điều kiện ấy.” Khâm vừa đắm đuối nhìn Tiên Sa vừa nói, “Hay bây giờ mình vào nhà gặp cha em luôn đi.”

-“Bây giờ thì chưa được vì cha em lên đền thờ cầu nguyện theo nghi thức năm lần một ngày và ông được phân công cho đến cuối tuần. Anh cứ về rồi cuối tuần hãy đến.”

-“Ừ, cứ vậy đi.”

Khi hai người đứng dậy để Khâm ra về, Tiên Sa áp sát vào người anh và nhận của anh một nụ hôn nồng nàn trên khăn trùm và trên đôi má ửng hồng.

108

Cuối tuần, mọi dự tính của họ đều thuận lợi. Từ đó khi nào rảnh rỗi Khâm đều tranh thủ đến nhà Tiên Sa để được ông Ali dạy đạo trong cuốn kinh Coran. Sau sáu tháng anh có thể làm hôn lễ tôn giáo với Tiên Sa bất cứ lúc nào: họ cũng vừa tốt nghiệp với thứ hạng khá cao.

Trước đó hai tháng linh mục Minh Vũ được Vatican phong chức giám mục. Hôm mẹ anh mở tiệc ăn mừng, bà Hậu từ quê có đến tham dự, và nữ chủ nhân của ngôi biệt thự chiêu đãi ngài Giám mục, năm linh mục thân tín của ngài và một số khách quý khác một bữa ăn thịnh soạn với rượu tây và bia chai. Bữa tiệc mừng này đã đem lại một điều thú vị là một ông khách tên Giô-dép Xuân Tâm, một ông tu xuất, người phiên dịch cho ngài Giám mục một quyển sách về đức tin và tâm lý mà khi xuất bản chỉ tên ngài Giám Mục là dịch giả. Tromg bữa tiệc, ông Xuân Tâm ngồi cạnh bà Hậu, và bất ngờ có tình cảm đặc biệt với bà nên đã khen bà xinh đẹp, một vẻ đẹp vượt tuổi tác và thời gian… Sau đó ông Xuân Tâm còn xin địa chỉ của bà Hậu để đến thăm: thì ra hai người đang ở hai địa phương gần nhau, chỉ cách nhau chừng bảy cây số.

Khi khách khứa đã ra về, chỉ còn lại ngài Giám Mục và bà Hậu, Khâm đến kéo má Hậu, với tâm trạng phấn khởi vì nhận được một lời khen đẹp mà lâu rồi bà không còn mong đợi, ra nhà thủy tạ và anh thổ lộ việc anh đã cải giáo qua đạo Hồi và sắp cưới một cô gái Chăm làm vợ. Bà Hậu hoảng hốt nói,

-“Vậy con không còn thờ phượng Thiên Chúa nữa sao?”

-“Má ơi con vẫn thờ phượng Thiên Chúa nhưng trong một giáo hội khác; nếu con không thờ phượng Thiên Chúa, con đã cải giáo theo đạo Phật. Vả lại con chán ngán một số chức sắc của giáo hội Kitô. Họ thừa biết nhà nước không tôn trọng họ nhưng chính bản thân họ cũng không có lòng tự trọng…”

Bà Hậu không cần sự giải thích dài dòng của Khâm. Bà biết Khâm muốn ám chỉ ai. Vả lại bà cũng đã biết mối quan hệ bí mật giữa Minh Vũ và Ngọc Bích. Điều này quả là một gương xấu trong đạo, làm cho hình ảnh giáo hội bị méo mó, lệch lạc. Ngừng một lúc, bà hỏi,

-“Mẹ Bích con có biết việc này chưa?”

-“Chưa và con sẽ không bao giờ cho mẹ Bích biết: bà đang ở giữa của cơn lốc xoáy yêu đương của cha-dượng con.”

109

Khâm dùng từ “cha-dượng” vì anh cho rằng bà Hậu không biết ông Vũ là cha ruột anh. Biết việc này chỉ làm cho bà thêm buồn khổ; có thể bà làm như không biết vì không muốn đánh mất vị trí người “má” đối với Khâm. Vì thế anh nhờ má Hậu có mặt trong hôn lễ của anh tại nhà của Tiên Sa. Chỉ cần bà đồng ý, Tiên Sa sẽ sắm sửa cho bà một cái khăn trùm và một bộ áo các phụ nữ Chăm hay mặc để khỏi gây chú ý cho các khách mời ăn cưới khác. Sau cùng bà nói,

-“Thôi được, chỉ mình má đến thôi. Và má cũng cho con dâu má năm lượng vàng để làm vốn. Đó là số vàng má tích góp được từ khi mẹ Bích bỏ vốn mở cho má một cửa hàng bán đồ khô và sữa bột.”

-“Con cám ơn má rất nhiều. Bây giờ con đưa má về phòng để nghỉ, sáng mai con đưa má ra bến xe về Hàm Luông.”

-“Ừ, má cũng buồn ngủ rồi.”

Khâm đưa bà Hậu qua một phòng ở hành lang phía Tây để bà qua đêm. Khi về phòng mình ở phía Đông ngang qua trước phòng mẹ anh, anh nghe có tiếng dây roi quất chạm vào vách, và tiếng mẹ anh kêu quằn quại nhưng mãn nguyện. Có lẽ ông Vũ cố ý quất roi vào vách để hãm bớt lực quất, để khi roi dây chạm vào người bà Bích chỉ gây ra vết thương nhẹ. Khâm ghé tai vào vách nghe tiếng mẹ anh nói,

-“Trừng phạt em nữa đi anh yêu: em đã bất hiếu với cha và bất trung với đảng…Đừng bỏ em… em cần anh cưỡng chiếm em, thông truyền ơn phúc cho em giúp em sạch tội…” Sau đó là tiếng dây roi vứt vào một góc rồi tiếng hai thân xác quần thảo rên siết. Khâm vội bịt tai lại, chạy nhanh về phòng úp mặt xuống gối, nước mắt trào ra.

Giữa bao nỗi dằn vật đau khổ ấy, một thuận lợi khác lại đến đúng lúc với Khâm: hai ngày trước ngày đám cưới, Giám mục Vũ và Ngọc Bích cùng lên máy bay với một nhóm tín hữu giàu có trong giáo phận đi hành hương Jérusalem và các thánh địa khác trong suốt mười ngày. Khi họ về thì Khâm mà giờ đây có tên Ả Rập là Hasan (anh đọc theo tiếng Việt là Hà-San) và Rêbêtisa đã nên vợ chồng trước hai họ, bên nhà trai chỉ có bà Hậu cùng vài bạn thân của anh, cùng các chức sắc trong đạo Hồi. Trong ngày hôn lễ, cô dâu mặc áo cưới màu đỏ dài tới gót chân, trên nền áo thêu hoa và đính hạt cườm. Cô cũng đội một khăn trùm màu đỏ như màu áo, phía trên đội một vòng hoa như vương miện. Vâng, Rêbêtisa thật đẹp trong ngày

110

cưới như một nàng công chúa. Và đám cưới rất vui, khách mời cười nói rôm rả thân mật.

Do hoàn cảnh đặc biệt, sau đám cưới Khâm không ở hẳn bên nhà ông Ali mà đi đi về về giữa ngôi biệt thự và nhà vợ. Trong tối tân hôn, cả Khâm và Rêbêtisa phải cố gắng nhiều để hoàn thành một tập tục, đó là sau đó, họ phải giao nộp mảnh lụa bạch vuông cạnh ba tấc có dính máu trinh của cô dâu cho mẹ chồng, mặc dù bà Hậu không biết việc này và cũng không đòi hỏi, nên mẹ cô dâu thay mặt bà Hậu báo cho người thân biết đôi tân hôn đã hoàn thành thủ tục. Từ hôm đó, khi Khâm muốn có những phút giây thân mật với nhau, Tiên Sa đều nói, “Khoan đã anh, để khi nào mình có điều kiện cất nhà riêng trên đất của ba em, lúc đó mình sẽ có một tổ uyên ương thật sự và em sẽ chiều anh hết mức luôn.”

Dù vậy anh cũng có được một vài cơ hội. Một tối nọ, theo sự phân công của cha cô, Tiên Sa cầm đèn dầu đi kiểm tra xem các cửa đã đóng chưa. Đến gian nhà chứa thóc và rơm, cô nghe có tiếng chân đi theo cô. Cô quay lại thấy Khâm đang tiến lại phía cô, anh nói,

-“Đưa anh cầm đèn… để anh giúp cho.”

-“Thôi khỏi, xong rồi.” Dù nói vậy, cô cũng đưa cái đèn dầu hỏa cho Khâm. Anh đặt nó trên đất sau đống củi làm đống củi đổ bóng vào một đụn rơm, rồi anh quay lại ôm lấy Tiên Sa nói,

-“Mình bắt đầu việc khác đi.”

-“Việc gì?” Tiên Sa đỏ mặt giả vờ hỏi.

-“Sao lúc này anh cảm thấy yêu em quá…” Trong lúc Khâm nói, Tiên Sa cởi cái khăn trùm ra, đồng thuận, rồi họ trải tấm bạt nhựa đậy thóc lên đụn rơm trên đó họ trao ban thân xác với cả tâm hồn cho nhau. Đôi môi Khâm lướt trên da cô từ cổ xuống ngực; làn da mềm mại tỏa một mùi hoang dại của rừng nguyên sinh. Rồi anh đi sâu vào giữa hai chân cô đã giạng ra đón nhận động tác nhịp nhàng lui tới mạnh mẽ của anh. Cô rên rỉ bởi toàn thân tràn ngập một luồng cảm xúc tê dại cho tới lúc cảm xúc ấy bùng vỡ thành một tiếng kêu thảng thốt man dại. Sau đó họ rời nhau và ôm nhau cảm nhận lạc thú còn rung động trong người. Anh nói, “Em rất tuyệt vời”; cô đáp lại, “Anh cũng vậy, anh làm em thật đê mê.” Họ ôm nhau ngủ ở đó đến gần sáng mới về lại phòng sau một lần hành lạc khác.

111

Hai ngày sau, họ nhận được giấy báo của trường sư phạm về hai suất học bổng qua Úc dành cho họ. Khâm báo cho bà Ngọc Bích tin này. Bà nói với con rằng mọi chi phí di chuyển và ăn ở lúc ban đầu khi đến Úc của anh bà sẽ lo liệu. Anh cám ơn mẹ rối rít đồng thời hứa với mẹ anh sẽ lấy được bằng thạc sĩ và nếu không có gì trở ngại, sau đó anh sẽ lấy bằng tiến sĩ.

Lúc đó một vấn đề được đặt ra cho anh là khoản chi phí ban đầu của Tiên Sa mà anh biết gia đình cô với ba đứa em còn đang đi học hẳn là không lo liệu nổi. Sau cùng anh chạy đến má Hậu và mọi việc tạm ổn. Đơn giản là bà này luôn muốn tách Khâm ra khỏi Ngọc Bích và cha dượng để đưa Khâm về với kỷ niệm của cha ruột Khâm là liệt sĩ Tuân dù bà không chắc chắn lắm về việc này. Vả lại đôi chút hoài nghi càng làm bà quyết tâm hơn. Mặt khác việc du học sẽ tách Khâm rời hẳn bà Bích và đưa cặp vợ chồng mới cưới do bà xây dựng được sống bên nhau.

Với sự giúp đỡ tài chánh của bà Hậu, ngày đôi bạn trẻ về Sàigòn làm thủ tục xuất cảnh để du học, Khâm có thể dẫn Rêbêtisa đi mua sắm một vài khăn trùm, mấy bộ y phục của phụ nữ Hồi giáo theo phong cách Inđônêxia tại cửa hàng anh Shun, bên hông đền thờ Hồi giáo đường Pasteur, đền thờ này là của dân đạo Hồi đã qua Việt Nam sinh sống hơn một thế kỷ. Khâm cũng mua cho anh và Rêbêtisa vài cái quần Jeans mà anh mặc với áo thung, còn cô mặc với áo tunique không xẻ tà. Sau đó họ vào một hiệu sách cũ mua một vài cuốn tự điển. Tình cờ, Khâm thấy trên kệ trong một góc khuất mấy cuốn sách dịch các tác phẩm của Albert Camus, như các cuốn Huyền thoại Sysiphe, Kẻ xa lạ, Con người phản kháng. Trước đó anh chỉ biết Camus là một trí thức tiểu tư sản, theo học thuyết hiện sinh, từng theo đảng rồi sau đó bỏ đảng. Có lẽ vì tò mò anh mua cả ba cuốn sách dịch ấy mà anh định sẽ đem qua Úc.

Buổi tối họ ra chợ cũ đường Hàm Nghi ăn tối, sau đó vào một khách sạn bình dân để qua đêm. Sáng hôm sau họ sẽ đến tổng lãnh sứ Úc để được phỏng vấn. Tắm rửa xong, họ lên giường ngủ sớm sau một ngày chạy làm thủ tục. Có một lúc Khâm chống tay ngắm Rêbêtisa đang ngủ rèm mi cong hạ thấp trên mi mắt to, môi cánh cung hồng nhạt, và những đường cong hấp dẫn trên cổ và ngực cô nổi rõ trong chiếc áo ngủ. Sau đó anh nghiêng người ôm cô và đi vào giấc ngủ. Quá nửa đêm cô thức dậy làm anh cũng dậy theo. Họ tìm lại giấc ngủ nửa đêm về sáng với việc làm tình. Ước muốn bừng lên với thân thể Rêbêtisa phơi bày không mảnh vải như một tượng thần Vệ nữ bằng cẩm thạch theo động tác nhịp nhàng của Khâm thôi

112

thúc đều đặn giữa hai chân cô. Cô rên rỉ bấu vào lưng anh ve vuốt cho đến lúc khoái lạc dư đầy trào vọt chiếm hữu hai người như một hữu thể duy nhất của niềm hoan lạc.

Đến ngày họ lên máy bay qua Úc, hai gia đình đưa tiễn hai con mình ra phi trường. Bà Bích và bà Hậu đưa Khâm trên chiếc xe du lịch đời mới Mercedes. Khi đến phòng chờ của phi trường, Khâm xuống xe với hành lý đã thấy Rêbêtisa ở đó trong bộ y phục và khăn trùm mới nhất màu xanh ngọc. Cô chạy lại dịu dàng nói,

-“Em, ba mẹ và hai em trai em đến được nửa giờ rồi. Nãy giờ em mong anh quá chừng.”

-“Xe anh bị kẹt tại cầu Bình Chánh. Anh đi với mẹ Bích và má Hậu.”

-“Dù gì anh cũng giới thiệu gia đình em với mẹ Bích nghe anh.”

Ngay sau đó, Khâm giới thiệu mẹ Bích với gia đình Tiên Sa mà anh gọi cô là “người bạn gái cùng được học bổng như anh”. Hai bên chào nhau nhưng bà Bích không giấu được vẻ khinh thường khó chịu. Rồi họ hẹn gặp lại để còn dành thời gian trò chuyện với hai người con sắp đi xa. Trước khi vào bên trong để kiểm tra hành lý, Tiên Sa chào từ biệt bà Bích và bà Hậu, cô ôm choàng bà này nói nhỏ vào tai, “má nhớ giữ gìn sức khỏe. Tụi con sẽ viết thư về cho má, phần con con mang ơn má rất nhiều…” Cả hai rưng rưng nước mắt. Bà Bích gần đó chỉ nghe loáng thoáng những tiếng ‘má’ mà không hiểu gì. Khi tới cổng kính của khu vực bên trong, Khâm và Tiên Sa quay lại vẫy tay chào hết thảy người thân, rồi họ đi vào quầy cân hành lý. Mười phút sau ông bà Ali và hai con trai em của Tiên Sa cũng chào từ biệt bà Bích và bà Hậu để ra về. Để đến đây họ đã thuê một xe Taxi bảy chỗ và bây giờ họ theo xe đó về nhà.

Sau đó mười phút, hai người thân của Khâm cũng lên xe du lịch ra về. Khi xe bắt đầu vào xa lộ, bà Bích nói với bà Hậu,

-“Thằng Khâm không có bạn gái nào ra phi trường tiễn nó sao?”

-“Hình như nó không có bạn gái nào ngoài con bé Tiên Sa ấy,” bà Hậu đáp lại.

-“Con bé đó chán thật, người Chăm theo đạo Hồi… Lúc nãy chị nghe thấy nó gọi em bằng ‘má’, nó nịnh hót em điều gì vậy?”

113

Câu hỏi này làm bà Hậu bối rối, bà chợt nghĩ cũng nên nhân dịp này cho chị dâu biết chút ít về quan hệ của hai đứa, phần còn lại chính hai đứa sẽ viết thư báo cho mẹ chúng sau như bà đã dặn trước khi đưa tiền cho Tiên Sa chuẩn bị chuyến đi,

-“À thế này, nó thú nhận với em là chúng nó yêu nhau và có thể sau này chúng nó sẽ tiến đến hôn nhân.”

-“Biết ngay mà, rõ ràng con ‘mọi’ đó nghèo mà tham lại thích trèo cao, đỉa mà đòi đeo chân hạc…” Bà Bích nói với giọng bực tức vì trong thâm tâm bà thấy so sánh một cô gái có nhan sắc với con đỉa là hơi quá đáng. Bỗng bà đổi đề tài với giọng cau có, bà nói,

-“Sao hai tháng gần đây, em không hoàn vốn cho chị, trong khi chị biết em buôn bán rất thành công?”

Bà Hậu bất ngờ về câu hỏi bất thường này vì hiếm khi chị dâu bà nhắc đến chuyện này dù có những tháng bà chậm trễ việc thanh toán. Và bà Hậu không khó khăn để đưa ra một câu trả lời đối phó mà bà đã chuẩn bị khi đưa tiền giúp đỡ Tiên Sa, con dâu mà bà cưới cho Khâm, bà nói,

-“Em định nói với chị mấy lần mà quên, em Thông của em bị chủ nợ làm khó đòi thưa kiện, nên em đã cho nó vay mượn, em đành khất chị hai tháng, tháng sau em sẽ đóng tiền cho chị bình thường…”

-“Có phải Thông thầy giáo không?”

-“Dạ phải.”

-“Vậy cũng được,” rồi bà nói tiếp, “Sau này, con ‘mọi’ đó có viết thư về cho em, em phải cấm nó đừng hoang tưởng chuyện hôn nhân với Khâm. Cuộc hôn nhân của Khâm phải do tổ chức xếp đặt.”

-“Vâng em sẽ cảnh cáo nó.”

Từ đó cho đến lúc về đến ngôi biệt thự, hai bà không nói gì thêm, chỉ im lặng nhìn qua cửa kính xe các cánh đồng xanh mướt hoặc vàng ươm đang chờ gặt hái.

114

ĐỨC HỒNG Y

Với ý kiến thuận lợi nếu không nói có cả áp lực của ban Tôn giáo Nhà nước, tòa thánh đã phong cho Gioan Baotixita Phan Minh Vũ làm hồng y của hội thánh sáu năm sau ngày ông được phong Giám Mục. Sau thánh lễ phong chức rất hoành tráng, với tiệc chiêu đãi hơn năm trăm người tại tòa giám mục, Hồng Y còn được mời đến một tiệc mừng khác trong biệt thự của bà Ngọc Bích sau đó một tuần. Bà Hậu hiện diện trong số các khách mời, lần này bà đi cùng ông Giô-dép Xuân Tâm đã trở thành “bạn đời” của bà ở tuổi xế chiều, một người bạn mà bà đã mong mỏi, dù không chờ đợi, và họ thường xuyên gặp nhau. Dù vậy, sự quân bình tâm lý làm bà trẻ lại, trẻ hơn so với tuổi tác. Tuần trước khi gặp nhau, ông Giô-dép đã tặng bà quyển sách ông dịch nhưng tên dịch giả là GM. Minh Vũ. Trong lúc nói chuyện với vài linh mục tháp tùng, bà chợt nhớ đến bức thư mới nhất Khâm gởi về cho mẹ Bích nhờ bà chuyển lại. Bà Hậu cũng nhận một bức thư trước đó vài ngày trong đó Khâm nói sẽ cùng Rêbêtisa và đứa con trai Necip ba tuổi từ Malaisia qua Qatar là nơi có công ty mẹ trong ngành dầu khí. Bà cầm bức thư đi tìm bà Bích, gặp bà này trong phòng riêng, bà Hậu đưa thư và nói,

-“Đây là thư Khâm mới gởi về cho chị. Cháu Khâm cũng gởi riêng cho em một bức thư. Nói chung vợ chồng nó cũng bình an và cùng làm trong một công ty dầu hỏa của Qatar.”

-“Tụi nó có nói khi nào nó về lại Việt Nam không?”

-“Khâm không hề nói đến việc này, em chỉ biết là Khâm vừa có bằng tiến sĩ, còn vợ người Chăm nó có bằng thạc sĩ.”

-“Vậy thì tốt, ngày mai chị sẽ đọc thư này…” Nói rồi bà Bích nhét lá thư xuống bên dưới nệm giường. Cũng chỗ ấy, nhưng trên nệm giường bà đã để sẵn khoanh dây thừng gắn vào một cán gỗ để Minh Vũ hành xác bà trước lúc hành dâm.

Bà Hậu định hỏi về sợi dây thừng mà các đan sĩ khổ hạnh thường dùng làm thắt lưng, chứng tích của việc hành xác ngày xưa trong các đan viện, dĩ nhiên có làm phép vì bà không biết đó là một hình cụ, nhưng sau đó lại thôi, không hỏi. Bà cáo lui về chỗ cạnh ông Giô-dép trong phòng khách. Lúc ấy linh mục tổng đại diện đưa cho vị tân hồng y một bức thư nặc danh trong đó kẻ viết thư kể ra những việc mà

115

ông này sai phạm khi tránh né hoặc không làm tròn nhiệm vụ trong mấy năm làm giám mục như sau:

-Không giữ thể diện và vị thế của Giáo Hội vì tự coi mình như một công chức của tỉnh ủy khi nhận xe mang biển số công vụ màu xanh của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh, lại còn thường xuyên sử dụng xe này.

-Khi qua Mỹ công tác hòa giải Việt Kiều với Nhà nước, giám mục đã mỉa mai chê trách Việt Kiều còn dùng lá cờ của chế độ cũ.

-Không dám lên tiếng bảo vệ nhân quyền cho dân chúng đặc biệt trong việc nông dân đòi đất mà nhà nước xung công một cách vô lý và không đền bù xứng đáng.

-Không mạnh tay đưa vào nề nếp việc các linh mục dưới quyền phạm điều răn thứ sáu, và các cha xứ thích xây dựng nhà thờ, nhà xứ hoành tráng quá mức cần thiết khiến giáo dân nghèo trong giáo phận phải đóng góp khổ sở.

-Với những giáo huấn mới nhất của giáo hội Rôma như giáo huấn về xã hội hoặc khuyến khích đọc Kinh Thánh trong kinh nguyện cá nhân hoặc gia đình thì “đánh trống bỏ dùi” nghĩa là tổ chức việc phát động rầm rộ, nhưng sau đó không có kế hoạch tập huấn lâu dài cho giáo dân,

- Và những việc đáng trách khác.

Đọc xong thư nặc danh, vị tân hồng y lạnh lùng hỏi tiếp,

-“Còn có gì khác hay hơn không?” Vừa nói ông vừa xé bức thư nặc danh, vò lại rồi ném vào góc tường.

-“Dạ thưa còn bộ tượng ba con khỉ hình như cũng do chính người viết thư nhờ gởi đến cho ngài.”

-“Bộ ba con khỉ gì hả?”

-“Dạ thưa một bộ tượng gồm ba con khỉ bằng đất nung, tráng men cao bằng một độc bình loại trung khoảng tám tấc, chúng đứng bên nhau, dáng vẻ rất buồn cười…”

-“Buồn cười thế nào, nói nhanh lên.” Hồng y ra lệnh.

116

-“Dạ một con tự bịt mắt, một con tự bịt tai, một con tự bịt miệng nghĩa là chúng không thấy, không nghe, không nói…”

Đến đây, Hồng y bật ra hai tiếng “xà-lồ” hình như là lời chửi thề trong tiếng Pháp; lúc đó linh mục tổng đại diện gợi ý,

-“Thưa ngài, hay là để tôi đem bán lại ở cửa hàng mỹ nghệ, còn không cho người đập nát chúng.”

-“Sao cha lắm chuyện thế: không bán, không đập bỏ,” Hồng y ngắt lời rồi nói tiếp, “Cha gởi tặng bộ tượng khỉ ấy cho dòng Chúa Cứu Chuộc đường Ô Điển bảo họ cứ theo đó mà làm, đừng làm phiền nhiễu tòa giám mục và nhà nước nữa.”

Rồi ngài hồng y và các linh mục tháp tùng cười to thoải mái trước ý tưởng thiên tài ấy. Ngay sau đó ngài hồng y nói, “Thôi ta ăn đi kẻo mất ngon.” Bữa tiệc mừng bắt đầu với rượu tây và các món ngon do một đầu bếp giỏi nhất tỉnh chế biến.

Sau bữa tiệc, bà Hậu được ông Giô-dép chở về nhà ông và qua đêm với ông trong hoan lạc của mối tình già. Các linh mục tháp tùng với hồng y cũng mau chóng rút lui, trả lại không gian tĩnh mịch cho ngài và Ngọc Bích. Khi hai chị giúp việc đã về chỗ ngủ của họ, và khi chỉ còn hai người trong phòng, ông Vũ lột trần bà Bích dùng dây thừng quất túi bụi vào lưng và mông bà. Bà này luôn miệng nói, “Em biết em có tội với cha em và với Đảng, với giáo hội của anh nữa”. Bạo hành xong, ông Vũ vứt roi dây vào góc nhà, nắm mái tóc kéo bà đến xô úp người vào ghế sô-pha, và từ sau mông ông thúc vào giữa hai chân bà khốc liệt và tàn nhẫn làm bà Bích kêu rên ú ớ. Sáng hôm sau ông Vũ mới ra về đắc thắng sau khi đã hành dâm hung bạo với bà Bích không chỉ một lần. Vâng bà Bích đã xây dựng nên một thần tượng, một chức sắc cao trong tôn giáo để rồi thần tượng ấy trở thành một bạo chúa hành hạ bà không chút xót thương.

Ba giờ chiều bà Bích mới trỗi dậy, mình mẫy vừa ê ẩm đau rát, vừa rưng rưng khoái cảm. Bà mở cái tủ lạnh nhỏ trong phòng nơi tối qua bà đã chất đầy các thức ăn nguội bồi dưỡng cho đối tác để tìm nước uống: “bà khát!” nhưng đã hết sạch. Bà vào nhà tắm uống đỡ nước trong rô-bi-nê rồi tắm rửa khá lâu: bà chiêm ngưỡng những vết roi, vết cắn ông Vũ để lại trên người bà. Đến hơn bốn giờ chiều bà kêu chị-ở dọn ăn cho bà. Chỉ khi đó bà mới thật sự tỉnh táo và nhớ đến bức thư mới nhất của Khâm. Bà dặn dò vài việc cho hai chị giúp việc rồi cầm lá thư ra nhà thủy

117

tạ, vừa đọc vừa hóng mát. Một đám mây kéo đến cùng một cơn dông đưa cảnh vật mau chóng vào đêm khi chiều chưa tắt. Hình như có một vài tiếng cá quẫy mạnh trong hồ sen. Sau đó là đêm dài tĩnh mịch buông xuống cùng với cơn mưa lớn.

*&*

Sáng hôm sau, khi hai chị giúp việc chuẩn bị xong bữa ăn sáng, rồi một chị đến phòng bà chủ để mời bà. Chị không thấy bà Bích đâu, sau đó cả hai cùng đi khắp các phòng tìm kiếm cũng không thấy. Sau cùng hai người phân công tìm kiếm: một người ở khuôn viên trước nhà, một người ở khu vườn cảnh sau nhà. Chị này cũng không thấy bà trong nhà thủy tạ; chị cảm thấy sợ hãi vì thông thường, khi ra khỏi ngôi biệt thự, bà Bích luôn báo họ biết và nhờ một chị ra khóa cổng. Bây giờ chị nhìn xuống nước, qua những mảng lá bông súng đang trổ hoa đỏ và vàng, chị thấy lơ lững có một vệt đen lơ lửng bên dưới, nhìn kỹ chị thấy mái tóc dài và cả khuôn mặt xanh lè, bất động của bà chủ chị. Chị quỵ người ngồi bệt xuống sàn gỗ của nhà thủy tạ gào to, khóc lóc.

-“Ôi trời ơi, bà chủ ơi sao bà như thế này… tội lắm bà chủ ơi…”

Chị giúp việc thứ hai chạy đến, rồi vừa kêu khóc vừa chạy vào nhà gọi điện thoại cho cảnh sát. Mười lăm phút sau ba anh cảnh sát đến ngay. Một anh khám xét hiện trường trong lúc hai anh còn lại mặc áo phao tìm cách dùng dây thừng kéo xác nạn nhân lên. Anh ở trên nhà thủy tạ chợt thấy một mảnh vải của vạt áo màu hồng còn dính vào một đầu đinh nhô ra từ lan can thấp xung quanh nhà thủy tạ. Và kết luận ban đầu của cảnh sát trong biên bản là bà Bích ngồi trên lan can ấy thay vì trên băng gỗ cạnh bàn tròn giữa nhà thủy tạ. Rồi khi cơn dông đến bà đứng dậy để vào nhà và trong lúc gở cái áo vướng vào đầu đinh, bà mất thăng bằng và một cơn gió mạnh đã xô bà xuống nước. Mọi người có mặt tại hiện trường lúc đó đều ký vào biên bản và khoảng mười giờ rưỡi các anh cảnh sát ra về. Đây là một tai nạn, không có dấu hiệu gì của một vụ tự tử. Xác bà được đặt trên chiếu và đắp kín bằng một chiếc chiếu khác trong nhà thủy tạ chờ người nhà đến lo việc mai táng. Khuôn mặt bà hơi sưng phù vì nước hồ nhưng mắt nhắm kín bình yên thanh thản như một người tù khổ sai được tháo bỏ gông cùm và xiềng xích.

Xế trưa hôm ấy ngay khi nhận được tin, ngài Hồng y sụt sùi khóc một lúc rồi sai cha tổng đại diện thay ngài đến làm phép xác và liệm người chết. Ông này gọi điện thoại cho nhà đòn quen biết để các đạo tì mang đến biệt thự cái quan tài bằng gỗ cẩm lai. Khi trời vừa tối, các thân nhân của người chết từ Hàm Luông, Chợ Lách trong đó có bà Hậu và ông Giô-dép Xuân Tâm. Cha đại diện cử hành nghi thức tẩn liệm và cùng gia đình đọc kinh cầu hồn cho người thân vừa mới qua đời. Sau đó cha chủ sự thu dọn nước phép, tượng ảnh về lại tòa giám mục để cùng ngài hồng y

118

làm thánh lễ đưa chân. Người nhà lúc này gặp riêng đảng ủy để nhận sự chỉ đạo: Tượng Chúa thay bằng tượng bác đặt trên một bàn thờ kê ngang, nơi mà các gia đình người lương đặt bàn thờ Địa Tạng Bồ Tát, bức chân dung của bà Bích phải là chân dung mặc quân phục với các huy chương, xung quanh quan tài treo cờ đảng.

Sáng hôm sau trong lúc bà Hậu bận tiếp các đồng chí cũ của người chết đến phúng điếu, ông Giô-dép đi thẫn thờ trong khu vườn sau, cạnh ao nước. Ông thở dài khi nghĩ đến cảnh bà Bích làm nô-lệ tình dục cho ngài hồng y. Khuôn mặt thanh thản bình an của bà khi chết phải chăng là của một nô lệ được phóng thích, được cởi bỏ gông cùm. Và phải chăng mỗi lần gặp Hồng Y là mỗi lần cái chết gặm nhắm lần hồi xác thân bà… Có lẽ chỉ là một tai nạn hơn là một vụ tự tử, nhưng tại sao trong ngăn tủ không khóa của bà, bà đã chuẩn bị mọi giấy tờ di chúc: căn biệt thự này bà đã làm giấy tặng cho tu viện của xơ phó bề trên Thanh Huyền, dòng Chúa Quan Phòng, một nửa số tiền trong tài khoản bà để lại cho Caritas của giao phận, một nửa kia bà di chúc cho bà Hậu cùng các anh em bà Hậu và cháu nội bà là Necip mà bà rất mong gặp nó như lời bà thường tâm sự với bà Hậu. Tất cả các giấy tờ đều đã được công chứng

Thình lình ông Giô-dép thấy trên bờ kè của ao nước đối diện với nhà thủy tạ có một lá thư còn bám trên một tảng đá. Ông phải nằm rạp xuống đất mới vói tới và lấy được. Ông đến một ghế đá dưới bóng cây sa-kê ngồi đọc. Đó là bức thư của Khâm gởi cho mẹ mà bà Hậu đã chuyển lại. Như vậy khi bà Bích rơi xuống ao thì cơn dông đã thổi bức thư qua bờ kè bên này. Đoạn cuối bức thư viết,

Mẹ thân yêu,

Có lẽ khi bức thư này đến tay mẹ nghĩa là khoảng mười ngày nữa, gia đình con trên đường bay qua Qatar

, nơi đặt trụ sở chính công ty khai thác dầu khí của con và Tiên Sa. Hiện nay trong đất nước này Hồi giáo và nền dân chủ đã kết hợp hài hòa mà chưa có quốc gia Ả Rập nào làm được. Con coi đây là một cơ may để con sống lý tưởng “con người phản kháng” theo mẫu hình của Camus để phá đổ các ngẫu tượng-bạo chúa của tư bản, của Mascơva và Bắc Kinh. Than ôi, của cả Vatican nữa. Mẹ đừng ngạc nhiên khi từ hình tượng Lê Văn Tám suốt thời kỳ trung học, con đã có những hoài bảo và những lý tưởng khác. Con sẽ góp phần phá đổ những phi lý của các quyền bính thế tục và thần thiêng đã từng làm mẹ đau khổ rất nhiều và làm cho lòng con tan nát. Dù sao mẹ cũng đừng lo lắng vì con sẽ luôn sống tốt. Sau hai tháng nữa con sẽ gởi về mẹ địa chỉ và số điện thoại mới của con. Có thể cuối năm nay con sẽ cùng cháu Necip về thăm mẹ như mẹ luôn mong đợi (…) Con hôn mẹ.

119

Đọc xong bức thư, ông Giô-sép gấp thư lại cho vào túi áo. Ông tự nhủ ông sẽ đọc lại thư này cho bà Hậu nghe, cũng như giải thích cho bạn tình của ông những câu nào cần giải thích. Đồng thời ông cũng hiểu được tại sao gia đình bà Hậu không liên lạc được với Khâm để kêu anh về thọ tang mẹ. Âu đó cũng là ý Chúa. Rồi do một sự liên tưởng, ông nhớ lại việc ông bị nhà dòng đuổi về khi cha giám thị bắt gặp ông lén lút đọc các tác phẩm của Camus, một triết gia mà giáo hội coi là vô thần. Sau nhiều năm ông vẫn còn nhớ một câu quan trọng của Camus: “Sự phản kháng khai sinh những giá trị. Thật vậy, để hiện hữu, con người phải phản kháng (…) Tôi phản kháng, vậy chúng ta hiện hữu.” Ông sẽ kể lại câu chuyện về ơn gọi không thành của ông cho bà Hậu – cám ơn Chúa đã thương ban cho ông được gặp gỡ, yêu thương bà trong tuổi già cô độc.

Sau ngày Bà Bích qua đời hai tháng, ngài Hồng Y ngả bệnh. Tòa giám mục đưa ngài qua Singapore điều trị. Sau một tháng điều trị không hiệu quả ngài trở lại Việt Nam và chết dần mòn đau đớn vì căn bệnh ung thư tuyến tiền liệt di căn giống như một dã thú chết đói vì không còn sức lực tìm được một con mồi khác.

Một đám tang trọng thể với thánh lễ đồng tế của hơn hai trăm linh mục trong và ngoài giáo phận để tiễn Hồng y về với Chúa. Trong thánh lễ xảy ra một sự cố nhỏ, hơn chục người ngất xỉu trong đám tang, không phải vì nắng nóng: họ ngất trí, xúc động, tưởng như đứng trước một triều thần thiên quốc khi nhìn thấy bốn giám mục với hơn hai trăm linh mục trong áo lễ màu tím. Phần bà Hậu đứng tham dự thánh lễ bên cạnh ông Giô-dép Xuân Tâm đã khóc rất nhiều khi nghĩ đến người chị dâu khốn khổ, đáng thương Ngọc Bích. Âu đó cũng là số phận, một mầu nhiệm khôn lường.

Hết

120