32

Click here to load reader

Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

  • Upload
    lyminh

  • View
    214

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯVIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TƯ

____________________________

BÁO CÁO CHUYẾN ĐI KHẢO SÁT TẠI CHLB ĐỨC VÀ CỘNG HOÀ SÉC

(từ ngày 1 đến 12-6/2008)

I. Thông tin chung

Trong khuôn khổ hoạt động của Dự án  ‘Nâng cao năng lực phân tích và nghiên cứu chính sách’ do DANIDA hỗ trợ Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã tổ chức đoàn nghiên cứu khảo sát tại hai nước CH liên bang Đức và CH Séc từ ngày 1 đến 12 tháng 6 năm 2008. Mục đích chính của đoàn là tìm hiểu vai trò của Nhà nước đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công tại các nước có nền kinh tế thị trường và nền kinh tế đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường; nghiên cứu quá trình cải cách khu vực Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công trong thời gian gần đây, đặc biệt là trong các lĩnh vực như y tế, giáo dục; những thể chế để tiến hành cải cách đó và mở rộng quan hệ hợp tác trong tương lai với các tổ chức, đối tác của hai nước nói trên.

Tại Đức, đoàn đã thăm, nghe các bài giảng và làm việc với 6 cơ quan, bộ ngành có liên quan tới lĩnh vực nghiên cứu khảo sát như: trường Đại học quản lý Nhà nước Hertie (HsoG); Bộ kinh tế và công nghệ Đức; Bộ Y tế Đức; Bộ Lao động và các vấn đề Xã hội Đức; Hội đồng kinh doanh Châu Á-Thái bình dương Đức và Liên đoàn Lao động Đức. Tại CH Séc, đoàn đã thăm và làm việc với các cơ quan như: Bộ Tài chính, Đại học Kinh tế Praha, Cơ quan xúc tiến Thương mại CH Séc, Cơ quan xúc tiến Đầu tư CH Séc và Đại sứ quán Việt nam tại CH Séc, Đại sứ quán Việt nam tại CH Séc...

II. Những kết quả thu được từ chuyến khảo sát: A. CH liên bang Đức

1. Khái quát tình hình kinh tế vĩ mô và khái quát mô hình kinh tế thị trường xã hội của Đức

Trong nhiều thập kỷ qua, CHLB Đức được biết tới như một mẫu hình phát triển theo mô hình kinh tế thị trường xã hội với đặc điểm nổi bật là Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong cung ứng các dịch vụ phúc lợi cho người dân. Để thực hiện vai trò này, Nhà nước xây dựng một mạng lới bảo trợ xã hội rộng khắp để bảo đảm cho người dân

1

Page 2: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

được hưởng những dịch vụ phúc lợi cơ bản. Mô hình Nhà nước phúc lợi của CHLB Đức có một số đặc điểm khác với mô hình tương tự được áp dụng ở một số nước châu Âu như các nước Bắc Âu, Pháp, Hà Lan... Có thể nêu một số đặc điểm và nguyên tắc chính của Nhà nước phúc lợi của Đức là: i) bảo đảm phúc lợi cho người dân dựa vào một hệ thống bảo hiểm xã hội; ii) hệ thống này hoạt động dựa vào sự đóng góp tài chính như nhau của cả người lao động và người sử dụng lao động; iii) theo nguyên tắc trả theo mức sử dụng dịch vụ phúc lợi của người dân; iv) lợi ích mà người sử dụng hưởng gắn với thu nhập của họ; v) nguyên tắc “hợp tác xã hội”, tức là quản lý hệ thống bảo hiểm thông qua các quĩ bảo hiểm xã hội hoạt động độc lập, được quản lý bởi tổ chức công đoàn và người sử dụng lao động chứ không phải do Nhà nước quản lý. Với những vai trò như vậy, Nhà nước của CHLB Đức đã thực hiện tốt chức năng một Nhà nước phúc lợi (welfare state) trong nhiều năm qua.

Hệ thống phúc lợi xã hộị này được hình thành bằng các nguồn kinh phí đóng góp của nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động, cá nhân...với mức chi tiêu lên đến 1000 tỷ DM và chiếm đến 1/3 tổng sản phẩm quốc gia vào những năm 90. Không giống như những nước phát triển khác, hệ thống an sinh xã hội Đức không theo mô hình tập trung dưới sự quản lý nhà nước mà là một hệ thống phức hợp bao gồm các cơ quan cung cấp dịch vụ xã hội ở tầm quốc gia và các cơ quan độc lập ở bang và địa phương. Các cơ quan này một số là của nhà nước, một số bán công, một số do công ty tư nhân quản lý hoặc tự nguyện.

Theo tiêu chuẩn thế giới, hệ thống phúc lợi Đức khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên, việc tiếp cận các dịch vụ xã hội vẫn còn chưa công bằng cho mọi người. Vào giữa những năm 90s, hệ thống an sinh xã hội vẫn chưa bao quát hết cho những người có thu nhập thấp và thất nghiệp. Ví dụ, năm 1994, có tới 4,6 triệu người cần đến cứu trợ xã hội, tăng đến 100% so với những năm 80. Ngoài ra, một vấn đề đối với hệ thống an sinh xã hội Đức khi sát nhập Đông Đức vào Tây Đức là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, cứu trợ xã hội hầu như không tồn tại ở Đông Đức. Do vậy, việc áp dụng hệ thống an sinh xã hội vào Đông Đức rất phức tạp và tốn thời gian và nguồn lực. Điều này cũng dẫn đến phải điều chỉnh cả hệ thống luật pháp, hệ thống hành chính quản lý để giải quyết vấn đề trên và dẫn đến một bộ phận người dân Tây Đức bị ảnh hưởng khi họ cho rằng việc mở rộng hệ thống an sinh làm cho chất lượng dịch vụ xã hội họ đang hưởng giảm đi. Đối với hệ thống giáo dục, việc kết hợp 2 mô hình giáo dục Đông Đức và Tây Đức cũng được tiến hành giống như hệ thống an sinh xã hội. Ví dụ, để kết hợp 2 mô hình này, số năm học sinh đến trường ở bậc học phổ thông ở Đông Đức được giảm xuống từ 13 năm xuống còn 12 năm, trong khi đó ở Tây Đức, số năm học sinh đến trường được tăng lên 1 năm.

Trong những năm qua, Chính phủ Đức đã đưa ra nhiều chính sách trong cải cách kinh tế -xã hội như tài chính công, chính sách xã hội, tạo một môi trường kinh doanh thông thoáng hơn giúp các công ty phát triển. Kết quả là, nền kinh tế Đức từ năm 2007 trở lại đây đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Năm 2008, tăng trưởng GDP dự kiến đạt 1,7% dẫn đến số việc làm được tạo mới tăng 280.000 việc làm mới

2

Page 3: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

và số người thất nghiệp giảm 330.000 người. Số lượng người tham gia đóng bảo hiểm xã hội tăng 570.000 người trong năm qua và số người thất nghiệp giảm từ 4,9 triệu người năm 2005 xuống còn 3,8 triệu người năm 2007. Một trong những mục tiêu hàng đầu của Chính phủ Đức hiện nay là giảm tỷ lệ thất nghiệp thông qua tăng trưởng kinh tế và phát triển thị trường lao động với sự tạo ra cơ chế khuyến khích bên cung và bên cầu lao động. Một trong những chính sách là tiếp tục giữ mức trợ cấp lương dưới 40% để đóng góp vào bảo hiểm xã hội (mức tỷ lệ đóng góp hiện nay là 50/50 giữa người sử dụng lao động và người lao động). Bước tiếp theo là mức giảm đóng mức đóng góp bảo hiểm thất nghiệp xuống còn 3,3% so với lương bắt đầu thực hiện từ 1/1/2008. Đây là những bước giảm gánh nặng chi phí cho các doanh nghiệp khi thu hút lao động.

2.Mô hình cung ứng dịch vụ y tế, thách thức, và định hướng điều chỉnh2.1. Cơ cấu tổ chức

Hệ thống bảo hiểm xã hội của CHLB Đức được xây dựng khá hoàn chỉnh và phát triển khá lâu đời, bao gồm nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau gồm bảo hiểm y tế (1883), bảo hiểm tai nạn (1884), bảo hiểm hưu trí (1889), bảo hiểm thất nghiệp (1927), và bảo hiểm chăm sóc y tế dài hạn (1995). Trong các loại hình bảo hiểm này lại được chia thành bảo hiểm bắt buộc (SHI) do nhà nước quản lý và loại hình bảo hiểm tự nguyện do các công ty tư nhân đảm nhiệm.

2.1.1.Bảo hiểm y tế

Với một số chính sách cải cảch bảo hiểm y tế năm 2007, Chính phủ Đức áp dụng Luật bảo hiểm y tế mới. Theo đó, thay vì chính sách phổ cập bảo hiểm y tế, chính sách bảo hiểm y tế mới là bắt buộc với mọi người dân sống ở Đức đều phải mua loại hình bảo hiểm này. Cơ chế đóng bảo hiểm giữa người lao động và người sử dụng lao động là 50/50. Ngoài ra, đối với những người tham gia bảo hiểm tư nhân thì mức đóng phụ thuộc vào mức bảo hiểm của người đóng lựa chọn. Đối với sinh viên, tỷ lệ đóng bảo hiểm được ưu đãi phù hợp với đối tượng học sinh, sinh viên.

Phần lớn người dân Đức và người nước ngoài sinh sống ở Đức tham gia bảo hiểm y tế trong khu vực nhà nước. Dịch vụ bảo hiểm y tế bắt buộc được cung cấp bởi một hệ thống các công ty bảo hiểm hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, các công ty này cùng với các cơ quan nhà nước thực hiện chương trình y tế quốc gia ( Gesetzliche Krankenkassen). Từ năm 1996 trở lại đây, mọi người đều có quyền tự do lựa chọn công ty đăng ký bảo hiểm mặc dù lợi ích và dịch vụ bảo hiểm là như nhau cho tất cả công ty. Công ty bảo hiểm sẽ phát cho mỗi người một thẻ bảo hiểm y tế cho phép người bảo hiểm có thể đi khám chữâ bệnh bất cứ lúc nào ở các cơ sở công lập. Đối tượng phải tham gia bảo hiểm bắt bụôc là:

- Người lao động có mức thu nhập thấp hơn mức trung bình xã hội (400 Euro/tháng)

3

Page 4: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

- Sinh viên các trường đại học- Người làm việc bán thời gian hoặc học sinh trung học- Người già có lương hưu hoặc có thẻ bảo hiểm y tế được nhà nước cấp- Người thất nghiệp (nhận trợ cấp cơ quan dịch vụ lao động Đức)

Ngoài ra, người dân có thể tham gia bảo hiểm tự nguyện trong khoảng thời gian ngắn hạn cho những trường hợp cư trú ngắn hạn hay những người tàn tật.

Trong một số trường hợp (đạt mức thu nhập nhất định), người được bảo hiểm có thể tham gia bảo hiểm y tế tư nhân.

Cơ chế đóng bảo hiểm của 2 loại hình này như sau:

Bảo hiểm y tế do nhà nước quản lý: mức đóng dựa vào tổng thu nhập (khoảng 14% tổng thu nhập của người tham gia bảo hiểm). Nếu một người có mức thu nhập cao hơn mức trung bình (theo quy định) có thể lựa chọn mức đóng bảo hiểm thấp hơn cho các công ty bảo hiểm tư nhân.

Bảo hiểm y tế tư nhân: mức đóng dựa trên tình trạng sức khoẻ của người bảo hiểm, không phụ thuộc vào thu nhập. Ví dụ, phụ nữ và người già thông thường phải đóng phí cao hơn nam giới. Ngoài ra, các công ty bảo hiểm này cũng có mức đóng phí khác nhau cho các dịch vụ chăm sóc y tế theo từng loại đối tượng và đối tượng thu hút đóng bảo hiểm của các công ty thường là nam giới trong độ tuổi lao động hơn là người già.

Thanh toán thuốc men và điều trị: nếu một người tham gia hệ thống bảo hiểm nhà nước chỉ phải thanh toán 1 khoản phí không đáng kể cho thuốc men và điều trị, còn mọi khoản tiền khác còn lại sẽ do công ty bảo hiểm thanh toán. Đối với người mua bảo hiểm tư nhân, trước hết họ phải thanh toán mọi chi phí thuốc men, khám bệnh, sau đó họ gửi phiếu thanh toán cho công ty bảo hiểm để hoàn lại tiền đã bỏ ra. Tham gia loại hình bảo hiểm y tế tư nhân, cho phép người bảo hiểm được khám chữa bệnh ở các bệnh viện tư nhân, hoặc bán công...

2.1.2.Bảo hiểm y tế dài hạn

Loại hình bảo hiểm này ra đời vào năm 1995 (Pflegeversicherung) phục vụ chủ yếu cho những người không có khả năng chăm sóc bản thân mình do bị tại nạn nghiêm trọng, ốm đau, bệnh tật hoặc những người già. Loại hình bảo hiểm này được cung cấp bởi chính những công ty cung cấp bảo hiểm y tế. Đối tượng tham gia loại hình bảo hiểm này chính là những người tham gia bảo hiểm y tế trên. Tương tự như bảo hiểm y tế, các công ty bảo hiểm y tế tư nhân cũng cung cấp loại hình bảo hiểm này. Mức đóng phí bảo hiểm này là 1,7% tổng thu nhập của người lao động và người lao động và người sử dụng lao động đóng theo cơ chế 50/50. Người được hưởng bảo hiểm này khi cần phải được trợ giúp chăm sóc các hoạt động hàng ngày và kéo dài ít nhất là 6 tháng. Trợ giúp chăm sóc y tế cho đối tượng này bao gồm một người chăm

4

Page 5: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

sóc điều dưỡng hàng ngày cho đối tượng bảo hiểm và người được bảo hiểm có thể lựa chọn một trong hai hình thức: (i) hưởng dịch vụ chăm sóc do một cơ quan cung cấp dịch vụ hoặc (ii) nhận bằng tiền trả lương cho người chăm sóc thuê.

2.1.3. Bảo hiểm hưu trí

Tất cả người lao động, kể cả học nghề và những nhóm người lao động cá thể đều phải tham gia loại hình bảo hiểm này. Mức đóng góp cho bảo hiểm này là 19,5% trên tổng thu nhập của người lao động. Chủ sử dụng lao động và người lao động đều đóng ở mức 50/50. Người được nhận lương hưu ở độ tuổi 65 và trong một số trường hợp người lao động có thể nhận tiền hưu trí sớm hơn hoặc trong một số trường hợp người lao động có thể làm việc lâu hơn thời gian quy định về hưu và họ nhận tiền lương hưu muộn hơn. Hiện tại hệ thống bảo hiểm hưu trí Đức đang gặp phải một thác thức là cân bằng quỹ giữa một bên là người đóng bảo hiểm(người lao động) và một bên là thanh toán tiền lương hưu do tỷ lệ sinh thấp và tuổi thọ bình quân của người dân Đức đang tăng lên do vậy ngày càng có ít người đóng bảo hiểm. Hơn nữa tỷ lệ thất nghiệp cao cũng là một nguyên nhân gây mất cân bằng quỹ.

2.1.4. Bảo hiểm thất nghiệp

Tất cả người lao động ở Đức đều phải tham gia bảo hiểm này với mức đóng là 6,5% so với mức lương hàng tháng của người lao động. Chủ sử dụng lao động và người lao động đóng theo tỷ lệ 50/50. Người thất nghiệp được quỹ bảo hiểm thanh toán nếu đã đóng bảo hiểm ít nhất là 12 tháng và đang ở tình trạng thất nghiệp. Để nhận được trợ cấp thất nghiệp, người lao động phải đăng ký với cơ quan quản lý lao động ở địa phương ( Arbeitsamt). Khi đang ở trình trạng thất nghiệp hoặc kiếm được việc làm, người lao động phải đăng ký với cơ quan này, trong trường hợp chậm chễ đăng ký sẽ bị phạt. Mức hưởng trợ cấp của người thất nghiệp trung bình khoảng 60% so với mức lương đóng bảo hiểm và được chuyển khoản trực tiếp vào tài khoản của người thất nghiệp. Nếu người thất nghiệp có trẻ em, thì mức trợ cấp được tăng lên 67%. Thời gian được nhận trợ cấp thất nghiệp phụ thuộc thời gian trước đây đóng bảo hiểm và độ tuổi. Khi nhận được trợ cấp, người thất nghiệp phải báo cáo thường xuyên cho cơ quan quản lý lao động và người được hưởng trợ cấp phải chứng minh cho cho cơ quan quản lý lao động là đang trong tình trạng tìm kiếm việc làm.

2.1.5. Bảo hiểm tại nạn việc làm

Loại hình bảo hiểm này trang trải các chi phí cho người lao động gặp tại nạn trong khi làm việc và người chủ sử dụng lao động phải đóng phí bảo hiểm này khi sử dụng lao động. Theo quy định hiện hành, đối tượng là sinh viên và học sinh cũng tham gia loại hình bảo hiểm tai nạn này. Các đối tượng là kinh doanh hay hoạt động tự do không cần yêu cầu bắt buộc tham gia loại hình này. Tuy nhiên, họ có thể tham gia loại hình này dưới dạng tự nguyện. Khi tai nạn xảy ra, quỹ bảo hiểm tai nạn này sẽ trang trải các chi phí sau:

5

Page 6: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

- Thanh toán các chi phí điều trị- Hỗ trợ hoà nhập lại với công việc (bao gồm cả đào tạo lại nếu cần thiết)- Hỗ trợ hoà nhập xã hội và cộng đồng- Tiền thuê người chăm sóc nếu người được bảo hiểm mất khả năng làm

việc

Nhìn chung, tổng người lao động phải đóng khoảng 20% trên tổng thu nhập tiền lương cho các khoản bảo hiểm và người sử dụng lao động cũng phải đóng một khoản tương đương. Nếu người lao động hành nghề tự do hay chủ kinh doanh họ phải đóng hoàn toàn phí bảo hiểm. Đối với người có thu nhập thấp (lương thấp hơn 400 Euro/tháng) hoặc có số ngày làm việc chưa đến 50 ngày hoặc tương đương 2 tháng làm việc trong năm họ không phải đóng bảo hiểm và thuế. Tuy nhiên, họ phải đăng ký với cơ quan bảo hiểm.

2.2. Người cung cấp dịch vụ

Phần lớn người dân Đức nhận các dịch vụ y tế thông qua các quỹ bảo hiểm y tế của Nhà nước theo một cơ chế đóng góp giữa người lao động và người sử dụng lao động. Theo quy định từ ngày 1/7/2002, một người lao động có mức thu nhập dưới một mức quy định (400-800 Euro/tháng), người lao động và người sử dụng lao động sẽ phải đóng một khoản phí bảo hiểm 50/50. Đối với những người còn lại, mức đóng bảo hiểm trung bình của người lao động là 13,99%/tổng thu nhập hàng tháng. Ngoài ra, Chính phủ cũng trợ cấp bảo hiểm cho một số đối tượng như người nghèo, thất nghiệp, hoặc người già. Trên 90% dân số Đức tham gia chương trình bảo hiểm bắt buộc này.

Đối với những người có thu nhập cao hơn mức lương trung bình có thể lựa chọn mua bảo hiểm từ các công ty bảo hiểm tư nhân hoặc tham gia vào quỹ bảo hiểm tự nguyện của nhà nước với mức bảo hiểm cao hơn quy định của nhà nước. Hiện tại, chỉ có khoảng ¼ người có thu nhập cao lựa chọn hình thức mua bảo hiểm tư nhân, và chi phí y tế từ các công ty bảo hiểm tư nhân này chỉ chiếm khoảng 7,1% tổng chi phí y tế ở Đức.

Năm 2000, hệ thống bảo hiểm này có tất cả 420 quỹ bảo hiểm y tế được đăng ký theo luật, được chia thành 7 nhóm khác nhau như sau:

- 17 quỹ vùng- 12 quỹ tiểu vùng/ngành (Ersatzkassen), trong đó có 7 quỹ dành cho nhân viên

văn phòng và Ersatzkassen für Angestellte (EAN) 5 quỹ bảo hiểm dành cho những người lao động chân tay Ersatzkassen für Arbeiter (EAR)

- 337 quỹ hoạt động theo mô hình công ty (Betriebskrankenkassen, BKK)- 32 quỹ hoạt động theo hội (Innungskrankenkassen, IKK)- 20 quỹ trang trại (Landwirtschaftliche Krankenkassen, LKK)- 1 quỹ ngành than (Bundesknappschaft)

6

Page 7: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

- 1 quỹ bảo hiểm cho người đi biển (See-Krankenkasse).

Nhìn chung, người tham gia bảo hiểm được quyền lựa chọn quỹ bảo hiểm thích hợp. Thông thường, người đóng bảo hiểm chọn các quỹ bảo hiểm dựa theo vùng địa lý nơi họ sinh sống và theo đặc điểm nghề nghiệp của họ và họ có quyền thay đổi lựa chọn của họ theo từng năm.

2.3. Thách thức

Thứ nhất, hiện tại, hơn 75% dân số Đức sử dụng dịch vụ y tế thông qua các cơ sở nhà nước. Tỷ lệ chi tiêu cho các dịch vụ y tế trong các cơ sở công lập chiếm khoảng 8,3%/GDP tương đương 144 tỷ Euro năm 2005 cho hơn 70,5 triệu người. Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả sử dụng dịch vụ hệ thống y tế Đức đang được quan tâm từ nhiều năm qua. Các chi phí về thuốc, thời gian điều trị...tương đối cao. Do vậy, các chi phí cho y tế của Đức chiếm tỷ lệ tương đối cao đứng thứ ba trên thế giới. Đồng thời, Đức cũng là nước có tỷ lệ bác sỹ và số giường bệnh/đầu bệnh nhân cao hơn so với trung bình của các nước phát triển (khoảng 20%). Tỷ lệ bác sỹ/1000 dân là 3,4 bác sỹ và 6,6 giường bệnh/1000 dân (2003). Tuy nhiên, các gánh nặng về chi phí y tế lại không phản ánh chất lượng tương ứng mặc dù theo đánh giá khách quan thời gian tiếp cận các dịch vụ y tế ở Đức nhanh hơn so với các nước khác nhưng chất lượng dịch vụ y tế chỉ cao hơn mức trung bình theo tiêu chuẩn thế giới nếu so sánh với chi phí bỏ ra.

Theo đánh giá của Bộ Y tế Đức nguyên nhân của tình trạng trên là do hệ thống y tế thiếu sự cạnh tranh, chi tiêu hoạt động không hiệu quả . Do vậy, Bộ Y tế sẽ tiến hành một số thay đổi trước mắt là tính phí khám chữa bệnh đối với người đến khám bệnh mà không cần phải kê đơn thuốc; tính chi phí điều trị đến khám chữa bệnh tại nhà; chi phí đi lại đưa bệnh nhân đến bệnh viện; giảm phí đóng bảo hiểm.

Thứ hai, vấn đề già hoá dân số Đức. Hiện nay, vấn đề già hoá dân số trong độ tuổi lao động của Đức đang gia tăng gần đây và tiếp tục gia tăng trong các năm tới do tỷ lệ sinh của Đức giảm và tuổi thọ trung bình của dân số Đức tăng. Theo dự báo, tỷ lệ dân số trên 60 tuổi tăng từ 19,9 triệu người năm 2001 lên 27,7 triệu người vào năm 2040, chiếm tỷ lệ 35,2% tổng dân số so với 24,1% hiện nay. Điều này, có thể gây mất cân bằng các quỹ bảo hiểm nếu càng ngày có ít người tham gia lực lượng lao động, trong khi đó có một tỷ lệ lớn dân số cần nhận trợ cấp của hệ thống bảo hiểm xã hội.

2.4. Một số cải cách gần đây

An sinh người già: hệ thống an sinh xã hội cũng cần thiết phải ổn định bền vững mặc dù áp lực cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng và thay đổi nhân khẩu học. Hệ thống này cần phải duy trì và phát triển trong dài hạn, trong khi cung cấp các dịch vụ bảo trợ thích hợp. hệ thống lương hưu phải hoàn toàn hiện đại và phù hợp với tiến trình cải cách gần đây. Hệ thống lương hưu theo quy định đang và sắp tới phải điều

7

Page 8: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

chỉnh theo điều kiện thay đổi về nhân khẩu học, khung khổ về kinh tế và xã hội. Chính phủ Đức đã đưa ra một bản kế hoạch cải cách hệ thống này như sau:

- Để duy trì mục tiêu và ổn định hệ thống lương hưu, độ tuổi về hưu trung bình sẽ được tăng từ 65 lên 67 tuổi trong thời gian từ 2012 đến năm 2029. Với bước cải cách này được kỳ vọng quỹ bảo hiểm hưu trí sẽ giải quyết được vấn đề cân bằng quỹ khi có quá nhiều người về hưu (già hoá dân số) trong khi đó tỷ lệ lao động tham gia thị trường lao động giảm. Chính sách này có hiệu lực từ ngày 1/1/2008.

- Tổ chức nhiều khoá đào tạo do các trường giảng dạy cho các đối tượng từ 30-45 tuổi đáp ứng nhu cấu sử dụng lao động của các doanh nghiệp.

- Cho phép các nhóm/hội y tế ở địa phương và vùng cung cấp các dịch vụ y tế- Khuyến khích chăm sóc y tế tại nhà- Nâng cao tính cạnh tranh trong việc cung cấp dịch vụ y tế bắt buộc: với sự áp

dụng Luật cạnh tranh trong hệ thống bảo hiểm y tế, chính phủ liên bang đã tạo ra môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh trong hệ thống y tế Đức đảm bảo sự phân phối hiệu quả trong việc sử dụng dịch vụ y tế và cải cách cơ cấu tổ chức nhằm giảm các chi phí hành chính. Lộ trình cải cách được thực hiện theo khung thời gian, bắt đầu từ ngày 1/4/2007 đến năm 2011.

- Xây dựng 1 luật y tế dự phòng nhằm cải thiện chăm sóc y tế dự phòng và phòng chữa bệnh ban đầu.

- Cải cách hệ thống bảo hiểm chăm sóc dài hạn: cung cấp nhiều dịch vụ hơn cho người tàn tật, quản lý bệnh nhân hồ sơ bệnh án, nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân (ngày và đêm), nâng cao hiệu quả quản lý và minh bạch, nâng tỷ lệ đóng phí bảo hiểm lên 0,25% (có hiệu lực từ ngày 1/7/2008).

3. Mô hình cung ứng dịch vụ giáo dục ở Đức, thách thức, định hướng điều chỉnh

Đức là một trong những nước đầu tiên trên thế giới thực hiện giáo dục phổ cập ở các cấp học phổ thông. Trách nhiệm quản lý giáo dục thuộc các cơ quan giáo dục bang với các hình thức học tập khác nhau tuỳ từng trường. Cho đến những năm gần đây, người dân Đức vẫn còn tự hào về tiêu chuẩn và chất lượng giáo dục của mình, nhưng năm 2002 chương trình đánh giá các sinh viên quốc tế (PISA) do OECD thực hiện đánh giá trình độ học sinh ở lứa tuổi 15 trong 32 nước công nghiệp cho thấy trình độ học sinh Đức được đánh giá ở mức thấp dẫn đến các cuộc tranh luận về cải cách giáo dục trong những năm qua.

Phổ cập giáo dục ở Đức kéo dài ít nhất 9 năm học (10 năm ở một số bang) cho trẻ em bắt đầu đi học từ năm lên 6 và học sinh thường không phải đóng học phí từ bậc học tiểu học đến đại học. Tuy nhiên, hiện tại đã có một số thử nghiệm về đóng học phí ở một số trường đại học.

8

Page 9: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

Hệ thống giáo dục ở Đức bắt đầu phân ban ở bậc học trung học cơ sở khi hệ thống trường học phổ thông phân nhóm học sinh vào các trường khác nhau ( Gymnasium, Realschule and Hauptschule) dựa trên đánh giá năng lực của học sinh ở 4 năm học tiểu học. Một số tranh luận gần đây cho rằng quá sớm để đánh giá khả năng, năng lực học sinh ở lứa tuổi này nhưng một số bang vẫn duy trì một hệ thống trường học chung ( Gesamtschulen) nơi học sinh học cùng nhau đến lớp 10. Để có thể tiếp tục học ở bậc đại học, học sinh ở bậc học trung học phổ thông phải qua kỳ thi Abitur được tổ chức ở cả 2 loại trường Gymnasium và Gesamtschule.

Phương pháp dạy học ở Đức nhìn chung hình thức hơn một số nước. Giáo viên thường không tham gia dạy thêm ở ngoài lớp học. Mấy năm gần đây, ở một số trường thành thị nảy sinh ra một số vấn đề về phương pháp dạy học. Một trong những vấn đề chính là sự căng thẳng về học xuất hiện ngày càng tăng ở những học sinh thuộc dân tộc thiểu số.

Mặc dù có một số vấn đề nảy sinh, nhưng nhìn chung tiêu chuẩn đại học ở Đức là cao so với các nước khác. Các trường ở Đức cũng đổi mới bằng cách áp dụng các công nghệ mới vào giảng dạy và phổ biến sử dụng Internet. Hầu hết các trường ở Đức đều có phòng học máy tính và kết nối Internet. Sau khi học hết trung học phổ thông, học sinh có thể lựa chọn theo học các trường học nghề (Lehre) hoặc là tiếp tục học ở bậc học cao hơn (đại học).

Sau khi hợp nhất Đông và Tây Đức, hệ thống các trường đại học Đức được mở rộng ra khắp lãnh thổ Đức với hơn 383 cơ sở đào tạo và mọi người dân đều có quyền lựa chọn theo học vào một trong các cơ sở trên. Hiện tại, có khoảng 1/3 tỷ lệ học sinh sau khi tốt nghiệp bậc học phổ thông tiếp tục theo học ở bậc đại học, tỷ lệ này vẫn còn thấp hơn so với mức trung bình thế giới. Nguyên do chủ yếu là có một tỷ lệ lớn học sinh ra trường chọn hướng đi vào các trường dạy nghề nơi đào tạo các kỹ thuật cao trong các ngành kỹ thuật hay các nhân viên y tế kỹ thuật.

Không giống như các nước khác, các trường đại học tư ở Đức đóng vai trò nhỏ trong việc cung ứng dịch vụ giáo dục bởi vì 96% số sinh viên đều chọn các trường đại học công lập dưới sự giám sát và quản lý của nhà nước. Nguyên nhân một phần là học sinh học tại các trường này đều không phải đóng học phí. Các trường đại học công này mở cửa cho tất cả sinh viên theo học nếu họ có bằng phổ thông trung học. Kể từ những năm 1970s, bên cạnh với trường đại học và cao đẳng công, các trường đại học và cao đẳng do tư nhân quản lý được thành lập ngày càng nhiều, nhưng phần lớn các trường này đều thu học phí từ sinh viên.

Bên cạnh những mặt tích cực của quá trình toàn cầu hoá, quá trình này cũng tạo ra một số thách thức cho hệ thống giáo dục nói chung và hệ thống giáo dục đại học nói riêng của Đức. Các nhà hoạch định chính sách và các trường đại học vừa đưa ra một số sáng kiến cải cách hệ thống giáo dục đại học nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn

9

Page 10: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

mới quốc tế. Một số chính sách đổi mới chủ yếu trong thời gian tới là: tiến hành thử nghiệm thu học phí đối với các trường đại học và thi lựa chọn sinh viên vào đại học; tạo một liên minh chiến lược giữa các trường đại học và viện nghiên cứu. Việc thu học phí bắt đầu thử nghiệm vào năm 2006/2007 tại một số bang ở Đức. Mục tiêu của các bước cải cách này nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu và giảng dạy nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hệ thống giáo dục của Đức với tiêu chuẩn quốc tế. Các thay đổi về luật pháp cũng được thực hiện cho phép các trường đại học có nhiều quyền tự chủ hơn, và các giáo sư được tạo điều kiện để chuyên tâm vào giảng dạy và nghiên cứu. Chính phủ cũng xây dựng một hệ thống đánh giá xếp hạng các trường đại học nhằm tạo sự cạnh tranh giữa các trường. Tuy nhiên, bên cạnh việc thu học phí từ sinh viên, Đức cũng xây dựng một hệ thống tài chính hỗ trợ sinh viên gặp khó khăn, bao gồm việc cho vay để đóng học phí cũng như hỗ trợ điều kiện sinh hoạt của sinh viên trong thời gian học tập ở trường.

Để thực hiện các chương trình cải cách này, Chính phủ sẽ thí điểm trợ cấp cho 9 trường đại học một khoản tiền khoảng 2 tỷ Euro trong 5 năm. Khoản tiền trợ cấp này nhằm giúp các trường thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu,  chương trình dạy học. Để được nhận sự trợ cấp này, một nhóm chuyên gia tư vấn độc lập lựa chọn các trường được nhận trợ cấp của Chính phủ. 9 trường đầu tiên được lựa chọn là LMU, TU ở Munich, TU ở Karlsruhe, RWTH Aachen và các trường đại học ở Konstanz, Göttingen, Heidelberg, Freiburg, và FU ở Berlin.  B. CH Séc:

1. Khái quát tình hình kinh tế vĩ mô và khái quát quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường của CH Séc

Giống như các nước Đông Âu cũ, Tiệp Khắc cũ là một nước theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung dưới sự điều hành quản lý của Nhà nước. Nhà nước quản lý giá cả, tiền lương và không có sở hữu tư nhân trong các hoạt động kinh tế. Đối với vấn đề phúc lợi xã hội, hầu hết các dịch vụ công như giáo dục và y tế được bao cấp, nhưng với chất lượng dịch vụ thấp.

Sau khi tách khỏi liên bang Tiệp Khắc cũ, Cộng hoà Séc đã tiến hành cải cách chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường với các chính sách tự do hoá giá cả, tiền lương, xuất khẩu...Kết quả là nền kinh tế đã thu được nhiều thành tựu đáng kể với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát thấp, tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài vào Séc cao nhất so với các nước Trung và Đông Âu. Với những thành tựu trên, Séc đã trở thành một nước có thu nhập cao với mức thu nhập bình quân đầu người đạt 11,110 USD năm 2004 (mức thu nhập cao nhất đối với các thành viên mới EU). Đồng thời, Séc cũng là thành viên chính thức của EU từ năm 2004 đánh dấu một bước hoàn thành việc chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường.

10

Page 11: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

Qúa trình cải cách Séc được tiến hành ban đầu trong lĩnh vực kinh tế và chính trị, trong khi đó hệ thống an sinh xã hội không phải là mục tiêu ban đầu của cải cách bởi vì Séc cũng như các nước Đông Âu khác đều chưa có hệ thống an sinh xã hội cũng như có một chiến lược dài hạn về hệ thống an sinh xã hội. Sau một số thành tựu đáng kể trong cải cách kinh tế, vào giữa những năm 90 Séc bắt đầu tiến hành một số cải cách trong lĩnh vực an sinh xã hội. Một số bước tiến hành cải cách trong lĩnh vực này như sau:

- Giảm vai trò của nhà nước trong lĩnh vực an sinh xã hội: một số loại trợ cấp và dịch vụ của nhà nước bị cắt giảm thay vào đó là các công ty tư nhân tham gia cung ứng dịch vụ xã hội và y tế; ngoài ra các tổ chức tự nguyện và phi chính phủ được khuyến khích tham gia cung ứng dịch vụ.- Xây dựng một hệ thống an sinh xã hội với việc thành lập các quỹ an sinh xã hội hoạt động tách khỏi ngân sách nhà nước; các quỹ lương hưu được tách ra khỏi bảo hiểm y tế; các dịch vụ xã hội được cung cấp bởi các tổ chức độc lập và quyền lực và trách nhiệm của các chính quyền địa phương được mở rộng.

Sau 15 năm chuyển đổi nền kinh tế, hệ thống dịch vụ xã hội của CH Czech đã có những thay đổi rõ rệt, mặc dù vẫn dựa vào luật lệ cũ. Trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ xã hội, CH Czech đã chuyển từ mô hình “độc quyền nhà nước” tài trợ và cung ứng sang mô hình đa dạng hoá nguồn tài trợ từ những đối tượng có liên quan như: từ người dân, từ nhà nước, cộng đồng, người cung ứng và từ các gia định -người sử dụng dịch vụ xã hội. Phạm vi bao quát của hệ thống dịch vụ xã hội đã được mở rộng không chỉ nhằm hỗ trợ những đối tượng yếu thế, cần sự hỗ trợ mà còn bao gồm cả những hình thức phòng ngừa hiêụ quả.

Một xu hướng cải cách khác trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ xã hội ở Czech trong những năm qua là chính phủ thực hiện phân cấp trách nhiệm cho các cấp chính quyền vùng (lúc này đã được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm quản lý địa bàn). Tuy nhiên, việc phân cấp này gặp phải những cản trở nhất định do cấp trên trao quyền nhưng lại không kèm trao nguồn vốn tài chính từ trung ương. Chính vì vậy, cấp địa phương hiện đang yêu cầu cấp vùng và TƯ phải chuyển nguồn ngân sách để họ có thể bảo đảm các dịch vụ xã hội trong phạm vi địa bàn mình trong thời gian tới.

Theo một báo cáo gần đây, quá trình cải cách trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ xã hội tại CH Czech nhằm một số mục tiêu như sau:

i) cung ứng dịch vụ đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người dân và người sử dụng dịch vụ;

ii) tạo sự bình đẳng về cơ hội: không phân biệt đối xử giữa các đối tượng cung ứng dịch vụ, cho dù đó là cơ sở của nhà nước, của địa phương, của vùng, cơ sở ngoài nhà nước và tổ chức phi lợi nhuận;

11

Page 12: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

iii) bảo đảm sử dụng nguồn tài chính hiệu quả trên cơ sở lập kế hoạch, phân tích nhu cầu, cân nhắc lhiệu quả-chi phí và bảo đảm hợp tác chặt chẽ giữa các bên liên quan.

Các chính sách cải cách này nhằm loại bỏ sự độc quyền trong việc cung cấp dịch vụ xã hội và khuyến khích các tổ chức cung ứng dịch vụ nhằm tạo người dân có quyền tự do lựa chọn các tổ chức cung ứng dịch vụ. Đồng thời, phân quyền nhiều hơn cho các cơ quan chính quyền địa phương trong việc quản lý và giám sát các dịch vụ xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cải cách một số tác động tiêu cực xảy ra cho xã hội là sự gia tăng bất bình đẳng trong việc phân phối thu nhập và gia tăng tỷ lệ nghèo, đặc biệt là nhóm người già.

2. Mô hình cung ứng dịch vụ y tế, thách thức, định hướng điều chỉnh

Trước khi chuyển đổi, hệ thống y tế Séc theo mô hình tập trung “ kiểm soát và mệnh lệnh” giống theo mô hình Sô Viết cũ với chi tiêu cho lĩnh vực này chủ yếu từ ngân sách nhà nước. Tất cả các bệnh viện hoặc cơ sở y tế đều thuộc sở hữu nhà nước, bác sỹ và bệnh nhân đều không có quyền lựa chọn bác sỹ hoặc nơi cơ sở khám chữa bệnh. Hệ thống chăm sóc y tế này gọi là “ không chi phí” and mọi người có quyền điều trị. Trên thực tế, chất lượng của các dịch vụ y tế ngày càng giảm xuống và tình trạng hệ thống y tế ngày càng xấu hơn. Ví dụ, tỷ lệ sinh và tuổi thọ của người dân thấp nếu so sánh với các nước Tây Âu. Bác sỹ ngày càng bị giới hạn tiếp cận với công nghệ cao và lương của họ trong khu vực y tế thấp hơn so với mức trung bình của Séc. Ngân sách y tế /GDP thấp chỉ đạt 5,3%/GDP vào năm 1989.

Cải cách y tế của Séc bắt đầu từ năm 1990 với mục tiêu ban đầu là thay đổi mô hình tập trung hoá (Xô Viết cũ). Mục tiêu ban đầu của cải cách là các bác sỹ được trao nhiều quyền lựa chọn, và được tạo cơ hội tiếp cận các công nghệ cao và nâng cao thu nhập của họ. Mô hình cũ được thay thế bởi một hệ thống y tế dựa trên bảo hiểm y tế bắt buộc với sự công bằng trong việc đóng góp và hưởng lợi từ quỹ bảo hiểm và mọi người dân có quyền lựa chọn bác sỹ hoặc cơ sở khám chữa bệnh. Vai trò của ngân sách của Nhà nước trong lĩnh vực y tế được thay đổi từ vị trí chủ đạo thành vị trí phụ trợ. Nhìn chung, nội dung chính của cải cách y tế là:

Thứ nhất, áp dụng bảo hiểm y tế bắt buộc cho toàn dân, với sự đóng góp từ ngân sách nhà nước, người lao động, người sử dụng lao động thong qua một quỹ bảo hiểm y tế;

Thứ hai, tạo và khuyến khích một môi trường cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm;

Thứ ba, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia cung cấp các dịch vụ y tế bằng việc khuyến khích các bác sỹ và nhân viên y tế chuyển sang khu vực tư nhân.

Để đảm bảo thu phí và xây dựng một hệ thống thanh toán cho người cung cấp dịch vụ y tế, một quỹ bảo hiểm y tế Trung ương (VZP) được thành lập vào năm 1992.

12

Page 13: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

Đa số người dân Séc tham gia quỹ này với mức đóng phí bảo hiểm khoảng 13,5% trên thu nhập lương. Trong số này, 1/3 người lao động đóng và 2/3 người sử dụng lao động đóng. Nhà nước cũng đóng góp một khoản ngân sách cho những người không lao động như trẻ em, người về hưu hoặc thất nghiệp. Qúa trình tư nhân hoá các cơ sở y tế cũng bắt đầu và cung cấp dịch vụ thay cho cơ sở công lập. Mọi cơ sở cung cấp dịch vụ đều được thu phí nhưng giá cả, viện phí đều được cố định và được kiểm soát.

Trong vòng 3 năm sau cải cách có đến 27 quỹ bảo hiểm được thành lập, sau đó có đến 8 quỹ bị sát nhập hoặc phá sản. Hiện tại, Séc có 9 quỹ bảo hiểm y tế đang hoạt động, nhưng mức độ canh tranh giữa các quỹ không xảy ra do quy định luật pháp giới hạn áp lực cạnh tranh. Người đóng bảo hiểm có thể tự do lựa chọn đăng ký 1 trong các quỹ bảo hiểm để được nhận các dịch vụ bảo hiểm và sau đó họ vẫn có quyền thay đổi tham gia các quỹ bảo hiểm khác. Tuy nhiên, mỗi quỹ bảo hiểm có mô hình tổ chức và phương thức chi trả bảo hiểm khác nhau và thường các quỹ này tập trung bảo hiểm cho một số đối tượng nhất định.

Sau quá trình cải cách, thâm hụt ngân sách của Séc vẫn còn gây áp lực cho việc cắt giảm chi tiêu trong lĩnh vực y tế. Nhưng thách thức nảy ra cầu về chi tiêu y tế vẫn tăng và ngân sách cho quỹ đang gặp vấn đề lớn về cân bằng thu chi khi một tỷ lệ lớn dân số về hưu không đóng góp phí bảo hiểm nữa. Do vậy, chi phí từ ngân sách nhà nước cho lĩnh vực y tế vẫn còn cao khoảng 7,6%/GDP năm 2003 và 91% số đó từ ngân sách nhà nước.

Cùng lúc đó, Séc đang phải đối mặt với một tình trạng khó xử liên quan đến y tế. Kể từ khi phí đóng bảo bảo hiểm y tế được ấn định là 13,5% không ít tranh luận về việc giảm phí đóng bảo hiểm thay vào đó nên phân phối và quản lý nguồn lực sao cho hiệu quả hơn.

Hiện tại chăm sóc y tế ban đầu và chăm sóc nguời bệnh ngoại trú do khu vực tư nhân đảm nhận. Một số lớn bệnh viện vẫn thuộc nhà nước hoặc ở chính quyền địa phương. Một số lớn bệnh viện này tồn tại nhờ tiền trợ cấp của chính quyền địa phương hoặc từ các khoản tài trợ. Các bệnh viện sẽ phải trải qua sự chuyển đổi về cơ cấu và quản lý. Vấn đề chung của hệ thống y tế hiện nay là thiếu giường bệnh chuyên môn và năng lực trình độ quản lý bệnh viện kém. Các bác sỹ chăm sóc ban đầu nhận được thanh toán các khoản chữa bệnh từ các quỹ bảo hiểm dựa theo số bệnh nhân khám chữa bệnh, các bác sỹ ngoại trú được nhận tiền phí dịch vụ với mức cào bằng. Một cuộc cải cách về tài chính bệnh viện bắt đầu thực hiện vào năm 2004 với một số thử nghiệm hạn chế ban đầu về thanh toán (DRG).

Thay đổi hệ thống bảo hiểm y tế bắt buộc nhằm khắc phục sự rủi ro thanh toán nhằm loại bỏ tác động tiêu cực về trốn phí bảo hiểm. Tuy nhiên, sự thay đổi này không tạo ra một ưu đãi them về sử dụng chi phí hiệu quả trong việc cung cấp dịch vụ y tế. Người được bảo hiểm không được khuyến khích ở những tổ chức cung ứng dịch

13

Page 14: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

vụ nhằm mục đích lợi nhận dựa trên các hợp đồng dài hạn và có ít những động lực nhằm đảm bảo họ cung cấp dich vụ tốt nhất tương ứng mức chi trả.

Hiện tại hệ thống bảo hiểm y tế bắt buộc bao phủ nhiều loại hình dịch vụ nằm trong hệ thống bảo hiểm xã hội. Về bản chất, hệ thống bảo hiểm gồm 2 loại: bắt buộc gồm các dịch vụ y tế thiết yếu được cung cấp bởi hệ thống bảo hiểm y tế xã hội; và loại lựa chọn và tự nguyện bao gồm các dịch vụ bổ sung được cung cấp bởi các công ty bảo hiểm tư nhân. Một số nhóm chính trị đang thảo luận xây dựng một cơ chế khuyến khích người dân tham gia các dịch vụ bổ sung nhằm hưởng các dịch vụ y tế cao được cung cấp bởi các công ty tư nhân.

Bộ Y tế là cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm giám sát, làm luật liên quan đến hệ thống chăm sóc y tế. Hệ thống y tế Séc là phổ cập cho mọi người sống và định cư lâu dài ở Séc. Tài chính cho hệ thống y tế do cơ quan hành chính bán công chịu trách nhiệm. Về nguyên tắc, mọi người có quyền quyết định chọn cơ quan chi trả bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, trên thực tế phần lớn người dân mua bảo hiểm y tế từ Tổng công ty bảo hiểm y tế. Tổng công ty này do một hội đồng với sự tham gia đại diện của Chính phủ, người lao động và người sử dụng lao động. Cơ chế đóng phí bảo hiểm y tế được đóng góp từ nhiều nguồn như bảo hiểm xã hội và có một phần đóng góp từ ngân sách nhà nước.

Hệ thống an sinh xã hội CH Séc

Hệ thống an sinh xã hội ở Séc bao gồm 3 bậc: trợ cấp xã hội, bảo trợ xã hội và bảo hiểm xã hội toàn dân. Trợ cấp xã hội của Nhà nước bao gồm nhiều hình thức phúc lợi và trợ cấp khác nhau như tiền trợ cấp chăm sóc trẻ em, trợ cấp khi sinh, trợ cấp cho người mất.Hỗ trợ xã hội như là một loại hình bổ sung hệ thống an sinh xã hội với mục tiêu đáp ứng nhu cầu của người dân cùng với các tổ chức từ thiện và ngoài nhà nước khác. Tất cả các cư dân định cư lâu dài ở Séc đều được hưởng dịch vụ này khi thu nhập của họ không đảm bảo đầy đủ cuộc sống của họ. Cả 2 loại hình trợ cấp và hỗ trợ xã hội này đều được đặt dưới sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương. Tất cả các cư dân định cư hoặc sống lâu dài ở Séc đều được hưởng lợi ích từ hệ thống an sinh này bao gồm cả tiền trợ cấp, hỗ trợ đi lại và nhà cửa.

Hệ thống bảo hiểm xã hội toàn dân

Luật bảo hiểm ban hành năm 1992 với nguyên tắc bảo hiểm cho toàn dân, với phương thức đóng góp 3 bên là nhà nước, người lao động và người sử dụng lao động. Đối với người lao động họ phải đóng 8% thu nhập cho bảo hiểm xã hội, trong đó 1,1% cho quỹ ốm đau, 6,5% cho quỹ bảo hiểm lương hưu và 0,4% cho nhà nước-chi phí hành chính cho cơ quan quản lý); người sử dụng lao động phải đóng 26%/lương của người lao động, trong đó 3,3% cho quỹ ốm đau, 21,5% cho qũy lương hưu và 1,2% cho cơ quan lao động nhà nước. Nhà nước sẽ có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm

14

Page 15: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

cho các đối tượng trẻ em, người già, thất nghiệp, thương tật, binh sĩ trong quân đội, người bị án tù.

Hệ thống bảo hiểm xã hội Séc Bismarckian có trách nhiệm chi trả cho những người bị mất thu nhập do đến tuổi về hưu, nghỉ làm việc do ốm đau ngắn hạn, tàn tật, thất nghiệp, mất lao động của những người trụ cột gia đình. Bộ Lao động và Xã hội Séc chịu trách nhiệm giám sát, quản lý và làm luật liên quan đến hệ thống bảo hiểm này và điều hành trực tiếp là cơ quan bảo hiểm xã hội Séc (trực thuộc Bộ Lao động và Xã hội). Cơ quan này có trách nhiệm thu các khoản đóng góp từ các loại hình bảo hiểm như lương hưu, ốm đau, …cũng như thanh toán các chi phí cho người được bảo hiểm, và quản lý hồ sơ của người bảo hiểm.

Đối với các công ty lớn, hệ thống bảo hiểm được phân cấp xuống cho cấp dưới cho các cơ quan bảo hiểm vùng chịu trách nhiệm thanh toán, thu bảo hiểm và lưu trữ các hồ sơ của người bảo hiểm.

Đóng góp cho các quỹ bảo hiểm là từ lương của người tham gia bảo hiểm với tỷ lệ là 25% của người lao động và chủ sử dụng lao động là 75%. Đối với người tự do hay kinh doanh, họ phải tự đóng bảo hiểm với mức không thấp hơn 35% tổng thu nhập của họ sau khi trừ chi phí và phải tương đương ít nhất gấp 6 lần mức lương tối thiểu theo quy định của Séc.

Bảo trợ xã hội

Hệ thống bảo trợ xã hội Séc được xây dựng nhằm bảo hiểm những rủi ro trong nền kinh tế thị trường như mất việc làm, ốm đau, thương tật. Hệ thống chăm sóc y tế do nhà nước hỗ trợ đảm bảo cung cấp các dịch vụ chăm sóc và chữa trị cho người dân. Hệ thống này hoạt động song song với hệ thống bảo hiểm xã hội (phần trên) nhằm đảm bảo mọi người dân Séc có quyền tiếp cận các dịch vụ bảo trợ xã hội cơ bản khi có rủi ro xảy ra, bao gồm các trợ cấp xã hội, trợ cấp gia đình khi sinh sản, ốm đau...và cả trợ cấp lương thực nữa. Những người được hưởng trợ cấp từ hệ thống này là những người không tham gia các hoạt động kinh tế và những người không được hưởng trợ cấp từ các hệ thống bảo hiểm xã hội khác.

Bảo hiểm hưu trí

Bảo hiểm hưu trí là bảo hiểm bắt buộc cho mọi người có tham gia hoạt động kinh tế và loại bảo hiểm này cũng khuyến khích cho những người tham gia tự nguyện. Ở Séc độ tuổi về hưu và được hưởng lương hưu đối với nam giới là 62 và từ 57-61 tuổi đối với nữ giới phụ thuộc vào số lần sinh. Lương hưu được tính dựa theo tỷ lệ đóng và thời gian đóng của người đóng bảo hiểm và dẫn đến các mức trợ cấp lương hưu khác nhau của người tham gia bảo hiểm. Không có một quy định về giới hạn mức trợ cấp lương hưu và việc điều chỉnh mức trợ cấp khi chỉ số giá bán lẻ tăng 10%.

15

Page 16: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

Theo quy định đối với người về hưu sớm trước độ tuổi vẫn được hưởng lương hưu nếu người đó có thời gian đóng bảo hiểm là 25 năm.

Bộ Luật bảo hiểm hưu trí sửa đổi, bổ sung gần đây đã tạo ra một khung khổ pháp lý cho những người muốn tham gia bảo hiểm tự nguyện với sự cho phép các công ty tư nhân (lợi nhuận) được tham gia cung cấp dịch vụ bảo hiểm này nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh. Chính phủ giám sát hoạt động và hoạt động của các quỹ tư nhân này. Các công ty quản lý quỹ này được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế cho hoạt động này.

3. Mô hình cung ứng dịch vụ giáo dục, thách thức, định hướng điều chỉnh

Hệ thống giáo dục Séc bao gồm nhiều bậc học khác nhau, bắt đầu từ bậc mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở, đại học và trên đại học, học nghề.

Mẫu giáo: trẻ em có thể tham gia học ở độ tuổi mẫu giáo trước khi bắt đầu bậc học tiểu học (phổ cập). Đây là bậc học trang bị các kiến thức cơ bản cho trẻ nhỏ trước khi bắt đầu đi học chính thức ở bậc tiểu học nhằm giúp cho trẻ nhỏ thích nghi vào học tiểu học sau này. Nhìn chung, bậc học này là sự phối hợp giữa trường và gia đình, giúp cho trẻ nhỏ biết cách suy nghĩ logic, thảo luận và đồng thời trẻ nhỏ cũng được trang bị các kiến thức, kỹ năng để bắt đầu bậc học phổ thông.

Tiểu học: đây là bậc học phổ cập kéo dài 9 năm từ 6 tuổi đến 15 tuổi. Tuy nhiên, trẻ em có thể theo học ở các trường khác nhau với các chương trình học khác nhau. Trẻ em có thể theo học ở các trường sau:

Trường tiểu học (công lập hoặc tư nhân): trẻ em theo học 9 năm ở trường này.Trường ngữ pháp: với 8 năm hoặc 6 năm học trường ngữ pháp, học sinh có thể

hoàn thành bậc học tiểu học và tiếp tục bậc học sau.Trường nhạc viện: 8 năm học ở trường này cho phép học sinh hoàn thành bậc

học tiểu học tiểu học và tiếp tục theo học ở bậc cao hơn.Trường đặc biệt: trẻ em bị tàn tật có thể theo học các trường này hoặc ở trường

tiểu học có những lớp dành riêng cho trẻ tàn tật.Trường đặc biệt và trường hỗ trợ dành cho trẻ em bị thương tổn về tinh thần.

Mấy năm gần đây, Séc cũng thử nghiệm chương trình học tại nhà cho đối tượng này.Để đánh giá kết quả học tập của học sinh, có một hệ thống đánh giá phân loại

học sinh giữa kỳ và cuối kỳ của mối lớp học theo thang điểm từ 1 (tốt nhất) đến 5 (kém nhất). Nếu học sinh nào đạt điểm 5 từng môn, học sinh đó phải thi lại môn đó (thường vào tháng 8). Nếu trong kỳ thi lại vẫn không đạt, học sinh đó phải ở lại lớp và học lại.

Trung học cơ sở: sau khi hoàn thành bậc tiểu học (phổ cập), hệ thống giáo dục CH Séc được xây dựng theo hướng phân ban học sinh tuỳ theo trình độ, bao gồm các bậc học cao hơn, hoặc tiếp tục học kết hợp với các trường dạy nghề. Cụ thể như sau:

16

Page 17: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

- Trường trung học cơ sở với kết hợp với dạy nghề: học sinh hoàn thành bậc học trường trung học cơ sở từ 2-3 năm với 1 chứng chỉ dạy nghề. Sau khi ra trường, học sinh đi làm tại một cơ sở phù hợp với chuyên môn;

- Trường trung học cơ sở: để hoàn thành bậc học này, học sinh phải hoàn thành 8 năm học, và để tiếp tục bậc học cao hơn, học sinh phải trải qua 1 kỳ thi tốt nghiệp.

- Trường dạy nghề cơ sở;- Trung tâm đào tạo nghề.

Giáo dục đại học và cao đẳng: sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở, học sinh có thể tiếp tục theo học ở bậc này, bao gồm hệ thống các trường dạy nghề và đại học.

Giáo dục đại học: để được học ở các trường đại học, học sinh phải tốt nghiệp trung học cơ sở và trải qua một kỳ thi đầu vào. Kỳ thi tuyển này do các trường tự tổ chức thi với nội dung chủ yếu là kiểm tra kiến thức và kỹ năng của các ứng cử viên. Tại các trường đại học, có các chương trình đào tạo sau:

- Cử nhân: thời gian hoàn thành bậc học này là 3 năm. Để tốt nghiệp ra trường, sinh viên phải trải qua một kỳ thi tốt nghiệp hoặc có thể lựa chọn viết luận văn tốt nghiệp. Sau khi ra trường, sinh viên có thể tìm việc làm hoặc tiếp tục bậc học cao hơn (cao học).

- Cao học: sinh viên có thể lựa chọn 2 bậc học thạc sỹ (2 năm học) hoặc học tiến sỹ (5-6 năm) với một chuyên ngành cụ thể.

Hệ thống giáo dục của CH Séc là miễn phí với mọi học sinh theo Bộ Luật giáo dục số 111, năm 1998. Hiện tại, ở Séc có 23 cơ sở giáo dục đại học công lập. Các cơ sở giáo dục tư nhân cũng được phép thành lập theo quy định của Bộ Luật trên và cơ quan chịu trách nhiệm cấp phép thành lập là Bộ Giáo dục, Thanh niên và Thể thao.

Sau năm 1990, Séc đã thực hiện cải cách hệ thống giáo dục, trong đó có giáo dục sau đại học. Với bộ luật giáo dục năm 1990 ra đời, cho phép các trường đại học được tự chủ trong một số lĩnh vực và đồng thời Chính phủ cũng giảm mức độ can thiệp các hoạt động của trường. Năm 1998, bộ Luật giáo dục sau đại học được sửa đổi với trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các trường và nhà nước chỉ can thiệp gián tiếp thông qua cơ chế hỗ trợ tài chính. Tuy nhiên, nhìn chung các cơ sơ giáo dục hoạt động chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách nhà nước mặc dù Luật cho phép các cơ sở này được chủ động tìm kiếm, mở rộng các nguồn tài trợ.

Hiện nay, các trường công vẫn chiếm vai trò chủ yếu trong khi đó khu vực tư nhân số lượng học sinh theo học vẫn nhỏ. Mặc dù số lượng các cơ sở tư nhân nhiều hơn các cơ sở công lập (40 so với 27 cơ sở năm 2004/05), các cơ sở tư nhân chỉ thu hút khoảng 7% tổng số sinh viên. Trong thời kỳ 1990-2005 số lượng sinh viên học sau đại học tăng đáng kể, gấp đôi trong thời kỳ 1995-2005 và số lượng các cơ sở đào

17

Page 18: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

tạo sau đại học tăng từ 23 năm 1990 lên 70 hiện nay. Tương tự như các nước Trung và Đông Âu, các cơ sở đào tạo sau đại học cũng đang phải đối phó nhiều vấn đề: (i) thay đổi cách thức và cơ cấu quản lý; (ii) hiện đại hoá các chương trình giảng dạy để theo kịp sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường; (iii) thay đổi phương pháp từ giảng dạy chủ yếu sang kết hợp giữa giảng dạy và nghiên cứu.

Tình hình trên xuất phát từ khó khăn tài chính kể từ năm 1994 trở lại đây ngân sách cho các trường đại học công ở Séc bị cắt giảm, ước tính các trường đại học bị cắt giảm 1/3 ngân sách hoạt động. Điều này dẫn đến sinh viên từ các gia đình nghèo khó khăn hơn khi tiếp cận bậc học này. Theo số liệu của OECD, Séc đứng thứ 5 trong 30 nước OECD về tỷ lệ học sinh hoàn thành bậc học trung học cơ sở, nhưng đứng 29 về tỷ lệ học sinh hoàn thành bậc trung học phổ thông và ngân sách chi cho giáo dục trung học phổ thông chỉ đứng hàng thứ 28. Vấn đề tài chính đang là một vấn đề phổ biến ở các trường đại học các nước phát triển. Tuy nhiên, các trường đại học ở các nước phát triển thường tạo nguồn thu ở nhiều nguồn khác nhau như từ khu vực tư nhân, nghiên cứu...Nhìn chung, các nước OECD đều dành một khoản ngân sách hỗ trợ tài chính cho các sinh viên có hoàn cảnh khó khăn và. Tuy nhiên, đối với Séc nguồn thu từ khu vực tư nhân chỉ chiếm chưa tới 15% tổng ngân sách ở các trường đại học công (luật pháp không cho phép trường thu học phí) trong khi đó hỗ trợ tài chính cho các sinh viên có hoàn cảnh khó khăn chiếm một tỷ lệ thấp. Do bị thâm hụt ngân sách và lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ (lương hưu, chăm sóc y tế, thất nghiệp) nên các trường đại học Séc nhận được rất ít tiền hỗ trợ từ Chính phủ. Do năng lực các trường đại học có giới hạn nên dẫn đến cạnh tranh giữa các sinh viên để được vào học đại học và một vấn đề xuất hiện và là một nguyên nhân gây ra tình trạng tham nhũng trong quá trình xét duyệt sinh viên vào đại học.

Một số tranh luận gần đây cho rằng các trường đại học nên thu học phí từ sinh viên, nhưng Chính phủ và hiệu trưởng các trường đại học công từ chối áp dụng do sự phản đối của các cử tri. Đối với các trường, việc thu học phí sẽ dấn đến áp lực các trường phải cung cấp các dịch vụ giáo dục có chất lượng cao phù hợp với thị trường lao động do đó họ chưa muốn áp dụng việc thu học phí.

Về dài hạn, việc cải cách chế độ tài chính bằng cách thực hiện thu học phí và cung cấp một phần hỗ trợ tài chính cho các học sinh khó khăn là một biện pháp giúp các trường đại học giải quyết vấn đề tài chính để nâng cao chất lượng giáo dục.

4. Một số vấn đề của hệ thống phúc lợi xã hội CH Séc hiện nay

Mặc dù Séc đã xây dựng một hệ thống an sinh xã hội khá hoàn chỉnh, nhưng hệ thống này vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập:

- Các luật về an sinh xã hội, cụ thể về các dịch vụ xã hội đã lỗi thời, chưa kịp sửa đổi và thay thế

18

Page 19: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

- Các công cụ thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội của nhà nước và trách nhiệm của các cá nhân chưa được xác định rõ.

- Hệ thống an sinh vẫn còn chưa phù hợp cho một số đối tượng hoặc ở dưới địa phương. Một số vùng riêng biệt chưa đáp ứng được yêu cầu về khả năng cung ứng dịch vụ. Trình độ và kỹ năng của người làm công tác dịch vụ xã hội trong hệ thống hành chính không đồng đều ở một số nơi.

- Ngân sách của chính phủ và các tổ chức phi chính phủ chi cho các dịch vụ xã hội vẫn còn tách rời và các tổ chức cung ứng dịch vụ không có khả năng tiếp cận các nguồn này. Ngân sách tài trợ cho lĩnh vực này phụ thuộc vào năng lực thay vì dựa trên yêu cầu.

- Chất lượng của các tổ chức cung ứng dịch vụ không đồng đều và chưa được giám sát việc chi tiêu có hiệu quả. Riêng đối với ngành y tế, CH Séc dự định tiến hành cổ phần hoá các bệnh viện theo cơ cấu tổ chức một phần cổ phần do Nhà nước nắm giữ và một phần còn lại do các cán bộ của khoa nắm giữ. Tuy nhiên, biện pháp này vẫn còn đang gặp sự phản đối do có sự e ngại về chất lượng dịch vụ sau khi cổ phần khi các bệnh viện bị cắt giảm ngân sách hoạt động từ nhà nước.

- Người sử dụng dịch vụ có vai trò rất nhỏ trong việc quyết định các hình thức cung ứng dịch vụ xã hội

- Hệ thống thông tin về dịch vụ xã hội vẫn còn bất cập, thiếu nhất quán.- Hiện tại tỷ lệ chi tiêu cho hệ thống an sinh xã hội so với GDP khoảng 20%,

thấp hơn so với mức trung bình của các nước EU khoảng 6%. Với xu hướng thay đổi độ tuổi dân số như hiện nay (già hoá dân số) đang tạo ra sức ép đối với hệ thống an sinh xã hội, làm giảm phúc lợi của người dân mặc dù kinh tế Séc vẫn phát triển ổn định.

- Trong lĩnh vực y tế: gần đây Séc đã tiến hành một số cải cách như thu tiền khám chứa bệnh của bệnh nhân đóng bảo hiểm nhưng gặp phải phản đối của người dân, nên bước tiến hành cải cách này chỉ mới dừng triển khai đối với người đóng bảo hiểm đang trong thời gian lao động, mà chưa mở rộng hết cho các đối tượng tham gia bảo hiểm.

- Giống như ở Đức, hiện tại Séc cũng đang gặp phải vấn đề già hoá dân số với dự báo dân số trên 60 tuổi tăng từ 32%/tổng dân số năm 1998 lên 50% vào năm 2020. Điều này đòi hỏi Séc phải tiến hành cải cách hệ thống an sinh xã hội trong những năm tới đây theo hướng giảm sự bao cấp của Nhà nước và tăng mức đóng bảo hiểm của người lao động.

C. Một số bài học rút ra từ cuộc khảo sát

Qua thực tiễn khảo sát tại Đức và Séc, một số vấn đề rút ra như sau:

- Thứ nhất, mặc dù Đức là một nước có nền kinh tế thị trường lâu đời và Séc là một nước có nền kinh tế chuyển đổi, nhưng Nhà nước luôn luôn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, quản lý, giám sát, và cung cấp dịch vụ công nhằm đảm bảo mọi người dân đều có điều kiện tiếp cận các hệ thống an sinh xã hội. Điều này thể

19

Page 20: Dàn bài viết Báo cáo chuyến khảo sát Đưc và CH Séc từ 1-6 đến 12

hiện qua sự đóng góp từ ngân sách nhà nước chi cho các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục và y tế chiếm một tỷ trọng khá cao trên tổng thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, hiện tại các nước đang tiến hành xác định lại vai trò của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công (xác định lại cách thức và lĩnh vực cung cấp của nhà nước và tư nhân) nhằm đảm bảo việc cung cấp dịch vụ công được công bằng và hiệu quả đến tay mọi người dân.

- Thứ hai, mặc dù hệ thống an sinh xã hội của Đức được xây dựng khá lâu đời (trên 100 năm) hoặc mới xây dựng từ những năm 90 ở Séc, nhưng cả hai nước này đều gặp phải vấn đề về chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công. Điều này cho thấy kể cả ở các nước phát triển, hệ thống an sinh xã hội nói chung và mô hình cung ứng dịch vụ công đều phát triển chưa hoàn chỉnh và cần phải cải cách trong thời gian tới theo hướng giảm sự bao cấp của nhà nước và nâng cao trách nhiệm của người tham gia hưởng dịch vụ (cơ chế đồng chi trả khám chữa bệnh và đóng học phí). Tuy nhiên, vẫn duy trì một nhà nước phúc lợi và mục đích cuối cùng là tăng phúc lợi xã hội cho người dân cả về số lượng và chất lượng.

- Thứ ba, đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ công các nước đều nhận thấy cần phải tiến hành cải cách các tổ chức này nhằm mục tiêu hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên, ở mỗi nước có những biện pháp cải cách khác nhau như ở Séc tiến hành cổ phần hoá các tổ chức công, khuyến khích khu vực tư nhân cạnh tranh, tham gia cung ứng dịch vụ dựa trên quy định của pháp luật...hay ở Đức nhà nước tăng quyền chủ động cho các tổ chức do nhà nước thành lập và đổi mới cơ chế nhằm buộc các tổ chức này hoạt động cạnh tranh lẫn nhau và cạnh tranh với khu vực tư nhân. Nhưng nhìn chung quá trình cải cách này đều chậm hơn so với kế hoạch do vấn đề này khá nhạy cảm ảnh hưởng đến đời sống phúc lới của người dân. Điều này, đòi hỏi quá trình cải cách lĩnh vực này cần phải có lộ trình thực hiện từng bước.

Hà Nội, tháng 6 năm 2008

20