22
ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TS. Nguyễn Đức Lý Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Bình Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (KH&CN) hiện đại trên thế giới hiện nay với các bước tiến như vũ bão diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, khó dự báo trước và ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người. Nhờ những thành tựu to lớn của KH&CN hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, tiên tiến..., xã hội loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức. Khoa học và Công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng đầu; sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực, trình độ KH&CN quốc gia; lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng hơn, vai trò của nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có năng lực sáng tạo ngày càng có ý nghĩa quyết định trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập Quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp thu tri thức KH&CN, công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại, các nguồn lực, kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến và những bài học thành công, thất bại của nước ngoài để nhanh chóng tăng cường năng lực KH&CN quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đây vừa là cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá - hiện đại

Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động khoa học và công nghệ

Embed Size (px)

Citation preview

ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

TS. Nguyễn Đức LýGiám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Bình

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (KH&CN) hiện đại trên thế giới hiện nay với các bước tiến như vũ bão diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, khó dự báo trước và ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người. 

Nhờ những thành tựu to lớn của KH&CN hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, tiên tiến..., xã hội loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức.

Khoa học và Công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng đầu; sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực, trình độ KH&CN quốc gia; lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng hơn, vai trò của nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có năng lực sáng tạo ngày càng có ý nghĩa quyết định trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế. 

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập Quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp thu tri thức KH&CN, công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại, các nguồn lực, kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến và những bài học thành công, thất bại của nước ngoài để nhanh chóng tăng cường năng lực KH&CN quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. 

Đây vừa là cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH), rút ngắn thời gian và khoảng cách so với các nước phát triển bằng việc ứng dụng các thành tựu KH&CN và đổi mới công nghệ, đồng thời là thách thức cần phải nhanh chóng đầu tư, đổi mới sáng tạo để cạnh tranh và hội nhập.

Cơ hội lớn là Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến KH&CN:Nhận rõ được những tác động ngày càng to lớn của KH&CN và kinh tế tri

thức đối với sự phát triển của nhân loại, sự phồn vinh và tăng trưởng bền vững của mỗi quốc gia, những cơ hội và thách thức mà nó đặt ra đối với Việt Nam,

Đại hội VIII (1996), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 BCH TW Đảng khóa VIII về: “Định hướng chiến lược phát triển KH&CN trong thời kỳ CNH-HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000” và Đại hội IX (2001) coi “Phát triển KH&CN cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là Quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước”;

Đại hội X (2006) nhấn mạnh vai trò động lực và Quốc sách hàng đầu của KH&CN trong phát triển kinh tế tri thức “Phát triển mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa

hoạt động KH&CN và GD&ĐT để thực sự phát huy vai trò Quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy mạnh CNH-HĐH và phát triển kinh tế tri thức. Thống nhất giữa định hướng giữa phát triển KH&CN với chấn hưng GD&ĐT, phát huy quan hệ tương tác thúc đẩy lẫn nhau giữa 2 lĩnh vực Quốc sách hàng đầu này”;

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đã khẳng định: "Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước;..." và đã bổ sung Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH: “Phát triển KH&CN thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững” và tiếp tục khẳng định “Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH, phát triển kinh tế tri thức”.

Nghị quyết lần thứ 6 BCH TW Đảng khóa XI số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 tiếp tục khẳng định: “Phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc”.

Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế xã hội, đã cơ bản vượt qua thời kỳ khủng hoảng, suy giảm kinh tế, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 10 năm (2001-2010), tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7,26%/năm.

Quá trình đổi mới đất nước trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội đang tạo ra thế và lực mới để chúng ta bước vào một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ cạnh tranh và hội nhập quốc tế.

Triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển KH&CN, từ năm 2000 đến nay, với 8 đạo luật chuyên ngành cùng với chiến lược phát triển KH&CN và gần 300 văn bản dưới luật, đã hình thành được hệ thống hành lang pháp lý tương đối để điều chỉnh toàn diện các lĩnh vực hoạt động KH&CN.

Hoạt động KH&CN nước ta đã có bước đổi mới, đạt được nhiều kết quả rất đáng khích lệ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia, đẩy nhanh CNH-HĐH và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề cho đổi mới và phát triển trong những năm tiếp theo.

Khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, tạo tiền đề cho đổi mới tư duy kinh tế, làm rõ hơn con đường đi lên CNXH và cơ chế thị trường định hướng XHCN...

Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, toán và vật lý lý thuyết có thứ hạng cao trong khối ASEAN; nhiều kết quả nổi bật trong các lĩnh vực: công nghệ nano, tế bào gốc, giải mã gen người...

Khoa học kỹ thuật và công nghệ với nhiều kết quả nghiên cứu đã tiếp cận trình độ tiên tiến, ứng dụng vào đời sống xã hội, sản xuất kinh doanh, đem lại hiệu quả kinh tế cao trong các lĩnh vực như: trồng lúa, nuôi trồng thủy sản, chế tạo tàu thủy, thủy điện, giàn khoan, cầu dây văng, viễn thông, xăng và dầu

2

diezen sinh học, biến áp điện, chip bán dẫn, phần mềm an toàn, an ninh mạng, ghép tim, gan, thận, sản xuất vắc xin... Hàm lượng công nghệ trong nhiều sản phẩm đã làm tăng chất lượng và tạo giá trị gia tăng cho hàng hóa, dịch vụ, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; KH&CN cũng đã đóng góp tới 30% giá trị gia tăng trong tăng trưởng nông nghiệp, góp phần gia tăng giá trị xuất khẩu nông-lâm-thủy sản lên 20 tỷ USD/năm.

Tổ chức KH&CN tăng nhanh về số lượng, đa dạng hóa về loại hình hoạt động, với 02 Đại học Quốc gia lớn, 02 Viện KH&CN và Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, 17 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, 01 khu công nghệ cao quốc gia, 204 trường Đại học, 433 tổ chức KH&CN thuộc các Bộ, ngành Trung ương, 340 tổ chức KH&CN thuộc Liên hiệp hội, các hội, địa phương và doanh nghiệp.

Nhân lực KH&CN phát triển cả về lượng và chất. Đến nay, cả nước có khoảng 4,2 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó có 24 nghìn tiến sỹ, 101 nghìn thạc sỹ, 62 nghìn người trực tiếp làm công tác nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (R&D) - đạt tỷ lệ 7 người trên 1 vạn dân.

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị, phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu, ứng dụng KH&CN được nâng cấp và cải thiện một bước.

Công tác đảm bảo thông tin KH&CN đã được đẩy mạnh cả về quy mô và chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển.

Nguồn lực tài chính cho KH&CN được gia tăng, đến nay, tổng đầu tư xã hội cho KH&CN đã đạt gần 1% GDP, nhưng vẫn còn thấp so với các nước trên thế giới (Mỹ = 2,85% GDP; Nhật Bản = 3,3% GDP; Singapore = 3,1%; Hàn Quốc = 5,0% GDP). Tính theo đầu người/năm của Việt Nam chỉ đạt 13,6 USD (năm 2011), trong khi của Trung Quốc là 133 USD, Hàn Quốc là 1.104 USD, Nhật Bản là 1.102 USD, Mỹ là 1.274 USD, Singapore là 1.340 USD/người/năm.

Từ năm 2000, tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho KH&CN hàng năm đạt 2% (tốc độ tăng trung bình đạt 16,5%). Tổng chi ngân sách cho hoạt động KH&CN năm 2011 là 11.499 tỷ đồng, năm 2012 là 13.168 tỷ đồng, chiếm khoảng 62-63% tổng chi toàn xã hội cho KH&CN, trong lúc đầu tư của các doanh nghiệp cho hoạt động KH&CN lại rất thấp, thấp hơn nhiều so với đầu tư từ ngân sách nhà nước, chỉ đạt khoảng 37-38%. Trong lúc đó, ở các nước trên thế giới, tỷ lệ này hoàn toàn ngược lại. Ở Mỹ Chính phủ chi hỗ trợ 27,7%, Doanh nghiệp 62,3%, Đại học 10% tổng chi nghiên cứu và phát triển quốc gia; tương ứng tỷ lệ 24,7% - 69,1% - 6,2% đối với Trung Quốc; 23,1% - 75,4% - 1,5% đối với Hàn Quốc, đặc biệt đối với Nhật Bản Chính phủ chỉ chi 16,2%, còn lại Doanh nghiệp 77,1% và Đại học 6,7%.

Như vậy, có thể nói rằng, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến đầu tư phát triển KH&CN.

Điều đó được thể hiện qua chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam năm 2010 được xếp hạng thứ 59 trong tổng số 139 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng, tăng 16 bậc so với năm 2009; năm 2011 được xếp hạng thứ 65/142 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng; đặc biệt chỉ số sáng tạo toàn

3

cầu Việt Nam năm 2011 được xếp thứ 51 trong tổng số 125 nước tham gia xếp hạng.

Bên cạnh những cơ hội lớn cơ bản nêu trên, chúng ta đang đứng trước những thách thức không nhỏ:

Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới ngày càng gia tăng. Đây vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh giữa các nước để bảo vệ lợi ích quốc gia. 

Xác định thách thức nói trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhận định: “Toàn cầu hoá kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp. Các Công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự tuỳ thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở thành phổ biến. Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức càng trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia” (trích Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020).

Nước ta cũng đang đứng trước những thách thức rất gay gắt cần phải khắc phục trong quá trình phát triển, đó là những thách thức nảy sinh từ thực trạng nền kinh tế còn non yếu đứng trước bối cảnh nền kinh tế thế giới trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ đang làm gia tăng nhanh khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia và khu vực.

Hội nhập vào nền kinh tế thế giới là một xu thế tất yếu, vì ngày nay không có một nền kinh tế nào có thể đứng cô lập mà phát triển được. Nhưng hội nhập mà không đủ năng lực nội sinh, không biết tận dụng các yếu tố thuận lợi của thời đại để phát triển nhanh thì sẽ bị cuốn hút, đè bẹp. Bốn nguy cơ mà Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu, nguy cơ "diễn biến hoà bình" do các thế lực thù địch gây ra, đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào.

Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của Việt Nam quá thấp, lại phát triển trong môi trường cạnh tranh quyết liệt.

Kinh tế - xã hội còn hàm chứa một số yếu kém:Chỉ số kinh tế tri thức (KEI) và chỉ số tri thức (KI) của Việt Nam vẫn còn

rất thấp, năm 2009 xếp thứ 100 trong tổng số 146 nước tham gia xếp hạng; chỉ số nhân tài toàn cầu lại càng thấp hơn, giai đoạn 2011-2015 Việt Nam được xếp thứ 53 trong tổng số 60 nước tham gia xếp hạng;

Chỉ số phát triển con người HDI là một thước đo tổng quát về phát triển con người trên cơ sở sức khỏe, tri thức và thu nhập - năm 2007 Việt Nam xếp hạng thứ 105/177 nước tham gia xếp hạng, hai năm 2010 và 2011 đều xếp thứ 128/187 nước tham gia xếp hạng.

GDP bình quân đầu người nước ta tuy có tăng: năm 2010, GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD, năm 2012 đạt 1.300 USD và năm 2013 đạt 1.540

4

USD, nhưng vẫn còn rất thấp so với các nước phát triển trên thế giới: GDP/người năm 2011: Quatar = 91.379 USD; Luxembourg = 89.562 USD; Nauy = 56.920 USD; Singapore = 56.797 USD; Mỹ = 47.084 USD.

Tiềm lực KH&CN quốc gia, năng lực KH&CN của đất nước ta vẫn còn ở trình độ thấp, hiệu quả hoạt động nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình đổi mới và hội nhập quốc tế, vẫn còn hàm chứa một số tồn tại, hạn chế: 

Cơ chế quản lý cán bộ và tổ chức KH&CN không phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo và thể chế kinh tế thị trường. Các tổ chức KH&CN chưa có được đầy đủ quyền tự chủ về kế hoạch, tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế để phát huy tính năng động, sáng tạo khoa học; 

Cơ chế hoạt động KH&CN chậm được đổi mới, còn mang nặng tính hành chính, chưa phù hợp chuẩn mực và thông lệ quốc tế;

Việc xác định nhiệm vụ KH&CN chưa thực sự xuất phát yêu cầu của thực tiễn, nhiều nhiệm vụ KH&CN được thực hiện chỉ theo năng lực của tổ chức, cá nhân nhà khoa học đăng ký. Chính vậy, nhiều kết quả chỉ dừng lại ở nghiên cứu, không ứng dụng vào thực tiễn được;

Thiếu cơ chế hữu hiệu khắc phục tình trạng trùng lặp tràn lan các nhiệm vụ KH&CN giữa các cấp, các ngành, các địa phương. Công tác đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên cứu chưa tương hợp với chuẩn mực quốc tế, nên chất lượng không cao;

Việc ứng dụng, nhân rộng kết quả KH&CN vào thực tiễn chưa được chú trọng đúng mức;

Thiếu cơ chế khai thác sử dụng kết quả KH&CN tại các cấp, các ngành, các địa phương, tại Cục Thông tin KH&CN Quốc gia và Thư viện Quốc gia thông qua mạng thông tin điện tử. Các kết quả KH&CN - tài sản trí tuệ Quốc gia hầu như đang bị đóng băng, gây lãng phí vô tận;

Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động KH&CN còn nhiều bất cập, mang nặng tính hành chính, không phù hợp với đặc thù lao động KH&CN sáng tạo. Thời gian để giải quyết các thủ tục hành chính, chứng từ thanh quyết toán tài chính chiếm không ít hơn thời gian nghiên cứu thực sự;

Thị trường KH&CN mới hình thành sơ khai, chậm phát triển. Hoạt động KH&CN chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp, tỷ lệ thương mại hoá kết quả KH&CN còn rất thấp;

Thiếu sự liên kết hữu cơ theo hướng thương mại hóa kết quả nghiên cứu và phát triển bền vững giữa tổ chức khoa học, trường đại học và doanh nghiệp;  

Tiến độ chuyển đổi cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tự trang trải kinh phí theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP và hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp KH&CN theo Nghị định số 80/2007/NĐ-CP còn chậm;

Hợp tác quốc tế về KH&CN còn dàn trải, thiếu tính chiến lược, trọng tâm, trọng điểm và đột phá;

Trình độ công nghệ của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Ngoài những công nghệ tiên tiến được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh vực như bưu chính - viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng, nhìn chung trình độ công nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện nay

5

lạc hậu khoảng 2 - 3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực; Nếu so với các nước phát triển cao thì khoảng cách còn xa hơn. Có nhiều DN ngoài quốc doanh đang sử dụng máy móc, thiết bị do các DN nước ngoài đã thải bỏ, tính chung cho các DN mức độ thiết bị hiện đại chỉ có 10%, mức trung bình 38%, lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 52%. Đặc biệt ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 70%. Trong khi các DN Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ ở mức thấp, tính ra chi phí khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu thì con số nầy ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc 10%. Theo đánh giá của Bộ Khoa học và Công nghệ thì năng lực đổi mới công nghệ của các DN Việt Nam thuộc “loại năng lực yếu nhất ”

Hoạt động đổi mới công nghệ chỉ diễn ra mạnh mẽ trong các DN có vốn đầu tư nước ngoài với 90,6% tổng nguồn vốn thực hiện; còn trong các DN Nhà nước chiếm chỉ khoảng khoảng 8,7% và trong khu vực DN ngoài nhà nước chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ là 0,67% - Đây là rào cản lớn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa và năng lực cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu và cũng chính là nguyên nhân vì sao trên 80% DN có vốn đầu tư nước ngoài đã tham gia xuất khẩu tốt, trong khi chỉ có 31,7% DN ngoài nhà nước và 31,3% số DN nhà nước có hoạt động này (tỷ lệ % xét riêng từng khối).

Tình trạng này hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.

Ngoài ra, để “dọn chỗ” xây dựng các ngành công nghệ cao, nhiều nước giàu đẩy dần các công nghệ tốn nhiều năng lượng, nguyên liệu, gây ô nhiễm (hoá chất, xi măng…) hoặc cần nhiều lao động (dệt may…) sang các nước đang phát triển dưới hình thức đầu tư, khiến cho nước nhận đầu tư phải chịu nạn ô nhiễm, và khi khủng hoảng sản xuất thừa, thì phải hứng chịu nhiều rối loạn kinh tế, tài chính, thậm chí cả xã hội, khiến sự phát triển kinh tế chậm lại nhiều năm.

Đầu tư của xã hội cho KH&CN còn rất thấp, đặc biệt là đầu tư từ khu vực doanh nghiệp (chỉ chiếm 30%);

Đội ngũ cán bộ trí thức KH&CN còn thiếu cán bộ giỏi, đầu đàn, hệ thống GD&ĐT chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực KH&CN tiên tiến; chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KH&CN cũng như sự nghiệp CNH - HĐH đất nước...

Chính sách thu hút, trọng thị, trọng dụng, trọng đãi nhân tài, trí thức KH&CN đã được đề cập trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước, tuy nhiên, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có chính sách hiệu quả cụ thể, dẫn tới tình trạng chảy máu chất xám từ khu vực Nhà nước sang khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài;

Chúng ta đang thiếu chính sách thu hút và quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao thuộc các lĩnh vực KH&CN ưu tiên, mũi nhọn, chiến lược và đột phá;

Tỷ lệ cán bộ nghiên cứu KH&CN trong dân số và mức đầu tư cho nghiên cứu khoa học theo đầu người ở nước ta còn rất thấp đạt 7 người trên 1 vạn dân (0,07%), trong lúc Mỹ 0,45%, Nhật Bản 0,51%, Hàn Quốc 0,55%, Đài Loan 0,55%.

6

Số người nghiên cứu chuyên nghiệp, trình độ cao ở Việt Nam là 9.400 người/dân số 87,7 triệu người (0,011%); Malaysia là 9.700 người/dân số 28 triệu người (0,035%); Thái Lan 20.000 người/dân số 63 triệu người (0,032%) và Singaporre 27.000 người/dân số 5 triệu người (0,54%).

Cơ cấu trình độ của đội ngũ lao động không hợp lý, tỷ lệ giữa số người có trình độ đại học, sau đại học/trung học chuyên nghiệp/công nhân kỹ thuật không hợp lý: Năm 1989, tỷ lệ này là 1/1,16/0,9; năm 1999 là 1/1,13/0,92. Hiện nay, tỷ lệ này vẫn chưa được cải thiện nhiều (trên thế giới, tỷ lệ này là 1/4/10 hoặc 1/3/5).

Về bằng độc quyền sáng chế: Đây là một chỉ số quan trọng và khách quan để đánh giá thành tựu khoa học của một nước là số bằng sáng chế. Số bằng sáng chế không chỉ phản ánh hiệu quả thực tiễn của các kết quả nghiên cứu lý thuyết, mà còn cho biết tiềm lực về nghiên cứu ứng dụng. Thực tế cho thấy những nước có nhiều bằng sáng chế thì thường xuất khẩu những sản phẩm công nghệ cao và thu được nhiều lợi nhuận.

Ở nước ta, tổng số bằng được cấp các năm 2005-2006-2007 theo thứ tự là 668-669-725, trong đó cấp cho người Việt Nam chỉ 27-44-34, còn lại là cấp cho người nước ngoài 641-625-691. Tính theo đầu người năm 2007, ở Việt Nam đạt 8,5 bằng/triệu dân/năm, trong lúc ở Mỹ khoảng 49 bằng/1 triệu dân/năm (15.386 Bằng/năm); Nhật Bản 111 bằng/triệu dân/năm (2008); Đức 820 bằng/triệu dân/năm (2008).

Về bài báo và công trình khoa học công bố quốc tế của Việt Nam trong 41 năm (1970-2011) khoảng 10.745 bài, tương đương số bài chỉ trong 1,5 năm của Singapore và chỉ bằng khoảng 27% tổng số bài báo của Hàn Quốc chỉ trong 1 năm, trong đó, có đến gần 80% bài là do hợp tác với đồng nghiệp nước ngoài. Xét trong 10 năm qua (2000 -2009): Trung bình mỗi năm, Việt Nam có khoảng 660 bài công bố quốc tế, tương đương chiếm khoảng 1/5 so với Thái Lan; 1/10 so với Singapore; 1/100 so với Nhật Bản và 1/424 so với Mỹ. Nếu tính số bài/1 triệu dân/năm thì Việt Nam chỉ bằng 1/170 Singaporre; 1/80 Nhật Bản và 1/119 Mỹ.

Điều đáng lo khác là nạn chảy chất xám làm cho các nước nghèo hơn, vì nghèo tri thức là nguồn gốc của mọi thứ nghèo. Các nước phương Tây hiện đang thu hút nhân tài khắp thế giới bằng nhiều chính sách ưu đãi thu hút, trọng dụng, trọng đãi nhân tài và trí thức KHCN.

Nhìn chung, năng lực KH&CN nước ta vẫn còn ở trình độ thấp, chưa đủ sức giải quyết được nhiều vấn đề của thực tiễn đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội, CNH-HĐH, đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia và hội nhập quốc tế.  

Đây là thách thức lớn, nếu không có chính sách, đối sách đúng đắn thì nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế giữa nước ta với các nước phát triển là không tránh khỏi.

Để khắc phục những tồn tại và hạn chế nêu trên, việc đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ cơ chế hoạt động KH&CN trong giai đoạn hiện nay là tất yếu khách quan. Trong hệ thống nhiều giải pháp tổng hợp, đồng bộ và lâu dài, một số giải pháp cấp bách cần được xem xét để tham khảo:

7

1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển KH&CN

Nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng và chính quyền về vai trò, vị trí của KH&CN trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, CNH-HĐH đất nước, cạnh tranh và hội nhập quốc tế; xác định phát triển KH&CN là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm của tất cả các cấp uỷ Đảng và chính quyền.

Các nhiệm vụ KH&CN phải đáp ứng và phục vụ chương trình kinh tế - xã hội, ngược lại chương trình kinh tế - xã hội phải có luận chứng khoa học.

2. Xây dựng và phát triển tiềm lực KH&CN quốc giaĐổi mới toàn diện hoạt động Đào tạo theo chuẩn mực quốc tế. Năng lực,

trình độ KH&CN quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó nguồn nhân lực là nhân tài và trí thức KH&CN đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, quyết định chất lượng sản phẩm nghiên cứu KH&CN.

Ở Mỹ, các công trình nghiên cứu đều khẳng định 80% công việc trong năm 2000 thực chất là lao động bằng trí óc.

Hiền tài là nguyên khí quốc gia nhưng bản thân tự nó chính là sản phẩm của quá trình đào tạo lâu dài; chính vì vậy để đào tạo được ngày càng nhiều hiền tài cho đất nước, hoạt động đào tạo phải được đổi mới phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

Cần xây dựng và ban hành chính sách, quy định cụ thể về thu hút, trọng thị, trọng dụng, trọng đãi và vinh danh nhân tài, trí thức KH&CN.

Nhân tài, trí thức KH&CN là tài nguyên vô giá của mỗi Quốc gia, là lực lượng sản xuất tạo ra siêu lợi nhuận và là động lực tiên phong dẫn đầu đột phá trong mọi lĩnh vực kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh. Để phát triển một quốc gia hưng thịnh theo hướng bền vững thì sự cần thiết phải có chính sách cụ thể, đảm bảo lợi ích thiết thực về thu hút, trọng thị, trọng dụng, trọng đãi và vinh danh nhân tài và trí thức KH&CN trong và ngoài nước (mức lương, thu nhập, nhà ở, bổ nhiệm, giao nhiệm vụ quyền hạn, chế độ thuận lợi về visa, sở hữu tài sản, nhập quốc tịch...), đặc biệt ưu tiên các nhà khoa học trẻ tài năng.

Nhà nước cần ban hành tiêu chuẩn và tiêu chí xét tặng các danh hiệu, vinh danh của Nhà nước nhằm tôn vinh đích thực những nhân tài và trí thức KH&CN có nhiều cống hiến thật sự cho xã hội và đất nước.

Chú trọng xây dựng và bồi dưỡng nguồn nhân lực trí thức KH&CN nội sinh để trong một tương lai gần đủ sức giải quyết những nhiệm vụ KH&CN trọng tâm và chiến lược quốc gia.

Nhà nước cần tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho một số trường đại học, viện, trung tâm nghiên cứu khoa học trọng điểm, các công viên kỹ thuật cao, khu công nghệ cao đạt trình độ quốc tế cùng với chính sách đảm bảo lợi ích để thu hút nhân tài, trí thức KH&CN trong nước và quốc tế đến làm việc.

3. Đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH&CN

a) Đổi mới hệ thống tổ chức KH&CN:

8

Tái cấu trúc và quy hoạch lại hệ thống tổ chức KH&CN quốc gia theo hướng nâng cao năng lực, có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, trùng lặp, đáp ứng sự nghiệp CNH-HĐH và hội nhập Quốc tế.

Khuyến khích mọi tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân thành lập các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, doanh nghiệp KH&CN. Hình thành các doanh nghiệp KH&CN trong các trường Đại học, viện nghiên cứu để tiêu thụ và thương mại hoá các kết quả KH&CN. Thành lập các viện nghiên cứu, tổ chức KH&CN thuộc doanh nghiệp để nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội.

Gắn chặt liên kết hữu cơ tất yếu giữa sản xuất kinh doanh với nghiên cứu khoa học, giữa tổ chức KH&CN với doanh nghiệp trên cơ sở đảm bảo quan hệ lợi ích hài hòa giữa nhà khoa học, tổ chức KH&CN và doanh nghiệp.

Nhà nước chỉ tập trung xây dựng một số tổ chức KH&CN trọng điểm, chiến lược và đột phá của quốc gia.

b) Đổi mới cơ chế hoạt động KH&CN: Tạo môi trường dân chủ khoa học và điều kiện thuận lợi cho nhân tài, trí

thức KH&CN tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo KH&CN cống hiến cho sự phát triển của đất nước. Môi trường dân chủ trong khoa học chính là không gian sáng tạo của trí thức KH&CN. Tạo môi trường dân chủ trong khoa học cũng đồng nghĩa với việc phát huy dân chủ rộng rãi chức năng phản biện khoa học, phản biện xã hội đối với các quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình dự án lớn của đất nước.

Thực hiện xã hội hoá các hoạt động KH&CN, đẩy nhanh tiến độ và triệt để thực hiện cơ chế tự chủ, tự trang trải kinh phí và tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức KH&CN công lập theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP. Xã hội hóa các hoạt động KH&CN cần được tiến hành song song với quá trình xã hội hóa các hoạt động Giáo dục và Đào tạo. Hình thành nhanh, mạnh, nhiều doanh nghiệp KH&CN theo Nghị định số 80/2007/NĐ-CP, đặc biệt là các doanh nghiệp KH&CN mũi nhọn, công nghệ cao trong các trường Đại học, viện nghiên cứu.

c) Đổi mới cơ chế quản lý KH&CN:Tập trung xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy quản

lý nhà nước về KH&CN để huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển KH&CN.

Đổi mới cơ bản việc xây dựng và quản lý nhà nước các nhiệm vụ KH&CN theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế, đặc biệt đối với các nhiệm vụ chiến lược, trọng tâm, mũi nhọn mang tính đột phá, nhảy vọt.

Thực hiện cơ chế đặt hàng các nhiệm vụ KH&CN (có ràng buộc trách nhiệm sử dụng, ứng dụng, nhân rộng kết quả nghiên cứu vào cuộc sống) xuất phát từ thực tiễn sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội (không chỉ trên cơ sở năng lực của tổ chức, cá nhân nhà khoa học) bên cạnh đề xuất của các doanh nghiệp, tổ chức và nhà khoa học; áp dụng các hình thức mua, khoán sản phẩm phù hợp với đặc điểm của từng loại hình hoạt động KH&CN.

Thực hiện tốt thống kê KH&CN và có cơ chế kiểm soát tình trạng trùng lặp tràn lan các nhiệm vụ KH&CN giữa các ngành, các cấp, các địa phương như hiện nay.

9

Việc đề xuất nhiệm vụ KH&CN nên được tiến hành thường xuyên không theo mùa kế hoạch hoặc mùa vụ hành chính.

Đánh giá hoạt động KH&CN cần có phản biện độc lập về kết quả kèm theo nội dung chính được đăng tải trên tạp chí chuyên ngành.

Cần có quy định cụ thể phân lập rõ ràng về quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền chuyển giao, quyền tác giả giữa chủ đầu tư (Nhà nước, doanh nghiệp hoặc tổ chức khoa học), đại diện chủ đầu tư, tổ chức khoa học và tác giả nhà khoa học. Quy định hiện hữu về quyền sở hữu thuộc về Nhà nước đối với kết quả do Nhà nước đầu tư 100% kinh phí, đồng thời Nhà nước giao cho cơ quan chủ trì (tổ chức khoa khọc) được quyền sở hữu kết quả là chưa hoàn toàn đầy đủ.

Cần cụ thể hoá việc giao quyền sở hữu, sử dụng kết quả nghiên cứu có thể cho một hoặc nhiều tổ chức; quy định một số kết quả nghiên cứu cần phải được công bố công khai toàn dân (công bố công khai vào thư viện điện tử các kết quả nghiên cứu sử dụng 100% ngân sách nhà nước để mọi tổ chức, cá nhân được khai thác, sử dụng theo cơ chế trích chi trả quyền tác giả); có cơ chế để địa phương được sử dụng kết quả (do Nhà nước đầu tư 100% kinh phí) nhiệm vụ cấp nhà nước, cấp bộ và cấp tỉnh của các địa phương khác.

Tăng cường khai thác, áp dụng sáng chế trong và ngoài nước, các sáng chế không được bảo hộ tại Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau.

Triển khai một số nhiệm vụ KH&CN trọng điểm, mũi nhọn, có tính chất đột phá và tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia.

Tăng cường thông tin, phổ biến, nhân rộng, ứng dụng nhanh các kết quả nghiên cứu KH&CN vào thực tiễn sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội.

d) Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách tài chính cho hoạt động KH&CN:Đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư tài chính cho hoạt động KH&CN theo

hướng đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho KH&CN, xã hội hoá một số hoạt động KH&CN. Nhà nước chỉ tập trung đầu tư vào các lĩnh vực trọng điểm được xác định trong Chiến lược phát triển KH&CN, các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách và những lĩnh vực công ích do Nhà nước quy định trên cơ sở duy trì mức chi tối thiểu 2% tổng chi ngân sách nhà nước cho hoạt động KH&CN, đạt 2,2% vào năm 2015 và những năm tiếp theo.

Cần sửa đổi, bổ sung Luật Ngân sách theo hướng bổ sung mục chi ngân sách cho KH&CN ở cấp huyện trong mục lục chi ngân sách nhà nước để có điều kiện tăng cường hoạt động KH&CN cấp huyện.

Tăng đầu tư cho KH&CN từ Doanh nghiệp, các Trường Đại học, cơ sở đào tạo và tổ chức KH&CN. Đây chính là điểm đột phá trong đổi mới tư duy và hoàn toàn phù hợp với thực trạng của các nước phát triển trên thế giới. Xây dựng cơ chế hữu hiệu để huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tư cho hoạt động KH&CN, sửa đổi Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp theo hướng tăng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp để đảm bảo trích tối thiểu 10% lợi nhuận trước thuế cho Quỹ phát triển KH&CN của chính doanh nghiệp hoặc đóng góp cho Quỹ phát triển KH&CN của địa phương và hướng dẫn sử dụng tốt, hiệu quả Quỹ phát triển KH&CN doanh nghiệp. Bổ sung quy định cụ thể về bắt buộc trích lập và sử

10

dụng Quỹ phát triển KH&CN trong các Trường Đại học, cơ sở đào tạo và các tổ chức KH&CN.

Ban hành cơ chế, chính sách để khắc phục cơ bản tình trạng phân tán nguồn vốn ngân sách nhà nước về đầu tư phát triển KH&CN; đổi mới cơ chế tạo nguồn, cơ cấu và phương thức phân bổ, điều tiết, sử dụng ngân sách nhà nước dành cho KH&CN, từng bước nâng mức đầu tư cho KH&CN phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cần quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong công tác xây dựng dự toán, phân bổ, điều tiết, sử dụng ngân sách nhà nước hàng năm chi cho KH&CN (bao gồm cả kinh phí đầu tư phát triển và kinh phí sự nghiệp KH&CN) trên cơ sở gắn với trách nhiệm về hiệu quả hoạt động KH&CN, phát triển tiềm lực KH&CN. Cho phép bố trí kinh phí dự phòng để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN đột xuất không theo năm kế hoạch.

Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các hoạt động KH&CN, áp dụng cơ chế khoán chi thực hiện các nhiệm vụ KH&CN theo chất lượng kết quả KH&CN cuối cùng, hiệu quả đầu ra, trên cơ sở thẩm định kinh phí, chào hàng cạnh tranh, đấu thầu rộng rãi... không định khoán hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính, hóa đơn chứng từ... cho phù hợp với đặc thù lao động sáng tạo; không giới hạn mức thu nhập của cán bộ, viên chức trong các tổ chức KH&CN.

Cần bổ sung nội dung chi ngân sách cho KH&CN ở cấp huyện trong mục lục chi ngân sách nhà nước để có điều kiện tăng cường hoạt động KH&CN cấp huyện.

Chuyển dần cơ chế cấp phát tài chính thực hiện các nhiệm vụ KH&CN sang cơ chế quỹ (Quỹ phát triển KH&CN Quốc gia, tỉnh, thành phố, doanh nghiệp; Quỹ đổi mới công nghệ Quốc gia; Quỹ đầu tư mạo hiểm...).

Cần bổ sung quy định tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN được cơ quan có thẩm quyền xem xét bảo lãnh vay vốn tại các tổ chức tín dụng.

Thí điểm áp dụng cơ chế tự chủ đặc biệt về tài chính đối với các nhà khoa học được Nhà nước giao chủ trì nhiệm vụ KH&CN đặc biệt cấp quốc gia.

Ưu tiên đầu tư lĩnh vực Việt Nam có lợi thế so sánh hoặc để làm chủ, phát triển và tạo ra một số công nghệ cao, tạo lĩnh vực KH&CN, sản phẩm mũi nhọn của quốc gia; Xây dựng hạ tầng kỹ thuật và phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao.

Tăng cường khai thác các nguồn vốn từ hợp tác quốc tế cho phát triển KH&CN. Có chính sách để thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong các hoạt động KH&CN.

4. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển thị trường KH&CNHoàn thiện các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển thị trường KH&CN;

tổ chức thực hiện hiệu quả Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia.Phát triển mạnh, nhanh các tổ chức dịch vụ KH&CN xúc tiến chuyển giao

công nghệ và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước.

5. Đẩy mạnh thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ nhằm tạo môi trường sở hữu lành mạnh trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ

11

Bảo hộ tốt quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng hóa. Bảo đảm lợi ích chính đáng của các tác giả có phát minh, sáng chế nhằm phát huy lao động sáng tạo.

Thúc đẩy khai thác hiệu quả thông tin sáng chế phục vụ đào tạo, nghiên cứu và sản xuất kinh doanh.

6. Các hoạt động tiêu chuẩn, đo lường, năng suất, chất lượng và hàng rào kỹ thuật trong thương mại phải đổi mới phù hợp với thông lệ quốc tế trên cơ sở bảo vệ sản xuất trong nước, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới, phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập.

7. Tăng cường và đổi mới hoạt động thông tin KH&CNThông tin KH&CN phải đáp ứng tốt các chức năng cơ bản về thông tin, tư

liệu, phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, kết quả KH&CN và lan toả, nhân rộng kết quả KH&CN vào sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội.

Hệ thống tri thức KH&CN, các kiến thức khoa học kỹ thuật, các kết quả KH&CN tại Thư viện Quốc gia và Cục Thông tin KH&CN Quốc gia cần phải có cơ chế mở để toàn xã hội có thể khai thác sử dụng trên mạng thông tin điện tử, tránh sự đóng băng như hiện nay. KH&CN sẽ bị hạn chế phát triển, trí thức sẽ chậm phát triển nếu cứ kéo dài mãi sự đóng băng kho cơ sở dữ liệu to lớn về KH&CN - nguồn tài nguyên trí tuệ vô giá của Quốc gia.

8. Cụ thể hóa chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp cạnh tranh và hội nhập

Hoạt động KH&CN phải hướng tới việc hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu khoa học, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và các thành tựu KH&CN, đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ, áp dụng công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, xác lập quyền sở hữu tài sản trí tuệ, khai thác thông tin KH&CN, các hoạt động tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh, đảm bảo phát triển bền vững và hội nhập thành công.

9. Tăng cường hợp tác quốc tế về KH&CNCần mở rộng hợp tác quốc tế về KH&CN để nhanh chóng tiếp thu nền

KH&CN tiên tiến, nhập - sử dụng - cải tiến - chuyển hóa các công nghệ mới, công nghệ cao, đồng thời qua đó tranh thủ học tập kiến thức, kinh nghiệm, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ KH&CN.

Trong hợp tác quốc tế về KH&CN, cần xác định rõ đối tác chiến lược, đối tượng trọng tâm, phạm vi trọng điểm nhằm tạo đột phá trong một số ít (không dàn trãi) mũi nhọn thuộc chiến lược quốc gia.

10. Đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sáng tạo trong cán bộ và quần chúng nhân dân; Phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, áp dụng các thành tựu KH&CN, các giải pháp kỹ thuật tiên tiến vào công tác sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội, đặc biệt là trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý, cải cách hành chính, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả nền kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân…

Đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ cơ chế tổ chức, quản lý và hoạt động KH&CN, đặc biệt là sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ phù hợp với nội dung Nghị quyết lần thứ 6 Ba chấp hành Trung ương Đảng khóa XI số 20-NQ/TW

12

ngày 01/11/2012 về “Phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc” là vô cùng cấp thiết, có tính chất quyết định đến sự phát triển của nền KH&CN quốc gia, sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội, CNH-HĐH đất nước, đảm bảo quốc phòng, an ninh vững chắc và hội nhập quốc tế thành công.

Tài liệu tham khảo:1. Báo cáo (tóm tắt) tình hình hoạt động KH&CN theo tinh thần Nghị quyết

Đại hội Đảng toàn quốc (khóa XI) và chương trình, kế hoạch công tác của Chính phủ phục vụ buổi làm việc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 10/9/2012.

2. Báo cáo chuyên đề “Một số vấn đề về KH&CN, kinh nghiệm phát triển KH&CN của một số nước và tác động của KH&CN đối với tăng trưởng kinh tế ở nước ta” kèm theo công văn số 4091-CV/VPTW ngày 19/9/2012 của Văn phòng Trung ương Đảng.

3. Dự thảo Nghị quyết về Phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế;

4. Đề án của Bộ KH&CN về tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH&CN, năm 2011.

5. Đề án của Ban cán sự Đảng Chính phủ trình Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 6 (khóa XI) về “Phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

6. Khoa học và công nghệ thế giới - Đổi mới và phát triển kinh tế tri thức, Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia – 2011.

7. Kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại buổi làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 10/9/2012.

8. Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011 – 2020.

9. Quyết định số 1244/QĐ-TTg ngày 25/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ KH&CN chủ yếu giai đoạn 2011 – 2015.

10. Thông báo số: 98/TB-VPCP ngày 19 tháng 3 năm 2012 về Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân tại Hội nghị tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH&CN.

11. Thông tin chuyên đề số 24-TTCĐ/VPTW ngày 07/9/2012 của Văn phòng Trung ương Đảng.

12. Tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế hoạt động khoa KH&CN - Kỷ yếu hội thảo, Bộ Khoa học và Công nghệ, 2011.

13. Tờ trình số 304-TTr/BCSĐCP ngày 17/9/2012 của Ban cán sự Đảng Chính phủ về Đề án “Phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

13