39
MỤC LỤC I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG......1 1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng ..............1 2. Các loại bảo lãnh ngân hàng ...............2 3. Chức năng của bảo lãnh ....................7 4. Vai trò của bảo lãnh ......................8 5. Quy chế bảo lãnh ngân hàng ...............10 II. THỰC TRẠNG BẢO LÃNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.....12 1. Thành tựu đạt được........................13 2. Tồn tại, hạn chế..........................17 3. Nguyên nhân của những hạn chế.............18 III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG....................................21

Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

Embed Size (px)

DESCRIPTION

tiểu luận

Citation preview

Page 1: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

MỤC LỤC

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG.................1

1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng .........................................................1

2. Các loại bảo lãnh ngân hàng .............................................................2

3. Chức năng của bảo lãnh ....................................................................7

4. Vai trò của bảo lãnh ..........................................................................8

5. Quy chế bảo lãnh ngân hàng ...........................................................10

II. THỰC TRẠNG BẢO LÃNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....................12

1. Thành tựu đạt được..........................................................................13

2. Tồn tại, hạn chế................................................................................17

3. Nguyên nhân của những hạn chế.....................................................18

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH

NGÂN HÀNG.....................................................................................21

Page 2: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG

1. KHÁI NIỆM BẢO LÃNH NGÂN HÀNG

"Bảo lãnh ngân hàng": Là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên

bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài

chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện

hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách

hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.

"Cam kết bảo lãnh": Là văn bản bảo lãnh của tổ chức tín dụng, bao gồm:

a) "Thư bảo lãnh": là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng

về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi

khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với

bên nhận bảo lãnh.

b) "Hợp đồng bảo lãnh": Là thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng và

bên nhận bảo lãnh hoặc giữa tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh, khách hàng và

các bên liên quan (nếu có) về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài

chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện

không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.

Trong một nghiệp vụ bảo lãnh thường có ít nhất 3 thành phần sau đây:

- Người bảo lãnh - The Guarantor (The suarety) là người phát hành bảo

lãnh (ngân hàng, tổ chức tín dụng khác...).

- Người được bảo lãnh - The Principal (The debtor) là người yêu cầu bảo

lãnh.

- Người thụ hưởng bảo lãnh - The Beneficiary (The creditor) là người nhận

cam kết bảo lãnh.

Như vậy, một nghiệp vụ bảo lãnh không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa ngân

hàng bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh, mà còn bao hàm những mối quan hệ

khác nữa. Đó là:

- Quan hệ giữa người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh: Đây là

mối quan hệ gốc, là cơ sở phát sinh yêu cẩu bảo lãnh.

2

Page 3: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

- Quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và người được bảo lãnh: Đó là

quan hệ giữa ngân hàng cấp tín dụng và khách hàng hưởng tín dụng.

2. CÁC LOẠI BẢO LÃNH NGÂN HÀNG

2.1. Phân loại dựa trên bản chất của bảo lãnh

Bảo lãnh đồng nghĩa vụ (Accessory Guarantee - Suretyship)

Bảo lãnh đồng nghĩa vụ là một loại bảo lãnh mang tính truyền thống, trong

đó ngân hàng và người được bảo lãnh được xem là cùng nghĩa vụ. Tuy nhiên

nghĩa vụ của khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên, còn nghĩa vụ của ngân hàng là bổ

sung. Nghĩa vụ bổ sung được thực hiện khi và chỉ khi có các bằng cớ xác nhận

là nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm.

Chủ yếu được sử dụng trong phạm vi nội địa.

Bảo lãnh độc lập (Independent Guarantee)

Bảo lãnh độc lập được coi là một dạng bảo lãnh ngân hàng hiện đại. Theo

đó, nghĩa vụ của ngân hàng bảo lãnh hoàn toàn tách rời với nghĩa vụ của người

được bảo lãnh (theo hợp đồng gốc) và việc thực hiện thanh toán chỉ căn cứ vào

những điều kiện, điều khoản quy định trong văn bản bảo lãnh được thoả mãn mà

thôi.

Được sử dụng phổ biến trong thương mại quốc tế.

2.2. Phân loại dựa trên mục đích của bảo lãnh

Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Performance Guarantee)

Loại bảo lãnh này nhằm chống đỡ rủi ro cho người thụ hưởng trong trường

hợp người cung cấp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng. Bảo lãnh thực

hiện hợp đồng được sử dụng thay thế cho yêu cầu ký quỹ mà người đặt hàng đề

nghị đối với người cung ứng để đảm bảo bồi thường vi phạm hợp đồng.

3

Page 4: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

Là loại bảo lãnh ngân hàng được sử dụng nhiều nhất trong thực hành và

được xem như một công cụ đối ứng vói tín dụng chứng từ.

Bảo lãnh hoàn thanh toán (Repayment Guarantee)

Loại bảo lãnh này được sử dụng trong các hợp đồng thương mại, dịch vụ...

mà người mua hàng hay người hưởng dịch vụ đã ứng trước tiền hàng cho người

bán hay người cung cấp dịch vụ. Bằng việc cam kết sẽ trả lại số tiền đã ứng

trước cho người mua khi người bán vi phạm không thực hiện hợp đồng, ngân

hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra sự tin tưởng cho người mua hàng và đồng thời

cũng giúp người cung ứng thoát khỏi những khó khăn tạm thời về ngân quỹ.

Bảo lãnh trả chậm (Deferred Payment Guarantee)

Loại bảo lãnh này được sử dụng trong các hợp đồng mua bán thiết bị hàng

hóa trả chậm và còn gọi là bảo lãnh thanh toán. Để bảo vệ mình trước rủi ro

không thanh toán đầy đủ và đúng hạn của người mua, người bán có thể yêu cầu

một bảo lãnh trả chậm của ngân hàng.

Bảo lãnh dự thầu (Tender Guarantee - Bid Bond)

Mục đích của bảo lãnh dự thầu là nhằm bù đắp những thiệt hại về thời gian

và chi phí cho người tổ chức đấu thầu do những vi phạm của bên đối tác liên

quan (người tham gia dự thầu) như: rút đơn dự thầu, không ký tiếp hợp đồng sau

khi trúng thầu...

Bảo lãnh dự thầu sẽ tự động mất hiệu lực trong trường hợp người được bảo

lãnh không trúng thầu.

Các loại bảo lãnh tài chính khác (Financial Guarantee)

Những bảo lãnh loại này được sử dụng để đảm bảo thanh toán những nghĩa

vụ tài chính của khách hàng trong trường hợp vi phạm. Người hưởng bảo lãnh

thường là các cơ quan công quyền như: hải quan, toà án, cơ quan thuế...

Có rất nhiều loại bảo lãnh tài chính khác nhau như: Các loại bảo lãnh về

thuế hải quan, thuế môn bài, các loại tiền ký quỹ cho toà án để được tại ngoại...

2.3. Phân loại bảo lãnh căn cứ vào phương thức phát hành bảo lãnh

a. Bảo lãnh trực tiếp (Direct Guarantee)

4

Page 5: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng chịu trách nhiệm

phát hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của người được bảo lãnh (không qua

trung gian). Sau khi ngân hàng đã bồi thường cho người thụ hưởng bảo lãnh,

ngân hàng có thể trực tiếp truy đòi bồi hoàn từ người được bảo lãnh.

Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp

3b

3a

2a 3b

1

(1) Hợp đồng chính ký kết giữa người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh.

(2) Khách hàng yêu cầu phát hành bảo lãnh và cam kết bồi hoàn.

(3a) Ngân hàng phát hành bảo lãnh và chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng

(sau khi xét duyệt và chấp nhận)

(3b) Ngân hàng phát hành có thể chuyển văn bản bảo lãnh cho người thụ hưởng

thông qua ngân hàng thông báo.

b. Bảo lãnh gián tiếp (Indirect Guarantee)

Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh trong đó người được bảo lãnh sẽ yêu cầu

ngân hàng thứ nhất (gọi là ngân hàng chỉ thị - Instructing Bank) đề nghị ngân

hàng thứ hai (gọi là ngân hàng phát hành - Issuing Bank) đưa ra cam kết bảo

lãnh chuyển cho người thụ hưởng. Trong loại bảo lãnh này, người được bảo lãnh

không trực tiếp bồi hoàn cho ngân hàng phát hành mà chính ngân hàng chỉ thị sẽ

chịu trách nhiệm bồi hoàn cho ngân hàng phát hành, thông qua một cam kết gọi

là bảo lãnh đối ứng do chính ngân hàng này đưa ra. Sau đó ngân hàng chỉ thị lại

có thể truy đòi từ người được bảo lãnh.

5

NGÂN HÀNG PHÁT HÀNH

NGÂN HÀNG THÔNG BÁO

NGƯỜI THỤ HƯỞNG BẢO

LÃNH

NGƯỜI ĐƯỢC BẢO LÃNH

Page 6: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp

4b

3

4a 4b

2

1

(1) Hợp đồng gốc.

(2) Khách hàng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình ra chỉ thị cho ngân hàng

chính phát hành bảo lãnh.

(3) Ngân hàng thứ nhất chỉ thị cho ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh,

đồng thời cam kết bồi hoàn trên bảo lãnh đối ứng.

(4a,4b) Ngân hàng thứ nhất phát hành bảo lãnh: có thể chuyển trực tiếp cho

người thụ hưởng hoặc qua ngân hàng thông báo.

c. Đồng bảo lãnh (Syndicated Guarantee)

Trong một số dự án có giá trị lớn, để giảm thiểu rủi ro các ngân hàng có thể

thực hiện đồng bảo lãnh. Trường hợp này một ngân hàng đóng vai trò đầu mối

(Leading Bank) phát hành bảo lãnh nhưng có sự tham gia của các ngân hàng

đồng minh khác. Nếu phải chi trả cho người bảo lãnh theo bảo lãnh đã lập, ngân

hàng chính có thể đòi bồi hoàn từ các ngân hàng đồng minh theo tỷ lệ tham gia

của họ, dựa trên các bảo lãnh đối ứng do các ngân hàng này phát hành. Đến lượt

mình, các ngân hàng này tiến hành truy đòi từ người được bảo lãnh.

6

NGÂN HÀNG PHÁT HÀNH

NGÂN HÀNG THÔNG BÁO

NGÂN HÀNGCHỈ THỊ

NGƯỜI ĐƯỢC BẢO LÃNH

NGƯỜI THỤ HƯỞNG BẢO

LÃNH

Page 7: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

Sơ đồ đồng bảo lãnh

3 4b

4a 4b

2

1

(1) Hợp đồng gốc.

(2) Người được bảo lãnh yêu cầu phát hành bảo lãnh..

(3) Ngân hàng chính dàn xếp đồng bảo lãnh cùng với các ngân hàng đồng

minh.

(4a, 4b) Ngân hàng chính phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng, chuyển

trực tiếp hoặc qua ngân hàng thông báo.

Ngoài những loại bảo lãnh trên đây, dựa theo cách thức phát hành còn có

một số loại bảo lãnh khác như: bảo lãnh giáp lưng, bảo lãnh xác nhận… được sử

dụng chủ yếu trong các quan hệ quốc tế.

2.4. Phân loại bảo lãnh căn cứ vào điều kiện thanh toán của bảo lãnh

Bảo lãnh theo yêu cầu (Demand Guarantee)

Bảo lãnh theo yêu cầu hay còn gọi là bảo lãnh theo yêu cầu đầu tiên (First

Demand Guarantee) là loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán của nó là người thụ

hưởng bảo lãnh chỉ cần xuất trình yêu cầu thanh toán cho ngân hàng phát hành.

Yêu cầu thanh toán có thể là một trong hai dạng sau:

- Văn bản yêu cầu thanh toán

7

NGÂN HÀNG 3

NGÂN HÀNG 1

NGÂN HÀNG 2NGÂN HÀNG PHÁT HÀNH

NGƯỜI ĐƯỢC BẢO LÃNH

NGƯỜI THỤ HƯỞNG BẢO

LÃNH

NGÂN HÀNG THÔNG BÁO

Page 8: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

- Văn bản yêu cầu thanh toán kèm với tờ trình về sự vi phạm hợp đồng

của người được bảo lãnh.

Bảo lãnh kèm chứng từ (Documentary Guarantee)

Là loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán là phải có chứng từ xác nhận của

bên thứ ba (thường là một bên độc lập có đủ tư cách chuyên môn để xác nhận).

Chứng từ có thể được xuất trình theo một trong hai cách sau:

- Người thụ hưởng xuất trình các chứng từ xác nhận hành vi vi phạm

nghĩa vụ từ phía người được bảo lãnh. Những chứng từ này do bên thứ 3 có tư

cách độc lập phát hành.

- Người thụ hưởng xuất trình yêu cầu thanh toán, ngoài ra không cần phải

xuất trình bất kỳ loại chứng từ nào khác. Tuy nhiên quyền thanh toán của người

này sẽ bị đình lại nếu người được bảo lãnh cung cấp các chứng từ của bên thứ ba

độc lập xác nhận việc hoàn thành hợp đồng.

Bảo lãnh kèm phán quyết của trọng tài hoặc tòa án

Điều kiện thanh toán ở đây là người thụ hưởng phải cung cấp một phán

quyết của tòa án hoặc trọng tài khẳng định việc vi phạm nghĩa vụ của người

được bảo lãnh và trách nhiệm bồi hoàn đối với người thụ hưởng.

3. CHỨC NĂNG CỦA BẢO LÃNH

Bảo lãnh là công cụ đảm bảo (Security Instrument)

Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh. Bằng việc cam kết chi trả

bồi thường khi xảy ra các biến cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh,

các ngân hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra một sự đảm bảo chắc chắn cho

người thụ hưởng. Chính sự tin tưởng này tạo điều kiện cho hợp đồng được ký

kết một cách suôn sẻ thuận lợi.

Với chức năng này, bảo lãnh ngân hàng thực sự là chất xúc tác giúp cho các

hợp đồng thương mại, xây dựng, các giao dịch hàng hoá trong nước và quốc tế

được ký kết một cách thuận lợi.

Bảo lãnh là công cụ tài trợ (Financing Instrument)

Bảo lãnh là công cụ tài trợ thực sự về mặt tài chính cho nguời được bảo

lãnh. Trong rất nhiều trường hợp, thông qua bảo lãnh khách hàng không phải

8

Page 9: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh chóng, được vay nợ và được kéo dài thời gian

thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, tiền nộp thuế... Vì vậy mặc dù không trực tiếp

cấp vốn nhưng với việc phát hành bảo lãnh ngân hàng đã giúp cho khách hàng

của họ được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như khi được cho vay thực sự.

Với ý nghĩa này, bảo lãnh được coi là một trong những dịch vụ ngân hàng

có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đáp ứng kịp thời các yêu cầu phát triển và mở

rộng sản xuất kinh doanh, làm giảm bớt sự căng thẳng về nguồn vốn hoạt động

của các doanh nghiệp.

4. VAI TRÒ CỦA BẢO LÃNH

Ngày nay bảo lãnh không chỉ còn bó hẹp trong các giao dịch thương mại

trong nước mà còn được sử dụng rộng rãi trong các giao dịch quốc tế. Có thể nói

rằng trong các hợp đồng lớn, nhất là các hợp đồng có yếu tố nước ngoài khi các

bên chưa thực sự tin tưởng nhau thì không thể thiếu hình thức bảo lãnh của ngân

hàng. Bảo lãnh ra đời không chỉ mang lại lợi ích cho ngân hàng mà còn mang lại

lợi ích cho cả doanh nghiệp và nền kinh tế.

Trong kinh doanh ngày nay, bảo lãnh ngân hàng luôn được xem như tấm

Giấy thông hành cho doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm. Việc

này không những tạo thuận lợi cho kế hoạch của bạn mà các đối tác kinh doanh

cũng sẽ có cơ sở để tin tưởng doanh nghiệp của bạn hơn.

Với vai trò như vậy, bảo lãnh đã trở thành loại dịch vụ kinh doanh có nhiều

tác động tích cực trong việc thúc đẩy các giao dịch về vốn, các giao dịch kinh

doanh không chỉ ở trong lĩnh vực tín dụng mà cả trong dự thầu, thực hiện hợp

đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm...

4.1. Đối với ngân hàng

- Trước hết bảo lãnh giúp ngân hàng đa dạng hoá danh mục sản phẩm dịch

vụ, nhờ đó mà ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh.

Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt thì việc phát triển các loại hình

sản phẩm dịch vụ hiện đại là một yêu cầu cấp bách đối với các ngân hàng. Mà

bảo lãnh là một trong những nghiệp vụ không chỉ thúc đẩy hoạt động kinh

9

Page 10: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

doanh của ngân hàng mà còn giúp ngân hàng tăng uy tín của mình nhất là trên

thị trường quốc tế.

- Thứ hai, thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng được hưởng một khoản

thu nhập lớn từ phí bảo lãnh. Đây là một khoản thu chiếm tỷ trọng lớn trong

tổng thu từ dịch vụ của một ngân hàng thương mại hiện đại. Việc cấp bảo lãnh

không đòi hỏi ngân hàng phải cấp vốn ra ngay mà chỉ bảo lãnh bằng uy tín của

mình, do đó ngân hàng chưa phải sử dụng đến vốn của mình. Hơn nữa ngân

hàng cũng rất ít khi phải đứng ra bồi hoàn bảo lãnh nên hầu như ngân hàng

không sử dụng vốn của mình, không phải trả chi phí cho huy động vốn.

- Thứ ba là theo quy định khi muốn được bảo lãnh thì khách hàng phải có

một khoản ký quỹ tại ngân hàng (Thường là bằng 100% giá trị hợp đồng bảo

lãnh) trong suốt thời gian bảo lãnh. Khoản tiền này ngân hàng có thể sử dụng để

cho vay mà không phải trả lãi hoặc trả lãi không thời hạn cho người được bảo

lãnh. Đây là một nguồn vốn rẻ, ổn định và an toàn của ngân hàng.

- Thứ tư, bảo lãnh góp phần làm tăng vị thế của ngân hàng, mở rộng quan

hệ đại lý, nhất là trên trường quốc tế. Việc chấp nhận bảo lãnh của một ngân

hàng cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận mức độ uy tín và khả năng thanh toán

của ngân hàng đó.

4.2. Đối với doanh nghiệp

* Đối với bên thụ hưởng

Nhờ có bảo lãnh họ có thể yên tâm ký kết và thực hiện hợp đồng. Trong

trường hợp có rủi ro xảy ra, hợp đồng không được thực hiện thì họ sẽ được ngân

hàng bồi hoàn ngay lập tức khi họ xuất trình đầy đủ chứng từ chứng minh vi

phạm của bên được bảo lãnh mà ngân hàng không được viện dẫn bất cứ lý do

nào. Hơn nữa, nhờ có bảo lãnh mà họ tiết kiệm được thời gian và chi phí tìm

hiểu bạn hàng mà không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.

* Đối với bên được bảo lãnh

- Trước tiên họ được cấp một khoản vay với chi phí nhỏ hơn nhiều so với

việc đi vay ngân hàng thương mại, thậm chí họ còn tiết kiệm được một khoản

10

Page 11: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

vốn đáng kể. Hơn nữa họ còn được các chuyên gia của ngân hàng giúp phân tích

đánh giá việc sử dụng vốn sao cho việc làm ăn có hiệu quả.

- Mặt khác, bảo lãnh ngân hàng còn tạo cơ hội kinh doanh cho các doanh

nghiệp. Đối với doanh nghiệp có đủ khả năng thực hiện hợp đồng nhưng lại

chưa có đủ uy tín, nhất là với các đối tác nước ngoài bảo lãnh ngân hàng sẽ giúp

họ có thể tham gia ký kết các hợp đồng thương mại nhất là các giao dịch thương

mại quốc tế. Đồng thời bảo lãnh cũng kích thích và thúc đẩy các doanh nghiệp

sử dụng vốn kinh doanh hiệu quả để tăng thêm uy tín trên thị trường.

4.3. Đối với nền kinh tế

- Bảo lãnh ngân hàng mang lại lợi ích cho nền kinh tế thông qua các hợp

đồng thương mại được ký kết và được thực hiện có hiệu quả. Từ đó các doanh

nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh doanh và có những đóng góp cho nền kinh

tế. Bảo lãnh ngân hàng giúp đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế để phát triển

và mở rộng. Các hoạt động bảo lãnh vay vốn nước ngoài, mua máy móc vật tư,

thiết bị sản xuất theo phương thức trả chậm tạo điều kiện mạnh mẽ để thu hút

vốn, đặc biệt là những nước phát triển như Việt Nam, tạo điều kiện ứng dụng

công nghệ tiên tiến, tăng năng suất lao động.

- Bảo lãnh cũng thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển. Thông qua các

chương trình Quốc gia phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, bằng việc quyết

định có bảo lãnh hay không bảo lãnh, bảo lãnh với mức phí cao hay thấp, bảo

lãnh thúc đẩy một số ngành phát triển, hạn chế một số lĩnh vực kinh tế hoạt động

kém hiệu quả.

- Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nguồn vốn

đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng có thể

giúp các doanh nghiệp thu hút được nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là những nguồn

vốn rẻ với thời hạn dài từ trong nước và nước ngoài.

5. QUY CHẾ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG

Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số

26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

11

Page 12: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

Việc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) ký được hợp đồng

bảo lãnh trọn gói cung ứng tín dụng và các dịch vụ ngân hàng cho hai tổng công

ty lớn là Vinashin với hạn mức tín dụng lên đến 1.200 tỷ đồng và làm đầu mối

cho các dự án đồng tài trợ là 2.000 tỷ đồng; và Vinamotor: hạn mức tín dụng

700 tỷ đồng và hạn mức bảo lãnh 200 tỷ đồng, đã khiến không ít đối thủ cạnh

tranh mất ăn, mất ngủ. Dịch vụ bảo lãnh đang dần trở thành nguồn thu đáng kể

trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Quy chế bảo lãnh mới đã tạo thêm

nhiều cơ hội phát triển dịch vụ của NHTM.

Trước hết, về các loại hình bảo lãnh. Quy chế mới chính thức công nhận

thêm hai loại hình bảo lãnh: "Bảo lãnh đối ứng" và "Xác nhận bảo lãnh". Thực

tế tuỳ theo nhu cầu của khách hàng, các NHTM rất linh hoạt trong việc phát

hành các loại hình bảo lãnh. Ví dụ, Ngân hàng Á châu (ACB) ngoài các loại

hình bảo lãnh truyền thống, họ còn phát hành cả bảo lãnh thanh toán thuế.

Vấn đề được quan tâm nhất trong Quy chế bảo lãnh là giới hạn bảo lãnh.

Không như sự mong đợi của các NHTM, giới hạn bảo lãnh của tổ chức tín dụng

đối với một khách hàng vẫn được quy định ở mức 15 % vốn tự có của tổ chức

tín dụng. Trong đó, bao gồm cả các cam kết phát hành theo hình thức tín dụng

chứng từ; trừ hình thức mở thư tín dụng trả ngay được khách hàng ký quỹ đủ

hoặc được cho vay 100% giá trị thanh toán. Quy định này chắc chắn sẽ chấm

dứt sự "băn khoăn" có phải là lách luật hay không của NHTM trước mỗi quyết

định phát hành thư tín dụng L/C. Vì thực tế L/C cũng là một loại hình bảo lãnh

nhưng lại không được nhắc đến trong Quy chế bảo lãnh cũ.

Về điều kiện bảo lãnh. Không bó hẹp trong các điều kiện cụ thể như quy

định 283 (Quy chế Bảo lãnh ban hành năm 2000) mà các tổ chức tín dụng chỉ

cần đáp ứng những yêu cầu về pháp lý và đủ năng lực tài chính cho hoạt động

bảo lãnh là được phép phát hành bảo lãnh. Tuy nhiên, quy chế mới cũng yêu

cầu: trong trường hợp khoản bảo lãnh liên quan đến các tổ chức, cá nhân nước

ngoài thì phải tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam. Đại

diện Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB) cho rằng, quy định này sẽ làm

hạn chế hoạt động bảo lãnh của họ, nhất là khi phải cạnh tranh với các chi

12

Page 13: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

nhánh ngân hàng nước ngoài đang có mặt ngày càng nhiều ở Việt Nam. Song

đứng trên góc độ nhà quản lý, NHNN cho rằng quy định như vậy nhằm thống

nhất quản lý. Và không có cớ gì để Quy chế bảo lãnh có những quy định trái với

Pháp lệnh Ngoại hối vừa ban hành.

Một trong những điểm nổi bật của Quy chế mới là quy định về phí bảo

lãnh. Nếu trước đây phí bảo lãnh được quy định trong một khung bất di bất dịch;

thậm chí trường hợp khách hàng chậm thanh toán phí bảo lãnh sẽ bị phạt lãi

suất. Nay quy chế mới cho phép các bên tham gia tự thoả thuận về mức phí đối

với mỗi khoản bảo lãnh. Quy định này rất phù hợp với điều kiện kinh doanh

hiện nay và làm tăng tính cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, một

chuyên gia của Ngân hàng Nhà nước cũng cảnh báo: Nếu các NHTM chạy đua

trong việc giảm phí dịch vụ mà không xem xét kỹ khả năng thực hiện hợp đồng

của khách hàng thì có nghĩa họ đang chấp nhận rủi ro lớn hơn.

II. THỰC TRẠNG BẢO LÃNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, môi

trường cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt hơn, đòi hỏi các ngân hàng phải

không ngừng phát triển và đổi mới theo hướng hoàn thiện các nghiệp vụ sẵn có,

tiếp cận và ứng dụng các dịch vụ mới. Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ

được các ngân hàng thương mại Việt Nam quan tâm phát triển trong những năm

đổi mới. Phát triển nghiệp vụ này không những góp phần đa dạng hoá các sản

phẩm, dịch vụ của ngân hàng, mà còn thoả mãn nhu cầu đa dạng về bảo lãnh của

doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh tế -

thương mại.

Kết quả hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng thương mại Nhà nước ở Việt

Nam cho thấy, nghiệp vụ này đã có sự phát triển nhanh trong thời gian qua.

Doanh số và dư Nợ bảo lãnh của các ngân hàng thương mại Nhà nước liên

tục tăng trưởng qua các năm. Đặc biệt, dư Nợ bảo lãnh tăng mạnh trong vài năm

gần đây: Năm 2000 so với năm 1999 tăng 72% , tương đương 797,3 tỷ đồng;

năm 2001 so với năm 2000 tăng 69%, tương đương 13131,8 tỷ đồng và năm

13

Page 14: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

2002 tăng 29% so với năm 2001, tương ứng 9310,9 tỷ đồng. Với mức tăng

trưỏng trung bình 20%/ năm, tổng dư Nợ nghiệp vụ bảo lãnh của 10 ngân hàng

thương mại lớn vào khoảng 43 ngàn tỷ đồng.

1. THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC

Thứ nhất, nghiệp vụ bảo lãnh tại các ngân hàng thương mại (NHTM) đã

được quan tâm, phát triển.

Đến nay, nghiệp vụ bảo lãnh tại các NHTM đã phát triển hơn nhiều so với

những năm trước và đã được các ngân hàng chú trọng phát triển thành nghiệp vụ

kinh doanh chính. Doanh số bảo lãnh ngày càng tăng với chất lượng bảo lãnh

được nâng cao. Phí bảo lãnh đã trở thành nguồn thu nhập không nhỏ của các

ngân hàng.

Thứ hai, các NHTM đã bước đầu chú ý tới việc đa dạng hoá các loại

hình bảo lãnh.

Từ năm 1997 trở về trước, nghiệp vụ bảo lãnh chủ yếu tại các NHTM là

bảo lãnh mở L/C trả chậm và phát hành thư bảo lãnh vay vốn nước ngoài. Từ

đầu năm 1998, các NHTM đã quan tâm đến việc nâng cao chất lượng bảo lãnh

và cùng với nghiệp vụ bảo lãnh mở L/C trả chậm, bảo lãnh vay vốn nước ngoài,

nghiệp vụ bảo lãnh trong nước cũng phát triển mạnh mẽ. Tỷ trọng bảo lãnh

trong nước trong các năm gần đây chiếm khoảng 70% đến 80% trong tổng

doanh số bảo lãnh; đặc biệt là bảo lãnh ngân hàng phục vụ lĩnh vực xây dựng cơ

bản.

Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, một số loại hình bảo lãnh của các ngân

hàng thương mại như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh hợp đồng, bảo lãnh bảo hành,

… thường xuyên xảy ra đã góp phần cho việc thực hiện thành công trong quan

hệ hợp đồng. Ngân hàng với tư cách là người bảo lãnh cho nhà thầu một khoản

tiền theo qui định, cam kết với chủ đầu tư về việc thực hiện hợp đồng của nhà

thầu. Nếu nhà thầu vi phạm hợp đồng, gây thiệt hại trong quá trình xây dựng thì

ngân hàng sẽ đứng ra trả tiền cho chủ đầu tư với số tiền đã bảo lãnh. 

Đánh giá thực trạng bảo lãnh ngân hàng hiện nay trong lĩnh vực xây

dựng cơ bản: 

14

Page 15: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

Đối với bảo lãnh dự thầu: Sau khi công trình được cấp có thẩm quyền

phê duyệt hồ sơ mời thầu đối với công trình đấu thầu, chủ đầu tư lập thư mời

thầu gửi các nhà thầu liên quan. Đến thời gian quy định, nhà thầu phải gửi hồ sơ

dự thầu để tham gia đấu thầu cho chủ đầu tư kèm theo thư bảo lãnh dự thầu của

ngân hàng. Trong thư bảo lãnh, ngân hàng phải ghi rõ tên nhà thầu, tên công

trình, số tiền bảo lãnh, thời gian hiệu lực, nội dung bảo lãnh và lãnh đạo ngân

hàng ký tên đóng dấu vào thư bảo lãnh, với số tiền bảo lãnh thường là 1%. Mục

đích bảo lãnh là cam kết của ngân hàng về các sai phạm của nhà thầu như phá

thầu trong quá trình đấu thầu, không thực hiện hợp đồng khi trúng thầu gây thiệt

hại cho chủ đầu tư, không nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng theo quy định…

Nếu những vi phạm trên xảy ra, ngân hàng sẽ chịu trách nhiệm trả cho chủ đầu

tư tối đa là số tiền bảo lãnh để đền bù thiệt hại do nhà thầu gây ra, khi có văn

bản yêu cầu của chủ đầu tư. 

Việc ngân hàng lập thư bảo lãnh dự thầu để nhà thầu được tham gia đấu thầu

xây dựng công trình là rất cần thiết, nhằm ràng buộc nhà thầu về mặt kinh tế,

phải tham gia đấu thầu thực sự. Nếu nhà thầu không tuân thủ theo quy chế đấu

thầu, sẽ phải mất khoản tiền mà ngân hàng đã đứng ra bảo lãnh. Khi trúng thầu

(được cấp thẩm quyền phê duyệt trúng thầu) thì ngân hàng lại tiếp tục lập thư

bảo lãnh hợp đồng. Lúc đó, thư bảo lãnh dự thầu sẽ hết hiệu lực. 

 Do việc quy định mức bảo lãnh dự thầu và việc thực hiện mức bảo lãnh dự thầu

hiện nay thường là 1% (tương đối thấp) nên một số nhà thầu chấp nhận ứng ra

số tiền trên để thực hiện tham gia đấu thầu không lành mạnh. Cụ thể là: 

 - Tham gia đấu thầu để tạo ra sự cạnh tranh giả tạo, nhằm kiếm lợi nhuận thông

qua thỏa thuận với nhà thầu thực sự tham gia đấu thầu. 

 - Sẵn sàng đứng tên đấu thầu giúp nhà thầu nào đó thắng thầu với giá thầu

thấp. 

Đối với bảo lãnh hợp đồng: Khi công trình được phê duyệt kết quả trúng

thầu cho nhà thầu nào đó đạt điểm kỹ thuật cao nhất và giá bỏ thầu thấp nhất thì

ngân hàng sẽ làm thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng gửi chủ đầu tư, để làm thủ

tục ký hợp đồng thi công. 

15

Page 16: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

Thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng phải ghi rõ quyết định phê duyệt tên đơn vị

trúng thầu, công trình trúng thầu, số tiền bảo lãnh, thời gian bảo lãnh. Số tiền

bảo lãnh thường là 5% giá trị trúng thầu. Mục đích bảo lãnh là cam kết của ngân

hàng về các sai phạm của nhà thầu, nếu nhà thầu vi phạm, ngân hàng sẽ trả cho

chủ đầu tư tối đa là số tiền bảo lãnh để đền bù thiệt hại do nhà thầu gây ra trong

quá trình thực hiện hợp đồng, khi có văn bản yêu cầu của chủ đầu tư. 

Việc ngân hàng lập thư bảo lãnh hợp đồng để ràng buộc trách nhiệm của nhà

thầu về mặt kinh tế, phải thực hiện theo đúng hợp đồngthi công xây dựng đã ký

với chủ đầu tư. Nếu không thực hiện đúng hợp đồng, ngoại trừ những lý do

khách quan, thì nhà thầu sẽ mất số tiền ngân hàng bảo lãnh. Tuy nhiên, theo quy

chế đấu thầu, khi hợp đồng thi công được ký kết, chủ đầu tư sẽ chuyển cho nhà

thầu ứng trước một số tiền thưởng thường là 20% giá trị trúng thầu. 

Vấn đề phát sinh từ chỗ này: Xét về mặt tài chính, khi trúng thầu, nhà thầu chỉ

cần ngân hàng bảo lãnh 5% nhưng được ứng 20% giá trị trúng thầu. Nếu nhà

thầu không quyết tâm thực hiện công trình, sau khi được ứng 20% rồi không

thực hiện hợp đồng, thì chủ đầu tư sẽ bị thiệt hại 15%. Nếu giải quyết được số

tiền này thì cũng mất nhiều thời gian, có khi bị thiệt hại mà công trình buộc phải

dừng lại chờ xử lý. 

Đối với bảo lãnh chất lượng công trình: Khi công trình thi công hoàn

thành, phải qua giai đoạn bảo hành, nghĩa là trong thời gian nhất định, nếu công

trình xảy ra sự cố, hư hỏng, xuống cấp thì nhà thầu phải bỏ ra chi phí để sửa

chữa, hoàn thiện. 

Thời gian bảo hành, tùy theo qui mô công trình mà dài ngắn khác nhau, nhưng

thường là 1 năm. 

Như vậy, để đảm bảo cho nhà thầu bỏ chi phí ra sủa chũa trong thời gian bảo

hành, chủ đầu tư phải ràng buộc nhà thầu bằng 1 trong 2 cách: 

- Thanh toán cho nhà thầu 90-95% giá trị công trình. 

- Thanh toán cho nhà thầu 100% giá trị công trình nhưng với điều kiện phải có

bảo lãnh của ngân hàng về chất lượng công trình khoảng 5-10% giá trị công

trình. Trong thời gian bảo hành nếu chất lượng công trình không đảm bảo, nhà

16

Page 17: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

thầu không sửa chữa thì chủ đầu tư sẽ dùng số tiền 5-10% đó để bù đắp chi phí

sửa chữa. 

Như vậy, việc bảo lãnh bảo hành là nhằm buộc nhà thầu phải thi công đảm bảo

chất lượng công trình. Mặc dù quá trình thi công có đơn vị giám sát nhưng nếu

nhà thầu không tự giác, không vì uy tín cá nhân mà chạy theo lợi nhuận, sẽ

không tránh khỏi ăn bớt vật tư, làm dối, làm không đúng qui trình kết cấu, sử

dụng vật tư không đồng bộ… dẫn tới chất lượng công trình giảm, dễ bị hư

hỏng… 

Tuy nhiên, thời gian bảo hành một năm là chưa phù hợp, vì tuổi thọ một số công

trình rất lớn, nên trong vòng một năm chưa thể phát hiện , đánh giá được chất

lượng công trình. Ngoài ra, với mức bảo lãnh từ 5 _ 10% thì chỉ đủ để sửa chữa

những hư hỏng nhỏ. Nếu hư hỏng lớn, chi phí vượt quá tỷ lệ nói trên, thì chủ

đầu tư cũng rất khó buộc nhà thầu bỏ ra thêm chi phí để sửa chữa như đã cam

kết. 

Số dư bảo lãnh ngân hàng trong đấu thầu thi công, xây lắp như bảo lãnh dự

thầu, bảo lãnh tiền ứng trước, bảo lãnh thực hiện hợp đồng... liên tục tăng. Bảo

lãnh của ngân hàng đã giúp doanh nghiệp tháo gỡ những vướng mắc trong quá

trình triển khai thi công dự án như vốn ứng trước triển khai công trình, vốn

thanh toán, thực hiện hợp đồng xây lắp...

Thứ ba, với sự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh, trình độ nghiệp vụ của

các cán bộ ngân hàng tại các NHTM đã dần được nâng lên, từ đó, nâng uy tín

của các NHTM Việt Nam trong khu vực cũng như trên thế giới.

Với kinh nghiệm ngày càng cao trong thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, các

NHTM đã lựa chọn được những dự án khả thi của cac doanh nghiệp đầu tư đúng

hướng, biết giữ chữ tín trên thị trường để bảo lãnh, từ đó, giữ uy tín cho chính

ngân hàng. Trong nhiều năm qua, các NHTM đã thực hiện đúng các cam kết

trong bảo lãnh, đã thanh toán kịp thời cho người thụ hưởng bảo lãnh trong

những trường hợp người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng, đặc biệt là trong

quan hệ với các đối tác nước ngoài. Hiện nay, các NHTM có thể phát hành các

17

Page 18: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

thư bảo lãnh với trị giá lớn mà các doanh nghiệp ngân hàng nước ngoài không

đòi hỏi bất kỳ sự xác nhận nào khác.

2. TỒN TẠI, HẠN CHẾ

Thứ nhất, nghiệp vụ bảo lãnh của các NHTM chưa đáp ứng được nhu

cầu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp có nhu cầu bảo lãnh, nhưng khi xin bảo

lãnh ở các NHTM thì lại gặp những vướng mắc không nhỏ về thủ tục bảo lãnh

khiến cho không ít các doanh nghiệp mất đi cơ hội kinh doanh.

Thứ hai, hình thức bảo lãnh của các NHTM Việt Nam còn đơn điệu.

Các hình thức bảo lãnh như bảo lãnh các khoản thuế (VAT, thuế môn bài,

thuế thu nhập, thuế xuất nhập khẩu, các loại tiền ký quỹ cho toà án...); bảo lãnh

đối ứng trong phương thức bảo lãnh gián tiếp... vẫn chưa được thực hiện ở các

NHTM Việt Nam.

Thứ ba, cơ cấu bảo lãnh chưa hợp lý.

Các NHTM chủ yếu tập trung bảo lãnh cho khu vực kinh tế Nhà nước. Bảo

lãnh của một số NHTM chỉ mới tập trung vào ngành thương mại và các mặt

hàng xuất nhập khẩu chủ lực. Vốn bảo lãnh của các NHTM bị ứ đọng ở các dự

án kéo dài nên giá thành sản phẩm của dự án cao, sức cạnh tranh thấp, gây rủi ro

cho hoạt động bảo lãnh của NHTM.

Thứ tư, nghiệp vụ bảo lãnh chưa thực sự phát triển.

Quy mô và phạm vi bảo lãnh của các NHTM còn hẹp, chưa đáp ứng được

nhu cầu vốn cho các dự án lớn của các doanh nghiệp và của nền kinh tế. Nghiệp

vụ bảo lãnh tại các NHTM cổ phần và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng chưa

được triển khai nhiều.

Thứ năm, tổn thất trong nghiệp vụ bảo lãnh còn lớn, chất lượng bảo

lãnh ở nhiều NHTM chưa cao, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của

ngân hàng.

Nhiều khoản bảo lãnh đã đến hạn thanh toán, nhưng doanh nghiệp không

có khả năng thanh toán đúng hạn, ngân hàng buộc phải trả nợ thay cho đối tác

18

Page 19: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

và chuyển sang cho vay bắt buộc đối với doanh nghiệp được bảo lãnh ở mức độ

lớn.

Thứ sáu, bảo lãnh dự án vẫn chủ yếu là các dự án lớn trọng điểm của

Nhà nước.

Đây là các dự án đòi hỏi số vốn lớn, thời hạn dài và chủ yếu bằng ngoại tệ.

Nhiều dự án là dự án đầu tư theo chủ trương, chính sách của Đảng và Chính

phủ, với các mục tiêu xã hội chứ chưa hoàn toàn theo mục tiêu hiệu quả kinh tế.

Vì vậy rủi ro bảo lãnh cho các dự án này là rất lớn, đặc biệt là rủi ro thanh khoản

và rủi ro tỷ giá.

3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ

Nguyên nhân khách quan

- Môi trường kinh tế và pháp lý chưa thuận lợi

Công tác quy hoạch và dự báo các lĩnh vực lớn của nền kinh tế còn thiếu

khoa học, mang tính chủ quan, làm theo kiểu phong trào, nên các dự án được

hình thành, phê duyệt và triển khai một cách ào ạt, kém hiệu quả, trong khi các

NHTM phải bảo lãnh cho các dự án này, gây rủi ro bảo lãnh cho các NHTM.

Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp chưa

chặt chẽ, đặc biệt là tình trạng thành lập doanh nghiệp tràn lan, hoạt động trái

pháp luật, tình trạng doanh nghiệp ma, doanh nghiệp bị mất tích, doanh nghiệp

không có địa chỉ,... gây rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh đối với các NHTM.

- Môi trường pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng còn thiếu,

không ổn định và đồng bộ, chưa bảo vệ được quyền lợi chính đáng của ngân

hàng bảo lãnh.

Ngoài ra, tốc độ cấp giấy phép sở hữu đối với đất đai và nhà cửa được triển

khai chậm, thủ tục công chứng không rõ rang, đồng nhất,... cũng gây cản trở tới

hoạt động bảo lãnh của các NHTM.

- Vốn chủ sở hữu của các NHTM còn thấp.

Ở Việt Nam, vốn chủ sở hữu của các NHTM quá nhỏ, kể cả đối với các

NHTM Nhà nước. Nếu thực hiện đúng theo quy định của pháp luật hiện hành là

NHTM chỉ được cho vay, bảo lãnh đối với một khách hàng không vượt quá 15%

19

Page 20: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

vốn tự có thì Ngân hàng NNo và PTNT Việt Nam chỉ có thể bảo lãnh cho một

dự án hay một khách hàng tối đa 560 tỷ VND. Do đó, khi các tổng công ty lớn

của Nhà nước có nhu cầu đẩu tư cho những công trình trọng điểm thì NHTM

không thể đáp ứng nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp này.

Nguyên nhân về phía các NHTM

- Trình độ thẩm định dự án tại nhiều NHTM và chi nhánh NHTM chưa cao,

chưa đáp ứng nhu cầu thị trường.

Tốc độ tăng trưởng dư nợ bảo lãnh có xu hướng tăng cao tại tất cả các

NHTM trong các năm qua. Trong khi đó, cán bộ thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh

còn chưa có nhiều kinh nghiệm, năng lực yếu kém trong thẩm định dự án, đặc

biệt đối với các dự án có qui mô lớn, tính chất kỹ thuật phức tạp, ngành nghề

chuyên môn hẹp.

Quy mô hoạt động bảo lãnh của các NHTM Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng

trong các năm tới, với nhiều ngành nghề kinh tế kỹ thuật đa dạng và phức tạp

hơn nên trình độ thẩm định dự án của các cán bộ nghiệp vụ là một thách thức

lớn đối với các NHTM Việt Nam.

- Thông tin hạn chế cả về lượng lẫn về chất.

Các thông tin bên ngoài phục vụ cho công tác thẩm định, quyết định bảo

lãnh hầu hết đều do chính khách hàng cung cấp hoặc từ một số nguồn khác trên

các phương tiện thông tin đại chúng...Vì vậy việc thẩm định các dự án để đưa ra

quyết định bảo lãnh của ngân hàng gặp khó khăn, chất lượng thẩm định phần

nào bị hạn chế.

- Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh còn nhiều bất cập.

Việc quản lý rủi ro tín dụng hiện nay còn thiếu quy trình, quy chế cụ thể. Ví

dụ, việc phân loại khách hàng, phân loại các khoản bảo lãnh theo mức độ rủi ro,

việc quản lý thông tin về khách hàng một cách thống nhất vẫn chưa được thực

hiện. Các rủi ro khác liên quan đến hoạt động bảo lãnh, như rủi ro lãi suất, rủi ro

ngoại hối và rủi ro thanh khoản cũng chưa được đo lường kịp thời, chính xác.

- Thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các NHTM khi thực hiện đồng bảo lãnh

đối với các dự án lớn.

20

Page 21: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

Khi tiến hành bảo lãnh, các chi nhánh NHTM thường gặp một số vướng

mắc như : Phí bảo lãnh hay lãi suất sau khi phải cho vay bắt buộc để trả nợ thay

cho khách hàng được vận dụng và thực thi ở mức thế nào cho phù hợp; vấn đề

thế chấp tài sản đối với các dự án đồng bảo lãnh có các ngân hàng nước ngoài

tham gia, với tỷ lệ bao nhiêu, việc nắm giữ các giấy tờ pháp lý ra sao; các chi

nhánh NHTM cũng còn những lúng túng nhất định về hạch toán cho vay bắt

buộc trong đồng tài trợ, đồng bảo lãnh.

- Vấn đề quản lý khách hàng còn thiếu chặt chẽ.

Các NHTM có chủ trương mở rộng nghiệp vụ bảo lãnh, kể cả đối với các

doanh nghiệp ở các địa phương không có chi nhánh ngân hàng đó. Vì vậy, việc

theo dõi thu nợ của NHTM thực hiện bảo lãnh gặp không ít những khó khăn nếu

bên được bảo lãnh không chủ động trả nợ bảo lãnh hoặc gặp phải khó khăn

trong sản xuất kinh doanh.

- Tổ chức thực hiện quy trình bảo lãnh còn nhiều sơ hở.

Quy trình thẩm định dự án đầu tư xin bảo lãnh, quy trình nghiệp vụ bảo

lãnh tuy đã được các NHTM xây dựng, nhưng khả năng áp dụng vào thực tế

không khả thi và hầu như chưa thực hiện được.

Thông tin, số liệu làm căn cứ tính toán, thẩm định chưa đầy đủ, thiếu chính

xác dẫn đến khó đánh giá hoặc đánh giá sai về khách hàng, về hiệu quả kinh tế -

xã hội và tính khả thi của dự án.

Việc tính toán, xác định “đời dự án” chưa chính xác dẫn đến khó khăn cho

chủ dự án trong việc thực hiện đúng cam kết trả nợ.

Đa số các doanh nghiệp chưa có đủ điều kiện vay vốn, xin bảo lãnh, dự án

chưa đủ tiêu chuẩn để được đầu tư vốn nên việc thẩm định và đưa ra quyết định

cho vay hay không rất khó khăn.

Nguyên nhân về phía khách hàng

- Nhiều doanh nghiệp chưa chứng minh được năng lực sản xuất, tài chính

đủ điều kiện vay vốn hay không, nhất là điều kiện vốn tự có tham gia dự án,

nhiều dự án thiếu tính khả thi hoặc không chứng minh được điều kiện đủ để thực

hiện dự án, nhất là ở phương diện thị trường và tài chính.

21

Page 22: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

- Không ít các doanh nghiệp có những thủ thuật lập dự án, phương án vay

vốn không lành mạnh, không trung thực.

- Các doanh nghiệp thường không đủ điều kiện để được bảo lãnh, chưa có

kinh nghiệm lập dự án cũng như thẩm định dự án nên các dự án đó thường có

hiệu quả không cao, gây rủi ro cho ngân hàng bảo lãnh.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO

LÃNH NGÂN HÀNG

Tiếp tục hoàn thiện quy chế bảo lãnh ngân hàng.

Quy chế bảo lãnh hiện hành cần từng bước bổ sung đối tượng khách hàng

được tổ chức tín dụng bảo lãnh, đảm bảo nhu cầu phát triền ngày càng đa dạng

của nghiệp vụ này. Tuy nhiên, việc mở rộng đối tượng phải đáp ứng được yêu

cầu quản lý, đảm bảo an toàn.

Các NHTM phải xây dựng kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh

thích hợp trong từng thời kỳ.

Để tránh tình trạng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh một cách tràn lan, dẫn đến

rủi ro như một số NHTM đã gặp phải trong thời gian qua, mỗi ngân hàng phải

dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn để xây dựng cho mình một kế

hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh mang tính khả thi.

Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng trước khi bảo lãnh.

Trong nghiệp vụ bảo lãnh, mặc dù ngân hàng không phải trực tiếp bỏ vốn

của mình ra để giải ngân, nhưng thực chất thì mức độ rủi ro trong nghiệp vụ bảo

lãnh của ngân hàng cũng tương ứng với mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay.

Để đảm bảo đưa ra được một quyết định bảo lãnh đúng đắn, các cán bộ thực

hiện bảo lãnh phải tuân thủ quy trình và nội dung thẩm định phương án sử dụng

vốn của bên yêu cầu bảo lãnh theo đúng quy trình thẩm định một món vay theo

cơ chế tín dụng hiện hành; phải có được thông tin đa chiều để so sánh, đối chiếu

và phân tích, trên cơ sở đó mới ra quyết định bảo lãnh.

Tăng cường quỹ ngoại tệ của các NHTM để sẵn sàng thanh toán với

nước ngoài

22

Page 23: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

Trong giao dịch bảo lãnh mà người thụ hưởng là cá nhân hay tổ chức kinh

tế nước ngoài thì vấn đề uy tín có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, các NHTM Việt

Nam phải đặc biệt quan tâm tới việc tạo lập nguồn ngoại tệ để sẵn sàng thực

hiện nghĩa vụ với đối tác nước ngoài.

Tăng cường quan hệ hợp tác giữa các ngân hàng (trong và ngoài

nước) để đẩy mạnh hoạt động đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh.

Việc thực hiện bảo lãnh có giá trị lớn rất khó khăn với một ngân hàng đơn

lẻ. Đồng bảo lãnh là một giải pháp vừa giúp cho ngân hàng có thể tham gia các

dự án lớn, khi mà khả năng về vốn là có hạn, vừa phân tán bớt rủi ro cho các

ngân hàng khác cùng tham gia; qua đó, sẽ có sự kết hợp kinh nghiệm, sức mạnh,

khả năng để hỗ trợ giữa các ngân hàng.

Bên cạnh việc thắt chặt mối quan hệ giữa các ngân hàng trong nước, hệ

thống NHTM Việt Nam cũng cần phải không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác

với NHTM các nước trên thế giới, mở rộng giao dịch bảo lãnh ra ngoài biên

giới, đáp ứng nhu cầu mở rộng thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam trên

thị trường quốc tế.

Tăng cường kiểm tra, giám sát quản lý các hợp đồng bảo lãnh.

Để tránh rủi ro xảy ra khi khách hàng không thực hiện hay thực hiện sai các

hợp đồng kinh tế, thì sau khi chấp nhận và phát hành thư bảo lãnh, ngân hàng

cần duy trì việc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất tình hình hoạt động và năng lực

tài chính của doanh nghiệp được bảo lãnh. Thông qua quá trình kiểm tra, giám

sát, ngân hàng cũng có thể tư vấn cho khách hàng các biện pháp thực hiện có

hiệu quả các hợp đồng kinh tế, đồng thời giải quyết kịp thời những khó khăn

phát sinh.

Giải quyết tốt các khoản nợ đã trả thay cho khách hàng tại các

NHTM.

Các ngân hàng cùng khách hàng cần phải kiểm tra, xác định lại từng khoản

nợ và đề ra biện pháp xử lý cụ thể trên nguyên tắc hai bên cùng thoả thuận về

việc xem xét thời hạn nợ, lãi suất, xử lý tài sản đảm bảo, chuyển nợ thành cổ

phần của các ngân hàng tại các doanh nghiệp, cho vay tiếp tục để phục hồi sản

23

Page 24: Doko.vn 118944 Thuc Trang Bao Lanh o Viet Nam Hien Nay

xuất tạo nguồn trả nợ. Đối với những khoản nợ vay bắt buộc còn vật tư hàng

hoá, thì phải đôn đốc doanh nghiệp tiêu thụ hàng để trả nợ ngân hàng. Đối với

những khoản nợ chỉ có tài sản thế chấp, bảo lãnh cầm cố, thì phải tiến hành phát

mại, đấu giá công khai để thu hồi nợ.

Thành lập bộ phận riêng để thực hiện và theo dõi nghiệp vụ bảo lãnh.

Hiện nay, nghiệp vụ bảo lãnh tại các NHTM thường được giao cho nhiều

phòng chức năng đảm nhận. Với mô hình tổ chức nghiệp vụ bảo lãnh như hiện

nay, việc thực hiện sẽ có những hạn chế nhất định, do không mang tính chuyên

sâu về nghiệp vụ, cũng như việc theo dõi, đôn đốc khách hàng thực hiện đúng

hợp đồng. Vì vậy, cần thành lập một bộ phận riêng để thực hiện nghiệp vụ bảo

lãnh phù hợp với quy mô của từng ngân hàng.

Đẩy mạnh hoạt động Marketing bảo lãnh ngân hàng.

Đối với chính sách sản phẩm, các hình thức bảo lãnh ở các NHTM Việt

Nam còn đơn điệu. Do vậy, các NHTM Việt Nam phải sớm đa dạng hoá các loại

hình bảo lãnh như: Đẩy mạnh bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh vay vốn nước ngoài,

bảo lãnh hoàn thanh toán... đồng thời nghiên cứu một số loại hình bảo lãnh mới

như bảo lãnh chứng khoán, bảo lãnh hoàn thuế, bảo lãnh thương phiếu...

Đối với chính sách giá cả, mỗi ngân hàng cần phải xây dựng chính sách

phân biệt giá cả với từng loại khách hàng cụ thể, nhưng vẫn nằm trong khung

giá cho phép.

Bản chất của hoạt động bảo lãnh là ngân hàng sử dụng uy tín của mình

đứng ra đảm bảo cho các giao dịch, do vậy, ngân hàng cần tạo dựng cho mình

hình ảnh nổi bật trên thương trường, tạo dựng niềm tin trong khách hàng. Đội

ngũ cán bộ là điểm mấu chốt trong giao tiếp với khách hàng, trình độ chuyên

môn nghiệp vụ, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng là phương pháp tuyên

truyền quảng cáo hiệu quả về hình ảnh của ngân hàng. Khi cung cấp một loại

hình bảo lãnh mới, các NHTM cần quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại

chúng, gửi thông báo cho khách hàng truyền thống và các khách hàng tiềm năng

về tính ưu việt của sản phẩm nhằm kích thích nhu cầu của khách hàng.

24