29
Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Quốc Sửu Khoa Lut Luận án Tiến ngành: Lịch sử và Lý luận Nhà nƣớc và Pháp luật Mã số: 62 38 01 01 Ngƣời hƣớng dẫn: GS. TS. Phạm Hồng Thái Năm bảo vệ: 2010 Abstract: Phân tích chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; mục đích, mục tiêu, chủ thể, đối tƣợng, nội dung, phƣơng pháp và hình thức giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính và những nét đặc thù. Phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật cho cán bộ công chức hành chính - một đối tƣợng đặc biệt, chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó; các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính ở nƣớc ta hiện nay. Trên cơ sở quán triệt các quan điểm có tính chất chỉ đạo, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Keywords: Pháp luật Việt Nam; Giáo dục pháp luật ; Cán bộ hành chính; Công chức Content PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, chúng ta đang nỗ lực xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Muốn xây dựng thành công nhà nƣớc pháp quyền thì bên cạnh việc ban hành một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, điều quan trọng hơn là phải làm thế nào để đƣa pháp luật vào thực tế đời sống xã hội, để mọi thành viên trong xã hội, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) hành chính , am hiểu các nguyên tắc, quy định pháp luật; từ đó, sử dụng pháp luật nhƣ một công cụ để bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, của tập thể và của mỗi công dân. Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có một đội ngũ CBCC hành chính đƣợc trang bị kiến thức mới, nhất là kiến thức pháp luật để đảm nhiệm công việc quản lý nhà nƣớc, điều hành công việc có hiệu quả. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X đã chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực tổ chức

Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công

chức hành chính trong điều kiện xây dựng nhà

nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nguyễn Quốc Sửu

Khoa Luật

Luận án Tiến sĩ ngành: Lịch sử và Lý luận Nhà nƣớc và Pháp luật

Mã số: 62 38 01 01

Ngƣời hƣớng dẫn: GS. TS. Phạm Hồng Thái

Năm bảo vệ: 2010

Abstract: Phân tích chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức hành chính trong

điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; mục đích, mục

tiêu, chủ thể, đối tƣợng, nội dung, phƣơng pháp và hình thức giáo dục pháp luật cho

đội ngũ cán bộ, công chức hành chính và những nét đặc thù. Phân tích, đánh giá thực

trạng giáo dục pháp luật cho cán bộ công chức hành chính - một đối tƣợng đặc biệt,

chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó; các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động

giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính ở nƣớc ta hiện nay. Trên cơ sở

quán triệt các quan điểm có tính chất chỉ đạo, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao

chất lƣợng giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện Nhà

nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Keywords: Pháp luật Việt Nam; Giáo dục pháp luật; Cán bộ hành chính; Công chức

Content

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay, chúng ta đang nỗ lực xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do dân và vì dân. Muốn xây dựng thành công nhà nƣớc pháp quyền thì bên cạnh việc ban

hành một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, điều quan trọng hơn là phải làm thế nào để đƣa

pháp luật vào thực tế đời sống xã hội, để mọi thành viên trong xã hội, nhất là đội ngũ cán bộ,

công chức (CBCC) hành chính , am hiểu các nguyên tắc, quy định pháp luật; từ đó, sử dụng

pháp luật nhƣ một công cụ để bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, của tập thể và của mỗi công dân.

Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có một đội ngũ CBCC hành chính đƣợc

trang bị kiến thức mới, nhất là kiến thức pháp luật để đảm nhiệm công việc quản lý nhà nƣớc,

điều hành công việc có hiệu quả. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung

ƣơng Đảng khóa X đã chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực tổ chức

Page 2: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

2

và vận động nhân dân thực hiện đƣờng lối của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, công tâm, thạo

việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa

đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dƣỡng, giải quyết đồng bộ chính sách đối với cán bộ”.

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ cấp bách hiện nay là phải đưa

pháp luật vào đời sống xã hội mà khâu trung gian vô cùng quan trọng chính là đội ngũ CBCC

hành chính; phải nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật cho đội ngũ cán bộ này. Cơ

sở khoa học của vấn đề trên thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, CBCC hành chính là khâu chủ yếu thực hiện chủ trƣơng, đƣờng lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc. Họ là những ngƣời trực tiếp chuyển “pháp luật

trên giấy tờ” thành “pháp luật trong hành động”. Vì vậy, CBCC hành chính phải đƣợc trang

bị kiến thức, hiểu biết pháp luật và có ý thức pháp luật ở trình độ cao để thực hiện tốt chức

năng, nhiệm vụ của mình.

Thứ hai, trình độ dân trí về pháp luật trong xã hội ngày càng đƣợc nâng cao, đòi hỏi

đội ngũ CBCC hành chính càng phải có kiến thức, hiểu biết pháp luật ở trình độ cao mới đáp

ứng đƣợc yêu cầu giải quyết công việc hành chính - công vụ.

Trong khi đó, đội ngũ CBCC hành chính ở nƣớc ta hiện nay còn nhiều mặt chƣa đáp

ứng đƣợc yêu cầu đổi mới và xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trình độ kiến

thức, hiểu biết pháp luật của đội ngũ này còn có những hạn chế, bất cập nhất định, chƣa theo

kịp và chƣa đƣợc nâng tầm tƣơng xứng với sự đổi mới của hệ thống pháp luật. Trong điều

kiện của nền kinh tế thị trƣờng, một số mặt trái của nó đang dần bộc lộ, nhƣ chủ nghĩa thực

dụng; các tệ nạn xã hội; một bộ phận cán bộ, công chức đã thoái hóa, biến chất trƣớc những

cám dỗ về lợi ích vật chất. Đại hội VIII của Đảng đã nhận định: “Đội ngũ CBCC nhìn chung

chƣa ngang tầm nhiệm vụ, một bộ phận không nhỏ đã bị thoái hoá, biến chất, chƣa đáp ứng

đƣợc các yêu cầu quản lý nhà nƣớc trong thời kì mới”. Nguyên nhân chính của tình trạng này

là do hạn chế về trình độ kiến thức pháp luật.

Giáo dục pháp luật (GDPL) cho CBCC hành chính là một biện pháp hữu hiệu nhằm

trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật, góp phần hình thành lối

sống và làm việc theo pháp luật cho họ; góp phần bảo đảm cho nhà nƣớc quản lý xã hội bằng

pháp luật có hiệu quả, xây dựng đội ngũ CBCC hành chính trong sạch, vững mạnh. Tuy

nhiên, thực tế cho thấy, công tác GDPL cho CBCC hành chính ở nƣớc ta trong thời gian qua

vẫn còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém trên nhiều mặt, từ nội dung, hình thức cho đến

phƣơng pháp GDPL cho họ. GDPL cho đội ngũ CBCC chƣa đƣợc đặt ngang tầm với yêu cầu

quản lý xã hội bằng pháp luật, chƣa đƣợc tiến hành thƣờng xuyên và đồng bộ; giáo dục chƣa

có trọng tâm, trọng điểm, chƣa có sự phối kết hợp giữa các cơ quan, tổ chức. Tình hình trên

Page 3: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

3

đòi hỏi nhà nƣớc phải tăng cƣờng công tác GDPL cho CBCC hành chính, trang bị kiến thức,

hiểu biết pháp luật cho họ; giúp họ giải quyết công việc phù hợp với yêu cầu của pháp luật

trong khi thực thi công vụ.

Xuất phát từ tình hình trên, tôi nhận thấy, công tác GDPL cho CBCC hành chính là

một yêu cầu khách quan, nhiệm vụ cấp thiết trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền

xã hội chủ nghĩa hiện nay. Vì vậy, tôi chọn vấn đề “Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ,

công chức hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam” làm đề tài luận án Tiến sĩ Luật học, nhằm góp phần vào việc hoạch định chính sách bồi

dƣỡng, giáo dục và nâng cao chất lƣợng GDPL cho CBCC hành chính.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

Mục đích của luận án là phân tích, làm rõ cả về phƣơng diện lý luận và thực tiễn vấn

đề GDPL cho đội ngũ CBCC hành chính, chỉ ra thực trạng hoạt động GDPL cho CBCC từ khi

triển khai xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền đến nay cũng nhƣ các nguyên nhân dẫn đến thực

trạng này để trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lƣợng GDPL

cho đội ngũ CBCC hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam.

Để hoàn thành mục đích đặt ra, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ:

Một là, phân tích chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức hành chính trong điều

kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nội dung, phƣơng pháp và

hình thức GDPL cũng nhƣ những nét đặc thù trong giáo dục pháp luật cho đội ngũ CBCC

hành chính.

Hai là, khảo sát xã hội học nhằm luận chứng, phân tích, đánh giá thực trạng GDPL

cho đội ngũ CBCC hành chính - một đối tƣợng đặc biệt, chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến thực

trạng đó cũng nhƣ các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động GDPL cho đội ngũ CBCC hành chính

ở nƣớc ta hiện nay.

Ba là, trên cơ sở quán triệt các quan điểm có chất chỉ đạo, đề xuất và luận giải tính khả

thi, hiệu quả của các giải pháp cơ bản nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác GDPL cho đội

ngũ CBCC hành chính trong điều kiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của luận án

Phạm vi nghiên cứu của luận án chỉ giới hạn trong việc phân tích lý luận và thực tiễn

vấn đề GDPL cho CBCC hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam; luận chứng thực trạng GDPL cho CBCC hành chính ở nƣớc ta hiện nay

và đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lƣợng GDPL cho CBCC hành chính trong

điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Page 4: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

4

Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là GDPL cho CBCC hành chính trong điều kiện xây

dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. CBCC hành chính mà luận án khảo

sát, đánh giá chỉ tập trung vào CBCC hành chính đang làm việc trong bộ máy quản lý hành

chính nhà nước thuộc 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện và xã.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử

về lý luận nhận thức; tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam

về Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về xây dựng đội ngũ CBCC, về vai trò của GDPL.

Bên cạnh đó, các quan điểm, kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn về GDPL nói chung,

GDPL cho CBCC nói riêng của các tác giả trong và ngoài nƣớc cũng là cơ sở lý luận quan

trọng của luận án.

Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án sử dụng các phƣơng pháp

phân tích và tổng hợp, phƣơng pháp so sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa... để nghiên cứu các

vấn đề lý luận; sử dụng phƣơng pháp điều tra xã hội học (phƣơng pháp ankét và phƣơng pháp

phỏng vấn) để thu thập các thông tin, số liệu thực tế phục vụ cho việc phân tích, đánh giá thực

trạng, nguyên nhân của vấn đề nghiên cứu và luận chứng tính khả thi của các giải pháp mà

luận án đề xuất.

5. Đóng góp mới của luận án

- Đây là luận án đầu tiên nghiên cứu tƣơng đối toàn diện và có hệ thống về GDPL cho

CBCC hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

cả về phƣơng diện lý luận và thực tiễn.

- Luận án làm rõ khái niệm mục tiêu GDPL, phân biệt rõ phƣơng pháp GDPL với hình

thức GDPL; đƣa ra các căn cứ để xác định, phân loại chủ thể, đối tƣợng, phƣơng pháp, hình

thức, nội dung của GDPL cho CBCC hành chính.

- Luận án phân tích các đặc trƣng của công tác GDPL cho CBCC hành chính, làm

sáng tỏ những yêu cầu, đòi hỏi tất yếu, khách quan của việc nâng cao chất lƣợng, hiệu quả

công tác GDPL cho đội ngũ CBCC hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Tác giả luận án đã tiến hành khảo sát, điều tra xã hội học với đối tƣợng là CBCC

hành chính đang công tác tại các cơ quan quản lý hành chính nhà nƣớc thuộc 30 tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ƣơng để thu thập các thông tin, số liệu thực tế phục vụ cho việc đánh giá

thực trạng, chỉ ra những hạn chế, bất cập và các nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong

hoạt động GDPL cho CBCC hành chính - điều mà các luận án trƣớc đây chƣa làm đƣợc.

Page 5: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

5

- Luận án đề xuất và luận giải tính khả thi và hiệu quả của những giải pháp khoa học

nhằm nâng cao chất lƣợng hoạt động GDPL cho CBCC hành chính trong điều kiện xây dựng

Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Luận án đề cập và phân tích một trong những vấn đề có tầm quan trọng và có tính cấp

thiết nhƣng chƣa đƣợc nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống - vấn đề GDPL cho

CBCC hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận, nâng cao nhận thức về trách nhiệm chỉ đạo tổ chức

công tác GDPL cho CBCC hành chính - một công việc rất quan trọng trong quá trình xây

dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta hiện nay; làm rõ nội dung, hình thức

và phƣơng pháp đặc thù của GDPL cho CBCC hành chính.

Với những kết quả đạt đƣợc, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho

việc nghiên cứu, giảng dạy Lý luận nhà nƣớc và pháp luật; dùng làm tài liệu nghiên cứu trong

các trƣờng đào tạo CBCC, nhƣ Học viện Hành chính, các Trƣờng Chính trị tỉnh... Luận án

còn có ý nghĩa thực tiễn trong việc xây dựng các tiêu chí cụ thể để khảo sát, đánh giá về mục

đích, mục tiêu, chủ thể, đối tƣợng, nội dung, phƣơng pháp và hình thức GDPL cho CBCC

hành chính, phục vụ cho việc đổi mới, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác GDPL cho các

đối tƣợng cụ thể và trên các địa bàn cụ thể.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, luận án đƣợc

kết cấu thành 4 chƣơng, 8 tiết.

NỘI DUNG CHÍNH CỦA LUẬN ÁN

Chƣơng 1

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Tên đề tài luận án “Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính

trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” đề cập đến ba

mảng vấn đề cụ thể: vấn đề giáo dục pháp luật; vấn đề đội ngũ cán bộ, công chức hành chính

trong nền hành chính công vụ; vấn đề xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam. Đây đều là những vấn đề đã và đang đƣợc bàn luận sôi nổi trên diễn đàn khoa học pháp

lý Việt Nam.

Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài cho thấy, nếu đặt các vấn đề giáo dục pháp luật,

vấn đề đội ngũ cán bộ, công chức hành chính và vấn đề xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam một cách riêng rẽ, tách biệt với nhau thì chúng đều đã đƣợc các nhà

nghiên cứu đề cập, phân tích tƣơng đối kỹ lƣỡng, thấu đáo và tác giả luận án hầu nhƣ không

Page 6: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

6

còn vấn đề gi để bàn luận. Tuy nhiên, nếu xâu chuỗi các vấn đề nêu trên trong một đề tài luận

án tiến sĩ luật học “Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong điều

kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, thì lại dễ dàng nhận thấy

rằng, các công trình nghiên cứu từ trƣớc đến nay mới chủ yếu đề cập vấn đề giáo dục pháp

luật cho cán bộ, công chức nói chung mà chưa đi sâu vào vấn đề giáo dục pháp luật cho riêng

đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Hơn nữa, đặt vấn đề giáo dục pháp luật cho đội ngũ

cán bộ, công chức hành chính trong bối cảnh, điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam thì lại càng là vấn đề mới, còn bị bỏ ngỏ.

Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng, cho đến nay vẫn chƣa có một công trình nào nghiên

cứu một cách hệ thống, toàn diện cả mặt lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật cho đội

ngũ cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề nêu trên làm đề tài luận án tiến sĩ với hy

vọng góp một phần công sức vào việc nghiên cứu những khía cạnh còn mới mẻ này.

Chƣơng 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

HÀNH CHÍNH TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ

HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

2.1. NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VÀ CÁC YÊU CẦU ĐỐI VỚI GDPL CHO ĐỘI NGŨ

CBCC HÀNH CHÍNH TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN

2.1.1. KHÁI QUÁT CÁC ĐẶC TRƢNG CỦA NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ

NGHĨA VIỆT NAM

Từ thực tiễn lãnh đạo quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Đảng ta đã khái quát 5 đặc trƣng cơ bản: 1, Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam là Nhà nƣớc của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều

thuộc về nhân dân; 2, Nhà nƣớc đƣợc tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật,

bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ

thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; 3, Nhà nƣớc tôn trọng và bảo đảm quyền con

người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nƣớc và công dân; thực hành

dân chủ, đồng thời tăng cƣờng kỷ cƣơng, kỷ luật; 4, Quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, có sự

phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện

các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp; 5, Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

Page 7: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

7

2.1.2. CÁC YÊU CẦU ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

HÀNH CHÍNH TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN

Việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang đặt ra cho công

tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính những yêu cầu cấp thiết,

như phải luôn nhấn mạnh tầm quan trọng và tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phải nhấn mạnh tính tối cao của pháp luật, phải trang bị

kiến thức, hiểu biết pháp luật về quyền con người, pháp luật quốc tế...

2.2. CBCC HÀNH CHÍNH VÀ VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA HỌ TRONG NHÀ

NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

2.2.1. QUAN NIỆM VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH

Trong luận án này, dựa theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008, tác giả giới hạn phạm

vi đội ngũ CBCC hành chính nhƣ sau: Đội ngũ CBCC hành chính bao gồm những người do

bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, được tuyển dụng,

bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc được giao giữ một chức vụ thường xuyên trong các

cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; đảm

nhiệm các công việc hành chính - công vụ có liên quan đến hoạt động xây dựng, thực hiện

pháp luật hoặc kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật; được hưởng lương từ ngân sách

nhà nước, sự đãi ngộ của nhà nước; được trao các quyền và nghĩa vụ trong khi thực thi công

vụ do Luật Cán bộ, công chức quy định.

2.2.2. ĐẶC TRƢNG, TIÊU CHUẨN CỦA CBCC HÀNH CHÍNH

Các đặc trưng về hoạt động chuyên môn của CBCC hành chính bao gồm: Thứ nhất,

CBCC hành chính là những ngƣời thực thi công vụ; thứ hai, đƣợc Nhà nƣớc đảm bảo các điều

kiện cần thiết, quyền lợi chính đáng để có khả năng và yên tâm thực hiện công vụ; thứ ba, là

lực lƣợng lao động có tính chuyên nghiệp; thứ tư, hoạt động của họ diễn ra thƣờng xuyên, liên

tục trên phạm vi rộng và mang tính phức tạp; thứ năm, đội ngũ CBCC hành chính có sự ổn

định tƣơng đối, mang tính kế thừa và không ngừng phải nâng cao về chất lƣợng.

CBCC hành chính phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau: một là, trung thành với Tổ quốc,

tận tụy phục vụ nhân dân; hai là, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp;

ba là, có trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật; bốn là, thành thạo ngoại ngữ, tin học và có

các kỹ năng ngoại giao, giao tiếp.

2.2.3. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA ĐỘI NGŨ CBCC HÀNH CHÍNH

Page 8: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

8

2.2.3.1. Chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ CBCC hành chính trong công tác xây dựng

pháp luật

Thứ nhất, CBCC hành chính các cấp, tùy theo chức năng, nhiệm vụ, chuyên môn của

mình, tham gia ở những mức độ khác nhau vào quá trình xây dựng pháp luật: có thể chủ trì,

tham gia vào quá trình soạn thảo, xây dựng các dự án luật, pháp lệnh; tham vấn ý kiến của

các nhà khoa học, các chuyên gia pháp lý; tổ chức và tham gia các hội thảo khoa học nhằm

đóng góp ý kiến cho việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các dự án luật; có thể tham gia thảo

luận, tư vấn, đóng góp ý kiến cho các dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;

tham mưu cho Ủy ban nhân dân các cấp xây dựng và ban hành các quyết định hành chính,

các văn bản quản lý sao cho phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật. Thứ hai,

theo nhiệm vụ đƣợc giao, họ tham gia công tác xây dựng pháp luật bằng cách tổ chức lấy ý

kiến của nhân dân đóng góp vào các dự án luật, pháp lệnh theo hƣớng dẫn của cơ quan

chuyên môn cấp trên. Thứ ba, họ còn có nhiệm vụ lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân

dân, tìm hiểu dư luận xã hội, thu thập quan điểm, ý kiến của các cấp, các ngành, của người

dân về những điểm mạnh và những hạn chế, bất cập của các bộ luật, đạo luật, các văn bản

dưới luật; giúp Nhà nƣớc điều chỉnh, sửa đổi hoặc bổ sung pháp luật.

2.2.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của CBCC hành chính trong công tác triển khai, thực hiện

pháp luật

Một là, có trách nhiệm nghiêm chỉnh tuân thủ các nguyên tắc, quy định của pháp luật

nói chung, pháp luật điều chỉnh lĩnh vực hành chính - công vụ nói riêng. Hai là, trong phạm

vi chức năng của mình, có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các tầng lớp nhân

dân, hƣớng dẫn ngƣời dân thực hiện pháp luật. Ba là, trong phạm vi chức năng, quyền hạn

của mình, có nhiệm vụ áp dụng pháp luật.

2.2.3.3. Chức năng, nhiệm vụ của CBCC hành chính trong công tác kiểm tra, giám sát quá

trình thực hiện pháp luật

Hoạt động kiểm tra, giảm sát việc thực hiện pháp luật có tác dụng củng cố và phát

huy hiệu lực của pháp luật, duy trì các giá trị, chuẩn mực xã hội, bảo vệ trật tự, kỷ cương xã

hội. Bên cạnh các cơ quan chuyên trách về kiểm tra việc thực hiện pháp luật, các CBCC hành

chính, trong phạm vi lĩnh vực công tác của mình, cũng phải tham gia vào hoạt động kiểm tra,

giám sát việc thực hiện pháp luật.

2.3. GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CBCC HÀNH CHÍNH

2.3.1. QUAN NIỆM VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CBCC HÀNH CHÍNH

GDPL cho CBCC hành chính là hoạt động có định hướng, có tổ chức, thông qua các

phương pháp đặc thù và bằng nhiều hình thức khác nhau, hướng tới cung cấp, trang bị cho

Page 9: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

9

CBCC hành chính những tri thức, hiểu biết về pháp luật nói chung, các vấn đề pháp luật cụ

thể liên quan đến hoạt động hành chính - công vụ nói riêng; đồng thời, trang bị cho họ các kỹ

năng xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật, nhằm làm hình thành ở họ tri thức pháp luật,

tình cảm pháp luật và hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật hiện hành, đòi hỏi đặc

thù của lĩnh vực hoạt động hành chính.

2.3.2. VAI TRÒ, ĐẶC TRƢNG CỦA GDPL CHO ĐỘI NGŨ CBCC HÀNH CHÍNH

2.3.2.1. Vai trò của GDPL cho CBCC hành chính

Thực tế cho thấy, việc coi nhẹ công tác GDPL cho CBCC hành chính là một trong

những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ý thức pháp luật của họ chƣa cao; vẫn còn một bộ phận

CBCC hành chính yếu về năng lực chuyên môn, bị thoái hóa, biến chất. Dân chủ ở nhiều lúc,

nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cƣơng phép nƣớc chƣa nghiêm. Một trong những nguyên nhân cơ

bản của tình trạng trên là do trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật của một

bộ phận đáng kể CBCC hành chính còn nhiều hạn chế, bất cập. Vì vậy, việc GDPL cho

CBCC hành chính có vai trò hết sức quan trọng, góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho họ,

đáp ứng đòi hỏi của tiến trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

2.3.2.2. Các đặc trưng của giáo dục pháp luật cho đội ngũ CBCC hành chính

GDPL cho CBCC hành chính là GDPL cho đối tƣợng người lớn - những người đương

chức, đương quyền, nhất là những cán bộ, công chức lãnh đạo, đòi hỏi tính chuyên ngành,

chuyên nghiệp cao; phải có sự lựa chọn, phân loại cụ thể, hợp lý về đối tƣợng tiếp nhận

GDPL; phải sử dụng phƣơng pháp và hình thức GDPL phù hợp; luôn gắn bó mật thiết với

giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, đạo đức.

2.3.3. CÁC THÀNH TỐ CỦA GDPL CHO ĐỘI NGŨ CBCC HÀNH CHÍNH

2.3.3.1. Mục đích, mục tiêu của giáo dục pháp luật cho CBBB hành chính

Mục đích của GDPL cho CBCC hành chính là những kiến thức, hiểu biết về pháp luật;

thái độ, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật; và thói quen, lối sống, hành vi xử sự tích cực

theo pháp luật mà CBCC hành chính có thể tiếp thu và hiện thực hóa sau khi tham dự GDPL.

Mục tiêu của GDPL cho CBCC hành chính là sự cụ thể hóa mục đích GDPL sao cho phù hợp

với từng nhóm CBCC hành chính, với từng cấp độ yêu cầu GDPL, với từng thời kỳ nhất định.

2.3.3.2. Chủ thể, đối tượng của giáo dục pháp luật cho CBCC hành chính

Chủ thể GDPL bao gồm cơ sở giáo dục pháp luật và các nhà GDP. Chủ thể GDPL

cho CBCC hành chính phải là các nhà GDPL chuyên nghiệp - những người có trình độ thạc

sĩ, tiến sĩ, có thâm niên công tác và kinh nghiệm thực tiễn phong phú; ngoài ra, có thể sử dụng

các chuyên gia khi nội dung giáo dục pháp luật là những vấn đề liên quan trực tiếp đến lĩnh

Page 10: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

10

vực chuyên môn của họ.. Đối tƣợng của GDPL trong trƣờng hợp này chính là CBCC hành

chính.

2.3.3.3. Nội dung, phương pháp và hình thức GDPL cho CBCC hành chính

Nội dung GDPL là toàn bộ những gì mà chủ thể cần truyền đạt cho CBCC hành chính,

giúp họ có những kiến thức, hiểu biết pháp luật; từ đó, hình thành, phát triển ý thức pháp luật,

niềm tin đối với pháp luật và lối sống theo pháp luật. Phƣơng pháp GDPL là tổ hợp các cách

thức tổ chức hoạt động được chủ thể GDPL (hoạt động dạy, truyền đạt) và các CBCC hành

chính (hoạt động học, lĩnh hội) sử dụng nhằm hiện thực hóa mục đích, mục tiêu và nội dung

GDPL cụ thể cho CBCC hành chính. Hình thức GDPL là tập hợp các mô hình tổ chức thực

hiện GDPL, gồm các hoạt động khác nhau được lặp đi, lặp lại; thông qua đó, chủ thể tiến

hành hoạt động GDPL, chuyển tải nội dung GDPL bằng những phương pháp nhất định và

hướng tới đạt được mục đích GDPL cho CBCC hành chính.

2.3.4. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,

CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH

Công tác GDPL cho cán bộ, công chức hành chính luôn chịu sự tác động của nhiều

yếu tố khác nhau, thể hiện tập trung trong yếu tố kinh tế - xã hội, yếu tố chính trị - xã hội, yếu

tố văn hóa - xã hội và yếu tố pháp luật - xã hội.

2.3.5. GDPL CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI -

NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

GDPL cho CBCC hành chính là vấn đề đƣợc các quốc gia trên thế giới rất quan tâm,

xúc tiến mạnh mẽ. Việc khảo sát công tác GDPL ở một số nước trên thế giới là để tạo một cái

nhìn đối sánh với công tác này ở Việt Nam và rút ra những bài học kinh nghiệm để vận dụng

vào lý luận cũng như thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác GDPL cho

CBCC hành chính ở nước ta hiện nay.

Chƣơng 3

THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, HIỂU BIẾT PL CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH

CHÍNH VÀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH Ở

NƢỚC TA HIỆN NAY

3.1. TRÌNH ĐỘ KIẾN THỨC, HIỂU BIẾT PHÁP LUẬT CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,

CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

3.1.1. NHỮNG THÀNH TỰU VỀ TRÌNH ĐỘ KIẾN THỨC, HIỂU BIẾT PHÁP LUẬT

CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH

Page 11: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

11

Thứ nhất, về cơ bản, đa số CBCC hành chính hiện nay đã nhận thức được tầm quan

trọng của những kiến thức, hiểu biết pháp luật trong quá trình thực thi công vụ. Thứ hai, họ đã

có sự chủ động, tích cực trong việc học tập, cập nhật thông tin pháp luật. Thứ ba, họ đã vận

dụng được kiến thức pháp luật vào giải quyết các công việc hành chính - sự vụ. Thứ tư, ý thức

pháp luật nghề nghiệp của CBCC hành chính đã từng bƣớc hình thành và đƣợc củng cố.

3.1.2. NHỮNG BẤT CẬP, HẠN CHẾ VỀ TRÌNH ĐỘ KIẾN THỨC, HIỂU BIẾT PHÁP

LUẬT CỦA ĐỘI NGŨ CBCC HÀNH CHÍNH Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

Những điểm bất cập, hạn chế bộc lộ trong trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của

đội ngũ CBCC hành chính ở nƣớc ta hiện nay thể hiện ở hai mâu thuẫn cơ bản: Thứ nhất,

mâu thuẫn giữa “cái hiện có” và “cái cần có” trong trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật

của đội ngũ CBCC hành chính. Thứ hai, mâu thuẫn giữa trình độ kiến thức, hiểu biết pháp

luật của CBCC còn nhiều hạn chế và yêu cầu cao của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa. Miền giao thoa giữa trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của đội ngũ CBCC

hành chính và yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam chỉ chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn. Suy ra, việc nâng cao trình độ kiến

thức, hiểu biết pháp luật cho CBCC hành chính thông qua giáo dục pháp luật càng là vấn đề

có tầm quan trọng và có tính cấp bách.

3.2. GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH Ở NƢỚC

TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

3.2.1. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CÔNG TÁC GDPL CHO CBCC HÀNH CHÍNH

Thứ nhất, công tác GDPL nói chung, GDPL cho CBCC hành chính nói riêng đã nhận

được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Đảng và Nhà nước. Thứ hai, nhà nước đã đầu tư, dành

khoản ngân sách ngày cảng tăng phục vụ cho công tác GDPL. Thứ ba, một trong những ƣu

điểm nổi bật là sự phát triển và lớn mạnh của hệ thống các cơ sở giáo dục - đào tạo pháp

luật. Thứ tư, tiến trình đổi mới, mở cửa, tăng cường giao lưu, hội nhập quốc tế là điều kiện

thuận lợi cho hợp tác, liên kết quốc tế trong lĩnh vực GDPL cho CBCC hành chính.

3.2.2. NHỮNG BẤT CẬP, HẠN CHẾ CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO

CBCC HÀNH CHÍNH

3.2.2.1. Về mục đích, mục tiêu: Trong hoạt động GDPL cho CBCC hành chính ở nƣớc ta,

việc xác định mục đích chưa được các chủ thể GDPL đặt ra một cách nghiêm túc. Việc đánh

giá xem mục đích đặt ra đạt kết quả đến đâu càng ít được chủ thể GDPL chú ý tới. Việc xác

định mục tiêu của công tác GDPL cho đội ngũ cán bộ này gần như là xa lạ đối với các chủ

thể GDPL.

Page 12: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

12

3.2.2.2. Về chủ thể, đối tượng: Hiện nay, việc phân công, phân cấp đào tạo, bồi dưỡng chưa

rõ ràng dẫn đến công tác tổ chức giáo dục, đào tạo còn trùng lặp; chất lƣợng chƣa cao; bồi

dƣỡng tràn lan, chƣa gắn với sử dụng, chưa có sự phân hóa cụ thể cơ sở nào chuyên trách

GDPL cho CBCC hành chính. Các cơ sở GDPL chưa chú ý tới việc phân loại đối tượng

người học để tổ chức, bố trí các lớp học một cách hợp lý nhất. Một số cơ quan hành chính sử

dụng kinh phí đào tạo sai mục đích, kém hiệu quả... Một bộ phận CBCC hành chính có nhận

thức sai lệch về vị trí, vai trò của GDPL đối với công tác chuyên môn của họ.

3.2.2.3. Về nội dung, phương pháp và hình thức: Các cơ sở đào tạo về luật chưa xây dựng

được khung chương trình chuẩn cho từng đối tượng CBCC hành chính theo các cấp, các

ngành, các lĩnh vực chuyên môn; chưa xây dựng được các chương trình, tài liệu tham khảo

cho từng đối tượng; có những nội dung cần thực sự trong giai đoạn hiện nay thì không thấy

nói tới, như kiến thức về pháp luật quốc tế, pháp luật về quyền con người, pháp luật về các

vấn đề xã hội..., chưa chú trọng trang bị kiến thức về phương pháp, về kỹ năng thực hành

công vụ, áp dụng kiến thức pháp luật vào thực tiễn công tác. Về phương pháp: lâu nay chủ

yếu là tuyên truyền, giải thích, cung cấp thông tin pháp luật, thuyết trình theo kiểu độc thoại,

một chiều; giảng viên ở vị trí trung tâm của GDPL. Phương pháp GDPL kiểu này không phù

hợp với người học là CBCC hành chính. Về hình thức: có sự nhầm lẫn giữa hình thức và

phương pháp GDPL cho CBCC hành chính. Nhà nƣớc và các cơ sở GDPL chưa có quy định

cụ thể về các hình thức GDPL áp dụng cho các đối tượng CBCC hành chính khác nhau.

3.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO

CBCC HÀNH CHÍNH Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

Hoạt động GDPL cho CBCC hành chính luôn chịu sự ảnh hƣởng của nhiều yếu tố

khác nhau, chủ yếu gồm: yếu tố kinh tế - xã hội (chính sách, cơ chế kinh tế, tăng trƣởng kinh

tế...); yếu tố chính trị - xã hội (đƣờng lối chính trị, ý thức chính trị, nền dân chủ...); yếu tố văn

hóa - xã hội (các giá trị văn hóa truyền thống, văn hóa pháp luật, lối sống, dƣ luận xã hội...);

yếu tố pháp luật - xã hội (mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật, ý thức pháp luật, chính

sách và cơ chế pháp lý...).

Chƣơng 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY

DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

4.1.QUAN ĐIỂM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GDPL CHO ĐỘI NGŨ CBCC HÀNH

CHÍNH

Page 13: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

13

Việc nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ,

công chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam cần dựa trên các quan điểm có tính chỉ đạo sau đây: Thứ nhất, phải luôn được đặt dưới

sự lãnh đạo của Đảng. Thứ hai, phải dựa trên sự quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc các

quy định của Nhà nước về giáo dục pháp luật. Thứ ba, phải đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tiến trình cải cách hành chính nhà nước. Thứ tƣ, đòi

hỏi sự nỗ lực, phấn đấu của tất cả các bên hữu quan; trong đó, vai trò hàng đầu thuộc về chủ

thể và đối tượng của giáo dục pháp luật. Thứ năm, phải đổi mới đồng bộ cả về nội dung,

phương pháp và hình thức giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Thứ

sáu, phải kết hợp chặt chẽ với đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống.

4.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỘI

NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH

4.2.1. NÂNG CAO NHẬN THỨC, Ý THỨC TRÁCH NHIỆM CỦA CHỦ THỂ, ĐỐI

TƢỢNG TRONG CÔNG TÁC GDPL CHO CBCC HÀNH CHÍNH

4.2.1.1. Xác định đúng đắn mục đích, mục tiêu GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức

hành chính

Chủ thể và đối tƣợng phải cùng nhau xác định rõ ràng mục đích, mục tiêu của GDPL

cho CBCC hành chính. Hai bên đều phải ý thức đƣợc rằng, mục tiêu của GDPL cho CBCC

hành chính phải hƣớng tới đạt đƣợc ba loại: mục tiêu về nhận thức, về thái độ và về kỹ năng.

Yêu cầu đặt ra không chỉ là trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật, mà còn trang bị cho

CBCC hành chính kỹ năng mềm, bao gồm các kỹ năng truyền thông, kỹ năng giao tiếp, ứng

xử, hợp tác...

4.2.1.2. Nâng cao năng lực giáo dục, ý thức trách nhiệm của chủ thể giáo dục pháp luật

cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính

Biện pháp này đòi hỏi, một mặt, nâng cao năng lực giáo dục - đào tạo của các chủ thể

GDPL cho cán bộ, công chức hành chính, nhƣ nâng cấp cơ sở vật chất, xây dựng các chương

trình, tài liệu tập huấn, bồi dưỡng riêng cho từng đối tượng CBCC hành chính ở các cấp, các

ngành cụ thể, phù hợp với yêu cầu về kiến thức pháp luật của họ, xây dựng đội ngũ cán bộ,

giảng viên có uy tín, chất lượng, trình độ cao, có kỹ năng nghiệp vụ sư phạm, có đạo đức

nghề nghiệp, tâm huyết với sự nghiệp GDPL. Mặt khác, nâng cao ý thức trách nhiệm của các

chủ thể đối với sự nghiệp GDPL cho CBCC hành chính, gồm tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ

đạo của Đảng ủy, các Chi ủy, Chi bộ trong các cơ sở GDPL; tăng cường hơn nữa công tác

quản lý GDPL; phân loại đối tượng CBCC hành chính theo các tiêu chí về chức danh, về

chuyên môn, về trình độ... để bố trí lớp học phù hợp.

Page 14: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

14

4.2.1.3. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức hành

chính trong quá trình tham gia giáo dục pháp luật

Mỗi CBCC hành chính cần chủ động, tự giác, tích cực tìm đến với GDPL xuất phát từ

nhu cầu lĩnh hội kiến thức, hiểu biết pháp luật. Thứ nhất, CBCC hành chính cần có ý thức

trách nhiệm cao khi tham gia các lớp giáo dục, đào tạo luật. Thứ hai, CBCC hành chính cần

thực sự nghiêm túc, cầu thị khi tham gia GDPL. Thứ ba, CBCC hành chính cần thường xuyên

cập nhật thông tin về các văn bản pháp luật mới, nhất là các văn bản liên quan đến lĩnh vực

công tác chuyên môn. Thứ tư, cần nâng cao trình độ lý luận chính trị, có kiến thức, hiểu biết

xã hội, thông thạo tin học, ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

4.2.2. ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH

4.2.2.1. Đổi mới nội dung GDPL cho cán bộ, công chức hành chính

Đổi mới nội dung GDPL cho CBCC hành chính phải xuất phát từ quan điểm trang bị

cho họ hệ thống kiến thức pháp luật vừa đảm bảo tính toàn diện, tính đồng bộ, lại vừa phải

đảm bảo tính chuyên ngành, chuyên sâu, có trọng tâm, trọng điểm và phù hợp với nhu cầu

của các nhóm đối tượng CBCC hành chính. Các cơ sở GDPL cần chủ động xây dựng kết cấu

chƣơng trình, phân định rõ ràng, cụ thể và hợp lý các khối kiến thức giáo dục pháp luật, phù

hợp với nhu cầu xã hội. Nội dung cần đổi mới theo phƣơng châm “trang bị cho người học

những gì xã hội đang cần, chứ không phải dạy những cái nhà trường có”; tăng cƣờng khối

kiến thức giáo dục hướng nghiệp và giáo dục kỹ năng mềm cho ngƣời học; xây dựng khung

chương trình chuẩn cho từng đối tượng CBCC hành chính theo các cấp, các ngành, các lĩnh

vực chuyên môn, các chức danh; chú trọng trang bị cho họ kiến thức về phương pháp, kỹ

năng thực hành công vụ, về áp dụng kiến thức pháp luật vào thực tiễn công tác.

4.2.2.2. Đổi mới phƣơng pháp GDPL cho đội ngũ CBCC hành chính

Tăng cƣờng các phƣơng pháp đối thoại, thảo luận nhóm theo các chủ đề pháp luật,

phương pháp nêu tình huống, sự kiện pháp lý để lôi cuốn người học vào sự tranh luận, thảo

luận, tìm ra hướng giải quyết hợp lý nhất; chuyển mạnh sang “lấy người học làm trung tâm”;

ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Với đối tƣợng CBCC hành chính chỉ nên sử

dụng phương pháp giảng dạy pháp luật trong các cơ sở giáo dục - đào tạo luật. Phƣơng pháp

GDPL trên giảng đƣờng phải sinh động, hấp dẫn, cuốn hút đối tƣợng bằng phương pháp phát

vấn, đặt câu hỏi, nêu tình huống, sự kiện pháp lý hành chính cụ thể, tạo sự tranh luận, thảo

luận sôi nổi nhằm tìm hướng giải quyết dưới sự điều khiển sư phạm tương tác của giảng viên.

Phƣơng pháp phải hướng tới rèn luyện cho đối tượng kỹ năng thực hành, áp dụng pháp luật

vào thực tiễn hành chính - công vụ.

Page 15: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

15

4.2.2.3. Đổi mới hình thức GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính

Hình thức GDPL chính thức cho CBCC hành chính chỉ nên giới hạn ở hình thức đào

tạo hệ chính quy, hệ vừa làm vừa học dài hạn, tập huấn chuyên đề pháp luật và bồi dưỡng

kiến thức pháp luật ngắn hạn tại các cơ sở giáo dục - đào tạo, gồm các trƣờng không chuyên

luật và các trƣờng, khoa chuyên ngành luật; vì các hình thức này gắn với trường lớp, với việc

cấp văn bằng, chứng chỉ dựa trên nội dung giáo dục pháp luật được biên soạn chính thống,

phương pháp sư phạm phù hợp và sự kiểm tra, đánh giá khoa học. Do đặc thù về chức năng

của CBCC hành chính nên cần có quy định cụ thể về những hình thức GDPL áp dụng cho đối

tượng CBCC hành chính khác nhau.

4.2.3. ĐẢM BẢO CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA

VÀ PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO

ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH

4.2.3.1. Đảm bảo các điều kiện về kinh tế - xã hội

Trƣớc hết, Nhà nước cần quan tâm hơn nữa, dành sự đầu tư kinh phí thỏa đáng cho

công tác giáo dục pháp luật cho CBCC hành chính, giúp các cơ sở GDPL nâng cấp cơ sở vật

chất - kỹ thuật; xây dựng nội dung, chương trình đào tạo pháp luật theo hướng hiện đại; thực

hiện tốt hơn chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ giảng viên, chuyên gia pháp luật và cán bộ

quản lý GDPL; đảm bảo cho giảng viên có thu nhập xứng đáng cũng là biện pháp phòng ngừa

các hiện tượng tiêu cực. Mặt khác, cần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho

CBCC hành chính. Chỉ khi thu nhập, mức sống của bản thân và gia đình đƣợc cải thiện thì

CBCC hành chính mới có thể toàn tâm, toàn ý với với công tác chuyên môn, chấp hành kỷ

cương, cống hiến tài năng và tâm huyết cho sự nghiệp xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền; góp

phần hạn chế những hiện tượng tiêu cực, nhƣ cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu dân... Nhà

nƣớc và các cấp, các ngành cũng cần quan tâm, đầu tư nhiều hơn cho việc cải thiện, nâng cao

đời sống tinh thần, giảm thiểu stress; tạo tâm lý hưng phấn, thoải mái cho CBCC hành chính

hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn, tích cực tham gia vào quá trình GDPL.

4.2.3.2. Đảm bảo các điều kiện về chính trị - xã hội

Về mặt chính trị, trƣớc tiên, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với

công tác GDPL cho CBCC hành chính, thể hiện bằng các chỉ thị, nghị quyết cụ thể và sâu sắc

về công tác GDPL cho CBCC hành chính; đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát

việc thể chế hóa các nghị quyết đó thành pháp luật của nhà nước, các văn bản pháp quy của

các cơ quan chức năng. Sự nghiêm túc, kịp thời trong việc triển khai thực hiện các văn bản,

nghị quyết về GDPL cho CBCC hành chính từ phía Đảng ủy, Ban lãnh đạo của các cơ sở

GDPL cũng hết sức quan trọng. Tiếp đến, cần nâng cao ý thức chính trị, tinh thần trách

Page 16: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

16

nhiệm của đội ngũ CBCC hành chính trong quá trình tham gia GDPL. Chừng nào việc học

tập, tiếp thu, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật trở thành nhu cầu tự thân, là

yếu tố thường trực trong ý thức chính trị, tinh thần trách nhiệm của mỗi CBCC hành chính thì

công tác GDPL cho họ mới thực sự đi vào chiều sâu và đạt hiệu quả mong muốn. Việc thực

hành Quy chế dân chủ trong công tác GDPL cho CBCC hành chính cũng rất cần thiết thông

qua công khai, minh bạch các chính sách, văn bản pháp luật quy định về GDPL cho CBCC

hành chính, đảm bảo công bằng xã hội trong thực hiện các chính sách.

4.2.3.3. Đảm bảo các điều kiện về văn hóa - xã hội

Phát huy các giá trị văn hóa truyền thống phục vụ công tác giáo dục pháp luật, khắc

phục các hủ tục lạc hậu, lỗi thời đang tác động tiêu cực đến công tác giáo dục pháp luật cho

CBCC hành chính, bài trừ mạnh mẽ các thói hƣ tật xấu và tệ nạn xã hội... đang là những biện

pháp quan trọng trƣớc mắt và lâu dài đề thúc đẩy xã hội phát triển bền vững. Chính vì vậy,

khắc phục các hủ tục lạc hậu, lỗi thời đang tác động tiêu cực đến công tác GDPL cho CBCC

hành chính, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa; xây dựng trường học, cơ quan,

đơn vị văn hóa... là góp phần đảm bảo các điều kiện về văn hóa - xã hội để nâng cao chất

lượng GDPL cho đội ngũ cán bộ này.

Bên cạnh đó, xây dựng và phát triển nền văn hóa pháp luật là biện pháp có tầm quan

trọng cả trước mắt cũng như về lâu dài trong việc đảm bảo các điều kiện về văn hóa nhằm

nâng cao chất lượng GDPL cho CBCC hành chính. Văn hóa pháp luật, thông qua các giá trị,

các chuẩn mực của nó, là nền tảng để mỗi CBCC hành chính tự suy ngẫm, biết đƣợc mình

thiếu cái gì, cần cái gì, mong muốn đạt đƣợc kiến thức pháp luật ở trình độ nào. Điều đó trở

thành động lực thôi thúc nội tâm, giúp họ chủ động, tự giác, tích cực tham gia vào công tác

GDPL.

4.2.3.4. Đảm bảo các điều kiện về pháp luật

Trƣớc tiên, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật càng hoàn thiện

bao nhiêu thì càng tạo ra môi trường pháp luật ổn định bấy nhiêu, tạo điều kiện cho công tác

GDPL diễn ra thuận lợi. Nội dung GDPL ổn định, thống nhất, cụ thể, phân hóa theo từng đối

tƣợng CBCC hành chính giúp công tác GDPL cho họ đƣợc dễ dàng, thuận lợi hơn. Ngƣợc lại,

tính cục bộ, chậm trễ, xa rời thực tiễn, thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung của các bộ luật,

luật là nguyên nhân khiến cho nội dung GDPL không cập nhật, mất ổn định; GDPL cho

CBCC hành chính phải lặp đi, lặp lại, gây lãng phí về công sức và tiền của mà chất lượng

vẫn ít được cải thiện. Bên cạnh đó, cần rà soát, điều chỉnh, ban hành các chính sách, văn bản

pháp luật và cơ chế pháp lý quy định về giáo dục pháp luật cho CBCC hành chính. Cần

nghiên cứu để xây dựng, ban hành những văn bản pháp luật quy định riêng về GDPL cho

Page 17: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

17

CBCC hành chính, trong đó quy định rõ về nguồn tài chính chi cho GDPL, nội dung, chương

trình, hình thức GDPL; cơ sở được phép tổ chức GDPL cho CBCC hành chính...

Việc đảm bảo các điều kiện cần thiết về kinh tế, chính trị, văn hóa và pháp luật kể trên

là nền tảng vô cùng quan trọng để nâng cao chất lƣợng giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ,

công chức hành chính, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam.

PHẦN KẾT LUẬN

1. Việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang đặt ra cho

công tác GDPL cho đội ngũ CBCC hành chính những yêu cầu cấp thiết, như phải nhấn mạnh

tính tối cao của pháp luật, phải trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật về quyền con người,

pháp luật quốc tế... Trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đội ngũ CBCC

hành chính có vai trò, chức năng vô cùng quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong cơ quan

hành chính, có chức năng, nhiệm vụ gắn liền với công tác xây dựng, thực hiện và áp dụng

pháp luật; kiểm tra, giảm sát việc thực hiện pháp luật. Nhà nƣớc trao quyền cho CBCC hành

chính để họ hoàn thành nhiệm vụ quản lý nhà nước, quản lý xã hội trên nhiều lĩnh vực. Với

vai trò, chức năng đó, CBCC hành chính là nhân tố quyết định chất lƣợng và hiệu quả hoạt

động quản lý hành chính.

2. Để làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nƣớc, CBCC hành chính phải đáp

ứng nhiều tiêu chuẩn; trong đó, tiêu chuẩn trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật có tầm quan

trọng hàng đầu. Trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, CBCC hành chính phải có

kiến thức pháp luật, hiểu biết chuyên sâu về hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực chuyên

môn, nghiệp vụ mà mình đang công tác và phải biết vận dụng đúng đắn pháp luật để giải

quyết tốt công việc đƣợc giao. Điều đó chỉ có thể đạt được bằng con đường GDPL cho CBCC

hành chính.

3. Giáo dục pháp luật cho CBCC hành chính là hoạt động có định hướng, có tổ chức,

thông qua các phương pháp đặc thù và bằng nhiều hình thức khác nhau, hướng tới cung cấp,

trang bị cho CBCC hành chính những tri thức, hiểu biết về các vấn đề pháp luật nói chung, về

các vấn đề pháp luật cụ thể liên quan đến hoạt động hành chính - công vụ nói riêng, làm hình

Page 18: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

18

thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật và hành vi phù hợp với những yêu cầu, đòi

hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành cũng như những đòi hỏi đặc thù của lĩnh vực hoạt động

hành chính. Quá trình GDPL cho đội ngũ CBCC hành chính đƣợc tạo thành bởi các yếu tố:

mục đích, mục tiêu; chủ thể, đối tượng; nội dung, phương pháp và hình thức GDPL. Giữa các

thành tố này có mối liên hệ mật thiết, khăng khít với nhau.

4. Tác giả luận án đã tiến hành xây dựng phiếu thăm dò ý kiến, tiến hành điều tra xã

hội học các khía cạnh khác nhau của hoạt động giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức

hành chính. Kết quả khảo sát thu được đảm bảo tính trung thực, khách quan và khoa học,

đƣợc dùng để phân tích thực trạng GDPL cho CBCC hành chính. Sự phân tích cho thấy, đội

ngũ CBCC hành chính đã đạt đƣợc những ƣu điểm nhất định trong việc nâng cao kiến thức,

hiểu biết pháp luật; trong đó, nổi bật là phần đông cán bộ, công chức hành chính đã có sự chủ

động, tích cực trong việc học tập, nghiên cứu, cập nhật thông tin pháp luật và đã vận dụng

được kiến thức, hiểu biết pháp luật vào quá trình công tác. Bên cạnh những ƣu điểm, sự phân

tích cũng cho thấy những điểm bất cập, hạn chế, thể hiện ở hai mâu thuẫn cơ bản: một là, mâu

thuẫn giữa “cái hiện có” và “cái cần có” trong trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của

đội ngũ CBCC hành chính; hai là, mâu thuẫn giữa trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của

đội ngũ CBCC hành chính còn nhiều hạn chế và yêu cầu cao của quá trình xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy, miền giao thoa giữa trình độ kiến thức, hiểu

biết pháp luật của đội ngũ CBCC hành chính và yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây

dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn.

5. Thực trạng công tác GDPL cho CBCC hành chính ở nƣớc ta hiện nay cũng thể hiện

trên cả hai mặt ƣu điểm và nhƣợc điểm. Về ưu điểm, công tác GDPL cho CBCC hành chính

đã nhận đƣợc sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Đảng; Nhà nƣớc đã đầu tƣ, dành khoản ngân

sách ngày càng tăng cho công tác này; hệ thống các cơ sở GDPL ngày càng phát triển; sự hợp

tác quốc tế trong lĩnh vực GDPL cho CBCC hành chính cũng ngày càng đƣợc mở rộng. Về

nhược điểm, việc xác định mục đích, mục tiêu GDPL cho CBCC hành chính chưa được đặt ra

một cách nghiêm túc; việc phân công, phân cấp đào tạo, bồi dưỡng chưa rõ ràng dẫn đến

công tác tổ chức giáo dục - đào tạo còn chồng chéo, trùng lặp; chất lƣợng đào tạo, bồi dƣỡng

chƣa cao, chƣa gắn với sử dụng; chưa chú ý tới việc sàng lọc, phân loại đối tượng người học

để bố trí lớp học hợp lý. Nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức GDPL cho CBCC hành

chính cũng còn bộc lộ nhiều bất cập.

Hoạt động GDPL cho đội ngũ CBCC hành chính chịu sự ảnh hƣởng của nhiều yếu tố

khác nhau, tập trung chủ yếu ở bốn nhóm: yếu tố kinh tế - xã hội, yếu tố chính trị - xã hội, yếu

Page 19: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

19

tố văn hóa - xã hội và yếu tố pháp luật - xã hội. Các yếu tố kể trên, ở chừng mực khác nhau,

có ảnh hƣởng mạnh mẽ tới chất lƣợng và hiệu quả của công tác GDPL cho CBCC hành chính.

6. Để nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của công tác GDPL cho đội ngũ CBCC hành

chính, cần quán triệt các quan điểm có tính chất chỉ đạo và triển khai đồng bộ các giải pháp

cơ bản sau: Thứ nhất, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của chủ thể và đối tượng trong

công tác GDPL cho CBCC hành chính. Thứ hai, đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức

GDPL cho CBCC hành chính. Thứ ba, đảm bảo các điều kiện cần thiết về kinh tế, chính trị,

văn hóa và pháp luật cho việc nâng cao chất lượng GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức

hành chính.

Từ kết quả nghiên cứu của luận án, tác giả đề xuất với các cơ quan chức năng, các cơ

sở GDPL, nhất là Học viện Hành chính, một số ý kiến sau đây:

Một, đội ngũ CBCC hành chính là lực lƣợng nòng cốt, hạt nhân của tiến trình xây

dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bởi vậy, công tác GDPL cho CBCC hành chính

phải triển khai thực sự nghiêm túc, khoa học, chú trọng chất lượng, hiệu quả với tinh thần,

trách nhiệm cao của các bên hữu quan.

Hai, các cơ quan chức năng cần sớm ban hành các văn bản pháp luật quy định đầy đủ,

cụ thể về mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức GDPL cho CBCC

nói chung, CBCC hành chính nói riêng; đồng thời, có quy chế giám sát chặt chẽ quá trình

thực hiện hoạt động này.

Ba, các cơ sở giáo dục - đào tạo luật cần chuyển hƣớng nhanh chóng, mạnh mẽ từ chỗ

đào tạo theo chỉ tiêu, trang bị cho ngƣời học chỉ những gì mình có sang cung cấp cho người

học những gì họ cần, đào tạo theo nhu cầu, yêu cầu của xã hội, trong đó có nhu cầu và yêu

cầu của đội ngũ CBCC hành chính.

Bốn, các chủ thể GDPL cho CBCC hành chính cần chú trọng nâng cao trình độ học

vấn pháp lý, kiến thức chuyên môn, hiểu biết xã hội, kỹ năng nghiệp vụ sư phạm, kinh nghiệm

thực tế cho đội ngũ giảng viên.

Năm, các cơ sở GDPL cần có sự sàng lọc, phân loại đối tượng CBCC hành chính một

cách nghiêm túc, khoa học để xếp lớp trƣớc khi GDPL cho họ. Cụ thể, cần phân loại theo

chức danh; theo ngạch; theo trình độ kiến thức pháp luật hiện có; theo cấp hành chính; theo

ngành, lĩnh vực công tác...

Sáu, về nội dung chương trình GDPL, các cơ sở GDPL cho CBCC hành chính cần xây

dựng được các bộ tài liệu, chương trình chuẩn phù hợp với nhu cầu về kiến thức pháp luật và

yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ công tác cho từng nhóm CBCC hành chính. Trong giai

đoạn hiện nay, cần chú trọng trang bị cho họ kiến thức pháp luật quốc tế, pháp luật về quyền

Page 20: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

20

con người, pháp luật về các vấn đề xã hội; các kiến thức về kỹ năng thực hành công vụ, giao

tiếp...

Bảy, về hình thức GDPL cho CBCC hành chính, nên giới hạn ở hình thức đào tạo dài

hạn, tập huấn chuyên đề pháp luật và bồi dưỡng kiến thức pháp luật tại các cơ sở giáo dục,

đào tạo luật, vì các hình thức này gắn với trường lớp, với việc cấp văn bằng, chứng chỉ dựa

trên nội dung GDPL được biên soạn chính thống, phương pháp sư phạm phù hợp và sự kiểm

tra, đánh giá khoa học.

Tám, về phương pháp GDPL cho CBCC hành chính, chỉ nên tập trung vào phương

pháp giảng dạy pháp luật trong các loại hình nhà trường. Chúng ta GDPL cho người lớn -

những người đương chức, đương quyền trong bộ máy hành chính. Vì vậy, phương pháp

GDPL trên giảng đường phải sinh động, hấp dẫn, cuốn hút đối tƣợng vào nội dung bằng

phương pháp phát vấn, đặt câu hỏi, nêu tình huống, sự kiện pháp lý hành chính cụ thể, tạo sự

tranh luận, thảo luận sôi nổi nhằm tìm hướng giải quyết dưới sự điều khiển sư phạm tương

tác của giảng viên. Phƣơng pháp phải hướng tới rèn luyện cho họ kỹ năng thực hành, áp dụng

pháp luật vào thực tiễn hành chính - công vụ.

Chín, nhu cầu lập pháp có nguồn gốc và nảy sinh từ chính hoạt động hành pháp; mà

CBCC hành chính, hơn ai hết, là những người sâu sát, trực tiếp với đời sống pháp luật, nắm

bắt các vấn đề pháp lý mà các quan hệ xã hội đang đặt ra; từ đó, nêu các sáng kiến luật,

đóng góp ý kiến cho các dự án luật... Chính vì vậy, cần chú trọng và nhấn mạnh cho họ các

kiến thức về kỹ năng lập pháp.

References

I. Tài liệu tham khảo Tiếng Việt

1. Hoàng Quốc Bảo (2006), Đổi mới công tác quản lý cán bộ, đảng viên, khắc phục sự suy

thoái tư tưởng chính trị, Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số tháng 4/2006, tr. 25-29.

2. Báo cáo tổng kết xây dựng Đảng 1975 - 1995. Nxb. Chính trị Quốc gia, 1996.

3. Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng (2003), Chỉ thị số 32/CT/TW ngày 09/12/2003.

4. Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (1994), Chế độ nhân sự các nước, Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

5. Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (1996), Báo cáo về thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức

nhà nước qua khảo sát một số cơ quan trung ương, tỉnh, thành phố.

6. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia,

Hà Nội, 2000.

7. Lê Văn Bền (1997), Giáo dục pháp luật cho người Khơ-me Nam Bộ. Luận văn thạc sĩ luật

học, Hà Nội.

Page 21: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

21

8. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Công đoàn Giáo dục Việt Nam (2003), Đổi mới phương pháp

dạy - học ở đại học và cao đẳng, Kỷ yếu Hội thảo, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

9. Bộ Tƣ pháp - Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2002), Điều tra cơ bản, đánh giá thực trạng

đào tạo, sử dụng cán bộ pháp lý và những giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng cán

bộ pháp lý hướng tới sự pháp triển của đất nước thế kỷ XXI, Dự án 877/2000, Hà Nội.

10. Bộ Tƣ pháp - Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2002), Tiểu Dự án “So sánh thực trạng đào

tạo và sử dụng cán bộ pháp lý của Việt Nam với một số nước trong khu vực và trên thế

giới”, thuộc Dự án 877/2000, Điều tra cơ bản, đánh giá thực trạng đào tạo, sử dụng cán

bộ pháp lý và những giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng cán bộ pháp lý hướng tới sự

pháp triển của đất nước thế kỷ XXI, Dự án 877/2000, Hà Nội.

11. Bộ Tƣ pháp - Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2002), Tiểu Dự án “Điều tra năng lực đào

tạo và các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo cán bộ pháp lý tại các cơ sở đào tạo luật”,

thuộc Dự án 877/2000, Điều tra cơ bản, đánh giá thực trạng đào tạo, sử dụng cán bộ

pháp lý và những giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng cán bộ pháp lý hướng tới sự

pháp triển của đất nước thế kỷ XXI, Hà Nội.

12. Lê Cảm (2001), Nhà nước pháp quyền - các nguyên tắc cơ bản, Tạp chí Nghiên cứu Lập

pháp, Hà Nội.

13. Chế độ công chức và Luật công chức của các nước trên thế giới, Nxb. Chính trị Quốc gia,

Hà Nội, 1993.

14. Chế độ công chức nhà nước ở đặc khu kinh tế thẩm quyền, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà

Nội, 1996.

15. Chính phủ (1995), Nghị định số 50-CP ngày 26/7/1995, Về chế độ sinh hoạt phí đối với

cán bộ xã, phường, thị trấn, Hà Nội.

16. Chính phủ (1998), Nghị định số 9/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998, Sửa đổi, bổ sung Nghị

định số 50-CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã,

phường, thị trấn, Hà Nội.

17. Chính phủ (2003), Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Ban hành kèm theo Nghị định số

79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003), Hà Nội.

18. Chính phủ (1996), Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996, Về tổ chức và hoạt động công

chức nhà nước, Hà Nội.

19. Lƣơng Thanh Cƣờng (2004), Nâng cao ý thức pháp luật cho đội ngũ công chức, Tạp chí

Dân chủ và Pháp luật, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.

Sự thật, Hà Nội.

Page 22: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

22

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ

khóa VII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung

ương khóa VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Các Nghi quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành

Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

27. Nguyễn Minh Đoan (2003), Về cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền

cấp cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp chí Luật học, số 2, tr. 3-7.

28. Nguyễn Minh Đoan (2004), Cần đẩy mạnh nghiên cứu dư luận phục vụ các hoạt động

pháp luật, Tạp chí Luật học, số 6(61), tr. 31-37.

29. Nguyễn Văn Động (2003), Một số ý kiến về đổi mới nội, dung, phương pháp giảng dạy

môn Lý luận nhà nước và pháp luật, Tạp chí Luật học, số 12/2003.

30. Nguyễn Văn Động (2005), Một số ý kiến về nâng cao chất lượng và hiệu quả hệ thống

hóa pháp luật ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 9/2005.

31. Nguyễn Trọng Điều (1996), Cải cách bộ máy nhà nước đối với vấn đề xây dựng đội ngũ

cán bộ, công chức nhà nước, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

32. Nguyễn Đức (2006), Quan tâm hơn nữa đối với cán bộ tư pháp cấp cơ sở, Báo Pháp luật

Việt Nam số 47 ra ngày 23/2/2006, Hà Nội.

33. Trần Ngọc Đƣờng, Giáo dục pháp luật cho người lao động trong điều kiện đổi mới của

Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Luật học.

34. Trần Ngọc Đƣờng (chủ biên, 1999), Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

35. Trần Ngọc Đƣờng (2004), Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện

pháp luật - Nhiệm vụ trọng tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân,

do dân, vì dân, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, Hà Nội, số 7/2004.

36. Trần Ngọc Đƣờng, Dƣơng Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục pháp luật, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

37. Phạm Kim Dung (2006), Cẩm nang pháp luật dành cho cán bộ cấp cơ sở, Nxb. Tƣ pháp,

Hà Nội.

Page 23: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

23

38. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb. Đại học Quốc gia Hà

Nội.

39. Nguyễn Đăng Dung (2008), Chính phủ trong nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

40. Hồ Quốc Dũng (1997), Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở nước ta - Thực trạng

và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học.

41. Trần Ngọc Dũng (2010), Hoàn thiện hệ thống giáo dục pháp luật ở Việt Nam nhằm thi

hành Hiến chương ASEAN, Tạp chí Luật học, số 1(116).

42. Vũ Minh Giang (1995), Xây dựng lối sống theo pháp luật - nhìn từ góc độ lịch sử truyền

thống, sách “Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật”, Hà Nội.

43. Giáo dục pháp luật và quá trình hình thành nhân cách (1990), Nxb. Pháp lý, Hà Nội.

44. Tô Tử Hạ (1998), Công chức và mấy vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện

nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

45. Lƣơng Đình Hải (2006), Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hóa xã hội ở

nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 1(176), tr. 5-9.

46. Lê Hồng Hạnh (2002), Giải pháp tăng cường pháp chế XHCN trong thực tiễn, Tạp chí

Quản lý Nhà nƣớc, số 2/2002.

47. Thu Hằng (2005), Công tác tuyên truyền pháp luật đã đi vào chiều sâu, Báo Pháp luật

Việt Nam, số 285 ra ngày 28/11/2005.

48. Nguyễn Đức Hạt (2007), Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, Tạp chí Cộng sản, số 776

(6/2007), tr. 8-12.

49. Hệ thống công vụ một số nước ASEAN và Việt Nam (1997), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

50. Vũ Văn Hiền (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu

của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

51. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung

một số điều của Hiến pháp 1992) (2002), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

52. Lê Thị Thanh Hoà (1998), Việc đào tạo và sử dụng quan lại của triều Nguyễn từ năm

1802 đến 1884, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

53. Đinh Duy Hòa (2007), Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiểu quả của bộ máy

quản lý nhà nước, Tạp chí Cộng sản, số 774, tr. 62-65.

54. Trần Đình Hoan (2008), Đánh giá quy hoạch luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời

kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

55. Nguyễn Ngọc Hoàng (2000), Đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở

nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội.

Page 24: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

24

56. Học viện Hành chính Quốc gia (1991), Mấy vấn đề về công vụ và công chức nước Cộng

hoà Pháp, Tài liệu tham khảo, Hà Nội.

57. Học viện Hành chính (18/5/2009), Quyết định số 962/QĐ-HVHC, Về việc ban hành danh

mục học phần do các đơn vị đảm nhận theo chương trình khung giáo dục đại học, áp

dụng đối với các lớp Đại học Hành chính, văn bằng 1, hình thức vừa làm vừa học, Hà

Nội.

58. Học viện Quản lý giáo dục (2009), Tài liệu bồi dưỡng nghiệp cụ sư phạm cho giảng viên

trường đại học, cao đẳng, Hà Nội.

59. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

60. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

61. Tố Hữu (2000), Nhớ lại một thời, Hồi ký, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.

62. Lê Ngọc Hùng (2004), Xã hội học hành chính: nghiên cứu giao tiếp và dư luận xã hội

trong cải cách hành chính, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.

63. Lê Đình Khiên (2002), Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính,

Luận án Phó Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.

64. Khoa Nhà nƣớc và Pháp luật (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1999), Đổi mới

giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường Chính trị ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa

học cấp Bộ, Hà Nội.

65. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật. Nxb.

Đại học Quốc gia Hà Nội.

66. Khoa Nhà nƣớc và Pháp luật (Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), Tổng quan khoa

học đề tài cấp Bộ năm 2001-2002, Hà Nội.

67. Nguyễn Duy Lãm (chủ biên, 1997), Một số vấn đề về phổ biến, giáo dục pháp luật trong

giai đoạn hiện nay, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

68. Nguyễn Đình Lộc, Ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật ở Việt Nam, Luận án

Phó tiến sĩ Luật học.

69. Trần Đức Lƣơng (2002), Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân

ngày càng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của Đảng, nhà

nước và nhân dân ta, Tạp chí Cộng sản số 1.

70. Luật Cán bộ, công chức (có hiệu lực từ ngày 1/1/2009).

71. Luật Giáo dục (1998), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

72. Trần Công Lý (2009), Giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện

nay, Luận án Tiến sĩ Quản lý hành chính công, Hà Nội.

73. C. Mác và Ph. Ăngghen 1993), Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

74. C. Mác và Ph. Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 39, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Page 25: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

25

75. Dƣơng Thanh Mai (1992), Về giáo dục pháp luật trong sự nghiệp nâng cao dân trí hiện

nay ở Việt Nam, Tạp chí Giáo dục và Đào tạo thƣờng xuyên, số 1/1992.

76. Dƣơng Thanh Mai (1994), Một vài suy nghĩ về đổi mới giáo dục pháp luật trong việc xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và quản lý kinh tế bằng pháp luật. Tạp chí Nhà

nƣớc và Pháp luật, số tháng 3/1994, Hà Nội.

77. Dƣơng Thanh Mai (1996), Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp - hình thức đặc thù

của giáo dục pháp luật, Luận án tiến sĩ Luật học.

78. Đinh Văn Mậu (2005), Bảo đảm về tổ chức - pháp lý đối với nền công vụ phục vụ nhà

nước và xã hội, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 5/2005.

79. Đinh Văn Mậu (2006), Tiêu chuẩn đầu tiên của nền hành chính trong sạch là phòng ngừa

tham nhũng, Tạp chí Quản lý Nhà nƣớc, số 3/2006.

80. S.L. Montesqieu (1996), Tinh thần pháp luật, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

81. Một số vấn đề về giáo dục pháp luật ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 1996.

82. Nghị định 169/HĐBT ngày 25/5/1991, Hà Nội.

83. Lê Đức Ngọc (2004), Giáo dục đại học - quan điểm và phương pháp, Nxb. Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

84. Ngọ Văn Nhân (2007), Phát huy vai trò của dư luận xã hội đối với công tác phòng, chống

các hành vi tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp

chí Luật học, số 8(87), Hà Nội.

85. Ngọ Văn Nhân (2008), Dư luận xã hội và sự tác động của nó đối với ý thức pháp luật của

đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội.

86. Nguyễn Văn Niên (1996), Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam - Một số vấn đề lý

luận thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

87. J.J. Rousseau, Bàn về khế ước xã hội (Hoàng Thanh Đạm dịch thuật, chú thích và bình

giải, 2004), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.

88. Đặng Thục Sinh, Trƣơng Tú Bình, Dƣơng Tuệ Mai (chủ biên, 2002), Một trăm cuốn sách

ảnh hưởng khắp thế giới, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.

89. Sở Tƣ pháp Hà Nội (1993), Giáo dục nâng cao hiểu biết pháp luật ở thủ đô - thực trạng

và giải pháp, Hà Nội.

90. Bùi Ngọc Sơn, Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền, Hà Nội.

91. Pháp lệnh Cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003), Hà Nội.

92. Thang Văn Phúc (2003), Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý cán bộ, công chức, Tạp chí

Cộng sản, số 22+23 (685+ 686), tr.68-72.

Page 26: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

26

93. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phƣơng (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội

ngũ cán bộ, công chức, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

94. Hoàng Thị Kim Quế (2003), Bàn về ý thức pháp luật, Tạp chí Luật học, số 1/2003, tr. 40-

44.

95. Hoàng Thị Kim Quế (2005), Một số nết đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật,

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật học, số 5(158), tr. 15-21.

96. Hoàng Thị Kim Quế (chủ biên, 2005), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp

luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

97. Hoàng Thị Kim Quế, Góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước

pháp quyền, Tạp chí Khoa học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

98. Nguyễn Duy Quý (2005), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - một số vấn

đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Cộng sản, số 23(746), tr. 32-36.

99. Phạm Hồng Thái (1997). Mấy vấn đề công vụ, công chức, trong sách “Đại hội Đảng cộng

sản Việt Nam”, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

100. Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu, Luật Hành chính Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh,

Thành phố Hồ Chí Minh.

101. Phạm Hồng Thái (2006), Bàn về việc hoàn thiện thể chế công vụ và xây dựng khung của

Luật Công vụ Việt Nam, Tạp chí Quản lý Nhà nƣớc, số 8/2006.

102. Phạm Hồng Thái (2006), Thầu công vụ - tư tưởng có tính thời đại, Tạp chí Nhà nƣớc và

Pháp luật, số 11/2006.

103. Lê Minh Tâm (1998), Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay, Tạp chí Luật học, số

5/1998.

104. Nguyễn Văn Tâm (1997), Vai trò của pháp lý về công chức nhà nước ở nước ta, Tạp chí

Dân chủ và Pháp luật, số 4/1997, Hà Nội.

105. Thái Vĩnh Thắng (2002), Tổ chức chính quyền địa phương của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam - quá trình hình thành và phát triển, những bất cập và phương hướng đổi

mới, Tạp chí Luật học, số 4/2002, tr. 55-61.

106. Nguyễn Văn Thảo (chủ biên, 1997), Về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

107. Đinh Xuân Thảo (1996), Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên

nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học.

108. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí

Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

109. Lâm Quang Thiệp (2005), Mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy và học ở đại học trong

thời kỳ mới, Tạp chí Lý luận - Khoa học Giáo dục, số 118/2005.

Page 27: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

27

110. Nguyễn Trọng Thóc (2001), Văn hóa pháp luật và vai trò của nó trong việc phát huy

quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 1/2001.

111. Nguyễn Xuân Thông, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ

cấp cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 22+23 (685+ 686).

112. Từ điển tiếng Việt (1994), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

113. Trần Thị Hồng Thúy, Ngọ Văn Nhân (2004), Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức

pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội.

114. Đỗ Lai Thúy (1996), Sự phát triển của ý thức cá nhân qua các mẫu người văn hóa, sách

“Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay”, t. 2, Hà Nội.

115. Nguyễn Thu Thủy (2006), Chất lượng giáo dục pháp luật và các tiêu chí đánh giá, Tạp

chí Luật học, số 5(72), tr. 61-66.

116. Đặng Hữu Toàn (2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và vấn đề thực

thi quyền làm chủ của nhân dân, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 9/2005.

117. Tổ chức bộ máy nhà nước và cải cách hành chính ở Cộng hòa Liên bang Đức, Nxb.

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.

118. Dƣơng Thiệu Tống (2005), Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập, Nxb. Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

119. Phạm Thị Ngọc Trầm (2006), Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự với vấn đề quyền và

nghĩa vụ của công dân, Tạp chí Triết học, số 4, tr. 3-9.

120. Trần Văn Trầm (2002), Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình

Định - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội.

121. Lê Công Triêm, Nguyễn Đức Vũ, Trần Tú Anh (2002), Những vấn đề hiện nay của

phương pháp dạy học đại học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

122. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2003), Chương trình đào tạo đại học (Ban hành kèm theo

Quyết định số 709/ĐT ngày 4/6/2003 của Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội), Hà

Nội.

123. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2009), Chương trình đào tạo đại học (Ban hành kèm theo

Quyết định số 1726/QĐ-ĐHLHN ngày 28/8/2009 của Hiệu trưởng Trường Đại học Luật

Hà Nội), Hà Nội.

124. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Nxb.

Công an nhân dân, Hà Nội.

125. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2004), Kỷ yếu 25 năm xây dựng và trưởng thành (1979 -

2004), Hà Nội.

126. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2009), Kỷ yếu 30 năm xây dựng và phát triển (1979 -

2009), Hà Nội.

Page 28: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

28

127. Đào Ngọc Tuấn (2002), Tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng Nhà nước pháp

quyền Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội.

128. Nguyễn Minh Tuấn (2003), Ý thức pháp luật của công chức hành chính trong giai đoạn

hiện nay ở nước ta, Hà Nội.

129. Thủ tƣớng Chính phủ (2001), Quyết định 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001,

Về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010, Hà Nội.

130. Thủ tƣớng Chính phủ (1998), Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998, Về việc tăng

cường công tác giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Hà Nội.

131. Thủ tƣớng Chính phủ (2003), Quyết định 69/2003/QĐ-TTg, Chương trình xây dựng, nâng

cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức giai đoạn I (2003 - 2005).

132. Thủ tƣớng Chính phủ, Quyết định 161/2003/QĐ-TTg ngày 04/08/2003, Quy chế đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức, Hà Nội.

133. Thủ tƣớng Chính phủ, Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg ngày 07/5/2001 về việc phê duyệt

Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001-2005.

134. Thủ tƣớng Chính phủ, Quyết định 40/2006/QĐ-TTg ngày 15/02/2006, Kế hoạch đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức trong giai đoạn 2006 - 2010.

135. Thủ tƣớng Chính phủ (2007), Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày 2/8/2007, Về việc

ban hành Quy chế văn hóa công sở, Hà Nội.

136. Hoàng Tuấn (2006), Đi “săn” quan xã đánh bạc, Báo Pháp luật Việt Nam số ra ngày

23/2/2006, Hà Nội.

137. Đào Trí Úc (2007), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội.

138. Đào Trí Úc (chủ biên, 1995), Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Viện nghiên

cứu Nhà nƣớc và Pháp luật.

139. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb.

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

140. Đào Trí Úc (chủ nhiệm đề tài, 1995), Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Đề tài

khoa học cấp Nhà nƣớc, mã số KX 07-17, Hà Nội.

141. Đào Trí Úc (1997), Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề cấp bách của

khoa học về nhà nước và pháp luật, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

142. Viện Nhà nƣớc và Pháp luật (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn), Cơ sở khoa học

của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Đề tài khoa học cấp Nhà nƣớc, mã số

KX- 07-17, Hà Nội.

143. Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý (1995), Một số vấn đề giáo dục pháp luật ở miền núi.

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Page 29: Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5959/1/00050000079.pdfđiều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp

29

144. Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý (1999), Báo cáo tổng hợp kết quả điều tra thực tế về

sự hiểu biết pháp luật, Hà Nội.

145. Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý (Bộ Tƣ pháp), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về

giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới, Đề tài KH cấp Bộ, Hà Nội.

146. Nguyễn Cửu Việt (2005). Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

147. Vụ Phổ biến Pháp luật - Bộ Tƣ pháp (1997), Một số vấn đề về giáo dục pháp luật trong

giai đoạn hiện nay. Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

148. Lƣơng Trọng Yêm (1996), Vài suy nghĩ về xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà

nước, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

II. Tài liệu tham khảo tiếng nƣớc ngoài

149. Muhammad Iqbal (2004), Training of Civil Servants in Pakistan: A Critical View, A

Thesis submitted to the University of Karachi, Pakistan in in Public Administration.

150. Borins, S. (1999), “Trends in training public managers” in International Public

Management Journal, vol.2:299-314.

151. OECD (1996), Public Service Training Systems in OECD Countries, Paris.

152. Ernesto Velasco Sanchez (2003), Training Senior Civil Servants, Lessons from Poland

and the UK. A dissertation submitted in partial fulfillment of the requirements to be

awarded the MBA Public Service.

153. Б. А. Козлов, Ю. А. Суслов (1981), Конкретно - социологические исследования в

области права, Ленинград.

154. Краткий словарь по социологии /Под. Общ. Редакцией Д. М. Гвишиани/(1989) изд.

Полит. Литература, Москва.