132
GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TS. TRẦN THỊ THU MAI Chỉ đạo tổ chức biên soạn giáo trình: TS. Nguyễn Kim Hồng, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh Quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giáo trình: Số 1267/QĐ-ĐHSPdo Hiệu Trưởng PGS. TS. Nguyễn Kim Hồng kí ngày 27 tháng 5 năm 2013 Quyết định phê duyệt sử dụng giáo trình: số 1333/QĐ-ĐHSP do Hiệu Trưởng PGS. TS. Nguyễn Kim Hồng kí ngày 06 tháng 6 năm 2013 Mã số sách chuẩn quốc tế - ISBN: 978-604-918-049-1 MỤC LỤC Giáo trình Tâm lí học người trưởng thành.......................1 LỜI NÓI ĐẦU...................................................1 CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH......2 1.1. Đối tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của Tâm lí học người trưởng thành....................................................... 2 1.2. Lí luận về tuổi trưởng thành...........................5 1.3. Sự phân chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành....13 PHẦN TÓM TẮT............................................... 15 CHƯƠNG 2: TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TRẺ TUỔI.............16 2.1. Một số điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí của người trưởng thành trẻ tuổi................................17

Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH

TS. TRẦN THỊ THU MAI

Chỉ đạo tổ chức biên soạn giáo trình: TS. Nguyễn Kim Hồng, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh

Quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giáo trình: Số 1267/QĐ-ĐHSPdo Hiệu Trưởng PGS. TS. Nguyễn Kim Hồng kí ngày 27 tháng 5 năm 2013

Quyết định phê duyệt sử dụng giáo trình: số 1333/QĐ-ĐHSP do Hiệu Trưởng PGS. TS. Nguyễn Kim Hồng kí ngày 06 tháng 6 năm 2013

Mã số sách chuẩn quốc tế - ISBN: 978-604-918-049-1

MỤC LỤCGiáo trình Tâm lí học người trưởng thành........................................................1

LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................1CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH.......2

1.1. Đối tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của Tâm lí học người trưởng thành......21.2. Lí luận về tuổi trưởng thành...............................................................51.3. Sự phân chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành.........................13PHẦN TÓM TẮT........................................................................................15

CHƯƠNG 2: TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TRẺ TUỔI.....................162.1. Một số điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí của người trưởng thành trẻ tuổi...............................................................................172.2. Đặc điểm tâm lí thời kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi (18 đến 25 tuổi).........................................................................................................252.3. Đặc điểm tâm lí thời kì thứ 2 của người trưởng thành trẻ tuổi (người thành niên, sau 25 đến 40 tuổi)..............................................................47

PHẦN TÓM TẮT...........................................................................................70CHƯƠNG 3: TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRUNG NIÊN...........................................72

Page 2: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

3.1. Điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí của người trung niên 723.2. Một số đặc điểm về hoạt động nhận thức người trung niên.............783.3. Đời sống xúc cảm - tình cảm người trung niên.................................793.4. Đặc điểm sự phát triển nhân cách người trung niên........................81PHẦN TÓM TẮT........................................................................................89

CHƯƠNG 4: TÂM LÍ HỌC NGƯỜI CAO TUỐI................................................914.1. Khái niệm tuổi già, tuổi thọ..............................................................914.2. Điêu kiện ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí người cao tuổi...........934.3. Một số đặc điểm của hoạt động nhận thức người cao tuổi...............974.4. Đời sống xúc cảm - tình cảm người cao tuổi....................................984.5. Đặc điểm sự phát triển nhân cách người cao tuổi............................98PHẦN TÓM TẮT......................................................................................101

TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................102

LỜI NÓI ĐẦUTâm lí học người trưởng thành là một môn học cung cấp một số hiểu

biết cơ bản về điều kiện phát triển tâm lí và những đặc điểm tâm lí đặc trưng của người trưởng thành. Từ đó, có cách nhìn đúng về các thuận lợi và khó khăn của người trưởng thành, và có cách ứng xử phù hợp với họ. Qua môn học này người học được hình thành những kiến thức: hiểu được các điều kiện phát triển tâm lí của người trưởng thành, nhận diện và giải thích được sự phát triển nhận thức, tình cảm, nhân cách… của người trưởng thành; những kĩ năng: vận dụng những nét tâm lí đặc trưng của người trưởng thành để giải thích các vấn đề ở lứa tuổi trưởng thành trẻ tuổi, trung niên và người cao tuổi, tìm được các giải pháp thích hợp giải quyết các hiện tượng đặc trưng của từng lứa tuối, sử dụng một số trắc nghiệm trong nghiên cứu về người trưởng thành; và đồng thời hình thành thái độ yêu thích tìm hiểu tâm lí người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên cứu, giao tiếp, ứng xử với người trưởng thành.

Page 3: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Quyển giáo trình Tâm lí học người trưởng thành này là sản phẩm kế thừa các tư liệu của những nhà khoa học nghiên cứu về Tâm lí học người trưởng thành và nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy, nhằm đáp ứng yêu cầu giảng dạy, học tập và nghiên cứu cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh các trường Đại học đối với môn Tâm lí học người trưởng thành.

Cấu trúc của giáo trình bao gồm 4 chương:

Chương 1: Lí luận chung về Tâm lí học người trưởng thành

Chương 2: Tâm lí học người trưởng thành trẻ tuổi

Chương 3: Tâm lí học người trung niên

Chương 4: Tâm lí học người cao tuổi

-

Lần đầu tiên, giáo trình Tâm lí học người trưởng thành được biên soạn theo chương trình và phương pháp đào tạo theo hệ thống tín chỉ, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và chia sẻ của các nhà khoa học, quý đồng nghiệp và bạn đọc để giáo trình tiếp tục được hoàn thiện hơn.

Trân trọng cảm ơn.

Tác giả

CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH1.1. Đối tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của Tâm lí học người trưởng thànhTừ khi Tâm lí học lứa tuổi trở thành một ngành khoa học độc lập vào

cuối thế kỉ thứ XIX, đầu thế kỉ XX đã xuất hiện những quan điểm nghiên cứu về thanh niên: quan điếm phát sinh sinh học về sự phát triển chú ý chủ yếu đến những yếu tố quyết định sinh học của sự phát triển, mà từ đó các thuộc tính tâm lí - xã hội xuất phát hoặc tương hợp (S. Holl, A. Gezell), quan điểm phát sinh xã hội hướng sự chú ý chủ yếu vào các quá trình xã hội hóa và vào những nhiệm vụ mà xã hội đặt ra trong một giai đoạn đường đời phù hợp (K.

Page 4: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Levin), quan điểm phát sinh tâm lí lấy sự phát triển của các quá trình và chức năng tâm lí riêng của học thuyết động thái - tâm lí của Erik Erikson. [2, 26-43]

Các nhà Tâm lí học nghiên cứu người trưởng thành có xu hướng làm sáng tỏ những đặc điểm tâm lí lứa tuổi trưởng thành và tiến trình phát triển nhân cách cá nhân qua các giai đoạn của người trưởng thành.

1.1.1. Đối tượng của Tâm lí học người trưởng thànhĐối tượng nghiên cứu của Tâm học người trưởng thành là các hiện

tượng tâm lý (quá trình tâm trạng thái tâm lí, thuộc tính tâm lí – phẩm chất tâm trong từng giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành. Cụ thể, Tâm lí học người trưởng thành nghiên cứu:

- Động lực của sự phát triển tâm lí người trưởng thành, làm rõ nguyên nhân, điều kiện, các nhân tố gây ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến sự hình thành và phát triển tâm lí con người trong mỗi giai đoạn của lứa tuổi trưởng thành, chỉ ra nhân tố nào đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển tâm lí. Cụ thể, đó chính là những điều kiện về thể chất, điều kiện sống và các dạng hoạt động, những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình sống và hoạt động của cá nhân trong từng giai đoạn của lứa tuổi trưởng thành.

- Những đặc điểm của các quá trình tâm lí và phẩm chất tâm lí của cá nhân ở các giai đoạn khác nhau của người trưởng thành. Đây là cơ sở quan trọng để từ đó, có cách nhìn đúng về các thuận lợi và khó khăn của người trưởng thành, và có cách ứng xử phù họp với họ.

- Những quy luật hình thành và phát triển của các quá trình tâm lí và nhân cách người trưởng thành, xem xét sự phát triển tâm lí của người trưởng thành được phát triển ra sao. Việc tìm ra các quy luật phát triển tâm lí sẽ giúp chúng ta thấy rõ được quá trình nảy sinh, hình thành và phát trien của các hiện tượng tâm lí người trưởng thành, từ đó dự đoán trước được sự phát triển hoặc lí giải được nhiều hiện tượng tâm lí khác nhau trong từng giai đoạn của lứa tuổi trưởng thành.

Page 5: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

1.1.2. Nhiệm vụ của Tâm lí học người trưởng thànhNhiệm vụ của Tâm lí học người trưởng thành là nghiên cứu những đối

tượng trên, từ đó rút ra những quy luật chung của sự phát triển nhân cách người trưởng thành, những nhân tố chỉ đạo sự phát triển nhân cách người trưởng thành; những biến đổi tâm lí của người trưởng thành dưới ảnh hưởng của hoạt động học tập, lao động và cuộc sống của chính họ… Từ đó cung cấp những kết quả nghiên cứu về mặt lí luận và ứng dụng cần thiết, để có sự quan tâm thích đáng và thái độ phù hợp, tích cực khi nghiên cứu, giao tiếp, ứng xử với người trưởng thành.

1.1.3. Ý nghĩa của Tâm lí học người trưởng thànhViệc nghiên cứu của Tâm lí học người trưởng thành có ý nghĩa hết sức

quan trọng trong thực tiễn cuộc sống. Việc hiểu biết những đặc điểm tâm lí con người ở từng giai đoạn khác nhau của lứa tuổi trưởng thành giúp chúng ta biết cách cư xử, có thái độ thích hợp khi giao tiếp với họ. Nắm bắt được những quy luật phát triển tâm lí sẽ giúp chúng ta theo dõi được sự phát triển, dự tính trước sự phát triển, đồng thời phát hiện kịp thời những dấu hiệu bất bình thường ở người trưởng thành, lí giải được nguyên nhân, từ đó có sự hỗ trợ cần thiết để giúp đỡ họ.

Những kiến thức về Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học Sư phạm cũng sẽ giúp chúng ta lí giải được những nguyên nhân thành công hay thất bại trong giao tiếp, ứng xử với người trưởng thành, đặc biệt trong các quá trình dạy học và giáo dục thanh niên, từ đó đề ra các biện pháp khắc phục kịp thời, giúp chúng ta xây dựng được những phương pháp giáo dục hiệu quả, thích ứng với thanh niên.

Trở thành người lớn (người trưởng thành) là một trong những chuyển tiếp quan trọng nhất trong các giai đoạn lứa tuổi của đời người, nhưng thật khó ấn định chính xác sự chuyển tiếp này diễn ra khi nào. Các nghiên cứu về tuổi trưởng thành sẽ định nghĩa về tuổi trưởng thành và các dấu hiệu của tuổi trưởng thành.

Page 6: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

1.2. Lí luận về tuổi trưởng thành1.2.1. Khái niệm về tuổi trưởng thànhKhi nào thì một người đạt đến trưởng thành? Tính theo năm tuổi không

giúp ích gì trong trường hợp này, bởi vì một người có thể được xem là trưởng thành ở tuổi 20 nhưng người khác mãi đến tuổi 40 vẫn không có hi vọng gì về việc trưởng thành. Người trưởng thành là một khái niệm tổng hợp được xem xét cả trên bình diện Sinh học, Tâm lí học, Xã hội học.

Các nhà nghiên cứu dựa trên khả năng tính dục cho rằng, “nhận” và “trao” tình yêu một cách đích thực và sâu sắc hoặc biết biểu lộ hành vi âu yếm hay nhu cầu bản năng tính dục là biểu hiện của sự trưởng thành. Họ cho rằng những cá nhân trưởng thành phải có ý thức về mục đích cuộc sống của mình và khả năng duy trì nòi giống. Các nghiên cứu nhấn mạnh yếu tố xã hội lại cho rằng, kết bạn, bị thu hút bởi người khác hay chăm sóc bản thân trong mối quan hệ tâm lí là biểu hiện của sự trưởng thành.

Một cách xem xét sự trưởng thành nữa là sự vận dụng khả năng để đương đầu tốt với những biến cố hay những quyết định mà hầu hết ai cũng phải đối mặt cụ thế vài lần trong đời. Trong những giai đoạn của thuyết Erikson, sự trưởng thành ở tuổi vị thành niên phải bao gồm việc hoàn thành khi giải quyết các khủng hoảng tăng trưởng ở tuổi ấu thơ và thiếu niên, khả năng tiến tới kết thân với người khác (khả năng tính dục), một vài người thì lo lắng về vấn đề hướng dẫn con cái hay vấn đề truyền sinh (Whitboume và Waterman, 1979). [32]

L. Hoffman & Manis (1979) xem xét sự trưởng thành là sự tự nhận thức. Cái gì khiến con người ta cảm thấy mình trưởng thành? L. Hoffman và Manis đã khảo sát với hơn 2.000 nam nữ có gia đình về đề tài: Đâu là sự kiện quan trọng nhất trong đời mà làm họ cảm thấy họ thật sự trưởng thành. Trở thành cha mẹ và việc nâng đỡ ai đó là dấu hiệu được họ thừa nhận nhiều nhất cho sự trưởng thành (L. Hoffman và Manis, 1979). [32]

Thật khó khi định nghĩa về tuổi trưởng thành vì nó luôn biến đổi và phức tạp. Sự trưởng thành cần đến một tiến trình điều chỉnh liên tục những

Page 7: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

thay đổi không ngừng nơi ước muốn và tính trách nhiệm. Một người có thể trưởng thành cho dù họ không lập gia đình, không con cái hoặc không công việc nghề nghiệp. Người trưởng thành biết họ là ai, họ muốn đi đâu, họ hướng đến mục đích gì.

Theo nghiên cứu của nhiều nhà Tâm lí học, Xã hội học, khái niệm tuổi trưởng thành được xác định dựa theo một tổ họp các tiêu chí sau đây (Theo Vũ Thị Nho, 2000):

- Sự chín muồi, về mặt sinh lí, thể chất nghĩa là sự hội tụ đầy đủ những điều kiện sinh học để làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ, cũng như làm một người lao động thực sự trong gia đình và xã hội.

- Có đầy đủ những quyền hạn và nghĩa vụ của một người công dân như đi bầu cử, ứng cử, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hành vi, hoạt động của mình.

- Đã kết thúc việc học tập ở những mức độ khác nhau.

- Có nghề nghiệp ổn định.

- Có lao động để nuôi sống bản thân và gia đình.

- Đã xây dựng gia đình riêng (lấy vợ, lấy chồng).

- Có cuộc sống kinh tế độc lập không phụ thuộc vào cha mẹ hoặc người đỡ đầu [12].

Người trưởng thành là một khái niệm tổng hợp được xem xét cả trên bình diện Sinh học, Tâm lí học, Xã hội học. Những công trình nghiên cứu cho thấy sự chín muồi sinh học thường đi trước, sớm hơn tuổi chín muồi về tâm lí và xã hội khá nhiều. Bởi vậy, dưới góc độ Tâm lí học mà xét, tuổi trưởng thành toàn diện của con người thường đến chậm hơn 2, 3 năm. Không những thế, khái niệm tuổi trưởng thành cũng còn tùy thuộc vào thời gian đào tạo và trình độ học vấn. Đó cũng chính là lí do giai đoạn “người trưởng thành trẻ

Page 8: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

tuổi” thường được lấy mốc từ 20 tuổi trở lên, chậm hơn chút ít so với tuổi công dân (18 tuổi).

Dựa vào những tiêu chuẩn trên, những người không học lên Cao đẳng, Đại học thì độ tuổi trưởng thành của họ thường từ 20 tuổi. Giai đoạn người trưởng thành trẻ tuổi từ 18-20 đến 40 tuổi. Tóm lại, người trưởng thành là những người có độ tuổi từ 20 trở lên và hiểu về chính mình một cách tương đối cũng như xác lập mục tiêu cuộc đời trong một cái nhìn tổng thể.

1.2.2. Một số thuyết về tuổi trưởng thành1.2.2.1. Thuyết động thái tâm lí của Erik Erikson

Theo Erik Erikson (1982) người trưởng thành trẻ tuổi là quãng đời tương ứng với giai đoạn thứ 6 trong 8 giai đoạn phát triển của đời người: Giai đoạn được đặc trưng bằng sự xuất hiện nhu cầu và năng lực gần gũi thân thiết về mặt tâm lí với người khác, bao gồm cả sự gần gũi tình dục. Đối lập với nó là tình cảm ẩn dật và thích cô độc (xem bảng 1). Khi người thanh niên thắng được những đối chọi, thì họ có thể tự mình tiến tới đòi hỏi bản thân sự hi sinh và chấp nhận. Họ có thể yêu người khác một cách không vị kỉ nhiều hoặc ít hơn. Nấu mà sự "cô lập" thống trị trong sự tương quan với thân mật thì mối quan hệ tình cảm sẽ trở nên lãnh đạm và gượng ép, và cũng chẳng có sự giao lưu tình cảm thực sự nào. Con người ta có thể quan hệ tình dục không phải với mục đích phát triển sự thân mật, đặc biệt khi anh ta hay cô ta sợ rằng sợi dây tình cảm sẽ dẫn đến một quan hệ cam kết gò bó. Khi hình thái quan hệ tình dục buông thả này định hình nên cuộc sống của một người nào đó thì có lẽ vì họ cảm thấy tự do (Erikson & Hall, 1987).

Erikson cho rằng những khác biệt văn hóa ảnh hưởng đến tiến trình tăng trưởng trong từng giai đoạn gặp phải. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu đã tiến hành cuộc điều tra theo cơ cấu chiều dọc về tiến trình trưởng thành tin rằng kết quả nghiên cứu của Erikson chỉ ảnh hưởng trên những nền văn hóa nơi mà chủ nghĩa cá nhân được đề cao nhưng trách nhiệm công dân thì không được xã hội lưu tâm một cách chặt chẽ (Vaillant & Milofsky, 1980).

Page 9: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Bảng 1. Các giai đoạn khủng hoảng của Erỉk Erikson

[Theo Nguyễn Văn Đồng - 4, 172-173]

Khủng hoảng Kết quả mong đợi Kết quả không mong đợi

Năm thứ nhất Tin- không tin

Hi vọng. Tin vào môi trường và tương lai.

Sợ tương lai. Nghi ngờ.

Năm thứ haiTự trị - xấu hỗ, nghi ngờ

Mong muốn. Khả năng thực thi sự lựa chọn như sự tự kiềm chế, cảm giác tự kiểm soát và tự trọng dẫn đến mong muốn tốt và tự hào.

Cảm giác mất tự chủ hoặc bị người ngoài kiểm soát, kết quả là xấu hổ và nghi ngờ việc liệu cá nhân có thể làm cái mình muốn hoặc muốn cái mình đã làm.

Năm thứ ba đến năm thứ nămChủ động - được dẫn dắt

Nguyên nhân. Khả năng chủ động hành động, chỉ ra phương hướng và thưởng thức sự đồng hành

Sợ trừng phạt. Tự hạn chế hoặc phô trương sự bù trừ vượt mức.

Năm thứ sáu đến tuổi dậy thìCần cù - kém cỏi.

Năng lực. Khả năng liên hệ với thế giới kĩ năng và kĩ xảo, thực thi sự khéo léo và trí tuệ nhằm làm được việc và làm tốt

Cảm giác không tương xứng và thấp kém

Thanh niênNhận dạng - lúng túng vai trò xã hội

Sự chuẩn xác. Khả năng nhìn nhận bản thân như một cá nhân duy nhất và tích hợp để duy trì tính kiên định.

Lúng túng về việc mình là ai.

Page 10: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

của cá nhânNgười trưởng thành trẻ tuổi Gần gũi - cô đơn

Tình yêu. Khả năng đem bản thân và nhận dạng bản thân cống hiến cho người khác.

Lẩn tránh tình yêu và lẩn tránh cống hiến cho tình yêu. Xa lánh người khác.

Người trung niênSinh lực -ngưng trệ

Chăm sóc. Mở rộng khái niệm về những gì do tình yêu, nhu cầu và tai nạn tạo ra. Vì con cái, công việc hoặc lí tưởng.

Sống buông thả, buồn tẻ và kiệt quệ trong quan hệ liên nhân cách.

Người cao tuổiSự sung mãn - nỗi tuyệt vọng

Sự thông thái. Phân tích được nội dung của bản thân cuộc sống, hiểu được ý nghĩa và chân giá trị của cuộc sổng, chấp nhận thực tế là ai cũng phải chết.

Ghê tởm cuộc sống, tuyệt vọng vì phải chết.

1.2.2.2. Thuyết về những “mùa vụ” của Levinson

Một thuyết khác về các giai đoạn phát triển trưởng thành đã được lập ra bởi Daniel Levinson (Levinson & cộng sự, 1978). Ông nói rằng thuyết này miêu tả một cách sống động những “mùa của cuộc sống con người”. Ông nhấn mạnh thuyết của mình được xây dựng trên thuyết tâm lí của Erikson. Thuyết Levinson miêu tả sự tăng trưởng của người nam từ khoảng giữa tuổi 17, chú ý tới chuỗi trật tự luân phiên giữa giai đoạn định vị và giai đoạn biến đổi. Trong những giai đoạn định vị, người nam ít nhiều có thể đạt những đích điểm (của từng giai đoạn) một cách thanh thản bởi vì quá trình phát triển thích hợp đã được giải quyết. Giai đoạn biến đổi có thể dẫn đến những thay đổi chính yếu trong cấu trúc đời sống của họ. Vào những thời điểm này, người nam đang có những khát vọng đến khuôn mẫu lí tưởng của đời sổng họ, cũng như khám phá ra những khả năng mới nơi họ. Levinson đặt thuyết

Page 11: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

của ông trên nền một chuỗi nghiên cứu sâu kín nơi 40 người nam (người Mĩ da trắng cũng như người da đen, tầng lớp lao động cũng như tầng lóp trung lưu).

Levinson thấy rằng lứa tuổi từ 17 đến 22 là giai đoạn của những thay đổi hướng đến sự trưởng thành ban đầu. Trong tiến trình tăng trưởng, cũng tựa như sự trưởng thành tính cách của Erikson, người nam không ngừng tiến tới trong việc phát triển tâm lí độc lập với cha mẹ…Vào tuổi 22, họ độc lập hoàn toàn và chuyển vào giai đoạn định vị khi họ ra sức đặt mình vào thế giới tuổi trưởng thành. Cùng lúc này họ quan tâm đến việc thiết lập mối quan hệ với người khác phái và dần kiến thiết một mái ấm; một gia đình - giai đoạn phát triển tương giao thân mật, theo như các giai đoạn của Erikson. Trong vòng 6 năm sau, lúc họ khoảng 28 tuổi, họ tiến vào một giai đoạn biến đổi khác. Đây là thời khắc họ thấy được những lỗ hổng trong khung hình mẫu của đời sống họ và họ tiến hành những chọn lựa mới. Rồi vào khoảng tuổi 33, họ sẵn sàng yên vị. Có nghề nghiệp vững chắc là mục đích chính của họ và người đàn ông tập trung vào phát triển những kĩ năng cũng như đào sâu vốn kinh nghiệm. Đồng thời, họ cũng hoạt động để đạt đến những ước vọng lớn lao mà họ đã từng đặt ra cho mình hoặc nồ lực đạt đến một tổ chức liên doanh hay làm chủ một công ti nào đó…

Những cố gắng trong việc áp dụng thuyết của Levinson cho người nữ cũng thu được những kết quả tương tự. Một vài thực nghiệm chỉ ra rằng người phụ nữ cũng trải qua những giai đoạn như người nam ở tuổi thiếu niên, và cũng vào cùng những thời điểm nhưng có một vài khác biệt. Sự thay đổi của phụ nữ ở tuổi 30 thể hiện hình thức một khẳng định mới, khi họ có khuynh hướng chuyển sang chú tâm đến việc chăm sóc gia đình (hoặc ngược lại). Thay vì yên vị, ở tuổi 30 người phụ nữ nỗ lực hòa hợp những quyết định mới vào guồng máy cuộc sống của họ.

1.2.2.3. Thuyết về “những biến động” của Gould

Page 12: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Roger L. Gould (1975, 1978) với thuyết phát triển ở tuổi trưởng thành dành cho cả hai giới dựa trên số liệu nghiên cứu từ 524 người đàn ông và phụ nữ được thực nghiệm thuộc tầng lớp trung lưu, da trắng ở Mĩ. Từ những câu trả lời của họ trong bảng câu hỏi ở mọi khía cạnh, Gould kết luận rằng tiến trình tăng trưởng ở tuổi trưởng thành phải trải qua một chuỗi những biến động. Ở mỗi giai đoạn, con người phải khẳng định ý niệm phản thân, đối mặt với khủng hoảng ấu thơ và giải quyết những xung đột.

Trong thuyết của Gould, người thành niên trải qua bốn giai đoạn. Ở giai đoạn thứ nhất, bắt đầu trong khoảng từ lứa tuổi thiếu niên cho đến tuổi 22, con người đang dần hình thành tính cách và dần rời xa vòng tay của bố mẹ. Với ý chí tự khẳng định, con người bước vào giai đoạn thứ hai, trong suốt giai đoạn này thường chịu ảnh hưởng để đạt đến những mục đích của mình. Giữa khoảng tuổi 28 - 34, con người phải trải qua giai đoạn chuyển mình, trong giai đoạn này chúng gợi lại những mục đích khi xưa và thực hiện việc lập gia đình. Vào tuổi 35, họ có những mâu thuẫn sâu sắc cùng với nhận thức ra ngưỡng cửa của tuổi trung niên đang tiến gần họ một cách dữ dội. Cuộc sống dường như đầy khó khăn, đau khổ và phiêu lưu. Trong suốt giai đoạn bấp bênh - có khi kéo dài cho đến sau tuổi 40, dường như, có cái gì đó đã “xé toang” một phần đời sống của họ và buộc họ phải đặt nó vào một lộ trình mới. Người độc thân có thể lấy vợ, người có gia đình lại muốn li hôn, người mẹ muốn đến trường hoặc trở lại làm việc, những cặp đôi luống tuổi quyết định thành thân. Thuyết của Gould tương đương với thuyết “mùa vụ cuộc đời” của Levinson mà đặc biệt giống nhau khi áp dụng cho người phụ nữ. Cả hai thuyết đều được triển khai cùng một thời điểm - thập niên 1970 - Levinson nghiên cứu về người đàn ông ở vùng Tây Bắc Hoa Kì còn Gould thì lại nghiên cứu nam nữ ở California [35].

1.2.2.4. Thuyết “nhu cầu làm cha mẹ” của Gutmann

Trong những năm gần đây, một vài nhà nghiên cứu về sự phát triển đã đưa ra một số thuyết về sự tăng trưởng ở thanh niên đặt nền trên mối liên hệ giữa thuyết tiến hóa sinh học và hình thái âu yếm và nuôi nấng con cái. Phần

Page 13: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

đông việc làm này tập trung vào ý kiến cho rằng sự sống sót của loài phụ thuộc vào sự bảo tồn và nuôi nấng thế hệ sau cho tới khi chúng vào tuổi sinh sản, sự tăng trưởng của con người có lẽ cũng ảnh hưởng theo qui luật này. Theo thuyết tăng trưởng của David Gutmann (1987), sự tăng trưởng xét cho cùng cũng xoay quanh nhu cầu làm cha mẹ của con người. Ông ta cho ràng mọi thế hệ đã tiến hóa sinh ra những trẻ nam nữ với tính cách đảm bảo được độ hoàn thiện về thể chất và tình cảm nơi con cháu. Trong xã hội sơ khai, người cha với uy lực, độc đoán, giáo dục con cái mình theo một cách áp đặt. Với sự chăm sóc, đồng cảm, dịu hiền và thông hiểu khiến cho người mẹ dễ gần con cái và luôn đạt được độ tin cậy thân tình.

Theo Gutmann, sự tiến triển chỉ thể hiện tiềm năng trong những vai trò của từng giới. Qua những năm tháng sống trong cộng đồng, người nam hay người nữ sẽ trở nên tự nhiên với đặc điểm bề ngoài và cảm thấy thú vị về chính họ. Khi họ trở thành cha mẹ thì những ông bố sẽ có nét gia trưởng hơn, quan tâm của họ là sự yên ổn cho gia đình (thể chất và kinh tế). Vì một ông bố ỷ lại, thụ động, nhu nhược sẽ gây khó khăn trong khả năng mang lại cho gia đình những nhu cầu cần thiết hoặc trong việc nuôi dưỡng con cái, người đàn ông phải loại trừ mọi nguy cơ dẫn đến sự lệ thuộc và nhu nhược. Những bà mẹ mới cũng trở nên hiền mẫu đích thực, mối bận tâm của họ là chăm sóc và nuôi nấng đàn con. Vì một người mẹ dữ dằn, thiếu lòng yêu thương sẽ gây tổn thương cho con cái hoặc trấn áp chồng mình. Người mẹ phải ra sức loại bỏ những nguy cơ trở thành một bà mẹ quyết đoán, khắt khe và nóng nảy cho đến khi con cái họ trở thành thanh niên rời bỏ gia đình để khẳng định vai trò của mình mà bấy lâu nay vốn bị chôn vùi trong những quan tâm của cha mẹ.

Mặc dù thuyết của Gutmann có ý dùng cho mọi chế độ xã hội trong mọi giai đoạn lịch sử, nhưng quả thực nó giới hạn trong xã hội hiện đại nơi mà vai trò cha mẹ không còn quan trọng nữa. Khi những ông bố bà mẹ chia sẻ cùng con cái trong việc cung cấp những nâng đỡ vật chất, sự chăm sóc cũng như sự an toàn tâm lí, tình cảm; tuổi làm cha mẹ có lẽ yêu cầu những

Page 14: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

thay đổi lớn trong trách nhiệm và cá nhân ít hơn như theo đề nghị của thuyết Gutmann.

Các quan điểm của các lí thuyết được nêu ở trên nói lên sự bắt đầu của tuổi trưởng thành tùy thuộc nhiều vào yếu tố văn hóa và tâm, sinh lí, trong đó việc tự xác định mình như người lớn dựa vào nhận thức của cá nhân, liệu cá nhân có đáp ứng các tiêu chuẩn quan trọng liên quan hay không trở thành một tiêu chí cực kì quan trọng.

1.3. Sự phân chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành 1.3.1. Các tiêu chí phân chia lứa tuổi người trưởng thànhCác nhà Xã hội học thường phân chia giai đoạn lứa tuổi chủ yếu dựa

trên sự thay đổi vị trí xã hội và hoạt động xã hội của cá nhân, đồng thời chú ý nhiều vào những thuộc tính (phẩm chất) của từng giai đoạn của lứa tuổi người trưởng thành với tư cách là một nhóm dân cư - xã hội. Các giai đoạn lứa tuổi của con người còn chửa đựng sự kế thừa tâm lí xã hội. Sự kế thừa tâm lí là sự tiếp nhận các kinh nghiệm xã hội, các đặc điểm tâm lí của thể hệ hiện tại đối với các thế hệ trước đó. Sự kế thừa tâm lí giúp cho cá nhân thích nghi với các nhóm xã hội tốt hơn và nó cũng chính là biểu hiện của sự điều chỉnh xã hội.

Các giai đoạn lứa tuổi không những chỉ ra lứa tuổi tính theo thời gian và mức độ phát triển nhất định của cá thể về mặt sinh lí và tâm lí mà còn chỉ ra vị thế xã hội nhất định, địa vị và hoạt động xã hội, đặc trưng cho một lóp lứa tuổi nào đó. Ở đây ta thấy có mối liên hệ ngược. Một mặt, con người ở lứa tuổi khác nhau (đằng sau đó là trình độ phát triển tương ứng) sẽ khác nhau về năng lực thực hiện các chức năng xã hội (vai trò). Ví dụ, thời hạn trưởng thành về mặt sinh học và về mặt xã hội quyết định lứa tuổi kết hôn theo luật pháp, quyết định tuổi trưởng thành của người công dân… Mặt khác, các quyền lợi và nghĩa vụ, tính chất của những hoạt động gắn liền với một giai đoạn lứa tuổi nào đó sẽ quyết định vị trí xã hội thực tế của những người đang ở giai đoạn lứa tuổi đó, sự tự ý thức của họ và mức độ của những khát vọng. Việc phân chia cuộc đời người ra từng giai đoạn bao giờ cũng bao gồm yếu tố

Page 15: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

định mức - giá trị, việc chỉ ra những nhiệm vụ nào mà cá thể đã đạt tới một lứa tuổi nào đó phải giải quyết nhàm di chuyển một cách kịp thời và có kết quả sang một giai đoạn sống tiếp theo và một giai đoạn lứa tuổi tiếp sau. [2, 9]

Như vậy, dựa vào khái niệm tuổi trưởng thành và các thuyêt tâm lí về tuổi trưởng thành chúng ta có thể dựa vào các tiêu chí về sự trưởng thành về mặt sinh lí, tâm lí và xã hội của cá nhân để phân chia lứa tuổi người trưởng thành theo các giai đoạn lứa tuổi khác nhau.

1.3.2. Các giai đoạn lứa tuồi người trưởng thànhNghiên cứu lứa tuổi người trưởng thành chúng ta phải xem xét sự phát

triển các hiện tượng tâm lí của người trưởng thành trong mối liên hệ với quá trình thực tế của đời sống và hoạt động của cá nhân trong những điều kiện xã hội - lịch sử và những điều kiện khác của sự phát triển cá thể

Dựa vào các tiêu chí trưởng thành về mặt sinh lí, tâm lí và xã hội có thể phân chia tuổi người trưởng thành theo các giai đoạn sau:

- Người trưởng thành trẻ tuổi - early adulthood (20 - 40 tuổi),

- Người trung niên - middle age (40 - 60 tuổi),

- Người lớn tuổi - later maturiti (60 tuổi + ).

PHẦN TÓM TẮTNgười trưởng thành là một khái niệm tổng hợp được xem xét cả trên

bình diện sinh học, Tâm lí học, Xã hội học.

Các quan điểm của các lí thuyết về tuổi trưởng thành nói lên sự bắt đầu của tuổi trưởng thành tùy thuộc nhiều vào yếu tố văn hóa và tâm, sinh lí. Trong đó việc tự xác định mình như người lớn, dựa vào nhận thức của cá nhân, liệu cá nhân có đáp ứng các tiêu chuẩn quan trọng liên quan hay không.

Dựa vào các tiêu chí trưởng thành về mặt sinh lí, tâm lí và xã hội có thể phân chia tuổi trưởng thành theo các giai đoạn sau:

Page 16: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

1. Người trưởng thành trẻ tuổi - early adulthood (20 - 40 tuổi)

2. Người trung niên - middle age (40 - 60 tuổi)

3. Người cao tuổi - later maturiti (60 tuổi +).

Câu hỏi thảo luận1. Tại sao nói đối tượng nghiên cứu của Tâm lí học người trưởng thành

là các hiện tượng tâm lí (quá trình tâm lí, trạng thái tâm lí, thuộc tính tâm lí - phẩm chất tâm lí) trong từng giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành?

2. Phân tích nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lí học người trướng thành

3. Nêu điểm khác nhau cơ bản của các thuyết tâm lí của tuổi trưởng thành.

4. Dựa vào đâu để phân chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành.

Bài tập thực hànhTìm hiểu những quan niệm của sinh viên về tuổi trưởng thành, các tiêu

chí phân chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành.

Khách thể: Chọn sinh viên trong những lớp mà anh chị đang giảng dạy, hoặc sinh viên trong các cơ sở Giáo dục Đại học (trên 30 sinh viên).

Yêu cầu: Nêu được những quan niệm của sinh viên lựa chọn về tuổi trưởng thành, các tiêu chí phân chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành

Cách thực hiện:

- Xây dựng phiếu câu hỏi lấy ý kiến sinh viên. Có thể sử dụng thêm các phương pháp điều tra khác như phương pháp quan sát, đàm thoại, sưu tầm tài liệu….

- Thu thập và xử lí số liệu để viết báo cáo.

- Rút ra các kiến nghị và đề xuất có liên quan đến nội dung nghiên cứu.

Page 17: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Câu hỏi ôn tập1. Đối tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của tâm lí học người trưởng thành là

gì?

2. Trình bày tóm tắt các lí thuyết về tuổi trưởng thành và chỉ ra những mặt ưu điểm và hạn chế của các lí thuyết đó.

3. Trình bày quan niệm về tuổi trưởng thành và sự phân chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành

CHƯƠNG 2: TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TRẺ TUỔIBắt đầu tuổi trưởng thành là một thời điểm trong đời khi chúng ta giã

từ thời thơ ấu và khát khao được trở thành người lớn. Đầu tuổi trưởng thành là đỉnh điểm của quá trình phát triển cơ thể và sức khỏe. Đây cũng là thời gian đánh dấu đỉnh điểm của một số khả năng nhận thức, và sự tiếp tục phát triển của những khả năng khác. Người trưởng thành trẻ tuổi bao gồm 2 thời kì:

- Thời kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi (18 đến 25 tuổi), thời kì này thanh niên bước vào học nghề ở các trường dạy nghề, cao đẳng, đại học nên còn được gọi tên là thời kì thanh niên sinh viên. Đây là thời điểm chúng ta hoạch định, mơ ước về tương lai và suy nghĩ cuộc sống trong tư cách người lớn phải là cuộc sống như thế nào.

- Thời kì thứ hai của người trưởng thành trẻ tuổi còn được gọi là thời kì thành niên (sau 25 tuổi đến 40 tuổi) là thời kì lập thân và lập nghiệp cho cuộc đời của mỗi người.

2.1. Một số điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí của người trưởng thành trẻ tuổi

2.1.1. Đặc điểm sự phát triển thể chấtVào thời gian đầu của tuổi trưởng thành, hầu hết mọi người đều đạt

đến đỉnh điểm của sức khỏe, tốc độ và linh hoạt của thể chất. Đàn ông có khuynh hướng tự hào về thân hình của họ, còn phụ nữ thì không. Khi 300

Page 18: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

thanh niên nam nữ tuổi trung học được thăm dò lấy tỉ lệ về thể trạng. Nữ sinh (không quá gầy) thấy họ lớn hơn chuẩn của bạn trai và càng to hơn so với thân hình lí tưởng của chính phái đẹp (Fallon and Rozin, 1985). Nam sinh (những bạn to lớn) thấy họ theo sau cả các bạn nữ lẫn hình thể chuẩn của phái mạnh. Và cũng như thế đối với vấn đề thu hút giới tính, trong quan niệm về tiêu chuẩn của giới này đối với giới kia, người nữ lí tưởng của đàn ông thì béo hơn người nừ bên ngoài và người đàn ông lí tưởng trong mắt người nữ thì lại gầy hơn người nam bên ngoài.

Lúc người thanh niên đã đạt đến điểm hoàn thiện thể chất ở tuổi trưởng thành, cũng là lúc nhiều dấu hiệu của lão hóa bắt đầu xuất hiện. Trong khoảng tuổi 20, người ta đã có ít nhiều những thay đổi ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể con người (A.Spence, 1989). Đặc điểm của cơ bắp và sức khỏe đạt đến điểm hoàn thiện ở độ tuổi 20-30, rồi sau đó giảm xuống dần. Độ tinh nhạy của tai và mắt cũng bẳt đầu giảm xuống ở độ tuổi 20. Nếp nhăn đầu tiên xuất hiện ở đuôi mắt và da bị lão hóa, đặc biệt đổi với những người có nhiều tàn nhang. Tia cực tím tiêu diệt DNA và các tố chất bảo vệ da, và vì thế chúng làm chậm lại tiến trình phục hồi của da, dẫn tới da bị mỏng và nhăn nheo (Perlmutter& Hall, 1992).

Những thay đổi cũng xảy ra bên trong cơ thể. Mặc dầu trọng lượng không thay đổi, nhưng qua cuộc điều tra về tuổi thanh niên cho thấy lượng tế bào trong cơ bắp bắt đâu giảm. Ngoài ra lượng khí vận chuyển vào phổi trong mỗi lần hít thở cũng có dấu hiệu giảm sút ở tuổi hai mươi và giảm trung bình 1% mỗi năm; cũng như thế đổi với tỉ lệ lọc máu của thận (Vestal & Dawson, 1985). Những dây động mạch cũng bắt đầu già với sự xuất hiện của các màng mỡ thô, vàng nơi thành động mạch nơi những người có hội chứng xơ vữa cứng động mạch. Việc kiêng khem ngặt nghèo hoặc thiếu tập thể dục sẽ thúc đẩy sự phát triển những căn bệnh kinh niên sẽ xuất hiện ở tuổi trung niên và tuổi già.

Một vài người trẻ lo lắng về những thay đổi này, khi mà có nhiều người ở tuổi 30 thấy xuất hiện vài sợi tóc bạc. Có lẽ do thiếu quan tâm mà một

Page 19: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

phần là vì kém hiểu biết về sự phát triển thể chất của con người đã đạt đến mức hoàn thiện ở tuổi 25 - 26 (nữ sớm hơn nam khoảng 2 năm) như: Trọng lượng não đạt mức tối đa, số lượng nơ-ron thần kinh lên tới mức cao nhất (14 - 16 tỉ), với chất lượng hoàn hảo nhờ quá trình myelin hóa cao độ, số lượng xi-nap của các tế bào thần kinh đảm bảo cho một sự liên lạc rộng khắp, chi tiết, tinh tế và linh hoạt giữa vô số kênh làm cho hoạt động của não bộ trở nên nhanh, nhạy và chính xác đặc biệt so với các lứa tuổi khác.

Những biểu hiện về giai đoạn phát triển ổn định, đồng đều về hệ xương, cơ bắp, tạo ra nét đẹp hoàn mĩ ở người thanh niên; Các tổ chất về thể lực: sức nhanh, sức bền bỉ, dẻo dai, linh hoạt đều phát triển mạnh và nhìn chung thường kéo dài đến độ tuổi 26. Vì vậy thanh niên thường nổi trội trong những môn thể thao đòi hỏi phản ứng nhanh, tốc độ và khỏe mạnh, chẳng hạn như trong môn chơi bóng rổ, đấu võ đài, tennis, trượt tuyết, bóng chày (Schulz & Cumow, 1988). Sau tuổi 25 - 26, mọi sự phát triển về thể chất đều dừng lại và khoảng 30 tuổi thì bắt đầu có sự đi xuống, đó là lí do mà hầu hết các vận động viên chuyên nghiệp bắt đầu cảm thấy có tuổi khi họ bước vào tuổi 30.

2.1.2. Điều kiện sống, hoạt động và vai trò xã hội của người trưởng thành trẻ tuổi

Xét về các điều kiện sống và hoạt động của người trưởng thành trẻ tuổi cho thấy họ đang đứng trước những ngã rẽ của cuộc đời, người thì tiếp tục đi học, người thì bắt đầu lao động kiếm sống… Đa số họ đều thiết lập dần dần cuộc sống độc lập. Trong gia đình, họ được xem như là một thành viên chính thức, được đối xử một cách công bằng như những người lớn thực thụ. Ngoài xã hội, họ trở thành những thành viên chính thức của xã hội với đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ công dân trước pháp luật.

Hoạt động chủ yếu ở giai đoạn lứa tuổi này là hoạt động nghề nghiệp. Nếu chưa phải lao động kiếm sống thì sau khi tốt nghiệp phổ thông (trung học cơ sở hay trung học phổ thông) họ thường tiếp tục theo học tại các cơ sở đào tạo hệ Trung cấp, Cao đẳng, hoặc Đại học. Đa số những thanh niên này

Page 20: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

chưa thể tự lập hoàn toàn. Đây cũng là một hạn chế nhất định ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí của họ.

Hoạt động chủ yếu của thanh niên sinh viên là hoạt động học tập chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai. Thanh niên sinh viên là những người trưởng thành còn đang theo học ở các trường Đại học và Cao đẳng…, do vậy điều kiện sống và các dạng hoạt động cơ bản của họ có những đặc trưng rất riêng.

Trong các trường Đại học và Cao đẳng, họ là đại biêu của một nhóm xã hội đặc biệt gồm những người đang trong quá trình chuẩn bị tri thức đế trở thành chuyên gia ở một lĩnh vực nhất định của xã hội; là những người trẻ tích cực, năng động, nhạy cảm với những thay đối của xã hội và dễ thích nghi với sự thay đổi đó. Khoảng thời gian sinh viên lĩnh hội nền tri thức xã hội trong môi trường Đại học - Cao đẳng… là thời điểm diễn ra quá trình xã hội hóa rất nhanh, mạnh và đa dạng. Đây là thời điểm và là cơ hội để họ định hình, phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Cần xenm xét những điều kiện phát triển tâm lý của sinh viên thông qua những hoạt động mà họ tham gia.

- Hoạt động học tập:

+ Nội dung học tập

Sinh viên phải tải trọng một nội dung học tập rất đáng kể, phong phú. Khối lượng kiến thức chuyên ngành đa dạng, phức tạp (lĩnh hội hệ thống tri thức kĩ năng, kĩ xảo chuyên ngành và phát triển những phẩm chất và năng lực của người làm việc chuyên nghiệp ở tương lai).

Sự đòi hỏi của thực tiễn cho thấy song song với việc chuẩn bị những tri thức lí thuyết thì việc chuẩn bị những kinh nghiệm thực tiễn và thao tác làm việc là yêu cầu tối quan trọng. Hơn thế nữa, việc tiếp cận những kiến thức chuyên ngành vẫn chưa đủ nên việc học hỏi những kiến thức liên ngành và xuyên ngành để chuẩn bị làm việc thực tế là một cơ hội đáng quí cho độ tuổi.

+ Phương pháp học tập

Page 21: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Những yêu cầu về học tập ở độ tuổi này đòi hỏi người sinh viên phải độc lập, tự chủ, có ý thức đầy đủ và sáng tạo.

Ngoài ra, sự học của sinh viên là loại hoạt động trí tuệ đích thực, căng thẳng, cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt.

- Hoạt động chính trị xã hội:

Các hoạt động chính trị xã hội ở tuổi này là một điều kiện đặc biệt cho sự phát triển tâm lí. Việc tham gia vào tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên Việt Nam đem lại những kinh nghiệm thực sự quí báu để nâng cao tri thức tầm hiểu biết, tích lũy những kinh nghiệm sống và hoàn thiện dần những kĩ năng cũng như xây dựng lí tưởng nghề nghiệp - lí tưởng cuộc sống.

Ngoài ra, việc tham gia các tổ chức khác, các câu lạc bộ đội nhóm xã hội - kĩ năng cũng là một điều kiện thú vị giúp thanh niên sinh viên thể hiện mình và phát triển có định hướng hoặc phát triển toàn diện.

- Hoạt động nghiên cứu khoa học:

Hoạt động nghiên cứu khoa học chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động học tập của sinh viên. Hoạt động này nhằm phát huy những tố chất của một người trí thức lao động chuyên nghiệp với hệ thống quan điểm, phương pháp luận và những phẩm chất - năng lực của một con người làm việc có phương pháp và đam mê sáng tạo.

Đối với sinh viên, việc tham gia nghiên cứu khoa học ở nhiều hình thức khác nhau đem đến những cơ hội mới để nhìn thấy mình và phát triển mình ở đỉnh cao về nhân cách - nghề nghiệp.

- Hoạt động văn - thể - mĩ:

Việc tham gia các câu lạc bộ văn thơ, hội họa, âm nhạc, khiêu vũ, thể hình, các cuộc thi… sẽ trở thành một điều kiện để sinh viên tự thể hiện và điều chỉnh chính mình. Không ít sinh viên đã thực sự phát triển một cách

Page 22: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

nhanh chóng bằng những bước tiến dài khi có những thành công ban đầu trong hoạt động này.

- Hoạt động giao tiếp:

Hoạt động giao tiếp của thanh niên sinh viên đa dạng với nhiều mối quan hệ đan xen. Trong những mối quan hệ khác nhau, họ trở thành thành viên của các nhóm xã hội khác nhau. Đây cũng là một môi trường giúp sinh viên phát triển các phẩm chất, hình thành những kĩ năng sống, kĩ năng mềm hỗ trợ cho nghề nghiệp và cuộc sống.

Xét về vai trò xã hội của người trưởng thành trẻ tuổi có rất nhiều quan niệm khác nhau. Có thể đề cập đến một số quan niệm sau đây:

* Robert Havighurst (Mĩ) xác định vai trò xã hội của người trưởng thành dựa trên các nhiệm vụ trọng tâm mà họ sẽ phải thực hiện. Và như vậy theo ông, người trưởng thành trẻ tuổi có các vai trò xã hội sau [31]:

- Lựa chọn người bạn đời.

- Học cách sống với người bạn đời.

- Bắt đầu cuộc sống gia đình.

- Nuôi dạy con cái.

- Tổ chức gia đình.

- Bắt đầu một nghề nghiệp.

- Thực hiện trách nhiệm người công dân.

- Tìm nhóm xã hội tâm đầu ý hợp.

* Grace and Richard (2003) xác định vai trò xã hội của người trưởng thành dựa trên các đặc trưng tâm lí lứa tuổi. Theo tác giả này, vai trò xã hội của người trưởng thành trẻ tuổi khá phức tạp với những biểu hiện sau:

- Thích nghi với tâm lí sống cách xa cha mẹ.

Page 23: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

(Psychological separation from parents)

- Chấp nhận trách nhiệm về thể chất của bản thân.

(Accepting responsibiliti for one’s own body)

- Trở nên quan tâm đến “lịch sử”, kinh nghiệm của bản thân và giới hạn của thời gian ở bản thân.

(Becoming aware of one’s personal history and time limitation)

- Tích hợp kinh nghiệm tình dục đồng giới hay khác giới.

Integrating sexual experience (homosexual or heterosexual).

- Phát triển khả năng thể hiện tình cảm với vợ, chồng hoặc bạn tình.

(Developing ar capaciti for intimacy with a partner)

- Quyết định có con hay không.

(Deciding whether to have children)

- Có thể hiểu và thông cảm với trẻ con.

(Having and relating to children)

- Thiết lập những mối quan hệ người lớn với cha mẹ.

(Establishing adult relationships with parents)

- Đạt được những kĩ năng thích hợp.

(Acquiring marketable skills)

- Chọn lựa một công việc, nghề nghiệp phù hợp.

(Choosing a career)

- Sử dụng tiền bạc cho mục tiêu tương lai.

(Using money to further development)

- Đảm đương vai trò xã hội.

Page 24: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

(Assuming a social role)

- Thích nghi với những giá trị đạo đức và tinh thần trong xã hội

(Adapting ethical and spiritual values) [31].

* Theo “Luật Thanh niên” của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, số 53/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006, vị trí và vai trò xã hội của thanh niên sinh viên được thể hiện thông qua các điều luật sau:

- Điều 9: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong học tập.

- Điều 10: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong lao động.

- Điều 11: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong bảo vệ Tổ quốc.

- Điều 12: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong hoạt động khoa học, công nghệ và bảo vệ tài nguyên, môi trường.

- Điều 13: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật, vui chơi, giải trí.

- Điều 14: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong bảo vệ sức khỏe, hoạt động thể dục, thể thao.

- Điều 15: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong hôn nhân và gia đình.

- Điều 16: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong quản lí nhà nước và xã hội [Chương II: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, Luật Thanh niên].

Như vậy, có thể thấy vai trò xã hội của thanh niên sinh viên được xem xét ở những luận điểm sau:

- Người trưởng thành trẻ tuổi là một tầng lớp xã hội quan trọng đối với mọi thể chế chính trị, đội ngũ trí thức tương lai.

- Người trưởng thành trẻ tuổi là công dân thực thụ.

Page 25: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

- Người trưởng thành trẻ tuổi trưởng thành về mặt xã hội một cách đúng nghĩa về mặt nhận thức, thái độ và hành vi trong Quyền và nghĩa vụ của mình trên bình diện nghề nghiệp, gia đình và xã hội.

Tóm lại, đặc điểm phát triển thể chất, điều kiện sống và vai trò xã hội của người trưởng thành trẻ tuổi ảnh hưởng đến sự ổn định về sự phát triển tâm khả năng nhận thức, học tập; tự ý thức, định hướng giả trị và sự lập thân của họ.

2.2. Đặc điểm tâm lí thời kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi (18 đến 25 tuổi)

2.2.1. Đặc điểm phát triển nhận thức thòi kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi

2.2.1.1.Đặc điểm chung của sự phát triển nhận thức thời kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi

Kết quả thực hiện IQ test cho thấy, khả năng trí tuệ được tăng lên cho đến 45 - 46 tuổi, sau đó bị giảm (xem bảng 2, Schaie, 1994). Tuổi 20 - 30 có thể tích lũy 2/3 lượng tri thức của cuộc đời.

Việc tiếp tục học tập làm tăng điểm IQ test ở người lớn tuổi. Những người thường xuyên luyện tập kĩ năng nhận thức thì đạt điểm sổ cao hơn những người không được luyện tập.

Bảng 2: Khả năng trí tuệ sơ cấp

[TheoRobert V. Kail – 19, 392]

Những so sánh về chiều kích độ tuổi cho thấy có sự khác biệt cơ bản về tư duy của thời kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi so với thanh thiếu niên:

- Thay đổi cách suy nghĩ của mình để tập trung cao độ vào những hướng đi cụ thể.

- Phải xem xét những tương lai (viễn cảnh) khác nhau của mọi người ở các lứa tuổi khác nhau hơn là họ đã làm điều này ở tuổi thanh thiếu niên.

Page 26: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

- Phải khám phá ra những cách giải quyết những cuộc tranh luận, bất hòa và giải quyết những xung đột thông qua sự thỏa hiệp, thương lượng, hoặc điều chỉnh mục đích.

Theo Piaget, giai đoạn cuối của sự phát triển nhận thức là giai đoạn tư duy thao tác hình thức (formal operational thought), đạt được ở lứa tuổi thanh thiếu niên nhờ sự phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần cùng với những kinh nghiệm tích lũy nhờ việc học tập. Tư duy hình thức mang tính chất logic, sử dụng tư duy trừu tượng để giải quyết những vấn đề chung, và đòi hỏi những giả thuyết có thể xảy ra trong dạng của hệ thống cấu trúc. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, những vấn đề thực tế của người lớn xảy ra trong mối quan hệ mơ hồ, không có cấu trúc xã hội và mối quan hệ xã hội. Cuộc sống của người trưởng thành đòi hỏi sự năng động hơn, ít trừu tượng hơn và không phải cách suy nghĩ duy nhất để có thể đối phó với những trường hợp không nhất quán, không dự đoán trước được và mơ hồ (nhiều nghĩa). Đó là dạng nhận thức hợp lí (thực dụng) khắp nơi được gọi là postformal thought (tư duy sau hình thức) — Basseches, 1984; Labovie — Vief, 1985).

Một số nhà nghiên cứu cho rằng tư duy sau hình thức không phải là một giai đoạn riêng biệt mà giai đoạn này cần một sự tổ chức lại về tư duy, đó là một kiểu suy nghĩ mà nó lộ ra ở tuổi trưởng thành (Rybash, Hoyer & Roodin, 1986).

2.2.1.2.Đặc điểm về sự triển nhận thức và học tập của thanh niên sinh viên

a. Đặc điểm về sự phát triển nhận thức của thanh niên sinh viên

Những nghiên cứu về sinh viên đại học cho thấy, đầu tiên họ giải thích thế giới và những kinh nghiệm giáo dục của họ một cách độc đoán (authoritarian term). Thế nhưng, dần dần họ bắt đầu chấp nhận và tích cực chấp nhận những chân lí. Kramer (1991) cho rằng đặc trưng tư duy của tuổi

Page 27: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

này vượt khỏi tư duy hình thức gồm ba giai đoạn: tuyệt đối hóa (18 - 22 tuổi); tương đối (cuối tuổi 20 - đầu trung niên); biện chứng [31].

Hoạt động nhận thức của thanh niên sinh viên phải kế thừa và cập nhật những thành tựu của khoa học đương đại. Hoạt động học tập có tính chất mở rộng theo năng lực và sở trường, cấu trúc thứ bậc động cơ học tập bao gồm:

- Động cơ nhận thức.

- Động cơ nghề nghiệp.

- Động cơ có tính chất xã hội.

- Động cơ tự khẳng định.

`Bên cạnh việc học tập, thanh niên sinh viên còn tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học. Hoạt động này của sinh viên có đặc điểm:

- Phải phục vụ cho mục đích học tập.

- Nhận thức khoa học là động cơ chủ yếu.

- Được tiến hành dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy Cao đẳng, Đại học.

- Góp phần hình thành tính độc lập về nghề nghiệp, năng lực giải quyết nhiệm vụ thực tiễn, tương lai.

Ở thanh niên sinh viên tư duy trừu tượng, tư duy logic đã phát triển ở trình độ cao với sự phối họp của nhiều thao tác tư duy. Mặt khác, ở tuổi này tư duy của sinh viên thường linh hoạt, nhạy bén, có căn cứ. Khả năng tư duy cho phép lĩnh hội nhanh nhạy và sắc bén mọi vấn đề. Bên cạnh đó, sinh viên thường ít thỏa mãn với những gì đã biết mà muốn đi sâu, tìm tòi, khám phá trên bình diện tư duy. Điều này dẫn đến khả năng tìm tòi và nghiên cứu của sinh viên khá phát triển.

Page 28: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Bên cạnh đó, ở sinh viên cũng có sự phát triển tư duy sáng tạo. Sinh viên thường hướng đến cái mới và hành trình đi tìm cái mới cũng rất quyết liệt. Óc hoài nghi khoa học cũng đặc biệt phát triển về chất trong độ tuổi này thôi thúc khả năng phản biện, khả năng lật ngược vấn đề xuất hiện một cách thường trực.

Riêng xét về khả năng tưởng tượng của sinh viên thì sự phát triển đạt đến đỉnh cao. Điều này thể hiện qua khả năng sáng tác thơ, văn, truyện ngắn, bút kí…đạt mức hoàn thiện.

Xem xét đặc điểm nhận thức và tư duy của sinh viên cần đặt nó trong mối quan hệ với hoạt động học tập. Hoạt động học tập của sinh viên thuộc dạng lao động trí óc. Bản chất cửa hoạt động nhận thức của sinh viên là nghiên cứu chuyên sâu một chuyên ngành nào đó. Chính vì thế, điều này đòi hỏi ở sinh viên một trình độ phát triển tương ứng về nhận thức. Đó là những kĩ năng phân tích và tổng hợp vấn đề, năng lực đánh giá và nhận xét các tình huống, các sự kiện có liên quan đến chuyên ngành của mình. Bên cạnh việc nghiên cứu chuyên sâu về một lĩnh vực nào đó, sinh viên cũng phải tìm hiểu thêm những kiến thức chuyên liên ngành, tổng hợp và ứng dụng những tri thức đó vào ngành nghề họ đang học. Nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, sinh viên luôn phải nhạy bén, tính cực cập nhật những tri thức mới.

Hơn thế nữa, sinh viên cũng phải hình thành cho mình năng lực nghiên cứu khoa học. Đây là một hoạt động đặc thù của sinh viên trong môi trường đại học. Hình thành năng lực này phải thông qua việc học hỏi và trang bị cho mình những kĩ năng cơ bản như: kĩ năng xác định vấn đề, kĩ năng phân tích - tổng hợp chuyên biệt, kĩ năng giải quyết vấn đề…

Hoạt động học tập của sinh viên mang tính chất độc lập, sáng tạo. Nó đòi hỏi sinh viên phải tự đào tạo, tự hoạch định mục tiêu học tập sao cho phù hợp với năng lực của mình và yêu cầu của nhà trường. Họ phải nhạy bén, uyển chuyển trong từng hoàn cảnh, linh hoạt trong việc vận dụng các kiến

Page 29: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

thức để xử lí các tình huống mới; sáng tạo trong việc phát hiện ra vấn đề, xem xét và giải quyết vấn đề dưới những góc độ khoa học khác nhau.

b. Đặc điểm về động cơ học của thanh niên sinh viên

Động cơ học tập là những lí do khiến sinh viên tham gia vào các hoạt động học, là nội dung tâm lí của hoạt động học tập. Động cơ học tập có thể bị chi phối bởi nhiều yếu tố, dựa trên nguồn gốc xuất phát có thể chia thành ba yếu tố sau:

- Các yếu tố xuất phát từ chính chủ thể như hứng thú, niềm tin, lí tưởng, tâm thế, mục đích…

- Các yếu tố xuất phát từ phía xã hội (ngoài chủ thể) như danh vọng, mong muốn của gia đình và xã hội…

- Các yếu tố xuất phát trong chính hoàn cảnh học tập như nội dung, phương pháp dạy học, nhân cách của giáo viên, các thiết bị dạy học…

Chính vì thế, lĩnh vực động cơ học tập của sinh viên rất phong phú và thường bộc lộ rõ tính hệ thống. Hoạt động học tập của sinh viên diễn ra không phải đơn thuần chịu sự chi phối của một loại mà bao gồm nhiều loại động cơ. Đó có thể là động cơ có tính chất nhận thức, động cơ có tính chất xã hội và động cơ học tập của sinh viên cũng chịu sự chi phối khá mạnh bởi hoạt động và cách thức tổ chức giảng dạy của giảng viên.

Tìm hiểu từng mặt của việc động cơ hóa đối với hoạt động học tập của sinh viên có thể nhận thấy một số đặc điểm như sau:

- Sinh viên không muốn người khác xem mình như một đứa trẻ mới lớn, nhưng muốn được tôn trọng như một người lớn thực sự. Sinh viên có nguyện vọng thể hiện tính tự lập và độc lập khỏi mọi sự ràng buộc quá mức từ phía gia đình cũng như nhà trường. Sinh viên sẽ không chấp nhận và không thỏa mãn với giảng viên sử dụng những phương pháp dạy truyền thống bởi vì nó mang tính thụ động và không tạo điều kiện cho sinh viên phát huy tính tích cực và cơ hội để thể hiện chính mình. Sinh viên cũng không muốn là những

Page 30: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

trò giỏi bằng cách ngồi học thụ động, chép những gì giảng viên đọc và xem đó là “giáo trình chính”. Họ muốn được thể hiện chính kiến của mình, có thể điều đó khác với quan điểm của giảng viên và các bạn, nhưng chính bằng cách đó sinh viên khẳng định được “cái tôi” và bản sắc riêng của mình.

- Khác hẳn với các học sinh Trung học, sinh viên muốn đem những kiến thức trải nghiệm bản thân vào chính bài học của mình. Những phương pháp dạy học truyền thống cần phải chuyển sang những phương pháp lấy hoạt động làm phương tiện và sinh viên làm trung tâm. Tăng cường hoạt động của sinh viên và giảm bớt hoạt động của giảng viên. Sự thụ động cần được thay thế bằng sự tích cực tham gia trong quá trình thảo luận và làm việc nhóm giữa sinh viên; những vấn đề đưa ra cần phải kích thích tư duy và trí tò mò thì mới khơi gợi được tính tích cực học tập của sinh viên.

- Nhìn chung, động cơ học tập của thanh niên sinh viên rất đa dạng và mang tính hệ thống, việc học của họ bị chi phối bởi nhiều loại động cơ:

+ Động cơ nhận thức: sự khao khát trau dồi tri thức, hứng thú các vấn đề khoa học.

+ Động cơ nghề nghiệp: mong muốn có nghề nghiệp ổn định, thành đạt trong lĩnh vực chuyên ngành.

+ Động cơ xã hội: đáp ứng yêu cầu của xã hội.

+ Động cơ tự khẳng định: về năng lực và phẩm chất cá nhân.

+ Động cơ cá nhân: tương lai ổn định, thu nhập cao…

Tóm lại, chính do tính đặc thù của hoạt động học tập trong môi trường Đại học, Cao đẳng sẽ giúp sinh viên phát triển mạnh về mặt nhận thức và trí tuệ để đáp ứng được yêu cầu học tập. Đây sẽ là một ưu điểm lớn để sinh viên trưởng thành hơn khi bước chân vào cuộc sổng thực sự.

2.2.2. Đời sống xúc cảm - tình cảm của thời kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi

2.2.2.1. Tình bạn trong thời kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi

Page 31: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

So với các giai đoạn lứa tuổi của đời người, người ta thường có bạn bè và người quen biết trong thời kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi. Tình bạn rất quan trọng trong suốt tuổi trưởng thành một phần vì sự hài lòng cuộc sống của một người có quan hệ chặt chẽ với số lượng và chất lượng của các quan hệ với bạn bè (Antonucci, 1985). Người có nhiều bạn thường hạnh phúc hơn người có vài bạn (Ellison, 1990). [19, 421]

Các nhà nghiên cứu phát hiện ba cơ sở để kết bạn ở người trưởng thành như sau:

- Cơ sở để kết bạn mang tính tượng trưng và thường xuyên nhất là cơ sở cảm xúc hoặc xúc cảm của tình bạn. Người trưởng thành kết bạn để bày tỏ tâm sự và thể hiện sự thân mật, họ hiểu rõ giá trị của tình bạn, tình cảm và hỗ trợ dành cho nhau; tất cả những điều này dựa trên sự tin cậy, trung thành và ràng buộc lẫn nhau.

- Cơ sở để kết bạn thứ hai ở người trưởng thành phản ánh tính chất chia sẻ hoặc hoạt động cùng nhau của tình bạn, trong đó bạn bè tham gia vào các hoạt động hỗ trợ và có sự quan tâm lẫn nhau.

- Cơ sở để kết bạn thứ ba ở người trưởng thành mang tính xã hội và tính tương thích, bạn bè giúp chúng ta vui và cũng là nguồn giải trí, vui đùa và tiêu khiển của chúng ta.

Ba cơ sở để kết bạn ở người trưởng thành nói trên tìm thấy trong tình bạn ở người trưởng thành thuộc mọi giai đoạn và thời kì của lứa tuổi (de Vries, 1996). [19, 421]

Tình bạn của phái nam và nữ thường khác nhau trong tuổi trưởng thành. Phụ nữ thường đặt tình bạn trên sự chia sẻ thân mật và cảm xúc hơn, và dùng tình bạn làm phương tiện để thổ lộ tâm sự. Đối với phụ nữ, việc kết bạn thường bao gồm việc bàn chuyện cá nhân. Thổ lộ tâm sự, là cơ sở chung cho tình bạn ở phụ nữ. Trái lại, nam giới thường đặt tình bạn trong các quyền lợi hoặc hoạt động chung. Sự ganh đua thường là một phần trong tình bạn ở

Page 32: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

phái nam. Những khác biệt trong sự hình thành tình bạn của phái nam và nữ như thế tạo ra cơ hội thú vị và khó khăn khi nam và nữ muốn làm bạn với nhau. Tình bạn nam - nữ tạo ra cơ hội trong tìm hiểu công việc và học hỏi kĩ năng. Nhưng nữ không thể hiểu tại sao nam lúc nào cũng muốn tạo ra những cuộc ganh đua mini, và nam có thể bị trở ngại khi tìm hiểu tại sao nữ cứ luôn nói về những khó khăn của mình (Tannen, 1990). Tình bạn khác phái giảm sút ở nam sau khi kết hôn nhưng tăng dần theo độ tuổi ở nữ, vốn thường hình thành tình bạn ở nơi làm việc. Thực ra, nữ có trình độ cao, có việc làm, thường có số lượng tình bạn khác phái cao nhất (Swain, 1992). [19, 421]

2.2.2.2. Đời sống xúc cảm tình cảm của thanh niên sinh viên

a. Một số đặc điểm chung về sự phát triển xúc cảm tình cảm

Tuổi sinh viên là thời kì phát triển tích cực nhất của những loại tình cảm cao cấp như: tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mĩ, tình yêu nam nữ. Những tình cảm này chiếm vị trí quan trọng và có ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động của sinh viên trong mọi lĩnh vực của đời sống.

Các loại tình cảm này ngày càng trở nên đậm nét thông qua việc khám phá, tìm tòi và tham gia vào nhiều loại hình hoạt động khác nhau. Đáng kể nhất là hoạt động học tập và tham gia các hoạt động xã hội. Trong hoạt động học tập, sinh viên cảm nhận được vẻ đẹp của sự đa dạng, sự mới lạ của các lĩnh vực Khoa học mà họ có dịp tiếp cận. Sự bí ẩn và huyền diệu của Thiên văn học, sự kì diệu của Hóa học, sự logic của Toán học… khơi gợi trong họ một nhu cầu khám phá và say mê học hỏi. Trong các hoạt động xã hội như chiến dịch tình nguyện mùa hè xanh, các phong trào đoàn hội…các bạn sinh viên sẽ cảm nhận được vẻ đẹp đơn sơ, chất phác của con người trong những làng quê nghèo, hẻo lánh; cảm nhận được sức sống của tuổi trẻ, ý nghĩa của các hoạt động tình nguyện.

Hơn ai hết, sinh viên là người yêu vẻ đẹp thể hiện ở hành vi, phong thái đạo đức, cũng như vẻ đẹp thẩm mĩ ở các sự vật, hiện tượng của thiên nhiên hoặc con người tạo ra. Khác với những lứa tuổi trước, tình cảm đạo đức, tình

Page 33: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

cảm thẩm mĩ ở tuổi sinh viên biểu lộ một chiều sâu rõ rệt. Họ yêu thích cái gì họ đều có thể lí giải, phân tích một cách có cơ sở. Điều này lí giải vì sao ở độ tuổi này sinh viên đã có cách cảm, cách nghĩ riêng, ăn mặc theo sở thích riêng của mình… Bên cạnh đó, sinh viên có thể lí giải, xây dựng “triết lí” cho cái đẹp của mình theo chiều hướng khá ổn định.

Đặc biệt và nổi trội nhất trong thời kì này là sự phát triển mạnh mẽ, có tính định hướng, khá sâu sắc về tình yêu nam nữ. Thông qua các hoạt động giao lưu, các bạn nam nữ sinh viên có dịp để gặp gỡ, trao đổi, tìm hiểu lẫn nhau. Dần dần tình yêu nam nữ sẽ nảy sinh từ những tình bạn chân thành, đồng cảm và gắn bó. Loại tình cảm này mang một sắc thái mới, cao hơn và chín chắn hơn so với tình cảm thời Trung học, nó chiếm một vị trí hết sức quan trọng vào thời điểm này thể hiện ở việc chi phối các hoạt động của sinh viên, hướng sinh viên đến một tương lai gần nào đó mà họ đang mong ước. Tình cảm này có tác dụng tích cực trong việc giúp các bạn thỏa mãn được nhu cầu về mặt tình cảm, chia sẻ những vui buồn của cảnh xa nhà nhớ quê, cùng nhau gắn bó vượt qua những khó khăn của quãng đời sinh viên. Tuy nhiên, tình yêu này cũng có thể gây cho sinh viên cảm giác mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa việc dành thời gian học tập và dành thời gian để đi chơi; giữa việc mong muốn tiến xa hơn trong mối quan hệ và điều kiện chưa chín muồi… Tuy vậy, trong giai đoạn thanh niên sinh viên xuất hiện nhu cầu sẵn sàng gắn bó với người khác, tình yêu nam nữ đích thực xuất hiện.

b. Các lí thuyết về lựa chọn bạn trong tình yêu

Có thể đề cập đến một số lí thuyết cơ bản sau về tình yêu của thanh niên sinh viên dưới những sự lí giải khác nhau:

* Lí thuyết về sự thu hút giữa những cái giống nhau:

Lí thuyết này khẳng định, thanh niên sinh viên có thể yêu vì những sự tương đồng.

Page 34: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

- Giống nhau về sắc tộc, tôn giáo, giai cấp xã hội, nền giáo dục, nghề nghiệp để người ta thu hút lẫn nhau.

- Yếu tố địa lí hay môi trường lao động chung tạo điều kiện cho đôi nam nữ gặp gỡ.

- Sở thích, lí tưởng giống nhau giúp họ cùng nhìn về một hướng.

* Lí thuyết về sự thu hút giữa những điểm trái ngược:

Lí thuyết này khẳng định có sự thu hút giữa những nhân cách trái ngược nhau. Lí thuyết này cũng được gọi là sự “bổ sung các nhu cầu”.

* Lí thuyết về “mô hình có sẵn trong tiềm thức”:

Lí thuyết này cho rằng có những người tự dưng gặp ai đó lại bị thu hút ngay. Những người này đã xây dựng một hình ảnh lí tưởng về người yêu tương lai và họ cứ bám vào hình ảnh đó. Mô hình lí tưởng này hình thành do:

- Ảnh hưởng của cha, mẹ, người thân.

Kinh nghiệm tình cảm tích cực, sự an toàn có được trong quan hệ với cha, mẹ làm cho họ chọn bạn đời giống cha, mẹ. Kinh nghiệm tình cảm tiêu cực trong quan hệ với cha, mẹ dẫn đến họ chọn bạn đời khác cha, mẹ. Anh, chị em hay các thành viên khác trong gia đình cũng ảnh hưởng tới mô hình mà người ta tự xây dựng về người bạn đời tương lai.

- Ảnh hưởng của “tình yêu” trẻ con.

Những đặc điểm của đối tượng gây cảm xúc mạnh mẽ như khuôn mặt, tiếng nói, cách ứng xử đi vào tiềm thức khi còn nhỏ (8-9 tuổi) sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn bạn đời của người thanh niên.

* Lí thuyết về sự phát hiện chính mình trong người kia:

Lí thuyết này dựa trên hiện tượng đột nhiên thấy chính mình trong người kia. Những gì người kia phát biểu là chính nhu cầu, ước muốn, thái độ

Page 35: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

của chính tôi mà tự tôi không dám nói ra. Chính người đó đang và sẽ thể hiện “cái tôi” của tôi.

c. Các kiểu tình yêu thanh niên sinh viên

Tình yêu sinh viên đạt đến hình thái chuẩn mực, nhìn chung rất đẹp, lãng mạn, đầy thi vị. Trong tình yêu sinh viên cũng gặp phải những mâu thuẫn nội tại phải giải quyết, họ thể hiện những bản sắc riêng của mình trong tình yêu nam nữ.

Theo nhà tâm lí học Robert Sternberg (1986), tình yêu mà chỉ bao gồm niềm dam mê và sự cảm thông là quá đơn giản. Ông cho rằng tình yêu hợp thành từ ba yếu tố: thân tình, đam mê và trách nhiệm.

Bảng 3. Phân loại các kiểu tình yêu dựa vào lí thuyết tam giác của R. Sternberg

(R.Sternberg’s triangular theory of love, 1986)

Các kiểu tình yêu (Kind of love)

Gần gũi, thân tình (Intimacy)

Đam mê (Passion)

Trách nhiệm (Commitment. Decision)

Thích (Liking) + - -Si mê (Infatuated love) - + -Trống rỗng (Empti love) - - -Lãng mạn (Romatic love)

+ + -

Tình yêu tình bạn (Companionate love)

+ - +

Tình yêu dại dột (Fatuous love)

- + +

Tình yêu hoàn hảo (Consummate love)

+ + +

Page 36: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Yếu tố gần gũi, thân tình là tình cảm nảy sinh qua sự thân thiết lâu ngày, yêu mến (về một hay nhiều điểm nào đó), qua sự giao tiếp thường xuyên. Còn yếu tố đam mê bao gồm những ham muốn nhuốm màu sắc tình dục, những gần gũi về thể xác và sự lãng mạn. Yếu tố này được minh họa bởi những cảm xúc lôi cuốn đến khó kiềm chế về thể xác, tình dục khi gặp đối tượng (muốn lại gần, muốn hôn, muốn nắm tay…). Cuối cùng khía cạnh thứ ba là yếu tố trách nhiệm, bao gồm những ấn tượng mạnh ban đầu khiến bạn yêu người đó (một người giúp đỡ bạn trong cơn hoạn nạn) và quyết định duy trì dài lâu tình yêu này.

Bằng cách xem xét từng yếu tố trên có hiện diện hay không, Sternberg phân loại thành bảy “thể loại” tình yêu theo tình cảm (Xem bảng 3). Không yêu (trống rỗng) là mức độ tình cảm chỉ dừng ở những quen biết thông thường, loại tình cảm này thiếu hẳn ba yếu tố vừa nói trên. Thích lại chỉ có sự hiện diện của yếu tố thân tình. Trong khi đó, tình yêu si mê vắng bóng hai yếu tố thân tình và trách nhiệm.

Những dạng tình yêu khác lại phức tạp hơn. Đơn cử như tình yêu lãng mạn xảy ra khi hai yếu tố thân tình và đam mê xuất hiện; một mối tình được gọi là tình yêu đồng cảm khi hai yếu tố thân tình và trách nhiệm được hợp thành. Khi hai người đến với nhau bằng tình yêu lãng mạn, chính những cảm xúc đam mê và tình dục nồng nàn kéo họ đến với nhau. Mối quan hệ này có lâu dài hay không đối với họ không quan trọng. Trái lại ở tình yêu đồng cảm, những quan hệ lâu dài bền vững lại ở vị trí cao hơn những đam mê về sinh lí, thể xác đơn thuần. Bên cạnh đó, tình yêu dại dột chỉ tồn tại khi yếu tố thân tình được nảy nở. Cuối cùng là tình yêu đích thực (tình yêu lãng mạn) xuất hiện khi cả ba yếu tố của R. Sternberg đều hiện hữu ở dạng tình yêu này. Mặc dù con người thường cho rằng đây là kiểu mẫu tình yêu “lí tưởng”, nhưng cũng có những dạng tình yêu khác mà hạnh phúc và sự vững bền là nền tảng nhưng nó không phải là dạng tình yêu hoàn hảo. Hơn thế nữa, qua thời gian, dạng tình yêu này đặt nền móng trên sự vững bền và hạnh phúc đã chiếm ưu thế trong nhiều mối quan hệ đa dạng của nhân loại. Thuyết tam

Page 37: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

giác tình yêu của R. Sternberg nhấn mạnh đến tính chất phức tạp của tình yêu, động lực dẫn đến tình yêu, phẩm chất của các thể loại tình yêu. Neu các mối quan hệ của con người phát triển và thay đổi theo thời gian thì tình cảm của con người cũng diễn ra như thế.

Nhà xã hội học John Lee [3] phân loại 6 phong cách cơ bản của tình yêu:

1. Eros (Yêu vẻ đẹp): Những người yêu kiểu Eros vui thích với những tiếp xúc thể chất trực tiếp. Họ bị cuốn hút bởi cái đẹp. Họ yêu vẻ đẹp cơ thể. Tình yêu của họ mãnh liệt nhưng chóng tàn.

2. Mania (Tình yêu ám ảnh): Hình bóng người yêu làm họ phấn khích, sự thỏa mãn ngắn ngủi và luôn đòi hỏi kích thích.

3. Ludus (Tình yêu trò chơi): Những người chơi trò chơi tình yêu thường tình cờ, vô tư và bất cẩn. Họ không nghiêm túc trong trò chơi tình ái này.

4. Storge (Tình yêu bè bạn): Bắt đầu bằng tình bạn sau đó mới có tình yêu.

5. Agape (Tình yêu vị tha): Trinh trắng, kiên nhẫn và không đòi hỏi. Có tính trừu tượng và lí tưởng.

6. Pragama (Tình yêu thực dụng): Giống như tìm kiếm đổi tác, nếu tìm được đối tác tương xứng với họ, tình cảm của họ cũng có thể phát triển.

- Bên cạnh những phong cách thuần khiết này còn có những phong cách pha trộn:

* Storge + Eros

* Eros + Ludus

* Ludus+Storge

2.2.3. Một số đặc điểm phát triển nhân cách thời kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi

2.2.3.1. Sự phát triển về nhu cầu

Page 38: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Theo Abraham Maslow, nhu cầu được phân loại theo các nhóm cấu trúc có đẳng cấp từ thấp đến cao, mà tính nhất quán logic của các nhu cầu chứng tỏ một trật tự xuất hiện các nhu cầu trong quá trình phát triển của cá thể, cũng như chứng tỏ sự phát triển của hệ thống động cơ (Xem biểu đồ 1).

Sự tự thể hiện, tự thực hiện mục đích của mình bằng khả năng phát triển nhân cách bản thân là nhu câu cao nhất trong tháp các nhu cầu và nó được phát triển vào lứa tuổi đầu của người trưởng thành, lứa tuổi thanh niên sinh viên.

Biểu đồ 1: Thang tháp bậc nhu cầu của Abraham Maslow (1908-1970)

Chú thích cho sơ đồ:

Thang tháp bậc nhu cầu của A. Maslow gồm 5 bậc: thấp nhất là nhu cầu sinh lý, đến nhu cầu an toàn, rồi nhu cầu xã hội, tiếp theo là nhu cầu được tôn trọng và cao nhất là nhu cầu tự thể hiện mình.

Những nghiên cứu cho thấy trong sự phát triển chung về nhu cầu của người trưởng thành trẻ tuổi thì nhu cầu xã hội phát triển về chất rất đặc biệt. Việc Thanh niên sinh viên không có những cơ hội giao lưu và tiếp xúc cũng ảnh hưởng khá nhiều đến kĩ năng sống cũng như dễ dẫn đến những triệu chứng rối nhiễu tinh thần. Mặt khác, điều này cũng ảnh hưởng quan trọng đến nhân cách của cá nhân. Song song đó, nhu cầu được tôn trọng tiếp tục phát triển sâu hơn trên bình diện các mối quan hệ khác nhau và chuyến biến theo hướng “đòi bình đẳng thực thụ” trong từng tình huống. Ngoài ra, nhu cầu tự thể hiện cũng thôi thúc thanh niên sinh viên tự khẳng định mình một cách quyết liệt và “bung” cái tôi của mình trong những hoàn cảnh khác nhau của đời sống cá nhân cũng như đời sống xã hội.

2.2.3.2. Sự phát triển về tự đánh, tự ý thức và tự giáo dục

Nhân cách của sinh viên phát triển một cách khá toàn diện và phong phú. Sau đây là những đặc điểm đặc trưng nhất: đặc điểm về tự đánh giá, tự ý thức và tự giáo dục của sinh viên.

Page 39: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Tự đánh giá ở lứa tuổi sinh viên phát triển mạnh với những biểu hiện phong phú và sâu sắc. Điều này thể hiện ở điểm sinh viên không chỉ đánh giá hình ảnh bản thân mình với tính chất bề ngoài, hình thức mà còn đi sâu vào nội dung các phẩm chất, các giá trị của nhân cách. Tự đánh giá không chỉ đơn thuần trả lời câu hỏi: “Tôi là ai?” mà còn phải nhận thức rõ: “Tôi là người thế nào?”, “Tại sao tôi là người như thế?”, “Tôi có những phẩm chất nào?”… Những cấp độ đánh giá ở trên mang tính phê phán rõ rệt. Vì vậy, tự đánh giá của sinh viên có ý nghĩa tự ý thức và tự giáo dục. Bên cạnh đó, sự tự đánh giá của sinh viên được thể hiện thông qua sự đối chiếu, so sánh, học hỏi từ những người khác. Người khác như là tấm gương để sinh viên soi nhân cách của mình vào, trên cơ sở đó, họ sẽ điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu của xã hội.

Tự ý thức là trình độ phát triển cao của ý thức. Tự ý thức như là cặp mắt để mỗi sinh viên nhìn vào chính nhân cách của mình, để điều chỉnh cũng như nhận ra khiếm khuyết để bổ sung những phẩm chất nhân cách cần thiết cho phù hợp với yêu cầu và sự phát triển của xã hội. Nhìn chung, tự ý thức, tự đánh giá ở sinh viên mang tính toàn diện và sâu sắc:

- Sinh viên nhận thức bản thân, đánh giá bản thân cả hình thức đến những phẩm chất phức tạp bên trong (danh dự, lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ…) và cả năng lực cá nhân.

- Sinh viên bắt đầu có khả năng đi sâu vào lí giải câu hỏi: “Tại sao tôi lại như thế?”.

Một số kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng mức độ phát triển của những phẩm chất nhân cách có liên quan đến trình độ học lực cũng như kế hoạch sống trong tương lai của sinh viên. Những sinh viên có thành tích học tập tốt thường chủ động và tích cực trong việc nhìn nhận, đánh giá về thái độ cũng như hành vi của mình trong cuộc sống để ngày càng hoàn thiện. Khi thanh niên sinh viên tự nhìn nhận đánh giá bản thân khá chính xác, họ sẽ có kế

Page 40: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

hoạch học tập, rèn luyện bản thân hướng tới các thành tựu khoa học, lập kế hoạch học tập và nghiên cứu một cách hiệu quả.

Ngược lại, những sinh viên có kết quả học tập thấp thường dễ dàng đánh giá bản thân không chính xác theo hướng hoặc đánh giá quá cao hoặc đánh giá quá thấp về mình vì vậy cần lưu ý hỗ trợ về mặt tâm lí cho những sinh viên này một cách thiết thực và hợp lí.

Tự đánh giá và tự ý thức là cơ sở của sự tự giáo dục ở sinh viên. Sinh viên chỉ có thể tự giáo dục chính mình một khi họ hiểu rõ về bản thân mình. Từ đó, họ phải phấn đấu và rèn luyện những phẩm chất nhân cách cần thiết để đáp ứng yêu cầu của xã hội.

Nhìn chung, sự phát triển các đặc điểm tâm lí nói trên tạo điều kiện cho sinh viên đáp ứng được yêu cầu học tập và các loại hình hoạt động trong môi trường Đại học; điều này cũng góp phần định hình và hoàn thiện dần nhân cách.

Tóm lại, những phẩm chất của nhân cách như sự tự ý thức, tự đánh giá, lòng tự trọng, sự tự tin, tinh thần trách nhiệm đều phát triển mạnh mẽ ở lứa tuổi này. Chính những phẩm chất nhân cách bậc cao này có ý nghĩa rất lớn đối với việc tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực của những trí thức tương lai.

2.2.3.3. Sự phát triển về định hướng giả trị định hướng lối sống

Định hướng giá trị là những giá trị được chủ thể nhận thức, ý thức và đánh giá cao, có ý nghĩa định hướng điều chỉnh thái độ, hành vi, lối sống của chủ thể nhằm vươn tới những giá trị đó. Định hướng giá trị phát triển mạnh vào lúc thanh niên phải đứng trước việc chọn nghề, chọn các chuyên ngành khác nhau trong việc thi vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp.

Cấu trúc của định hướng giá trị cũng là một trong những vấn đề cần được đề cập ở đây. Một sự vật có giá trị đối với một cá nhân nào đó khi nó

Page 41: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

phù hợp và đáp ứng được nhu cầu cũng như mục đích hoạt động của cá nhân đó. Như thế rõ ràng là để biết sự vật đó có giá trị như thế nào đối với bản thân thì chủ thể phải nhận thức về sự vật đó, tỏ thái độ đối với chúng và chọn lựa chúng trong hoạt động của mình. Do đó có thể nói, định hướng giá trị được cấu thành bởi các yếu tố tâm lí cơ bản sau: sự nhận thức, thái độ và hành động lựa chọn.

Kết quả nghiên cứu về định hướng giá trị của chương trình Khoa học công nghệ cấp nhà nước, với đề tài KX - 07 - 04 của Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang (1995) cho thấy trong hệ thống các giá trị chung, sinh viên Việt Nam đánh giá cao 5 giá trị: học vấn, niềm tin, nghề nghiệp, sống có mục đích, tự trọng (Theo Nguyễn Thạc, 2007). Cũng theo tác giả này thì sự lựa chọn trong định hướng giá trị nhân cách của sinh viên gồm:

- Có tư duy kinh tế, biết tính toán hiệu quả.

- Năng động, nhanh thích nghi với hoàn cảnh.

- Sử dụng thành thạo tiếng nước ngoài.

- Dám nghĩ, dám làm, chấp nhận mạo hiểm.

- Biết xây dựng cuộc sống gia đình hòa thuận [21].

Ngoài ra, định hướng lối sống của sinh viên cũng có những đặc điểm khá thú vị. Lứa tuổi sinh viên là thời kì quan trọng và chín muồi cho việc định hình và hoàn thiện bộ mặt nhân cách. Trong thời kì đang có nhiều biến động trên thế giới về mọi mặt, nhất là sự thay đổi về quan niệm giá trị, về hệ thống giá trị, cũng như thang giá trị, sinh viên cân phải có một tầm nhìn rộng, một sự trải nghiệm thực tế để có thể định hướng lối sống cho mình.

Định hướng lối sống của sinh viên là việc sinh viên tự lựa chọn cho mình một phương cách để thể hiện các đặc điểm của bộ mặt nhân cách, cũng như con đường để đạt được những giá trị xã hội mà cá nhân hướng đến. Chính phương cách thể hiện này sẽ bộc lộ nội dung nhân cách của mỗi sinh viên. Đó là quá trình “xuất tâm” những tư tưởng, tình cảm, thái độ, niềm tin,

Page 42: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

lí tưởng của họ ra ngoài và để lại dấu ấn trong sản phẩm (vật chất cũng như tinh thần) của họ. Dựa trên sự thế hiện này mà người khác nói riêng và dư luận xã hội nói chung có thể nhận xét, đánh giá về họ.

Định hướng lối sống của sinh viên thể hiện ở quá trình hiện thực hóa “nội dung đời sống tâm lí” của mỗi sinh viên. Nói cách khác, sinh viên tự tìm cho “nội dung nhân cách” của mình một “vỏ bọc”, một “phương tiện” để chứa đựng, để truyền tải và để thể hiện. Chính do tính chủ thể, do sự khác biệt về đặc điếm tâm lí mà mỗi “nội dung” đòi hỏi một “vỏ bọc” riêng, không ai giống ai. Định hướng lối sống của mỗi người hoàn toàn mang bản sắc cá nhân trong mối quan hệ với định hướng lối sống của cộng đồng.

Định hướng giá trị của người trưởng thành trẻ tuổi liên quan mật thiết với xu hướng nhân cách và kế hoạch đường đời của họ. Giải thích sự phù hợp giữa con người và nghề nghiệp là mục đích của thuyết nhân cách hướng nghiệp của John L.Holland (1985, 1987, 1996). Tác giả cho rằng: “…người ta nhận thấy công việc được trọn vẹn khi các đặc điểm quan trọng của một công việc hoặc nghề nghiệp phù hợp với nhân cách của người được hướng nghiệp…” [11].

Theo tác giả Nguyễn Thạc (2007), định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên có sự lựa chọn trùng hợp 9 giá trị của kết quả chung trong nghiên cứu về định hướng giá trị của chương trình Khoa học công nghệ cấp nhà nước (Đề tài KX-07 -04):

+ Nghề có thu nhập cao.

+ Nghề phù hợp với sức khỏe, trình độ.

+ Nghề phù hợp với hứng thú, sở thích.

+ Nghề có điều kiện chăm lo cuộc sống gia đình.

+ Nghề có điều kiện phát triển năng lực.

+ Nghề được xã hội tôn trọng.

Page 43: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

+ Nghề bảo đảm yên tâm suốt đời.

+ Nghề giúp ích cho nhiều người.

+ Nghề có điều kiện tiếp tục học lên.

Ngoài ra, còn lựa chọn một yêu cầu nổi trội là nghề làm việc bằng trí óc [21]. Kết quả nghiên cứu về thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh của Hoàng Anh (2007) [1] cho thấy sự thay đổi giá trị đạo đức ở sinh viên những năm gần đây như bảng 4 sau đây:

Bảng 4: Nhận định về giá trị đạo đức ở sinh viên (Hoàng Anh, 2007)

Nhận định Phần trăm (%) đồng ý

Xếp hạng thứ bậc

Các giá trị hiện đại xâm nhập nhiều 81 1Sống tự do theo ý mình 73 2Các giá trị truyền thống mất đi nhiều 71 3Các giá trị đồng tiền được đề cao 70 4Có nhiều biểu hiện tiêu cực 68 5Thích thể hiện đẳng cấp cái tôi của mình nhiều hơn trong các quan hệ xã hội

67 6

Đánh giá mức độ thành công của công việc dực trên mức lương, nơi làm việc

66 7

Học để lấy bằng cấp hơn là lấy tri thức cho bản thân và phục vụ bản thân

64 8

Tin tưởng nhiều vào giá trị ảo trên mạng 64 9Sống phô trương của cải nhiều hơn 61 10

Kết quả nghiên cứu nhận thức về các giá trị đạo đức cần thiết của sinh viên Sư phạm của tác giả Hoàng Anh (2007) [1] cho thấy như bảng 5 sau đây:

Page 44: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Bảng 5: Nhận thức về các giá trị đạo đức cần thiết của sinh viên Sư phạm (Hoàng Anh, 2007)

Mối quan hệ Điểm trung bình (xếp hạng thứ bậc)

Giá trị được chọn nhiều nhất

Giá trị được chọn ít nhất

Xã hội 2.58 (7) Biết ơn thế hệ trước

Hi sinh vì người khác

Bạn bè 2.56 (8) Không lợi dụng tình bạn

Quan tâm đến tâm sự của người khác

Gia đình 2.66 (4) Hiếu thảo Bình đẳng với cha mẹ

Thầy cô 2.60 (5) Kính trọng Bình đẳng với giáo viên

Trong học tập 2.66 (3) Không dựa dẫm Hoài nghi những điều sai

Với bản thân 2.58 (6) Tự trọng Tự áiVới học sinh 2.71 (2) Uy tín Sòng phẳngVới nghề sư phạm

2.74 (1) Yêu nghề Dũng cảm chống tiêu cực

Cũng cần thiết nhìn nhận về định hướng giá trị của tuổi này không hẳn hoàn toàn ổn định. Xu hướng biến đổi định hướng giá trị của sinh viên theo kết quả nghiên cứu của tác giả Đỗ Ngọc Hà (2002) như sau:

Thứ nhất: Bộc lộ những khuynh hướng mới, năng động của nhân cách phù họp xu thế biến đổi của xã hội.

Thứ hai: Định hướng giá trị khẳng định cái tôi cá nhân.

Thứ ba: Hệ thống định hướng giá trị có sự đan xen hệ giá trị truyền thống và hiện đại [21].

Page 45: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Từ các xu hướng trên cho thấy tính đa dạng của nhân cách sinh viên, tạo những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển xã hội.

Kết quả này minh chứng cho sự chuyển biến lớn trong định hướng giá trị, định hướng lối sống và định hướng nghề nghiệp của thanh niên sinh viên là hướng về tương lai, hướng về mục tiêu được nhận thức bằng những giá trị đa tầng. Định hướng giá trị của sinh viên liên quan mật thiết với xu hướng nhân cách và kế hoạch đường đời của họ.

Có thể kết luận rằng trong sự phát triển nhân cách của thanh niên sinh viên, nhũng nét cấu tạo tâm lí mới nổi trội được mô tả như sau:

- Sự hoàn thiện cái tôi (sự tự ý thức).

- Sự hoàn thiện thế giới quan khoa học.

- Lập các kế hoạch cuộc đời, chuẩn bị nghề nghiệp cho tưong lai.

- Thiết lập cuộc sống độc lập hoàn toàn.

- Dần dần xâm nhập sâu vào các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống.

Nói cách khác, thanh niên sinh viên là lứa tuổi tràn trề sức sống, giàu nghị lực, ước mơ và có hoài bão lớn. Thế giới quan, niềm tin, lí tưởng được thể hiện rõ rệt. Tuy nhiên, do sự phát triển không đồng đều nên nhiều sinh viên chưa đạt được mức độ phát triển cần thiết. Sự phát triển phụ thuộc nhiều vào hệ thống các giá trị của mỗi sinh viên định hướng - lựa chọn. Những sinh viên có sự nhìn nhận đúng đắn, khoa học sẽ có những kế hoạch đường đời phù hợp, có mục tiêu phấn đấu rõ rệt để trở thành những chuyên gia hữu dụng, sống có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội. Đây là một cơ sở tâm lí cực kì quan trọng để thanh niên sinh viên hướng đến những nền tảng phát triển vững chắc và giàu tiềm lực.

2.3. Đặc điểm tâm lí thời kì thứ 2 của người trưởng thành trẻ tuổi (người thành niên, sau 25 đến 40 tuổi)

Có thể nói rằng, trong sự phát triển tâm lí - nhân cách của người thành niên thì diễn tiến của từng cá nhân mang những màu sắc hết sức riêng biệt.

Page 46: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Sự khác biệt và độc đáo này do nhiều yếu tố chi phối, ảnh hưởng: nghề nghiệp, hoàn cảnh cá nhân, đời sống hôn nhân, những cơ hội làm việc,… Vì vậy, sự phổ quát về mặt mô hình tâm lí sẽ là một trong những bức tranh tổng thể mang tính chất tương đối. Tuy nhiên, có thể phân tích một cách khái quát và sơ khởi những nét tâm lí chính của thời kì này như sau:

2.3.1. Đặc điểm phát triển nhận thức thời kì thứ 2 của người trưởng thành trẻ tuổi (người thành niên)

K. Warner Schaie (1977 - 1978, 1986) đã tin tưởng rằng, sự phát triển trí tuệ diễn ra do sự thừa nhận của con người về cái gì đó là có ý nghĩa và quan trọng trong cuộc đời của mình. Năm giai đoạn trong lí thuyết của Schaie đã vạch ra cả một loạt những sự chuyển hóa từ “cái gì tôi cần biết” (sự thu nhận các kĩ năng ở tuổi trẻ em và thiếu niên), qua “tôi nên sử dụng như thế nào cái mà tôi biết” (tích hợp các kĩ năng này thành một hệ thống cơ cấu thực hành), đến “tại sao tôi cần hiểu biết” (tìm hiểu ý nghĩa và mục đích mà cuối cùng nó dẫn đến “sự thông thái của tuổi già”). Những kinh nghiệm của cuộc sống thực là những ảnh hưởng quan trọng đến sự tiến bộ này.

Mô hình về sự phát triển nhận thức của Schaie, 1986 gồm các giai đoạn sau:

- Thu nhận (Giai đoạn thơ ấu và thanh thiếu niên): Thu nhập, tích lũy tri thức: các thông tin và kĩ năng học được chủ yếu là cho riêng mình, là một sự chuẩn bị để tham gia vào xã hội.

- Thành đạt (Giai đoạn đầu của người trưởng thành trẻ tuổi, từ 19, 20 tuổi đến đầu những năm 30 tuổi): Sử dụng khả năng trí tuệ để theo đuổi nghề nghiệp và lựa chọn kiểu cách sống của riêng mình. Theo Warner Schaie (1982), giai đoạn người trưởng thành trẻ tuổi tri thức mang tính chất của tài năng tự do “liberal arts” đem đến cách thức trong giai đoạn thành đạt (achieving stage) phải tập trung vào sử dụng thông tin để đạt được những mục đích cụ thể. Con người không chỉ thu nhận kiến thức cho mình mà còn sử dụng những gì mà mình biết để trở thành người có năng lực và độc lập.

Page 47: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Lúc này họ làm tốt các nhiệm vụ phù hợp với mục đích của cuộc sống mà họ đã đặt ra cho mình.

- Trách nhiệm (Cuối những năm 30 đến đầu những năm 60 tuổi): Con người có liên quan với những mục tiêu lâu dài và những vấn đề thực tế của cuộc sống thực mà nó tựa như được liên tưởng với các trách nhiệm của họ với những người khác.

- Điều hành (30,40 tuổi cho đến hết tuổi trung niên): Con người có trách nhiệm đối với các hệ thống xã hội (như nhà nước, công ti…) nhiều hơn là đối với các đơn vị gia đình, họ cần tích hợp các mối liên hệ phức tạp ở một vài mức độ nào đó.

- Tái tích hợp (Giai đoạn người lớn tuổi), hòa nhập lại: Những người lớn tuổi đã trải qua một số quan hệ xã hội và trách nhiệm, hoạt động nhận thức của họ có thể bị giới hạn bởi những biến đổi sinh học - có sự lựa chọn nhiều hơn về những nhiệm vụ mà họ sẽ phải nỗ lực cho nó. Ở giai đoạn này, con người suy nghĩ về mục đích của cái mà họ làm và không băn khoăn về những nhiệm vụ không có ý nghĩa đối với họ. Họ suy ngẫm cuộc đời và suy ra nguyên nhân thành công của cuộc đời họ.

Kết quả nghiên cứu của Schaie và Willis, 2000 bổ sung thêm 2 giai đọan:

- Reorganizational stage - Giai đoạn tổ chức (Cuối trung niên - đầu người lớn tuổi): Bước vào giai đọan nghỉ hưu, họ tổ chức cuộc sổng của họ xung quanh những hoạt động không liên quan đến công việc.

- Legacy - creating stage - Giai đoạn sáng tạo di sản (Người cao tuổi - gần cuối cuộc đời): Người cao tuổi chuẩn bị đến với sự ra đi bằng cách ghi lại, lưu giữ những câu chuyện về cuộc đời của mình, viết hồi kí…

Những đề xuất tư duy sau hình thức xây dựng quan điểm về phát triển nhận thức của dựa trên hệ thống lí thuyết của Piaget. Tuy nhiên, Warner Schaie (1977-1978) phát triển một giai đoạn gần với trí thông minh ở tuổi

Page 48: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

trưởng thành mà giai đoạn đó liên quan đến nhận thức cùng với những công việc phát triển nó. Quan điểm về trí thông minh của ông thì tương hợp với hệ thống của Erikson, và vì tính đa dạng trong nhận thức của tuổi trưởng thành, những giai đoạn theo ông ta không được xác định một cách chặt chẽ. Trong lí thuyết của Schaie, những thay đổi nhận thức trước tuổi trưởng thành phản ánh những con đường hiệu quả trong việc tiếp nhận thông tin mới: những thay đổi trong giai đoạn tuổi trưởng thành phản ánh những cách khác trong việc sử dụng thông tin. Vì lí do đó, ông ta xếp tuổi ấu nhi và tuổi thanh niên trong cùng một giai đoạn: giai đoạn lĩnh hội. Trong suốt thời kì này, người trẻ bị thu hút học những kĩ năng mới và tích lũy một kho kiến thức, nhưng kiến thức được tích lũy chủ yếu cho việc sử dụng trong tương lai. Nó là thời điểm học vì lợi ích của việc học, vì việc thu tích kiến thức cho dù nó sẽ nên hữu dụng hay không. Câu hỏi làm động cơ thúc đẩy là: "tôi nên biết cái gì?". Thực ra, bằng cách đề nghị người trẻ trải qua hầu hết ngày của chúng tại nhà trường, xã hội đòi hỏi họ xả thân cho việc tiếp thu kiến thức.

Trong 3 giai đoạn mà Schaie đã đề xuất đối với đầu và giữa tuổi trưởng thành, vấn đề là: "tôi nên sử dụng những gì tôi biết như thế nào?". Tuổi đầu trưởng thành là thời điểm trong giai đoạn thứ 2 của Schaie, giai đoạn hoàn bị. Đến thời điểm ứng dụng kiến thức mà đã được tích cóp trong nhiều năm. Những người trưởng thành trẻ đã sẵn sàng cho công việc, lập tức bắt đầu ứng dụng kiến thức của họ cho những mục đích của công việc. Tiếp tục tích lũy kiến thức tại trường dạy nghề, nhưng trong thời điểm này việc tích lũy đó có ứng dụng lập tức với những lợi ích hướng nghiệp. Trong giai đoạn tích lũy, người trẻ cũng ứng dụng những kiến thức trong đời sống riêng tư của họ, họ cũng có thể ứng dụng những hiểu biết của mình để thỏa mãn những đam mê, có thể là môn bay lượn bằng khung, trượt tuyết, vẽ, hay phục hồi những chiếc xe hơi cổ lỗ sĩ. Trong giai đoạn này, hậu quả của việc giải quyêt vân đề có thể là rất lớn, đặc biệt khi vấn đề đó dính dáng đến những quyết định chẳng hạn như: nên cưới hay không, nên có con khi nào, hoặc đi theo ngành nghề nào…

Page 49: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Giai đoạn tích lũy đó chuẩn bị cho những người trưởng thành trẻ về giai đoạn nhận thức của tuổi giữa trưởng thành: giai đoạn trách nhiệm và giai đoạn điều hành. Những giai đoạn đó đòi hỏi họ ứng dụng trí thông minh của mình trong những lối cư xử mang tính trách nhiệm thuộc lĩnh vực xã hội. Trong giai đoạn trách nhiệm, con người chuyên tâm vào các vấn đề trong thực tế cuộc sống và vào trách nhiệm với các thành viên trong gia đình và với đồng nghiệp. Nhiều người tiếp tục đến giai đoạn điều hành, trong đó trách nhiệm trên gia đình và đồng nghiệp chuyển thành trách nhiệm trên xã hội. Bây giờ những thanh niên bị dính líu tới những việc tổ chức điều hành - ban bệ ở nơi làm việc một ê-kíp nhà máy, một trụ sở dịch vụ. Sự bận tâm (lợi tức) của họ cũng hướng về cộng đồng hay những vấn đề quốc gia như: việc qui hoạch thành phố, những ban bệ nhà trường, thuế má, hoặc chính trị quốc gia…

Schaie nhìn thấy tuổi hậu trưởng thành khi trải qua giai đoạn tái tích hợp. Nó là một thời điểm mà đòi hỏi sự tiếp thu kiến thức chậm lại và những hậu quả của những quyết định bị giới hạn. Những câu hỏi gây kích thích trở thành: "tại sao tôi nên biết?". Thay vì vươn lên trên những mối lo lắng trong công việc, những vấn đề trong gia đình, và vấn đề cộng đồng hay quốc gia, những người trưởng thành lớn tuổi có thể tập trung trên một phạm vi đơn. Có lẽ việc về hưu giải phóng họ khỏi các vấn đề của xã hội. Có lẽ họ dành hết khả năng của họ cho những mối quan hệ vợ chồng và ông bà. Một số tiếp tục theo một nghề nào đó nhưng cắt bớt việc tích lũy vài khía cạnh nào đó của cuộc sống.

Về mặt sinh lí, cơ thể con người bị lệ thuộc tuổi tác, nên dường như thật tự nhiên khi cho rằng chức năng nhận thức suy giảm trong cùng một cách tất yếu như thế. Điểm số trắc nghiệm IQ nhất định giảm theo tuổi tác. Nhưng có một nhóm người lớn tuổi có thể tiếp tục thực hiện nhiệm vụ như luật sư, nhà văn, họa sĩ, nhà điêu khắc, nhạc sĩ, triết gia, tâm lí gia, kiến trúc sư, và diễn viên vào độ tuổi 70 - 80, và ngay cả 90 vẫn tiếp tục có những đóng góp quan trọng cho xã hội. Mặc dầu xét về mặt hoạt động thì năng suất

Page 50: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

của họ có khuynh hướng giảm trong những thập niên sau đó, còn chất lượng của nó dường như vẫn giữ nguyên (Perlmutter, 1988; Simonton, 1990).

Vài nhà lí luận tin rằng xã hội tự thân có thể đóng một vai trò thiết yếu trong sự suy giảm nhận thức có liên quan đến tuổi tác (Schooler, 1990). Mỗi một nền văn hóa có những ý hướng hành động và sức mạnh riêng mà phù hợp với những nhóm tuổi khác nhau. Trong nền văn hóa này, những người trưởng thành lớn tuổi được mong đợi thì trở nên bất lực và ráng sức suy nghĩ nếu không hợp với trẻ con, không thời trang (Heise, 1987). Qua sự nghỉ hưu sớm, không có thử thách trong công việc, tiếp thu cá nhân và những mong chờ, sức ép xã hội có thể biến những người trưởng thành lớn tuổi vào vai trò bất lực mà vai trò này làm họ từ bỏ sự hiệu quả trong tư duy.

Từ những nghiên cứu nói trên cho thấy, một trong những đặc điểm nổi trội về nhận thức của người thành niên là lối “tư duy sau hình thức” được xây dựng quan điểm về phát triển nhận thức của dựa trên hệ thống lí thuyết của Jean Piaget. Với kiểu tư duy này, mọi sự vật hiện tượng đều được cân nhắc và nhìn nhận đa chiều trong nhiều mối tưcmg quan. Ngay cả việc ra quyết định nhận thức đòi hỏi có chút “liều” thì lối tư duy này cũng cho phép con người dự định những rủi ro xảy ra với chính mình hoặc với hành động của mình. Điều này thực sự chi phối hoạt động và cả những kế hoạch lớn của người thành niên.

Trên cơ sở phân tích về đặc điểm nhận thức của người thành niên, các nghiên cứu cho thấy những thay đổi nhận thức trước tuổi trưởng thành phản ánh những con đường hiệu quả trong việc tiểp nhận thông tin mới. Còn những thay đổi trong giai đoạn tuổi trưởng thành phản ánh những cách khác trong việc sử dụng thông tin. Câu hỏi trở thành động cơ thúc đẩy con người nhận thức là: “Tôi nên biết cái gì?”. Việc sử dụng thông tin một cách độc đáo và hữu ích thể hiện sự tư duy sâu sắc và hiệu quả của người thành niên theo tình huống và cả cách chiến lược.

Page 51: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Một diễn tiến tâm lí cho thấy người thành niên bắt đầu có những ám ảnh trong nhận thức là mình có sự khác biệt lớn với độ tuổi trước đó. Từ những suy nghĩ ấy dẫn đến hành động nhận thức “khó dung hòa”. Thực tế không hẳn là người thành niên nhận thức khác biệt với độ tuổi đầu thanh niên mà “vết hằn” nhận thức dẫn đến sự “cách biệt” trong nhìn nhận và đánh giá.

2.3.2. Đời sống xúc cảm - tình cảm thời kì thứ 2 của người trưởng thành trẻ tuổi (người thành niên)

Người thành niên có sự gắn kết thành những gia đình bền vững (tính có trách nhiệm) hay sự lập thân. Đây là một trong những đặc điểm nổi trội của nhân cách người thành niên.

Theo TS. Tâm lí học Mĩ Sol Gordon (2003), để biết sự gắn bó phát triển đến mức độ nào thì đủ, để cho phép mối quan hệ chín muồi trở thành hôn nhân thì cần quan tâm đến sự tương hợp và niềm tin bền vững. Những câu hỏi cần phải trả lời cho người có ý định kết hôn:

- Bạn có chắc chắn người ấy đến không chỉ để lấp đi một khoảng trống trong cuộc đời bạn mà còn mang đến một điều gì đó quí giá cho tương lai của bạn? Tình yêu của bạn đã được thử thách qua một thời gian nào đó hay chưa?

- Bạn sẽ bằng lòng chấp nhận người ấy với tất cả những hạn chế vốn có của họ?

- Bạn tin rằng cả hai đều hết lòng vì sự phát triển của nhau?

Kết hôn tạo nên một ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời một cá nhân. Khi câu hỏi “con người nên kết hôn ở tuổi nào?” được đặt ra thì câu trả lời ở cả nam lẫn nữ là khoảng 25 tuổi. Những kết quả thống kê cho thấy tuổi kết hôn trung bình ở các nước có sự khác nhau. Đon cử như ở Philippines là 21,6 tuổi; Ai Cập là 19,2 tuổi; Indonesia là 18,1 tuổi; Nigeria là 16,9 tuổi; Banglades chỉ là 14,4 tuổi; Nhật Bản lên đến 26,1 tuổi (1993), đến nay đã tăng lên xấp xỉ 30.

Page 52: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê năm 1999 của Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em Việt Nam thì hiện nay nam giới kết hôn lần đầu ở tuổi 25,5 tuổi; trong khi đó ở nữ giới là 24 tuổi [12]. Những nghiên cứu cũng cho thấy tuổi kết hôn có ảnh hưởng đến hạnh phúc vợ chồng trẻ theo quan niệm của người thành niên:

- Với nữ:

+ 18,7 % kết hôn ở tuổi 17-18 cho rằng có hạnh phúc.

+ 58,1 % kết hôn ở tuổi 28 - 30 cho rằng có hạnh phúc.

- Với nam:

+ 28,8 % kết hôn ở tuổi 18 - 21 cho rằng có hạnh phúc.

+ 60,9 % kết hôn ở tuổi 28 cho rằng có hạnh phúc.

Kết quả nghiên cứu trên cho thấy, nam nữ thanh niên không nên kết hôn quá sớm là có cơ sở.

Nhu cầu của sự gắn kết đối với tình yêu nam nữ có vị trí đặc biệt quan trọng ở người thành niên nên vấn đề tâm lí tiềm tàng của giai đoạn này là sự cô độc, thất vọng, thậm chí tuyệt vọng do những thất bại trong tình yêu và sự gắn bó bởi nhiều lí do khác nhau. Điều này cũng trở thành một nốt “trầm” trong đời sống tâm lí và hoạt động của một số người thành niên chưa thích nghi hoặc thiếu bản lĩnh sống, kĩ năng sống trong thực tế.

Ở đây, sự lập thân của người trưởng thành được xem như một biểu hiện tâm lí đặc trưng hết sức độc đáo. Điển hình trong sự lập thân của tuổi này là sự lựa chọn bạn đời và kết hôn, thiết lập, xây dựng và củng cố các mối quan hệ trong gia đình. Bên cạnh đó là sự xác lập các mối quan hệ xã hội và khẳng định vị trí vai trò cá nhân, khẳng định “cái tôi” (với tư cách một nhân cách, một thành viên gia đình, một người lao động) một cách đích thực.

Phân tích về sự lập thân của người thành niên, có thể nhận thấy những biểu hiện cơ bản:

Page 53: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

- Tình yêu nam nữ đích thực xuất hiện.

- Tình yêu nam nữ thơ mộng, lãng mạn và hướng tới hôn nhân.

- Đại đa số đã kết hôn trong độ tuổi này.

- Tình yêu gắn liền với hạnh phúc lứa đôi.

Tuy vậy, cũng trong quá trình lập thân ở người thành niên, cần quan tâm đến những vấn đề cơ bản. Điều này đòi hỏi người thành niên cần chuẩn bị tâm lí bao gồm những kiến thức, kĩ năng có liên quan:

- Lần quan hệ đầu tiên.

- Thử nghiệm tiền hôn nhân.

- Những khó khăn trong quan hệ gần gũi vợ chồng.

- Sự ra đời của đứa con đầu lòng.

- Gia đình đơn thân: giáo dục con cái bằng tình thương, trách nhiệm và cách thức hiệu quả.

Người thành niên sau khi lập gia đình sẽ đón nhận những thay đổi mới. Cột mốc này thực sự quan trọng đối với khá nhiều người vì nó chi phối lối sống, nghề nghiệp và cả những dự định tương lai. Vì thế, không ít người thành niên quyết định lập gia đình để bảo đảm sự ổn định về công việc và sự nghiệp. Tuy nhiên, không nhất thiết phải cần sự ổn định “cường chế” khi quyết định lập gia đình không xuất phát từ tiếng nói của trái tim. Một số người thành niên ngày nay cũng bị ám ảnh bởi suy nghĩ này nên sự lựa chọn cũng có phần vội vã. Nói khác đi, không ít người thành niên nhìn về vấn đề hôn nhân chưa thực sự mềm mại và toàn diện nên đây có thể là một rào cản không dễ vượt qua.

Sau cột mốc kết hôn, một diễn tiến tâm lí phức tạp khác bắt đầu xuất hiện đó là sự thích nghi với đời sống vợ chồng. Đời sống tâm lí của những cặp vợ chồng trẻ sau ngày cưới ở độ tuổi này cũng có nhiều vấn đề. Theo Jacques Gauthier, 1999 (Pháp) thì có hai giai đoạn của đời sống vợ chồng trẻ:

Page 54: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

- Giai đoạn 1: Sự hòa tan (Fusion)

Ở giai đoạn này, những tháng đầu của tuần trăng mật kéo dài vô tận, đó là thời của bản tình ca. Họ tập sống hai người với nhau, “định nghĩa” vai vế của nhau, chia sẻ những nhiệm vụ, đáp ứng nhu cầu…

Thế nhưng sự ảo tưởng biến mất dần khi các tính khí và tính tình xung đột. Thực tế không ăn khớp với giấc mơ ban đầu khi kết hôn.

- Giai đoạn 2: Sự khó xử (Confusion)

Ở giai đoạn này xuất hiện hiện tượng tâm lí “mưu toan ra khỏi tình trạng hòa tan”. Những diễn tiến cuộc sống dẫn đến những biểu hiện:

+ Khủng hoảng về tính khác biệt mà cụ thể là cảm giác không được tôn trọng, không được chấp nhận những khác biệt. Họ có thể trách móc nhau: “Anh ấy không có cùng cách dạy con như tôi”, “Cô ấy không có cùng thị hiếu như tôi”…

+ Thách thức lớn cần vượt qua rất khó xử là vẫn có sự thân mật nhưng vẫn tôn trọng các khác biệt, trở thành cha mẹ mà vẫn là vợ chồng. Sự khó xử này chỉ được giải quyết khi cả hai ý thức được giá trị mới trong cuộc sống, tuân thủ những vị trí - vai trò mình đảm nhiệm và yêu thương hết lòng.

Những nghiên cứu cũng cho thấy “tuổi thọ” và hạnh phúc vợ chồng phụ thuộc nhiều vào tình yêu, văn hóa vợ chồng, tinh thần trách nhiệm, đạo đức, nhân phẩm của chính họ trong quá trình sống và hoạt động cụ thể. Đây chính là trách nhiệm cho cả hai người theo khái niệm của một “cặp đôi”. Có sáu đặc thù được nêu ra trong cuốn “Bí quyết của những gia đình bền vững” của DeFrain và Stinnett, sau khi nghiên cứu 6000 cặp vợ chồng:

+ Hết lòng vì nhau (kể cả thời gian dành cho con cái).

+ Thời gian có ý nghĩa bên nhau.

+ Bày tỏ sự quí trọng.

+ Tinh thần luôn sảng khoái, lành mạnh.

Page 55: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

+ Khả năng đương đầu với những khó khăn phía trước và chống chọi lại một cách tích cực.

+ Trao đổi với nhau chân thành, cởi mở.

Tóm lại, sự lập thân ở người thành niên thể hiện rõ ở sự gắn kết thành những gia đình bền vững. Việc chung sống, nuôi dạy con cái thành con khỏe, con ngoan, trò giỏi trở thành mục tiêu phấn đấu, trách nhiệm, nghĩa vụ và niềm hạnh phúc to lớn của những người làm cha, làm mẹ. Điều này chi phối không ít đến cuộc sống, tâm lực của người làm cha, làm mẹ ở giai đoạn này bên cạnh sự phấn đấu cho chính bản thân mình.

2.3.3. Đặc điểm nhân cách thời kì thứ 2 của người trưởng thành trẻ tuổi (người thành niên)

2.3.3.1. Sự phát triển xu hướng của nhân cách

Theo nghiên cứu của Trần Xuân Vinh, Viện nghiên cứu thanh niên. Hà Nội, năm 1993 về “Những đặc trưng tâm lí, nhân cách của thanh niên trong cơ chế thị trường hiện nay”: Ngày nay câu hỏi “bạn cần gì”, “bạn phải là gì?” được người trưởng thành trẻ tuổi trả lời nhanh chóng và rõ ràng: “Đó là sự khát khao tri thức, khát khao làm giàu, khát khao thành đạt”. [21]

Người thành niên nhận thức rõ ràng muốn thành đạt trong sự nghiệp phải thông qua sự nỗ lực, ý chí, trí tuệ của bản thân (tài - đức thực sự) chứ không phải số phận hay trông chờ may mắn. Điều này thể hiện một xu hướng sống tích cực, tạo ra những con người ham học hỏi, giàu ý chí, năng động và thực tế.

Những khảo sát về xu hướng nhân cách của người thành niên cho thấy hướng lựa chọn cơ bản mà nhiều người quan tâm vẫn là vị trí đích thực mà họ có được trong nghề nghiệp và cuộc sống. Sự định chuẩn trong nhân cách cho thấy họ hướng đến sự thành đạt một cách đúng nghĩa chứ không chỉ là thành công ở nghề nghiệp hay chỉ là sự vươn lên ở một chiều kích đơn lẻ trong cuộc sống. Sự thành đạt đúng nghĩa thôi thúc họ đi tìm hạnh phúc một

Page 56: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

cách tương đối: công việc tốt, thăng tiến, vị trí xã hội, điều kiện kinh tế và gia đình hạnh phúc với vợ chồng và con cái…

Trên cơ sở đó, những biểu hiện về xu hướng của nhân cách người thành niên gắn liền với các biểu hiện tâm lí:

- Có khả năng thích nghi tốt với các điều kiện sống và hoạt động.

- Có khả năng giải quyết tốt các mâu thuẫn và khó khăn của cuộc sống.

- Có ý chí, độc lập tự chủ và khả năng dám chịu trách nhiệm trước bản thân, gia đình và xã hội.

- Có những phẩm chất nhân cách tiêu biểu: thế giới quan vững vàng, tình cảm sâu sắc, tính cách trung thực, có khả năng cộng tác làm việc…

- Có khát khao hướng đến sự thành công, thành đạt.

Tuy nhiên, một thực trạng khác trong xu hướng sống của không ít người thành niên hiện nay là đặt lợi ích của cá nhân, gia đình lên trên lợi ích của cộng đồng, xã hội. Diễn tiến về sự lựa chọn các tiêu chí thành đạt cũng có phần thay đổi như tiêu chuẩn về kinh tế được đẩy lên quá ngưỡng, xu thế độc thân hoặc lập gia đình không con cái xuất hiện… Đây là một vấn đề cần quan tâm trên tinh thần tôn trọng nhưng cũng cần có những tác động mang tính chất điều chỉnh, dung hòa.

2.3.3.2. Sự lập nghiệp của người thành niên

Đối với giai đoạn đầu trưởng thành (early adulthood) là giai đoạn cho những quyết định có liên quan tới cả cuộc đời. Một trong những điều trọng yếu là chọn lựa một con đường nghề nghiệp. Sự chọn lựa của người trưởng thành trẻ vượt xa khỏi các quyết định liên quan đến chuyện tiền bạc kiếm được. Nó liên quan tới địa vị của họ, tới cảm nhận của họ về những giá trị tự thân và những đóng góp của họ sẽ thực hiện trong cuộc đời. Như vậy, những

Page 57: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

quyết định về công việc là điểm nòng cốt nhất trong nhân cách của người trưởng thành trẻ (young adult).

Một số lí thuyết về việc chọn nghề của người trưởng thành trẻ:

- Lí thuyết về việc chọn nghề của Goerge Vaillant:

Theo Goerge Vaillant, giai đoạn đầu thời kì trưởng thành được đánh dấu bởi một giai đoạn phát triển được gọi là giai đoạn khẳng định nghề nghiệp (career consolidation). Trong suốt giai đoạn khẳng định nghề nghiệp, bắt đầu từ 20 - 40 tuổi, những người trưởng thành trẻ (young adults) tập trung vào nghề nghiệp của họ (Vaillant dựa vào nghiên cứu có tính toàn diện theo chiều dọc về một nhóm lớn những nam giới tốt nghiệp Đại học Harvard, đã bắt đầu thực hiện khi còn là những sinh viên năm nhất vào thập niên những năm 1930).

Ở đầu tuổi 20, người nam có khuynh hướng chịu ảnh hưởng bởi uy quyền của cha mẹ. Nhưng ở vào cuối độ tuổi 20 đầu 30, họ bắt đầu hành động với mức độ tự lập cao hơn. Họ lập gia đình, bắt đầu có con và nuôi dạy chúng. Cũng chính khi ấy, họ bắt đầu tập trung vào những công việc của họ - giai đoạn khẳng định nghề nghiệp.

Dựa vào tài liệu của Vaillant, ông đã đưa ra một chân dung không gây được chú ý cho lắm về giai đoạn khẳng định nghề nghiệp. Những người tham gia vào nghiên cứu của ông đã làm việc rất chăm chỉ bởi họ đi theo con đường nghề nghiệp của mình để tiến lên những nấc thang trong công ti. Họ có khuynh hướng tìm cách thích ứng với những quy tắc của nghề nghiệp. Thay vì thể hiện sự độc lập thì họ đã lao vào công việc không một chút dò hỏi.

Vallaint tranh luận: công việc đóng một vai trò trong đời sống của những người đàn ông mà ông nghiên cứu quan trọng đến nỗi giai đoạn khẳng đinh nghề nghiệp được xem như phần bổ sung cho giai đoạn của sự thân mật chông lại sự cô lập (intimacy - versus - isolation) của Erikson về nét đặc trưng

Page 58: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

tâm lí. Theo quan điểm của Vallaint, những quan tâm về nghề nghiệp đi đến chỗ thay thế việc tập trung vào sự thân mật. Và giai đoạn khẳng định nghề nghiệp bắc một cầu nối giữa giai đoạn của sự thân mật chống lại sự cô lập với giai đoạn kế tiếp của Erikson tạm gọi sự sinh sản chống lại sự ngưng trệ (generativiti versus stagnation). Việc sản được coi là một sự đỏng góp cá nhân cho xã hội.

Tuy nhiên, việc phản ứng chống lại quan điểm của Erikson đã bị trộn lẫn (mixed). Chẳng hạn, những nhận xét vê mẫu nghiên cứu của Vallaint, mặc dù nó khá rộng nhưng mang tính hạn chế cao vì đó là một nhóm người cực kì thông minh và lại toàn là nam. Thật khó để nhìn nhận tính phổ biến của kết quả. Thêm vào đó quan niệm xã hội đã có sự thay đổi đáng kể, tính từ thời gian mà cuộc nghiên cứu được tiến hành vào những thập niên 1930. Quan niệm của con người về tầm quan trọng của nghề nghiệp cũng đã thay đổi. Cuối cùng, mẫu nghiên cứu không xét tới nừ giới, thêm vào đó, có một sự thay đổi lớn trong vai trò của công việc đối với đời sống của những người phụ nữ đã khiến cho kết luận của Vallaint kém đi tính phổ biến.

Dù vậy, thật khó để nói về tầm quan trọng đích thực của công việc trong đời sống của người thành niên nhưng chắc chắn rằng công việc trở thành một phần quan trọng trong nhân cách của cả người nam và người nữ. Chính điều này làm cho sự lập nghiệp của con người trở thành một nhiệm vụ và một khát khao cuốn lấy cũng như chi phối tâm lực của con người một cách đặc biệt. Sự xung đột nội tại dễ dàng diễn ra trong quá trình lập nghiệp, những khủng hoảng tạm cũng không ít lần xuất hiện. Đó là chưa kể những xung đột giữa quá trình lập thân và lập nghiệp như đã phân tích trước đó.

Phân tích về sự lập nghiệp của người trưởng thành, không thể không đề cập đến những vấn đề về chọn nghề một cách “tinh thần” trên bình diện con người. Một số người biết được rằng họ muốn trở thành một bác sĩ hay công việc kinh doanh ngay từ thời ấu thơ và họ không ngừng theo đuổi để đạt đến mục tiêu của họ. Đối với những người khác, vấn đề chọn lựa nghề rất

Page 59: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

có thể chỉ là một vấn đề cơ may, có thể thay đổi trước những cơ hội mà họ cho rằng thực sự đáng quí với mình.

- Lí thuyết về việc chọn nghề của Ginzberg:

Theo Ginzberg (1972), con người ta trải qua hàng loạt những giai đoạn mang tính điển hình trong việc chọn nghề. Giai đoạn đầu là giai đoạn tưởng tượng (fantasy period) kéo dài cho tới khi ta khoảng 11 tuổi. Trong suốt thời gian này, những chọn lựa nghề nghiệp được thực hiện và được hủy bỏ mà không quan tâm tới những kĩ năng, năng lực hay cơ hội nghề nghiệp có sẵn. Thay vào đó, những chọn lựa được thực hiện chỉ dựa vào vẻ lôi cuốn bên ngoài. Vì thế đứa trẻ có thể quyết định trở thành bác sĩ thú y cho dầu thực tế nó rất dị ứng với những con chó và những con mèo.

Trong suốt giai đoạn thăm dò (tentative period), kéo dài suốt tuổi thanh niên (adolescence), người ta bắt đầu có những suy nghĩ cụ thể (think in pragmatic terms) về những đòi hỏi của những công việc khác nhau và những cách thức giúp họ thích ứng với chúng. Họ cũng tìm hiểu những mục tiêu và những giá trị cá nhân để tìm xem làm sao một công việc nào đó lại làm họ mãn nguyện đến như vậy.

Cuối cùng, người ta bước vào giai đoạn thực tế (realistic period) ở vào đầu tuổi trưởng thành (early adulthood). Trong giai đoạn thực tế, người mới trưởng thành (young adult) khám phá việc chọn lựa một nghề nào đó vừa xuyên qua những kinh nghiệm thực tế vừa qua sự huấn luyện cho một công việc. Sau lần tìm hiểu đầu tiên, người ta bắt đầu giới hạn sự lựa chọn này vào một hai nghề và cuối cùng đưa ra những cam kết cho một nghề nghiệp cụ thể.

Mặc dù thuyết Ginzberg rất ý nghĩa, nhưng một số nhà phê bình đã tấn công ở chỗ: ông đã làm đơn giản hóa tiến trình chọn nghề. Bởi nghiên cứu của Ginzberg đã dựa trên những đối tượng có một mức độ về kinh tế ở mức trung bình. Nó có lẽ hơi phóng đại (overstate) sự chọn lựa đối với những người có những mức độ kinh tế xã hội thấp hơn. Ngoài ra, các độ tuổi liên

Page 60: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

quan tới mỗi giai đoạn xem ra quá cứng nhắc. Ví dụ: một người không học đại học nhưng họ bắt đầu đi làm ngay sau khi tốt nghiệp phố thông trung học, có thể có những quyết định nghề nghiệp nghiêm túc vào một thời điểm sớm hơn nhiều so với một người đi học đại học. Thêm vào đó, những thay đổi kinh tế đã khiến cho nhiều người chuyển đổi công việc theo những quan niệm khác nhau trong đời sống của người trưởng thành.

- Thuyết nhân cách hướng nghiệp của John L.Holland (1985,1987,1996)

Giải thích sự phù hợp giữa con người và nghề nghiệp là mục đích của thuyết nhân cách hướng nghiệp của John L.Holland (1985, 1987, 1996). Theo thuyết này: “… người ta nhận thấy công việc được trọn vẹn khi các đặc điêm quan trọng của một công việc hoặc nghê nghiệp phù hợp với nhân cách của người được hướng nghiệp… [19, 344]

Khuôn mẫu loại nhân cách hướng nghiệp của John L.Holland (1985, 1997) đã đưa đến sự phát triển của các bản thống kê sở thích hay nghiên cứu tự định hướng (the Self - Directed Search - SDS; Holland, 1994). John L.Holland (1985, 1997) nhận dạng sáu loại nhân cách nguyên mẫu về tính pách liên quan với sở thích nghề nghiệp. Mỗi nhân cách phù hợp tổt nhất với một tập hợp nghề nghiệp cụ thể như sau [11]:

R (Realistic): Người thực tế, người thuộc nhóm “sở thích nghề nghiệp” này thường có khả năng về kĩ thuật, công nghệ, hệ thống; ưa thích làm việc với đồ vật, máy móc, động, thực vật; thích làm các công việc ngoài trời.

Ngành nghề phù hợp với nhóm này bao gồm: Các ngành về kiến trúc, an toàn lao động, nghề mộc, xây dựng, thủy sản, kĩ thuật, máy tàu thủy, lái xe, huấn luyện viên, nông - lâm nghiệp (quản lí trang trại, nhân giống cá, lâm nghiệp…), cơ khí (chế tạo máy, bảo trì và sửa chữa thiết bị, luyện kim, cơ khí ứng dụng, tự động…), điện - điện tử, địa lí - địa chất (đo đạc, vẽ bản đồ địa chính), dầu khí, hải dương học, quản lí công nghiệp;…

Page 61: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

I (Investigative): Người nghiên cứu, người thuộc nhóm “sở thích nghề nghiệp” này thường có khả năng về quan sát, khám phá, phân tích đánh giá và giải quyết các vấn đề.

Ngành nghề phù hợp với nhóm này bao gồm: Các ngành thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên (Toán, Lí, Hóa, Sinh, Địa lí, Địa chất, Thống kê…); khoa học xã hội (Nhân học, Tâm lí, Địa lí…); Y - Dược (Bác sĩ gây mê, hồi sức, Bác sĩ phẫu thuật, Nha sĩ…); khoa học công nghệ (Công nghệ thông tin, Môi trường, Điện, Vật lí kĩ thuật, Xây dựng…), nông - lâm (Nông học, Thú y…)

A (Artistic): Người nghệ thuật, người thuộc nhóm “sở thích nghề nghiệp” này thường có khả năng về nghệ thuật, khả năng về trực giác, khả năng tưởng tượng cao, thích làm việc trong các môi trường mang tính ngẫu hứng, không khuôn mẫu.

Ngành nghề phù hợp với nhóm này bao gồm: Các ngành về văn chương; báo chí (bình luận viên, dẫn chương trình…); điện ảnh; sân khấu; mĩ thuật; ca nhạc; múa; kiến trúc; thời trang, hội họa, giáo viên dạy Sử/Anh văn, bảo tàng, bảo tồn,…

S (Social): Người xã hội, người thuộc nhóm “sở thích nghề nghiệp” này thường có khả năng về ngôn ngữ, giảng giải, thích làm những việc như giảng giải, cung cấp thông tin, chăm sóc, giúp đỡ, hoặc huấn luyện cho những người khác.

Ngành nghề phù hợp với nhóm này bao gồm: Sư phạm; giảng viên, huấn luyện viên điền kinh; tư vấn - hướng nghiệp; công tác xã hội, sức khỏe cộng đồng, thuyền trưởng, thầy tu, thư viện, bác sĩ chuyên khoa, thẩm định giá, nghiên cứu qui hoạch đô thị, kinh tế gia đình, tuyển dụng nhân sự, cảnh sát, xã hội học, bà đỡ, chuyên gia về X - quang, chuyên gia dinh dưỡng…

E (Enterprise): Người kinh doanh, người thuộc nhóm “sở thích nghề nghiệp” này thường có khả năng về kinh doanh, mạnh bạo, dám nghĩ dám làm, có thể gây ảnh hưởng, thuyết phục người khác; có khả năng quản lí.

Page 62: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Ngành nghề phù họp với nhóm này bao gồm: Các ngành về quản trị kinh doanh (quản lí khách sạn, quản trị nhân sự…), thương mại, marketing, kế toán - tài chính, luật sư, dịch vụ khách hàng, tiếp viên hàng không, thông dịch viên, pha chế rượu, kĩ sư công nghiệp (ngành kĩ thuật hệ thống công nghiệp), bác sĩ cấp cứu, quy hoạch đô thị, bêp trưởng (nấu ăn), báo chí (phóng viên, biên tập viên…)…

C (Conventional): Người văn phòng, người thuộc nhóm “sở thích nghề nghiệp” này thường có khả năng về số học, thích thực hiện những công việc chi tiết, thích làm việc với dữ liệu, theo chỉ dẫn của người khác hoặc các công việc văn phòng.

Ngành nghề phù họfp với nhóm này bao gồm: Các ngành về hành chính, quản trị văn phòng, kế toán, kiểm toán, thư kí, thống kê, thanh tra ngành, người giữ trẻ, điện thoại viên…

Khuôn mẫu này có thể trình bày theo không gian hình lục giác R-I-A-S-E-C (mô hình RIASEC) theo thứ tự của sáu loại. Từ hình lục giác có thể biết được một số dự đoán vê quan hệ giữa các loại tính cách. Đặc biệt, sự tưcmg quan giữa các loại liền kề (RI, IA, AS, SE, EC, và CR) có khả năng lớn hơn so với sự tương quan với nhóm xen kẽ (RA, IS, AE, SC, ER, và CI) và các đôi đối nhau (RS, IE, và AC). Mối tương quan giữa nhóm xen kẽ (RA, IS, AE, sc, ER, và CI) cũng có khả năng lớn hơn so với nhóm đối nhau (RS, IE, và AC) (Rounds, Tracey & Hubert, 1992).

Mô hình này hữu dụng trong việc mô tả sở thích nghề nghiệp của trẻ vị thành niên châu Phi, châu Á, Châu Âu, người Mĩ bản xứ và người Mĩ gốc Mexico, cũng như có ích đối với cả nam lẫn nữ (Day, Rounds, & Swaney, 1998). Nghiên cứu chứng minh rằng khi con người có công việc phù hợp với loại nhân cách của mình thì trong thời gian ngắn họ là nhân viên có năng suất nhiều hơn và về lâu dài họ có con đường nghề nghiệp ổn định hơn (Holland, 1966). [19,344]

Page 63: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Những tài liệu trên đã được John L.Holland xây dựng thành bộ trắc nghiệm tự xác định nghề nghiệp và được sử dụng rộng rãi trong tư vấn nghề nghiệp. Trắc nghiệm tự xác định nghề nghiệp của John Holland (2003), [11] bao gồm 120 câu hỏi như sau:

- Bản liệt kê tính cách với mô hình RIASEC: Mỗi tính cách 9 câu hỏi X 6 = 54 câu hỏi.

- Tìm hiểu về giá trị xã hội với mô hình RIASEC: Mỗi tính cách 5 câu hỏi X 6 = 30 câu hỏi.

- Nhận dạng và phân tích kĩ năng với mô hình RIASEC: Mỗi tính cách 6 câu hỏi X 6 = 36 câu hỏi.

Trắc nghiệm tự xác định nghề nghiệp của John Holland đã được dịch và được sử dụng rộng rãi nhất trong thực tiễn hướng nghiệp trên thế giới. Thuyết nhân cách hướng nghiệp của John Holland được kiểm tra tại các nước sau đây trong thời kì 1950-1980: Áo, New Zealand, Canada, Hà Lan, Thụy Sĩ, Italia, Israel, Nigieria và Guyana. Giữa năm 1986-1995, mô hình RIASEC và các công cụ đánh giá đã được kiểm tra và sử dụng ở Bỉ, Trung quốc, Nhật Bản, Hi Lạp, Ba Lan, Slovenia, Thụy Điển, Đức, Phần Lan, Anh quốc, Bồ Đào Nha, Nam Phi, Peru và Đài Loan.

Thuyết về việc chọn lựa nghề nghiệp của Jonh Holland nhấn mạnh vai trò của tính cách ảnh hưởng tới quyết định chọn nghề. Theo Jonh Holland, một số loại tính cách đặc biệt thích hợp với một số nghề, nếu có được sự tương ứng tốt giữa tính cách với nghề nghiệp, người ta sẽ thích công việc của họ hơn và muốn sống chết với nó. Nhưng nếu thiếu sự tương hợp này, họ sẽ không hạnh phúc và có thể muốn chuyển sang một công việc khác.

Mặc dù bảng liệt kê về những loại tính cách của Holland rất có ý nghĩa nhưng ông vẫn nhìn nhận chắc chắn có những người hành nghề không có một tính cách rõ rệt.

- Nghiên cứu về giới tính trong lựa chọn nghề nghiệp:

Page 64: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Kết quả nghiên cứu về giới tính trong sự lựa chọn nghề nghiệp cho thấy trước đây, nhiều phụ nữ bước vào giai đoạn đầu tuổi trưởng thành được cho rằng việc việc mô tả nghề nghiệp này gắn với những công việc mà họ đặc biệt yêu thích và đam mê: nghề nội trợ. Còn đối với những phụ nữ đi tìm những công việc bên ngoài chỉ nên chọn lựa hoặc thực hiện một số nghề nào đó. Đây là một quan điểm khá cố thế hiện rõ sự “mặc định giới tính” trong việc chọn nghề cũng như ít nhiều đã hiện rất rõ quan điểm bất bình đẳng giới. Đơn cử như danh sách nghề với từng giới được mô tả cụ thể ở nhiều quốc gia vào những năm 1960 đến tận những năm 1990. Danh sách nghề với nam giới bao gồm những nghề như: cảnh sát viên, người làm các công trình xây dựng, luật sư. Danh sách nghề đối với nữ gồm: thư kí, giáo viên, nhân viên quầy thu ngân, thủ thư. Tại Việt Nam, điều này không thể hiện rõ nhưng cũng tồn tại “mặc định” trong suy nghĩ của không ít người.

Lí luận về nghề nghiệp và giới tính phản ánh cái nhìn truyền thống của xã hội về những nghề nghiệp được cho là thích hợp nhất theo giới tính. Theo truyền thống, người nữ thích hợp với những nghề liên quan tới tính cách mềm mại. Trái lại, người nam được coi là thích họp nhất cho những nghê đòi hỏi óc tố chức, khả năng sắp xếp. Tuy nhiên, trong thực tế thì khả năng tiềm tàng của mỗi con người và tố chất cùng với kinh nghiệm công việc và sự cống hiến mới quyết định mức lương, vị trí công việc cũng như những triển vọng đích thực của từng cá nhân. Hơn nữa, ngay trong từng giới thì vẫn có những trường họp cần được nhìn nhận riêng với khả năng thực và khát khao của chính họ với công việc hay nghề nghiệp.

Ngày nay ít có sự phân biệt về giới tính hon so với cách đây vài thập niên. Chẳng hạn, việc khẳng định hay tuyên bố một nghề đặc trung cho người nam hay nữ là một điều phi logic. Tuy nhiên, vẫn còn những thành kiến mang tính truyền thống trong việc xác định vai trò, trách nhiệm nghề nghiệp dựa theo giới tính. Một số người nữ ít có thể tìm được một công việc mà theo truyền thống đó là công việc dành cho nam giới, chẳng hạn như nghề kĩ sư, lập trình viên. Theo tài liệu đã thu thập được cho thấy, có 97% những ngành

Page 65: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

nghề, việc kiếm tiền trong một tuần của người nữ ít hon nam. Thực tế cũng cho thấy người nữ trong một số ngành nghề thường kiếm được ít tiền hơn so với người nam cùng làm một công việc. Ngày nay, cơ hội làm việc trong các lĩnh vực mới của phụ nữ cũng nhiều hơn đáng kể so với trước. Phụ nữ ngày nay có thế làm luật sư, nhân viên bảo hiểm, tài xế xe buýt. Lẽ đương nhiên, với một số công việc có tính đặc trưng thì vẫn còn có những khác biệt đáng kể về giới tính. Điều này cũng cần được nhìn nhận một cách toàn diện, sâu sắc, nhân văn nhưng khoa học. Người phụ nữ trong những vai trò nghề nghiệp có vị trí cao và được trọng vọng có thể sẽ gặp phải cái có thể gọi là “ trần nhà kiếng” (glass ceiling). Đây là một “hàng rào” không thể thấy rõ bằng hình dạng được trong một tổ chức, do việc đối xử phân biệt, làm cản trở các thành viên thăng tiến đạt tới một vị trí nào đó cao hơn. Nó có thể vận hành phảng phất và những người chịu trách nhiệm về việc gìn giữ trần nhà kiếng tại một nơi nào đó không ý thức được hành động của họ đã kéo dài sự “hạn chế” những phấn đấu đích thực của phụ nữ.

Những nghiên cứu chuyên biệt về lứa tuổi trong mối quan hệ với sự thành công trong nghề nghiệp cho thấy:

- Từ 25 đến 40 tuổi là giai đoạn con người đã có nghề và đang đi vào giai đoạn hành nghề một cách tích cực.

- Đặc biệt từ sau 30 tuổi trở đi, con người bắt đầu có tay nghề khá cao. Sự say mê sáng tạo trong nghề nghiệp bắt đầu được hình thành và phát triển ở mức độ bền vững, sâu sắc làm cho nghề nghiệp rất dễ thăng hoa.

Đây là những cơ sở quan trọng cần được nhận thức và ứng dụng trong việc bố trí lao động, quản trị nguồn nhân lực trong tổ chức. Đó cũng là một tiêu chí để đề bạt nhằm nâng cao chất lượng làm việc nói chung và hoạt động của nhà quản lí nói riêng.

Muốn thành đạt trong nghề nghiệp phải có sự nỗ lực phấn đấu tích cực của cá nhân, bằng tài năng, trí tuệ, tâm huyết của mình. Những tổng kết về

Page 66: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

sự thành công của người thành niên trong nghề nghiệp cần dựa trên những gợi mở liên quan đến sáu chữ T cần có cho sự thành công nghề nghiệp.

- TI (Tin): Thông tin là điều kiện đầu tiên của sự thành đạt, ai nắm được thông tin nhanh chóng, biết quản lí và điều khiển nó thì sẽ có được những quyết định đúng đắn và làm chủ.

- T2 (Tài): Tài thể hiện ở các chỉ số:

+ Có tư duy độc lập sáng tạo.

+ Có năng lực đưa ra những quyết định nhanh chóng, kịp thời, chính xác.

+ Có năng lực vận dụng những lí luận vào thực tiễn, có phương pháp hành động thực tiễn có hiệu quả.

+ Có khả năng thích nghi mềm dẻo với những thay đối của thời đại và cuộc sống.

+ Có kế hoạch, xác định được cái ưu tiên trong từng thời kì và giai đoạn.

+ Có phẩm chất quyết đoán, dám mạo hiểm thực hiện những quyết định táo bạo sau khi đã biết tính toán kĩ càng nguyên nhân và kết quả của nó.

- T3 (Tâm): Đó là đạo đức, lương tâm và tính nhân bản trong sự nghiệp. Chữ tâm thể hiện sự cao thượng, tính hướng thiện, xu hướng phấn đấu và cạnh tranh lành mạnh.

- T4 (Tín): Đó là uy tín của con người. Uy tín là phẩm chất, năng lực và giá trị của cá nhân được thừa nhận. Muốn thành đạt trong một hoạt động, nghề nghiệp thì phải có uy tín chuyên về lĩnh vực nghề nghiệp ấy.

- T5 (Tiền): Tiền được xem là cơ sở ban đầu về vốn. Vốn là điều kiện để làm nên sự nghiệp lớn nhưng nó hoàn toàn phụ thuộc vào người sử dụng nó.

Page 67: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

- T6 (Tình): Người có tình, quảng giao dễ có cơ hội thành đạt. Tình cảm tốt với mọi người tạo động lực cho sự nghiệp, giúp có những kinh nghiệm, phương pháp, những quyết định đúng đắn học hỏi từ bạn bè.

Ngoài ra, những nghiên cứu chuyên biệt về tâm lí người trưởng thành cho thấy khi con người bước vào tuổi 35 - 40 nhưng vẫn chưa có nghề nghiệp ổn định, chưa được lao động bằng chính nghề của mình thì sự hẫng hụt về mặt tâm lí xã hội là rất lớn. Điều này sẽ làm cho họ dễ mất phương hướng và buông xuôi thậm chí dễ dẫn đến những tệ nạn xã hội (ma túy, mại dâm). Nạn thất nghiệp hiện nay ở tuổi người thành niên cũng là vấn đề của toàn cầu cần được quan tâm và có những quyết sách kịp thời để tránh những ảnh hưởng liên đới mang tính tiêu cực đến cộng đồng và độ tuổi.

Tóm lại, quá trình lập nghiệp của người trưởng thành trẻ có những biểu hiện sau:

- Có sự phát triển tình cảm nghề nghiệp, hết mình tiến thân, tạo dựng những thành quả lao động.

- Có sự am hiểu sâu sắc, thành thạo ngành nghề đã chọn.

- Luôn tự khẳng định mình trong nghề nghiệp từ đó dân đên sự say mê làm việc và sáng tạo.

- Sau 35 tuổi mà chưa có nghề nghiệp ổn định thì dễ dẫn đến những “khủng hoảng vị trí xã hội”.

PHẦN TÓM TẮTĐầu tuổi trưởng thành là đỉnh điểm của quá trình phát triển cơ thể và

sức khoẻ. Đây cũng là thời gian đánh dấu đỉnh điểm của một sổ khả năng nhận thức, và sự tiếp tục phát triển của những khả năng khác.

Lứa tuổi người trưởng thành trẻ tuổi bao gồm 2 thời kì:

- Thời kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi (18 đến 25 tuổi)

Page 68: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

- Thời kì thứ 2 của người trưởng thành trẻ tuổi (người thành niên, sau 25 tuổi đến 40 tuổi)

Đây là thời kì chọn và phát triển nghề nghiệp, người trưởng thành trẻ cũng phải dành nhiều tâm sức cho việc lập thân và nuôi dạy con đang trong thời kì thơ ấu. Ngoài ra người trẻ cũng bắt đầu thể hiện nhiều vai trò và trách nhiệm đối với xã hội.

Câu hỏi thảo luận1. Nêu những tiêu chuẩn để xác định một con người đã trưởng thành.

2. Những điều kiện xã hội quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí người trưởng thành trẻ tuổi là gì?

3. Những điểm nào về tư duy của người trưởng thành trẻ tuổi mà người làm công tác giáo dục cần lưu ý?

4. Đâu là những giá trị mà người trưởng thành trẻ tuổi thường lựa chọn trong định hướng loi sống của mình?

5. Muốn thành đạt trong nghề nghiệp người trưởng thành trẻ tuổi cần làm gì?

Bài tập thực hànhTìm hiểu định hướng giá trị nghề nghiệp của người trưởng thành trẻ

tuổi tại cơ sở giáo dục Cao đẳng - Đại học.

Khách thể: Chọn học viên trong lớp mà anh chị đang học tập, hoặc những sinh viên ở các cơ sở giáo dục Cao đẳng - Đại học.

Yêu cầu: Nêu những định hướng giá trị nghề nghiệp của người trưởng thành trẻ tuổi tại cơ sở giáo dục Cao đẳng - Đại học.

Cách thực hiên:

- Xây dựng phiếu câu hỏi lấy ý kiến đánh giá của học viên hoặc sinh viên. Có thể sử dụng thêm các phương pháp điều tra khác như phương pháp quan sát, đàm thoại, sưu tầm tài liệu….

Page 69: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

- Tiên hành xin ý kiên phản biện của đồng nghiệp hoặc học viên cùng học về phiếu hỏi.

- Thu thập và xử lí số liệu để viết báo cáo.

- Rút ra các kiến nghị và đề xuất có liên quan đến nội dung nghiên cứu.

Câu hỏi ôn tập1. Trình bày tóm tắt những đặc điểm tâm lí cơ bản của thời kì đầu

người trưởng thành trẻ tuổi hoặc thanh niên sinh viên.

2. Tại sao nói động cơ học tập của thanh niên sinh viên rất đa dạng và phức tạp?

3. Trình bày tóm tắt một số đặc điểm tâm lí của người thành niên.

4. Phân tích quá trình lập thân của người thành niên.

5. Tại sao nói quá trình lập nghiệp của người thành niên là vấn đề trọng yếu trong tâm lí của độ tuôi này?

CHƯƠNG 3: TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRUNG NIÊNTuổi trung niên là lứa tuổi phải đối mặt với nhiều sự kiện căng thẳng,

nhưng người trung niên cũng bỏ lại nhiều áp lực ở tuổi trưởng thành trẻ tuổi lại phía sau. Người trung niên đạt được những tầm cao mới trong phát triển nhận thức, nhân cách, và đời sống tình cảm. Họ đã có sự nghiệp và hạnh phúc với con cái ở lứa tuổi vị thành niên.

3.1. Điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí của người trung niên3.1.1. Đặc điểm sự phát triển thể chấtKhi bước sang tuổi trung niên, người ta bắt đầu cảm nhận một số thay

đổi về thể chất đi kèm với lão hóa như sau:

- Hình dáng cơ thể: Xương sống trở nên cứng và co lại, làm cho chiều cao của người trung niên và người lớn tuổi bị giảm sút. Da và cơ trở nên mất tính đàn hồi, nếp nhăn bắt đầu tăng lên. Do sự tích lũy mỡ dưới da tăng, đặc biệt là vùng bụng nên người trung niên trở nên mập.

Page 70: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

- Kĩ năng vận động: Việc xơ cứng của các hệ cơ, xương và sự lão hóa của các hệ cơ quan khác đã khiến cho vận động trở thành một vấn đề không mấy dễ dàng đối với người trung niên. Và kĩ năng vận động ngày một giảm sút trong suốt quá trình tuổi trung niên. Tuy nhiên, nhờ vốn kinh nghiệm sống phong phú người trung niên có thể hạn chế được việc vận động nhiều mà vẫn đảm bảo được công việc. Và việc luyện tập thể dục hàng ngày sẽ giúp giảm bớt hiện tượng suy giảm này. Ngoài ra, việc học tập những kĩ năng vận động mới là một việc khó khăn ở tuổi trung niên. Ví dụ như việc học múa, nhảy diễn ra rất dễ dàng với thiếu nhi và thanh thiếu niên nhưng lại là một bài toán khó đối với người trung niên. Họ mất rất nhiều thời gian, công sức để hoàn thành những bài múa, nhảy này.

- Hoạt động của tim mạch: Tim đưa máu vào cơ thể giảm 8% so với giai đoạn đầu người trưởng thành. Lượng cholesterol tăng lên rõ rệt: trung bình từ 198 ở tuổi 35 - 40 tăng lên 221 ở tuổi 45 và sau đó tiếp tục tăng theo tuổi dẫn đến bệnh huyết áp cao.

- Chức năng hoạt động của thận giảm đi khoảng 10%, dung lượng của phổi cũng bắt đầu giảm, nên lượng oxygen đưa vào cơ thể giảm làm cho người trung niên không thể làm những công việc quá nặng nhọc như ở người trưởng thành trẻ tuổi.

- Hoạt động của hệ thần kinh trung ương cũng suy giảm, nhất là vào giai đoạn cuối của lứa tuối trung niên, từ 55 - 60 tuổi.

- Người trung niên rất “hay nói” hay còn gọi là “Hoạt động ngôn ngữ rất tích cực”. Đó là do hoạt động ức chế bị suy yếu và quá trình hưng phấn có một quán tính mạnh. Theo N. N. Xirotin là do sự khuếch đại và tăng cường vai trò của hệ thống tín hiệu thứ hai trong hoạt động phản xạ có điều kiện của con người.

Những suy giảm như vậy về thể chất và thần kinh gây ra những cản trở bước đầu trong hoạt động và là những nguyên nhân sâu xa của một số loại bệnh tật ở con người.

Page 71: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Ngoài những thay đổi như trên về thể chất và thần kinh, người trung niên nam và nữ đều có những thay đổi về sinh sản:

- Đối với phụ nữ, khoảng thời gian từ 45 tuổi đến 55 tuổi, phụ nữ diễn ra thời kì tiền mãn kinh và mãn kinh. Độ dài thời gian cần có đối với mọi thay đổi sinh sản diễn ra khác nhau đáng kể ở từng phụ nữ, đối với một số chỉ mất một hay hai năm nhưng số khác thay đối dần dần trong suốt mười năm. Suốt trong thời kì này, do số trứng trong buồng trứng giảm, lượng estrogen và progesterone giảm gây ra những biểu hiện không tốt, không bình thường ở người phụ nữ.

Các nhà nghiên cứu nhận dạng hai nhóm triệu chứng bệnh lí chính đi kèm với thời kì tiền mãn kinh và mãn kinh ở phụ nữ làm cơ thể khó chịu như sau (DeAngelis, 1997):

+ Triệu chứng liên quan đến yếu tố nội tiết tố bao gồm mệt mỏi uể oải, có những cơn nóng phừng mặt, đổ mồ hôi trộm, chân nặng.

+ Triệu chứng ốm đau (soma) như: mất ngủ, nhức đâu, mất cân bằng, tim đập nhanh, cứng khớp hoặc đau khớp, cổ hoặc vai. [19, 507]

Về tính tình có những biểu hiện thất thường: buồn rầu, dễ nóng giận, dễ thay đổi.

- Thay đổi sinh sản ở nam không ấn tượng bằng ở nữ. Sản xuât tinh trùng giảm dần khoảng 30% ở độ tuổi từ 25 - 60 (Solnick và Corby, 1983). Nhưng thậm chí đàn ông 80 tuổi vẫn còn một nửa khả năng thụ thai khi so với độ tuổi 25 và vẫn còn khả năng sinh con.

Chế độ sinh hoạt, ăn uống, nghỉ ngơi và tập thể dục phù hợp, khoa học là cách chống lại sự lão hóa sớm ở những người ở tuổi trung niên.

3.1.2. Điều kiện sống, hoạt động và vai trò xã hội của người trung niênTheo Robert J. Havighurst (Mĩ) thì quá trình sống, từ khi sinh ra cho đến

chết, bao gồm những người làm việc theo cách của họ thông qua từng giai đoạn phát triển khác nhau, bằng cách giải quyết vấn đề của họ trong từng

Page 72: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

giai đoạn. Nếu cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ, thì nó sẽ dẫn người ấy đến bất hạnh, không chấp thuận của xã hội và các vấn đề trong công việc sau này. Mặt khác, nếu các cá nhân hoàn thành nhiệm vụ thành công, nó sẽ dẫn đến hạnh phúc và thành công với công việc trong tương lai. Và một cách cụ thể, người trung niên cần phải giải quyết tốt những nhiệm vụ cụ thể sau [31]:

- Thành công trong việc thực hiện trách nhiệm người công dân và trách nhiệm xã hội. Sau một thời gian sống và lao động trong xã hội mỗi người trung niên đều có những vị thế nhất định trong cộng đồng và xã hội. Và một cách tất yếu, họ phải đảm bảo những nhiệm vụ và trách nhiệm tương ứng với những vị thế đó.

- Thiết lập và duy trì một chuẩn kinh tế của cuộc sống cũng là một nhiệm vụ mà người trung niên cần giải quyết. Sau những năm tháng làm việc miệt mài, một người trung niên bình thường sẽ có được sự ổn định và tự chủ về kinh tế. Đây là một nhiệm vụ và cũng là một điều kiện quan trọng đế người trung niên thực hiện được các nhiệm vụ khác. Tuy nhiên, trong cuộc sống nhiều biến động và có nhiều khó khăn về kinh tế như hiện nay thì đây là một nhiệm vụ không phai dễ thực hiện đốì VỜI tất cả người trung niên.

- Phát triển những hoạt động nghỉ ngơi của người lớn là nhiệm vụ tiếp theo và cũng có thể được xem là Quyền lợi của người trung niên sau một thời gian cống hiến sức lực cho cộng đồng và gia đình. Các hoạt động nghỉ ngơi, dã ngoại, du lịch được người trung niên thực hiện thường xuyên hơn để thỏa mãn những nhu cầu, ước mơ của mỗi người. Ngoài ra việc này diễn ra nhiều hơn còn để giúp người trung niên thích ứng được với sự giảm sút về mặt thể chất.

- Giúp đỡ những đứa trẻ ở tuổi vị thành niên trở thành những người trưởng thành có trách nhiệm và hạnh phúc. Đến độ tuối này, những đứa con của người trung niên thường ở tuổi vị thành niên. Đây là một lứa tuổi đầy biến động và khó khăn, công tác giáo dục con cái thời điểm này đầy những

Page 73: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

khó khăn và thách thức. Và đây trở thành một nhiệm vụ rất quan trọng mà mỗi bậc phụ huynh cần đối diện và giải quyết.

- Kết thân với các cặp vợ chồng khác cũng là một nhiệm vụ nữa đối với người trung niên ở giai đoạn này, khi mà vị thế xã hội của họ tăng lên, các mối quan hệ xã hội cũng được mở rộng và đời sống kinh tế dần đi vào ổn định đã tạo điều kiện cho họ quan tâm đến nhu cầu của bản thân và củng cố các mối quan hệ thân giao.

- Chấp nhận và thích nghi với những thay đổi thể chất của tuối trung niên. Như đã nói, thế chất của người trung niên bắt đầu có sự xuống cấp. Và những việc này ảnh hướng rất nhiều đến đời sống của người trung niên từ chế dộ ăn uống, đời sống sinh hoạt đến công việc. Vì vậy thích ứng với những biến đổi này là một nhiệm vụ quan trọng để có được cuộc sống hạnh phúc nơi người trung niên.

- Thích nghi với tuổi làm cha mẹ là một nhiệm vụ chủ chốt nữa của người trung niên vì hầu hết đến độ tuổi này, người trung niên đều đã có con cái. Và việc này có những Quyền lợi và nghĩa vụ tương ứng như niềm vui vì chứng kiến con lớn khôn, nhiệm vụ giáo dục, dạy dỗ và nuôi dưỡng con…

Grace và Richard (2003) đã phát triển những nhiệm vụ của giai đoạn trung niên (Development tasks of Middle Adulthood, Ages 40 - 60) như sau:

- Đối phó với những sự thay đổi cơ thể hay bệnh tật và hình ảnh cơ thể biến đổi.

(Dealing with body changes or illness and altered body image)

- Thích ứng với những thay đổi giữa đời người về hoạt động tình dục.

(Adjusting to middle - life changes in sexualiti)

- Chấp nhận thời gian trôi qua.

(Accepting the passage of time)

- Thích ứng với sự già đi.

Page 74: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

(Adjusting to aging)

- Trải qua bệnh tật và mất mát của cha mẹ và những người đang sống cùng thời.

(Living through illness and death of parents and contemporaries)

- Đương đầu với những thực tế của sự mất mát.

(Dealing with realities of death)

- Định rõ lại mối quan hệ với vợ (chồng) hoặc bạn đời.

(Redefining relationship to spouse or partner)

- Quan tâm sâu sắc những mối quan hệ với trẻ em đang lớn hay cháu của mình.

(Deepening relations with grown children or grandchildren)

- Duy trì lâu dài mối quan hệ bạn bè đang có và tạo lập các mối quan hệ bạn bè mới.

(Maintaining long - standing friendships and creating new ones)

- Củng cố sự nhận diện nghề nghiệp.

(Consolidating work identiti)

- Chuyển giao các kĩ năng và các giá trị đến thế hệ trẻ.

(Transmiting skills and values to the young)

- Ấn định những nguồn tài chính hiệu quả.

(Allocating financial resources effectively)

- Chấp nhận trách nhiệm xã hội.

(Accepting social responsibiliti)

- Chấp nhận sự thay đổi của xã hội.

Page 75: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

(Accepting social change),[31]

Những thay đổi về thể chất, hoạt động và vai trò xã hội của người trung niên có ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển nhận thức của người trung niên.

3.2. Một số đặc điểm về hoạt động nhận thức người trung niên3.2.1. Các loại cảm giácThị giác: Từ 40 tuổi đến đầu tuổi 50, khả năng nhìn giảm sút đáng kể.

Thính giác: Khả năng nghe của người trung niên cũng có phần giảm sút và thường thì diễn ra sớm và nhanh hơn ở người nam so với người nữ.

Vị giác, xúc giác, khứu giác: cũng đều giảm sút so với trước. Và có một điều đặc biệt là tới tuổi trung niên, cơ thể con người trở nên khá nhạy cảm đối với sự thay đổi của nhiệt độ và thời tiết. Các hiện tượng đau nhức, cơ khớp và dị ứng dễ dàng xảy ra khi thời tiết biến đổi, và đặc điểm này còn giữ lại cho đến tuổi già.

3.2.2. Đặc điểm phát triển của hình thức trí tuệ (John Horn-1982):Hình thức trí tuệ dễ thay đổi, trí tuệ mềm, lỏng (Fluid intelligence): Khả

năng trí tuệ để học tập những cái mới: trí nhớ, cách lập luận theo phương pháp qui nạp (suy lí quy nạp), tri giác nhanh chóng mối quan hệ không gian. Các hình thức của trí tuệ dễ thay đổi phát ừiển ở đỉnh cao ở giai đoạn người trưởng thành trẻ tuổi, nhưng bị giảm sút ở người trung niên. Hiện tượng sút giảm này do kết quả ở sự giảm sút của hoạt động hệ thần kinh trung ương. Theo K. Warner Schaie (1994), khả năng suy lí quy nạp, định hướng không gian, tốc độ tri giác và ghi nhớ từ, bắt đầu giảm dần từ tuổi 25.

Hình thức trí tuệ kết tinh, cứng (Crystallized intelligence): Hình thức của trí tuệ kết tinh bao gồm: Khả năng của sự nhận xét, phân tích vấn đề, giải quyết vấn đề xuất phát từ thông tin của kinh nghiệm sống và tri thức. Kết quả trắc nghiệm loại trí tuệ này ở tuổi 50 cao hơn khi 20 tuổi (Simonton, 1990). Hình thức của trí tuệ này là kết quả của giáo dục, sự tiếp xúc với nền văn hóa được tăng lên trong suốt cuộc sống. Theo K. Warner Schaie (1994),

Page 76: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

khả năng tính toán có xu hướng tăng cho đến 45 tuổi, rồi giảm cho đến 60 tuổi, và bền vững trong suốt thời gian còn lại. Khả năng diễn đạt tăng cho đến khoảng 40 tuổi, và khá bền vững trong suốt thời gian còn lại. Điều này giải thích các nhà khoa học làm việc dựa vào tri thức tích lũy và kinh nghiệm sống thường đạt được những thành tích cao ở tuổi 40, 50 và thậm chí cả ở tuổi 60, 70 hơn là khi họ ở tuổi 20.

Vào tuổi trung niên, khả năng “gia” trong công việc sẽ bù đắp cho nhận thức bắt đầu suy giảm. Họ không còn áp dụng các phương thức, qui tắc một cách cứng nhắc, tuyệt đối, mà dựa vào kinh nghiệm, linh tính. Kinh nghiệm cho họ các cách giải quyết khác nhau với cùng một vấn đề, làm tăng khả năng thành công của họ (Willis, 1996; Clark, 1998). [32]

3.2.3. Trí nhớTrong thời trung niên, trí nhớ dài hạn (long - term memory) dường như

giảm, còn trí nhớ tức thời (sensory memory) và trí nhớ ngắn hạn (short - term memory) không giảm. Sự sút giảm trí nhớ dài hạn một phần là do sự tồn tại trí nhớ theo tuổi tác và một phần là do cách họ lưu trữ và hồi phục thông tin. Tuy nhiên, sự sút giảm trí nhớ trong thời trung niên tưcmg đối ít, và hầu như có thể khắc phục được nhờ các kĩ năng tư duy đa dạng (Robert s. Feldman, 2003). [32]

3.3. Đời sống xúc cảm - tình cảm người trung niênNgười trung niên dồn tâm sức của mình để nuôi dạy con cái và giữ mái

ấm gia đình nhưng tuổi này cũng nảy sinh vấn đề của lứa tuổi như “hiện tượng ngoại tình”. Đây là một vấn đề phổ biến ở cả nam giới và nữ giới tuổi trung nhiên. Những cảm giác và nhu cầu muốn được đổi mới, muốn thoát ra những ràng buộc hiện tại để tìm đến những điều mà mình ước mơ, chưa có dễ khiến cho họ ngoại tình khi có điều kiện thúc đẩy.

Việc quan hệ tình dục ngoài hôn nhân đối với những người có gia đình được gọi là sự ngoại tình. Sự không chung thủy này là một mối đe dọa cho hạnh phúc hôn nhân. Nhưng một số phim ảnh và sách báo ngày nay đã dựng nên những bức tranh khá cởi mở, tự do, thậm chí hấp dẫn về vấn đề ngoại

Page 77: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

tình. Có người còn cho rằng đây là một kinh nghiệm hữu ích, làm phấn khởi tinh thần người đi ngoại tình, giúp cho họ trở thành một người vợ, người chồng hoặc người cha, người mẹ tốt hơn. Chính những điêu đó làm cho chúng ta có cảm tưởng rằng ngày nay người ta dễ dãi hơn với sự ngoại tĩnh.

Thông thường đời sống tình cảm của gia đình luôn bị tổn thương nặng nề do sự ngoại tình, nó là một trong những nguyên nhân làm lục đục, bất hạnh cho gia đình, là hành vi vi phạm đạo đức, pháp luật, đem lại sự mất ổn định trong sinh hoạt của cộng đồng.

Nguyên nhân tâm lí cơ bản sinh ra ngoại tình có thể như sau:

- Hôn nhân không có tình yêu: Loại này thường biểu hiện dưới 2 dạng:

+ Giữa vợ chồng từ đầu đến cuối căn bản không có tình yêu, việc kết thành của hôn nhân là do những yếu tố ngoài tình cảm, vì kinh tế, “lợi ích gia tộc”… Nên họ thường có cảm giác mất mát đau xót và hối hận, một khi họ tình cờ gặp được đối tượng đáng yêu thì không ít người liền có thể bất chấp tất cả để theo đuổi. Họ như người thiếu nữ thời mới biết yêu với các biểu hiện như: hưng phấn, ngọt ngào, e thẹn, bất chấp tất cả mọi phiền muộn, sốt ruột, băn khoăn, áy náy…

+ Sau kết hôn hai bên vợ chồng hoặc một bên tiêu tan tình yêu. Loại này thường có liên quan đến các cặp vợ chồng đến với nhau ở giai đoạn cuộc đời chưa chín chắn, yêu sớm.

- Tâm lí lạnh nhạt tự nhiên sau kết hôn: Mặc dù vợ chồng vẫn còn yêu nhau nhưng do mâu thuẫn về tính cách, họ không thể kịp thời và chính xác tiếp nhận và lí giải thông tin, trao đổi tình cảm với nhau hay là do đời sống kinh tế, hoặc do không hòa hợp với nhau về mặt tình dục, trình độ, tuổi tác. Họ đi ngoại tình để bù đắp chỗ thiếu, thỏa mãn nhũng ảo tưởng của mình hoặc nhu cầu tò mò muốn biết cái mới.

- Dạng tình cảm phóng túng.

Page 78: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Trong đời sống thực tế, một số ít người do sức kiềm chế lí trí và đạo đức kém sút mà cố ý để tình dục phóng túng. Để thỏa mãn tình dục của mình, họ không đếm xỉa đến việc phá hoại một gia đình khác. Loại người này thường tinh thần cực kì trống rỗng và vô vị, quan niệm giá trị hỗn loạn, thậm chí đạo đức đồi bại. Với hành vi như vậy họ sẽ không đạt được tình yêu chân chính nào cả, thường mất đi nơi gửi gắm tinh thần, lâm vào trống trải, cô độc, khó tránh khỏi sự trừng phạt của cuộc sống.

Có người cho rằng ngoại tình là một hiện tượng của tình yêu, nhưng kết cục của nó thường là bi kịch của tâm hồn, nó là hành vi trái với đạo lí làm người. Hôn nhân, đó là sự hợp tác giữa hai người yêu nhau và có ước vọng chung sống luôn là khuôn mẫu tốt nhất cho cuộc sống gia đình mà xã hội đã thiết lập.

3.4. Đặc điểm sự phát triển nhân cách người trung niên3.4.1. Khủng hoảng giữa đờiThời kì đầu của người trung niên (37 -45 tuổi) ở cả nam giới và nữ giới

thường quan sát thấy những biểu hiện của “khủng hoảng giữa đời”.

Dấu hiệu đặc trưng của căn bệnh “khủng hoảng tâm lí giữa đời” là hiện tượng mất ngủ, trằn trọc, thất vọng, chán chường, thờ ơ, lãnh đạm với cuộc sống do con người tĩnh tâm nhìn lại mình, tự suy xét về những thành bại trong cuộc đời.

Theo Jean Claude Larchet (1992): “Bệnh buồn chán thường mặc lốt một cảm tưởng mù mờ và lộn xộn của nỗi bất mãn, buồn rầu mệt mỏi với chính mình, với chung quanh nơi mình đang sống… Người ta tự hỏi có nên tiếp tục cuộc hôn nhân này hay không? Mỗi người cảm thấy một thứ vắng mặt nào đó khi đối diện với chính mình.”

Nguyên nhân tâm lí của “khủng hoảng giữa đời” được các nhà tâm lí phân tích dưới các góc độ như sau:

+ Nhà Tâm lí học Hà Lan Martin Bot viết: Đây là hiện tượng đang xảy ra đối với mỗi con người, không loại trừ ai, kể cả nam lẫn nữ. Giai đoạn khủng

Page 79: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

hoảng giúp con người nhìn lại mình, nắm bắt được những gì thuộc chân lí, giúp con người rút ra những bài học kinh nghiệm cho riêng mình.

+ Theo nhà Tâm lí học Pháp, Jacques Gauthier (1999), thì thách đố của người trung niên là tự chấp nhận, tự làm tăng giá trị, lắng nghe ước muốn sống của mình từ đó ý thức về vẻ đẹp nội tâm và bản lĩnh thật của mình.

Khi tự khẳng định, nữ trung niên bộc lộ chiều kích nam tính, họ học một thứ tự chủ nào đó và tình yêu được phát minh trở lại nơi họ.

Khi tự khẳng định, nam trung niên bộc lộ chiều kích nữ tính, họ trở nên nhạy cảm, ước muốn được thăng bậc bằng một lòng âu yếm, yêu thương nào đó, mà không muốn bị kiểm soát trong sự trung thành với cái - mình - là. Họ không còn chấp nhận những ai nói ngược lại với điều họ cảm thấy và sống.

3.4.2. Sự nghiệpVới sự tích lũy dày dạn của những trải nghiệm, sự chín muồi trong tay

nghề, đây là lứa tuổi mà con người có thể cống hiến nhiều nhất tài năng và sức lực của mình cho xã hội. Những chính khách, những nhà khoa học, kĩ thuật, công nghệ, văn học, nghệ thuật, v.v… thường thành đạt nhất vào khoảng 10-15 năm cuối của giai đoạn này.

Với nhiều người, lao động và sáng tạo để đạt đến bản sắc riêng, dấu ấn riêng của chính mình chính là mục tiêu phấn đấu không mệt mỏi. Nhờ vậy mà xuất hiện các trường phái riêng, phong cách riêng trong khoa học, nghệ thuật… Một số biểu hiện tâm lí về thực hiện vai trò xã hội trong sự nghiệp:

- Theo Charles Taylor (1998) “Những nguồn mạch của cái tôi”: Ý niệm về tính đích thực ở người Nam — Hình ảnh người ấy phóng ra trong xã hội không luôn luôn phù hợp với con người thật của họ. Một cách sâu xa, họ biết nhưng tìm cách phủ định. Thường thì họ phải cố gắng để tỏ ra là đích thực. Điều này giúp chúng ta giải thích cho tính “sĩ diện hão” ở người đàn ông thường biểu hiện mạnh hơn ở người phụ nữ. Ví dụ như gặp một trở ngại thì người phụ nữ thường tìm đến sự giúp đỡ của người khác hơn, còn nam giới thường là tự cố gắng giải quyết và chỉ tìm đến sự hỗ trợ từ người khác chỉ khi

Page 80: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

nào gần như là bất lực. Người đàn ông thường tỏ ra đạo mạo, có năng lực hơn thực tế của bản thân. Họ biết điều đó nhưng họ vẫn cố gắng để chứng minh những gì họ đang thể hiện là khả năng thực của họ. Việc này có tác dụng tích cực là nếu ở chừng mực nào đó sự cố gắng này sẽ giúp những người đàn ông phát triển bản thân. Tuy nhiên, nếu đi quá xa họ sẽ phải đối diện với một số vấn đề như: giả tạo, lừa dối chính mình, sống trong ảo tưởng hoặc là bị stress vì tự tạo áp lực cho bản thân với những mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung của chính mình cũng như phải gồng mình để bảo vệ vỏ bọc của bản thân dưới cái nhìn của xã hội và những người xung quanh.

- Theo Jacques Gauthier (1999)

+ Nữ trung niên không đi làm, thì toan tìm một công việc hoặc tìm ra khỏi nhà. Vì lúc này, con cái của họ đã lớn và họ không phải mất quá nhiều thời gian và nhiệm vụ để chăm sóc con cái và gia đình nữa.

+ Nữ trung niên đi làm thì ao ước một cuộc sống tình cảm và giới tính phong phú hơn.

- Đối với những người phải chịu nhiều thất bại trong quãng đời này xuất hiện sự trì trệ, bi quan bởi cảm giác rằng mình chang đi đến đâu cả, chẳng làm được cái gì quan trọng cả…

3.4.3. Giáo dục con cáiGiáo dục con cái ở tuổi trung niên có những nét đặc trưng mới: Sự khác

nhau của thế hệ (gap generation) xuất hiện. Mặc dù, sống chung trong một gia đình, nhưng điều kiện và thời điểm lớn lên khác nhau nên sẽ có sự khác biết tất yếu trong tính cách, quan điểm sống và thế giới quan giữa cha mẹ và con qái. Đây là một đều phổ biến và dễ bắt gặp ở các gia đình.

Để giáo dục tốt con cái, cha mẹ phải biết kết hợp hài hòa giữa lòng yêu thương vô bờ với tinh thần trách nhiệm cao và những hiểu biết cần thiết về tâm lí lứa tuổi, về khoa học giáo dục đối với con cái. Đã có nhiều phụ huynh mắc sai lầm trong việc giáo dục con cái như chỉ tập trung cho con học đủ thứ mà quên đi việc trau dồi những phẩm chất đạo đức cho con. Hoặc có phụ

Page 81: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

huynh lại cưng chiều con một cách quá đáng, đáp ứng mọi nhu cầu của con cái từ nhu cầu lớn đến nhu cầu nhỏ và cả những nhu cầu không chính đáng. Ngược lại cũng có những phụ huynh quá khắt khe, kiểm soát con cái đến từng chuyện nhỏ nhất… Tất cả những cách giáo dục phiến diện, tuyệt đối hóa theo một cực nào đó đã để lại những tổn thương nặng nề đến tâm hồn của con cái. Các hiện tượng stress, trầm cảm, sợ học… trở nên phổ biến ở học sinh, một lứa tuổi mà trước chúng ta hay gọi là “tuổi thần tiên”. Đó là chưa nói đến hiện tượng “bứt phá” các rào cản và chuẩn mực xã hội diễn ra mạnh mẽ và có xu hướng tăng dần ở thanh thiếu niên hiện nay. Vì vậy để giáo dục con cái nên người mỗi người cha người mẹ phải là những nhà sư phạm thực thụ với đầy đủ phương pháp, kĩ năng giáo dục và đặc biệt là tình yêu thương chân thành dành cho con cái.

Sự thành bại đối với giáo dục con cái ở người trung niên có ảnh hưởng lớn đến đời sống tâm lí của họ. Thật vậy, rất nhiều cha mẹ cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện khi chứng kiến con khôn lớn, trưởng thành và thành đạt. Và cùng với điều này là sự đau khổ, “nước mắt ngắn dài” và tự trách mình của cha mẹ khi phải bất lực trước những đứa con ngỗ ngược hoặc là thất bại trong cuộc sống.

3.4.4. Thích thú với các cuộc hội họpCác cuộc hội họp với bạn bè cũ giúp người trung niên tìm thấy mình

trong quá khứ. Ngoài ra, sau một thời gian dài, người trung niên đã dành thì giờ và sức lực để chu toàn các nhiệm vụ đối với gia đình, chăm lo con cái, nghĩa vụ với xã hội… giờ đây mọi thứ đã dần ổn định và đi vào nề nếp. Người trung nhiên như được thoát ra khỏi những ràng buộc này để rồi họ bắt đầu chú tâm vào những mối quan hệ mà trước giờ vì hoàn cảnh sống họ đã lãng quên hay là để mờ nhạt đi. Đồng thời, các buổi hội họp bạn bè còn giúp người trung niên giải tỏa những ưu phiền thường nhật trong cuộc sống, động viên họ vui tươi, khỏe mạnh hơn.

3.4.5. Một số lí thuyết phát triển nhân cách ở người trung niên3.4.5.1. Lí thuyết của Erik Erikson (1950 1982)

Page 82: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Tiếp cận phát triển Tâm lí Xă hội: nhấn mạnh các khía cạnh xã hội trong sự phát triển tăm lí của con người.

Erik Erikson nêu ra bản chất của sự phát triển nhân cách trong suốt quá trình tuổi trung niên là sự giải quyết khủng hoảng tâm lí: “generativiti versus self - absorption”- Quan tâm chăm sóc thế hệ sau và sự chăm lo cho bản thân.

- Generativity: Đối với nhiều người, đây là thời gian của sự thực hiện được nhiều công việc hữu ích và quan tâm chăm sóc. Sự chú ý của họ hướng về con cái của họ, về tình trạng khỏe mạnh và hạnh phúc của chúng. Trẻ cần và phụ thuộc vào cha mẹ chúng, nhưng Erikson nhấn mạnh rằng đó là sự sắp đặt phụ thuộc lẫn nhau. Cha mẹ cũng phụ thuộc vào con cái của họ. Trẻ tô điểm thêm cuộc sống của cha mẹ. Đối với nhiều người, khó có thể tìm thấy được những từ để nói lên niềm hứng thú và hạnh phúc mà cha mẹ cảm thấy khi theo dõi sự lớn lên của con cái từ khi ra đời đến lúc trưởng thành.

Erickson định nghĩa “Generativiti” là con người hướng tới để đạt được cảm giác của sự chia sẻ, dâng hiến. Quan tâm chăm sóc đến tình trạng khỏe mạnh của thế hệ tương lai, người trung niên phải sử dụng những khả năng, sở thích và tài năng của họ.

- Self - absorption: có thể gọi đây là hình thức tự kí trung tâm. Những người này hướng tới sự chỉ chăm lo cho bản thân. Họ có cảm giác trống rỗng về cuộc sống của mình, và những khả năng của họ không được sử dụng hết. Sự phàn nàn mãn tính, chỉ trích, hay là phản đối một cách cáu kỉnh có thể: là mẫu mực của một cuộc sống bế tắc. Cuộc sống tối tăm, buồn tẻ và nhiều cá nhân cảm thấy bị mắc kẹt hay là bị giam cầm trong những tình huống của cuộc sống của họ. Tuy nhiên điển hình những lợi ích mà họ làm được trong cuộc sống được đánh giá là có liên quan đến cá nhân và củng cố sự tự kí trung tâm.

3.4.5.2. Lí thuyết của Robert Peck (1968) Tiếp cận phát triển tâm lí xã hội: nhẩn mạnh các khía cạnh xã hội trong sự phát triển tâm lí của con người.

Page 83: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Peck cho rằng tuổi trung niên phải giải quyết 4 kiểu cơn khủng hoảng (điều chỉnh tâm lí): valuing wisdom versus valuing phisical powers, socializing versus sexualizing in human relationships, cathectic flexibiliti versus cathectic impoverishment, and mental flexibiliti versus mental rigiditi.

- Valuing wisdom versus valuing phisical powers (Coi trọng sự thông thái mâu thuẫn với coi trọng sức lực thể chất):

Sau cuối tuổi 20, tình trạng thể chất của con người bị giảm sút. Cho nên kinh nghiệm cuộc sống cho phép người trung niên thực hiện công việc tốt hơn khi tuối trẻ hơn. Thuật ngữ thông thái là sự tăng lên về sức mạnh của sự đánh giá có được do sống lâu hơn. Thông thái không giống như khả năng trí tuệ, nó được định nghĩa như là khả năng đưa ra những lựa chọn hiệu quả khi họ quyết định vấn đề.

Socializing versus sexualizing in human relationships (Xã hội hóa mâu thuẫn với tính dục hóa trong mối quan hệ giữa người với người):

Sự điều chỉnh này tập trung vào sự khoái cảm tình dục, có sự đồng nhất với sự giảm sút chung về thể chất. Sự khoái cảm có thể thúc đẩy nam và nữ đánh giá lẫn nhau về nhân cách của cá nhân. Yếu tố tình dục có thể trở nên bị giảm sút thích hợp khi quan hệ giữa hai người có sự đồng cảm, hiểu biết và lòng yêu thương. Như vậy, ở tuổi trung niên điều quan trọng là sự tính dục hóa các mối quan hệ xã hội phải được thay bằng sự xã hội hóa chúng hay chúng ta có thể nói là làm cho nhu cầu tình dục bị mờ nhạt đi so với nhu cầu tình cảm và các mối quan hệ xã hội.

- Cathectic flexibiliti versus cathectic impoverishment (Giàu cảm xúc và nghèo cảm xúc):

Cathectic flexibiliti: Khả năng chuyển cảm xúc từ người này sang người khác. Giàu (linh động) cảm xúc là bản chất của tuổi trung niên vì đây là thời gian họ bị mất cha mẹ, bạn bè, người thân. Nhưng thật đáng tiếc có một số người thì lại nghèo cảm xúc, họ không thể lại tìm thấy cảm xúc của mình ở

Page 84: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

những người khác. Tự thích hợp một cách tích cực bằng cách tìm thấy những đối tượng mới của sự tập trung tình cảm có thể giúp họ vượt qua khủng hoảng. Họ cần tránh sự nghèo nàn tình cảm bằng cách duy trì tính mềm dẻo về cảm xúc để tạo điều kiện cho các đầu tư tình cảm khác.

- Mental flexibiliti versus mental rigiditi (Sự mềm dẻo của trí tuệ và bảo thủ):

Điều quan trọng của tuổi trung niên là tiếp tục có sự mềm dẻo (linh động) trong ý kiến và hành động của họ và chấp nhận những ý tưởng mới. Một số người khác dựa vào kinh nghiệm và sử dụng nó như những nguyên tắc cố định cho hành động của họ (Người bảo thủ). Những người mềm dẻo thì sử dụng kinh nghiệm như những lời chỉ dẫn dự phòng cho sự giải quyết những vấn đề mới. Họ duy trì sự mềm dẻo của trí tuệ bằng cách đi tìm các giải pháp mới hơn là đứng im trong những thói quen và sự cứng nhắc tâm trí nào đó.

3.4.5.3. Thuyết tính có mục đích (chủ ý) của Charlotte Buhler (1968) - Tiếp cận nhân văn: mọi hiểu biết của con người đều gắn với bản chất con người và các nhu cầu của con người. Sự tiếp cận nhân văn còn đưa ra định đề là ở mỗi con người có định hướng đấy chỉnh bản thân đến thực hiện các tiềm năng của mình.

Charlotte Buhler đã đề ra thuyết phát triển của tâm lí con người nhấn mạnh sự kiện có “mục đích, ý đồ, chủ ý” làm cơ sở cho bản chất của con người. Tính chủ ý này thể hiện qua các lựa chọn được thực hiện trong quá trình cuộc đời nhằm đạt đến những mục tiêu mà không nhất thiết luôn luôn có ý thức. Theo Buhler, thường chỉ cuối đời con người mới có thể nhận thức được bản chất sâu xa của những mong đợi vốn là riêng của mình và lúc đó con người có thể đánh giá được đến mức nào các mong đợi đó được thỏa mãn.

Charlotte Buhler (1968) đưa ra 5 giai đoạn chính trong đời người có liên quan với sự xây dựng và theo đuổi các mục tiêu:

Page 85: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Giai đoạn 1: cho đến 15 tuổi: Đặc điểm là không có mục tiêu chính xác. Đứa trẻ sống với hiện tại và chỉ có một ý nghĩ yếu ớt về tương lai. Thời kì này dành để phát triển cơ thể và trí tuệ.

Giai đoạn 2: Từ 15 tuổi đến 25 tuổi: Tuổi thiếu niên và thanh niên: Trong thời kì này, con người nhận thức được nhu cầu, năng lực và lợi ích của mình. Con người ôm ấp những dự án to lớn liên quan đến việc chọn nghề, chọn bạn đời và nói tổng quát hơn chọn một ý nghĩa cho cuộc đời mình. Đó là thời kì cho phép con người đo được mức độ của khả năng làm chủ và đạt được các mục tiêu ngắn hạn.

Giai đoan 3: Từ 25 tuổi đến 45 hoặc 50: Đây là thời kì cuộc đời phong phú nhất. Đặc điểm là sự xây dựng các mục tiêu rõ ràng và chính xác dẫn con người đến đảm bảo sự ổn định con đường sự nghiệp cũng như đời sống tình cảm với các quyết định có liên quan về mặt hình thành và cân bằng của đôi lứa cũng như sự ra đời của các đứa con.

Giai đoạn 4: Từ 45 tuổi đến 65: Đó là tuổi chín chắn, thời kì mà con người làm bảng thống kê về sự hoạt động trong thời gian qua và các thành tựu của nó. Từ đó, con người sẽ xem xét tương lai bằng cách xác định các mục tiêu có tính đến các yếu tố nghề nghiệp của mình, tình trạng cơ thể cũng như chất lượng các mối liên hệ của đôi lứa.

Giai đoạn 5: Bắt đầu với tuổi già, lúc 65 hoặc 70 tuổi, ở giai đoạn này số đông ngừng đeo đuổi các mục tiêu đã được ổn định trong thời gian trước đó. Họ sử dụng sức lực còn lại để tiến hành các hoạt động giải trí, các chuyến du lịch hoặc đơn giản hơn, các trò tiêu khiển cho phép họ sống trong các năm cuối cuộc đời một cách thư giãn. Đó là thời kì mà con người đi tìm cho cuộc đời một ý nghĩa, nhằm có thể xem xét nó trong tổng thể. Kiểm lại các sự kiện đa dạng trong đời người sẽ mang lại cho một số người cảm giác đã đạt được các mục tiêu ấn định. Ngược lại, nó có nguy cơ mang lại cho những người khác cảm giác bị thất bại gắn với sự kiện có các mục tiêu không thực hiện được.

Page 86: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

PHẦN TÓM TẮTTuổi trung niên là tuổi có nhiều thay đổi về diện mạo, hình dáng cơ thể

và sức khoẻ. Thời kì thay đổi quan trọng trong khả năng sinh sản của phụ nữ (tiền mãn kinh và mãn kinh) cũng kéo theo một số ảnh hưởng đến sức khoẻ và tâm lí căng thẳng ở phụ nữ trung niên.

Đây là thời kì phát triển hình thức trí tuệ kết tinh, người trung niên trở thành chuyên gia trong một số lĩnh vực, họ kết hợp thực tế và lí trí trong việc học, và có các yếu tố bên trong làm động cơ thúc đẩy.

Đặc điểm nhân cách thể hiện ổn định ở người trung niên, nhưng cũng có cá nhân phải đối mặt với “khủng hoảng tâm lí giữa đời” (khủng hoảng tuổi trung niên). Người trung niên quan tâm đến việc hành động vì người khác và truyền gíá trị xã hội và kinh nghiệm cho thế hệ sau.

Quan hệ cha mẹ và con cái lứa tuổi vị thành niên có sự mâu thuẫn giữa hai thế hệ. Khi con cái qua khỏi tuổi vị thành niên mối quan hệ cha mẹ - con cái được cải thiện đáng kể.

Câu hỏi thảo luận1. Nêu những thay đổi về thể chất cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển

tâm lí người trung niên.

2. Những điều kiện xã hội quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí người trung niên là gì?

3. Những biểu hiện của các hình thức trí tuệ ở người trung niên như thế nào?

4. Hiện tượng “khủng hoảng tâm lí giữa đời” ở người trung niên được các nhà tâm lí học giải thích như thế nào?

5. Muốn giáo dục con cái thành công người trung niên cần làm gì?

Bài tập thực hànhTìm hiểu những biểu hiện “khủng hoảng tâm lí giữa đời” của người

trung niên.

Page 87: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Khách thể: Chọn khách thể khảo sát tại noi anh chị đang học tập, hoặc tại nơi anh chị làm việc hoặc sinh sống.

Yêu cầu: Nêu những biểu hiện “khủng hoảng tâm lí giữa đời” của người trung niên.

Cách thực hiện:

- Xây dựng phiếu câu hỏi lấy ý kiến đánh giá của khách thể khảo sát. Có thể sử dụng thêm các phương pháp điều tra khác như phương pháp quan sát, đàm thoại, sưu tầm tài liệu….

- Tiến hành xin ý kiến phản biện của đồng nghiệp hoặc học viên cùng học về phiếu hỏi.

- Thu thập và xử lí số liệu để viết báo cáo.

- Rút ra các kiến nghị và đề xuất có liên quan đến nội dung nghiên cứu.

Câu hỏi ôn tập1. Trình bày tóm tắt những đặc điểm tâm lí cơ bản của người trung

niên.

Hiện tượng “khủng hoảng tâm lí giữa đời” ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí người trung niên như thế nào?

3. Phân tích đặc điểm sự nghiệp của người trung niên.

4. Tại sao nói việc giáo dục con cái của người trung niên là vấn đề trọng yếu trong tâm lí của độ tuổi này?

CHƯƠNG 4: TÂM LÍ HỌC NGƯỜI CAO TUỐINgười lớn tuổi có những thay đổi về cơ thể và nhận thức quan trọng và

có nhiều vấn đề về sức khoẻ. Nghỉ hưu là sự chuyển tiếp quan trọng trong cuộc sống của người lớn tuổi. Việc duy trì sức khoẻ và cuộc sống viên mãn ở người lớn tuổi phụ thuộc nhiều vào thái độ, trách nhiệm và sự quan tâm của con cháu và xã hội.

Page 88: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

4.1. Khái niệm tuổi già, tuổi thọKhái niệm tuổi già, tuổi thọ cũng là một khái niệm động, mang tính

phát triển và tính xã hội lịch sử cụ thể. Theo kết quả của các nhà khảo cổ học, tuổi thọ trung bình của con người thay đổi theo lịch sử phát triển của loài người, phụ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện sống, trình độ văn hóa, văn minh của con người.

Theo Báo cáo Phỏng đoán Dân số Thế giới của Liên Hiệp Quốc cho năm 2005 - 2010. Kì vọng sống (nam lẫn nữ) đến tuổi thọ cao nhất (82,6 tuổi) là ở Nhật bản, thấp nhất là ở Swaziland (39,2 tuổi). Những quốc gia ít có kì vọng sống lâu như Swaziland, Botswana, Lesotho, Zimbabwe, Zambia, Mozambique, Malawi, Nam Phi, Cộng hòa Trung Phi, Namibia, và Guinea- Bissau là do ảnh hưởng bởi bệnh HIV/AIDS.

Sau đây là bảng xếp hạng các quốc gia trên thế giới theo ước lượng tuổi thọ khi sinh ( Life Expectancy at Birth) - nghĩa là trung bình số năm một nhóm người sinh cùng năm hi vọng sẽ sống qua (với giả dụ là điều kiện sống và chết giống nhau).

Bảng 6: Ước lượng tuổi thọ khi sinh

(life Expectancy at Birth)

Thứ hạng

Quốc giaKhả năng sống lâu (số năm)Chung Nam Nữ

Trung bình trên thế giới 67,2 65,0 69,51 Nhật Bản 82,6 79,0 86,12 Hồng Kông 82,2 79,4 85,13 Iecland 81,8 80,2 83,34 Thụy Sĩ 81,7 79,0 84,25 Úc 81,2 78,9 83,66 Tây Ban Nha 80,9 77,7 84,27 Thụy Điển 80,9 78,7 83,08 Israel 80,7 78,5 82,8

Page 89: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

9 Malaysia 80,7 78,5 82,810 Pháp (nội địa) 80,7 77,1 84,111 Canada 80,7 78,3 82,912 Ý 80,5 77,5 83,5

(Nguồn: Báo cáo Phỏng đoán dân số thế giới của Liên hiệp Quốc cho năm 2005-2010)

Theo số liệu thống kê sức khoẻ thường niên của Tổ chức Y tế Thế giới (2008) tuổi thọ trung bình của người Việt Nam hiện nay là 72, trong đó nữ là 75 tuổi và nam là 70 tuổi. Việt Nam nằm trong số những quốc gia đạt được tiến bộ đáng kể trong việc gia tăng tuổi thọ trung bình.

Theo "Toàn cảnh Dân số thế giới, 2008" của Liên hiệp Quốc, vào năm 2050, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam sẽ là 80,4 trong đó nữ là 82,5 tuổi, nam là 78,2 tuổi.

So sánh với các nước trong khu vực Đông Nam Á, tuổi thọ của người Việt Nam 40 năm nữa chỉ đứng sau 2 nước: Singapore (84 tuổi) và Brunei (81,1 tuổi). Tiếp đó là các nước: Malaysia, Philippines, Indonesia, Thái Lan. So với các nước Lào, Cam-pu-chia, Đông Timor thì tuổi thọ Việt Nam vượt khá xa. Tuổi thọ các nước này từ 74,2 đến 75,8. Nhật Bản và Australia vẫn là những nước đứng đầu châu Á-Thái Bình Dương về tuổi thọ. So với Trung Quốc thì tuổi thọ của người Việt Nam cao hơn.

Ở Việt Nam: Năm 1989, tỉ lệ người lớn tuổi chiếm 7,2% dân số; năm 2007 là 9,45%. Dự báo tỉ lệ này sẽ tăng đột biến từ năm 2010 và có thể đạt 16,8% vào năm 2029. Tính đến năm 2012, người lớn tuổi chiếm 10% dân số Việt Nam (Theo VN Express, 6/4/2012)

4.2. Điêu kiện ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí người cao tuổi4.2.1. Đặc điểm sự phát triển thể chấtTừ 60 tuổi trở đi bắt đầu có sự suy tàn về thể chất:

Page 90: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

- Hình dáng cơ thể:

+ Thay đổi về tóc (≈ 65% bạc): Nghiên cứu 707 người: 79% tóc bạc, 12% hoa râm, 8,9% đen. Hiện tượng rụng tóc bắt đầu dễn ra mạnh mẽ dẫn đến sói đầu ở nhiều người lớn tuổi.

+ Da: Biểu bì liên tục thay đổi đến 70 tuổi (20 kg da già) và ít tái tạo khiến cho da bị mỏng, tuyến mồ hôi teo. Và gây ra hậu quả là: nhăn, khô, chậm lành vết thương.

+ Chiều cao: Giảm sút vì xương và cơ bắt đầu co lại: nam giảm 2 cm, nữ giảm 1,5 cm dẫn đến hiện tượng thoái hóa xương vào thời kì tắt kinh.

+ Trọng lượng cơ thể: Giảm sút khi về già, tế bào mỡ xuất hiện nhiều ở vùng bụng và hông. Nghiên cứu: 697 người 100 tuổi: TB toàn mẫu: 39,46 kg, Nữ: 36,73 kg, Nam: 45,34 kg.

- Các cơ quan nội tạng (hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ tiêu hóa, hệ bài tiết v.v…) cũng như hệ thần kinh trung ương đang đi vào giai đoạn thoái hóa rõ rệt.

- Một số bệnh điển hình từ tuổi 60 trở lên: Huyết áp cao, xơ vữa động mạch, tai biến mạch máu não, bệnh đau đầu, giảm thị lực, thoái hóa cột sổng, bệnh loãng xương, bệnh ung thư v.v…

- Một số bệnh điển hình liên quan đến hệ thần kinh như: Bệnh Parkixơn - bệnh rối loạn của hệ vận động ở não bộ, bệnh Alzheimer - bệnh sa sút trí tuệ.

4.2.2. Điều kiện sống, hoạt động và vai trò xã hội của người cao tuổiNhững nhiệm vụ của giai đoạn người lớn tuổi (Tasks of later maturity)

theo Robert Havighurst (Mĩ) như sau [31]:

- Thích nghi với việc giảm sút thể chất và sức khỏe.

Đây là một hệ quả tất yếu của tuổi già và mỗi con người đều phải đón nhận. Tuy nhiên đối với nhiều người đây không phải là nhiệm vụ dễ dàng. Vì

Page 91: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

sự lão hóa của cơ thể kéo theo nhiều hệ lụy của sự “xuống cấp trầm trọng” của sức khỏe. Các bệnh tật xuất hiện kèm theo những cơn đau nhức làm cho không ít người già khó chịu và gặp nhiều bất tiện trong sinh hoạt hằng ngày.

- Thích nghi với việc về hưu và giảm sút thu nhập.

Sự lão hóa về cơ thể, sự sút giảm về nhận thức buộc người cao tuổi không còn có thể đảm bảo được các yêu cầu của công việc, điều này dẫn đến việc họ phải nghỉ hưu để đảm bảo sức khỏe và tạo điều kiện cho thế hệ trẻ phát triển lên. Dù đây là một nhiệm vụ tất yếu nhưng với nhiều người không phải dễ dàng đón nhận. Từ một trạng thái làm việc, cống hiến chuyển qua nghỉ ngơi và có phần phụ thuộc vào người khác khiến nhiều người cao tuổi cảm thấy hụt hẫng. Đó là chưa nói đến việc nghỉ hưu cũng đồng thời sẽ làm giảm nguồn thu nhập vì vậy cũng sẽ gây ra những khó khăn cho những người cao tuổi có điều kiện kinh tế không cao. Vậy để thực hiện được nhiệm vụ này một cách dễ dàng người cao tuổi cần chuẩn bị tâm thế về hưu trước đó một thời gian. Việc làm này sẽ giúp người cao tuổi đễ chấp nhận thực tế và bớt hụt hẫng hơn.

- Thích nghi với việc người bạn đời bị mất. Đây cũng là một nhiệm vụ nữa mà qui luật của cuộc sống gửi đến cho người cao tuổi. Sau một thời gian dài chung sống, người bạn đời đã gần như là một phần của cuộc sống bản thân người cao tuổi. Nên khi người bạn đời mất đi vì sức khỏe hay tuổi tác đều mang lại một sự hẫng hụt hoặc là một sang chấn tinh thần rất lớn đối với người còn ở lại. Để thực hiện được nhiệm vụ này, ngoài việc chuẩn bị tâm thế trước thì vai trò của những người con cháu rất quan trọng khi góp phần lấp đi chỗ hổng trong tâm hồn của người cao tuổi còn sống.

- Thiết lập quan hệ thân thiết với một nhóm người có tuổi. Sinh hoạt trong những câu lạc bộ người cao tuổi để cùng chia sẻ chuyện buồn vui của cuộc sống, cùng tập luyện thế dục thể thao, giải trí… là một đều lí tưởng mà những người cao tuổi hướng đến và thích thú.

Page 92: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

- Tham dự những nghĩa vụ xã hội và người công dân. Với một vốn sống phong phú và dày dặn người cao tuổi như là một “pho từ điển sống” luôn mong muốn được truyền thụ lại cho thế hệ sau đặc biệt là con cháu trong gia đình, họ tộc và khu phố.

- Thiết lập những sự chuẩn bị cuộc sống vật chất đầy đủ. Đây cũng là một nhiệm vụ mà nhiều người cao tuổi muốn hướng đến. Đã qua rồi tuổi lao động để mưu sinh, người cao tuổi giờ đây muốn dùng những gì mình đã tích góp được để có một cuộc sống vật chất đầy đủ, không phải lo lắng chuyện mưu sinh nữa.

Grace và Richard (2003) phát triển những nhiệm vụ của giai đoạn người lớn tuổi (Development tasks of Middle Adulthood, Ages 60 +) như sau:

- Duy trì sức khoẻ thể chất.

(Maintaining phisical health)

- Thích nghi với sự yếu đi của thể chất hay đau ốm thường xuyên.

(Adapting to phisical infirmities or permanent impairment)

- Sử dụng thời gian theo ý thích.

(Using time in gratifying ways)

- Thích nghi với việc mất mát người bạn đời và bạn bè.

(Adapting to losses of partner and friends)

- Giữ lại định hướng hiện tại và tương lai, không lo nghĩ về quá khứ.

(Remaining oriented to present and future, not preoccupied with the past)

- Hình thành quan hệ tình cảm mới.

(Forming new emotional ties)

- Hoán vị vai trò của trẻ em và cháu (như phải trông nom).

Page 93: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Reversing roles of children and grandchildren (as caretakes)

- Tìm kiếm và giữ lại những tương tác xã hội: tình đồng đội ngược lại bị cô lập hay đơn độc.

(Seeking and maintaining social contacts: companionship vs. isolation and loneliness)

- Quan tâm một cách thực tế đến những nhu cầu tình dục và bày tỏ.

(Attending to sexual needs and (changing) expressions)

- Tiếp tục những công việc và thú vui có ý nghĩa (sử dụng thời gian đem đến sự hài lòng).

Continuing meaningful work and play (satisfying use of time).

- Sử dụng nguồn tài chính một cách sáng suốt cho bản thân và người khác.

(Using financial resources wisely, for self and others)

- Tích hợp thời gian nghỉ hưu vào kiểu sống mới.

(Integrating retirement into new lifestile), [31]

Sự suy tàn về thể chất, hoạt động và vai trò xã hội của người cao tuổi ảnh hưởng lớn đến sự phát triển nhận thức và nhân cách của họ

4.3. Một số đặc điểm của hoạt động nhận thức người cao tuổiTốc độ của quá trình nhận thức ở người cao tuổi bị giảm sút:

+ Tri giác không toàn vẹn do thị giác giảm sút vì mạch máu nuôi dưỡng võng mạc kém, thính giác sa sút do màng nhĩ mềm, mỏng, xương ốc tai hình bán khuyên trong tai hóa vôi làm cho người cao tuổi kém rung động với âm thanh dẫn đến hiện tượng lãng tai, điếc.

+ Sự sút kém khối lượng chú ý và khả năng tiến hành 3 loại hoạt động cùng lúc bị giảm sút.

Page 94: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Tuy nhiên những người lớn tuổi đánh giá chính xác hơn người trẻ - khi làm trắc nghiệm họ không đoán mà cố gắng trả lời đúng các tiểu nghiệm.

Người cao tuổi bị giảm sút trí nhớ (hay quên). Họ thường bị sút kém đối với các ấn tượng mới, nhưng rất nhớ những việc xảy ra trong quá khứ.

Sự thông thái (Wisdom) phát triển ở người lớn tuổi: Đây là khả năng đưa ra những xét đoán, phán quyết tuyệt vời và lời khuyên về những vấn đề quan trọng cũng như những vấn đề không biết rõ ràng, dễ thay đổi của cuộc sống.

4.4. Đời sống xúc cảm - tình cảm người cao tuổiSự phản ứng cảm xúc nhạy bén, tính dễ bị kích động và tính thiếu ổn

định dễ làm cho người cao tuổi giận dỗi, có thái độ không khoan nhượng về mặt cảm xúc đối với những lời nhận xét của người khác về mình. Đây cũng là điều dễ hiểu. Lòng tự trọng và cái tôi cá nhân của mỗi người sẽ được định hình, củng cố theo thời gian sống. Nên với độ tuổi của mình, cái tôi và lòng tự tôn của những người cao tuổi lại càng cao, càng lớn nên khi nghe một góp ý của ai đặt biệt là của những người nhỏ tuổi hơn thì phản ứng thông thường của họ là không nghe, khăng khăng với ý kiến của mình,…

4.5. Đặc điểm sự phát triển nhân cách người cao tuổi4.5.1. Tuổi hưu của người lớn tuổiKhi chuyển từ trạng thái làm việc tích cực, khẩn trương hằng ngày sang

trạng thái nghỉ ngơi, tâm lí con người có những biến động đáng kể. Nhiều người cảm thấy khó thích nghi với cuộc sống mới. Người ta cho rằng đây là những năm tháng dễ gây ra các “hội chứng về hưu” ở người lớn tuổi.

- Biểu hiện: Buồn chán, trống trải, thiếu tập trung, dễ cáu gắt, dễ nổi giận. Một số người cảm thấy không được tôn trọng như trước, thiếu tự tin, nghi ngờ người khác v.v…

- Nguyên nhân của hội chứng về hưu có nhiều, trong đó những nguyên nhân có tính tâm lí - xã hội là đáng quan tâm hơn cả: xa rời công việc, nếp sống bị đảo lộn, quan hệ xã hội bị thu hẹp, thu nhập bị hạn chế…

Page 95: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

- Khắc phục: Chuẩn bị trước về mặt tâm lí:

+ Nhận thức được việc nghỉ hưu là quy luật tất yếu.

+ Sống và làm việc tốt suốt trong thời kì đương chức.

+ Chuẩn bị cơ sở vật chất trong điều kiện cho phép.

+ Nuôi dạy con cái tốt và góp phần chuẩn bị nghề nghiệp và việc làm cho con cái.

+ Gia nhập các tổ chức xã hội phù họp để tiếp tục hoạt động trong điều kiện mới.

+ Duy trì một chế độ sinh hoạt hợp lí.

4.5.2. Hướng về cội nguồn, tổ tiênGắn bó với đời sống tâm linh, với dòng họ, gia đình để thỏa mãn tâm lí

trở về cội nguồn của người lớn tuổi.

Với sự suy nhược về thể chất và sức khỏe, người lớn tuổi dần dần ý thức được hiện trạng “mong manh” của “kiếp người” và đồng thời càng lớn tuổi sự lão hóa càng diễn ra nhanh chóng và rõ rệt hơn. Người lớn tuổi hiểu rằng chuyện tuổi tác nằm ngoài sự kiểm soát của họ. Vì vậy mà nhu cầu cần có một điểm tựa siêu nhiên nào đó được nhen nhóm và ngày một phát triển mạnh ở những người lớn tuổi.

4.5.3. Mối quan tâm đặc biệt đối với con cháu - những người sẽ tiếp nối họ trong tương lai

Hạnh phúc nhất đổi với người già là thấy con cháu mình trưởng thành, tiến bộ, hữu ích cho xã hội. Họ góp phần đắc lực vào việc nuôi dạy con cháu mình trưởng thành và coi đó là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn trong những năm sổng còn lại của cuộc đời mình.

4.5.4. Hình thành sự toàn vẹn của cái tôi-> E. Erikson - hồi tưởng, tự đánh giá về quãng đời đã qua của mình để

đạt đến sự toàn vẹn cá nhân (cái tôi).

Page 96: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

- Cho phép con người thấy được ý nghĩa trong cuộc sống của mình - thích viết hồi kí…

- Hai trạng thái tâm lí xảy ra khi hồi tưởng, tự đánh giá về quãng đời đã qua của mình:

+ Cảm thấy đã sống và đã làm được những điều tốt đẹp trong hoàn cảnh của mình, tự tin, yên tâm sổng với con cháu, chấp nhận sự “ra đi” như là sự kết thúc của cả quãng đời đầy ý nghĩa.

+ Trái lại, cảm thấy hối tiếc vì những cơ hội đã bỏ qua, sự lựa chọn thiếu khôn ngoan của mình dẫn đến bi quan, tuyệt vọng, ít vui sướng và dễ bị bệnh tật. Họ khó chấp nhận sự “ra đi” và mong muốn có cơ hội để làm lại…

-> Theo Peck, người già cần phải vượt qua được 3 tiểu cơn khủng hoảng để cho ý thức về toàn vẹn có thể phát triển đầy đủ:

- Cơn tiểu khủng hoảng 1: bao gồm sự tái xác định cái tôi ngoài vai trò nghề nghiệp vốn là điều quy chiếu chủ yếu của nhiều người cho đến khi về hưu.

- Cơn tiểu khủng hoảng 2: gắn với sự chấp nhận thời tàn của sức khỏe và sự hóa già của cơ thể làm cho ta có thể có sự dửng dưng cần thiết.

- Cơn tiểu khủng hoảng 3: cuối cùng phải dẫn người già đến thôi bận tâm đến cải tôi của mình, sự dửng dưng này là điều kiện cơ bản để chấp nhận, không lo sợ về cái chết.

Trong sự thay đổi của thế giới toàn cầu hoá, những biên động của cơ chế thị trường đã khiến cho lóp người cao tuổi gặp càng nhiều khó khăn hơn, nhất là những người tàn tật, cô đơn không nơi nương tựa. Sức khỏe và những trạng thái tâm lí của người lớn tuổi không chỉ phụ thuộc vào chính bản thân họ mà còn phụ thuộc vào môi trường sống của xã hội, vào thái độ cư xử của con cháu, của các thế hệ kế tiếp họ. Sự kính trọng, biết ơn của xã hội, của các thế hệ con cháu là niềm động viên khích lệ rất lớn đối với người lớn tuổi.

Page 97: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

PHẦN TÓM TẮTSự giảm sút về thể chất và sức khỏe ở người lớn tuổi ảnh hưởng nhiều

đến chất lượng cuộc sống của họ.

Sự thông thái ở người lớn tuổi giúp họ phán xét và giải quyết tuyệt vời các vấn đề nảy sinh trong công việc và cuộc sống.

Nghỉ hưu là quy luật tất yếu trong giai đoạn người lớn tuổi, sự chuẩn bị cho việc nghỉ hưu và các biện pháp thích hợp hạn chế “khủng hoảng khi về hưu” được người lớn tuổi sử dụng sẽ duy trì sức khỏe, mối quan hệ tình bạn và mức độ hoạt động, ít nhất trong nhiều năm ngay sau khi nghỉ hưu.

Người lớn tuổi góp phần đắc lực vào việc nuôi dạy con, cháu mình trưởng thành và coi đó là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn.

Sức khỏe và những trạng thái tâm lí của người lớn tuổi không chỉ phụ thuộc vào chính bản thân họ mà còn phụ thuộc vào môi trường sống của xã hội, vào thái độ cư xử của con cháu, của các thế hệ kế tiếp họ.

Câu hỏi thảo luân1. Nêu những tiêu chuẩn để xác định một người đã cao tuổi.

2. Những điều kiện xã hội quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí người cao tuổi là gì?

3. Những giảm sút về nhận thức ở người cao tuổi cần lưu ý?

4. Đâu là những giá trị mà người cao tuổi thường lựa chọn trong định hướng lối sống của mình?

5. Muốn thỏa mãn trong việc tự đánh giá quãng đời đã qua người cao tuổi cần làm gì?

Bài tập thực hànhTìm hiểu “hội chứng về hưu” của người cao tuổi.

Khách thể: Chọn khách thể khảo sát tại nơi anh chị đang học tập, hoặc tại nơi anh chị làm việc hoặc sinh sống.

Page 98: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Yêu cầu: Nêu những nguyên nhân và biểu hiện của “hội chứng về hưu” ở người cao tuổi.

Cách thực hiện:

- Xây dựng phiếu câu hỏi lấy ý kiến đánh giá của khách thể khảo sát. Có thể sử dụng thêm các phương pháp điều tra khác như phương pháp quan sát, đàm thoại, sưu tầm tài liệu….

- Tiến hành xin ý kiến phản biện của đồng nghiệp hoặc học viên cùng học về phiếu hỏi.

- Thu thập và xử lí số liệu để viết báo cáo.

- Rút ra các kiến nghị và đề xuất có liên quan đến nội dung nghiên cứu.

Câu hỏi ôn tập1. Trình bày tóm tắt những đặc điểm tâm lí cơ bản của người cao tuổi.

2. Phân tích đời sống xúc cảm - tình cảm của người cao tuổi.

3. “Khủng hoảng khi về hưu” ảnh hưởng như thế nào đến tâm lí của người cao tuổi và biện pháp phòng ngừa, khắc phục nó như thế nào?

4. Tại sao nói mối quan tâm đặc biệt đối với con cháu - những người sẽ tiếp nối người cao tuổi trong tưorng lai là vấn đề trọng yếu trong tâm lí của độ tuổi này?

TÀI LIỆU THAM KHẢOTiếng Việt1. Hoàng Anh (2007), Luận văn Thạc sĩ “trạng định hướng giá trị đạo

đức của sinh viên sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đại học Sư phạm TP. HCM.

2. Côn I. X. (1987), Tâm lý học thanh Người dịch: GS. Phạm Minh Hạc, Ngô Hào Hiệp, Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Nguyễn Văn Đồng (2004), Tâm học phát Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội.

Page 99: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

4. Nguyễn Văn Đồng (2007), Tâm lí học phát (Giai đoạn thanh niên đến tuổi già), Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội.

5. Nguyễn Văn Đồng (2008), Tâm lý học phát Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội.

6. Đỗ Ngọc Hà (2002), Luận án Tiến sĩ Tâm lí học, “Định hướng giá trị của sinh viên hiện nay”, Bộ Giáo dục và Đào tạo.

7. Ngô Công Hoàn - chủ biên (1997), Những nghiệm tâm lí, Tập 1 và 2, Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội.

8. Phạm Minh Hạc chủ biên (1989), Tâm học, Tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục. Lê Văn Hồng (2004), Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học Sư phạm, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.

10. Dương Thị Diệu Hoa (2009), Giáo trình Tâm lý học phát triển, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.

11. Lê Thị Thanh Mai và Hồ Thiệu Hùng (chủ nhiệm), Trần Thị Thu Mai,… Đề tài: “Xây dựng website định hướng chọn ngành, trường Đại học, Cao đăng dự thi phù hợp với sở thích và năng”, Đại học Quốc gia TP.HCM chủ trì, Sở Khoa học và Công nghệ TP. HCM, 11/2005 - 2/2007.

12. Vũ Thị Nho (2008), Tâm lí học phát Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

13. Phan Trọng Ngọ (chủ biên) 2003, Các lý thuyết phát triển tâm lí người, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.

14. Phan Trọng Ngọ, Dương Diệu Hoa, Nguyễn Thị Mùi (2000), Tâm lí học hoạt động và khả năng ứng dụng vào lĩnh vực dạy học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

15. Phan Trọng Ngọ, Dương Diệu Hoa, Nguyễn Lan Anh ( 2001), Tâm lí học tuệ, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

Page 100: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

16. Petrovski. A.v. (1982), Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm, Tập 1 và 2, Nhà xuất bản Giáo dục.

17. Tổ chức các Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á, Hiệp hội các Trường đại học và Cao đẳng Canada, Khóa Đào tạo Cán bộ Trung tâm Tư vẩn làm ở các Trường đại học, Bangkok, 17/02/2003-07/03/2003.

18. Robert s. Feldman (2003), Những điều trọng yếu trong tâm lí học, Nhà xuất bản thống kê.

19. Robert V. Kail, John c. Cavanaugh (2006), Nghiên cứu về sự phát triển con người, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin.

20. Huỳnh Văn Sơn (chủ biên), (2010), Những vấn đề cơ bản của Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

21. Huỳnh Văn Som (Chủ biên), Trần Thị Thu Mai, Nguyễn Thị Tứ (2012), Giáo trình Tâm học Sư phạm Đại học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

22. Huỳnh Văn Sơn (Chủ biên), Trần Thị Thu Mai, Nguyễn Thị Tứ (2012), Giảo Tâm học Giảo dục Đại học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

23. Huỳnh Văn Sơn và Lê Thị Hân (Chủ biên), Trần Thị Thu Mai, Nguyễn Thị Uyên Thy (2013), Giáo Tâm lí học Đại cương, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

24. Nguyễn Xuân Thức (chủ biên), (2006), Tâm lý học đại cương, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.

25. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành (1998), Tâm học đại cương, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

26. Weinert Fanz Emanuel (chủ biên), (1998), Sự phát triển nhận thức học tập giảng, Nhà xuât bản Giáo dục.

Page 101: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

Tiếng Anh27. Brehony Katheleen A. (1996), Awakening at midlife, Riverhead

Books New York.

28. Bromley D. B. (1977), The Psychology of Human Ageing, Penguin Books.

29. Dusek Jerome B. (1991), Adolescent development and behavior, Prentice - Hall, Inc.

30. Gaudencio V. Aquino & Norma c. Miranda (1991), Introduction to Psychology, National Book Store, INC. Metro Manila, Philippines.

31. Grace J. Craig (1999), Human Development, Prentice - Hall, Inc.

32. Feldman Robert s. (2003), Development across the life span, Prentice - Hall, Inc.

32. Jeffrey s. Turner (1995), Lifespan Development, Harcourt Brace.

33. Mary D’Apice (1989), Noon to Nightfall, Kadena Press. Quezon Citi, Philippines.

34. Papalia Diane E. (2004), Human Development, Me Graw - Hill.

35. Turner Jeffrey s. (1995), Lifespan Development, Harcourt Brace.

36. Zimbardo Philip G. (1992), Psychology and Harper Collins Publishers.

Các trang website37. http://www.pz.harvard.edu/PIs/HG.htm

38. http://www.newhorizons.org/restr_wahl1.html

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC sư PHẠM TP HỒ CHÍ MINH

Page 102: Giáo Trình Tâm Lý Học Người Trưởng Thành (Word)người trưởng thành, có sự quan tâm và thái độ tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên

280 An Dương Vương, Phường 4, Quận 5, TP Hồ Chí Minh

Điện thoại: (08)38 301 303 - Fax: (08) 39 381 382

Email: [email protected] - Website: http://nxb.hcmup.edu.vn

GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH

TS. TRẦN THỊ THU MAI

Chịu trách nhiệm xuất bản:

Giám đốc - Tổng biên tập

PGS. TS. NGUYỄN KIM HỒNG

Chịu trách nhiệm bản thảo:

Phó Tổng biên tập

TS. TRẦN HOÀNG

Biên tập

ThS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG

Trình bày:

CÔNG TY TNHH MTV IN KINH TẾ

Sửa bản

NGUYỄN NGỌC DUY

In 500 cuốn khổ 16 X 24 cm tại Công ty TNHH MTV In Kinh tế, 279 Nguyễn Tri Phương, Phường 5, Quận 10, TP.HCM; Đăng ký kế hoạch xuất bản số 846-2013/CXB/01 -96/ĐHSPTPHCM, Quyết định xuất bản số 258/QĐ-NXBĐHSP ký ngày 28 tháng 6 năm 2013. In xong và nộp lưu chiểu quý 2 năm 2013.