338
1 Thái Kim Đỉnh HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HNG LAM NXB Tr- 2013

HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

  • Upload
    others

  • View
    9

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

1

Thái Kim Đỉnh

HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM

NXB Trẻ - 2013

Page 2: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

2

Page 3: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

3

Tỉnh Hà Tĩnh ở Bắc Trung bộ Việt Nam, nằm vào 17053’50’’ - 18045’40’’ vĩ bắc và 105005’50’’ - 106029’40’’ kinh đông; phía bắc chung một dòng Lam Giang với Nghệ An, phía nam chung một dãy Hoành Sơn với Quảng Bình, mặt đối biển Đông, lưng tựa Trường Sơn, kề với nước bạn Lào.

Đây là đất cổ Việt Thường Thị, là đất bộ Cửu Đức nước Văn Lang, là vùng Nam Hoan, Nam Nghệ quốc gia Đại Việt.

Mùa đông tháng mười, năm Tân mão, Minh Mệnh thứ 12 (1831), nhà Nguyễn đổi trấn làm tỉnh, cắt hai phủ Đức Thọ và Hà Hoa gồm sáu huyện Hương Sơn, La Sơn, Nghi Xuân, Thiên Lộc, Thạch Hà, Kỳ Hòa của trấn Nghệ An, lập tỉnh mới Hà Tĩnh.

Tỉnh thành đặt tại xã Trung Tiết, huyện Thạch Hà, nay là thành phố Hà Tĩnh, cách Hà Nội 340 km về phía nam, cách Huế 314 km và thành phố Hồ Chí Minh 1398 km về phía bắc. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 6026,5km2. Dân số 1306400 người. Mật độ dân số 217 người/km21

Từ sau ngày lập tỉnh, qua nhiều lần thay đổi, khi bỏ tỉnh lập đạo (1853-1874), khi bỏ đạo tái lập tỉnh (1875), khi hợp nhất Nghệ An, Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh (1976), rồi lại chia Nghệ Tĩnh thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh (1991), đến nay, địa bàn Hà Tĩnh vẫn như ngày sơ thiết (1831).

Tỉnh Hà Tĩnh hiện có 12 đơn vị hành chính trực thuộc:

1. Thành phố Hà Tĩnh.

2. Thị xã Hồng Lĩnh.

3. Huyện Hương Sơn.

4. Huyện Đức Thọ.

5. Huyện Nghi Xuân.

6. Huyện Can Lộc.

7. Huyện Thạch Hà.

1 Diện tích theo số liệu tổng kiểm kê đất năm 2005. Dân số trung bình năm 2006 - Ghi theo “Lịch Nhân Dân 2008”.

Page 4: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

4

8. Huyện Cẩm Xuyên.

9. Huyện Kỳ Anh.

10. Huyện Hương Khê.

11. Huyện Vũ Quang.2

12. Huyện Lộc Hà.

2 Vũ Quang, theo thông lệ phiên âm chữ Hán, chữ “Vụ” là mù (sương) viết dấu nặng. Ở đây, tên huyện, thị trấn Vũ Quang viết “Vũ” dấu ngã, theo văn bản Nhà nước.

Page 5: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

5

PHẦN THỨ NHẤT

PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT

I. VÙNG ĐẤT TRANH CHẤP GIỮA NÚI VÀ BIỂN Người Hà Tĩnh còn nhớ một thần thoại:

“Thời xa xưa, núi tập trung ở phía Tây, rất xa biển Đông. Giữa núi và biển là đồng bằng rộng lớn. Biển cậy biển rộng, biển sâu, có thể nuốt chửng núi, nên gầm ghè, gào thét, đòi được làm anh. Núi lại cho là núi lớn, núi cao, có thể lấp cạn biển, cũng ngạo nghễ, chẳng chịu làm em. Không biết bao nhiêu đời, hai bên hục hặc, hầm hè với nhau. Cho đến một ngày kia, núi quyết một trận sống mái với biển.

Thế là, núi trùng trùng nhằm hướng mặt trời mọc, tràn qua đồng bằng. Đến bờ biển, hòn con Dê (Sơn Dương) đi tiên phong, nhảy ào xuống nước. Đội tiền quân do rú Ba Độ (Bàn Độ) dẫn đầu đến tiếp, dừng lại ven bờ. Đội trung quân là Rú Voong (Cao Vọng), Rú Ngang (Hoành Sơn), rồi hậu quân với hằng hà sa số ngọn lớn nhỏ, cao thấp, ùn ùn đổ ra…

Lúc đầu, biển coi thường, hò reo nghênh chiến. Nhưng thấy núi đội ngũ điệp trùng, đằng đằng sát khí, thì đâm chờn, núng thế, vội sai những ngọn sóng Bạch Đầu vào lạy, xin hàng.

Thấy biển đã quy phục, núi liền dừng chân, nhưng vẫn đứng nguyên vị trí để phòng khi biển phản trắc, sinh sự…”. - “Cuộc chiến tranh giữa Núi và Biển” - “Truyện dân gian Nghệ Tĩnh”, (Tập II - TKĐ biên soạn, NXB Nghệ An - 1985).

Thần thoại trên, ngoài ý nghĩa nhân hóa tự nhiên, lồng vào ước vọng của con người muốn chinh phục giới tự nhiên của người nguyên thủy. Ở đây, truyện giải thích hiện tượng núi lấn tận biển ở vùng Kỳ Anh, cũng là

Page 6: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

6

hiện tượng chung ở Hà Tĩnh và nhiều tỉnh Trung bộ Việt Nam.

Theo các tài liệu địa chất thì ở đại Nguyên sinh và Cổ sinh còn sót lại bán đảo Trung Ấn, có nhiều núi non, sau khi xâm thực trở thành nền đất mòn, một lớp nham thạch phủ lên, tạo ra đới Trường Sơn. Đến đại Trung sinh, có sự chấn động tạo sơn, các nếp gãy nhô lên, tụt xuống, làm lẫn lộn đá hoa cương, tinh thạch, sa thạch, để lại các dãy núi có tính chất trung gian ở vùng Ngàn Sâu - Rào Nậy, đồng thời lớp trầm tích đứt gãy phủ lên lớp trầm tích của đới Trường Sơn, tạo ra đới mới Hoành Sơn. Ở đại Tân sinh do kiến tạo Hymalaya dữ dội, nền đất mòn cũ bị kênh, tạo thành các thung lũng Ngàn Sâu, Ngàn Phố. Biển tiến, đưa trầm tích vào, hình thành các dãy Hồng Lĩnh, Nam Giới. Bước vào kỷ Đệ tứ - kỷ Nhân sinh, vùng đất Hà Tĩnh đã thành lục địa, phía tây là núi, gồm các dãy Trường Sơn, Thiên Nhẫn, Trà Sơn, Hoành Sơn, phía đông là đồng bằng và một phần đang trong quá trình bồi đắp. Biển tiến ở kỷ Đệ tứ, toàn bộ đồng bằng phía đông lại ngập dưới nước. Các dãy Hồng Lĩnh, Nam Giới trở thành quần đảo, các dãy Hoành Sơn.Thiên Nhẫn thành bán đảo, và tạo ra các vùng vịnh. Sau đó, biển lùi dần, đồng bằng Hà Tĩnh trở lại cảnh quan gần như ngày nay.

Qua quá trình kiến tạo lâu dài vùng đất này có đủ các loại hình núi đồi, sông suối, đồng bằng…

*

* *

Núi đồi chiếm 3/4 diện tích tự nhiên toàn tỉnh, được cấu tạo bằng đủ các loại hoa cương, tinh thạch, sa thạch, đá vôi, có các sơn hệ Trường Sơn, Trà Sơn - Hoành Sơn ở phía tây, và hệ các núi lẻ ở đồng bằng, ven biển phía đông.

1. Hệ Trường Sơn - Dãy Pulaileng - Rào Cỏ, một phần của Trường Sơn Bắc, chạy dọc biên giới Việt - Lào suốt 143km giữa Hà Tĩnh và Khăm Muộn với những đỉnh cao phía tây: Toóc-nác-léc (1041m), Bà Mụ (1367m), Giăng Màn (936m), Rú Bành (646m) ở Hương Sơn; Cẩm Lĩnh (973m) ở Vũ Quang; Rú Hóp (936m), và cao nhất là ngọn Rào Cỏ (2286m) ở Hương Khê. Núi trải rộng và thấp dần về phía đông, đến tận tả ngạn sông Ngàn Sâu, kết thúc ở mút cuối dãy Đại Hàm, có độ cao trung bình 400 -

Page 7: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

7

500m. Phủ lên núi đồi là thảm rừng già bốn mùa xanh thẳm, nên được gọi chung là núi Giăng Màn (Khai Trướng sơn).

Từ Giăng Màn đổ ra hàng nghìn khe suối, đầu nguồn của các rào, các “nậm”, của các sông Ngàn Phố, Ngàn Trươi, Ngàn Sâu. Thiên nhiên Giăng Màn hùng vĩ, và là kho tài nguyên vô giá. Khe Vũ Môn “có thác ba bậc…, ngoài trăm dặm trông như một làn khói đứng sững trong núi xanh, tương truyền hàng năm cứ đến mồng bốn tháng tư, cá gáy vượt được khe này thì hóa rồng…” (“Đại Nam nhất thống chí”, QV). Ao Nước Mặn (Hàm trì) “… chu vị chừng ba bốn trượng nước sâu không thể lường, vị rất mặn…” (SĐD) là dấu vết của biển từ đầu đại Cổ sinh. Khe Nước Sốt (Nậm Chốt) “… nước hơi đen, hơi bốc lên như khói, nóng có thể luộc gà được (SĐD) là suối khoáng vào loại nóng nhất (750C) trữ lượng lớn nhất nước ta. Đặc biệt trong Vườn quốc gia Vụ Quang vẫn còn lại một phần rừng nguyên sinh, cho ta thấy quang cảnh đại ngàn thời xa xưa.

2. Hệ Hoành Sơn bắt đầu từ dãy Trà Sơn - dải tiền duyên của dãy Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương, Nam Đàn tỉnh Nghệ An, kết thúc ở bờ đông sông Phố và bờ bắc sông La thuộc đất Hương Sơn, Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh.

Dãy Trà Sơn khởi đầu là Rú Thông - Tùng Lĩnh (56m) kéo dài từ Đức Thọ qua Can Lộc, Thạch Hà vào Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, có bốn mạch núi chạy song song. Nối với Rú Thông, trên đất Đức Thọ, là những núi đồi thấp chỉ từ 300 đổ xuống đến dải đồi núi thấp ở Can Lộc tạo thành mạch thứ nhất. Hai mạch giữa có các ngọn Bò Đực (196m), Thành Đá Đen, Rú Toan (442m). Mạch thứ tư là dải đồi thấp từ hữu ngạn sông Ngàn Sâu đổ xuống đến Truông Bát thì bốn mạch cài bện vào nhau, đi về phía nam. Từ vùng Vọng Liệu, núi chạy theo hướng đông nam ra bờ biển, kết thúc ở mũi Đao, mũi Độc. Đó là dãy Hoành Sơn với nhiều ngọn cao từ 400 đến 650m, có ngọn Ba Cốc cao tới 823m. Đèo Ngang đi qua Hoành Sơn ở độ cao 256m từ xưa đã là cửa ngõ phía nam xứ Nghệ thông vào Thuận - Quảng.

Trà Sơn - Hoành Sơn ngày trước, cũng như Trường Sơn, bao phủ một thảm rừng già, mà ít nhiều dấu vết còn lưu lại trong Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ trên đất ba huyện Cẩm Xuyên, Hương Khê, Kỳ Anh.

3. Hệ núi lẻ - Rải dọc dải đồng bằng ven biển từ Nghi Xuân vào Kỳ

Page 8: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

8

Anh, có hàng chục dãy núi, ngọn núi, cao trung bình từ trên dưới 100m đến trên dưới 600m.

- Dãy Hồng Lĩnh “99 ngọn” trải rộng 30km2 trên đất ba huyện Nghi Xuân, Can Lộc, Lộc Hà, và thị xã Hồng Lĩnh được tạo nên vào đại Tân sinh. Phần lớn ngọn núi cao trong ngoài 200m đến 500m, chỉ có vài ba ngọn trên 600m, cao nhất là Rú Ông - 676m. Từ lâu đời, Hồng Lĩnh được coi là danh sơn xứ Nghệ, danh sơn nước Nam với đại ngàn hùng vĩ, với những huyền thoại và di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng…

- Rú Bờng - Côn Bằng nằm trên địa phận các xã An Lộc, Bình Lộc, Thịnh Lộc, Thạch Bằng, huyện Lộc Hà. Đây là núi đá hoa cương, có ba ngọn, ngọn cao nhất 213m. Chân núi mé tây nam xoải rộng, có năm cụm đá lô nhô, mỗi cụm có một hòn “đá tướng” cao to hơn đứng giữa. Do đó bãi đá ấy được gọi là “Ngũ quân xuất trận”. Xưa, người ta cho rằng núi hình như con cá lớn dương vây, lại như con chim lớn vỗ cánh nên mới lấy (cá) Côn, (chim) Bằng mà đặt tên. Tương truyền, mộ tổ Nguyễn Hữu Chỉnh táng ở đây, nên tước phong của ông là Bằng quận công.

- Núi Nam Giới, như tên gọi, là biên giới Việt - Chiêm vào thế kỷ X. Con sông Hà Hoàng từ ngã ba Sơn đổ ra Cửa Sót hồi ấy, cho đến đầu thế kỷ XIX, còn đi qua xã Dương Luật, phía nam núi, được coi là ranh giới tự nhiên. Bên kia sông còn có hòn núi nhỏ nằm trên đất Thạch Bàn, Thạch Đỉnh bây giờ, gọi là Hòn Mốc (Mộc Sơn), sách cổ chép “Hữu Nam Giới” (67m). Núi Nam Giới xưa có tên Quỳnh Sơn, cao nhất là ngọn Treo Cờ (375m). Ngọn phía bắc có tên Quỳnh Viên, tương truyền là nơi Chử Đồng Tử được sư Phật Quang truyền dạy và tu hành đắc đạo ở đây. “Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên” - Ngọn núi nổi tiếng này còn truyền câu chuyện Quỳnh Viên xưa (Thơ Lê Thánh Tông).

- Từ Can Lộc vào Cẩm Xuyên, trên dải đồng bằng ven biển, có hàng chục ngọn núi nhỏ mọc rải rác. Dân gian bảo đó là “những hòn đá văng ra khi ông Đùng xây núi”.

- Thiên Cầm (116m) tương truyền “vua Hùng qua đây nghe tiếng đàn trời mà đặt tên như vậy” và vua Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt ở đây, hiện còn cái hang sâu gọi “hang Hồ Quý Ly”. Trên núi có ngôi chùa cổ Cầm Sơn, và dưới núi là thị trấn du lịch Thiên Cầm.

Page 9: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

9

- Hai ngọn Phượng Hoàng và Lạc Sơn (Rú Rác) cuối huyện Cẩm Xuyên tiếp với các ngọn núi thuộc dãy Trà Sơn kéo xuống, kề lưng với Rú Voi ở địa đầu huyện Kỳ Anh. Rú Voi, (các sách xưa chép là núi Ngọc Thạch, hay núi Tiên Chưởng), hình như con voi, nhánh đông bắc vươn ra biển trông giống vòi voi nên gọi Tượng Tỵ. Đời Lê lập trường nuôi voi ở đây, do đó xã này sau có tên Tuần Tượng, dân gian gọi là Voi - quán Voi, chợ Voi. Kề với rú Voi có núi Kỳ Đầu (117m) “như lá cờ vươn cao”, nằm trên đất làng Như Nhật, có ngọn sát biển gọi là Bằng Sư, hè thu có chim cu kỳ (sơn cưu) về tụ tập, dân địa phương làm bẫy đánh bắt. Cu kỳ và tôm hùm là đặc sản vùng Kỳ Anh. Phía nam núi Kỳ Đầu, dọc biển lại có các ngọn Rú Vàng, Nhà Trần, động Trúc Viên (213m), Đế Cậy (248m), Càn Hương và phía nam các núi này là núi Bàn Độ, núi Cao Vọng… Tương truyền, xưa Hồ Hán Thương bị quân Minh bắt ở núi này. Từ Càn Sơn, núi vòng theo hướng đông bắc kéo dài 8km ra tận biển, gọi là mũi Dòn. Sách cổ chép theo tên phiên âm Hán - Việt là núi Ô Tôn (230m). Phía bắc mũi Dòn là Vũng Áng, phía nam là Vũng Yên và ngoài khơi là đảo Sơn Dương. Hiện ở đây đang xây dựng bến cảng và khu kinh tế Vũng Áng.

*

* *

Thời xa xưa, toàn bộ núi đồi đều có rừng già che phủ. Rừng còn tràn xuống cả nhiều vùng đồng bằng, ven biển. Những khu rừng lớn, hoang rậm, trên núi cao gọi là “ngàn”, “đại ngàn”. Không chỉ có đại ngàn Giăng Màn với Ngàn Phố, Ngàn Trươi, Ngàn Sâu, mà còn có Ngàn Hống dưới đồng bằng.

Thảm thực vật rừng vô cùng phong phú, đa dạng, có hàng trăm loài gỗ, trong đó có các loài quý (Lim xanh, gụ, lát hoa, chò chỉ, pơ mu, cẩm lai, táu mật, trường mật, gội nếp, de, giổi, vàng tâm, kiền kiền, săng lẻ…) và nhiều loài cây cỏ quý khác (trầm hương, thảo quả cùng các loài cây dược liệu, cây ăn quả, tre nứa, mây, dang, lá nón, tro kè, cỏ tranh…). “Đây là nơi gặp gỡ của hai luồng thực vật di cư: Một luồng từ Hymalaya qua Vân Nam lan xuống, và một luồng từ Mã Lai lên, vì vậy mà bên cạnh các cây họ dầu, cây săng lẻ, cây huỳnh của miền Nam, có những cây đề, sồi, hạnh đào, cây họ chà và họ mộc lan của miền Bắc”. (Thiên nhiên Việt Nam của Lê Bá

Page 10: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

10

Thảo, XBKH và KT, H.1977).

Sống dưới thảm thực vật ấy là hệ động vật phong phú không kém, gồm nhiều loài thú (voi, hổ, báo, lợn rừng, tê ngưu, hươu, nai, gấu, khỉ, sao la, hoãng, cầy hương…) loài chim (công, trĩ, gà lôi…), loài bò sát (trăn, rắn, rùa…) và nhiều loài cá, côn trùng v.v… Sách Thủy kinh chú (của Lịch Đạo Nguyên) viết: “Từ Hàm Hoan vào nam, hươu hoãng đầy gò, kêu vào vang động, chim công bay lượn, che rợp quanh núi”. Sách của ta dưới thời Lê, Nguyễn vẫn còn chép: “Ngày 14 tiến vào kênh Sa Tắc (Hà Hoa tức Kỳ Anh - TKĐ chú)… Hai bên bờ ruộng phẳng bát ngát muôn dặm… hươu nai từng đàn”. (Lê Thánh Tông - Chinh Tây kỷ hành); Xã Hoằng Hóa thuộc huyện Kỳ Hoa… Thổ sản có các vật lạ như thông thiên tê, công, đồi mồi, trầm hương…” (Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chương loại chí) “Núi Đại Hàm (Hương Sơn)… núi non trùng điệp, cây cối xanh tốt rợp trời… trong rừng có rất nhiều chim công…” (Đại Nam nhất thống chí). Phương ngữ cũng truyền rằng: Cướp bãi Dài (Nghi Xuân) khái bãi Vọt (Hồng Lĩnh); Khái khe Cà, ma Cồn Mụ, và Lắm hươu Bàn Độ… (đều ở Kỳ Anh) v.v…

Nhưng rồi, số dân ngày càng tăng, người ta cần khai phá đất đai làm ruộng nương, vườn tược, khai thác lâm sản để sử dụng hoặc làm kế sinh nhai… Làng xóm mở đến đâu rừng bị đẩy lùi đến đó. Hầu hết các làng xã ở Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Kỳ Anh, ở vùng thượng Đức Thọ, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên và quanh các dãy núi ở đồng bằng, ven biển, đều ở trên và quanh đồi núi thấp mà xưa là rừng. Thêm vào đó là nạn phá rừng, đốt rừng bừa bãi, nạn cháy rừng thường xuyên, làm cho rừng nhanh chóng bị tàn hại, bị xóa khỏi mặt đất. Nhiều vùng rộng lớn trở thành đồi núi trọc. Vào thế kỷ XX, rừng càng bị khai thác với tốc độ khủng khiếp. Những khu “rú cấm” do các làng xã đặt lệ cấm khai thác lâu đời, như rừng gọ (rụ) rú Đông (Hồng Lĩnh) lúc này cũng bị hạ đến gốc cuối cùng… Nhiều nơi, rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ cũng bị phá. Hệ động vật sông trong rừng cũng mất dần theo thảm thực vật, may mà một ít rừng già trên núi cao 800m-1000m trở lên ở Vườn quốc gia Vụ Quang và Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ còn sót lại, cho thấy phần nào cảnh quan thời xa xưa.

Từ “Tết trồng cây” 1960 theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch (11/1959),

Page 11: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

11

nhất là từ khi có Chương trình 327 (9/1992) phong trào trồng cây ngày càng được quan tâm và có hiệu quả. Nhiều khu rừng được cải tạo, nhiều khu rừng (thông, bạch đàn, keo, phi lao, sú vẹt…) được trồng mới. Tuy nhiên, so với yêu cầu thì còn xa, và đến nay, rừng, kể cả rừng mới trồng, vẫn đang bị “lâm tặc” đủ loại đe dọa từng ngày.

*

* *

Núi rừng nhiều, sông suối cũng lắm, ở vùng Ngàn Trươi, cứ 1km2 đất, có tới 2km suối. Ngay ở đồng bằng, nhiều nơi rào hói cũng lượn vòng ngang dọc. Cả tỉnh có hơn 20 con sông với tổng chiều dài 400km, và lưu vực rộng trên 5436km2. Tuy nhiên, sông ở Hà Tĩnh đều ngắn, hẹp, độ dốc cao, dòng chảy thường quanh co, gấp khúc. Sông ngòi các huyện phía bắc tỉnh chỉ là chi lưu của sông Ngàn Cả. Còn ở các huyện phía nam, nhiều sông nhỏ nối mạng với nhau, đổ về một hướng, đến cửa sông mới phình rộng ra.

Ngàn Cả - Lam Giang là con sông lớn nhất, tiêu biểu nhất của xứ Nghệ, bắt nguồn từ dãy Phản ứng Loi 2060m cao trên Trường Sơn Bắc, dòng chính dài 520km, riêng đoạn từ Kỳ Sơn về Cửa Hội là 390km. Sông chảy trên đất bảy huyện miền tây tỉnh Nghệ An đến cuối huyện Nam Đàn thì đến địa đầu huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Từ đây sông có tên Rào Rum - Lam Giang, đi vòng lên đông bắc, giữa các huyện Hưng Nguyên, Nghi Lộc và thành phố Vinh bờ bắc, và Đức Thọ, Nghi Xuân, thị xã Hồng Lĩnh, bờ nam, mà ra Cửa Hội. Đoạn sông khoảng 37km này, rộng trung bình 400m, đến 600m; có nơi, như ở Bến Thủy, chảy giữa Rú Quyết, Rú Lách, thì eo lại, chỉ 300m rồi phình ra trên dưới 1000m, rẽ thành hai dòng bao lấy làng đảo Cồn Mọc - Ngọc Lâm (Xuân Giang). Hai bên bờ sông, từ lâu đời, là nơi đặt trị sở phủ, trấn Nghệ An (Lam thành đời Trần - Lê, Vịnh dinh - Vịnh thành đời Lê - Nguyễn); của phủ Đức Quang (Phi Cảo, đời Lê) của các huyện Thiên/Can Lộc (Minh Lang) và Nha Nghi - Nghi Xuân (Tả Ao, Uy Viễn) đời Lê - Nguyễn. Cũng từ lâu đời ở đây đã có những cảng-thị, phố-thị buôn bán sầm uất nổi tiếng: Tả Ao (đời Lý), Triều Khẩu - Phù Thạch đời Lê, Nguyễn.

Sông La - La Giang với hai chi thượng nguồn Ngàn Phố, Ngàn Sâu, là

Page 12: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

12

con sông tiêu biểu của Hà Tĩnh.

Ngàn Phố bắt nguồn từ vùng núi Giăng Màn trên biên giới Việt - Lào, có các phụ lưu Nậm Chốt (Nước Sốt), Nậm Mắc (Rào Mắc), rào Bống, rào Qua, sông Con đổ vào, đi qua 69km trên đất huyện Hương Sơn, và nhập vào sông La ở ngã ba Tam Soa (ngã ba Tuần - do trước đây có đặt sở Tuần ty).

Ngàn Sâu - Thâm Nguyên cũng khởi nguồn từ khe suối trong dãy Giăng Màn, từ rào Xăn ở bản Giàng, chảy về hướng nam rồi chuyển sang đông, đến La Khê thì vòng lên hướng bắc. Dòng chảy lách giữa hai triền núi Trường Sơn, Trà Sơn, có đoạn uốn quanh đến chín lần, thường gọi “chín khúc Huồi Nai”, có nơi xoáy thành vực sâu - vực Ác. Dọc đường dài 121km, sông nhận nước từ rào Cháy, rào Tiêm, rào Nổ (hay rào Trúc), sông Ngàn Trươi và nhiều khe hói trên đất bốn huyện Hương Khê, Vũ Quang, Hương Sơn, Đức Thọ ở tả hữu ngạn, đi tiếp lên hướng bắc đổ vào sông La ở Tam Soa.

Từ đây, sông rẽ nước làm đôi, bao quanh bãi đảo Ngưu Chử, rồi hợp làm một, lượn vòng cung về đông nam, luồn qua cầu Thọ Tường, lại lượn vòng lên hướng bắc, lẹ làng sà vào sông Cả - Lam Giang ở ngã ba Phủ, trước Rú Rum - Lam Thành. Một nhánh khác của sông La, từ xã La Giang (Đức Thọ) đi qua Trổ, Hổ, đò Hào, ngã ba Mênh mà ra sông Lam cuối xã Ngũ Lộc, nay là cuối xã Đức Vịnh.

Sông Ngàn Mọ, thường gọi rào Cấy (Cái), “Cấm Xuyên phong thổ ký” chép là sông Vân nguồn từ vùng rừng núi tây Cẩm Xuyên tiếp giáp với Hương Khê đổ vào Ngàn Mọ - Kẻ Gỗ (nay là lòng hồ Kẻ Gỗ). Từ đây, dòng chính chảy xuống ngã ba Mọ (Cẩm Mỹ), ngã ba Kênh (Cẩm Duệ) rồi theo hướng bắc đến Cẩm Thành, Cẩm Vịnh - Thạch Lâm thì theo hướng đông bắc, đi giữa các huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà, qua Đại Nài - phủ lỵ Thạch Hà cũ, gọi sông Nài hay rào Phủ. Sông đi vòng sang đông bắc, qua Thành phố Hà Tĩnh, đến cầu Đò Hà, xuống Đồng Môn, Thạch Khê, Thạch Đỉnh đổ vào sông Hộ Độ ở ngã ba Sơn mà ra Cửa Sót.

Đoạn gọi sông Ngã Ba ở Na Kinh bây giờ chính là kênh Na xưa được đào nối sông Ngàn Mọ thông với sông Thượng Long (cũng từ Mỹ Duệ xuống), chảy về hướng Đông Nam nhập vào sông Gia Hội, đến cầu Họ

Page 13: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

13

(gọi sông Họ - Hộ giang) thì quặt hướng đông đổ ra cửa Nhượng. Cùng đổ ra cửa Nhượng còn có sông Quèn (Quyền giang), sông Rác (Lạc giang) cùng sông Gia Hội hội thủy cuối xã Cẩm Lộc trước khi ra biển.

Ở thượng nguồn các sông trên đây, từ nam Thạch Hà đến bắc Kỳ Anh, có tới bốn hồ chứa nước lớn nhỏ được xây dựng trong ngót 40 năm qua: Bộc Nguyên, Kẻ Gỗ, Thượng Tuy và sông Rác.

Mạng lưới sông ngòi dày đặc ở Hà Tĩnh từ xa xưa đã là hệ thống đường thủy thuận lợi trong nội địa. Ngay từ thời đồ đá, con người cũng đã biết lợi dụng con ngòi Cạn (Hạc giang), thông ra sông Ngàn Sâu, sông La để chuyển công cụ đá Rú Dầu đi trao đổi với vùng lân cận. Sau khi vua Lê Đại Hành đào kênh Gai (Đa Cái) ở nam Nghệ An bây giờ, thì đường thủy từ sông Đáy - cửa Thần Phù có thể thông tới cửa Kỳ La (cửa Nhượng). Đời Trần lại cho đào kênh Na (Cẩm Xuyên) và kênh Lạc Hạ (Kỳ Anh) thì thuyền bè có thể vào tận cửa Hà Hoa (Cửa Khẩu), tránh được sóng gió đường biển. Con đường thủy này cho đến đời Nguyễn vẫn được đào vét, sử dụng.

Ngày nay, sông ngòi vẫn là hệ thống giao thông đường thủy nội địa quan trọng, đặc biệt, giữ vai trò không thể thiếu tạo nên cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, điều hòa khí hậu, và là nguồn tài nguyên nước dồi dào, tạo nên sự sống trên mặt đất.

*

* *

Đồng bằng chỉ chiếm khoảng trên 25% diện tích tự nhiên toàn tỉnh (1660km2), địa hình rất phức tạp, nhiều tầng, nhiều bậc, độ dốc lớn, lại bị núi đồi, sông hói chia cắt manh mún. Những thung lũng Ngàn Sâu, Ngàn Phố do sự vận động tạo sơn ở đại Tân sinh làm đứt gãy, để lại nhiều lớp đá núi to nhỏ khác nhau, địa thế gồ ghề, bị nước xói mòn và do quá trình cải tạo đất nhiều đời mà trở nên tương đối bằng phẳng. Đây là đất ba huyện Hương Khê, Vũ Quang, Hương Sơn, ruộng đồng nằm trong thung lũng ven núi, và các bãi bồi hẹp ven sông, chỉ có vùng tam giác từ núi Mồng Gà đến Ngã ba Tam Soa, nơi hợp lưu hai sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố là rộng hơn một chút. Vùng núi Trà Sơn, từ Thượng Đức Thọ, Thượng Can Lộc và tây Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh cũng đều là những đồng điền hẹp, nhiều

Page 14: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

14

nơi là những mảnh “rọng rú” (ruộng núi) rất hẹp. Cánh đồng phía đông bắc Kỳ Anh, rộng nhất huyện, cũng chỉ là một thung lũng giữa bốn bề là núi, có con sông Kinh Hạ đổ qua. Nghi Xuân có cánh đồng rìa đông dãy Hồng Lĩnh là rộng và tốt, còn mé biển từ Cửa Hội trở vào cho đến Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, trừ những nơi núi lấn tận bờ, thì chỉ là dải cát biển hẹp cằn cỗi mà thôi.

Dải đồng bằng quan trọng nhất từ hạ Đức Thọ kéo qua hạ Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên. Phần đầu, từ mé đông tây Thiên Nhẫn đến mé đông bắc dãy Trà Sơn thuộc đất La Sơn cũ, nay là đất Đức Thọ và một phần Can Lộc, nằm trong lưu vực sông La, sông Lam, do phù sa các sông lớn bồi đắp nên ruộng đất tốt. Phần giữa và cuối, nằm lọt giữa dãy Trà Sơn và các núi lẻ ven biển từ thị xã Hồng Lĩnh vào tận Cẩm Xuyên. Thời xa xưa đây là “vịnh Vinh”, “vịnh Hà Tĩnh” thời kỳ biển tiến kỷ Đệ tứ, khi biển lùi, để lại các lớp trầm tích biển, chứa nhiều vỏ sò điệp. Các dãy núi hai bên bị xâm thực, bào mòn chuồi xuống, phủ lên trên, bồi tích dần mà thành.

Do tình hình cấu tạo như trên, nên đất đai ít màu mỡ, gần núi thì đất khô, cứng, gần biển thì chua mặn, bạc màu. Lại thêm thời tiết rất khắc nghiệt, hạ thì gió nam Lào gây hạn hán; thu thì mưa, lụt, bão, mùa màng thường thất bát. Để có những cánh đồng như ngày nay, phải qua hàng trăm, hàng nghìn năm cải tạo, đặc biệt là do nước tưới. (Từ lâu, nông dân đã có thói quen đắp bờ giữ nước, vào thế kỷ XV, quan Ngự sử Bùi Cầm Hồ đã từng hướng dẫn cho dân Kẻ Treo đắp đập ngăn khe trên núi Hồng Lĩnh, đưa nước tưới cho “hàng nghìn mẫu ruộng”. Đó là công trình thủy lợi lớn nhất thời bấy giờ…).

Đồng bằng là nơi dân cư đông đúc. Ở Đức Thọ, mật độ dân số lên tới 598 người/km2, có làng phải ăn ở chen chúc, thiếu đất ruộng cày cấy. Dần dần, người ta lên vùng núi, khai khẩn đất đai. Từ sau cách mạng, việc di dân được tổ chức quy củ, đưa một bộ phận dân đồng bằng lên vùng núi, vào cả Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long thành lập quê mới.

*

* *

Bờ biển Hà Tĩnh dài 137km, vùng lãnh hải rộng 18400km2. Trừ một số

Page 15: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

15

nơi núi mọc lấn ra và các cửa sông chia cắt, còn là bãi bằng phẳng do cát biển từ dòng chảy trong vịnh Bắc bộ bồi tích. GS H.Le Breton qua nghiên cứu gia phả các họ Nguyễn ở Thượng Xá (Nghi Lộc) và Tiên Điền (Nghi Xuân) đã viết trong “An Tĩnh cổ lục”: “Bờ biển ở thế kỷ XIV cách bờ biển ngày nay (đầu TK XX - TKĐ chú) 2km về phía Tây”. Đoạn bờ biển hai huyện Nghi Xuân, Lộc Hà (một phần các huyện Can Lộc, Thạch Hà cũ) từ Cửa Hội đến Cửa Sót, dài khoảng 38km) trừ một quãng ngắn ở Cửa Gián, nơi mút cuối Hồng Lĩnh mọc lấn ra, còn là bãi ngang bằng phẳng. Phía nam Cửa Sót, mỏm bắc núi Nam Giới phóng ra biển thành mũi Lố có nhiều đá ngầm hiểm trở, thuyền bè qua lại rất khó, nên có câu “Đi qua mũi Lố mà kinh”. Đoạn từ cuối núi Nam Giới - huyện Thạch Hà đến cửa Nhượng Bạn - cuối huyện Cẩm Xuyên, khoảng trên 20km cũng là bãi cát bằng phẳng, chỉ ở mé đông núi Thiên Cầm, có một bãi đá. Trước Cửa Nhượng có hòn Bơớc (Đại Trập, Tiểu Trập) là bãi đá cao chỉ khoảng 5 đến 6m, kéo dài khoảng 800m. “Ngoài khơi có đám rạn và…” là câu vè nói về dải đá ấy. Xa hơn, phía ngoài là hòn Én (Yến đảo). Phía nam Cửa Nhượng là núi Tượng Tỵ, trông giống như con voi vươn vòi ra biển. Từ đây vào tới mũi Độc, cuối dãy Hoành Sơn là bờ biển huyện Kỳ Anh, dài tới 63km. Đoạn này có núi Dẫn, núi Bàn Độ, núi Cao Vọng và núi Hoành Sơn mọc lấn ra biển tạo thành những mũi Dung, mũi Dòn, mũi Đao, mũi Độc, đá lô nhô, lởm chởm, chỉ có từng đoạn ngắn là bãi cát bằng. Tuy nhiên, cảnh quan ở đây lại rất đẹp. Đặc biệt, mé nam Cửa Khẩu, ngọn Đỉnh Chùa cuối dãy Cao Vọng vươn xa ra biển theo hướng đông bắc, gọi mũi Dòn, tạo thành hai vùng biển sâu và kín. Phía bắc núi là Vũng Áng ở làng Vĩnh Áng, phía nam núi là vũng Yên Ao, cũng gọi vũng Đình Chùa, ở làng Phác Môn (nay đều thuộc xã Kỳ Lợi). Ngoài mũi Dòn không xa là đảo Sơn Dương (hòn Con Dê), xa hơn là hòn Con Chim.

Bờ biển Hà Tĩnh có sáu cửa biển lớn nhỏ. Phía bắc là Cửa Hội, nằm giữa hai huyện Nghi Lộc (Nghệ An), Nghi Xuân (Hà Tĩnh) nơi sông Ngàn Cả (Lam Giang) đổ ra biển. Hàng năm, sông đưa một khối lượng nước khổng lồ qua đây nên dòng chảy rất mạnh, do đó có câu “Cửa Hội khó vào, Cửa Trào khó ra”. Sách xưa chép tên là Cửa Đơn Hay hoặc Đan Thai, rồi Đan Nhai, có thể là phiên âm từ một tên Nôm (?). Vào thời Lê trung hưng, khoảng thế kỷ XVI, có xã Hội Thống nên mới gọi Cửa Hội (Thống).

Page 16: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

16

Cửa Hội là cửa biển lớn ở Nghệ Tĩnh, thuyền bè qua đây ngược lên phố Phù Thạch, chợ Sa Nam xưa, và các cảng Bến Thủy, Xuân Hải ngày nay.

Cuối huyện Nghi Xuân ở xã Động Gián có cửa lạch nhỏ, gọi là Lạch Kèn (Đồng Kèn) từ rào Mỹ Dương xuống đổ ra biển, thường gọi Cửa (Động) Gián, nay đã bồi lấp.

Cửa Sót xưa nằm giữa hai huyện Thiên, Can Lộc và Thạch Hà, từ 1921 là đất Thạch Hà và hiện nay là giữa hai huyện Lộc Hà, Thạch Hà, do nước hai con sông Hà Hoàng và Rào Cái hợp lưu ở ngã ba Sơn, đổ vào sông Sót (Sót Giang hay Luật Giang) mà ra biển. Hơn 200 năm trước, cửa biển ở trên đất xã Dương Luật (sách cổ chép là cửa Dương Luật) phía nam dãy Nam Giới, nay chuyển dòng lên hướng Bắc, đi qua phía tây dãy Nam Giới, giữa hai xã Thạch Kim (Kim Đôi cũ) và Thạch Bàn. Cửa Sót là cửa ngõ con đường thủy quan trọng vào thành phố Hà Tĩnh.

Cửa Nhượng nằm trên đất xã Cẩm Nhượng (Nhượng Bạn cũ), huyện Cẩm Xuyên, do nước sông Hội, sông Quèn, sông Rác hợp lưu cuối xã Cẩm Lộc mà đổ ra biển. Xưa kia, cửa biển ở mé bắc núi Thiên Cầm trên đất xã Kỳ La, gọi là cửa Kỳ La, cuối đời Lê mới chuyển xuống phía nam, qua làng Nhượng Bạn.

Cửa Khẩu, chính là Hà Hoa hải khẩu đời Trần được gọi tắt lâu ngày thành quen, nằm trên đất xã Hải Khẩu, nay là xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh, do nước sông Kinh nối với sông Rác và sông Quèn (Quyền giang) cùng nhiều khe suối hợp ở sông Vịnh (Vịnh giang) mà ra biển. Cửa Khẩu là cửa ngõ cuối cùng con đường thủy phía nam Đại Việt xưa thông ra biển, và từng là “quân cảng” chốt phía trước trấn lỵ Dinh Cầu đời Lê. Ngày nay là đường thủy thông lên thị trấn Kỳ Anh, và qua đường biển, nối với cảng Vũng Áng.

Cuối huyện Kỳ Anh, xưa còn có cửa Nước Mặn (Xích Mộ hay Xích Lỗ) do nước Khe Du, Khe Di, Khe Bò… từ Đèo Ngang đổ xuống chảy ra mé bắc Hoành Sơn, nay thuộc đất xã Kỳ Nam. Vào thế kỷ XV, đoàn chiến thuyền của vua Lê Thánh Tông từng trú tại đây, nhưng nay cửa biển đã bị bồi lấp.

Khí hậu Hà Tĩnh rất đặc biệt. Dãy Hoành Sơn không cao, nhưng do hướng chạy của núi đã thực sự trở thành một ranh giới khí hậu. Do đó, mặc

Page 17: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

17

dầu Hà Tĩnh và Quảng Bình ở hai bên núi, chỉ cách nhau hơn 10km, nhưng Quảng Bình đã mang rõ những nét khí hậu miền Nam, còn Hà Tĩnh thuộc khí hậu miền Bắc.

Hà Tĩnh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa rõ rệt, mùa nóng và mùa lạnh. Nhiệt độ trung bình ở Hà Tĩnh khoảng 22 - 250C. Nhưng mùa nóng trung bình là 290, có lúc lên tới 40 - 410, mùa lạnh trung bình 200, nhưng có lúc đột ngột tụt xuống 6 - 70. Mùa nóng kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9, tháng tám (ÂL) thường rất nóng. “Nắng tháng tám nám trái bưởi”. Từ tháng 5 đến tháng 8 là mùa gió nam - tây nam, từ vịnh Bengan đi qua vùng đệm lục địa, vượt qua dãy Trường Sơn trên biên giới Việt Lào nên gọi “gió nam Lào”, Gió Lào biến tính trở thành khô nóng đẩy nhiệt độ lên 35 - 360, có khi tới 38 - 390. Gió thổi mạnh nhất thường vào một số ngày trong tháng 6, tháng 7, từ 11 đến 14 giờ. Có đợt kéo dài 6 - 7 ngày liền, mang theo cái nóng gay gắt, cây cối khô héo, ao hồ cạn kiệt, “Ba ngày gió nam, mùa màng mất trắng”.

Từ tháng 8 đến tháng 10, tháng 11 là mùa mưa. Lượng mưa bình quân hàng năm trên 2200mm, ở đồng bằng thường từ 1000 - 1500mm, nhưng ở vùng rừng núi phía tây thì tới 3000mm, có năm vào tháng 7, tháng 8 có tới 20 - 25 ngày mưa. Mưa thường gây lũ lụt lớn, có khi rất lớn.

Từ tháng 7 đến tháng 10 lại cũng thường có bão. Bão tố và lũ lụt là tai họa lớn, hủy hoại nhà cửa, mùa màng, không mấy năm thoát khỏi.

Tháng 11, 12 vào tiết tiểu tuyết, đại tuyết, thường có gió tây may, hanh heo, và tháng 1 vào tiết tiểu hàn, đại hàn, gió mang khí lạnh xuất phát từ Xibia, qua Trung Quốc rồi quặt lại tràn vào miền Bắc nước ta theo hướng Đông Bắc. Đó là gió mùa Đông Bắc, gây ra mưa dầm dai dẳng, rét buốt khó chịu. Rét kéo dài ra đến đầu xuân. “Tháng giêng rét dài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét cộc nàng Bân”.

Vào đầu tháng tư (ÂL) nhiều năm thường có mưa to, gây úng lụt, gọi là lụt tiểu mãn, nhưng đến tháng sáu (ÂL) thì lại ít mưa, có khi không mưa. “Mưa tháng tư hư mọi chuyện” và “Mưa tháng sáu máu rồng”.

Từ bao đời nhân dân đã quen với thời tiết khắc nghiệt, “Tháng năm năm tật, tháng mười mười tật” và biết lợi dụng thời tiết trong năm để làm nghề nông và các công việc khác.

Page 18: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

18

*

* *

Tài nguyên thiên nhiên ở Hà Tĩnh khá phong phú.

Trong tổng diện tích tự nhiên 6026,5km2 có 537.299,3ha đã được đưa vào sử dụng: gồm đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư, diêm nghiệp. Diện tích chưa sử dụng gồm: đất đồi, đất bằng, núi đá không có rừng cây.

Hiện nay, cả tỉnh có tới 357 hồ chứa nước lớn nhỏ với tổng dung tích trên 700 triệu m3; và đang xây dựng hồ Xuân Hoa (15,8 triệu m3) hồ thượng nguồn sông Trí (25,4 triệu m3), công trình thủy lợi Ngàn Trươi - Cẩm Trang (gần 800 triệu m3) cùng trên 20 con sông lớn nhỏ với tổng chiều dài trên 400km, lưu vực 5436km2, tạo nên nguồn tài nguyên nước dồi dào, khoảng 11 - 13 tỷ m3 năm.

Trong 365.577 ha đất lâm nghiệp, hiện có 299.603 ha đất có rừng. Rừng đặc dụng chiếm 20,4% (74.641 ha), rừng phòng hộ 32,9% (120.390 ha), rừng sản xuất 46,7% (170.546 ha). Trữ lượng gỗ là 21,13 triệu m3. Độ che phủ đạt 47%. Rừng trồng hiện có 84.645 ha, trong đó rừng thông gồm 43.000 ha. Thảm thực vật và động vật rừng rất đa dạng và có nhiều loài quý hiếm. Ngoài ra, hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển có nhiều loại thực vật, động vật thủy sinh có giá trị kinh tế cao.

Với 137km bờ biển, 18.400km2 lãnh hải, Hà Tĩnh có tiềm năng phát triển kinh tế biển to lớn. Vùng biển có 267 loài hải sản sinh sống, trong đó có 60 loài cá, 20 loài tôm, với trữ lượng 84.000 tấn. Vùng lộng, có trữ lượng tôm 500 - 600 tấn, mực 3000 - 3500 tấn. Hàng năm, khai thác khoảng 40.000 tấn hải sản. Diện tích nuôi trồng thủy sản có khoảng 20.000 ha (nay mới sử dụng 7000 ha), trong đó có khoảng 7300 ha có thể nuôi thủy sản nước mặn, nước lợ ven biển, chưa kể 200 ha đất bãi biển có thể sử dụng nuôi thủy sản theo quy trình công nghệ sinh học.

Các mỏ khoáng sản nằm rải rác từ ven biển, trung du đến vùng núi, có tới 91 điểm. Kim loại đen thì mỏ sắt Thạch Khê (Thạch Hà), trữ lượng khoảng 544 triệu tấn, vào loại lớn nhất trong nước. Lại có các mỏ sắt hoặc sắt-măng-gan ở Vũ Quang, Can Lộc, Đức Thọ. Quặng măng-gan ở Phú Lộc, Thượng Lộc, Đức Lập, Kỳ Tân, trữ lượng hơn 1 triệu tấn, đang được

Page 19: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

19

khai thác. Quặng ti-tan có trữ lượng khoảng 4,6 triệu tấn. Mỏ ốc-xít ti-tan nằm suốt dọc bờ biển từ Nghi Xuân vào Kỳ Anh, đã được khai thác và xuất khẩu khoảng 700 nghìn tấn. Mỏ thiếc ở Sơn Kim, mỏ vàng ở các huyện Hương Sơn, Hương Khê, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, có trữ lượng khoảng 15300kg. Khoáng sản phi kim loại có đá xây dựng, chủ yếu là đá hoa cương có thể khai thác khoảng 90 vạn m3/năm, cát xây dựng hàng năm có thể khai thác 20 - 30 vạn m3. Ngoài ra còn có đá quý, than bùn, nước khoáng, sét, đôlônhit (Đôlonit), Quácdit (Quarzit), thạch anh, cao lanh, Xơ-rixít (Sericit) là khoáng sản quý hiếm, mới được phát hiện.3

Cùng với nguồn tài nguyên trên, núi sông hùng vĩ, thiên nhiên tươi đẹp, đa dạng, những thắng cảnh và di tích lịch sử văn hóa cũng là nguồn tài nguyên quý giá.

Đó là tiềm năng lớn để phát triển. Lại còn mặt tiềm năng khác, có vai trò quyết định, là nguồn lao động dồi dào, 67,8 vạn người trong độ tuổi lao động chiếm 52,60% dân số nhưng hầu hết đều là lao động phổ thông, lao động kỹ thuật còn hiếm. Hàng năm có 3 vạn người được đào tạo nghề, 6000 người đi xuất khẩu lao động. Tuy nhiên, hầu hết tay nghề còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu hiện tại.

II. VÙNG ĐẤT SÔI ĐỘNG TRONG LỊCH SỬ Vùng đất Hà Tĩnh bây giờ là mảnh cuối của nước cổ Văn Lang, Đại

Việt, về sau là vùng đệm hai miền nam bắc Việt Nam, do đó có liên quan chặt chẽ với nhiều biến cố quan trọng trong lịch sử dân tộc.

Về thời tiền sử và cổ sử, mặc dầu tư liệu hiếm hoi, nhưng dựa vào các bộ sử cổ, nhất là những thành tựu của khảo cổ học từ đầu thế kỷ XX lại nay của cả nước và của địa phương, ta có thể phác thảo tiến trình lịch sử Hà Tĩnh tương đối chính xác.

*

* *

Qua việc phát hiện các chứng tích ở hang Thẩm Ồm (Quỳ Châu, Nghệ 3 Tình hình và số liệu về tài nguyên theo cuốn “Hà Tĩnh - Tiềm năng và cơ hội đầu tư” -(UBND Hà Tĩnh - 2007).

Page 20: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

20

An) năm 1973, thì vào kỷ Cánh tân (Pleistocène), cách ngày nay từ 1 triệu 80 vạn năm đến 1 vạn năm, trên đất Nghệ Tĩnh đã có Người Vượn (Homo Erectus - Người đứng thẳng) cư trú.

Đến Văn hóa Sơn Vi thuộc hậu kỳ Đá Cũ, thì ở Làng Vạc (Nghệ An) và Hương Sơn, Hương Khê, Nghi Xuân (Hà Tĩnh) đều đã tìm thấy dấu vết của Người Hiện Đại (Homo Sapiens - Người Khôn Ngoan).

Ở Hà Tĩnh chưa tìm thấy dấu vết Người Vượn, và dấu vết Văn hóa Hòa Bình vì hiếm hang động đá vôi, nhưng theo nhận định của GS Hà Văn Tấn, thì Người Vượn và người Văn hóa Hòa Bình từng đã có mặt ở đây.

Dấu vết Văn hóa Quỳnh Văn đã được phát hiện ở Phái Nam (xã Thạch Lâm, Thạch Hà), Cồn Lôi Mốt (xã Thạch Vịnh) và lớp dưới di chỉ Bãi Phôi Phối (xã Xuân Viên, Nghi Xuân). Tiêu biểu là di chỉ Phái Nam, có niên đại C14 4030 + 45 năm.

Chủ nhân Văn hóa Bàu Tró là con cháu chủ nhân Văn hóa Quỳnh Văn. Văn hóa Bàu Tró phân bố khá rộng trên bốn tỉnh Nghệ, Tĩnh, Bình, Trị. Ở Hà Tĩnh dấu vết Văn hóa Bàu Tró sớm được phát hiện ở các di chỉ cồn sò điệp Thạch Lâm, Thạch Lạc, Thạch Đài, Cẩm Thạch, Cẩm Hòa; các di chỉ gò cát, cồn đất như bãi Phôi Phối (Xuân Viên), cồn Lôi Mốt (Thạch Vịnh), và sườn núi đất thấp như Rú Nghèn (Can Lộc), Rú Nài (TP Hà Tĩnh), lại ở cả vùng núi cao Hương Sơn, Hương Khê nữa. Rú Dầu nằm giữa hai xã Đức Đồng, Đức Lạc, được phát hiện là “Xưởng chế tác đá” của người nguyên thủy thời kỳ này.

Văn hóa Phùng Nguyên, và sau đó, các Văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun, thời Đồng Thau thường được gọi là Văn hóa Tiền Đông Sơn. Tại Hà Tĩnh chỉ mới thấy một số mộ ở bãi Phôi Phối tương ứng với di chỉ Rú Trăn, nhưng cũng đủ để chứng minh là vùng đất này có Văn hóa Tiền Đông Sơn.

Văn hóa Đông Sơn phân bố từ biên giới Việt - Trung vào đến Quảng Trị. Cư dân vùng Hà Tĩnh trong Văn hóa Đông Sơn cũng có trình độ kinh tế, văn hóa như những vùng khác. Hiện nay, dấu vết Văn hóa Đông Sơn đã được phát hiện ở Đức Thọ, Nghi Xuân, Can Lộc, Thạch Hà, Kỳ Anh. Giới khảo cổ cũng đã phát hiện dấu vết lò luyện sắt thời Văn hóa Đông Sơn ở xã Xuân Giang.

Page 21: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

21

Các di chỉ trên đây chứng minh sự có mặt của con người trên đất Hà Tĩnh suốt từ thời tiền sử đến cổ đại - thời đại các vua Hùng.

*

* *

Cùng với những chứng tích khảo cổ về thời Đồ Đồng, ở Hà Tĩnh còn lưu truyền nhiều truyền thuyết về thời đại Hùng vương.

“Sự tích cố đô Việt Thường” kể: “Dương vương tuần du, gặp nàng Thần Long bèn lấy làm vợ, đưa về Ngàn Hống xây dựng đô ấp. Về sau, vua giao cho con trưởng - vua Hùng thứ nhất - ra cai quản vùng Ngã ba Hạc, xây dựng đô ấp Nghĩa Lĩnh (ở Phú Thọ bây giờ)”. Theo một số nhà nghiên cứu thì truyền thuyết này phản ánh cuộc di cư của người Tiền Việt - Mường ra phía bắc.

Sách “Lĩnh Nam chích quái” chép chuyện Chử Đồng Tử tu tiên đắc đạo ở núi Quỳnh Viên (Nam Giới, Thạch Hà) vào thời vua Hùng thứ III (“Ngọc phả Hùng vương” chép vào thời vua Hùng thứ XVIII). Chuyện “Núi Thiên Cầm” kể rằng “Vua Hùng thứ XIII lên chơi rú Gùm (Kỳ La, Cẩm Xuyên) nghe tiếng đàn trời văng vẳng nên đặt tên là “Thiên Cầm” và “Chuyện Trầu Cau” (bản sưu tầm ở Hà Tĩnh) cũng kể “Vua Hùng tuần du, đến rú Bầng - Côn Bằng (Thiên Lộc - Lộc Hà), ăn thử miếng trầu, nhổ nước bã xuống, đến nay một vùng đá vẫn còn đỏ”.

Lại nữa, sách “Bách thần lục” chép Thần tích thôn Thiều Sơn, tổng Quảng Chiếu (Đông Sơn, Thanh Hoa) tả trận thủy chiến giữa hai đội quân Hùng - Thục ở Châu Hoan: “(Tướng vua Hùng) giao chiến với giặc ở Hội Thống, giặc thua to, chém tướng giặc Dương Nham…, dư đảng giặc tan rã…”. Sách này còn chép Thần phả làng An Duyên (Thường Tín, Hà Đông), có đoạn nói về trận đánh trên: “Tướng vua Hùng là Nguyễn Tuấn, Trần Khánh chặn quân Thục ở cửa Hội Thống, bắt được tướng Hùng Nã, Đà Gia”.

Chuyện “Ông Đùng” cũng phản ánh về nghề luyện sắt thời ấy.

Mặc dầu truyền thuyết chỉ là truyền thuyết, nhưng qua các truyền thuyết trên, ta thoáng thấy hình ảnh mờ nhạt của thời huyền sử khúc xạ qua lăng kính của ký ức dân gian.

Page 22: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

22

Một hiện tượng rất đáng quan tâm là hiện nay có một số người Chứt sinh sống tại Bản Giàng 1 (Hương Lâm), Bản Giàng 2 (Hương Vĩnh) và một số người Mã Liềng, cũng gọi là M’ liềng, có nghĩa là Người, được người tộc khác gọi là Arem, Rem, Cọi, Mày, thuộc nhóm người Chứt, ở bản Rào Tre (Hương Liên) huyện Hương Khê. Các nhà khoa học nhất trí cho đó là di duệ của người Tiền Việt - Mường thời tiền sử - thời các vua Hùng, không di cư ra Bắc, ở lại vùng bắc Quảng Bình, nam Hà Tĩnh bây giờ, do hoàn cảnh khách quan họ bị đẩy vào núi sâu, sống cách biệt lâu ngày, trở thành người thiểu số.

*

* *

Thời Bắc thuộc kéo dài hàng nghìn năm, từ 179 TCN đến 938 SCN.

Sau khi Triệu Đà đánh lấy nước Âu Lạc gộp vào phần đất Quế Lâm (Trung Quốc) lập ra nước Nam Việt, vùng Hà Tĩnh bây giờ ở xa xôi nên không có sự thay đổi nào. Nhà Tây Hán diệt nước Nam Việt (111 TCN) chia Âu Lạc thành ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Vùng Hà Tĩnh là phần phía nam huyện Hàm Hoan, quận Cửu Chân. Việc cai trị lúc này chủ yếu vẫn dựa vào các Lạc hầu, Lạc tướng người Việt. Đời Đông Hán, Nhâm Diên sang làm Thái thú quận Cửu Chân, cũng như Thái thú Giao Chỉ Tô Định, dựa vào số người Hán chạy loạn sang thời Vương Mãng, tăng cường kiểm soát các Lạc hầu, Lạc tướng Việt, thắt chặt ách đô hộ.

Năm 40 - 43, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Mê Linh được “65 huyện, thành” hưởng ứng. Đó là sự phản kháng quyết liệt của người Việt chống quân Hán. Sử chép: “Hai Bà sai tướng Đô Dương giữ vùng Cửu Chân (Thanh, Nghệ, Tĩnh bây giờ) để phòng mặt nam”. Sau khi Hai Bà Trưng thất bại, tháng 11 năm 43, tướng Hán Mã Viện tiến quân vào Cửu Chân truy kích tướng Đô Dương. “Hàng trăm thủ lĩnh địa phương, hàng nghìn nghĩa binh bị Mã Viện tàn sát, hơn 300 người bị bắt, đày sang Linh Lăng (Hồ Nam, Trung Quốc).

Ở Nghệ, Tĩnh hình ảnh cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đến nay chỉ còn lưu lại trong vài truyền thuyết.

Truyền thuyết thứ nhất: Theo một số thần tích chép trong “Sơn Tây tỉnh

Page 23: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

23

chí” thì sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại, Tố nương, nữ tướng của Hai Bà quê huyện Yên Lạc, lạc mất chồng - cũng là một vị tướng quê huyện Hàm Hoan. Nàng quyết vượt biển về tìm quê chồng. Nhưng thuyền đến trước một cửa biển lớn - như bây giờ là Cửa Hội, thì thuyền không ghé được vào bờ mà dạt đến một cù lao nhỏ… Ngày ngày Tố nương chỉ biết lên núi, đứng trông vào bờ để tưởng nhớ chồng… Do đó cù lao này được gọi là Hòn Mắt - Hòn Nhãn, sách cổ thường chép là đảo Quỳnh Nhai.

Truyền thuyết thứ hai: Sau khi đánh thắng Hai Bà Trưng, tướng Đông Hán Mã Viện dựng cột đồng trên rú Rum (Lam Thành, có nơi phiên Dung sơn), làm cho dân ta rất căm tức. Trong vùng, có hai vợ chồng nhà kia thường ngày lên núi hái thuốc về sao chế, đưa ra chợ bán kiếm sống. Một hôm lên núi, tình cờ họ phát hiện ra cái cột đồng đáng nguyền rủa kia, và quyết định phải phá bỏ nó. Họ sắm chiếc cưa thật sắc, rồi bỏ công mấy ngày liền, lên cưa đứt cột đồng, gánh thả xuống rào Rum. Người trong vùng đều cảm phục. Lúc vợ chồng họ mất, dân lập miếu thờ, trong miếu có đôi quang gánh để nhớ nghề nghiệp làm ăn của Thần.4

Sách “Nghệ An cổ tích lục”, chép “Cửa sông Thiên Lộc có miếu thờ Trưng Vương”. Dựa vào đó, sách “Lịch sử Nghệ Tĩnh” (T.1) chép là “ở Cửa Sót huyện Thạch Hà có đền thờ Hai Bà Trưng”. Các sách ấy đều chép lầm. Ở “cửa sông Thiên Lộc” hay “Cửa Sót Thạch Hà” không có “đền thờ Trưng Vương” (hay “Hai Bà Trưng”) mà chỉ có đền thờ Chiêu trưng vương Lê Khôi và bên cạnh là miếu Thánh Mẫu Liễu Hạnh, thường gọi đền Nam Sơn.

*

* *

Sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, tình hình Giao Châu chưa bao giờ

4 Theo lời kể của cố GS Nguyễn Đổng Chi. Theo Thần tích đền làng Trung Thịnh trước là Trung Ca huyện Can Lộc, nay thuộc xã Thịnh Lộc, huyện Lộc Hà, thì “người cưa cột đồng Mã Viện” họ Hoàng, tên Cơ Thạch, Tổ sư nghề làm thuốc và nghề ca hát - có thần hiệu “Dực bảo trung hưng Linh phù bản cảnh Thành hoàng Linh ứng Đôn nhưng tôn thần”.

Page 24: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

24

ổn định, mặc dầu chính quyền đô hộ luôn thực hiện mọi biện pháp vừa đánh dẹp, vừa mua chuộc các thủ lĩnh người Việt để xoa dịu. Các thủ đoạn “Hán hóa” đều bất lực. Chính cái làng và tiếng Việt là công cụ chống “đồng hóa” và là điểm tựa của các phong trào chống ách đô hộ.

Suốt trong ba thế kỷ I - II - III các cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tục và phổ biến. Cuộc nổi dậy của Chu Đạt năm 157 giết các huyện lệnh, thái thú. Cuộc khởi nghĩa của Lương Long năm 178 có mấy vạn người, trong đó có dân Nhật Nam (vùng Nghệ Tĩnh bây giờ) tham gia, đánh chiếm các quận, huyện, làm chủ đất nước bốn năm (178-181). Đồng thời có các cuộc nổi dậy của binh lính người Việt (thế kỷ II), tiếp đến là cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu ở Cửu Chân năm 248. Ở vùng Nghệ -Tĩnh, dân nổi lên chống việc nhà Ngô bắt phải đưa 3000 con chim công sang nộp tại kinh đô Đại Nghiệp, để hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Lữ Hưng (khoảng năm 260) giết bọn Thứ sử Tiêu Tư, Đặng Tuân…

Đào Hoàng sang làm Thứ sử Giao Châu năm 269, đã đem quân đi đánh khắp nơi, “mở đặt hơn 30 huyện” (“Toàn thư”). Nhân đó, nhà Ngô tách phần nam Hàm Hoan, lập thêm quận Cửu Đức gồm 6 huyện, trong đó vùng Đức Thọ bây giờ nằm trong hai huyện Cửu Đức và Việt Thường, vùng Can Lộc là huyện Phù Lĩnh, vùng Nghi Xuân là huyện Dương Thành… Quận trị Cửu Đức đặt ở huyện Cửu Đức (Đức Thọ ngày nay). Hiện ở vùng này còn nhiều mộ Hán, chứng tích quận trị hồi ấy.

Năm 502, nhà Lương đổi Cửu Chân thành Ái Châu, Cửu Đức thành Đức Châu. Năm 542, Lý Bí (hay Bôn) khởi nghĩa đánh đuổi quân nhà Lương, xưng là Nam đế, lấy niên hiệu Đại đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Năm 543, vua Chămpa đem quân ra đánh phá Đức Châu (vùng Hà Tĩnh bây giờ) vua sai tướng Phạm Tu vào đánh đuổi. Năm 602, nước ta lại thuộc nhà Tùy.

Năm 605, vua nhà Tùy nghe nói nước Lâm Ấp có nhiều của báu, bèn phong Lưu Phương làm Hoan Châu đạo hành quân Tổng quản, sai sang đánh cướp. Lưu Phương sai Ninh Trường Châu đem một vạn quân bộ và quân kỵ xuất phát từ Việt Thường (vùng Đức Thọ bây giờ), còn mình thì thân suất bọn Đại tướng quân Trương Tốn đem quân thủy từ quận Tỵ Ảnh (có thể là từ Cửa Sót, Thạch Hà hoặc Cửa Nhượng, Cẩm Xuyên bấy giờ) đi

Page 25: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

25

đánh. Thắng trận, nhưng quân lính bị bệnh thũng chân, mười phần chết bốn năm phần, Phương cũng chết dọc đường (Toàn thư).

Năm 618, nước ta lại thuộc nhà Đường. Năm 711, lập Hoan Châu đô đốc phủ, đắp thành rất vững chãi. Để lấy lòng người, một hào trưởng là Dương Thanh được giao làm Thứ sử Hoan Châu (vùng Nghệ Tĩnh ngày nay). Dưới sự đô hộ vừa khôn khéo, xảo quyệt, vừa tàn bạo của nhà Đường, dân Giao Châu - An Nam nổi dậy liên tục, ngày càng mạnh mẽ, chống lại. Nhiều cuộc khởi nghĩa quy mô lớn nổ ra như khởi nghĩa của Lý Tự Tiến và Đinh Kiến (687), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722).

Mai Thúc Loan, quê gốc làng Mai Phụ (Thạch Hà) sang ở vùng Ngọc Trừng (Nam Đàn, Nghệ An). Ông dựng cờ khởi nghĩa ở vùng Sa Nam được dân các châu Hoan, Diễn, Ái hưởng ứng mạnh mẽ, nhanh chóng giải phóng địa bàn này rồi tiến ra Tống Bình (Thăng Long) đuổi bọn đô hộ Quang Sở Khách về nước. Mai Thúc Loan xưng đế, dựng đô ở thành Vạn An (Nam Đàn). Nhà Đường sai Dương Tự Húc sang đánh, vua Mai và hoàng tử (con cả) hy sinh… Theo truyền ngôn thì hoàng tử thứ hai xây dựng một căn cứ chống quân nhà Đường ở Ngàn Hống. Sử sách không ghi chép việc này, nhưng hiện nay, gia phả họ Mai ở Phù Lưu Thượng (nay là xã Hồng Lộc) chép thủy tổ là ông Cự, húy là Mai Tộ, thường gọi Chúa Hai, tức hoàng tử thứ hai, con vua Mai. Ở làng quê Mai Phụ (nay là xã Mai Phụ) cũng còn một chi họ Mai, và nhà thờ họ, nhưng con cháu không ai biết rõ gốc tích.

Tiếp sau cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan là các cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng (766-791), Dương Thanh (819-820) và cuối cùng là cuộc đấu tranh giành độc lập tự chủ của Khúc Thừa Dụ, Dương Diên Nghệ, Ngô Quyền (khoảng 905-944).

*

* *

Cùng với việc chống đô hộ phương Bắc, người Việt còn phải chống lại các cuộc cướp phá, xâm lấn của người Chàm ở phía nam. Vào năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh hòa nhà Tấn (346), vua Lâm Ấp là Phạm Văn chiếm toàn bộ đất quận Nhật Nam và đòi Thứ sử Giao Châu lấy dãy Hoành Sơn làm biên giới. Có lẽ Hoành Sơn trở thành biên giới Việt - Chiêm từ đó. Người

Page 26: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

26

Lâm Ấp xây lũy đá trên núi, kéo từ mũi Độc (Ngưu Sơn - Thần Đầu) lên tới Xuân Sơn - Vọng Liệu, dài khoảng 30km.

Bị tướng nhà Tùy là Lưu Phương đánh đuổi phải lùi sâu vào phía nam, nhưng đến đời Đường, người Lâm Ấp lại lấn ra Hoành Sơn. Sau đó, nhiều lần họ bị đẩy lùi, rồi lại đánh thắng, giữ được Nhật Nam, có khi lấn ra cả vùng bắc Hoành Sơn.

Sử chép: Năm Kỷ Hợi (399), mùa xuân, tháng ba, vua Lâm Ấp Phạm Hồ Đạt đánh lấy Nhật Nam và Cửu Chân, rồi cướp Giao Châu. Đỗ Viện, tướng nhà Tấn, đánh phá được. Năm Tân mùi (431), vua nước Lâm Ấp Phạm Dương Mại cướp quận Cửu Chân (Thanh, Nghệ, Tĩnh bây giờ), năm 432 lại xin nhà Tống cho lĩnh (để cai trị) Giao Châu. Quý mùi (803) quân Hoàn Vương (tức Lâm Ấp cũ, sau là Chiêm Thành), đánh chiếm hai châu Hoan, Ái, đặt người cai trị, cho đến năm Mậu tí (808) mới bị tướng nhà Đường là Trương Chu đẩy lùi vào đến gần đèo Hải Vân. Đến năm Ất tị (875), Chiêm Thành đóng đô ở Indrapua (Đồng Dương, Quảng Nam). Nhân khi nhà Đường suy rồi mất (936) Trung Quốc lâm vào cảnh nam bắc phân tranh, khoảng năm 907-910, người Chiêm Thành lấn ra chiếm vùng đất bắc Hoành Sơn (Kỳ Anh) ra tận núi Quỳnh Sơn, Cửa Sót (Thạch Hà) bây giờ, dài khoảng 15km đường chim bay. Phía tây nam đường “hào” tự nhiên (sông Ngàn Mọ) này người Chiêm Thành xây thành lũy để bảo vệ. Hiện nay còn dấu vết ngôi thành ở làng Đại Tăng (Cẩm Thạch) tương truyền là thành Chàm (?). Mút phía đông bắc là Rú Sót - Quỳnh Sơn. Vì vậy núi này có tên là Nam Giới - biên giới phía nam nước Việt. Ngày nay, ở phía nam núi Nam Giới - Cửa Sót còn có Rú Mốc, được phiên âm Mộc Sơn, trên địa bàn xã Thạch Đỉnh, sách cổ chép là Hữu Nam Giới. Người Chiêm cai quản vùng này ngót 70 năm, đến năm Nhâm ngọ (982) sau khi đánh thắng quân nhà Tống, vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) mới đưa quân vào phía nam, đánh đuổi người Chiêm vào tận Quảng Nam, giải phóng vùng đất phía nam Hà Tĩnh bây giờ, từ núi Nam Giới (Thạch Hà) đến núi Hoành Sơn (Kỳ Anh)5.

5 Sự kiện này “Toàn thư” và “Cương mục” không chép. Ở đây, chúng tôi theo “Dự thảo đề cương lịch sử tỉnh Hà Tĩnh” (BBS Lịch sử Hà Tĩnh soạn, in Rônêô, 1975).

Page 27: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

27

*

* *

Cho đến đầu thời Bắc thuộc, vùng đất Hà Tĩnh ngày nay còn là rừng rậm hoang vu, dân cư thưa thớt, ở thành từng nhóm nhỏ, sinh sống ở gần sông, biển. Ngoài di duệ của người Việt cổ, còn có một số nhóm dân tộc ít người mà sách cổ chép là “dân man”: Nhóm người man Dạ Lang, Văn Lang (“Thủy kinh chú”) người Lạo (“Nghệ An ký”); các nhóm người man Đạo Lận, Kiều Năng, Cá Lăng (“An Nam chí”)… Một trong những biện pháp thực hiện chính sách “Hán hóa” của nhà Hán và các triều đại Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường về sau là khuyến khích quan lại, binh lính ở lại đất Việt lập nghiệp lâu dài, và đưa dân đói, tù phạm sang ở xen với người Việt. Vào đầu công nguyên, dưới chính quyền Vương Mãng (8-23) nhiều quý tộc và dân thường trốn chạy sang cư trú ở Giao Chỉ, Cửu Chân. Liên tục về sau, ngoài quan lại, binh lính ở lại, còn có rất đông dân thường di cư sang đất Việt, nhất là khi Bắc quốc có biến cố lớn - thay đổi triều đại, chiến tranh, nạn đói… Số người Hán ngày càng đông, chiếm một tỷ lệ dân số không nhỏ. Nhưng chẳng những người Việt không bị đồng hóa, mà người Hán lâu ngày đều Việt hóa. Đến nay, gia phả nhiều dòng họ còn chép tổ tiên xa đời là người Hán.

Dân số Giao Chỉ, Cửu Chân ngày càng tăng. Theo sách “Tiền Hán thư”, thời ấy, quận Cửu Chân gồm 7 huyện, có 35.743 hộ, 166.013 nhân khẩu, nếu chia đều thì huyện Hàm Hoan (Nghệ - Tĩnh bây giờ), có 5.000 hộ với 27.000 nhân khẩu. Hai trăm năm sau, thời Đông Hán, theo sách “Hậu Hán thư” thì quận Cửu Chân có 46.513 hộ với 209.894 nhân khẩu, chia đều là huyện Hàm Hoan có 6.644 hộ với 29.985 nhân khẩu. Đến giữa thế kỷ thứ III, theo sách “Tùy thư” ở Nhật Nam (tương đương Nghệ Tĩnh bây giờ) có 9.915 hộ. Theo “Cựu Đường thư” và “Tân Đường thư” thì năm 700 dân số Hoan Châu (Nghệ Tĩnh) có 6.579 hộ với 16.689 nhân khẩu, năm 726 có 6.649 hộ, năm 740 có 6.629 hộ với 53.818 nhân khẩu. Tất nhiên những con số này còn thấp so với thực tế, vì chính quyền đô hộ không thể thống kê đầy đủ.

Đất rộng, người thưa, rừng rậm hoang vu, chim muông cây cỏ rất phong phú. Do đó nghề nghiệp chính của một bộ phận khá lớn cư dân thời

Page 28: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

28

đó là khai thác của rừng, chặt gỗ, săn thú quý, bẫy chim quý, lấy mật ong, hoa quả, cây thuốc… vừa để tự nuôi sống, vừa để cống nạp cho bọn đô hộ.

Vùng ven biển, dân sống bằng nghề đánh cá, làm muối… Ở vùng Kỳ La - Nhượng Bạn (Cẩm Xuyên) từng có miếu thờ ông Đông Đạo, tương truyền là một dân chài, đã sáng chế ra bánh lái thuyền; miếu thờ ông Trúc Lĩnh, và ông Dang Hùng, tương truyền là tổ sư truyền cho dân nấu nước biển lấy muối, trước khi người ta biết làm nại (ruộng) phơi nước biển lấy muối… Bà mẹ vua Mai Hắc đế cũng được coi là dân nấu muối ở Mai Phụ (Thạch Hà). Thời Văn Lang, dân làm “ruộng lạc (nước ?). Sử cổ Trung Quốc cũng từng chép: Người Việt ở Cửu Chân đã biết trồng lúa hai mùa, và năm 123, đời Hán Anh đế, “lúa ở Cửu Chân rất tốt, 150 gốc lúa được những 768 bông” (“Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn). Cùng với nghề trồng lúa, họ còn trồng nhiều loại rau màu khác, nhất là các giống khoai để làm lương thực. Ngoài ra dân còn biết nhiều nghề thủ công: Dệt vải, làm đồ gốm, đúc đồng, nghề mộc, nghề rèn, nghề đóng thuyền, đan lát… Giao thông thủy bộ dễ dàng hơn, việc trao đổi hàng hóa (nông, lâm sản) trong từng vùng khá thuận lợi, dần dần hình thành chợ búa.

Chế độ đô hộ chuyên chế và tàn bạo, nhưng quan lại phương Bắc chỉ nắm được quận, huyện, còn làng chạ thì không với tới được.

*

* *

Chiến thắng Bạch Đằng giang, đánh đuổi quân Nam Hán của Ngô Quyền năm 983 đã mở ra thời kỳ độc lập, tự chủ.

Trong thời kỳ này, vùng đất Hà Tĩnh vẫn thuộc Hoan Châu. Nhưng từ đây nhiều sự kiện chính trị, quân sự của đất nước có liên quan hoặc diễn ra ở vùng biên giới xa xôi này. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép mấy sự kiện quan trọng:

- Năm Nhâm ngọ (982) (nhiều sách khác chép 981) vua Lê Đại Hành thân đi đánh Chiêm Thành, phá hủy thành trì rồi kéo quân về (có tài liệu chép: Vua đánh đuổi người Chiêm vào tận Quảng Nam, nhân đó lấy vùng đất nam Hà Tĩnh đặt châu Thạch Hà - Xem chú thích 2).

- Năm 992 vua sai Phụ quốc Ngô Tử An đem ba vạn người mở đường

Page 29: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

29

bộ từ cửa biển Nam Giới đến châu Địa Lý. Đó là con đường bộ đầu tiên từ châu Thạch Hà, vượt Đèo Ngang vào vùng Quảng Bình bây giờ. Về sau, Hoàng giáp Bùi Dương Lịch có câu thơ nhắc lại sự kiện này: “Thạch thành Lâm Ấp trúc - Lục lộ Tử An binh” (Thành đá (trên Hoành Sơn) do người Lâm Ấp xây dựng - Đường bộ do ông Ngô Tử An mở).

- Năm 1002, vua Đại Hành đổi 10 đạo trong nước thành lộ, phủ, châu. Vùng đất Hà Tĩnh vẫn thuộc châu Hoan.

Sự kiện cuối cùng là sau khi Lê Đại Hành mất (1005), các con tranh nhau ngôi vua, Đông thành vương Long Tích thua chạy vào đất Cử Long, Ái Châu (có tài liệu chép chiếm Châu Diễn) bị Long Việt đuổi bắt phải trốn sang Chiêm Thành, nhưng bị người châu Thạch Hà giết ở cửa biển Cơ / Kỳ La - tức cửa Nhượng bây giờ. Năm 1009, Lê Long Đĩnh (Ngọa triều) đem quân vào đánh các châu Hoan Đường, Thạch Hà, đến Hoàn Giang, sai Phòng át sứ Hồ Thủ Ích đem 5000 quân của châu Hoan Đường sửa chữa đường từ châu giáp sông đến cửa biển Nam Giới. Lần này Long Đĩnh bắt một số người châu Thạch Hà đem về kinh đô, khi vua Lý Thái Tổ lên ngôi, họ mới được thả.

*

* *

Thời Lý - Trần là giai đoạn phát triển rực rỡ của nước Đại Việt. Cũng từ đó, vùng nam châu Hoan - đất Hà Tĩnh ngày nay, được coi là hiểm yếu phên giậu ở phía nam đất nước.

Lý Thái Tổ - Công Uẩn lên làm vua năm Kỷ dậu (1009). Năm sau, Canh tuất (1010) vua dời đô ra Thăng Long.

Tháng 12 năm ấy, đổi 10 đạo (đời Đinh) làm 24 lộ, châu Hoan, châu Ái làm trại. Lại lập trại Định Phiên ở nam giới châu Hoan (1025) cho Quản giáp Lý Thai Giai làm trại chủ. Theo sách “Nghệ An phong thổ ký” (Bùi Dương Lịch) thì đất trại Đinh Phiên ở huyện Kỳ Hoa, tức vùng Cẩm Xuyên, Kỳ Anh bây giờ. Ông Bùi cũng phỏng đoán có lẽ trại đặt ở núi Nam Giới.

Năm 1036, vua Thái Tông đặt hành dinh ở châu Hoan, đổi Hoan Châu làm châu Nghệ An.

Page 30: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

30

Nhà Trần khởi nghiệp năm Ất dậu (1225). Năm 1230 đổi lại quan ở phủ, lộ, đặt chức An phủ sứ và An phủ phó sứ. “Lịch sử Hà Tĩnh” (Tập I) chép: “Năm 1230-1231, nhà Trần đổi châu Nghệ An thành phủ và đổi trại Đinh Phiên thành châu Nhật Nam”. Năm 1242, “chia nước thành 12 lộ” (?) “đặt chức An Phủ hoặc Trấn phủ chánh phó hai viên để cai trị” (?). Các xã, sách thì đặt chức đại, tiểu tư xã. Từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống là tiểu tư xã, cùng xã chính, xã sử, xã giám, gọi là xã quan. Làm sổ hộ khẩu và định lệ tô thuế. Năm 1244, sai quan đi trị nhậm lộ, phủ 12 nơi, phủ có Tri phủ, lộ có Thông phán, châu có Tào vận sứ và phó sứ. Năm 1375, đời Nghệ tông, đổi châu Diễn làm lộ Diễn Châu, châu Hoan làm các lộ Nhật Nam, Nghệ An Nam, Nghệ An Trung, Nghệ An Bắc. Đất Hà Tĩnh có lẽ tương ứng với lộ Nhật Nam (Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh ngày nay) và Nghệ An Nam (Hương Sơn, Vũ Quang, Hương Khê, Đức Thọ, Nghi Xuân, Can Lộc… ngày nay). Năm 1397 đời Thuận Tông lại đổi trấn Diễn Châu làm trấn Vọng Giang, trấn Nghệ An làm trấn Lâm An (chưa tra cứu được “lộ” đổi thành “trấn” từ bao giờ).

*

* *

Dưới triều Lý biên giới Việt - Chiêm đã ở bắc Quảng Trị, và cuối đời Trần là ở Thuận Hóa (Thừa Thiên). Đó là cuộc Nam tiến đầu tiên của người Việt, theo quy luật lịch sử. Vùng Nghệ An (Nghệ Tĩnh) không còn là biên giới cực nam, nhưng các triều Lý - Trần vẫn luôn coi vùng này là đất hiểm yếu.

Nhà Lý cũng như nhà Trần đều cử những người tài năng và tin cậy cai quản vùng này, trong đó có hai hoàng tử Lý Nhật Quang và Trần Quang Khải.

Năm Tân Tị (1041) vua Lý Thái Tông sai Uy Minh hầu Lý Nhật Quang vào làm Tri châu Nghệ An. Nhật Quang, húy Hoảng, hoàng tử thứ 8 của vua Thái Tông, em Thánh Tông, là người có tài văn võ. Ở làng Tả Ao (nay thuộc thị trấn huyện Nghi Xuân) đã phát hiện một di tích khảo cổ thời Lý. Nhiều nhà khoa học cho Tả Ao là châu lỵ Nghệ An thời ấy. Nhưng cũng có tài liệu nói châu lỵ ở núi Quả, xã Bạch Đường, sau dời về núi Đà, xã Bụt Đà, huyện Đô Lương, Nghệ An, căn cứ vào ngôi đền chính thờ Uy Minh

Page 31: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

31

vương là ở núi Quả.

Trần Quang Khải là hoàng tử thứ ba của vua Trần Thái Tông. Năm Mậu ngọ (1258), 17 tuổi, ông được phong là Chiêu Minh đại vương. Năm Tân dậu (1261), dưới triều Thánh Tông, 21 tuổi, ông đã giữ chức Thái úy, nắm giữ binh quyền, sau đó được cử vào cai quản Nghệ An (Nghệ Tĩnh). Ở trấn, Trần Quang Khải lo chấn chỉnh binh nhung, giữ yên bờ cõi, chăm lo việc yên dân, thu phục hào kiệt, được dân hết lời ca ngợi.

Ngoài các trọng thần, hoàng thân được cử vào cai trị Nghệ An, triều đình còn sai các quan văn võ như Thái úy Tô Hiến Thành (Lý), Sát hải tướng quân Hoàng Tá Thốn (Trần) đi tuần sát trên đất liền hoặc ven biển.

Hiện nay, tại Nghệ An, Hà Tĩnh có rất nhiều đền, miếu thờ Uy Minh vương Lý Nhật Quang, Lý Thái úy Tô Hiến Thành, Thượng tướng Trần Quang Khải, Sát hải tướng quân Tô đại liêu Hoàng Tá Thốn…

*

* *

Theo Thần tích “Uy Minh đại vương” trong sách “Việt điện u linh” thì thời Lý, châu Nghệ An gồm 6 huyện, 4 trường, 60 giáp, 46450 hộ, 54364 nhân khẩu. Uy Minh vương Lý Nhật Quang đi tuần vùng biên giới, thu phục thêm được 5 châu, 22 trại, 56 sách.

Từ đó dân số càng ngày càng tăng. Ngoài quan lại, binh lính đến trị nhậm, đồn trú rồi ở lại lập nghiệp, còn có rất đông dân phiêu tán từ vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã, châu Diễn, vào làm ăn, sinh sống, lại có cả tù phạm bị lưu đày đến đây. Ngoài người Việt, lại có một số người Chăm, người Hán… Họ đều chọn vùng đất này làm quê mới. Vào những lúc trong nước có biến động bởi chiến tranh, giặc giã, đói kém… số người đến càng đông.

Theo một số thần tích, truyền ngôn, Lý Nhật Quang vào cai quản châu Nghệ An đã đưa một số lưu dân, tù phạm, có cả tù binh Chiêm khai phá lập lên nhiều thôn xóm như vùng làng Ngang (Nam Đàn), Tam thôn, Chế thôn (Đức Thọ)… Khi nhà Lý suy vong, chắc cũng có nhiều quý tộc, quan lại chạy vào đây. Đời Trần người họ Lý bị buộc phải đổi thành họ Nguyễn nên nay không biết rõ.

Page 32: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

32

Đời Trần, người vào đây càng đông. Riêng ở Hà Tĩnh, lịch sử và gia phả còn chép tổ tiên nhiều dòng họ đến từ thế kỷ XIII, XIV. Họ Hà (Tỉnh Thạch) là con cháu của Hà Tông Mại, võ tướng nhà Trần vào đồn trú rồi ở lại vùng núi Phượng Hoàng (Cẩm Xuyên) sau con cháu mới dời ra Thiên Lộc và nhiều nơi khác. Đến đây từ đời Trần còn có tổ tiên họ Nguyễn ở Phù Lưu - Ba Xã, họ Đặng ở Đông Rạng, họ Sử, họ Thái ở Bình Lãng Thượng, họ Bùi ở Kiệt Thạch sau dời sang Độ Liêu… (Thiên/Can Lộc); Các họ Lê, Nguyễn, Phạm, Trần, Bùi, Bạch ở Tường Xá, họ Bùi gốc họ Phí ở Nhân Thi, họ Bùi ở Việt Yên Hạ, các họ Phan Tùng Mai và Yên Mỹ ở Tùng Ảnh, họ Phan Đăng ở Thái Yên, họ Hoàng ở Kẻ Trổ, họ Nguyễn ở Bà Hồ… (Chi La, Đức Thọ); Cùng đến Bà Hồ, còn có Trạng nguyên Đào Tiêu quê Thanh Hoa; Khôi nguyên Đoàn Xuân Lôi (bị đày cận châu), tổ hai dòng họ Đào, Đoàn. Họ Nguyễn Đức - Nguyễn Chi ở Ba Xã vốn dòng dõi Thượng tướng Trần Quang Khải, hoàng tộc Trần. Sau khi nhà Trần mất ngôi, nhiều hoàng thân quốc thích, văn thần võ tướng đổ vào vùng này. Đó là anh em Trần Đạt, Trần Duy; Trần Thị Ngọc Tranh (tức Ngọc Hào, Bạch Ngọc hoàng hậu) ở Phi Cảo; Nguyễn Tất Vinh, Nguyễn Tất Điệt ở Đông Lỗ, Lê Bôi ở Quyết Viết v.v…

Cũng đến đây vào khoảng thời gian ấy, có người họ Dương, sứ thần nhà Minh sang, bị kẹt, lấy vợ Việt, ở lại vùng Kỳ La (Cẩm Xuyên) đến đời Lê mới về Bắc. Người con trai thứ hai là Dương Phùng ở lại với mẹ, sau con cháu mới ra Thạch Hà…

Dân số tăng dần, nhiều vùng đất hoang vu, người ở thưa thớt, đã thành làng xóm. Nhiều ấp, trại dăm ba nóc nhà đã thành thôn, xã. Không chỉ đồng bằng ven sông, vùng cửa biển, mà cả vùng rừng núi. Dọc lưu vực sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố, đời Lý mới là hương Đỗ Gia - đơn vị cư dân - hành chính nhỏ, đến đời Trần đã là huyện Cổ Đổ (Hương Sơn) và Thổ Hoàng (Hương Khê). Trại Định Phiên đời Lý trở thành hai huyện Kỳ La (nay là Cẩm Xuyên) và Hà Hoa (nay là Kỳ Anh) đời Trần. Các huyện Nha Nghi, Phi Lộc, Chi La và châu Thạch Hà (tức các huyện Bàn Thạch, Hà Hoàng) cũng ngày càng đông đúc.

*

* *

Page 33: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

33

Trong 400 năm dưới các triều đại Lý - Trần (1010-1400), kinh tế, văn hóa có những bước phát triển đáng kể. Năm 1037 vua Lý Thái Tông “xuống chiếu cho châu Nghệ An dựng các kho Tư thành, Lợi nhân, Vinh phong ở trong châu cả thảy 50 sở” để chứa thóc tô thuế. Điều đó nói lên nông phẩm đã khá dồi dào. Dưới triều Trần vẫn chưa thấy chứng tích về đại điền trang của các vương hầu. Như vậy là nông dân vẫn tự do cày cấy trên ruộng đất mình khai khẩn và nộp thuế cho Nhà nước.

Cùng với nông nghiệp, các nghề rừng, nghề biển và nghề thủ công đều có bước phát triển. Ngoài các chợ nhỏ ở thôn quê, đã có các tụ điểm buôn bán ở huyện lỵ, châu lỵ.

Đường thủy, bộ từ châu đến huyện đều thông suốt. Đặc biệt, con đường bộ xuyên Việt mở từ thời Tiền Lê tiếp tục được bồi trúc. Lần cuối là vào năm 1375 đời Trần Duệ Tông, đắp sửa đoạn đường từ Cửu Chân (Thanh Hoa) đến Hà Hoa (Kỳ Anh ngày nay), Đường thủy cho đến cuối đời Trần chỉ mới thông đến cửa Kỳ La (Cửa Nhượng) (Cẩm Xuyên). Vua Duệ Tông cũng sai đào kênh Na, kênh Rác mở thông đến cửa biển Hà Hoa (Hà Hoa hải khẩu, thường gọi cửa Khẩu (Kỳ Anh).

Dưới các triều Lý - Trần là thời kỳ phát triển rực rỡ của văn hóa Đại Việt. Năm 1070, vua Lý Thánh Tông lập Văn miếu thờ Thánh sư Khổng phu tử. Năm 1075 vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Nho học đầu tiên gọi là khoa “Tam trường”, cũng gọi là khoa “Minh Kinh”. Năm 1076 vua mở trường Quốc tử giám ở Thăng Long cho con em quý tộc và quan chức.

Nếu lấy khoa bảng làm mốc thì Diễn, Hoan chậm hơn Thăng Long và phụ cận tới 200 năm. (Người đỗ đại khoa đầu tiên ở châu Diễn là Trạng nguyên Bạch Liêu6 khoa Bính dần đời Trần Thánh Tông (1266). Người đầu tiên đỗ Trạng nguyên ở châu Hoan là Đào Tiêu, khoa Ất hợi đời Trần 6 Bạch Liêu (1263-1315) người làng Nguyễn Xá, châu Diễn; sau khi đỗ không làm quan, chỉ là môn khách của Thượng tướng Trần Quang Khải. Các sách chép về sau ông về sống và dạy học ở Nghĩa Lư, Hải Đông (Hải Dương). Theo chúng tôi thì ông về xã Nghĩa Liệt, nay là xã Hưng Phú, huyện Hưng Nguyên (Nghệ An). Hiện ở làng Vệ Chính, Hưng Phú có nhà thờ ông và các chi họ Bạch ở Hưng Lam (Kẻ Sét, Nghĩa Liệt cũ), Tường Xá và một số xã ở Đức Thọ… là dòng dõi của ông. Mộ ông táng dưới núi Hồng Lĩnh, địa phận xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1993.

Page 34: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

34

Thánh Tông (1275) và Trạng nguyên Sử Hy Nhan đỗ khoa Quý mão đời Trần Dụ Tông (1363). Như vậy, cuối đời Trần, ở vùng bắc Hà Tĩnh bây giờ, chủ yếu là hai huyện Chi La, Phi Lộc, việc học đã khá thịnh.

Phật giáo ở nước ta đã có vai trò rất lớn từ đời Đinh, Lê, đến Lý, Trần thì trở thành quốc giáo. Ở châu Nghệ An thời Lý cũng đã có nhiều chùa lớn: chùa Phật Bà ở Nhân Trung (Bồi Sơn - Đô Lương), chùa làng Ngang (Nam Đàn), chùa Bụt Đà (Đô Lương)…, chùa Hoa Tạng (Uyên Trừng, thường gọi chùa Dằng trên núi Hồng Lĩnh), chùa Nghèn với ngôi “Cửu diện tháp”, chùa Quốc Thanh (chưa xác định được ở vùng nào) v.v… Đời Trần có các chùa Yên Quốc trên núi Lam Thành, chùa Hương Tích “Hoan châu đệ nhất danh lam”, chùa Thiên Tượng (đều ở núi Hồng Lĩnh), chùa Ân Quang tức chùa Gành ở Phù Thạch (Đức Thọ), chùa Om Hạ tức chùa Rối (Cẩm Xuyên) v.v… Theo nghiên cứu của chúng tôi thì vùng núi Hồng Lĩnh là trung tâm Phật giáo thời Lý - Trần ở phía nam Đại Việt.

*

* *

Kinh tế, văn hóa phát triển, nhưng suốt 400 năm, nhiều lúc vùng đất này vẫn không yên ổn.

- Hầu như thường xuyên châu Nghệ An - châu Hoan bị người Champa, người Chân Lạp quấy phá, bắt người, cướp của, có khi quân triều đình đi đánh dẹp cũng bị họ đánh bại. Chỉ riêng các vụ cướp phá lớn mà sử sách ghi chép, cũng không ít: Dưới triều Lý Thần Tông, năm 1128, hai vạn người Chân Lạp cướp Ba Đầu, rồi 700 thuyền Chân Lạp cướp hương Đỗ Gia, sau đó Chiêm Thành, Chân Lạp tiếp tục cướp phá châu Nghệ An vào những năm 1132, 1137. Đời Lý Anh Tông, năm 1150, Chân Lạp vào cướp, đến Vụ Thấp (nay là Vũ Quang) bị chướng khí chết nhiều nên phải rút lui. Đời Lý Cao Tông, Lý Huệ Tông, Chiêm Thành cướp Nghệ An vào những năm 1177, 1203, 1216. Riêng năm 1203, vua Chiêm Thành Bố Trì đưa quân vào cửa Kỳ La, nói là bị chú đuổi, ra xin cứu giúp, rồi nhân lúc sơ hở, đánh tan quân triều đình ở Nghệ An, cướp bóc rồi về… Đời Trần, năm 1380, người Chiêm lại vào cướp Thanh, Nghệ…

- Hàng chục cuộc hành quân chinh phạt cũng đi qua vùng này. Đó là lần vua Lý Thái Tông vào dẹp cuộc khởi loạn ở châu Hoan năm 1031. Nhiều

Page 35: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

35

nhất là những cuộc đi đánh Chiêm Thành của Hoàng tử Lý Phật Mã (sau là vua Thái Tông) năm 1020, của vua Lý Thái Tông năm 1044, của vua Lý Thánh Tông năm 1069, của Lý Thường Kiệt năm 10757, của Tô Hiến Thành năm 1167, của Trần Thái Tông năm 1252, của Phạm Ngũ Lão năm 1318, và cuối cùng là cuộc thân chinh thất bại của vua Trần Duệ Tông năm 1377, mà dấu tích còn được ghi lại là ngôi đền thờ Chế Thắng phu nhân ở cửa bể Kỳ Hoa (Kỳ Anh).

- Ba lần chống quân Nguyên - Mông thì lần thứ hai (1285) diễn ra trên đất châu Hoan. Đó là việc tháng giêng năm Ất dậu (1285), 50 vạn quân Nguyên do Đại vương Giảo Kỳ, Hữu thừa Toa Đô, Tả thừa Tang-gu-tai, Tham chính Khê-đê chỉ huy từ Chiêm Thành tràn qua đèo Ngang ra Nghệ An, đẩy lùi quân nhà Trần ra Thanh Hoa… Nhưng giặc chỉ đi qua, không ở lại lâu. Theo sách “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII” “của Hà Văn Tấn - Phan Thị Tâm - NXB KHXH Hà Nội) thì lực lượng chiến đấu lúc này là quân các vương hầu và các phủ, lộ từ Thanh Hoa trở ra. Để đề phòng mặt nam và làm lực lượng dự trữ, “vua Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã để một số quân lớn trấn giữ ở miền Diễn Châu và Nghệ An (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay)”. Vì vậy mà lúc mới ra quân, vua Nhân Tông đã viết vào đuôi thuyền hai câu thơ:

“Cối Kê cựu sự quân tu ký Hoan Diễn do tồn thập vạn binh” (Cối Kê việc cũ ngươi nên nhớ, Hoan Diễn còn kia chục vạn quân)

*

* *

Năm Canh Thìn (1400), nhà Trần mất. Hồ Quý Ly lên ngôi vua, lập ra nhà Hồ rồi nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương. Nhà Minh nhân cơ hội này sang cướp nước ta, cai trị trong 20 năm (1407-1427). Từ ấy, nhiều sự kiện lớn diễn ra trên vùng đất nam Nghệ An (Hà Tĩnh ngày nay), và địa 7 Trong cuộc đi đánh Chiêm này, có vị tướng về đến núi Hồng Lĩnh thì mất, được dân lập đền thờ (ở hai xã Thiên Lộc, Phúc Lộc hiện nay), thần hiệu là “Đô Nam nhạc Ô Trà sơn chi thần”.

Page 36: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

36

bàn này trở thành một trong những trung tâm kháng chiến, chống xâm lược và đô hộ.

Sử chép: (Năm Đinh hợi (1407), sau trận Lỗi giang (Thanh Hoa) họ Hồ định chảy vào Tân Bình (nhưng) “ngày 5 tháng 5, quân Minh đánh cửa biển Kỳ La, châu Nhật Nam (tức Cửa Nhượng)… bắt được Hữu tướng quốc là Quý Tỳ và con là Phán trung đô Nguyên Cửu”… “Tháng 11, quân Minh đánh Vĩnh Ninh bắt được Quý Ly ở ghềnh Chảy Chảy”… “bắt được Tả tướng quốc Trừng ở cửa biển Kỳ La”… “Ngày 12… bắt được Hán Thương và Thái tử Nhuế ở trong núi Cao Vọng” (Hà Hoa - Kỳ Anh bây giờ).

Nhà Hồ mất, nhưng nhân dân khắp nước liên tục nổi dậy chống giặc Minh, tiêu biểu nhất là các cuộc kháng chiến của Giản định đế Trần Ngỗi, Trùng quang đế Trần Quý Khoáng mà sử chép là Nhà Hậu Trần.

Từ tháng 4 năm 1407, khi chưa chiếm toàn bộ đất nước ta, nhà Minh đã đổi tên thành quận Giao Chỉ, dưới quận là phủ, châu, huyện. Phủ Nghệ An lĩnh 4 châu, 13 huyện. Trong 4 châu thì châu Hoan là đất nam Nghệ An và bắc Hà Tĩnh. Trong 13 huyện các huyện thuộc Hà Tĩnh ngày nay là Nha Nghi (Nghi Xuân), Chi La (Đức Thọ), Phi Lộc (Can Lộc), Cổ Xá (Hương Sơn), Thổ Hoàng (Hương Khê) thuộc châu Hoan; Bàn Thạch (Thạch Hà), Kỳ La (Cẩm Xuyên), Hà Hoa (Kỳ Anh), thuộc châu Nam Tĩnh (“Đại Việt địa dư toàn biên”). Phủ lỵ Nghệ An đặt tại Lam thành (nay là xã Hưng Phú, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An).

Sau cuộc kháng chiến của nhà Hậu Trần, nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ liên tiếp nổ ra khắp nơi trong nước. Tại châu Hoan, Nguyễn Tuấn Thiện quê ở thôn Phúc Đậu, đứng ra lập đội quân rú Cốc ở huyện Cổ Đỗ (Đỗ Gia) để chống giặc, bảo vệ xóm làng, Nguyễn Biên, quê huyện Phi Lộc, vào tổ chức căn cứ Động Choác, huyện Kỳ La, đánh tan cuộc tấn công của quân Minh, giải phóng hoàn toàn các huyện ở châu Nam Tĩnh. Lại có Phan Liêu, con Phan Quý Hựu ở Thạch Hà, cha con đầu hàng làm tay sai cho giặc. Quý Hựu chết, Liêu tiếp tục làm thổ quan, nhưng không chịu nổi sự ức hiếp, nổi dậy giết quan nhà Minh ở Nha Nghi, ra vây thành Nghệ An, sau phải lùi lên hoạt động ở châu Ngọc Ma…

Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hoa. Tháng 10/1424,

Page 37: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

37

nghĩa quân Lam Sơn tiến vào Nghệ An, xây dựng căn cứ địa Đỗ Gia (1425-1427). Các đội quân của Nguyễn Tuấn Thiện (Đỗ Gia) Nguyễn Biên (Kỳ La) đều gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Các đội quân của Lộ Văn Luật, Phan Liêu ở Ngọc Ma và 8000 quân của Tri phủ Ngọc Ma Cầm Quý cũng về quy phụ. Trong hai năm, căn cứ Đỗ Gia từ động Tiên Hoa, bờ nam sông Ngàn Phố mở rộng đến thành Lục Niên trên núi Thiên Nhẫn, bờ bắc. Quanh căn cứ là những khu khai hoang rộng lớn đủ đảm bảo lương thảo cho quân gia. Chính tại đây, nghĩa quân đã đánh tan tác đội quân lớn của Trần Trí từ thành Nghệ An kéo lên hòng tiêu diệt căn cứ ngày 14/5/1425. Và từ đây, nghĩa quân xuống vây thành Nghệ An, vào giải phóng Tân Bình, ra giải phóng Diễn Châu, Thanh Hoa… tiến lên giải phóng hoàn toàn đất nước.

Bình Định vương Lê Lợi lên ngôi, tức vua Thái Tổ, vào năm 1428, chia nước thành 5 đạo, dưới đạo vẫn là trấn, lộ, phủ, huyện, châu, xã. Phủ Nghệ An (Nghệ An, Hà Tĩnh) thuộc đạo Hải Tây. Năm 1466 vua Lê Thánh Tông chia lập thành 12 đạo, đến năm 1469, định lại bản đồ cả nước, đổi 12 đạo thành 12 thừa tuyên, đổi lộ làm phủ, trấn làm châu, dưới là huyện, xã, thôn, sở, trang, phường, sách, trại. Đất Hà Tĩnh lúc ấy thuộc Thừa tuyên Nghệ An gồm 2 phủ, 6 huyện. Trong đó, phủ Đức Quang có 4 huyện (nay thuộc Hà Tĩnh) là: La Sơn (Đức Thọ), Thiên Lộc (Can Lộc), Nghi Xuân, Hương Sơn (Hương Sơn, Hương Khê).

Phủ Hà Hoa có 2 huyện: Thạch Hà và Kỳ Hoa (Cẩm Xuyên, Kỳ Anh)

Lúc này biên giới Việt - Chàm đã là đèo Hải Vân, nhưng nhà Lê vẫn coi Nghệ An là vị trí chiến lược quan trọng, và theo Nguyễn Trãi, là “phên giậu thứ ba ở phương nam”.

Thời Lê sơ (1428-1527) nhất là dưới thời Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông, đất nước ổn định, nông nghiệp phát triển nhờ các chính sách “quân điền”, “ngụ binh ư nông”, “lập đồn điền” v.v… Nho giáo có vai trò quan trọng, việc học phát triển. Trong vòng 100 năm triều đình mở liên tiếp 18 khoa thi hội, trên vùng đất Hà Tĩnh bây giờ đã có 40 vị đỗ Tiến sĩ, trong đó rất nhiều vị quê quán từ Thạch Hà vào đến Kỳ Hoa là vùng xa xôi, hẻo lánh.

Thời gian này, trên đất phía nam Nghệ An chỉ có một sự kiện quan

Page 38: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

38

trọng của triều đình diễn ra là cuộc thân chinh đi đánh Chiêm Thành của vua Lê Thánh Tông năm 1470-1471. Cuộc viễn chinh đến nay còn để lại nhiều dấu tích: - Các đoạn sông được đào nắn thẳng trên con đường thủy qua Đò Trai, Dao Tác, Thượng Trụ (Đức Thọ, Can Lộc) - Các đền thờ Thánh mẫu Quang Thục hoàng hậu ở trang Đồng Cần (nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh) và ở Kẻ Trộn (nay là Hoàng Vân, xã Cẩm Dương, Cẩm Xuyên); đền thờ Chế Thắng phu nhân ở Hải Khẩu (nay là xã Kỳ Ninh, Kỳ Anh) những nơi vua đi qua và nghỉ lại lâu… - Và nhiều nhất là hàng chục bài thơ “ngự chế”, đến nay là những văn liệu, sử liệu quý giá.

*

* *

Thời Mạc và Lê trung hưng kéo dài ngót 350 năm, là thời kỳ xã hội không ổn định, kinh tế sút kém, giặc giã nổi lên, các thế lực phong kiến tranh giành quyền lực, chiến tranh liên miên, đất nước bị chia cắt, đời sống nhân dân vô cùng khốn đốn. Hai cuộc nội chiến kéo dài làm cho tình hình càng rối loạn.

- Cuộc chiến tranh Lê - Mạc (1540-1596) chủ yếu diễn ra ở bờ bắc sông Cả. Chỉ vài lần có những việc liên quan đến vùng Hà Tĩnh bây giờ: Vào tháng bảy năm Tân tị (1571) Mạc Kính Điển đem quân vào, tướng nhà Lê là Nguyên Quận công Nguyễn Bá Quýnh chạy trốn. Cả Nghệ An (Nghệ Tĩnh) lọt vào tay quân Mạc. Một lần khác, vào tháng sáu năm Giáp tuất (1574) tướng thủy quân nhà Lê là quận Hoành thua trận, bỏ thuyền chạy bộ theo đường thiên lý qua Đại Nài vào Kỳ Hoa để trốn vào Bố Chính, bị tướng nhà Mạc Nguyễn Quyện đuổi theo bắt được.

- Cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn xảy ra 7 đợt kéo dài 47 năm (1627-1672). Nhưng chỉ có đợt thứ 5 (1655-1658) và đợt thứ 6 (1660) diễn ra ác liệt trên vùng đất Hà Tĩnh bây giờ, khi quân Nguyễn chiếm 7 huyện bờ nam sông Cả (Kỳ Hoa, Thạch Hà, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Giang, Hương Sơn, Thanh Giang).

Tháng tư năm Ất mùi (1655), chúa Nguyễn Phúc Tần sai các tướng Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật đánh úp quân Trịnh ở Bố Chính để báo thù việc chúa Trịnh Tráng sai Lê Văn Hiểu vào đánh quân Nguyễn năm 1648. Tướng Trịnh Phạm Tất Toàn đầu hàng. Quân Nguyễn thừa

Page 39: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

39

thắng đánh thẳng ra đèo Ngang, dinh Hà Trung (Kỳ Hoa). Tiến Quận công Lê Văn Hiểu và Đông Quận công Lê Hữu Đức có hàng chục vạn quân trong tay, đều bỏ chạy về Yên Trường (Vịnh dinh), hôm sau mới quay vào đóng quân ở Đại Nài (TP. Hà Tĩnh bây giờ) để chống giữ. Chúa Trịnh gọi Hiểu và Đức về, sai Khê Quận công Trịnh Trượng vào Hà Trung, nhưng rồi lại rút về Lạc Xuyên (sông Rác). Thủy quân Nguyễn đánh Cửa Nhượng, Cửa Sót. Tướng Trịnh Vũ Văn Thiêm lùi ra cửa Hội, Nguyễn Hữu Sắc bỏ chạy, Lê Nhân Hậu vừa đánh vừa lùi. Trịnh Trượng cũng chạy về Yên Trường, bỏ trống các huyện nam sông Cả. Ninh quận công Trịnh Toàn được sai vào Nghệ An nhưng khi đến nơi thì quân Nguyễn đã lui nên ông lại trở về kinh. Vũ Văn Thiêm được lưu lại làm Trấn thủ Nghệ An. Quân Trịnh được bố trí giữ vùng Bãi Vọt (Bình Lãng, Minh Lang). Tháng giêng năm sau (1656), quân Nguyễn từ Hà Trung bất ngờ kéo ra đánh úp các đồn quân Trịnh ở Bãi Vọt. Quân, tướng Trịnh thua chạy tan tác. Nguyễn Hữu Tiến đóng quân lại Tam Chế. Nguyễn Hữu Dật tiếp tục đuổi quân Trịnh, lại đánh thắng cả thủy quân của Vũ ở Nghệ An. Đến tháng năm quân Nguyễn đánh cửa Nam Giới (Cửa Sót) và cửa Đan Nhai (Cửa Hội) thủy quân Trịnh thua to. Đào Quang Nhiêu bị vây ở Hương Bộc (Thạch Hà). Ninh quận công Trịnh Toàn đốc quân tiến đánh, Quang Nhiêu mở cửa trại đánh ra, quân Nguyễn thua chạy bị chặn đánh ở Đại Nài thì hoàn toàn tan vỡ. Trịnh Toàn rút về đóng ở Yên Trường. Từ đó vùng nam sông Cả mới yên.

Năm Canh Tý (1660), tháng 8, quân Nguyễn lại đánh ra Nghệ An. Chiến sự diễn ra ác liệt tại vùng Mỹ Dụ (Hưng Nguyên), Hoa Viên (nay là xã Xuân Viên), An Lạc (nay là Thị trấn Xuân An), cửa Hội Thống, quân Nguyễn thua to. Tháng một, quân Nguyễn lại thua ở Cương Gián (Nghi Xuân), Yên Điềm (Thiên Lộc) và bị đuổi đến cửa Nhật Lệ (Quảng Bình). Sau trận thắng này, Đào Quang Nhiêu được cử làm Trấn thủ Nghệ An, đóng tại dinh Cầu.

Đầu đời Lê trung hưng, trấn Nghệ An kiêm lý châu Bố Chính. Khoảng tháng 12/1631, Tây Quận công Trịnh Tạc (sau là chúa Tây Định vương) trấn giữ Nghệ An, lấy Tiến sĩ Giang Văn Minh làm Đốc thị. Lúc này trấn lỵ còn ở Lam thành. Sau đó, để tiện việc cai trị, triều đình Lê - Trịnh quyết định lập thêm trấn lỵ thứ hai ở phía nam, đóng tại làng Biểu Duệ xã Hà

Page 40: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

40

Trung (về sau, có thể khi Phạm Đình Trọng làm Đốc suất, trấn thành dời về thôn Cầu Thị, cùng xã, nên cũng gọi Dinh Cầu (?). Các ty Thừa chính, Hiến sát vẫn ở Lam thành. Dinh Hà Trung là một trấn dinh quân sự, Trấn thủ hoặc Đốc suất phần nhiều là võ tướng. Số quân ở dinh có khi lên đến gần chục vạn, đóng ở vùng Biểu Duệ - Cầu Thị (nay là các xã Kỳ Tân, Kỳ Châu) gọi là Tả trấn dinh. Khoảng một vạn quân đóng ở Đèo Ngang - Hoành Sơn gọi là Hữu trấn dinh. Từ khi Đào Quang Nhiêu làm Trấn thủ, dinh Hà Trung được củng cố thành một trấn lỵ có quy củ và vững vàng ở phía nam.

*

* *

Năm Bính ngọ (1786) Nguyễn Huệ đưa quân ra đánh chiếm Phú Xuân, Thuận Hóa, rồi thừa thắng ra Bắc Hà diệt họ Trịnh với danh nghĩa “phù Lê”. Nguyễn Hữu Chỉnh lĩnh quân đi trước, đến đây cho vài trăm du binh đổ bộ để dương thanh thế. Trấn thủ Bùi Thế Toại liền đốt dinh trại Dinh Cầu chạy trốn. Đầu tháng sáu, quân của Tiết chế Nguyễn Huệ ra đến cửa biển Kỳ Hoa (Cửa Khẩu), sai Nguyễn Như Thái, em rể Nguyễn Hữu Chỉnh, tạm quyền làm Trấn thủ Nghệ An, thu nhặt tàn quân đưa về đóng đồn ở Dũng Quyết (Bến Thủy). Từ đó, Dinh Cầu không còn là trấn lỵ Nghệ An nữa.

Dưới triều Tây Sơn, các tướng Nguyễn Duệ, Vũ Văn Dũng, Vũ Văn Nhậm, Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn Thận lần lượt làm Trấn thủ Nghệ An, đóng ở Lam thành. Trấn lỵ không còn ở Dinh Cầu nhưng nhà Tây Sơn vẫn giữ Trại Voi, nơi huấn luyện voi chiến đời Lê (sau là xã Tuần Tượng, nay thuộc xã Kỳ Phong, Kỳ Anh), giao cho Nguyễn Tiến Thiện cai quản, và đồn Đại Nài ở huyện Thạch Hà, nay thuộc TP. Hà Tĩnh. Đại Nài là đồn binh lớn, hậu cứ của Dinh Cầu đời Lê. Nhà Tây Sơn đặt ở Đại Nài một Khâm sai, cai quản các đồn phía tây như đồn Quy Hợp (Hương Khê), đồn Ngàn Phố (Hương Sơn)…

Lúc này, đám “cố Lê thần tử” ở Nghệ An phân hóa thành hai phái, kể cả trong từng gia đình như nhà họ Nguyễn Tiên Điền. Riêng ở địa bàn Hà Tĩnh bây giờ, trong phái chống đối, có những người chỉ tỏ thái độ chính trị (như Trần Duy Tự, Nguyễn Du, Nguyễn Hành v.v…) có những người cầm

Page 41: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

41

quân đánh Tây Sơn (như Ngô Cảnh Hoàn, Nguyễn Công Tấn, Bùi Bật Trực, Trần Phương Bính, Nguyễn Tiến Lâm, Nguyễn Quýnh v.v…).

Phái ủng hộ hợp tác với Tây Sơn vì những lý do khác nhau, hầu hết là các nhà khoa bảng, nho sĩ mà tên tuổi rất quen thuộc như Nguyễn Thiếp, Phan Huy Ích, Nguyễn Nễ, Nguyễn Huy Tự, Phan Bảo Định, Bùi Dương Lịch, Hoàng Kim Thành, Nguyễn Thiện, Nguyễn Công v.v… Trong số trên, Nguyễn Thiếp là người được vua Quang Trung đặc biệt trọng vọng, giao trách nhiệm thành lập và lãnh đạo Sùng Chính thư viện Nam Hoa, cùng Bùi Dương Lịch, Phan Bảo Định, Nguyễn Thiện, Nguyễn Công dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm… Phan Huy Ích là một trong những trọng thần có công phò tá nhà Tây Sơn, có công to về ngoại giao…

Lấy cớ sang giúp Chiêu thống, cứu nhà Lê, vua Càn Long nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang xâm lược nước ta, ồ ạt kéo vào thành Thăng Long. Ngày 21/12/1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu Quang Trung rồi lập tức tiến quân ra Bắc.

G.S Đặng Thái Mai, trong sách “Văn thơ Phan Bội Châu”, viết về một đoạn đường vua Quang Trung hành quân ra Nghệ An: “Từ trạm Treo qua phủ Đức, vượt truông Hến xuyên qua Yên Thành và miền trên huyện Quỳnh Lưu là con đường mòn “gián đạo” của Nguyễn Huệ khi hành quân ra Bắc Hà đánh Tôn Sĩ Nghị”.

Cuối triều Tây Sơn, trên đất Hà Tĩnh bây giờ, còn có một số sự kiện đáng chú ý:

- Tháng 8 năm Tân dậu (1801) tướng của chúa Nguyễn Ánh là Điển quân thượng đạo Lưu Phước Tường đem 6 chi quân bản bộ cùng 4000 quân Vạn Tượng từ Khăm-cớt (Lào) đánh xuống Hương Sơn, La Sơn, phá quân Tây Sơn ở cửa Tam Soa, lại đánh giết Đô đốc Tây Sơn Nguyễn Văn Hiện ở thành Lục Niên. Quân Vạn Tượng hết lương phải rút về, còn Tường đem quân theo đường Cửa Sót vào cửa sông Gianh.

- Tháng 5 năm Nhâm tuất (1802), vua Gia Long đưa quân tiến ra Bắc truy đuổi nhà Tây Sơn. Thủy binh của tướng Nguyễn Văn Trương đánh chiếm Cửa Ròn (Quảng Bình) rồi ra lấy dinh Hà Trung (Kỳ Anh). Bộ binh của Lê Văn Duyệt đánh đồn Đài Nài (Thạch Hà). Tháng 6, vua ra đến dinh Hà Trung, thủy binh đánh tan đội quân của tướng Tây Sơn Nguyễn Văn

Page 42: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

42

Thận, trấn thủ Nghệ An, thừa thắng quân Nguyễn đánh ra Tiên Lý rồi ra Thanh Hoa… Vua Gia Long đến thành Nghệ An… (“Đại Nam nhất thống chí” - Chính biên, quyển XV và XVII).

*

* *

Dưới triều Nguyễn (1802-1945), đất Hà Tĩnh có nhiều thay đổi quan trọng. Trước tiên, đó là việc thành lập tỉnh. Tân mão, Minh Mệnh thứ 12 (1831), nhà Nguyễn theo lối nhà Thanh (Trung Quốc), đổi “trấn” làm “tỉnh”, cắt hai phủ Đức Thọ, Hà Hoa ở phía nam trấn Nghệ An, lập tỉnh Hà Tĩnh.

Tỉnh Hà Tĩnh có 2 phủ 6 huyện là:

Phủ Đức Thọ (1822 về trước là Đức Quang), có 4 huyện: La Sơn, Hương Sơn, Thiên - Can Lộc, Nghi Xuân.

Phủ Hà Hoa (từ 1841 là Hà Thanh và từ 1916 là Thạch Hà) có 2 huyện: Kỳ Hoa và Thạch Hà.8

Tháng 6 năm Quý sửu, Tự Đức thứ 6 (1853), triều đình quyết định bỏ tỉnh, chuyển phủ Đức Thọ về tỉnh Nghệ An, lấy phủ Hà Thanh (tức Hà Hoa cũ) làm đạo Hà Tĩnh. Đạo Hà Tĩnh là đơn vị hành chính thuộc tỉnh Hà Tĩnh, kiêm lý hai huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên (thành lập năm 1837 gồm 4 tổng phía bắc của huyện Kỳ Hoa) và thống hạt huyện Kỳ Anh (tức 2 tổng phía nam huyện Kỳ Hoa cũ). Năm Ất hợi, Tự Đức thứ 28 (1875), tỉnh Hà Tĩnh lại được lập lại như cũ. Từ đó đến hết đời Nguyễn (1945), không có gì thay đổi lớn. Nhưng từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dưới thời thuộc Pháp, Đức Thọ, Thạch Hà về danh nghĩa là phủ, nhưng về thực tế cũng chỉ là một đơn vị ngang huyện (phủ Đức Thọ vẫn kiêm lý huyện La Sơn).

Đến năm 1942, theo thống kê của chính quyền Pháp thì tỉnh Hà Tĩnh có 8 huyện và thị xã Hà Tĩnh: Phủ Đức Thọ (tức huyện La Sơn), Hương Sơn,

8 Theo “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX”. Về sau có sự thay đổi về tên gọi, địa giới, vì cắt lập huyện, thị xã mới hoặc chuyển xã, thôn từ huyện này sang huyện khác… Xin xem “Phần mở đầu” ở trên. Theo tài liệu chữ Hán chép ngày 15 tháng bảy năm Minh mệnh thứ 17 (1836), thì toàn hạt Hà Tĩnh có 6 huyện, 40 tổng, 471 xã, thôn, trang, phường, trại, vạn.

Page 43: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

43

Can Lộc, Nghi Xuân, Hương Khê, phủ Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh và thị xã Hà Tĩnh.

Tổng cộng toàn tỉnh có 45 tổng, 572 xã, thôn với 126.071 đinh, 497.534 nhân khẩu.

Ngót một thế kỷ rưỡi dưới triều Nguyễn, trên đất Hà Tĩnh xảy ra liên tục những biến cố lớn, nhiều biến cố có quan hệ đến vận mệnh của đất nước.

- Sau khi lên ngôi (mồng 2 tháng năm, Nhâm tuất (1802), vua Gia Long đưa quân ra Bắc truy đuổi Tây Sơn. Lúc này, ở Hà Tĩnh có Lê Hữu, con cháu Lê Chiêu Thống, chạy trốn vào Nghi Xuân, Thiên Lộc, được một nhóm cựu thần do Hương cống Mai Thế Định quê xã Phù Lưu Thượng, nguyên Tri huyện Quế Dương, đứng đầu, bao che, ủng hộ, nhằm khôi phục nhà Lê. Lúc vua Gia Long ra đến Bãi Vọt, thì bị nhóm nghĩa sĩ của Mai đánh tập hậu. Nhưng do lực lượng ít ỏi, nhóm nghĩa sĩ không thực hiện được ý định giết Gia Long, mà nhanh chóng bị giết, bị bắt hết.

Những năm 1812, 1813, nhiều nhóm chống đối nổi dậy ở Nam Đường, Đông Thành, Quỳnh Lưu, Thanh Chương (Nghệ An), La Sơn, Hương Sơn (Hà Tĩnh). Viên Tri phủ Đức Quang Nguyễn Văn Tuân bị nghĩa quân giết chết.

- Dưới triều Minh Mệnh, ở Hà Tĩnh lại có cuộc nổi dậy của Hầu Tạo (1818-1821) và của cố Bu (1833-1838). Hầu Tạo, tức Lê Hữu Tạo, quê xã Tuấn Lễ, lập căn cứ ở Truông Mây, cố kết nghĩa sĩ, hoạt động dữ dội ở Hương Sơn, giết chết viên võ quan Nguyễn Văn Thiệt lên đàn áp, và đánh lùi đạo quân của Trấn thủ Nghệ An Nguyễn Văn Xuân.

“… Núi Đại Hàm hai mươi tám chân tay, vang lừng chiêng bạc trống đồng, mấy mươi vệ binh triều đều lạc phách: - Khe Tình Diễm bốn mươi hai vây cánh, giấp giới áo hồng mộc vẽ, ba trăm dư quân trấn cũng kinh hồn…”. (“Văn tế Hầu Tạo”). Cuối cùng Lê Văn Duyệt phải dùng kế bắt mẹ và vợ Hầu Tạo, viết thư thác lời bà mẹ, dụ Hầu Tạo ra hàng rồi giết chết! Cố Bu, tên thật là Phan Bô, quê làng Phan Xá (Thiên Lộc) cùng Đinh Lợi nổi dậy ở vùng Thạch Hà. “Đại Nam thực lục chính biên” (Q.XIV, Đệ nhị kỷ) chép: “Tên đầu đảng giặc là Phan Bô ở Hà Tĩnh thường ẩn hiện ở các huyện Kỳ Hoa, Thạch Hà, Hương Sơn, Thiên Lộc, thừa cơ cướp bóc. Tỉnh

Page 44: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

44

cho tầm nã, liền trốn mất. Đến đây tụ họp mấy trăm đồ đảng, đốt phá ở Hương Bộc. Án sát Cao Hữu Dực, Lĩnh binh Phan Văn Đổng đem quân và voi chia đường đuổi đến núi Bạch Thạch ở Vân Phong, chỉ quây bắt được bốn tên đồng lõa… (Vua) lại cho điều 200 biền binh ở Quảng Bình theo đi bắt giúp…”. Mấy tháng sau, quan tỉnh Hà Tĩnh tâu về triều: “Trong hạt hơi yên, nhưng lũ tướng giặc Phan Bô vẫn còn lẩn trốn ở rừng núi…”. Về sau, không ai biết cố Bu đi đâu.

Khi triều đình Huế ký “Hòa ước Giáp tuất” (1874) nhường hẳn 6 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp thì Trần Tấn (Tú Tấn), Đặng Như Mai (Tú Mai) ở Nghệ An, Nguyễn Huy Điển (Tú Khanh, thường gọi Mệ Điến), Trần Quang Cán (Đội Lựu)… ở Hà Tĩnh, Trương Quang Thủ (Đội Thụ) ở Quảng Bình, phối hợp khởi nghĩa ở ba tỉnh, với khẩu hiệu “Đánh cả Tây lẫn Triều”, lấy cờ vàng làm hiệu, nên thường gọi “Giặc cờ vàng”. Sau lễ tế cờ ở Hương Sơn, Trần Quang Cán đưa quân xuống đánh chiếm huyện lỵ ở Phố Châu, phủ lỵ Đức Thọ, rồi kéo thẳng về hạ đạo thành Hà Tĩnh ở Đại Nài, giết Khâm phái Đinh Văn Khoa, Phó lĩnh binh Đinh Văn Nhất. Thị đạo Mạnh Tuyên bị bắt, cắn lưỡi tự tử. Nghĩa quân cứu thoát Nguyễn Huy Điển và một số người bị bắt giam ở đây. Một thủ hạ của Đội Lựu là Cù Biểu (tức Lân Biểu) cũng đánh chiếm huyện thành Kỳ Anh. Trần Tấn, Đặng Như Mai thì đưa quân xuống vây thành Nghệ An…

Vua Tự Đức giáng Tổng đốc An Tĩnh Tôn Thất Triệt và các tỉnh thần khác xuống hai cấp, đưa Nguyễn Chánh làm Tổng đốc, Võ Trọng Bình làm Tuần phủ, đồng thời sai Hồ Oai đưa 600 quân từ Thanh Hoa vào Nghệ An, và Lê Bá Thận, Nguyễn Đình Khoa đưa quân ra đánh dẹp ở Hà Tĩnh. Võ Trọng Bình viết thư dụ dỗ Trần Quang Cán, người học trò cũ của mình, không được, bèn đốc suất quân sĩ đánh bắt được Đội Lựu… Sau đó các đội quân của Tú Tấn, Tú Mai cũng thất bại…

Sau cuộc khởi nghĩa Giáp tuất (1874) vua Tự Đức phải cho triều đình bàn và lập lại tỉnh Hà Tĩnh như cũ.

- Năm Ất dậu (1885) kinh đô Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn, ra Tân Sở (Quảng Trị) hạ chiếu Cần Vương, rồi ra Sơn phòng Hương Khê (Hà Tĩnh).

Tiến sĩ Phan Đình Phùng đưa một số sĩ phu lên bái mệnh, được phong

Page 45: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

45

làm Tán lý quân vụ đại thần, thống lĩnh các đạo quân Cần Vương. Về quê Đông Thái, ông truyền hịch khởi nghĩa, được sĩ phu và nhân dân khắp nơi nhiệt liệt hưởng ứng.

Trước đó không lâu, Cử nhân Phan Cát Tiu (Xu) cùng quê với Phan Đình Phùng, vào kinh thi Hội, theo Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Quảng Trị, lĩnh mệnh về mộ quân khởi nghĩa, và Ấm sinh Lê Ninh ở Trung Lễ hưởng ứng chiếu Cần Vương, dựng cờ chống Pháp ở quê nhà. Vừa ra quân, Ấm Ninh kéo quân vào hạ thành Hà Tĩnh, giết chết Bố chính Lê Đại, rồi lên Sơn phòng bái mệnh, được phong Bang biện quân vụ. Nhưng chưa bao lâu, Phan Cát Tiu hy sinh, Lê Ninh mất, lực lượng còn lại đều gia nhập nghĩa quân Phan Đình Phùng.

Sau mấy trận đầu ra quân bất lợi, năm 1887, Phan Đình Phùng giao quyền chỉ huy cho Cao Thắng, ra Bắc liên kết hào kiệt. Cao Thắng xây dựng chiến khu Vụ Quang, xây dựng nghĩa quân vững mạnh, tích trữ lương thực, rèn khí giới, đúc được cả súng Tây kiểu 1874…

Tháng 9/1889, Phan Đình Phùng từ Bắc về căn cứ Thượng Bồng. Với danh nghĩa Tán lý quân vụ đại thần, Phan đã tập hợp toàn bộ lực lượng kháng chiến bốn tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình, chia làm 15 quân thứ9. Nghĩa quân đặt dưới sự chỉ huy thống nhất do Phan Đình Phùng đứng đầu và Cao Thắng làm Chưởng vệ. Từ đó, khí thế ngày càng tăng, nghĩa quân đã tấn công nhiều đồn địch, và đánh thắng nhiều trận càn lớn của quân Pháp vào chiến khu. Tháng 8/1892, Giám binh Hambert đưa quân lên đánh chiến khu Vụ Quang, nghĩa quân Thạch thứ do Nguyễn Huy Thuận chỉ huy đã đánh vào tỉnh thành Hà Tĩnh, chiếm trại lính, giải phóng 70 tù nhân,

9 Thanh Hóa có: Thanh thứ do Cầm Bá Thước chỉ huy. - Nghệ An có: Diễn thứ (Diễn Châu) do Lê Trọng Vinh chỉ huy; Anh thứ (Anh Sơn) do Nguyễn Mậu chỉ huy. - Quảng Bình có: Bình thứ do Nguyễn Thụ chỉ huy; Lệ thứ (Lệ Thủy) do Nguyễn Bí chỉ huy. - Hà Tĩnh có: Khê thứ (Hương Khê) do Nguyễn Thoại và Trần Hữu Châu chỉ huy; Can thứ (Can Lộc) do Nguyễn Trạch và Nguyễn Chanh chỉ huy; Lai thứ (tổng Lai Thạch) do Phan Đình Nghinh chỉ huy; Hương thứ (Hương Sơn) do Nguyễn Hữu Giao chỉ huy; Nghi thứ (Nghi Xuân) do Hà Văn Mỹ và Ngô Quảng chỉ huy; Lễ thứ (làng Trung Lễ) do Nguyễn Cấp và Lê Trực chỉ huy; Cẩm thứ (Cẩm Xuyên) do Hoàng Bá Xuyên chỉ huy; Thạch thứ (Thạch Hà) do Nguyễn Huy Thuận và Trần Danh Lập chỉ huy; Kỳ thứ (Kỳ Anh) do Võ Phát và Nguyễn Tiến Đắc chỉ huy; Diệm thứ (xã Tĩnh Diệm) do Cao Đạt chỉ huy.

Page 46: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

46

buộc địch phải bỏ cuộc càn, rút về. Năm 1893, để phá thế bị hãm trong vùng rừng núi, nghĩa quân quyết định xuống đánh thành Nghệ An. Nhưng trên đường, Cao Thắng hy sinh trong trận đánh đồn Nu (Thanh Chương, Nghệ An). Từ đó lực lượng nghĩa quân sút kém dần. Quân Pháp nhân đó tập trung binh lực bao vây, tiến đánh ngày một dữ. Vào cuối năm 1895 đầu 1896, Phan Đình Phùng mất, nghĩa quân hoàn toàn tan rã. Cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân Pháp suốt mười năm của nhân dân bốn tỉnh Bắc Trung Kỳ chống xâm lược Pháp đến đây kết thúc.

*

* *

Đầu tháng tư năm Giáp Thìn (cuối 5/1904), hội Duy Tân được thành lập ở Quảng Nam do Kỳ ngoại hầu Cường Để làm hội trưởng. Năm 1905, Phan Bội Châu, người lãnh đạo chủ yếu của Hội, sang Nhật Bản, tiếp xúc với Lương Khải Siêu và các chính khách Nhật. Ông đã dự định phương châm hành động kết hợp giữa hai mặt bạo động và duy tân theo gương Cát Điền Tùng Âm (Yoshida Shoin).

Ở Nghệ Tĩnh, hội Duy Tân phát triển mạnh mẽ, thu hút đông đảo sĩ phu, quân nhân, thanh niên và nhiều chức sắc Thiên Chúa giáo vào tổ chức10. Một mặt, hội khích lệ thanh niên du học, gây một phong trào Đông Du khá rầm rộ trong nước.11

10 Những người công giáo yêu nước được tập hợp trong “Duy tân giáo đồ hội” do các Linh mục Đỗ Quang Lĩnh, Nguyễn Thần Đồng, Nguyễn Tường đứng đầu, hoạt động theo tôn chỉ của hội Duy Tân. 11 Theo “Phan Bội Châu niên biểu” thì trong 2 năm 1907, 1908 có trên 200 du học sinh Việt Nam sang Nhật. Hồi ký của Trần Trọng Khắc cũng ghi “khoảng 200 người”. Tư liệu của ông Nguyễn Thúc Chuyên (VHNA số 87 đến 92) ghi Nghệ Tĩnh có 45 người sang Nhật, trong đó có một người ghi nhầm thành hai tên. Dựa theo tư liệu của ông Nguyễn Thúc Chuyên, chúng tôi hiệu đính lại một số điểm giới thiệu 12 người quê Hà Tĩnh là: 1. Mai Văn Châu tức Mai Lão Bạng (quê Quảng Ích, Đậu Chử, Kỳ Anh); 2. Trần Sỹ Dực (Đan Hải, Nghi Xuân); 3. Phạm Văn Đoan, còn có tên Suyền, thường gọi Đồ Ba, tức Phạm Đương Nhân (Yên Hội, Việt Yên, La Sơn, Đức Thọ); 4. Nguyễn Quỳnh Lâm (Lai Thạch, Can Lộc); 5. Phan Doãn Lược (Hương Sơn, chưa rõ xã nào); 6. Phan Đình Cừ (tức Phan Bá Ngọc (Đông Thái, La Sơn, Đức Thọ); 7. Đinh Nho Thục tức Đinh Doãn Tế (Gôi Mỹ, Hương Sơn); 8. Lê Võ (xã Trung Lễ, Đức Thọ); 9. Trần Hữu Chương; 10. Trần Lợi Tế, thường gọi Nho Lan; 11. Nguyễn Tiêu Thiên; 12. Hoàng Văn Tiếu hay Hiếu (đều chưa rõ ở xã, huyện nào). Ngoài ra còn có Lý Trọng Mậu, có tài liệu ghi là người Hà

Page 47: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

47

Song song với phong trào Đông Du, một bộ phận hội viên mở hiệu buôn, lập hội buôn, để làm quỹ Hội và lấy tiền giúp thanh niên du học, tiêu biểu nhất là Triêu Dương thương quán của Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn… ở Vinh. Ở Hà Tĩnh có hiệu buôn Mông Hanh của Lê Văn Huân ở Chợ Trổ và một số hiệu, hội ở nhiều nơi khác. Đồng thời Hội quan tâm đến việc truyền bá “tân thư”, thơ ca yêu nước, và mở trường học mới theo mẫu Đông Kinh nghĩa thục… Người ta thường gọi bộ phận hoạt động công khai, hợp pháp và bán hợp pháp này là phái “Minh xã” hay “Phái văn”.

Một bộ phận hội viên bí mật chuẩn bị lực lượng cho việc đấu tranh vũ trang khi có thời cơ. Đây là phái “Ám xã” hay “Phái võ”. Lê Quyên, Phạm Văn Thản lập “trại cày” ở Bố Lư (Anh Sơn, Nghệ An), đưa người lên vừa cày cấy, vừa luyện tập quân sự. Ngô Quảng cũng xây dựng căn cứ tương tự ở núi Hồng Lĩnh. Phạm Văn Ngôn đưa người lên Vụ Quang, giả làm sơn tràng khai thác gỗ, để luyện tập… (Về sau ông ra Yên Thế đóng đồn gần doanh trại Hoàng Hoa Thám để phối hợp chiến đấu, thường gọi “đồn Tú Nghệ”). Lê Võ, Đặng Văn Bá thì liên hệ với Trần Văn Bỉnh, một giáo dân ở Thọ Ninh giỏi nghề cơ khí, tổ chức cho Trần đưa người ra mở xưởng chế súng đạn ở vùng rừng núi tỉnh Hòa Bình…

Tháng 5/1908, hưởng ứng cuộc chống thuế ở Quảng Nam, Nguyễn Hàng Chi, một yếu nhân của hội Duy Tân, cầm đầu phong trào chống thuế ở Hà Tĩnh. Ông cùng các hội viên khác đưa 800 dân nghèo lên vây huyện Can Lộc, viên Tri huyện bỏ trốn, bèn kéo thẳng vào tỉnh lỵ “xin sưu”. Trịnh Khắc Lập cũng dẫn 200 người vây huyện Nghi Xuân, bắt Tri huyện giải về tỉnh. Dân các huyện Thạch Hà, Kỳ Anh, Đức Thọ, Hương Khê, Cẩm Xuyên… đều nổi dậy hưởng ứng. Cuộc đấu tranh bị đàn áp dã man… Nhiều người bị bắt, trong đó có Nguyễn Hàng Chi, Trịnh Khắc Lập.

Nhân dịp này, thực dân Pháp bắt thêm hàng loạt yếu nhân khác của hội Duy Tân như Ngô Đức Kế, Đặng Văn Bá, Lê Văn Huân, Lê Võ, Nguyễn Đình Kiên, Đặng Nguyên Cẩn, Võ Tĩnh… giam ở lao Hà Tĩnh. Công sứ

Tĩnh, lại có tài liệu ghi là người Quỳnh Lưu, Nghệ An.

Tài liệu địa chí huyện Kỳ Anh có chép Phan Công Phức và Phan Công Phả, em Đầu xứ Phan Công Kế là bạn Phan Bội Châu, cũng xuất dương thời ấy.

Sách Lịch sử Hà Tĩnh (T.1) chép một số người xuất dương: Phan Trọng Cúc, Kiều Văn Đoàn (ở Đức Thọ), Đậu Bá Hội (ở Cẩm Xuyên) v.v…

Page 48: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

48

Pháp Doucet lệnh cho Án sát Cao Ngọc Lệ, kết án tử hình Nguyễn Hàng Chi, Trịnh Khắc Lập và đày ra Côn Đảo nhiều người khác.

Năm 1909, Ngô Quảng, Lê Quyên, Phạm Văn Thản, cùng với các chỉ huy đội lính khố xanh Hồ Bá Phấn (Đội Phấn), Đinh Văn Truyền (Quản Truyền) và một số người khác ngầm tổ chức cuộc binh biến đánh chiếm tỉnh thành Hà Tĩnh. Nhưng trong ngoài hành động không ăn khớp, kế hoạch bại lộ, nhiều người lại bị bắt, cầm tù.

Từ đó đến cuối 1910, hầu hết các yếu nhân của hội Duy Tân ở Nghệ Tĩnh trong đó có các Linh mục Đỗ Quang Lĩnh, Nguyễn Thần Đồng, Nguyễn Tường và Phan Văn Ngôn, Phạm Văn Thản, Mai Lão Bạng… đều bị bắt, đày ra Côn Đảo. Một số người khác, như Đặng Thái Thân thì bị giết hại, hàng trăm hội viên và quần chúng bị cầm tù. Số ít còn lại, hoặc trốn tránh hoạt động ở địa phương như Đội Quyên, Đội Phấn… hoặc chạy sang Xiêm sang Tàu, tiếp tục sự nghiệp cứu nước.

*

* *

Ngày 3/2/1930, đại biểu ba tổ chức cộng sản trong nước (Đông Dương cộng sản đảng, Đông Dương cộng sản liên đoàn, An Nam cộng sản đảng) họp ở Cửu Long (Trung Quốc) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 3/1930, Phân cục Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Trung kỳ cử Trần Hữu Thiều bắt liên lạc với các tổ chức cơ sở của Đông Dương cộng sản đảng và Đông Dương cộng sản liên đoàn, mở hội nghị tại bến đò Thượng Trụ (Can Lộc) thành lập đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh do Trần Hữu Thiều (tức Nguyễn Trung Thiên) làm bí thư.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, cả nước dấy lên một phong trào cách mạng sôi nổi, rộng khắp suốt trong hai năm 1930-1931. Đảng bộ hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh đã vận động tổ chức quần chúng đấu tranh làm suy yếu, tan rã chính quyền của địch ở nhiều thôn xã. Nông hội đứng ra giải quyết mọi việc như một cơ quan chính quyền, được gọi là “Xô-viết”.

Cuộc khủng bố trắng của đế quốc Pháp năm 1930-1931 đã đẩy cách mạng vào thoái trào. Nhưng từ 1932, 1933 phong trào lại được nhen nhúm

Page 49: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

49

dần, và khi Chính phủ của Mặt trận bình dân Pháp lên cầm quyền (6/1936), nhiều chính trị phạm được tha, Tỉnh ủy lâm thời Hà Tĩnh được thành lập (8/10/1936) và Đại hội Đảng bộ toàn tỉnh (ngày 14/4/1938) đã bầu ra Tỉnh ủy chính thức.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), tù chính trị vượt ngục về càng đông. Nhưng lúc này nạn đói đang hoành hành. Chỉ trong ba tháng ở Nghệ Tĩnh đã có mười vạn người chết đói, Hà Tĩnh có khoảng năm vạn người. Một mặt các đảng viên và quần chúng cách mạng lo lạc quyên lúa gạo, tổ chức cứu đói cho dân, một mặt lo phục hồi lại tổ chức, chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền theo chủ trương của Việt Minh.

Ngày 8/8/1945, Đại hội đại biểu Việt Minh liên tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh họp bàn kế hoạch chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Đại hội bầu Ban chấp hành Việt Minh liên tỉnh chính thức do ông Nguyễn Xuân Linh đứng đầu. Theo kế hoạch của Đại hội, tỉnh Hà Tĩnh chia làm hai phân khu Bắc Hà và Nam Hà. Đại biểu phân khu Nam Hà về đến nơi thì nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, liền triệu tập hội nghị bầu Ủy ban khởi nghĩa, bàn kế hoạch giành chính quyền các huyện phía nam và tỉnh lỵ Hà Tĩnh. Phân khu Bắc Hà cũng đề kế hoạch giành chính quyền ở các huyện phía Bắc. Chỉ trong năm ngày, Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân toàn tỉnh khởi nghĩa, giành chính quyền trọn vẹn từ tay chính quyền của Nhật. Như vậy, Hà Tĩnh cùng với Bắc Giang, Hải Dương, Quảng Nam, Thanh Hóa là những tỉnh giành chính quyền sớm nhất trong cả nước.

*

* *

III. VÙNG ĐẤT NGHĨA KHÍ VÀ TÀI NĂNG Vùng đất Hồng - Lam quả là “Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”,

nhưng từ nghìn xưa vốn vô cùng hiểm trở và khắc nghiệt. Suốt trường kỳ lịch sử, dân bản địa và những người di cư từ Bắc vào, từ Nam ra.., với bàn tay, khối óc và sức hợp quần vô địch, đã thích nghi với hoàn cảnh, chế ngự được rừng rậm, bãi hoang, núi cao, biển cả, gió Lào, bão bấc, hạn hán, lụt lội, mãnh thú, giao long… để sinh tồn, mở ra những cánh đồng bát ngát, dựng lên những làng xóm đông vui… Mặt khác, cư dân ở đây phải trải qua

Page 50: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

50

những biến cố xã hội nghiêm trọng: giặc giã, loạn lạc, trộm cướp, đói kém, dịch tễ… Cuối cùng, con người đều vượt qua mọi thử thách, đứng vững, xây dựng vùng đất này thành bàn đạp chắc chắn cho công cuộc mở nước, và chỗ tựa vững chãi cho sự nghiệp giữ nước.

Môi trường tự nhiên nghiệt ngã đến mức giọng nói cũng không thể nhẹ nhàng, trong trẻo. “Em thường chê giọng nói quê anh - Cứ nặng trịch như là đá ấy!” - “Thử nghĩ xem, nếu không là vậy - Thì làm sao dằn ngọn gió Lào?” (Thơ TKĐ). Hoàn cảnh xã hội nhiều lúc cũng hết sức thảm khốc. Theo sách “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX” thì chỉ trong hai huyện Kỳ Hoa, Thiên Lộc hồi đó đã có 10 xã, thôn, trang phiêu tán vì loạn lạc, đói kém, bệnh tật.

Sống trong điều kiện tự nhiên và xã hội như vậy, đời này qua đời khác, con người giữ được bản tính chất phác, nhẫn nại, cần cù, tằn tiện, lạc quan, thẳng thắn, và trở nên gan dạ, cứng cỏi, tháo vát, khắc khổ mà trượng nghĩa, chung tình. Có điều, cái hay, cái dở đều đậm nét hơn bình thường, đều có phần thái quá, cực đoan. Nhiều khi nhẫn nhục đến tự tin, tằn tiện đến keo kiệt, thẳng thắn đến bốp chát, gan dạ đến liều lĩnh, trung thành đến mù quáng… Không ít những trường hợp biểu hiện thái độ cực đoan ấy. Ví như, có vị Cử nhân ghét Tây đến mức không dùng dầu Tây (dầu hỏa), giấy Tây, không cho con đi học chữ Tây, không gả con gái cho người học trường Tây! Nhiều nhà nho không thừa nhận vua Đồng Khánh, có người đến đời Duy Tân vẫn chỉ dùng niên hiệu Hàm Nghi. Trong ứng xử, với người ở đây, cái gì cũng phải minh bạch. Phải trái rõ ràng, yêu ghét rõ ràng. Đã nói là nói thẳng, đã làm là làm đến cùng. Tuy nhiên, tất cả những ưu điểm, nhược điểm trong tính cách con người vùng Hồng - Lam này đã tạo nên nét nổi bật là đất của nghĩa khí và tài năng.

*

* *

Nghĩa khí, trước hết được biểu hiện qua những việc làm trượng nghĩa bình thường của nhân dân. Đã có một thư sinh Bùi Cầm Hổ ra du học ở Thăng Long, đến cửa bộ Hình, minh oan cho một người đàn bà bị kết án tử hình vì tội giết chồng. Đã có một Ngô Trát thấy dân vất vả khi qua núi, bỏ công ghép lát 1645 bậc đá trên 1300m đường truông Vắn, núi Hồng Lĩnh,

Page 51: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

51

một cố Bá lúc về già dốc hết của nhà bắc chiếc cầu qua hói cho dân làng qua lại. Ngày nay, người ta vẫn gọi hai công trình của lòng nghĩa cử ấy là “Truông cố Ghép”, là “Cầu cố Bá”. Lại đã có một cố Bu làm giặc chống lại triều đình, nhưng rất thương và hay giúp đỡ dân nghèo; một lý trưởng Nguyễn Văn Hiền, giúp cho một toán nghĩa quân thoát khỏi vòng vây của quan quân triều đình, rồi ra nhận chết chém thay dân làng… “Trại cố Bu” ở Hồng Lĩnh và “Thành cố Bu” ở Hương Khê, “Đền ông Văn Hiền” ở Nhượng Bạn là chứng tích về hai con người ấy…

Còn những hào kiệt, anh hùng, đại diện ưu tú nhất của nhân dân thì đời nào cũng có, nhất là trong sự nghiệp chống kẻ thù xâm lược và đô hộ.

Vị anh hùng quê châu Hoan (nay thuộc Hà Tĩnh) đầu tiên mà sử sách Trung Hoa, Việt Nam ghi chép là Mai Thúc Loan. Theo Đường thư thì cuộc khởi nghĩa của vua Mai chống đô hộ nhà Đường xảy ra khoảng năm Khai Nguyên đời Đường Huyền Tông (713-741). Ông “tự xưng là Hắc đế, chiêu tập quân 32 châu, ngoài liên kết với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp và Kim Lân, giữ vững biển Nam, quân số có đến 40 vạn…”. Còn Đại Việt sử ký toàn thư và Việt sử thông giám cương mục chép cụ thể là tháng 7, mùa thu, năm Nhâm tuất (722), ở Hoan Châu, Mai Thúc Loan “chiếm giữ châu, xưng là Hắc đế, bên ngoài liên kết với người Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói là 30 vạn…”. Vua nhà Đường phải sai Dương Tư Húc và Quang Sở Khách đem 10 vạn quân sang đánh mới dẹp yên được.

Về thời gian, thì có thể cuộc khởi nghĩa chỉ xảy ra năm 722, và kéo dài một vài năm, vua Mai xưng đế, đắp thành Vạn An ở rú Đụn (tức Hùng Sơn, Nam Đàn ngày nay)… Có tài liệu chép vua và thái tử hy sinh trong trận chống quân giặc đánh thành năm 723 (?). Về số quân, chắc cũng không có tới 30, 40 vạn như sử chép. Nhưng Mai Thúc Loan là một người dân áo vải, cao hơn cũng chỉ là một đầu mục địa phương. Phải là người có uy tín, tài năng, và phải có thời gian hoạt động hàng chục năm trước đó mới tập hợp được hàng vạn nghĩa quân, liên kết với các nước lân bang, đủ sức đánh đuổi được bọn đô hộ Quang Sở Khách… Tộc phả họ Ngô chép vị tổ Ngô Nhật Đại, hào trưởng châu Phúc Lộc (vùng Thạch Hà) cũng tham

Page 52: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

52

gia cuộc khởi nghĩa của vua Mai12.

*

* *

Thời tự chủ, trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược phương Bắc, đời nào cũng có người quê vùng Hồng - Lam tham dự.

Tấm bia đá đền làng Bình Hà, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Dương còn ghi công trạng của vị tướng được phong Thần, thờ ở đây là Cao Minh Hựu, người huyện Phi Lộc (Can Lộc), đã tham gia cuộc kháng chiến chống quân Tống do vua Lê Đại Hành lãnh đạo, trên sông Hương Đại, tây nam sông Bạch Đằng năm 980.

Thần tích đền xã An Tân, huyện Gia Phúc nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, chép về hai vị Thần là “Trường Tân, nhị tướng quân” mà sách Việt điện u linh chép lại như sau: Lê Thạch, tự Phúc Sơn, quê La Sơn, và Hà Anh tự Quang Hoa quê Châu Diễn, khoảng niên hiệu Thiệu Hưng đời Trần Nhân tông (đúng ra là niên hiệu Thiệu Bảo (1279-1284) và Trùng Hưng (1285-1292) - TKĐ chú) phụng thị ở trong cung Thái tử lâu ngày, được phong là Chánh, Phó thị đô lang tướng. Năm Nhâm thân (1272), muốn kiếm cớ sang đánh nước ta, nhà Nguyên sai Ngột Lương (Uriyang) sang hỏi về dấu vết cột đồng Mã Viện. Vua Trần cho Hàn lâm hiệu thảo Lê Kính Phu đi hội khám. Hai tướng Lê, Hà cũng được sai đem 2000 quân đao phủ đi cùng. Ngột Lương ngạo mạn, sách hạch đủ điều, Lê, Hà nói với Kính Phu: “Chúng ta phụng mệnh vua, không được làm nhục quốc thể. Việc dùng lý lẽ là do tiên sinh, chúng tôi là con nhà võ, như mũi tên đã để sẵn lên dây cung, giữ lại hay phóng đi chỉ tách một cái là xong”. Hôm sau, ba người cùng gặp Ngột Lương. Kính Phu biện bác qua loa rằng “Cột đồng lâu ngày đã không còn dấu vết”, còn hai tướng thì quắc mắt, tỏ ý phẫn nộ, làm cho Ngột Lương sợ hãi, đành phủ dụ vài câu rồi về. Khi quân Nguyên sang đánh nước ta (1285), hai người xin được đi đánh giặc. Lê Thạch được phong là Uy linh thượng tướng quân, đóng đồn ở Hải Ải Điểm khẩu. Hà Anh được phong là Đông lãm đại tướng quân, đóng đồn ở Cao Lâu khẩu. 12 Tộc phả do Hán Quốc công Ngô Lan soạn năm Đinh dậu đời Lê Thánh Tông (1477). Ngô Nhật Đại là tổ năm đời của Ngô Quyền.

Page 53: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

53

Trong trận An Bác châu, hai ông đã chém được tướng Nguyên Triệu Tộ và Giải Ninh. Nhưng trong trận Phượng Nhãn, hai ông bị quân Trương Hằng phục kích vây bắt13. Tướng Toa Đô14 dụ dỗ, nhưng hai ông không chịu khuất phục, đều bị giặc chém chết vứt xác xuống sông Nguyệt Đức (Đoạn sông Cầu chảy qua làng Nguyệt Đức, Bắc Ninh). Thi thể hai ông trôi về đến bến Trường Tân, thì được nhân dân vớt lên chôn ven sông và lập miếu thờ. Về sau, triều đình ban sắc phong tặng Lê Thạch làm Chính trực đại vương, và Hà Anh làm Cương đoán đại vương.

Nhiều người cũng đã tham gia các cuộc chiến với nước Chiêm Thành ở phía nam. Ở làng Yên Trí (Kẻ Sóc) xã Nội Thiên Lộc nay thuộc xã Thuần Thiện trước có hai ngôi đền xây cạnh nhau. Một ngôi thờ vị Thần “Đô nam nhạc Ô Trà sơn”, một vị tướng thời Lý. Theo thần phả thì vị tướng này (không rõ họ tên) sinh vào đời Lý, 8 tuổi đã giỏi văn chương, lớn lên theo nghiệp võ, 18 tuổi làm quan dưới triều Lý Nhân Tông (1072-1127), đến chức Thượng quốc công, vâng mệnh đi đánh giặc, khi vượt sông (Hà) Hoàng đến núi Hồng Lĩnh, đến xứ đồng Vị Tất thì mất. Dân lập đền thờ. Trước đền còn có vế đối: “Linh phong nậm trứ, Lý triều nhất thống dĩ lai”. Các triều Lê, Nguyễn đều có sắc phong. Ngôi đền bên cạnh thờ hai vị tướng Nguyễn Cả, Nguyễn Hai, tương truyền là con ông Nguyễn Phán, người làng Kẻ Sóc, theo vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành (1470-1471), sau về được giao lên trấn thủ ở vùng biên giới Việt - Trung và mất ở đó.15

Đầu thế kỷ XV, nhà Minh mượn tiếng sang giúp nhà Trần đánh lại nhà Hồ để cướp nước ta, vùng đất Hồng - Lam trở thành điểm quy tụ lực lượng

13 An Nam chí lược và Nguyên sử đều chép trong trận đánh với Chiêu văn vương Trần Nhật Duật ở Tam Đại giang (hay cửa Mộc Ngột, hay Bạch Hạc) ngày Nhâm Thìn, 6/11 năm Chí Nguyên 24 (11/12/1287), tướng Nguyên Ái-lỗ (Aruq) đã lấy được một số thuyền và bắt được hai tướng Lê Thạch, Hà Anh. 14 Toa Đô đã chết tại trận Tây Kết từ giữa năm 1285. Ở đây chép lầm, có lẽ viên tướng này chính là Ái-lỗ? 15 Ở xã Ngoại Thiên Lộc, nay là xã Thiên Lộc, cũng có ngôi đền thờ vị thần Đô Nam nhạc Ô Trà Sơn, và ở làng Động Gián (nay thuộc xã Cương Gián, Nghi Xuân) cũng có đền thờ Hai tướng quân họ Nguyễn.

Page 54: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

54

kháng chiến. Những Bà Hồ, Động Choác, Tiên Hoa, Lục Niên… trở thành địa danh lịch sử, gắn với tên tuổi của những anh hùng, nghĩa sĩ.

Đặng Tất (? - 1409) là cháu nội Thám hoa Đặng Bá Tĩnh đời Trần, quê làng Đông Rạng, xã Tả Thiên Lộc (nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc). Gia phả chép ông là Cống sĩ, làm quan dưới triều Trần Thuận Tông (1388-1398), Trần Thiếu Đế (1398-1400) đến chức Tri châu Thanh Hoa. Ông đứng về phe ủng hộ Hồ Quý Ly, nên dưới triều Hồ, được cử vào làm Đại tri châu Hóa Châu. Nhà Hồ mất, ông trá hàng nhà Minh để giữ binh quyền Hóa Châu. Tháng 10/1407, vua Giản Định khởi binh chống giặc Minh ở Mộ Độ (Ninh Bình). Ông giết quan lại nhà Minh, đưa quân ra hợp, gả con gái cho vua, được phong Quốc công, cùng với Đồng tri khu mật viện Nguyễn Cảnh Chân ra sức giúp rập Giản Định. Nghĩa quân ngày càng lớn mạnh, nhưng sau chiến thắng Bô Cô (Nam Định), vua tôi có sự bất đồng. Vốn hẹp hòi và đa nghi, vua Giản Định nghe lời gièm pha đã giết hai công thần Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân.

Đặng Dung (? - 1414) là con trưởng của Đặng Tất, và hai em là Đặng Doãn, Đặng Thiết đang giữ Hóa Châu, được tin cha bị giết oan, bèn cùng với Nguyễn Cảnh Dị, con Nguyễn Cảnh Chân, đem quân ra Thanh Hoa, đón Trần Quý Khoáng (cháu vua Trần Nghệ Tông, gọi vua Giản Định bằng chú) về Nghệ An, tôn làm vua. Ngày 17 tháng ba năm Kỷ sửu (7/4/1409), Trần Quý Khoáng lên ngôi ở Bà Hồ, huyện Chi La (nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ) lấy hiệu Trùng Quang, phong Nguyễn Cảnh Dị làm Thái bảo, Đặng Dung làm Đồng bình chương sự. Sau đó, vua Trùng Quang tôn vua Giản Định làm Thái thượng hoàng để thống nhất lực lượng kháng chiến. Từ căn cứ Bà Hồ, nghĩa quân tiến ra đánh giặc Minh ở Bình Than, Hàm Tử, rồi rút về Nghệ An củng cố lực lượng. Giữa năm 1410 vua cùng Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung lại đưa quân ra Hạ Hồng, phá được quân của Đô đốc Giang Hạo rồi thừa thắng đuổi giặc đến Bình Than. Hào kiệt nhiều nơi cùng nổi dậy hưởng ứng. Nhưng đến giữa năm 1412, Trương Phụ, Mộc Thạnh tiến đánh Nghệ An. Lực lượng nghĩa quân yếu dần, tiến ra Bắc, bị thất bại lại phải về Nghệ An, rồi năm 1413, lùi vào Hóa Châu. Đặng Dung và Nguyễn Súy đóng giữ kênh Thái Dà, đánh úp giặc, suýt giết được Trương Phụ. Nhưng khi giặc phản công thì nghĩa quân tan rã, cuối cùng, vua tôi đều bị giặc bắt, đưa về Đông Quan. Dọc đường, vua Trùng Quang

Page 55: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

55

và Đặng Dung, Nguyễn Súy cùng nhảy xuống sông tự tận (1414).

Đặng Dung để lại bài thơ Cảm hoài mà Thái học sinh đời Hồ Lý Tử Tấn (1378-1454) nhận xét là “Không phải kẻ sĩ hào kiệt thì không làm nổi” (Phi hào kiệt chi sĩ, bất năng).

“Cảm hoài” là bài thơ duy nhất còn lại của Đặng Dung. Thái Kim Đỉnh phỏng dịch:

“Thân già, việc bộn tính sao đây, Trời đất thu vào tiệc hát say. Đồ điếu gặp thời đều mở mặt, Anh hùng lỡ vận cũng khoanh tay. Giúp vua trục đất mong xoay lại, Rửa giáo, sông trời khó kéo thay. Thù nước chưa đền, đầu bạc thúa, Ánh trăng bao chuyển mải gươm này”.16

Nguyễn Biểu (? - 1413) người xã Bà Hồ, huyện Chi La, đỗ Thái học sinh đời Trần (cũng có thể đời Hồ?). Ông tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Quý Khoáng ngay từ buổi đầu giữ chức Điện tiền thị ngự sử.

Tháng 5/1413, quân Minh đánh chiếm Nghệ An. Vua Trùng Quang phải lùi vào Châu Hóa, sai Nguyễn Biểu làm sứ cầu phong đem sản vật địa phương đến thành Nghệ An (Lam thành). Trương Phụ vừa dụ dỗ, vừa đe dọa, ông vẫn ung dung, bình tĩnh, không chịu khuất phục. Tương truyền, Phụ sai dọn cỗ đầu người, hòng uy hiếp tinh thần, ông thản nhiên lấy đũa móc hai con mắt chấm tương ăn và ngâm bài thơ Ăn cỗ đầu người. Phụ kinh ngạc, thốt lên “Thật là một tráng sĩ” rồi cho ông về. Nhưng nghe lời tên hàng thần Phan Liêu, Phụ sai gọi ông lại, bắt quỳ, ông không chịu, mà lớn tiếng vạch tội cướp nước của giặc Minh. Phụ tức giận, sai trói ông dưới cầu Lam để nước dìm chết. Ông lấy máu viết vào chân cầu: “Thất nguyệt, sơ nhất nhật, Nguyễn Biểu tử” (ngày mồng một tháng bảy, Nguyễn Biểu

16 Năm Kỷ mão (1279), Bính đế nhà Nam Tống bị quân Nguyên Mông đánh đuổi, Trương Thế Kiệt tổ chức thuyền bè đưa vua và hoàng thất chạy ra biển, nhưng bị gió to thuyền chìm, mọi người đều chết.

Page 56: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

56

chết). Nhưng ba ngày thủy triều không lên. Phụ sai đưa ông về, giết chết trước chùa An Quốc. Về sau, vua nhà Lê phong Nguyễn Biểu là Nghĩa sĩ, sai lập miếu thờ ở quê nhà. Chuyện trên đây chép trong Nghĩa sĩ truyện của Hoàng giáp Hoàng Trừng, cháu ngoại Nguyễn Biểu. Về sau chí sĩ cần vương Nguyễn Phạm Tuân (1842-1887) quê Quảng Bình, nguyên tri phủ Đức Thọ, thăm miếu Bình Hồ, làm bài thơ có câu: “Sổ thanh mạ tặc hưởng thiên địa - Bát tự đề kiều khốc quỷ thần” (Mấy câu chửi giặc vang trời đất - Tám chữ đề cầu khiếp quỷ thần).

Cuộc kháng chiến của nhà Hậu Trần kết thúc, quân Minh chiếm Nghệ An, đặt phủ lỵ ở Lam Thành (xã Nghĩa Liệt và Triều Khẩu, nay là xã Hưng Phú và xã Hưng Khánh, Hưng Nguyên). Nhưng nhân dân Nghệ Tĩnh vẫn không chịu khuất. Riêng vùng nam sông Lam (Hà Tĩnh bây giờ) có các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Biên, Nguyễn Tuấn Thiện… được nhân dân hưởng ứng… Nhiều sĩ phu tỏ thái độ bất hợp tác với nhà Minh…

Phúc Đậu - nơi Lê Lợi đóng quân - chính là quê Nguyễn Tuấn Thiện, tức Lê Thiện (1401-1484) con Nguyễn Tuấn Điệt, cháu Nguyễn Tuấn Thụ, mấy đời đều làm ruộng. Quân Minh sang đô hộ, Nguyễn Tuấn Thiện tổ chức trai tráng trong vùng thành lập đội quân Rú Cốc, luyện tập võ nghệ để đánh giặc, giữ làng. Lúc Bình Định vương về, ông đưa lực lượng ra đón tiếp và xin gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Theo truyền ngôn và bài Nguyễn Tuấn Thiện khai quốc công thần ca của Nguyễn Năng Định (TK XIX) thì vua Lê và Tuấn Thiện “giết ngựa trắng ăn thề dưới gốc cây thị, kết nghĩa anh em”. Ông lập nhiều chiến công, sau khi đại định được mang họ Lê, được xếp vào hàng khai quốc công thần. Khi Trần Nguyên Hãn bị sát hại, ông xin cáo quan về, ở tại làng Ninh Xá (nay là xã Sơn Ninh). Ông mất năm 1484, nhân dân lập đền thờ ở đây.17

17 Chính sử ta không chép về Nguyễn Tuấn Thiện hoặc Lê Thiện. Nhưng sách Lam Sơn thực lục sự tích viết vào khoảng cuối đời Lê, do dòng họ Lê Sát ở Thanh Hóa lưu giữ, mới phát hiện được, có chép Lê Thiện là công thần khai quốc, quê quán, chức tước đúng như gia phả họ Nguyễn ở Sơn Phúc. Các sách Trung Quốc (Hoàng Minh thực lục, Minh sử, Minh sử ký sự bản mạt, Việt kiệu thư) đều chép Lê Thiện là tướng nghĩa quân Lam Sơn có tham gia các trận đánh quanh Đông Quan cuối 1426, đầu 1427. Ở xã Bồng Lai nay là xã Lai Hạ, huyện Gia Lương, Bắc Ninh có đền thờ thành hoàng Lê Thiện. Ở đây viết theo gia phả và bài Nguyễn Tuấn Thiện khai quốc công thần ca của Nguyễn Năng Định - Thái Kim Đỉnh dịch - Danh nhân Hà Tĩnh (Tập I - Sở VHTT Hà Tĩnh. 1998).

Page 57: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

57

Nguyễn Biên cũng đưa quân gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Theo thần tích “Thượng tướng đại vương linh thần” ở đền Hầu Thượng, tổng Vân Tán, huyện Kỳ Hoa (nay là xã Cẩm Huy, Cẩm Xuyên)18 thì Nguyễn Biên quê xã Phù Lưu (nay là xã Hồng Lộc, Can Lộc) vào khai hoang và lập căn cứ chống quân Minh ở động Choác (Hoắc Sơn hay Kình Thốc), địa phận làng Khả Luật (nay thuộc xã Cẩm Hưng, Cẩm Xuyên). Sau khi đánh tan cuộc hành quân vào đàn áp của giặc, ông đưa quân giải phóng các huyện Kỳ La, Hà Hoa, và dời sở chỉ huy ra thôn Cát Thiên, tổng Thạch Khê (tức Hầu Thượng) và đặt nghĩa quân Động Choác dưới sự chỉ huy của Bình Định Vương, tiếp tục tham gia chiến trận, được phong chức Bình Ngô thượng tướng quân. Nhưng trong một trận đánh, ông bị thương nặng, được đưa về đến Cát Thiên thì mất.

Cùng gia nhập nghĩa quân Lam Sơn còn có lực lượng của Phan Liêu và Lộ Văn Luật ở châu Ngọc Ma.

Phan Liêu là con Phan Quý Hựu, quê xã Tôn Lỗ (nay là Thạch Linh, TP Hà Tĩnh). Quý Hựu theo giúp nhà Hậu Trần, làm đến Thái bảo, phản bội, đầu hàng giặc, được nhà Minh cho làm Án sát sứ ty Giao Chỉ, trực tiếp làm Tri phủ Nghệ An, được mười ngày thì chết. Người Minh cho Phan Liêu lên thay. Chính Liêu đã xúi giục Trương Phụ giết hại Nguyễn Biểu. Khi Mã Kỳ làm Thái biện sứ, hạch sách, đòi phải nộp báu vật, Liêu không chịu nổi, bèn giết quan lại nhà Minh ở Nha Nghi và đánh úp thành Nghệ An. Bị Lý Bân đuổi đánh phải chạy lên châu Ngọc Ma. Lộ Văn Luật, quê Sơn Tây, được Lý Bân sai đi đánh Phan Liêu, cũng bỏ về quê dấy quân và cuối cùng cũng chạy lên Ngọc Ma19. Theo Hoàng Minh thực lục thì khi nghĩa quân Lam Sơn đã chiếm Nghệ An làm căn cứ, Phan Liêu và Lộ Văn Luật đều theo về, được vua Lê sai ra hoạt động ở vùng Gia Hưng, Quảng Oai (Hưng Hóa, Sơn Tây).

Cùng với các lực lượng vũ trang trên đây, các từng lớp nhân dân đều nô nức ứng nghĩa, đứng dưới cờ của Bình Định Vương, có nho sĩ, thường dân

18 Sách Bách thần sự tích (chữ Hán) - Thái Kim Đỉnh dịch và chú giải, chưa xuất bản. 19 Theo Việt sử thông giám cương mục - Chính biên, Quyển XIII.

Page 58: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

58

kiệt hiệt, và rất nhiều cựu thần nhà Trần người bản địa và người các nơi mới vào sau khi nhà Trần mất.

Sách Nghi Xuân huyện thông chí (Quyển thượng) chép: Phan Nhân (1401-?) 16 tuổi đã nổi tiếng học giỏi, sợ quân Minh bắt về Bắc, bèn trốn vào rừng núi đọc sách. Năm Giáp thìn (1424) hay tin vua Lê vào Nghệ An, ông lên Trà Lân, đến cửa quân xin theo. Nhà vua thu nhận, sai viết bài ký Hành quân, được khen, và phong cho chức Sao ký chuyển vận sứ (?) lộ Tân Hưng Thượng. Sau ngày đại định, ông được coi lộ Cổ Lan, lộ Phù Lưu, rồi được thăng Yên phủ sứ lộ Nam Sách Hạ, lại về coi việc ở Thẩm hình viện, tước Trung nghị đại phu, Vân kỵ úy, Á thượng liêu ban. Sau đó ra làm Yên phủ sứ lộ Lý Nhân, mất tại nhiệm sở.

Sách Bách thần sự tích (ĐD) chép về vị thần Vân Lôi đại vương được thờ ở đền làng Yên Phú xã Ngũ Phúc (sau là Ngũ Lộc, huyện La Sơn); Ông người trấn (?) Trà Sơn (không rõ họ tên), theo vua Lê Thái Tổ làm đến chức Đô thống. Khi từ Ai Lao đưa quân xuống đánh với giặc Ngô ở trại Phù Lê, huyện Hương Sơn (tức trận đánh với quân Trần Trí lên tấn công căn cứ Đỗ Gia tháng 5/1425) bị thương nặng, qua xã này, nhỏ một giọt máu, hiển linh, dân lập đền thờ.20

Thần tích đền Tiên Dác làng Vịnh Khánh (La Sơn, Đức Thọ) chép: Thần nguyên là thợ dác, không rõ họ tên, theo nghĩa quân Lam Sơn đánh giặc lập nhiều công, sau ngày thắng lợi lại về làm nghề thợ dác để kiếm sống. Lúc mất, được dân lập đền thờ. (Địa chí huyện Đức Thọ).

Gia phả họ Lê ở Trường Xuân (La Sơn) chép về vị tổ Lê Mai vốn là nghĩa quân Lam Sơn, trở về làm nghề bốc thuốc, chữa bệnh cứu người, sau ra làm thuốc ở Lam Sơn, được tôn là “Thiên y”. Nay gia tộc còn giữ được đạo sắc đề ngày 25/7 năm Khải Định thứ 9, phong cho “Lam Sơn thiên y Lê Mai tôn thần”. (Địa chí huyện Đức Thọ).

Một vị thần khác là Cương Khấu đại vương được thờ ở xã Phú Lạp

20 Sách Khởi nghĩa Lam Sơn chép: Trong trận đánh ngày 14/5/1425 (27/4 Ất tỵ), “Quân địch tiến đánh trại quân của Lê Thiệt…” và các tác giả đoán là Lê Thiện, tức Nguyễn Tuấn Thiện. Về sau không thấy sử chép tên Lê Thiệt nữa, phải chăng Lê Thiệt chính là vị thần này?

Page 59: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

59

(Nghi Xuân) và nhiều nơi ở Hà Tĩnh, là khai quốc công thần nhà Lê. Theo nhà nghiên cứu Võ Hồng Huy thì vị thần ấy chính là Cương quốc công Nguyễn Xí, vốn quê gốc xã Cương Gián, Nghi Xuân, sau tổ là Nguyễn Hội ra ở Nghi Lộc (Nghệ An).

Trạng nguyên Sử Hy Nhan (?-1421) và Trạng nguyên Sử Đức Huy (1360-1430) quê ấp Ngọc Sơn xã Bình Lãng Thượng (nay là xã Đức Thuận, Thị xã Hồng Lĩnh). Nhà Trần mất, hai ông lui về quê dạy học. Quân Minh chiếm Nghệ An, Thượng thư Hoàng Phúc thân đi chiêu dụ cha con ông ra làm quan cho chúng. Trạng Sử lấy cớ già yếu, bệnh tật, từ chối, Trạng bảo: “Muốn sống vô rú mà ở, muốn chết thì làm đầy tớ người Minh” rồi cùng con đưa gia nhân lên ẩn bên núi Mồng Gà trên đất Kẻ Tàng. Hai ông tổ chức khai khẩn ruộng đất, lập lên làng Trại Đầu. Sử Hy Nhan viết bộ “Đại Việt sử lược” được giới sử học xưa nay đánh giá cao21, mất năm 1421, được dân lập đền thờ. Hết tang cha, Sử Đức Huy ra ứng nghĩa, giúp vua Lê, có nhiều công lao, được phong đến Tuyên lộc đại phu, Hộ bộ thượng thư. Sau khi mất, được phong phúc thần, hiệu Thùy Khánh đại vương.

Ở xã Tôn Lỗ (Đông Lỗ, nay là xã Thạch Linh, TP Hà Tĩnh) có Nguyễn Tất Vinh, Nguyễn Tất Điệt. Nguyễn Tất Vinh người huyện Đông Thành, châu Diễn, làm quan triều Trần, khi nhà Hồ lên, về ẩn ở xã Tôn Lỗ. Vua Lê khởi binh, ông ra tham gia nghĩa quân, làm chức Chánh đốc. Con trai ông là Nguyễn Tất Điệt cũng theo vua Lê, lập nhiều chiến công. Con ông Tất Điệt là Tiến sĩ Nguyễn Tất Bột (1438-?) - (Nghệ An ký).

Gia phả họ Lê, họ Phan Yên Mỹ ở Tùng Ảnh (Đức Thọ) và họ Võ ở Hương Giang (Hương Khê) chép về ba công thần Lê Bôi, Phan Đán, Võ Lộng được phong tộc điền ở xã Quyết Viết (sau là Việt Yên Hạ, nay là xã Tùng Ảnh).

Lê Bôi (sinh khoảng 1370 (?), làm thiếu úy chấp lĩnh công đời Trần, gốc ở Thanh Hoa vào ở làng Tình Di, nay là xã Sơn Hàm, huyện Hương

21 Theo PGS Trần Bá Chí thì bộ sách này bị tướng nhà Minh Hoàng Phúc cướp về, dâng nộp vào “tứ khố” (bốn kho sách lớn của triều đình nhà Minh). Về sau sách được sửa chữa và khắc in dưới tên “Việt sử lược”

Page 60: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

60

Sơn đã vài ba đời. Đại Việt sử ký toàn thư chép ông từng tham gia các trận Bồ Ải (Nghệ An, 1424), Khâu Ôn (Lạng Sơn, 1427). Ông là thủy tổ họ Lê ở Yên Nội Tây (Tùng Ảnh).

Phan Đán, gia phả không chép quê gốc ở đâu, chỉ ghi là từ Tinh Di (Sơn Hàm), có bản chép từ Lạc Phố (Sơn Châu) xuống Quyết Viết vào đầu thế kỷ XV. Ông làm quan triều Trần, giữ chức Dực vệ tướng quân, sau tham gia nghĩa quân Lam Sơn. Ông là thủy tổ họ Phan Yên Mỹ ở làng Tùng Ảnh xã Việt Yên Hạ, nay là xã Tùng Ảnh”.22

Võ Lộng, nguyên họ Nguyễn quê Thanh Hoa, tham gia nghĩa quân Lam Sơn, vào ở Thổ Hoàng khoảng sau 1416, sau xuống Quyết Viết. Hiện ở nhà thờ họ Võ xã Hương Giang còn có mộc chủ với vị hiệu viết sơn vàng trên nền sơn đỏ: “Thượng tổ Nguyễn thị, tiền Lê cần vương sự hữu võ công, tứ tính Võ, phong Đồng nhung đại tướng” (Ngài Thượng tổ họ Nguyễn, đời Lê trước theo giúp vua có võ công, được cho đổi sang họ Võ và phong làm Đổng nhung đại tướng)23. Cũng theo gia phả thì ông dựng ngôi chùa Phúc Khánh, thường gọi chùa Nhắt, Mộ ông táng trong vườn chùa, trước có bia mộ.

*

* *

Dưới triều Lê, Nguyễn, ở Hà Tĩnh còn có hai vị nổi tiếng về sự chính trực:

Bùi Cầm Hổ (TK XV) quê xã Độ Liêu, huyện Thiên Lộc. Bình sinh, ông rất ghét bọn xu nịnh Lê Đỗ, Lương Đăng… và bọn gian hiểm Lê Quốc Khí, Trịnh Hoàng Bá... nhiều lần can ngăn vua Lê Thái Tông không nên tin dùng. Khi Lê Sát lộng quyền, đã tìm mọi cách giết hại các công thần Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo. Cao Sư Đảng là thợ cả có tài bị trưng dụng

22 Các bộ chính sử không chép về Phan Đán, nhưng gia phả họ Lê chép Phan Đán làm thông gia với Lê Bôi (Con trai Lê Bôi là Hương cống Lê Thực lấy Phan Thị Đương con gái trưởng của Phan Đán). Phan Sơn Phủ (1422-?) cháu 7 đời họ Phan Tùng Mai (Tùng Ảnh) cũng là chắt ngoại của Phan Đán. 23 Chính sử cũng không chép về Nguyễn/Võ Lộng.

Page 61: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

61

làm chùa chiền lâu ngày, khổ sở, mệt nhọc. Khi làm chùa Thiên Bảo, Sư Đảng rỉ tai với nhóm thợ cùng làm: “Nhà vua không có đức, các quan đua nhau ăn của đút lót, đưa bọn người bất tài lên những chức này, chức nọ, có gì gọi là thiện đâu mà làm chùa to để cầu phúc!”. Có kẻ tố giác, Sư Đảng bị Lê Sát khép vào tội chết chém. Bùi Cầm Hổ và nhiều người khác ra sức can ngăn vẫn không được. Lê Sát còn làm nhiều việc sai trái khác, ông dâng sớ hặc tội. Vua Lê Thái Tông cũng làm nhiều việc trái với di huấn của tiên đế. Bằng mọi cách, ông và nhiều đình thần can ngăn. Cuối cùng, Bùi Cầm Hổ bị biếm truất, đẩy ra trấn trị Lạng Sơn, đến khi Lê Sát phạm tội, mới được về triều. Nhà vua ra lệnh chém bêu đầu Lê Sát, Bùi Cầm Hổ lại can vua không nên dùng hình phạt đến mức đó đối với một đại thần từng có công đánh giặc và từng là phụ chính…

Phan Huân (1814-1864) người xã Phù Lưu Thượng, huyện Thiên Lộc, đỗ Cử nhân khoa Quý mão (1843) đời Thiệu Trị. Khi làm Tri huyện Chương Đức, gặp năm mất mùa, có hai xã dân đói gay gắt, triều đình vẫn bắt nộp thuế… Ông nhiều lần bẩm báo xin tha thuế cho dân, vẫn không được xét, bèn thân hành vào Huế kêu xin, được việc mới thôi. Sau làm Giám sát ngự sử, một chức quan nhỏ ở tỉnh, được tin triều đình ký hòa ước dâng ba tỉnh Nam kỳ cho Pháp24, ông đã dâng sớ đàn hặc. Lá sớ có câu, dịch: “Thiên hạ (Đất nước) là của cả thiên hạ (nhân dân) không phải là thiên hạ (đất nước) riêng của nhà vua mà nhà vua một mình được chuyên quyền” và “Trước xin chém Phan Thanh Giản ở trước trận để nghiêm quân lệnh; thứ, đuổi Trương Đăng Quế về nhà để ngăn chặn mưu gian”. Lá sớ phạm thượng ấy dẫn đến kết quả là Phan Huân bị gọi về kinh “hậu cứu”, đưa ra giúp việc đê điều, rồi bị cách chức, đuổi về.

*

* *

Cuối thế kỷ XIX đất nước lại phải đương đầu với cuộc xâm lược của đế quốc phương Tây, dẫn tới cuộc đô hộ của Pháp suốt 60 năm.

Anh hùng nghĩa sĩ khắp nơi hưởng ứng Cần Vương giết giặc. Riêng ở 24 Hòa ước năm Nhâm tuất (1862) ký giữa đại diện triều đình Huế Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp (Tiếp) và đại diện Pháp, Thiếu tướng Bonard.

Page 62: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

62

Hà Tĩnh có các nghĩa sĩ:

Lê Ninh, thường gọi Ấm Ninh (1857-1887) là con trưởng Cử nhân Lê Khanh ở Trung Lễ, La Sơn, Đức Thọ. Hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông tổ chức lực lượng khởi nghĩa ở làng quê, đưa quân vào hạ tỉnh thành Hà Tĩnh, rồi lên Sơn phòng Hương Khê bái mạng, được vua Hàm Nghi phong làm Bang biện quân vụ. Quân Pháp tấn công vào đại đồn Trung Lễ, ông rút quân lên Hương Sơn, gia nhập nghĩa quân Phan Đình Phùng. Chẳng may, ông ốm nặng và mất ở quê vợ, làng Phù Long (Nam Đàn, Nghệ An).

Phan Cát Xu (Tiu) (1846-1886) người làng Đông Thái, La Sơn, Đức Thọ. Ông đỗ Cử nhân khoa Giáp thân (1884), vào Huế thi Hội, gặp khi kinh thành thất thủ, bèn theo vua Hàm Nghi ra Quảng Trị rồi lĩnh mệnh về quê mộ quân khởi nghĩa Cần Vương. Ông đưa quân đánh thắng giặc mấy trận trên sông La và sông Ngàn Sâu. Trong trận phục kích binh thuyền Pháp ở ghềnh Tàng (xã Dị Ốc) từ 3 giờ sáng đến 5 giờ chiều, ông bị thương nặng, cùng em và con trai đều hy sinh. Số quân sĩ còn lại đều đi theo Phan Đình Phùng.

Phan Đình Phùng (1847-1896) là đại diện xuất sắc của sĩ phu yêu nước Nghệ Tĩnh, quê làng Đông Thái, La Sơn, Đức Thọ. Đỗ đình nguyên tiến sĩ khoa Đinh sửu (1887) làm đến Ngự sử Viện đô sát. Ông là người cương trực, can đảm, từng dâng sớ đàn hặc các văn võ đại thần đã tâu láo kết quả thi bắn súng ở cửa Thuận An, vạch tội Kinh lược sứ Bắc kỳ Nguyễn Chánh, và dám phản đối việc Phụ chính Tôn Thất Thuyết phế truất vua Dục Đức… Vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Hà Tĩnh, ông đưa một số sĩ phu lên bái mạng, được phong Tán lý quân vụ đại thần, thống lĩnh các đạo quân Cần Vương. Được sự giúp đỡ của Cao Thắng và tướng sĩ, ông trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược ở bốn tỉnh Bắc Trung kỳ. Nhân dân gọi ông là “Sơn trung Tể tướng”. Người Pháp cũng phải kính nể, gọi là “Ông Nghè phản kháng” (De Docteur rebelle), là “Đối thủ trung thực” (Adversaire loyal).

Cao Thắng (1864-1893), sinh tại thôn Yên Đức, xã Tuần Lễ, Hương Sơn. Ông nội ông, Cao Quỳ quê làng Phúc Dương, vốn là nhà nho nghèo, dời sang đây cày ruộng. Lên mười, Cao Thắng đã đi theo Đội Lựu, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Cờ Vàng năm Giáp tuất (1874). Đội Lựu (Trần Quang

Page 63: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

63

Cán) bị giết, Cao Thắng được Giáo thụ Phan Đình Thuật (anh ruột Phan Đình Phùng) che chở, nuôi nấng. Năm 1884, ông Thuật mất, Cao Thắng về quê cày ruộng, nhưng bị vu tội giết vợ Quản Loan, bị bắt giam ở lao Hà Tĩnh. Năm Ất dậu (1885) Lê Ninh đánh thành Hà Tĩnh, được giải thoát, Cao Thắng về quê tổ chức lực lượng chống Pháp25 rồi gia nhập nghĩa quân Phan Đình Phùng. Năm 1887 cụ Phan ra Bắc, giao binh quyền cho Chưởng vệ Cao Thắng… Là người có tài tổ chức và chỉ huy, ông xây dựng các căn cứ Cồn Chùa (Hương Sơn), Thượng - Hạ Bồng, Hói Trùng, Hói Trí, tổ chức luyện tập, và trang bị cho nghĩa quân, chế tạo vũ khí nhất là chế ra súng kiểu Tây - 1874, tích trữ lương thực… Khi cụ Phan ở Bắc về thì nghĩa quân đã thành một lực lượng hùng hậu… Năm 1893, ông đã xin cụ Phan cho xuống đánh thành Nghệ An để phá cái thế bị hãm trong vùng rừng núi. Nhưng trên đường, ông bị tử thương trong trận đánh đồn Nu ở Thanh Chương… Cái chết của Cao Thắng là tổn thất không thể bù đắp được của cụ Phan và nghĩa quân Cần Vương.

*

* *

Đầu thế kỷ XX, hội Duy Tân thành lập, do Phan Bội Châu lãnh đạo. Cuộc vận động Duy Tân và phong trào Đông Du do Hội phát động dấy lên mạnh mẽ. Ở Hà Tĩnh, những người tham gia tiêu biểu có các nhà khoa bảng (Tiến sĩ Ngô Đức Kế, Giải nguyên Lê Văn Huân, Cử nhân Đặng Văn Bá, các Tú tài Phạm Văn Ngôn, Nguyễn Đình Kiên, Nguyễn Duy Phương…), các nho sĩ (Nguyễn Hàng Chi, Trịnh Khắc Lập, Trần Sĩ Dực, Phạm Văn Thản, Lê Võ, Đặng Văn Cáp, Võ Tĩnh…) các nghĩa sĩ thời Cần Vương còn lại và quân nhân (Lê Quyên, Hồ Bá Phấn, Đinh Văn Truyền…), các chức sắc và giáo dân Thiên Chúa giáo (Linh mục Đỗ Quang Lĩnh, Mai Lão Bạng, Trần Văn Bỉnh…).

Trong số đó, có bốn vị có vai trò quan trọng và tầm ảnh hưởng lớn trong phong trào:

Ngô Đức Kế (1879-1929), quê xã Trảo Nha, nay là thị trấn Nghèn, 25 Có tài liệu nói sau khi ra tù, Cao Thắng theo Lê Ninh, đến lúc Lê Ninh mất, ông đem quân theo Phan Đình Phùng.

Page 64: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

64

huyện lỵ Can Lộc. Là con cháu một dòng họ võ thần và khoa bảng nổi tiếng lâu đời, Ngô Đức Kế là một học trò xuất sắc, 18 tuổi đỗ Cử nhân (1897), 23 tuổi đỗ Tiến sĩ (1903). Nhưng ông không xuất chính, mà đi theo con đường đấu tranh cứu nước. Ông có mặt từ ngày đầu trong phong trào cách mạng Duy Tân, mở hiệu buôn ở Nghèn, và cùng Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Văn Bá, Lê Văn Huân… mở Triêu Dương thương điếm ở Vinh, tham gia ban trước tác của Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội, nhiều lần liên lạc, bàn bạc công việc của hội Duy Tân với Phan Bội Châu. Năm 1908 ông cùng nhiều chí sĩ bị bắt, đày ra Côn Đảo. Ở đây ông gặp Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh. Hết hạn đi đày, năm 1921, ông về quê rồi ra Hà Nội làm báo Hữu thanh và mở Giác quần thư xã, và mất năm 1929. Ngô Đức Kế là một nhà cựu học uyên thâm và cũng có kiến thức rộng về tân học, đấu tranh không khoan nhượng với thực dân Pháp và tay sai. Tên ông luôn gắn với tên các chí sĩ - đồng chí như: Phan Bội Châu, Đặng Nguyên Cẩn, Huỳnh Thúc Kháng…

Lê Văn Huân (1876-1929) là con Cử nhân Lê Văn Thống ở Trung Lễ, La Sơn, và là cháu gọi Phan Đình Phùng bằng cậu ruột. Ông đỗ Giải nguyên trường Nghệ năm 1906. Vốn là học trò của thầy giáo Nguyễn Thức Tự ở Đông Chử, Nghi Lộc, ông quen biết Phan Bội Châu, là học trò lớp trước. Ông tham gia hội Duy Tân, mở hiệu buôn Mông Hanh ở chợ Trổ và cùng các ông Ngô, Đặng mở Triêu Dương thương điếm ở Vinh. Năm 1908, ông cùng nhiều yếu nhân trong hội Duy Tân bị bắt đày ra Côn Đảo. Năm 1917, được tha và bị quản thúc ở quê, nhưng ông vẫn liên lạc với các chí sĩ và các trí thức tân học để gây dựng lại phong trào cách mạng. Năm 1925, nhân ngày Quốc khánh Pháp (14/7), Lê Văn Huân cùng Tôn Quang Phiệt, Trần Đình Thanh (Trần Mộng Bạch), Ngô Đức Diễn cùng mấy người khác họp ở Rú Quyết Bến Thủy quyết định thành lập hội Phục Việt (sau đổi là Hưng Nam, cuối cùng lấy tên Tân Việt cách mạng đảng). Lê Văn Huân trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Hội… Tháng 9/1929, ông bị bắt ở Đức Thọ, đưa về giam ở lao Hà Tĩnh. Ông tuyệt thực đấu tranh chống chế độ hà khắc của nhà tù và mất trong lao…

Nguyễn Hàng Chi (1886-1908) người làng Đông Thượng, xã Ích Hậu, Can Lộc, em Đầu xứ Nguyễn Đức Thuận (Nguyễn Hiệt Chi). Cũng như anh, ông hay chữ, nhưng không đi thi, từng làm bài thơ có câu: “Thi cử

Page 65: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

65

làm chi rứa các thầy? - Văn chương không đuổi được thằng Tây…”. Là hội viên hội Duy Tân, năm 1907, đi Nam - Ngãi về, đầu năm 1908, ông đứng lên kêu gọi hưởng ứng phong trào chống thuế, trở thành người lãnh đạo ở Hà Tĩnh. Cùng với các yếu nhân khác của Hội như Trịnh Khắc Lập (Nghi Xuân), Phạm Văn Thản (Đức Thọ), Võ Phương Trứ (Cẩm Xuyên), Nguyễn Duy Phương (Hương Khê)… Nguyễn Hàng Chi đã phát động, tổ chức các cuộc xin sưu rầm rộ ở Can Lộc, Nghi Xuân, tỉnh lỵ Hà Tĩnh… Nhân dịp này, thực dân Pháp tăng cường khủng bố, bắt nhiều nhân vật chủ chốt của hội Duy Tân, giam cầm, đày đi Côn Đảo, và kết án tử hình Nguyễn Hàng Chi, Trịnh Khắc Lập.

Mai Lão Bạng (1866-1942) chính tên là Gioan Baotixita Mai Văn Châu, con một gia đình theo đạo lâu đời ở làng Quảng Ích, tổng Đậu Chử, Kỳ Anh. Ông tốt nghiệp Đại chủng viện Xã Đoài, làm thầy giảng, thường gọi Già Châu. Ông với thầy già Lê Khánh, cùng đọc “Tân thư” và giúp các Linh mục Nguyễn Tường, Nguyễn Thần Đồng, Đỗ Quang Lĩnh, tập hợp các chức sắc và giáo dân yêu nước có chí hướng chống Pháp vào Duy Tân giáo đồ hội Nghệ Tĩnh, hoạt động theo tôn chỉ của Hội Duy Tân. Năm 1908, Mai Lão Bạng được Hội cử xuất dương sang Nhật Bản, hoạt động bên cạnh Phan Bội Châu, và bị chính phủ Nhật Bản trục xuất cùng với các du học sinh. Ông sang Xiêm, bị chính phủ Xiêm bắt giam 4 tháng và trục xuất khỏi đất Xiêm. Ông qua Hương Cảng lại bị chính quyền Anh bắt (1909). Năm 1910, ông gặp Phan Bội Châu ở Quảng Đông, và được cử sang Xiêm hoạt động với Đặng Thúc Hứa. Năm 1911, ông sang Trung Quốc dự hội nghị thành lập Việt Nam quang phục hội (thay thế Hội Duy Tân), được bầu làm Kinh tế bộ ủy viên, sau chuyển làm Phó tổng trưởng bộ Tài chính. Cuối năm 1913, Phan Bội Châu và Mai Lão Bạng đều bị Long Tế Quang bắt giam ở Quảng Đông. Năm 1917 Phan ra tù, vận động cho Mai được tha. Nhưng ông đến Thượng Hải thì lại bị Pháp bắt cùng với Nguyễn Đình Kiên, Kim Đài đưa về nước giam ở Vinh rồi đày ra Côn Đảo hơn chục năm. Được tha, ông về Vinh lập gia đình và mất vào năm 1942.

*

* *

Trong cao trào cách mạng thời Xô-viết Nghệ Tĩnh, những tấm gương

Page 66: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

66

nghĩa liệt trong quần chúng không hiếm. Một bà mẹ có con trai là cán bộ cộng sản, bị địch buộc phải gọi con về ra đầu thú, đã tự sát để bảo vệ cho con đi hoạt động. Một lý trưởng đi rình tìm cho được các cán bộ bí mật, xin được đi theo, về sau bị địch bắt, trói trên đồi phơi nắng vẫn không chịu khuất phục. Một gia đình nông dân nghèo, chồng làm giao thông bí mật, trong nhà nuôi giấu hai người làm ấn loát, in truyền đơn. Một hôm cháy nhà, có đứa con nhỏ chết cháy, thế mà vợ chồng vẫn một mực trung thành, không bỏ công việc, không rời tổ chức…

Trong những đợt khủng bố trắng 1930-1931 và 1939-1940, hàng nghìn cán bộ và quần chúng cách mạng bị o ép, bắt bớ, tra tấn, giam cầm, bắn giết, trong đó có rất nhiều người là cán bộ lãnh đạo cấp huyện, cấp tỉnh. Bí thư tỉnh ủy lâm thời Trần Hữu Thiều (tức Lai, tức Nguyễn Trung Thiên), bị xử bắn. Bí thư Tỉnh ủy chính thức đầu tiên Nguyễn Châu bị giam cầm, tra tấn, chết trong nhà lao Vinh. Nhiều người con em Hà Tĩnh là cán bộ trung ương Đảng cộng sản hoặc xứ ủy cũng hy sinh. Lê Duy Điếm, một trong những người cộng sản đầu tiên hoạt động hải ngoại, từng bị Tòa án Vinh kết án tử hình vắng mặt cùng với Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Trần Phú, đau và mất ở Xiêm. Tổng bí thư Hà Huy Tập và cán bộ xứ ủy Lê Bá Cảnh cùng bị xử bắn với nhiều nhà lãnh đạo cuộc Nam Kỳ khởi nghĩa. Anh thanh niên cộng sản Lý Tự Trọng (Lê Văn Trọng) bị xử tử hình lúc vị thành niên, đưa vào xà-lim án chém một cuốn Truyện Kiều, ngày ngày ngâm ngợi. Và Tổng bí thư Trần Phú, trước khi qua đời ở nhà thương Chợ Quán còn nhắn gửi các đồng chí của mình: “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu!”.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, toàn dân, trẻ, già, trai, gái không những giữ vững mà phát huy đến đỉnh điểm “chí khí chiến đấu” trong công cuộc xây dựng, bảo vệ hậu phương, chi viện, phục vụ tiền tuyến. Chỉ riêng số thanh niên vào bộ đội đã có 136.700 người (trong kháng chiến chống Mỹ cứ mười người dân, có một người nhập ngũ). Ngót 16.000 người đã hy sinh trên các chiến trường từ Bắc vào Nam, và hàng vạn người là thương binh, bệnh binh, 30 người được phong, tặng danh hiệu Anh hùng quân đội hoặc Anh hùng lực lượng vũ trang nhân

Page 67: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

67

dân”.26

Mọi sự hy sinh đều cao cả và đáng kính. Ở đây xin nhắc đến ba trường hợp điển hình mà sự hy sinh có ý nghĩa đặc biệt:

Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Lê Thiệu Huy (1920-1946), con trai độc nhất của Giáo sư Lê Thước, một trí thức cách mạng, được Hồ Chủ tịch cử sang giúp nước bạn Lào, giữ chức Tham mưu trưởng Liên quân Việt - Lào. Khi bị quân địch tấn công, ông đi cùng Hoàng thân Xuphanuvông một thuyền, vượt qua sông Khóng (Mêkông), lấy thân mình chắn đạn và hy sinh trên tay Hoàng thân.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Phan Đình Giót (1922-1954) một nông dân tham gia Vệ quốc quân, đã “lấy mình lấp lỗ châu mai”, dập tắt một hỏa điểm nguy hiểm của địch, tạo điều kiện cho đồng đội xông lên, tiêu diệt cứ điểm Him Lam, mở đầu chiến dịch lịch sử, kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp.

Và trong cuộc chống Mỹ, cứu nước, Võ Sỹ Giáp (1945-1972) là sĩ quan không quân. Trong một trận không chiến với quân Mỹ, máy bay bị thương, được lệnh nhảy dù, nhưng để tránh thiệt hại cho khu công nghiệp Việt Trì, ông lái quặt sang huyện Vĩnh Tường, được lệnh nhảy dù, lại gặp trường học xã Thượng Trung đang giữa giờ chơi của các em nhỏ, đành kéo cần lái vượt qua. Máy bay rơi xuống cánh đồng gần đó, và ông bị tử thương…

*

* *

Thông minh, tài năng, là đặc điểm nổi bật thứ hai của con người vùng đất Hồng Lam. Thật ra thì nghĩa khí và tài năng là hai mặt liên quan chặt chẽ, không thể tách rời. Trên đất Hà Tĩnh bây giờ, từ xa xưa, đã có những “con người truyền thuyết” mà tài năng được nhiều người biết đến. Một người con gái đất Phổ Minh, hát giỏi mà bạc mệnh, mất tích trong một lần

26 Theo sách “Hà Tĩnh 30 năm kháng chiến” (1945-1975) - BCHQS Hà Tĩnh, 1998. Con số chính xác là: - Trong kháng chiến chống Pháp: 43.780 người nhập ngũ, 2.930 liệt sĩ. - Trong kháng chiến chống Mỹ: 92.913 người nhập ngũ, 13.024 liệt sĩ. - Tổng cộng: 136.693 người nhập ngũ, 15.954 liệt sĩ. Trong bài ghi số tròn.

Page 68: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

68

vào Ngàn Hống lấy củi, đã trở thành “Thần hát ví”. Một chàng trai bên bờ sông Phố, giỏi nghề thợ dác, đi theo nghĩa quân Lam Sơn, ngày thắng lợi lại trở về tiếp tục hành nghề, khi mất, được dân dựng miếu thờ và gọi là “Tiên Dác”. Một Võ Đức Huyền là “Thánh địa lý Tả Ao”. Một Lê Mai ở Kẻ Thượng là “Thần Y” và một Nguyễn Cảnh ở Tiên Điền là “Thánh Y”. Một Sáu Ngại - Nguyễn Huy Ngại, được dân thợ mộc Thái Yên gọi là “Á Thánh” sau Thánh thợ Lỗ Ban. Dân gian còn truyền một “ông kẻ bề” có tài vặt bách chiến, bách thắng có cái tên lạ “Ông Ồ”. Một bà mụ người làng Lạc Dị giỏi nghề hộ sinh, được khái (hổ) đến cõng vào rừng đỡ đẻ cho khái mạ (hổ mẹ), nên dân trong vùng gọi là “mụ Khái”. Một Trần Hồ, vạn chài, có tài lặn bắt cá dưới nước được vua Lê Thánh tông ban cho tên… “Thám Hồ”. Và những người có tài khôi hài thì dân xứ Nghệ gọi là “Trạng”.

Chuyện người tài trong dân gian thì phải kể hàng tháng, hàng năm. Ở đây chỉ nói đến một số nhân tài lỗi lạc, tiêu biểu nhất cho tài năng của nhân dân ta. Họ là con em của vùng đất núi Hồng sông Lam văn vật, và là những người góp công lớn tạo nên đất văn vật Hồng-Lam. Đó là những ông Trạng, ông Bảng, ông Thám, ông Nghè, ông Cử, là những trí thức tân học hiện đại.

Từ thời Lý - Trần, Thăng Long và vùng phụ cận, Nho học đã phát triển mạnh mẽ, thì Thanh, Nghệ còn là đất trại xa xôi. Nếu lấy khoa cử làm mốc, việc học ở đây chậm sau 2 thế kỷ. Và Nghệ (Nghệ Tĩnh) so với Thanh cũng chậm hơn một bước. Nhưng từ cuối đời Trần, nhất là dưới hai triều Lê - Nguyễn, xứ Nghệ nổi tiếng là đất học, có nhiều người học, chăm học, và học giỏi.

Đời Lê, ở Thăng Long có câu truyền tụng: “Bánh dẻo như văn Hoàng Trừng” (người La Giang); lại có câu: “Bút Cấm Chỉ, sĩ Thiên Lộc” - Bút tốt bán ở phố Cấm Chỉ, còn “sĩ Thiên Lộc” chỉ Võ Toại, tức Võ Diệm, một trong “Tràng An tứ hổ” Quỳnh, Tân, Lân, Toại. Một bộ “Tràng An tứ hổ” khác gồm Sĩ Bồi, Sĩ Bạt, Quang Hiển, Tất Đạt thì ba người quê Thiên Lộc. Trong “Nghệ An tứ hổ” có Lê Đăng Truyền, Đỗ Minh Dương là học trò đất Nghi Xuân. Đời Nguyễn, bên Nghệ có “Nam Đàn tứ hổ”, bên Tĩnh có “Thiên Lộc tứ hổ” gồm Lưu Công Đạo, Mai Thế Chuẩn, Phạm Quỳ, Lê Hồng Hàn. Văn chương của Ngụy Khắc Đản được vua Tự Đức phê là “Hạc

Page 69: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

69

lập kê quần” - Chim hạc đậu giữa đàn gà.

Ngoài Sử Đức Huy, Bùi Cầm Hổ, còn có nhiều danh thần từng được ghi vào sử sách:

- Nguyễn Văn Giai (1554-1628) người phường Phù Lưu, đỗ Tam nguyên Hoàng giáp đời Lê Thế Tông, có công giúp chúa Trịnh đánh nhà Mạc lại có công trong việc ngoại giao với nhà Minh, được thăng đến Tham tụng, Thượng thư bộ Lại, kiêm chưởng sáu bộ, tước Lễ Quận công. Ông là người nghiêm khắc và chí công, vua Lê, chúa Trịnh đều vị nể.

- Dương Trí Trạch (1586-1662) người xã Bạt Trạc, đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ mùi (1619). Năm 1630 làm Chánh sứ sang nhà Minh, khi về được thăng chức Bồi tụng. Lại có công đánh nhà Mạc, được thăng Thượng thư bộ Lễ, tước Bạt quận công. Lúc trí sĩ, thăng Thượng thư bộ Lại, Quốc lão Thái bảo. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” viết: Ông “tính cương trực, giữ phép nước, không ai thỉnh thác điều gì được. Bàn việc gì tuy tỏ ra nghiêm khắc, nhưng theo lẽ công bình, giữ mực ngay thẳng”.

- Nguyễn Nghiễm (1708-1775) người xã Tiên Điền, đỗ Hoàng giáp khoa Tân hợi (1731). Ông có công sách lập (đưa vua Hiển Tông lên ngôi), được thăng Tham chính Sơn Nam, đổi sang Tế tửu Quốc tử giám, sau có công đánh dẹp các cuộc nổi dậy, trong đó có việc đánh Lê Duy Mật, được phong dần lên đến Thượng thư bộ Công, Tham tụng, rồi Thái tử Thái bảo tước Xuân Quận công, gia Đại tư không, cuối cùng thăng Đại tư đồ, trí sĩ, lại được vời ra làm Tể tướng. Ông là thầy của nhiều tiến sĩ và cũng là nhà sử học tầm cỡ với bộ “Việt sử bị lãm” gồm 7 quyển, được Phan Huy Chú khen là “danh bút”. “Ông có tài lược văn võ… Trải thờ ba triều, quanh quẩn chỗ đài thự, vào làm tướng văn, ra làm tướng võ, ở ngôi Tể tướng 15 năm. Ông xếp đặt gọn mọi việc bề bộn, đối xử ứng tiếp lúc nào cũng như lúc nào. Ân vương thường khen là người có đức vọng, tài trí. Là bậc nguyên lão trong nước, làm cột đá cho triều đình, công lao và danh vọng long trọng…” (“Lịch triều hiến chương loại chí”).

- Ngụy Khắc Tuần (1799-1854) người xã Xuân Viên, đỗ Tiến sĩ khoa Bính tuất (1826) làm đến Tuần phủ, Tổng đốc, rồi Thượng thư bộ Hộ kiêm Tổng tài Quốc sử quán, Tế tửu Quốc tử giám, tặng Hiệp biện đại học sĩ, lúc mất được thờ ở đền Hiền Lương. Ông là ông quan nổi tiếng thanh cần.

Page 70: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

70

Làm Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, vào bệ kiến, được vua Minh Mệnh ban thơ, có câu “Nhất phương trữ kiến cam đường hóa - Tam khổn trừng sinh mạch tuệ âm” (Một vùng từng được bóng cam đường che chở - Ba trấn sinh ra mạch nước trong, cho mùa màng sinh sôi). Ông tâu về triều xin lấy châu Ninh Biên đặt làm phủ Điện Biên… vua Thiệu Trị dụ rằng: “Ngụy Khắc Tuần vỗ họp dân cõi biên, mở thành một phủ, có công kiến nghị ra trước, giao cho bộ Lại xét công khen thưởng”, lại cho dựng bia ghi công ông ở Điện Biên.

Hương cống Bùi Quốc Toại (1718-1775) người làng Yên Hội, nghèo xác nhưng rất được trọng vọng. Học trò của ông có nhiều người thành đạt, trong đó có các Tiến sĩ Lê Hữu Dung, Nguyễn Đường, Phan Bảo Định…, các Tạo sĩ (Tiến sĩ võ) Võ Tá Kiên, Võ Tá Bật, Võ Tá Thời, Võ Tá Dự, Trịnh Thư, Văn Đình Cung, Văn Đình Toại, Phạm Đình Lượng… (Yên Hội thôn chí). Đời Nguyễn có Tiến sĩ Phan Nhật Tỉnh (1816-?) người Việt Yên Hạ, là tấm gương “học không chán, dạy không mỏi”, làm Tế tửu Quốc tử giám, cũng là thầy của nhiều Tiến sĩ, Cử nhân, trong đó có Thám hoa Đặng Văn Kiều.

Thám hoa Nguyễn Huy Oánh “có 30 học trò đỗ Tiến sĩ, còn Hương cống thì không tính hết”, lại là “đại thụ trong dòng Bách khoa thư thế kỷ XVIII”.

Hoàng giáp Bùi Dương Lịch có nhiều học trò xuất sắc như các Tiến sĩ Ngụy Khắc Tuần, Nguyễn Hoằng Nghĩa, và con trai ông, Hoàng giáp Bùi Thức Kiên. Ông lại là tác giả của các công trình địa chí, sử học, giáo dục học xuất sắc.

Lê Hữu Trác (1720-1791) quê gốc Hải Dương, nhập cư quê mẹ Tình Diệm, Hương Sơn, là đại danh y, cũng là nhà trước tác khoa học và văn học lớn. Bộ “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” 64 quyển được giới y học trong nước và quốc tế đánh giá rất cao, trong đó có bốn tác phẩm văn hóa xuất sắc. “Thượng kinh ký sự”, “Y dương án”, “Y âm án”, “Y lý thâu nhàn lý ngôn phụ chí”.

Phan Huy Chú (1782-1840) con Tiến sĩ Phan Huy Ích, quê xã Thu Hoạch, ra ở Sài Sơn, hai lần đỗ tú tài, thường gọi Kép Thầy, là tác giả nhiều công trình khoa học, văn học xuất sắc, “chỉ riêng bộ “Lịch triều hiến

Page 71: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

71

chương loại chí” (49 quyển) cũng đã đủ nâng ông lên hàng nhà bác học. Công trình ấy của ông đến nay được hầu hết giới học thuật khen ngợi là công trình bách khoa” (“Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (NXB TH TP.HCM).

Về văn chương, người xưa xếp vào “Nghệ An ngũ tuyệt” (năm môn giỏi của đất Nghệ An) là: “Nam Hoa phú” - Phú của Nam Hoa (Nam Kim). “Hoàn Hậu sách - Văn sách của Hoàn Hậu (Quỳnh Đôi) bên Nghệ ngày nay, và “Tiên Điền tao” - Thơ của Tiên Điền, “Lai Thạch văn” - văn của Lai Thạch, “Việt Yên thị” - Thơ của Việt Yên, bên Tĩnh. Trong “An Nam ngũ tuyệt” - (Năm nhà thơ giỏi nước Nam) thì chú cháu Nguyễn Du, Nguyễn Hành chiếm hai ghế.

Đặc biệt, về Văn Nôm, cùng với Hồ Xuân Hương, Nguyễn Hữu Chỉnh (bên Nghệ), bên Tĩnh cũng có Nguyễn Huy Tự - Nguyễn Thiện, Phan Huy Ích, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ.

*

* *

Trong hàng ngũ của các nhân tài Việt Nam hiện đại, có không ít những người của vùng quê núi Hồng, sông Lam.

Các nhà giáo bao giờ cũng đáng được nhắc đến trước tiên. Ở đây chỉ xin nói về G.S Lê Thước (1891-1976), thầy của những người thầy. Ông người làng Trung Lễ, vừa đỗ Giải nguyên Hán học, vừa tốt nghiệp trường Cao đẳng sư phạm Đông Dương, là nhà giáo tân học lớp đầu tiên, rất được học trò và xã hội tôn trọng về học thức uyên thâm, và nhân cách cao đẹp, mẫu mực.

Rất nhiều nhà khoa học đầu ngành phần lớn cũng là nhà giáo. Cùng quê làng Trung Lễ với G.S Lê Thước, có nhà giáo Lê Văn Thiêm (1918-1991) là nhà toán học Việt Nam đầu tiên có học vị Tiến sĩ quốc gia trong lĩnh vực toán học ở Pháp. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông về nước tham gia kháng chiến, được giao trọng trách thành lập và làm Hiệu trưởng hai trường Khoa học cơ bản và Sư phạm cao cấp, về sau được cử làm ủy viên Ủy ban khoa học nhà nước. Ngoài các công trình nghiên cứu khoa học, công lao lớn nhất của ông là đào luyện một đội ngũ các nhà toán học,

Page 72: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

72

tạo nên nền Toán học Việt Nam. G.S Lê Văn Thiêm được tặng “Giải thưởng Hồ Chí Minh” về khoa học (1995).

Lớp sau có Tiến sĩ Toán lý Phan Đình Diệu sinh năm 1937 ở xã Trung Lộc. Ông từng là Phó viện trưởng Viện khoa học Việt Nam, Phó chủ tịch hội đồng quốc tế về Toán học trong các nước đang phát triển, Phó trưởng ban chỉ đạo Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin…; là nhà toán học có uy tín với nhiều công trình khoa học đặc sắc.

Nguyễn Đình Tứ (1932-1996) người xã Song Lộc, là nhà vật lý hạt nhân, từng là Viện trưởng Viện năng lượng nguyên tử hạt nhân, cộng tác viên tại Viện Đupna (Liên Xô), sau là Bộ trưởng Bộ đại học và Trung học chuyên nghiệp.

Nhà sinh vật học Giáo sư Tiến sĩ Võ Quý (sinh năm 1929) quê xã Yên Hồ, từng giữ các chức vụ Giám đốc Trung tâm tài nguyên và môi trường Đại học tổng hợp Hà Nội. Phó chủ tịch Ủy ban Quốc gia về Con người và khí quyển, Phó chủ tịch Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, Phó chủ tịch các ngành sinh học Việt Nam, thành viên của 6 tổ chức và hội quốc tế, là ủy viên Ban lãnh đạo của Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Ông được chương trình môi trường của Liên Hiệp Quốc tuyên dương công trạng và nhận nhiều giải thưởng của các tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới.

Về y khoa, nổi trội trong số con em vùng đất này có Giáo sư Tiến sĩ Lê Kinh Duệ, quê xã Sơn An và Giáo sư Tiến sĩ Hà Văn Mạo, quê xã Tiên Điền, đều sinh năm 1927. Lê Kinh Duệ là chuyên gia hàng đầu về bệnh da liễu, Hội trưởng Hội da liễu Việt Nam, Phó chủ tịch Hội các nhà nghiên cứu bệnh phong quốc tế (ALLF). Hà Văn Mạo là chuyên gia hàng đầu về các bệnh tiêu hóa, Phó chủ tịch Hội tiêu hóa Việt Nam, Chủ tịch Hội gan mật Việt Nam, ủy viên các Ủy ban chuyên khoa của Hội tiêu hóa thế giới (OMGE), ủy viên Ban chấp hành Hội gan mật Đông Nam Á, thành viên Viện hàn lâm khoa học New York (Mỹ).

Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, rất nhiều người nổi tiếng trong nước và trên thế giới.

Học giả Trần Trọng Kim (1882-1953) người xã Đan Phố. Ông nghiên cứu về giáo dục học, văn học, Phật giáo, Nho giáo, Lịch sử… và có nhiều

Page 73: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

73

công trình được đánh giá cao. Bộ “Việt Nam sử lược” (2 quyển) “là một sử phẩm giản lược, khái quát toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại”, đến nay vẫn có giá trị.

Hiện nay có các giáo sư sử học đầu ngành Đinh Xuân Lâm quê xã Sơn Tân, Phó Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam; Phan Huy Lê quê xã Thạch Châu, “Giải thưởng Nhà nước”, Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Việt Nam, và Hà Văn Tấn quê xã Tiên Điền, nhà Khảo cổ học, “Giải thưởng Hồ Chí Minh” về khoa học.

Luật sư Phan Anh (1911-1990) quê làng Tùng Ảnh, từng là Bộ trưởng, Phó chủ tịch Quốc hội khóa VII, Phó chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhưng hoạt động chủ yếu của ông là ngành luật. Ông là Chủ tịch Hội luật gia Việt Nam, ủy viên Ban pháp luật của Quốc Hội, ủy viên Ủy ban sửa đổi Hiến pháp, Trưởng ban Dân chủ và pháp luật của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có những cống hiến to lớn vào hoạt động lập pháp của Nhà nước, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ông còn là Chủ tịch Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, Phó chủ tịch Hội luật gia dân chủ quốc tế, Phó chủ tịch Hội đồng hòa bình thế giới, có uy tín và đóng góp lớn trong hoạt động luật pháp quốc tế về bảo vệ hòa bình thế giới.

Về ngành pháp luật còn có bà Ngô Bá Thành, nhũ danh Phạm Thị Thanh Vân (1931-2004) quê làng Đông Thái, Phó chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội.

Nhà dân tộc học tài năng Nguyễn Từ Chi (1925-1995) nổi tiếng trong nước và ở nước ngoài về những công trình nghiên cứu của ông, đặc biệt là các công trình nghiên cứu về dân tộc Mường, tiêu biểu là “Ký họa Mường” (Croqius Muong), 1971, “Hoa văn Mường” v.v… (Sau khi ông mất các công trình của ông được tập hợp in thành cuốn “Người Mường ở Hòa Bình” (ở Hà Nội) và cuốn “Vũ trụ luận Mường” (ở Pháp).

Trong lĩnh vực văn học, văn hóa có Giáo sư Nguyễn Đổng Chi (1915-1984) người xã Ích Hậu, là nhà văn, nhà văn học sử, nhà sử học, nhà thư tịch học, nhà Hán Nôm học, nhà Phôn-cơ-lo học… mà ở mặt nào cũng có cống hiến xuất sắc. Bộ “Việt Nam cổ văn học sử”, cuốn “Lược khảo về thần thoại Việt Nam” và bộ “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” (5 tập)

Page 74: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

74

mãi mãi là những công trình sáng giá. Nguyễn Đổng Chi được truy tặng “Giải thưởng Hồ Chí Minh” (Đợt I - 1995).

Nhà nghiên cứu văn học, Giáo sư, Viện sĩ Hoàng Trinh (tức Hồ Tôn Trinh - sinh năm 1920), người xã Đại Nài; nguyên Viện trưởng Viện văn học, được Viện hàn lâm khoa học Hunggari bầu làm viện sĩ nước ngoài. Ông được tặng “Giải thưởng Hồ Chí Minh” về văn học (Đợt I - 1995).

Nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện (1914-1997) quê xã Sơn Hòa, là Bác sĩ y khoa, nhưng chủ yếu ông hoạt động chính trị ở Pháp và từ 1963 về nước, chuyển sang hoạt động văn hóa, phụ trách tạp chí “Nghiên cứu Việt Nam” (Etude Vietnammiene). Ông sáng lập Trung tâm nghiên cứu Trẻ em và viết nhiều sách về lĩnh vực này góp phần giáo dục trẻ. Nhưng các công trình lớn nhất của ông là các bộ “Từ điển tâm lý”, “Từ điển xã hội học”, “Bàn về Nho giáo”, “Tuyển tập văn học Việt Nam” và “Truyện Kiều” dịch ra tiếng Pháp… Ông còn có các công trình viết bằng chữ Pháp (như “Vietnam, Patrie retrouvée”). Ông được Viện hàn lâm Pháp tặng “Giải thưởng lớn về văn hóa”.

Học giả Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) quê xã Yên Hồ, là cây đại thụ trong vườn văn hóa Việt Nam thế kỷ XX, là nhà giáo có uy tín lớn trong và ngoài nước. Trong cả ba lĩnh vực khoa học tự nhiên, lịch sử, văn học, các tác phẩm của ông đều là những công trình đồ sộ, xuất sắc. “Danh từ khoa học”, “Phương pháp dạy chữ quốc ngữ”, “Chương trình giáo dục trung học” (dạy bằng tiếng Việt) là những cống hiến to lớn và độc đáo đối với sự nghiệp giáo dục Việt Nam và tiền đồ tiếng Việt. Các công trình “Lý Thường Kiệt”, “La Sơn phu tử” và nhiều công trình nghiên cứu sử học khác, các công trình nghiên cứu “Thi văn Việt Nam”, “Mai đình mộng ký”, “Chinh phụ ngâm bị khảo”, “Truyện song tinh” và các trước tác nghiên cứu văn học khác cũng như các công trình “Lịch và lịch Việt Nam”, “Lịch và lịch đời Lê” v.v… đều là những trước tác bất hủ.

Trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, văn học, thì những tên tuổi lớn là Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh (1892-1984) quê ở phố Nam Ngạn, Hà Tĩnh, là người sáng tạo ra tranh lụa Việt Nam độc đáo, với nhiều tác phẩm bậc thầy. Từ 1931, báo chí Pháp đã đưa tin rầm rộ về “sự xuất hiện của tranh lụa An Nam” trong cuộc triển lãm tại Đấu xảo thuộc địa ở Paris. Sau này,

Page 75: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

75

danh họa Nhật Bản Fujita, người có thể đại diện cho dư luận quốc tế, nhận xét: “Nguyễn Phan Chánh là một nghệ sĩ có tài lớn”. Ông được tặng “Giải thưởng Hồ Chí Minh” về nghệ thuật (Đợi I - 1995).

Điềm Phùng Thị tên con gái là Phùng Thị Duy Cúc (1920-2002), quê xã Bùi Xá, nhưng sinh trưởng ở Huế và lấy chồng là Bửu Điềm nên bà cũng coi Huế là quê. Vốn là bác sĩ nha khoa ở Pháp, nhưng bị lôi cuốn đến với xưởng điêu khắc của Giáo sư Vôn-ti và nhanh chóng trở thành nhà điêu khắc nổi tiếng ở Pháp và châu Âu. Năm 40 tuổi, bà phát hiện ra “7 chữ cái”, “7 ký tự” mà bà gọi là “những ký hiệu”. Tất cả các tác phẩm của bà, dù là khối tượng đài khổng lồ, đến các vật trang sức bé xíu của phụ nữ, đều được tạo nên bởi sự sắp xếp bố cục với số lượng ít, nhiều và vị trí lựa chọn của các “chữ cái” nói trên… “Có thể coi “7 chữ cái” Điềm Phùng Thị là cái gốc, cái bất biến tạo nên sự biến hóa đa nghĩa, đa chiều của tác phẩm nghệ thuật” (Ngô Minh). Dư luận châu Âu hết sức ngợi ca “giá trị thần diệu của nét chữ” Điềm Phùng Thị.

Hai nhà thơ lớn vừa là đôi bạn thân thiết hiếm có, vừa đều xuất hiện và nổi tiếng từ “Phong trào thơ mới”: Xuân Diệu họ Ngô (1916-1985), quê gốc xã Trảo Nha, nhưng sinh trưởng ở vạn Gò Bồi, Bình Định. Ông là “nhà thơ của tình yêu”… đồng thời là nhà nghiên cứu văn học cổ bậc thầy, nhà văn, nhà báo xuất sắc, được tặng “Giải thưởng Hồ Chí Minh” về văn học (Đợt I - 1995) và từ 1983, được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hòa dân chủ Đức.

Huy Cận, họ Cù (1919-2005), quê xã Ân Phú, học ở Huế từ nhỏ nên ông coi Huế là quê thứ hai của mình. Huy Cận là nhà hoạt động nhà nước, từng là bộ trưởng, nhà hoạt động quốc tế, là ủy viên chấp hành UNESCO (1978-1983), Phó chủ tịch Tổ chức hợp tác văn hóa, kỹ thuật của 49 nước (ACCT-1981-1987), ủy viên Hội đồng cấp cao các nước sử dụng tiếng Pháp (từ 1985), Phó chủ tịch Hội nghị Viện Hàn lâm thơ thế giới ở Vê-rô-na (Italia). Nhưng trước hết, Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong nước và trên thế giới - “Giải thưởng Hồ Chí Minh” về văn học (Đợt I - 1995).

Về văn học, cũng cần nhắc đến một nhà văn, tuy không ở tầm thật lớn, nhưng là người có công mở đầu Tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam với tác phẩm “Tố Tâm” (1925). Đó là nhà giáo, nhà văn Hoàng Ngọc Phách

Page 76: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

76

(1896-1973), quê làng Đông Thái.

Trên đây là những đại diện xứng đáng nhất cho trí tuệ và tài năng của nhân dân, chính xác hơn là của giới trí thức, con em vùng đất văn vật Hồng Lam.

Page 77: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

77

PHẦN THỨ HAI

NHỮNG CHỨNG TÍCH VĂN HÓA

“Phong quang nhất mộng nhất kỳ quan” (Mơ màng mỗi cảnh một kỳ quan)

“Nghệ An đạo trung” (Thơ Ngô Thì Nhậm - Khương Hữu Dụng dịch)

NÚI HỒNG 99 NGỌN

“Thuở khai thiên lập địa, trên đất Nghệ Tĩnh bây giờ, núi mọc ngổn ngang, la liệt. Ông Đùng - Người Khổng Lồ lo sắp đặt lại thành hàng, thành lối. Ông đã xếp xong dãy núi 999 ngọn mà về sau gọi là “Thiên Nhẫn”. Bà Tiên thấy vậy, thách: Trong một đêm, trước khi gà gáy, xếp được dãy núi đúng 100 ngọn. Ông Đùng nhận lời. Chưa hết canh hai, ông đã đem 99 ngọn núi đặt bên bờ nam rào Rum bây giờ và đang dắt ngọn thứ 100 về bên bờ bắc. Thấy mình sắp thua cuộc, nhưng đàn bà vốn cao mưu, bà Tiên giả làm tiếng gà gáy, gà rừng nghe động, gáy ran. Ông Đùng nghĩ mình đã thua, bèn bỏ đi.

Dãy núi 99 ngọn ấy vốn chưa có tên, cho đến ngày 100 con chim Hồng bay về… 99 con đỗ xuống 99 ngọn núi. Riêng chim Chúa lượn mãi trên không, cuối cùng phải hạ cánh xuống một mô đất. Nhưng chim vừa đặt chân thì mô đất đã chúc nghiêng, liền kêu một tiếng rồi bay vút lên. Cả đàn vỗ cánh bay theo. Từ đó, dãy núi 99 ngọn có tên núi Hồng. Còn ngọn núi Ông Đùng bỏ lại bờ bắc tục gọi rú Rum, tức núi Lam Thành, và mô đất chim Chúa đặt chân chính là cụp Lịp (“Sự tích núi Hồng”).

Page 78: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

78

Núi Hồng - Hồng Sơn, Hồng Lĩnh có nghĩa là Núi Lớn27, cũng được gọi núi Cao, núi Ông, xưa kia bao phủ một thảm rừng dày nên tục gọi Ngàn Hống. Núi trải rộng khoảng 30km2 từ bờ nam sông Cả - Lam giang đến cửa Gián, trên đất hai huyện Nghi Xuân, Can Lộc và thị xã Hồng Lĩnh bây giờ.

Là núi lẻ ở đồng bằng ven biển, trên mười vạn năm trước, Hồng Lĩnh là một dải đảo giữa bốn bề sóng nước, và ngày nay là một “quần đảo” trên mặt đất. Phần núi phía tây bắc gồm những ngọn dưới 400m, trong đó Thiên Tượng (337m) là ngọn tiêu biểu, trên sách cổ ghi là “nhóm Thiên Tượng”. Phần núi chủ yếu nhô cao dần về hướng đông nam, kéo ra tận bờ biển. Đây là một khối núi liền mạch, nhưng sách cổ cũng lấy eo Bù làm dải phân cách để chia thành hai nhóm: “nhóm núi Đụn” (Độn phong) lấy núi Đụn (499m) là ngọn cao nhất làm tiêu biểu và “nhóm Hương Tích” lấy động Hương Tích làm tiêu biểu dù chỉ có 297m. Trong khi ngọn Tháp Cờ, còn gọi Rú Ông (676m) là đỉnh cao nhất dãy Hồng Lĩnh. Từ đó núi chia làm hai chi, chi đông kết thúc ở ngọn Gâm (Kim Sơn, xã Cổ Đạm); chi đông nam có hai ngọn cao là Sư Tử (630m) và Động Dang (Đông Dương - còn gọi ngọn Bòng Bong). Đến đây núi hạ thấp dần, đi về nhiều hướng. Ngọn Tiên Am (xã Thịnh Lộc) là mút cuối dãy Hồng Lĩnh.

“Cửu thập cửu phong thứ đệ bài” - Chín mươi chín ngọn núi giăng bày” (Thơ vua Thiệu Trị).

Với con mắt nhạy cảm, người xưa nhìn mỗi ngọn núi, hình dung ra dáng riêng và gọi tên theo hình dáng ấy. Chùm Ngũ Mã là “đàn ngựa phóng qua sông” vừa đặt chân xuống bờ nam; hòn Cô Độc như “chú nghé đang trằn xuống nước”; ngọn Thiên Tượng “có hòn đá giống voi”; ngọn Bàn Thạch “có tảng đá lớn, bằng phẳng như chiếc mâm”; ngọn Kê Quan “đá chất chồng dựng đứng như mào gà”; ngọn Phượng Hoàng “đứng xa trông lên giống hệt như cặp mào đầu chim phượng”; ngọn Quan Áp “trông như chiếc mão” (mũ); ngọn Lịp (Lạp Phong) “từ biển nhìn vào hình như chiếc nón”; rồi ngọn Cổ Chùy (Dùi Trống), ngọn Hàm Rồng (Long Hãm), ngọn Yên Ngựa (Mã Yên), ngọn Đầu Voi (Tượng Đầu), ngọn Đầu Ngựa (Mã Đầu), ngọn Kim Quy (Rùa Vàng), ngọn Sư Tử, ngọn Đoạn Đầu

27 Theo một số nhà nghiên cứu thì “Hồng” là từ tiếng Nam Á “Hnong” nghĩa là núi.

Page 79: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

79

(người Cụt Đầu)…

Những ngọn khác được gọi tên theo truyền thuyết, di tích lịch sử, văn hóa: Ngọn Đùm Cơm (Phong Phạn) mé bắc, là “gói cơm ông Đùng để lại” và ngọn Tiên Tích, mé nam “trên đá có đấu chân tiên”. Rú Ông hay Tháp Cờ - ngọn cao nhất trong dãy Ngàn Hống, tương truyền là nơi Chúa Hai, con vua Mai Hắc Đế cắm cờ khi ông xây dựng căn cứ chống quân nhà Đường ở đây: “Từ Cơn Vạng đến Bằng Vai, Cụp Cờ còn đó, nhớ ai cắm cờ”. Rú Lầu cao lớn, bề thế, là nơi vua Lý Thánh Tông dựng hành cung để lên du ngoạn”. Ngọn rú Tháp “tương truyền xưa kia người Tàu (?) xây tháp trên đỉnh”, và ngọn Hương Tích có ngôi chùa cổ Hương Tích đời Trần. Rú Lần (Lân hay Lận Sơn, Cù Sơn), nơi Bảng nhãn Trần Bảo Tín ở ẩn dưới triều Mạc được gọi là Trần Sơn (rú ông Trần / hay rú ông Bảng), Hoàng giáp Phan Chính Nghị một trung thần nhà Lê khác cùng thời thì lấy tên Rú Sét (Liệt sơn) nơi mình ở ẩn, làm hiệu: Liệt sơn tử. Còn Rú Mã ở quê Hoàng giáp Phan Đình Tá thì bị đổi thành Mại Quốc sơn (núi Bán Nước) vì ông là người bỏ Lê, phò Mạc. Ngọn núi nơi đốt lửa làm hiệu thời chiến tranh Trịnh - Nguyễn, gọi là rú Hỏa Hiệu.

Lại có những ngọn núi được dân gian gọi theo tên loại cây cỏ mọc nhiều ở đó: Rú Lách, Rú Vọt, rú Bòng Bong hay động Dang, Rú Trúc, Rú Thông…

Sách cổ chép trên Hồng Lĩnh có 26 dòng khe suối là “Danh tuyền”, trong đó có Hương tuyền ở động Hương Tích, Hoa Khê ở Hoa Viên, Tượng Khê ở Tượng Phong, Hoàng Ngưu Khê ở Yên Trừng, Độ Liêu Khê ở Độ Liêu.. Có những khe lớn người ta đắp đập ngăn lấy nước tưới ruộng như đập khe Vẹt (tức khe Độ Liêu, khe Nhà Trò) tương truyền do Ngự sử Bùi Cầm Hổ đắp ngày xưa, và các đập Cù Lây - Trường Lão, Cồn Tranh, Khe Hao… ngày nay. Nhiều khe suối có dòng chảy đặc biệt: Suối Hương Tích từ kẽ hốc trên vách đá dựng đứng vọt ngang ra, “nước trong và thơm”; khe Vành Khăn ở ngọn Sư Tử, khe Nước Nhỏ ở mỏm núi Thung Ao… nước từ đỉnh thành đá cao bốn, năm chục mét đổ xuống thẳng đứng thành ngọn thác; khe Mưa Dông ở ngọn Hàm Rồng, nước phun xuống từ vòm trần một hang lớn, tạo thành “cơn mưa dông” liên tục suốt tháng, suốt năm; Lại có khe chảy ngầm dưới truông Trâu ở Rú Lần ra sông Lách (sông

Page 80: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

80

Lam ở Kẻ Lách)…

Trên núi có nhiều vũng trũng nước đọng thành ao, thành đầm gọi là “Ao Trời” (Thiên Trì), hoặc thành vực sâu như vực Nguyệt ở Rú Đụn, tương truyền “sâu không đáy”. Dưới núi lại có nhiều bàu nước lớn: Bàu Kim Cương nằm giữa lũng núi “rộng tới 30 mẫu”; đầm Hồ Lô “là nơi tiên tắm” nên thường gọi bàu Tiên; bàu Mỹ Dương “uốn lượn như dải lụa”, dài tới 10 cây số.

Trong núi có tám dải đường truông dài ngắn, thông từ tây sang đông, từ bắc xuống nam. Truông Trâu, truông Màn Trường ở bắc và nam ngọn Rú Lần. Truông Cọng Khánh từ Kẻ Lách vào Kẻ Treo, xưa là tượng lộ (đường voi chiến đi để tránh cầu) nay là đường tỉnh lộ 18. Đây chính là con đường “Truông Hống - Đò Cài” mà Nguyễn Du thường từ Tiên Điền sang Tràng Lưu gặp gỡ bạn bầu. Mé nam Hồng Lĩnh có hai đường truông thông giữa Nghi Xuân và Thiên / Can Lộc: một truông toàn đá đen (chứa quặng sắt) chắn gió bấc, gọi truông Gió, một truông toàn đá son, ngắn, gọi truông Vắn. Tương truyền, triều đình phái Hầu thượng Ngật (Nguyễn Văn Giai) về khảo sát. Sợ nếu khai thác mỏ sắt thì dân quê ông phải chịu phu đài hoặc phải đóng thuế sản phẩm quặng sắt, ông bèn đổi tên gọi hai dải truông cho nhau, rồi tâu lên ở truông Gió (tức truông Vắn) chỉ có đá son đỏ… Sách “Non nước Hồng Lam” của Võ Hồng Huy miêu tả về truông Vắn: “Đường truông uốn hình chữ V, góc khuỷu nằm giữa đỉnh eo, cao khoảng 120 mét so với mặt biển. Dọc giữa tâm đường truông được lát ghép cả thảy 1645 bậc đá, nối tiếp từng bậc theo độ dài bước chân và tầm lài của mái núi. Đoạn được ghép đá dài khoảng 800 mét nằm giữa truông có tổng chiều dài 1300 mét đường núi…” Sách xưa chép khác nhau về thời gian và người ghép đá đường truông, còn dân gian thì cho là con đường do “cố Ghép”, người địa phương làm, và gọi truông Vắn là “truông cố Ghép” hay “truông Ghép” (Nguyễn Đổng Chi - “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam”). Gia phả họ Ngô ở làng Động Gián, Nghi Xuân chép vị tổ đời Lê là Ngô Trát, giữ chức thập lý hầu (lý trưởng)… “từng đem hết sức lực làm xong con đường truông Vắn” (VHH, SĐD)…

Trong núi còn có các đường hẻm như hẻm Đá Ma dưới ngọn Thiên Tượng mà có lần quân Trịnh thua trận ở bãi Vọt phải luồn qua sang Hồng

Page 81: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

81

thôn, thoát được sự truy đuổi của quân Nguyễn.

Khắp nơi trên mái núi, dưới chân núi có những khối đá hình thù kỳ lạ: Đá Voi Trời, đá Hàm Rồng, đá Lưỡi Cày, đá Mũi Thuyền, đá Cồng, đá Nón, đá Chân Tiên, đá Ông Bà… Đá Ông Bà hay đá Vợ Chồng (Phu Phụ Thạch) là một trong mười cảnh đẹp của ngọn Vân Am (Vân Am thập cảnh).

Trên núi lại có nhiều động, nhiều hang kỳ vĩ: Động Mười Hai Cửa, động Chẻ Hai, động Đá Hang trên ngọn Đụn rộng “có thể chứa hàng trăm người”, được coi là “cung điện” trong truyền thuyết “Cố đô Việt Thường” ở Ngàn Hống. Động Hàm Rồng trên ngọn Hương Tích được truyền là “nơi hóa thân của Phật Bà Quan Âm Nam Hải”. Lại còn Chọ Hang với “những cảnh trí kỳ ảo, lạ lùng, những triền dài chọ đá hiểm hóc chất chồng trong lòng núi, bằng nhiều động tác luồn lách, cúi, bò, trườn, trượt khác nhau mới có thể vượt qua. Qua từng chặng phải làm dấu để nhớ lối khi trở ra…” (“Non nước Hồng Lam” SĐD). Cố Bu - Phan Bô, khởi nghĩa chống nhà Nguyễn (đầu thế kỷ XIX) và cố Thần - Ngô Quảng thời Cần Vương - Duy Tân (cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX) đều lấy nơi này làm căn cứ…

Che phủ “99 ngọn núi Hồng” là lớp lớp rừng dày, rừng già với hệ thực vật phong phú, đa dạng, có nhiều loại cây gỗ, cây hoa quả, cây dược liệu quý… Do đó, núi được gọi là “ngàn” - Ngàn Hống. Nhiều loại cây mọc thành những khu rừng riêng, rừng lim, rừng gọ (gụ), rừng thông, rừng trúc, rừng dang, mây… Lại còn những vườn mai, vườn quýt… được huyền thoại hóa thành “cây thiêng”. Sách cổ chép về một loại quýt ở rú Đụn “trái to, ngọt, ai đến hái ăn bao nhiêu cũng được, nhưng nếu mang về thì không thể lần được đường xuống núi”.

Sinh sống dưới thảm rừng trùng điệp ấy là hàng trăm loài thú, loài chim quý. Thú lớn có voi, tê ngưu, hổ, hươu nai… Theo “Thiên Lộc huyện chí” thì vào thế kỷ XV, anh em Nguyễn Cả, Nguyễn Hai ở Kẻ Sóc “vào núi Thường Lạc bắt đôi voi trắng, ra mắt vua Lê Thánh tông xin đầu quân, trở thành tướng giỏi”, và “Lưu quận công, tổ họ Nguyễn ở Cương Gián được vua Lê sai đi bắt đàn voi ở Trà Sơn” (gần Hồng Lĩnh)… Lại chuyện vào sau tết năm Nhâm dần (1902), dân làng Lạc Thiện (Trung Lễ) đi làm đồng, đã đuổi bắt được con “tây ngu” (tê ngưu) từ Ngàn Hống (hay rú Xanh - Trà

Page 82: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

82

Sơn) chạy lạc xuống… Hổ thì dữ nhất là ở vùng Treo, Vọt: “Cướp bãi Dài, khái bãi Vọt” (hay “Cửa Trẹm” (Treo). Trương Quốc Dụng viết trong “Thoái thực ký văn”: “Trên núi Hồng Lĩnh có hổ dữ, dân hai huyện Thạch Hà, Thiên Lộc bị hại nhiều. Vào thời Tự Đức, hổ còn bơi qua sông Nghèn đi bắt người…”. Một nhà sư chùa Thiên Tượng đang đêm bị hổ xông vào, vồ chết, mang đi… Hươu nai, lợn lòi… từng đàn. Các làng quanh núi đều có phường săn, cứ “đệ niên xuân thủ tế rồi - Cứ như cơm gạo một người ba ngay…” (vè) kéo nhau vào núi săn hươu, bủa lợn… Nguyễn Du rất ham mê đi săn và tự hiệu là “Hồng sơn liệp hộ” (Thợ săn núi Hống). Sách xưa không thấy nói ở Hồng Lĩnh có công, trĩ… nhưng chim khác thì loài nào cũng có. Đặc biệt ở mé đông nam, bên lạch Kèn, núi lấn ra tận bờ biển, là nơi tập trung nhiều chim, nhất là loài ô (ác), thước (xắc). Hàng năm, vào hai mùa bạch lộ, sương giáng, các loài chim di cư dừng cánh ghé lại nghỉ, đậu dày đặc khắp mái núi, bãi đồng…

Hồng Lĩnh xưa là một vườn bách thảo - bách thú mênh mông giữa vùng đồng bằng ven biển.

Điểm xuyết cho cảnh trí thiên nhiên còn có những công trình nhân tạo - những di tích lịch sử, văn hóa vô giá. Đó là các phế tích lũy ông Ninh ở Rú Lần, tháp người Tàu (?) ở Rú Tháp, nền Trang vương ở động Hương Tích, đường đá truông Vắn… Đó là đền Lý Uy minh vương ở ngọn Bàn Thạch, đền Đô nam nhạc Ô trà sơn ở Kẻ Sóc, đền Đô đài ngự sử ở ngọn Bạch Tỵ, đền Lý (?) nguyên phi ở rú Nưa, đền Liễu Hạnh công chúa ở núi Tam Kỳ, đền Khuông quận công ở Trung Lao, đền Cương Khấu và đền Bạch Thạch ở Động Gián… Đó là hệ thống chùa Phật dày đặc của “trung tâm Phật giáo phía nam Đại Việt thời Lý - Trần” với những chùa cổ mà sách xưa từng chép.

Hồng Lĩnh - Lam Giang xưa nay là danh thắng bậc nhất Châu Hoan, là biểu tượng của xứ Nghệ. “Hồng Lĩnh tú khí”, “Hồng Lĩnh văn vật” là nói về linh khí của núi sông, về tinh hoa của con người. “Hồng Sơn liệt chương” không chỉ đứng đầu “Nghi Xuân bát cảnh” mà từ xa xưa, người Tàu đã coi là một trong 21 danh sơn nước Việt, và có họa sĩ đã sang vẽ cảnh núi về dâng vua Minh Thái tổ.

Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), khắc hình tượng Hồng Lĩnh lên “Anh

Page 83: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

83

đỉnh” ở Thái miếu Huế. Năm 1842, vua Thiệu trị Bắc tuần, có làm bài thơ khắc lên bia đá, dựng dưới núi. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) nhận núi Hồng Lĩnh là danh sơn ở Hà Tĩnh và ghi vào điển thờ.

Ngày nay, trên núi không còn đại ngàn, phía dưới đã có một thị xã trẻ mang tên núi, cảnh vật đổi thay khác lạ, nhưng núi Hồng 99 ngọn mãi mãi vẫn hùng vĩ và thơ mộng…

NÚI GIĂNG MÀN VÀ THÁC VŨ MÔN

Triều đông dải Trường Sơn Bắc28, từ biên giới Việt - Lào tỏa xuống địa bàn ba huyện phía tây Hà Tĩnh bao phủ một thảm rừng già, dưới xuôi nhìn lên như tấm màn xanh thẳm nên gọi là rú Giăng Màn (Khai Trướng sơn).

“Nghệ An ký” của Bùi Dương Lịch viết về núi Khai Trướng: “Núi này… là núi có danh tiếng ở xứ Nghệ An. Cao lớn ngất trời, trông như là một dải màn che…”. “Đại Nam nhất thống chí” cũng viết: “Núi Khai Trướng là danh sơn của tỉnh Nghệ An…, núi non trùng điệp trông như màn chăng nên gọi là Giăng Màn…”.

Sách địa lý hiện đại ghi nhận “núi Giăng Màn (Khai Trướng) thuộc đới Trường Sơn là tên chung để chỉ dãy núi đồ sộ chắn ngang phía tây, hợp thành khởi điểm của Trường Sơn Bắc từ hữu ngạn sông Lam chạy tới Quảng Bình rồi thấp xuống nối liền với dãy Hoành Sơn…” (Nghiêm Sĩ Sành - Địa lý Hà Tĩnh, tài liệu đánh máy).

Đúng là có một ngọn núi ở xã Sơn Kim (Hương Sơn) tên gọi núi hay động Giăng Màn. “Nhất cao là động Giăng Màn…” (Ca dao). Còn dãy Giăng Màn, xưa nay sách vở cũng như dân gian đều cho là dãy núi cao dọc biên giới Việt - Lào từ bắc đến nam Hà Tĩnh. Có hàng chục ngọn “chọc trời” với độ cao 900m đến 1800m, trong đó có các ngọn Tốc Nác Léc (1041m), Bà Mụ (1367m), Giăng Màn (931m), Cẩm Lĩnh (973m), Rú Họp (936m)…; rất nhiều ngọn bản đồ không ghi tên, cao 1100m - 1780m cao

28 Trường Sơn Bắc là sơn hệ nằm trên biên giới Việt Lào, phía tây Nghệ Tĩnh bắt đầu từ ngọn Pu Lai Leng (2711m) bên hữu ngạn sông Cả đến đỉnh Rào Cỏ (2286m) (Hương Khê) kéo đến vùng Qui Đạt (Quảng Bình), do đó cũng được gọi là Pu Lai Leng - Rào Cỏ, xưa còn gọi là vùng núi Na-pê.

Page 84: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

84

nhất là ngọn Rào Cỏ (2286m). Núi hạ thấp dần về phía đông với nhiều ngọn từ 500m đến 800m…, nối với các dải núi đồi thấp, kéo tận mé tây sông Ngàn Sâu - đường ranh giới tự nhiên phân cách với dãy Trà Sơn ở bờ bên kia.

Phủ lên lớp núi đồi xưa kia là thảm rừng nhiều tầng nhiều lớp với hệ thực vật vô cùng phong phú. Ngày nay, ở độ cao 1000m trở lên trong Vườn quốc gia Vụ Quang, vẫn còn những khu rừng nguyên sinh, giữ được một phần quang cảnh xưa. Sinh sống dưới thảm rừng là hệ động vật đa dạng, trong đó nhiều loài quý hiếm được ghi vào “Sách đỏ” Việt Nam và “Sách đỏ” thế giới.

Dưới đại ngàn Giăng Màn, hệ thống sông suối dày đặc. Riêng ở vùng núi Vụ Quang, cứ 1km2 đất, có tới 2km sông suối. Sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu và các chi lưu đều bắt nguồn từ các dòng suối trên núi cao hàng nghìn mét đổ xuống.

Thượng nguồn sông Ngàn Phố là rào Nước Sốt (Nậm Chốt) và khe Nước Sốt trong vùng động Giăng Màn và Rú Bành. Dọc đường sông nhận nước của rào Mắc (Nậm Mắc), rào Qua, khe Tre, khe Thi Lơi, sông Con, chi lưu lớn nhất nguồn từ vùng núi Tốc Nác Léc, núi Bà Mụ, và nhiều khe hói vùng hạ Hương Sơn, rồi đổ xuống sông La ở ngã ba Tam Soa.

Ngàn Phố với 69km chiều dài, là con sông đẹp, là đường thủy quan trọng vùng tây bắc Hà Tĩnh, đi qua nhiều địa điểm lịch sử - tấn Hà Tân, phường Ngàn Phố (nay là Thị trấn Phố Châu), khu căn cứ Đỗ Gia của nghĩa quân Lam Sơn (TK XV), quê hương đại danh y Hải thượng Lãn ông Lê Hữu Trác… Song song với đường thủy này là đường bộ xuyên sơn qua đèo Keo Nưa (734m) - nay là Quốc lộ 8, qua cửa khẩu quốc tế Cầu Treo sang Lào, Thái Lan…

Một địa điểm đáng chú ý khác là khe Nước Sốt (hay Nước Nóng, Nậm Chốt, sách cổ ghi là Ôn tuyền) ở xã Sơn Kim. “Suối này từ trong núi chảy ra sông Ngàn Phố, có một quãng nước hơi đen, hơi bốc lên như khói…” (“Nghệ An ký”). Đây là con suối khoáng có nhiệt độ 740C, có nguồn phun lên khá sâu với tốc độ nhanh, thuộc loại suối Sulfuro đơn, có thể dùng chữa bệnh ngoài da, bệnh về hô hấp, bệnh hen suyễn. Hiện nay ở đây đã có xí nghiệp sản xuất nước khoáng “Sơn Kim”, một sản phẩm được tín nhiệm

Page 85: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

85

trên thị trường trong nước.

Sông Ngàn Sâu, theo các sách cổ (Nghệ An ký, Yên Hội thôn chí, Đại Nam nhất thống chí…) là thượng nguồn sông La. Các sách ấy đều chép, đại lược: Sông La bắt nguồn từ núi Giăng Màn. Các khe suối đổ vào rào Xăn ở bản Giàng, chảy theo hướng nam, rồi quanh co chuyển sang đông, gọi là Thâm Nguyên (Ngàn Sâu). Đến Phúc Lộc (nay là xã Phúc Trạch), sông chuyển lên hướng bắc, có rào Cháy bên hữu ngạn, rào Tiêm, rào Trúc (hay rào Nổ) bên tả ngạn đổ vào. Tiếp đó, sông chảy theo triền núi, uốn mình chín lần, dân gian gọi “Chín khúc Huội Nai”, các sách cổ chép “Cửu khúc hội lai” hay “Cửu Khúc giang”, lại có tên “Thanh Long giang” vì dòng chảy lượn như con rồng xanh. Đến cuối xã Bào Khê, có sông Ác (Ngàn Trươi) từ tả ngạn đổ vào. Sông chảy tiếp lên hướng bắc, hội với Ngàn Phố ở ngã ba Tam Soa, chảy theo hướng đông bắc và đổ vào sông Ngàn Cả ở ngã ba Phủ.

Sông Ngàn Trươi (Nậm Trươi), sách “Đại Nam nhất thống chí” chép là Ác Giang, vì “sông này khí lam chướng rất nặng…”. Theo tài liệu của xã Hương Quang, sông Ngàn Trươi bắt nguồn từ rào Ngang, rào Bần ở biên giới, chảy qua cụp Lim Cà Tỏ, thác Làng, qua các xóm Kim Quang, Kim Thọ, Tân Quang, có chiều dài 45km, rồi chảy qua xã Hương Điền… Lại có sông Con từ khe Công, khe Sáp, qua rú Mọn Dừa, xuống Đá Chông, Đượng Cao, ra Cửa Thui nhập vào sông Ngàn Trươi, dài 34km. Theo bản đồ và tài liệu khác thì các khe Sa Vang, Dáo Đồng chảy qua núi Cẩm Lĩnh (xã Hương Quang) có tên rào Rồng, rào Vực là đầu nguồn sông Ngàn Trươi.

Vào kỷ đệ tứ, vùng Hà Tĩnh bây giờ đã là đất liền. Nhưng vùng Hương Khê vẫn là một thung lũng - một hồ nước bao la. Sau đó, khi lục địa khởi chuyển, tạo nên một đường nứt gãy, nước hồ chảy qua đây đổ xuống sông Ngàn Cả. Đường thoát nước này là sông Ngàn Sâu. Dấu vết của dãy hồ xưa là Ao Mặn (Hàm Trì) ở Bình Bản (Hòa Hải) và lớp than bùn được phát hiện, có nơi đã khai thác như mỏ than Đồng Đỏ.

Một phần của lưu vực sông Ngàn Sâu xưa là đất Tồn Bồn Man của Ai Lao, mới xin nội phụ nước ta đời Lê Nhân Tông (1448) gồm 12 sách, động, được đổi làm châu Quy Hợp, đời Nguyễn là tổng Quy Hợp, nay là đất các xã Hương Lâm, Hương Liên, Hương Vĩnh, một phần các xã Phú Gia, Hòa Hải

Page 86: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

86

(huyện Hương Khê), và xã Hương Quang (huyện Vũ Quang). Hiện nay còn có các tộc người Chứt, người Mã Liềng (hay A Rem, Cọi, Mày) ở bản Giàng I, bản Giàng II (Hương Lâm, Hương Vịnh), bản Rào Tre (Hương Liên) và nhiều người Lào ở xã Hương Quang (ở xã Sơn Kim, huyện Hương Sơn cũng có một nhóm người Cọi, thường gọi “Cọi Nác Ngang”, và nhiều nhóm người Lào). Theo các nhà nghiên cứu thì các nhóm người Chứt, người Mã Liềng (Cọi) có gốc gác từ người cổ Việt - Mường, sống cách ly lâu đời thành người “thiểu số”.

Trong lưu vực các sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, dưới rừng Giăng Màn, xưa là “đường thượng đạo” - một mạng đường mòn xuyên rừng thời chống Mỹ trở thành “đường mòn Hồ Chí Minh”, hiện tại là đường xuyên Việt Hồ Chí Minh. Sang Lào, ngoài đường đèo Keo Nưa (Cầu Treo), ngày trước còn có con đường từ thượng nguồn rào Tiêm, qua Trìm, Trẹo do Vinh Quận công Trần Phúc Hoàn mở đời Lê Cảnh Hưng. Đây là con đường thông hiếu và buôn bán quan trọng giữa Quy Hợp và Lạc Hoàn trong nhiều thế kỷ, nhưng rất hiểm trở. “Động Trìm, động Trẹo thì cao - Nác Xăn, Mòi thì nậy biết làm sao hỡi chàng!” (Ca dao).

Vùng Ngàn Trươi là nơi có Chiến khu Vụ Quang nổi tiếng cuối thế kỷ XIX, là An toàn khu - nơi in “giấy bạc cụ Hồ” và sản xuất vũ khí thời kháng chiến chống Pháp (1947-1952). Ngày nay, dự án xây dựng công trình thủy lợi Ngàn Trươi - Cẩm Trang đang bắt đầu được thực hiện.

*

* *

Một kỳ quan trong dãy Giăng Màn là khe Vũ Môn hay thác Vũ Môn, còn gọi “khe Bộc Bố” vì từ xa trông như tấm vải giăng. Trong vùng núi cao Trại Trụ gần biên giới Việt - Lào, mé tây bắc xã Phú Gia (Hương Khê) có một nơi gọi là “Rào ba ngọn”. Đó là nơi hợp lưu của ba con khe (hay rào), khe Trình, khe Trửa, khe Cam, chảy vào rào Trụ, tức thượng nguồn rào Tiêm. Khe Rình, khe Cam, một từ ngọn Đỉnh Trụt (1146m), một từ ngọn Bắc Thang (1295m) đổ ra, còn khe Trửa (rào Trửa) lần ngược lên rú Động Cơn Bộp là thác Vũ Môn.

Khe/thác Vũ Môn gắn với câu chuyện dân gian “Cá gáy hóa rồng”: Để kén bộ hạ giúp Thần Mưa, Trời cho mở cuộc thi tài trong các loài thủy tộc

Page 87: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

87

vào ngày mồng bốn tháng tư hàng năm ở khe Vũ Môn. Trước ngày đó, tôm cá từ các sông suối nô nức kéo lên Vũ Môn dự hội thi. Dịp này dân chài vùng Ngàn Sâu có tục kiêng thả lưới, buông câu vì làm thế là phạm tội trời… Họ nhà Gáy (Chép) kéo đi nuốt hoa ngải tiên để tăng thêm sức, cùng họp nhau ăn thề, nên trong cuộc tỷ thí, Gáy đã dễ dàng vượt qua ba bậc thác Vũ Môn, hóa Rồng29.

Tên gọi Vũ Môn (Cửa Vũ) và cả truyền thuyết “Cá hóa rồng” đều là điển tích Trung Hoa30, không rõ được vận dụng vào đây từ bao giờ mà các sách viết từ thế kỷ XVIII, XIX đều đã thấy chép. “Thác Vũ Môn ba cấp nước vọt, đồn rằng chốn ấy bến rồng” (Hoan Châu phong thổ ký); “Trong vùng cây cối xanh tốt, có một dải trắng dài độ vài trăm trượng, tục truyền là chỗ cá hóa rồng…” (Nghệ An ký); “Suối Vũ Môn ở huyện Hương Sơn, tương truyền cá lên đến đây thì hóa rồng” (Lịch triều hiến chương loại chí); “Trên núi có thác ba bậc, mỗi bậc đến vài ba trượng, đứng ngoài mấy trăm dặm trông như một làn khói đứng sững trong núi xanh…” (Đại Nam nhất thống chí); “Từ ngoài trăm dặm nhìn lên thấy như một dải khói đặc, dựng đứng giữa sườn núi xanh, màu thẫm. Tương truyền đến ngày mồng tám (?) tháng tư cá gáy nhảy lên để hóa rồng” (Đồng Khánh địa dư chí) v.v…

Đầu thế kỷ XX, người Pháp đã chú ý đến nguồn lợi kinh tế của thác Vũ Môn. Đó là nguồn “than trắng” (houille blanche) cung cấp điện lực và là nơi sẽ xây dựng “khu nghỉ mát chung cho các tỉnh phía bắc xứ Trung kỳ”…

Ngày nay, thác Vũ Môn được coi là một kỳ quan, một danh thắng. Thác ở độ cao 1300m, đường lên hiểm trở, lắm sên vắt, mòng mòng…, sách cổ

29 Thật ra, ở khe Vũ Môn không có cá gáy (chép) kể cả vào mùa nước lũ, cá dưới xuôi cũng không thể lên đây, chứ đừng nói nhảy qua “ba bậc thác”. Ở hạ lưu con khe có các loại cá mát, cá láu, cá bọp, cá bống… còn ở thượng lưu chỉ có cá đèo meo còn gọi cá đầu rìu, cá trũi, với cái môi dài để bám vào đá, nên người ta cho rằng cá có hai mồm. 30 Vua Vũ, người sáng lập nhà Hạ (2140-2095 TCN) có công trị thủy, đã cho đào sông qua một khúc núi. Chỗ này được gọi là Vũ Môn - Cửa (vua) Vũ. Có sách chép khúc núi này ở thượng nguồn sông Trường Giang, tỉnh Tứ Xuyên ngày nay, dưới có cái vực sâu, tương truyền đến mùa thu nước lụt, cá đua nhau tới đó nhảy thi, con nào vượt qua Vũ Môn thì hóa ra rồng, do đó, Vũ Môn cũng gọi Long Môn (Cửa Rồng). Người ta lấy tích “Cá vượt Vũ Môn” để nói việc khoa cử thời xưa.

Page 88: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

88

cho là “chưa hề có dấu chân người”. Thật ra từ lâu những thổ dân đi tìm trầm, đi lấy mật ong đã đến đây. Sau này, những công nhân lâm trường Trại Trụ, các chiến sĩ công an biên phòng, và cả các nhà nghiên cứu Trần Văn Quý, Nghiêm Sĩ Sành… đều đã đến đây. Nhà giáo Trần Văn Quý có những ghi chép khá kỹ về thác Vũ Môn.

Lần theo ngọn khe (rào) Trửa, chảy ngoằn nghèo giữa hai triền núi đá Cù Liên bên trái, Đá Diệp bên phải, ngược lên thì chạm đến bậc ba, bậc cuối cùng của thác Vũ Môn, nước chảy ầm ầm, vách đá dựng đứng không thể bám vào đâu mà leo lên được nữa. Muốn chiêm ngưỡng toàn cảnh, phải vượt qua ngọn Trửa, trèo lên mái Đỉnh Trụt ở độ cao 700m trở lên. Khoảng từ 500m trở xuống, lối đi cỏ ngập đến đầu gối, thấy có dấu chân nai, hoãng, khỉ, lợn rừng… nhưng đáng sợ nhất là vắt đen và ruồi trâu (mòng mòng). Ở độ cao 800m trên đỉnh Trụt, nhìn sang tay phải bên kia ngọn Trửa, khoảng trên 1km, đã thấy nước thác ở bậc một “chảy chậm và nặng như chì”. Lên tới Hác Cạn (1000m) thấy rõ bậc hai. Xa xa, đã hiện ra toàn cảnh Vũ Môn “hùng vĩ như một khu thành cổ nằm giữa rừng xanh bao la”. Ở đây, cây cối thưa thớt, hầu như rất ít cây to, không còn rừng tre nứa, bãi cỏ…, mặt đất phủ một lớp rêu và lá mục… nhưng lại rất nhiều vắt xanh và ong vàng… Đặc biệt, ở đây rất mát mẻ, giữa tiết hạ chí, nhiệt kế cũng chỉ 200C. Từ Hác Cạn, men sang sườn rú Bắc Thang đi về hướng nam, thì tới đầu thác. Khu vực này toàn núi đá chập chùng, cao chất ngất. Hai dòng khe từ Đỉnh Trụt và rú Bắc Thang chảy xuống, tụ lại ở một vực đá không sâu rộng lắm. Bám vách đá leo xuống bậc một. Liền dưới vách đá là một khoảng rộng khá bằng phẳng, không cây cối, nhưng rợp bóng râm của vách núi, mát rượi. Một tảng đá rộng như cái sân, mặt hơi gồ ghề, phủ đầy rêu xanh và một loài cây người địa phương gọi “lành anh” mọc từng khóm theo các kẽ nứt trông như những khóm trúc trồng làm cảnh. Tảng đá này có tên “Bàn cờ tiên”. Không gian thoáng đãng, cỏ cây chen đá, u tịch như sân chùa cổ. Từ bậc một này, nước đổ vào lòng máng do các tảng đá lớn chồng ghép lại thành cái ống khổng lồ, vọt mạnh ra, đổ vào không trung xuống bậc hai, rồi lại phóng xuống bậc ba. Đây là hình ảnh mà sách xưa mô tả “như một làn khói sừng sững giữa núi xanh”, “như tấm vải treo lơ lửng” (Bộc bố). Bậc ba không còn là thác, mà là dòng khe chảy ngoằn nghèo giữa những tảng đá nằm ngổn ngang… Đứng ở “Bàn cờ tiên” - chân bậc

Page 89: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

89

một, hoặc ở chân bậc hai nhìn sang trái, thấy dãy Bắc Thang dựng đứng, cao ngất, với mái đá nặng nề… trấn ngự toàn cảnh khu Vũ Môn. Dưới mái đá treo lơ lửng những vệt lốm đốm. Đó là những tổ ong mật rộng như những chiếc chiếu, nhưng từ bậc hai nhìn lên chỉ thấy bằng bàn tay. Dân “đi mật” nối dây song (mây rừng) thòng từ đỉnh núi, theo dây leo xuống, đánh đu, bám vào tổ ong lấy mật…31

NGHI XUÂN BÁT CẢNH

Nghi Xuân bát cảnh - Tám cảnh đẹp ở huyện Nghi Xuân. Theo sách Nghi Xuân thông chí - Quyển hạ, thì “Nguyên trước có mười cảnh, nhưng Hoàng giáp Bùi Công32 đã dọn bớt chỉ để tám cảnh”33.

“Tám cảnh” được sắp xếp theo thứ tự, từng cặp đối nhau. Mở đầu là hai bức tranh:

- Hồng sơn liệt chương (Núi Hồng thành dựng)

- Đan nhai quy phàm (Bờ son buồm về).

Hồng Sơn, tức Hồng Lĩnh, tục gọi Ngàn Hống, xưa được coi là một trong 21 danh sơn nước Việt, cùng với sông Lam là biểu tượng của xứ Nghệ, Nghệ Tĩnh. Núi Hồng “99 ngọn”, mỗi ngọn là một thắng tích, từng được ghi vào điển thờ triều Nguyễn và khắc hình lên “Anh đỉnh” ở Kinh đô Huế.

Còn Đai Nhai, sách cổ chép Đơn hay Đan Thai, là xã Hội Thống bây giờ, Đan Nhai hải môn của Cửa Hội, cửa sông Lam (Ngàn Cả) chảy giữa Nghi Lộc, Nghi Xuân. Sách “Nghi Xuân địa chí” của Lê Văn Diễn mô tả: “…Những tháng cuối xuân sang hè, trời nắng tạnh, các loại thuyền đánh cá

31 Theo tài liệu của Trần Văn Quý, có tham khảo các bài “Suối Vũ Môn” của Võ Hồng Huy (VHHT số 45/2001) và “Danh thắng Vũ Môn” của Lê Trần Sửu (Hồng Lĩnh số 37/1999). 32 Bùi Công, tức Bùi Dương Lịch (1757-1828) quê làng Yên Hội xã Việt Yên huyện La Sơn, Đỗ Hoàng Giáp làm quan dưới ba triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Ông là nhà sư phạm, nhà trước tác có tiếng tăm. 33 Theo Võ Hồng Huy, trong sách “Non nước Hồng Lam” - HT-1995.

Page 90: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

90

lớn nhỏ, cùng với thuyền buôn từ Bắc đến, vào cửa sông có hàng mấy trăm chiếc. Buồm thuyền no gió, dập dờn qua lại hàng đàn… khác nào như đàn bướm đang vờn hoa, bầy cá đang dờn nước… Thật là một nơi thắng lãm hiếm có…”34.

Hồng Sơn - Đan Nhai là hai bức tranh toàn cảnh Sơn - Hải (thủy) rộng lớn. Có hai bức Song Ngư hý thủy (Cá đôi dỡn nước), Cô độc lâm lưu (Nghé lẻ lội sông) là trích từ hai bức tranh lớn ra, nói về hai cảnh “sơn thủy” cụ thể, nhỏ xinh như hai hòn non bộ…

Song Ngư - Hòn Ngư, Ngư đảo ở phía ngoài Cửa Hội, cách bờ 5km, nay thuộc huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Đảo dài khoảng 1.500m, có hai đỉnh cao 108m và 128m, do đó đứng xa nhìn giống như hai con cá đùa dỡn giữa sóng nước. Vua Lê Thánh Tôn, trong bài thơ vịnh Đan Nhai hải môn (Cửa Hội) có câu: Đoạn tục Song Ngư tử thúy điền - Biếc xanh đứt nối ngọn Song Ngư. (VHH dịch).

Cô Độc, là trái núi nhỏ nằm tách riêng ở mé sông Lam, thuộc nhóm Ngũ mã trong dãy Hồng Lĩnh. Do hình núi nên dân gian tưởng tượng ra là “Con nghé lẻ loi sắp xuống lội sông” (cô độc lâm lưu). Núi còn có tên là Khu Độc (con nghé đang nhảy). Dân địa phương (xã Xuân Hồng) gọi là núi Bà (có lẽ vì ở Tháp sơn gần đó có đền thờ bà Chúa Liễu (?). Trên đỉnh núi có tảng đá lớn, mặt rộng gần trượng, giữa có một lỗ sâu gọi là “Đá cối”. Tương truyền đó là “Dấu tích Ninh Quận công Trịnh Toàn (TK XVII) giã gạo quân lương”.

Cặp đối thứ ba là một bến đò, một cánh bãi trên sông lam: Giang Đình cổ độ (bến cổ Giang Đình) - Quần Mộc bình sa (Bài bằng Quần mộc).

Giang Đình là bến đò có từ xưa, gọi là đồ Tả Ao (thuộc làng Tả Ao), trên bến là chợ Tả Ao. Hội xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, thân sinh thi hào Nguyễn Du, trí sĩ, người ta dựng (Giang Đình)35 trên bến đò để đón

34 Bản dịch của Võ Hồng Huy. 35 Giang đình là ngôi nhà (thường một gian, có mái, không vách) nơi chờ đợi, đón rước người nào đó. Nơi đám rước, đám tang dừng lại giữa độ đường để yến tiệc hay tế lễ cũng gọi là giang đình. Trong phần chữ Hán cuối “Thơ chữ Hán Nguyễn Du” VH.H.1965 - viết (Đình bên sông, trên sông) là sai.

Page 91: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

91

rước mở hội ăn mừng. Để ghi sự kiện làm vinh dự cho địa phương, người ta đổi tên bến đò (và tên chợ) thành Giang Đình. Về sau, Nguyễn Du nhắc lại việc này trong bài thơ Giang Đình hữu cảm:

Ức tích ngô ông tạ lão thì, Phiêu phiêu bố trí thử giang nữ… (Nhớ cụ ta khi cáo lão về, Mé sông này rộng ngựa cùng xe… (TKĐ dịch).

Còn Quần Mộc là một phiên âm từ tên Nôm cồn mộc nghĩa là bãi sa bồi, đất tốt, cây rậm. Ngôi làng trên bãi bồi này cũng gọi là Quần Mộc, sau đổi là Báu Lâm (rừng cây quý), thuộc tổng Xuân Viên, nay là xã Xuân Giang. Sách “Nghi Xuân địa chí” chép “Cồn Mộc, bãi chiến trường ngày xưa… Hồi đó, quân Đàng Trong và Đàng Ngoài đánh nhau ở đây… Trước đây hàng năm đến kỳ hạch huyện để tuyển chọn trò đi thi thường đặt thi ở chỗ này. Triều Tây Sơn, vùng này được đắp thành lũy…”

Cuối cùng là một cảnh chùa và một cảnh chợ Uyên Trừng danh tự (chùa đẹp Uyên Trừng) và Hoa Phẩm thắng triền (chợ lớn Hoa Phẩm).

Uyên Trừng, tên tục là chùa Dằng, trên rú Dằng (Uyên Trừng sơn) trong nhóm Ngũ mã phía tây dãy Hồng Lĩnh thuộc xã Tam Đăng hạ (sau là Tam Xuân hạ, nay là Xuân Hồng). Uyên Trừng là gọi theo tên núi, tên địa phương còn tên chùa chính thức là Hoa Tạng, từ đời Thiệu Trị, kiêng húy, đổi là Ba Tạng. Đây là ngôi chùa lớn dựng từ đời Lý (nay không còn). Sách cổ đều chép: “… Phía trước chùa là sông Lam, núi Hồng bao quanh ba mặt, phong cảnh thanh u tĩnh mịch” “Phía trước chùa có khe, có cầu, có am viện, có ao đá do nước suối ở núi chảy vào…” “Bên chùa là nơi sư ở… Xưa nay du khách đã ngâm vịnh chùa này nhiều. Thật là một nơi già lam bậc nhất”.

Còn chợ Hoa Phẩm tức chợ Chế ở xã Tam Chế, sau đổi thành Hoa Phẩm, rồi Quả Phẩm, nay là xã Xuân Lam. Ngày trước chợ rất sát chân núi. Đời Lê, táng mộ Lý Nguyên phi ở núi Na, nên dời chợ xuống gần khu đất giáp sông Lam. Vua Lê Thánh Tông (1442-1497) trong bài thơ Nôm Vịnh làng Chế, có mấy câu nói về chợ Chế:

…Chợ họp bên sông gẵm có chiều,

Page 92: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

92

Thuyền bày trên đất xem nhiều thể (vẻ). Cảnh vật bằng đây họa có hai…

Các cảnh trên đây trước, sau Bùi Dương Lịch đều đã có nhiều người ngâm vịnh. Nhưng chỉ có (hay chỉ mới thấy) ông Bùi làm đủ tám bài. Như đã biết qua “Ốc lậu thoại thi văn” (Thơ văn trong ngôi nhà dột), ông là nhà thơ viết nhiều, viết giỏi thơ vịnh cảnh. Trong chùm thơ Nghi Xuân bát cảnh cũng vậy, đàng sau những câu tả cảnh, tả việc, là tấm lòng yêu thiên nhiên, đất nước; qua những lời hoài niệm việc cũ, người xưa, để gửi gắm một ý tưởng, một tâm sự.

Chùm thơ “Bát cảnh” của ông phát tiết ra từ cảm hứng mạnh mẽ này.

LA GIANG - TÙNG LĨNH

Đức Thọ gạo trắng nước trong… “Nước trong” là nói về sông La - con sông được lấy tên để gọi vùng đất

nó chảy qua: Cổ La - Đàm La - Chi La - La Giang - La Sơn…, con sông mà lời các bài hát thời chống Mỹ nhắc đến cũng trở nên dịu dàng: “Nước mô trong bằng dòng nước sông La” - “Nước sông La thầm lặng mà trong”…

Hai trăm năm trước, sách “Yên hội thôn chí” đã bình phẩm: “Nước sông La tuy không sâu nhưng cũng không nông, chảy không nhanh nhưng cũng không quá chậm. Vị nước ngọt mà thơm, tính bình mà nhuận, có cảnh trí tắm nước hứng gió, có phong độ của bọn bút nghiên. Đây là nơi núi sông giao hội, âm dương hòa hợp, xứng đáng là con sông đẹp nhất của Nghệ An”.

Sông bắt đầu từ Tam Soa, nơi hợp lưu của hai nguồn Thâm, Phố, tạo thành một “ngã ba sông nước bốn bề” (thơ Huy Cận), rẽ nước vấn lấy bãi đảo Ngưu Chử, lượn một vòng cung về đông nam, luồn qua cầu sắt Thọ Tường, lại lượn vòng cung lên hướng bắc, rồi lẹ làng sà vào sông Cả - Lam Giang ở ngã ba Phủ, trước núi Lam Thành. Sông La chỉ chừng 15km dài nhưng hai chi thượng nguồn Ngàn Sâu (121km), Ngàn Phố (69km), hàng năm đổ qua đây trên sáu nghìn triệu mét khối nước với một trăm vạn tấn phù sa, tạo nên màu xanh bát ngát đôi bờ.

Page 93: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

93

Dọc triền sông, xưa kia là những làng xóm yên ả với đồng lúa, đồng mía, bãi ngô, bãi dâu…, với những nghề thủ công nổi tiếng: lụa Hạ, vải Hồ, nón Thượng, nón Hạ, dầu vừng, dầu lạc chợ Hôm, miến, bột chợ Cầu, đường phèn chợ Trổ…, và rộn rã làng rèn Yên Hồ, làng mộc Thái Yên, làng đóng thuyền Trường Xuân… Lại còn đêm hát tuồng ngày hội, tiếng trống sắc bùa dịp tết, cuộc rước Thần đầu xuân, và câu ví giao duyên trên sông, trước bến… Cái yên ả, rộn rã ấy làm nên câu hát chào mời “Ai về Đức Thọ thì về…”.

Bây giờ vẫn là những xóm làng ấy, những đồng bãi ấy, nhưng màu xanh được nhân lên, tỏa ra với ruộng lúa cây vườn, ban ngày nắng rực lên với gương nước dòng kênh, ban đêm điện sáng trưng trong những căn nhà tường xây mái ngói, không gian bị khuấy động hơn với tiếng máy, tiếng còi tàu, còi xe… Giữa trục ngã tư đường sắt xuyên Việt và quốc lộ 8A, thị trấn huyện lỵ mới đang mở rộng, vươn cao lên vùng phủ trị xưa.

Trong khoảng không gian nhỏ hẹp đôi bờ sông, hàng nghìn năm lịch sử đã đi qua và để lại dấu ấn đậm đặc là những di chỉ, di tích trên mặt đất, và những ký ức sâu sắc trong lòng người.

Nếu sông La là thắng cảnh bậc nhất ở La Sơn - thì Tam Soa là điểm hội tụ vẻ đẹp của vùng đất La - Việt.

Tam Soa, nghĩa đen là ngã ba (sông) từ lâu đã được dùng như một tên riêng. Phía dưới ngã ba có bãi Soi, tên chữ là bãi Ngưu Chử, chia sông làm hai nhánh. Đầu bãi, xưa có sở Tuần ty kiểm soát thuyền bè qua lại, nên ngã ba này còn gọi là ngã ba Tuần. Phía trên, núi Mồng Gà, đỉnh chót của dãy Đại Hàm (Hương Sơn) như bức bình phong sừng sững mặt tây. Ở bờ bắc, dãy Thiên Nhẫn chạy đến làng Vĩnh Khánh thì hạ thấp xuống thành một dải núi dài trông giống con tằm, nên dân gian gọi là rú Tằm - Tàm Phong. Trên núi có ngôi chùa cổ dựng đời Lê - có tên chùa Tằm hay chùa Cao (nay không còn). Dưới núi có con khe Cùm36 nước trong và ngọt có tiếng, sách xưa gọi là khe Việt Yên, cùng với khe Hau Hau (Thạch Hà), và giếng

36 Còn gọi là khe Cửa Nam - Trước Cách mạng, lính Pháp ở đồn Linh Cảm sang độc chiếm con khe, cấm nhân dân không được lấy nước, nên dân địa phương còn gọi là “khe Tây lấy nước”.

Page 94: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

94

Vọt (Kỳ Anh) là ba nơi nước uống tốt nhất xứ Nghệ. Phía ngoài rú Tằm, có ngọn rú Đất - Việt sơn. Trên núi có ngôi chùa Phượng Tường với ngọn tháp cao, và ngôi đền Thợ Dác, tương truyền thờ một ông thợ dác có công trong cuộc kháng chiến chống quân Minh…

Đối diện Rú Đất - Việt sơn, ở bờ nam, đầu làng Tùng Ảnh, là Rú Thông - Tùng Lĩnh. Hai ngọn núi như hai cột hoa biểu thiên tạo đứng ở cửa ngõ tây bắc La Sơn.

Trên Rú Thông có ngôi đền thờ vị tướng nghĩa quân Lam Sơn Đinh Lễ, tương truyền dựng trên nền doanh trại cũ của ông. Quanh đền, phủ lên mái núi là rừng cổ thụ bốn mùa xanh tốt, soi bóng xuống sông xanh.

Thanh u một dải núi sông liền, Sóng biếc, lèn xanh điểm chuyết thêm… … Đinh hầu cây miếu mây vờn lá, Đỗ Xá ghềnh thơi sóng đẩy thuyền…

(Tùng Lĩnh sơn - Thơ Bùi Dương Lịch, Thanh Minh dịch)

Chính ở ghềnh Đỗ Xá này, vào cuối tháng tư năm Ất tỵ (1425), đội quân chiến bại của tướng Trần Trí nhà Minh lại lọt vào trận địa phục kích của tướng Đinh Lễ, và bị đánh tan tành. Ngày nay, nấm mồ chung của bọn xâm lược được gọi là “Cồn Tổng binh” còn nằm trên cánh đồng Xa Lang, xã Sơn Tân.

Về sau, tướng Đinh Lễ được phong thần hiệu Linh Cảm đại vương, thì ngôi đền, ngọn núi đều được gọi là Linh Cảm.

Dưới núi, mé nước Tam Soa có tảng đá lớn, bằng phẳng, văn nhân tài tử thường tới ngồi ngắm cảnh, ngâm thơ, nên được gọi là “thạch bàn”, là “thi đàn”. Thơ “Ốc lậu thoại”, Võ Hồng Huy dịch:

Sông đến rừng thông nổi thạch bàn Giang sơn muôn thuở dựng thi đàn…

Phía đông núi có ngôi chùa cổ Huyền Lâm, thường gọi chùa Đá - Thạch Động tự, do chân nhân họ Võ lập lên dưới thời Trịnh Khải (1782-1786) (?) đời Lê Hiển Tông. Chùa không còn, nhưng còn lại ngọn tháp xây gạch nung, một công trình kiến trúc mỹ thuật có giá trị…

Page 95: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

95

Sau khi phong trào Cần Vương bị dập tắt, Pháp bắt dỡ ngôi đền Linh Cảm lịch sử sang núi Vọng Sơn, và xây đồn binh lên nền đền cũ. Linh Cảm trở thành một trung tâm thống trị, đàn áp phong trào yêu nước của nhân dân. Quanh đồn có nhà Dây thép (bưu điện), trại giam, có chợ búa, hàng quán, có đồn Kiểm lâm, nhà “Đoan”…

Lại nữa, trên đỉnh núi, Nguyễn Thân sai dựng bia ca ngợi công lao dẹp “loạn Cần Vương” của y. Nhưng chưa bao lâu, trong một đêm, bia đã bị trời đánh vỡ tan! Hỏi trời sao đánh bia tan? Trời rằng: Ta vị giang san sạch chùi! (Trích “Hương Sơn du ký” của Minh Phượng, 1936). Mấy chục năm sau, đồn Linh Cảm cũng bị dân nhổ nốt.

Những vết bẩn kia trời và người đã xóa sạch rồi. Bây giờ, đứng trên ngọn Tùng Lĩnh, phóng tầm mắt ra bốn hướng, du khách sẽ thấy bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ. Và ken dày giữa núi non, đồng bãi là vô số những dấu tích lịch sử nghìn năm… Mạn bắc, dãy Thiên Nhẫn như “đàn ngựa đang phi” với thành Lục Niên của vua Lê, với trại Lạp Phong của La Sơn phu tử… Mạn nam, là dãy Chữ Nhất với Rú Son, Rú Mực có khu lăng mộ vị “Sơn trung tể tướng” Phan Đình Phùng; xa hơn là Rú Am với chùa Diên Quang, nhắc lại sự tích bà Hoàng Bạch Ngọc, và ngọn Rú Dầu “xưởng chế tác đá” của người tiền sử. Phía tây là điệp điệp trùng trùng đại ngàn Giăng Màn, với căn cứ Tiên Hoa của nghĩa quân Lam Sơn, với chiến khu Đại Hàm, Vụ Quang của cuộc kháng chiến Cần Vương… Và phía đông, dọc giữa triền đê La Giang và quốc lộ 8A là những ngôi làng tiếng tăm lừng lẫy: Yên Hồ, Trung Lễ, Đông Thái, Tùng Ảnh…, rồi Mai Hồ cùng với Tùng Lĩnh, làm nên “Tùng Mai khí tiết” của đất La Sơn…

La Giang - Tùng Lĩnh tự nghìn xưa đến mai sau luôn vẫn là thắng cảnh, là biểu tượng đẹp của đất La Sơn.

DANH THẮNG QUỲNH SƠN

Dãy Nam Giới như bức thành trấn giữ phía đông nam Cửa Sót, nên dân gian thường gọi Rú Sót hay Rú Bể, đối diện với núi Bằng - Bằng Sơn ở phía tây bắc “Rú Bằng, Rú Bể, Rú Bin…” (ca dao).

Hai trăm năm trước, cuối thế kỷ XVIII, Cửa Sót còn chảy phía nam núi Nam Giới. Sách “Nghệ An ký” của Bùi Dương Lịch viết “sông Hà Hoàng

Page 96: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

96

đi qua các xã Hoa Mộc và Dượng Luật rồi chảy ra biển”. Sách “Thiên Lộc huyện phong thổ chí” cũng viết “Ngày xưa núi Mộc Sơn (Hòn Mốc) tức là Hữu Nam Giới37. Cửa bể ở phía nam núi ấy, nhưng sau sông bể đổi dời, dòng nước lấn lên phía bắc”. Các cụ già địa phương cũng kể lại rằng xưa kia lạch sông đi qua các xã Thạch Đỉnh, Thạch Bàn, Thạch Hải bây giờ. Hiện nay còn có khe nước chảy qua xã Thạch Bàn có thể đó là lòng sông cũ38. Như vậy cách đây chưa lâu lắm, doi đất Kim Đôi còn dính liền với ngọn Long Ngâm. Cử nhân Lưu Công Đạo từng viết “Đạo tôi đã có lần đi từ làng Kim Đôi qua núi Long Ngâm” và ông mô tả trong “Thiên Lộc huyện phong thổ chí” rằng “Bên hữu cửa bể là núi đất Kim Đôi, một dải đất vàng từ núi Côn Bằng chảy ngang qua cửa bể. Trên khúc sông ấy có đền binh, có chợ, thuyền bè san sát, bếp thuyền bốc khói tỏa mờ mặt sông. Chiều đông mặt trời sắp xuống khỏi núi đàng tây, mặt sông đèn lửa đều nổi lên lập lòe. Chập tối, thuyền đánh cá dong buồm về bến, nhìn quang cảnh ấy, kẻ có tâm hồn thường ứng họa, trong lòng cảm thấy thư thái. Vua Lê Thánh Tông qua đây làm bài thơ có hai câu:

“Sáng qua tỉnh mộng giang hồ Cưỡi bè những muốn lên xô cửa trời”, TKĐ dịch.

Có lẽ nhà vua cảm xúc cảnh đẹp nơi đây mà thốt ra những lời như vậy… “Cảnh làng Kim Đôi xưa là như vậy. Còn núi Nam Giới ngọn Long Ngâm cũng được ông Lưu mô tả: Ở cái gò tên là Mai Phụ (gò Mơ) trên núi này có đền thờ Vũ Mục vương39. Núi vươn dài ra tận biển tựa như bức bình phong. Ở vách núi có hang đá, gió cuốn sóng trào xô vào đẩy ra như một cái miệng lớn nhả suốt không ngừng, tiếng nước vỗ đá ầm ầm, nghe đều như tiếng trống cầm canh. Vì thế đền Vũ Mục gọi là đền Linh Cổ (trống thiêng) và chỗ núi ấy cũng gọi là núi Linh Cổ. Đứng trên núi trông

37 Hai ngọn núi nhỏ giữa xã Thạch Đỉnh và Thạch Hải thường gọi là Hòn Mốc, có thể ngọn núi này là mốc phía đông biên giới Việt - Chiêm ở thế kỷ X (907-981). Từ đó dãy Quỳnh Sơn cũng được gọi là núi Nam Giới. 38 Đồng bào địa phương đã phát hiện được những tấm ván dưới đáy sâu vùng nại muối bây giờ. 39 Vũ Mục vương tức Chiêu Trung đại vương Lê Khôi.

Page 97: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

97

suốt được bên cảnh sơn thủy thật đáng sánh với những nơi danh thắng như Động Đình, Nhạc Dương…”.

Bùi Dương Lịch cũng viết trong “Nghệ An ký” là “Ngọn núi cao nhất ở phía đông bắc hình như trán rồng. Liền ở dưới có một dải sông núi hình như vòi rồng, hai bên tả hữu có hai tảng đá tròn hình như mắt rồng, dưới núi có một cái ao lộ thiên rộng độ vài mẫu và rất sâu, hình như miệng rồng, xung quanh ao toàn là cỏ rậm bùn lầy, không thể vào được. Hai bên có hai nhánh núi ôm quặt lại hình như hai chiếc râu rồng. Nước ao chảy quanh co trong núi, ra bể. Ngoài biển lại nổi lên một ngọn, chắn ngang, sóng kêu ầm ầm như sấm động”.

Người xưa nhìn núi non và tưởng tượng ra như vậy. Ngày nay như ta biết thì phần bắc dãy Nam Giới là hòn Lố và ngọn Long Ngâm, cách nhau một eo núi sâu, lúc triều lên thì ngập nước, gọi là eo Lói. Ở đây có nhiều hòn đá hình thù kỳ dị, được dân gian gọi tên đá Trồng, đá Hến, đá Nhọn, đá Giường, đá Trứng Gà… Bên hòn Lố còn có hòn Môi nổi lên mặt nước như mái nhà, hòn Tượng đá chồng cao trên có khe Nghiêng nước chảy róc rách; đá Am, đá Lố, đá Ngựa Chìm… đều nằm dưới mặt nước. Đá Ngựa cách mũi Lố không xa, hồi chiến tranh chống Mỹ đã bẩy được một tàu chiến của Mỹ - Ngụy. Hòn Trống, hòn Mái giống hình đuôi hươu, sách xưa chép là “đá Hươu” hay “Hươu Đá”, nằm trước cửa bể, lúc triều lên thì ngập, thuyền bè đi lại thường bị tai nạn. Bên ghềnh Long Ngâm lại có hai hòn đá Lộng và đá Khơi rất nguy hiểm cho ghe thuyền nên được gọi là “đá thiêng”. Ai vô ý để thuyền chạm vào thì phải lễ cúng sám hối… Trên đỉnh hòn Lố, trong hai cuộc chiến tranh là nơi đặt đài quan sát của dân quân, bộ đội và bây giờ là ngọn đèn biển soi đường vào Cửa Sót cho thuyền bè.

Phía tây ngọn Long Ngâm là đền Chiêu Trưng (hay đền Võ Mục). Phía đông núi, theo sách “Nghệ An ký” trên bờ cao có hai nền nhà, tương truyền đời Hùng Vương Chử Đồng Tử và nàng Tiên Dung tu tiên đắc đạo ở đó, gọi là núi Quỳnh Viên. Quỳnh Viên, Quỳnh Sơn chính là tên xưa nhất của núi Nam Giới. Thơ Lê Thánh Tông: “Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên” (Ngọn núi nổi tiếng ngày xưa còn gọi là núi Quỳnh Viên).

Mặt trước dãy Nam Giới - Quỳnh Viên lấn ra tận bờ biển Đông, có đoạn sóng vỗ ào ào lên bờ đá, nhưng có đoạn là dãy cát hẹp có thể là bãi

Page 98: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

98

tắm lý tưởng. Ở mỏm cuối, giáp đất Dương Luật (Thạch Hải) có ngôi miếu nhỏ thờ Thánh Mẫu như một chứng tích của cửa bể ngày xưa.

Mặt sau, phía tây con sông Sót (đoạn cuối của con sông Hà Hoàng) chảy sát chân núi. Theo triền sông tiếp giáp với ngọn Long Ngâm là ngọn Nam Sơn. Trên núi có ngôi đền Thánh Mẫu, thường gọi là đền Nam Sơn. Đền không lớn nhưng cảnh quan thật là đẹp. Ngọn Hỏa Hiệu thấp nhỏ, cách ngọn Nam Sơn không xa, xưa là nơi đốt lửa khi có giặc dã. Dưới núi là “Áng Cát” và trên núi có ngôi miếu nhỏ thờ thần Cá Voi “Nhân Ngư linh ứng”.

Cùng với đền Chiêu Trưng, hai ngôi đền, miếu này đã tạo nên cảnh đẹp ở đây, nhất là khi đi thuyền dưới sông trông lên. Ngọn cao nhất 373m nằm chếch về hướng đông, thường gọi là “đỉnh Treo Cờ” vì thời Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) và hồi Cách mạng tháng 8/1945 dân Kim Bôi đã dựng cờ đỏ lên đỉnh núi. Từ đây núi thấp dần về phía nam cho đến địa phận các xã Thạch Bàn, Thạch Hải. Ven núi, tận bờ sông, có những địa danh lạ tai: Áng Cát, Áng Vôi, Hang Đá, “gành Trôốc Men”, có “đá Rùa” một tảng đá trông giống như con rùa nổi trên mặt sông. Trên núi có nhiều khe suối cùng đổ xuống sông Sót: Khe Su (sâu), khe Máng (dân địa phương bắc máng tre ra tận bờ sông để thuyền ghé vào lấy nước ngọt), khe Sư… nhưng nổi tiếng nhất là khe Hau Hau, vì nước tốt nhất trong vùng. Nước khe không chảy lộ thiên mà xuyên ngầm trong đá đến một chỗ trũng xuống như cái ao, nước có màu xanh lơ, uống vào ngọt mát. Xưa kia, vua đi qua Nghệ An (Nghệ Tĩnh) đến đây bắt dân sở tại phải lấy nước khe này đem tiến. Thời thuộc Pháp, trước khi đặt ống dẫn nước từ núi Nhật Lệ về tỉnh lỵ, dân làng Kim Đôi cũng phải chở nước lên cung đốn cho các công sở, coi như một thứ thuế đặc biệt. Họ cũng chở nước lên bán cho dân phố và các vùng dân quê hiếm nước ngọt.

Đầu mùa hè năm Đinh Tỵ (1797) cụ Bùi đã đến tắm ở khe Hau Hau và có làm bài thơ “Tự thuyết” về dòng khe này. Đúng 130 năm sau, ngày 15/4/1927, nhà thơ Tản Đà cũng về thăm Cửa Sót. Hôm đó trời mưa nhà thơ không thể tắm mà “sang tới núi, trèo lên uống chơi mấy khẩu nước rồi đứng xem phong cảnh…” (Giấc mộng lớn). Sau đó nhà thơ nhắc lại trong bài thơ “Ngày xuân nhớ cảnh nhớ người xưa”:

Page 99: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

99

“Một đêm ngủ lại Hoan thành Nẻo sang Hà Tĩnh, sông xanh non Hồng Nước núi Sót mát lòng ưu ái Trận mưa thu dầm tưới quan san…”.

Quỳnh Sơn - Nam Giới với núi khe, đền miếu, với cửa biển lạch sông, với bến thuyền, chợ cá, với những truyền thuyết lịch sử (về vua Lê Thánh Tông và tướng Lê Khôi, về cuộc huyết chiến của chiến thuyền Trịnh - Nguyễn, với những huyền thoại dân gian (về Chử Đồng Tử, về bà chúa Liễu Hạnh), từ xưa đã thu hút vô số du khách và rất nhiều tao nhân mặc khách đã để lại những bài thơ lưu truyền mãi mãi trong nhân gian.

CỬA BIỂN KỲ LA - NHƯỢNG BẠN

Ba con sông - sông Họ (Hộ Giang) từ tây bắc vào, sông Rác (Lạc Giang) từ tây nam ra, sông Quèn (Quyền Giang) từ tây xuống - hợp lưu cuối làng Quyền Đông (xã Cẩm Lộc), tạo nên một dòng chảy lớn là rào Cấy (sông Cái - bản đồ ghi sông Gia Hội) rồi đổ ra cửa Nhượng.

Cách bờ bắc cửa Nhượng không xa, có hai ngọn núi nổi lên trên bãi biển: Rú Trộn và Rú Gùm. Ở bờ nam là dãy Rú Cửa. Dải đất từ Rú Trộn (Thọ Sơn) mé tây bắc đến Rú Cửa (Rú Voi - Tượng Lĩnh) mé đông nam, hơn nghìn năm trước đã là một điểm cư dân có tên Kẻ La, được phiên âm Hán - Việt thành Cơ / Ky / Kỳ La. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chỉ một lần, trong quyển I, kỷ Tiền Lê, chép (âm “cơ” là máy, là khéo…), còn về sau đều chép như các sách khác (chữ có các âm “cơ” hay “ky” là số lẻ, lẻ loi, và “kỳ” là lạ). Trong các bản quốc ngữ, người ta đều phiên âm là “kỳ”. Thật ra, cơ, ky, kỳ (Hán) cũng chỉ là chữ mượn để ghi âm tiếng “kẻ” (Nôm) mà thôi.

Từ đời Trần đến đời Nguyễn, Kỳ La là đơn vị hành chính cơ sở (xã). Kỳ La cũng là tên huyện Cẩm Xuyên đời Trần40. Theo một tài liệu chữ

40 Đời Trần đặt huyện Kỳ La, tương ứng với địa bàn huyện Cẩm Xuyên bây giờ thuộc lộ Nhật Nam, phủ Nghệ An. Thời thuộc Minh, vào năm 1419, hai huyện Kỳ La và Hà Hoa (Kỳ Anh ngày nay) tháp nhập làm một, lấy tên là huyện Kỳ Hoa, thuộc châu Nam Tĩnh, phủ Nghệ An. Đời Lê, Kỳ Hoa và Thạch Hà là hai huyện của phủ Hà Hoa, xứ / trấn Nghệ An. Đời Hà Tĩnh, năm 1837, cắt bốn tổng Lạc Xuyên, Thổ Ngọa, Văn Tán, Mỹ Duệ lập

Page 100: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

100

Hán chép làng xã đời Nguyễn Minh Mệnh (1820-1840) thì thời này trên địa bàn Kẻ La - Kỳ La có các đơn vị hành chính: 1. xã Kỳ La; 2. thôn Thiện Trị thuộc xã Quan Duệ; 3. trang Hội Yên, đều thuộc tổng Vân Tán; và 4. xã Nhượng Bạn thuộc tổng Lạc Xuyên.

Theo một tài liệu địa phương (chưa được thẩm tra lại) thì Thiện Trị xưa là một thôn của xã Kỳ La, đời Hàm Nghi (?) mới trở thành một đơn vị hành chính riêng. Hội Yên từ trang chuyển sang thôn đời Tự Đức (?) là làng thiên chúa giáo toàn tòng. Sau cách mạng 8/1945, các làng xã trên cùng xã Hậu Côn hợp nhất thành xã Ngũ Phúc, năm 1954, chia thành hai xã Cẩm Phúc và Cẩm Long. Xã Cẩm Long, từ năm 2003, là Thị trấn Thiên Cầm.

Xã Nhượng Bạn (từ 1956 lại nay là Cẩm Nhượng), tương truyền thành lập vào thế kỷ XVII. Theo truyền ngôn thì xưa, ngư dân nhiều nơi, trong đó có nhóm người Bồ Lô41 từ trường Xuân Hồi, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình ra, thường gọi “Bồ Lô Xuân Hồi”, đến tụ tập làm ăn ở cuối sông Quèn, sông Rác, lập lên một đơn vị hành chính là vạn Giang Phái42. Dân vạn Giang Phái sinh sống trên vùng sông biển này đến đỗ thuyền rồi trú ngụ trên đuôi bãi Kỳ La, được dân sở tại nhường cho rẻo đất mé cửa biển và định cư ở đó. Dân cư ngày càng đông đúc, ngoài ngư dân, còn có người đến đây buôn bán, họ phải bốn lần xin xã Kỳ La nhường đất để mở rộng địa bàn cư trú, rồi trở thành đơn vị hành chính vào cuối đời Lê hoặc đầu đời Nguyễn (tài liệu địa phương cho biết xã Nhượng Bạn mới có triện lý trưởng vào đời Tự Đức). Theo nhiều người thì cái tên “Nhượng Bạn” có

huyện Hoa Xuyên, năm 1841 đổi Hoa Xuyên thành Cẩm Xuyên, Kỳ Hoa thành Kỳ Anh. 41 Bồ-lô là nói chệch tiếng Pu-lô (Poulo) nghĩa là người ở đảo, Nam đảo. Người Bồ-lô xưa sống trên con thuyền nhỏ lâu đời nên lên bộ đi lại khó khăn, lại rất nghèo khổ, nên có câu hát: “Bồ-lô Xuân Hồi - Không nồi nấu ăn - Không khăn buộc trôốc - Không nôốc đi câu - Không bầu đựng gạo…” - “… Khi em lên chợ - Chân đi vòng kiềng - Bổ ngả bổ nghiêng…”. Ngày nay, người Bồ-lô gần như đã Việt hóa và lên ở trên bộ. 42 Vạn Giang Phái được xã Hóa Dục nhường cho 39 mẫu điền thổ, một số dân lên ở trên bộ và chuyển sang nghề nông, còn vẫn làm nghề đánh cá, trong đó có một số sang ở đuôi bãi Kỳ La, lập lên làng Nhượng Bạn. Vạn Giang Phái sau đổi thành phường, rồi thôn Giang Phái, thuộc tổng Lạc Xuyên, nay thuộc xã Cẩm Lộc.

Page 101: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

101

nghĩa là “bờ đất được nhường lại”. Người ta nói rằng việc xin đất và giữ đất khỏi bị xâm chiếm là nhờ bà Càn. Dân Nhượng Bạn lập đền thờ bà43. Đền nay không còn nhưng người ta còn truyền lại đôi câu đối:

“Thục đức tá tiền triều, Nhượng Bạn do truyền phong hóa cựu; “Thần ân lưu hậu thế, Lạc giang trường ức bản nguyên thâm” (Đức tốt giúp tiền triều, Nhượng Bạn còn truyền phong hóa cũ; Ơn cao lưu hậu thế, Lạc giang mãi nhớ gốc nguồn sâu).

*

* *

Đất Kỳ La cũng như dọc bờ biển phía ngoài Rú Trộn, thời xa xưa là biển do cát bồi tích tạo thành. Rú Gùm (hay Cùm) nguyên là một hòn đảo, nay nằm mé bãi, trở thành một thắng cảnh với nhiều di tích và huyền thoại: Hang Hồ Quý Ly, chùa Cầm Sơn…, chuyện Dang Hùng, nhất là sự tích vua Hùng qua đây nghe tiếng đàn từ trên trời vang vọng mà gọi núi này là Thiên Cầm…

Trên vùng bãi biển này có nhiều sông, hói, dòng chảy không ổn định. Tương truyền, cho đến thế kỷ XV, XVI, cửa biển còn ở phía bắc núi Thiên Cầm, được gọi theo tên xã sở tại là cửa Kỳ La. Về sau, cửa biển và con sông bị bồi lấp dần, rồi dòng chính chảy hẳn về phía nam. Dấu vết cũ còn lại là hói Sóc và nhiều hồ, bàu: Bàu Ràng, bàu Chuôm, bàu Tràn, bàu Xăm… Các cụ xưa nói rằng bãi cát đồng Nôi bây giờ chính là lạch cũ (Tài liệu địa chí xã Cẩm Dương cũng cho biết vào thế kỷ XVIII (?) còn có con sông chảy dọc mé biển từ Thạch Hà vào Cẩm Xuyên, đến bắc rú Gùm. Một thuyền buôn đồ sành sứ vào đến Chi Nhang, nay thuộc thôn Liên Hương 43 Ở Nhượng Bạn, người ta kể chuyện bà Càn: “Bà là con gái nhà nghèo nhưng nhan sắc tuyệt trần, tính tình hiền dịu và có giọng hát hay. Vua Trần (?) ghé thuyền vào đậu ở cửa sông, nghe tin, vời xuống hầu, rồi đưa về kinh sư làm cung nữ. Gặp khi đất đai của làng bị lấn chiếm, bà này cho dân chôn đá làm cận nên giữ được địa phận. Dân nhớ ơn lập đền thờ bà ở làng Dương, lại làm đền thờ hai anh bà ở làng Vạn, làng Trung”. Ở làng Kẻ Trộn tức làng Hoàng Vân, xã Cẩm Dương cũng có đền thờ bà Càn, chung với bà Thái hậu Quang Thục, mẹ vua Lê Thánh Tông. Hiện còn hai đạo sắc đề năm 44, đời Lê Cảnh Hưng (1783), và năm thứ 6 đời Nguyễn Thành Thái (1894) phong riêng cho bà Càn với thần hiệu là “Túc huệ Minh hiển Cảm ứng Hoàng Kiền bà đại vương” (chữ Hán viết Dân Hoàng Vân cũng nói bà Càn có công lập lên làng Kẻ Trộn, nên được dân thờ phụng, trước đây còn có mộ bà Càn ở gần đền (?).

Page 102: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

102

thì bị đắm, nay còn bãi Sành. Dải bàu đầm dọc bãi biển Cẩm Dương chính là dấu vết dòng sông ấy).

Từ “giữa thiên kỷ trước, tuy không có cứ liệu thư tịch, nhưng chắc chắn quan quân đô hộ Hán, Ngô, Lương, Tùy, Đường… ở Nhật Nam đã qua lại cửa Kỳ La. Còn người Champa từng đánh chiếm hai châu Hoan, Ái (803-808) và từng đặt quan cai trị hơn 70 năm (907 hoặc 910-981) từ sông Ngàn Mọ - núi Nam Giới vào Hoành Sơn, chắc chắn đã sử dụng cửa Kỳ La làm quân cảng, thương cảng. Về sau, họ cũng thường xâm phạm Đại Việt qua cửa biển này, ví như cuộc cướp phá ở đây năm 1203 đời Lý.

Sử cũ cũng chép nhiều sự kiện quan trọng thời tự chủ ở cửa biển Cơ - Kỳ La: Vào năm Ất Tị (1005) Đông Thành vương Lê Long Tích tranh ngôi với các anh em ruột, thua chạy vào đến cửa Kỳ La thì bị người châu Thạch Hà giết. Năm Đinh hợi (1407) Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng - theo truyền ngôn thì chính Thượng hoàng Hồ Quý Ly bị quân Minh đuổi bắt ở hang núi Thiên Cầm. Năm Canh dần, Tân mão (1470-1471) đoàn chiến thuyền của vua Lê Thánh Tông trên đường Tây chinh, cũng qua lại cửa biển này…

Như vậy, Kỳ La là hải cảng quan trọng trên con đường thủy Bắc - Nam. Từ đời Lý, Trần, ở đây thường có đội quân thường trú. Nhà Lê đặt sở tuần ty để kiểm soát thuyền bè. Năm Quý dậu (1633), Trịnh Tạc làm Trấn thủ Nghệ An, đưa thủy quân vào đóng giữ. Đến năm Ất mùi (1655) thủy quân chúa Nguyễn tiến vào cửa Kỳ La. Tướng Trịnh Vũ Văn Thiêm thua to, phải lui về giữ cửa Đan Nhai (Cửa Hội).

Có thể lúc này dòng chính đổ ra biển đã chuyển xuống phía nam và cuối xã Kỳ La cũng đã có cư dân lên dựng nhà, lập xóm trên bãi… nhưng phải đến lúc xã Nhượng Bạn trở thành một đơn vị hành chính thì tên cửa biển mới được gọi theo tên xã. Do đó, các sách đời Lê vẫn chép cửa Cơ / Kỳ La, sách đời Nguyễn (TK XIX) mới chép là cửa Nhượng Bạn.

Sách Đại Nam nhất thống chí (Q.IV. Đạo Hà Tĩnh) viết: “Tấn cửa Nhượng ở xã Nhượng Bạn, rộng 24 trượng (96m), thủy triều lên sâu 6 thước (2,40m), thủy triều xuống sâu 3 thước (1,20m), xưa gọi là cửa biển Kỳ La, trong có đường nhỏ bằng đá quanh co, phía nam liền với chân động Tượng Tỵ, phía bắc liền với chân núi Thiên Cầm, chỗ ẩn chỗ hiện trông như đập

Page 103: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

103

đá, khoảng giữa có một cái động nhỏ, có thể chứa được vài chục người tục gọi là sập đá…”44. Đó là quang cảnh Cửa Nhượng thế kỷ XIX.

Ngày nay, như ta biết, Cửa Nhượng ở vào tọa độ 106007’30’’ kinh đông, và 18015’40’’ vĩ bắc. Cửa Nhượng hẹp, không sâu, bờ nam sát chân rú Cửa tức núi Đầu Voi - Vòi Voi / Tượng Lĩnh, bờ bắc cách núi Thiên Cầm non 2km, phía trước là hòn Bơớc - dải đảo đá dài ngót nghìn mét, có chỗ cao tới 5 - 6m che chắn, ngoài khơi lại có hòn Én án ngự nên rất an toàn cho thuyền bè neo đậu.

Vè Nhật trình đi bể từ phía nam ra có đoạn nói về vùng cửa biển này:

… “Hòn Én nằm trửa (giữa) không sai, Trông về lạch Nhượng, Đầu Voi chăng là, Ngoài khơi có đám rạn rà, Trông vô hòn Chụp, trông ra hòn Gùm…”.

*

* *

Đất Kỳ La xưa, nay là thị trấn Thiên Cầm và xã Cẩm Nhượng là một vùng kinh tế đa dạng: Nông nghiệp chủ yếu với cây lương thực, thực phẩm và chăn nuôi gia súc, gia cầm là nghề chính. Cùng với nghề nông, có hai nghề truyền thống là làm muối (ở Thiện Trị, Nhượng Bạn) và đánh cá biển (Nhượng Bạn, Song Yên (Cẩm Long). Muối và cá biển đã tạo ra nghề mới: Chế biến và mua bán hải sản (nước mắm, ruốc, cá tươi). Nước mắm Nhượng có tiếng trên thị trường trong, ngoài tỉnh. Làng Nhượng trở thành giàu có, đông vui, như câu phương ngữ ngợi khen: “Nhất kinh kỳ, nhì Nhượng Bạn”. Đây lại là vùng danh thắng non nước hữu tình, làm say lòng người. Trước 1945, đã có một khu nghỉ mát dưới núi Thiên Cầm. Ngày nay, thị trấn Thiên Cầm trẻ trung càng hấp dẫn du khách với bãi biển đẹp và hoạt động dịch vụ du lịch ngày càng tăng…

44 “… Đường nhỏ bằng đá…” là nói dãy đảo đá mà dân địa phương gọi là hòn Bơớc, theo sự quan sát của người xưa. Hòn Bơớc, cơ quan bản đồ ghi là hòn Búc, có hai đảo gọi là Chóp Mẹ, Chóp Con hay Chụp Mẹ, Chụp Con, phiên âm Hán Việt là Đại Trập, Tiểu Trập.

Page 104: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

104

DANH THẮNG ĐÈO NGANG

“Bước tới Đèo Ngang…”, bao nhiêu thi sĩ đã làm thơ, từ Lê Thánh Tông, Bùi Huy Bích, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Nễ, Phạm Quý Thích, Bùi Dương Lịch… đến Hà Tôn Quyền, Nguyễn Trường Tộ, Cao Bá Quát, từ Lê Văn Huân, đến Xuân Thủy, Thanh Minh, Phạm Tiến Duật… Bà Huyện Thanh Quan (Nguyễn Thị Hinh), có bài thơ được bia miệng lưu truyền, còn vua Thiệu Trị thì lại cho khắc thơ vào đá… Đến người lao động bình thường qua đây cũng hát lên tiếng lòng mình:

“Trèo đèo hai mái chân vân Lòng về Hà Tĩnh dạ ái ân Quảng Bình”

Đèo Ngang vắt qua dãy núi Ngang (Hoành Sơn) một chi của Trường Sơn Bắc mọc lấn ra tận biển Đông với điểm chót là mũi Đao, mũi Độc. Khối Hoành Sơn chiếm một diện tích khoảng 1.500km2, có ngọn Ba Cốc cao tới 823m, nhưng chiều cao trung bình chỉ khoảng 400m và ở Đèo Ngang 256m. Hoành Sơn là biên giới tự nhiên Việt - Chiêm xưa, nay là địa giới hành chính giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Đồng thời đó cũng là ranh giới khí hậu: Hà Tĩnh thuộc khí hậu bắc, mùa đông có gió mùa đông bắc mạnh còn mùa hè thì gió Lào nóng dữ dội. Lượng mưa ở Hoành Sơn rất lớn, 3000mm/năm, và bão cũng rất nhiều. Trong khi đó Quảng Bình chỉ cách hơn 10km đã mang rõ đặc điểm của khí hậu nam: gió đông bắc rất yếu.

Đèo Ngang có khe Đá Bàn (Bàn Thạch) chảy về sườn núi phía nam vào đất Quảng Bình. Từ 150 năm trước đến tắm ở đây, Cao Bá Quát đã ngâm mấy câu thơ (dịch):

“Sáng lên đứng Hoành Sơn, Chiều xuống tắm Bàn Thạch, Nhặt đá cầm trong tay, Non sông chưa đầy vốc”.

Còn khe đá Hạt (Hạt Thạch) thì đổ xuống sông Trí, chảy ra cửa Khẩu. Khe Du, Di, khe Hạ Bồ (khe Bò) chảy vào sông Nước Mặn (Xích Mộ) đổ ra cửa Nước Mặn ở Ngưu Sơn (xã Kỳ Nam bây giờ). Cửa biển đã bị bồi cạn từ lâu, còn con sông hiện chỉ là một dòng chảy nhỏ từ đập Con Bò

Page 105: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

105

xuống… Bóng dáng xa xưa của chúng còn được thấy thấp thoáng trong bài thơ vua Lê Thánh Tông làm trên đường Tây chinh năm 1470-1471:

“Đồn biển cồn ngăn, đầu sóng chặn, Nhà người mái lá, mũi bờ nghênh. Xóm chài buồm lướt mưa về bến, Ruộng lạc triều dâng nước ngập duyềnh…” (Cửa biển Xích Mộ - Thanh Minh dịch)

Từ khi người Chămpa lập quốc vào thế kỷ thứ II, Hoành Sơn trở thành biên giới tự nhiên Việt - Chàm và Đèo Ngang là cửa quan hiểm yếu. Người Lâm Ấp lập đồn đắp lũy dọc theo đỉnh núi dài tới 30km từ Xuân Sơn (Kỳ Lạc) qua Thần Đầu đến Ngưu Sơn (Kỳ Nam bây giờ). Theo các sách xưa thì “lũy cổ Lâm Ấp” có thể do chúa Chiêm là Phạm Văn xây dựng vào khoảng những năm 345-357. Về sau, người Chàm, người Việt đều sửa chữa lại, đến nay vẫn còn nhiều đoạn thành đá cao.

Suốt trong một thời gian dài, người Lâm Ấp - Chiêm Thành thường ra cướp bóc, bắt người ở vùng bắc Hoành Sơn. Năm 803, quân Hoàn vương tràn sang đánh đuổi quân đô hộ nhà Đường, chiếm hai châu Ái Hoan (Thanh Nghệ Tĩnh bây giờ). Đến năm 808, tướng nhà Đường là Trương Chu làm Đô hộ Giao Châu mới đánh đuổi quân Hoàn vương lùi sâu vào vùng Nam - Ngãi bây giờ. Một thế kỷ sau, khoảng 907-910, người Chiêm Thành lại lấn sang chiếm đóng từ Đèo Ngang ra đến Nam Giới - Thành Sơn, đặt quan cai trị ngót 70 năm, cho đến năm 981, vua Lê Đại Hành mới đem quân vào giải phóng.

Tháng 8 năm Nhâm Thìn (992), Lê Đại Hành sai Phụ quốc Ngô Tử An đem ba vạn người đi mở đường bộ từ cửa biển Nam Giới đến châu Địa Lý (Quảng Bình bây giờ). Đó là đường quan lộ đầu tiên vượt Đèo Ngang. “Thành đá Lâm Ấp xây. Đường bộ Tử An mở” (thơ Bùi Dương Lịch). Mùa xuân năm Ất sửu (1025) vua Lý Thái Tổ xuống chiếu lập trại Định Phiên ở nam giới châu Hoan, cho Quản giáp Lý Thai Giai làm trại chủ (có thể trại này ở vào khoảng nam Cẩm Xuyên hoặc Kỳ Anh ngày nay).

Dưới các triều đại Lý, Trần, Hồ, vùng Đèo Ngang thường náo động bởi các cuộc hành quân Nam chinh của vua quan Đại Việt và các cuộc đánh

Page 106: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

106

phá của người Chămpa. Đặc biệt vào tháng giêng năm Ất dậu (1285) trong cuộc xâm lược lần thứ ba, 50 vạn quân Nguyên - Mông do Đại vương Giảo Kỳ, Hữu thừa Toa Đô, Tả thừa Tang-gu-tai, Tham chính Khê-đê cầm đầu, từ Chiêm Thành ồ ạt tràn qua Đèo Ngang ra Nghệ An, đẩy lùi quân nhà Trần rồi tiến ra Thanh Hoa.

Trong hai cuộc nội chiến dưới triều Lê, Đèo Ngang vẫn là nơi hiểm yếu, lúc quân Mạc hoặc quân Lê, lúc quân Nguyễn hoặc quân Trịnh chiếm giữ. Từ tháng 5/1648 đến tháng 5/1655 nhà Trịnh lập đồn Hữu trấn dinh (trấn Nghệ An) ở Đèo Ngang, sai Đông Quận công Lê Hữu Đức và Vũ Lương lĩnh một vạn quân đóng giữ. Đợt thứ 5 cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài 4 năm (1655-1658), Đèo Ngang là nơi tranh chấp quyết liệt, có lúc trở thành chiến địa đẫm máu. Mãi đến năm 1661, Dương Quận công Đào Quang Nhiêu làm Trấn thủ Nghệ An đóng ở Dinh Cầu, trên Đèo Ngang có đồn binh án ngự bảo vệ trấn lỵ từ phía nam.

Đời Tây Sơn, ở Đèo Ngang có đội quân của Đô đốc Dương Văn Tào đóng giữ. Triều Nguyễn vẫn đặt đồn phòng thủ kiểm soát người qua lại đường đèo. Năm Quý tỵ (1833) vua Minh Mạng cho xây dựng cửa quan trên đỉnh đèo. Theo sách “Hà Tĩnh địa dư” thì cổng cao 10 thước (4m) hai bên có tường trụ dài 75 thước (30m). Nhưng sách “Đại Nam nhất thống chí” lại chép cửa quan xây dựng bằng đá dài 11 trượng 8 thước (47,2m) cao 5 thước (2m) khoảng giữa là cửa quan, phía tả và hữu đắp tường dài 75 trượng (300m) cao 4 thước (1,6m), về mặt tả mặt hữu và mặt hậu tường dài 12 trượng 2 thước (48,8m). Hiện nay, chỉ còn lại cổng chính cao khoảng 4m, còn các bức tường đã bị sụp đổ. Đường thiên lý đi qua dưới cổng, hai phía ghép đá, phía ngoài vào 980 bậc, phía trong ra 900 bậc, nay đã bị cây cỏ, đất đá phủ lấp. Đường quốc lộ bây giờ đi vòng phía dưới, cách Hà Nội 423km. Năm Mậu tuất, Minh Mạng thứ 19 (1838) đúc 9 đỉnh đồng lớn đặt ở nội thành Huế, hình tượng Hoành Sơn - Đèo Ngang được chọn khắc vào “Huyền đỉnh”. Năm Nhâm dần, Thiệu Trị thứ 2 (1842) vua ngự giá Bắc tuần, có bài thơ khắc trên đá ca ngợi đỉnh Hoành Sơn quan; có câu (dịch):

“Gìn nam giữ bắc chia nghiêm cửa Suốt cổ về kim chốt chặt đàng”.

Ngót một thế kỷ thời cận hiện đại từ lúc thực dân Pháp xâm lược đất Hà

Page 107: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

107

Tĩnh (1885) cho đến hết thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1975), vùng Đèo Ngang luôn luôn là “điểm nóng”, là phòng tuyến, là chiến địa của nhân dân ta…

“Dừng chân đứng lại: Trời, non, nước” (Thơ bà Thanh Quan)

Quả thiên nhiên ở đây là một kiệt tác của tạo hóa: Non nước Hoành Sơn cảnh trí tuyệt vời, hùng vĩ và thơ mộng. Lịch sử cũng để lại dấu ấn đậm nét trên mặt đất và trong ký ức con người.

Giữa hôm nay, từ bên “phế lũy Lâm Ấp” một nghìn sáu trăm năm tuổi trên đỉnh núi nhìn xuống đám “xóm chài mái lá”, “ruộng lạc triều dâng” lúc vua Lê Thánh Tông qua đây vào thế kỷ XV, ta sẽ gặp những làng xóm đông vui, đồng lúa, đồng tôm hứa hẹn, và cả một thị tứ Mũi Đao đang hình thành… Men theo những bậc đá rêu phong lên “Hoành Sơn quan”, bỏ lại phía sau con đường nhựa vấn quanh núi, cùng con đường hầm hiện đại xuyên sơn 495m dài, ta đang ngược dòng thời gian, bước trên con đường bộ ông Ngô Tử An mở vào thế kỷ thứ X… Còn hai ngôi miếu thờ bà chúa Liễu ở hai phía chân đèo lại nhắc đến huyền thoại về vị Thánh Mẫu bất tử, lần đầu tiên giáng trần đã mở một quán hàng bên đường để thử thách nhân tâm, trừng trị kẻ bất lương, giúp đỡ người trung thực…

Giữa hôm nay, những âm thanh của cuộc sống hiện đại vẫn hòa với âm hưởng nghìn xưa, tiếng bước chân đi mở đất, tiếng sắt thép của cuộc giao tranh, tiếng chim hót, thông reo, tiếng thi ca của mọi thời đại…

VŨNG ÁNG

Dãy Rú Voong khởi đầu từ mũi Dung mé nam cửa Khẩu chạy một vòng cung rộng bao lấy hai hàng Vĩnh Trung, Vạn Áng, rồi tiếp tục lấn mãi ra biển theo hướng đông - bắc, tạo thành một bán đảo dài tới 8km, kết thúc ở mũi Dòn. Có hai dải eo (đèo), hai đường mòn từ đất liền ra bãi biển, cắt dãy núi thành ba nhóm. Rú Voong - tên Hán Việt là Cao Vọng, chân xoải tận mé sông Quèn, bên ngọn chính (357m) còn có động Cầu (260m), động Ngà Voi (214m). “Cao Vọng sơn đầu khách tứ sầu” (Đầu non Cao Vọng dạ người đau) là câu thơ cổ nhắc chuyện vua Hồ Hán Thương và Thái tử Nhuế bị quân Minh bắt năm 1407. Ở đây có một hang đá rộng bằng hai

Page 108: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

108

gian nhà, do các tảng đá xếp chồng lên nhau mà thành nên có tên hang Đá Trồng, dân gian cũng gọi “Hang Hồ Hán Thương”.

Chân núi có cái giếng, ba hòn đá giống hình ba con ếch chầu lại nên gọi giếng Ếch (nay chỉ còn “ếch mẹ” còn hai “ếch con” bị phá hỏng). Nước giếng trong và ngọt thuyền bè qua lại thường ghé vào lấy. Dưới núi có miếu thờ thần Sát Hải tức Hoàng Tá Thốn vị tướng đời Trần có công trong kháng chiến chống Nguyên - Mông, sau được cử coi vùng biển xứ Nghệ. Từ rú Voong qua đường eo Cha Sang là rú Sơn (bản đồ ghi Càn Sơn - 368m). Lại qua đường eo thì đến rú Dòn, phiên âm Hán Việt là Ô Tôn, với ngọn Đình Chùa (230m) và điểm mút có Dòn Nậy (Lớn), Dòn Con (các bản đồ ghi mũi Ròn là lầm). Từ đường không gian mũi Dòn - mũi Dung, hai mũi cuối dãy Cao Vọng, dài khoảng 6km, vào đến mé nước hai làng Vĩnh Trung, Vạn Áng (nay là thôn Vĩnh Áng, xã Kỳ Lợi), chính là Vũng Áng.

Núi bao ba mặt, Vũng Áng như cái hồ đáy không bị bồi nên luôn có độ sâu trung bình 8 sải nước (12m), có nơi sâu tới 15m. Trong “hồ” bốn mùa sóng yên gió lặng. Khi ngoài khơi có bão tố thì trong vũng gió chỉ đủ làm cho sóng dập dềnh… Đây là nơi trú ẩn cho hàng chục tàu lớn vạn tấn, và hàng trăm thuyền bè khác. Biển kín lại lắm thức ăn, Vũng Áng còn là nơi rất nhiều cá. “Trộ cá” chính chỉ rộng chừng 300m, một bên là bãi biển đền Ao Bạch, một bên là rạn đá ngầm, chỉ cần bốn vòng lưới là tha hồ hốt cá, bình quân mỗi lần đánh bắt được mươi tấn, có năm một mẻ lưới được tới 70 tấn cá. Vùng biển này còn có nhiều đặc sản khác: Tôm hùm, mực, cửu khổng, rau mứt (rau câu).

Đền Ao Bạch, dưới chân mé bắc Rú Dòn là một thắng tích ở Vũng Áng. Tương truyền, đây là nơi thờ vọng Chế Thắng phu nhân (đền chính ở Hải Khẩu xã Kỳ Ninh). Cũng có truyền thuyết đây là nơi thờ công chúa Mai Châu, con gái Lê Thánh Tông: Công chúa theo vua cha đi đánh Chiêm Thành (1470-1471) hy sinh cho thần sông để cứu 5 vạn quan quân ở dưới núi An Ngang (Quảng Bình). Nhà vua được tin, đánh thần sông buộc phải trả lại công chúa. Thi hài nàng Mai Châu nổi lên ở Ao Bạch, vua bèn sai dựng miếu thờ… (?).

Theo sách cổ thì trên đỉnh Rú Dòn xưa có đồn ải, sau còn dấu vết một ngôi

Page 109: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

109

thành vuông, một ngôi thành tròn (?).

Từ Vũng Áng ra eo Rồng sang mái nam Rú Dòn là vũng Môn ở làng Phác Môn (nay cũng thuộc xã Kỳ Lợi). Sách “Kỳ Anh phong thổ chí” chép: (Dưới núi Ô Tôn) “Có vũng bao quanh như cái ao, gọi là núi Yên Ao… Ngày trước có đồn lính thú giữ nơi đây…”. Vũng Môn hay còn gọi Vũng Yên (Yên Ao) hẹp hơn Vũng Áng nhưng sâu tới 25 - 27m, tàu 10 vạn tấn có thể neo đậu… Trước mũi Dòn có hai đảo nhỏ: Hòn con Dê - Sơn Dương (145m) ở phía đông nam, và xa hơn là hòn Con Chim ở phía đông.

“… Sơn Dương gần đó mũi Dòn, Là qua Vũng Áng, lại lên Dinh Cầu…”. (Nhật trình đi biển)

Cửa Khẩu - Vũng Áng - mũi Dòn là vùng hiểm yếu nhưng thiên nhiên kỳ thú và giàu tài nguyên. Từ xa xưa, ông cha ta đã nhìn thấy và bắt tay khai thác. Trên đường Tây chinh, năm Canh dần (1470) vua Lê Thánh Tông qua đây đã ghi lại trong tập thơ “Chinh Tây kỷ hành”: “Canh tư đêm 13 tháng chạp thuyền đi vào một dòng sông nhỏ. Sáng ngày 14 tiến vào Kênh Lấp (Sa Tắc), mưa to, gió lạnh, thuyền dừng lại sát bờ. Hai bên bờ đồng phẳng bát ngát muôn dặm nhìn ngút tầm mắt, đất rộng người thưa, hươu nai từng đàn. Từ kênh Trường Lang về phía trước, có thể di dân tới chừng mấy vạn nhà…”. Vào thế kỷ XVI, Trấn thủ Nghệ An, Thọ Quận công Phạm Tiêm đã huy động dân phu đắp đập chặn cửa Lỗ và đào con mương Eo Bù dưới chân núi Cao Vọng tháo nước ra biển ngăn lũ lụt, khai khẩn thêm 30 mẫu ruộng. Đến nay người Kỳ Anh vẫn kể lại câu chuyện “Lấp cửa Lỗ, trổ Eo Bù” thuở ấy. Cũng vào đời Lê, dân địa phương đã bắt tay đào con kênh qua đất làng Phác Môn, cách Vũng Môn hơn 300m, nối sông Quèn ra biển. Chỉ huy công trình này là ba ông họ Chu. Nhưng việc đang tiến hành thì cả ba ông đều mất, nên đành bỏ dở dang. Dân thương tiếc lập miếu thờ ba ông dưới Rú Voong. Con hói cụt - gọi là hói Bền, dài khoảng 300m rộng chừng 40m ở Kỳ Lợi bây giờ chính là đoạn kênh đào dở hồi đó.

Tầm nhìn và việc làm của ông cha ta từ bốn, năm thế kỷ trước, tuy còn ít ỏi, cũng đáng để cho ta kính phục… Nhưng phải đến ngày nay, với tầm

Page 110: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

110

nhìn và điều kiện lịch sử mới, vùng đất này mới bắt đầu có kế hoạch khai thác toàn diện với quy mô lớn.

Từ lâu, người ta đã biết Vũng Áng sẽ là cảng biển lý tưởng của đất nước. Đến những năm 70, thế kỷ XX, các nhà lãnh đạo Việt Nam và Lào coi đây chính là cửa ngõ của Việt Nam thông với các nước bạn vùng sông Khóng (Mê Kông), cửa ngõ của Lào ra biển Đông, và cũng là một trong những “cửa ngõ” để Hà Tĩnh ra khỏi đói nghèo, lạc hậu. Nhưng phải qua một quá trình nghiên cứu, đến 23/10/1997 Chính phủ mới có Quyết định về Khu công nghiệp Cảng biển Vũng Áng, nằm trong vùng trọng điểm phát triển kinh tế Miền Trung.

Cảng Vũng Áng - Sơn Dương gồm hai cụm cảng: Cảng thương mại tổng hợp phía tây mũi Dòn (trong Vũng Áng - 250 ha) và cảng chuyên dùng phía đông mũi Dòn (trong Vũng Môn và ở đảo Sơn Dương - 220 ha).

Một Khu công nghiệp - Cảng biển Vũng Áng - một khu du lịch sinh thái Đèo Ngang - một thị trấn huyện lỵ Kỳ Anh, sẽ tạo nên một vùng kinh tế sôi động ở phía nam Hà Tĩnh. Đứng trước núi Cao Vọng hôm nay, điều ấy không còn là “cao vọng” nữa.

VƯỜN QUỐC GIA VỤ QUANG VÀ KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN KẺ GỖ

Núi đồi Hà Tĩnh chiếm 3/4 diện tích tự nhiên, xưa kia bao phủ một thảm rừng già. Qua hàng nghìn năm bị khai thác, tàn phá, mà đến thế kỷ XX, Trường Sơn, Trà Sơn vẫn còn những khu rừng nguyên sinh rộng lớn. Vào những năm cuối thế kỷ, trong tỉnh có hai khu bảo tồn thiên nhiên được Chính phủ công nhận, đó là Khu Bảo tồn thiên nhiên Vụ Quang (nay là Vườn quốc gia Vụ Quang) và Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ.

Vườn quốc gia Vụ Quang nằm trên địa bàn ba huyện Vũ Quang, Hương Sơn, Hương Khê, được thành lập theo Quyết định số 194 TTg ngày 9/8/1986 của Chính phủ với diện tích 16.000 ha. Sau sự kiện phát hiện hai loài thú mới đầu những năm 90, giá trị rừng Vụ Quang được cả thế giới thừa nhận. Từ đó, diện tích khu vực bảo tồn được mở rộng tới 54.743 ha, trong đó vùng lõi có 39.217 ha, vùng đệm (vùng rừng phục hồi sinh thái) có 15.526 ha, chia làm 43 tiểu khu. Năm 2002, Khu bảo tồn thiên nhiên Vụ

Page 111: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

111

Quang được Chính phủ công nhận là Vườn quốc gia Vụ Quang.

Toàn bộ diện tích Vườn quốc gia thuộc vùng bắc Trường Sơn, ở độ cao trung bình 800m, đỉnh cao nhất là Rào Cỏ 2.286m, dốc từ 250 đến 300, có nơi 400. Nham thạch chủ yếu là đá phiến sét, cát bột kết, quaczit thuộc hệ tầng sông Cả (01 - S1SC) và các đá Granit pocfiarit. Địa hình bị phân cách mạnh do vậy nơi đây có hệ thống sông suối khá phát triển (hệ suối khe Truồi, hệ suối khe Tre và hệ suối khe Mang Đằng), các khe suối chủ yếu đổ vào sông Ngàn Sâu và Ngàn Phố.

Vườn quốc gia Vụ Quang có hơn 90% diện tích được rừng bao phủ. Trừ một phần diện tích rừng dọc sông Ngàn Trươi và khe Mang Đằng bị khai thác chọn, còn lại 76% diện tích là rừng nguyên sinh với hai kiểu chính:

- Kiểu rừng kín thường xanh á nhiệt đới: Phân bố ở độ cao trên 1000m, chiếm khoảng 20% diện tích khu bảo tồn, với các họ á nhiệt đới chiếm ưu thế: Họ Đỗ Quyên (Ericaceae), họ Hồi (Illiciaceae), họ Mộc Lan (Magnoliaceae)… Đặc biệt ở đây xuất hiện từng vạt Pơmu (Fokienia hodginsli) và Hoàng đàn giả (Dacrydim Pierrei) đây là hai loài thực vật hạt trần cho gỗ quý.

- Kiểu rừng kín thường xanh nhiệt đới: Có hai loại: Loại rừng phân bố ở độ cao dưới 1.000m có loài cây ưu thế là Sao mặt quỷ (Hepea mollissima) chiếm 30% tổ thành, đây là loại rừng có trữ lượng cao với nhiều cây gỗ lớn. Loại rừng phân bố dưới độ cao 200m, gần khu dân cư, nên đang bị khai thác mạnh, rừng tre và trảng cây bụi hay cây gỗ xuất hiện nhiều, đây là nơi thích hợp của nhiều loại thú lớn như: hươu, nai, voi…

Ở Vườn quốc gia Vụ Quang, theo thống kê, có 307 loài thực vật bậc cao thuộc 236 chi, 99 họ, trong đó có 20 loài quyết thực vật và 6 loài thực vật hạt trần. Nhìn chung khu hệ thực vật ở đây thuộc hệ Nam Trung Quốc - Bắc Việt Nam. Đáng chú ý nhất là một số loài tiêu biểu cho hệ thực vật phía nam cũng xuất hiện ở đây như: Cẩm lai, song bột… Trong khu bảo tồn có 10 loài thực vật quý hiếm cần được bảo vệ là: Trầm hương, cẩm lai, sao hải nam, pơmu, thông tre, song bột… Các loại cây đặc sản có 103 loài cây gỗ, 52 loài cây cảnh, 26 loài cây ăn quả, 77 loài cây thuốc và 39 loài thuộc nhóm các cây đặc sản khác.

Page 112: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

112

Cho đến nay, trong ranh giới Vườn quốc gia Vụ Quang đã thống kê được 60 loài thú và phụ thú, 137 loài chim, 38 loài bò sát, 20 loài lưỡng cư, 58 loài cá, trong đó có 26 loài thú, 10 loài chim, 16 loài bò sát thuộc nhóm quý hiếm cần được bảo vệ. Có 3 loài phụ thú đặc hữu là: Chà vá chân nâu (Pygathrix nemaneus namaneus), voọc gáy trắng hay voọc Hà Tĩnh (Presbytis francoisii Hatinhensis) và vượn má vàng (Hylobates Concolorsike). Đặc biệt quá trình điều tra trong khu vực đã phát hiện hai loài thú mới: Loài sao la hay dê sừng dài (Pseudoryx nghetinhensis) phát hiện năm 1992; Loài mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis) phát hiện năm 1993. Đây là những loài trước đó các nhà khoa học chưa biết tới.

Với những giá trị sinh học cao, Vườn quốc gia Vụ Quang được tổ chức quốc tế nghiên cứu về đời sống loài chim (B.L.I) và Quỹ thế giới bảo vệ thiên nhiên (W.W.F) xếp vào loại Khu bảo tồn thiên nhiên có giá trị, và là 1 trong 20 vùng sinh thái trọng yếu của thế giới. Thế nhưng, hiện nay, tài nguyên thiên nhiên ở đây đang có nguy cơ cạn kiệt và thu hẹp dần. Điều kiện sống của hệ động vật ở Vườn quốc gia đang bị đe dọa nghiêm trọng.

Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ: Được thành lập theo Quyết định số 970 TTg ngày 28/12/1996 của Chính phủ. Ngày 3/5/1997 UBND tỉnh Hà Tĩnh ra Quyết định số 519 phê duyệt dự án xây dựng và phát triển khu bảo tồn.

Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ có diện tích 24.801 ha (không kể vùng đệm 21.400 ha), nằm trên địa bàn ba huyện Cẩm Xuyên, Hương Khê và Kỳ Anh. Khu bảo tồn chia làm hai phân khu - Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt 20.537 ha gồm ba tiểu khu:

1. Tiểu khu Rào Bồi (Hương Trạch, Hương Khê) 5.905 ha.

2. Tiểu khu Bạc Tóc - Gát Chè Me (Kỳ Thượng - Kỳ Anh) 7.511 ha.

3. Tiểu khu Kẻ Gỗ (xã Cẩm Mỹ, Cẩm Xuyên) 7.121 ha - Phân khu phục hồi sinh thái 4.264 ha trồng rừng cây bản địa phủ kín. Ngoài ra, vùng đệm ngoài dự án 21.485 ha được đầu tư trồng rừng theo chương trình 327.

Toàn bộ khu bảo tồn nằm trong vùng núi trung bình (700 - 1700m) và núi thấp (300 - 700m), dốc từ 7 đến 250, được bao phủ rừng kín thường xanh với nhiều loại cây gỗ quý (lim xanh, sến mặt, gụ lau vàng tâm… và các loại dổi, re, dẻ, trín, lèo heo, chua lũy, trường, trâm, sến, mỡ, gội, ngát,

Page 113: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

113

đẻn, nang, du móc, tre, nứa…). Rừng chia làm ba loại: a) Rừng kín thường xanh bị tác động nhẹ 24% diện tích; b) Rừng kín thường xanh bị tác động mạnh 73,9% diện tích, và c) Trảng cỏ và cây bụi 04% diện tích ven hồ Kẻ Gỗ.

Khu bảo tồn có hệ thực vật khá phong phú. Bước đầu đã thống kê được: 567 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 367 chi và 117 họ, đặc trưng cho nhiều luồng thực vật của khu hệ thực vật bản địa Bắc Việt Nam - Nam Trung Hoa, luồng thực vật Inđônêsia - Malaysia, và luồng thực vật Hymalaya. Trong 567 loài thực vật có 34 loài đặc hữu của rừng Việt Nam, trong đó có 7 loài đặc hữu đặc trưng cho rừng Trung bộ (chân ri, nang, táu, nến, côm Bạch Mã, du mốc, chùm bao, bời lời vàng) và có 10 loài được ghi vào “Sách đỏ” Việt Nam (kim giao, gụ lau, chò chỉ, sưa, re hương, vàng tâm, lát hoa, sến mật, song mật, trầm hương); 228 loài gỗ, 18 loài cây cảnh, và 44 loài cây làm thuốc.

Cùng với hệ thực vật, Khu bảo tồn còn có hệ động vật không kém phong phú. Hiện nay đã phát hiện được 364 loài động vật có xương sống thuộc 99 họ, trong đó có 270 loài chim, 30 loài bò sát, 17 loài lưỡng cư. So với các khu bảo tồn khác như Phong Nha (158 loài), Bạch Mã (34 loài), Bến En (130 loài), Pù Mát (286 loài), Vụ Quang (326 loài) thì hệ động vật ở Khu bảo tồn Kẻ Gỗ phong phú hơn nhiều. Đặc biệt ở đây có loài Gà lôi lam đuôi trắng đặc hữu (Laphuna Hatinhensis) mà các nhà khoa học nước ngoài thường gọi “Gà Võ Quý”, người có công phát hiện. Trong 47 loài thú được ghi nhận có 18 loài (chiếm 21%) được ghi vào “Sách đỏ” Việt Nam (1992) và “Sách đỏ” thế giới (1994). Tuy nhiên, do rừng bị phá hoại nghiêm trọng, nên hiện nay số động vật quý hiếm như voi, bò tót, hổ hầu như không còn; các loài mang lớn, vượn há hung, ngan cánh trắng, trĩ sao, gà lôi lam đuôi trắng, gà lôi lam mào đen, gà lôi hồng tía… còn lại không nhiều, được xếp bậc E (Endangerid - Đang bị nguy cấp) và bậc C (Critical - Sắp bị tuyệt chủng).

Page 114: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

114

CHƯƠNG II

DẤU VẾT VĂN HÓA THỜI TIỀN SỬ V CỔ SỬ

Nhìn những di vật của người xưa trên miền Hà Tĩnh, ta như thấy được những nỗi gian nan mà họ đã trải qua, cũng như cách sống, cách nghĩ của họ. Vì thế, dầu dấu vết của họ tìm thấy chưa nhiều do việc nghiên cứu khảo cổ trên vùng đất này chưa đầy đủ, chúng ta đã có thể hình dung được những bước đi cơ bản của họ trên con đường dài dằng dặc của thời nguyên thủy và buổi đầu dựng nước. (G.S. Hà Văn Tấn “Lịch sử Hà Tĩnh” T.1).

Trong buổi bình minh của lịch sử, vào kỷ Cánh tân (Pleistocène), trên đất Nghệ Tĩnh đã có Người Vượn (Homo Erectus - Người Đứng Thẳng) cư trú. Chứng tích là răng Người Vượn và nhiều xương thú hóa thạch đã được phát hiện ở hang Thẩm Ồm (Quỳ Châu, Nghệ An).

Đến văn hóa Sơn Vi, thuộc hậu kỳ Đá Cũ, thì ở Làng Vạc (Nghệ An) và Hương Sơn, Hương Khê, Nghi Xuân (Hà Tĩnh) đều đã tìm thấy dấu vết của Người Hiện Đại (Homo Sapiens - Người Khôn Ngoan).

Sang kỷ Toàn tân (Holocènne), cách ngày nay một vạn năm, diễn ra cuộc cách mạng kỹ thuật, cách mạng Đá Mới, mà màn dạo đầu là Văn hóa Hòa Bình. Ở Con Cuông, Tương Dương, Quỳ Châu (Nghệ An) và Minh Hóa, Tuyên Hóa (Quảng Bình) nhiều di chỉ văn hóa Hòa Bình đã được phát hiện trong các hang động đá vôi. Ở Hà Tĩnh hiếm những hang động loại này nên đến nay chưa tìm thấy dấu vết.

Nhưng theo nhà khảo cổ học, Giáo sư Hà Văn Tấn, thì chắc chắn trên đất Hà Tĩnh đã từng có Người Vượn và người thời Văn hóa Hòa Bình sinh sống. Bởi Văn hóa Quỳnh Văn là Văn hóa sau Hòa Bình chỉ phân bố trên

Page 115: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

115

địa bàn Nghệ An, Hà Tĩnh, được phát hiện trong các di chỉ cồn sò điệp ven biển: Thống Lĩnh ở Quỳnh Văn (Nghệ An), Phái Nam ở Thạch Lâm, Cồn Lôi Mốt ở Thạch Vĩnh và lớp dưới di chỉ Phôi Phối ở Xuân Viên (Hà Tĩnh).

Chủ nhân Văn hóa Bàu Tró (Quảng Bình) là di duệ của chủ nhân Văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ An). Ở Hà Tĩnh, dấu vết Văn hóa Bàu Tró đã sớm được tìm thấy ở các di chỉ cồn sò điệp Thạch Lâm, Thạch Lạc, Thạch Đài (Thạch Hà); Cẩm Thành, Cẩm Hòa (Cẩm Xuyên); các di chỉ gò cát, cồn đất bãi Phôi Phối (Xuân Viên, Nghi Xuân), cồn Lôi Mốt (Thạch Vĩnh, Thạch Hà), sườn núi đất thấp Rú Nghèn (Can Lộc), rú Nài (TP. Hà Tĩnh), và cả vùng núi cao Hương Sơn, Hương Khê.

Con người trên đất Việt Nam đã biết đến đồng trong Văn hóa Phùng Nguyên, cách ngày nay 4000 năm. Sau đó là Văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun cùng là văn hóa thời đại đồng thau nhưng ở mức cao hơn. Người ta gọi đó là các văn hóa Tiền Đông Sơn. Nhưng Văn hóa Tiền Đông Sơn vùng sông Mã, sông Lam có các văn hóa riêng, các giai đoạn riêng. Vùng sông Lam đến nay chưa đủ tài liệu để phân chia các giai đoạn. Người ta thường lấy các di chỉ Đền Đồi (Quỳnh Lưu) và Rú Trăn (Nam Đàn) làm tiêu biểu cho hai giai đoạn sớm muộn ở đây. Hà Tĩnh chỉ có một số mộ ở bãi Phôi Phối tương đương với di chỉ Rú Trăn.

Di tích văn hóa Đông Sơn tìm được trên đất Hà Tĩnh chưa nhiều, nhưng đã thấy có ở Nghi Xuân, Đức Thọ, Can Lộc, Thạch Hà, Kỳ Anh. Ở Nghi Xuân có thể thấy các di chỉ Đông Sơn dọc bờ sông Lam, từ Xuân An đến Xuân Hải, nằm dưới các di chỉ thời kỳ lịch sử.

Ở Hà Tĩnh, trong phạm vi Văn hóa Đông Sơn, đã tìm thấy những chứng tích giao lưu Văn hóa Sa Huỳnh (Địa điểm khảo cổ học ở Quảng Ngãi).

Hà Tĩnh là Bộ Cửu Đức của nước cổ Văn Lang. Cư dân ở đây đã góp phần tạo nên nền văn minh Đông Sơn, đồng thời cũng tạo nên những nét riêng trong văn hóa mà các nhà khảo cổ học gọi là “loại hình cực nam của văn hóa Đông Sơn”.

Dấu vết thời đồ sắt cũng đã được phát hiện ở Xuân Giang (Nghi Xuân): Người ta tìm thấy trên gò đất cao ở đây dấu vết lò luyện sắt hình tròn. Và về sau, con người trên đất này cũng để lại những di tích lịch sử đậm nét:

Page 116: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

116

Dấu vết mộ Hán thời Bắc thuộc, di chỉ Lý bên sông Lam, dấu vết các cửa biển và các cảng thị cổ…

CÁC DI CHỈ CỒN SÒ ĐIỆP Ở THẠCH HÀ, CẨM XUYÊN

Các di chỉ Đá Mới thuộc văn hóa Quỳnh Văn - Bàu Tró trên cồn sò điệp Thạch Lạc, Thạch Lâm, Thạch Đài, Cẩm Thành đã được phát hiện từ nửa đầu thế kỷ XX và đã nhiều lần được khảo sát.

Di chỉ Thạch Lạc nằm trên hai gò đất thuộc xã Thạch Lạc, huyện Thạch Hà. Gò thứ nhất rộng 350m2, cao hơn mặt ruộng xung quanh khoảng một mét, dốc chừng 600, trên có nhiều cây lớn. Đây là một cồn sò điệp được bảo tồn khá tốt. Gò thứ hai rộng khoảng 200m, cây cối rậm rạp, nhưng trước khi được khảo sát, đã bị đào, phá hoại nghiêm trọng.

Từ năm 1937, khu di chỉ này đã được các nhà khảo cổ người Pháp thám sát. Nhưng vào những năm 1962, 1963, 1964. Đội khảo cổ Vụ Bảo tàng Bộ Văn hóa ba lần tiến hành khai quật thám sát lại, mới công bố kết quả.

Bộ sưu tập hiện vật thu được ở hố thám sát gò hai được phân bố đều ở cả bốn lớp đất, từ lớp trên cùng đến lớp sinh thổ, sâu 2,70m rất phong phú. Đồ đá hầu hết là công cụ được mài toàn thân, gồm rìu có vai, rìu tứ diện, chày, bàn mài tay bằng đá ráp và đá mịn, vòng đeo tay bằng đá rất đẹp. Đồ gốm (1020 mảnh) toàn gốm thô được chế tác bằng bàn xoay, độ lửa nung không cao nên khô cứng, có hoa văn răng lược chải, văn rạch, văn khuông nhạc vạch, văn thừng, văn in (hai loại văn thừng, văn in ô vuông giống gốm di chỉ Phùng Nguyên, Văn Điền). Đồ gốm còn có con dấu đất nung (dấu tròn, đường kính gần 7,5cm, một mặt có hai gờ nổi cao hơn 1cm, một mặt phác hình hoa thị bốn cánh nằm trong một vòng có 15 chánh nhọn); một viên bi đường kính 2,3cm, và mảnh đất nung hình suốt chỉ. Ở đây cũng gặp loại gốm tô màu thổ hoàng.

Hiện vật nằm trong các lớp vỏ sò điệp lẫn đất vụn và than tro đen, lẫn lộn một ít than, xương cá, càng cua, nói lên đây là một di chỉ cư trú. Các công cụ đá đều mài toàn thân nhưng không được trau chuốt lắm. Nhưng kỹ thuật chế tác và trang trí gốm đã rất tiến bộ, trang trí hoa văn có đặc điểm riêng như hoa văn khuông nhạc chải, hay hoa văn đồ án kỷ hà ở chân gốm.

Page 117: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

117

Các nhà khảo cổ cho rằng niên đại của di chỉ Thạch Lạc là vào khoảng giai đoạn đầu hậu kỳ Đá Mới.

Vào tháng 10/2002, Bảo tàng lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Hà Tĩnh khai quật khảo sát lần thứ hai tại Gò Chùa Tăng Phúc di chỉ Thạch Lạc. Hố khai quật lần này rộng 100m2, sâu 1,50m, phát hiện được gần 150 chiếc rìu bôn bằng đá, chủ yếu là rìu có vai xuôi, thứ đến là bàn nghiền, chày nghiền bằng đá, hòn kê, hòn đập bằng cuội, và nhiều công cụ bằng xương thú, trong đó có 20 chiếc “dao” để cạy tách miệng con điệp.

Đồ gốm có đến hàng vạn mảnh vỡ (1500kg) đồ đựng, đồ đun nấu đều được chế tạo bằng bàn xoay, có loại đáy tròn, có loại có chân đế, có tai, được trang trí hoa văn, tô màu đỏ lên cổ và miệng. Ngoài ra còn có nhiều khuyên tai đất nung hình con đỉa, hình chóp…

Đặc biệt, đây là lần đầu tiên phát hiện được di cốt người chết được chôn ở tư thế nằm ngửa, duỗi thẳng chân tay, toàn thân được phủ một lớp cát nhuộm đỏ, và bên mình có đồ tùy táng là một chiếc rìu có vai xuôi.

Di chỉ Rú Trò (Sò) do Giáo sư người Pháp H.Le Breton phát hiện khoảng năm 1936, đặt tên là di chỉ Nghĩa Sơn, hay di chỉ Đức Lâm. Năm 1963 và năm 1964 Đội khảo cổ (Bộ Văn hóa) đào thám sát hai lần và năm 1976 lại đào phúc tra lần nữa, gọi là di chỉ Thạch Lâm. Nhưng núi Nghĩa Sơn ở làng Đức Lâm nay là xã Thạch Lâm, tục gọi rú Trò (Sò) nên tên di chỉ khảo cổ này cũng gọi như vậy. Đây là một cồn sò điệp dưới chân núi dài khoảng 200m, có chỗ rộng tới 50m, lớp sò điệp dày từ 0,60m đến 2m, phía bắc giáp thôn Phái Đông, phía nam giáp thôn Phái Nam, phía đông giáp sông Nài, và phía tây giáp cánh đồng thôn Phái Đông.

Tầng văn hóa ở đây có ba lớp. Lớp thứ nhất (10 - 20cm) có đất vụn lẫn một ít sò điệp, là lớp bị xáo trộn dữ. Lớp thứ hai (60 - 80cm) ở sát chân núi được xếp rất chắc, vỏ sò chiếm khoảng 10% có lẫn một ít vỏ ốc, càng cua. Lớp này phát hiện thấy công cụ đá và mảnh gốm. Lớp thứ ba, đất lẫn than ro đen nhạt, dày 50 - 60cm, sâu 130 - 140cm. Hiện vật chủ yếu nằm ở lớp này gồm có rìu đá mài, mảnh gốm thuộc loại gốm có tai như ở Thạch Lạc, nhưng tai cong đầu mút chẻ đôi hình đuôi cá.

Trong lớp này có hai ngôi mộ, loại mộ táng theo lối huyệt dài, không thấy dấu vết quan tài. Trong một mộ có bộ xương nằm ngửa, giữa ngực đặt

Page 118: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

118

chiếc rìu đá có vai. Ở mộ kia có hai bộ xương chồng lên nhau, nhưng nằm ngược chiều, đầu người này đặt lên chân người kia. Trên ngực mỗi bộ xương cũng thấy đặt rìu đá có vai. Đây là lối tùy táng theo nghi lễ thời nguyên thủy đã gặp ở một vài nơi khác trong vùng Đông Nam Á.

Di chỉ Phái Nam thuộc loại sớm hơn Rú Trò, Thạch Lạc. Đây là một cồn sò điệp lớn ở xóm Phái Nam, phía nam di chỉ là Rú Trò (Sò). Công cụ ở đây ngoài một số chày nghiền bằng cuội, gần như tất cả chủ yếu được chế tạo bằng đá gốc, tức là đá khối lấy từ mỏ đá (thường là Kêratôphia, thạch anh). Giống như ở các di chỉ Văn hóa Quỳnh Văn, ở đây chưa có kỹ thuật mài đá. Toàn bộ công cụ đều được ghè đẽo trên một mặt, tạo thành công cụ hình mái rùa; cũng có một số ít công cụ ghè đẽo trên hai mặt. Trong một hố thám sát ở phía nam, đã tìm được trên 5000 mảnh gốm vỡ. Gốm còn thô, nhiều loại được nặn bằng tay thuộc loại hình miệng đứng thẳng và đáy nhọn, có hoa văn chải ở mặt ngoài, dấu in thành rãnh nhỏ song song ở mặt trong. Chỉ trong một hố 60cm2 đã có 102 mảnh gốm đáy nhọn, đồ dùng phổ biến trong các bộ lạc Quỳnh Văn. Ở di chỉ này còn thấy cả răng voi, răng tê giác. Như vậy người nguyên thủy ở đây đã săn được các loài thú lớn làm thức ăn, chứ không chỉ ăn các loại thân mềm.

Niên đại của di chỉ Phái Nam đã được xác định bằng phương pháp C.14 là 4.160+ 70 năm, 4.120+60 và 4030+ 45 năm cách ngày nay.

Di chỉ Thạch Đài gồm hai cồn sò điệp nổi lên giữa cánh đồng xã Thạch Đài (huyện Thạch Hà), hai cồn sò cách nhau khoảng 100m, có con ngòi nhỏ chảy qua ở giữa.

Trước năm 1945, các nhà khảo cổ học người Pháp đã thám sát ở cồn thứ nhất nhưng không thấy có báo cáo. Đến 1963, 1964 Đội khảo cổ (Bộ Văn hóa) mới tiến hành khảo sát. Tầng văn hóa có hai lớp. Ở lớp thứ nhất dày khoảng 0,60m bị xáo trộn do canh tác, nên đất lẫn sò điệp vụn, thấy một số công cụ đá, nhiều mảnh gốm, đặc biệt có con dao xén bằng đồng bị gãy. Ở lớp thứ hai, sò điệp trắng có lẫn một ít than tro, ốc, xương cá, xương động vật, có một số công cụ đá như rìu mài và một số mảnh gốm. Lớp này nằm ở độ sâu 0,10m (phía đông) đến 1,25m (phía bắc), chủ yếu có một tầng văn hóa, chứa đồ đá mài và mảnh gốm nằm trong lớp sò điệp lẫn tro than. Lớp trên căn bản thuộc cùng thời với lớp dưới, nhưng do bị xáo

Page 119: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

119

trộn nên lẫn vào một vài hiện vật đồng và gốm thời đại Đồng Thau. Đây là di chỉ cư trú thời Đá Mới hậu kỳ. Về sau người thời Đồng Thau có để lại một số di vật trên mặt cồn sò điệp, nhưng không tạo thành một tầng văn hóa hẳn hoi.

Công cụ đá ở đây gồm rìu có vai, dao, chày, bàn mài. Đồ gốm được chế tác theo phương pháp bàn xoay, gốm thô, văn răng lược, văn rạch, thuộc Đá Mới hậu kỳ với các di chỉ Rú Trò, Thạch Lạc.

Một số công cụ đồng (rìu, đục) và mảnh gốm mỏng, theo các nhà nghiên cứu, có thể nằm trong các ngôi mộ của thời đại Đồng Thau.

Di chỉ Cẩm Thành nằm trên khu vực chợ Thành, xã Cẩm Thành, huyện Cẩm Xuyên, hữu ngạn con hói Tang Ngoa, phía bắc và phía tây giáp thôn Vạn Thành, phía nam giáp thôn Tân Lộc. Xưa kia, đây là một cồn sò điệp rộng chừng 1500m2 khá cao, nay là chợ và xóm cư dân, chỉ còn cao hơn mặt ruộng xung quanh khoảng 1,50m.

Di chỉ Cẩm Thành cũng đã được phát hiện khá sớm. Tháng 3/1963 Đội khảo cổ học mới khai quật thám sát. Nhưng tầng văn hóa bị xáo trộn nghiêm trọng, nên phần nhiều hiện vật thu lượm được đều ở trên mặt đất, hoặc do nhân dân giữ và trao lại.

Công cụ đá ở đây có rìu mài tứ diện và rìu mài có vai, bàn mài…, chất liệu, kỹ thuật chế tác, hình dáng đều giống hiện vật các di chỉ Thạch Lạc, Rú Trò, chỉ khác ở đây tỷ lệ rìu tứ diện nhiều hơn.

Trong số các di chỉ thuộc loại hình di chỉ cồn sò điệp trên đây thì Phái Nam có niên đại sớm hơn cả, nhưng đều thuộc thời Đá Mới hậu kỳ. Đây là những di tích cư trú, riêng Rú Trò còn muộn hơn chút ít và còn là mộ địa.

Theo Giáo sư Hà Văn Tấn, “có thể đó là giai đoạn cuối cùng của Văn hóa Bàu Tró trên đất Nghệ Tĩnh”.

CÁC DI CHỈ GÒ CÁT, CỒN ĐẤT VÀ SƯỜN NÚI ĐẤT THẤP

Tiêu biểu cho hai loại hình này ở Hà Tĩnh là các di chỉ bãi Phôi Phối ở Nghi Xuân, cồn Lôi Mốt ở Thạch Hà và Rú Nghèn ở Can Lộc.

Di chỉ bãi Phôi Phối là một gò đất cát khá rộng ở thung lũng núi,

Page 120: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

120

thường gọi Phôốc Vạc, thuộc xã Xuân Viên, huyện Nghi Xuân, nằm kề con lạch nhỏ thượng lưu sông Mỹ Dương, đối diện núi Yên Chuyện trong dãy Hồng Lĩnh.

Di chỉ này được phát hiện khá sớm và nhiều lần được khai quật khảo sát. Tầng văn hóa ở đây dày tới 200cm, là lớp cát màu nâu, tầng sinh thổ là cát vàng. Do gió và nước cuốn trôi, trên bề mặt nổi lên nhiều hiện vật gồm công cụ và đồ dùng bằng đá, đất nung, trong đó có rìu mài, phiến đá có lỗ vũm, vòng trang sức (bằng loại đá hiếm thấy trong các di chỉ hậu kỳ Đá Mới ở Hà Tĩnh).

Trong hố thám sát, nhiều lớp đồ đá cũng như đồ gốm rất phong phú: Chày nghiền bằng đá cuội, bàn mài một mặt bằng đá phiến thạch, rìu đá các loại, cuốc, dao đá, phiến đá xát hạt bằng sa thạch, khuyên tai đá… Trên bề mặt, mảnh gốm dày đặc. Trong một hố thám sát 2m2 đã thu được 1210 mảnh. Gốm làm bằng bàn xoay, mặt ngoài màu nâu gạch, một số có chân đế làm rời rồi gắn vào. Đặc biệt có nhiều mảnh gốm núm miết nhẵn xung quanh và in hoa văn, nặn bằng tay giống như ở Rú Trò, Cồn Lôi Mốt. Đây là đặc trưng cho các di chỉ hậu kỳ Đá Mới ở Hà Tĩnh. Gốm có các loại hoa văn thừng mịn (50%), văn dập ở một mặt hoặc ở hai mặt, khắc vạch, chấm, và loại không có hoa văn (20%). Hiện vật nổi bật là các loại nồi đất đáy nhọn, đáy tròn, có cả một chõ đồ xôi, nhiều bình cổ cao, có một chiếc được vẽ màu và tô màu, những khuyên tai bằng đất nung có đường vạch hay đường chấm trang trí.

Lưỡi cuốc đá tìm được ở lớp đất khá sâu, lưỡi lớn nhất dài tới 23cm, rộng gần 12cm. Cũng như lưỡi rìu, lưỡi cuốc đá được mài nhưng chưa mất hết dấu vết đẽo, mặt trước mài cẩn thận hơn mặt sau. Những phiến đá xát hạt (35 phiến trên 150m2) dài khoảng 25cm, rộng 7 - 9cm được mài vuông vắn, lưỡi dao đá có thể làm dao cắt lúa. Các công cụ ở đây chứng tỏ lúc này nghề trồng lúa đã phát triển và người ta đã ăn gạo nếp.

Trong một lớp đất sâu nhất, các nhà khảo cổ đã tìm thấy những công cụ đá ghè đẽo bên cạnh những nồi đất đáy nhọn có hoa văn hai mặt như ở các di chỉ Phái Nam (Thạch Hà) và Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu). Nhưng ngay ở lớp này cũng tìm thấy rìu đá mài và một ít đồ gốm đáy tròn. Càng lên lớp trên, công cụ đá ghè đẽo càng vắng dần rồi mất hẳn. Gốm đáy nhọn cũng

Page 121: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

121

giảm dần. Trái lại đồ đá mài và gốm đáy tròn mặt ngoài có in dấu dây thừng (một số làm bằng bàn xoay), ngày càng nhiều… Qua đây, ta thấy kỹ thuật ngày càng phát triển liên tục, từ từ, nhưng rất rõ ràng. Đó là quá trình chuyển từ Văn hóa Quỳnh Văn sang Văn hóa Bàu Tró trên đất Hà Tĩnh qua hai giai đoạn sớm, muộn khác nhau.

Bãi Phôi Phối là một di chỉ cư trú loại hình gò cát, thuộc Văn hóa Bàu Tró, thời đại Đá Mới. Nhưng đến thời đại Đồng, người ta lại chôn vào đây những đồ gốm có thể là thuộc các ngôi mộ.

Di chỉ cồn Lôi Mốt ở trên một cồn đất xã Thạch Vĩnh, huyện Thạch Hà. Di chỉ này được phát hiện từ 1960, nhưng đến tháng 3/1974 mới được khảo sát.

Trong hố thám sát 2m2 và vách hào giao thông đào qua đây, thấy tầng văn hóa dày khoảng 0,50m, nằm dưới lớp đất mặt dày chừng 0,30m. Tầng văn hóa là lớp cát màu nâu sẫm. Đất cát dưới tầng văn hóa cũng là cát nhưng có màu vàng. Trên mặt đất và vách hào giao thông, các nhà khảo sát thu được 10 rìu có vai nguyên vẹn, một đốc rìu có vai vỡ, một rìu hình thang, một mảnh bàn mài, một công cụ chặt thô, một mảnh tước (clacton) và 6 mảnh tước khác. Trong hố thám sát có một rìu có vai, 2 mảnh bàn mài, một chày nghiền, một mảnh tước và 68 hòn đá không có dấu chế tác tạo bằng các loại sa thạch (grès) phiến thạch (schiste) và thạch anh (quartg), và 389 mảnh gốm (có 76 mảnh miệng, 303 mảnh thân, 10 mảnh đế có hoa văn thừng chéo, thừng song song, nan dập, chấm, sóng khuông nhạc, vạch chéo ô trám, và khuôn hoa văn). Gốm màu đỏ gạch non, chỉ một số ít màu đen, xương cứng, pha nhiều cát và tạp chất. Gốm làm bằng bàn xoay, hoa văn trang trí lên tận miệng gốm. Ngoài hố, còn nhặt được một số mảnh gốm có hoa văn nan dập cả trong và ngoài, và cũng thấy loại gốm có núm như ở Bãi Phôi Phối.

Ở giữa gò có một khoảng sò điệp rộng không đầy 10m2, nhưng tầng văn hóa không có dấu vết vỏ sò, nên di chỉ cồn Lôi Mốt không thuộc loại di chỉ cồn sò điệp mà là loại di chỉ cồn đất cát, nhưng cùng chung một văn hóa khảo cổ với các di chỉ cồn sò điệp ở Hà Tĩnh (vào giai đoạn tương đương với lớp trên và muộn hơn lớp dưới di chỉ bãi Phôi Phối).

Đáng chú ý là ở đây đã tìm thấy một công cụ chặt thô và mảnh tước

Page 122: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

122

(clacton) trong tầng văn hóa ở vách hào giao thông gần chỗ có vỏ sò điệp. Loại công cụ này được tạo nên bằng kỹ thuật quen thuộc ở thời Đá Cũ. Có khi coi đó là một cho-ping (Chopping-tool) dẹp, dài 12,2cm, rộng 8,7cm. Mảnh tước thì đúng là clacton điển hình dài gần 8,5cm, rộng gần 7cm, lớp patin cũng rất dày, trông rất giống mảnh tước Rú Đọ. Hiện tượng này, các nhà khảo cổ dự đoán có thể có ba khả năng:

- Có thể do người thời Đá Mới ở đây tạo ra như là một tàn dư kỹ thuật.

- Người thời Đá Mới ở đây đã đưa các di vật Đá Cũ này từ nơi khác về nơi cư trú của mình.

- Có khả năng trong các di chỉ Đá Mới hậu kỳ ở Hà Tĩnh sẽ tìm thấy dấu vết của một lớp cư dân xưa hơn, mà công cụ gần với công cụ văn hóa Quỳnh Văn, thời Đá Mới mà kỹ thuật chế tác đá vẫn mang dáng vẻ thời Đá Cũ? Hiện tượng này cũng đã thấy ở di chỉ cồn sò điệp Cẩm Hòa, Cẩm Xuyên.

Di chỉ Rú Nghèn ở thôn Nam Sơn, thị trấn Nghèn - huyện lỵ huyện Can Lộc, nằm phía đông nam chân núi, dốc 200, cao 4m so với mặt biển, và cách sông Nghèn 1km về phía đông.

Di chỉ được phát hiện năm 1976 và sau đó được đào thám sát. Trong một hố đào rộng 2m2 thấy lớp trên cùng là đất canh tác sâu 15cm, màu vàng, lẫn nhiều rễ thực vật. Ở lớp thứ hai, dày 20cm đất màu nâu lẫn sỏi sạn, phát hiện nhiều mảnh gốm và đồ đá. Lớp thứ ba dày 35cm đất màu vàng nâu chứa nhiều mảnh gốm vỡ. Lớp dưới cùng là đất cát màu vàng lẫn đá cuội không có dấu vết di tích khảo cổ.

Trong hố đào chỉ tìm thấy một rìu đá mài, nhưng trên mặt đất xung quanh lại nhặt được 10 rìu khác và 2 bàn mài sa thạch, còn các dấu vết mài rãnh sâu và lõm vát lòng chảo trên mặt đá.

Rìu có kích cỡ khác nhau, nhưng được chế từ đá trầm tích màu xanh xám, mịn và cứng. Dáng rìu gần hình thang, không có vai, lưỡi rộng và cong, đốc hẹp, vát mỏng, rìu mài toàn thân nhưng không hết các vết ghè đẽo, tiết diện cắt ngang hình bầu dục dẹt. Kích thước trung bình của rìu dài 7,5cm, rộng 4,2cm dày 1,7cm. Kỹ thuật chế tác đạt đỉnh cao nhưng về mỹ thuật lại ít được chú ý nên công cụ đều dáng thô, mài không kỹ, hiếm thấy

Page 123: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

123

các loại trang sức. Đó cũng là đặc điểm chung của các di tích hậu kỳ Đá Mới ở Hà Tĩnh.

Gốm là mảnh vỡ của các đồ đựng và sinh hoạt, chất liệu hơi thô, xương màu nâu và nâu xám, áo màu đỏ. Loại hình phổ biến là loại gốm miệng loe cong, mép miệng cuộn tròn, chân đế choãi và thấp, được làm bằng kỹ thuật bàn xoay thủ công hoa văn trang trí đơn giản, phổ biến là văn thừng thô…

Di chỉ Rú Nghèn thuộc loại hình cồn đất ven đồi núi thấp, có một tầng văn hóa cấu tạo bằng đất lẫn sỏi, cùng niên đại, cùng tính chất văn hóa với các loại hình cồn đất và cồn sò điệp ven biển Hà Tĩnh.

Cùng loại hình với Di chỉ Rú Nghèn còn có Di chỉ Rú Nài ở xã Đại Nài, thành phố Hà Tĩnh. Nhưng di chỉ này chưa được khảo sát, nghiên cứu thì đã bị phá hoại nghiêm trọng.

Thuộc loại hình cồn đất còn có Di chỉ cồn Bến Lội ở xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ. Di chỉ này được phát hiện năm 1974 và thám sát năm 1983, rộng tới 20.000m2. Hố thám sát ở phần cao của di chỉ cách mép suối 100m, có các lớp: 1) Đất canh tác màu nâu mịn dày 15 - 30cm; 2) Đất sỏi nâu dày 40cm chứa di vật khảo cổ; 3) Đất sinh thổ màu vàng sáng, cát bị latêrit hóa. Di vật tìm được gồm một phác vật rìu vai bằng đá trầm tích dài 6,5cm, chuôi dài 5cm, rộng 3,6cm, tiết diện ngang hình bầu dục dày 1,5cm; một mảnh rìu vỡ dọc bằng đá biến chất dài 8,6cm, dày 2,3cm; 1 mảnh vòng đá mài nhẵn đẹp; 496 mảnh gốm (nồi, chậu, bình, bát) hoa văn thừng và khắc vạch. Di chỉ này được coi thuộc cùng tầng văn hóa với Di chỉ Thạch Lạc, nhưng chưa được tiếp tục thám sát và nghiên cứu kỹ.

“XƯỞNG CHẾ TÁC ĐÁ” RÚ DẦU

Đặc điểm Văn hóa Bàu Tró là rìu đá mài và gốm đáy tròn. Nhưng ở Hà Tĩnh không có loại đá tốt như ở Quảng Bình. Người thời đó phải dùng một loại đá trầm tích biến chất tương đối mềm để sử dụng. Loại đá này có nhiều ở Rú Dầu, Đức Thọ.

Rú Dầu nằm giữa hai xã Đức Đồng, Đức Lạc, cách bờ Nam sông Ngàn Sâu khoảng 1km theo đường chim bay. Dưới chân núi có con suối chảy ra sông nay đã bị lấp, gọi là hói Cạn - Hạc Giang. Tháng 5/1974, đoàn nghiên cứu khảo cổ học của khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã phát

Page 124: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

124

hiện “xưởng chế tác đá” của người nguyên thủy ở rú Dầu. Trên sườn núi, người ta nhặt được rất nhiều chiếc rìu mới đẽo - những phác vật rìu. Ở đây, người nguyên thủy không dùng, hay không biết dùng kỹ thuật cưa đá. Nhưng kỹ thuật ghè đẽo đá rất thành thạo. Cạnh các phác vật rìu có vô số những mảnh tước tách ra khi ghè đẽo, cạnh đấy cũng tìm thấy một ít rìu mài. Phác vật rìu rú Dầu có kích thước khá lớn. Trong số phác vật nguyên vẹn, chiếc bé nhất dài 9,5cm, dày khoảng 2 đến 3cm; có những chiếc dài đến 16cm, rộng 6 - 8cm, tương ứng với hình dạng rìu mài trong các di chỉ Đá Mới ở Hà Tĩnh. Phần lớn rìu mài ở rú Trò, Thạch Lạc… cũng làm bằng loại đá trầm tích giống như đá rú Dầu. Có thể rú Dầu là “xưởng chế tác đá” thuộc cùng văn hóa với các di chỉ trên. Tuy nhiên chưa thấy phác vật rìu có vai gặp trong các di chỉ Đá Mới ở Trung Bộ.

“Xưởng chế tác đá” rú Dầu có vài chỗ giống “xưởng” Đông Khối (Thanh Hóa) như không chế tạo đồ trang sức, không dùng kỹ thuật cưa, nhưng có rất nhiều điểm khác với Đông Khối và Gò Chè (Vĩnh Phú), Tràng Kênh (Hải Phòng), Bãi Tự (Hà Bắc). “Xưởng” rú Dầu cũng khác với các “xưởng chế tác đá” ở Đông Nam Á, chẳng hạn ở Nam Giava. Do những tính chất riêng biệt của nó, rú Dầu là một di chỉ khảo cổ rất quan trọng đối với việc nghiên cứu thời đại Đá Mới ở Việt Nam.

“Xưởng” rú Dầu cho biết rằng thời đó đã có sự phân công lao động khá cao. Những người thợ đá ở đây là những thành viên thị tộc đã phần nào được chuyên môn hóa trong sản xuất. Sự tồn tại của “xưởng” này còn cho biết quan hệ trao đổi đã phát hiện trong các bộ lạc. Trong nhiều di chỉ ở Hà Tĩnh có nhiều loại rìu được làm bằng loại đá giống đá rú Dầu. Có thể những sản phẩm của “xưởng” rú Dầu được chở đi khá xa và trao đổi ở nhiều nơi trong vùng. Việc vận chuyển có thể được thực hiện bằng đường bộ hay đường thủy, bằng thuyền, mảng, theo hói Cạn ra sông Ngàn Sâu rồi xuôi sông La, đi đến những nơi có cư dân để trao đổi.

DI CHỈ XUÂN AN VÀ CÁC ĐỊA ĐIỂM KHẢO CỔ THỜI ĐẠI ĐỒNG THAU KHÁC

Đến nay, dấu tích văn hóa Đông Sơn đã được phát hiện nhiều nơi ở Hà Tĩnh (Nghi Xuân, Đức Thọ, Can Lộc, Thạch Hà, Kỳ Anh…), tiêu biểu là

Page 125: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

125

Di chỉ Xuân An.

Di chỉ Xuân An ở xã Xuân An, huyện Nghi Xuân, nằm sát bờ sông Cả (sông Lam). Di chỉ này ở gần Rú Cơm nên có nơi cũng chép là Di chỉ Rú Cơm.

Từ năm 1960, do nước sông xói lở, địa điểm khảo cổ mới lộ ra. Dân địa phương nhặt được 20 lưỡi rìu chiến bằng đồng thau kích thước khá lớn, trong đó có một chiếc hình lưỡi xéo, có lá chắn ở chuôi. Lại có chiếc có hình dáng đặc biệt: Đó là một công cụ có vai, lưỡi hình chữ V xòe rộng, chiều rộng lưỡi là 8cm. Họng tra cán có mặt cắt ngang hình lục giác rộng 2,5m, có trổ lỗ để tra chốt hãm; từ mép họng đến đỉnh nhọn của lưỡi là 7cm. Vai có thêm một gờ tròn, làm cho lưỡi thêm chắc chắn. Có người cho công cụ này là cuốc, có người coi là loại cày. Sau người ta cũng tìm thấy loại này ở Làng Vạc và Đồng Mỏm (Nghệ An). Rõ ràng đây là công cụ có tính địa phương. Người ta cũng tìm thấy ở đây mũi tên và dao găm đồng.

Tháng 10/1962, Đội khảo cổ Vụ Bảo tồn Bảo tàng tiến hành khảo sát, nghiên cứu. Phạm vi di chỉ hẹp, không quá 100m2 ở vùng đất phù sa ven sông lại bị lũ lụt, nước sông xói lở, phá loại. Tầng văn hóa nằm sâu 0,60m dưới mặt đất, dày khoảng 0,40m là phù sa lẫn nhiều than tro màu đen nhạt, có nhiều mảnh gốm vụn, nhưng mật độ không cao. Trong diện tích 3m2, sâu 0,40m, có 106 mảnh gốm chế tác bằng bàn xoay, chất liệu khô. Phần lớn đồ gốm là nồi miệng hơi loe, đáy bằng, đường kính miệng khoảng 29 - 42cm, ngoài có hoa văn răng lược, ô vuông thô, và quấn thừng rất giống gốm ở Di chỉ Đồng Thau Thiệu Dương (Thanh Hóa).

Ở đây cũng tìm được nồi gốm có dấu vết xỉ đồng, chứng tỏ đồng được đúc tại chỗ. Ngoài những đặc trưng chung của văn hóa Đông Sơn, công cụ đồng ở Hà Tĩnh cũng có những đặc điểm địa phương, chẳng hạn như ở mép trên hay phần vai của lưỡi thường có một đường gờ nổi, làm cho rìa công cụ dày hơn, cứng cáp hơn. Những lưỡi cày ở Xuân An, lưỡi rìu xéo ở Rú Dầu (Đức Thọ) đều có đường gờ nổi như vậy.

Xét cấu tạo tầng văn hóa thì Xuân An là di chỉ cư trú, và cũng có thể một phần di chỉ cũng được dùng làm khu mộ táng.

Các địa điểm văn hóa đồ đồng khác:

Page 126: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

126

Ngoài Di chỉ Xuân An còn phát hiện được nhiều địa điểm văn hóa thời đồ Đồng khác trên đất Hà Tĩnh và thu thập được nhiều di vật Văn hóa Đông Sơn.

Tại Di chỉ Đá Mới Thạch Đài (Thạch Hà) người ta đã tìm thấy một chiếc rìu đồng giống như rìu ở Di chỉ Xuân An.

Dưới chân Rú Dầu (Đức Thọ) cũng phát hiện một số đồ đồng và mảnh gốm thô, có lẽ là một khu mộ tảng cổ thuộc Văn hóa Đông Sơn, gần đây nhân dân vẫn tìm thấy một số di vật thời đồ đồng dưới chân Rú Chùa, cách Rú Dầu 3km và ở Rú Cấm, cách Rú Dầu 2km.

Trong bộ công cụ đồng tìm thấy ở xã Sơn Phú (Hương Sơn), ngoài chiếc rìu lưỡi cân, hai mặt lưỡi có hoa văn (một mặt đã mờ, còn một mặt có đàn chim cổ dài như cò hay ngỗng trời hơn mười con, đứng với các tư thế khác nhau) chưa hề thấy ở đâu, còn có loại rìu xéo gót nhọn, giống như rìu Đức Đồng.

Bộ công cụ đồng thau phát hiện ở xã Đức Đồng (Đức Thọ) rất độc đáo: Hai chiếc rìu có họng, (1 chiếc dài 8,5cm, 1 chiếc 11cm), lưỡi xòe rộng (chiếc nhỏ rộng 7cm, chiếc lớn 10cm) mép lưỡi thẳng ngang, có hình dạng như cái chắn thợ mộc ngày nay. Loại rìu này ít gặp trong các di chỉ Văn hóa Đông Sơn khác. Đặc biệt có một chiếc rìu lưỡi xéo họng bầu dục, lưỡi khá rộng, từ mũi tới gót là 14,5cm, gót nhọn và ở cao (rìu lưỡi xéo trong Văn hóa Đông Sơn phổ biến là gót tròn hay gót vuông), loại gót nhọn như ở Đức Đồng cũng có đường gờ trên lưỡi như đường gờ ở cái “cuốc” Rú Cơm (Xuân An) hay một số công cụ đồng ở Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị.

Ở Đức Đồng còn có chiếc dáo bị gãy mũi nên không biết được chính xác chiều dài, nhưng có thể thấy rõ dáo hình búp đa, có sống nổi ở giữa. Kiểu dáo này cũng hiếm thấy trong Văn hóa Đông Sơn ở khu vực sông Hồng, sông Mã…

Dấu vết Văn hóa Đông Sơn cũng được tìm thấy ở mạn bắc sông La. Ở Dăm Đồng Tới xã Đức Châu, nhân dân làm thủy lợi đã nhặt được nhiều mảnh gốm thô có hoa văn chải. Và ở Dăm Tẩu, xã Đức Tùng, ngoài các mảnh gốm như vậy, người ta còn nhặt được rìu xéo đồng Đông Sơn và hạt chuỗi bằng đá ngọc.

Page 127: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

127

Ở Trại Trắn, xã Đức Hòa nhân dân cũng phát hiện được một số hiện vật đồ đồng: 2 thuổng, 2 rìu (1 lưỡi cân, 1 lưỡi xéo), 1 dao găm, 1 dáo, 1 lưỡi cày và nhiều đồ đồng khác. Gốm ở đây cũng có kiểu dáng, hoa văn, chất liệu, độ nung… như dạng gốm Rú Trăn.

Cán bộ Viện khảo cổ và Bảo tàng Hà Tĩnh đã bước đầu khảo sát (1991) trong xóm và đào hố thám sát nơi phát hiện các hiện vật đồng và gốm, xác định đây là di chỉ cư trú của người cổ vào giai đoạn sớm thời Đông Sơn, tương đương với Di chỉ Rú Trăn.

DI CHỈ LUYỆN SẮT XUÂN GIANG (NGHI XUÂN)

Ở những nơi sạt lở ven bờ nam sông Lam thuộc đất huyện Nghi Xuân, người ta thường thấy lộ ra một lớp xỉ sắt dày lẫn những mảnh gốm cổ. Trên mặt đất Nghi Xuân, ở đâu cũng gặp xỉ sắt rải rác đôi ba hòn hoặc tập trung từng cồn, hoặc lộ thiên, hoặc vùi sâu dưới bãi cát. Ở xã Xuân Viên, trong dãy Hồng Lĩnh, người ta cũng thấy những bãi quặng hêmatít. Như vậy thời Xuân An xưa, vùng Nghi Xuân đã là một khu luyện sắt quy mô lớn mà trung tâm có thể là địa bàn xã Xuân Giang, nay thuộc Thị trấn huyện Nghi Xuân. Ở đây, mật độ phân bố xỉ sắt khá dày đặc kéo một vệt dài khoảng 2km từ Đền Huyện qua cánh đồng màu, bãi phi lao đến các thôn Hồng Khánh, Hồng Thịnh. Ở các xóm An Tiên, Hồng Tiến, xỉ sắt kết thành lớp dày dưới cát, hoặc trên những mô đất cao, hoặc mặt ruộng các cánh đồng Bụt (thôn An Tiên), Trại Dầu (thôn Lam Sơn) và cả khu vực sân vận động, ủy ban huyện…

Năm 1977, đoàn cán bộ giảng dạy và sinh viên khoa Sử trường Đại học tổng hợp Hà Nội, phát hiện một khu luyện sắt cổ ở Xuân Giang. Trong 5 hố thám sát ở các thôn Hồng Thịnh, An Tiên đã tìm thấy 6.415 hòn xỉ sắt, 40 hòn quặng, 14 cục than, 175 mảnh đất nung, 73 hòn đá kèm, 373 mảnh gốm, 3 mảnh sắt… Đó là bằng chứng chắc chắn về vết tích của những lò luyện sắt, rõ rệt nhất là ở hố số 5. Lò có các đặc điểm: Lò được xây trên gò đất cao để lợi dụng sức gió, nhất là hướng gió Lào mùa hè; Lò hình tròn, đường kính 1,44m; Thành lò được kè bằng đá hoặc xỉ sắt, và trét bằng đất sét trộn rơm, trấu; Thành lò khá dày, khoảng 8 - 10cm; Lò cao từ 40 đến 60cm. Căn cứ vào cơ cấu của lò, hình dạng và tính chất của xỉ, thì sắt ở đây

Page 128: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

128

được luyện theo phương pháp hoàn nguyên trực tiếp. Loại lò này cũng đã thấy ở Diễn Châu (Nghệ An).

Trong bước đầu có thể tạm coi niên đại khu luyện sắt Xuân Giang là vào giai đoạn Đông Sơn Sắt.

TRỊ SỞ QUẬN CỬU ĐỨC VÀ DẤU VẾT MỘ HÁN

Vùng đất Nghệ Tĩnh ngày nay, đời Hán là huyện Hàm Hoạn, quận Cửu Chân. Đời Ngô (222-280) cắt phần nam Cửu Chân đặt quận Cửu Đức gồm 8 huyện, trong đó có huyện Cửu Đức, tương ứng với cùng đất Đức Thọ và vùng phụ cận bây giờ. Nhà Lương (502-557) đổi Cửu Đức làm Đức Châu. Đời Khai Hoàng nhà Tùy (581-601) đổi Đức Châu làm Hoan Châu. Trong nhiều đời, quận trị Cửu Đức - Đức Châu đặt ở huyện Cửu Đức.

Trước kia, để thực hiện chính sách “Hán hóa”, nhà Hán khuyến khích quan lại binh lính định cư ở đất Việt, và đưa nhiều tù phạm, dân đói sang ở chung với người Việt. Vào đầu công nguyên, Vương Mãng lên nắm chính quyền ở Trung Quốc (9-23) nhiều quý tộc và dân thường Hán lánh nạn sang Giao Chỉ, Cửu Chân. Nhà Đông Hán và các đời sau (Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần… Tùy, Đường) lại có thêm rất đông người Hán tiếp tục di cư sang. Nhiều người lấy vợ Việt và về sau trở thành quý tộc lớn.

Huyện Cửu Đức (vùng Đức Thọ và phụ cận hiện nay) - nơi đặt trị sở quận Cửu Đức, là một trong những nơi có nhiều người Hán sinh sống. Ở đây, ngoài các quan lại người Hán, còn có nhiều người gốc Hán đã Việt Hóa và một số người Việt được cử làm quan. Một trong số họ là Lí Bí - hào hữu ở Long Hưng (nay là Thái Bình), từng làm Giám quân ở Đức Châu, - đứng lên khởi nghĩa chống quân đô hộ nhà Lương (năm 542), lập ra nhà Tiền Lý và dựng lên nước Vạn Xuân.

Sử sách không nói gì nhiều về vùng quận trị Cửu Đức. Cũng chưa có những cuộc khảo sát, nghiên cứu về thời cổ đại ở vùng này. Nhưng qua một số tài liệu ít ỏi hiện có dấu vết quận trị Cửu Đức còn được lưu lại trong nhiều vùng mộ Hán tại Đức Thọ.

Các cán bộ Bảo tàng Hà Tĩnh cho biết là nhân dân ở đây đã phát hiện ra nhiều mộ Hán ở Kẻ Tàng (Đức Hòa), Phượng Thành (Cận Kỵ - Đức Long). Nhà khảo cổ học, Phó giáo sư Hoàng Xuân Chinh, trong thư gửi

Page 129: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

129

cho tôi, cho biết ở phía tây các xã Đức Châu, Đức Tùng, cách dãy Thiên Nhẫn không xa, nhân dân đã phát hiện nhiều dấu vết Văn hóa Đông Sơn và của thời Bắc thuộc ở dăm Mụ Chược (Đức Châu) người ta tìm thấy một mảnh gốm thô và một số gốm thời Bắc thuộc, có thể đây là ở một ngôi mộ. Ở các dăm Cồn Mỏ, Nương Hói (cũng ở Đức Châu), phát hiện nhiều ụ gạch của những mộ cổ. Gần đây, nhân dân lại phát hiện thêm một mộ cổ khác có cây kiếm sắt đã mủn, một số khúc gỗ cùng những chiếc nhẫn vàng, bạc và tiền đồng. Theo các cán bộ Bảo tàng thì đây có thể là mộ Hán.

Cùng với dấu vết trên đây, ta còn thấy gia phả nhiều dòng họ vùng này chép tổ tiên Xuân An xưa “từ Bắc quốc tới”. Tuy chưa thể khẳng định, nhưng qua một số cứ liệu trên, ta có thể nghĩ rằng vùng bắc Trà Sơn - đông Thiên Nhẫn xưa có thể là quận trị Cửu Đức - Đức Châu thời trước.

TẢ AO - KHU DI CHỈ ĐỜI LÝ

Tả Ao (nay là xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân), là di chỉ luyện sắt thời Đông Sơn, lại được phát hiện là một khu di chỉ lịch sử đời Lý. Lê Văn Diễn viết trong sách Nghi Xuân huyện chí: “Xưa gọi là huyện Nha Nghi… Hồi đó huyện thuộc phủ Nghệ An. Nay ở xã Tả Ao có những vùng đất quen gọi là “Cửa Phủ”, “Cửa Triều”, “Bàu Lầu”, “Bãi Tập”. Ở những nơi đó, dưới đất còn có nhiều ngói cổ vụn nát… Có lẽ hồi đó phủ lỵ (Nghệ An) đóng ở đây…”. Ở Tả Ao còn có đền thờ Lý Uy Minh vương (tức Lý Hoàng, tự Nhật Quang, Tri châu Nghệ An từ 1041 đến 1060).

Vào khoảng những năm 70, Đoàn nghiên cứu khảo cổ học của khoa Sử Trường Đại học tổng hợp Hà Nội đã vào đây tiến hành khảo sát và đã tìm thấy trong vườn đền Uy Minh vương, thường gọi đền Huyện, những mảnh gốm thời Lý, trong đó có một “lá đề” đất nung giữa có in nổi hình ba chiếc tháp nhiều tầng. Di vật Lý còn phân bố trong một khu vực rộng xung quanh. Ở thôn An Tiên, đào xuống mặt đất một lớp mỏng đã gặp gạch ngói và đồ sứ Lý. Ở đây cũng tìm thấy một “lá đề” đất nung nguyên vẹn, giữa in một đóa hoa, xung quanh là hình lá.

Chỗ di tích lộ ra rõ ràng nhất là ở bờ sông Lam bị xói lở, cách sau lưng đền Huyện chừng 500m. Trên vách bờ sông lở, lộ ra một khoảng ken dày gạch ngói, những viên gạch ngói lớn, có cả ngói bản, ngói ống. Đây hẳn là

Page 130: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

130

di tích một kiến trúc. Trong bãi cát sát bờ nước còn tìm thấy những mảnh gạch chạm khắc hoa cúc dây. Từ di tích này đi dọc theo bờ sông chừng 1km, lại thấy rất nhiều đồ sứ và đồ sành thời Lý nằm trong vách bờ sông hoặc bị lở rơi xuống cát. Rõ ràng đây còn là một nơi cư trú.

Gốm sứ ở đây còn một ít khá nguyên vẹn. Đây là gốm sứ Lý điển hình, có cả gốm men ngọc, men đàn, xanh nhạt, trắng ngà, vàng rơm nhạt, vàng ngả xanh cốm hoặc da lươn, có men chảy hay men giọt. Các nhà khảo cổ còn thu được dọc bờ sông 12 chiếc bát và 8 chiếc đĩa kiểu dáng khác nhau, một số có trang trí hình hoa sen, hoa cúc hay hình mây. Có một chiếc đĩa lớn trang trí rất đặc biệt: giữa đám hoa văn mây hiện lên một hình kỳ lạ, vừa giống những chiếc lá cách điệu, lại vừa giống đầu rồng. Hiện vật còn có: hai chiếc ấm nhỏ, một chiếc có vai chạm cánh sen nổi; những mảnh liễn và nắp liễn; nhiều gốm hoa nâu, có những thống, thạp lớn, vai thường đắp cành sen nổi, thân trang trí hoa lá khắc chìm, phủ men nâu, hay nền bôi men nâu, còn hoa lá để men trần màu xanh nhạt. Trong vách bờ sông lở còn có rất nhiều đồ sành vỡ. Các nhà khảo cổ còn tìm được 2 vật bằng đồng, một cái hình măng tre, có lẽ là mảnh gãy từ một vật nào đó, và 3 đồng tiền đời Tống (Trung Quốc) niên hiệu Tường phù thông bảo (1008-1007), Nguyên phong thông bảo (1078-1086). Nguyên hựu thông bảo (1086-1094).

Căn cứ vào các vết tích văn hóa Lý, đặc biệt là khu vực bờ sông lở, có thể cho địa điểm này vào thế kỷ XI hay đầu thế kỷ XII, không chỉ có đền chùa mà còn có xóm làng đông đúc, bến thuyền rộn rịp biểu hiện sự phát đạt của thủ công nghiệp.

Page 131: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

131

CHƯƠNG III

CÁC LÀNG NGHỀ TIÊU BIỂU

Cùng với các làng cày, làng vạn, ở Hà Tĩnh còn có ngót 50 làng nghề

thủ công truyền thống, trong đó có nhiều làng nổi tiếng trong xứ, trong nước. “… Ở mỗi làng nghề đều có sẵn hai yếu tố cơ bản: Truyền thống văn hóa, truyền thống nghề nghiệp hòa quyện vào nhau tạo nên văn hóa làng nghề. Văn hóa làng nghề hội tụ tất cả những thuần phong mỹ tục trong sinh hoạt cộng đồng, tinh hoa nghề nghiệp, tài năng nghệ nhân…”.

Theo sách “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam”.

LÀNG MỘC THÁI YÊN

Thái Yên trước kia là một thôn của xã Quang Chiêm, tương truyền có từ thế kỷ XIII, đời Trần, đến nay xấp xỉ bảy trăm năm.

Qua nhiều đời, Thái Yên vẫn là làng Cày. Theo truyền ngôn thì cuối đời Lê có Nguyễn Viết Đức giữ chức Đô úy ở Thăng Long, giỏi nghề mộc, gặp loạn, bỏ quan về ở Diễn Châu rồi về Thái Bình truyền nghề cho ba con trai và một số người trong thôn.

Một truyền ngôn khác lại nói rằng, tổ tiên họ Nguyễn Trọng là Quàn Diếu, cũng sống vào cuối đời Lê, là người thợ mộc đầu tiên ở Thái Bình.

Nhưng những truyền ngôn trên đây chưa đủ căn cứ để xác định nghề mộc Thái Yên có từ bao giờ, và ai là người truyền nghề đầu tiên. Tuy nhiên cũng có lý để tin rằng nghề mộc ở đây ít ra cũng đã có trên hai trăm năm lịch sử.

Người càng đông, đất canh tác càng hẹp, dân làng đua nhau học nghề mộc, rồi nhiều gia đình chuyển hẳn sang làm thợ. Đến cuối thế kỷ XIX nghề mộc Thái Yên đã rất phát đạt, và đầu thế kỷ XX càng thịnh vượng, thu hút già nửa số lao động trong làng.

Page 132: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

132

Buổi đầu, thợ Thái Yên chỉ làm các loại mâm cỗ chè, và đồ thờ bằng gỗ bán ở các chợ nông thôn và ở chợ Vinh. Tương truyền, người thợ họ Phan Đăng sáng chế ra loại mâm chè đầu tiên, người thợ họ Võ chạm cái mũ thờ đầu tiên; ông Phan Đăng Sáu đóng cái xe đạp nước thành công; ông Trần Đoàn sáng chế ra kiểu nỏ bắn hai phát tên một lần trong kháng chiến chống Pháp; rồi máy bật bông, máy kéo sợi, bút máy tiện bằng sừng… cũng lần lượt ra đời ở Thái Yên.

Từ khoảng 1935-1940, thợ Thái Yên chuyển sang làm đồ gỗ kiểu mới: bàn, ghế, giường, tủ… cung cấp cho nhu cầu ở thành thị. Ngoài cơ sở sản xuất tại chỗ, dân thợ còn hùn vốn mở cửa hàng mộc “Thái Yên” ở thành phố Vinh. Hàng mộc Thái Yên không chỉ nổi tiếng trong nước, được ưa chuộng ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn… mà còn đắt khách ở Hồng Kông, Thượng Hải…

Thợ mộc Thái Yên khéo làm đồ gia dụng, lại còn giỏi nghề kiến trúc nhà cửa, đình chùa, không chỉ cứ loại bào trơn đóng bén, mà cũng tinh loại chạm trổ, tiện, xói…

“… Nhà giàu khoe lắm ló (lúa) - Lý trưởng khoe cao quyền - Đò dọc khoe rộng thuyền - Lái buôn khoe to vốn - Các thầy nho xộn rộn - Khoe trự (chữ) nghĩa văn chương - Trai thợ mộc Thái Yên - Khoe chạm rồng trổ hạc…” (vè).

Tương truyền, ông tổ họ Nguyễn Quang từ Ninh Bình vào ở đây, là người nhận làm ngôi đình đầu tiên. Người ta còn kể chuyện ông phó Sáo ở Thái Yên thi với ông phó Diếu bên làng Hói (Thuận Lộc) làm ngôi đình nhà Dào ở Dao Tác. (Tài liệu ở Dao Tác ghi: hiệp thợ ông Cửu Tiếp, Thái Yên và hiệp thợ ông Quyền Tịch, làng Mật Thiết). Hai hiệp thợ, không bên nào chịu kém, đều ra sức trổ tài. Kể ra chạm trổ thì hiệp thợ ông phó Sáo tinh hơn, nhưng hiệp thợ ông phó Diếu cũng chạm được con hổ, con ngựa có phần thực, động hơn, nên cuối cùng làng phải chấm “hòa” hai hiệp thợ cùng nhận giải ngang nhau.

Ở Thái Yên, thời nào cũng xuất hiện những tay thợ tài hoa: ông Chắt Mậu Tô, ông Tuyết (thợ chạm đầu tiên), ông Võ Em (người làm chiếc khung ảnh mỹ thuật dự đấu xảo ở Hà Nội khoảng 1935-1936), ông Dái Khán (người làm chiếc ghế xoay có ngai chạm rồng, được xếp loại “đệ

Page 133: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

133

nhất hạng mộc tượng”), ông Phó Khởi (người chuyên làm đồ cho đồng bào Thiên chúa giáo), rồi ông Chất, ông Cu Liên, ông Say… Nhưng những ông thợ cả trên đây chỉ mới là bậc đàn em, là học trò của ông Hồng, ông Cửu Ngại:

“Thái Yên thợ mộc có tài, Thứ nhất Cửu Ngại, thứ hai ông Hồng”

Đó là hai phó mộc kỳ tài, hai nghệ sĩ ưu tú của đất Thái Yên hồi đầu thế kỷ này, mà ngày nay còn để lại nhiều kiệt tác và giai thoại.

Cửu Ngại, tức Sáu Ngại, tức Trần Huy Ngại. Từ thuở trẻ đã mê nghề mộc. Nghe ở đâu có thợ giỏi, anh cũng lần đến xin hầu hạ, phục dịch để được học hỏi, do đó, sớm nổi tiếng cừ khôi. Sáu Ngại sử dụng chiếc rìu vững đến nỗi thường sau khi mài, anh đặt bàn chân lên tấm gỗ, xòe ngón, chém rìu vào giữa các khẻ (kẽ) chân để thử; khi anh đẽo cây cột có cạnh thì thẳng băng như đã nẩy mực, và bằng phẳng, trơn lỳ như đã bào nhẵn. Có lần một hiệp thợ Thái Yên ra làm ngôi đền ngoài Bùng (Diễn Châu), nhờ anh ra tạc cho mấy con sư tử (?), anh chỉ dùng chiếc rìu xắn đẽo một lúc, quẳng ra sân mấy con giống, mỗi con một dáng vẻ riêng và đều “in như thật”, làm cho ai cũng kinh ngạc, tấm tắc khen ngợi. Sáu Ngại còn thạo cả nghề vẽ, thêu, nề, cắt trổ giấy…

Lúc Nguyễn Thân ra đàn áp phong trào Cần Vương ở Hà Tĩnh (1894-1896), Thái Yên được lệnh phải nộp thợ giỏi để phục dịch việc quan. Cả làng không ai chịu đi, lý dịch phải bắt anh thợ trẻ Sáu Ngại lên phủ Đức thử tay nghề. Sáu Ngại làm bức hoành phi chạm “bát tiên quá hải”, được chấm giải nhất và bị đưa về kinh.

Ở Huế, Sáu Ngại được giao chạm trổ đồ gỗ quý và ngà voi, tạo những đồ trang trí dùng trong cung điện, hoặc đưa sang Pháp. Anh được phong sắc cửu phẩm. Nhưng ít lâu sau, anh bỏ trốn về tận Cái Bè, Nam Kỳ làm thợ kiếm sống, lưu lạc mười hai năm mới trở về thăm quê, rồi mất. Đương thời, ở Thái Yên, Cửu Ngại được coi là “Á thánh” nghề mộc45 và ngày nay, ông còn để lại nhiều công trình chạm trổ tuyệt vời.

45 Á thánh là vị thánh thứ hai, sau Lỗ Ban.

Page 134: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

134

Còn ông Hồng “nhà chỉ có bốn cọc tre” mà thẳng thắn, hào hiệp nổi tiếng. Đặc biệt, ông hết lòng dạy bảo đám thợ trẻ và có phương pháp truyền nghề rất mới. Thường ông chỉ bày vẽ về nguyên tắc làm rồi bảo học trò trực tiếp quan sát chim muông hoa lá thật kỹ càng, tự rút ra cách thể hiện riêng của mình. Ông thường dặn: “muốn giỏi thì ra ngoài bụi mà học!”.

Trên hai trăm năm qua, bao thế hệ thợ mộc Thái Yên đã nâng trình độ nghề nghiệp của mình đạt tới đỉnh cao ngày nay. Ngoài những hàng gia dụng, đồ tự khí, có phó thợ tài hoa đã để lại nhiều tác phẩm chạm khắc tuyệt mỹ, những kiến trúc gỗ (nhà cửa, đền chùa miếu mạo) trong đó có những công trình nổi tiếng khắp vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình.

Riêng ở quê Thái Yên đến nay còn giữ lại được hai ngôi đền, tác phẩm của dân thợ trong làng:

- Đền Tam Lang thờ Thành Hoàng làng dựng năm Quý hợi, niên hiệu Cảnh Hưng thứ tư đời Lê (1743) - có tài liệu chép năm Cảnh Hưng thứ hai (1741) - và sau đó được tu tạo thêm nhiều lần. Đây là một ngôi đền lớn gồm thượng, trung, hạ đường cao rộng, chạm trổ tinh xảo, hai bên là tả, hữu vu hai mươi gian, trước là tam quan đồ sộ, ngày hội có thể đặt cỗ kiệu bát cống. Toàn bộ ngôi đền là một tổng thể kiến trúc hoàn chỉnh. Trong đền có ba cỗ kiệu, ngai thờ bài vị, hương án, đối liễn, biển, và tự khí… tất cả đều là những tác phẩm chạm khắc tuyệt vời, sơn thếp lộng lẫy. Riêng chiếc hương án, các cụ già cho biết những thợ giỏi trong làng đã làm suốt bốn năm, từ Kỷ hợi (1889) đến Quý mão (1903) mới xong…

- Đền “Thánh Thợ” thờ tổ sư nghề mộc Lỗ Ban. Đền này quy mô nhỏ hơn nhưng cũng là một công trình kiến trúc gỗ có giá trị cao. Ngoài các tự khí, ở đây còn có bức hoành phi khắc bốn chữ lớn “Thiên thu chính khí” cũng là một tác phẩm tuyệt xảo của thợ mộc Thái Yên. Đền nay chưa rõ khởi tạo từ bao giờ, chỉ biết được trùng tu năm Ất sửu (1925)…

Bình phẩm về nghề mộc Thái Yên, từ bao đời nay, nhân dân Nghệ Tĩnh đã có câu:

“Tiếng lành đồn Xuân An, Tiếng tốt đồn Xuân An,

Page 135: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

135

Cái nghề thợ mộc nhất là Thái Yên.”

Cũng cần nhắc đến một sự kiện, một vinh dự của lớp thợ mộc Thái Yên hiện đại: Bảy xã viên ưu tú của hợp tác xã mộc Bình Quang đã được cử ra Hà Nội tham gia xây dựng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

LÀNG RÈN VÂN CHÀNG, MINH LANG

Dưới chân núi Thiên Tượng phía tây dãy Ngàn Hống, kề bờ nam sông Lam, nằm trong lưu vực sông Mênh là vùng đất thời trước có tên Ngọc Tiên, ghép tên hai trái núi nhỏ, Rú Ngọc và Rú Tiên.

Ngọc Tiên là một điểm dân cư xuất hiện vào loại sớm nhất ở xứ Nghệ, tương truyền vào thời Lý - Trần đã đông đúc. Gần đây giới khảo cổ học đã phát hiện được nhiều hiện vật gốm Lý Trần và cả rìu đá, lưỡi dao găm đồng, mộ cổ trong vùng này, điều đó càng được khẳng định. Đến cuối Trần, đầu Lê, Ngọc Tiên càng thịnh vượng, kinh tế, văn hóa đều phát triển cao.

Ngọc Tiên là quê của các Trạng nguyên Sử Hy Nhan, Sử Đức Huy (đời Trần), Hoàng giáp Hồ Bỉnh Quốc, các Tiến sĩ Phan Hưng Tạo, Bùi Đăng Đạt, các phó bảng Nguyễn Đệ, Nguyễn Thường (đời Lê, Nguyễn).

Ngọc Tiên còn được biết đến vì có hai làng rèn nổi tiếng Vân Chàng, Minh Lang (Người ta cũng gọi chung là Minh Lang, theo tên tổng).

Vân Chàng, xa xưa là Nhà Chàng, tương truyền từ thời Lý, Trần đã là một làng nông nghiệp - thủ công nghiệp trù phú, lại nằm giữa vùng đất có nhiều làng học hành, khoa bảng (Yên Hồ, Bình Lãng) nên cũng có tiếng văn vật. Một bài vè làm năm Canh ngọ (1870) có đoạn: “…Đất Vân Chàng đại địa - Gẫm tả hữu đôi bên - Chữ phú quý lưu truyền - Nhờ tiền nhân ngày xưa - Nhờ cựu triều ngày trước - Ơn vua lộc nước - Đất văn vật hữu dư…”.

Xã Minh Lang (Trung Lương) theo gia phả họ Nguyễn thì được thành lập từ thế kỷ XIV, đời Trần (?). Theo lời truyền thì “Xưa, có bốn anh em họ Nguyễn là Thanh, Cần, Thận, Trực, quê ở Bồng Sơn, xứ Thanh, phiêu dạt vào xứ Nghệ, đến làm nghề lưới bên bờ nam rào Rum (sông Lam); Nguyễn Thận đi lính thuê cho làng Kẻ Bấn (Bân Xá, nay cũng thuộc Trung Lương) có công, phong tước Quận công. Anh em họ Nguyễn đến dựng

Page 136: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

136

dinh cơ bên rú Tiên, chiêu dân lập ấp, trở thành “kiến hương thủy tổ” của làng này. Từ đời Lê cho đến năm 1841 đời Nguyễn, Minh Lang là nơi đặt lỵ sở huyện Thiên Lộc. Sách “Thiên Lộc huyện phong thổ chí” miêu tả cảnh trí vùng này hồi đầu thế kỷ XIX: “… Hai bên sông nhà cửa san sát, đường thủy đường bộ đều thông, có cầu, có chợ…, lại có dải đê to đắp thêm cảnh đẹp; ban đêm đi thuyền trên sông, ngước mắt nhìn ra là bờ nước mênh mông, đen thẳm một màu, đèn lửa lấp lánh như sao, vẳng nghe tiếng chày đập vải bồm bộp, tiếng búa nện đe đanh đanh, khiến người trên sông tỉnh ngủ, quên buồn. Gần sông, nhiều nơi có dinh thất, có đền miếu, người vào ra lũ lượt…”. Và một bài vè kể: “… Sông chia ba ngả - Phi dạ khách hành thuyền - Chợ (Huyện) một tháng mười tám phiên - Tha hồ ai buôn bán… - Nghề rèn rùng dụng nhật - Cho thiên hạ tin yêu…”.

Theo truyền ngôn, nghề rèn ở Vân Chàng có từ đời Lý, đến nay đã chín mười thế kỷ (?). Còn ở Minh Lang (Trung Lương) thì có người cho rằng ngay từ khi lập làng đã có nghề này, có người lại nói là mới du nhập vào cuối đời Lê (?). Một truyền thuyết:

“Xưa, có hai anh em thợ rèn họ Trương (?) không rõ từ đâu đến đất này sinh cơ lập nghiệp. Ít lâu sau, người anh là Như Trung ở lại, truyền nghề cho dân Trung Lương. Người em là Như Hiền vào Đàng Trong làm ăn, lập nên làng rèn Hiền Lương, gần cố đô Huế46. Từ ấy, thợ rèn Trung Lương truyền nghề ra phía bắc, thợ rèn Hiền Lương truyền nghề vào phía nam…”.

Ở đình làng Trung Lương (dựng năm 1880) có câu đối nhắc đến “Trung, Hiền”, chưa rõ có phải do truyền thuyết này không:

“Trung, Hiền tịnh tiến tương tiên hậu, Lương thiện thành phong tự cổ kim”. (Sau trước Trung Hiền đều sánh bước Xưa nay lương thiện đã thành lề)

Lại có truyền ngôn: Khoảng đầu thế kỷ XVI, có người làng là Nguyễn

46 Đời Minh Mệnh (1820-1840), có người thợ rèn Hiền Lương là Huỳnh Văn Lịch được cử làm giám đốc chế tạo hai chiếc tàu chạy bằng hơi nước đầu tiên của Việt Nam. Chúng tôi chưa có tài liệu viết về lai lịch làng Hiền Lương này. Hiện nay người làng Trung Lương đã đi lại với người Hiền Lương, nhận nhau là bà con.

Page 137: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

137

Viết Tư ra Đông Kinh (Hà Nội) học nghề rèn về truyền cho dân các làng Minh Lang, Vân Chàng, Yên Hồ…

Từ bao đời, nghề rèn Vân Chàng, Minh Lang không chỉ có tiếng ở địa phương mà cả trong nước:

“Mấy người lẳng lặng mà nghe Thế gian ai cũng biết nỏ phải khoe làm gì…” (Vè)

Ngày nay, đi từ Bắc chí Nam, ta thường gặp những người thợ rèn gốc gác ở Vân Chàng, Minh Lang; có nơi họ đã lập thành làng xóm. Hiện ở xã Nam Dương (có sách chép Nam Giang (?) huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà có một làng rèn mang tên Hoa Chàng47. Các cụ già ở đây cho biết làng này trước gọi là Vân Chàng, lấy tên quê gốc làng Vân Chàng xứ Nghệ. Làng lập lên từ thế kỷ XIX thờ sáu vị tổ sư nghề rèn từ Minh Lang (tổng Minh Lang - Trung Lương - trong đó có làng Vân Chàng) ra dựng nghiệp. Có người còn nói làng Bàu Tượng gần Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xưa cũng gọi là Vân Chàng, tương truyền do ba anh em làm nghề rèn đến làm ăn và truyền nghề cho dân. Khi họ mất, dân tạc tượng thờ làm tổ sư.

Dưới triều Lê - Nguyễn, có lệ riêng cho Vân Chàng, Minh Lang phải tiến thợ giỏi phục vụ triều đình:

“Núi cao thì gọi bằng lèn, Gia Long, Minh Mệnh cũng cần đến thợ rèn nữa em” (Hát ví Nghệ Tĩnh)

Nhiều thời kỳ, thợ rèn ở đây phải nộp thuế biệt thu bằng đồ sắt (dao, mác, gươm, giáo…).

Khi quốc gia hữu sự, thợ rèn Vân Chàng, Minh Lang đã đem tay nghề ra giúp nước, bà con ở địa phương còn kể lại nhiều câu chuyện cảm động ở thời Cần Vương: chuyện thầy trò cố Đương gồng gánh lò bễ búa đe lên đại ngàn tham gia nghĩa quân; chuyện cố Dĩ Thuần có công giúp ông Đề Thắng (Cao Thắng) chế thành công kiểu súng Tây; chuyện ông Thiện bỏ công hàng tháng, lựa lúc mấy lính tập xuống tắm ở bến sông Linh Cảm, lấy

47 Đầu thế kỷ XIX, xã Hoa Chàng thuộc tổng Chân Nguyễn, huyện Nam Chân, phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam Hạ.

Page 138: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

138

trộm được khẩu súng đem về làm mẫu…

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, thợ rèn Hồng Thuận lại chế tạo, cung cấp cho dân quân du kích trong tỉnh trên 2000 khẩu súng kíp, hàng chục tấn đạn và hàng vạn mã tấu, giáo, gươm…

Hàng sắt Vân Chàng, Minh Lang nổi tiếng bao đời, được tín nhiệm trên thị trường trong, ngoài tỉnh. Cái rựa, con dao và các hàng sắt gia dụng khác của các làng rèn này luôn được người mua ưa chuộng.

Ngày nay, nghề rèn Đức Thuận (Vân Chàng), Trung Lương (Minh Lang) càng phát đạt. Nghề đúc được du nhập thêm để mở rộng nguồn hàng và thị trường. Ở xưởng cơ khí Trung Lương, ngành đúc đã đạt trình độ kỹ thuật cao so với trong nước, và ngành rèn vẫn giữ “nước thép truyền thống”48 đặc sắc chưa nơi nào sánh kịp.

ĐẤT KẺ HẠ VÀ LỤA HẠ, NÓN HẠ

Kẻ Hạ - Việt Yên Hạ, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh nằm bên bờ nam sông La, trước ngã ba Tam Soa.

Kẻ Hạ xưa nay vẫn được coi là vùng thắng tích bậc nhất đất Chi La - La Sơn - Đức Thọ với Tùng Lĩnh, La Giang, Mai Hồ, Ngưu Chử; là nơi đóng quân và có đền thờ hai danh tướng nghĩa quân Lam Sơn Linh là Cảm đại vương Đinh Lễ và Minh (Linh (?) Thông đại vương Đinh Liệt; là đất phong của các công thần khai quốc nhà Lê: Phan Đán, Lê Bôi, Nguyễn Võ Lộng…

Thời xưa dân Kẻ Hạ, cũng như các xã trong vùng, chỉ làm nghề nông. Ngoài lúa, khoai, đỗ, sắn, còn có nghề trồng trầu trên đất đồi núi. Theo sách “Yên Hội thôn chí” của Bùi Dương Lịch thì nghề này có tầm quan trọng về kinh tế đến mức, năm Dương Hòa thứ 5 đời Lê Thần Tông (1639) có lệnh phân bổ cho quan viên và dân làng nam phụ lão ấu, kể cả cô nhi, quả phụ, người nào cũng phải trồng trầu trên một diện tích nhất định, và cấm người các nơi không được đưa trầu đến bán ở chợ làng. Bắt đầu từ đời

48 Kỹ thuật xẻ sắt tra thép và tôi.

Page 139: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

139

Trịnh Thanh vương (1629), lệnh này được đóng ngọc tỷ (ấn vàng) của nhà vua, các đời lưu giữ bản giao ước này.

Nhưng cũng từ rất sớm, dưới triều Lê, nghề buôn bán và các nghề thủ công cũng rất phát đạt. Ngoài các chợ trong xã - chợ Ô Sa (chưa rõ tên thường gọi là chợ gì), đời Nguyễn có chợ Hạ, chợ Đồn - và chợ Thượng bờ bắc sông La, người Kẻ Hạ còn buôn bán ở nhiều chợ lớn nhỏ trong vùng, có người lên đến Chu Lệ (Hương Khê), Phố Châu (Hương Sơn), chợ Vịnh (Nghệ An). Tuy nhiên ở đây không có người kinh doanh, buôn bán lớn.

Nghề thủ công ở Kẻ Hạ thì dệt lụa, làm nón là nổi tiếng hơn cả.

“Ai về Hà Tĩnh thì về, Mặc áo lụa Hạ, uống chè Hương Sơn”.

Từ thế kỷ XIX, lụa Hạ đã nổi tiếng trong nước. Sách “Đại Nam nhất thống chí” của Sử quán triều Nguyễn viết về thổ sản tỉnh Nghệ An (tức Nghệ An và Hà Tĩnh): “Lụa sản ở xã Việt Yên, huyện La Sơn, lụa rất dày”. Sách “Đồng Khánh địa dư chí lược” cũng viết: Lụa Hạ có thể “sánh với lụa La (Hà Đông), lụa Quảng (Nam)”. Các tài liệu của người Pháp đều ghi trong mục “Thủ công nghiệp” của tỉnh Hà Tĩnh: “Dệt lụa Hạ (Đông Thái, Tùng Ảnh, Trinh Nguyên)” (Roland Bulateau - La province de HaTinh - 1925); “Nghề dệt lụa nhất là Đức Thọ” (“Tỉnh Hà Tĩnh”, tài liệu của Sở Liêm phóng, chữ Pháp, 1942).

Trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa từ lâu đời đã rất phổ biến ở La Giang - La Sơn, Hương Sơn. Ven sông La và hạ lưu các sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố có nhiều bãi bồi trồng dâu. Ở xã Yên Hồ có một làng ven sông La gọi là làng Đồng Dâu. Phụ nữ nhiều làng nuôi tằm, kéo tơ - nhưng chỉ kéo “tơ ngang” (thô) dệt mặt tự túc. Chỉ ở Việt Yên Hạ (chủ yếu là các làng Tùng Ảnh, Trinh Liệt (sau là hai làng Trinh Nguyên, Đông Thái) dệt lụa trở thành nghề chính của đàn bà, con gái. Ở đây cũng có trồng dâu, nuôi tằm, nhưng để có đủ nguyên liệu cho các khung dệt, người ta phải đi mua tơ ở các chợ, các làng trong vùng ven sông La, sông Phố, sông Sâu. “Dân Lâm Thao, Yên Duệ… trồng dâu trên dải đất bồi ven sông, phát triển nghề nuôi tằm, kéo tơ, cung cấp tơ sợi cho người Việt Yên dệt nên lụa Hạ, đặc sản vùng sông La. Vào những năm 1935-1940, ở Lâm Thao còn có một số hộ làm nghề này” (Vũ Quang - Xưa và nay - HU.UBND Vũ Quang

Page 140: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

140

- 1955).

Cùng với nghề dệt, dần dà ở đây còn có thêm nghề nhuộm lụa. Hàng lụa Hạ ngoài lụa mộc trắng hay mỡ gà, còn có lụa nhuộm “da bài” may áo quần đàn ông và nhuộm thâm may quần, váy phụ nữ…

Hàng lụa Hạ không chỉ bán các chợ trong vùng mà còn ở chợ Nghệ và ít nhiều còn được đưa ra Bắc, vào Kinh…

Ngày trước, người ta khen con gái dệt vải Yên Hồ: “Muốn ăn cơm nếp đỗ chà - Muốn lấy vợ đẹp thì ra Yên Hồ”. Con gái dệt lụa Việt Yên - Tùng Ảnh cũng được các chàng trai ao ước. Đây là hình ảnh một cô gái dệt lụa - bà mẹ Huy Cận, được nhà thơ viết trong mục “Bàn tay của Mẹ” (“Hồi ký song đôi”): “Lúc còn con gái ở làng Tùng Ảnh mẹ tôi dệt lụa, lụa Hạ nổi tiếng. Quanh năm hái dâu nuôi tằm và ngồi khung cửi, mẹ tôi có một vẻ “thanh lịch” riêng, cái thanh lịch của dân phường vải… Lúc về nhà chồng mẹ tôi mang theo một khung cửi, đó là của “hồi môn” duy nhất. Khung cửi này còn để mãi trong nhà về sau, thỉnh thoảng mẹ tôi có dệt vải như để nhớ cái nghề con gái của mình…”.

Nón Hạ cũng là một sản phẩm nổi tiếng. “Đại Nam nhất thống chí” chép: “Nón: sản xuất ở xã Yên Đồng, huyện La Sơn, nón may tinh xảo, phụ nữ cả nước đều dùng”. Trong “Yên Hội thôn chí”, cụ Bùi Dương Lịch cũng viết: “Nghề làm nón lá cũng rất tinh xảo, so với những nơi khác là tốt nhất, truyền rộng ra cả nước. Những nón nhẹ, đẹp, sang thì giá đến 2000 đồng tiền (20 quan). Những nón thô xấu cũng không dưới 200 đồng tiền (2 quan). Già, trẻ, trai, gái đều có thể làm được. Đây cũng là một nghề nhàn ở địa phương”. Như vậy là nón Hạ đã có lâu đời, có thể từ đời Lê, đến đầu thế kỷ XIX đã rất thịnh hành.

Nón Hạ có nhiều tên gọi: Người trong Nam ngoài Bắc gọi “Nón Nghệ” vì sản xuất và bán ở tỉnh Nghệ - Nghệ An, Hà Tĩnh: “… Sáu thương nón Nghệ quai tua dịu dàng”.

Người trong tỉnh Nghệ (và Tĩnh) gọi “Nón Thượng” vì bán ở chợ Thượng (chứ không phải sản xuất ở xã Việt Yên Thượng như nhiều sách từ trước tới nay chép nhầm): “Đi ra nón Thượng quai thao…”.

Người La Sơn - Đức Thọ thì gọi “Nón bằng”, “Nón Hạ” (sản xuất ở

Page 141: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

141

làng Yên Hội, xã Yên Toàn / Yên Đồng, tức xã Việt Yên Hạ xưa) để phân biệt với loại nón chóp bẹt, “Nón Thượng” hay “Nón làng Thông” (sản xuất ở các làng Cửu Yên, Vạn Phúc Đông, xã Việt Yên Thượng, bờ bắc sông La)49.

Từ đầu thế kỷ XIX - có thể còn sớm hơn, đến đầu thế kỷ XX, nón Hạ (hay nón Thượng, nón Nghệ) quai thao được dùng phổ biến trong giới phụ nữ bậc trung trở lên. Đó là đồ phục trang nhất thiết phải có cho các cô dâu, cùng với bộ áo “mớ ba”, “mớ bảy”, làm tăng thêm vẻ duyên dáng cho người phụ nữ Việt Nam.

Từ sau những năm 30 thế kỷ XX, nón bằng quai thao hiếm dần, rồi vắng hẳn do điều kiện sinh hoạt, và quan niệm thẩm mỹ đã thay đổi. Trong cuốn “Những hiểu biết về Việt Nam” (Connaissance du Viet Nam - Paris. Imp. Nationale, 1951), hai nhà Việt Nam học người Pháp, Pierre Huard và Maurice Durand đã viết khá kỹ về loại nón Nghệ, và kết luận: “Nón bằng hầu như đã biến mất…”.

LÀNG ĐÚC ĐỒNG ĐỨC LÂM

Sách “Thạch Hà phủ phong thổ ký” soạn năm 1931, chép “Đức Lâm có nghề đúc”. Một bài vè phong thổ ở địa phương cũng mở đầu: “Đức Lâm xưa tiếng gọi đúc đồng…”.

Chưa rõ tên Đức Lâm có từ bao giờ. Chỉ biết các tài liệu từ đời Nguyễn Minh Mệnh (1820-1840) đến trước Cách mạng tháng Tám (1945) đều ghi xã Đức Lâm thuộc tổng Thượng Nghị, huyện (từ 1916 là phủ) Thạch Hà (sau đổi tên là Thạch Lâm). Đây là nơi đã phát hiện ra một số di chỉ khảo cổ như Di chỉ Rú Trò, Di chỉ Phái Nam thuộc Văn hóa Quỳnh Văn.

Hiện nay, chưa ai biết chính xác gốc gác nghề đúc Đức Lâm là từ đâu. Có người nói vị tiên tổ ở Nho Lâm (Diễn Châu), hoặc ở Dũng Quyết (Nghi

49 Loại nón này vành cứng, dày, lợp lá kè, may bằng sợi móc, rất chắc chắn, đàn ông đàn bà đều dùng khi làm đồng. Loại nón này còn được sản xuất ở làng Khang Quý, xã Trung Tiết, Thạch Hà, gọi “nón chợ Cồ”. Đầu thế kỷ XX, còn có loại nón chóp làm ở Ba Giang (Thạch Hà), Đan Du (Kỳ Anh) du nhập từ Huế, Ba Đồn (Quảng Bình) là loại nón thông dụng của phụ nữ ngày nay.

Page 142: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

142

Lộc xưa, nay thuộc thành phố Vinh) và được thờ làm thần xã này.

Còn gia phả họ Phạm thôn Nghĩa Sơn, Đức Lâm thì chép: Vị thụy tổ họ này húy là Phạm Duệ, từ vùng Châu Lâm, Ngọc Điền, Ngọc Lũy (nay là xã Thạch Thượng) lên đây hành nghề đúc, truyền cho con cháu cùng dân làng, đến nay đã chín đời. Hiện ở từ đường họ Phạm, con cháu thờ vị này là thủy tổ chi họ, vừa là tổ sư nghề nghiệp. Như vậy nghề đúc đồng Đức Lâm đã có trong, ngoài 200 năm lịch sử.

Nghề đúc đòi hỏi kỹ thuật rất phức tạp. Chỉ riêng việc chọn đất làm khuôn đã rất công phu. Tương truyền vị tổ đầu tiên đã đi nhiều nơi, lên đến vùng Đồn Điền, vẫn không tìm được, đến khi về Đức Lâm, gặp loại đất vừa ý mới ở lại, mở lò.

Khuôn đúc phải làm bằng thứ đất sét dẻo mịn, trộn trấu, nhồi kỹ mới có độ bền cao. Làm một khuôn hai mang đúc nồi, chậu, chiêng, kiểng phải mất hàng chục ngày. Khuôn đúc chuông thì cả hiệp thợ phải làm đến hàng tháng. Khi làm quai chuông, người ta phải dùng sáp để tạo nên hình rồng, hình sư tử, làm nòng rồi mới đắp khuôn.

Than đốt lò cũng phải là than lim mới đảm bảo. Các loại than khác cũng có thể nấu được, nhưng sản phẩm không được đẹp và bền.

Đúc loa chiêng, kiểng thì khó nhất là việc “lấy tiếng”, nếu không, đánh không kêu. Việc này cả phường chỉ có một hai người làm được. Nhưng đúc chuông mới thật là kỳ công… Đúc một chuông đồng cỡ trung bình (khoảng 80kg), phải có 18 lò nấu, mỗi lò có hai, hoặc ba người phụ trách thay nhau thụt bễ liên tục. Tốp thợ chính phải là những nghệ nhân tài hoa do một người giỏi nhất đứng đầu, giám sát công việc chặt chẽ, buộc mọi người phải tuân thủ kỷ luật, làm đúng quy trình kỹ thuật.

Thời gian đúc chuông đúng là dịp hội vui của cả làng, cả vùng. Trước đó, người ta đã chuẩn bị đầy đủ dụng cụ, vật liệu, nguyên liệu. Những thợ đúc và những người tham gia (chức dịch, tín đồ) phải chay tịnh hẳn hoi… Sáng tinh mơ, sau lễ cáo Thần, Phật, người ta bắt đầu nhóm lò. Người thợ cả, thắt lưng điều, ra mệnh lệnh chỉ huy như một vị tướng. Dân địa phương đến xem vây vòng trong, vòng ngoài… Nhiều người ném vào chảo đồng đang sôi một ít tiền đồng, thỏi bạc, có khi cả đôi trằm vàng… để góp phần công đức… Ngày vui kéo dài cho đến lúc chuông đúc xong, làm lễ hoàn

Page 143: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

143

công…

Qua hai thế kỷ, có những thời nghề đúc đồng Đức Lâm rất thịnh. Cả làng có hàng trăm hộ hành nghề, có gia đình truyền nối từ can, cố đến cháu chắt… Nhà ông Phạm Văn Phụng đã năm đời làm thợ đúc. Ông học nghề từ 11 tuổi, nay đã 64, vẫn giữ nghề xưa, và dạy lại cho lớp con, cháu.

Thợ Đức Lâm có nhiều người thật sự là nghệ nhân tài hoa, như Lê Tự (đã mất) và con là Lê Giáp, Phạm Đờn (đã mất), Phạm Nhiêu Sô (đã mất), Nguyễn Thị, Phạm Dốc thường gọi cố Văn (nay đã 94 tuổi) v.v…

Sản phẩm đúc của Đức Lâm có nhiều loại: ngoài đồ dùng gia đình (nồi, sanh chảo, chậu, bình, mâm…) còn có đồ thờ, nhạc khí (chiêng, khánh, thanh la, chuông) v.v…

Hàng được bán không chỉ trong vùng mà còn xuất ra các tỉnh khác. Ngày trước ở thị xã Hà Tĩnh có cửa hiệu ông cu Tư chuyên buôn bán đồ đồng Đức Lâm.

Đặc biệt thợ Đức Lâm đã đúc nhiều chuông lớn cho các chùa chiền trong vùng (trong đó có chuông chùa Đồn Điền, chùa Đại Nài, chùa Phật Học (ở tỉnh lỵ), chùa Nghĩa Sơn…). Một thợ đúc - nghệ nhân sinh đầu thế kỷ XX, từng tham gia đúc một số chuông trên đây, nay vẫn thượng tại. Đó là cụ Phạm Đốc - cố Văn.

LÀNG GỐM CẨM TRANG

Cẩm Trang và Văn Tân là hai làng của xã Đức Giang, huyện Vũ Quang hiện nay. Thời xa xưa, mé trên xã Trại Đầu (Ân Phú), có xóm Dựa, xóm Đại, ở phía tả ngạn và xóm Hội, xóm Thị ở phía hữu ngạn sông Ngàn Sâu. Xóm Dựa, xóm Đại chính là làng gốm Cẩm Trang. Còn xóm Hội, xóm Thị là làng Mai Hoa (có người nói Mai Hoa là tên làng đầu tiên, sau mới đổi thành Cẩm Trang)50. Về sau, dân thợ gốm mới lên chỗ hiện nay, trên rẻo

50 Đại tá Lê Thanh Oai, về hưu tại xã Đức Giang, hiện là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện Vũ Quang, cho biết: Theo lời kể lại của nhà nho Phạm Như Hương, thường gọi Bộ Dơi, thì trước thế kỷ XVIII, có tên Mai Hoa, sau vụ trả thù bọn lính nhà vua, làng bị làm cỏ và bị xóa tên. Khi số người sống sót trở về, lập lại làng, mới lấy tên Cẩm Trang. Năm 1930, lập chi bộ Đảng, những người cộng sản lấy lại tên Mai Hoa làm tên chi bộ để nhớ truyền thống xưa (?).

Page 144: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

144

đất ven sông, dưới làng Hạ Bóng, tựa vào dãy Thanh Sơn (Đại Long). Người các nơi đến lập một làng mới ở xóm Dựa, xóm Đại, đó là làng Văn Tân. Còn xóm Hội, xóm Thị sau là làng Lai Đồng51. Cả ba làng đều thuộc tổng Tự Đồng - Du Đồng, huyện La Sơn.

Theo truyền ngôn thì nghề gốm Cẩm Trang có gốc gác xa từ làng gốm Thổ Hà, thuộc tổng Tiên Lát, huyện Việt Yên, phủ Bắc Hà, xứ Kinh Bắc, nay là xã Vân Hà, tỉnh Hà Bắc, bên tả ngạn sông Cầu. Hồi quân Minh sang xâm lược nước ta (1407-1427), một số thợ gốm Thổ Hà chạy loạn phiêu dạt vào Thanh Nghệ.

Chưa rõ từ năm tháng nào, họ lần lên tới vùng Ngàn Sâu, tìm được loại đất tốt, có thể nung gốm, dừng lại lập nghiệp và lập nên làng Cẩm Trang, nhưng chỉ có hai xóm phía tả ngạn là dân thợ gốm.

Ngay trước, thợ gốm Cẩm Trang chỉ làm mấy mặt hàng sành loại nhỏ: Bình, vò, lon, vại, be, hũ, chậu… là đồ dùng phổ biến trong gia đình nông dân với kỹ thuật xây (bàn xoay) và nung rất cao. Khoảng những năm 1938-1942, một số người mở lò sản xuất hàng gốm sứ. Hàng gốm Cẩm Trang bán khắp các chợ Nghệ Tĩnh, và một phần đưa ra tỉnh ngoài. Cẩm Trang còn làm gạch ngói, cũng là loại hàng được ưa chuộng.

Dân thợ gốm Cẩm Trang dựng ngôi đình gọi là đình Trung thờ ba vị Tổ sư nghề gốm. Theo truyền thuyết ở quê gốc Thổ Hà thì Tổ sư là các vị Hứa Vĩnh Cảo (Kiều), Lưu Phong Tú và Đào Trí Tiến. Tương truyền, ba ông đều làm quan đời Lý, đi sứ sang Trung Quốc, khi về qua phủ Thiều Châu, đưa theo 12 người thợ gốm về nước, dạy nghề cho dân (có thuyết nói rằng ba ông Hứa, Lưu, Đào học nghề gốm ở Thiều Châu)52. Nghề nghiệp gốm

Theo ông, có thể tên Cẩm Trang xuất phát từ tên một làng gốm ở Thanh Hóa là Cẩm Trường và dân thợ gốm Cẩm Trang là từ Thanh Hóa vào (?). Chúng tôi thấy ý kiến này cũng khá phù hợp với tài liệu của chúng tôi sưu tầm những năm 1972-1973, nói rằng trước khi vào đây, những thợ gốm Thổ Hà đã dừng lại Thanh Hoa. 51 Tên làng Cẩm Trang chắc đã có từ đời Lê, nhưng về văn bản thì chỉ mới thấy chép trong sách “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX” cùng với tên làng Lai Đồng. Còn tên làng Văn Tân thì mới xuất hiện trong danh mục tên làng xã chép đời Thành Thái, cuối thế kỷ XIX. 52 Lời truyền: Đưa 12 thợ gốm về (hay ba ông sang Thiều Châu học nghề) chắc chỉ là để tăng sự tín nhiệm đối với hàng gốm nội địa (như ngày nay quảng cáo là hàng Pháp, hàng

Page 145: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

145

phát triển cao, dân thợ tiến sản phẩm lên, vua Lý khen ngợi, phong cho ba ông làm Thánh sư nghề gốm ở ba vùng: Ông Hứa ở Bát Tràng, ông Lưu ở Phù Lãng, và ông Đào ở núi Gốm, huyện Quế Võ. Về sau dân thợ núi Gốm theo dòng sông Cầu đến làng Vạn An, làng Đặng, làng Chọi, làng Quả Cảm, cuối đời Trần thì một số người định cư ở Thổ Hà. Rồi từ Thổ Hà, một số thợ gốm lại vào Thanh, Nghệ, cuối cùng lần lên tận Cẩm Trang, Ngàn Sâu.

Dân thợ gốm các nơi không thờ riêng một vị mà thờ chung cả ba Tổ sư họ Hứa, họ Lưu và họ Đào. Nhưng ở Cẩm Trang, về sau không ai còn rõ tên họ, gốc tích, vị hiệu của các vị nữa. Dân làng chỉ biết có “ba vị Tổ sư” và nhớ ngày mồng ba tháng giêng âm lịch là ngày giỗ Tổ.

Cho đến trước cách mạng tháng Tám 1945, thợ gốm Cẩm Trang vẫn giữ đúng nhiều tục lệ có từ xa xưa. Mỗi năm, làng có hai ngày lễ quan trọng: lễ Giỗ Tổ và lễ “Dựng khoán”.

Lễ giỗ Tổ mồng ba tháng giêng, theo tục thì không cúng xôi. Làng chỉ biện hương vàng, trầu rượu và chín con gà luộc làm tế phẩm. Các cụ già giải thích rằng, lễ vật ấy thể hiện mong ước khi nung, đồ gốm chín đều và không bị dính vào nhau. Làng tế xong thì các chủ lò lần lượt mang hương vàng trầu rượu cùng mâm cỗ chay đến cúng, rồi mời bà con cùng hưởng lộc, chứ không đưa về nhà.

Vào dịp tết nguyên đán, đúng sáng ba mươi tháng chạp, người ta chất củi vào lò không đốt suốt một ngày, một đêm. Từ sáng mồng một tết cho đến cuối tháng tư (âm lịch), tuyệt đối không ai được đốt nữa. Cũng từ đó trở đi là thời kỳ làm “phơ” (sản xuất gốm mộc) và mua than củi tích trữ. Cuối tháng tư sang đầu tháng năm, làng chọn một ngày “tốt” làm lễ “Dựng khoán” (mở lò). Lễ này, ngoài hương vàng trầu rượu, làng có giết thịt một con lợn, cũng không thổi xôi mà nấu cơm gạo tẻ, nén vào lá dong hay lá chuối làm lễ vật tế Tổ sư. Sau khi làng tế ở đình, các “khẩu” (chủ lễ) mới bày án thư trước cửa lò, dâng lễ vật (hương vàng, trầu rượu, đèn sáp) lên, mời một người cao tuổi nhất trong xóm đến giúp làm lễ. Lời khấn Tổ sư rất

Mỹ). Gốm Việt Nam đã có từ thời các vua Hùng, đến đời Lý thì kỹ thuật đã rất phát triển, men ngọc đời Lý đã nổi tiếng trên thị trường trong khu vực.

Page 146: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

146

đơn sơ: “Xin tam vị Thánh tổ Tiên sư, Tổ sư phù hộ cho củi đỏ, lò bền, hàng đẹp, chín trong chín ra, chín ngoài chín vô…”53.

Lò đã chất sẵn “phơ” và củi; lễ xong, cụ già giúp “khẩu” châm lửa đốt lò. Làng và các “khẩu lò” đều phải tuân theo tục lệ nghiêm ngặt như vậy.

Qua mấy trăm năm, lúc thịnh lúc suy, dân thợ gốm Cẩm Trang vẫn duy trì được nghề cũ của cha ông. Cho đến sau Cách mạng tháng 8/1945, Cẩm Trang vẫn là làng nghề truyền thống nổi tiếng.

Nhưng rồi thiếu sự đầu tư cần thiết để cải tiến mẫu mã, tạo nên sản phẩm mới, tiếp cận với thị trường hiện đại, nên nghề gốm teo lại dần, và mất hẳn. Làng nghề Cẩm Trang chỉ còn là vang bóng một thời.

LÀNG ĐÓNG THUYỀN TRƯỜNG XUÂN

Làng Trường Xuân thuộc xã Việt Yên Thượng, huyện La Sơn, thường gọi Kẻ Thượng, nay thuộc xã Trường Sơn, huyện Đức Thọ.

Nghề đóng thuyền Trường Xuân từ rất nhiều đời, đã nổi tiếng ở Nghệ Tĩnh. Theo truyền ngôn thì nghề này có từ đời Lê, Tổ sư truyền nghề là Phạm Đà.

Theo thần tích đền “Thượng tướng quân đại vương linh thần” ở Trường Xuân thì Thần “nguyên là người trong xã, họ Phạm, tên Đà, lúc trẻ dũng lược, dưới triều Lê Kính Tông (1599-1618) được ông Thái bảo54 người cùng làng tiến bạt làm Chỉ huy sứ, quản lĩnh cơ Dũng nhuệ, hiệp đồng với Vĩnh Quận công đánh nhà Mạc, được phong tước hầu, kiêm quản cơ Trung dũng; sau lại phụng sai làm Thống tướng, chỉ huy chư quân tiễu trừ giặc Dương tại địa phận huyện Hương Sơn, có nhiều công lao. Sau khi mất, 53 Theo gia phả nhà cụ Nguyễn Đình Gia và lời kể của các cụ ở Thổ Hà thì phường lò tế Thánh sư vào rằm tháng hai (tế xuân) và rằm tháng tám (tế thu). Khi vào lò, cúng Thánh sư, người ta cũng khấn nôm na như vậy: “Lạy Thánh sư phù hộ cho lò chín từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên”. 54 Thái bảo: Thần tích viết là một chức trong “Tam thái” hàm chánh nhất phẩm, còn theo truyện kể dân gian lại là một nhân vật lịch sử họ Thái tên Bảo… Thái Bảo bị chém lìa cổ, ôm đầu chạy về đến Kẻ Trảy (nay là xã Sơn Tiến, huyện Hương Sơn) thì ngã xuống, hiển linh được dân địa phương lập đền thờ. Có người nói Thái Bảo chính là Vĩnh quận công, tổ họ Thái Trường Xuân, nay con cháu vẫn thờ phụng.

Page 147: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

147

nhiều lần được phong Đại vương, dân trong xã lập đền thờ phụng” (“Bách thần sự tích” – TKĐ dịch, chưa in).

Nhưng dân gian kể về sự tích Tổ sư nghề đóng thuyền ở Trường Xuân như sau:

“Phạm Đà, người Kẻ Thượng, lúc trẻ đi học, làm quan, lúc tuổi đã cao mới về quê mở trại xẻ gỗ, đóng thuyền, dạy lớp trai tráng trong làng học nghề.

Thuở ấy, ở vùng Đại Ngàn có bọn giặc cướp do Triều Dương cầm đầu. Triều Dương là tay giỏi võ nghệ lại có hai con gái và nhiều thủ hạ tận tâm. Lão đem quân đi cướp bóc, đốt phá trong vùng, dân tình rất cơ cực. Quan quân triều đình không sao đánh dẹp nổi, nhà vua phải hạ chiếu cầu người tài ra giúp tiễu trừ chúng.

Ở Kẻ Thượng có nhà hào phú Thái Phù quê gốc xứ Thanh, vào đây lập nghiệp, sinh một con trai là Thái Bảo. Chàng lớn lên thông minh, mạnh khỏe, nhưng khốn nỗi bị dị tật, da hai bắp chân dính liền nhau, nên chỉ ngồi lết. Chàng bực tức, lấy dao rạch da thịt tách hai chân ra, chữa thuốc lành, đi lại bình thường.

Thái Bảo đến tìm gặp Phạm Đà bàn kế trừ giặc Triều Dương. Ông già Phạm Đà vốn nhiệt tâm và đa mưu, bèn cùng Thái Bảo lên sơn trại gia nhập đám giặc Đại Ngàn. Chẳng bao lâu, họ được Triều Dương tin cậy, coi như chân tay thân tín.

Đến một hôm, sau trận đánh thắng quân triều, cướp đoạt được nhiều của cải, sơn trại mở yến tiệc ăn mừng. Phạm Đà và Thái Bảo đã sắp đặt trước, cho Triều Dương uống rượu thật say rồi chém chết và tẩu thoát. Nhưng Thái Bảo bị thủ hạ của Triều Dương giết hại. Tuy nhiên, sau khi Triều Dương chết, đám giặc cũng tan.

Phạm Đà chạy thoát, lại về Kẻ Thượng tiếp tục làm nghề đóng thuyền. Ông dựng ngôi nhà nhỏ bên trại để tiện coi sóc công việc, và dạy bảo đám trai trẻ học nghề. Dù tuổi đã cao, ông vẫn không hề một ngày ngơi nghỉ…

Bẵng đi mấy năm, một hôm có hai người con gái đến trại của ông Phạm đặt một chiếc thuyền lớn. Họ bảo rằng nhà ở xa, xin được ở lại gần trại, chờ cho đến lúc đóng xong thuyền sẽ về một thể. Ông nhận lời, cho họ ở

Page 148: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

148

lại ngôi nhà lá bên cạnh. Hai cô gái luôn tỏ ra tôn kính ông như cha đẻ. Ông cũng rất quý mến họ, coi như con…

Hôm thuyền hạ thủy, bỗng có một toán trai bạn của hai cô chủ thuyền cùng đến. Họ thanh toán sòng phẳng và dọn cỗ đãi thợ thuyền hậu hĩnh. Ông Phạm rất vui, cùng đám thợ uống rượu đến chiều tối mới về nhà…

Sáng hôm sau, mọi người đến làm việc thì thấy nhà ông Phạm Đà cửa vẫn đóng, và dưới bến sông, con thuyền mới cũng không còn đó nữa… Người ta vội vào tìm. Nhưng giữa nhà mối đã đùn lên thi thể ông, thành nấm mộ lớn.

Mãi về sau, người ta mới hay rằng hai người đặt đóng thuyền chính là con gái Triều Dương đến báo thù cho cha55.

Những người thợ đóng thuyền, học trò ông già Phạm Đà lập miếu bên mộ thờ ông làm Tổ sư. Về sau dân làng Trường Xuân tôn ông làm Thành hoàng và dựng ngôi đền lớn thờ phụng. Các triều Lê, Nguyễn đều ban sắc phong56.

Hàng năm, vào đêm 22 và ngày 23 tháng hai âm lịch – ngày giỗ Thành hoàng, làng Trường Xuân mở hội tế và rước thần rất linh đình. Đặc biệt, trong hội phường bội (hát bộ) diễn tuồng “Triệt giang” (lấy tích Triệu Tử Long đoạt A Đẩu) ở sân chùa Thượng và trên sông La, thu hút dân làng và hàng nghìn người khắp nơi về chợ Thượng tham dự.

Ngót bốn thế kỷ, nghề đóng thuyền ở Trường Xuân luôn phát đạt. Sau cách mạng tháng Tám, dân thợ ở đây chung sức xây dựng một cơ sở đóng thuyền lớn, gồm hàng trăm thợ cưa, thợ mộc, lấy tên “Xưởng Lý Chính Thắng”57. Hàng nghìn chiếc thuyền lớn nhỏ, có cả thuyền gắn máy, với 55 Theo truyền ngôn, hai người con gái của Triều Dương về đến gần bến đò Đại Ngàn bên sông Ngàn Sâu thì chìm thuyền (có người nói là tự tử) chết. Dân địa phương lập ba ngôi miếu nhỏ thờ ba cha con họ trên gành, nên nơi này gọi là “gành Ba Miếu”. 56 Ngôi đền này bị phá sau năm 1946. 57 Lý Chính Thắng tên chính là Nguyễn Đức Huỳnh, quê xã Sơn Lễ (Hương Sơn), giáo viên Trường trung học tư thục Nghĩa Yên (Institution S’ joseph), vào Sài Gòn hoạt động trong tổ chức Việt Minh bí mật, sau là Tổng thư ký Tổng công đoàn Nam bộ, chỉ huy đánh quân Pháp tại mặt trận Đông Sài Gòn, bị thương và hy sinh ngày 30/9/1946.

Page 149: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

149

hàng chục nghìn tấn trọng tải đã xuất xưởng, phục vụ nghề cá và vận tải trong hai cuộc kháng chiến.

Sau này, tổ chức lại sản xuất, xưởng Lý Chính Thắng giải thể, nhưng nghề đóng thuyền vẫn phát triển. Vào cuối thế kỷ XX, cả xã Trường Sơn chủ yếu là ở Trường Xuân, có tới 170 hộ làm nghề đóng thuyền.

Page 150: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

150

CHƯƠNG IV

MỘT SỐ DÒNG HỌ TIÊU BIỂU

Mỗi dòng họ đều có lịch sử, có truyền thống riêng, góp phần tạo nên lịch sử và truyền thống dân tộc. Dòng họ nào ít nhiều cũng đều có công lao đối với quê hương, đất nước. Những dòng họ triệu cơ, chiêu dân lập ấp, những dòng họ nghề nghiệp (thủ công, buôn bán, y dược, nghệ thuật v.v…), những dòng họ học hành khoa bảng, văn thần, võ tướng… qua những đại biểu xuất sắc, cống hiến tài năng, trí tuệ cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đều được nhân dân ngưỡng mộ, nhớ ơn…

Cả nước đã biết đến họ Nguyễn Tiên Điền, họ Nguyễn Tràng Lưu… Nhưng ở Hà Tĩnh còn có nhiều dòng họ tiêu biểu khác trong đó có Hoàng Bình Lỗ, Ngô Trảo Nha, Nguyễn Chi Ích Hậu mà chúng tôi ghi trong mục này.

HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN

Sau hơn một trăm năm, kể từ khi Nam Dương công Nguyễn Nhiệm về lánh nạn ở đất Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, đến giữa thế kỷ XVIII, họ Nguyễn nổi tiếng trong nước là một cự tộc khoa hoạn và văn chương. Trong “Hoan Châu Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả” do ông khởi thảo, để tránh sự hiềm nghi, Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm không chép tên của vị tổ khai cơ chi họ mình, nhưng lại cho biết Nam Dương công là hậu duệ của Trạng nguyên Nguyễn Thiến đời Mạc.

Ngược dòng lịch sử, ta biết Nguyễn Thiến (1495-1557) là con ông bà Nguyễn Doãn Toại – Nguyễn Thị Hiền, cháu nội Thám hoa Nguyễn Doãn Địch (nguyên quán xã Cảo Dương, nay là thôn Tảo Dương, xã Hồng Dương, Thanh Oai, Hà Tây, trú quán xã Cổ Hoạch, nay là thôn Canh

Page 151: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

151

Hoạch, xã Dân Hòa cùng huyện), và là cháu ngoại Tiến sĩ Phạm Bá Kỳ (cùng quê Canh Hoạch). Bá Kỳ vốn dòng dõi Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, ở làng Nhị Khê, sau vụ án Lệ chi viên đổi ra họ Phạm, đến đời con, cháu ông là Trạng nguyên Nguyễn Đức Lương, Tiến sĩ Nguyễn Khuông Lễ mới lấy lại họ Nguyễn. Theo tộc phả họ Nguyễn Nhị Khê, do Dương Bá Cung soạn lại năm Minh Mệnh thứ ba (1822) thì gốc gác họ này ở làng Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương). Hai anh em họ Nguyễn lên làm thuê ở đây, đem mộ cha đến táng ở cánh đồng Giữa, rồi người anh ngụ tại Nhị Khê, sinh Thái học sinh Nguyễn Phi Khanh. Người em đến ngụ tại làng Cổ (Canh) Hoạch, trở thành tổ dòng họ Nguyễn Canh Hoạch. Như vậy, họ Nguyễn Nhị Khê là cánh anh, họ Nguyễn Canh Hoạch – Tiên Điền là cánh em58.

Nguyễn Thiến đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm thìn năm Đại chính thứ ba đời Mạc Đăng Doanh (1532) làm đến Lại bộ Thượng thư, tước Thư Quận công. Mạc Phúc Nguyên nghe lời gièm pha, nghi ông làm phản. Năm 1550, ông phải đưa hai con là Thạch Quận công Nguyễn Quyện, Phù Hưng hầu Nguyễn Miễn và gia nhân vào Thanh Hoa theo nhà Lê, được ban thưởng và giữ nguyên chức tước. Sau khi ông mất (1557), theo thư khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi ông trước đó, Nguyễn Quyện lại cùng con em về với nhà Mạc. Nguyễn Quyện là một danh tướng, được phong đến Thái bảo, Thường Quốc công. Năm 1592, ông bị quân nhà Lê bắt và chết trong ngục năm 1593. Để trả thù, nhà Lê tàn sát con cháu họ Mạc và những người theo giúp nhà Mạc. Nhuệ Quận công Nguyễn Tín (con trưởng Nguyễn Quyện), Đô Mỹ hầu, Vân Bảng hầu, Nhân Trí hầu (con Nguyễn Miễn) đều bị giết. Thọ nham hầu Nguyễn Trù (con Nguyễn Quyện), Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm, An Nghĩa hầu (con Nguyễn Miễn) tiếp tục theo giúp nhà Mạc59. Nhưng sau một trận đại bại, Nam Dương hầu may mắn thoát chết, bèn tìm đường trốn vào Nghệ An, đến ẩn tích trên “một dải đất cát pha do sông Lam mới bồi đắp lên… thời ấy hãy còn hẻo lánh, hoang vu…”, mặc dầu lúc đó đã có tên mới Phú Điền, ngày

58 Theo tài liệu nghiên cứu của GS Lê Thước và bài của cụ Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố. 59 Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” – Bản kỷ, tục biên, Q XVII.

Page 152: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

152

nay là xã Tiên Điền.

*

* *

Nam Dương công có ba con trai và hai con gái. Con trai trưởng (không rõ tên) là tổ nhánh trưởng ở thôn Văn Trường, có cháu năm đời Nguyễn Huyền. Con trai út (không rõ tên) là tổ nhánh cuối ở thôn Đông Giáp, có cháu năm đời Nguyễn Lực. Con trai thứ hai cũng không rõ tên và hành trạng, về sau Xuân Nhạc công Nguyễn Nghiễm làm quan to, được truy tặng chức Tham đốc, tước Khánh Trạch hầu. Bà người họ Hà cùng xóm, sinh hai trai là Ổn và Chúng. Nguyễn Chúng mất sớm. Nguyễn Ổn (Thể phả chi Ất, bản chữ Hán, chép là Mao, tục âm Ổn), đời Cảnh Hưng, được truy tặng chức Đề đốc, tước Phương Trạch hầu. Bà người họ Lê, cùng xóm, sinh hai con trai là Nguyễn Thể, Nguyễn Yêu, đều theo nghề võ. Nguyễn Thể (1644-1698) tên thụy là Bảo Lộc, vào lính sớm, giỏi võ nghệ, có công đánh dẹp ỏ Hưng Hóa, Nghệ An, được phong chức Phó võ úy, tước Phù Hưng bá. Đời Cảnh Hưng được truy tặng Đông các đại học sĩ, tước Phù Hưng hầu, sau gia tặng Hộ bộ Thượng thư, Thiếu phó Phù Quận công. Bà người họ Lê ở thôn Võ Phấn được tặng Quận phu nhân. Ông bà là thân sinh Lĩnh Nam công Nguyễn Quỳnh. Nguyễn Yêu (1656-1721) cùng theo anh tập nghề võ, có công, được phong Chánh suất đội, tước Hùng Tài hầu. Bà người họ Đinh, chỉ sinh một con gái. Lĩnh Nam công Nguyễn Quỳnh (1675-1735) thuộc thế hệ thứ năm. Ông đỗ tam trường (sinh đồ) lúc 19 tuổi, làm nho sinh ở cục Tú Lâm. Về sau, ông được Trấn tướng Nghệ An Trung Quận công Lê Thì Liêu dùng làm mạc khách, chuyên việc giao thiệp với Đàng Trong, có công được giữ chức Chánh đội trưởng coi đội quân Thắng Hữu, rồi về quê đọc sách, hưởng cảnh an nhàn. Đời Cảnh Hưng vì con cháu làm quan to, ông được truy phong Hàn lâm viện thừa chỉ, tước Nhuệ Trạch hầu, rồi gia tặng Lễ bộ Thượng thư Thái bảo, Nhuận Quận công. Bà chính thất họ Phạm ở Uy Viễn, sinh 6 con trai. Đó là những người thuộc thế hệ thứ sáu. Con trưởng Nguyễn Huệ, mất sớm. Con thứ hai, Nguyễn Nghiễm, có 12 con trai, lập thành chi Giáp. Con thứ ba, Nguyễn Trọng, có 17 con trai, lập thành chi Ất. Ba người sau là Nguyễn Tín, Nguyễn Sĩ, Nguyễn Huyền đều có con cháu, nay lập thành hai chi

Page 153: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

153

Bính và Đinh. Theo tài liệu của GS Lê Thước thì vào năm 1960, con cháu toàn họ đại tôn có chừng 400 người. Đông nhất là chi Ất có gần 300 người, chi Giáp có chừng 60 người. Nhà thờ chi Giáp là nhà thờ cụ Nguyễn Nghiễm ở xóm Tiên Quang, nhà thờ chi Ất là nhà thờ cụ Nguyễn Trọng ở xóm Tiên Mỹ. Chi Bính thờ cụ Nguyễn Tín, chi Đinh thờ cụ Nguyễn Huyền. Còn các vị tổ từ đời thứ nhất (Nguyễn Nhiệm) đến đời thứ 5 (Nguyễn Quỳnh) thì cả bốn chi cùng thờ.

*

* *

Từ đời thứ sáu, tộc phả họ Nguyễn Tiên Điền mở ra một trang mới. Khoa cũng như hoạn, con cháu ở Tiên Điền có thể xứng với tổ tiên ở Cảo (Tảo) Dương – Cổ (Canh) Hoạch. Trong bài thơ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp “viết không gửi” cho Tiến sĩ Nguyễn Khản, có câu:

“… Hồng sơn dĩ bắc, Nghi Xuân địa Cổ lai khoa đệ công gia vinh…” (Về mé bắc núi Hồng là đất Nghi Xuân Xưa nay khoa bảng nhà ông hiển đạt nhất)

Quả vậy, trong vòng non 200 năm, từ giữa thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX, họ Nguyễn có tới 5 người đỗ đại khoa, 7 người là Hương cống - Cử nhân, và 7 người là tam tràng - tú tài.

Học giỏi, học rộng là nét nổi bật của nhiều người họ Nguyễn. Lĩnh Nam công Nguyễn Quỳnh (1675-?) “các môn thiên văn, địa lý, y học, bói toán, thuật nào cũng tinh thông” (“Nghi Xuân huyện thông chí”). Nguyễn Nghiễm (1708-1776) lúc bé được gọi là “Thần đồng”. Khi mới đi học, có người đến nhà uống nước, thốt lên: “Tảo thời ẩm trà nhất bất” (Buổi sớm uống một bát nước chè), ông ứng khẩu đọc: “Lai niên thự lộc thiên chung” (Sang năm hưởng lộc nghìn chung). Ai cũng lấy làm lạ. Lại khi anh em ông thụ giáo với Hồ công ở xã Hoa Viên, thầy ra vế đối: “Nguyễn Huệ, Nguyễn Nghiễm huynh đệ cập đệ” (Nguyễn Huệ Nguyễn Nghiễm anh em đều thi đỗ). Ông lấy tích chú cháu họ Sơ đời Hán, xin đối: “Sơ Quảng, Sơ Thụ phụ tử đồng triều” (Sơ Quảng sơ Thụ cha con (chú cũng như cha) cùng làm quan một triều). Mười ba tuổi, dự hạch ở huyện, ông đứng đầu…

Page 154: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

154

Và những lời của “Thần đồng”, về sau đều đúng. Con cháu của Nguyễn Nghiễm nhiều người học giỏi, đỗ sớm.

Nói chung, Tiên Điền là đất học, đất quan, nhưng cao khoa hiển hoạn chỉ có họ Nguyễn. Khoa thì có 5 tiến sĩ, hàng chục hương cống - Cử nhân, sinh đồ - tú tài; Hoạn thì chức đến Thượng thư, thăng Tư đồ, Tham tụng, Bồi tụng; Tham đốc, Đô chỉ huy lĩnh Trấn thủ, tước thảy công, hầu…, cha con, anh em đứng đầu trong Triều, ngoài quận thời Lê - Trịnh… Làm quan, có người cũng có chính tích tốt: Nguyễn Nghiễm thực hiện lập hộ tích trong toàn cõi, tổ chức hệ thống dịch trạm…; Nguyễn Khản khi làm việc ở Nghệ An, đã tâu xin dời dân Nghệ An ra Thanh Hoa khẩn hoang, mở cửa bể cho thuyền buôn ngoài vào bán lúa gạo, mở đường Quy Hợp lên Trấn Ninh, mở xưởng đúc tiền ở Vĩnh Dinh… Đời Tây Sơn, đời Nguyễn, anh em Nguyễn Nễ, Nguyễn Du đều có công đi sứ Trung Quốc…

*

* *

Nhưng người họ Nguyễn Tiên Điền không chỉ học để làm quan mà nhiều người chỉ học để làm thầy: Thầy thuốc, thầy giáo, thầy địa… Sở học của họ đã được đưa ra giúp đời, và tài năng nghề nghiệp của họ trở thành truyền thống lâu đời.

Tương truyền, lúc về Tiên Điền, Nam Dương công Nguyễn Nhiệm, vốn sành y dược, đã lấy nghề này làm kế sinh nhai. Cuối đời, ông đã để lại bộ sách “Nam Dương tập yếu kinh nguyên”. Con cháu ông nhiều người nối nghiệp nhà, trở thành danh y. Trong bài “Truyền thống tốt đẹp của họ Nguyễn Tiên Điền về mặt y học”, Giáo sư Lê Thước viết: “Họ Nguyễn Tiên Điền có nhiều quan to và nhiều thầy thuốc giỏi. Theo học thuyết cũ, “lương y” và “lương tướng” chỉ là một, chỉ khác một bên chữa bệnh cho người, một bên chữa bệnh cho nước. Sách cổ có câu: “Lương y y quốc, kỳ thứ y nhân”. Khá nhiều người con cháu họ Nguyễn Tiên Điền đã chọn nghề “y nhân” và kế nghiệp nhau làm nghề ấy, tạo nên một truyền thống y học lâu đời, với một quan niệm tốt đẹp “suy rộng các đức hiếu sinh của trời đất giúp dân chúng ở nơi không có lợi lộc gì” được ghi chép trong bài tựa đầu cuốn Nam Dương tập yếu kinh nguyên…”.

Lĩnh Nam công Nguyễn Quỳnh cùng con cháu ông nhiều người tinh

Page 155: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

155

thông y lý và giỏi chữa bệnh. Lam Khê hầu Nguyễn Trọng “sống cùng thời với Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, và nổi tiếng là một lương y, có công nghiên cứu về nhiều nghề thuốc, nhất là thuốc Nam” (Lê Thước - bài đã dẫn). Nguyễn Nghi “học giỏi, hay thơ, tinh nghề y thuật” (Gia phả), ở đỗ tại xã Châu Trần (Sơn Tây), được mọi người coi như bậc thầy. Nguyễn Nhưng cũng là thầy thuốc giỏi. Bà Nguyễn Thị Uyên, con gái Nguyễn Trước, gọi Nguyễn Du bằng chú ruột, “giỏi thuốc, được vua Gia Long tuyển vào cung. Sau bà về quê mẹ ở huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh và mất ở đó lúc 49 tuổi. Còn về “Thánh y” Nguyễn Cảnh, GS Lê Thước (trong BĐD), viết: “Người kế nghiệp đáng kể nhất của các danh y nói trên của họ Nguyễn Tiên Điền là Nguyễn Cảnh mà nhà thơ Nguyễn Hành đã khen là có tài “lương tướng”. Cụ thuộc chi 6 về dòng dõi Nguyễn Huyền con trai thứ 6 của Lĩnh Nam công Nguyễn Quỳnh. Cụ Nguyễn Cảnh, hiệu Vô Ngu, thuộc đời thứ 8 kể từ Nam Dương công. Cụ học rộng, hay thơ, nhưng không thích làm quan, thường cùng các bạn ngâm vịnh làm vui. Cụ cố chí sưu tầm các sách y học, không quyển nào là không đọc kỹ, lại theo học thuốc với bác họ là Nguyễn Nhưng (đời thứ 7, con thứ 10 của Nguyễn Nghiễm) để hỏi về những điểm mà cụ còn nghi ngờ. Về cách dùng thuốc, cụ ứng biến rất tài tình, và đã cứu sống được rất nhiều bệnh nhân, nên người ta gọi thuốc của cụ là “Thuốc Thánh”. Trong nhà, ở cạnh bàn ngồi, cụ thường dán câu đối:

Tự gia tố định quân thần phận, Vô vị nhi tham tạo hóa quyền.

Nghĩa là: Ngồi ở trong nhà cũng định rõ phận vua tôi (Do trong đơn thuốc bao giờ cũng có các vị thuốc đóng vai trò Quân, Thần, Tá, Sứ) - Không ngôi vị mà vẫn thay quyền tạo hóa (do thầy thuốc có thể cải tử hoàn sinh hoặc làm bệnh nhân chết oan)60. Đến thế kỷ XX, nhiều người họ Nguyễn vẫn là thầy thuốc.

Dạy học cũng là một “nghề” truyền thống của họ Nguyễn. Cũng như

60 Bài của GS Lê Thước do ông Nguyễn Khắc Bảo công bố trên T.C Văn hóa Nghệ An số 71 (25/2/2006) trả lời mấy ý thắc mắc của tôi về Thánh y Nguyễn Cảnh – Nhân đây xin có lời cảm ơn ông Nguyễn Khắc Bảo.

Page 156: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

156

mọi nho sĩ khác, hầu hết các nhà khoa bảng, học trò thi… người họ Nguyễn đều có ít nhiều thời gian dạy học. Đặc biệt, Hoàng Giáp Nguyễn Nghiễm là nhà giáo dục nổi tiếng, đào tạo hàng chục nhà khoa bảng, trong đó có Tiến sĩ Ngô Phúc Lâm, Hương cống Nguyễn Thiếp. Ông lại giữ chức Nhập nội kinh diên và con trai Nguyễn Khản làm Tả tư giảng, thầy học của vua Lê, chúa Trịnh. Con cháu ông cũng nhiều người nổi tiếng. Nguyễn Nhưng, đỗ Hương cống rồi về nhà “mở trường dạy học hơn mười năm”. Đời Tây Sơn, ông ra làm Tri huyện Nghi Xuân, đến đời Nguyễn Gia Long lại xin nghỉ, “lấy việc dạy học và bốc thuốc làm vui” (Gia phả). Ở chi Ất, có Nguyễn Đăng, cháu nội Lam Khê hầu Nguyễn Trọng, đi thi hương không đỗ, về “mở trường dạy học trò, người làng rất quý trọng”. Con Nguyễn Đăng là Nguyễn Tùng, cũng thi hương không đỗ, nhà nghèo, ở nhà “dạy học, làm thuốc, làm địa lý, bói toán…” (Gia phả).

Cũng cần biết thêm, về địa lý thì vị tổ đời thứ 5 Nguyễn Quỳnh, mới là người nổi tiếng. Ông đi chơi, cứu một Bắc khách thoát nạn khi thuyền ông ta bị bão… Người này vốn thuộc một dòng họ có thuật địa lý bí huyền… triều nhà Tống xưa, tên là Ngô Cảnh Phượng. Nhà địa lý này cảm công ơn của ông, bèn truyền thụ cho ông mọi phép bí truyền về thuật phong thủy của dòng họ mình. Do đó, ông càng tinh thông địa thuật. Mồ mả phát tích của họ Nguyễn hầu hết đều tự ông chọn đất, lập hướng. Ông lại viết thành quyển “Đại hiếu chân kinh” phát minh rõ hơn những cái uẩn áo của họ Ngô” (Nghi Xuân huyện thông chí” - SĐD).

Nhưng đóng góp lớn nhất cho văn hóa dân tộc là những trước tác của người họ Nguyễn. Đó là bộ sách thuốc “Nam Dương tập yếu kinh nguyên”61 của vị sơ tổ Nguyễn Nhiệm. Lĩnh Nam công Nguyễn Quỳnh, ngoài bộ “Đại hiếu chân kinh”, còn có “Từ ấu chân thuyên” (4) và “Dịch kinh quyết nghị” gồm 15 quyển, soạn lúc 60 tuổi (1734). Nguyễn Nghiễm là nhà văn lại là nhà sử học uyên bác. Bộ “Việt sử bị lãm” 7 quyển của ông được Phan Huy Chú đánh giá “bình luận tinh khiết, gọn đúng, được khen là danh bút” (Lịch triều hiến chương - Văn tịch chí). Ông còn có “Lạng Sơn

61 Về sau, Nguyễn Nhưng đề tựa bộ “Nam Dương tập yếu kinh nguyên” và tham khảo bộ “Từ ấu chân thuyên” hợp thành một quyền đem truyền bá.

Page 157: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

157

đoàn thành đồ chí”. Loại sách ghi chép về nhiều môn còn có “Huyền cơ đạo thuật bí thư” (triết học, của Nguyễn Thiện), “Thiên địa nhân vật sự” (của Nguyễn Hành) v.v.. Họ Nguyễn còn có Nguyễn Ức tinh thông nghề kiến trúc, được cử làm Thiêm sự bộ Công, giám đốc việc xây dựng cung điện ở Huế; Nguyễn Thảng có tài viết chữ (thư). Hầu hết các liễn đối trong cung điện Huế và nhiều đền miếu đều là chữ viết của ông.

Đặc biệt, họ Nguyễn có nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng trong nước, để lại những tác phẩm được người đời truyền tụng: Nguyễn Nghiễm có “Cổ lễ nhạc chương thi văn tập”, “Quân trung liên vịnh”, “Khổng tử mộng Chu công” (phú); Nguyễn Khản có “Diễn âm Chinh phụ ngâm”, “Tự tình khúc”… Ông là người giỏi quốc âm, viết nhiều bài hát ca trù, lưu truyền ở kinh thành Thăng Long; Nguyễn Nễ (Đề) cũng là nhà thơ có tiếng với “Quyến Hiên giáp ất tập” và “Hoa trình tiêu khiển tập”; Nguyễn Nghi để lại “Châu Kiều di cảo”. Anh em Nguyễn Thiện, Nguyễn Hành (con Nguyễn Điều) là hai nhà thơ lớn. Nguyễn Thiện là tác giả “Đông Phủ thi tập” và là người nhuận sắc “Truyện Hoa tiên” của Nguyễn Huy Tự (bản hiện lưu hành). Nguyễn Hành với “Minh quyên phổ” và “Quan hải tập” (hay “Quan Đông hải”) cùng chú ruột, Nguyễn Du là hai trong “An Nam ngũ tuyệt” đương thời. Và người làm rạng rỡ nhất cho họ Nguyễn Tiên Điền, cho cả dân tộc Việt Nam, là Nguyễn Du, với “Thanh Hiên tiền, hậu tập”, “Bắc hành tạp lục”, “Nam Trung tạp ngâm”, với “Sinh tế Tràng Lưu nhi nữ văn”, “Văn tế Thập loại chúng sinh” (“Văn chiêu hồn”) và truyện Nôm “Đoạn trường tân thanh”, tức “Truyện Kiều” bất hủ.

HỌ NGUYỄN TRÀNG LƯU

Tương truyền, vùng đất phía đông Rú Xanh (Trà Sơn) giữa Rú Bụt và Rú Cài, thời xa xưa là cái lòng chảo, mùa mưa nước ngập băng vời, về sau bồi lấp dần, chỉ còn lại con ngòi đổ xuống rào Nhe, có tên Phúc Giang. Bên Phúc Giang là mấy xóm nhỏ: Kẻ Trằng, kẻ Đò, kẻ Vạc (về sau quen gọi làng). Gia phả họ Nguyễn cũng ghi lại lời truyền rằng vị tổ họ này là Nguyễn Uyên Hậu người quận Trần Lưu phương Bắc về định cư tại kẻ Trằng vào thế kỷ XV. Ông thấy vùng ven dãy đồi Phượng Lĩnh, bên kẻ Bỉn (thuộc làng Đông Tây) địa thế đẹp đẽ, cao ráo, bèn bàn với dân làng dời lên ở đó, người ta cũng nói rằng tên làng Tràng Lưu là ghép tiếng “Tràng”

Page 158: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

158

(kẻ Trằng) với “Lưu” trong Trần Lưu quận, quê cũ ông Uyên Hậu… Tràng Lưu (sau quen đọc Trường Lưu) thuộc tổng Lai Thạch, huyện La Sơn (từ 1921 là huyện Can Lộc), nay nằm trong xã Trường Lộc.

Nguyễn Uyên Hậu, tên thụy Dụ Khánh, đỗ Ngũ kinh bác sĩ đời Lê Hồng Đức (1470-1497)62, là người mở đầu việc học hành ở Tràng Lưu. Sau ông về Bắc quốc, dặn lấy ngày đông chí làm ngày giỗ, vì vậy nhà thờ họ Nguyễn Tràng Lưu (thờ ông cùng bốn đời kế tiếp ngành trưởng) gọi là nhà thờ họ Đông Chí63.

Con cháu ông Uyên Hậu, từ đời thứ hai đến đời thứ chín đều có nhiều người học hành đỗ đạt. Nguyễn Hàm Hằng, con trai ông, 15 tuổi đã đỗ Hương cống, 16 tuổi thi hội vào tam trường làm giáo quan ở Quốc tử giám. Con thứ Nguyễn Hàm Hằng là Nguyễn Thừa Nghiệp cũng đỗ Hương cống, vào tam trường hội thí. Mấy đời sau, nhiều người là hiệu sinh, nhiều người đỗ Hương cống. Đời thứ sáu có anh em Nguyễn Đôn Hậu đỗ Hương cống, tạp chức Tham tướng thần sự (?), Nguyễn Như Thạch (1579-1662) đỗ Hương giải năm 1602, làm đến Lang trung bộ Hình. Đời thứ bảy có Nguyễn Công Ban (1630-1711) đỗ thi hương và đỗ khoa sĩ vọng (1665), làm đến Giám sát ngự sử, tước Thái Sơn nam, về trí sĩ. Đời thứ tám có

62 Theo nhiều sách viết về khoa cử xưa đều ghi: Năm Ất mão (1075) vua Lý Nhân Tông cho mở khoa thi Nho học tam trường đầu tiên, gọi là khoa Minh kinh, người đỗ được ban danh hiệu Minh kinh bác sĩ (người học rộng, thông hiểu kinh sử). Vua Lê Thái Tổ cũng mở khoa thi Minh kinh vào năm 1429, chọn người tinh thông kinh sử, năm 1431 lại mở khoa Hoành từ lấy người văn hay học rộng bổ làm quan. Sau đó, bắt quan văn, võ từ tứ phẩm trở xuống phải thi khoa Minh kinh, văn thi kinh sử, võ thi võ kinh, ở lộ cũng thi Minh kinh cho người ẩn dật, để chọn nhân tài. Sách Lịch triều hiến chương loại chí thì chép trong mục “Quan chức chí”: Ở Quốc tử giám đời Lê có các chức Tế tửu, Trực giảng, Bác sĩ, Giáo thụ. Đời Hồng Đức lại đặt thêm chức Ngũ kinh bác sĩ thuộc Quốc tử giám, thời (Lê) trung hưng về sau, bãi chức Ngũ kinh bác sĩ. Như vậy, có thể ông Uyên Hậu đã đỗ Hương cống (?) làm quan (dưới tứ phẩm) hoặc đang là dật sĩ ở lộ Nghệ An, thi trúng khoa Minh kinh, làm đến chức Ngũ kinh bác sĩ ở Quốc tử giám. 63 Trong các bài viết, GS.VS Nguyễn Huy Mỹ cho biết: Trong thời gian làm quan các cụ Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Tự đã cố gắng tìm lai lịch cụ Uyên Hậu, nhưng đều không có kết quả. Cụ Huy Oánh đi sứ Trung Quốc, lần hỏi, thì lại được chỉ dẫn rằng gốc tích họ Nguyễn là ở phương Nam. Vì vậy đến nay con cháu vẫn chưa rõ thân thế và sự nghiệp của cụ.

Page 159: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

159

Nguyễn Công Chất, đỗ Giải nguyên (1675), làm Tri huyện Thạch Hà. Đời thứ chín có anh em Nguyễn Công Xuân (1688-?), đỗ Hương cống làm Đồng nhạc đường Mậu lâm lang, Nguyễn Huy Tựu (1690-1750) đỗ Hương giải, làm Tham chính Thái Nguyên, Tả thị lang, sau khi mất được tặng Công bộ Thượng thư, tước Khiết Nhã hầu. Ngoài ra, con cháu Nguyễn Thừa Cẩn (đời thứ ba) dời sang làng Mật Thiết, lập chi họ Nguyễn Khắc, có Nguyễn Khắc Phục tước Nhân Thọ hầu; Nguyễn Khắc Khoan tước Thắng Lộc hầu; Nguyễn Thừa Hưu (đời thứ năm) là hiệu sinh, làm Tham tướng thần sự (?); Đời thứ tám có Nguyễn Công Phác (1649-1706) được ban tiến triều, làm đến Đông các đại học sĩ, tước Lộc Thọ nam, và Nguyễn Công Trân làm Tri châu.

Từ Nguyễn Huy Tựu, tổ đời thứ chín, họ Nguyễn Công đổi thành Nguyễn Huy, và mở ra một thời kỳ mới của dòng họ Nguyễn Tràng Lưu. Ông có năm con trai và một con nuôi, đều thành đạt: Con trưởng Nguyễn Huy Oánh (1713-1789) đỗ đầu thi hương, rồi đỗ Thám hoa lúc 38 tuổi, làm quan qua các chức Tri phủ, Hàn lâm viện thị chế, đến Quốc tử giám tư nghiệp, Hàn lâm viện thừa chỉ, đi sứ nhà Thanh về thăng Thị lang, Ngự sử đài đô ngự sử rồi Thượng thư bộ Công, trí sĩ; Nguyễn Huy Cự (1707-1775) đỗ Hương giải, tước Ngật đình bá; Nguyễn Huy Kiên, Hương giải, Thiêm sự bộ Lại; Nguyễn Huy Quýnh (1734-1785), đỗ Tiến sĩ, làm Đốc thị đạo Quảng Thuận, Hàn Lâm viện thị giảng; Nguyễn Huy Khản, Hương cống; con nuôi là Nguyễn Huy Đại, làm Phó sứ đồn điền, tặng tước Hầu.

Hàng cháu (thế hệ 11), có Nguyễn Huy Tự (1713-1790) đỗ thi hương năm 17 tuổi, thi hội liên trúng tam trường, được ban tiến triều ứng vụ, coi ngang Tiến sĩ, làm Thị nội văn chức thăng đến Hiến sát phó sứ, chuyển sang võ ban, làm Quản binh, Trấn thủ Hưng Hóa, Đốc đồng, tước Uẩn đình hầu, về sau vào Thuận Hóa, làm Hữu tham tri bộ Binh triều Tây Sơn, nhưng bao lâu thì mất. Em Nguyễn Huy Tự có Nguyễn Huy Lạng và Nguyễn Huy Tá đỗ Hương cống, Huy Tá làm Đốc học Bắc Ninh, Phó đốc học Quốc tử giám, tước Thư đình hầu. Những người khác đều tập ấm Triều liệt đại phu. Con Nguyễn Huy Quýnh có Nguyễn Huy Hào (1770-?) đỗ Hương cống làm Tri huyện Tiên Lữ.

Thế hệ 12, con Nguyễn Huy Tự có Nguyễn Huy Hội hay Huy Phó

Page 160: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

160

(1765-1838) đỗ giải nguyên năm 1783. Những người khác đều là nho sinh, tập tước Hiển cung đại phu. Riêng Nguyễn Huy Tượng (trưởng) được phong tước Lai lĩnh bá, Nguyễn Huy Vinh (thứ) tước Trà lĩnh bá, và Nguyễn Huy Hổ (1783-1841), giỏi y thuật, thiên văn, được vua Minh mệnh triệu vào làm thuốc trong cung, nhân ông chỉ trích Tòa khâm thiên giám tính sai, nghiệm ra ý kiến ông đúng nên được phong Linh đài lang. Con Nguyễn Huy Hào là Nguyễn Huy Giáp đỗ Cử nhân năm 1837 đời Minh Mệnh. Từ đây con cháu họ Nguyễn Huy đều được học hành và có nhiều người giỏi, nhưng không ai đỗ đạt.

Họ Nguyễn Tràng Lưu, từ vị sơ tổ Nguyễn Uyên Hậu (TK XV) đến nay đã 19-20 đời là dòng họ đông nhất trong 40 dòng họ ở Trường Lộc hiện nay. Ngoài các chi phái ở quê gốc, còn có nhiều chi phái ở các nơi khác.

Ở Trường Lộc có 20 nhà thờ các chi phái họ Nguyễn Huy, trong đó có một số nhà thờ họ Đông Chí là di tích lịch sử văn hóa quốc gia, một số được dân tôn là Thành Hoàng nên cũng là đền thờ Thành Hoàng làng v.v…

Cũng như một số cự tộc văn học khác, họ Nguyễn Tràng Lưu có rất nhiều người không chỉ uyên thâm Nho học mà còn có tài năng về nhiều mặt. Nguyễn Huy Oánh “… đọc bách gia chư tử, bao gồm thiên văn, địa lý, thái ất, nhâm, cầm, độn, toán, binh thư, binh pháp, không sách nào là không tinh tường, thông suốt nghĩa lý…” (“Can Lộc huyện phong thổ ký”). Nguyễn Huy Tự là một “thiếu niên đa tài nghệ” (Nguyễn Nghiễm), “đọc rộng, biết nhiều, tinh thông cả thư, họa, thanh luật, thạo phép dùng binh, giỏi việc án từ…” (“Nguyễn thị gia tàng”), “học suốt cổ kim, ưu thông số thuật, quốc âm, thanh luật, kỹ nghệ gì cũng tinh tuyệt” (“Hành trạng”). Nguyễn Huy Hổ giỏi làm thuốc, thông hiểu thiên văn, địa lý.

*

* *

Sự nghiệp lớn nhất, cũng là công tích lớn nhất của họ Nguyễn Tràng Lưu là dạy học và trước tác.

Vị tổ sáng nghiệp Nguyễn Uyên Hậu là một nhà giáo, giữ chức Ngũ kinh bác sĩ ở Quốc tử giám Thăng Long. Con cháu ông, đời nối đời đều có nhiều người làm nghề dạy học, và nhiều người nổi tiếng trong xứ, trong

Page 161: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

161

nước. Có người mở trường ở một vùng quê như hiệu sinh Nguyễn Thừa Tổ, Chung Sơn cư sĩ Nguyễn Huy Vinh… Có người là học quan như Hương cống Nguyễn Hàm Hằng, dạy ở Quốc tử giám, Hương cống Nguyễn Huy Tá, làm Đốc học Bắc Ninh, rồi được triệu lên làm việc ở Quốc tử giám. Đặc biệt, Thám hoa Nguyễn Huy Oánh có thời gian từng làm gia sư trong các phủ đệ họ Trịnh, làm A bảo dạy Thế tử, về sau lại làm Quốc tử Giám Tư nghiệp kiêm Nhập nội Thị giảng cùng con trai Nguyễn Huy Tự làm Thị nội văn chức tùy giảng ở phủ Lương Vương.

Nguyễn Huy Oánh là nhà giáo dục lỗi lạc, “học không chán, dạy không mỏi” (Câu đối tặng của Hiệp trấn họ Giác - Trung Hoa), là học giả cự phách, “văn chương mực thước” (Lời Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm), là nhà trước tác lớn trong dòng “Bách khoa thư” thế kỷ XVIII. Ông để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ gần 40 quyển sách: “Ngũ kinh, Tứ thư toản yếu” (15 quyển), “Tính lý toản yếu” (1 quyển), “Quốc sử toản yếu” (1 quyển), “Sơ học chỉ nam” (1 quyển), “Châm cứu toát yếu” (1 quyển), “Trường Lưu Nguyễn Thị” (10 quyển), “Hoàng hoa sứ trình đồ” (2 quyển), “Bắc dư tập lãm” (1 quyển), “Phụng sứ Yên kinh tổng ca” (1 quyển), “Tiêu Tương bách vịnh” (1 quyển), “Thạc Đình di cảo” (2 quyển), “Huấn nữ tử ca” (1 quyển). Tiếc rằng hầu hết tác phẩm trên đều đã thất truyền64.

Sau Nguyễn Huy Oánh là Nguyễn Huy Quýnh (em trai ông), Nguyễn Huy Tự (con trưởng) và Nguyễn Huy Vinh, Nguyễn Huy Hổ (hai cháu nội) được coi là các tác giả tiêu biểu trong dòng họ. Nguyễn Huy Quýnh hiệu Dần Phong có “Dần phong thi sao” (4 quyển), “Dần phong văn sao” (3 quyển), “Tây Hưng đạo sử tập” (đều không còn), “Quảng Thuận đạo sử

64 Trong “Tuyển tập thơ văn Nguyễn Huy Oánh” (NXB Hội nhà văn, H.2005), ông Lại Văn Hùng cho biết ở Thư viện Viện Hán Nôm và gia đình họ Nguyễn Huy còn lưu giữ được 8 cuốn (“Bắc dư tập lãm”, “Hoàng hoa sứ trình đồ”, “Phụng sứ Yên Kinh tổng ca”, “Sơ học chỉ nam”, “Quốc sử toản yếu”, “Huấn nữ tử ca”, “Dược tính ca quát”, “Thạc Đình di cảo”). Sách “Lược truyện các tác gia Việt Nam” (Tập I - KHXH - H.1971) ghi 5 tên sách, và “Tác gia Hán Nôm Nghệ Tĩnh” (của Thái Kim Đỉnh, Thư viện Hà Tĩnh xuất bản, 1996) ghi 8 tên sách trong đó đều có tên sách “Cổ lễ nhạc chương thi văn tập”. Trong bài “Về bộ ván khắc của Thạch đình tàng bản lưu giữ tại nhà thờ họ Nguyễn Tràng Lưu” (TKĐ-TC Hồng Lĩnh số 33 8/2006) chỉ giới thiệu hai bộ “tính lý toản yếu đại toàn” và “Ngũ kinh toản yếu đại toàn”, và nói không thấy có “Tứ thư” trong bộ ván khắc.

Page 162: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

162

tập” và bài “Thác lời người con gái phường vải Tràng Lưu”65. Về Nguyễn Huy Tự, trước kia chỉ có sách “Lai Thạch tân khoa ký” (chưa rõ của ai) chép: “Ông sở trước khá nhiều, (nhưng) chỉ còn “Truyện Hoa tiên”… và chép tiếp: “Tây Hưng đạo sứ tập”, “Quảng Thuận đạo dư tập”66. Hai người con của Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Vinh để lại tập “Chung sơn di thảo”, và Nguyễn Huy Hổ là tác giả “Mai đình mộng ký”.

Sau các tác giả lừng danh trên, họ Nguyễn Tràng Lưu còn nhiều nhà thơ, nhà văn, tiếc rằng tác phẩm của họ truyền lại quá ít ỏi: “Nữ huấn ca” của Nguyễn Huy Phó; “Mai đình mộng ký thi” của Nguyễn Huy Hào; “Phượng Dương Nguyễn tông thế phả tự” của Nguyễn Huy Giáp, một người “nổi tiếng văn hay”; “Tràng Lưu giai sự vịnh” của Nguyễn Huy Cừ (thế hệ XV) v.v…

Ngoài thơ văn chữ Hán, nhiều tác giả Nguyễn Tràng Lưu rất sành văn Nôm, trong đó có những danh tác như ta đã biết, hầu hết viết bằng thơ lục bát. Đặc biệt, Nguyễn Huy Oánh đã dùng hình thức dân tộc này viết nên những bài ca chữ Hán (“Phụng sứ Yên kinh tổng ca” 470 câu; “Dược tính ca quát” 234 câu).

HỌ HOÀNG BÌNH LỖ

Bình Lỗ là tên đời Lê của đơn vị cư dân - hành chính Ba Lỗ đời Trần, tục gọi Kẻ Trổ (Blỗ), kề với Bà Hồ - Bình Hồ, phía đông Bắc huyện Chi La - La Giang - La Sơn phủ Đức Giang. Đời Nguyễn, Bình Lỗ chia làm hai thôn Yên Thọ, Nhân Thọ; Bình Lỗ đổi thành xã Yên Hồ, cũng có hai thôn, Nội Diên, Yên Phúc, đều thuộc tổng Yên Hồ, huyện La Sơn phủ Đức Thọ,

65 Theo Nguyễn Huy Mỹ - VHHT số 74 - 9/2004. Trong sách “Nguyễn Huy Vinh với “Chung sơn di thảo” (NXB Hội nhà văn - 2005), ông Lại Văn Hùng đặt vấn đề: “Có thể “Thác lời người con gái phường vải…” là của Nguyễn Huy Vinh”. 66 Như vậy, hai nguồn tài liệu chép khác nhau về hai cuốn “Tây Hưng đạo…” và “Quảng Thuận đạo…” mà NHM ghi “sử tập” còn LTTKK chép “sứ tập” và “dư tập”. Theo tôi, cuốn “Quảng Thuận đạo sử tập” (hay “dư tập (?) chắc chắn là của Nguyễn Huy Quýnh vì ông từng làm Đốc thị đạo Quảng, Thuận và sách hiện còn ở Thư viện Hán Nôm; còn cuốn “Tây Hưng đạo sứ tập” là của Nguyễn Huy Tự vì ông làm Trấn thủ Hưng Hóa rồi Đốc đồng Sơn Tây, Hưng Hóa, và có thể đây là một tập thơ (?).

Page 163: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

163

nay là các xã Đức Nhân và Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

Theo “Bình Lỗ Hoàng tộc phổ” (Gia phổ họ Hoàng Kẻ Trổ) - “Hoàng Xuân Hãn toát yếu” (bản chép tay)67 thì vị tổ đầu tiên Hoàng Viết Nghiêu từng dự Tú lâm cục vốn người Thanh Hoa và là con trưởng gia đình, thấy đất Kẻ Trổ thuộc Chi La có thế đẹp nên đã chuyển cư về đây vào cuối đời Trần (trước 1400).

Vị tổ đời thứ hai, không chép tên, “là người khảng khái hiếu nghĩa, mắng thẳng quân Minh, lòng muốn giữ nhà Trần” nên bị chúng giết hại. Con trai ông, tổ đời thứ ba, cũng không chép tên, phải bỏ làng chạy vào núi trốn tránh cho đến lúc quân Minh bị đánh đuổi khỏi đất nước ta. Có thể ông là lớp bày vai với nghĩa sĩ Nguyễn Biểu (?-1413) ở xã Yên Hồ. Như vậy, từ nhiều đời, họ Hoàng đã là một dòng họ thư hương.

Đời thứ tư có Hoàng Kỳ Giang, đỗ Hương cống, thi Hội vào tam trường, Hoàng Trừng, tên tự Nhất Thanh, hiệu Lỗ Hiên, tổ đời thứ năm, là cháu ngoại Thái học sinh Nguyễn Biểu. Ông học giỏi nổi tiếng văn hay, ở Thăng Long có câu truyền “Bánh dẻo như văn Hoàng Trừng”. Khoa Kỷ mùi năm Cảnh Thống thứ 2 đời Lê Hiến Tông (1499), ông đỗ Nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp), làm quan đến Đông các, Lễ bộ Tả thị lang, rồi xin về nghỉ ở quê nhà, phụng dưỡng mẹ già. Là một người có văn tài, nhưng nay tác phẩm của ông chỉ còn hai bài thơ “Đề Nghĩa sĩ từ đường”, “Trí thức khứ thuật ý, tăng hữu nhân” chép trong sách “Hoàng Việt thi tuyển” (Hoàng giáp Bùi Huy Bích biên soạn) và “Nghĩa sĩ truyện” (Truyện Nghĩa sĩ Nguyễn Biểu), một bài văn có giá trị lịch sử cao, mà những bài viết về Nguyễn Biểu sau đó đều lấy làm tài liệu gốc.

Họ Hoàng chỉ có Hoàng Trừng đỗ đại khoa nhưng rất nhiều người đỗ Hương khoa. Ngoài Hoàng Kỳ Giang (đời thứ 4) đã nói trên, còn có Hoàng Hậu Đức (đời thứ 9) đỗ đầu thi Hương, trúng tam trường thi Hội nhiều lần, làm quan ở phủ chúa Trịnh, “tiến kế hoạch lạ tuyệt nên được ban ơn cực hậu”. Hoàng Thủy Hạo (đời thứ 10) đỗ Tam trường thi Hội lại đỗ khoa

67 Vũ Tuấn Sán - “Về tập sách viết tay “Gia phổ họ Hoàng Kẻ Trổ” của Hoàng Xuân Hãn” in trong “La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn - Con người và trước tác” - Tập I - Trang 232 - 239 -NXB Giáo dục - H.1998.

Page 164: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

164

Hoành từ. Hoàng Dư Dụ tức Hoành Dật (đời thứ 11) cũng đỗ tam trường thi Hội rồi đỗ khoa Hoành từ, làm Tri huyện Thanh Giang (Thanh Chương, Nghệ An). Tính tình phóng khoáng, ông từ quan về ẩn tại làng Bào Khê, huyện Thiên Lộc (sau là làng Gia Hanh, nay là xã Nhân Lộc, huyện Can Lộc) mở trại ở núi Canh Sơn, “dạy học trò có trăm người, nhiều người thành tựu” (“La Sơn phu tử” - NXB Minh Tân, Paris). Ông hay chữ, “sách gì cũng đọc, thuật gì cũng hay” (SĐD). Lúc thi Hoành từ, có bài phú “Hoa điểu tranh kỳ” nổi tiếng, được lấy đỗ đầu. Lúc về ở ẩn lại có bài phú “Sơn cư tự tự” hay “Tịch cư ninh thể”. Tiếc rằng tác phẩm của ông đều thất truyền. Về sau, khoảng năm Ất sửu (1745) La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp qua sơn trại của ông có bài thơ hoài cảm với câu kết:

“Khả liên Thánh viễn kinh tàn hậu, Đa thiểu tài hoa lão cức trường” (Thương thay, sau khi Thánh khuất, sách tàn, Bao bậc tài hoa chết già trong đám gai gốc).

Ngoài ra còn có Hoàng Nhân Xuyên (đời thứ 10), Hoàng Viết Thụy (đời thứ 12) đỗ thi hương, và Hoàng Minh Động (đời thứ 11) thi hương vào tam trường.

Đời Nguyễn, họ Hoàng có hai người đỗ cử nhân: “Hoàng Xuân Phong (Đời thứ 16) đỗ khoa Mậu ngọ, năm Tự Đức thứ 11 (1858) làm Tri phủ Kiến Thụy, thăng Án sát rồi Tuần phủ”.

Hoàng Xuân Viên (các sách đều phiên là Hoàng Xuân Quyên) đỗ khoa Ất mão, năm Duy Tân thứ 9 (1915) tại trường Bình Định, lúc 22 tuổi, bổ Bát phẩm ở Nghệ An, thăng đến Bố chánh. Sau cách mạng tháng tám 1945, ông tham gia kháng chiến, được cử làm ủy viên UBHC huyện Đức Thọ, Ủy viên UBHC tỉnh Hà Tĩnh.

Bên những nhà khoa bảng, dưới triều Lê-Trịnh, họ Hoàng còn có nhiều võ tướng. Người mở đầu võ nghiệp là Hoàng Xuân Phái (đời thứ 7). Ông ứng nghĩa đầu quân, theo Nguyễn Kim phò Lê Trang Tông đánh nhà Mạc.

Con trai thứ hai ông Phái là Hoàng Thiện Phúc có tài bắn giỏi, được phong Thụ quốc thượng tướng quân. Con trai Thiện Phúc là Hoàng Hậu Đức, theo nghiệp văn, làm quan ở phủ chúa Trịnh, sau sang võ ban, được

Page 165: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

165

cử giữ chức Tổng binh thiêm sự ở ty Đô tổng binh Nghệ An.

Làm thuốc và dạy học cũng là những nghề mà họ Hoàng có nhiều người giỏi. Hoàng Nhân Xuyên, làm Huấn đạo, xin từ chức về hầu mẹ già, làm thuốc. Ông còn thích cả nghề phù thủy, âm nhạc. Nhà giáo nổi tiếng có Hoàng Dư Dụ, tức Hoàng Dật (đời thứ 11). Đời thứ 11 còn có Hoàng Minh Động, nhiều lần trúng tam trường thi hương, chuyên làm thuốc. Con trai ông, Hoàng Viết Thụy, đỗ thi hương, ở nhà dạy học và làm thuốc, nổi tiếng trong vùng. Hoàng Tiến hiệu Khoan Nhã (đời thứ 13, chi C) học nho, làm Huyện thặng (thường gọi Huyện thừa) cũng xin nghỉ về làm thuốc. Đời thứ 18 còn có Cử nhân Hoàng Xuân Viên, lúc về hưu, trở thành thầy thuốc có tiếng ở Thành phố Vinh.

Trên đây là những con người tiêu biểu của họ Hoàng từ khởi thủy đến cuối đời Hán học (TK XV - đầu TK XX).

Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX thời Hán học chi Yên Hồ có hai Cử nhân (Hoàng Xuân Phong, Hoàng Xuân Viên) và một tú tài (Hoàng Xuân Úc).

Từ thế hệ thứ XVIII trở xuống, chuyển sang Tây học, tân học, chi họ này càng nhiều người thành đạt, có nhiều người nổi tiếng trong, ngoài nước. Đặc biệt, phần lớn trí thức trong chi họ này đều là nhà khoa học: Về y học, hóa học có GSTS y khoa Hoàng Xuân Mãn, giám đốc chuyên môn bệnh viện nhãn khoa hàng đầu của Pháp ở Paris. Ông cũng là Chủ tịch đầu tiên của Hội Việt kiều ở Pháp (1946). Các lớp sau có nhiều giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ khác. Về văn hóa, giáo dục có: GS. Hoàng Xuân Nhị (1914-1990) tốt nghiệp Đại học Sorbonne và khoa Trung văn, Viện ngôn ngữ và văn minh phương Đông, Paris, về nước năm 1946, làm Giám đốc Viện Văn hóa kháng chiến và Sở Giáo dục Nam bộ, Ủy viên UBKC - HC Nam bộ; sau 1954 dạy tại Trường Đại học tổng hợp Hà Nội. Ông để lại nhiều công trình nghiên cứu, biên soạn về văn học cổ kim Việt Nam, lịch sử văn học Nga, Liên Xô và nhiều giáo trình văn học); PGS Hoàng Xuân Chinh (Tốt nghiệp Đại học sư phạm Hà Nội, và khoa khảo cổ học Đại học Bắc Kinh, Trung Quốc, làm Phó Viện trưởng rồi quyền Viện trưởng Viện khảo cổ học Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu khảo cổ học) v.v… Và tiêu biểu nhất là nhà bác học, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908-1996). Du học ở Pháp,

Page 166: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

166

học ở các Trường Lớn (Grandes Ecoles), ông đỗ kỹ sư cầu cống và Thạc sĩ toán học. Năm 1936 ông về nước, dạy Toán học ở Trường Bưởi và dạy Cơ học tại Đại học khoa học Hà Nội; năm 1945 tham gia Chính phủ Trần Trọng Kim, làm Bộ trưởng Giáo dục - Mỹ thuật; năm 1946 là thành viên của Chính phủ VNDCCH, tham dự hội nghị Đà Lạt. Năm 1951, ông trở sang Pháp học tiếp và lại tốt nghiệp kỹ sư năng lượng nguyên tử tại Học viện quốc gia khoa học và kỹ thuật hạt nhân Pháp rồi định cư ở đây cho đến lúc mất. Bà Hoàng Xuân Hãn, nhũ danh Nguyễn Thị Bính, tốt nghiệp dược sĩ ở Pháp về mở hiệu thuốc ở phố Tràng Tiền, là nơi đi lại của cán bộ kháng chiến. Là Nhà giáo dục, nhà văn hóa lớn, Hoàng Xuân Hãn để lại một khối lượng công trình nghiên cứu đồ sộ, trong đó có bộ “Danh từ khoa học” (bắt đầu soạn từ khi còn học ở Pháp, xuất bản 1942), “Lý Thường Kiệt” (1949), “La Sơn phu tử” (1952), “Chinh phụ ngâm bị khảo” (1953-1955), “Lịch và Lịch Việt Nam”… và rất nhiều công trình khảo cứu khoa học, lịch sử, văn học khác. “Phương pháp mới dạy chữ quốc ngữ” (lúc tham gia Hội truyền bá Quốc ngữ - 1936-1939) và “Chương trình Trung học” (lúc làm Bộ trưởng GD-MT, 1945) cũng như “Danh từ khoa học”, là những sáng tạo mà lịch sử Văn hóa - Giáo dục nước nhà phải ghi nhận. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn được Nhà nước Việt Nam tặng Huân chương Độc lập.

HỌ NGÔ - TRẢO NHA

Đất Thổ Sơn - Ngạn Sơn từ đời Lý đã là một tụ điểm cư dân đông đúc, một nơi đô hội. Nhưng mãi đến thế kỷ thứ XV, đời Lê sơ, Ngô Lợi (Ngô Nước), thủy tổ họ Ngô Trảo Nha mới từ xã Chỉ Châu ra đây lập nghiệp, và nhanh chóng trở thành một cự tộc võ thần.

Đời thứ hai, Ngô Phúc Hải mở đầu sự nghiệp với chức Tổng binh đồng tri Thái Nguyên, rồi đời thứ ba Ngô Phúc Hà làm Chủ bộ ở phủ Yên Vương, tước Thuần trung hầu và đời thứ tư, Ngô Phúc Thanh lại làm đến Đô tổng binh tước Vĩnh Lộc hầu, sau tặng Thái bảo.

Từ đời thứ năm trở đi, nhờ những võ công trong cuộc nội chiến Nam Bắc triều (Lê - Mạc), nhiều người họ Ngô trở thành tướng lĩnh tiếng tăm. Ngô Phúc Trừng (tức Ngô Cảnh Hữu, 1950-1596) giữ chức Hữu Đô đốc ở

Page 167: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

167

phủ Đô đốc Bắc quân, tước Thể Quận công, lúc mất tặng Thái bảo. Con Phúc Trừng là Phúc Tịnh, tước Tứ quận công, tặng Thái bảo, và cháu, Phúc Vạn - có sách chép Phúc Mại (1577-1652) tước Tào Quận công, tặng Thái bảo, là con rể chúa Trịnh Tùng, con nuôi Tiến sĩ Lễ Quận công Nguyễn Văn Giai ở Ích Hậu. Chúa Trịnh coi những người họ Ngô là “Xã tắc trảo nha” (nanh vuốt của nước nhà). Do đó vùng đất Thổ Sơn, Ngạn Sơn xã Đan Liên mới có tên là xã Trảo Nha.

Thời gian này họ Ngô Trảo Nha còn có các chi Phú Điền (Nghệ An), Chỉ Châu, Y Tụ, Tam Đa (Hà Tĩnh) đều phấn phát. Chi Y Tụ (nay xã Thạch Ngọc, Thạch Hà) có Tá Võ hầu, Vân Lộc hầu, Tín Võ hầu, Vinh Thái hầu… Từ đây, Trung tín bá Ngô Phúc Hy dời đến Tự Cường (nay thuộc xã Sơn Lộc) lập thành một chi, lại một người ra Sơn Nam lập thành chi họ Ngô đổi thành họ Trần ở Vị Xuyên (huyện Mỹ Lộc, Nam Định). Chi Tam Đa (nay là xã Quang Lộc) có Vĩ Quận công (con thứ hai Ngô Phúc Tịnh, cháu Ngô Cảnh Hựu), Diên Quận công, Lý Quận công và con cháu là Ngô Phúc Cẩm (tước hầu), Ngô Phúc Thuận (Chân Lộc hầu), Tài bá hầu… Con cháu của họ cũng đều có công hầu.

Theo gia phả thì dưới thời Lê và Tây Sơn, họ Ngô có tới 18 quận công, 36 hầu tước, có 4 người đỗ Tạo sĩ (Tiến sĩ võ) và nhiều người đỗ Tam trường (võ).

Ngô Trảo Nha là dòng họ võ tướng, nhưng từ lâu đã có nhiều người giỏi văn học như các Quận công Ngô Phúc Tịnh, Ngô Phúc Vạn, Ngô Phúc Thiêm và nhiều người khác. Ngô Phúc Túc (Hoành Quận công) vừa đỗ Tạo sĩ (Tiến sĩ võ), lại đỗ Hương cống (văn); đỗ Hương cống còn có Ngô Phúc Thiện.

Ngô Phúc Vạn (Mại) là người “đọc rộng, giỏi kinh nghiệm, thiên văn, địa lý, bói toán, lại được Hoàng quân đạo sư truyền phép thuật tu hành, được coi là Phật, thường gọi “Thái bảo Phật”. Cuối đời, ông xây am Phúc Quy, tự đặt hiệu là Huân Dương chân nhân. Bia am Phúc Quy có đoạn: “Chân nhân gia truyền y bát… đạo đức cao vời, dáng vẻ trang nghiêm, nhưng lại vui với cảnh thần tiên đạo giáo…” (“Hoan Châu Thạch Hà Trảo Nha Ngô tộc truyền gia tạp lục” - T.S. Ngô Phúc Lâm soạn năm Mậu thìn - 1748). Sách trên cũng chép về Ngô Phúc Thiêm: Cố công tìm thầy học

Page 168: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

168

hỏi, “biết phép thuật đạo gia…”. Như vậy Ngô Phúc Vạn và con trai trưởng, ngoài văn chương, còn tinh thông Đạo giáo.

Người đỗ đại khoa đầu tiên là Ngô Phúc Lâm (1724-1784). Ông là con thứ tư Dật Trung hầu Ngô Phúc Bình và là cháu nội Toản Võ hầu Ngô Phúc Trị (thuộc thế hệ thứ X - Chi 9 Trảo Nha).

Ngô Phúc Bình, làm Quản binh, tước hầu, xin về quê, nói: “Có phúc không nên hưởng hết, nhà chúng ta hưởng lộc trời nhiều rồi, còn để cho họ khác”. Ông lấy hiệu Lạc Viên tiên sinh chuyên nghiên cứu y dược. Ông thường nhắc lời Đan Khê: “Cứu được mạng người, không làm quan cũng như làm quan”. Ông chữa lành bệnh cho Hương cống Lê Trù ở Ích Hậu rồi lấy con gái họ Lê sinh con út Phúc Lâm.

Ngô Phúc Lâm trước tên là Cung, được thầy học Hồng Ngư tiên sinh (Nguyễn Nghiễm) đổi lại là Lâm. Ông học giỏi, nhưng thi hương lần đầu mới trúng Tam trường (sinh đồ), đến khoa Canh ngọ, Cảnh Hưng thứ 10 mới trúng Hương giải. Bốn lần thi hội thì ba lần trúng Tam trường, xếp thứ 6, nhưng khoa ấy chỉ lấy 5 Tiến sĩ. Năm Ất dậu (1765) ông được Tể tướng Nguyễn Nghiễm tiến cử nhưng vua Lê dụ: “Con nhà gia thế, vinh tiến hãy chờ, việc chi vội vã, cho về học thêm nữa”. Năm sau, khoa Bính tuất ông mới trúng Tam giáp đồng Tiến sĩ.

Ông được bổ Giám sát ngự sử đạo Lạng Sơn, rồi thăng đến Đốc đồng Sơn Tây, Hiến sát sứ Thanh Hoa; về kinh làm Tri thị nội thư tả binh phiên, Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử, lại ra làm Thừa chánh sứ Sơn Nam rồi làm Đốc thị việc quân… Ông mất lúc 62 tuổi, được gia tặng hàm Đại phu, Hữu thị lang bộ công, tước Khiêm Quận công.

Cháu nội Ngô Phúc Lâm là Ngô Phúc Trinh, Ngô Phùng và con Ngô Phùng là Ngô Huệ Liên, đều đỗ cử nhân đời Nguyễn. Ngô Phúc Trinh là Tri huyện, Ngô Phùng làm đến Hồng Lô tự thiếu khanh, còn Ngô Huệ Liên làm Toản tu Quốc sử quán, tặng Tham tri bộ công. Ông là thân sinh tiến sĩ Ngô Đức Kế.

Chi 5, dòng Ngô Phúc Hộ (thế hệ VIII) có Ngô Đức Hồng (thế hệ XII), đỗ cử nhân làm Tri huyện, bị cách. Con trai ông là Ngô Đức Bình (1824-?) tú tài, giám sinh, rồi đỗ nhị giáp khoa Nhã sĩ (như Hoàng Giáp), năm Tự Đức thứ 18 (1865), bổ Án sát Quảng Bình, sau làm Tế tửu Quốc tử giám.

Page 169: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

169

Ngoài ra có Ngô Phúc Hội (tức Trương Duy Phúc) đỗ cử nhân đời Gia Long ở trường Gia Định. Theo gia phả thì còn có Ngô Đức Thịnh cũng đỗ cử nhân nhưng chưa rõ khoa nào.

Như vậy là riêng các chi 5 và 9 họ Ngô Trảo Nha đã có 3 tiến sĩ, 2 hương cống và 5 cử nhân, nhiều người khác đỗ tam trường, tú tài (Hán học). Về Tây học, họ Ngô chỉ có 2 người đỗ tú tài và 1 người đỗ cao đẳng tiểu học.

Trong các phong trào yêu nước, cách mạng thời cận hiện đại, họ Ngô có 5 người tham gia Văn thân, 3 người là hội viên hội Quang phục, 4 người là Đảng viên Tân Việt và 10 người hoạt động trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Họ Ngô Trảo Nha là một trong hai dòng họ “Thạch Hà thế tướng” thời Lê - Trịnh, và từ cuối Lê đến Nguyễn lại là họ văn học - khoa bảng có tiếng tăm. Và những người đem lại vinh dự lớn nhất cho dòng họ thời hiện đại là chí sĩ Ngô Đức Kế và thi sĩ Xuân Diệu.

Ngô Đức Kế (1879-1929) đỗ Tiến sĩ năm 1901, lúc 23 tuổi. Ông không ra làm quan mà tham gia phong trào Duy Tân do Phan Bội Châu lãnh đạo, bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo từ 1908 đến năm 1921. Được tha về, ông ra Hà Nội làm báo Hữu Thanh. Ông là nhà thơ, nhà trước tác, nhà báo nổi tiếng. Nhưng trước hết, ông là nhà ái quốc. Tên ông luôn gắn với tên các chí sĩ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn: “Phan thê vu Nhật, Đặng hệ vu tù, Ngô lưu vu hải…” (Phạm Văn Ngôn); “Đặng, Hoàng (Huỳnh), Ngô ba bốn bác hàn huyên” (Phan Bội Châu).

Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ lớn Việt Nam thế kỷ XX, là nhà hoạt động văn hóa xuất sắc, ủy viên ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam, Hội nhà văn Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, ủy viên Ủy ban TW các Hội VHNT Việt Nam, ủy viên Ban chấp hành Hội Hữu nghị Việt - Xô, Viện sĩ Viện hàn lâm nghệ thuật của Cộng hòa dân chủ Đức… Ông là nhà thơ khi đi xa “như một cây lớn nằm xuống làm cho cả khoảng trời trống vắng” (Điếu văn); là “rễ cây và gió, là đất và nhạc. Khi một nhà thơ lớn đi xa, nhân dân của nhà thơ khóc trước hết và nhân dân các nước sẽ dần khám phá ra anh, có khi nhiều năm sau, có khi những thế kỷ sau, và một ngày nào đó, sẽ biết đến cái chết của anh và nghe được

Page 170: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

170

tiếng nói của anh…” (Mirây Găngxen).

HỌ NGUYỄN ĐỨC - NGUYỄN CHI

Đất Nghệ Tĩnh có nhiều dòng họ nổi tiếng về cao khoa hiển hoạn, về võ lược văn tài… nhưng hiếm thấy các họ có nét độc đáo như họ Nguyễn Đức - Nguyễn Chi ở Ích Hậu, Can Lộc, Hà Tĩnh.

Vị tổ của dòng họ Nguyễn Đức lục chi Nguyễn Đức Tạo là cháu 9 đời của Hoàng giáp Trần Đức Mậu thời Lê. Trần Đức Mậu lại là cháu trực hệ 5 đời của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải thời Trần. Như vậy, họ này vốn gốc hoàng tộc, đời Lê vẫn là quý tộc khoa bảng, đến đời Nguyễn đã trở thành một dòng họ bình dân.

Hiện nay, không có tài liệu nào cho biết người vào đất Hà Bạc (Ích Hậu) đầu tiên có phải là Trần Đức Mậu không, và vì sao một số chi hậu duệ của ông lại đổi sang họ Nguyễn.

*

* *

Vị viễn tổ Trần Quang Khải (1241-1294), Hoàng tử thứ ba của vua Trần Thái Tông, em Thánh Tông, chú Nhân Tông là nhà chính trị, nhà quân sự, nhà thơ Việt Nam. Ông giữ chức Tướng quốc, Thái úy, Thượng tướng quân dưới triều Thánh Tông, cùng với Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là hai trụ cột của triều đình trong và sau cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ hai và thứ ba (1284-1288).

Về vị tổ khai cơ ở Ích Hậu, (1442-?), sách Đăng khoa lục chỉ chép sơ lược: ông “người xã Ích Hậu, huyện Thiên Lộc, 32 tuổi đỗ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp) khoa Nhâm thìn niên hiệu Hồng Đức thứ ba (1472) đời Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Đông các hiệu thư. Gia phả cho biết thêm: ông là người khai sáng nên vùng đất Ích Hậu, bấy giờ còn mang tên Hà Bạc. Về già, ông cúng tư cơ của mình cho xã để dựng ngôi chùa Trường Xuân (tức chùa Ba Làng), nên sau được phối tự ở gian bên tây chùa. Làng còn lập đền thờ ông làm phúc thần, nhiều triều đại có sắc phong (Chùa bị phá năm 1948, đền cũng chỉ còn cổng). Hiện con cháu trực hệ ở tại đền cũ còn giữ được Cờ và Biển “Ân tứ vinh quy” cùng một số đạo sắc và tấm bia

Page 171: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

171

ghi tiểu sử, hành trạng của ông. Gia phả cũng sao chép lại được hai bài văn ông làm khi thi Hội, thi Đình.

Vị tổ dòng Nguyễn Đức lục chi húy Đức Tạo, tự Đoan Trai, thường gọi Can Dũng (1788-1856) là con của lưu binh Đức Thạc công. Nghĩ mình con nhà võ biền, ông không ham học hành mà chỉ chăm lo vườn ruộng. Nhưng biết rằng tiểu nông khó mà gây dựng nên sản nghiệp lớn, ông bèn học buôn bán. Bà vợ ông, Nguyễn Thị Hoa, hiệu Ngọc Liên (1796-1862) vốn dòng dõi Hoàng giáp Lễ Quận công Nguyễn Văn Giai, là người khéo lo toan, cùng ông trù tính việc làm ăn. Sau một thời gian buôn bán các hàng bông vải, tơ lụa, cau khô, cá mắm phát đạt, ông bà tậu thêm ruộng đất, mở mang cả nghề nông, không đầy mười năm, đã thành một nhà cự phú. Nhưng ông không chỉ biết làm giàu mà còn biết đưa của cải mình làm ra dùng vào việc thiện, việc nghĩa. Văn bia ở nhà thờ chép rằng: “Ông chủ trương chủ nghĩa lợi quần”. Phàm việc công ích (đắp đường, bắc cầu, mở chợ…), ông quyên góp nhiều nhất, sớm nhất. Năm 1818 đời Gia Long, ông xuất 10 lạng bạc cho đoàn đại biểu huyện Thiên Lộc vào kinh đô Thuận Hóa trần tình về việc dân phiêu tán. Triều đình liền cho giảm thuế, và giao cho ông xuất của nhà chiêu tập lưu dân trở về an cư lạc nghiệp, khiến cho cả một vùng lại hồi sinh. Do công tích này, năm 1829 đời Minh Mệnh, ông được Triều đình cấp bằng khen. Thời gian này, trộm cướp nổi lên nhiều nơi, ông được cử làm Tuần thám Hà Tĩnh, chuyên trách ba huyện Nghi Xuân, Thiên Lộc, Thạch Hà. Ông khéo tổ chức việc tuần phòng, chiêu dụ, trong vùng yên ổn, nên năm 1834, ông được ban thưởng 60 quan tiền. Đến năm Tự Đức thứ 5 (1852), cả vùng hạ Thiên Lộc đói to. Ông mở kho thóc nhà mình, cùng quan Án tỉnh phái về, đứng ra phát chẩn suốt cả tháng, giúp dân nghèo hai tổng Nội Ngoại và Phù Lưu thoát nạn. Việc tâu lên, ông được triều đình ân thưởng tấm biển “Nghĩa dân” và 6 đồng tiền “Phi long”. Khi ông mất, dân trong huyện nhớ ơn, kéo đến đưa đám rất đông.

Theo lời dặn của ông, bà vợ đem gia sản xây nhà thờ, đặt ruộng hương hỏa, lại đặt ruộng Thánh, ruộng chùa, ruộng thần, ruộng học, ruộng binh cho làng, và mời thầy về dạy học cho con em.

*

* *

Page 172: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

172

Sáu người con trai của ông bà Nguyễn Đức Tạo là Đức Thống, Đức Xuân, Đức Hoan, Đức Hạo, Đức Mạo, Đức Huy về sau trở thành tổ của sáu chi Nguyễn Đức. Chi trưởng, đến đời thứ tư, đích tằng tôn Nguyễn Đức Thuận đổi tên là Hiệt Chi và lấy tên lót là Chi. Từ đó chi trưởng dòng họ Nguyễn Đức đổi thành Nguyễn Chi, đến nay cũng đã bốn, năm đời.

Con cháu dòng họ Nguyễn Đức từ đời thứ hai, thứ ba trở đi đều có học, nhưng họ chỉ tham dự việc tổng, việc xã, hoặc dạy học, làm thuốc, cày ruộng, đến đời thứ tư mới có người đỗ đạt. Từ đây, bước vào đường tân học, nhưng nhiều người vẫn uyên thâm Hán học. Và suốt thế kỷ XX, các thế hệ, dòng họ Nguyễn Đức - Nguyễn Chi đã có đóng góp lớn cho đất nước, nhất là trong lĩnh vực văn hóa.

Điều dễ nhận thấy là người họ Nguyễn Đức tiếp thụ sâu sắc truyền thống yêu nước của dân tộc và của tổ tiên, luôn biểu thị lòng nghĩa khí cao đẹp. Lúc thường họ tính kế làm ăn, nhưng không mê chuyện vinh thân phì gia, mà chăm làm việc công ích; khi hoạn nạn thì sẵn lòng nghĩa cử, bênh kẻ yếu, giúp người nghèo. Về mặt này, ông tổ dòng Nguyễn Đức lục chi là người tiêu biểu. Có thể kể thêm cháu 5 đời của ông, Y sĩ Đông Dương Nguyễn Kinh Chi, khi làm việc tại Bệnh viện huyện Lệ Thủy (Quảng Bình) thường một mình một ngựa xuống tận các làng, tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, chạy chữa cho nhiều con bệnh nghèo, có khi phải chữa cho cả gia súc. Cao hơn, khi đất nước lâm nguy, người họ Nguyễn Đức không bao giờ thiếu mặt. Thời Cần Vương, lương y Nguyễn Đức Hoan (1827-1903) là thầy thuốc trong nghĩa quân Phan Đình Phùng. Thời Duy Tân - Đông Du có anh em ông Hiệt, ông Hàng.

Nguyễn Hiệt Chi hiệu Mộng Thương (1870-1935), đỗ Tú tài năm 1906, vào Phan Thiết cùng với các nhân sĩ Nguyễn Quý Phầu, Hồ Tá Bang… thành lập Công ty Liên Thành buôn bán, không chỉ để mưu sinh mà còn góp phần mở mang thương kỹ, chấn hưng đất nước theo chủ trương của Hội Duy Tân, đồng thời mở Trường Dục Thanh nhằm nâng cao dân trí, truyền bá tư tưởng yêu nước. Nguyễn Tất Thành từng dạy trường này. Người cháu gọi ông bằng bác, Nguyễn Đức Bỉnh vinh dự là bạn nhà giáo, và con ông, Nguyễn Kinh Chi là học trò của Người.

Nguyễn Hàng Chi, hiệu Đồ Nam và Đồ Tuy (1885-1908), một thanh

Page 173: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

173

niên trí thức hăng hái, là người cầm đầu chống lối thi cử Hán học cuối mùa, cổ động phong trào cắt tóc ngắn, và tổ chức lãnh đạo các cuộc chống thuế ở Hà Tĩnh năm 1908, bị thực dân Pháp kết án tử hình.

Trong số các chiến sĩ cách mạng thời Xô Viết Nghệ Tĩnh ở Ích Hậu, người họ Nguyễn Đức có hai đảng viên cộng sản: Nguyễn Đức Tạo bị giết trong một cuộc địch khủng bố năm 1930 và Nguyễn Đức Hà bị kết án đày vào Quảng Nam.

Nhiều người của dòng họ Nguyễn Đức tiếp tục có đóng góp quan trọng trong cuộc cách mạng tháng Tám và xây dựng chính quyền nhân dân: Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Hưng Chi, Nguyễn Hiền… đều tham gia cách mạng sớm, hoạt động trong Mặt trận Việt Minh thời tiền khởi nghĩa.

Nguyễn Kinh Chi (1899-1986) là một thầy thuốc tâm huyết với nghề nhưng không được Nhà nước Bảo hộ tin cậy. Ông đã từng đăng đàn diễn thuyết ở Hội Trí tri Quảng Bình về đề tài “Bài thuốc chữa bệnh hối lộ”, viết sách, viết báo để bày tỏ tư tưởng của mình. Về Huế, ông tham gia nhóm trí thức, lấy tên “Responsable” (trách nhiệm) cùng với Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Thân Trọng Phước, Nguyễn Lân… trao đổi về văn hóa dân tộc. Năm 1945, ông tham gia nhóm Việt minh bí mật do Tôn Quang Phiệt lãnh đạo. Sau cách mạng, ông được bầu vào Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, giữ các chức Giám đốc y tế Trung Bộ (1945), Thứ trưởng Bộ Y tế kiêm Giám đốc y tế Liên khu IV, đến 1953 xin từ chức, chỉ nhận làm Giám đốc y tế Nghệ An. Ông là người có công chuyển Bệnh viện Huế ra Liên khu IV an toàn trước ngày kháng chiến bùng nổ và kịp chặt rừng cây canh-ki-na ở Lâm Đồng để làm dược liệu trị bệnh sốt rét cho bộ đội, đồng thời có sáng kiến xây dựng các xưởng chế dụng cụ y tế và thủy tinh làm ống thuốc vốn rất khó khăn, thiếu thốn trong thời chống Pháp. Sau hòa bình, ông đã lập Bệnh viện phong Quỳnh Lập.

Nguyễn Đổng Chi (1915-1984) em ông, ở tuổi ngoài 20 đã lập “Tập phúc phường”, một hình thức biến tướng của hội kín ở quê, và viết thiên phóng sự Túp lều nát, bị mật thám làm khó dễ. Năm 1939, ông tham gia cách mạng, đến 1942, vào Việt Minh ở Hà Nội, được phân công cùng với Nguyễn Chung Anh về Hà Tĩnh, tổ chức Thanh niên cứu quốc ở Can Lộc

Page 174: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

174

mà ông là một trong những người lãnh đạo chủ chốt. Năm 1945, dưới danh nghĩa “Thanh niên Phan Anh” do ông được đoàn thể cử làm thủ lĩnh, Nguyễn Đổng Chi và các bạn đồng chí (Nguyễn Chung Anh, Nguyễn Hiền, Đặng Giá, Nguyễn Hưng Chi, Lê Viết Quân, Trần Doãn Hoài, Phan Nhân Hiếu, Trần Văn Quý, Phan Nhân Đồng, Bùi Nhụy…) thành lập Đội vũ trang khởi nghĩa trong Mặt trận Việt Minh Bắc Hà (dưới quyền chỉ đạo của ông Nguyễn Tạo), tổ chức việc cứu đói, diễn kịch, tuyên truyền Việt Minh, luyện tập quân sự, và kéo lên cướp chính quyền ở huyện Can Lộc vào ngày 16 tháng Tám, sớm nhất trong tỉnh.

Trong số rất nhiều người họ Nguyễn Đức tham gia quân đội, có Đại tá Hoàng Minh Phương (Nguyễn Đức Sao) từng là thư ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở mặt trận Điện Biên Phủ, và tham gia nhiều chiến dịch quan trọng thời chống Mỹ. Có Đại tá Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) là Phó tư lệnh quân khu Sài Gòn - Gia Định.

Về lòng nghĩa hiệp, nghĩa khí, tuy họ Nguyễn Đức có nét đặc sắc, vẫn là điểm chung của nhiều dòng họ khác. Nét riêng, nổi bật của họ Nguyễn Đức - Nguyễn Chi là thực học - thực tài. Vị tộc trưởng Nguyễn Hiệt Chi nêu lên một phương châm để dạy dỗ con cháu: “Học tập, làm lụng ta ngó lên /Ăn mặc ta nhìn xuống”. Học và làm phải nhìn người hơn mình mà theo, mà vượt lên; còn ăn mặc, hưởng thụ thì đừng đua đòi, phải nhìn vào người kém hơn mình mà xử cho hợp với hoàn cảnh. Đó là cách nghĩ rất xa và rất mới. Có thể nói dòng họ này luôn luôn có tư duy mới.

Ông tổ Nguyễn Đức Tạo là một người nông dân sống đầu thế kỷ XIX, đã nghĩ rằng làm ăn kiểu tiểu nông thì không gây dựng gia sản lớn được. Ông đã học buôn bán, kết hợp kinh doanh nông - thương và đã thành công mỹ mãn. Cuối đời ông lại thấy cần có chữ nghĩa nên dặn mời thầy giỏi về dạy dỗ con cháu.

Từ đời thứ hai trở đi, Nguyễn Đức dần dần trở thành dòng họ học thức, và từ đời thứ năm, con cháu bước vào đường tân học, mà vẫn giữ nền nếp nho gia. Nhưng khác với giới nho sĩ (và cả không ít người tân học) thường khinh rẻ lao động chân tay, coi thường thực nghiệp, khinh thị công thương, những người họ Nguyễn Đức lại tích cực cách tân. Nguyễn Hàng Chi hăng hái vận động cắt tóc ngắn và chống lối thi cử lỗi thời. Nguyễn Hiệt Chi

Page 175: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

175

tham gia mở hội buôn. Nguyễn Kinh Chi giúp nhà doanh nghiệp Viễn Đệ về kỹ thuật chế dầu tràm (khuynh diệp), và viết hai cuốn sách Du lịch Quảng Bình và Công nghệ Quảng Bình (giới thiệu mấy chục nghề thủ công) là những vấn đề rất mới lúc bấy giờ. Nguyễn Đổng Chi ngoài 20 tuổi cũng đã tập sự kinh doanh, mở Bình Ân được phòng, chế thuốc gịt, cải tiến đồ tre… Về sau, ông cùng nhiều người trong họ là cán bộ kinh tế - tài chính của nhà nước. Gặp lúc hoàn cảnh khó khăn, ông cùng gia đình trở về quê lao động, làm đủ nghề, thậm chí cả nghề “cu mơ” (tức là góp phân tiêu) mà không ngượng ngùng gì… Trọng thực nghiệp, biết học và làm thực nghiệp cũng là nét độc đáo.

So với thiên hạ, hơn trăm năm nay, họ Nguyễn Đức không có người đỗ đạt cao, chức quyền lớn. Thời Hán học chỉ có Nguyễn Đức Thuận (Nguyễn Hiệt Chi) đỗ Đầu xứ rồi đỗ Tú tài, làm giáo chức, được phong hàm Thị giảng học sĩ. Nhưng tiếng Đầu xứ Thuận hay chữ thì nhiều người biết đến. Ông đã sáng lập Mộng Thương thư trai, cùng với Thư viện Long Cương của Cao Xuân Dục là hai thư viện gia đình lớn và quý ở Nghệ Tĩnh đương thời.

Lớp tân học trước và sau cách mạng, có Nguyễn Kinh Chi đỗ Y sĩ Đông Dương (sau thi lên Bác sĩ); Nguyễn Đức Trà, đỗ Thành chung, chuyển sang ngạch Nam triều, làm đến Tri phủ; Nguyễn Hiền, Nguyễn Đức Ràn, Nguyễn Đức Bốn, Nguyễn Đức Sao đều đỗ Thành chung; Nguyễn Từ Chi đỗ Tú tài; còn mấy người khác học dở dang bậc trung học. Lớp lớn lên sát sau cách mạng, người có học vị cao nhất cũng chỉ tốt nghiệp đại học. Nhưng trong số họ, không ít người là trí thức tài năng, là học giả uyên bác. Có người được phong học hàm Giáo sư, Phó giáo sư, có người được xếp vào hàng Danh nhân văn hóa.

Giáo sư Nguyễn Đổng Chi (1915-1984) là nhà văn, nhà sử học, nhà folklore học, nhà Hán Nôm học… mà trong lĩnh vực nào cũng có thành tựu lớn. Giáo sư Nguyễn Từ Chi (1925-1995), con Bác sĩ Nguyễn Kinh Chi, là nhà dân tộc học xuất sắc, nổi tiếng trong và ngoài nước. Hai người con của Giáo sư Nguyễn Đổng Chi là Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và Phó giáo sư Nguyễn Du Chi. Nguyễn Huệ Chi (sinh năm 1937), ngót 50 năm công tác tại Viện Văn học, từng là Trưởng ban nghiên cứu văn học Cổ, cận đại Việt

Page 176: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

176

Nam, Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện. Với hàng trăm công trình khoa học, trong đó có nhiều bộ sách lớn mà ông là chủ biên hoặc là đồng soạn giả đã chứng minh ông là nhà nghiên cứu văn học có uy tín. Nguyễn Du Chi (1938-2000), 36 năm làm việc tại Viện Mỹ thuật thuộc Trường Đại học mỹ thuật Hà Nội, là Thư ký khoa học của Viện, ông đã viết trên 100 bài nghiên cứu và là đồng tác giả của nhiều bộ sách nghiên cứu mỹ thuật, kiến trúc… được mệnh danh là người luôn “trên đường tìm về cái đẹp của cha ông” như tên cuốn sách vừa được xuất bản sau khi ông mất. Là những nhà nghiên cứu khoa học, các GS Từ Chi, Huệ Chi và PGS Du Chi cũng là nhà giáo, giảng dạy tại nhiều trường đại học và đào tạo cho đất nước nhiều Tiến sĩ chuyên ngành.

Đến lớp sau các vị trên đây, họ Nguyễn Đức - Nguyễn Chi đã có hàng chục người đạt học vị cao, là tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư… trong nước và ở Pháp, ở Nhật, ở Mỹ, trong đó có Tiến sĩ Thư viện học Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (1933-2002) từng làm việc tại Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ. Đó là thế hệ nối tiếp làm trạng rỡ thêm dòng họ này.

HỌ PHAN HUY THU HOẠCH

Theo “Phan gia công phả” (Gia phả họ Phan Huy ở làng Gia Thiện, xã Thạch Châu) thì họ này nguyên là Phan Văn ở xã Ngọc Điền, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa, xứ Nghệ An (nay thuộc Thị trấn huyện lỵ Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) vào thời Lê sơ, đầu thế kỷ XV. Đến đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) họ này mới dời về thôn Chi Bông, sau đổi là thôn Hữu Phương, xã Thu Hoạch, huyện Thiên / Can Lộc, từ 1921 chuyển về Thạch Hà. Đời thứ 7, tổ dòng trưởng Phan Văn Canh lại từ thôn Hữu Phương chuyển sang ở thôn Gia Thiện cùng xã (nay là xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà). Đời thứ 8, từ Tiến sĩ Phan Huy Cận, họ Phan Văn mới đổi thành họ Phan Huy. Nguyên tổ đời thứ 6 là Đô đốc Vinh Lộc hầu Phan Văn Kính có hai người con gái làm cung tần các chúa Trịnh. Hai bà này đã về xã Thụy Khuê, phủ Quốc Oai, xứ Sơn Tây (nay là thôn Thụy Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây), tu sửa các chùa Hoa Phát, Bối Am và ngôi đền Một Mái thờ cha, gọi là “Phan Đô đốc từ”. Trong đền có tượng thờ, chuông, xung quanh mở vườn ao…

Page 177: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

177

Cũng theo gia phả, thì các vị Tổ bốn đời đầu họ Phan Văn là các ông Đôn Dụ, Trang Chiêu, Thuần Mục, Thiều Quang. Các đời sau đều có người được phong tước: Tài lương hầu (đời thứ 5), Vinh Lộc hầu Phan Văn Kính (đời thứ 6), Tăng Quận công Phan Văn Tĩnh (đời thứ 7) (thân sinh Tiến sĩ Phan Huy Cận)… Phúc Nhạc hầu (đời thứ 8)…

“… Dòng họ lúc đầu có truyền thống âm nhạc, nhiều đời làm nghề xướng ca, nhất là hát ả đào, một loại hình ca nhạc dân gian. Đội xướng ca của dòng họ thường đi trình diễn tại các làng, các nhà quyền quý và ra tận kinh thành Thăng Long. Nhưng cũng vì thế, theo luật đời Lê, coi “xướng ca vô loại”, cấm con em nhà xướng ca không được đi thi, không được làm quan, không được lấy con nhà quan chức… Đến thời Lê-Trịnh, trong họ có 5 cô gái có nhan sắc và giỏi ca hát, được tuyển làm cung tần chúa Trịnh. Nhờ thế lực của 5 cung tần này, vào thế kỷ XVIII, con cháu dòng họ mới được giải phóng sự phân biệt đối xử với gia đình xướng ca, và từ đó mới được đi thi. Người đỗ tiến sĩ đầu tiên là Phan Huy Cận (1722-1789) được coi là vị tổ khai hoa của dòng họ…” (“Phan Huy Chú (1782-1840), cuộc đời và sự nghiệp” - “Tìm về cội nguồn” (Tập II) của GS Phan Huy Lê, NXB Thế giới. H.1999).

Như vậy, họ Phan Văn Ngọc Điền - Chi Bông là dòng họ hát ả đào đầu tiên ở Hà Tĩnh mà đến nay ta được biết. Các đào nương họ Phan không chỉ hát ở nông thôn, mà còn đi hát “ở các nhà quyền quý, ra tận Thăng Long”, nhiều người có nhan sắc và hát hay, được các chúa Trịnh tuyển làm cung tần.

“Phan tộc công phả” (bản Sài Sơn) chép 5 cung tần phủ Trịnh chúa là:

1. Phan Thị Nẫm, con gái Phan Văn Kính (tổ đời thứ 6), cung tần Tây Đô vương Trịnh Tạc (1657-1682).

2. Phan Thị Lĩnh, con gái Phan Văn Kính, cung tần Định vương Trịnh Căn (1682-1709).

3. Phan Thị Ái, con gái Phan Văn Canh (tổ đời thứ 7), cung tần một chúa Trịnh chưa xác định rõ.

4. Phan Thị Diệm, con gái Phan Văn Tĩnh (tổ đời thứ 7), cung tần Án Đô vương Trịnh Cương (1709-1729) được phong Tiệp dư rồi Tu nghi.

Page 178: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

178

5. Phan Thị Chỉnh, con gái Phan Văn Tĩnh, cũng là cung tần Án Đô vương Trịnh Cương. Về sau, một số bà cung tần trên đây và nhiều người họ Phan Thu Hoạch được phụ tế tại đền Tổ sư nghề hát Ả đào Phú Lạp (Cổ Đạm, Nghi Xuân, thường gọi đền Xứ)68.

Chính nhờ địa vị và thế lực của các đào nương này mà cha ông được cất nhắc, phong chức tước to, con cháu được giải thoát khỏi cái luật lệ vô lý “con nhà ca xướng bị phân biệt đối xử”, được đi thi, đỗ đạt, họ Phan Thu Hoạch trở thành dòng họ văn học đời Lê - Nguyễn.

*

* *

Người khai khoa trong dòng họ là Phan Huy Cận69, sau đổi là Phan Huy Ánh, hiệu Thận Trại (1722-1789). Ông là bạn đồng song với Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, lúc nhỏ cùng học với thân sinh ông Thám là Hương giải, Tham chính Thái Nguyên Nguyễn Huy Tựu, sau lại cùng thụ giáo với ông Đông các họ Võ, ông Thám hoa họ Đỗ70. Là một học trò xuất sắc, ông đỗ Giải nguyên khoa Đinh mão, năm Cảnh Hưng thứ 8 (1747) lúc 26 tuổi, rồi đỗ Hội nguyên, Tam giáp đồng tiến sĩ khoa Giáp tuất, Cảnh Hưng thứ 15 (1754). Hai con trai ông đều học giỏi, đỗ sớm. Phan Công Huệ, vì kiêng húy vợ chúa Trịnh Sâm nên đổi là Phan Huy Ích, tự Khiêm Thụ Phủ, Chí Hòa, hiệu Dụ Am, Đức Hiên (1750-1822), 22 tuổi đỗ Giải nguyên khoa Tân mão, đời Cảnh Hưng (1771), đỗ Hội nguyên tam giáp đồng tiến sĩ khoa Bính thân (1775), lại đỗ đầu ứng chế. Ông là con rể Hội nguyên Hoàng giáp Ngô Thì Sỹ (1726-1780) và là em rể Tiến sĩ Ngô Thì Nhậm

68 Bản “Nghệ An, Hà Tĩnh giáo phường ty đệ niên kỳ phúc lễ văn thức” ghi các vị người họ Phan sau đây vào phần “phối hưởng”: Các bà đào nương hiệu Diệu Duyên (chưa rõ bà Nẫm hay bà Lĩnh); hiệu Diệu Thông (bà Diệm) và các ông Phan Văn Kính, Phan Văn tĩnh, Phan Huy Cận, Phan Huy Ích, Phan Huy Ôn, Phan Huy Thực, Phan Huy Vịnh. 69 Phan Huy Cận là tên ghi trong “Đăng khoa lục” còn trong một văn bản chính tay ông viết, bài tựa bộ “Ngũ kinh toản yếu đại toàn” (của Nguyễn Huy Oánh), là Phan Cận. 70 Cũng trong bài tựa trên, ông viết: “Dư, ấu thụ nghiệp vu Lai Thạch Lam chính Nguyễn tiên sinh… dự (Thám hoa công) đồng chiên trướng,… hựu đồng du vu Võ Đông các, Đỗ Thám hoa lưỡng tiên sinh môn…”.

Page 179: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

179

(1746-1803) ở Tả Thanh Oai. Phan Huy Ôn, lúc nhỏ tên là Khuông, lớn lên đổi là Uông, thi đỗ mới đổi là Ôn, tự Trọng Dương, hiệu Nhã Hiên, lại tự Hòa Phủ, hiệu Chỉ Am (1755-1786). Năm Giáp tý (1774), 20 tuổi, thi trường Giáo (Phủ), trường Đốc (Trấn) và thi hương đều đỗ đầu. Năm 25 tuổi, đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ khoa Kỷ hợi đời Cảnh Hưng (1779).

Trong nhiều bài thơ, Phan Huy Ích tỏ niềm tự hào về nền nếp học hành của nhà mình: “Áo gấm về làng đây là lần thứ ba” (ba cha con cùng đỗ tiến sĩ); “…nhà có khoán ước thi đỗ…” (Cha con, anh em đều đỗ đạt); “Dòng văn để lại đủ cửu nguyên” (Người bên nội bên ngoại chín lần đỗ đầu)71.

Ba cha con đều làm quan dưới triều Lê Hiển Tông. Phan Huy Cận giữ chức ở các trấn Hải Dương, Cao Bằng và đồn Động Hải (Đồng Hới), về triều làm Nhập nội Bồi tụng Hữu thị lang bộ Công kiêm Thị giảng Quốc tử giám, đến năm Bính ngọ, được phong tước Khuê Phong bá, trí sĩ. Ít lâu sau, khởi dụng, lĩnh chức Bình chương sự, Nhập thị kinh diên, Nhập thị Bồi tụng, tước Khuê Phong hầu và lần lượt làm Thị lang bộ Binh, bộ Hình, bộ Lễ, kiêm Tổng tài Quốc sử quán. Ít lâu sau, ông lấy cớ tuổi già, xin về, nhập cư làng Thụy Khuê, phủ Quốc Oai, xứ Sơn Tây (nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây - nơi xưa kia hai bà cô về lập đền thờ Phan Đô đốc), trở thành tổ chi họ Phan Huy ở đây.

Hoan lộ của Phan Huy Ích bước đầu khá thuận, năm 1776 bổ Hàn lâm thừa chỉ, năm sau ra Đốc đồng Thanh Hoa, về làm Thiêm sai tri hình phiên ở phủ chúa Trịnh. Nhưng sau vụ án Canh tý72, vì là con rể Ngô Thì Sỹ, em rể Ngô Thì Nhậm, nên bị thất sủng. Ông chán nản xin về không được, lại buộc phải vào Thanh Hoa.

71 Nguyên chú của Phan Huy Ích trong “Dụ Am ngâm lục”; “Phụ thân tôi thi Hương, thi Hội hai lần đỗ đầu (lưỡng nguyên); bố vợ tôi thì Hội, thi Đình hai lần đỗ đầu (lưỡng nguyên); tôi thi Hương, thi Hội, thi ứng chế ba lần đỗ đầu (tam nguyên); cậu Hy Doãn (Ngô Thì Nhậm) và chú Nhã Hiên (Phan Huy Ôn) đỗ đầu thi Hương. Tất cả cộng lại được chín lần đỗ đầu, gọi là “Cửu nguyên”. 72 Năm Canh tý (1780) chúa Trịnh Sâm bỏ con trưởng Trịnh Tông, lập con thứ Trịnh Cán. Phe Trịnh Tông chống lại, nhưng yếu thế, phe Đặng Thị Huệ, mẹ Trịnh Cán thắng, nhiều người bị giết, Ngô Thì Sỹ tự tử, Ngô Thì Nhậm phải bỏ trốn…

Page 180: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

180

Năm Bính ngọ (1786) Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh, rồi về Nam. Phan Huy Ích lại được Án Đô vương Trịnh Bồng, rồi Lê Chiêu Thống triệu ra làm quan, cho đến cuối năm Đinh tị (1787) Vũ Văn Nhậm ra Bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh, Chiêu Thống chạy sang cầu viện nhà Thanh, ông mới về ở Sài Sơn.

Năm Mậu thân (1788) Nguyễn Huệ ra Bắc, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích cùng một số văn thần hưởng ứng lời kêu gọi cầu hiền, được triệu vào Phú Xuân, Ngô và Phan bị đục tên trên bia Tiến sĩ ở Thăng Long. Nhưng từ đây, ông được tân chúa trọng dụng, phong làm Tả thị lang bộ Hộ, Thị lang bộ Binh, tước Thụy Nham hầu. Sau chiến thắng năm Kỷ dậu (1789), ông được cử vào sứ bộ của vua Quang Trung (giả) sang chúc thọ vua Càn Long với cương vị là trọng thần hàng văn. Trở về, ông được phong chức Thị trung Ngự sử ở tòa Nội các. Vua Quang Trung mất, tuy thấy tình thế không thể cứu vãn, nhưng Ngô Thì Nhậm vẫn bàn ông ở lại giúp Quang Toản, cho đến lúc nhà Tây Sơn mất. Ngô và Phan đều bị bắt rồi bị đánh thị nhục ở Văn Miếu. Cuối 1803 ông về ẩn ở Sài Sơn. Từ 1814 đến 1819, ông về quê Thiên Lộc dạy học, rồi lại ra ở Sài Sơn cho đến lúc mất.

Phan Huy Ôn sau khi đỗ, làm Đốc đồng Sơn Tây và Thái Nguyên, về làm Thiêm sai tri công phiên một thời gian rồi mất tại chức ở tuổi 32, được tặng chức Thị giảng, tước Mỹ Xuyên bá.

Người con thứ năm là Phan Huy Trấn (?-1793), khác với hai anh, đã dấy quân chống lại nhà Tây Sơn (1791), sau trốn vào rừng đến mùa hè năm Quý sửu (1793) bị quan trấn Nghệ An bắt đem về xử chém. Phan Huy Ích lúc về quê thăm mộ ông, làm bài thơ, có câu, Hoàng Tạo dịch:

“Bởi lời giáo hối lâu xa cách Nên khí hiên ngang vụng giữ giàng.”

Dưới triều Nguyễn, họ Phan Huy chi Hữu Phương - Gia Thiện ở Thạch Hà, Hà Tĩnh chỉ có Phan Huy Tùng (1878-?) đỗ Cử nhân khoa Bính ngọ năm Thành thái thứ 18 (1906) ở trường Nghệ An và đỗ Đồng tiến sĩ khoa Quý sửu năm Duy Tân thứ 7 (1913), làm đến Lang trung bộ Hình, thăng hàm Thượng thư, trí sự. Chi Sài Sơn có nhiều người thành đạt, đều là con, cháu Phan Huy Ích.

*

Page 181: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

181

* *

Dòng họ Phan Huy Thu Hoạch vốn có tiếng về khoa hoạn lại nổi bật về văn chương. Phan Huy Cận và con cháu ông nhiều người là danh sĩ đương thời. Phan Huy Ích để lại rất nhiều tác phẩm thơ văn Hán-Nôm (khoảng 600 bài thơ và 400 bài văn) được tập hợp trong hai bộ “Dụ Am ngâm lục” và “Dụ Am văn tập”. Ông còn là người diễn âm cuốn “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn mà nhiều nhà nghiên cứu có xu hướng cho là bản hiện hành. Sách “Năm thế kỷ văn Nôm người Nghệ” xếp Phan Huy Ích là một trong sáu nhà viết văn Nôm người Nghệ tiêu biểu nhất, làm nên diện mạo văn Nôm xứ Nghệ73. Phan Huy Ôn có “Khoa bảng tiêu kỳ”, “Thiên Nam lịch triều liệt truyện đăng khoa bị khảo” (Phan Huy Sáng chỉnh lý bổ sung), “Nghệ An tạp ký”, “Chỉ Am thi tập”. Ông còn được coi là nhà toán học với “Chỉ minh tập thành toán pháp”. Phan Huy Quýnh tự Viễn Khanh, hiệu Tố Am (1775-1844), con trưởng Phan Huy Ích, “nổi tiếng văn chương, không ra làm quan, ở nhà dạy học chuyên tóm lược gọn các sách Kinh, Truyện, Lịch sử làm thành sách riêng nhà họ Phan” (“Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”). Ông là người biên soạn “Lịch đại điển yếu”, “Kinh sử toát yếu”, “Phan gia thế tự lục” (soạn tại Sài Sơn năm 1826). Phan Huy Dũng là tác giả sách “Phan tộc công phả” có bài dẫn viết năm Canh dần đời Thành Thái (1890) và bài tựa tân biên viết năm đầu Duy Tân (1907) (“Từ điển nhân vật lịch sử…”, SĐD, chép: “Phan tộc công phả”, cũng gọi “Phan gia thế phả” là sách “hợp soạn” của Phan Huy Quýnh và Phan Huy Dũng). Phan Huy Thực có “Hoa thiều hợp vịnh”, “Khuê Nhạc thi văn tập” (Hán), “Tỳ bà hành diễn âm”, “Nhân ảnh vấn đáp”, “Bần nữ thần” (Nôm). Ông còn được vua Minh Mệnh sai làm Tổng tài soạn bộ “Thực lục” phần “Liệt Thánh”. Vua thường nói: “Văn học không ai bằng (Hà Tông) Quyền, chính sự không ai bằng (Hà Duy) Phiên, Điển lệ quốc gia không có Phan Huy Thực thì không được”. Con ông, Phan Huy Vịnh viết không nhiều, chỉ có hai tập “Như Thanh sứ trình” và “Nhân trình tùy bút thi tập”… lời thơ nhẹ nhàng thanh thoát, một số bài tả cảnh đạt đến

73 Thái Kim Đỉnh biên soạn, NXB Nghệ An - 1994. Sách xếp Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Hữu Chỉnh, Phan Huy Ích, Nguyễn Công Trứ là 6 nhà thơ Nôm người Nghệ tiêu biểu nhất.

Page 182: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

182

trình độ những bức họa sinh động” (Trần Thị Băng Thanh).

Tiếng tăm nhất là Phan Huy Chú. Tác phẩm của ông có “Hoa thiều ngâm lục” (2 quyển), “Hoa trình tục ngâm”, “Hải trình chí lược” (còn có tên “Dương trình ký kiến”, “Hoàng Việt địa dư chí” (?), “Điền trần tứ sự tấu sớ”, “Bình định quy trang” (chưa tìm thấy sách). Quan trọng hơn cả là bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” 49 quyển, biên soạn trong 10 năm, là một công trình biên khảo công phu và có giá trị. “Chỉ một bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” cũng đã đủ nâng ông lên hàng nhà bác học” (“Từ điển nhân vật lịch sử”, SĐD). Bộ sách dâng lên, ông được vua Minh Mệnh ban thưởng 1 cặp áo sa, 30 lạng bạc. Nhưng do sách được biên soạn với thái độ khách quan nên bị vua chê: “Sách này soạn thuật dẫu khéo, nhưng lập ngôn thường thường bênh vực họ Trịnh, thì kiến thức cũng quê” (!). Phan Huy Chú là một nhà thơ, nhà văn nhưng trước hết, ông là một nhà khảo cứu, một nhà bác học.

Thời hiện đại, hai chi họ Phan Huy Thu Hoạch (Gia Thiện - Thạch Châu), Thụy Khuê (Sài Sơn) vẫn có nhiều người học hành thành đạt, tiêu biểu hiện nay là Giáo sư sử học Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam.

Họ Phan Văn Chi Bông vào thế kỷ XV là dòng họ bình dân, nổi tiếng trong giới ca công xứ Nghệ, từ thế kỷ XVIII trở thành họ Phan Huy Thu Hoạch lại nổi tiếng cả nước là dòng họ khoa bảng - văn chương suốt hơn hai thế kỷ. Đây cũng là một dòng họ văn hóa tiêu biểu ở Hà Tĩnh trong lịch sử.

Page 183: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

183

CHƯƠNG V

NHỮNG ĐỊA ĐIỂM LỊCH SỬ

“Trong các huyện hạt Nghệ Tĩnh, không có một huyện nào là không có ít nhiều kỷ niệm lịch sử, một bức thành đất đã khởn mẻ, một tòa đền, một ngôi mộ, một tấm bia, dấu vết của những nhân vật hiển hách đời xưa… Người xứ Nghệ tự hào về những di tích, danh thắng và những nhân vật lẫy lừng của xứ sở”.

G.S. Đặng Thai Mai

BÀ HỒ - “THỦ ĐÔ KHÁNG CHIẾN” CỦA NHÀ HẬU TRẦN

…Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh do Giản Định đế Trần Ngỗi đứng đầu đang tiến triển khá mạnh mẽ thì có sự bất đồng ý kiến về chiến sách trong nội bộ các nhà lãnh đạo. Nghe lời dèm pha, vua Giản Định đã giết hại hai vị tướng trụ cột Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Con hai ông là Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị và nghĩa quân Thuận Hóa liền bỏ Giản Định, rút về Thanh Hoa, rước Trần Quý Khoáng vào Nghệ An, xây dựng cơ sở kháng chiến mới.

Trần Quý Khoáng là con thứ của Mẫn vương Trần Ngạc, cháu nội vua Nghệ Tông, là hàng con cháu của Trần Ngỗi. Ông làm Nhập nội thị trung triều Trần, khi quân Minh sang xâm lược, phải trốn vào Thanh Hoa. Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị tôn Quý Khoáng làm minh chủ và chọn đất Bà Hồ huyện Chi La, nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ làm căn cứ địa. Bà Hồ xưa có tên là Kẻ Hồ, Kẻ Dè nằm mạn nam sông Cả, đối diện với Lam

Page 184: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

184

Thành ở mạn bắc. Phía đông giáp sông Mênh, bờ bên kia là các xã Minh Lang, Vân Chàng, nối liền với dãy Ngàn Hống. Phía tây giáp Kẻ Trổ, Kẻ Láng, Nam Ngạn, bờ nam sông La. Một nhánh sông La từ chợ Cầu qua chợ Trổ, chảy sát mé tây và mé bắc Bà Hồ (thường gọi sông Đồng Dâu, Đò Hào) đổ xuống ngã ba Mênh rồi chảy ra sông Cả. Đoạn sông này từ Đò Hào qua Phù Thạch (bờ nam sông Cả) không xa, như một con hào tự nhiên thứ hai ngăn cách Bà Hồ với Lam Thành phía trước. Phía sau lưng Bà Hồ là vùng Kẻ Ngù - Quyết Viết, hồi ấy dân cư thưa thớt, nhưng cây cối lùm lòi sầm uất, kéo tận dãy Trà Sơn, nối liền đại ngàn Dăng Màn, bên kia sông Ngàn Sâu.

Ngày 17 tháng ba năm Kỷ sửu (2/4/1409), Trần Quý Khoáng lên ngôi vua ở Bà Hồ lấy hiệu Trùng Quang.

Theo sách Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch thì “hành tại của vua Trùng Quang đặt ở hữu ngạn sông La, gần chỗ ngã ba sông La và sông Minh Lương”. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, trong một bài viết, cũng cho hay: “… Về nam ngạn sông Lam, vua Trần Trùng Quang đóng quân. Hiện bây giờ không thấy dấu tích thành trì, nhưng ở làng Yên Phúc còn có những khoảng đất hoặc dăm tên là dăm mả Chúa, dăm mả tù. Chắc là chỗ này khi xưa có một bà chúa Trần, và chỗ kia có mộ binh Tàu. Vậy dinh trại vua Trần chắc là ở làng Yên Hồ, thôn Yên Phúc, quê Nguyễn Biểu ở thôn Nội Diên, cũng trong làng ấy”.

Về “dăm mả Chúa” thì sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi một chi tiết: “Tháng năm, phi của Trùng Quang đế mất”. Ngôi mộ Chúa chắc là mộ của bà phi ấy.

Gần đây, theo tài liệu của cụ Trần Văn Thích và một số cụ già khác ở Yên Hồ thì, tương truyền nơi vua Trùng Quang làm lễ tức vị là xóm Mênh ở gần đò Dè, thôn Yên Phúc, xóm Chi Lẫm (tức Nội Đoài) gần đó là kho lương. Ở xứ Làng Dài, gần sông Đò Trai, có một cồn đất cao gọi là “Cồn Nhoi” tương truyền là nơi cảnh giới, khi có giặc thì đốt lửa báo hiệu. Ở phía tây Làng Dài có dải đất rộng từ 3 đến 5m, gọi là Cồn Án tương truyền là tuyến phòng ngự mạn sông La - sông Lam. Còn dinh trại vua Trùng Quang, tương truyền đóng ở Làng Dài một dải đất bằng phẳng, cao ráo từ Cửa Hội ra đến bờ sông La… Những dấu vết trên đây có thật là lưu lại từ

Page 185: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

185

thời ấy không thì khó mà khẳng định. Nhưng chắc chắn thôn Yên Phúc, xã Yên Hồ là “thủ đô kháng chiến” của nhà Hậu Trần.

Có điều, thành lũy, dinh thất chắc là sơ sài, lũy đất, nhà tranh…, trải qua sáu thế kỷ, hầu như mọi dấu vết đã bị xóa đi, kể cả một phần được ghi lại trong ký ức của nhân dân. Tuy nhiên, theo sử sách và truyền ngôn, ở đây đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng.

Chính ở đây, vua Trùng Quang đã tổ chức một triều đình, một bộ chỉ huy kháng chiến. Nguyễn Súy giữ chức Thái phó, Nguyễn Cảnh Dị làm Thái bảo, Đặng Dung làm Đồng bình chương sự, Nguyễn Chương làm Tư mã, và Nguyễn Biểu làm Điện tiền thị ngự sử.

Bấy giờ lực lượng kháng chiến của vua Giản Định đã bị suy yếu, đang cầm cự với quân Minh ở thành Ngự Thiên (sau này thuộc huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình). Để thống nhất chỉ huy, bộ chỉ huy nghĩa quân ở Bà Hồ đã thực hiện kế hoạch táo bạo: Nguyễn Súy ngầm sai quân ra đánh úp Ngự Thiên, đưa Giản Định về Nghệ An. Nhưng do hiềm khích, mẹ vua là Hưng Khánh thái hậu cùng bộ Lê Tiệt, Lê Nguyên Đỉnh dấy quân ở Hát Giang định đánh úp quân của Trùng Quang. Việc bại lộ, Lê Tiệt và Lê Nguyên Đỉnh đều bị giết. Còn Hưng Khánh thái hậu thì đến tháng sáu cũng mất.

Sử chép: “Ngày 20 tháng tư (năm Kỷ sửu) Nguyễn Súy dẫn vua Hưng Khánh (tức Giản Định) về đến sông Tam Chế (đoạn sông Lam ở chợ Chế, xã Xuân Lam bây giờ - TKĐ chú). Vua Trùng Quang đổi mặc áo thường, xuống thuyền đón rước. Khi ấy trời đất tối sầm, thốt nhiên mây vàng rực rỡ hiện ra, mọi người đều kinh ngạc, cho là điềm lạ”.

Vua Trùng Quang rước vua Giản Định về Bà Hồ, tôn làm Thượng hoàng để cùng đánh giặc.

Sau đó, Thượng hoàng cùng vua và các tướng đều cầm quân ra trận, chỉ để một bộ phận nhỏ ở lại Bà Hồ. Lúc này nghĩa quân vẫn đang làm chủ vùng Thanh Nghệ trở vào. Thượng hoàng tiến quân ra Hạ Hồng (nam Hải Dương, Hưng Yên bây giờ), còn vua Trùng Quang đóng ở Bình Than, hào kiệt các nơi đều nổi dậy hưởng ứng. Có những lúc phong trào khởi nghĩa lan khắp nhiều địa phương. Nhưng bộ chỉ huy nhà Hậu Trần không đủ uy tín và khả năng quy tụ, thống nhất về một mối, nên bị quân Minh lần lượt

Page 186: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

186

dập tắt.

Giữa năm Kỷ sửu (1409) nghĩa quân hoạt động mạnh ở vùng hạ lưu sông Nhị và sông Thái Bình. Nhưng liền sau đó bị Trương Phụ tiến đánh, vua phải lui về Nghệ An. Thượng hoàng đóng ở Diễn Châu đến cuối năm, tiến ra Thanh, rồi bị quân Minh bắt ở sách Cát Lợi, huyện Mỹ Lương.

Năm Canh dần (1410) nghĩa quân lại tiến ra Bắc, có trận đánh thắng đạo quân của Đô đốc Giang Hạo rồi tiến đến Bình Than. Sau đó, khi ra đánh giặc, khi lui về củng cố lực lượng. Sau trận thua ở cửa Thần Phù giữa năm Nhâm thìn (1412), nghĩa quân bị tổn thất nặng, quân Minh chiếm Thanh Hoa, Diễn Châu rồi vào tháng 10/1412 tấn công vào căn cứ của vua Trùng Quang. Nhà vua phải bỏ Bà Hồ - Chi La, lui vào giữ miền Tân Bình, Thuận Hóa. Từ đây, căn cứ Bà Hồ hết vai trò “Thủ đô kháng chiến”.

Sáu thế kỷ đã trôi qua, mọi dấu vết hầu như đều bị xóa sạch, trừ một số tên đất, bến sông… Nhưng ở đây còn một chi họ Trần mà con cháu tự coi là di duệ của nhà Hậu Trần74 và ngôi đền thờ Nghĩa vương Nguyễn Biểu, cùng chi họ Nguyễn, con cháu ông.

ĐỖ GIA - CĂN CỨ CỦA NGHĨA QUÂN LAM SƠN

Sau khi cuộc kháng chiến của vua Trùng Quang nhà Hậu Trần thất bại (1413), giặc Minh chiếm cứ toàn bộ đất Nghệ An (Nghệ Tĩnh).

Đầu năm 1418, Bình Định vương Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hoa. Tháng 10/1424, theo kế hoạch của tướng Nguyễn Chích, nghĩa quân mở đường tiến vào Nghệ An, lấy thành Trà Long, đánh thắng các trận Khả Lưu, Bồ Ai, rồi qua đường thượng đạo, qua truông Mèn, vào đất Đỗ Gia. Đỗ Gia là đất Cổ Đỗ xưa, thời thuộc Minh chia thành hai huyện, Đỗ Gia ở mạn bắc, nay là huyện Hương Sơn, Thổ Hoàng ở mạn nam, nay là các huyện Vũ Quang, Hương Khê.

Gần đồng thời với các cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, ở vùng nam sông Cả,

74 Theo sách “Khoa bảng Nghệ An” của Đào Tam Tỉnh (NA - 2000) thì Trần Hoa, con út Trần Quý Khoáng sinh ở làng Biện Thịnh, nay thuộc xã Hưng Lộc, TP. Vinh, được sinh đồ Lê Văn Dương, quê ở làng Kiều Thái nay thuộc xã Nghi Thái huyện Nghi Lộc, nuôi cho đi học, sau đỗ hương cống, làm quan đến Đốc đồng dưới triều Lê.

Page 187: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

187

(nam Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ), có ba cuộc khởi nghĩa chống quân Minh. Nhưng chính sử chỉ chép cuộc nổi dậy của thổ quan Phan Liêu ở huyện Nha Nghi mà bỏ qua hai cuộc khởi nghĩa quan trọng khác. Đó là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Biên ở Động Choác - Kẻ Cấm, huyện Kỳ La (nay là xã Cẩm Hưng, Cẩm Xuyên) và cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Tuấn Thiện ở rú Cốc, huyện Đỗ Gia (nay thuộc xã Sơn Phúc, Hương Sơn).

Đầu năm Ất tỵ (1425) Bình Định Vương đem quân đến hương Đà Lôi, huyện Thổ Du (vùng Nam Hoa, Thanh Chương, nay là Nam Kim, Nam Đàn, Nghệ An). Trước đó, vua đã sai Đinh Liệt (có sách chép Đinh Lễ) đưa 1000 quân từ Trà Long theo đường tắt xuống chiếm giữ Đỗ Gia. Nay được tin vua đến, Nguyễn Tuấn Thiện đưa đội quân rú Cốc ra đón mừng, cùng nhà vua “giết ngựa trắng ăn thề” kết nghĩa anh em dưới gốc cây thị ở xóm Nậy thôn Phúc Đậu, xã Sơn Phúc bây giờ. Lực lượng kháng chiến của Nguyễn Biên, lúc này đã làm chủ hai huyện Kỳ La, Hà Hoa (Cẩm Xuyên, Kỳ Anh), bèn theo nhập nghĩa quân Lam Sơn. Phan Liêu và Lộc Văn Luật cũng từ Ngọc Ma trở về, được vua sai ra hoạt động ở vùng Gia Hưng (Hưng Hóa), Quảng Oai (Sơn Tây) (Theo “Hoàng Minh thực lục”, dẫn trong “Lịch sử Hà Tĩnh”, Tập I). Tri phủ Ngọc Ma, Cầm Quý đem 8000 quân đến quy phụ (“Đại Việt sử ký toàn thư”).

Lúc này, “đất Nghệ An đều về ta hết” (“Toàn thư”). Quân Minh bị bao vây trong thành Nghệ An (Lam thành, ở xã Nghĩa Liệt) bờ bắc sông Cả.

Buổi đầu, Bộ chỉ huy Lam Sơn đóng trại vùng quê Nguyễn Tuấn Thiện, làng Phúc Đậu, mé tây bắc ngọn Mồng Gà, mặt tây và mặt nam tựa lưng vào dãy Đại Hàm, mặt bắc có sông Ngàn Phố bao bọc. Đây là một vùng đồi thấp, trong đó có động Tiên, động Hoa Bảy, thường gọi động Tiên Hoa, là nơi đặt dinh thất chính, mà sách “Nghệ An ký” của Bùi Dương Lịch chép là “Đãng phủ”.

Dấu tích của sở chỉ huy ở Tiên Hoa nay không còn, nhưng một số địa danh ở đây vẫn gợi lên hình ảnh quá khứ: Xóm Hào, xóm Kho, xóm Cấm, bãi Nhà Dinh, khe Tiền, bãi Triều, Lam Sơn triều lĩnh v.v…

Một nhánh khe Hoa (Hoa Khê) chảy vòng phía nam sang phía đông vùng Tiên Hoa ra Trị Yên, Tiên Bì (Sơn Thủy) gọi là hói Nầm, có đoạn gọi hói Chùa, rồi đổ ra sông Ngàn Phố cuối xã Hữu Bằng (Sơn Bằng). Phía

Page 188: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

188

đông, giữa các xã Sơn Châu, Sơn Hà bây giờ; cũng có con hói một phía đổ ra sông Ngàn Phố ở Cửa Khâu (xã Sơn Hà) nên thường gọi hói Cửa Khâu, một phía nối với hói Vàng (xã Sơn Long), đổ ra sông Ngàn Sâu. Dấu vết con hói này là Bàu Hàn, Bàu Thai ngày nay. Đây là hai con đường thủy dẫn vào vùng Tiên Hoa.

Để bảo vệ sở chỉ huy, một hệ thống đồn trại được bố trí ở những nơi hiểm yếu, thành một mạng lưới khá dày đặc.

Gần nhất, ở vòng trong, là đồn trại núi Nầm, một hòn núi nhỏ phía tây bắc ngọn Mồng Gà (Kê Quan sơn), nằm ngay mé sông Ngàn Phố, quãng dưới cửa hói Nầm và trên cửa Khâu không xa. Kề núi Nầm, mé trong, là núi Vằng hay núi Vàng (Kim Sơn - ở các làng Trị Yên, Tiên Bì, nay là xã Sơn Thủy). Giữa hai núi này thời ấy là con đường mòn độc đạo qua dốc Nầm (nay là Quốc lộ 8). Phía đông núi Vàng là núi Lều, tương truyền cũng là nơi dựng đồn trại nghĩa quân, có bãi Trạm và khe Trẹc Nác chảy ra sông Phố.

Núi Nầm, dân địa phương gọi là núi Sinh Cờ, hay Thinh Cờ, Tinh Kỳ, sách xưa chép là núi Vi Kỳ, ở địa đầu thôn Tứ Mỹ, xã Lạc Phố, nay là xã Sơn Châu. Núi này có các ngọn rú Am, rú Đá, hay Đá Trắng và rú Cụp (Cập sơn). Rú Đá ở mé sông, sau bị sụt lở, nên gọi rú Trụn. Trên đỉnh có khối đá Đầu Voi, tương truyền là nơi quân vua Lê dựng cờ (do đó có tên Tinh Kỳ), mái núi có hang Khái, và chân núi có cái hang lớn, sau khi núi sụt lở, đã bị bồi lấp. Tương truyền hang này là nơi chứa lương do nhân dân đưa đến giúp nghĩa quân. Vì vậy mà núi này còn được gọi là núi Phù Lê (giúp nhà Lê)75.

Bờ bắc sông Ngàn Phố, ở vùng Kẻ Sét, (Ninh Xá, xã Sơn Ninh), trên đường thượng đạo xưa là một khu đồn trại giữa vùng đồi núi thấp. Nghĩa quân tận dụng địa hình đồi núi, đắp thêm những đoạn lũy tạo thành một khu doanh trại phòng ngự khá lớn. Hiện còn dấu vết nhiều đoạn lũy ở núi

75 “Nghệ An ký” của cụ Bùi Dương Lịch và các sách về sau chép núi Phù Lê ở xã Phúc Lộc, huyện Đỗ Gia (nay thuộc xã Phúc Trạch, huyện Hương Khê) là lầm, ở đó có lèn Phú Lệ (không phải Lễ) là tên mới có về sau. Thời thuộc Minh đây là huyện Thổ Hoàng chứ không thuộc huyện Đỗ Gia (Xem bài “Núi Phù Lê ở đâu?” của Thái Kim Đỉnh - T.C “Khoa học và đời sống” - LH các Hội KHKT Hà Tĩnh - Số 1/2004).

Page 189: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

189

Cốt, núi Đồn, núi Chuối, cánh đồng Chài, lại có một cánh đồng khác gọi là “đất lũy”, gần đó có khu đất cao rộng chừng hai sào, tương truyền là “tàu voi”, nơi nuôi voi chiến. Có thể khu đồn lũy này do Nguyễn Tuấn Thiện chỉ huy.

Dãy Thiên Nhẫn như một trường thành án ngự phía đông bắc huyện Đỗ Gia. Từ Thổ Du sang có hai lối qua núi vào Đỗ Gia là truông Mèn và truông Trảy. Nghĩa quân đặt đồn núi Rộc (Độc Sơn) ở địa phận xã Sơn Tiến bây giờ, để giữ đường truông Mèn, hiện còn di tích ba lớp hào lũy trên núi. Đáng chú ý là gần núi Rộc, ở thôn Bạch Sơn xã Sơn Tiến, trước có “xóm Côn Sơn”, “khe Nhị Khê”, “chùa Côn Sơn” với đôi câu đối:

“Thiên Nhẫn thiên niên lưu thắng địa, Chí Linh cựu tích diệc hà thù.” (Thiên Nhẫn ngàn năm là thắng địa, Chí Linh dấu cũ khác gì đâu).

Ở đây còn một gia đình họ Hồ, theo các cụ già địa phương, là di duệ Nguyễn Trãi. Vị sơ tổ chạy vào đây sau vụ án Lệ Chi Viên, đã lấy tên Nhị Khê, Côn Sơn, đặt cho khe, cho xóm, cho chùa để nhớ quê cũ. Đường truông Trảy đi qua thung lũng khe Sâu vào Kẻ Trảy - làng Tri Lễ, xã Sơn Tiến, có một hệ thống chiến lũy đắp đất hoặc ghép đá trên các ngọn Ngũ Mã, Động Chủ dãy Thiên Nhẫn, án ngự. Chắc xưa kia cũng có đồn trại (?).

Ở ngã ba Tam Soa, địa đầu huyện Chi La, nơi hợp lưu sông Ngàn Sâu và sông Ngàn Phố đổ vào sông La, có đồn binh của tướng Đinh Lễ trên rú Thông (Tùng Lĩnh)76 chốt giữ trước cửa sông Ngàn Phố, con đường thủy duy nhất lên căn cứ Tiên Hoa. Phía đông Tùng Lĩnh không xa, còn có đồn binh của tướng Đinh Liệt ở trại Võ Lâm77.

76 Anh em Đinh Lễ, Đinh Liệt người làng Thúy Cối xã Lam Sơn, Thanh Hóa. Đinh Lễ, đóng quân trên núi Tùng Lĩnh (xã Tùng Ảnh), dân lập đền thờ ông trên núi ấy, gọi là đền Linh Cảm (Linh Cảm đại vương là thần hiệu của ông), sau dời sang núi Vọng Sơn. Đền thờ Đinh Liệt ở thôn Yên Nội, xã Yên Đồng (nay cũng thuộc xã Tùng Ảnh), tương truyền xưa là trại Võ Lâm, nơi ông đóng quân. Đền nay không còn. 77 Gia phả họ Phạm ở Yên Hội có chép “Xứ Võ Lao”, không rõ có phải là trại Võ Lâm xưa không.

Page 190: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

190

Quanh căn cứ Đỗ Gia là những khu khai hoang rộng lớn, cơ sở hậu cần hùng hậu của nghĩa quân: Vùng khai hoang của các tướng phụ trách quân lương Trần Đạt, Trần Duy phía đông Thiên Nhẫn (nay thuộc các xã Đức Châu, Đức Tùng) và của em gái, cháu gái hai ông là Hoàng hậu Bạch Ngọc và công chúa Huy Chân ven Trà Sơn (nay là các xã Tân Hương, Đức Lập, Đức Lạc, Đức Long), “cung ứng đủ lương thảo cho nghĩa quân trong ba năm” (“Tiền triều phổ hệ thực lục”); Vùng khai hoang của cha con Trạng nguyên Sử Hy Nhan, Sử Đức Huy ở Trại Đầu - Kẻ Tàng (nay là các xã Ân Phú, Sơn Long, Đức Hòa); Trại khai hoang do tướng Đinh Lễ tổ chức ở bờ bắc sông La (nay là xã Trường Sơn) v.v…

Khi nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu xây dựng căn cứ Đỗ Gia “làm chỗ đứng chân” thì vào tháng tư năm Ất tỵ (5/1425), tướng Minh Lý An đưa thủy quân từ thành Đông Quan vào cứu đội quân của Trần Trí đang bị vây trong thành Nghệ An. Có viện binh, Trần Trí quyết định đánh lên Đỗ Gia, tiêu diệt bộ phận đầu não của nghĩa quân. Bộ chỉ huy Lam Sơn sai “đào cửa sông, phục quân trên bờ sông, đợi quân giặc đến đánh” (“Đại Việt sử ký toàn thư”). Căn cứ trên thực địa thì nơi đặt phục binh là ở Cửa Khẩu phía dưới, và cửa hói Nầm phía trên núi Nầm.

Sau trận đại bại này, quân Minh chạy về cố thủ trong thành Nghệ An (Lam Thành)78.

Sau chiến thắng, Bình Định Vương dời sở chỉ huy từ Tiên Hoa sang thành Lục Niên.

Như vậy là trong hai năm 1425-1426, căn cứ Đỗ Gia - Lục Niên là đất đứng chân vững chắc, làm cơ sở cho nghĩa quân Lam Sơn phát triển vượt bậc, thành đội quân chính quy lớn mạnh, làm bàn đạp cho cuộc tiến quân giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của nhà Minh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

TRẤN LỴ DINH CẦU

78 Sau trận Đỗ Gia ít lâu, Trần Trí về Đông Quan, giao cho Phương Chính, Lý An giữ thành. Tháng 10/1426, Phương Chính, Lý An lại giao thành cho Thái Phức, đang đêm, trốn về Đông Quan. Tháng 2/1427, Thái Phúc mở cửa thành ra hàng.

Page 191: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

191

Đầu đời Lê, trấn lỵ Nghệ An (tức Nghệ Tĩnh) vẫn đóng ở Lam Thành (nay thuộc huyện Hưng Nguyên). Đến thời Lê trung hưng, trấn Nghệ An kiêm lý châu Bố Chính Bắc (Quảng Bình bây giờ) nên có thêm lỵ sở thứ hai ở Kỳ Hoa.

Trấn lỵ phía nam này đặt trên một vùng đồi phía đông núi Mã Yên (Yên Ngựa) thuộc địa phận các thôn Biểu Duệ, Xuân Sơn, xã Hà Trung, nay là các xã Kỳ Tân và Kỳ Văn, huyện Kỳ Anh. Do đó, sử sách xưa thường chép là “dinh Hà Trung” theo tên xã địa phương, hoặc dinh Cầu theo tên dòng khe chảy gần đó.

Đường Thiên Lý xưa đi sát dưới ngọn đồi trấn dinh, có quán Hà Trung, thường gọi quán Ngã tư, là nơi khách bộ hành dừng chân ăn, nghỉ.

Cách trấn lỵ ba dặm về phía đông nam ở địa phận thôn Nhân Canh (Kỳ Châu), gần chợ Cầu, thời cuối Lê đầu Nguyễn là phủ thành Kỳ Hoa (từ 1841 là huyện thành Kỳ Anh).

Đời Lý, đời Trần, đến đầu đời Lê, vùng Dinh Cầu đã là đồn binh quan trọng trấn giữ biên giới phía nam. Có thể từ năm Ất sửu (1025), trại Định Phiên do Lý Thai Giai làm trại chủ, đã đóng tại vùng này.

Thời chiến tranh Lê - Mạc, trong nhiều năm, khi thì quân nhà Lê, khi thì quân nhà Mạc đồn trú Dinh Cầu.

Khoảng cuối năm 1631. Tây quận công Trịnh Tạc vào trấn giữ xứ Nghệ An và châu Bố Chính. Có thể ông là trấn thủ đầu tiên đóng ở đây.

Sau lần thất bại khi vào đánh Đàng Trong (3/1648). Tiến Quận công Lê Văn Hiểu lại được Trịnh Tráng sai đưa 9 vạn quân về đóng ở dinh Cầu gọi là Tả trấn dinh. Đông Quận công Lê Hữu Đức chỉ huy một vạn quân đóng ở Đèo Ngang, gọi là Hữu trấn dinh. Còn Mậu quận công Phạm Tất Toàn đóng ở Bắc Bố Chính.

Tháng 5/1655, chúa Nguyễn Phúc Tần sai Thuận Nghĩa hầu Nguyễn Hữu Tiến và Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật đánh úp Bắc Bố Chính, Phạm Tất Toàn đầu hàng. Quân Nguyễn thừa thắng đánh ra chiếm Dinh Cầu. Khê Quận công Trịnh Trượng vào lại thua, chúa Trịnh phải sai Ninh Quận công Trịnh Toàn vào mới đẩy lùi được quân Nguyễn. Ông củng cố lại Dinh Cầu rồi ra Yên Trường (Vinh bây giờ). Sau khi Trịnh Toàn bị gọi về và bị

Page 192: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

192

hại, bảy huyện phía nam sông Lam hoàn toàn rơi vào tay quân Nguyễn và cuộc chiến tranh kéo dài đến 1/1659 mới dứt.

Tháng hai năm Tân sửu (1661) Dương quận công Đào Quang Nhiêu được sai làm Trấn thủ. Từ đó, Dinh Cầu được củng cố thành một trấn dinh vững chãi ở phía nam…

Trấn dinh dựng trên một ngọn đồi ở thôn Biểu Duệ nay thường gọi là “Cụp Cồn Chòi”, xóm Văn Miếu, xã Kỳ Tân. (Ở vào vị trí trường THCS xã Kỳ Tân bây giờ), nay không còn dấu vết gì. Mé đông, trước dinh, có “Cồn Chòi”, cũng là “Cột cờ”, là một ụ đất cao chừng 4 - 5m, rộng khoảng một sào, (gần đây vẫn còn). Dưới chân đồi có hồ Chèo, thông với khe Lau, nay bị lấp một phần, phần còn lại đã thành ruộng lúa, khoảng 600 mét. Hồ này xưa là nơi cung cấp nước cho trấn thành.

Tương truyền, mé tây đồi là “kho dầu” và mé bắc là “kho thuốc” (?). Một vòng lũy đất, đá bao quanh dưới chân đồi, bao cả hồ Chèo, nay còn dấu vết ở một số đoạn. Không còn thấy dấu vết các cổng thành.

Phía đông bắc Cụp Cồn Chòi có một ngọn đồi gọi là xóm Tả Trấn. Đây chính là đồn binh do cơ Tả trấn (400 quân) đóng giữ. Đối diện đồn Tả trấn, phía đông quan lộ (QL 1A bây giờ) là đồn Hữu trấn của Cơ Hữu trấn (346 quân).

Cách Cụp Cồn Chòi ở Biểu Duệ không xa về phía đông có làng Dinh Cầu (nay thuộc xã Kỳ Châu). Đó là dinh Trấn thủ (có lẽ do Phạm Đình Trọng dời từ Biểu Duệ xuống tháng năm 1751-1754 (?), nay còn dấu vết chân thành và hào.

Xa hơn, về phía Bắc, trên “Cụp Nhà cao” (nay là xóm Tả Ninh xã Kỳ Văn, là đồn trại của cơ Tả Ninh xưa (400 quân). Ở đây còn nền cột cờ cao chừng 3m, gần đó có hai cái hố, gọi là “đấu lường quân”, có giếng Tả Ninh, hồ Rèn, hồ Chùa…, “kho súng”, và ở phía nam có vùng đồi cỏ là “tùng ngựa” tương truyền là trại nuôi ngựa. Ở xã Kỳ Hoa lại có vùng đất mang tên “cửa kho”, và dấu vết một đồn trại. Có thể đây là kho lương phía nam của trấn, thường có tới 200 quân canh giữ.

Dọc phía tây trấn dinh, từ Kỳ Hoa qua Kỳ Tân đến Kỳ Văn bây giờ, còn dấu vết nhiều đoạn lũy, mà nhân dân gọi là “Lũy ông Ninh”. Cách trấn

Page 193: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

193

thành không xa có hai “cồn Hỏa Hiệu” một ở làng Duy Lôi (Kỳ Tân) và một làng ở Lạc Dị (Kỳ Trinh). Ở Cửa Khẩu, thôn Tả Hãn xã Kỳ Hải bây giờ, xưa là đồn trại của đội giã Tả Hãn (500 thủy quân)… Để bảo vệ trấn thành từ xa, ở làng Xuân Sơn (Kỳ Lạc) còn có bảo Thống Lĩnh, ở Đèo Ngang, và cửa sông Nước Mặn (Kỳ Nam)… đều có đồn binh. Và phía sau, từ đời Lê đã lập trại Tuần Tượng (ở Kỳ Phong bây giờ) để nuôi dạy voi chiến…

Cuối tháng 5 năm Bính ngọ (1786), quân Tây Sơn ra bắc diệt họ Trịnh. Nghe tin Nguyễn Huệ đến cửa Kỳ Hoa (Cử Khẩu), Trấn thủ Bùi Thế Tụy (Toại) liền đốt dinh trại bỏ chạy.

Đời Tây Sơn, Đô đốc Vũ Văn Dũng làm Trấn thủ Nghệ An cùng phó tướng Nguyễn Duệ đóng lại Dinh Cầu một thời gian ngắn (1787) rồi rút về Bố Chính. Từ đó Dinh Cầu không còn là trấn lỵ, mà chỉ là một đồn binh.

Năm 1802, vua Gia Long nhà Nguyễn ra Bắc, ghé qua Hà Trung, sai đắp phủ thành Kỳ Hoa ở thôn Nhân Canh (Kỳ Châu). Đồn sở Dinh Cầu bị bỏ hẳn.

THÀNH CỔ NÚI THÀNH

Ở thôn Đại Tăng, tổng Mỹ Duệ, nay là thôn Liên Thành, xã Cẩm Thạch, có ngọn núi nhỏ, thường gọi núi Đại Tăng hay núi Thành. Sách Đại Nam nhất thống chí (Quyển IV - Đạo Hà Tĩnh), viết: “Núi Thành ở địa phận thôn Đại Tăng, về phía nam đạo thành. Vì ở đây có lũy cổ, nên gọi tên thế, chân núi có khe”. Trong sách An Tĩnh cổ lục, H.Le Breton viết rõ hơn: “Đồi này ở làng Đại Tăng, về phía bắc huyện Cẩm Xuyên. Cái tên “Thành” lấy ở sự tích đồi này vốn trước có một tòa thành cổ ở trên đỉnh. Trong quá trình Trịnh Nguyễn phân tranh (thế kỷ XVII), ông Ninh (Trịnh Ninh) đã dựng lại những mảng thành đổ nát. Quân Đàng Trong (Huế) chiếm thành này năm 1655 nhưng rồi lại phải bỏ mà rút lui (1661). Một vài phế tích của thành còn sót lại”.

Gần đây, nhà sử học Bùi Thiết đã khảo sát núi và thành, có bài đăng trên Tạp chí văn hóa Hà Tĩnh (số 38 - tháng 11 và 12/1999) như sau: “… Chúng tôi tìm đến tòa thành cổ, bao chiếm hết cả ngọn núi này… Tòa thành nằm về phía nam Thị xã Hà Tĩnh (Đạo thành cũ) chừng 6km theo

Page 194: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

194

đường chim bay, cách sông Rào Cái về phía đông 700m và cách 500m về phía tây nam là di chỉ khảo cổ học thời đá mới chợ Thành.

Núi Thành là một ngọn núi đất có lẫn đá cao hơn mặt đất ruộng xung quanh từ 2 đến 10m, thoai thoải về phía tây nam, nhô lên ở phía bắc, chân núi phía bắc có khe mà nhân dân địa phương gọi là hói Thành.

Tòa thành bao chiếm hết cả ngọn núi, hình vuông, mỗi cạnh chừng 300m. Vết tích tòa thành hiện còn rất rõ, tuy từ 1965, dân sơ tán lên… đào phá nhiều đoạn tường thành để lấy vật liệu xây dựng.

Kết cấu của tường thành: Dưới cùng ken một lớp đá hộc dày hơn 1m và rộng 10 - 15m, trên lớp đá phủ đất cao chừng 3 - 5m và rộng đến 20m.

Ngoài tường thành là hào sâu, hiện nay còn nhận ra với những chân ruộng thấp ngoài thành. Phía bắc lợi dụng con suối tự nhiên khá sâu rất khó vượt qua.

Thành mở hai cửa: Cửa tiền ở chính giữa thành phía đông và cửa hậu ở chính giữa thành phía tây. Mỗi cửa rộng chừng 20m. Trước mỗi cửa thành đắp một khu đất hình bán nguyệt (cũng có thể là vuông (?) nhô ra ngoài có bán kính 10m, hiện còn di tích ở cửa Tiền. Theo nhân dân địa phương, xưa kia có cột cờ ở cửa, có chỗ gọi là “giếng cạn cột cờ” (?). Hai góc tây nam và đông nam tương truyền là hai ụ súng, cũng gọi là ụ súng cửa đông (góc đông nam) và ụ súng cửa nam (góc tây nam).

Trong thành là đất bằng, ngày nay nhân dân làm nhà ở và cày cấy, không có kiến trúc gì ngoài một ngôi chùa cổ của thôn Đại Tăng bị phá đã lâu.

Nhân dân ở đây không biết gì về tòa thành, chưa tìm thấy dấu tích gì còn lại, nhưng theo lời kể lại thì khi phá tường thành, ngoài đất đá ra, còn tìm thấy một số hòn gạch nung non (hay chưa nung) dài đến 30cm, khá dày, lấy dao cạo được từng lớp mỏng, trong hòn gạch, đất xanh, đất vàng trộn lẫn, chưa xác nhận là gạch thuộc đời nào. Ở ụ súng góc đông nam, năm 1980, người ta đào lên được một chóe tiền đồng, đem bán cho thợ đúc đồng cân được 70kg. Chúng tôi có tìm được một vài đồng có niên hiệu “Nguyên Hựu thông bảo”, “Nguyên Phong thông bảo” (đời Tống)”.

Ngoài phần khảo tả trên, tác giả còn dẫn thêm “Những tài liệu có liên

Page 195: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

195

quan”: “Phía ngoài thành ở góc tây bắc, trước đây có một ngôi đền của làng Đồn Điền, Đền thờ “Nhị vị nữ vương” như nhân dân vẫn nhớ, nhưng “Nhị vị nữ vương” là ai thì không ai giải thích được. Ngôi đền bị phá vào khoảng những năm 60 vừa rồi, nền vẫn còn rõ.

Hỏi các cụ già ở địa phương thì có hai cách giải thích về tòa thành. Một ý kiến nói là thành Mã Viện, nhưng không ai biết gì về Mã Viện mà chỉ nghe lưu truyền lại. Một ý kiến khác nói là thành ông Ninh, ông Nang, cũng không ai biết ông Ninh, ông Nang ấy.

*

* *

Hiện nay, ta không có căn cứ để tin rằng tòa thành cổ trên núi Thành có từ thời Hai Bà Trưng. Cuộc chiến giữa quân Hai Bà với quân Hán Mã Viện chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn ở vùng Lãng Bạc - Cấm Khê (vùng Hà Bắc đến Hà Tây bây giờ). Tiếp đó, Mã Viện cũng chỉ đem quân vào Cửu Chân (vùng Thanh Hóa, bắc Nghệ An bây giờ) để tấn công đội quân của các tướng Đô Dương, Chu Bá mới chạy vào mà thôi. Sau khi đặt chính quyền đô hộ, nhà Hán cũng chưa với tới vùng cực nam Cửu Chân (Hà Tĩnh bây giờ).

Có thể tin rằng đây là “Thành ông Ninh” vì Ninh Quận công Trịnh Toàn (không phải Trịnh Ninh như Breton viết), được “xây dựng lại trên một tòa thành đổ nát”. Vậy thành này đã có trước thời Trịnh - Nguyễn phân tranh (giữa thế kỷ XVII). Thế thì có thể nghĩ rằng “tàn tích thành này” (ses ruines - H.L. Breton - SĐD) có thể là thành đời Hồ (?)

Một thuyết khác cho rằng thành này xưa do người Champa đắp khi họ chiếm vùng nam Hà Tĩnh ra tận núi Nam Giới, lấy sông Ngàn Mọ làm địa giới tự nhiên (từ 907-910 đến 981).

Sách Đại Nam thực lục cũng chép: “Năm Minh Mệnh thứ 8 (1827) đặt bảo (thành đất) giữa Kỳ Hoa, Thạch Hà giáp nhau, phái lính canh giữ”. Vậy “bảo” này ở đâu? Có phải là thành này không?

Đây là những vấn đề còn được tiếp tục tìm hiểu.

PHỐ CỔ PHÙ THẠCH

Page 196: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

196

Từ cuối đời Trần qua đời Lê đến đầu đời Tây Sơn, lỵ sở Nghệ An (Nghệ Tĩnh) đặt ở núi Lam Thành (tức Hùng Sơn) ở địa phận các xã Nghĩa Liệt và Triều Khẩu, nên sử sách chép nhiều tên: thành Nghệ An, thành Lam, thành Hùng Sơn, thành Nghĩa Liệt, thành Triều Khẩu, lại có tên thành Phù Thạch.

Trong tờ chiếu năm 1788, Nguyễn Huệ truyền cho Nguyễn Thiếp tìm đất đặt kinh đô, có câu: “tướng địa tác đô tại Phù Thạch” (xem đất lập đô tại Phù Thạch).

Thật ra, Phù Thạch thuộc đất làng Vĩnh Đại, huyện La Sơn (nay là xã Đức Vịnh, huyện Đức Thọ) ở bờ nam sông Lam, đối ngạn chợ Tràng, xã Triều Khẩu (nay thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An), ở bờ bắc.

Mé sông có tảng đá lớn lúc thủy triều xuống thì nổi lên mặt nước, nên có tên Phù Thạch (Đá Nổi)79.

Đá đâu lấp ló giữa dòng, Như bay hoa sóng, như chồng gương nga. (Nguyễn Huy Hổ – Mai đình mộng ký)

Gần gành đá là vực, một trong ba nơi nước sâu nhất sông Lam, thời trước.

Sách Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch (1757-1827) chép: “… Trước, đất mé sông Lam rất rộng, sông La ở La Sơn, sông Minh Lương ở Thiên Lộc chảy vào chỗ ấy. Chỗ sông Minh chảy vào có đá nổi, bên đông đã có đò, gọi là bến đò Phù Thạch. Trên bến đò có phố buôn của Khách trú. Nhà cửa san sát, thuyền mành tấp nập. Tên phố là Phù Thạch phố…”.

Sách Đại Nam nhất thống chí cũng chép: “… Đến đây có sông Phù Thạch, phía đông có bến đò là chỗ cư trú của khách buôn phương Bắc, nhà cửa, thuyền bè tấp nập, gọi là phố Phù Thạch…”.

Theo tài liệu khảo sát của PGS Trần Bá Chí (Khảo tả về phố cổ Phù Thạch, bản in rônêô) thì giữa thế kỷ XVII, xã Vĩnh Đại cắt ra phần đất sát bờ sông Lam “thượng tự bến Trùm, hạ chí Ân Quang tự” (trên từ bến 79 Dải đá ngầm từ núi Hồng Lĩnh kéo lên, qua xã Ngũ Khố (sau là Ngũ Lộc) đến Vĩnh Đại thì nổi lên giữa sông nên gọi “Phù Thạch” - đá nổi.

Page 197: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

197

Trùm, dưới đến chùa Ân Quang, tức chùa Gành) bán cho kiều dân người Hoa gốc Quảng Đông, Phúc Kiến. Họ không chịu sống dưới chính quyền Mãn Thanh, nên chạy sang Việt Nam lập nghiệp, đến đây tạo đất dựng lên làng Minh Hương.

Lúc thịnh nhất, làng Minh Hương có khoảng một trăm hộ thuộc 12 dòng họ Quan, Quách, Đàm, Thái, Lý, Ngô, Mạnh, Trần, Trương, Hồng, Lương. Đến sớm nhất là người các họ Thái, Quan, Quách, Đàm, Lâm vào khoảng đầu đời Thanh (sau 1622).

Người Minh Hương lập phố xá buôn bán và sản xuất hàng miến, bánh, gia vị… cung cấp cho dân trong vùng…

Trước khi có làng Minh Hương, từ thế kỷ XIII, XIV, đời Trần, Phù Thạch đã là thắng địa, có tiếng ở xứ Nghệ. Bài thơ Qua đò Phù Thạch, Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) mô tả (Thanh Minh dịch):

“… Triều lên triều xuống dòng xuôi ngược, Mây hợp mây tan núi nổi chìm. Nốc cá thấp nhoi làn sóng tỏa, Chùa sư thấp thoáng bức đồ in…”

Chùa sư ở đây là chùa Gành – Ân Quang tự, một thiền viện lớn ở châu Hoan, dựng từ đời Trần bên gành Phù Thạch.

Cuối đời Lê, đầu đời Nguyễn, phố Phù Thạch càng phát triển mạnh mẽ, thành nơi đô hội, thu hút khách thương, khách du. Năm 1777, Hoàng giáp Bùi Huy Bích (1744-1818) vào làm Đốc đồng Nghệ An qua đây đã viết (TKĐ dịch):

Lô nhô phố Khách hương trà thoảng, Thấp thoáng nhà chùa bóng trúc che.

Vào dịp rằm tháng giêng năm Kỷ tỵ (1809), Nguyễn Huy Hổ (1783-1841), nhân nghỉ lại phố Phù Thạch, xem hội đèn, đã viết lại trong Mai đình mộng ký cảnh đêm trăng, và xác nhận:

Phồn hoa nổi tiếng thị thành, Này Phù Thạch phố là danh lịch triều.

Trên phố, dưới sông, bến Phù Thạch luôn tấp nập, tàu thuyền ra vào

Page 198: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

198

buôn bán. Nhiều thuyền buôn nước ngoài cũng tới đây đổ hàng, cất hàng… Tương truyền, một chiếc tàu Nhật Bản bị bão lật đắm ở vũng tàu gần ghềnh đá.

Đối diện Phù Thạch, ở bờ bắc, theo một tài liệu tiếng Nhật (TBC dịch và dẫn trong bài khảo sát) thì từ năm 1608, ở Hoa Viên, Phục Lễ (Triều Khẩu) có phố người Nhật, có chợ Tràng buôn bán đủ mặt hàng xứ Nghệ và của cả Đàng Ngoài, Đàng Trong, của nước ngoài (thuốc bắc, lụa, gấm Tàu, bút mực sách Tàu, cúc mã não, chè Ô long, sâm Cao Ly…).

Chợ Tràng tháng hâm bảy phiên, Ai đi bộ cứ bước, ai đi thuyền cứ đi. (Ca dao)

Ngoài ngôi chùa Gành – Ân Quang tự, ở Phù Thạch còn hai ngôi đền do người Minh Hương xây dựng từ lúc mới lập làng, dựng phố. Đó là đền Nhà Ông thờ Quan Vân Trường, dựng năm Bính dần niên hiệu Chính Hòa đời Lê Hy Tông (1686) và đền Nhà Bà thờ Thiên Hậu thánh mẫu, hải thần họ Lâm, người Phúc Kiến, được phong thần từ đời Tống, và quý phi nhà Tống họ Dương.

Người Minh Hương còn đóng góp cùng người sở tại sửa sang ngôi chùa cổ Ân Quang ngày càng to đẹp.

Khi vua Quang Trung Nguyễn Huệ ra Bắc năm 1786, đến trấn lỵ Lam Thành, người Minh Hương đã cung tiến nhiều tiền bạc giúp quân lương.

Từ năm Gia Long thứ ba (1804), trấn lỵ Nghệ An chính thức dời ra Vĩnh Yên (Vinh). Đời Minh Mệnh, Hoa kiều ở Phù Thạch được lệnh chuyển ra tỉnh Nghệ. Người các họ Quan, Quách, Đàm chuyển hết ra đợt đầu, dựng đền Quan Thánh ở phía nam thành vào năm Đinh dậu (1837). Người chín họ khác thì một phần chuyển ra tỉnh Nghệ (Vinh), khoảng một nửa vẫn ở lại Phù Thạch tiếp tục buôn bán, làm bánh, làm miến… hoặc chuyển nghề khác. Có những gia đình trở thành giàu có như Thái Trọng Thân, Ngô Cần… Triện làng Minh Hương đến năm 1937 vẫn còn, nhưng số dân chỉ còn vài ba chục hộ, hòa nhập vào làng Vĩnh Đại…

Vào đầu thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX, dưới thời thuộc Pháp, đường thuộc địa số 8 Vinh – Na-pê (Lào) đi qua Chợ Tràng sang Phù Thạch, Vĩnh

Page 199: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

199

Đại lên Yên Hồ, Linh Cảm…, phố Phù Thạch tuy không được như xưa, vẫn trên quan dưới thuyền vui vẻ. Nhưng hơn nửa thế kỷ nay, đoạn đường này bị bãi bỏ. Vĩnh Đại - Phù Thạch không còn nằm trên trục đường giao thông quan trọng, trở thành vùng nông thôn hẻo lánh.

Qua hai cuộc kháng chiến, ngôi chùa Gành cổ kính cùng hai ngôi đền Quan Thánh và Thiên Hậu của người Hoa đều bị tàn phá, rồi bị dỡ đi. Hiện nay, đoạn sông Lam qua đây đã bị lấp. Trước bến Phù Thạch xưa, chỉ còn một con lạch nhỏ, bên kia là bãi cát bồi, cây cối xanh tốt. Bờ sông Lam đã chuyển ra phía ngoài bãi, cách bến cũ hàng nửa cây số. Dấu vết còn lại là những mỏm “đá nổi”, nền chùa Gành, và ở mé bắc bên kia con sông nhỏ là “ụ tàu”, tương truyền là nơi chiếc tàu buôn nước ngoài chìm, bị lấp ở đây. Còn từ nền đền Thiên Hậu trở lên Bến Trùm – “Phố cổ”, thì nay là xóm cư dân đông đúc, cửa làng Vĩnh Đại cũ (xã Đức Vĩnh).

Nhưng “Phố cổ Phù Thạch” – một đô thị ven sông Lam xuất hiện đồng thời với Đà Nẵng – từng có một lịch sử ngót 150 năm, thì vẫn không phai mờ trong ký ức của nhân dân và được ghi chép trong sử sách.

TỈNH THÀNH HÀ TĨNH

Mùa đông, tháng mười năm Tân mão, Minh Mệnh thứ 12 (1831), sau khi triều nghị, vua chuẩn cho bỏ trấn, chia đặt các tỉnh từ phía bắc kinh thành trở ra. Lấy hai phủ Hà Hoa, Đức Thọ gồm sáu huyện Thạch Hà, Kỳ Hoa, Hương Sơn, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Sơn lập tỉnh mới Hà Tĩnh. (Tên Hà Tĩnh có lẽ có xuất xứ từ tên châu Thạch Hà đời Đinh Lê và tên châu Nam Tĩnh thời thuộc Minh (?). Tỉnh lỵ đặt tại xã Trung Tiết, huyện Thạch Hà, mé tây nam sông Hà Hoàng, trên đất huyện Hà Hoàng, thế kỷ XV.

Trong buổi sơ thiết, Tỉnh đường tạm đặt tại huyện thành Thạch Hà, xã Đại Nại. Hơn một năm sau, vào tháng giêng năm Quý tỵ tỉnh thành mới được khởi công xây đắp. Sách “Đại Nam thực lục” – Chính biên – Đệ nhị kỷ – (Từ Quyển LXXXVIII đến Quyển XCVII) chép:

“Đắp thành đất tỉnh Hà Tĩnh (Thành mở 4 cửa tiền, hậu, tả, hữu, mỗi mặt đều dài 140 trượng). Trước khi chia đặt tỉnh hạt, Tổng đốc, Tuần phủ cùng với Giám thành chọn được chỗ xã Trung Tiết, huyện Thạch Hà, địa

Page 200: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

200

thế cao ráo, rộng rãi, đằng trước có núi Cảm Sơn, lại có một dải sông dài chảy quanh phía trước, vòng sang bên tả, trên thông với sông Nại Giang, dưới thông ra cửa Luật. Đó là một khu đất đẹp. Họ bèn xin đóng tỉnh thành ở đấy, duy có nước sông hơi mặn đến đâu phải đào giếng ở đó. Vua sai đình thần bàn lại rồi cho thi hành. Đến bấy giờ lấy 3000 quân lính ở hai tỉnh Nghệ Tĩnh, ủy cho Tổng đốc Tạ Quang Cự trông coi mọi việc”.

Nơi chọn đắp thành là cánh đồng nằm giữa hai làng Phú Hàu và Tiền Bạt, tương truyền là đội ruộng nẩy nhất đẳng điền của cố Thống và cố Chế, hai vị phú hộ người họ Võ Tá ở Hà Hoàng.

Công việc xây dựng chưa được bao lâu thì vào tháng ba, vì có việc quân, vua sai truyền dụ rút Tạ Quang Cự cùng số lính Nghệ An về, và “đặc cách sai Thự Thống chế Thần sách Hữu dinh là Tôn Thất Bằng thay làm Đổng lý việc xây thành Hà Tĩnh”. (SĐD)

Nhà vua luôn theo dõi và trực tiếp giải quyết những khó khăn trong lúc đắp thành. Vào tháng ba, viên Thự vệ úy Tôn Thất Tường nhân có việc, qua Hà Tĩnh nghe nói chỗ đắp thành nước mặn, ăn uống không tiện, công trình gian khổ, bèn đem việc đó tâu lên. Vua liền xuống dụ bắt phải tâu lại ngay. Tỉnh thần phải dâng sớ tâu: “Hình thế chỗ Tỉnh thành ấy khá đẹp. Nước sông dẫu mặn, nhưng nước giếng ngọt, suốt tỉnh không đâu hơn được chỗ ấy”.

Buổi đầu, đường sá trong ngoài thành đều là đường đất. Dinh thất các tỉnh thần (Tuần phủ, Bố chính, Án sát, Lĩnh binh…) và trường học tỉnh trong thành đều sườn gỗ, mái tranh. Đàn thờ đắp đất và đền miếu cũng bằng gỗ, lá….

*

* *

Tháng sáu năm Quý sửu, Tự Đức thứ 6 (1853), triều đình quyết định bỏ tỉnh Hà Tĩnh chuyển phủ Đức Thọ về tỉnh Nghệ An, lấy phủ Hà Thanh (1841 về trước là phủ Hà Hoa) lập đạo Hà Tĩnh, trực thuộc tỉnh Nghệ An, kiêm lý hai huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên, (bỏ Tri huyện) và thống đạt huyện Kỳ Anh.

Nguyên năm Canh tuất, Tự Đức thứ 3 (1850) Tổng đốc Nghệ An là

Page 201: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

201

Nguyễn Đăng Giai đã tâu xin: “Nguyên thành tỉnh Hà Tĩnh đất rất thấp lại mặn, không có hình thế gì. Vả lại huyện La Sơn, Hương Sơn, Thiên Lộc, Nghi Xuân liên tiếp với Nghệ An, vận chở cung cấp bằng đường sông đều tiện. Duy có huyện Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà dặm đường hơi xa, thì tỉnh Hà Tĩnh đặt ra chỉ được ba huyện là đường đi trong một ngày, mà triều đình hàng năm phí kể có sáu bảy vạn. Nghĩ xin đem Hà Tĩnh, Nghệ An hợp lại làm một thì bớt quan, bớt việc, tài lực của dân ngày được thư thái”.

Vua sai đình thần bàn, đều nói: Bỏ bớt sổ sách, đồn bảo, châu huyện, đều là tiện cho dân, bớt phiền phí. Còn như Nghệ An, Hà Tĩnh trước khi chưa chia thì có giặc Sáu, giặc Chấn (?), sau khi đã chia được yên ổn mãi. Lúc trước sửa sang, thực là một mưu chước rất phải ở nơi cõi ven. Vua nói: Việc tỉnh thành theo cũ hay đổi mới, hãy nên xét kỹ, bất tất làm vội.

Đạo thành dời về thôn Nài Thị, xã Đại Nài. Nguyên xưa cho lấy tỉnh thành cũ ở Trung tiết làm lỵ sở của đạo, nhưng tỉnh thành mới đắp đất, mà thành huyện Thạch Hà thì đã xây dựng kiên cố, nên quân tỉnh (Nghệ An) xin dời về đó. Tỉnh thành bị bỏ, các đàn miếu đều giảm, chỉ dời trường học của tỉnh về Đài Nài làm trường học của đạo, và theo lời xin của các thân sĩ, giữ lại Văn miếu để thờ Nho Thánh.

Đạo thành (tức huyện thành Thạch Hà), nguyên đời Gia Long đắp đất, năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) mới xây gạch, chu vi 129 trượng (516m) dày 2 thước 1 tấc (0,84m), cao 7 thước (2,80m), hào bao quanh rộng 3 trượng, 5 thước (14m), sâu 4 thước 3 tấc (1,72m). Thành có 3 cửa. (Đại Nam nhất thống chí).80

*

* *

Tháng bảy năm Giáp tuất, Tự Đức thứ 27 (1874), Đội Lựu (Trần Quang Cán) khởi nghĩa ở Hương Sơn, đưa quân đánh đạo thành Hà Tĩnh, giết Khâm phái Đinh Văn Khoa, Phó lĩnh binh Lê Văn Nhất, Thị đạo Mạnh Tuyên. Triều đình lại phải một lần nữa bàn việc phân hợp. Năm sau, Ất 80 Các sách “An Tĩnh cổ lục” (Le vieux An Tinh - của H.Le Breton), và “Hà Tĩnh địa dư” (của Trần Kinh), đều chép thành này chu vi 267 trượng, cao 7 thước, hào rộng một trượng, sâu 4 thước, có 2 cửa.

Page 202: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

202

Hợi, Tự Đức thứ 28 (1875) tỉnh Hà Tĩnh được lập lại như cũ81. Tỉnh thành lại dời trở lại xã Trung Tiết82.

Năm Nhâm ngọ, Tự Đức thứ 35 (1882). “Xây đắp thành tỉnh Hà Tĩnh (năm trước lại đặt, chỉ đắp thành bằng đất, đến nay mới đổi xây bằng đá ong.” (“Đại Nam thực lục” - Chính biên).

Lúc này đá phân bổ theo đầu dân đinh từng làng xã. Ở những nơi xa, lo cho đủ số vật liệu phải cung ứng, thật vất vả, do đó có câu “mắc lấy vạ như xạ (xã) mắc đá ong”.

Thành xây theo kiểu Vô-băng (Vauban)83 chu vi 366 trượng, 5 thước, 6 tấc (1466,24m) cao 8 thước (3,20m), xung quanh có hào rộng 5 trượng (20m), sâu 4 thước (1,60m) chiếm một diện tích 134.000m2, nếu kể cả phía ngoài chân thành, là 160.000m2. Thành mở bốn cửa Tiền, Hậu, Tả, Hữu trên cổng có vọng lâu làm chòi canh. (Theo “Hà Tĩnh địa dư” của Trần Kinh)84. Từ cổng thành đi ra có cầu xây gạch bắc qua hào, nối với các con đường lớn bao quanh thành. Con đường phía nam thành, trước cửa Tiền, phía đông thông xuống đò Đồng Môn, phía tây nối với quan lộ Bắc - Nam.

Trên vọng lâu cửa Tiền treo quả chuông lớn và trên vọng lâu cửa Hữu treo cái trống lớn, để lính đánh khắc canh. Cửa Hậu và cửa Tả thường đóng kín.

Trong thành có ba con đường chính: Đường từ cửa Tiền chạy thẳng đến gần bờ thành phía sau, ngăn phần đông nội thành (phía cửa Tả) ra một khu, trong đó có trại lính cơ. Đường thứ hai nối từ đường cửa Tiền, chạy thẳng

81 Theo một tài liệu thì đời Đồng Khánh, năm 1886, tỉnh Hà Tĩnh lại một lần nữa đổi làm đạo (đưa phủ Đức Thọ về Nghệ An, lấy phủ Hà Thanh làm đạo như đời Tự Đức) nhưng chỉ trong một thời gian ngắn lại tái lập tỉnh. 82 Chưa rõ tỉnh lỵ dời trở lại năm nào, năm 1875 hay sau khi xây lại thành (1881-1882). 83 Vô-băng (Vauban-1663-1737): kỹ sư Pháp, tác giả kiều thành phòng ngự rất được ca ngợi ở Châu Âu vào thế kỷ XVIII. Ở Việt Nam, thành Gia Định được xây theo kiểu này đầu tiên, sau đó nhiều thành lớn, nhỏ khác cũng được xây như vậy. 84 “An Tĩnh cổ lục” (SĐD) chép: Chu vi 328 trường, cao 4 thước, 4 tấc, hào rộng 1 trượng, sâu 4 thước, có 4 cửa, đều có vọng lâu.

Page 203: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

203

ra cửa Hữu, ngăn phần nội thành còn lại ra hai khu vực trước, sau. Khu phía trước là Hành cung, bãi tập và gần cửa Hữu là nhà ở của lính khố lục. Đường thứ ba nối từ đường cửa Hữu ra cửa Hậu, cắt khu phía sau thành hai phần. Phần ngoài, phía tây là dinh Tuần phủ, dinh Án sát và dinh Lĩnh binh. Phần trong là dinh Bố chính. Sau dinh Bố, gần cửa hậu là nhà lao.

Trong thành có nhiều hồ nước, hai hồ bán nguyệt trước hành cung và dinh Tuần; bên cạnh dinh Bố có hồ Thành, và trước nhà lao là hồ lớn trồng sen.

Sen trong hồ và sen quanh hào đến mùa hè nở rộ, hương tỏa lan khắp một vùng. Do đó người ta gọi tỉnh thành là Liên thành (Thành Sen)85.

Trong thành còn có một số nhà của gia đình quan lại, binh lính ở rải rác.

Ngoài thành có các đàn, miếu: Đàn Xã Tắc, xây năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), đàn Sơn Xuyên xây năm Tự Đức thứ 5 (1852), miếu Hội đồng, miếu Thành Hoàng, đền Tứ Trung (nguyên là đền Tam Trung từ Đại Nài chuyển về đời Tự Đức), miếu Quan Thánh… đều ở Trung Tiết. Riêng Văn Miếu dựng năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) ở xã Đông Lỗ.

Tỉnh thành không phải là một đơn vị hành chính riêng mà chỉ là nơi đặt trị sở của tỉnh, có dinh thất, nơi các quan tỉnh làm việc.

Hà Tĩnh là tỉnh nhỏ đặt dưới quyền của Tổng đốc An - Tĩnh đóng ở Nghệ An. Tổng đốc coi việc quân, dân, khảo hạch quan lại, sửa sang bờ cõi của cả hai tỉnh. Tuần phủ Hà Tĩnh chỉ coi việc chính trị, giáo dục và giữ gìn phong tục. Bố chính coi việc thuế má, đinh điền, lính tráng, truyền đạt khi có ân trạch hay cấm lịnh của Triều đình. Án sát coi việc hình luật kiêm trạm dịch, bưu tuyến. Lĩnh binh coi binh lính, cùng với các quan tỉnh chỉ huy việc đánh dẹp. Đốc học là giáo chức, trông coi việc giảng dạy ở trường tỉnh, và việc học hành trong tỉnh.

85 Ở đây có truyền thuyết: Xưa kia, ở đạo thành Đại Nài có nhiều sen. Một đêm mưa to gió lớn, sen “di cư” về tỉnh thành Trung Tiết, nên thành này được gọi “Thành Sen”. Có người lại cho rằng kiểu thành Vô - băng trông giống như bông sen tám cánh, nên gọi thế. Thành Nghệ An (Thành Vinh) cũng kiểu Vô - băng nhưng người ta lại cho là giống con rùa nên gọi là Quy thành (Thành Rùa).

Page 204: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

204

Tỉnh có một vệ lính cơ, đóng ở tỉnh thành và các đồn trong tỉnh (mỗi “vệ”, theo quy định có 500 lính, chia làm 10 đội, nhưng thường số lính chỉ có vài trăm). Chỉ huy đội lính cơ có Quản cơ và các Suất đội. Có thời gian ở tỉnh còn có đội biền binh (lính không thường trực, thay nhau một phần ở trại thì hai phần về quê làm ăn). Về sau còn có một đội tượng binh. Hồi ấy có câu “Muốn coi voi thì vô chợ Tỉnh” là nói về mấy con voi chiến này86.

Trong thời gian bỏ tỉnh, lập đạo (1853-1874) thì có Quản đạo (hay Thị đạo) đứng đầu, kiêm lý cả hai huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên. Giúp việc quản đạo, có một Phó lĩnh binh chỉ huy ba vệ lính, (hai vệ ở đạo thành, hai vệ ở huyện thành Kỳ Anh), một học quan coi việc học, và một số lại viên.

Tuần phủ, Quản đạo và các quan tỉnh, quan đạo khác có trách nhiệm trực tiếp cai quản tỉnh thành, đạo thành. Giúp Tuần phủ có Giám thành (hay Phòng thành), coi đội lính phòng thành, canh tuần giữ trật tự, an ninh trong và xung quanh thành. Việc cai quản dân chúng tại các làng xã quanh tỉnh thành là trách nhiệm của tổng lý sở tại và Tri huyện Thạch Hà.

*

* *

Năm Ất dậu (1885), kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn, xuống chiếu Cần Vương, được sĩ phu và nhân dân hưởng ứng, nổi dậy chống xâm lược, buộc quân Pháp phải đối phó hết sức vất vả. Mãi đến tháng giêng năm Bính tuất (2/1886) trung tá Mignot mới đưa một lực lượng từ Bắc Kỳ vào Nghệ An, rồi vào chiếm tỉnh thành Hà Tĩnh. Thế nhưng phải mười năm sau, khi phong trào Cần Vương tan rã, người Pháp mới thật sự bình định được vùng đất Hà Tĩnh.

Năm 1887, Pháp xây dựng dinh công sứ phía trước cửa Tiền. Tháng 10 năm ấy, viên công sứ Pháp đầu tiên ở Hà Tĩnh là Dumade đến nhận chức. Nhưng lại phải mất nhiều năm nữa, người Pháp mới thật sự bắt tay xây dựng tỉnh lỵ thành một trung tâm đô thị đủ điều kiện phục vụ chính quyền thực dân. Trong việc này, công sứ Le Maire, nhậm chức từ 1915 đến 1919

86 Đội tượng binh của Nghệ An (tức Nghệ Tĩnh khi chưa chia tỉnh) theo quy định có 21 con voi. Không rõ đội tượng binh Hà Tĩnh có mấy con.

Page 205: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

205

là người có công, nên tên ông ta được đặt cho đường phố chính (nay là đường Phan Đình Phùng).

Ngày 10 tháng năm năm Giáp tý (11/6/1924), vua Khải Định ban hành đạo dụ thành lập thị xã Hà Tĩnh. Ngày 30/7/1924, Toàn quyền Đông Dương Merlin ra nghị định chuẩn y đạo dụ trên của Khải Định.

Từ đây, ngoài thành còn có thị. Tuy nhiên sau ngót nửa thế kỷ xây dựng, cho đến Cách mạng tháng Tám 1945, người Pháp cũng chỉ tạo nên một cái thị trấn rộng 247 ha với 4400 dân, “có vị trí tương đối quan trọng nhờ hai yếu tố cơ bản: cái chợ và chính quyền” (Moll - Tỉnh Hà Tĩnh).

*

* *

Đúng 60 năm sau khi người Pháp đặt nền đô hộ trên toàn cõi Việt Nam, năm Ất dậu (1945), Nhật đảo chính, lật Pháp (9/3) rồi Cách mạng tháng Tám thành công (19/8). Nhưng chưa được bao lâu, đã bắt đầu cuộc kháng chiến toàn quốc (12/1946). Thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, Thị xã bị phá hoại triệt để, cơ quan, xí nghiệp sơ tán, nhân dân tản cư về nông thôn…

Tỉnh thành Hà Tĩnh từ đây chỉ còn là một địa danh lịch sử.

THÀNH SƠN PHÒNG HÀ TĨNH

Thành sơn phòng Hà Tĩnh đắp vào cuối thế kỷ XIX trên Ấu Sơn, xã Loan Dã, tổng Chu Lễ, xưa là Trại Dã, nay là xã Phú Gia, huyện Hương Khê.

Từ xa xưa, vùng Tiêm - Da đã được coi là đất xung yếu phía đông nam Nghệ An. Đây vốn là đất Tồn Bồn - Man (hay Bồn Man) phụ thuộc Ai Lao. Sau khi Lê Thái Tổ mở nước (1428), thổ ty mới sang triều cống. Mùa thu năm Thái Hòa thứ 6 đời Lê Nhân Tông (1448), Bồn Man sang cống và xin cho nội thuộc nước ta, vua mới xuống chiếu đổi làm châu Quy Hợp. Năm Quang Thuận thứ 10 đời Lê Thánh Tông (1469) đặt châu Quy Hợp thuộc phủ Lâm An gồm 12 động, sách thuộc Nghệ An thừa tuyên. Đến trung gian, bị người Lạc Hoàn chiếm cứ, rồi phụ thuộc vào Vạn Tượng. Đầu đời Nguyễn, vua Gia Long vẫn đem đất này cho Vạn Tượng, theo lệ,

Page 206: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

206

cứ ba năm một lần sang cống. Năm Minh Mệnh thứ 8 (1827), man trưởng Phọc-khâm-thuần La-ni đến trấn Nghệ An dâng cống và xin nội phụ. Năm thứ 9 (1828) đổi đặt là phủ Trấn Tĩnh. Cho đến năm thứ 13 (1832), một số động, sách đã được chuyển thuộc tỉnh Quảng Bình, còn 7 động sách vẫn thuộc Nghệ An. Năm thứ 19 (1838), đổi động, sách làm xã đặt tổng Quy Hợp, thuộc huyện Hương Sơn, gồm 7 xã (nay thuộc các huyện Hương Khê và Vũ Quang).

Đời Lê đặt đồn Quy Hợp ở mé nam sông Tiêm, bên chợ Tiêm (nay thuộc thôn Trừng Thanh, xã Hương Vịnh), đối diện bờ bắc là chợ Da (xã Loan Dã, nay là xã Phú Gia). Ngoài đồn chính còn có hệ thống đồn nhỏ gọi là “phân thủ”. Đóng giữ đồn này là đội thổ binh, tức là lính người địa phương theo chế độ cha về thì con vào thay thế, được làng xã cấp ruộng đất, đồng thời dựa vào việc buôn bán với người Lào. Chỉ huy đồn là một Tổng binh, kiêm nhiệm chức Phụ đạo (quan cai trị) châu Quy Hợp và chức Thông sự với Lào (truyền mệnh lệnh của triều đình Việt Nam đến các thổ ty người Lào trong vùng Lạc Hoàn).

Dưới triều Tây Sơn, đồn Quy Hợp không chỉ chịu sự quản lý trực tiếp của trấn thần Nghệ An như dưới triều Lê, mà đặt dưới quyền chỉ huy của các võ quan Khâm sai coi trấn Nghệ An, Khâm sai quản huyện Hương Sơn, Khâm sai đóng giữ đồn Đại Nài. Có lúc còn phái một viên quan bộ Hộ trực ở đồn này để thu thuế (?).

Triều Nguyễn, đầu đời Gia Long (1802-1819) đặt bảo Quy Hợp, do một viên thổ mục (quan địa phương) thống suất thổ binh đóng giữ, sau đổi làm tấn Quy Hợp, đặt một Thủ ngự và một Hiệp thủ trông coi.

Lúc này, miền tây Hà Tĩnh, trên đất Hương Sơn, còn có tấn Ngàn Phố, đặt ở Lạc Phố (phường Ngàn Phố mới đúng - TKĐ), năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) dời đến xứ Bến Sông xã Tĩnh Diệm và đổi là tấn Hà Tân, đặt một Thủ ngự, đến năm Tự Đức thứ 4 (1851) đặt chức Thừa biện tấn thủ trông coi.

Năm Nhâm ngọ, Tự Đức 35 (1882) bắt đầu đặt Nha sơn phòng tỉnh Hà Tĩnh, quản hai đồn Quy Hợp (Hương Khê), Hà Tân (Hương Sơn), chế cấp cho ấn quan phòng và dấu kiềm, đặt một Phó sứ (vì ít việc, không đặt Chánh sứ mà do Tuần phủ phải đi lại kiểm đốc). Giúp việc Phó sứ có hai Tham biện

Page 207: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

207

(do Tri huyện Hương Khê, Hương Sơn sung chức) và Chủ sự, Tư vụ, bát, cửu phẩm mỗi chức một người, Thư lại, Thông ngôn, Y thuộc mỗi chức hai người, trích 270 lính tỉnh thuộc Nha sơn phòng cai quản. Thuế đinh, điền hai huyện Hương Sơn, Hương Khê do Nha Sơn phòng thu nộp để phát lương cho quân lính. Chắc là lúc này Nha Sơn phòng đã đặt ở bờ bắc sông Tiêm, gần chợ Da, xã Phú Gia, ở vị trí thành hiện nay.

Khoảng cuối năm ấy, do tình hình khẩn cấp, triều đình đặt chức Chánh sứ Sơn phòng, đưa Viên ngoại lang bộ Hình Nguyễn Thức Tự (1841-1923) ra sung chức ấy. Nhưng năm sau, Tự Đức thứ 36 (1883), Nguyễn Thức Tự ốm, xin nghỉ. Nguyễn Chánh được sung chức Chánh sứ, Phan Trọng Mưu chức Phó sứ và Phan Đình Phùng, chức Tham biện sơn phòng Hà Tĩnh.

Năm Giáp thân, niên hiệu Kiến Phúc thứ nhất, cũng là năm Hàm Nghi lên ngôi (1884), do Phòng thần trù tính, tâu xin và Viện cơ mật chước định, triều đình cho đắp thêm thành Sơn phòng Hà Tĩnh (ở xã Phú Da, huyện Hương Khê). Sách “Đại Nam thực lục” (ĐD) viết: Cho “xây đắp thành lũy, công đường, tư thất, và các nơi kỳ đài, pháo đài, phái vệ binh 380 người (trước chỉ có 300) chia ban đóng giữ, đặt súng gang, súng lớn 20 cỗ, súng vượt núi 50 cỗ. Phái quân Thần cơ hai đội đổi phiên nhau phụ đóng giúp việc. Lại mộ lính man tên nỏ thuốc độc để đủ sai khiến. Phàm việc đều do Phòng thần chuyên làm; như có việc quân hay việc gì khẩn yếu, cho tỉnh thần họp bàn. Đổi đặt Nha Phó sứ ở xứ Đồng Chi huyện Hương Sơn, vì nơi địa thế bằng phẳng, đủ giúp cho sự bền vững; mở hai con đường ở trên, phía nam thông với sách Thanh Lạng đến Sơn Phòng Quảng Bình, phía bắc thông với huyện Thanh Chương đến Sơn phòng Nghệ An”.

Đã trên một trăm năm qua, thành Sơn phòng chỉ còn lại dấu tích. Các công trình (nhà cửa dinh trại) trong thành đều bằng gỗ, nứa tranh tre, tất nhiên không còn. Từ lâu dân địa phương đã khai khẩn trồng trọt đào ao và xây dựng trạm y tế xã, trên nền nhà, đường sá cũng bị xóa hết dấu vết, trừ một hồ nước phía sau…

Sự kiện lịch sử quan trọng nhất ở Sơn phòng là việc vua Hàm Nghi xuất bôn, đến đây vào tháng chín năm Ất dậu (1885).

Sách “Việt Nam - Những sự kiện lịch sử” (1858-1818) (của Dương Kinh Quốc - NXB Giáo dục, H.2001) chép: “Đêm 4 rạng ngày 5/7/1885…

Page 208: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

208

Tôn Thất Thuyết cùng Trần Xuân Soạn chỉ huy Phấn nghĩa quân mở cuộc tấn công quyết liệt vào đồn Mang Cá… Tảng sáng, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi cùng Tam cung rút khỏi kinh thành… Ngày 26/7/1885, Hàm Nghi ngược Thượng đạo vượt qua núi Mai Lĩnh (Quảng Trị) đến đồn Chấn Lão. Ngày 31/7/1885, Hàm Nghi rời Chấn Lão đến sách Bờ Cạn, một địa điểm nằm ở phía bắc sông Cửu Long (Khung Giang), cách Sơn phòng Hà Tĩnh chừng 7 ngày đường; sau đó đến đồn Quy Hợp thuộc huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, rồi ra đóng ở Sơn phòng Hà Tĩnh”.

“Đại Nam thực lục” (SĐD) chép: “Xe vua (Hàm Nghi) đến Hàm Thao (Thuyết gần kèm xe vua đến sách Bờ Cạn vào ngày 20 tháng này thì nghỉ chân ở xứ này, gần phía bắc sông Khung Giang, đến Sơn phòng Hà Tĩnh chừng 7 ngày), sắc cho tỉnh Sơn phòng Hà Tĩnh vận lương, mở đường, rước xe vua đến Sơn phòng tỉnh ấy… Khâm sai Tôn Thất Phan đem 350 tên lính ở Hà Tĩnh và một viên tác vi lãnh binh, đi hợp với phòng thành đợi rước xe vua về Sơn phòng. Nghe truyền ngôn có quân Pháp lại, Thuyết liền ép xe vua đi nơi khác, bèn không rước được. (Khi xe vua đi, Lê Thuyết (tức Tôn Thất Thuyết) ủy cho phòng sứ là Nguyễn Chính đốc quân hậu đạo, để hộ vệ xe vua. Chính nhân lúc còn cách xa lẻn thoát, lánh đi rồi về đóng ở tỉnh Nghệ An)”.

Cũng tại Sơn phòng Hà Tĩnh, Phan Đình Phùng đã nhận chiếu chỉ tổ chức cuộc kháng chiến Cần Vương oanh liệt nhất trong lịch sử cận đại Việt Nam. Năm 1884, đang giữ chức Tham biện Sơn phòng thì bà mẹ mất, cụ Phan phải về cư tang. “Vào khoảng tháng sáu, tháng bảy năm Dậu (1885), cụ nghe tin vua Hàm Nghi chạy tới miền thượng du tỉnh Quảng Bình… Đến tháng mười, vua Hàm Nghi đến nơi. Cụ cùng các bạn đồng chí là ông Phan Quang Cư, Phan Khắc Hòa, Hoàng Xuân Phong, Ngụy Khắc Kiều, Phan Trọng Mưu tới hành tại bái yết… Vua Hàm Nghi phong cho cụ làm Tán lý quân vụ, thống tướng các đạo nghĩa binh”. “Cụ phụng mệnh trở về, liền phát tờ hịch đi khắp các nơi, kéo cờ khởi nghĩa ở làng cụ là làng Đông Thái” (“Phan Đình Phùng” của Đào Trinh Nhất, NXB Đại La, Hà Nội).

Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết đến Sơn phòng Hà Tĩnh khoảng cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9/1885. Đến “ngày 22/11/1885, Hàm Nghi rút về đồn Ve, thuộc tỉnh Quảng Bình (vì thực dân Pháp tấn công Sơn phòng

Page 209: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

209

Hà Tĩnh), từ đó vua hoạt động ở Quảng Bình cho đến khi bị sa tay giặc Pháp ngày 1/11/1888” (“Việt Nam - Những sự kiện lịch sử” (Sđd). Theo Đào Trinh Nhất trong Sđd, vua Hàm Nghi bị bắt ngày 26 tháng sáu năm Mậu Tý, tức khoảng 7/1888).

Một tài liệu do cụ Lê Thành Chu ở xã Phú Phong cung cấp năm 1960-1961, có đoạn nói về việc vua Hàm Nghi rút khỏi Sơn phòng Phú Gia, theo lời kể của các phụ lão địa phương: “… Bị quân Pháp đuổi theo, vua và ông Tôn Thất Thuyết cùng quân lính đi qua làng Tri Bản (nay thuộc xã Hòa Hải, TKĐ chú), vào ở một đêm tại nhà ông Lê Hữu Bằng là Tấn thủ tấn Quy Hợp ở chợ Tiêm. Trước lúc đi thì đốt hủy Sơn phòng. Đến khoảng gà gáy một lần thì vua quan cùng quân lính giáo mác gươm phang, súng trường và đoản đao, nón đỏ vào xã Chúc A (nay là xã Hương Lâm - TKĐ) kéo mãi đến nửa buổi, dân làm ruộng về cũng chưa hết, có một số lớn thì cho về. Vào Chúc A ở nhà ai thì quên, rồi vào Quạc, lên Núng (hai chữ này mờ, đọc không chuẩn xác - TKĐ), lên Cha-mác, lên Lào… Một thời gian sau, cha con Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi cưỡi trên voi, với một số quan lại về đường Trìm, Trẹo vào đóng tại khe Núng, Thanh Lạng”, rồi vào Kẻ Ve, Quảng Bình.

Vua Hàm Nghi và ông Tôn Thất Thuyết đến ở Sơn phòng Hà Tĩnh trong vòng ba tháng. Nhưng đây là thời điểm nhạy cảm và quan trọng nhất. Chính tờ chiếu Cần Vương lần thứ hai và cuộc tiếp kiến của nhà vua và ông Thuyết với Phan Đình Phùng và sĩ phu Hà Tĩnh đã thúc đẩy mạnh mẽ hơn phong trào Cần Vương ở bốn tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình, tạo nên cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược oanh liệt nhất của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX.87

87 Trong một chuyến đi sưu tầm tư liệu lịch sử địa phương vào tháng 8/1974, nhà giáo, nhà nghiên cứu Trần Văn Quý đã phát hiện một tráp công văn của nhiều đời Tổng binh kiêm Phụ đạo châu Quy Hợp và Thông sự với Lạc Hoàn ở nhà thờ Vinh Quận công Trần Phúc Hoàn. Từ 1981, phát hiện quan trọng này đã được công bố trong nhiều bài viết và công trình nghiên cứu, một số bài đã đăng trên báo Nhân Dân, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Lịch sử Quân sự, Tạp chí Văn hóa Nghĩa Bình, Tạp chí Etudes Vietnamiennes v.v… Chúng tôi ghi chép được một Sắc phong thần cho Bản cảnh Thành hoàng xã Phú Gia, huyện Phương Khê (tức Hương Khê) là Chánh tướng quân Ngọc Khê hầu họ Dương, theo lời tâu của Kinh lược đại thần Nguyễn Chánh, đề ngày 24 tháng Chín (?) niên hiệu

Page 210: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

210

CHIẾN KHU VỤ QUANG THỜI CẦN VƯƠNG (1889-1895)

Phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp xâm lược ở bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình cuối thế kỷ XIX do Phan Đình Phùng, Cao Thắng lãnh đạo và chỉ huy, là cuộc kháng chiến oanh liệt kéo dài mười năm (1885-1895) không chỉ có tiếng vang lớn trong nước mà cả ở nước Pháp.

Phan Đình Phùng giữ chức Ngự sử ở Viện Đô sát. Vì chưa hiểu thấu đáo tình hình, ông kịch liệt phản đối việc Tôn Thất Thuyết phế bỏ vua Dục Đức ngay giữa triều đình, liền bị tống vào ngục Cẩm Y, rồi cách chức đuổi về làng. Nhưng một năm sau (1884), ông được cử làm Tham biện Sơn Phòng Hà Tĩnh. Tháng 9/1885, kinh thành thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn, ra Sơn Phòng Phú Gia (Hương Khê), hạ chiếu Cần Vương lần thứ hai. Phan Đình Phùng dẫn một số sĩ phu lên bái mạng. Ông được phong làm Tán lý quân vụ đại thần, thống lĩnh các đạo nghĩa quân Cần Vương. Ông về làng quê, dựng cờ khởi nghĩa. Nhưng sau trận đánh bọn phản động trong Thiên chúa giáo ở Định Trường, quân Pháp ồ ạt tấn công đại đồn Đông Thái, nghĩa quân thua to, phải rút lên vùng núi Hương Sơn, đóng tại xã Phụng Công để củng cố lực lượng. Tại đây, năm 1886, Cao Thắng đưa đội nghĩa quân do ông chỉ huy đến gia nhập.

Ngay từ đầu, Phan Đình Phùng đã nhận ra Cao Thắng là người tài trí, phong chức Quản cơ, phụ trách việc tổ chức nghĩa quân. Năm 1887, Phan Đình Phùng trao quyền chỉ huy cho ông để ra Bắc liên kết các lực lượng chống Pháp.

Lúc này quân Cần Vương các tỉnh Bắc Trung Kỳ mòn mỏi dần, chỉ còn những nhóm nhỏ hoạt động lẻ tẻ trong từng địa bàn hẹp. Cao Thắng bỏ Phụng Công (vùng Đức Hòa, Đức Thọ bây giờ) rút về xây dựng căn cứ Cồn Chùa (nay thuộc các xã Sơn Lâm, Sơn Giang, Hương Sơn) dựa vào thế rừng núi để bảo toàn và phát triển lực lượng. Ông lập một hệ thống đồn lũy ở Cửa Vua, Cồn Trại Đồn, Hố Đập, Bằng Cửa Cổng (nay thuộc xã Sơn

Hàm Nghi năm đầu. Sắc viết trên giống bản và không đóng ấn. Đây là một văn bản được viết trong thời gian vua Hàm Nghi ở Sơn Phòng Hà Tĩnh.

Page 211: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

211

Lễ), chốt giữ con đường Truông Mèn, bảo vệ khu trung tâm Cồn Chùa. Ngày nay, ở vùng này còn lưu lại khá rõ dấu vết bãi tập Trại Đày, đồn rèn Khe Cáy, đồn Khe Su, đồn Rú Roọc (Bạch Sơn, nay thuộc xã Sơn Ninh) trên đường Truông Trảy…

Căn cứ Cồn Chùa là vùng đất hẹp, ở sâu trong núi, cách ly với dân, tạm thời có thể bảo toàn lực lượng, không có cơ mở rộng, phát triển lâu dài. Hai năm sau, 1889, Cao Thắng chuyển sang xây dựng căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng, bao gồm các xã Thượng Bồng, Hạ Bồng, Lệ Động, Phương Duệ, Yên Duệ, thuộc tổng Thượng Bồng, huyện Hương Sơn, và cả các thôn Lâm Thao, Hòa Duyệt thuộc tổng Hương Khê, huyện Hương Khê (nay là các xã Đức Bồng, Đức Lĩnh, Đức Hương, Đức Liên và một phần xã Đức Giang, huyện Vũ Giang).

Căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng nằm bên tả ngạn sông Ngàn Sâu, lưng tựa vào đại ngàn Trường Sơn, phía bắc thông sang núi Đại Hàm, núi Thiên Nhẫn, ra Nghệ An, Thanh Hóa. Phía nam qua bên kia sông Ngàn Trươi là rừng núi Vụ Quang mênh mông, có đường xuyên sơn vào Quảng Bình và sang Lào. Phía đông nối liền với La Sơn (Đức Thọ), Can Lộc, Nghi Xuân, vào Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh…

Căn cứ Thượng - Hạ Bồng được xây dựng khá hoàn chỉnh với một hệ thống đồn trại, lò rèn, kho tàng liên hoàn, thuận lợi cho việc phòng thủ, và là nơi xuất phát để tấn công xuống đồng bằng.

Lúc này lực lượng nghĩa quân đã khá đông đảo. Phía bắc, có đội quân của Hiệp Cự đóng ở Hạ Bồng trấn giữ con đường từ Linh Cảm lên. Phía đông nam có đội quân của Trần Hữu Châu đóng ở Phương Duệ. Bên kia sông Ngàn Trươi có đội quân của Nguyễn Quýnh đóng giữ mặt nam. Qua sông Ngàn Sâu, động Đòi, sang Trại Côốc, đến đồn Cây Khế của anh em Nguyễn Trạch, Nguyễn Chanh trên dãy Trà Sơn…

Cùng với hệ thống đồn trại là những cụm lò rèn vũ khí. Những lò rèn ở đây đã cung cấp đầy đủ vũ khí cho nghĩa quân trong vùng. Với sự cộng tác của Đội Quyên (tức Lê Quyên ở Yên Hồ), Kiểm Phất (tức Lê Phất ở Trung Lễ), Cao Thắng đã chế tạo thành công kiểu súng trường 1874 của Pháp. Các cụ già ở Minh Lang (nay là Trung Lương) còn kể chuyện thầy trò cố Đương gồng gánh lò bễ, búa đe lên đại ngàn tham gia nghĩa quân, chuyện

Page 212: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

212

ông Thiện rình hàng chục ngày ở bến Linh Cảm trộm được một khẩu súng Tây nộp cho nghĩa quân làm mẫu, chuyện cố Đĩ Thuần có công giúp ông Đề Thắng đúc súng… Ở Uy Viễn (Nghi Xuân) người ta lại nhắc chuyện người thợ đúc đồng nổi tiếng Đặng Duy Truy dẫn năm anh em, con cháu lên căn cứ tham gia chế súng… Một bài vè lưu truyền ở Trung Lương có đoạn nhắc đến một người thợ rèn trong xã là “bác Năm Đen” tham gia đúc súng ở “đồn Lục” (chưa rõ đồn nào): “… Nghe ở bên đồn Lục - Lò của bác Năm Đen - Cứ chộ (thấy) đập phèng phèng - Đã đúc xong chưa hả? - … Thôi ra đe, ra búa - Chú em mô đi làm hạt nổ - Sắp sẵn cái bao liều - Chú nữa mau tay mau - Gọt lanh cái bẹng (báng) súng - Mai mốt tha hồ chất đống - Súng của ông Cao Thắng chế ra - Súng bắn gần bắn xa - Cùng có công ta - Ngày đêm rèn dập…”.

Lúc này (1889), dưới quyền chỉ huy của Cao Thắng, đã có tới 1000 người, trang bị khá đầy đủ bằng gươm dáo, súng nạp tiền và súng kiểu Tây 1874, được huấn luyện khá tinh và có kỷ luật nghiêm, nhưng chỉ mới có ảnh hưởng trong ba huyện Hương Sơn, Hương Khê, Đức Thọ mà thôi. Một số đội quân khác còn khá mạnh thì lại hoạt động trong từng địa bàn hẹp, thiếu sự phối hợp với nhau: Ngô Quảng ở Nghi Xuân; Nguyễn Trạch và Nguyễn Chanh ở Can Lộc; Nguyễn Huy Thuận ở Thạch Hà; Hoàng Bá Xuyên ở Cẩm Xuyên; Võ Phát ở Kỳ Anh… Ở Thanh Hóa, cuộc khởi nghĩa Ba Đình bị đánh tan, Tống Duy Tân và Cầm Bá Thước còn cố gắng duy trì lực lượng. Ở Nghệ An, sau khi Nguyễn Xuân Ôn bị bắt, phong trào lắng xuống, các đội quân nhỏ vẫn ngấm ngầm hoạt động, chờ thời cơ. Còn ở Quảng Bình, phong trào đã hồi phục dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thụ, Nguyễn Bí.

Tình hình trên đòi hỏi phải có một người đủ uy tín quy tụ nghĩa quân Cần Vương về một mối, tạo cục diện mới cho cuộc kháng chiến. Cao Thắng cử người ra Bắc trình với cụ Phan và mời cụ về. Được tin, nghĩa quân 4 tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình đều phấn chấn, chấn chỉnh lại đội ngũ, tiếp tục hoạt động.

Cụ Phan về đến căn cứ Thượng Bồng tháng 9/1889. Theo tài liệu điền dã, cụ được bố trí ở nhà ông Lê Hữu Chỉ tại xóm Cọng; ông Chỉ vừa là thư ký, vừa lo mọi việc cho cụ. Hiện ở rú Nhà còn có dấu tích “Đường hào cụ

Page 213: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

213

Phan”.

Có sự chỉ huy thống nhất, trong hơn hai năm từ 1889-1891, phong trào Cần Vương phát triển nhanh, mạnh. Mở màn, nghĩa quân tấn công các đồn địch ở Tràng Lưu (Can Lộc), Nầm (Hương Sơn), Linh Cảm (La Sơn) vào đầu 6/1890… Tiếp đó là trận phục kích diệt viện ở Trung Lễ, đánh đồn và phục kích địch ở Nam Huân (Can Lộc), bẻ gãy trận càn lớn vào Truông Vắt (Hương Khê) cuối năm 1890 đầu 1891. Ở Nghệ An cũng có các trận đánh địch ở Nghĩa Đàn, Cơn Chanh (Anh Sơn)…

Nhưng lúc này khu căn cứ bị địch bao vây, o ép rất dữ. Năm 1891, nghĩa quân phải dời bản doanh lên vùng hói Trùng, hói Trí.

Căn cứ hói Trùng - hói Trí nằm về phía nam căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng, bên kia Cửa Rào và sông Ngàn Trươi. Hói Trùng (Trùng Khê), hói Trí (Trí Khê) là hai con khe lớn trong vùng rừng núi phía đông đại ngàn Vụ Quang, với hàng trăm khe suối nhỏ, đổ xuống sông Ngàn Trươi, trải trên một lưu vực từ Khê Thượng xuống Kẻ Cồ, Kẻ Vạn, Kẻ Mân, Kẻ Quánh, nay là đất 3 xã Hương Đại, Hương Minh, Hương Thọ.

Trong khi xây dựng căn cứ ở Thượng Bồng - Hạ Bồng, Cao Thắng đã chuẩn bị sẵn kho tàng, địa điểm đóng quân, nên lúc dời đại bản doanh đến thì bắt tay ngay vào việc. Ở đây có một hệ thống đồn trại, bãi tập, cơ sở hậu cần… Đồn Cơn Trổ, đồn Động Cao, kho Tạm Hói… nay vẫn còn tên gọi một số nơi: Lò Rèn, Cồn Văn Thư, Vườn Cụ Phan… Một đoạn hồi ký về “An toàn khu II” thời kháng chiến chống Pháp viết: “Ban Giám đốc cho tổ chức một phân xưởng vào sâu hơn nữa trong rừng, đến gần hói Trí. Tại đây anh em còn thấy một số vết tích cũ: nền nhà, vườn chè, bãi tập…, anh em còn nhặt được tiền đồng, súng kíp hỏng, mảnh bát vỡ… của nghĩa quân xưa” (“Một thời không quên” T.1, trang 27).

Ở vùng Tràng Sim, nay thuộc xã Sơn Thọ, cũng còn tên gọi là dấu vết “đượng Đồn”, lò rèn, bãi tập… Có tảng đá giữa suối bị mòn vẹt, tương truyền là nơi nghĩa quân mài gươm…

Lúc này, lực lượng nghĩa quân ở Hà Tĩnh đã khá mạnh, đủ sức phá các trận càn lớn, dài ngày và chủ động đánh địch ở nhiều nơi, nhưng vẫn bị hãm trong rừng núi. Cuối năm 1893, Cao Thắng xin với cụ Phan cho đánh tỉnh thành Nghệ An để gây tiếng vang, khuấy động phong trào Cần Vương

Page 214: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

214

bên Nghệ hầu như đã tắt từ 1891, mở rộng địa bàn hoạt động.

Cao Thắng chỉ huy 1000 quân tinh nhuệ xuất phát giữa tháng 11/1893, “… Trống đánh cờ mở - Trăm thầy nghìn tớ - Xuôi Vịnh đánh Tây - Đánh năm bảy trận rày - Hữu thắng hữu bại - Nhất tâm trung ái - Hết người theo thầy…”. (Vè). Nhưng trong trận tấn công đồn Nu (nay ở xã Thanh Xuân, Thanh Chương), Cao Thắng bị thương nặng. Nghĩa quân đưa về đến Khê Thượng thì ông mất. Đó là ngày 11 tháng 10 âm lịch (21/11/1893). Lúc này, ông chưa đến 30 tuổi.

Các tướng sĩ đều thương xót vị tướng tài ba. Cụ Phan đau đớn, làm câu đối khóc ông:

- “Hữu chí phất thành, anh hùng dĩ kỹ! Vị tiệp tiên tử, thiên ý vị hà?” (Có chí không thành, anh hùng đã khuất; Chưa thắng đã chết, ý trời ra sao?)

- “Công cầu tất thành, kích tiếp thệ tảo thanh quốc tặc Sự nan dự liệu, cứ yên kim dĩ thiểu tư nhân”. (Công muốn lập nên, gõ mái (chèo) nặng thề trừ giặc nước; Việc thôn tính trước, lên yên (ngựa) nay thấy vắng người này).

Cụ lại sai ông Võ Phát làm bài văn tế ông.

Mộ Cao Thắng được mai táng tại động Cơn (cây) Mít, làng Khê Thượng, nhân dân thường gọi là “Mộ quan Chưởng”. Tương truyền, quan tài được làm bằng một cây gỗ lớn khoét rỗng ruột, sau khi chôn cất, nghĩa quân san bằng đất để địch không phát hiện được. Hiện nay, vùng mộ này vẫn còn, ở xóm 2, Thị trấn Hương Đại, bên mé đường Hồ Chí Minh88.

Cái chết của Cao Thắng là một đòn nặng nề đối với nghĩa quân Cần Vương. Từ đây, phong trào suy yếu dần. Đầu năm 1894, Phan Đình Phùng 88 Trong đợt khảo sát ngày 21/1/2005, chúng tôi đã được cố Trần Xuân Tạo ở đội 4 đưa đến tận nơi. Đây là khu đất rộng dưới chân núi, nằm sát mé đường Hồ Chí Minh, thấp hơn mặt đường 4 - 5m và cao hơn chân núi khoảng 10m. Từ lâu, đây là một vườn gia đình, nhưng nay không còn nhà ở mà chỉ có giếng nước. Mé ngoài cùng là một hàng mít cây rất lớn. Một phía vườn là cồn đất cao, lấn sang tận vườn bên cạnh (có lẽ trước kia hai vườn thông nhau). Nhân dân vẫn gọi đây là “Mộ quan Chưởng”.

Page 215: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

215

đã dời bản doanh lên căn cứ Vụ Quang gần biên giới Việt - Lào, nay là các xã Hương Điền, Hương Quang. Trung tâm căn cứ là thành Vụ Quang, tục gọi Thành Lù, trên đỉnh núi Thành Lù, giữa rừng sâu thượng nguồn sông Ngàn Trươi. Nói là “thành”, kỳ thực là vách núi đá tự nhiên cao chừng 30m, có hai “cổng” ra vào: “cổng” đông bắc và “cổng” chính; nơi có hai tảng đá dựng đứng làm vọng gác. Khe Sa Vanh và một nhánh phụ của nó chạy quanh, ôm lấy chân thành như hai con hào tự nhiên. Tài liệu khảo sát thực địa của Bảo tàng Hà Tĩnh mô tả: “… Phía trước dưới chân thành là khe Vách có nhiều vực, thác (vực Thành, vực Cơn Da, thác Cơn Ổi…). Đối diện mặt tiền là dãy núi có tên gọi “dãy Tây Thành” làm bức tường tự nhiên bảo vệ đại bản doanh. Hậu thành dựa vào núi Dăng Màn, dưới có khe Rào Rồng chảy ôm lấy thành và gặp khe Vách (Rào Vực) tạo thành đầu nguồn sông Ngàn Trươi…”. Thành Vụ Quang có một vị trí quân sự lợi hại lại được sự hỗ trợ của một hệ thống đồn trại trong vùng. Căn cứ đóng quân Làng Trong cách thành 5km về phía đông bắc với bãi tập, xưởng rèn, kho lương… Đương tập Khe Công cách thành 9km ở bờ nam sông Ngàn Trươi. Khu đồn Cồn Bội cách thành 18km về phía đông bắc, với các lò rèn, hầm chứa lương thực, vũ khí, bãi tập… nay vẫn còn dấu vết.

Tuy vậy, lúc này thế và lực của quân Pháp đã áp đảo nghĩa quân. Chúng đóng đồn binh ở Xuân Trì (Sơn An), chợ Bộng (Đức Bồng) o ép nhân dân hai tổng Yên Ấp, Thượng Bồng, cách ly dân với lực lượng kháng chiến. Nghĩa quân đánh phá các đồn, tổng lý Thượng Bồng vẫn vận động dân góp gạo, muối tiếp tế… Nhưng quân Cần Vương ngày càng bị vây chặt trong núi.

Dụ hàng không xong, hơn một tháng sau, quân Pháp tập trung lực lượng đánh vào căn cứ Vụ Quang - Ngàn Trươi. Bị uy hiếp rát, Phan Đình Phùng phải dời bản doanh sang núi Đại Hàm, rồi sang rú Quạt, đến tháng 10/1894, tình hình tạm yên, mới về lại Vụ Quang.

Biết quân Pháp chóng hay chầy cũng lên đánh, cụ Phan họp các tướng bày sẵn trận “sa nang úng thủy” để đợi chúng. Các tướng đôn đốc quân sĩ đắp con đập chắn ngang dòng suối lớn, tạo thành cái hồ ở phía trên, chặt tre, nứa, gỗ thả xuống nước, ngụy trang khéo léo và đặt phục binh hai bên khe núi. Quả nhiên, ngày 26/10/1894 (có tài liệu chép 30/10/1894), quân

Page 216: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

216

Pháp ồ ạt kéo lên sục sạo, đến các khu lán trại đều thấy trống không thì cho rằng nghĩa quân đã sợ hãi bỏ trốn hết. Khi vừa xuống núi, chúng gặp một toán quân vừa bắn vừa chạy, liền đuổi theo định bắt sống. Toán quân kia băng qua con suối cạn giữa hai triền núi, dừng lại nấp bắn. Quân Pháp ào xuống lội qua khe thì một tiếng pháo nổ, đập bị phá, nước chảy xuống như thác, kéo theo tre nứa, gỗ, cây cối. Chúng tán loạn, la thét, nhưng không thoát, bị nước cuốn trôi, tre gỗ đâm chết, đứa nào trườn được lên bờ thì bị quân phục bắn chết…

Chiến thắng Vụ Quang có tiếng vang lớn, làm nức lòng dân Nghệ Tĩnh, nhưng đây chỉ là ánh chớp cuối cùng của cuộc kháng chiến.

Lúc này, phong trào Cần Vương ở các tỉnh từ ngoài Bắc trở vào hầu như đã tắt hẳn. Ở Hà Tĩnh, nhiều đội nghĩa quân bị đánh bật ra khỏi căn cứ, phải chạy lên Vụ Quang. Quân Pháp rảnh tay, có điều kiện dồn sức đối phó với nghĩa quân. Lực lượng Cần Vương có đông hơn trước, nhưng chỗ ở không ổn định, lương thực, vũ khí thiếu nghiêm trọng. Dân trong vùng vẫn một lòng ủng hộ, nhưng bị địch kiềm tỏa, việc tiếp tế thường gián đoạn; quân sĩ không được củng cố về tổ chức và tinh thần, ngày càng suy yếu. Tháng 8/1895, triều đình Huế lại sai Nguyễn Thân đưa 3000 quân ra Hà Tĩnh phối hợp với quân Pháp vây chặt chiến khu Vụ Quang, càn quét lùng bắt cho được cụ Phan và các tướng nghĩa quân để dập tắt phong trào.

Những tháng cuối năm 1895, quân địch càng tăng cường sục sạo. Trong một trận chiến đấu vào ngày 28/12/1895, Phan Đình Phùng bị thương nặng rồi mất89. Các tướng nghĩa quân hoặc bị bắt, hoặc ra đầu thú, đều bị giết

89 Về cái chết của cụ Phan, sách “Phan Đình Phùng” của Đào Trinh Nhất viết là cụ bị bệnh kiết lỵ lâu ngày rồi mất. Sách “Lịch sử Hà Tĩnh” (T.1) “căn cứ vào tờ Tư văn ngày 9 tháng chạp năm Thành Thái thứ 7 của viên Quyền hộ Tuần vũ Hà Tĩnh Phan Huy Quán trình lên Bắc kỳ kinh lược đại sứ”, nên khẳng định cụ Phan bị thương mà mất. - Về ngày cụ Phan mất ở đây theo sách “Phan Đình Phùng” (của ĐTN) và “Lịch sử Hà Tĩnh” (T.1) là 28/12/1895 tức 13 tháng 11 năm Ất mùi. Còn sách “Phan Đình Phùng” của Nhà XB QĐND chép là ngày 21/1/1896. - Nhiều sách chép rằng “Nguyễn Thân sai đào mộ, đem thi hài cụ Phan về đốt thành than nhồi vào thuốc súng bắn xuống sông La”. Hơn 30 năm trước, cụ Phan Trọng Thành ở Đông Thái có cung cấp cho tôi một bài thơ chữ Hán của một tác giả vô danh cùng thời và cùng quê với cụ Phan, đề là “Ngũ nguyệt thập ngũ nhật” (Rằm tháng năm). Cụ Thành cho biết tác giả làm bài thơ đúng vào ngày Nguyễn Thân đốt thi hài cụ Phan (?). Một số người ở vùng Tùng Ảnh hiện nay lại kể rằng cái xác Nguyễn Thân đốt không phải là thi

Page 217: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

217

hại. Nhiều người vượt biên sang Xiêm làm ăn hoặc tiếp tục tham gia các cuộc vận động yêu nước.

Cuộc kháng chiến oanh liệt chống Pháp xâm lược kéo dài 10 năm (1885-1895) của nhân dân Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình do Phan Đình Phùng, Cao Thắng tổ chức và lãnh đạo đến đây kết thúc. Chiến khu Vụ Quang (nằm trên toàn bộ huyện Vũ Quang ngày nay) sau bảy năm (1889-1895) cũng đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình. Nhưng mãi mãi địa danh Vụ Quang vẫn gắn với tên tuổi của những anh hùng cứu quốc cuối thế kỷ XIX90.

AN TOÀN KHU HƯƠNG KHÊ THỜI KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

Đêm 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân ta bắt đầu. Trước đó, Ủy ban hành chính Trung bộ đã chủ trương tập kết các cơ sở vật chất và lực lượng khoa học kỹ thuật từ Đà Nẵng, Huế… ra phía bắc, đến Hà Tĩnh. Ủy ban giao nhiệm vụ cho các ông Lê Dung (Giám đốc Công chính), Nguyễn Văn Tấn (Giám đốc Tài chính), sau bổ sung thêm ông Nguyễn Giật (Thanh tra Hỏa xa Quận 2). Vùng Hương Khê, Hương Sơn, thượng Đức Thọ, mà trung tâm là địa bàn huyện Vũ Quang bây giờ, một lần nữa trở thành căn cứ kháng chiến. Vùng căn cứ này gọi là An toàn khu (ATK).

Đầu năm 1947, cho đến chuyến tàu cuối cùng ngày 16/2, hàng ngàn công nhân, cán bộ và gia đình họ, cùng hàng ngàn tấn máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu của xưởng sửa chữa xe lửa Đà Nẵng, Đồng Hới, của trường kỹ nghệ, xưởng đúc tiền của cơ quan Ấn loát tài chính Trung bộ,

hài cụ Phan mà là của một người khác, người ta đánh tráo, còn thi hài cụ Phan được dân bí mật mai táng ở rú Son, tức ngôi mộ hiện nay. Cũng có người nói mộ ấy chỉ chôn một ít tro còn sót lại (?). Xin chép để tham khảo. 90 “Thành Vụ Quang” ở xã Hương Quang đã được xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia. Trong khu di tích có tấm bia “Kỷ niệm khởi nghĩa Hương Khê và Chiến thắng Vụ Quang”. Văn bia bằng chữ Việt và chữ Pháp do Giáo sư sử học Đinh Xuân Lâm viết. - Gần đây, nhân dân xã Hương Quang đã lập đền thờ cụ Phan Đình Phùng. Theo truyền ngôn thì ngày trước ở vùng Khê Thượng (Hương Đại) có ngôi miếu thờ cụ Phan và tướng Cao Thắng. Đại tá Lê Thanh Oai, Chủ tịch Hội CCB Vũ Quang cũng cho biết hiện ở xã Đức Lĩnh (Hạ Bồng cũ) có ngôi đền thờ Cao Thắng.

Page 218: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

218

các nhà in, xưởng điện, xưởng sửa chữa ô-tô tư nhân, toàn bộ dụng cụ thí nghiệm và sách khoa học kỹ thuật của trường Quốc học Huế cùng hàng ngàn tấn sắt thép, ống nước, hóa chất… đã được tập kết ở vùng Hương Khê. Đồng thời, cán bộ, công nhân, máy móc của Hỏa xa Hà Nội, Đồng Văn, Phủ Lạng Thương cũng được chuyển vào. Về sau, còn có công nhân xưởng Nguyễn Chí Diểu (Quảng Bình), xưởng Hoàng Văn Thụ (LK3) đến tiếp. Cán bộ, công nhân, được sự giúp đỡ tận tình và tham gia tích cực của nhân dân địa phương, đã nhanh chóng tìm địa điểm, ổn định việc ăn ở, vận chuyển bằng đường bộ, đường sông hàng nghìn tấn máy móc, thiết bị, dựng nhà xưởng, lắp đặt máy, chỉ trong vòng một vài tháng, đã bắt tay vào sản xuất.

Một số cơ quan đóng tại xã Châu Phong (nay là Tùng Ảnh) bên bờ sông La. Trường Quốc học Huế đổi là trường Huỳnh Thúc Kháng, lúc đầu ở xã Bồng Giang (nay thuộc Đức Bồng, Đức Lĩnh) sau cũng xuống đây. Xưởng Ấn loát tài chính Trung bộ (ÂLTCTB) đặc trách in giấy bạc tài chính, ta quen gọi “giấy bạc Cụ Hồ”, đặt tại xóm Văn Giang, xã Thịnh Văn (nay là Sơn Thịnh) trong vùng đồi tranh bên bờ hói Đọng, phía ngoài là sông Ngàn Phố.

Một bộ phận công nhân hỏa xa và các xưởng sửa chữa Huế, Thuận Lý, lập xưởng sản xuất vũ khí Gia Ninh ở xã Phúc Đồng, sau chuyển thành xưởng Tháng Tám (gọi là Cơ xưởng I - CX I). Trường kỹ nghệ thực hành Huế, cùng bộ phận còn lại công nhân hỏa xa cũng chuyển đến Phúc Đồng, thành lập xưởng vũ khí Phúc Đồng (còn gọi Cơ xưởng II - CX II), và trường đào tạo công nhân lấy tên Trường kỹ thuật Huế - Phúc Đồng. Công nhân hỏa xa từ Bắc vào tập kết ở ga Phúc Trạch, cùng với công nhân đề-pô Phúc Trạch xuống lập cơ xưởng Yên Duệ (còn gọi Cơ xưởng III - CX III ở xã Liên Hương, nay là xã Đức Hương). Còn số thợ đúc ở Huế ra cùng với 12 thợ đúc Bình Lộc, Can Lộc, lập xưởng đúc Long Giang (nay là xã Đức Giang). Xưởng này sau được tăng cường thêm số thợ lên đến trên 100, chuyên đúc vỏ lựu đạn, chảo gang sấy thuốc nổ và các chi tiết máy cho các xưởng bạn.

Các cơ sở nghiên cứu, chế hóa chất đóng ở Chu Lễ và vùng xung quanh. Phòng I do Giáo sư Phạm Đình Ái làm giám đốc là nơi nghiên cứu

Page 219: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

219

sản xuất các loại hóa chất, thuốc nổ… Phòng II, đúng ra là xưởng thợ, có 200 người chuyên tra thuốc nổ vào lựu đạn và mìn. Phòng III có dăm chục công nhân, chuyên sản xuất thuốc nổ. Bên cạnh ba phòng hóa chất, còn có phòng bào chế tân dược. Cùng ở Chu Lễ có xưởng Điện xa, nguyên là xưởng tư của ông Trần Ba (thường gọi Ba Điện) ở Huế ra, nay thành xưởng quốc phòng, chuyên sửa chữa ô tô, máy móc, và đóng ca-nô. Về sau còn có xưởng sản xuất mực in ở chợ Bộng và xưởng giấy Đồng Quang chuyên làm giấy in bạc ở Tân Mỹ (Hương Sơn).

Gia đình của cán bộ, công nhân sơ tán đến, được cung cấp vốn liếng, tư liệu thành lập hai trại khai hoang, sản xuất ở Tân Hương, Tây Hồ (Hương Khê). Ở Tây Hồ, bà con lập xưởng Nghĩa Thuận, nhận làm nông cụ, vũ khí…

*

* *

Tháng 5 năm 1947, quân Pháp đánh ra Quảng Bình, tàu chiến rập rình ngoài biển Thanh, Nghệ, Tĩnh, pháo kích vào Kỳ Anh, Cửa Nhượng, Cửa Sót… Trong khi đó, nhu cầu in giấy bạc với số lượng lớn, cũng như yêu cầu bảo vệ tuyệt đối bí mật các cơ sở sản xuất, đòi hỏi vùng ATK phải được điều chỉnh, quy hoạch lại và thêm nhiều cơ sở mới.

Các cơ sở nghiên cứu, sản xuất hóa chất, xưởng điện cơ… ở Chu Lễ và các cơ xưởng I, II cùng Trường kỹ nghệ ở Phúc Đồng (nay thuộc huyện Hương Khê) đều được đặt trong rừng sâu, dưới sự lãnh đạo của một Ban phụ trách riêng, gọi là ATK I.

ATK I được coi là “Mật khu”, việc bảo vệ rất nghiêm mật. Đường vào bãi Trả phải qua ba trạm kiểm soát. Phía tây có phân xưởng vô tuyến điện, xưởng đúc, ban tiếp tế… Qua đò, vào Cuội, qua thung lũng, nép theo chân núi, bờ khe là nhà cửa, lán trại của Văn phòng Đặc phái viên Chính phủ, khu tập thể nữ của Phòng 3 (xưởng thuốc đen, chuyên nhồi thuốc lựu đạn, mìn cối. Ở đây có chiến sĩ thi đua toàn quốc Trương Thị Xin), khu tập thể nam, khu y tế…

Qua ba con suối nữa thì đến lò đúc, số đông công nhân là dân phường đúc từ Huế ra. Quanh lò đúc là kho tiền đồng thu gom trong “Tuần lễ

Page 220: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

220

đồng”. Trong “mật khu còn có hai nơi chôn giấu vàng mà nhân dân LK IV quyên góp trong “Tuần lễ vàng”. Các kho báu này được bảo vệ chu đáo, về sau được chuyển ra Bộ Tài chính.

Cuối thung lũng là Cột, lội suối hàng giờ lại đến Cơ xưởng 8 (C.2) đóng trong một thung lũng hẹp. Ở đây có những cây mít cổ thụ do nghĩa quân Cần Vương trồng từ cuối thế kỷ XIX, dân gian gọi là “Vườn cụ Phan”. Toàn bộ khu xưởng đều dùng cây sống làm cột, tàn lá che kín mái. Trừ xưởng máy, tiện, nguội, rèn và nhà ăn còn đều là nhà sàn, tầng trên là nơi ngủ, tầng dưới là nơi làm việc, kho hàng. Ở xưởng này có anh Hoàng, một sĩ quan Nhật năm 1945 không về nước, ở lại giúp ta nghiên cứu, chế tạo “bom bay”.

Băng đường rừng khá xa thì đến thung lũng thứ ba, thung lũng lớn nhất trong ATK I. Đây là nơi đặt lò a-xit (hay xưởng Axit)… sản xuất theo quy trình công nghệ, thành quả nghiên cứu của Phòng 1 do Giáo sư Phạm Đình Ái phụ trách. Công nhân làm việc ở lò, ngoài việc chịu đựng gian khổ như anh chị em nơi khác, nhiều người còn bị nhiễm độc, có người chết vì bệnh nghề nghiệp.

Một số xí nghiệp, cơ sở khác được di chuyển lên tập trung ở vùng hói Trùng, hói Trí, cách ATK I khoảng 5km đường rừng, thuộc đất xã Hương Giang (nay là Hương Quang, Hương Minh… huyện Vũ Quang) thành lập ATK II.

Đầu mùa thu 1947, ông Nguyễn Chung Anh, đặc phái viên Nha tài chính Trung bộ, được cử đi khảo sát, tìm địa điểm xây dựng ATK mới. Nguyễn Chúc, người cùng đi chuyến ấy, kể lại trong bài hồi ký rằng: Hai ông đến xã Hương Quang, bàn bạc công việc với ông Sen, Chủ tịch xã, được ông ta tiễn đến độn Mộc Bài, hướng dẫn đường sá và giới thiệu những người cần gặp trong núi. Hai ông đến xóm Mộc Bài rồi vào rừng… “Qua rừng lại đến suối, cứ như thế đi mãi, chúng tôi đếm có 25 khe suối lớn nhỏ. Đi đường rừng khoảng 5 - 6 cây số… mới đến một thung lũng có 6 - 7 gia đình làm nghề nông, nghề rừng, đào nâu, tìm mật ong, hầu hết người gầy yếu vì sốt rét, kinh tế nghèo vì đến mùa thu hoạch đã bị thú rừng phá phách. Chính nơi đây là hói Trùng, nơi chúng tôi chọn địa điểm xây dựng ATK II. Ông Sen… đã giới thiệu chúng tôi đến nhà ông Cu Thái, ông

Page 221: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

221

Cu Thân để bàn việc…” (“Một thời không quên” - Tập II).

Chuyển vào địa điểm mới trước tiên là xưởng sản xuất vũ khí, gồm Cơ xưởng III Yên Duệ (Đức Hương) và xưởng đúc Long Giang (Đức Giang) chuyển lên với gần 300 công nhân và hàng trăm tấn thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu. Nhà xưởng rộng 200m2 làm dưới cây cổ thụ to cạnh đồi, rừng bao quanh, gần lại có con suối chảy qua.

Sau đó đến lượt Sở ấn loát tài chính Trung bộ từ Văn Giang (xã Thịnh Văn - Sơn Thịnh) di chuyển lên. Xưởng này có 150 công nhân và các loại máy in lớn nhỏ, cùng các loại giấy, mực, chữ, các nguyên vật liệu khác và khối lượng lớn giấy bạc đã in…

Ban phụ trách ATK II là các ông Dương Phùng, Đặng Ngọc Sách, Nguyễn Chung Anh, Nguyễn Chín, và ông Nguyễn Tuy, tỉnh ủy viên Hà Tĩnh được biệt phái lên phụ trách công tác Đảng. Đầu năm 1948, số cán bộ, công nhân viên ở ATK II lên tới trên 1.000 người, trong đó có 3 đảng viên cộng sản.

Sau chiến dịch Biên Giới (1950) thắng lợi, cục diện chiến tranh có nhiều thay đổi, quân và dân ta ngày càng đánh mạnh, thắng to. Xưởng ALTCTB được lệnh chuyển một bộ phận về lại Văn Giang (Hương Sơn). Ở ATK còn lại phân xưởng 2 ở hói Trí đến cuối năm 1951 cũng chuyển về hói Đọng, Thịnh Văn. Từ ấy đến 1952, các đơn vị sản xuất vũ khí, phục vụ lần lượt rút khỏi rừng núi Vụ Quang. Lại một lần di chuyển nữa, không kém vất vả, nhưng là cuộc trở về sau ngày thắng lợi.

Trong những năm cuối của cuộc kháng chiến 9 năm, Hà Tĩnh bị máy bay địch đánh phá ác liệt. Nhưng An toàn khu Hà Tĩnh, thường được gọi “Mật khu Vụ Quang” vẫn tuyệt đối an toàn. Nhờ núi rừng một phần, nhưng những người từng ở ATK đều nói rằng, chủ yếu là sự che chở của dân mà công tác bảo mật phòng gian đạt kết quả tuyệt vời. Từ ATK, vũ khí của các xí nghiệp quốc phòng được chuyển ra mặt trận; “giấy bạc Cụ Hồ” được đưa vào tận Liên khu 5…

NGÃ BA ĐỒNG LỘC

Đây là nơi đường tỉnh 2 từ Ba Giang lên nối vào đường chiến lược 15A từ Khiêm Ích đi Truông Bát. Khu vực Ngã ba nằm gọn trong một thung

Page 222: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

222

lũng tam giác chỉ rộng 50 ha, phía đông là núi Mòi và kênh đào Vách Nam, phía đông nam là núi Mũi Mác và phía tây nam là núi Trọ Voi (trong dãy Trường Thành). Quanh Ngã ba này có cầu Bạng, cầu Tùng Cốc, núi Túi và cống 19.

Khi các cầu cống trên quốc lộ 1A bị không quân Mỹ phá sập thì Ngã ba Đồng Lộc trở thành yết hầu giao thông trên đất Hà Tĩnh, nối hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền Nam. Do đó, Mỹ tập trung lực lượng không quân lớn đánh vào ngã ba này, hòng cắt đứt tuyến vận tải. Tính chung trong 8 năm chiến tranh (1965-1972) máy bay Mỹ đã ném xuống vùng Ngã ba 42.900 quả bom phá, 12.000 quả bom từ trường, 96 bom bi mẹ, 94 quả rốc két… Suốt tháng 7/1968 trên bầu trời ngã ba không lúc nào ngớt tiếng máy bay. Có ngày (7/7) chúng đánh tới 60 trận, mỗi trận từ 50 đến 60 lượt chiếc.

Bên cạnh các đơn vị bộ đội phòng không, trong thời gian này có một lực lượng đông đảo các đơn vị đảm bảo giao thông. Đại đội 2 chủ lực của giao thông huyện, các đại đội 551 và 552 thuộc Tổng đội 55 T18 Thanh niên xung phong Hà Tĩnh, đội cơ giới ủi gạt C100, cùng nhiều đơn vị phá bom từ trường, bom nổ chậm… Nhân dân cả huyện, cả tỉnh cũng đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp công sức, riêng đồng bào xã Đồng Lộc đã đóng góp 185.450 ngày công với 12.620 lượt người tham gia, san lấp hố bom, chống lầy… và dân quân đã cùng bộ đội bắn rơi 7 máy bay Mỹ trên bầu trời Đồng Lộc.

Trong cuộc chiến đấu ác liệt giữa quân và dân ta và không lực Mỹ, nhiều tấm gương sáng đã nổi lên như những anh hùng. Riêng trong lực lượng đảm bảo giao thông, đó là cô gái 19 tuổi La Thị Tám (C2), 70 ngày đêm liền cùng đồng đội thay phiên trực chiến trên đài quan sát núi Mòi; là Nguyễn Tri Ân (C551) một mình phá 54 quả bom từ trường và bom nổ chậm, mở thông 150 mét đường cho xe qua; là Nguyễn Tiến Tuẩn (đồn công an bảo vệ giao thông); là Vương Đình Nhỏ; Uông Xuân Lý, là đơn vị C551; là tổ máy gạt C100; là “Tiểu đội mười cô” thanh niên xung phong: Võ Thị Tần, Hồ Thị Cúc, Nguyễn Thị Nhỏ, Võ Thị Hòa; Võ Thị Hợi, Trần Thị Hường; Trần Thị Rạng, Nguyễn Thị Xuân, Dương Thị Xuân, Hà Thị Xanh.

Page 223: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

223

Sau ngày chiến thắng, khu vực Ngã ba Đồng Lộc được xếp hạng “Di tích lịch sử kháng chiến quốc gia”.

Khu Di tích từng bước được xây dựng với công sức của nhân dân Can Lộc, Hà Tĩnh, với sự đầu tư giúp đỡ của Nhà nước, của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, của Quân đội và Bộ Giao thông vận tải, của thanh niên và đồng bào cả nước. Những con đường từ huyện lỵ lên Ngã ba và đường 15A từ Ngã ba đến eo Truông Kén đã được nâng cấp, rải nhựa.

Năm 1990, khi nghĩa trang mười cô thanh niên xung phong được xây dựng, bên phải đường vào mộ, một hố bom được giữ lại, gợi nhớ về cuộc chiến tranh ác liệt. Các ngôi mộ đều ốp đá và có mộ chí, phía trước là tấm bia cao ghi tên họ các cô.

Năm 1991, ngành giao thông dựng một biểu tượng cao 19,5m ở trung tâm Ngã ba, ba mặt có phù điêu hình vành lái ô tô, giữa bông lúa, khẩu súng, chiếc cuốc chim và vòng hoa chiến thắng…

Những năm gần đây, được Chính phủ cho phép, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã có quy hoạch tổng thể và tiến hành xây dựng Ngã ba Đồng Lộc thành khu di tích lưu niệm Thanh niên xung phong toàn quốc.

Ngày nay, giữa vùng Ngã ba, ngoài “Khu mộ mười cô” và biểu tượng giao thông vận tải, những công trình đồ sộ mới đã mọc lên. Ở vị trí trung tâm, mỏm Trường Thành bên mái núi Trọ Voi, là tượng đài cao lớn với nhóm tượng Thanh niên xung phong và các cánh phù điêu. Phía phải, trên mái núi là nhà bia tưởng niệm ghi tên hàng vạn thanh niên xung phong đã hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đối diện với khu tượng đài là quảng trường nghi thức và phía nam quảng trường là công viên văn hóa tuổi trẻ đang xây dựng, ở khu đông nam đối diện “Khu mộ mười cô” là công trình nhà lưu niệm vừa xây xong trên núi Mũi Mác…

Ngày nay, khu di tích Ngã ba Đồng Lộc là một công viên lớn của thanh niên cả nước, mang đầy đủ ý nghĩa một biểu tượng của tinh thần và trí tuệ Việt Nam.

Page 224: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

224

CHƯƠNG VI

TÍN NGƯỠNG – TÔN GIÁO VÀ CÁC DI TÍCH TIÊU BIỂU

“Đằng sau hương khói nghi ngút của các linh từ…, bên cạnh màu sắc mê tín, bấy nhiêu di tích là những kỷ niệm thiêng liêng, có ý nghĩa giáo dục khá hùng hậu…”.

GS. Đặng Thai Mai

VÙNG NGÀN HỐNG – MỘT TRUNG TÂM PHẬT GIÁO THỜI LÝ – TRẦN Ở PHÍA NAM ĐẠI VIỆT

Sách “Đạo giáo nguyên lưu” của An Thiền (TK XIX) trong phần “Đại Nam Thiền học sơ khởi” viết về các nhà sư thời Hùng Vương (Hùng Vương Phạm tăng) như sau: “… Dưới thời Hùng Vương, khi dạo núi Quỳnh Viên, Chử Đồng Tử gặp một nhà sư tên là Phật Quang tại một túp lều. Nhà sư này gốc người Ấn, tuổi trên bốn mươi. Ông truyền cho Đồng Tử một cái nón lá và một cây gậy, bảo rằng đó là chìa khóa của mọi quyền lực huyền bí. Đến lượt Đồng Tử truyền dạy đạo Phật cho Tiên Dung…”.

Chuyện “Nhất dạ trạch” trong “Lĩnh Nam chích quái” của Vũ Quỳnh và Kiều Phú viết từ thế kỷ XV cũng đã kể như vậy. Sách này nói chuyện xảy ra đời vua Hùng thứ III, nhưng theo “Ngọc phả Hùng Vương” lại là đời vua Hùng thứ XVIII.

Cụ Bùi Dương Lịch, trong “Nghệ An ký”, viết về núi Quỳnh Viên: “… Tương truyền đời Hùng Vương, Chử Đồng Tử và nàng Tiên Dung tu đạo ở

Page 225: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

225

đó… nhưng việc ấy là một việc hoang đường, không nên tin”.

Nhưng Lê Mạnh Thát, trong “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” (T.1. NXB Thuận Hóa – Huế 1999) lại khẳng định việc Chử Đồng Tử được sư Phật Quang (mà ông đoán là người Chiêm Thành hoặc người Ấn Độ) truyền dạy đạo Phật là có thật, và đạo Phật họ Chử tiếp thụ là truyền thống Phật giáo quyền năng, ra đời trước truyền thống Phật giáo Thiền. Ông cho rằng Chử Đồng Tử là Phật tử Việt Nam đầu tiên…

Đến khi Luy Lâu (Dâu) ở Giao Châu, trung tâm Phật giáo ra đời sớm nhất ở Đông Á đã rất phồn thịnh, và ở Chiêm Thành, Phù Nam, Phật giáo cũng đã được truyền bá trước thế kỷ IV, thì tất yếu tôn giáo này từ hai phía bắc, nam đất nước cũng tràn vào vùng Hoan Châu – xứ Nghệ.

Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép năm Quý Hợi (603) đời Tùy Văn đế, tướng Lưu Phương sang làm Giao Châu đạo hành quân tổng quản để đánh dẹp nhà Hậu Lý (571-603). Đến năm Ất sửu (605) đời Dương đế, Phương được phong làm Hoan Châu đạo hành quân tổng quản để đi đánh Lâm Ấp. Thời gian này, Phương đóng quân trên vùng đất Hà Tĩnh bây giờ. Theo sách “Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hành ngữ lục” thì Cao đế nhà Tùy (có lẽ là Văn đế, Dương đế hay Cung đế, không có Cao đế – TKĐ) sai sứ mang năm hòm xá lỵ của Phật Thích Ca cho Lưu Phương, vì muốn bành trướng thế lực xuống phía Nam, đến tận Chiêm Thành. Sư Pháp Hiền (?-626) ở Giao Châu bảo mảnh đất thuần khiết là chùa Pháp Vân. Phương xây tháp ở đây đặt một hòm xá lỵ. Các hòm khác được phân phát cho các xứ Hoan, Ái” (Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa).

Có thể một trong những hòm xá lỵ ấy đã được đặt ở tháp Nhạn, một ngọn tháp được xây dựng vào thế kỷ thứ VII ở trên núi Nhạn, làng Nhạn Tháp (xã Hồng Long, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An bây giờ), mà các nhà khảo cổ học đã khảo sát, xác định.

Sách “Đại Nam nhất thống chí” chép về ngôi chùa Linh Vân: “(Chùa) ở xã Yên Trường, huyện Chân Lộc (nay là TP. Vinh – TKĐ) do Cao Biền đời Đường xây dựng, phía trước trông ra sông, bên cạnh có giếng đá, phong cảnh đáng yêu”. Lại sách “Nghệ An cổ tích lục” chép về chùa Sư Tử ở Ngàn Hống, nói rằng về thời thuộc nhà Đường, Cao Biền dùng bùa yểm trấn ở chùa này bị thần núi đến quở phạt, cho một con vật như con

Page 226: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

226

trâu đến cắn vào chân… Biền hoảng sợ, phải bỏ hết bùa yểm. Cao Biền sang cai trị nước ta từ 864-868. Như vậy là ở giữa thế kỷ IX, ở Châu Hoan ít ra có thể đã có hai ngôi chùa, một ở vùng núi Quyết, một ở vùng núi Hồng.

Sách “Phật giáo ở Việt Nam – từ nguồn gốc đến thế kỷ XIII” (Le Bouddhisme en Annam – des origines au XIII e siècle – của Trần Văn Giáp, bản dịch của Tuệ Sĩ) cho biết nhiều thông tin quan trọng: Theo “Thiền uyển tập anh” có sư Ma-hà (hay Ma-hà Ma-ra) thuộc thế hệ X phái Tì-ni-đa-lưu-chi, (cùng thời với sư Pháp Thuận (?-990) thời Tiền Lê), gốc Chàm, lấy họ Dương, tu ở chùa Quan Ái, du hóa ở Ái Châu, Hoan Châu. Ông mất năm 1029, đời Lý Thái Tông.

Thuộc thế hệ XIX phái này là Thiền sư Y Sơn (1121-1213). Ông họ Nguyễn, quê ở hương Cẩm, châu Nghệ An, xuất gia lúc 30 tuổi với một vị kỳ lão trong làng, sau học với quốc sư Viên Thông (?-1151) ở chùa Đại Từ, hương Đại Thông, quận Long Phúc, những năm cuối tu ở chùa Nam Vô, làng An Lãng, mất đời Lý Huệ Tông, niên hiệu Kiến gia thứ 3. Ông là nhà sư người Nghệ vào lớp sớm nhất mà ta biết được.

Phái Vô-ngôn-thông, có Thiền sư Tịnh Giới, thuộc thế hệ thứ X. Ông tên Chu Hải Ngung (?-1207), quê ở hương Giang Mão, 26 tuổi xuất gia sau một trận đau kịch liệt, theo học một vị sư trong làng, rồi làm đệ tử của sư Bảo Giác (thế hệ thứ IX), chuyên học về Luật (Vinaya), được Bảo Giác truyền chính pháp. Ông trú tại chùa Quốc Thanh trên Bí Linh sơn, phủ Nghệ An (chưa rõ nay là đâu). Sau, ông lui về nguyên đán, trùng tu chùa Quảng Thánh và tịch năm Trị Bình Long Ứng thứ 3 đời Lý Cao Tông (1207).

Đến thế hệ XIV, thuộc phái này có Thiền sư Hiện Quang (?-1120) chính tên Lê Thuần, quê Thăng Long, 11 tuổi, được sư Thường Chiếu (?-1203) thu nạp làm đệ tử. Nhưng trước khi học kinh điển thì thầy mất. Ông bèn đi vân du, đến tham bái Thiền sư Pháp Giới trên núi Uyên Trừng, phủ Nghệ An, và đắc đạo ở đây. Về sau, ông lên núi Tư Sơn dựng một thảo am, rồi lại lui về ẩn ở núi Yên Tử, và tịch năm Kiến gia thứ 11 đời Lý Huệ Tông.

Như vậy, từ đời Lý, chùa Uyên Trừng tức chùa Dằng trên dãy Hồng

Page 227: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

227

Lĩnh (nay thuộc xã Xuân Hồng, Nghi Xuân) đã là ngôi chùa lớn và một vị sư trụ trì, Thiền sư Pháp Giới là thầy của Thiền sư Hiện Quang. Trước và sau ông, chắc chắn có nhiều nhà sư tu hành đắc đạo ở đây… Để có một truyền thống tu hành như vậy, ít ra chùa này phải có cơ sở từ hàng trăm năm trước, có thể là cùng thời hay trước cả các chùa Bột Đà, Nhân Trung, Hoành Sơn, v.v… ở Nghệ An.

Trên núi Nghèn (Ngạn Sơn) ở xã Trảo Nha, nay thuộc thị trấn huyện Can Lộc, ngày trước có chùa Nghèn và ngôi tháp cổ. Sách “Hoan Châu phong thổ ký” của Trần Danh Lâm (1704-1777) có câu: “Giữa xã Trảo Nha, chín nhận tháp cao chót vót”. Theo sách “Nghệ An cổ tích lục” thì “tháp ở xã Trảo Nha do vua Lý Thái Tông (1028-1054) dựng. Xưa Thái Tông vào Nam đóng quân ở đây, đêm mộng thấy Quan Âm Bồ Tát ban cho y bát, khi tỉnh dậy, vua sai dựng chùa, bên ngoài xây ngọn tháp cao hơn trăm thước. Tháp này có chín mặt, thường gọi là “Cửu diện tháp”. (Sách “Nghệ An ký” chép là “tháp chín tầng” và cho biết tháp này đổ năm Cảnh Hưng thứ 35 (1774). Chính sử cũng chép là vua Lý Thái Tông trên đường đi đánh Chiêm Thành, đã qua đây hai lần vào năm Tân tỵ (1031) và năm Giáp thân (1044). Sử chép thêm: “năm Thiên Thánh thứ 4, (1031) ở Châu Hoan về, vua (Thái Tông) ra lệnh xây 950 ngôi chùa, chắc là trong số đó có chùa Nghèn”.

Đời Trần, chùa chiền càng được xây dựng thêm nhiều ở Nghệ Tĩnh trong đó có những chùa nổi tiếng mà ngày nay ta còn được biết. Đó là chùa Thung ở Đông Lũy vốn là phủ đệ riêng của Tĩnh quốc đại vương Trần Quốc Khang dựng năm Canh Ngọ (1270) khi ông làm tri châu Châu Diễn; Chùa Yên Quốc ở trên núi Lam Thành, nơi về sau nghĩa sĩ Nguyễn Biểu bị sát hại (1413), ở bờ bắc sông Lam. Phía nam Lam, có chùa Ân Quang tức chùa Gành ở Phù Thạch (nay là Đức Vịnh, Đức Thọ), nơi tổ tiên nhà thơ Phạm Ngộ đời Trần từng du hành; chùa Hương Tích trên ngọn núi cùng tên (nay thuộc đất Thiên Lộc, Can Lộc) mà La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp (1723-1804) mô tả (dịch thơ): “Ngôi chùa Hương Tích đời Trần – Dựng trên ngọn núi đẹp nhất dãy núi Ngàn Hống…”, là “Hoan Châu đệ nhất danh lam”. Chùa Rối ở làng Om Hạ (nay là Cẩm Thịnh, Cẩm Xuyên), có quả chuông lớn ngoài khắc bài thơ của Phạm Sư Mạnh đời Trần, do Cung nội thượng ban Phùng Thị… pháp hiệu Từ Nghiêm cúng tiến.

Page 228: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

228

Chùa Thiện Tượng ở trên ngọn núi cùng tên trong dãy Ngàn Hống (nay thuộc đất Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh) nơi Phạm Sư Mạnh cũng từng lên thăm và làm bài thơ “Sơn hành”. Theo Phả chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh thì đời Lê, có “Chuyết Công Thiền sư người Trung Quốc, thuộc dòng Thiền Lâm Tế sang Việt Nam đầu TK XVII, cùng hai sư Minh Hành, Minh Lượng vào Thuận Hóa bằng đường biển. Sau thời gian hoằng hóa tại đó, ngài theo đường thiên lý ra Bắc, qua Hồng Lĩnh (năm 1638), thấy cảnh thanh u bèn cắm tích trượng tại đó, đặt tên chùa là Thiên Tượng, hạt giống đầu tiên của phái Mật tông ở Nghệ Tĩnh. Ngài ở lại Thiên Tượng ba năm, đào tạo nhiều môn sinh rồi giao chùa cho nhà sư Minh Hành, vãn du ra Bắc. Ngài có ghé lại Trường Lâm, Hà Trung, Thanh Hóa một thời gian, sau về chùa Bút Tháp, Thuận Thành Kinh Bắc. Hiện có tượng ngài thờ tại chùa Bút Tháp và nhục thể tại chùa Phật Tích”.

Nếu căn cứ vào tài liệu ở chùa Bút Tháp thì chùa Thiên Tượng do Chuyết công thiền sư dựng từ cuối đời Lê. Nhưng sách “Hoàng Việt nhất thống dư địa chí” lại chép rất rõ là chùa này lập từ đời Trần. Như vậy là khi sư Chuyết Công đến, chùa đã có từ lâu rồi.

Đến đời Lê, Nguyễn, số chùa càng nhiều, hầu như không mấy làng xã không có. Nhiều chùa lớn nổi tiếng đời Lê ở Hà Tĩnh được sách vở, bi ký ghi chép lại: Chùa Diên Quang tức chùa Am, Huyền Lâm tức chùa Đá, Nam Ngạn… (ở La Sơn, Đức Thọ), các chùa Tàng Sơn, Tượng Sơn (ở Hương Sơn); chùa Quang Minh (ở Hương Khê), các chùa Am Dung, Kim Liên, Hưng Long, Viên Quang… (ở Nghi Xuân), các chùa Hân Thiên, Bàn Thạch… (ở Can Lộc), các chùa Cảm Sơn, Nghĩa Sơn… (ở Thạch Hà) v.v…

Đời Nguyễn, tuy Phật giáo có phần kém sút so với trước nhưng chùa chiền vẫn được tiếp tục tu sửa và xây dựng thêm ở nhiều nơi91.

Cùng với đà phát triển của đạo Phật, rất nhiều người Nghệ Tĩnh đã trở

91 Sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi chép 19 ngôi chùa ở Nghệ Tĩnh thì bên Nghệ có 6, bên Tĩnh có 3. Theo Danh mục các di tích ở Hà Tĩnh tổng kiểm kê năm 1994 thì Hà Tĩnh hiện biết được 12 ngôi chùa. Còn theo tư liệu ghi chép của những TKĐ thì số chùa còn biết được là 170.

Page 229: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

229

thành nhà tu hành, nhiều vị đắc đạo, nổi tiếng như Thiền sư Pháp Giới đời Lý, là thầy của Thiền sư Hiện Quang (?-1120); Thiền sư Y Sơn (1121-1213), tổ thứ IX dòng Thiền phương Nam; Thiền sư Hương Hải (1631-1718), lúc trẻ theo Nguyễn Hoàng vào nam, 18 tuổi đỗ Hương Tiến, làm Tri phủ rồi bỏ quan đi tu lúc 25 tuổi, sau về Bắc tu ở chùa Nguyệt Đường (Sơn Nam), nối phái Trúc Lâm, thường gọi Tổ Cầu v.v…

Các nhà Nho ở làng, xã thường tham gia công việc nhà chùa. Rất nhiều người thông hiểu Phật học, nhất là khi có các cuộc thi Tam giáo. Nhiều người còn tu thiền như Phan Huy Ích (1751-1822), Phật hiệu là Bảo chân đạo nhân, Nguyễn Đạm tức Nguyễn Hành (1771-1824) Phật hiệu là Hải Điền…Thi hào Nguyễn Du (1765-1820) cũng là người tinh thông Phật học, và là tác giả bài “Văn tế thập loại chúng sinh” dùng trong các nhà chùa xứ Nghệ…

Một ít tư liệu trên đây cũng đủ cho ta thấy rằng Phật giáo được truyền đến Nghệ Tĩnh khá sớm, chậm nhất cũng phải vào đầu thế kỷ VII đến thế kỷ IX thời thuộc Tùy, Đường, và có thể còn sớm hơn nhiều.

Chùa chiền ở xứ Nghệ, đặc biệt là những thiền viện nổi tiếng, đều tập trung trong vùng Ngàn Hống.

Tiến sĩ Trần Danh Lâm (1704-1777) viết trong bài “Hoan châu phong thổ ký”: “… Chùa Động Dang quang cảnh vui thay - Chùa Thiên Tượng thanh tao khác tục - Một vùng cõi tĩnh, chùa Long Đàm gió mát trăng trong - Bảy chục nền xưa, chùa Sư Tử yên hà dấu cũ - Chùa Am Đông nổi tiếng, bàn Phật nguy nga - Chùa Bạch Đế cảnh tiên, long cung đáy nước…” (bản dịch của Ngô Đức Thọ). Theo các sách cổ, thì trên triền núi Hồng Lĩnh (không kể ở các làng ven núi) có tới 23 ngôi chùa. Như ta biết chắc chắn chùa Hoa Tàng (chùa Dằng) có từ đời Lý, thì rất nhiều chùa khác cũng được xây dựng từ đời Lý - Trần trong đó có bốn “danh lam xứ Nghệ” là Hương Tích, Báo Ân, Long Đàm, Bạch Đế. Lại còn Thiên Tượng, cùng với Hương Tích, đều được coi là danh lam tiêu biểu nhất ở Hồng Sơn.

Một ngôi chùa khác là Am Đông (hay Am Dung) ở ngọn Ngọc Lâu (rú Lầu) xã Hoa Phẩm (nay là xã Xuân Lam), cũng có thể được dựng từ đời Lý, hơn nữa, chùa này có thể là một cơ sở của phái Thảo Đường. Vua Lý Thánh Tông (?-1072), người lập phái tu Thảo Đường, đã “từng dựng hành

Page 230: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

230

cung trên ngọn núi này làm nơi du ngoạn”, cũng có thể là người cho dựng chùa Am Đông. Nếu đúng là vậy thì không những trên Ngàn Hống, trên đất Nghệ Tĩnh, ngoài Thiền tông, còn có Thảo đường tông92, và Mật tông (do chuyết công Thiền sư truyền đến) nữa. Như vậy, vùng Ngàn Hống chính là một trung tâm Phật giáo lớn ở phía nam Đại Việt thời Lý, Trần, Lê Sơ93.

THỌ KỲ VÀ ĐẠO THIÊN CHÚA Ở LA SƠN (ĐỨC THỌ)

Theo sách Khâm định Việt Sử thông giám cương mục thì vào năm Nguyên Hòa thứ nhất đời Lê Trang Tôn, tức năm Đại chính thứ tư đời Mạc Đăng Doanh (1533), một người Âu là I-nê-khu đến truyền giáo ở vùng Xuân Thủy và Nam Chân (Sơn Nam hạ). Ngót 100 năm sau, năm 1629, đạo Thiên chúa mới từ vùng Cửa Lò, Cửa Hội truyền vào La Sơn, gây dựng giáo điểm đầu tiên ở Kẻ Thượng (Trường Xuân), rồi từ đây, xuống Thọ Kỳ. Thọ Kỳ (gồm 4 thôn Thọ Tường, Thọ Ninh, Yên Phú, Yên Mỹ) nhanh chóng trở thành một giáo xứ quan trọng.

Năm 1796, Phó tòa Giám mục Tây Đàng Ngoài là Sác Đờ la Mốt Hậu (Hau Charles de la Mothe) bỏ xứ Trang Đen (Nghệ An) về Thọ Kỳ (thôn Thọ Ninh). Từ đó Thọ Kỳ trở thành tòa Giám mục phó giáo phận. (Tòa Giám mục chánh đặt ở Hà Nội).

Năm 1814 đời Nguyễn Gia Long, Giám mục phó Hậu mất ở Thọ Kỳ. Ghê-ra Đoan (Doan J.J Guérard) lên thay làm Giám mục phó, và vị này cũng mất ở đây vào năm 1823, đời Minh Mệnh. Tiếp đó là các Giám mục phó Ô-li-vi-ê Phan (Phan J.F Olivier) và Ha-va Giu (Giu J.Havard) thay nhau ở Thọ Kỳ một thời gian ngắn, từ 1825 đến 1830.

Giai đoạn này, nhà Nguyễn cấm đạo, giáo sĩ, giáo dân bị kiểm soát gắt gao. Thừa sai Mát-xông Nghiêm (Nghiem C.Masson) được cử làm cha bề

92 Ở chùa Bụt Đà, Lý Đạo Thành đặt vị hiệu Lý Thánh Tông, người mà ông ngưỡng mộ, chắc cũng không khỏi có dấu vết của dòng này. 93 Trong một bài nghiên cứu Giáo sư Bùi Văn Nguyên cho rằng Ngàn Hống, có thể là điểm xuất phát của một trong những con đường đi lấy kinh Phật.

Page 231: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

231

trên coi địa phận Nghệ Tĩnh-Bình, rồi Rơ-to Liêu (Lieu Retord) được phong Giám mục phó ở Thọ Kỳ (1838).

Năm 1842 Giám mục phó Gô-chi-ê Ngô-gia Hậu (Hau II J.D.Gauthier) thụ phong ở Kẻ Nón, về Thọ Kỳ bị lùng bắt, phải chạy ra Kẻ Gốm, làng Đoài (tức Xã Đoài, Nghệ An). Từ đây, Thọ Kỳ không còn là tòa Giám mục phó nữa mà chỉ là giáo xứ.

Năm 1846, giáo phận Tây Đàng Ngoài được chia làm hai: Tây Đàng Ngoài và Nam Đàng Ngoài. Giáo phận Nam từ 1924 gọi là giáo phận Vĩnh, rồi Vinh, được thành lập theo sắc chỉ (Exdébitu Pastoralis) ngày 27/3/1846 của Giáo hoàng Grê-gô-riêng XVI. Gô-chi-ê Hậu II được bổ nhiệm làm đại diện Tổng tòa. Đây là vị Giám mục tiên khởi của giáo phận. Tòa giám mục đặt ở Xã Đoài (Nghệ An).

Lúc này Hà Tĩnh có 7 giáo xứ. Riêng ở La Sơn (Đức Thọ) có giáo xứ Thọ Kỳ (Thọ Ninh) với 1914 giáo dân.

Từ giáo xứ Thọ Kỳ, qua quá trình phát triển, tách ra lập thêm các giáo xứ Kẻ Tùng (1892), Đồng Cường (1925), Nghĩa Yên (1943). Đó là bốn giáo xứ trên đất Đức Thọ bây giờ đều thuộc giáo hạt Nghĩa Yên. Thuộc giáo hạt này còn có các xứ Đông Tràng, Kẻ Động, Kẻ Mui (Hương Sơn), Tràng Đình, Tân Thành, Kim Lâm (Can Lộc), Tiếp Võ (TX Hồng Lĩnh). Số giáo dân toàn hạt đến 1996 là 39.492 người.

Ngót bốn thế kỷ, La Sơn - Đức Thọ được coi là một địa bàn quan trọng của đạo Thiên Chúa. Thọ Kỳ (Thọ Ninh) trong một thời gian khá dài từng là nơi đặt tòa Giám mục phó của giáo phận Nam Đàng Ngoài (1796-1842), và Nghĩa Yên cũng trở thành giáo hạt lớn.

ĐỀN TRẠNG SỬ (SONG TRẠNG NGUYÊN TỪ)

Đền Trạng Sử dựng bên mái tây nam rú Ngọc ở ấp Ngọc Sơn, xã Bình Lãng Thượng, huyện Phỉ Lộc, nay là xã Đức Thuận, thị xã Hồng Lĩnh, thờ cha con Trạng nguyên Sử Hy Nhan - Sử Đức Huy.

Sử Hy Nhan (?-1421) quê ấp Ngọc Sơn, đỗ Trạng nguyên khoa Quí mão (1363) đời Trần Dụ Tông, làm quan đến chức Ngân thanh kim quang

Page 232: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

232

lộc đại phu, Nhập nội thừa chỉ. Con ông là Sử Đức Huy (1360-1430) cũng đỗ Trạng nguyên khoa Tân dậu (1381) đời Trần Phế đế, nhưng không làm quan.

Về học vị Trạng nguyên của hai ông, “Đăng khoa lục” và chính sử đều không chép. Một số sách (như “Đại Nam nhất thống chí”) chỉ chép Sử Hy Nhan đỗ Trạng nguyên. Nhưng sách “Thiên Lộc huyện phong thổ chí” của Cử nhân Lưu Công Đoạn soạn đời Gia Long viết: “… Cha là Hy Nhan, con là Đức Huy vào thi đình đều đỗ Trạng nguyên cập đệ…”. Sách “Quan dư tạp lục” của Tiến sĩ Nguyễn Hoằng Nghĩa viết đời Minh Mệnh dẫn sách “Sử công di tập” cho biết cụ thể năm hai ông thi đỗ (như trên). “Can Lộc huyện chí” (không rõ tác giả) làm đời Tự Đức cũng chép như “Thiên Lộc huyện chí” và thêm lời bình: Tác giả “Đăng khoa lục” không chịu khó kê cứu, bỏ sót nhiều kỳ thi và nhiều người thi đỗ94.

Các sách ngày trước đều chép gần giống nhau: Sử Hy Nhan “tinh sử sách, nhạy văn thơ”…, “không sách gì là không đọc, lại có sở trường về sử, nên được vua cho đổi sang họ Sử”. Sách “Quần hiền phú tập” do Hoàng Sằn Phu sưu tầm còn chép bài phú “Gươm chém rắn” (Trảm xà kiếm phú). Nhiều sách đều thừa nhận bài phú này là “bài thi đình của ông”95.

Sách “Can Lộc huyện phong thổ ký” của Cử nhân Trần Mạnh Đàn chép một giai thoại: “… Ông đã đọc trầm trước mặt nhà vua cả bộ sử Trung Hoa gồm 27 quyển không sót một chữ. Bởi ông giỏi về sử nên vua, ban cho họ Sử”. Còn theo “Quan dư tạp lục” thì: Ông là tác giả sách “Đại Việt sử lược” được vua Duệ Tông (1373-1377) ban khen, thưởng cho chiếc túi thêu cá vàng (Kim ngư đại) và cho đổi họ Trần thành họ Sử. “Đại Việt sử lược” là một trong những bộ sử ra đời sớm nhất ở nước ta, chép lịch sử Đại Việt từ khởi thủy đến năm Đinh tỵ (1377 - năm Duệ Tông mất và Phế đế,

94 Theo “Quan dư tạp lục” của Nguyễn Hoằng Nghĩa (1785-?) thì các tài liệu chép Sử Hy Nhan đỗ đời Duệ Tông là sai. Đời Duệ Tông chỉ có khoa thi năm Giáp dần (1374) mà khoa này đỗ Trạng nguyên là Đào Sư Tích - khoa Tân dậu (1381) - Sử Đức Huy đỗ là năm Xương phù thứ năm (đời Phế đế Hiện), nhưng về sau nhiều nhà viết sách vẫn dùng niên hiệu của Duệ Tông. 95 Các sách “Đại Nam nhất thống chí”, “Thiên Lộc huyện phong thổ chi”… đều chép như vậy.

Page 233: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

233

niên hiệu Xương Phù lên ngôi)96.

Dưới triều nhà Hồ, Sử Hy Nhan và Sử Đức Huy về ở quê nhà Ngọc Sơn. Nhà Hồ mất, quân Minh sang cai trị nước ta, cho quan đi lùng tìm “những ai có tài, có đức, thông kinh sử, giỏi văn thơ, nói năng hoạt bát đưa sang Kim Lăng huấn luyện rồi đưa về Đại Việt làm quan cai trị”. Chính Thượng thư Hoàng Phúc đích thân đi chiêu dụ cha con Sử Hy Nhan. Hai ông lấy cớ già yếu bệnh tật từ chối, rồi cùng một số gia nhân trốn lên vùng núi Mồng Gà (Kê Quan sơn) thuộc đất Đỗ Gia. Do việc hai ông Trạng đến ẩn náu, núi này có tên Tàng Ẩn sơn hay Tàng sơn và vùng này gọi là Kẻ Tàng97.

Sử Hy Nhan và Sử Đức Huy tổ chức khai hoang lập lên xóm Trại Đầu. Về sau số người nghèo đói các nơi đến ngày càng đông, hai ông lại xuất tiền gạo mở rộng việc khai khẩn, biến vùng hoang vu này thành hàng nghìn mẫu ruộng và nhiều xóm làng đông vui (như ngày nay là các xã Ân Phú (Đức Thọ), Sơn Long, Sơn Trà (Hương Sơn). Trong số dân trại có 32 người đói khổ được giúp đỡ, về sau có vợ có chồng, có nhà cửa ruộng nương, do đó có câu: “Bách thiên vạn cao, điền điền hoạch cốc - Tam thập nhị hộ, thế thế tư ân” (Ruộng trăm ngàn vạn sào nơi nơi được thóc - dân ba mươi hai hộ đời đời nhớ ơn). Gần Trại Đầu, trên sông Ngàn Sâu có cái vực. Loài giải sống trong vực thường làm hại người và súc vật, nên gọi là vực Ác. Hai ông đã tìm cách trừ được loài ác vật này. Trạng cha có làm bài “Văn đuổi giải” nay vẫn còn.

Sử Hy Nhan mất ngày 25 tháng bảy năm Tân sửu (1421). Lăng ông đặt trên nền đất cũ. Dân Trại Đầu dựng đền thờ ông gần lăng để tỏ lòng nhớ ơn. Đền và lăng ở cách vực Ác non 1km. Trong đền có bài vị đề: “Trần

96 Từ lâu, sách “Đại Việt sử lược” đã thất truyền. Đầu thế kỷ XIX, ở Việt Nam mới xuất hiện cuốn “Việt sử lược” do tuần phủ Sơn Đông dâng nạp vào “Tứ khố” (Bốn kho sách của triều đình nhà Thanh, Trung Quốc), vua Càn Long (1736-1795) sai sứ quan hiệu đính, in bán ở Trung Quốc và đưa sang Việt Nam. Năm 1960, G.S Trần Quốc Vượng đã phiên dịch, chú thích và cho xuất bản cuốn này. Theo G.S Trần Bá Chí thì “Việt sử lược” chính là “Đại Việt sử lược” của Sử Hy Nhan. 97 Theo Trần Bá Chí trong bài “Sử Hy Nhan và Sử Đức Huy hai nhân vật lịch sử đời Trần” (NCLS số 6-1797) và bài “Sử Đức Huy” (Danh nhân Nghệ Tĩnh - tập IV).

Page 234: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

234

triều khôi nguyên, Nhập nội hành khiển, Tri kinh diên tứ Kim ngư đại, Sử tướng công tự Hy Nhan thần vị”. Năm 1425 Bình Định Vương Lê Lợi về xây dựng căn cứ Đỗ Gia. Lúc đó cũng vừa mãn tang cha, Trạng sư Sử Đức Huy đến yết kiến và được vua Lê tin dùng.

Theo nhiều nguồn tài liệu thì Sử Đức Huy được chọn làm Quốc tử bác sĩ, về sau được thăng đến Thượng thư bộ Hộ và được ban quốc tính (mang họ nhà vua).

Các sách “Quân trung từ mệnh”, “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Việt sử thông giám cương mục”, Thiên Lộc phong thổ thí”… đều chép ông được cử đi sứ Trung Hoa hai lần; lần thứ nhất vào tháng 11 năm Đinh mùi (1427) sung chức phó sứ (Lê Thiếu Dĩnh và Lê Cảnh Quang làm chánh sứ); lần thứ hai vào tháng 10 năm Kỷ dậu (1429 - cùng với Đào Công Soạn, Phạm Khắc Phục). Lần này Sử Đức Huy đã viết bài “Biểu cầu phong” (?). Trong các buổi đối đàm, họa thơ, ông được các văn thần nhà Minh khen là “thánh tâm thần khẩu”…

Năm 1930, sứ bộ trở về, ông được thăng Thượng thư bộ Hộ. Nhưng ít lâu sau, ông đau nặng, xin về quê và mất… Vua Lê cử quan về phúng viếng và sai lập đền thờ.

Ít lâu sau, con trai Sử Đức Huy là Sử Bá Khoan cùng họ hàng và nhân dân Ngọc Sơn dựng ngôi đền thờ hai ông Trạng bên núi.

Tại nhà thờ họ Sử Ngọc Sơn - Đức Thuận, trên bàn thờ còn có chiếc túi thêu cá vàng (Kim ngư đại) do vua Trần ban cho Sử Hy Nhan, và trên tường lại có dòng chữ đề “Long phi Đinh tị quý đông” tức là năm Xương phù nguyên niên (1377), đúng là năm ông kết thúc bộ “Đại Việt sử lược” - chắc cũng là năm ông được ban tặng “Kim ngư đại” (?)98

Sau hai cuộc kháng chiến, ngôi đền thờ hai ông Trạng Sử đã bị bỏ hoang phế hàng mấy chục năm liền nên đã xuống cấp nặng nề.99

98 Trong chiến tranh, dân làng và con cháu họ Sử rước bài vị về nhà thờ, nay mới rước trở lại đền. 99 Hiện nay chưa rõ ra sao, chỉ nghe một số người nói là không còn ngôi đền nữa.

Page 235: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

235

ĐỀN NGHĨA VƯƠNG NGUYỄN BIỂU

Bên mé phải con đường cái từ đò Hào lên ngã ba Trổ - một đoạn quốc lộ số 8 cũ - đi qua làng Nội Diên, xã Yên Hồ, huyện La Sơn, có ngôi đền thờ Nghĩa vương Nguyễn Biểu mà sách xưa thường chép là “Miếu cổ Bình Hồ”. Bình Hồ đời Lê, thời Trần là Bà Hồ, huyện Chi La, từ đời Tây Sơn đổi là Yên Hồ gồm hai thôn Nội Diên, Yên Phúc, nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ.

Về thân thế Nguyễn Biểu, sử sách chép rất sơ sài: Ông quê xã Bà Hồ, huyện Chi La, đỗ Thái học sinh đời Trần100. Ông theo giúp vua Trùng Quang nhà Hậu Trần từ những ngày đầu khi vua mới lên ngôi, tính thẳng thắn, dám nói thật, nên được phong chức Điện tiền thị ngự sử…

Gia phả không chép gốc gác họ Nguyễn Yên Hồ từ đâu tới, tiên tổ xa đời, mà chỉ ghi Nguyễn Biểu là thủy tổ, lại cũng không ghi năm, tháng, ngày sinh, tiểu sử cụ thể của ông.

Về cái chết của Nguyễn Biểu, sách “Đại Việt sử ký toàn thư” (Quyển IX) cũng chỉ chép mấy dòng vắn tắt: “Mùa hạ, tháng tư (năm Quý tỵ, 1413 - TKĐ chú), bọn Trương Phụ nhà Minh đánh vào Nghệ An. Vua chạy về Châu Hóa, sai đài quan là Nguyễn Biểu làm sứ cầu phong, mang sản vật địa phương đến Nghệ An. Trương Phụ giữ lại, Biểu tức giận mắng Phụ rằng: “Trong bụng mưu đánh lấy nước, bên ngoài giả làm quân nhân nghĩa, đã hứa lập con cháu nhà Trần, lại đặt quận huyện; không những chỉ cướp lấy vàng bạc, châu báu, lại còn giết hại sinh dân, thực là giám đốc tàn ngược”. Phụ giận lắm, đem giết”.

Nhưng một số sách, có thể đầu tiên là “Nghĩa sĩ truyện” của Hoàng Trừng101 đã dựa theo dã sử và truyền thuyết, chép việc này khá tỷ mỷ, 100 Có tài liệu chép Nguyễn Biểu đỗ đời Hồ (?). Cuối đời Trần khoa Giáp dần (1374) Duệ Tông mở khoa thi Tiến sĩ. Đến khoa Tân dậu (1381), khoa Giáp tỵ (1384) Thượng hoàng Nghệ Tông mới mở khoa thi lấy Thái học sinh như trước, có thể Nguyễn Biểu đỗ vào các khoa này, (cùng với Trạng nguyên Sử Đức Huy và thủ khoa Đoàn Xuân Lôi, người cùng quê). Nếu ông đỗ đời Hồ thì vào khoa Canh thìn (1400), đồng khoa Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn… 101 Hoàng Trừng quê làng Bình Lỗ (nay là Đức Nhân), chắt ngoại Nguyễn Biểu. Ông học giỏi nổi tiếng, đỗ Hoàng giáp khoa Kỷ Tị (1499) niên hiệu Cảnh Thống thứ 2, đời Lê Hiến Tông - Hoàng Xuân Phong là cháu 12 đời của Hoàng Trừng.

Page 236: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

236

thành một huyền thoại:

… Khi Nguyễn Biểu lên đường vua Trùng Quang có bài thơ đưa tiễn, tỏ lòng tin cậy ở vị sứ giả của mình, và hy vọng “Việc nước một mai công ngỏ vẹn - Gác Lân muôn tiếng dõi lâu xa”. Nguyễn Biểu họa lại thơ vua, khiêm tốn nói: “Hổ mình vả thiếu tài chuyên đối”, nhưng cũng bày tỏ lòng trung thành với quyết tâm: “Dịch lộ ba nghìn dám ngại xa”.

Tiện đường, ông qua thăm nhà, bái yết tổ tiên, và sắm sửa đồ lễ rồi mới sang Lam Thành. Đến dinh Trương Phụ, bị hạch sách, vặn hỏi, Nguyễn Biểu không đổi sắc mặt, đối đáp cứng cỏi. Phụ tỏ ý nể, lưu lại đãi cơm. Nhưng khi nhìn thấy trên mâm có chiếc đầu người luộc chín, biết Phụ định uy hiếp mình, ông thản nhiên nói: “A! Người Nam lại được ăn đầu người Bắc!”, rồi cầm đũa móc hai con mắt, chấm tương ăn. Xong bữa tiệc kỳ quái này, ông còn đọc bài thơ “Ăn cỗ đầu người”. Trương Phụ hay tin, cảm phục, đối xử tử tế, rồi cho ông về. Nhân đó, Phụ hỏi viên hàng thần Phan Liêu: “Nguyễn Biểu là người thế nào?”. Liêu vốn có hiềm với ông, bèn nói: “Người ấy là hào kiệt ở An Nam. Ngài muốn lấy nước Nam mà không có người này thì việc thành sao được!”. Phụ sai người theo bắt ông lại hòng uy hiếp, mua chuộc. Nhưng khi Nguyễn Biểu bị dẫn đến trước dinh Trương Phụ, hắn bắt ông lạy. Ông vẫn đứng thẳng, không hề run sợ. Phụ mắng ông vô lễ. Ông bèn vạch âm mưu và tội ác của giặc. Phụ tức giận, sai quân đưa ông ra trói dưới cầu Yên Quốc - tức cầu Lam, bắc trên một nhánh của sông Lam, chảy giữa hai làng Vệ Chánh, Quang Dụ xưa - cho nước lên dìm chết. Ông lấy móng tay vạch vào cột cầu tám chữ: “Thất nguyệt, sơ nhất nhật, Nguyễn Biểu tử” (ngày mồng một, tháng bảy, Nguyễn Biểu chết) - Mồng một tháng bảy năm Quý tỵ tức 28/7/1413.

Nhưng ba ngày liền, thủy triều không lên tới nơi, và suốt ba ngày, ông chửi giặc không ngớt. Phụ cho là ông được thần phù trợ, bèn sai bắt đưa về trước chùa Yên Quốc đánh chết102. Giết Nguyễn Biểu, nhưng Trương Phụ

102 Theo văn bia ở đền và dã sử: “Nguyễn sĩ truyện” chép: Ông bị trói dưới cầu Lam và bị đánh chết; Tục truyền: Ba ngày, nước không lên, sư chùa Yên Quốc đi qua, ông yêu cầu sư về tụng kinh cho nước lên. Chùa Yên Quốc ở dưới ngọn Tượng Đầu, núi Lam thành.

Page 237: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

237

vẫn kính phục nghĩa khí của ông, bèn cho đem thi hài ông về mai táng ở quê nhà. Hiện nay trước đền thờ còn có lăng mộ103.

Vua Trùng Quang được tin Nguyễn Biểu tử tiết, hết sức thương xót, sai làm văn dụ tế. Nhà sư chùa Yên Quốc cũng soạn bài văn làm lễ cầu siêu cho ông. (Hai bài văn hiện nay vẫn còn, chép sau bài “Nghĩa vương ký” lưu tại nhà thờ họ Nguyễn Yên Hồ).

Ở đền Nghĩa Vương hiện nay còn có hai tấm bia đá. Tấm thứ nhất ghi thân thế, sự nghiệp và bài minh ca tụng Nguyễn Biểu, đề ngày mồng hai, tháng năm, năm Tự Đức thứ 28 (15/6/1875) do cử nhân Hoàng Xuân Phong (quê làng Nhân Thọ, nay là xã Đức Nhân) soạn văn. Tấm thứ hai do dân hai thôn Nội Diên và Yên Phúc, xã Yên Hồ dựng; văn bia đề ngày mồng tám tháng mười, năm Tự Đức thứ 30 (12/11/1877) do cử nhân Lê Viết Huy (quê Thanh Hóa) nhuận sắc. Ngoài thân thế, sự nghiệp Nguyễn Biểu, nội dung tấm bia này ghi rõ thời gian ông được phong tặng thần vị, và việc dựng đền thờ qua các triều đại.

Khi Lê Thái Tổ đánh quân Minh ở Bình Than, Nguyễn Biểu báo mộng sẽ đến giúp. Quả nhiên trận ấy thắng to. Sau ngày đại định, xét công, nhà vua sắc phong ông là “Nghĩa sĩ linh ứng uy linh trợ thuận Đại thần”, và ban quan tước cho các con ông104.

Các đời vua triều Lê và triều Nguyễn đều có sắc bao phong; Hiện nay còn có văn bản năm đạo sắc. Riêng đạo sắc đề ngày 27 tháng tám, năm Cảnh hưng 44 (23/9/2783), tước hiệu đã được gia phong là “đại vương”.

Đến khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1497), vua Lê Thánh Tôn sai lập miếu thờ Nghĩa sĩ ở Bình Hồ, ban ruộng tế và cho lấy trong dân sở tại một lễ lang và hai tự thừa, trông nom việc thờ cúng, lại giao cho trấn quan mỗi năm một lần về tế105.

103 Trước đền có một dải đất không ai được đào xới, tương truyền mộ Nguyễn Biểu táng ở đó. 104 Con trưởng Nguyễn Biểu là Nguyễn Trực làm quan đến Tri Hải tây đạo quân dân hộ tịch; con thứ là Nguyễn Hạ làm đến Tuần Kiểm sứ; cháu bốn đời là Nguyễn Phong đỗ nhị giáp Tiến sĩ. 105 Ở các làng Phúc Hải, Yên Thái, Yên Cư, Hưng Nhân (Hưng Nguyên, Nghệ An) gần

Page 238: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

238

Về sau, tuy không còn lệ “quốc tế”, nhưng hơn 200 năm dân địa phương vẫn thờ phụng Nghĩa vương như là vị Thành hoàng làng. Ngôi đền cũng được bảo vệ, và được tu sửa thường xuyên. Đến cuối thế kỷ XVIII, đền bị cháy, dân địa phương lại dựng ngôi đền lợp tranh để thờ phụng.

Năm Kỷ tỵ, Tự Đức thứ 22 (1869) nhân dân trùng tu đền (tức là ngôi nội tẩm - thượng đường). Nhân được ông Cử nhân người trong huyện là Phan Quang Thuyên nói cho biết, Thám hoa Ngụy Khắc Đản (quê xã Xuân Viên, Nghi Xuân) đang làm Bố chính Nghệ An, bèn cấp vật liệu xây cất ngôi trung đường. Các quan viên địa phương và những người hảo tâm quyên góp dựng thêm ngôi hạ đường. Ngôi thượng đường cũng được sửa sang thêm. Cả ba tòa nhà đều lợp ngói tàu, lát gạch hoa.

Cổng đền xây hai cột hoa biểu cao và ở sâu có hai tấm bia đá dựng vào mấy năm sau đó (đã nói trên). Trong ba tòa đền, ngoài kiệu, án và nhiều tự khí chạm trổ, sơn thiếp… và có các biển gỗ khắc thơ “ngự chế”, thơ Hoàng Trừng… và nhiều đối liễn của dân địa phương, của quan chức và nhà khoa bảng106.

Từ bao đời ngôi đền Nghĩa vương ở Bình Hồ - Yên Hồ trở thành thiêng liêng đối với nhân dân và những tấm lòng trung nghĩa. Ông Cử làng Vân Chàng Lê Lai Yến có vế đối: “Văn phong năng khởi sĩ phu tâm” (Nghe đến tiếng tăm của ngài, lòng sĩ phu phải dấy động). Quả vậy, không phải vô cớ mà nhà văn thân Quảng Bình Nguyễn Phạm Tuân, nguyên tri phủ Đức Thọ, trước khi dấn thân vào cuộc khởi nghĩa chống Pháp, đã trở lại thăm ngôi đền lịch sử Bình Hồ…

ĐỀN CHẾ THẮNG PHU NHÂN

Đền Chế Thắng phu nhân ở bên cửa biển Hà Hoa (Hà Hoa hải khẩu)

chỗ Nguyễn Biểu bị hại cũng lập đền thờ. Ở làng Hưng Nhân có hai đền, đền lớn xây gạch ở trước chùa Yên Quốc, cũng gọi là đền Yên Quốc; đền nhỏ lợp tranh ở lưng núi, gần chợ Sét. Các ngôi đền trên đây (thuộc hai xã Hưng Xuân, Hưng Lam) không còn, trừ ngôi đền tranh ở lưng núi làng Hưng Nhân. 106 Đền Nghĩa vương đã được xếp hạng “Di tích danh nhân lịch sử” cấp quốc gia theo QĐ ngày 03/08/1991 của Bộ Văn hóa.

Page 239: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

239

gọi tắt là cửa Khẩu (Khẩu hải khẩu), có sách chép cửa Loan Nương. Về sau, làng dân chài bên cửa biển gọi là làng Hải Khẩu, thuộc tổng Hoằng Lễ, nay là xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh, nên đền cũng được gọi là đền Hải Khẩu (Hải Khẩu linh từ). Dân gian quen gọi là “đền Bà Hải” (tức đền Bà (ở) Hải Khẩu), và ai cũng biết Bà là cung phi của vua Duệ Tông nhà Trần (1373-1377).

Thần phả từ lâu không còn. Các bộ chính sử không thấy chép về vị cung phi này. Chỉ có “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú (1782-1840) viết về “Cửa Loan Nương”, chép: “Cửa Loan Nương là cửa biển huyện Kỳ Hoa), có đền thờ Chế Thắng phu nhân. Xưa Trần Duệ Tông đi tuần ở phía nam, đến cửa biển Kỳ Hoa, thuyền bị gió cản trở, không đi được. Đêm nằm chiêm bao thấy một người xưng là thủy thần, xin nhà vua cho một người con gái. Khi nhà vua thức dậy, đem việc ấy nói với các người theo hầu. Phu nhân cố ý xin gieo mình xuống nước cho thủy thần. Vua sai để phu nhân vào mâm vàng thả xuống nước cho thủy thần. Thuyền mới đi được. Sau lập đền thờ phu nhân ở đây” (Tập I - Dư địa chí - bản dịch, trang 76 - 77. NXB KHXH. H.1992).

Đoạn sách trên đây chắc là dựa theo truyện “Hải Khẩu linh từ lục” trong “Truyền kỳ tân phả” (tập truyện ngắn văn xuôi chữ Hán, sáng tác theo chuyện truyền miệng dân gian) của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748). Truyện ấy tóm tắt như sau: Cung phi Nguyễn Cơ, con gái nhà quan, tiểu tự Bích Châu “tính cách đúng đắn, tư dung tươi đẹp, thông hiểu âm luật, văn từ, được vua Duệ Tông kén vào hậu cung. Nhân một vế đối, nàng đối lại vế của vua ra cho chữ “phù dung”, vua bèn ban cho nàng tên hiệu Phù Dung. Thấy triều chính ngày càng hư hỏng, nàng Bích Châu dâng lên bài “Kê minh thập sách”107 khuyên vua chăm lo việc nước, sửa đổi chính sự theo mười kế sách nàng đề xuất. Vua hết lời khen ngợi: “Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ đến thế…”. Nhưng vua vẫn do dự chưa đem thi hành. Năm Long Khánh thứ tư (1376) vua Duệ Tông định đi đánh Chiêm Thành. Ngự sử trung tán Lê Tích can gián không được; nàng Nguyễn Cơ

107 “Kê minh thập sách”: Mười điều trình bày về kế sách trị nước lúc gà gáy - lấy ý từ bài thơ “Kê minh” (Gà gáy) trong thiên “Tề phong” bộ Kinh Thi, nói về bà Hiền phi khuyên vua dậy sớm để chăm lo việc nước.

Page 240: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

240

cũng dâng biểu can ngăn nhưng vua không nghe, bèn xin đi theo… Chiến thuyền đến cửa biển Hà Hoa, gió bão nổi lên dữ dội, sóng biển cuồn cuộn… Canh ba, vua mộng thấy một người xưng là Đô đốc vùng biển Nam, đến xin ban cho một mỹ nữ, nếu không sẽ nhấn chìm đoàn thuyền. Vua đành phải nhận lời. Nàng Nguyễn Cơ xin hiến thân, gieo mình xuống nước108. Lập tức gió lặng, sóng yên. Vua sai làm lễ tế nàng, rồi hạ lệnh xuất phát… Vào đến động Ỷ Mang, bị trúng kế của vua Chiêm, quân của Duệ Tông bị đánh tan, nhà vua và nhiều tướng sĩ đều chết trận…109

Ngót trăm năm sau, năm Canh dần đầu đời Hồng Đức (1470), vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành. Đến cửa biển Kỳ Hoa (tức cửa Kỳ Hoa đời Trần), mưa gió mịt mù, đoàn chiến thuyền đỗ lại nghỉ. Đêm ấy vua mộng thấy một mỹ nhân đến, nói rằng mình là cung phi của vua Duệ Tông nhà Trần, bị giao thần bắt, xin vua cứu giúp. Nhà vua liền sai viết điệp văn bắn ra ngoài biển, trách cứ vua Thủy tề. Một lúc sau, trời yên biển lặng, thi hài nàng Nguyễn Cơ nổi lên mặt nước, nhan sắc vẫn như xưa. Vua bèn cho lấy lễ hoàng hậu mai táng và sai làm văn tế… Vua lại mộng thấy Nguyễn Cơ

108 Việc hiến người đẹp làm vật hy sinh cho dâm thần, ác quỷ là có thể tin được. Đây không phải là trường hợp ít thấy ngày xưa. Sau bà Nguyễn Cơ, bà phi (sau truy phong hoàng hậu) Phạm Ngọc Trần, vợ Lê Thái Tổ, mẹ Thái Tông, cũng tự nguyện làm vật hy sinh cho thần Phổ Độ khi nghĩa quân Lam Sơn vây thành Nghệ An (1425). 109 Trên “Tạp chí Hán Nôm” số 1/1990. Ông Nguyễn Trạch Giang có giới thiệu bản dịch một bài văn đề “Bích Châu du tiên mạn ký” nói là tìm được nguyên bản chữ Hán phụ vào “Phượng Dương Nguyễn Tông thế phả” tức gia phả họ Nguyễn Tràng Lưu, đại lược như sau: “… Mẹ con bà già nọ không rõ từ đâu đến xin ngụ cư tại làng nọ, chỉ có mảnh vườn trồng cam, trồng rau. Người con gái tên Hoàn Châu rất xinh đẹp, tuổi chừng 15, 16… Một hôm vua Trần Anh Tông (1293-1313) đi tuần đến đây, gặp đưa nàng về kinh phong làm cung phi. Hoàn Châu giúp việc từ hàn, được vua sủng ái bèn lấy tên Hoàn Châu đặt cho một chiếc cầu đẹp và đổi tên nàng là Bích Châu. Năm Hưng Long 19 (1311), vua đánh Chiêm Thành, bị vây ở biển Thị Nại, Bích Châu giúp kế phá vòng vây, cuối cùng thắng giặc. Nhưng nàng Bích Châu lại có lệnh của Thiên đình đòi về Trời. Vua sai đưa thi hài nàng về kinh, nhưng đến cửa biển Kỳ Hoa thì thuyền không tiến lên được, vua sai mai táng Bích Châu ở đây… Đoạn cuối bài văn chép thêm một bài khác đề “Du tiên mạn ký” nói về chàng nho sĩ Vương Lưu lên tiên gặp, đính ước với nàng Giáng Khanh và đặt tên cho nàng là Hoàn Châu… Về sau chàng đến đền thờ Bích Châu ở Kỳ Hoa, hai người hóa thành hạc trắng bay đi… Chuyện này khác với truyện “Hải khẩu linh từ” của bà Đoàn Thị Điểm. Nhưng chắc vì dựa vào đây mà có người viết “Nàng Bích Châu theo vua Duệ Tông (1372-1377) đi đánh Chiêm Thành, cầm quân xung trận và hy sinh”?

Page 241: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

241

đến tạ ơn, cho biết nàng đã được Thiên đình thương tình, cho giáng linh xuống trần, coi việc họa phúc một phương… Thắng trận trở về, vua Thánh Tông hạ chiếu cho lập đền thờ, ban ruộng tế và người coi đền, lại ban sắc phong thần cho Nguyễn Cơ. Sắc phong có hai chữ “Chế Thắng”, nên người ta gọi thần hiệu Nguyễn Cơ là Chế Thắng phu nhân.

Như vậy, căn cứ vào “Truyền kỳ tân phả”, sách viết chuyện Nguyễn Cơ Bích Châu sớm nhất, thì đền Chế Thắng phu nhân được lập vào khoảng năm Tân mão đời Hồng Đức, đến nay đã ngót 540 năm.110

Qua bao lần trùng tu, tôn tạo, hiện giờ, đền có ba tòa nhà chính: thượng, trung, hạ đường, đều xây tường, lợp ngói. Hạ đường ba gian, rộng khoảng 50m2. Phía trước, hai cột quyết cao, trên đắp búp sen, xây nối với hai trường hồi. Khoảng trước, sau năm 1940, người ta xây thêm bốn trụ, trên có hệ thống tường trang trí hai cấp với nhiều ô đắp hình hoa lá, rồng phượng, cuốn thư…, đỉnh tường đắp hình “lưỡng long triều nguyệt”. Trong nhà, gian giữa là bàn thờ chính, trên đặt long ngai, lư hương và các tự khí, trong đó đáng chú ý là đôi hạc đồng, thuyền rồng, và tượng trâu bằng gỗ quý, tác phẩm nghệ thuật thế kỷ XIX; Hai gian bên đều có bàn thờ phụ. Phía trên cửa chính có bức hoành phi khắc bốn đại tự “Thánh đức lưu phương”, tạo năm Tân tị, đời Bảo Đại (1941) và trên các hàng cột đều treo đối liễn.

Trung đường ba gian rộng khoảng 45m2, gian giữa đặt bàn thờ, tường hai gian bên vẽ tranh “Võ tướng” (phải), “Văn hầu” (trái). Thượng đường nhỏ hơn, rộng 36m2 cũng ba gian, gian giữa xây bàn thờ gạch bậc trên đặt bài vị, bậc dưới có bộ tam sự bằng đồng, hai bên treo đôi câu đối đề năm Tân mão, niên hiệu Hồng Đức thứ hai (1471) - năm dựng đền:

- “Thân thượng cương thường thiên hạ thánh”

110 Bài thơ “Hà Hoa hải môn lữ thứ” (Nghỉ lại cửa bể Hà Hoa) trong tập “Minh lương cẩm tú” của vua Lê Thánh Tông có câu “Chế Thắng từ trung thảo mộc kiều” (Quanh đền Chế Thắng cây cỏ xanh tốt). Nguyên chú của bài thơ này cũng ghi: “… Nhà vua… đặt người cung nữ ấy lên chiếc mâm vàng để trôi trên mặt nước dâng cho thủy thần… Người dân lập đền thờ ở bên trái cửa bể…”. Như vậy đền đã có trước khi vua Thánh Tông đến đây (năm 1470-1471), chứ không phải như truyện của Đoàn nữ sĩ. Ngoài đền Hải Khẩu, còn có ngôi đền Eo Bạch ở Vĩnh Áng (Kỳ Lợi) tương truyền là nơi thờ vọng Chế Thắng phu nhân.

Page 242: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

242

- “Danh lưu kim cổ địa trung tiên”

Nghĩa:

- Thân trọn cương thường, dưới gầm trời làm Thánh; - Danh lưu kim cổ, trong nữ giới là Tiên.

Tương truyền, mộ Nguyễn Cơ đặt phía sau thượng đường. Bên phải thượng đường là “nhà sắc” xây kiểu trùng diêm, vuông vắn, tầng dưới rộng, hai tầng trên thu hẹp lại, trước trổ cửa tò vò, bốn bên có hành lang, tường dắc bao quanh. Trước “nhà sắc” có ngôi nhà gạch ba gian, ngoảnh mặt vào tường hạ đường và sân đền, xưa là nơi hội họp khi tế lễ, nay dùng làm nhà khách.

Sân đền rộng, trước có cửa tắc môn và tường hoa bao quanh nửa ngoài. Đằng trước là cổng đền, có hai cột hoa biểu cao lớn, có khắc câu đối làm lúc dựng đền.

Ngoài cùng, bên trái có ngôi miếu nhỏ thờ vị Tả tướng quân, trong có đắp tượng bằng vôi vữa…

Đền xưa nằm trên bãi biển nên bị cát bay vùi lấp phía trước cổng chính. Người ta phải đắp một lũy đất trên trồng cây để chống cát và mở cửa phụ vào bên mé phải. Gần đây, người ta mới mở lại con đường dốc từ cổng chính vào và xây bậc đá xuống cổng trong, sân đền.

Hàng năm, vào ngày 12 tháng Hai âm lịch111 là ngày giỗ Thánh Mẫu Nguyễn Cơ. Xưa, tại đền Hải Khẩu có lễ tế long trọng và mở hội linh đình. Trước đó hơn một tháng, vào dịp tết nguyên đán, ở đây có tục “gói bánh chưng thờ Đức Mẹ”. Gạo nếp thu hoạch từ thửa ruộng tế, dân làng luân phiên cày cấy; gói bánh cũng phải chọn người thành thạo; bánh to 3 chiếc, mỗi chiếc 5 cân gạo, 1,5 cân đỗ làm nhân; bánh nhỏ 12 cặp, mỗi chiếc 2 cân gạo và nửa cân đỗ. Trong ngày 30 tết, bánh phải gói xong, nấu chín trong đêm để kịp làm lễ dâng bánh vào giờ thìn ngày mồng một tết.

Ngày giỗ Thánh Mẫu lại có lệ đi đòi con sinh về làm cỗ tế. Từ lâu, dân làng đã thả nuôi một đàn bò bên Rú Voong (núi Cao Vọng). Trước ngày tế,

111 Chưa rõ vì sao bà Nguyễn Cơ mất vào khoảng tháng chạp mà ngày giỗ lại là 12 tháng Hai.

Page 243: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

243

người ta ra đền xin một chén “nước Thánh”, mang sang núi, chọn con bò lớn khỏe trong đàn, rưới “nước thánh” lên lưng, con vật liền ngoan ngoãn theo về… Sau lễ tế, dân làng mở hội với cuộc rước kiệu, bơi thuyền và nhiều trò chơi khác, thu hút hàng nghìn người trong vùng về dự…

Đền Chế Thắng phu nhân được xếp hạng “Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia” ngày 3/8/1991, nay trở thành một điểm văn hóa - du lịch hấp dẫn ở phía nam Hà Tĩnh.

ĐỀN CHIÊU TRƯNG

Đền Chiêu Trưng còn gọi là đền Võ Mục, thuộc xã Kim Đôi, nay là đất xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh. Đền xây dựng trên núi Long Ngâm, là nơi ngọn núi cuối cùng của dãy Nam Giới đất liền uốn lượn ra biển làm bức bình phong án ngự phía đông Cửa Sót. Ngọn Long Ngâm hình núi như trán con rồng chúi xuống biển sâu “Ai biết núi Nam Giới. Đá cũng hóa ra rồng” (thơ Bùi Dương Lịch).

Đền thờ Lê Khôi, thụy là Võ Mục, con ông Lê Trừ, anh thứ hai Lê Lợi. Cha mẹ mất sớm, Lê Khôi ở với chú Lê Lợi, tham gia nghĩa quân Lam Sơn từ ngày đầu đến lúc giải phóng hoàn toàn đất nước, có tên trong Hội thề Lũng Nhai, trong danh sách 35 công thần khởi nghĩa. Ông tham dự nhiều chiến dịch, lập được nhiều chiến công, cùng Lê Sát, Lê Phấn bắt sống tướng Minh là Chu Kiệt, giết tướng Hoành Thành. Năm 1427, trong chiến dịch Xương Giang cùng Phạm Vấn cầm quân chi viện cho Lê Sát, Trần Nguyên Hãn đánh tan quân giặc bắt sống đô đốc Thôi Tụ, thượng thư Hoàng Phúc và trên ba vạn tù binh, góp phần chiến thắng giải phóng Đông Đô.

Lê Khôi làm quan trải 3 triều (Lê Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông) lên tới chức: Khâm sai tiết chế thủy lục như dinh, Hộ vệ thượng tướng quân.

Năm 1446, được phái vào làm Tổng trấn Hoan Châu (Nghệ An - Hà Tĩnh) thời gian này ông đã chú trọng phát triển nông nghiệp, đào kênh, đắp đập, khai hoang lập làng. Năm Thái Hòa thứ 3 (1446) phụng mệnh vua Nhân Tông, ông cầm quân đi cùng với Nguyễn Chích, Nguyễn Xí (Đại Việt sử ký toàn thư chép là cùng với Lê Thụ, Lê Khả, Lê Khắc Phục) đi đánh Chiêm Thành ở châu Thuận Hóa, bắt được chúa Chiêm là Bi Cai.

Page 244: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

244

Trên đường trở về, bị bệnh nặng, đoàn chiến thuyền đến cửa Sót, chân núi Nam Giới thì ông mất (ngày 3/5 năm Bính dần). Triều đình làm quốc tang, thi hài an táng tại chóp núi Long Ngâm và cho lập đền thờ ông tại đó, hàng năm quốc tế, truy phong: “Nhập nội kiểm hiệu tư không”. Năm Quang Thuận thứ 4 (1463) vua Lê Thánh Tông ngự giá thăm đền, viếng mộ, ngự chế bài thơ quốc âm đề vịnh, sắc cho Đô úy Bảng nhãn Nguyễn Như Đỗ soạn bia dựng tại đền. Năm Hồng Đức thứ 18 (1487) lại tặng phong “Chiêu Trưng đại vương”. Đời Lê Thần Tông, năm Tân tỵ quan Hữu tỵ xin lập một đền mới ở thôn Nguyễn Phúc, xã Triều Khẩu, huyện Hưng Nguyên (Nghệ An) để tiện việc tế tự. Đền Chiêu Trưng ở cửa Sót giao lại cho 3 xã Mai Phụ, Vĩnh Tuy và Kim Đôi trông nom, phụng thờ.

Đền Chiêu Trưng gồm 3 tòa, sau lưng là lăng mộ (tiền miếu hậu lăng). Đền xây dựng xong vào năm Đinh mão (1447), một năm sau khi Lê Khôi mất, đến nay đã nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được cốt cách dáng vẻ ban đầu. Rời bến đá, ngoặt vào vách núi Long Ngâm, leo qua 23 bậc đá lên đền. Từ chân núi leo lên các bậc đá hai bên cây cối cổ thụ um tùm, sừng sững hai cột cổng đền trên có câu đối ghi năm đặt phần mộ, dựng đền và năm xây cổng.

Qua cổng đền và vọng lâu vào đền Hạ là nơi đón tiếp quan khách và tế lễ. Đền Hạ thoáng rộng. Phía tây là nhà dựng tấm bia khắc văn bia của Bảng nhãn Nguyễn Như Đỗ đề ngày 3/5 năm Quý tị, Quang Thuận. Nhà bia cũng như tấm bia bị bom Mỹ phá hoại mới được phục chế lại tháng 5/1994. Phía đông là nhà đặt bia khắc bài thơ nôm của Lê Thánh Tông.

Đền Trung có treo bức hoành của một người Hoa tên là Trần Hữu Tái cúng năm Càn Long thứ 35 (1770) đề bốn chữ “Vạn khoảnh ân ba” (sóng ân muôn dặm). Ba gian điện thờ, giữ được 4 vì kèo bằng gỗ lim gác lên tường dày theo kiến trúc cũ, vì gỗ gác xà, các vượt các bức chạm trổ theo đề tài “bát tiên quá sơn”, “bát tiên quá hải”, “ngũ phúc”, “tứ linh”… Gian giữa trên các “chẩm” (có ý kiến nói rằng đó chính là nơi đặt thi hài Lê Khôi) là bức tổ hợp rồng mẹ, rồng con đường nét lung linh, đảo nước chuồi về sau. Hai bên “chẩm” là hai tượng võ sĩ Chàm. Đặc sắc nhất là bức chạm rộng 30cm dài một mét trên xà ngang cửa bên trái, chạm 3 nhạc công (một nam đánh trống cơm, một nữ thổi đàn nguyệt và một người múa). Cạnh

Page 245: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

245

nhạc công đánh trống là chú voi có ngà, đang cong vòi hay bốn chân lên cùng múa nhảy. Bố cục bức chạm tài tình, nét khắc chạm tài hoa, sống động. Trung điện do dân xã Vĩnh Tuy (nay là xã Mai Phụ - Thạch Hà) thuê thợ làm trong 3 năm. Một số nhà nghiên cứu mỹ thuật cho rằng các đường nét khắc chạm ở trung điện đền Chiêu Trưng in đậm phong cách nghệ thuật điêu khắc đầu thế kỷ XVII đến nay vẫn còn bảo tồn được.

Hai bên trung điện là hai cửa nách thấp, hẹp xây cuốn tò vò, phải cúi đầu mới đi được lên Thượng điện. Nơi đây treo tấm biển của Lê Thánh Tông ban: “Nam thiên tuấn vọng”. Giữa thượng điện trên hương án sơn son thiếp vàng là bức tượng Chiêu Trưng đại vương Lê Khôi bằng gỗ sơn, nét chạm đẹp, trang nghiêm và phúc hậu. Xung quanh là đồ tế khí…

Đền Chiêu Trưng nhìn ra Vũng Ông, còn có tên là Vũng Rồng, “Vũng Rồng đền rực cầu tàu” (Nam Giới hải môn - Thơ Lê Thánh Tông). Trước vũng, mũi Lố phóng ra, lô nhô những bãi đá ngầm, hòn Lố Chím, hòn Am, hòn Mới, hòn Trống, hòn Mái… Khi nước thủy triều xuống, đá lộ hình như hai con nghé hoặc hươu đang chạy đang bơi…

Hàng năm vào ngày 3, 4 tháng 5 âm lịch là ngày giỗ và hội đền Chiêu Trưng, trước ngày chính giỗ, thường có trận mưa rào chiều hoặc tối mồng 2. Nhân dân trong vùng bảo đó là trận mưa “dội tượng” “rửa đền” đón khách thập phương về tế lễ. Sau lễ tế, có rước kiệu, đua thuyền trên sông từ Mai Phụ đến Cửa Sót.

Liền một dải với đền Chiêu Trưng có đền Bà Liễu Hạnh công chúa, đền Cá Ông tạo thành một quần thể, đền miếu hài hòa vẻ đẹp của núi biển trời, non xanh nước biếc hùng vĩ và cổ kính, xứng đáng là một di tích danh thắng bậc nhất của vùng Thanh - Nghệ Tĩnh.

ĐÌNH HỘI THỐNG

Theo sách “Nghi Xuân huyện chí” thì đời Lê, ở Hội Thống “thường có xuất phát quân nội kiệu, chầu hầu trong cung vua có công, nên xã này được vua ban tứ cho mang tên Kiên Nghĩa”.

Sách “Nghi Xuân huyện thống chí” (quyển Hạ) chép về đình Trung Nghĩa xã Tiên Điền cũng ghi: “Thời bấy giờ Cương Gián và Hội Thống cũng được ban tên là xã Kiên Nghĩa”. Cũng theo sách này thì làng Hội

Page 246: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

246

Thống dựng ngôi đình gọi là “đình Kiên Nghĩa”, cùng thời với “đình Trung Nghĩa” ở Tiên Điền. Trong đình lớn có khắc ba chữ vàng vua ban: “Kiên Nghĩa xã”112. So với đình Tiên Điền thì “đình Hội Thống cao rộng lớn, là một ngôi đình đẹp nhất các xã trong huyện”.

Đình Hội Thống khởi công xây dựng năm Kỷ hợi, niên hiệu Vĩnh Thọ thứ hai đời Lê Thần Tông (1659) và hoàn thành năm Canh tý, Vĩnh Thọ thứ ba (1660).

Mặt đình hướng về phía tây, nhìn ra cánh đồng Sú Rào bên bờ sông Lam, bên trái là dãy Ngàn Hống, sau lưng là biển Đông… Đình kiến trúc theo hình chữ “nhị” sau là nội tẩm, ngoài là bái đường. Nhà chính bảy gian với bốn hàng cột bề ngang và tám dãy cột bề dọc, có tới 32 cây cột lớn, chu vi tới 1,70m, hạ ngang chạm đầu rồng ngậm ngọc…

Trong nội tẩm có bức hoành phi, đề bốn chữ lớn “Xuân đài thọ vực”, ở bái đường lại có bức hoành khắc ba chữ “Kiến đại tân”. Gian chính giữa đặt hương án thờ, gian tả hữu đắp hội đất lát gạch tô nền cho quan viên chức sắc ngồi theo thứ bậc khi có tế lễ. Hiên chạy dài rộng khoảng 1,50m, hai đầu là gác chiêng, gác trống…

Sân đình rộng thênh, ngày hội người ta có thể khiêng hàng chục chiếc kiệu lượn qua lượn lại dễ dàng. Trước sân là hai cột hoa biểu cao, trên đắp đôi nghê chầu.

Phía ngoài, trước đình có khoảnh ruộng lớn. Lễ hạ điền hàng năm, sau khi tế thần, chức sắc hào lão trong làng xuống cấy (tượng trưng) ở đây, xong dân làng mới được ra đồng cấy.

Bên trái đình có hai nhà đặt bia hậu thần ghi tên những người có công. Bên phải đình là ngôi miếu nhỏ thờ thổ thần.

Khoảng tháng 6/1965, đình Hội Thống được trùng tu và đến tháng 2/1979 lại xây thêm hai tòa giải vũ, thành ra đình có hình chữ “môn”.

Theo tập “Xã Xuân Hội, truyền thống và niên đại” (bản đánh máy) thì đình này thờ Thành hoàng là “Lý Thái Úy Tô đại liêu thượng đẳng thần”

112 Tấm biển này ngày nay không còn.

Page 247: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

247

tức là Tô Hiến Thành (?-1179)113. Ngày nay, trong đình còn lưu lại bảy đạo sắc phong. “Đình Kiên Nghĩa” (nay thường gọi là “đình Hội Thống”) là niềm tự hào của nhân dân địa phương.

Lệ xưa, hàng năm đầu xuân, vào dịp khai hạ, làng làm lễ kỳ yên, rước đồ mã vào đình làm lễ, rồi chia ra rước đến các đền miếu khác. Dịp này thường có thi chèo bơi và các trò chơi khác như “cử đỉnh”… ở đây còn có các cuộc lễ tế nhân dịp “hạ điền”, tế thu v.v…

Trong đình có các câu đối:

“- Vạn vật giai nghi xuân vũ trụ; - Cừu châu thử hội thống châu xa” (Muôn vật sắp bày xuân vũ trụ; Chín châu cùng họp nhóm thuyền xe)

Ở câu này tác giả “chơi chữ”, đặt vào các tên huyện “Nghi Xuân”, tên làng “Hội Thống” với nghĩa khác. Câu đối này có ý tự hào về ngôi đình là một công trình to đẹp, một danh thắng được du khách qua lại luôn luôn.

ĐỀN TAM LANG DI TÍCH VĂN HÓA NGHỆ THUẬT

Đền Tam Lang còn gọi là đền Lớn, đền Cả, ở địa phận hai thôn Phan Xá và Lợi Xá xã Ích Hậu, tổng Phù Lưu, nay là xã Hậu Lộc.

Sách Can Lộc huyện phong thổ chí và sách Đại Nam nhất thống chí đều chép: “Tương truyền có người con gái ra tắm ở sông Cổ Kinh, thốt nhiên cảm động rồi có mang, dân làng gạn hỏi, người con gái đem tình thực nói lại. Mãn kỳ thai nghén cô ta đẻ ra ba trứng. Người làng cho đó là linh dị, bèn bỏ vào chậu nước đem đặt ngoài bến sông. Không bao lâu ba quả trứng nở ra ba con như loài cá mà có mào son mỏ đỏ, thân hình rực rỡ như gấm thêu (có bản chép: Người con gái đã có chồng sinh ra ba quả trứng nở thành ba con rắn). Dân làng kinh sợ cho là cá (rắn) thần, con của Long

113 Trong đình không thấy có câu đối thờ Tô Hiến Thành chưa rõ vì sao.

Page 248: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

248

Vương, bèn thả xuống sông rồi dựng miếu thờ bên bờ… Khi vua Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành (1470-1471), đoàn thuyền ngự qua quãng sông Kênh Cạn thì không thể đi được. Vua cho người vào miếu cầu đảo, nước bỗng dâng lên, đoàn thuyền vượt qua cạn tiến về phía trước. Khi thắng trận trở về qua đây, vua sai dân tổng Phù Lưu dựng ngôi đền lớn thờ phụng. Trải các triều vua đều có sắc phong”.

Trong đền hiện còn có một câu đối nhắc đến chuyện này:

Truyền văn Hồng Đức quân trung sự, Trường đối Kỳ Anh hải khẩu từ” (Nghe truyền lại việc trong quân đời Hồng Đức; Mãi mãi sánh với ngôi đền cửa bể Kỳ Anh).

(Tức đền Chế Thắng phu nhân ở cửa Khẩu, cũng được vua Thánh Tông cho dựng vì đã hiển linh giúp vua trong cuộc Nam chinh này).

Đền Tam Lang là một công trình kiến trúc tiêu biểu thời Lê - Nguyễn còn lại tương đối nguyên vẹn hiện nay, mặc dầu đã nhiều lần trùng tu, mà hai đợt sửa chữa gần nhất là vào những năm 1961 và 1983.

Đền dựng trên một khu đất rộng, xung quanh cây cối um tùm, ngoảnh ra cánh đồng hướng nam cách sông Kênh Cạn non 1km, gồm ba tòa nhà chính xếp theo hình chữ tam và một số công trình khác. Từ ngoài vào trước cổng đền, là bồn phần hóa (đốt vàng mã) xây hình bông sen, cao 1m. Qua bậc tam cấp thì đến cửa chính với hai cột quyết cao khoảng 2m, trên đắp búp sen, hai bên tả hữu có hai voi đá quỳ, kích thước không lớn nhưng tinh xảo. Qua cổng thì đến hạ đường, trung đường rồi đến thượng đường. Giữa trung - thượng đường có sân, hai bên là tả, hữu vu và chính giữa là tòa lâu các hai tầng.

Thượng đường, tương truyền Tiến sĩ Trần Đức Mậu (1441-?) người xã Ích Hậu, được vua sai về trông coi xây dựng vào năm Giáp Ngọ (1475) (?). Ngôi nhà này có tên “Điện Xuân Đài”, có ba gian hai hồi, bốn vì với 16 cây cột, kèo, xà, hạ, cửa… đều bằng gỗ lim, hai đầu hè xây dựng bịt đốc. Phía sau cũng là tường bịt kín, còn phía trước là ba khung cửa, cửa hai bên rộng 1m, cửa giữa rộng 1,5m. Mặt bằng khác rộng (6,6m x 5,2m) nhưng nhà thấp, cột kèo xà hạ đều to lớn, nên trông dáng nặng nề. Trong nhà

Page 249: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

249

không có những chạm trổ công phu với đề tài đa dạng. Bố trí nội thất cũng đơn sơ. Gian giữa đặt chiếc án chạm rồng sơn son, trên bày ngai thờ và các tự khí (mâm bồng, hộp quả, bát, chén gỗ tiện)… sơn son thiếp vàng, cùng chiếc lư hương đồng.

Trung đường, tương truyền do Tiến sĩ Nguyễn Văn Giai (1554-1628) cũng người Ích Hậu, làm từ Thăng Long đưa về (?) dựng vào năm 1583 dưới triều Lê Thế Tông. Đây là ngôi nhà tiêu biểu nhất cho nghệ thuật kiến trúc đền Tam Lang.

Nhà có ba gian, bốn mái dựng trên một mặt bằng rộng 13mx6m kiến trúc theo lối “tiền bông hậu bẩy” (trước kẻ, sau kẻ) bộ vì kèo gian giữa kết cấu kiểu tứ trụ đỡ lấy bốn mái. Hệ thống cột 16 chiếc, to nhưng hơi thấp cùng rường, kèo, kẻ đều bằng gỗ lim. Các cửa lớn phía trước và các bức thưng đóng xung quanh, khung đố vè ván ghép đều bằng lim. Mặt trước, bờ nóc nhà là hình “lưỡng long triều nguyệt”, đắp nổi ghép mảnh sứ, hai bờ mái nổi bật những đầu đa to mập, uốn cong vút, đắp hình rồng, phượng, nghê chầu. Hai đầu hồi mái nhà có hình đắp nổi. Hồi phía đông đắp hình hoa lá, chim muông. Hồi phía tây đắp cảnh đèn, thuyền rồng… với hình nét, màu sắc đậm nhạt… làm cho bức tranh sống động, gợi cảm. Trong nhà có nhiều mảnh chạm khắc hoa lá, chim muông, đặc biệt là hình rồng, phượng… trên gỗ. Rồng ở đây có rồng mẹ, rồng con (rồng ổ), con nào cũng thân hình thon thả, mềm mại, râu tóc xõa dài thoải mái trông hiền lành mà linh hoạt. Trên hệ thống ván mỏng giữa xà trung và xà nách đầu hồi bên phải chạm hình gà rất sinh động, nhất là bức “gà trống” (phía ngoài), bố cục gọn, hình chắc khỏe, nét chạm có đường cong nhẹ nhàng thanh thoát. Ở mảng dưới đuôi bẩy hồi nhà, phía đông chạm hình kỵ sĩ, tay cầm cờ, nét chạm sâu dứt khoát, biểu hiện rõ sức mạnh và dũng khí… Ở mặt ngoài xà dọc thượng chạm hình “cá hóa rồng” và mặt sau chạm “phượng ngậm bao kinh”. Các bức chạm khác là cảnh sinh hoạt thường ngày: Người đánh cờ, người chèo thuyền, thiếu nữ múa, nhạc công thổi sáo, đánh đàn. Lại có cả bức chạm người, ngựa, voi dừng nghỉ sau trận mạc trở về… Ngoài ra còn có các hình chạm khắc dây leo, hoa lá, sóng nước… với nét mảnh, lưu loát, nhẹ nhàng… Tất cả đều là những tác phẩm dân gian có giá trị nghệ thuật cao.

Page 250: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

250

Nội thất ngôi trung đường cũng bài trí đơn sơ. Gian chính đặt bàn thờ, phía trước là hương án sơn son thiếp vàng… trên đặt lư hương đá và bộ ngũ sự gỗ… Hai bên hương án là đôi hạc chầu…

Nối thượng đường với trung đường có ngôi lâu các hai tầng sáu mái, đầu mái đắp các đầu đao cong vút, trên nóc đắp hình “lưỡng long triều nguyệt”, trong có bệ thờ vuông, cạnh 1m và cao 1,2m. Trên bệ đặt ngai thờ, đôi kiếm gỗ đều sơn thiếp vàng son và lư hương đá…

Hạ đường do tổng Phù Lưu xây dựng vào năm Đinh sửu đời Tự Đức (1877), ngôi nhà có chiều dài 11,9m, rộng 9,5m, 5 gian, hai hồi, xây tường bịt đốc, kiến trúc theo kiểu “tiền bông hậu bẩy” gồm 5 cột cái, 8 cột quân. Vì kèo là bộ phận trụ chống chủ yếu, nối với nhau bằng những xà hạ tạo thành cái khung vững chắc đỡ toàn bộ mái nhà. Toàn bộ đồ gỗ sườn nhà đều bằng lim, mái lợp ngói âm dương như thượng đường và trung đường. Kết cấu mỗi vì 4 cột, tạo cho lòng nhà rộng, trước và sau đều không có cửa, nên sáng sủa, thoáng đãng. Các hệ thống đuôi kẻ được chạm khắc hoa lá, dây leo; xà thượng gian giữa chạm hình “phượng ngậm bao kinh” hai bên và chữ “thọ” ở giữa, hai đầu dư chạm đầu sư tử ngậm ngọc…

Hạ đường là bái đường nên chỉ treo các bức biển và đối liễn… hầu hết đều từ đời Tự Đức về sau… Nhiều câu đối nói về việc đền thờ Thủy thần (Cá, rắn).

Đời Lê, hàng năm vào dịp tế xuân (mồng bảy tháng giêng) và tế thu (thường tế vào quý hạ - mồng sáu tháng sáu), triều đình sai trấn thần về chủ trì lễ thần. Nhưng từ năm Canh thân, Cảnh Hưng năm đầu (1740) triều đình giao cho tổng Phù Lưu thờ phụng, trông coi việc tế lễ, nên đền Tam Lang cũng được gọi là đền Hàng Tổng.

Cho đến trước cách mạng tháng 8/1945, lễ hội đền Lớn được tổ chức trọng thể trong vài ba ngày, từ mồng năm đến mồng bảy tết. Mở đầu lễ hội, dân rước kiệu, các đền miếu trong xã về hội tế ở đình, chầu chực hát xướng cả đêm nên cũng có tên là “đình hát”. Suốt ngày hội, dân làng tổ chức các trò chơi: thi chạy, thi bơi, đấu vật, thi nấu cơm, kéo co, đánh cờ, đi cầu kiều… Vui nhất là cuộc đua thuyền trên sông Kênh Cạn. “Chiều mồng sáu cáo trò” (vè) kết thúc lễ hội, hành tổng cử hành đại tế, rước kiệu về các

Page 251: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

251

đền: “Thánh giá hồi cung” (vè)114.

HOA TẠNG – NGÔI CHÙA ĐỜI LÝ

Chùa Hoa Tạng, đời Thiệu Trị (1884) kiêng húy, đổi là Ba Tạng, dựng trên núi Uyên Trừng – Rú Dằng, trong chùm Ngũ Mã mé tây dãy Ngàn Hống, thuộc địa phận xã Tam Đăng Hạ (nay là xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân), nên cũng có tên chùa Uyên Trừng – Chùa Dằng.

“Lên chùa Dằng toan tu với sư Viên” (Nguyễn Du – Sinh tế Tràng Lưu nhị nữ văn).

Các sách “Hoàng Việt nhất thống địa dư chí”, “Đồng khánh địa dư chí lược”, “Địa dư tỉnh Hà Tĩnh”… đều chép “Không rõ chùa dựng từ đời nào”. Nhưng theo các tài liệu chúng tôi thu thập được thì chùa Hoa Tạng lập lên từ đời Lý (và có thể còn sớm hơn). Qua nhiều lần trùng tu, đến đời Nguyễn, chùa này trở thành một thiền viện khá nguy nga. Rất tiếc là từ sau cách mạng (8/1945) chùa bị bỏ hoang phế, rồi qua hai cuộc kháng chiến, bị triệt phá hoàn toàn.

Các sách cổ nói trên đều chép: “… Phía trước chùa là sông Lam, núi Hồng bao quanh ba mặt, phong cảnh thanh u, tĩnh mịch…” Sách “Đại Nam nhất thống chí” chép thêm: “… Phía trước chùa có khe, có cầu, có am viện, có ao đá do nước suối ở núi chảy vào…”. Sách “Nghi Xuân huyện thống chí” (Quyển hạ) chép kỹ hơn: “Đằng trước chùa có Rú Các, dưới có khe, qua khe có cầu, cầu cách chùa hơn trăm tầm. Bên chùa nơi nhà sư ở, có ao đá, nước từ núi bắn ra như vọt, bọt trắng tung ra, dòng trong chảy róc rách, xưa nay du khách đã ngâm vịnh chùa này nhiều. Thật là một nơi Già lam bậc nhất”.

Đứng trên chùa nhìn ra, quang cảnh thật tuyệt vời. Do đó, chùa Hoa Tạng – Uyên Trừng được xếp là một trong tám cảnh đẹp nhất Nghi Xuân.

Theo sách “Thiền uyển tập anh” dẫn trong sách “Phật giáo Việt Nam – từ nguồn gốc đến thế kỷ XIII” của Trần Văn Giáp (bản chữ Pháp) thì Thiền 114 Về lễ hội đền Tam Lang, sách “Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh” chép khác một số chi tiết như về ngày lễ hội, hình thức lễ hội v.v… Nhưng đại để không trái ngược với các chi tiết mà sách “Non nước Hồng Lam” chép như trên.

Page 252: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

252

sư Hiện Quang (?-1120) chính tên là Lê Thuần, quê Thăng Long, thuộc thế kỷ XIV phái Vô Ngôn Thông, 11 tuổi được sư Thiền Chiếu (?-1023) thu nạp làm đệ tử. Nhưng trước khi học kinh điển thì thầy mất. Ông bèn đi vân du đến tham bái Thiền sư Pháp Giới trên núi Uyên Trừng, phủ Nghệ An và đắc đạo ở đây. Về sau ông lên núi Tu Sơn dựng một thảo am, rồi lại lui về ẩn ở núi Yên Tử, và tịch năm Kiến gia thứ 11 đời Lý Huệ Tông.

Như vậy, từ đời Lý, chùa Uyên Trừng – chùa Dằng đã là ngôi chùa lớn và có vị trụ trì, Thiền sư Pháp Giới là thầy của Thiền sư Hiện Quang. Trước và sau thiền sư Pháp Giới chắc chắn còn có rất nhiều nhà sư tu hành đắc đạo ở đây. Để có một truyền thống như vậy, ít ra chùa này phải có cơ sở từ hàng trăm, hàng mấy trăm năm trước.

Đến đầu đời Nguyễn, qua câu văn của Nguyễn Du, ta biết được vị trụ trì chùa này là sư Viên (Viên Giác hay Viên Chiếu (?)…

Tuy chùa Hoa Tạng – Ba Tạng – Uyên Trừng chỉ mới mất non 60 năm, nhưng rất tiếc, ta chưa tìm lại được những tài liệu về lịch sử của ngôi chùa nghìn tuổi này và về các vị cao tăng trụ trì ở đây.

CHÙA NGHÈN VÀ NGỌN THÁP CỔ

Núi Nghèn ở xã Trảo Nha, tổng Đoài huyện Thạch Hà, nay là thị trấn Nghèn – huyện lỵ Can Lộc115.

Núi Nghèn được phiên âm Hán – Việt là Ngạn Sơn hay Nghiễn Sơn, lại có tên Tháp Sơn, vì trên núi có ngôi chùa và ngọn tháp cổ nổi tiếng.

Tiến sĩ Trần Danh Lâm (1705-1777) viết trong “Hoan Châu phong thổ ký”: “Giữa xã Trảo Nha chín nhận tháp cao chót vót”. Sách “Đại Nam nhất thống chí” viết về núi Nghèn: “… Trên núi có chùa, trước kia có tháp, không rõ dựng từ thời nào,… nay dấu cũ vẫn còn”. “Can Lộc huyện phong thổ ký” của Trần Mạnh Đàn cũng chép như vậy.

Học giả người Pháp, Giáo sư H.Le Breton cho đây là tháp Chàm. Ông 115 Tổng Đoài, trong đó có núi Nghèn ở xã Trảo Nha, vốn thuộc huyện Thạch Hà, mới cắt về huyện Can Lộc năm 1921. Năm 1927, huyện lỵ Can Lộc chuyển từ Khiêm Ích về Trảo Nha. Sau cách mạng tháng Tám (1945), Trảo Nha thuộc xã Đại Lộc, Thị trấn huyện lỵ Can Lộc thường gọi là thị trấn Nghèn.

Page 253: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

253

viết: “Trên đỉnh Ngạn Sơn, hồi trước có một cái tháp Champa. Vào khoảng canh năm một đêm hè.. một thế lực huyền bí nào đó đã nhổ cái tháp đó đi. Vì thế ngày nay chỉ còn lại nền cũ của tháp (“An Tĩnh cổ lục”).

Nhưng sách “Nghệ An cổ tích lục” chép khá cụ thể: “Tháp ở xã Trảo Nha do vua Lý Thái Tông (1028-1054) dựng. Xưa, Thái Tông vào Nam, đóng quân ở đây, đêm mộng thấy đức Quan Âm bồ tát cho vua y bát (áo và bát ăn cơm của nhà sư), khi tỉnh dậy vua sai dựng chùa, bên ngoài xây ngọn tháp cao hơn trăm thước. Tháp này có chín mặt, thường gọi là “Cửu diện tháp”.

Và sách “Nghệ An ký” của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch (1758-1828) viết về Ngạn Sơn, có đoạn: “… Ngày trước trên núi có một cái tháp cao 9 tầng, không biết triều đại nào xây dựng. Năm Cảnh Hưng thứ 35 (1774) mùa hạ, một đêm vào hồi trống canh năm, đang lúc trời quang mây tạnh, bỗng nhiên có một luồng hắc khí phát hiện ở phía tây bắc, rồi tự nhiên tháp đổ xuống, mà các nhà của sư ở bên cạnh tháp, không nhà nào việc gì, ai cũng lấy làm lạ”.

Chính sử cho biết: Vua Lý Thái Tông trên đường đi đánh Chiêm Thành đã qua đây hai lần, vào năm Tân tỵ (1031) và năm Giáp thân (1044). “Năm Thiên Thánh thứ tư (tức năm Tân tỵ, 1031) ở châu Hoan về, vua ra lệnh xây 950 ngôi chùa”. Chắc là chùa Nghèn cũng được dựng vào dịp này. Đáng chú ý là các sách chủ yếu chỉ nói về ngọn tháp mà ít nói về chùa: “Trên núi Nghèn có ngôi tháp cao và mấy dãy nhà tranh”; “… Các nhà của sư ở bên cạnh tháp…”. Đây là một chứng cứ chùa Nghèn có từ đời Lý. Chùa Lý chịu ảnh hưởng dòng Tiểu thừa, thường chỉ đặt một pho tượng, chủ yếu là tượng Thích Ca Mâu Ni, vào nhà thờ chính. Như vậy “Tháp chín mặt” hay “chín tầng” (?) chính là Phật điện, thờ pho tượng ấy, chứ không chứa xá lỵ như Tháp Nhạn thời thuộc Bắc ở Nam Đàn (Nghệ An) và các tháp đời Trần về sau.

“Tháp chín mặt” dựng đời Lý Thái Tông, giữa thế kỷ XI, qua ngót bảy trăm năm tồn tại, đã đổ vào đời Lê Cảnh Hưng, cuối thế kỷ XVII. Có thể sau khi tháp đổ, người ta mới xây dựng chùa mới. Chùa Nghèn, cho đến cuối đời Nguyễn, vẫn là ngôi chùa lớn, được sử sách ghi chép. Rất tiếc là ngôi chùa cổ 900 tuổi này đã bị dỡ phá hồi đầu cuộc kháng chiến chống

Page 254: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

254

Pháp.

HƯƠNG TÍCH “HOAN CHÂU ĐỆ NHẤT DANH LAM”

Để chạm hình tượng tiêu biểu của danh sơn Hồng Lĩnh lên “Anh đỉnh”, một trong 9 đỉnh đồng ở nội thành Huế, các nghệ sĩ xưa đã chọn cảnh động Hương Tích.

Hương Tích động, Hương Tích phong là gọi theo tên ngôi chùa cổ ở đây - Hương Tích tự – “Hoan Châu đệ nhất danh lam”. Hương Tích nghĩa đen là chứa mùi thơm. Sách xưa giải thích là “Do đi quanh am, chùa, nghe phảng phất mùi thơm”, hay “Do nước con suối ở đây uống thơm ngon, được gọi là hương tuyền”. Thật ra Hương Tích là mượn điển tích nhà Phật: Hương Sơn là ngọn núi ở bắc Tuyết Sơn trong dãy Hymalaya, nơi xưa kia Đức Phật tu khổ hạnh. Ở Trung Quốc có sáu nơi và ở Việt Nam hai nơi lấy tên Hương Sơn - Hương Tích (Hà Tĩnh và Hà Tây).

Chùa Hương Ngàn Hống dựng đời Trần có thể đồng thời với chùa Yên Tử (Quảng Ninh) thế kỷ XIII. Sách xưa chép: Vua Trần lên chơi động Hương Tích, thấy cảnh thanh u, bèn sai lập am, dựng chùa thờ bà Diệu Thiện để truyền bá hiếu đạo cho dân… lại trong bài thơ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp làm năm 1774, có câu:

“Hương Tích Trần triều tự, Hồng Sơn đệ nhất phong.” (Hương Tích ngôi chùa đời Trần Dựng trên ngọn núi đẹp nhất Ngàn Hống)

Du khách đi qua đất Hữu Thiên Lộc (nay là xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc) thì bắt đầu bước chân lên đường núi. Qua khe Đá Bạc, theo dốc leo lên, lối đá mấp mô, có chỗ phải vịn cây níu đá mà đi, đúng như câu thơ của Nguyễn Nghiễm viết thế kỷ thứ XVIII (dịch): Níu đá vin cây tới đỉnh chùa. Đến đây xanh rợp một vùng rừng thông, rừng trúc, rừng mai bao quanh quần thể kiến trúc và di tích cổ kích. Chùa gồm 2 tòa: Tòa trong và tòa ngoài, am Thánh Mẫu, đền Thiên Vương, nền Trang Vương, nhà Tăng… Trước cửa chùa, đá mọc thành hai hàng bên lối đi có hình chày, cối, tượng trưng cho thiện nam tín nữ…

Page 255: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

255

Sách “Thiên Lộc huyện phong thổ chí” của Lưu Công Đạo viết năm Tân mùi (1811) đời Nguyễn Gia Long mô tả: “Trên đỉnh núi có bức thành đá, bên thành đá có 99 cái nền, cái nào cũng ghép bằng đá mài đẽo trơn phẳng gọi là nền Trang Vương… Ở trước cửa thành có hai cây thông đứng đối xứng nhau, cây nào cũng to lớn đến năm sáu sải tay ôm, cao đến chừng 20 trượng, bóng râm che kín một mẫu đất, vỏ cây xanh đen, rắn chắc như sắt, trông như vách đá cổ. Dưới chân thành chừng sáu bảy chục thước, có am đá trắng ngoảnh ra phía đông, hai bên tả hữu vách đá dựng đứng, bên trên có tảng đá che phủ, đứng ngoài nhìn vào thấy như động sâu, có nơi uốn lượn như hàm rồng. Người ta lấy gạch đá xây tiếp vào, thành cái am. Trong am đặt tượng Quan Âm, nộm đá tượng trưng cho đồng nam tay cầm chùy đuổi quỷ, một nộm gỗ đồng nữ tay cầm kính chiếu yêu. Am này là am Thánh Mẫu… Bên phải am có chùa Phật, bên phải chùa là dòng khe nước vọt từ trong vách đá ra, quanh năm không cạn, nước khe ấy có máng dẫn ra bể nước trước chùa. Bên trái chùa có đền thờ Đại Vương núi Hồng (tài liệu khác chép là đền Thiên Vương). Trong đền có tấm biển Vua ban chữ thiếp vàng. Phía dưới miếu là mấy nếp nhà ở và nhà bếp của các sư… Một giải suối xanh, sóng tùng vạn khoảnh… Theo bậc đá đi lên, mỗi bước lại mỗi cảnh sắc khác nhau, lên cao trông khắp bốn phương, đúng là nơi danh thắng đệ nhất ở Châu Hoan ta”. Đó là cảnh trí chùa Hương Tích đầu thế kỷ XIX.

Một số sách khác chép về am và chùa, cho biết thêm: Đền Thiên Vương có niên đại thời thuộc Minh (1407-1427). Năm Ất dậu (1885), chùa bị cháy, đền cũng cháy một phần, đến năm Tân sửu niên hiệu Thành Thái thứ 13 (1901), Tổng đốc An Tĩnh là Đào Tấn mới cho xây dựng lại. Bấy giờ ngôi chùa xưa đã mất. Dấu vết còn lại là một ít gạch có chữ và hoa văn (đời Trần ?) mà người ta dùng xây lại tường am và chùa mới. Trong chùa hiện còn nhiều tượng Phật, quả chuông lớn, bài “Minh” trên chuông để ngày rằm tháng 8 năm Tân dậu (có thể là năm thứ 2 đời Lê Cảnh Hưng (1741).

Đền Thiên Vương xưa rất đẹp, tường dưới bàn thờ có hình bát quái, phía trên treo bức biển vua ban, nay cũng đã cháy. Mấy cây thông lớn bên nền Trang Vương tương truyền có từ đời Trần, đến đầu thế kỷ này cũng chỉ còn trơ gốc cháy sém.

Page 256: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

256

Gần đây, các công trình kiến trúc chính (am, chùa, đền) vẫn giữ được gần nguyên vẹn dáng vẻ đầu thế kỷ XX. Nhưng nay chùa được xây lại, quang cảnh đã đổi thay nhiều… Phật phả, bi ký không còn, do đó, chúng ta không biết chính xác ngày thành lập, trùng tu chùa, các nhà tu hành trụ trì qua các thời kỳ…

Hương Tích sở dĩ nổi tiếng vì “Không chỉ là ngôi chùa cổ kính mà có khá nhiều kỳ quan, thắng tích xung quanh, liên kết thành một cụm thắng cảnh gồm hàng chục di chỉ, động Tiên Nữ “36 cửa ra vào”, am Phun Mây, khe Tiên Tắm, có thông cổ thụ, suối ướp hương” (Non nước Hồng Lam).

Thường năm, cứ đến mười tám tháng hai âm lịch, ngày Diệu Thiện hóa Phật, là hội Chùa, nhưng ba năm mới có một lần hội lớn dài mười ngày liền mới vãn. Vào dịp này, hàng nghìn thiện nam tín nữ và du khách không chỉ ở Châu Hoan, ở xứ Nghệ, mà từ xứ Bắc, xứ Thanh kéo vào, từ xứ Quảng đổ ra dự hội. Sơn động thâm u bỗng náo nhiệt khác thường. Dọc đường từ chân núi đến cửa chùa, lều quán san sát, ban đêm đèn đuốc sáng rực một vùng… Trong một bài báo, Giáo sư Bùi Văn Nguyên nhắc lại một chuyến trẩy hội chùa Hương Ngàn Hống ngày trước “…Dịp chúng tôi trẩy hội chùa lại sau ngày hội, nhưng dư âm ngày hội vẫn còn phảng phất…”.

CHÙA ÂN QUANG

Chùa Ân Quang là một thiền viện lớn được xây dựng đầu thế kỷ XIII đời Trần116, mé gành Đá Nổi (Phù Thạch) bờ nam sông Lam, nên thường gọi chùa Gành. Vùng này, đời Lê là xã Vịnh Đại, huyện La Sơn, đối diện xã Triều Khẩu, bờ bắc (Nghệ An). Giữa thế kỷ XVII, xã Vịnh Đại nhường phần đất giáp sông cho người Minh (Hoa) lập làng Minh Hương, mở phố buôn bán thì chùa nằm cuối phố Phù Thạch. Trong bài thơ “Gặp ông lão vạn chài ở Phù Thạch”, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp (1723-1804) viết về vị trí chùa (dịch): “Bên trái chùa Ân Quang là phố Khách. Bên phải chùa Ân Quang là bến đò sông Lam”.

Chùa ngoảnh hướng Tây, trước cửa chùa có ao nhỏ, chắc thuở ấy trồng sen. Phía ngoài là bờ sông, xưa rất sâu, gọi là vũng tàu, nay bồi thành bãi, 116 Theo suy đoán, có thể chùa này được xây dựng sớm hơn (?).

Page 257: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

257

chỉ còn cửa dòng sông nhỏ từ sông Đò Hào xuống, đổ ra sông Lam. Đầu thế kỷ XX, đường thuộc địa số 8 từ Vinh lên qua bến phà Chợ Tràng – Phù Thạch, chạy phía sau chùa mà lên Linh Cảm, Na-pê (Lào).

Chùa được sửa chữa nhiều lần. Lần trùng tu cuối cùng là vào năm Giáp tý đời Tự Đức (1864). Người ta đúc thêm quả chuông đồng 51 cân, sắm thêm nhiều tự khí, đặc biệt có bốn lư hương bằng đá thanh chạm trổ tinh xảo. Trong chùa bày 55 pho tượng và tàng trữ 14 bộ kinh Phật…

Từ đời Trần, chùa Ân Quang đã là một danh lam xứ Nghệ được cả nước biết đến, du khách thường qua lại, viếng thăm, và nhiều tao nhân mặc khách đã để lại tác phẩm thi ca nổi tiếng… Đến đời Lê – Nguyễn, phố Phù Thạch càng đông vui thì chùa càng nhiều người thăm viếng. Trong số đó, Phu tử đất La Sơn Nguyễn Thiếp là khách quen của nhà chùa, chẳng những đi về luôn mà “Ba năm làm quan nhỏ – Mấy lần trọ chùa này” (Trú tại chùa Ân Quang) (TKĐ dịch)…

Trên bảy thế kỷ, chùa Ân Quang vẫn được bảo vệ, và được tôn tạo, ngày càng to đẹp. Nhân dân Vịnh Đại tự hào về thiền viện này:

Ai vô Hà Tĩnh coi voi, Ai về Phù Thạch mà coi chùa Gành.

Nhưng đến sau cách mạng (1945), ngôi chùa Ân Quang đã bị dỡ phá. Hiện nay, khu nền chùa, vườn chùa vẫn còn, trơ trọi trên nền khối đá nổi ven sông.

QUẢ CHUÔNG CHÙA RỐI VÀ BÀI THƠ CỦA PHẠM SƯ MẠNH

Ngày 25/12/1990, ông Phan Tân ở đội 2, xóm Hà Thịnh, xã Cẩm Thịnh, huyện Cẩm Xuyên, đào gốc cây lấy đất trồng màu, đã phát hiện được quả chuông đồng nằm sâu dưới mặt đất khoảng 0,40m. Theo các cụ già địa phương thì nơi có quả chuông là phía trước ngôi chùa Rối (đã mất từ lâu). Chùa này nằm giữa địa phận hai làng Kẻ Rái (Lai Lộc) và Om Hạ thuộc đất xã Phượng Hoàng xưa, nay đều thuộc xã Cẩm Thịnh117.

117 Trong bài viết trên báo “Nghệ Tĩnh” (1991) nhà báo Thanh Đồng cho biết: Ngày 27/12/1990, hai ngày sau khi quả chuông được phát hiện, UBND huyện Cẩm Xuyên đã

Page 258: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

258

PGS Nguyễn Du Chi, nhà nghiên cứu Mỹ thuật, trong một bài viết, cho biết: Quả chuông chùa Rối cao 95cm, cả quai là 115cm, đường kính đáy 60cm, chu vi miệng 190cm, cân nặng (theo cán bộ địa phương) 200kg. Kích thước này, nhất là chiều cao, có phần xấp xỉ với các chuông thời Trần đã phát hiện từ trước tới nay.

Hình dáng và bố cục trang trí thân chuông có nhiều nét tương đồng với các chuông thời Trần. Mặt thân chuông được chia làm 8 mảng do 4 nhóm đường chỉ bổ dọc và 2 nhóm đường chỉ khoanh ngang tạo nên. Nhóm đường chỉ làm ranh giới các mảng này gồm 5 đường gờ nổi chạy song song. Chỗ giáp nhau của các đường gờ là các núm tròn, phía trên có 4, phía dưới có 2.

Phần dị biệt là quai chuông: Các chuông Đồ Sơn và Bình Lâm (đời Trần) được cấu tạo bởi hai hình rồng, đầu ngẩng cao, chống hai chân trước, thân nối vào nhau thành một và ở giữa đỉnh cao của quai còn có một núm tròn phía trên. Các chuông đời sau cũng có cấu trúc quai như vậy. Quai chuông chùa Rối chỉ có một con rồng, đầu rồng cũng từ dưới ngẩng cao, và thân rồng tròn cong lên như chuông Đồ Sơn, nhưng đối diện nửa bên kia là đuôi rồng với hai chân sau đăng đối như hai chân trước. Đây là cấu trúc quai hơi đặc biệt mà các chuông đời sau cũng không thấy có. Hình rồng ở đây cũng được thể hiện khác chuông Đồ Sơn. Đó là hình rồng có sừng, mồm vuông nhô dài ra, mũi tròn, không còn mào lửa cuồn cuộn nhô dài ra như rồng của chuông Đồ Sơn, lông mày, râu cằm và các khuỷu chân của rồng đều có nhiều lông lởm chởm. Rồng có 4 chân, mỗi chân có 4 móng, các móng đều nhọn, cắm sâu xuống đỉnh chuông, tạo nên một tư thế chắc khỏe.

Bài thơ của Phạm Sư Mạnh khắc trên chuông là bài tuyệt cú, thất ngôn (4 câu, mỗi câu 7 chữ). Đáng tiếc là một số chữ cuối câu thơ đã mờ mất, không thể đọc, một số chữ khác viết thảo, khó đọc. Đặc biệt, trong lòng chuông còn phát hiện thêm dòng chữ lạc khoản của người đúc chuông là: “Cung nội thượng ban Phùng Ngọc… pháp hiệu Từ Nghiêm tỳ Khưu”.

cử cán bộ văn hóa – bảo tàng về, cùng chính quyền xã Cẩm Thịnh và ông Phan Tân bàn kế hoạch bảo vệ hiện vật…

Page 259: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

259

(Theo “Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1995” – NXB KHXH, H.1996).

Ông Đinh Khắc Thuần (Viện N.C Hán Nôm) dựa theo văn bản bài thơ công bố ở bài viết trên đây cùng bức ảnh chụp bài thơ của Nguyễn Du Chi, và được sự góp ý của nhà nghiên cứu Hán Nôm tại Cộng hòa Pháp Tạ Trọng Hiệp, đã khôi phục nguyên văn bài thơ của Phạm Sư Mạnh khắc trên chuông chùa Rối118. (“Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1996” – NXB KHXH, 1997).

Năm sau, trên “Thông báo Hán Nôm học năm 1998” (Viện N.C Hán Nôm, 1999), ông Hoàng Văn Lâu cho biết thêm: “Về hình thức, núm treo chuông do một con rồng tạo thành. Cả 6 núm chuông đều thể hiện phong cách chuông chùa thời Trần”. “Trên chuông khắc bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của Phạm Sư Mạnh… Còn giữ được hai chữ húy đời Trần là chữ “nam” và chữ “lý” theo lối viết bớt nét”. “Phạm Sư Mạnh có tập thơ “Hiệp Thạch thi tập”, nhưng đã bị thất truyền. “Toàn Việt thi lục” của Lê Quý Đôn sưu tập được 35 bài thơ của họ Phạm, nhưng không có bài thơ tứ tuyệt này…”.

Ông Hoàng Văn Lâu khôi phục lại bài thơ như sau:

“Nam vọng Hoành Sơn đại hải đoan, Kình đào húng dũng bạch vân gian. Thiều thiều vạn lý nam chinh lộ, Xa giá hoang châu Bố Chính san”. Hiệp Thạch Phạm Sư Mạnh

Và dịch nghĩa:

“Nhìn về phương Nam, núi Hoành Sơn ở bên biển lớn, Sóng kình cuồn cuộn liền dải mây trắng. Đường Nam chinh xa xôi muôn dặm, Xa giá tới núi Bố Chính châu hoang vắng.”

118 Ngày 13/5/1995, tôi cũng đã đến khảo sát quả chuông với đoàn cán bộ Viện văn học do GS Huệ Chi dẫn đầu. Tháng 12/1999, Thạc sĩ Nguyễn Xuân Diện, Giám đốc thư viện của Viện nghiên cứu Hán Nôm, đã gửi cho tôi các bài viết về quả chuông chùa Rối công bố trước đó. Bài này chủ yếu lấy tài liệu từ các bài ấy. Xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Nguyễn Xuân Diện.

Page 260: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

260

Căn cứ vào nội dung bài thơ, ông cho rằng bài này được sáng tác khi vua Trần Duệ Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành năm 1376-1377, trong thời gian vua vào đóng quân ở châu Bố Chính (nay thuộc Quảng Bình) năm 1376, trước khi tiến vào đất Chiêm, thất trận và bị giết năm 1377.

Như vậy, quả chuông chùa Rối được đúc sau năm 1376, còn chùa có thể có sớm hơn nhiều.

CHÙA THIÊN TƯỢNG

Chùa Thiên Tượng dựng trên ngọn núi cùng tên phía tây dãy Ngàn Hống thuộc địa phận làng Quỳnh Lâm, xã Bân Xá, nay là xã Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh.

Sách “Thiên Lộc phong thổ chí” (SĐD) chép: “Đỉnh núi hơi thoải dốc, về phía tây có một hang đá bằng phẳng, trong hang có chữ khắc trên đá ghi chiến công của đời trước. Trên miệng hang có hòn đá to hình dạng như con vịt. Trước hang lại có hòn đá to nữa, giống như hình con voi, nên gọi là “Đá Voi” hoặc “Voi Đá”, đầu ngoảnh về phía nam, đuôi và lưng hướng về phía bắc. Đứng ở dưới núi nhìn lên, trông thấy hình thế thiên nhiên như vậy nên gọi tên là núi Thiên Tượng (Voi Trời). Bên tả, bên hữu đều có khe suối nước chảy quanh năm. Nước chảy xối xả, lắng nghe như có tiếng nhạc rì rào.

Trên núi có chùa, tiện cho người quanh vùng đi lễ Phật. Hai bên là hai dãy nhà tăng có đến mấy chục phòng. Cửa chùa sát hồ nước. Hồ này do nước chảy ở khe vào mà thành. Nhờ địa thế như vậy nên ở đây có gió mát dễ chịu. Cách chùa về phía tây còn có một am nhỏ nữa. Cảnh chùa và am là một nơi danh thắng của núi Hồng, đứng thứ hai sau chùa Hương Tích”.

Một số sách khác như “Hoàng Việt nhất thống dư địa chí”, “Can Lộc huyện phong thổ ký”… đều chép về ngôi chùa cổ này cho biết thêm: “Chùa dựng từ đời Trần, Phạm Sư Mạnh (TK XIV), khi làm Chuyển vận sứ Nghệ An, đã từng đến thăm chùa, có bài “Sơn hành” (Đi trong núi)”.

Năm Ất dậu (1885) đời Nguyễn, chùa Thiên Tượng cũng như chùa Hương Tích, đều bị cháy và bỏ hoang phế. Nhà danh nho Bình Định, Đào Tấn, ra làm Tổng đốc An Tĩnh, nhiều lần lên thăm chùa, và tả cảnh chùa

Page 261: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

261

hồi ấy trong bài thơ “Du Thiên Tượng phế tự, ký thực” (Ghi lại sự thật khi lên thăm ngôi chùa hoang Thiên Tượng), có đoạn (dịch):

“… Hương hoa với bát bình vứt bỏ Tượng Phật ngồi lồ lộ đài cao Nhà chay nào thấy sư đâu…”

Vào năm Thành Thái thứ 13 (1901) chính Tổng đốc Đào Tấn là người đứng ra kêu gọi, giúp đỡ, tu sửa lại hai ngôi chùa lớn Hương Tích và Thiên Tượng.

Chùa Thiên Tượng được trùng tu khá khang trang, ngôi hạ đường phía trước cao rộng, 4 gian, 2 chái, trước và sau đều có hiên. Từ hiên sau, qua một sân hẹp đến thượng đường. Phía trước thượng đường xây theo hình cổng “tam quan”, chia làm ba khung bằng nhau, ngăn cách bởi bốn trụ xây, mỗi khung có một cửa vòm rộng 2m. Kéo dài suốt trên nóc tường, đắp hình “lưỡng long triều nguyệt”. Ở khung giữa, phía trên cửa vòm đắp ba chữ lớn “Thiên Tượng tự”, và trên bốn cây trụ có đôi câu đối:

- Hoa vũ di thiên, từ vân phú địa Thanh sơn nhiễu xá, bạch thủy tuần trừ (Mưa hoa dày trời, mây “từ” rợp đất, Núi xanh quanh nhà, suối trắng bên thềm)

Năm 1994, nhà sư Thích Viên Ngộ về đây trụ trì và năm 2004, chùa Thiên Tượng được xếp hạng “Di tích lịch sử – Văn hóa quốc gia”.

CHÙA DIÊN QUANG

Chùa Diên Quang (Diên Quang tự) dựng trên mái nam núi Am Sơn, nên thường gọi là chùa Am, thuộc địa phận xã Phụng Công, tổng Đồng Công nay là xã Đức Hòa, Đức Thọ.

Chùa tựa lưng vào vách núi, trước mặt là dòng Liệt Thủy (rào Nướt) đổ ra sông Ngàn Sâu, phong cảnh u nhã, đúng là danh lam đất La Sơn, như một câu đối trước chùa mô tả:

“Quảng đại cung tường Am lĩnh tuấn;

Page 262: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

262

Hà sa công đức Liệt giang trường.”

Từ đường cái đi lên, qua một bãi rộng dốc thoai thoải, có nhiều đá mọc lô nhô, có hòn giống như nhà sư đang quỳ niệm Phật, nên người xưa gọi là “Bái Phật tăng”. Qua bãi đá, đến một bể cạn thả sen, rồi một bệ thờ xây gạch. Hai bên là hai hành lang lên cổng chùa, cao 15 bậc, đi giữa hai bức tường lan can. Qua cổng là sân rộng có tường dắt bao quanh. Chùa chỉ có một tòa nhà lớn hình chữ công (I), trùng diêm, tám mái, tường gạch, lợp ngói. Mặt trước trông như ngôi nhà ba gian, hai hồi, có ba cửa chính đóng bức bàn và hai cửa khém; dải hiên rộng, từ sân lên qua ba bậc đá; hai lớp mái với bốn đầu đao cong vút; trên nóc đắp hình “Lưỡng long triều nguyệt”. Tổng thể trông rất đồ sộ nhưng thanh thoát. Từ hàng hiên vào, có mười dãy cột, mỗi dãy sáu cây bằng gỗ mít; sườn nhà, đồ trên đều bằng sắc mộc; hàng kẻ trước chạm trổ đơn giản… Trước đây, trong chùa có nhiều tượng Phật, lại có quả chuông đồng, đặc biệt có bức tượng Hoàng hậu Bạch Ngọc bằng đồng đen đặt trong khám thờ.

Theo “Nham cảo chùa Diên Quang” thì Hoàng hậu Bạch Ngọc tên là Trần Thị Ngọc Hào, vợ vua Trần Duệ Tông. Sau khi nhà Trần mất ngôi, nhà Minh mượn cớ sang đánh nhà Hồ để xâm lược nước ta, bà đã đưa con gái là công chúa Huy Chân Trần Thị Ngọc Hiên và gia nhân chạy về Nghệ An, tổ chức khai phá đất hoang, lập lên nhiều làng xóm ở vùng hạ Hương Khê, thượng Đức Thọ và thượng Can Lộc. Mẹ con bà đưa số thóc gạo dự trữ được cung cấp cho nghĩa quân Lam Sơn. Công chúa Huy Chân được Bình Định Vương chọn làm cung phi, sinh công chúa Trang Từ Lê Thị Ngọc Châu. Sau ngày thắng lợi, bà Bạch Ngọc xin vua cho lập ngôi chùa ở Am Sơn, xuất gia tu hành ở đây. Về sau, Công chúa Huy Chân cũng xin về tu hành cùng mẹ. Công chúa Trang Từ, sau khi chồng là Minh Quận công Bùi Ban tử trận, tái giá với Quận công Trần Hồng, nhưng cuối cùng cũng về đây tu hành cùng bà và mẹ… Như vậy, chùa Diên Quang được xây dựng vào khoảng năm Thuận Thiên (1428-1433) đời Lê Thái Tổ. Hiện nay không có tài liệu, chứng tích cho biết tình trạng ngôi chùa khi sơ thiết và thời gian các lần trùng tu. Trên xà nhà chỉ còn lại dòng chữ khắc “Nguyễn triều Duy Tân tứ niên quý hạ…119 trùng dinh công thoan, quý đông trung

119 Có một số chữ đọc không rõ.

Page 263: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

263

cán khánh (?) thành” (Năm Duy Tân thứ tư (1910) triều Nguyễn,… tháng cuối hạ (tháng sáu) dựng lại, công việc hoàn tất, trung tuần tháng cuối đông (tháng chạp) khánh (?) thành). Có lẽ đây là lần tu sửa cuối cùng.

Trước chùa, từ ngoài vào, bên trái là ba ngôi tháp mộ các nhà sư: Tháp Yên Tập, tháp Từ Nghiêm và tháp Diên Lạc. Bên phải là nhà tăng xây dựng xong mùa thu năm Ất hợi (1935) và trước công trình là tháp “Sinh Tịnh” mộ vị sư cuối cùng Thanh Liễn Nguyễn Tất Tố, thường gọi Sư Liễn xây dựng năm Bính tý đời Bảo Đại (1936).

Vườn chùa chiếm cả một phần mái núi, xưa kia có nhiều cây cổ thụ và cây ăn quả, cành lá sum suê. Phía sau chùa, trên mái núi, có nhiều tảng đá dựng đứng, người ta gọi là “đá Thần đồng” (?). Mé đông chùa, dưới chân núi, có giếng đá, nước trong vắt, bốn mùa không cạn, là nơi khách vãn cảnh chùa thường đến nghỉ ngơi…

Suốt hơn năm thế kỷ, ngôi chùa cổ kính Diên Quang không chỉ nổi tiếng là nơi phong cảnh tuyệt đẹp, mà còn gắn với sự nghiệp một bà hoàng hậu đời Trần, gắn với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh của nhân dân vùng Đức Quang – Đức Thọ. Nhưng suốt hai cuộc chống Pháp, chống Mỹ, chùa bị bỏ hoang phế, ngôi chùa bị hư hỏng nghiêm trọng, bức tượng bà Bạch Ngọc và quả chuông cùng nhiều tự khí có giá trị đã bị thất tán!

Từ khi chùa được xếp hạng “Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia” (Quyết định ngày 13/02/1995 của Bộ Văn hóa thông tin), ngôi chùa và cảnh quan được tu bổ lại và bảo vệ tốt hơn.

CHÙA YÊN LẠC

Chùa Yên Lạc, thường gọi chùa Keo, ở xóm Chùa, làng Nhượng Bạn, nay là xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên.

Chùa dựng đời Lê nhưng chưa biết chính xác thời gian nào. Tương truyền, có người tình cờ thấy pho tượng đá trắng nổi lên giữa bãi cát, bèn đưa về đặt tại đây, che tạm mấy tấm tranh để thờ. Về sau, dân làng mới lập chùa. Qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, đến nay về cơ bản, chùa vẫn giữ

Page 264: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

264

được nguyên trạng đầu thế kỷ XX.

Chùa ngoảnh về hướng tây nam, phía đông bắc là biển và phía đông nam là cửa Nhượng, phía tây, không xa là thị trấn Thiên Cầm… Quanh chùa, xưa kia cây cối sầm uất. Trước chùa, có bàu sen, nay đã bị san lấp… trở thành xóm dân cư…

Tam quan lên hạ, trung, thượng đường, được bố trí thẳng hàng theo một trục chính, nền cao dần về phía sau. Hai bên hạ đường là nhà cúng âm hồn và nhà bia. Hai bên sân thượng là tả, hữu vu. Phía sau, bên trái chùa là nhà tăng. Tam quan, làm theo kiểu “nghi môn” là một ngôi nhà gỗ xây tường lợp ngói; bốn trụ phía trước xây gạch, tạo thành ba cửa. Mặt chính các trụ khắc câu đối, và trên cửa giữa khắc 4 đại tự “Quan đối nam sơn”, trên hai cửa bên đề chữ “yên quốc”, “lạc dân”. Hai bên còn có hai cổng phụ, trên xây mái lợp ngói, nối liền với tam quan bằng dãy tường hoa.

Từ tam quan đến hạ đường là sân rộng, giữa có xây một lư hương. Cả ba ngôi nhà thượng, trung, hạ đường đều xây tường bao, lợp ngói vảy. Hai ngôi hạ, trung đường đều ba gian, thông với nhau. Trước hạ đường đóng cửa bức bàn, phần trên xây trụ có mái hất và dãy xuyên hoa, chính giữa là mặt nguyệt lồng ba chữ “Yên Lạc tự”. Từ trung đường qua cái sân nhỏ giữa tả, hữu vu lên thượng đường một gian hai hồi, đặc biệt trần nhà sơn son, vẽ hình mây rồng…

Chùa Yên Lạc đến nay vẫn lưu giữ được nhiều tượng Phật và tự khí quý giá…

Hai gian bên hạ đường treo quả chuông và chiếc khánh đồng, thân có nổi tên chùa và bài “Minh” đề niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 5 (chuông) và thứ 7 (khánh), tức là những năm 1797 và 1799, đều do nhà sư trụ trì Hải Thụy, tục danh Tôn Toàn soạn. Cũng cần nói đến tấm bia đá ghi công đức của những người họ Trần, văn bia do Cử nhân Đậu Văn Bính soạn năm Giáp Tuất đời Bảo Đại (1934). Cùng với bức trần thượng đường, cỗ hương án, những bức biển, đối liễn…đều là những tác phẩm chạm khắc, sơn thiếp có giá trị.

Tượng trong chùa còn khá nhiều: “Tam thế”, “Nam tào”, “Bắc đẩu”, “Hộ pháp”, “Phỗng”… nhưng đáng chú ý hơn cả là các pho “A-di-đà” (bằng đồng), “Cửu Long”, “Quan Âm”. Sách “Địa chí văn hóa dân gian

Page 265: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

265

Nghệ Tĩnh (Nguyễn Đổng Chi chủ biên) viết: “Tượng “Quan Âm” ngồi trên tòa sen, chân xếp bằng, chân xếp đứng… dáng điệu mềm mại, cân xứng, tư thế thoải mái, khuôn mặt xinh xắn, từ bi. Đằng sau có con chim vẹt (Thiện Sĩ) như nhắc người xem… một cuộc đời chịu đựng gian khổ của nhân vật”.

… Chùa Yên Lạc dựng sau chùa Rối, chùa Cầm Sơn, nhưng ngày nay là một thắng tích còn giữ được nguyên vẹn ở Cẩm Xuyên. Chùa đã được xếp là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia.

Page 266: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

266

CHƯƠNG VII

VÀI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT DÂN GIAN

Nghệ thuật dân gian chiếm phần quan trọng nhất trong kho tàng văn hóa dân gian, được sáng tạo, lưu truyền và tích lũy từ bao đời nay. Một tiếng ví sâu đậm ân tình, một chuyện trạng tràn đầy sức sống; một câu hò, khúc giặm dân dã, một giọng ca trù thanh cao; tiếng trống sắc bùa ngày xuân, tiếng trống trò ngày hội; một ngôi đình Hội Thống đồ sộ, một ngôi đền Thái Yên chạm trổ tinh xảo, một ngôi chùa Am kiểu dáng độc đáo; một ngọn tháp chùa Đá cổ kính, một quần thể kiến trúc đá lăng Vinh Dương hầu Mỹ Duệ, một kiểu mộ đá cụ Phan ở Rú Son, một phù điêu đá miếu Đặng Quận công ở Trung Lao, một pho tượng gỗ Chiêu trưng vương, một bộ tranh “Thập điện” ở chùa Yên Lạc…, tất cả đều biểu thị tài năng, và tâm hồn của nhân dân Hà Tĩnh.

MỘT VÙNG VÍ GIẶM

Dân ca Hà Tĩnh - chính xác hơn là dân ca Nghệ - Tĩnh khá phong phú và đậm bản sắc riêng. Các điệu hò lao động, hát ru, hát giao duyên nam nữ… cho đến hát sắc bùa, hát xẩm, hát nhà trò (ả đào) là mấy môn nghệ thuật có tính chuyên nghiệp được dân gian hóa, đều rõ nét địa phương, trong đó hát ví, hát giặm là “đặc sản” của xứ Nghệ.

Hát Giặm: “Giặm là một thể loại văn học - âm nhạc dân tộc giàu sắc thái địa phương (Nghệ - Tĩnh) nhất… Từ “Giặm”, về ngữ nghĩa cho đến nay vẫn còn mơ hồ. Có người cho là nó xuất phát từ tính cách phân đoạn của bản thân hát Giặm… Có người lại cho nó xuất phát từ tính cách chắp vần và láy lại của một khúc hát trong đối thoại”. Hai cách giải thích này đều chưa thỏa đáng, chưa đủ thuyết phục… “Dựa theo một số bài hát Giặm

Page 267: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

267

còn sót lại, tạm có bằng chứng cho rằng Giặm đã tồn tại từ thế kỷ XVIII… nhưng lại dựa theo nhạc điệu thì có thể ngờ rằng Giặm bắt nguồn từ một loại động tác lao động nào đó xuất hiện từ xa xưa… có liên quan đến cách phát âm của xứ Nghệ. Ngoài ra Giặm có thể liên quan đến một vài điệu hát nào đó của đồng bào thiểu số vốn có sự giao lưu văn hóa với người Kinh xứ Nghệ xưa..” (Địa chí Văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh - Sách đã dẫn - NXB Nghệ An, 1995). Như vậy là nguồn gốc, thời gian ra đời, đến nghĩa chữ “Giặm” vẫn chưa rõ ràng.

Về thể văn, bài (hoặc khổ) Giặm cơ bản có 5 câu, mỗi câu 5 chữ gieo vần chân: Câu 1 vần trắc, câu 2 và câu 3 vần bằng, câu 4 vần trắc và câu 5 (câu láy lại, điệp) cùng vần trắc:

“Ai khun (khôn) bằng Từ Hải, Cũng mắc dại Thúy Kiều, Nghe lời nói mà xiêu, Về thu binh cuốn dáo, Hạ cột cờ cuốn dáo”.

Cũng có khi mỗi câu chỉ có 4 chữ hoặc dài tới 6, 7, 8 chữ và một bài (hoặc khổ) Giặm có thể kéo dài hàng chục câu bằng cách tăng thêm câu vần bằng. Những tay đặt chuyện giỏi thì không bị gò bó về câu, vần, mà biến hóa rất sinh động:… Về chợ Hạ tui (tôi) quen cụ Đình - Vô (vào) Lạc Thiện tui (tôi) quen cậu Ấm Ninh - Quen ông Tám Ca Lai Thạch (chuyển vần trắc) - Quen ông Bát Trạch ở Giang Đình (trở lại vần bằng) - Quen ông Ký Bưởi ngoài Vinh…

Một bài hát Giặm dài thường gồm nhiều khổ, có khi tới mấy chục khổ nối tiếp nhau. Để làm liền mạch, câu đầu khổ sau phải hiệp vần với câu cuối khổ trước. Loại này thường mở đầu và kết thúc bằng hai câu 6 - 8, hoặc chỉ bằng một câu 6.

Có loại bài Giặm nhất thiết phải “sáng tác ứng khẩu” tại chỗ như bài hát đối đáp, đối thoại hay bài trình diễn trước đông người bằng độc xướng hoặc hòa thanh để cùng chung vui khi chúc mừng, ca tụng, kể chuyện hay cổ động một việc mang tính thời sự. Người ta kiêng hát lại những bài cũ, (vả cũng khó có bài thích hợp với hoàn cảnh lúc hát). Đó là nguyên tắc đối với

Page 268: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

268

những tay hát Giặm cừ khôi. Do vậy, nghệ nhân hát Giặm ngày trước đều phải giỏi sáng tác. Lớp tác giả này đều là nông dân, thợ thủ công, dân buôn bộ, chứ không có nhà nho tham gia.

Với loại bài Giặm dài hơi kể một câu chuyện hoặc diễn đạt một tâm trạng (thường gọi “Giặm vè” hay “vè Giặm”) thì người sáng tác phải chuẩn bị chu đáo, sắp xếp kết cấu, trau chuốt văn chương… để kể được hay, bày tỏ được ý kiến, tình cảm. Những bài hát này tuy vẫn truyền miệng, nhưng một số là tác phẩm định hình, có giá trị bền vững; một ít bài như “Chúc thọ vua Tự Đức”, “Ký sương phụ từ”… đã vượt khỏi phạm trù sáng tác dân gian. Tác giả những bài hát Giặm, “vè Giặm” ấy phần lớn là dân thường, nhưng một bộ phận là nhà nho, nhà khoa bảng như các cụ Tú Ngung, Đầu phủ Cam, Đầu huyện Thân, Giải Huân, Nghè Kế v.v…

Âm nhạc của hát Giặm cũng như “âm nhạc dân ca xứ Nghệ nói chung còn mộc mạc, chưa có kết cấu hoàn chỉnh, dựa vào lời theo các thể thơ, trên cơ sở dấu giọng để biến thành giai điệu” (Hoàng Tạo - Từ dân ca đến kịch hát); “khoảng cách giữa hát và nói không xa bao nhiêu” (Lê Ngọc Cầu - sách trên).

Điệu hát Giặm nghe không mềm mại, du dương, uyển chuyển như hát Ví, mà đều đều, trầm trầm, phải là sản phẩm của một vùng đất xa nơi đô hội, không có sông lớn thuyền to… như ở nam Hà Tĩnh. Tùy theo môi trường diễn xướng và thói quen cảm thụ của từng vùng mà về làn điệu, tiết tấu hát Giặm có ít nhiều khác biệt, nhưng vẫn không xa bao nhiêu. Do sự khác nhau đó mà các nhà sưu tầm, nghiên cứu âm nhạc thường gọi theo nhiều tên riêng biệt: Giặm nói, Giặm kể, Giặm ru, Giặm cửa quyền (?)…; có người lại gọi tên theo môi trường diễn xướng: Giặm đò đưa, Giặm trèo non, Giặm đường trường…

Giặm được trình diễn trong nhiều môi trường khác nhau, dưới nhiều hình thức:

- Người ta hát Giặm khi lao động, trong sinh hoạt thường ngày: Có khi mọi người cùng hát đồng thanh, như phường đi củi Phù Minh (Can Lộc) có tục lệ khi trên núi xuống, tập trung một nơi để nghỉ ngơi, rồi gái trai mới cùng nhau cất gánh lên vai, bắt đầu hát đồng thanh trên đường về cho đến xóm, những bài Giặm, đại loại như: “Động Can Mai thì dốc - Động Trộ

Page 269: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

269

Đó thì dài - Ra đến động Hai Vai - Thậm chừng chi là khỏe - Chi thậm chừng là khỏe…”. Có khi một người độc xướng một bài bày tỏ niềm riêng với bạn, cũng là với chính mình, như chàng trai phường gặt trước lúc từ giã bạn gái cất lên khúc hát: “Rơm cũng đã rã rồi - Toóc (rạ) cũng đã rã rồi - Mự (mợ) rẽ về một nơi - Tui (tôi) rẽ về một nơi - Mai đàng sá xa xôi - Tui (tôi) về không gặp mự (mợ)…”; Có khi hai người bạn gặp nhau, cùng hát đối đáp để mua vui, hoặc để trao đổi ý kiến, tình cảm; có khi một nghệ nhân hoặc phường hát đến nơi xa lạ, gặp dịp tết nhất, tế lễ thì ngẫu hứng hát mừng, hát chúc. Lại có khi, đêm vắng, con thuyền xuôi dòng sông, người chèo thuyền độc diễn bài hát Giặm tự sự hoặc trữ tình (Phụ tử tình thâm, Mẹ dòng, Tình ca 24 tiết… hay một bài hát có nội dung yêu nước…). Đó là “Giặm đò đưa”.

Các bà mẹ thường hát ru con bằng những bài vè Giặm, và các nghệ nhân hát xẩm cũng trình diễn nhiều bài Giặm. Người ta gọi đây là “Giặm ru”, “Giặm xẩm” (?).

Nhưng trong buổi đầu, hát Giặm chủ yếu là hát giao duyên, đối đáp nam nữ. Trong bài phú “Trung Lễ thất hỏa” của Lê Trọng Dôn viết năm 1885 có câu: “Ngoài đường thì người dạo từng đoàn, đoàn họp làng, đoàn hát giặm…”. Vậy là lúc này, việc hát đối đáp nam nữ đang thịnh hành.

Cuộc hát thường do trai gái trong làng (hoặc trai các làng lân cận đến) hát với nhau. Mỗi “phe” hát thường có ba đến năm, bảy người, trong đó nhất thiết phải có người sáng tác giỏi. Người này ứng khẩu hát, và những người khác “hát cặp” theo sát lời, sát giọng…

Nội dung buổi hát là cuộc đối đáp, thi tài giữa hai phe nam nữ, nhưng cuối cùng bao giờ cũng là cuộc “tỏ tình”. Khác với hát Ví, những bài hát Giặm đối đáp không chỉ có năm, bảy câu, mà có thể mấy chục câu, cá biệt có nghệ nhân ứng tác hát hàng trăm câu. Vì vậy, có người cho đây là “tỏ tình bằng văn xuôi”. Hát Giặm đối đáp thực chất là cuộc biểu diễn thi tài, chủ yếu giữa các nghệ nhân cầm đầu, còn những người khác chỉ đóng vai phụ… Vào những năm đầu thế kỷ XX, lối hát Giặm đối đáp nam nữ chỉ còn thấy ở Thạch Hà, Cẩm Xuyên…

Hát Ví: Như hát Giặm, Ví cũng là “đặc sản” của dân ca Nghệ - Tĩnh. Đây là lối hát hoa tình, giao duyên nam nữ rất phổ biến ở Hà Tĩnh vào cuối

Page 270: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

270

thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; theo một số sách và bài viết thì từ đầu thế kỷ XVIII, Ví đã thịnh hành.

Lời hát Ví chỉ là câu văn lục bát hay lục bát biến thể. Khác với Giặm, điệu hát Ví bay bổng, ngân vang, nhất là khi hát trên sông nước… Tùy theo môi trường diễn xướng mà nhạc điệu của Ví có những thay đổi trên cơ sở điệu cơ bản, nên các nhà nghiên cứu âm nhạc thường gọi tên khác nhau: Ví đò đưa, Ví phường cấy, phường nón, phường buôn; phường vải, Ví trèo non (phường đi củi, đi cỏ…) v.v…

Có thể nghĩ rằng, Ví là điệu hát của vùng sông nước, sinh ra trước tiên từ vùng sông nước Lam, La… Giọng hát đò đưa trong trẻo, nghe man mác, xao xuyến lòng người, nhất là hát trong đêm khuya… Lời hát lại rất trữ tình, chải chuốt mà tự nhiên, đặc biệt là không có từ Hán - Việt, ngoài những từ “loan, phượng”.

- Gió mô (đâu) gió thổi sau lưng, Dạ mô (đâu) dạ nhớ người dưng thế này? - Bóng trăng em tưởng bóng đèn, Bóng cơn (cây) em tưởng bóng thuyền anh xuôi. v.v…

“…Người chèo thuyền, người chở bè, buông tiếng hát ra giữa khoảng mênh mông trời nước, chỉ có mình hát cho mình thưởng thức, mình hát để trải tình cảm của mình trước thiên nhiên. Và thiên nhiên như người bạn lòng đáp lại cảm hứng của nghệ sĩ dân gian bằng tiếng dội của núi non, sông nước. Khi nào đó, gặp một thuyền bạn ngang qua, thì từ con thuyền ấy sẽ có lời đáp lại, chỉ đôi ba câu hát, đôi ba câu trao đổi để tỏ mối đồng cảm, rồi hai thuyền lại xa nhau. Rồi có những con thuyền cùng xuôi, cố ý chèo gần nhau, hoặc cặp lại bên nhau mà hát… Hoặc nữa, có người từ trên bờ “hát vọi” ra, đáp lại tiếng hát giữa dòng sông… Từ đó có ví đối đáp…” (Thái Kim Đỉnh - Đôi điều về dân ca Nghệ - Tĩnh - 1981).

Ví phường buôn bộ, phường củi, phường cỏ, phường cấy… đều là Ví đối đáp nam nữ khi đi đường, khi lao động ngoài trời, khoáng đãng, chất trữ tình rất đậm:

- Một ngày hai trận trèo non,

Page 271: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

271

Lấy chi mà đẹp, mà giòn hỡi anh?...

- Một ngày hai bận cơm đèn, Lấy gì má phấn răng đen hỡi chàng?

Ví phường nón, phường vàng, phường vải cũng là Ví giao duyên nam nữ khi làm việc trong nhà. Đặc biệt, Ví phường vải được tổ chức quy củ, chặt chẽ nhất. Khi phường hát con trai đến thì phải đứng ngoài ngõ nhà có con gái tập trung kéo sợi, dệt vải, hát “đánh tiếng” rằng mình đã đến.

- Chốn này vui vẻ tưng bừng, Tai nghe tiếng phượng xa chừng tới nơi, - Đi qua trước cửa vườn đào, Chộ (thấy) hoa thiên lý muốn vào hái chơi…

Một lúc sau, phe nữ mới hát đáp lại:

- Dừng xa, khoan kéo ơ phường, Hình như có khách viễn phương tới nhà…

Thế là hai phe bắt đầu “hát dạo”, đến khi hát đã “say” thì “hát chào - hát mừng” rồi “hát hỏi”. Đây mới là chặng đầu. Chặng thứ hai “hát đố - hát đối”, mới là chặng quyết liệt nhất, kéo dài nhất. Hai bên Ví hỏi, đáp đủ chuyện “trên trời, dưới đất”, chuyện chữ nghĩa, văn chương… có khi nhiều đêm chưa dứt. Đây là cuộc “sát hạch” khắt khe kiến thức của nhau, nhưng qua được chặng này thì hai bên đã trở thành thân thiết. Lúc đó bên nữ mới “hát mời”; “Bạn đến mời bạn vô nhà - Chè tàu xin rót, rượu trà xin dâng”. “Hát mời” là phần mở đầu chặng thứ ba “hát xe kết”, tỏ tình… Cuối cùng là phần “hát tiễn”: “Anh về nước mắt dòng dòng - Thấu thiên, thấu địa, thấu lòng em chưa!...”; “Ra về chín nhớ mười thương - Bước chân lên ngựa, cầm cương dùng dằng”…

Không như hát Giặm, và các loại Ví lao động khác, Ví phường vải có các nhà nho, kể cả các nhà khoa bảng tham gia. Không chỉ bên trai, bên gái cũng mời một thầy nho, ông tú hay ít ra cũng một bà già giỏi sáng tác, có kinh nghiệm để “gà” chuyện. Những người này phải giấu không cho đối phương biết mình là ai, thường trùm khăn, áo lên đầu, nên gọi là “ông trùm đầu”. “Văn tế hai cô gái Tràng Lưu” có câu: “Léo (leo) lên giường chỉ quan họ năm bảy ông… lại có ông đắp áo trùm đầu…”. Do đó, lời hát Ví

Page 272: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

272

phường vải, nhất là phần hát đố - hát đối ít chất trữ tình mà giàu chất trí tuệ, dùng nhiều chữ nghĩa, điển tích:

Đố: - Sách Hán vương chường (chàng) học lâu nay, Hỏi ai câu sông Vị, ai cày Lạch (Lịch) sơn?

- Sách Hán vương anh xin nói nường hay, Ông Lữ câu sông Vị, vua Thuấn cày Lạch sơn.

Đối:

- Nhớ anh “nhất nhật” đã suốt “một ngày” “Đêm” còn tơ tưởng “dạ”, lòng rày nhớ trông.

- Chờ em “nửa tháng” ni rồi, Ôm đờn “bán nguyệt” dựa ngồi cùng “trăng” v.v…

Theo giai thoại thì từ thế kỷ XVIII ở Hà Tĩnh đã có nhiều làng hát phường vải, tiêu biểu là làng hát Tràng Lưu. Chính từ đây đã xuất hiện bài “Thác lời người con gái phường vải…” (của Nguyễn Huy Quýnh) và các bài “Thác lời người con gái phường nón…”, “Văn tế sống hai cô gái Tràng Lưu” (của Nguyễn Du).

Đáng chú ý là ở Hà Tĩnh, nhất là ở vùng Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, thi hát Ví, người ta thường xen vào một đoạn hát Giặm để phù hợp với tâm trạng nghệ nhân, và cũng làm cho cuộc hát sinh động hơn. O Nhẫn ở Đan Du là người giỏi vận dụng cách này.

Ả ĐÀO CỔ ĐẠM

Trong bài “Nghệ thuật cổ tục hát ả đào” (Tạp chí “Đất Tổ”, Sài Gòn), Đào Thị cũng biết “Thế kỷ XVII, hát ả đào rất thịnh, thế kỷ XVIII kém đi, cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX Ả đào Nghi Xuân nổi tiếng trong thiên hạ”.

“Ả đào Nghi Xuân” nói trên là Ả đào Cổ Đạm. Ả đào Cổ Đạm thật ra không phải ở xã Cổ Đạm (Kẻ Lạt) - mà ở thôn Giáo Phường xã Phú Lạp (có lúc gọi Phú Giáo), tổng Cổ Đạm. Có người cho cách gọi “Ả đào Cổ Đạm” là theo tên tổng. Có người lại cho cách gọi ấy là từ tên xã Cổ Đạm đời Lê, khi chưa có đơn vị hành chính “tổng”. Sau cách mạng (8/1945) các

Page 273: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

273

xã Phú Lạp, Cổ Đạm hợp với nhiều làng xã khác thành xã Hoa Khê, khi chia nhỏ thì thuộc xã Xuân Hoa, từ 1972, Xuân Hoa lấy lại tên Cổ Đạm.

“Nghi Xuân địa chí” của Lê Văn Diễn soạn năm 1842 là sách đầu tiên được biết, viết về Ả đào Cổ Đạm: “Ca công xuất xứ từ làng Phú Lạp. Xưa ca công ở làng Tiên Cầu thường nhan sắc không đẹp, giọng hát không hay. Có nhà họ Phan được ông Võ địa tiên (tức ông Tả Ao Võ Đức Huyền, TKĐ chú) đặt cho huyệt đất táng mộ tổ ở làng Phú Lạp, khuyên mọi người di cư vào Phú Lạp ở. Từ đó, thanh sắc đều tốt xa gần nức tiếng, họ Phan là người đàn hát hay hơn. Gần đây có ông Phan Phú Giai làm ca công trong xứ, giỏi về nghề chúc tụng trào lộng, mỗi khi ông Giai lên hát đều được mọi người khen ngợi, tán thưởng…” (NXĐC - Bản dịch).

Các cứ liệu trên khẳng định hát Ả đào ở vùng Hà Tĩnh bây giờ có khá sớm và đã hai thời kỳ thịnh đạt với phường hát của họ Phan Chi Bông (TK XVII) và phường hát Cổ Đạm (cuối TK XVIII - đầu TK XIX).

Nếu đúng họ Phan Ao Cầu - Tiên Cầu được thầy địa lý Tả Ao lấy mộ tổ, thì có thể tin rằng hát Ả đào ở đây đã có trước và dời về Phú Lạp khoảng cuối thế kỷ XVII. Theo truyền ngôn và một ít tài liệu thì họ Phan là rể họ Nguyễn. Về sau, người hai họ này cũng thường gả con cho nhau. Đào kép hát chủ yếu cũng người hai họ này. “Nguyễn, Phan hai họ một nhà - Đi về một lối, cầm ca một phường”. Về sau còn có thêm họ Trần, họ Hà cũng có người là con hát120.

Cuối thế kỷ XVIII, hát Ả đào phát triển mạnh, phổ biến khắp xứ Nghệ, 12 huyện đều có giáo phường. Các giáo phường trong xứ đều nhận giáo phường Phú Lạp - Cổ Đạm là chủ, là gốc, và hàng năm đều về giỗ tổ sư ở đền Phú Lạp. Đời Nguyễn, đền được tôn tạo gồm ba tòa nhà to đẹp. Thượng đường đặt bàn thờ chính, có hai pho tượng Tổ sư Thanh Xà đại vương và Mãn Đường Hoa công chúa. Trung đường có nhiều tế khí, trong đó có nhạc khí của ca công. Hạ đường là nơi hội họp, hát xướng của các

120 Về gốc gác các dòng họ, mới đây có sách chép khác NXĐC. “Nghi Xuân - Di tích và danh thắng” (2005) chép: Họ Nguyễn từ Tiên Cầu, họ Phan từ Phan Xá đến, họ Trần từ Hương Sơn xuống, họ Hà từ Kỳ Anh ra. Trong sách “Ca trù Cổ Đạm” (1999) ông Nguyên Phùng lại nói: Hai họ Trần và một họ Hà từ Thanh Chương dời về.

Page 274: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

274

giáo phường. Đền dựng hướng nam, trên cồn đất cao dưới bóng cổ thụ, trước là tam quan uy nghi nhìn ra hồ Trai trên cánh đồng Trai, xa xa là ngọn Cầm Sơn trong dãy Hồng Lĩnh… Một câu đối trong đền miêu tả phong cảnh hữu tình ấy:

- “Trai thủy nhiễu hoàn, thụ mậu hoa khai ca xướng địa”; - “Cầm sơn chung tú, phong thanh nguyệt lạng quản huyền thanh”.

(Hồ Trai vây quanh, cây tốt hoa tươi, đất xướng ca rộn rã - Núi Cầm un đúc vẻ đẹp, trăng thanh gió mát, tiếng đàn sáo vang lừng).

Đền thờ Tổ sư ở Phú Lạp là ngôi đền của cả giáo phường 12 huyện Nghệ - Tĩnh, nên thường gọi Đền Xứ121. Theo văn tế hàng năm ở đền Xứ - Bản chữ Hán: “Nghệ An, Hà Tĩnh lưỡng tỉnh Giáo phường ty đệ niên kỳ phúc lễ văn thức” viết đời Nguyễn - thì vị hiệu Tổ sư là:

- “Tiên sư trinh thục tĩnh từ huệ phương dung cần thiết chính nhất khuông cù Mãn Đường Hoa công chúa, đại vương phu nhân”.

- “Quốc tế thông minh dũng quyết anh uy trợ quốc tuệ lạng minh đoán Thanh Xà đại vương tặng phong mỹ tự tôn thần”122.

Trong sách “Hát cửa đình Lỗ Khê”, Chu Hà viết: “Có tài liệu ghi tổ cô đầu ở Giáo phường Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân (Nghệ - Tĩnh) tên là Đinh Lễ, tức là Nguyên Sinh, khi mất hóa ra con bồ câu xanh, vì thế vua tặng phong Thanh Xà đại vương (Con rắn xanh), và vợ là Bạch Hoa, con quan châu Thường Xuân (Thanh Hóa), khi mất được phong là Mãn Đào Hoa

121 Đền Xứ đã bị triệt phá sau 1945. 122 Trong Văn tế, trước vị hiệu Tổ sư là vị hiệu “Đức Thánh Lưu hoàng thánh phụ… Hán Hiếu võ hoàng đế” và “Thánh mẫu… Thái hậu nội cung tần đại vương phu nhân”. Mãn Đường Hoa công chúa là “Thánh nữ tử” tức con gái hai vị trên. Đề cao nguồn gốc xuất thân của Thần tổ là việc thường thấy trong các thần tích xưa, không phải là chuyện có thật. (Đời Hán chỉ có Võ đế, không có Hiếu võ đế). Trong đoạn “Phối hưởng” còn có nhiều vị đáng chú ý là: 1/ Vị hiệu “A cái đào nương phu nhân truyền nghệ truyền xướng thập nhị tính” (Tổ giáo phường 12 huyện xứ Nghệ (?); 2/ Vị hiệu “Thanh bình đội Thư lục đội Chánh đội trưởng suất đội kiêm quản bát tỉnh Quảng Bình dĩ bắc, Hà quý công tự Vận (?) Lượng phủ quân” (Một người họ Hà ở Phú Lạp (?); và 3/ Nhiều vị họ Phan, trong đó có hai bà cung tần hiệu Diệu Duyên và Diệu Thông (Phan Thị Diệm), và các Tiến sĩ Phan Huy Cận, Phan Huy Ích, Phan Huy Ôn…

Page 275: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

275

công chúa, đều giỗ vào ngày 11 tháng chạp”. Tạp chí “Văn học” (Sài Gòn - số 138, 15/10/1971) cũng viết: “Đinh Lễ, tự Nguyên Sinh, ở Cổ Đạm, Hà Tĩnh…”.

Các bài viết trên chắc đều theo “Lược sử ca trù” của Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề. Trong sách này, hai ông viết về “Sự tích tổ cô đầu” đại lược: Đời Lê, Đinh Lễ, tự là Nguyên Sinh, quê ở làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, con nhà gia thế, giỏi đàn hát. Một hôm, Nguyên Sinh ôm nguyệt cầm vào rừng đàn hát, gặp hai vị tiên Lý Thiết Quài, Lã Đồng Tân trao cho khúc gỗ và tờ giấy vẽ mẫu bảo về theo đó chế ra cây đàn truyền cho hậu thế. Đàn làm xong - ấy là cây đàn đáy bây giờ - chàng mang ra gảy, ai nấy đều mê, người đang buồn thấy thư thái, người đau ốm bỗng lành bệnh, đến chim, cá nghe đàn cũng ngẩn ngơ… Lần ấy, Nguyên Sinh đến châu Thường Xuân trấn Thanh Hoa, quan Châu là Bạch Đình Sa nghe tiếng, sai người gọi vào đàn hát. Quan chỉ có một con gái độc nhất là nàng Bạch Hoa tuổi vừa 19, nhan sắc tuyệt trần, nhưng bị trúng phong câm từ lúc lên mười. Nghe tiếng đàn của chàng, nàng bỗng thốt lên: “Đàn hay quá!” và trở lại ăn nói bình thường. Quan châu cho đó là thiên duyên kỳ ngộ, bèn gả con gái cho chàng. Nguyên Sinh đặt ra lối hát mới dạy cho Bạch Hoa. Khi hát nàng cầm đôi đũa gõ nhịp, chàng bèn lấy hai thanh tre tạo nên cặp sinh cho nàng dùng… Ít lâu sau, họ xin cha mẹ đưa nhau về quê Cổ Đạm truyền nghề đàn hát cho trai gái trong làng, và sống rất hạnh phúc… Một thời gian sau, Nguyên Sinh vào rừng gảy đàn, uống rượu. Hai vị tiên đến gặp chàng, thu lại chiếc đàn, nói là “báu vật nhà trời không thể để lại dưới trần”, và khuyên chàng lên cõi tiên học đạo trường sinh. Chàng thuận tình đi theo… Nàng Bạch Hoa được tin, không lấy làm buồn, mà còn lạy tạ các vị tiên đã giúp đỡ chồng. Nàng chia ruộng đất, của cải cho dân, rồi không bệnh mà mất. Dân làng Cổ Đạm và đệ tử nhớ ơn, lập đền thờ vợ chồng nàng. Lịch triều phong tặng Đinh Lễ là Thanh Xà đại vương, Bạch Hoa là Mãn Đào Hoa công chúa” (Vị hiệu ở văn tế chép “Mãn Đường Hoa công chúa”) - Về sau, giáo phường kiêng húy Tổ sư, nói trại ra “Lễ” là “lãi”, “Hoa” là “Huê”)123.

123 Theo Dương Thiệu Mục, trong “Xuất xứ hát ả đào” thì ở chùa Xuân Tảo Đoài, phủ Đa Phúc, Phúc Yên, còn lưu một đạo sắc phong cho Đinh Dự là Thanh Xà đại vương và Hoa

Page 276: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

276

Truyền thuyết trên trở thành Thần tích đền Xứ. Cứ theo truyền thuyết ấy thì hát Ả đào có từ cuối đời Lê và gốc gác là ở Cổ Đạm - rộng ra là Thanh - Nghệ.

Thật ra, theo các nhà nghiên cứu, thì hát Ả đào đã có từ xưa. Đến thế kỷ XVII, trở thành bộ môn nghệ thuật độc đáo, phong phú về khúc thức, hoàn hảo về lối trình diễn, được phổ biến rộng rãi từ xứ Nghệ ra Bắc, cả ở cung đình và trong dân dã. Sách cổ đã chép về sự đam mê ca hát của các vua chúa, các nhà quyền quý, trong đó có những người Nghệ hào hoa phong nhã nổi tiếng: Nguyễn Khản sành âm luật, tự đặt những bài hát cho đào nương, mà Phạm Đình Hổ có câu thơ ca ngợi: “Án phách tân truyền Lại bộ ca” (Gõ phách truyền bài hát mới của quan Lại bộ). Nguyễn Hữu Chỉnh trong nhà nuôi hơn mười Ả đào, đặt ra những bài hát phổ vào đàn cho họ hát múa.

Ả đào xứ Nghệ rất được hâm mộ ở kinh thành Thăng Long. Nhiều người thanh sắc vẹn toàn, trở thành cung tần hoặc vợ nhà quan. Đôi khi họ có thế lực có thể thay đổi phép nước như trường hợp các cung tần họ Phan giải thoát con cháu khỏi sự phân biệt đối xử bất công với con nhà ca xướng.

Thần tích đền Xứ được viết trên cơ sở truyền thuyết về Tổ sư hát Ả đào chắc là cũng được người Cổ Đạm, người Nghệ (và Thanh) sáng tạo ra, được giáo phường cả nước thừa nhận, lưu truyền.

Ả đào Cổ Đạm sau hai thế kỷ tồn tại, đã có nhiều lúc hưng phát. Từ cuối đời Lê, phường Cổ Đạm đã có tiếng tăm, nhất là khi Phan Phú Giai làm chức Tri khoán. Tuy nhiên, phường cũng chỉ quanh quẩn trong vùng, trong xứ, cao sang thì được gọi đến hát ở các dinh thành Nghệ.

Đời Nguyễn “… Năm đầu Gia Long đặt ra Cai ty giáo phường. Con ông (Phan Phú) Giai là Phú Truyền bổ sung vào chức Thị xướng, thường

nương là Mãn Đình Hoa công chúa. Đinh Dự là con Đinh Lễ, một vị quan quê xã Lỗ Dao, Từ Sơn, Bắc Ninh, có tài đàn tịch, thường ngao du, lúc 20 tuổi chơi Cửu sơn, gặp một thiếu nữ ngồi trên mỏm đá, bèn lấy làm vợ, cùng nhau đàn hát ba năm. Vua triệu Đinh Lễ vào Thanh chầu, chết dọc đường, vợ chồng Đinh Dự vào mai táng được vua cho bệ kiến đàn hát. Hoa nương là tích tiên, nên trong dịp này về trời, Đinh Dự thương cảm đập đầu vào cột đá chết…

Page 277: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

277

hầu hát trước thềm ngự, tô son trát phấn đóng vai hề, được vua Gia Long vui cười ban thưởng. Ông Truyền chết, anh là Phú Trù kế tiếp làm Cai ty. Khoảng năm Minh Mệnh, đổi Giáo phường làm Thanh Bình đội. Con cháu họ Phan phần nhiều là chức sắc. Đến nay (đời Thiệu Trị - TKĐ chú) vẫn làm ăn thịnh đạt” (Nghi Xuân địa chí - SĐD)124.

Cũng từ tháng bảy năm Nhâm tuất, Gia Long năm đầu (1802) có chỉ dụ chọn 50 ca công ở giáo phường Thanh Nghệ vào Thuận Hóa để dâng ca nhạc tế Thái miếu. Từ ấy có lệ hàng năm cứ hai ngày Chính đán và Đoan dương, giáo phường hai nơi ấy phải về kinh tấu nhạc. Đến năm Ất Hợi, Gia Long thứ 14 (1815), xét tổn phí, đường sá xa xôi, mới cho bỏ lệ ấy (“Đại Nam thực lục”).

Về sau tuy không có lệ đi hát hàng năm, nhưng những khi có đại lễ, như trong dịp mừng tứ tuần đại khánh của vua Khải Định (khoảng 1925-1926), giáo phường vẫn phải cử người vào kinh hát chầu. Đến đất kinh kỳ, được giao lưu, tiếp xúc nhiều nên nghệ thuật được trau dồi, nâng cao hơn. Có những người trở thành danh ca, được chọn làm con hát ngự: Bà Phúc, bà Bính, bà Thư, bà Khang… Nhiều người lấy chồng hoàng tộc125.

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Vinh dần dần trở thành một đô thị quan trọng ở Bắc Trung kỳ. Một số đào nương sang mở ca lâu, nhà số 47 Cống Đệ Nhị là phố hát Ả đào có môn bài của phường Cổ Đạm. Nhưng vào khoảng 1943, sau khi quân Nhật vào, thành Vinh bị ném bom, các đào nương lại phải trở về quê Phú Lạp…

Để có một giáo phường Cổ Đạm bề thế, có tiếng tăm trên cả nước trong hàng trăm năm, ngoài các nghệ nhân, gia đình họ và dân làng, còn có sự đóng góp quan trọng của rất nhiều văn nhân tài tử. Người gắn bó nhất là Nguyễn Công Trứ, vừa là kép đàn, vừa soạn bài hát, lại là người giao dịch 124 Ngoài người họ Phan, nay còn biết thêm một vị họ Hà làm đội trưởng Thanh Bình đội, coi giáo phường 8 tỉnh từ Quảng Bình trở ra Bắc (có vị hiệu ở văn tế), và một vị khác là Nguyễn Xuân Đạm làm quản ca (Theo ông Nguyên Phùng trong “Ca trù Cổ Đạm”). 125 Theo một số tài liệu thì bà Nguyễn Thị Bính là vợ ông Tôn Thất Hân; bà Phan Thị Xuân lấy em trai Tôn Thất Hân; bà Nguyễn Thị Thư lấy con Tôn Thất Hân; bà Trần Thị Khang lấy em vua Khải Định… Thật ra họ vừa là con hát trong nhà quý tộc, vừa là nàng hầu, vợ bé…

Page 278: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

278

của phường… Lớp tài tử nổi tiếng cuối cùng có lẽ là Tri huyện Nghi Xuân Nguyễn Lương Hàn và “Tỉnh thành tam lão”, trong đó có nhà thơ xứ Huế, Tuần phủ Hà Tĩnh Thúc Giạ (Dã) thị Ưng Bình (1877-1961) - người tự xưng là “đang tu chùa Cổ Đạm” (“Mấy dặm trăng đình”).

Bày vai với lớp tài tử ấy, đào nương Cổ Đạm luôn có những người thanh sắc vẹn toàn, những “Giáo phường ty đệ nhất - Tiếng tài hoa từ những thuở con con - Hạt mưa ngâu lác đác dưới thềm son - Làn son phấn mơ màng cung Hán đế…”. Nhưng như là một định mệnh, cuộc đời của nhiều giai nhân tài hoa thường ít may mắn. Và đó cũng là cái cớ để thế gian luôn nhớ đến họ, mãi truyền những giai thoại về họ. Này là nàng Sử - Hiệu Thư, đã cùng cậu ấm Củng làm nên chuyện “giang sơn một gánh giữa đồng” rồi lênh đênh, phiêu dạt, khi gặp lại người cũ thì đã luống tuổi, rồi lại phải theo quan Tổng đốc qua nhiều chặng gian nan, kể cả khi ra trận mạc… Song hạnh phúc lớn của nàng là có người tri kỷ với lời cảm thông sâu sắc:

“Đành lẽ bút nghiên mà kiếm mã Thương ôi kim chỉ cũng phong trần”.

Này là chị Khang - Trần Thị Khang, một đào nương nhan sắc hơn người, tài đàn hát, sành thơ ca…, lấy chồng là Hoàng Mười, em vua Khải Định… Chồng chết, chị ôm con nhỏ về Vinh, sống với chị em đào nương Cổ Đạm… Chị đã họa đáp bài thơ của một người bạn Huế - nghe nói là một ông Thượng thư - có câu:

“Ngửa hai tay trắng cười duyên phận Cầm bốn tao nôi kể sự tình… Đàn phách hãy còn theo dặm tía, Phấn son chưa dễ phụ mày xanh…”

Lớp đàn em của bà Khang còn có bà Phan Thị Khánh và một số người khác. Nhưng từ sau cách mạng (8/1945), các đào nương lớp trước đều giải nghệ và lần lượt qua đời. Sau 30 năm kháng chiến, không còn giáo phường, không còn đền Xứ, không còn cảnh ngựa xe nhộn nhịp, lễ hội ca hát tưng bừng. Nhưng trong thư tịch và trong ký ức con người, không chỉ ở xứ Nghệ (Nghệ - Tĩnh) mà ở cả nước, vẫn còn nguyên vẹn một “làng ả đào Cổ

Page 279: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

279

Đạm”126.

PHƯỜNG TRÒ TRÀNG LƯU VÀ PHƯỜNG BỘI KẺ LÙ, KẺ THƯỢNG

Chèo và Tuồng là hai bộ môn sân khấu dân gian phổ biến ở Hà Tĩnh, Nghệ - Tĩnh.

Chèo - sản phẩm nghệ thuật vùng đồng bằng Bắc bộ du nhập xứ Nghệ, được gọi là Trò: “Trò Kiều”, “Trò Trương Viên”, “Trò Lưu Bình - Dương Lễ”… Trò ở Nghệ - Tĩnh, qua “Trò Kiều, thì thấy rằng làn điệu rất nghèo, chủ yếu là Sử, Làn ngang… lại pha trộn cả ca Huế (vai Hoạn Thư), tuồng bộ (vai Từ Hải)…, vũ đạo cũng đơn giản, thô vống… Có thể cho rằng Trò là chèo Bắc được Nghệ hóa. Hẳn là phường Trò ngày trước thiếu những thầy giỏi, thời gian tập luyện quá ít, nên rất hiếm có nghệ nhân xuất sắc. Tuy nhiên do tích Trò hấp dẫn, lại ít khi được xem diễn, nên Trò vẫn được mọi người yêu thích.

Tuồng hay tuồng bộ, hát bộ - ở Nghệ - Tĩnh gọi tuồng bội, hát bội, hát trò bội - là bộ môn nghệ thuật bác học, đời Nguyễn trở thành sân khấu cung đình. Nhưng Tuồng cũng rất phổ biến trong dân gian và có phần dân gian hóa dù vẫn diễn những tuồng pho “Sơn Hậu”, “Tam nữ đồ vương”… Khác với Trò (Chèo), Tuồng được các ông thầy có nghề truyền dạy qui củ hơn và phải luyện tập công phu, nên có nhiều nghệ nhân giỏi. Tuồng là môn nghệ thuật tượng trưng, văn chương Tuồng nhuần nhuyễn nhưng dùng nhiều chữ Hán, điệu diễn xướng, vũ đạo, âm nhạc đều tinh tế…, đòi hỏi người xem phải có kiến thức cao mới hiểu được cái hay. Khán giả Tuồng chủ yếu là tầng lớp trên (vua quan, chức sắc, nho sĩ…) nhưng không vì thế

126 Vào những năm cuối thế kỷ XX, huyện Nghi Xuân có chủ trương đưa dân ca vào các trường học, trong đó có hát Ca trù. Huyện mời được 6 cụ bà trên dưới 80 tuổi (bà Phẩm, bà Xuân, bà Mơn, bà Nga, bà Bình, bà Gia), thuộc lớp đàn em người họ Nguyễn, họ Phan, ra truyền dạy bài hát cho lớp trẻ. Từ đó, ca trù Cổ Đạm phục hồi. Một hội thảo về Ca trù Cổ Đạm được tổ chức vào 8/12/1998 ở huyện Nghi Xuân, Câu lạc bộ Ca trù Nghi Xuân thành lập. Nghệ nhân trẻ được gửi đi trao đổi, học tập nhiều nơi. Ca trù Nghi Xuân cũng đã tham gia các Hội diễn Ca trù khu vực và toàn quốc… Gần đây, hai nghệ nhân Ca trù Cổ Đạm là bà Phan Thị Mơn, Phan Thị Nga được Hội văn nghệ dân gian Việt Nam tặng danh hiệu “Nghệ nhân dân gian”.

Page 280: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

280

mà đại chúng không ham mê…

Ở Can Lộc ngày trước có câu “Trò Kẻ Lù, cù Kẻ Chòi”. Không chỉ Kẻ Lù - Phù Lưu Thượng mới có Trò, mà rất nhiều làng xã ở Can Lộc và ở tất cả các huyện khác trong tỉnh đều có phường Trò (Chèo) hoặc phường Bội (Tuồng).

Phường do làng xã hoặc một chức sắc, một phú hộ đứng ra thành lập, gồm một số người ham thích và có năng khiếu ca hát, diễn trò. Đôi lúc, một ít người vào phường không phải để học nghề mà để giúp công, giúp của, tạo điều kiện cho phường hoạt động. Trùm phường thường là người đứng ra lập phường, hoặc người sảo khả, có uy tín hay giỏi nghề, được các thành viên cử ra. Nếu trong phường không có thầy thì mời thầy về truyền dạy. Khi đã luyện tập thành thạo thì lúc rảnh rỗi, thường là ban đêm, mỗi năm vài ba lần, phường họp lại để ôn tập hay đi hát, còn ngày thường, ai nấy ở nhà làm ăn. Phường Trò, phường Bội chỉ biểu diễn vào dịp đầu xuân hay khi làng có hội hè, đình đám. Các phường có tiếng tăm thường được các làng xã khác mời, nhiều khi được gọi đi hát hầu ở cửa quan tỉnh, quan huyện…

*

* *

Trò (Chèo) ở Hà Tĩnh, vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhiều phường chỉ hát một tích độc nhất, và cũng chỉ thấy có hai tích được nhiều phường hát là “Trò Trương Viên” và “Trò Kiều”. Do đó, người ta gọi thẳng phường Trò là “Phường Trương Viên”, “Phường Kiều”. Vài ba phường, ngoài hai tích trên, còn hát “Lưu Bình - Dương Lễ”. Các tích “Quan Âm Thị Kính”, “Kim Nham” không thấy nơi nào hát. Cũng không thấy có sách nào ghi chép hoặc người nào nói về hát Trò đầu thế kỷ XIX về trước. Có thể là Chèo mới du nhập vào đây từ cuối thế kỷ XIX (?). Theo lời truyền lại thì các phường Trò khá nhất trong tỉnh đầu thế kỷ XX là Tiên Điền, Quả Phẩm… (Nghi Xuân), Tràng Lưu (Can Lộc), Tường Xá (La Sơn), Hà Trung (Kỳ Anh). Trong số đó được biết nhiều hơn cả là Phường trò Tràng Lưu (nay thuộc xã Trường Lộc).

Phường Tràng Lưu có lẽ là phường duy nhất có thể hát cả ba tích trò “Kiều”, “Trương Viên” và “Lưu Bình - Dương Lễ”. Phường do ông lý

Page 281: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

281

trưởng Nguyễn Huy Hòa đứng đầu. Ông là người tổ chức, hướng dẫn, và là người cầm chầu trong các buổi hát. Phường có nhiều nghệ nhân điêu luyện. Kép thì anh Bường, anh Tâm, đào thì o Ba, được mọi người quý mến. Cần nói thêm là ngày trước, phụ nữ không được ra sân khấu, các vai đào đều do diễn viên nam hóa trang, mà ở đây đã có diễn viên nữ. Phường trò Tràng Lưu được lập lên trước năm 1920, duy trì cho đến sau cách mạng (8/1945). Nhiều lớp diễn viên trẻ được đào tạo, trong đó có ông Nguyễn Văn Dần, diễn viên đoàn văn công tỉnh, là cháu gọi Nguyễn Văn Tâm bằng chú ruột, và nghệ sĩ ưu tú Trần Đức Duy là em ruột “o” Trần Thị Ba. Cùng với Ví phường vải đầu thế kỷ XIX, Tràng Lưu lại có một phường Chèo nổi tiếng ở Can Lộc đầu thế kỷ XX. Hát trong làng, trong tổng Lai Thạch, phường còn nhiều lần được gọi lên hát ở huyện. Ngày nay, người ta còn lưu giữ được bài “Giáo đầu” do ông Nguyễn Huy Mơi soạn cho phường trong dịp lên hát nhân quan huyện mới đến nhậm chức năm 1921. Bài do cố Thao đọc, ông Nguyễn Huy An ghi và cung cấp năm 1971, có đoạn:

“… Trông giang sơn như vẻ mặt anh hùng, Núi còn cao mà sông hãy còn trong. Hồn cố quốc luống mơ màng bên gối Âu Á phong triều tân vận hội, Lạc Hồng chủng phái cựu tu mình Khéo xinh thay phong cảnh huyện Can ni Có bút bảng kiếm kỳ triều trị. Nơi thắng cảnh đợi người thắng trí, Hợp Phố kia đà muốn sự hoàn châu…”.

Chưa rõ Hát bội (Tuồng bộ) du nhập Nghệ Tĩnh từ bao giờ127. Nhưng thịnh nhất là vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi hai nghệ sĩ - tác gia tuồng bộ bậc thầy là cụ Đào Tấn ra làm Tổng đốc An-Tĩnh, và

127 Nhà nghiên cứu tuồng bộ, Giáo sư Hoàng Châu Ký, trong một lần gặp và trao đổi ý kiến với Trần Hữu Thung, Thái Kim Đỉnh ở Vinh đã nói: Theo ông, gốc gác tuồng bộ là ở Nghệ - Tĩnh. Ông lấy một dẫn chứng: Yêu cầu của hát tuồng là “tròn vành rõ chữ”. Tiếng Nghệ tập không khó, nói ra là “tròn vành rõ chữ”, còn tiếng Nam, tiếng Bắc phải luyện rất công phu mới đạt…

Page 282: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

282

cụ Nguyễn Hiến Dĩnh làm Án sát Hà Tĩnh. Sau đó nhiều ông quan và rất nhiều chức sắc, tổng lý, phú hộ mê tuồng đều khuyến khích, ủng hộ. Trong dân gian, rất nhiều người cũng mê xem hát. Ở làng Trường Xuân (Việt Yên Thượng) già trẻ trai gái đều thuộc nhiều tích tuồng và biết hát ít ra dăm bảy câu, một vài đoạn…

Trong tỉnh có nhiều phường Bội hát khá hay nhưng nổi trội nhất là hai phường Kẻ Lù, Kẻ Thượng.

Phường Kẻ Lù, xã Phù Lưu Thượng (Can Lộc) vốn là phường Trò (chèo) từ xưa. Đến thời cố Tạo (cụ Trần Hoàn) làm Trùm phường (khoảng trước, sau 1920, cố mới mời thầy tuồng ở Huế ra truyền dạy, và nhanh chóng trở thành phường Bội nổi tiếng. Phường có 15 thành viên, chuyên diễn các tích tuồng “Sơn hậu”, “Tiết Cương”, “Ngũ hổ bình Liêu”, “Ngũ Triệu” (?)…, sau cách mạng có thêm tuồng “Trương nữ Vương”. Phường hoạt động khá bề thế, được Bố chính Hà Tĩnh Tôn Thất Chử cấp giấy phép cho lưu diễn, nhân dịp phường vào hát mừng ông đến nhậm chức. Từ đó mỗi lần quan tỉnh, quan huyện mới đến, mở tiệc mừng hoặc dịp lễ hội các làng, lễ, tết... Thời Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) nhiều người tham gia cách mạng trong đó có ông đồ Tuy, tức Hồ Ngọc Tàng, một người chủ chốt trong phường, là tỉnh ủy viên bị bắt và bị bắn. Một số người khác cũng bị bắt, phường đình đốn hẳn. Sau tháng 8/1940, một số thành viên như các cố Bùi Tiên, Mai Thoan, Bùi Thiệm và cố Thuận người chuyên cầm trống chầu, vẫn còn. Các cố kể lại rằng khi ông đồ Tuy đi vắng, anh em trong phường gửi thư hỏi ý kiến, viết theo thể thơ hát Bội:

“Ở Hán, ở Hồ, hay ở Ngụy? Theo Tần, theo Hán, có theo Tề? Cả phường đang đứng chờ trông chú Hành, chỉ như hà hỡi chú Tuy?”

Phường bội Kẻ Thượng - làng Trường Xuân, xã Việt Yên Thượng (Đức Thọ) đã có từ khoảng nửa sau thế kỷ XIX, khi Tây sang thì ngừng hoạt động. Sau đó được phục hồi, lại tan, cho đến khoảng năm 1923 cố Trần Định mới đứng ra củng cố lại và mời thầy Dun là “con hát ngự” - diễn viên Tuồng cung đình Huế - về truyền dạy. Ngoài những thành viên cũ, cố Định chú ý đào tạo lớp trẻ, trong đó có Lê Hanh, lúc ấy 16 tuổi, con

Page 283: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

283

một gia đình đã hai đời hát Tuồng. Học được một thời gian, thầy Dun nói với cố Định: “Cậu Hanh rồi sẽ là thầy của phường này”. Sau khi thầy về Huế, cậu Hanh ra rạp tuồng Thái Mộng Đài ở Vinh học thêm với nghệ sĩ Sáu Lập ở Huế ra lưu diễn. Không bao lâu, Lê Hanh đã trở thành kép hát xuất sắc, góp phần tạo cho phường một dàn diễn viên có trình độ nghệ thuật vững vàng. Trong hơn 20 năm liên tục hoạt động trước 8/1945, phường bội Kẻ Thượng là một trong số vài ba phường hát có tiếng tăm trong tỉnh. Dân làng Trường Xuân và xã Việt Yên Thượng coi phường Bội là niềm tự hào của mình. Phường Trường Xuân đủ sức dàn dựng nhiều vở tuồng cổ đồ sộ: “Sơn hậu”, “Tam nữ đồ vương”, “Trương Khởi Long”, “Đào Phi Phụng”, “Cổ thành”… và hát liên tục nhiều đêm liền. Đặc biệt, phường có vở “Triệt Giang” diễn nhân dịp làng mở hội rước thần vào ngày 23 trước ngày phiên chợ Thượng, 24 tháng hai âm lịch hàng năm. Không chỉ dân trong làng, trong xã Việt Yên, mà còn có hàng nghìn người các nơi về đi chợ xem hát. Vở diễn lấy tích “Triệu Tử Long phò A Đẩu” trong “Tam quốc chí”. Đây là buổi diễn hiếm thấy: Sân khấu là khung cảnh thiên nhiên, làng xóm, đường sá, sông nước…; đạo cụ là ngựa xe, thuyền bè, cờ quạt, tàn lọng… đều là của thật; chỉ có các vai tuồng là diễn viên hóa trang còn hàng nghìn người xem cũng tham gia cuộc hát như những diễn viên phụ. Sân khấu là sân chùa Thượng, và trên sông La, người ta cũng ghép hai chiếc thuyền lớn trên kết ngũ lâu, cắm cờ ngũ hành, làm một sân khấu nổi, lại có hai thuyền nhỏ trên cắm cờ “Ngô” do mười tay bơi (5 trai, 5 gái) điều khiển… Phường Bội đi theo đám rước thần từ đền Thành hoàng đến chùa Thượng. Đến nơi thì vào sân khấu diễn ngay. Hàng nghìn khán giả từ sân chùa Thượng xuống bãi sông dài khoảng hơn nửa cây số, bám theo xem phường diễn suốt cả một buổi chiều…128129

128 Theo Võ Hồng Huy - “Làng cổ Hà Tĩnh”. 129 Theo tài liệu của nghệ nhân Lê Hanh và một số người khác (Lê Hanh (1907-1988) thường gọi ông Lý Hanh, lúc già gọi cố Trinh. Sau cách mạng ông được cử đi dự nhiều hội diễn ca kịch dân tộc toàn miền Bắc, và đi trao đổi học tập ở Đoàn tuồng LK5 và nhiều đoàn khác. Ông đã nhiều lần được nhận Huy chương về biểu diễn và giải thưởng sáng tác kịch bản của Bộ Văn hóa).

Page 284: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

284

VÀI NÉT VỀ KIẾN TRÚC DÂN GIAN VÀ MỸ THUẬT DÂN GIAN

Ở Hà Tĩnh không có những công trình kiến trúc nguy nga, những tác phẩm mỹ thuật lớn, nổi tiếng như nhiều tỉnh khác. Nhưng kiến trúc, mỹ thuật dân gian ở đây có nét đặc sắc, độc đáo riêng.

Kiến trúc bao gồm kiến trúc nhà ở và đình, đền, chùa…

Hà Tĩnh là vùng khí hậu đặc biệt khắc nghiệt, mùa hè nắng nóng, gió Lào, mùa thu mưa lụt, bão lớn, chiến tranh và biến động xã hội triền miên, vật liệu xây dựng chủ yếu là tre, gỗ, nứa, lá, nên các kiểu nhà ở dân gian thời xưa hầu như vắng bóng, số nhà từ trong, ngoài trăm năm cũng hiếm thấy.

Nhưng qua những gì còn lại, còn biết hiện nay thì thấy nhà ở vùng này khác với các kiểu nhà từ Thanh Hóa trở ra và từ Quảng Bình trở vào. Đặc điểm dễ nhận trước tiên là nhà ở đây thường “hẹp lòng, thấp mái”. Do mái nhà kéo xuống quá thấp, ra vào phải cúi, nên có câu “vô bái nhà ra bái ngõ” và người ta thường “triết lý” rằng “lo chật bụng không lo chật nhà” để biện bạch về nhà cửa chật chội.

Xưa kia, nhà thường có một số kiểu:

Kiểu nhà “chữ đinh” mỗi vì ba cột, cột giữa cao đến đòn dông (thượng ốc), xà ngang (văng hạ) luồn qua cột cái và gác lên đầu hai cột con. Kiểu này rất vững nên phổ biến: Nhà chữ đinh, đình tứ trụ.

Kiểu nhà “tứ trụ” mỗi vì có bốn cột (hai cột cái, hai cột con) hoặc năm, sáu cột (một hoặc hai cột hiên). Nói “tứ trụ” là vì gian giữa (gian bảy) nhất thiết phải có bốn cột cái, còn các vì khác có thể “trốn cột”, thay một cột cái bằng một cột dội (hay cột bồng) kê lên cánh hạ. Kiểu “tứ trụ” tùy từng nơi, có “tứ trụ nhà kẻ”, “tứ trụ nhà kèo”, “tứ tụ nội kèo ngoại kẻ”, “tứ trụ nội kẻ chuyền, ngoại kẻ mái”… Nhà “tứ trụ” vững chãi, bề thế, nên có câu “Cha thương con làm nhà tứ trụ”.

Kiểu nhà “lòng lẫm” cũng vững chãi, bề thế và thực dụng hơn. Vì nhà kiểu này đường xà ngang xuyên qua cột cái ở một mức thấp hơn (cũng gọi là “hạ thứ”) để phía trên được cao, rộng hơn, lát ván hoặc phên nứa làm “lẫm” chứa thóc hoặc đồ đạc. Ở vùng thường lụt lội thì dù không là nhà

Page 285: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

285

“lòng lẫm” người ta cũng phải lát ván hoặc phên nứa làm “chạn” để chứa đồ đạc và khi nước to thì người lên ở.

Kiểu nhà “xóc nách” chủ yếu mỗi vì có một đường xà ngang gác lên cột con phía trước và luồn qua cột cái phía sau. Từ cột cái này đến cột con, có một đường hạ nối liền, gọi là “đấm” hoặc “con ngang”, “con ngang” thấp hơn “xóc nách” gọi là “con ngang hạ thứ”. Kiểu này cũng xuất phát từ kiểu “chữ đinh”, nhưng được cách tân, thoáng, đẹp hơn.

Thời gian sau này, người ta không thích các kiểu “tứ trụ”, “lòng lẫm” vì vừa tốn gỗ, vừa nặng nề. Để cho mái nhà cao, thoáng hơn người ta cũng bỏ kèo (hai đường gỗ cặp hai bên đầu cột) mà thay thế bằng “giao nguyên” (một đường kèo đặt lên đầu cột cái, cột con), hoặc “nội giao nguyên, ngoại kẻ”.

Trừ kiểu “chữ đinh”, các kiểu sau đều là nhà gỗ.

Nhà ở thường có ba gian, một số ít nhà có năm bảy gian. Gian giữa rộng hơn, dù là nhà ba gian hay năm gian cũng gọi là “gian bảy”. Nhà ba gian thường có một hoặc hai chái, gọi là “ba gian hai hồi” hoặc “ba gian một hồi”.

Phía trước nhà là dãy hàng hiên. Vách thưng đóng ở hàng cột con phía trước, trừ gian mở cửa. Cửa lớn thường mở ở gian giữa và gian ngoài, gian trong là cửa sổ, và chái bên phải (từ ngoài nhìn vào) là cửa mạch. Gian cửa sổ thường là gian buồng, nhưng cũng có khi “gian bảy” là gian buồng. Gian buồng có cửa buồng phía trong và cửa nhỏ ra nhà ngoài gọi là ‘cửa khém”. Về sau, người ta chỉ ngăn một buồng nhỏ từ cột cái trở vào ở gian trong, gọi là “buồng khém”. Lại có một số nhà ngăn dọc suốt ba (hoặc năm) gian từ dãy cột cái sau trở vào, thành một dãy buồng phía sau gọi là kiểu thưng “tiền khách hậu chủ”. Bên nhà chính (thường gọi “nhà nậy”) một số gia đình khá giả còn có một nhà nhỏ, dựng vuông góc với nhà chính, gọi là “nhà ngang”. Ở vùng lụt, nền “nhà ngang” thường đắp rất cao nên có tên “nhà cồn”. Nhà này nối với chuồng trâu, chuồng lợn.

Ngày trước, chỉ có một số nhà ít ỏi được xây tường gạch hoặc đá ong và lợp ngói vảy, còn hầu hết, kể cả nhà gỗ lim lớn đều lợp tranh (rơm rạ, lá mía, lá săng, lá mây đắng, liếp nứa đan hoặc lá ngụ quân, thứ lá khó cháy). Vách thưng ván, cửa khung đố, nhất là nhà kẻ, cửa bức bàn chạm trổ càng

Page 286: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

286

hiếm. Hầu hết là nhà thưng vách (gọi là phên) tre, nứa; cũng có nơi vách bằng nòng tre, trát đất, hoặc bằng đất nện (ở trước, sau nhà, mái thấp); có khi vách chỉ là liếp cặp lá cây… hoặc là rèm nứa.

Theo một ít tài liệu thành văn và truyền ngôn thì ở Hà Tĩnh có nhiều đình, đền, chùa lớn xây dựng từ thời Lý, Trần và Lê Sơ. Nhưng đến nay đều đã mất. Số ít ỏi họa hoằn còn lại đều là kiến trúc cuối Lê và đời Nguyễn.

Nhìn chung, chùa, đền, đình, miếu… ở Hà Tĩnh không mấy nguy nga, đồ sộ như ở nơi khác. Hầu hết đều có quy mô nhỏ, hẹp. Trừ một số ít nhà chùa, đền có những công trình chạm khắc có giá trị mỹ thuật cao như chùa Yên Lạc (Cẩm Xuyên), đền Tam Lang (Can Lộc), đền Thái Yên, đền Thánh Chợ (Đức Thọ) v.v…, còn lại đều bình thường…

Một số công trình gỗ và gạch đá có giá trị nghệ thuật như Tháp cửu diện chùa Nghèn, Tháp Tháp Sơn chùa Báo Ân đã mất, nhưng tháp Đông Lỗ, tháp chùa Đá, tháp chùa Phượng Tường, tháp mộ họ Lê Mỹ Duệ…, và Tam quan Tự Đồng (hoặc Du Đồng)… vẫn còn.

Một đặc điểm nữa của kiến trúc đền, chùa ở Hà Tĩnh là ít chú trọng, thật ra là ít có điều kiện, mở rộng quy mô ngôi nhà mà quan tâm đến cảnh quan. Bất cứ chùa, đền nào cũng có vườn rộng, có khi nhà chỉ chiếm một phần rất nhỏ mà vườn có năm bảy sào hoặc hàng mẫu hay hơn nữa. Vườn thường có cây cối sầm uất, phía trước có cây đa, cây thông để tôn vẻ tĩnh mịch, thâm nghiêm… Nếu ở núi thì quan tâm đến những mô đá, phiến đá tự nhiên (đá thường được mang một tên riêng) và dòng suối, thác nước; ở ven sông quan tâm đến bến nước (bến đền, bến đình…)…

Mảng kiến trúc quan trọng khác là thành lũy. Đời Lê có trấn thành Dinh Cầu (trấn lỵ Nghệ An ở Hà Trung) ghép đá và các phủ thành Hà Hoa, Đức Quang (đắp đất). Đời Nguyễn có tỉnh thành Hà Tĩnh ở Trung Tiết, đạo thành Hà Tĩnh ở Đại Nài, phủ thành Kỳ Anh ở Nhân Canh (xây gạch và đá ong). Ngoài ra có nhiều chiến lũy, nay chỉ còn phế tích như hệ thống chiến lũy ở bờ nam sông Rào Mọ; hệ thống chiến lũy ở vùng Kỳ Anh thường gọi “lũy ông Ninh”, đặc biệt là hệ thống lũy Lâm Ấp - xây dựng từ thế kỷ IV, và về sau được người Chăm, người Việt tiếp tục bồi trúc - kéo dài 30km trên dãy Hoành Sơn, từ mũi Độc lên Xuân Sơn. Trên nền chiến lũy này,

Page 287: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

287

đời Nguyễn Minh Mệnh có xây hai công trình phòng thủ là cửa quan Hoành Sơn, và bảo Thống Lĩnh (ở Xuân Sơn).

*

* *

Tác phẩm Mỹ thuật dân gian qua nhiều biến cố lịch sử, đến nay không còn lại bao nhiêu, nhưng cũng đủ chứng minh đã từng có hội họa, điêu khắc dân gian khá độc đáo.

Xưa kia vào tháng chạp, ở các chợ lớn trong tỉnh thường có bán tranh thờ, tranh tết như các loại tranh khắc gỗ trâu bò, lợn, tranh tiền (vẽ 100 đồng tiền kẽm), tờ “Phú”, “Quý”, “Phúc mãn đường”, và các tranh hoa lá cá chim, do người ta mua sỉ từ nơi khác về để bán lẻ. Nhưng theo nhiều người thì vẫn còn những nghệ nhân địa phương vẽ, bán loại tranh này, như cậu bé Chánh (tức họa sĩ Nguyễn Phan Chánh lúc nhỏ).

Hiện ở nhà trưng bày khu lưu niệm Nguyễn Du còn có hai bản khắc in tranh minh họa cho một quyển sách nào đó lấy đề tài “Ông nghè vinh quy” và “Tạo sĩ về làng”, nét vẽ đơn giản nhưng khá sắc sảo.

Đặc sắc nhất là gần đây ta được biết cuốn sách “Hoàng hoa sứ trình đồ” của Thám hoa Nguyễn Duy Oánh (1713-1789) làm trong khi đi sứ Trung Hoa (1765-1766). Sách có khoảng 120 trang thì có hơn 100 trang vẽ “bản đồ”, kỳ thật là những bức tranh phong cảnh vẽ theo lối “tẩu mã”.

Tranh vẽ trên ván hiện còn là bộ Thập điện Diêm Vương 10 bức cỡ lớn ở chùa Yên Lạc (Nhượng Bạn, Cẩm Xuyên). Tranh cũng lấy đề tài về cảnh các linh hồn chịu tội trước mười cửa ngục âm ty vì lúc sống phạm nhiều tội ác như ở một số ngôi chùa khác ngoài Bắc. “Duy có các ông vua “Thập điện” thì từ nét mặt cho đến áo mão đã được tác giả hình dung bằng những khuôn mặt đạo mạo hiền lành, có vẻ làng nho hơn là những chúa ngục” (Địa chỉ VHDG Nghệ - Tĩnh). Theo lời truyền thì tác giả bộ tranh là cố Tơng quê ở Vịnh Lại, một nghệ nhân có tiếng đầu thế kỷ XX.

Ở cánh cửa đền Tam Lang (Hậu Lộc, Can Lộc) có hình vẽ rồng phượng đã mờ, và dưới lớp thuốc vẽ ấy, lại hiện ra dấu vết một bức tranh khác lấy đề tài một nhóm nghệ nhân múa quạt, theo các nhà nghiên cứu thì đó có thể là một điệu múa thờ nào đó từng được trình diễn ở đây ngày trước.

Page 288: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

288

Ở chùa Yên Lạc còn có bức trần sơn son được một thợ sơn nghệ nhân vẽ bằng thếp vàng hình long vân và nhiều họa tiết khác trông rất kỳ xảo.

Lại có loại tranh vẽ lên tường hoặc trên mặt bục thờ xây gạch ở nhiều đền chùa lấy các đề tài long vân, phượng hàm kinh, quy hạc, mai điểu, hoặc các hoa văn…

So với tranh thì tượng và phù điêu còn lại nhiều hơn ở các đền chùa. Tượng Phật ở chùa nào cũng có, nhiều chùa có tới mấy chục pho, chạm khắc khá tinh tế. Các pho “Quan Âm” và “Ngọc Hoàng” ở chùa Huyền Lâm (chùa Đá) Tùng Ảnh, và pho “Quan Âm” ngồi trên tòa sen, một chân xếp bằng, một chân xếp đứng, đằng sau là con vẹt (Thiện Sỹ), “với bố cục cân đối, đường nét mềm mại, tư thế thoải mái, vẻ mặt hiền hậu… biểu hiện đức từ bi”, ở chùa Yên Lạc, Nhượng Bạn, là những tượng tiêu biểu.

Tượng nhân vật lịch sử có pho “Chiêu Trưng Vương” (Lê Khôi) ở đền Chiêu Trưng, núi Nam Giới, Thạch Hà, tạc bằng gỗ bạch đàn sơn thếp đẹp, và pho “Hoàng hậu Bạch Ngọc” ở chùa Diên Quang (chùa Am), Đức Thọ (nay không còn) là có giá trị cao.

Lại có bức phù điêu đá “chân dung Khuông Quận công Đặng Đình Yên” ở đền thờ ông tại thôn Trung Lao, xã Yên Lạc, Nghi Xuân, tạc năm Lê Vĩnh Trị thứ tư (1679).

Ở các đền Chiêu Trưng (Thạch Hà), Đô Đài (Can Lộc) và chùa Yên Lạc (Cẩm Xuyên) còn có tượng và phù điêu phỗng, biểu hiện nhiều vẻ khác nhau: hoặc nét mặt kỳ dị, mũi to, má phính, bụng phệ, lưng còng (Phỗng ở đền Đô Đài); hoặc vẻ mặt nhí nhảnh, láu lỉnh của vai hề sân khấu (Phỗng ở chùa Yên Lạc); hoặc quỳ gối, nét mặt thiểu não (phù điêu Phỗng ở đền Chiêu Trưng)…

Ngoài ra còn có một số tượng gỗ khác tuy không có giá trị nghệ thuật cao, nhưng cũng đáng chú ý như tượng “Thánh Khổng” và tượng “Tứ phối” ở Văn miếu Phương Cần, tượng “Quan Võ” ở miếu Quan Thánh (TP. Hà Tĩnh).

Trong các đền, miếu ngày trước thường có tượng tướng văn, tướng võ, tượng voi, ngựa, quy, hạc… (gỗ) thờ bên trong và tượng voi, ngựa, con giống (đá) đặt bên ngoài. Đáng chú ý là các voi đá ở đền Đại vương Hai

Page 289: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

289

Nguyễn Nghiễm, Tiên Điền (voi mẹp), ở đình Hội Thống, ở tháp mộ họ Lê, Mỹ Duệ (voi/ngựa đứng), ở Sùng Chỉ của Tiến sĩ Hà Tôn Mục, Tĩnh Thạch và đền Lam Khê hầu Nguyễn Trọng, Tiên Điền (con giống). Ở Quang Chiêm, Đức Thọ, có câu hát tự hào:

Ai về Quang Chiêm mà coi, Có sông tắm mát, có đôi voi đứng chầu

Loại tượng con vật này, có thể đẹp nhất là “Trâu gỗ” ở đền Chế Thắng phu nhân, Hải Khẩu, Kỳ Anh.

Trên tường trước đền, miếu hoặc tường phụ ở tam quan, thường có các phù điêu đắp bằng vôi vữa hình tướng, quân, voi, ngựa…

Trước bình phong tắc môn, người ta đắp hình hổ phù hay hình hổ. Ở cột quyết, có khi thay cho câu đối, người ta cũng đắp hình rồng cuốn; còn trên nóc nhà, thông thường là hình “lưỡng long triều nguyệt”.

Trên một số ngôi tháp còn lại (như tháp Đông Lỗ, tháp Am…) thường có các con giống, hoa văn, chữ… chạm khắc trên gạch nung. Đặc biệt, ở tháp chùa Đá (Đức Thọ) có gạch nung tạc hình “phượng ngậm cành hoa”, “lân ngậm cành hoa”… được các nhà nghiên cứu cho là rất kỳ diệu.

Chạm khắc gỗ là một ưu thế của thợ mộc - nghệ nhân Hà Tĩnh ngày xưa. Ba công trình chạm khắc được ca ngợi là hương án Xa Lang (Hương Sơn), gác chuông chùa Thượng (Trường Xuân, Đức Thọ), Tam Quan Tự (Du) Đồng. Nhưng không chỉ có thế, ở các ngôi nhà xưa, nhất là ở đền chùa, ít nhiều đều có chạm khắc gỗ. Nhiều nhà thờ, như nhà thờ họ Nguyễn ở Tường Xá, Đức Thọ, các “dấm ngang” ở hiên trước chạm lộng đầu rồng khá tinh xảo; ở nhà thờ họ Nguyễn Huy, Trường Lưu (Can Lộc) có nhiều bức chạm, trong đó có bức hổ phù và mây rất đặc sắc…

Tập trung tác phẩm chạm khắc, được nói đến nhiều nhất là đền Chiêu Trưng (Thạch Hà), đền Tam Lang (Can Lộc) và đền Tam Lang, đền Thánh Thợ, Thái Yên (Đức Thọ)…

Đền Chiêu Trưng (ngoài các tượng Chiêu Trưng Vương và tượng phỗng đã nói ở trên) thì ở ngôi trung điện có nhiều bức chạm đẹp: Bát tiên quá sơn, Bát tiên quá hải, Ngũ phúc; Tứ linh đặc biệt bức Rồng ổ (rồng mẹ rồng con) trên các “chẩm”, đường nét lung linh; bức chạm ba nhạc công

Page 290: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

290

(một nam đánh trống cơm, một nữ thổi sáo, một nữ đánh đàn nguyệt) và một người múa, bên cạnh người đánh trống là con voi có ngà, đang cong vòi bay bốn chân lên cùng múa nhảy, bố cục giỏi, nét chạm tài hoa, sống động… Các nhà chuyên môn cho rằng các nét chạm khắc ở đây in đậm phong cách nghệ thuật chạm khắc đầu thế kỷ XVII.

Ở nhà trung điện đền Tam Lang (Hậu Lộc) hầu như không có một mảnh gỗ, một đoạn xà nào không có chạm khắc, cả ở mặt chính cũng như mặt phụ, đường nét tuyệt diệu. Đề tài rất phong phú: hoa lá, mặt trời, tứ linh, bát bảo và hoạt cảnh dân gian (cảnh đua thuyền với năm chàng trai tóc búi, mình trần đóng khố, cánh tay vạm vỡ đang nghiêng mình vặn chèo, ngoài người cầm nhịp còn có một người phùng má thổi kèn đàng trước và một cụ già đánh trống đàng sau. Cảnh đám rước có 10 con người, một con voi, có người cầm cờ đuôi nheo, cờ đại đi trước, và những người cầm đao, gươm, dáo, xiên - đều mặc quần áo rộng, đi hia. Cảnh ca múa nhạc, cảnh đánh cờ v.v…). Lại có bức ngựa lồng, hổ vờn, tướng cầm dáo dài… mỗi cảnh có nét đẹp riêng.

Đền Cả (Tam Lang) và đền Thánh Thợ (Thái Yên) là hai công trình kiến trúc, mỹ thuật có giá trị cao. Riêng đền Cả có những tác phẩm chạm trổ kỳ diệu: Tứ linh, mây lửa, hoa lá và các bức hổ dắt răng, rồng đau mắt, Hứa Do rửa tai, Chờ măng mùa đông (lấy tích “Nhị thập tứ hiếu”)… Các mảng chạm đặc kín mà không rối, khỏe chắc mà không thô, phóng khoáng, bay bướm… Hương án, linh tọa và tự khí đều là những tác phẩm chạm trổ tinh vi, sơn thếp lộng lẫy. Đền Thánh Thợ nhỏ hơn nhưng chạm khắc không kém đền Cả.

Mỹ thuật dân gian ở Hà Tĩnh tuy còn lại không nhiều, nhưng không nghèo nàn. Xưa đã từng có không ít nghệ nhân trong giới thợ nề, thợ ngõa (nhất là thợ Đình Hòe), thợ mộc (Xà Lang, Thái Yên, trong đó có “thứ nhất Cửu Ngại, thứ hai ông Hồng”), thợ sơn, thợ vẽ (cố Tơng) v.v… đã để lại nhiều tác phẩm xuất sắc mà tiếng khen truyền lại đến bây giờ.

Page 291: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

291

CHƯƠNG VIII

LỄ HỘI DÂN GIAN CỔ TRUYỀN

Cũng như nhiều tỉnh khác, lễ hội dân gian cổ truyền ở Hà Tĩnh phổ biến là hội làng.

“Làng ta mở hội thờ thần Chiêng khua trống gióng xa gần vui thay”.

Hội làng là sinh hoạt văn hóa tập trung, có sức hút, cổ vũ mạnh mẽ. Hội không chỉ tạo điều kiện cho mọi người được vui chơi thoải mái, lành mạnh, thỏa mãn nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa mà còn tạo điều kiện cho mọi người giao lưu, củng cố và phát triển mối quan hệ trong cộng đồng làng, nước và nhân loại. Hơn nữa, hội gây một cảm giác linh thiêng, đưa con người về với cội nguồn, giao cảm với Tổ tiên, Thần, Phật, để luôn luôn hướng tới Chân, Thiện, Mỹ.

LỄ HỘI ĐỀN ĐÔ ĐÀI VÀ TRÒ “ĐÌNH ĐỤN”

Đền Đô Đài dựng trên ngọn Bạch Tỵ, phía Tây dãy Ngàn Hống, thuộc địa phận làng Kẻ Treo - Đô Liêu, huyện Thiên Lộc, nay là xã Đậu Liêu, thị xã Hồng Lĩnh.

Đền thờ vị phúc thần Đô đài ngự sử Bùi Cầm Hổ. Thủy tổ họ Bùi vốn ở phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, làm Giám vận sứ đời Trần. Nhập cư quê vợ ở Kẻ Cài (Kỳ Trúc), đến đời Bùi Tông Đường, thân sinh Bùi Cầm Hổ mới dời sang Kẻ Treo.

Chuyện dân gian kể rằng, thời trai trẻ, Bùi Cầm Hổ đi chăn bò thuê trên Rú Hống. Nhưng sách vở đều chép, ông là một thư sinh ra Thăng Long du học. Một hôm nghe chuyện người đàn bà nọ can án giết chồng bị xử tội chết. Ông hỏi chuyện thì ra người chồng buôn bán xa về, chị nấu cháo lươn cho ăn, nên chết đột ngột. Biết người kia bị oan, ông xin quan cho chứng

Page 292: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

292

minh sự thật. Ông chọn mua loại lươn vàng, cổ có chấm đen lốm đốm, thả vào nước thì đầu ngẩng cao, đưa về, trình bày rằng loại lươn này thường gọi hoàng xà, thịt rất độc. Quan sai nấu cháo cho người tử tù ăn, quả nhiên chết ngay. Chị kia được minh oan.

Chuyện đến tai triều đình, Bùi Cầm Hổ được triệu ra làm quan. Trải thờ ba triều (Lê) Thái Tổ, Thái Tôn, Nhân Tôn, ông từng giữ các chức Ngự sử trung thừa, Yên phủ sứ Lạng Sơn, hai lần đi sứ Trung Quốc, thăng đến Tham tri chính sự, hàng Á tướng.

Lúc già về trí sĩ ở quê nhà Độ Liêu, thấy đồng điền thiếu nước tưới, ông huy động dân làng đắp con đập đá chặn dòng khe Vẹt đưa nước về, làm cho mấy trăm mẫu ruộng không còn bị hạn hán.

Sau khi mất, ông được triều đình tặng phong là Bỉnh quân đại vương, Thượng đẳng phúc thần.

Nhân dân quê hương Bùi Cầm Hổ lập đền thờ ông để tỏ lòng kính trọng, biết ơn và gọi đền này là “Đền Ông”, ngày tế ở đền là “kỵ Ông”.

“Đền Ông” - ở mái nam ngọn Bạch Tỵ, dưới chân núi khe Vẹt, còn gọi khe Hắc, chảy qua. Đền cũ xưa khá đồ sộ, có thượng, trung, hạ đường, trong đền có đủ đồ tế khí, nghi trượng; và hai tượng “Phỗng” lớn. Quanh đền rừng cây rậm rạp, sau chiến tranh, đền bị bom đạn phá đổ nát, rừng cây cũng bị phá trụi. Nhân dân bèn thu dọn lại sử dụng một số gỗ đá ở ngôi đền cũ, trong đó có một ít vật liệu gỗ còn có dấu vết chạm trổ xưa, dựng lại ngôi đền mới gần nền đền cũ. Đền chỉ có hai tòa, thượng đường và bái đường. Trong đền còn giữ lại áo mão thờ và các đạo sắc phong…

Lễ hội đền Đô Đài có tên là “Lễ báo ân” mở vào ngày 12 tháng giêng âm lịch hàng năm, là lễ hội thường, chỉ có cỗ thờ và làm lễ tế. Lễ hội lớn 50 năm mới có một lần, cũng bắt đầu từ ngày đó, nhưng kéo dài ba ngày ba đêm có lễ rước kiệu, rước cỗ, có thi cỗ, thi vật, đánh đu, đánh cù… và có dựng rạp hát tuồng gọi là dựng “Đình Đụn”. Theo lời truyền thì giữa hai lễ hội lớn cách nhau những 50 năm, là làm theo lời dặn của ông Bùi.

Ngày trước, đền có hai mẫu ruộng tế, gọi là “ruộng Ông”. Mỗi năm, làng cử một cố làm chức hành lễ (cũng như biện lễ), cày ruộng. Ông lấy hoa lợi mua sắm cỗ bàn để thờ, tế theo đúng lệ làng. Ai được cử làm hành

Page 293: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

293

lễ thì hàng xóm, họ hàng coi là vinh dự. Đến thời vụ cấy gặt, bà con trong làng, trong họ rủ nhau đến làm giúp. Trước ngày lễ, họ lại đến giã nếp, làm cỗ, ví hát suốt đêm.

Lễ tế xưa có “tam sinh”: Trâu (hay bò), dê, lợn. Những con vật tế ấy được mua, nuôi trước một năm, gọi là “trâu Ông”, “dê Ông”, “lợn Ông”… Mỗi khi ai đi qua chỗ “trâu Ông” ăn cũng cắt một nắm cỏ đưa đến…

Ngày lễ có cỗ thờ và cỗ tế. Cỗ thờ có hai loại, cỗ kính và cỗ nhớ. Cỗ kính nhất thiết phải có một bát nộm (giá), một bát giò nạc, một đĩa xôi và ba quả cam. Người ta nói đó là những thức ăn sở thích của ông Bùi. Cỗ nhớ cũng có hai loại: Một cỗ gồm thủ lợn, giò lợn, nếu không có cả thủ, phải có hai miếng thịt thủ có mặt và có tai. Một cỗ chỉ có một bát cơm và một bát muối. Người ta nói rằng đó là theo lời răn bảo của ông Bùi… Ông thường dặn những người cộng sự rằng muốn xem xét, xử lý một việc cho trúng, phải nghe tận tai, xem tận mắt. Ông nhắc nhở mọi người: khi no đủ phải nhớ khi đói kém, thiếu thốn, khi sung sướng phải nhớ lúc vất vả, gian nan… Trước khi hành lễ, làng phải đưa cờ lọng, trống chiêng đến, long trọng rước cỗ thờ từ nhà người hành lễ ra đền. Cỗ tế là xôi thịt (trâu, dê, lợn) như các nơi khác.

Trong lễ hội lớn, người ta dựng rạp hát, gọi là Đình Đụn. Sườn Đình Đụn có bốn cột lim to, và các cột quyết, xà, hạ… làm sẵn, cất dấu dưới khe Hác (khe Vẹt). Năm có hội lớn, làng làm lễ cáo ở đền, xin kéo cột lim dưới khe lên, dựng đình bên bờ khe, dựng bốn cột lim chính giữa, tra các đường xà vào, hai cột móng khác cắm sâu dưới nước, xà nối với các cột quyết, trên bắc đà lát ván tạo thành một ngôi nhà thủy tạ rộng rãi, gian chính giữa là sân diễn, xung quanh người ngồi xem. Hội lễ xong, người ta tháo đình, đưa cột xuống khe. Do đó, khe Truông Vẹt (tức khe Hác) cũng được gọi là “khe Nhà Trò”.

“Trò Đình Đụn”130 không phải là một loại hình riêng mà chỉ là một số vở diễn do các phường tuồng, phường trò (chèo) được làng mời tới biểu diễn phục vụ trong dịp lễ hội. Nhưng thuở trước, một đời người chỉ được

130 Tại đền thờ bà Đức Lão ở Kẻ Vọt (xã Bình Lạng Hạ) cũng có loại “Đình Đụn” và hát trò Đình Đụn tương tự.

Page 294: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

294

xem một vài lần, nên rất hấp dẫn không chỉ với dân Kẻ Treo mà với cả người các làng xung quanh.

“Khi mô Đình Đụn hát trò Túi (tối) trời đập đuốc cũng mò mà sang”.

LỄ HỘI ĐỀN TÂM PHÚC VÀ TỤC LÀM “BÁNH MỌI” VÙNG TIÊM, GIA

Ở làng Tâm Phúc, sách Minh Mông, châu Quy Hợp, phủ Lâm An131, nay là thôn Trừng Thanh, xã Hương Vịnh (Hương Khê), có ngôi đền thờ Vinh quận công Trần Phúc Hoàn. Gần đền có ngôi chùa Báu Lâm (còn có tên chùa Minh Quang). Theo tấm bia của chùa này khắc vào tháng tám năm Đinh Dậu thì Trần Phúc Hoàn là Đề đốc, Võ sự cai quản đội quân Tụ (hay Địch (?) võ tứ vệ, đóng tại đồn Quy Hợp. Ông mất vào giữa thế kỷ XVIII (đời Lê Hiển Tôn, niên hiệu Cảnh Hưng), được gia tặng Thự vệ sự, tước Vinh Quận công. Bà vợ ông họ Phan, hiệu Từ Hòa, đã xây dựng chùa Báu Lâm. (Đời Quang Trung nhà Tây Sơn, chùa do Thiền sư Hải Nhuận trông coi).

Trần Phúc Hoàn là người có công tìm con đường qua Trìm - Trẹo sang Lào. Đường bắt đầu từ đồn Quy Hợp (gần chợ Tiêm, đối diện chợ Gia bên kia ông Tiên bây giờ), đi qua Trẹo con (700m), Trẹo mạ (760m) lên đỉnh Trìm (800m), nơi phát nguyên rào Xăn; sang đất Lào. Theo Nhất thống dư địa chí (của Lê Quang Định, viết năm 1806, đời Gia Long) thì binh lính đồn Quy Hợp đo sào (tầm = 3,20m) đoạn đường từ Quy Hợp đến xứ Cồn-phá-vĩnh (Cuộnphavang) trên đất Lào, được 44.990 sào, lội qua 64 đoạn khe dài 482 sào. Đầu thế kỷ XX, nhiều nhà yêu nước theo con đường này sang Xiêm (Thái Lan) tìm tổ chức, lo việc phục quốc. Đường đi hiểm trở, gian nan, nên người ở nhà lo thầm:

“Động Trìm, động Trẹo thì cao,

131 Theo “Cương mục” thì Quy Hợp xưa là đất Bồn Man, hay Tồn Bồn Man. Tháng hai năm Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hòa thứ 6 đời Lê Nhân Tông (1448), Bồn Man dâng lễ cống và tháng bảy năm ấy, xin nội thuộc vào nước ta, đổi là châu Quy Hợp, thuộc phủ Lâm An, nay là đất các huyện Hương Khê, Vũ Quang.

Page 295: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

295

Nác Xăn, Mòi thì nậy, biết làm sao hỡi chàng?”.

Tương truyền để có đủ lương ăn đi đường, ông Trần cho hấp cám gói vào lá chuối làm bánh, có thể để lâu ngày không hư hỏng, ăn ít mà no lâu.

Lễ hội đền Tâm Phúc, theo một tài liệu đầu thế kỷ XIX, thì cứ 12 năm tổ chức một lần vào tháng 6 âm lịch. Ngoài nghi thức lễ bái và rước thần, dân xã vui chơi, ăn uống linh đình, thường mổ đến ba con trâu… Hội kéo dài ba ngày, có các trò chơi, các cuộc thi tài… như các nơi khác. Đặc biệt ở đây có tục làm “bánh Mọi” để tưởng nhớ việc ông Trần gói thứ bánh cám để đi mở đường ngày trước.

Trong kỳ lễ hội, mọi gia đình đều làm “bánh Mọi” đưa ra dâng cúng và mời bà con trong làng thưởng thức…

Về sau, đền Tâm Phúc không còn lễ hội lớn như xưa. Nhưng dân vùng Tiêm - Gia - Xuân Lũng vẫn giữ tục làm “bánh Mọi”. Riêng ở Xuân Lũng thì gói “bánh Mọi” vào 17 tháng bảy âm lịch đưa ra đền làng cúng gọi là làm “Cỗ việc làng”, có câu:

“Tháng bảy làm cỗ việc làng Lá xanh, nếp trắng, nhân vàng, mâm son”.

LỄ HỘI CHÙA HƯƠNG TÍCH

Hội chùa Hương Tích mở vào ngày 18 tháng hai âm lịch hàng năm, tương truyền là ngày ni cô Diệu Thiện hóa Phật. Nhưng hội lớn thì ba năm mới có một lần.

“Tháng giêng Đô Đài, tháng hai Hương Tích”, đó là “lịch” lễ hội lớn được truyền ở Thiên Lộc - Can Lộc.

Việc chuẩn bị cho lễ hội được tiến hành từ hàng tháng trước. Dân các xã địa phương, vào dựng lều quán dọc đường lên chùa, đủ các loại hàng từ hương, đèn, vàng giấy, hoa quả… đến hàng ăn uống, phục vụ cho khách thập phương về dự hội. Các thiện nam tín nữ thì nhiều ngày trước cũng đã đến giúp nhà chùa quét dọn, sửa soạn quanh chùa cho khang trang, sạch sẽ, dựng cờ phướn, tạo nghi môn, kết đèn… hoặc sắm sửa lễ vật cúng Phật và tế đền Thiên Vương; chức sắc địa phương cử người đến túc trực, trông coi và giữ gìn trật tự…

Page 296: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

296

Trước ngày 18, có lễ Mộc dục (tắm Phật) cũng gọi là lễ Khai Quang. Nhà sư và những người giúp việc dùng nước đun sôi pha ngũ vị lau qua hoặc dùng cành dương nhỏ rảy lên tượng Phật.

Giờ tý, ngày 18 là chính lễ. Sư ni, thiện nam tín nữ cùng chức sắc tập trung làm lễ Phật, dâng hương và tụng kinh đến sáng. Từ đó đến cuối hội, khách thập phương tấp nập vào chùa dâng hương, còn các nhà sư thì hàng ngày tụng kinh theo giờ quy định…

Mọi người cũng đến thắp hương, khấn vái ở đền Thiên Vương, am Thánh Mẫu. Đặc biệt, ở am Thánh Mẫu thường có những đôi vợ chồng hiếm hoi đến làm lễ cầu tự. Các sách cổ cũng đã chép về các cuộc cầu tự của người xưa ở đây: Theo sách “Thiên Lộc huyện chí” (bản chữ Hán) thì chúa Trịnh Sâm đến đây cầu tự mà sinh Điện đô vương Cán (?) và quan cựu Hiệp trấn Nghệ An Trần Công Ninh (?) cũng cầu tự ở đây, sinh ba trai, đặt tên con trưởng là Hồng, con thứ là Hương và con thứ ba là Tích, nên xin trùng tu chùa quán để trả ơn… Cầu tự là việc thường ngày, nhưng cũng là nội dung quan trọng trong dịp hội lễ.

Trò chơi trong những ngày lễ hội do các xã địa phương tổ chức. Hấp dẫn lớp trai trẻ nhất là cuộc thi vật do trai làng vật Thuần Thiện chủ trì, được nhà chùa treo giải, khuyến khích. “Hội vật là vui hơn cả. Trai vật của làng, trai vật từ các làng, các huyện đến. Tiếng reo hò, tiếng trống vật nổi lên khắp nơi thật rộn ràng và sôi nổi. Trai tài, gái sắc còn hát ví, hát bẻ, hát ghẹo, giao duyên” (Hữu Thoan - Làng cổ Thuần Chân)…

… Hội chùa kéo dài hàng chục ngày, nhưng du khách vẫn tiếp tục trẩy chùa đến hết mùa xuân.

HỘI KHAI CANH VÀ TRÒ “DẪN HOA” Ở PHAN XÁ

Xã Phan Xá thời xa xưa cùng với Mỹ Dương là trại Dương Xá, sau tách riêng thành xã Phan Xá và trang (rồi xã) Mỹ Dương, Phan Xá đầu thế kỷ XIX đến 1945 thuộc tổng Phan Xá, nay là xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân.

Ở Phan Xá có đền thờ Phan Liệt công, tức Hoàng giáp Phan Chính Nghị, làm Cấp sự trung bộ Lại dưới triều Lê Tương Dực. Nhà Mạc lên, ông về ẩn ở Rú Sét (Liệt Sơn). Bị bắt ra Thăng Long, qua xã Bát Tràng,

Page 297: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

297

ông nhảy xuống sông tự tử, hôm đó là ngày 29 tháng 11 âm lịch. Triều Lê trung hưng, ông được phong Dực thánh Quảng tế Phổ Chiếu đại vương, Thượng đẳng thần.

Ở đây còn có ngôi chùa Hưng Long, tục gọi chùa Bể (?) có quả chuông lớn, đánh lên tiếng vọng rất xa.

Hàng năm, từ mồng bảy đến rằm tháng giêng, làng chọn một ngày tốt để mở hội “khai canh”. Theo tục lệ, một người mang tù và ra đầu làng thổi inh ỏi, rồi tiếng trống tiếng chiêng nổi lên ồn ã. Dân làng lũ lượt tập trung trước đền làng.

Chức sắc, hào lão làm lễ tế thần Thành hoàng. Lễ xong, cố thủ chỉ dẫn đầu dân làng ra thửa ruộng gần đó (đã chuẩn bị sẵn trâu, cày) xuống cày một đường mở đầu, rồi trai tráng thay nhau xuống cày tiếp một lúc… Đoạn, mọi người kéo nhau về sân đền, tiến hành cuộc rước cây hoa, gọi là “trò dẫn hoa”.

Sách “Nghi Xuân huyện chí” chép về chùa Hưng Long: “Đến ngày thượng nguyên (rằm tháng giêng) hàng năm, dân làng ở đây nhuộm bột gạo thành năm màu, vắt thành đóa hoa, kết dính các loại hoa ấy thành hai cây hoa đem về cúng Phật. Cũng trong dịp đó, biểu diễn các trò vui về ngư, tiều, canh, mục sĩ, nông… Nghe nói làm theo lệ này thì năm đó được mùa, dân yên”.

Như vậy, hai trăm năm về trước, hội diễn ra ở chùa Hưng Long, và không có cuộc rước hoa, nhưng vẫn mang ý nghĩa về lễ hội nông nghiệp, cầu yên, cầu được mùa. Chắc là về sau, hội mới kết hợp với lễ khai canh. Sách “Từ điển lễ hội Việt Nam” viết:

“… Tiếp theo là diễn trò dẫn hoa. Hoa là một cây kết các loại, mà chủ yếu là hoa (bông) lúa, kết thành chùm bằng bột nếp, lấy tăm cắm vào cuống hoa, rồi cắm vào một cây chuối nhỏ đã cắt ngọn, chung quanh có hoa ngũ sắc làm nền. Hai cô gái xinh nhất làng được chọn khiêng cây hoa. Tiếp theo là một con chim, thường là chim công đắp bằng bột nhuộm màu sắc sặc sỡ đặt trên chiếc bàn nhỏ, có người gánh. Thêm vào là hai con trâu mộng khung bằng nan tre đan, ngoài trát bùn… được hai người đội đi dẫn hoa. Tiếng chiêng nổi lên, đám rước đi quanh làng, ra đồng rồi trở về chùa (cũng có tên là chùa Dẫn Hoa - Hưng Long tự)…

Page 298: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

298

Sau đó là trò diễn “Trưởng giả gả chồng cho con gái”. Phan Xá có 9 thôn, mỗi thôn cử một người đóng vai chính, gồm trưởng giả, con gái trưởng giả, các vai sĩ, nông, công, thương và một số hề đồng (hề thường thuê người ngoài làng). Sân diễn là một bãi đất trống, có dựng chòi cho trưởng giả, con gái và một hề đồng hầu hạ ngồi. Trưởng giả tuyên bố con gái muốn kén chồng. Các vai sĩ, nông, công, thương lần lượt ra khoe tài, đi theo là những anh hề, nói tốt cho chủ mình một cách ngộ nghĩnh làm cho không khí cuộc diễn sôi động.

Sau khi dừng trò diễn, lễ hội kết thúc”.

Dân Phan Xá cho rằng năm nào không diễn “trò dẫn hoa” và trò sĩ, nông, công, thương… thì năm đó mùa màng không tốt, trâu bò bị dịch, người không được yên.

HỘI RƯỚC VÀ TỤC “LIỆP TẾ” Ở MỸ DƯƠNG

Xã Mỹ Dương xưa thuộc xã Dương Xá, rồi tách ra thành trang Mỹ Dương, sau nâng lên làm xã, nay là xã Xuân Mỹ, huyện Nghi Xuân.

Ở Mỹ Dương có hai ngôi đền: Đền thờ Lý cung phi và đền thờ Phan Liệt Công (Phan Chính Nghị), thường gọi đền Đức Thánh Trung, Thành hoàng làng. Ngoài ra còn có miếu sơn thần núi Mồng Gà, thường gọi là đền Đất Đỏ.

Mỹ Dương là một làng ven Ngàn Hống, xưa kia có phường săn. Hàng năm cứ vào tháng chạp, mùa săn, các phường săn vào núi săn bắt thú rừng, bắt được con muông nào (nai, lợn, hoẵng…) thì về làm vật tế thần Thành hoàng, gọi là “liệp tế”132.

Một truyền ngôn khác nói rằng: Mỹ Dương vốn là đất văn học, có nhiều học trò, hàng năm các học trò thi phải tổ chức vào núi săn bắt muông thú, về làm lễ cầu khoa ở đền Thành hoàng vào ngày 17 tháng chạp âm lịch. Lễ vật rất đơn giản, ngoài con muông săn về, chỉ có hương đèn, trầu rượu, lễ xong, chia theo “đầu thớt đầu thịt”. Về sau, ông Cao tổ một dòng họ có 132 Liệp nghĩa là đi săn. Thời xưa, người ta đi săn vào tháng chạp, nên tháng chạp cũng có nghĩa tháng đi săn - Chữ “liệp” cũng đọc là “lạp” (săn) đồng âm với chữ “lạp” (tháng chạp).

Page 299: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

299

thần thế mới lấy lệ ấy làm lệ làng.

Đến khi, núi rừng hiếm muông thú, làng định lệ hàng năm, nhà nào đẻ con trai thì phải nuôi một con lợn, làm lễ vật tế Thành hoàng. Nếu không có người đẻ con trai thì nhà hiếm con muốn cầu tự, nhận nuôi. Nếu cả hai trường hợp đều không có, thì nhà đông con nhận nuôi, nếu không thì phải làm thịt gà thay vào. Lệ ấy gọi là “nuôi lợn trưởng”.

Nhà “nuôi lợn trưởng” từ đầu năm phải biện lễ trầu rượu ra đền xin phép và hứa hẹn cuối năm xin dâng cúng con lợn, hiện mới mua giống về xin Thần phù hộ cho con vật “đầu hôm lá khoai, sớm mai lá bù (bầu), nuôi ba tháng bằng con tru (trâu)”.

Từ ngày ấy, con lợn được chăm sóc với một chế độ đặc biệt. Chuồng được quét dọn hàng ngày; nước uống là nước vo gạo, vo nếp đựng trong thùng, ché sạch, nấu sôi, để nguội; thức ăn là cám mới hoặc lúa đẹp giã mịn; rau là đọt dây khoai lang trồng trên đất vỡ hoang tận rú Mồng Gà. Người ta còn tôn kính gọi “lợn trưởng” là “ông lợn”.

Buổi đầu, lợn chưa bắt buộc phải to, quí hồ có “đầu thớt đầu lợn”, nhưng đến thời Pháp thuộc, một số cường hào mới đề ra lệ phải nuôi lợn tạ và 7 giáp trong xã phải nuôi 7 con, giáp nào cũng đua tranh sao cho lợn của giáp mình được thắng.

Xôi tế do các nhà được cày ruộng binh biện cỗ, mỗi cỗ trị giá một quan hai tiền nếp.

Lễ tổ chức vào ngày 17 tháng chạp hàng năm ở đền Đức Thánh Trung (đền Thành hoàng). Hương chức cùng thủ từ đã lo lau chùi xếp đặt bàn thờ thật tươm tất, mua sắm hương đăng phù tửu đầy đủ. Sáng ngày, chức sắc, hào lão tề tựu đầy đủ. Nhà làm cỗ thì khiêng cỗ đến. Nhà nuôi lợn thì giết thịt, luộc cả con, đặt lên mâm son, trên buộc giấy hồng điều… Còn nhân dân, từ tinh mơ, đã ăn mặc đẹp đẽ, chờ ba hồi trống cái nổi lên, cùng lũ lượt kéo ra đền.

Trong khi làng dâng cỗ làm lễ cáo thần, trai tráng sắp đặt cờ quạt, tàn lọng, án kiệu ra sân, cắm cờ từ cổng đền đến bến sông phía nam xã. Lễ cáo xong, đám rước cử hành, chia làm hai đạo. Một đạo rước kiệu, trước sau có cờ, quạt, tà lọng, trống chiêng, phường bát âm… đi từ đền ra

Page 300: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

300

bến Vực, xuống thuyền chèo, rước vào tận đền Đất Đỏ, rú Mồng Gà, làm lễ sơn thần rồi rước về. Đạo thứ hai cũng cờ xí, chiêng trống, bát âm, rước hương án đi quanh làng rồi trở về.

Khi hai đạo rước đến đình, chức sắc, hào lão mới làm lễ chính tế… Tế xong, làng bình giải thịt xôi, phát thưởng. Giải của xã là ba quan, giải của giáp sáu quan. Sau đó, nhà chủ nuôi lợn kính xã thủ, lòng và một cân thịt, nhà làm xôi thì kính phần xôi để làng dự cỗ. Giáp - lấy phần nọng và nửa con lợn cùng ít xôi để chia phần kính trong giáp. Còn lại bao nhiêu xôi, thịt chia phần cho toàn dân mang về.

LỄ KỲ PHÚC VÀ HỘI THI VẬT Ở THUẦN THIỆN

Xã Thuần Thiện bây giờ là xã Hồng Phúc (từ 10/1950), xã Phúc Lộc (từ 1954 đến 1972), gồm ba làng Thuần Thiện (xa xưa là Thuần Chân), Tả Thượng và Yên Trí (Sóc Đình) thuộc tổng Nội ngoại, huyện Can Lộc trước Cách mạng tháng Tám (1945). Địa phận Thuần Thiện từ núi Động Dang đến gò Cánh Phượng dài chưa đầy ba cây số mà có đến hai ba chục ngôi đình, chùa, miếu điện.

Lễ hội kỳ phúc ở Thuần Thiện tổ chức vào những ngày 14, rằm và 16 tháng sáu hàng năm. Hội có cuộc rước, tế Thần và các trò chơi văn hóa, thể thao, đặc biệt có hội vật.

Từ sau tết Đoan Ngọ, mùa màng đã tạm thanh, dân làng bắt tay vào chuẩn bị cho lễ hội: sửa đường “phù nghinh” (đường rước thần), khảo giếng Tây Hồ cho long mạch thông suốt đặng trong năm mưa thuận gió hòa…

Tại đền Thành hoàng làng (thường gọi đình Đụn), sáng sớm ngày 14, chức sắc, hào lão và dân làng tề tựu đông đủ. Đúng giờ thìn, hào lý dâng hương cáo thần và tiến hành lễ “khai quang tẩy uế” (dùng nhánh tre nhúng nước ngũ vị vẩy lên thần vị, tự khí và cả lên xà nhà…) mở đầu nghi thức hội lễ.

Tiếp đó là cuộc rước kiệu lên đền Cả, tức đền “Hàng tổng” để thỉnh các Thần về cúng tế: “… Ba bộ kiệu sơn son thếp vàng được bày sẵn giữa sân. Một bộ có cây tàn vàng che, hai bộ có lọng xanh che. Hai bên kiệu là hai dãy binh khí, gồm: Mâu, gươm, giáo, đinh ba, chùy, v.v… Phía trước là

Page 301: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

301

mười cây cờ thần, phường bát âm, đội kèn trống, đội múa sư tử, múa lân, ông thổ địa v.v… Tất cả đã được tập dượt từ vài ba ngày trước, nay đã sẵn sàng vào hội rước. Trong khuôn viên năm mẫu có cây cao tỏa bóng mát, dân làng cùng dân các làng tề tựu đông vui. Các cụ phụ lão đầu đội khăn xếp hoặc khăn lượt, mặc áo the thâm, quần trắng. Người giàu chân đi giày hạ, người khó thì ngựa trúc (guốc tre). Các cụ bà đội nón ba vành, quai thao, áo tứ thân, váy lĩnh, ướm đỏ, quạt hoa. Các trai gái ăn mặc chu tất, các o thường là mặc áo dài tứ thân, thay tay… một lối “diện” của người Hà Tĩnh… Chung quanh đình là bãi vật, bãi cờ người, cờ bàn, tổ tôm điếm, tôm bàn, xóc đĩa lại có đủ hàng ăn, hàng quà…

Đúng giờ Ngọ, hội rước thần cử hành. Đi đầu đoàn rước là múa Thổ địa. Ông Địa múa theo nhịp trống để mở đường, dẹp đường. Kế đến là mười cờ thần do năm trai, năm gái cầm… Sau đoàn cờ là chiêng trống,… não bạt. Kế sát là múa lân, múa lân cũng theo nhịp trống…

Kiệu có tàn vàng đi đầu, bên trên có lư hương và bài vị Lý Thái tổ. Hai bên kiệu này có hai phường bát âm, hòa điệu lưu thủy, hành vân. Kiệu giữa rước các vị quan văn, kiệu thứ ba là các tướng võ, đều có lọng xanh che.

Tiếp đó là múa sư tử, rồi đến các vị có tước phẩm, thủ chỉ, hương lão, lý trưởng và nam phụ lão ấu. Thỉnh thoảng lại thấy ông cụ mặc áo đỏ, chít khăn đỏ, cầm ống gọi đi thông báo lệnh của lý trưởng ban truyền. Trên bầu trời là những cánh diều sáo vào cuộc thi. Sáo diều giọng thanh giọng trầm hòa với tiếng trống chiêng, tiếng bát âm nghe vừa ngọt ngào, vừa rạo rực. Đám rước kéo dài như một dòng sông hoa…”133

Giữa lúc ấy, tại đền Cả, viên chức hàng tổng đôn đốc trai tráng đưa voi, ngựa, cờ quạt bày bố ra sân.

Đám rước đến nơi, hai kiệu đi đầu vào đặt trước đền trong, kiệu thứ ba đặt trước đền ngoài. Làng làm lễ thỉnh, rồi cụ thủ chỉ cùng chức sắc rước lư hương ra kiệu rồng. Pháo nổ, chiêng trống nổi lên, đám rước quay về đình

133 Trích các bài “Lễ hội kỳ phúc của làng Thuần Thiện” (của Hữu Thoan, Hữu Vơn - VHHT số 47) và “Làng vật Thuần Thiện” (của Hữu Thoan - VHHT số 46). Bài viết của chúng tôi chủ yếu lấy tài liệu từ hai bài trên và bài “Làng cổ Thuần Chân” (của Hữu Thoan - VHHT số 52).

Page 302: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

302

Đụn. Dọc đường nghinh thần, tại nhà Văn thanh và các đền miếu chùa chiền đều đặt hương án, bày đèn nhang, thủ từ áo mũ chỉnh tề, đốt pháo bái hạ…

Đám rước về đến đình Đụn, bài vị lư hương được rước vào yên vị, làng tiến hành lễ tế. Lễ đầy đủ hương đăng, phù, tửu, các con sinh thì đưa vào tế sống. Đêm 14, mọi người đều ở lại chầu chực, vui chơi và sửa soạn cho lễ tế hôm sau.

Sáng ngày rằm, chính tế, không khí thật trang nghiêm. Trước bái đường, bốn người lính áo nẹp khăn vàng, tay cầm chùy đứng thị lập. Ba dòng (gian) trong bái đường, các vị chấp sự, từ chủ tế, bồi tế, đến điển, độc… đều mũ cao, áo thụng, lưng đính tấm thêu kim tuyến “văn cò, võ hổ”… Trên hương án lễ vật hương đèn bày biện đầy đủ. Ở thượng điện, dưới bàn thờ đặt bàn lễ vật ba con bò thui, trên lưng đều cắm con dao phay…

Ba hồi chiêng trống nổi lên. Lễ tế tiến hành theo nghi thức thượng lệ. Đặc biệt văn tế trong lễ kỳ phúc lại là bài “Văn thúc ước làng Thuần Chân” do Lê Hồng Hàn soạn đầu thế kỷ XIX.

Trong khi làng tế, thì ngoài sân pháo nổ ran, các đội lân, sư tử vẫn múa lượn, và trong vườn đình, các trò chơi vẫn tiếp tục trong không khí náo nức, thoải mái…

Cuộc vui kéo dài đến chiều ngày 16, ban ngày thì cờ thẻ, cờ người, đu xít, đu tiên, tổ tôm điếm, ném cù, thi vật, hát ví… Ban đêm thì hát trò Kiều, hát ả đào Cổ Đạm… Trò chơi nào cũng có đông người tham gia và cuốn hút người xem. Đặc biệt, vật là môn thể thao truyền thống lâu đời của đất Thuần Thiện.

Có người nói rằng môn vật Thuần Thiện có liên quan đến phái võ Nhất Nam, tương truyền ra đời trên vùng đất cổ Hoan Châu. Tuy nhiên vật Thuần Thiện cũng có nhiều điểm khác biệt. Ví như: các chước vật Thuần Thiện như chước công, chước vóc, chước lấy ngồi, chước vụt đều chịu ảnh hưởng của phái võ Nhất Nam, nhưng mục đích không mang tính chất đối kháng, tìm cách “tiêu diệt” đối phương, mà ở đây là để thi tài, mua vui. Do đó, vật Thuần Thiện cho phép khoan, khi trái miếng thì đối thủ xin khoan (hoãn lại). Khố vật ở Thuần Thiện không dùng dải mà làm bằng bẹ chuối.

Page 303: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

303

Các đô vật chọn cây chuối trồng ở nơi khô ráo sạch sẽ, không bị sâu, thân bậm, lá to, xanh tốt, tượng trưng cho sự khỏe khoắn, thanh khiết. Cây chuối đưa về bóc bẹ, phơi thật héo, tước thành sợi và bện xoắn thành cái đai (khố), dài khoảng 1m. Bãi vật (xới vật) phải thoáng, có thảm cỏ để được an toàn, kiêng đặt thẳng với mặt đình chùa, vì như vật là bất kính với Thần, Phật… Người Thuần Thiện coi đấu vật là việc thiêng liêng, cũng như các phái võ ngày xưa vậy.

Nhưng đấu vật lại là một sinh hoạt văn hóa thể thao bình thường trong dân gian ở Thuần Thiện, thường diễn ra vào các mùa trăng sáng và được tổ chức quy củ, trọng thể trong dịp lễ kỳ phúc (cầu dân yên quốc thái, hoa cốc phong đăng) và lễ hội chùa Hương.

“… Ngày xưa, khi có hội vật thì lý trưởng cho seo mang lễ vật đến lý trưởng các làng lân cận để báo và mời trai vật các làng tham gia. Nếu vật vào dịp hội chùa Hương thì nhà chùa treo giải. Nếu vật vào lễ hội Kỳ Phúc thì làng có giải lớn. Vào hội vật phải có người cầm trống, người này phải là một chức sắc như chánh, phó lý hoặc một người có tước phẩm cao hơn như thất phẩm, bát phẩm… hoặc một phú hộ ưa thích môn vật và có cấp tiền thưởng. Ít nhất người cầm trống cũng phải là một đô vật đã về già.

Trống nổi lên ba hồi chín tiếng thì hai đô vật vào bãi (thường là từ lứa tuổi thiếu niên trở lên). Nghe trống đánh một hồi ba tiếng là các đối thủ múa vật. Động tác múa là để khởi động và biểu dương khí thế. Sau khi múa, các đô vật vào chính thức. Đang vật, nếu có một người xin khoan (tức là xin hoãn) thì người cầm trống gõ chang trống liên hồi, đến lúc hai người vật tiếp mới thôi. Người cầm trống cũng là người làm trọng tài. Nếu khi đang gõ chang trống mà người kia vẫn cố vật là phạm quy. Hoặc khi đã ngã lấm lưng thì một hồi trống dài báo hiệu hiệp vật kết thúc.

Hội vật thường tổ chức nhiều ngày, đến lúc không ai vào vật với người “cầm lèo” (trịch) nữa mới thôi… Người “cầm lèo” là người vô địch. Người này được ngồi một ghế đẩu, đối diện với người cầm trống. Có các thôn nữ làng sở tại mời nước, mời trầu, lại có người đứng quạt nếu trời oi bức.

Lối vật ở làng Thuần Thiện không xếp đôi, đôi này vật xong thì tiếp đôi khác, mà cứ thay nhau ra vật. Người thắng cứ ở lại vật tiếp. Có khi một người vật đến năm sáu người mới chịu thua. Nhưng làng cũng quy định là

Page 304: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

304

cứ thắng ba người thì được ba quan tiền; thắng năm người thì được một quan tiền đồng.

Người “cầm lèo” thì được làng mời bữa cơm rượu với khách, phó lý và các vị chức sắc cao tuổi. Ở bữa cơm này, làng cũng tặng người “cầm lèo” 15 vuông lụa và tiền… Nếu người “cầm lèo” ấy là người của một làng khác thì sau khi dự tiệc, ra về, sẽ được các cô gái xinh đẹp nhất, và các đô vật của làng Thuần Thiện tiễn đưa ra đến tận đầu làng…

HỘI XUÂN Ở PHÚ PHONG VÀ TỤC LÀM “BÁNH QUẾT”

Làng Phú Phong, đời Lê là trại Con Ong, đời Nguyễn gồm ba trại Con Ong, Đập Điều, Cu Đẻ, tên chung là Cây Ong thôn, thuộc xã Chu Lễ, huyện Hương Khê.

Cũng như các làng xã khác, đầu xuân thường có lễ hội tế Thần, rước Thần và các cuộc vui chơi. Nhưng Phú Phong là làng vùng núi, có nhiều điểm khác lạ đáng chú ý. Hội xuân thường kéo dài từ đêm giao thừa cho đến ngày mồng bảy, có khi đến rằm tháng giêng, có nhiều tục lệ, trò chơi.

Đêm giao thừa có nổ lói trầm. Người tham gia chơi, phần nhiều là trai làng đang kén vợ hoặc chàng rể tương lai, đến nhà đánh cuộc với cha mẹ cô gái. Lói hình trụ, tròn, to hơn cái pháo đùng, vỏ bằng ống sắt tôi già, nhồi thuốc pháo vào, lấy miếng gỗ làm nắp, đóng chặt lại, lắp ngòi cháy chậm, khi nổ thì dùng cây hương đỏ châm vào ngòi. Tiếng nổ kêu như tiếng mìn. Lói phải nổ sau lễ giao thừa, ngay tại chân cây nêu. Người đi nổ lói trầm cần phải cao mưu, vì đã biết trước, chủ nhà canh giữ riết lắm, có nhà buộc chó dữ vào chân cây nêu. Thế mà người chơi vẫn bí mật lẻn vào được. Nếu người rình, họ có cách “điều” người ra nơi khác, nếu có chó, họ vứt xương nướng thơm cho chó gặm… Phần thắng luôn thuộc về khách. Tiếng lói nổ ran làm cho không khí đầu xuân nhộn hẳn lên. Người ta lấy tiếng nổ để “tống cựu nghinh tân”. “Trúc bộc nhất thanh trừ cựu tuế” - Một tiếng lói nổ năm cũ đã đi qua.

Lúc nghe lói nổ thì các phường sắc bùa cũng nổi trống ra đền hát lễ thần và chúc tết các vị chức sắc, hào lão. Các vị này phải ở lại đền túc trực hương đèn và ngủ đêm tại đình trung, gọi là “nằm heo”. Hát lễ ở đền xong,

Page 305: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

305

các phường chia nhau đi hát chúc các gia đình, đến nhà nào họ cũng được đón tiếp niềm nở. Họ thường đi hát từ mồng một đến rằm mới thôi.

Sáng mồng ba tết là để “việc làng” – khai xuân. Làng họp ở đình, cử thủ từ mới, thay thủ từ cũ để coi sóc đền miếu lo việc sắm sửa việc tế lễ trong năm. Thủ từ gọi là “cố đạo”. Bầu xong phải “xin keo” xem Thần có chấp nhận cho không. Lễ xin keo gọi là “xin keo cố đạo”. Thủ từ có trang phòng để khi tế lễ ở hẳn ngoài đình, phải ăn uống như nhà sư. Lệ làng nghiêm lắm. Nếu “cố đạo” nào còn đa mang, lỡ ra bà có thai, thì phải mổ bò tạ làng và bị truất chức, truất ngôi thứ ở đình trung. Nhưng dân làng rất coi trọng “cố đạo”. Khi tế lễ, cố được ngồi mâm nhất, cỗ biếu cũng rất hậu, và được hưởng ruộng tế điền.

Cũng ngày mồng ba, toàn dân làm cỗ “bánh quết”. Bánh quết tức là bánh dì (bánh dầy).

Sau mồng ba tết, bà con chọn ngày tốt để đặt ách vào cổ trâu bò, gọi là “cỏi éch”, các trùm phường làm lễ cúng tiên sư. Riêng phường giữ trâu thì thay phiên nhau chăn giắt, gọi là “thả phiên”. Sáng sớm, trùm phiên thổi tù và đánh mõ để mọi nhà đưa trâu bò ra bãi, lên đồi cho đi ăn cỏ. Giữ phiên có người lớn và trẻ mục đồng. Trâu bò phiên thường ở cổ có đeo mõ, ai cũng trau cái mõ cho kêu. Khi trâu bò gặm cỏ, đám trẻ bày trò chơi: Bưng trống đất để cầu đồng roi, đồng chủi (chổi), cầu niệng niệng…

Trống đất là khoét xuống mặt đất một lỗ tròn to như cái ấm, trên miệng lấy lá rục bục bưng kín lại. Dùng sợi dây dài buộc vào hai cái cọc nhỏ, dăng qua “mặt trống” đóng cọc chắc, lại dùng hai cọc khác chống dây lên thật căng, đánh lên dây như tiếng trống cơm. Khi cầu thì đánh trống sai, vừa đánh trống vừa hát. Bài hát “Cầu đồng roi” có câu:

“Đồng roi kia hỡi đồng roi Ăn no tắm mát ai đòi thì lên…”

Bài Cầu ông chủi thì:

“Ông Chủi mụ Chủi Có tủi thì lên Ba bề bốn bên Thì lên cho chóng

Page 306: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

306

Nhược bằng cửa đóng Thì mở mà vào Cách sông cách rào Lặn lội mà sang…”

Bài Cầu niệng niệng thì:

“Niệng niệng na na Cha mi chết cửa rú Mẹ mi chết cửa khe, Em mi khóc nhe nhe Mời trời xuống đánh Cất gánh bay vù vù…”

Người lớn cũng có nhiều cách tìm thú vui tùy sở thích: trọi cu cu, séch chúc mào, đa đa, đi mái, đi săn mang, săn chồn.

Sáng mồng sáu, làng mở hội rước sắc. Ở đây có ba bộ kiệu rồng. Những cậu trai làng mười tám, đôi mươi, mới tinh, chưa vợ được chọn vào đội khiêng kiệu, gọi là “trai kiệu”, ai được cử coi là rất vinh hạnh. Trai kiệu mặc đồ thờ thần, những người khiêng chiêng, trống, cầm gươm, súng, tàn, lọng, cờ quạt, đều mặc áo nẹp. Bô lão thân hào mặc áo thụng xanh. Đám rước có phường bát âm, phường chầu văn. Tiếng chiêng, trống, thanh la, não bạt huyên náo, bước chân nhộn nhịp, dân làng đều ăn mặc đẹp đẽ, nô nức đi xem rước, nét mặt rạng rỡ, vui tươi.

Đám rước đi theo đường làng từ Đền Trên (đền Đức Mẹ Đại Càn) xuống Đền Dưới (đền Bản thổ Thành hoàng), dâng sắc và lễ vật lên bàn thờ, hương khói chầu chực suốt đêm, hôm sau lại rước về.

Trong dịp tết, ngoài hai ngày vui làm cỗ bánh quết và rước sắc, còn có nhiều trò vui, lôi cuốn nhiều người xem nhất là trò hát do phường trong làng diễn các vở trò Kiều, Trương Viên, Lưu Bình – Dương Lễ… và đánh tổ tôm điếm…

HỘI HÁT GHẸO VÀ TỤC ĂN CÁ GỎI Ở MỸ XUYÊN

Page 307: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

307

Làng Mỹ Xuyên thời xa xưa là Lã Xá trang, một trong những điếm (xóm) trên vùng đất khai hoang của bà Hoàng hậu Bạch Ngọc đầu thế kỷ XV, do vợ chồng Trần Quốc Trung và nàng Phạm, gia thần của bà, cai quản. Vì vậy, bà cho được lấy tên hai người đặt cho điếm này là Trung Phạm. Đến năm Thái Hòa thứ 8 đời Lê Nhân Tông (1450), Trung Phạm đổi thành Trung Hòa, và năm Nguyễn Gia Long (1803) lại đổi là Mỹ Xuyên, nay thuộc xã Đức Lập, huyện Đức Thọ.

Mỹ Xuyên thường gọi Kẻ Bàu vì trong địa phận có cái bàu (đầm). Thực ra đây là dòng khe từ núi Chu Đà giáp xã Tân Hương, chảy lên hướng bắc, đến Mỹ Xuyên dài khoảng 4km, có đoạn phình ra rộng 100 - 150m, sâu tới 6m, nên gọi là bàu. Người ta cho rằng nước bàu Mỹ Xuyên chảy thông ra bàu Cận Kỵ (xã Đức Long), là “lối đi của thuồng luồng” (!).

Trên bờ có hai công trình kiến trúc đồ sộ là đình Mỹ Xuyên và đền Thánh Mẫu thường gọi đền Cả. Đình Mỹ Xuyên dựng năm 1848 có 9 gian, trước có cây đa, bến nước, bờ đối diện là dăm cắm cờ trong các dịp hội hè. Đền Thánh Mẫu (đền Cả) dựng giữa thế kỷ XV là ngôi đền lớn nhất xã Đức Lập, có ba tòa thượng, trung, hạ điện nguy nga. Đền thờ Bạch Ngọc hoàng hậu. Hai tòa kiến trúc cổ kính đứng giữa một vùng phong cảnh đẹp, sơn thủy hữu tình…, như câu đối đền Cả ngợi ca:

“Dĩ lĩnh bách niên căn bản tráng; Hao xuyên thiên cổ phái lưu trường” (Rú Dẻ trăm năm hùng tráng đó, Khe Hoa nghìn thuở vĩnh trường đây)

Ở Mỹ Xuyên xưa có nhiều hội hè, vào dịp đầu xuân và những ngày tế lễ, rước thần, với nhiều hoạt động văn hóa dân gian: hát sắc bùa, hát tuồng, hát chèo, đánh cờ thẻ, thi vật… Đặc biệt có hội hát Ghẹo và lễ “mở đầu” được tiến hành cách nhau chỉ một tháng vào dịp cuối xuân, đầu hạ.

Hội hát Ghẹo mở vào tiết thanh minh, thường kéo dài đến 4 ngày, bên bàu Mỹ Xuyên. Hát Ghẹo (ở Mỹ Xuyên còn gọi là “hát trêu hát ghẹo”) thật ra là lối hát ví giao duyên nam nữ quen thuộc mà ta đã biết. Ở Vĩnh Phúc, Bắc Ninh cũng có một số làng hát Ghẹo, nhưng không phải là hát ví Nghệ Tĩnh. Còn ở Nghệ An, vài nơi ở Quỳnh Lưu, Nam Đàn và nhất là vùng

Page 308: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

308

Thanh Lâm (Thanh Chương) thì hát Ghẹo cũng là hát ví như ở Mỹ Xuyên. Theo nhiều nghiên cứu Trần Đức Các, ở Thanh Lâm, hát Ghẹo có khi gắn với sinh hoạt, lao động thường ngày, nhưng đến mùa lụt thì trai gái rủ nhau chèo nốc (thuyền) tập trung ở vùng đồng Cừa để hát, “hát ghẹo nốc” tuyệt đối cấm đèn lửa, kể cả lửa để hút thuốc cũng vậy. Một cuộc “hát ghẹo nốc” thường có ba chặng: Hát thăm dò, hát vào cuộc, hát tạm biệt… Theo truyền ngôn thì “hát ghẹo nốc” vùng Thanh Lâm có từ đời Lê sơ thế kỷ XV (?).

Hội hát Ghẹo Mỹ Xuyên chưa rõ xuất hiện từ bao giờ, nhưng chắc chắn lâu đời, ở đây hát Ví đã rất phổ biến và được nhân dân, nhất là lớp trẻ ham thích. Hội chỉ là cách tổ chức cuộc hát có quy củ hơn. Nhưng hội hát Ghẹo Mỹ Xuyên phóng khoáng, tự do hơn, không quá gò bó như cuộc hát phường vải. Đặc biệt, hội hát Ghẹo hoàn toàn dân dã, không có nho sĩ tham gia hát hoặc gà chuyện như trong cuộc hát phường vải.

Vài câu hát dưới đây có thể chứng minh điều này:

- Anh đây thực người Mỹ Xuyên Buông câu, thả lái (lưới) đón gái thuyền quyên Đồng Hòa.

- Muốn soi cội quế cung trăng, Trời cao nghìn trượng, dám bắc thang, khó lòng.

Điểm khác nữa, “hát ghẹo nốc” ở Thanh Lâm và ví phường vải chỉ là sinh hoạt văn hóa đơn thuần, do những người tham gia tự nguyện và tự phát tiến hành, còn hát ghẹo ở Mỹ Xuyên lại là hội làng, được tổ chức định kỳ hàng năm, ở một địa điểm nhất định, (trước đền làng và đình Thánh Mẫu), có quy củ, mang tính chất nghi lễ thiêng liêng. Có thể thời xưa, trong hội có một nghi thức nào đó, biểu hiện việc cầu phồn thực mà về sau đã mất (?).

Thông thường, trước ngày hội, đám trai gái dự hát được tổ chức thành hai phe, chọn người giỏi đặt chuyện có kinh nghiệm, và người hát hay cầm đầu, chức dịch cắt đặt việc trang trí các thuyền, cắm cờ, làm lễ xin rước ngựa thờ trong đền ra bến tàu… và cử người cầm trịch (trọng tài) cuộc hát.

Từ sáng sớm, trống đình nổi lên, dân làng đã kéo ra đông đảo. Các phe hát ăn mặc chỉnh tề, tuy không lụa là, nhưng ai cũng trau chuốt. Phe gái xuống thuyền, phe trai trên bờ. Sau khi làng làm lễ cáo Thánh mẫu trong

Page 309: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

309

đền, cuộc hát bắt đầu. Đại để lối hát cũng có những phần hát dạo đầu chào mời (mặc dầu không phải lạ) rồi chuyển sang hát đố, đáp thi tài, phần này kéo dài nhiều ngày, cuối cùng là phần hát xe kết, như trình tự hát phường vải. Ở phần hát đố đáp thì nội dung rất rộng về bất cứ đề tài nào (đố đáp về nghề nghiệp, về phong cảnh, lịch sử, làng nước, đến đố truyện Kiều…).

Phe gái vừa bơi thuyền dưới bàu vừa hát, phe trai vừa hát vừa đẩy ngựa dạo trên bờ. Dân làng thì đứng kín lớp trong, lớp ngoài, mỗi khi có câu hát hay thì hò reo để cổ vũ. Những câu hát đều lành mạnh, nhưng cũng có những câu sỗ sàng của bên trai, và bên gái cũng trả miếng những câu không kém, làm cho người xem khoái chí, vỗ tay reo hò ầm ĩ… Cuộc hát càng kéo dài càng say, cho đến ngày thứ ba, thứ tư, chia tay, ai nấy vẫn còn lưu luyến…

Hội hát Ghẹo Mỹ Xuyên không chỉ lôi cuốn người trong làng, mà còn thu hút cả người các làng lân cận. Và không ít đôi trai gái đã trở thành vợ chồng qua hội hát ghẹo ở đây.

*

* *

Sau hội hát Ghẹo khoảng một tháng, Mỹ Xuyên lại có lễ “Mở bàu”. Bàu Mỹ Xuyên có nhiều cá, có rất nhiều con cá măng, cá gáy to. Làng có lệ cấm ngày thường không ai được đánh bắt. Đúng ngày mồng tám tháng tư hàng năm, làng “tháo khoán” cho mọi người ra bắt cá. Ngày ấy tự nhiên trở thành ngày hội.

Từ sáng sớm, chức dịch làm lễ cáo ở đền, rồi trống dong cờ mở, trẻ già trai gái lũ lượt ùa xuống bàu, nơi sâu thì đưa thuyền thả lưới, chỗ cạn thì tát, nhủi… Tiếng reo hò, cười nói vang dậy một vùng.

Theo lệ làng, ai bắt được con cá to nhất thì phải nộp lại. Chức dịch cho đưa con cá vào đền làm lễ tạ ân, rồi giao cho trai tráng mổ cá làm gỏi… Làm gỏi là lược lấy thịt cá, cắt thành từng thỏi nhỏ “vuông quân cờ”, trộn rượu, chanh và thính gạo giã nhỏ bóp thật kỹ cho cá “chín”. Khi ăn, người ta gói miếng cá vào lá thơm, chấm chẻo… Đây là món ăn ưa thích của dân nhiều nơi cũng như ở Mỹ Xuyên. Nhưng điều khác biệt ở Mỹ Xuyên, người ta ăn cá gỏi tập thể ở đình làng. Chức dịch, hào lão và một số dân

Page 310: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

310

đinh cùng nhau tham dự bữa tiệc cá gỏi hàng năm vui vẻ…, và tất nhiên đã là tiệc thì không thể thiếu rượu…

Điều lạ là lễ “mở bàu tháo khoán” bắt cá ăn gỏi lại quy định vào mồng tám tháng tư là ngày Phật đản (theo Phật lịch cũ, nay theo Phật lịch Tiểu thừa là rằm tháng năm âm lịch). Mồng tám tháng tư, đối với dân vùng Ngàn Phố, Ngàn Sâu là ngày “Cá gáy đi thi vượt Vũ Môn để được hóa rồng”. Người ta kiêng và nghiêm cấm không được đánh cá, nhất là cá gáy, vào những ngày này…

LỄ CẦU NGƯ VÀ HỘI ĐUA THUYỀN Ở NHƯỢNG BẠN

Xã Nhượng Bạn, huyện Cẩm Xuyên, nằm bên cửa Nhượng. Tương truyền, ở đất Kẻ La (Kỳ La) có người con gái là Hoàng Càn, làm cung phi vua Trần Duệ Tôn (1373-1377) xin cắt một rẻo đất mé biển cho dân chài lên ở. Về sau, người nhiều nơi, có cả người Bồ-lô (Pulô - người ở đảo) đến đây làm ăn, làng xóm trở nên đông đúc. Dân nhớ công ơn, dựng đền thờ bà làm Thành hoàng.

Ở Nhượng Bạn lại có truyền thuyết: Xưa có ông Đông Đạo chế ra bánh lái thay cho chèo cả của thuyền đi sông, đi biển, nên cũng được dân lập đền thờ bên cửa sông.

Nhượng Bạn ngày càng đông vui, thịnh vượng, cùng với dân đánh cá, còn có nhiều gia đình làm nghề chế biến hải sản, buôn bán lớn, được ca ngợi là “Nhất kinh kỳ, nhì Nhượng Bạn”. Xã có bảy giáp, nhưng có nhiều đình, đền, miếu (đền Cả, đền Thượng phủ, đình Giáp Xuân, đình Giáp Trung, đình Chợ Mai, miếu Ông, miếu Nhâm… chùa Yên Lạc), và có nhiều lễ lạt, hội hè (hội thi đấu kiếm, rinh (bê) đá, thi nấu cơm, kho cá, hội đấu cờ thẻ, cờ người, hội thi hát hò, kể vè nhật trình, hò chèo cạn v.v…). Nhưng quy mô nhất, thu hút đông người nhất vẫn là hội đua thuyền.

Hội đua thuyền được tổ chức vào rằm tháng sáu là thời gian thường biển lặng, sóng êm, trời đẹp. Hàng tháng trước ngày hội, làng họp cử 6 chủ thuyền đại diện cho các giáp, các lái, là những người được dân tin tưởng, có đủ phương tiện và năng lực…, đứng ra tuyển chọn các thuyền bơi của đơn vị mình. Các chủ thuyền lại gắp thăm, chọn màu làm cờ cho thuyền mình,

Page 311: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

311

và trở về chọn đủ 18 đến 20 trai bơi, người cầm lái, đánh trống, phất cờ…

Từ ấy cả làng rộn rã hẳn lên. Người ta lo sửa chữa hoặc đóng thuyền bơi mới. Đây là loại thuyền đánh cá thông thường, nhưng người ta chắp thêm đầu rồng, đuôi rồng ở mũi, lái, sơn vẽ, tạo thành chiếc thuyền rồng thật đẹp… Làng dựng một rạp lớn tại bến nước trên sông Lạc Xuyên. Trên sông cắm hai cây tiêu làm đích… Đường đua dài 2 đến 3km chia làm ba chặng đi về. Thuyền nào vượt ba chặng đua về đích trước thì giật giải…

… Đúng ngày hội, từ sáng sớm trống nổi lên, dân làng náo nức tập trung ra đình làng làm lễ cáo rồi rước thuyền thờ ra rạp. Đó là chiếc thuyền rồng nhỏ, trang hoàng đẹp đẽ, do bốn người khiêng, tượng trưng cho uy linh của Thần. Cờ quạt phất phới, trống chiêng vang dội, cuộc rước thuyền rất linh đình và trang nghiêm… Đám rước ra tới rạp. Trên bến sông đã đông nghịt những người. Làng làm lễ tế Thành hoàng (bà Hoàng Càn) và Tổ sư (ông Đông Đạo) trọng thể, rồi rước thuyền Thần từ rạp ra giữa sông để chứng giám cuộc đua thuyền…

… Các thuyền bơi đã dàn hàng ngang, sẵn sàng đợi lệnh. Trên mỗi thuyền, các tay bơi đóng khố, mình trần, đầu trùm khăn theo màu cờ của đội mình, tay cầm dầm bơi, ngồi thành hai hàng, gác dầm bơi lên mạn thuyền, người chèo lái, người cầm cờ, đánh trống đã vào vị trí.

Trống lệnh nổi lên, các thuyền bơi xuất phát lao trên mặt sông, tiếng trống thúc trên thuyền, tiếng hò reo trên bờ… cho đến trưa, cuộc đua kết thúc, làng trao giải cho đội thắng trận, rồi rước thuyền Thần về đình, làm lễ cáo tất. Sau cuộc đua thuyền hồ hởi, vui vẻ, dân làng đều tin rằng trong năm biển sẽ được mùa cá, người sẽ được yên vui.

TỤC THỜ NGƯ THẦN VÀ LỄ CẦU NGƯ Ở HỘI THỐNG

Hội Thống là làng biển nằm mé nam cửa Hội (cửa Đan Nhai ngày xưa), có nghề nông, nghề buôn nhưng nổi tiếng nhất vẫn là nghề biển. Ở đây, ngoài ngôi đình Kiên Nghĩa, còn có rất nhiều đền miếu, trong đó có ba ngôi miếu thờ “Nam hải ngư thần” (cá Ông) thường gọi là “đền Cố”, “đền Cô”, “đền Cậu”.

Page 312: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

312

Tục thờ Ngư thần ở nước ta đã có từ lâu đời134. Dân làm nghề biển mỗi lần ra khơi, gặp sóng to gió lớn, thường được cá voi tới cứu đỡ cho thuyền khỏi chìm135. Do đó người ta coi cá voi là “nhân ngư” (loài cá có lòng nhân), và gọi tôn là “Ông” (cá già thì gọi là “Cố”, cá nhỏ gọi “Cô”, “Cậu” như ở Hội Thống).

Người ta kể rằng: mỗi lần có cá voi chết, dạt vào bờ, thì ai gặp đầu tiên, phải đi báo cho lý trưởng. Lý trưởng loan báo cho cả làng sửa soạn lễ tống táng và trình lên quan sở tại. Dân làng phải góp tiền bạc mua hàng trăm chiếu mới về làm “áo quan”136, và sắm các lễ vật cần thiết. Sửa soạn xong, làng định ngày giờ làm lễ an táng.

Cả nhà người bắt gặp “Ông Ngư” đầu tiên phải là chủ tang, quần áo sô gai, đàn ông “mũ gậy”, đàn bà áo chế khăn ngang như đối với cha mẹ vậy. Nhưng người ta coi đó là con phúc. Dân làng phải chia nhau sắp xếp việc tống tang, làm đám theo sự phân công của lý dịch. Ai sơ suất phải chịu phạt vạ theo lệ làng. Chức sắc phải lo viết văn tế, phân việc tang lễ đúng theo nghi thức.

Nếu là “Ông Ngư” nhỏ, người ta gánh về một nơi thuận tiện. Nếu “Ông Ngư” quá lớn, người ta phải để tại chỗ.

Người ta đào cái hố sâu cạnh thi thể “Ông Ngư” trải kín chiếu xuống đáy, tìm cách đưa dần “ông” xuống, đắp kín chiếu lên mình, sau đó mới đắp đất cát lên thành mộ. Chôn cất xong, làng xã làm lễ ngu tế, ba tuần rượu, có điển, độc, có tế văn…

Từ đó chủ tang phải cúng tam ngu (ba ngày) và làm các lễ chung nhất

134 Có người cho là từ đời Gia Long (1802-1820). Vì trong thời bôn ba Nguyễn Ánh đã được Cá Ông cứu khi thuyền lâm nạn, nên lên ngôi, vua ra lệnh phải thờ Cá Ông. Thật ra thì tục thờ Cá Ông đã có từ lâu đời của cư dân miền biển. Việc vua Gia Long ra lệnh thờ chỉ là nhắc lại, pháp lý hóa mà thôi. Vì vậy đời Nguyễn cũng phong sắc thần cho Cá Ông. 135 Sự thật thì lúc sóng gió, cá cũng tìm đến chỗ có thuyền để ẩn, và do cá to lớn nên cũng đỡ cho thuyền khỏi lật. 136 Người ta kể rằng có con cá lớn phải đắp tới 100 chiếc chiếu mới kín. Sau khoảng vài ba năm, người ta làm lễ “cát táng”, bỏ hài cốt vào hàng mấy chục tiểu sành, nếu là cá nhỏ, còn cá lớn thì phải xây hầm để chứa.

Page 313: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

313

(49 ngày), tốt khốc (trăm ngày), tiểu tường (giỗ đầu), đại tường và đàm tế (giỗ đoạn tang) theo đúng nghi lễ. Nếu nhà nghèo thì làm đơn sơ, nhưng cũng phải đầy đủ. Sau ba năm, làng mới “bốc mộ” xây lăng, lập miếu thờ… (Trên đây là tục chung của dân miền biển, nhưng mỗi nơi có thể có khác biệt đôi chút).

Lễ cầu ngư của cư dân Hội Thống tổ chức hàng năm (hoặc ba năm một lần), trong bài văn tế ở miếu Ngư thần, thấy chép lễ ấy là vào mồng ba tháng hai âm lịch.

Từ đầu năm, các lái họp bàn về việc đóng góp, và cử ban “chịu việc” (thụ dịch) và ban hành lễ gồm những người khả kham và được tín nhiệm nhất. Lễ đặt mỗi nôốc (thuyền) phải đóng 10 quan tiền… Trước ngày lễ, mọi việc chuẩn bị đều hoàn tất.

Trên cạn, người ta dựng rạp ở bên luồng hay ở bãi biển, gọi là nơi dẫn lễ, rạp cao 7 thước năm đến 8 thước (khoảng 3m), dài, rộng 15 thước (6m), ngoảnh mặt ra biển. Mái và ba phía rạp đều dùng buồm thuyền che kín. Trong rạp, chính giữa là bàn đặt lễ vật, trên vách treo nhiều bức tranh thờ. Ở cồn Tiên Hiền và các miếu Ngư thần đều bày mâm lễ vật và đèn nhang.

Dưới nước, người ta kết bốn chiếc thuyền vào nhau, lót ván sàn thành một sân gỗ rộng, trên đặt bàn thờ. Các đồ đặt lễ vật, hương đèn đều bằng nứa, hương cắm vào những khúc chuối. Trên bàn thờ có con lợn luộc đặt trong mâm, và xôi gà, trầu rượu trong một mâm khác. Các lái (chủ thuyền) đều đưa đến cúng mỗi nhà một mâm oản…

Trong rạp cũng như trên thuyền, cỗ bàn đều đặt hướng đông, thầy cúng cùng mọi người ngồi hướng tây, ngoảnh mặt ra biển. Trống chiêng, nhã nhạc nổi lên, lễ tế tiến hành nghiêm trang đúng theo nghi tiết thông thường. Riêng văn tế Ngư thần đã có bài soạn sẵn. Bài này chép trong tập Văn tế của xã Hội Thống đề là “Cạnh độ cầu ngư văn” (Văn tế lễ đua thuyền cầu ngư) - Theo bản thảo tập “Xã Xuân Hội - truyền thống và hiện đại” do PGS Vũ Ngọc Khánh chủ biên, thì bài văn đề là “Cồng ngư vạn canh trạo cầu ngư kỳ yên văn”, và có một số chức khác biệt. Như vậy là trong lễ tế cầu ngư cũng có cuộc đua thuyền (cũng theo tài liệu trên thì hội bơi thuyền của xã tổ chức ở xóm Đình).

Page 314: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

314

HỘI CHỢ TẾT Ở THỊNH XÁ

Làng Thịnh Xá thuộc tổng Yên Ấp, nay là xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, nằm bên bờ sông Ngàn Phố, ở đây có chợ Bè là chợ chuyên buôn bán lâm sản và hàng chế biến từ lâm sản. Dưới sông thì thường xuyên có người mua bán gỗ, củi, tre, nứa…, còn trên bờ thì hàng ăn, bánh kẹo lúc nào cũng có sẵn. Mỗi tháng ba phiên họp vào những ngày 2, 12, 22 âm lịch, còn có thêm hàng đồ gỗ (guốc Thịnh Xá, đồ thờ Thái Yên…) hàng tre mây (đó, lừ, nhủi, sáo, đăng… của Thịnh Xá và một số nơi khác ở Hương Sơn, Đức Thọ…). Chính ở chợ Bè này, thời kháng chiến chống Pháp, một người dân Thịnh Xá, ông Đinh Vị thường gọi Cu Hai, đã sáng tạo ra loại kẹo lạc “Cu đơ” nổi tiếng…

Ở Thịnh Xá còn có một loại chợ đặc biệt, mỗi năm chỉ họp một phiên vào 19 và 20 tháng chạp. Đó là một loại “hội chợ văn hóa” hiếm thấy do một số nhà hằng tâm, hằng sản đứng ra giúp xã tổ chức. Chợ họp ở địa điểm chợ Bè, nên có người cũng gọi là chợ Bè.

… Từ nửa tháng trước, người ta đã bắt đầu chuẩn bị hội chợ. Trên bãi mé sông Phố, lần lượt từng dãy lều quán mọc lên. Cuối bãi dựng một sân khấu lớn, trang trí thật đẹp… Ngày 17, mọi việc đã hoàn tất, lẻ tẻ đã có người xa về đi chợ và sáng 18 thì chợ bắt đầu đông.

Về chợ không chỉ là người hàng xã, hàng tổng, mà cả hàng huyện, lại người từ Nghi Xuân, Can Lộc, Đức Thọ lên, từ Hương Khê xuống, từ Nam Đàn sang, từ Vinh vào và cả từ Quảng Bình ra.

Hàng hóa đủ thượng vàng, hạ cám, từ chợ Vinh, chợ Thượng, chợ Ba Đồn… theo đường sông, đường xe lửa… đến. Vải vóc, tơ lụa, hàng mộc, hàng sắt, hàng tre đan, nón, chiếu… từ các nơi đưa về, quạt giấy, guốc gỗ của Thịnh Xá sản xuất; hàng ăn, sống thì thịt cá, rau, quả, miến bột, mật đường, nếp, đậu, gạo, kê… và cả trâu, bò, dê, lợn; chín cũng không thiếu thức gì: Cơm, cháo, bún, bánh, giò chả… lại có cả thịt nai, lợn rừng… Hoa quả có sẵn của vườn Hương Sơn; chuối, bưởi, cam, quýt, phật thủ, thanh yên… lại giấy mã, tranh tết…, lại kẹo, bánh, đồ chơi… pháo tép, pháo đùng, pháo thăng thiên… dưới sông vẫn còn đủ loại hàng lâm sản thường ngày: gỗ, nứa, lá tro.

Trên bộ, dưới thuyền tấp nập, mua bán nhộn nhịp, trống đánh, pháo nổ

Page 315: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

315

vang dội suốt hai ngày. Nhưng mua bán chỉ là một phần hoạt động của chợ phiên, mặc dầu khối lượng hàng hóa được tiêu thụ khá lớn…

Đối với dân Thịnh Xá và vùng xung quanh thì chợ phiên là dịp đi chơi, thưởng thức hương vị tết, sống trong không khí hội hè. Từ sáng sớm, cả làng, cả xóm náo nhiệt hẳn lên. Ông già, bà lão, trai thanh gái lịch, vợ chồng con cái… đều quần áo đẹp đẽ, ô dù mũ nón, dép guốc sang trọng, lũ lượt kéo nhau ra chợ. Người ta cũng mua sắm một ít hàng tết, nhưng dạo chơi là chính. Có người lao tới đám đánh cờ, đánh bài… mua vui… Có người sà vào quán rượu, cùng bạn bè xa gần gặp gỡ. Trẻ con thích nhất là các thứ kẹo lạc, kẹo bột, và các đồ chơi dân dã: con “gục gặc”, người “nhảy dây”, cái kèn đất, voi ngựa bột… Còn đám trai gái thì dắt nhau đi xem hàng, đi trò chuyện riêng tư. Đối với lớp trẻ, phiên chợ tết cũng là phiên “chợ tình”. Rất nhiều cặp vợ chồng được xe kết với nhau từ hội chợ phiên này…

Buổi tối, đèn lửa sáng trưng, một số hàng vẫn có người mua bán, nhất là các quán ăn lại càng tấp nập hơn, nhưng người ta tập trung đông đảo trước sân khấu để xem diễn trò… Tiếng trống, tiếng hát dội cả một vùng ven sông cho đến đêm khuya.

Page 316: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

316

CHƯƠNG IX

VĂN HÓA PHỤC TRANG VÀ ẨM THỰC

Đất Nghệ Tĩnh vốn nghèo. Người Nghệ Tĩnh sống giản dị, cần kiệm, chuộng “ăn chắc mặc bền”. “Mặc không hoa hòe” (Phục vô văn tú) và ăn thì “Thịt cá là hương hoa, tương cà là gia bản”…

Nhưng từ xa xưa, ở Hà Tĩnh - vùng nam xứ Nghệ, đã có một làng làm nên lụa Hạ và nón Hạ quai thao nổi tiếng cả nước, có giò lụa chợ Tỉnh, bánh tày quán Voi, có bánh lọc, bánh trong, có kẹo “Cu Đơ”, có “hồng Đông Lỗ, cỗ Đại Tiết”… được thiên hạ biết đến.

CHIẾC VÁY VÀ PHỤC TRANG THỜI CẬN ĐẠI

Trước khi nói về phục trang thời cận đại của người Nghệ Tĩnh, xin kể chuyện chiếc váy, thứ đồ mặc đặc trưng của phụ nữ.

Váy, tiếng Nghệ Tĩnh là “mấn”. Thời xa xưa là kiểu “váy ống”, không có dải rút, lúc mặc phải cột vận lại cho chặt, do đó có câu:

“Hình như cái trống, thồng lộng hai đầu, Nghệ Tĩnh thì có, kinh cầu thì không”.

Đầu thời cận đại, người ta mặc váy có dải rút gọi là “váy nơm”. Người giàu sang thì váy lụa đen dài đến cổ chân, có khi phủ tận mắt cá. Người nghèo, có khi cả nhà giàu, thì váy vải to khổ hẹp nhuộm nâu bầm, nhúng bùn áo cho đen nháng, dài đến cổ chân, khi làm lụng xắn cao đến đầu gối. Loại váy này thường may bốn khổ rưỡi hoặc năm khổ vải hẹp, gọi là “mấn bốn dạu rưỡi”, “mấn năm dạu”. Có người chuyên may, nhuộm sẵn để bán. Người ta nói đùa về chiếc váy nhuộm nâu trát bùn: “Dựng lên, lấy gậy đập (đánh) không bổ (ngã)” vì rất dày, rất cứng. Thế nhưng nhiều người vẫn

Page 317: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

317

không mua sắm nổi. Có người phải may quá đầu gối một chút, gọi là “mấn cộc”. Có người phải vá đụp nhiều lớp, gọi là “mấn cập”.

Đầu thế kỷ XX, đàn bà con gái thích mua vải thâm về may, váy vừa nhẹ, vừa đẹp hơn. Có điều mặc váy nhuộm nâu, người ta vẫn trau cho nháng, cho mượt.

“Thiếu chi sợ (thợ) mộc, sợ (thợ) nề, Mà em mượt mấn đi ve sợ (thợ) rèn.”

Xung quanh chiếc váy (mấn) có nhiều câu hát châm chọc, nhiều mẩu chuyện vui cười.

Chuyện cố Bợ - một người sác lạc - sở dĩ xuất hiện ở xứ Nghệ chỉ vì đàn bà mặc váy… Chuyện thầy đồ ra cất quần áo ngoài sân cho chủ nhà khi trời đổ mưa, sợ cái váy “bẩn” không dám cầm, bèn lấy sào khêu, và… váy tụt xuống trùm lên đầu… Chuyện thầy đề về làng, tịch biên gia sản nhà kia, kiểm kê để lập biên bản, thấy chiếc váy nâu, không biết ghi chữ gì, đành chừa trống một dòng… Về nhà, nghe đứa bé hàng xóm học bài, có chữ “thọ” là sống lâu, nhưng nó nói đớt (nói ngọng) thành “thọ là xống nâu”. Thầy mừng quá liền ghi vào chỗ trống trong biên bản: “Thọ nhất bức”. Quan huyện xem, bảo thầy đề gói riêng vật ấy lên nộp quan. Thầy đề hoảng quá, thưa là “vật ấy nhớp”. Quan lại cho rằng thầy muốn cuỗm, xẵng giọng: “Nhớp sạch thì can chi đến thầy, đã bảo nộp thì cứ nộp, còn lôi thôi gì nữa!”. Thầy đề đành tuân lệnh… Và chuyện ra sao thì mọi người đều đoán được… Lại chuyện một người đàn bà ở Giang Đình mất cái váy. Bà ta tiếc của, hai ngày liền ra ngõ chửi bới đứa ăn trộm… Anh đồ Củng (Nguyễn Công Trứ) vừa thương, vừa ghét thói chua ngoa của bà ta, liền làm bài thơ “Mất mấn”, có mấy câu:

“… Bữa trước ra đi còn có bận, Bây giờ ngồi ngó lấy gì che? Thương thay lạnh lẽo ba mùa rét Tội nhỉ trần truồng một nố tê…”

Cũng có chuyện cười ra nước mắt. Ấy là năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), nhà vua có dụ: “Tục cũ con trai đóng khố, con gái mặc áo giao lãnh, (có lẽ là áo ngắn, hở lườn (?), dưới mặc váy… Nếu sang năm có

Page 318: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

318

người mặc theo lối cũ thì quyết trị tội”. Cái lệnh ấy làm cả xứ Nghệ nhốn nháo lên. Người giàu thì mặc quần không quen, ngượng nghịu. Người nghèo thì không có tiền may. Đến nay còn có câu ca về chuyện ấy:

“Tháng tám có chiếu vua ra Cấm quần thủng đáy người ta hãi hùng. Không đi thì chợ không đông, Đi ra bóc lột quần chồng sao đang!”.

Gia phả họ Nguyễn làng Đông Thượng (Can Lộc) còn chép câu chuyện, đại ý: Ngày ấy bà Can (Cao tổ tỷ) đi chợ, vẫn mặc váy, bị mấy tên lính huyện bắt. Đối với những người khác chúng làm dữ, có khi lột phăng ném váy vào lửa. Nhưng thấy bà Can có máu mặt, nên chúng đưa bà về một nhà họ Phan để vòi tiền. Bà nhanh trí, một mặt nhờ người mua rượu thịt khoản đãi chúng, một mặt nhắn người nhà đưa quần đến… Khi bọn lính ăn xong thì bà đã thay váy, mặc quần…, chúng đành chịu…

Về trang phục phụ nữ, sau chiếc váy, cần nói về cái yếm mà người Nghệ Tĩnh gọi là “ướm”.

Yếm là chuông vải trắng, vải nâu, sang trọng thì nhiễu trắng, nhiễu đào, một góc khoét “cổ đuôi én” hoặc “cổ tròn”. Nếu là cổ tròn, người ta may sẵn một đường viền tròn, rộng khoảng mươi ly, rồi may đính vào cổ yếm, gọi là “xây cổ ướm”.

“Ai xây cổ ướm em tròn, Cho em càng đẹp càng giòn thêm ra”

Hai bên cổ yếm đính hai dải nhỏ vải cùng màu để buộc vào sau cổ, còn hai bên góc phía dưới may kết thêm hai dải dài đủ để vấn ra sau lưng rồi vòng thắt lại trước bụng. Sang thì dải yếm bằng lụa trắng, hoặc hoa lý, rất dài vấn từ sau lưng ra phía sau, rủ xuống tới dưới đầu gối. Một câu hát trống quân ngoài Bắc: “… Bắc cầu dải yếm mời chàng sang chơi”. Ở Nghệ Tĩnh thì có câu đố về cái yếm (ướm):

“Con ngài (người) thì tóm (gầy) lang nhang, Tay ôm lấy cổ, chân quàng lấy lưng”.

Ngoài dải yếm, người khá giả còn thắt dây lưng (gọi “chạc lưng”) sồi lụa đậu màu mỡ gà, cũng thả hai múi phía trước xuống quá đầu gối, khi đi,

Page 319: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

319

dải yếm, dây lưng cùng bay phất phới trước gió.

Chuyện về “sự tích dây lưng” kể rằng: Con gái thuở trước thân hình to béo, nặng nề, nên rủ nhau vào rừng tìm nàng Chúa Ong để hỏi cách làm đẹp. Chúa Ong cho mỗi người một sợi dây rừng, bảo quấn chặt vào bụng. Các cô gái về đến nhà thì thấy eo thót lại. Từ đó con gái dùng dải lụa vấn quanh bụng để giữ độ eo. Dải lụa ấy gọi là “dây lưng” và cũng từ đó có thành ngữ “thắt đáy lưng ong”.

Xưa, áo cánh phụ nữ ngắn cũn cỡn, chỉ đến mấp mé eo lưng, mặc bó sát người, ống tay cũng rất chặt (gần như áo phụ nữ Mường hiện giờ), thường là cổ viền, cổ đứng hoặc cổ thìa, có một, hai khuy hoặc một, hai cặp dải để buộc hai thân trước với nhau. Do yếm và áo đều ngắn nên để hở một mảng bụng, gọi là “hở lườn” - “Đàn bà mặc ướm hở lườn mới xinh”. Về sau, áo cánh được may dài, rộng hơn. Nhà giàu ngày thường cũng mặc áo vải to, để trắng hay nhuộm nâu như người nghèo, chỉ khi đi chợ, đi đám đình mới diện đồ tơ lụa. Còn nhà nghèo thì suốt đời chỉ mặc áo nâu - xưa nhuộm nâu bầm, về sau nhuộm nâu non, màu sáng và cũng để tỏ ra không lòe loẹt:

“Tưởng là áo trắng có duyên, Nỏ hay áo trắng không tiền mua nu (nâu).”

Ống áo chặt, khi làm việc không xắn lên cao được, nên thường rách trước, vai cũng rách sớm vì gánh, vác, nên phải “thay tay”, “thay vai”. Nhưng con gái nhà nghèo cũng có cách làm đẹp của họ, áo nâu thay tay vải trắng, thay vải đen hoặc vải khác màu một tí cho nổi. Có khi thay vai trở thành “mốt”, nên nhiều người áo chưa rách cũng cứ thay.

Nhà trung lưu trở lên, nhất là nhà có học, ngày thường phụ nữ cũng mặc áo dài năm thân cổ đứng, thường may bằng vải nhỏ nhuộm nâu non, hoặc vải thâm, hai vạt trước buộc chéo rủ xuống trông rất duyên dáng, khi làm việc thì vấn ra buộc sau lưng cho gọn. Nhà giàu sang ai cũng có bộ áo dài “mớ ba” bằng lụa mỏng, gồm ba chiếc ba màu tím nhạt, xanh nhạt, hồng nhạt, mặc khi đám đình, hội hè.

Con gái lớn lên thì bới tóc, chít (vấn) khăn, người khá giả khăn nhiễu, khăn nhung, nghèo thì dùng vải nâu, vải thâm (người có tang dùng khăn trắng). Người ta chải tóc, nắm thành một lọn, quấn khăn bên ngoài rồi vấn lên đầu… Tóc quấn vào khăn thường chừa đoạn mút cuối, gọi là “seo gà” -

Page 320: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

320

“Một thương tóc bỏ seo gà…”. Có nhiều người trùm khăn mỏ quạ, một số người để tóc vấn trần.

Ngoài quần áo, phụ nữ còn làm đẹp bằng các đồ trang sức. Phổ biến nhất là đeo trằm, giàu thì trằm vàng, tầm thường thì trằm bạc, trằm mã não. Đầu thế kỷ XX, người giàu sang không đeo trằm mà sắm khuyên, hoa tai vàng…, cá biệt có người đeo vòng (kiềng) vàng, nhẫn vàng. Các bà đi đám đình còn đeo bộ xà tích bạc hay mạ bạc ở thắt lưng… Trầu thuốc bỏ vào cái đãy nhỏ hoặc gói vào mảnh khăn vuông, cũng giắt ở dây lưng.

Ngày thường đi làm đồng, đi chợ… đàn bà cũng như đàn ông đội nón chóp - nón Thượng (nón làng Thông ở Việt Yên Thượng), nón chợ Cồ (ở Trung Tiết). Về sau, người ta đội nón chóp Ba Đồn, nón chóp Đan Du, Ba Giang (du nhập từ Huế)… Nón Hạ quai thao (nón bằng), sản xuất ở làng Yên Hội, xã Việt Yên Hạ, chỉ dùng khi hội hè, đình đám. Nhưng nhiều người vẫn đội nón bằng loại thường, quai vải hoặc quai mây khi đi chợ, đi chơi…

Phụ nữ nông thôn đều đi chân đất, thỉnh thoảng mới có bà đi dép da trâu mỏng, một quai móc vào ngón chân như kiểu dép phu xe kéo. Có người đi đường xa, dùng miếng mo cau buộc vào bàn chân cho đỡ rát. Về sau, lớp trẻ, trước hết là nữ viên chức, học sinh, đều đi guốc nhón, sang thì xăng-đan cao gót…

*

* *

Đàn ông xưa để tóc dài, búi tó - “bối cổ (củ) hành”. Mùa nắng, ngày thường ở trần, đóng khố. Về cái tóc, các nhà nho giải thích rằng đó là khí huyết của cha mẹ, con không có quyền cắt bỏ. Nhưng với đa số người thì đó là quan niệm về cái đẹp: Đàn ông, cũng như đàn bà phải “tóc dài, ngài (mới) đẹp”. Đầu thế kỷ XX, có cuộc vận động cắt cái búi tóc “cổ hủ” ấy, nhưng ở Nghệ Tĩnh, nơi phong trào Duy Tân rất mạnh, mà nhiều người vẫn khư khư giữ cho được. Đến sau cách mạng (8/1945) một số cụ già vẫn búi tóc.

Còn đóng khố thì sách cổ xác nhận: “Ai cũng đóng khố cả… người đi cày không mặc quần (mà đóng khố)”, dù ở nhà hay ra đường, ra đồng.

Page 321: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

321

“Đàn ông léo khố đuôi lươn” là đẹp và sang. “Khố đuôi lươn” dài, vấn để thừa một đoạn thõng xuống tận lè, như cái đuôi. Người giàu còn dùng khố vải rộng khổ, có cải hoa, đi đâu phải có người gánh khố đi theo để thay đổi, nên có câu “Gánh khố đi vật”. Người nghèo vấn khố vải khổ hẹp, gọi là “khố chạc”, có lúc khố rách phải cắt nối nhiều đoạn với nhau, gọi là “khố nối”. Bọn “khố chạc”, “khố nối” chỉ người nghèo. Như vậy, đóng khố là một cách ăn mặc, giống như đồng bào Tây Nguyên hiện nay. Sau những năm ba mươi thế kỷ XX, chỉ có những đô vật khi ra xới mới đóng khố.

Áo đàn ông là kiểu áo năm thân, khuy cài bên nách, cổ đứng. Đầu thế kỷ XX, người ta mặc áo tứ thân, cài khuy trước ngực, cổ đứng hay cổ viền, gọi là “áo khách” (giống áo người khách trú). Loại áo khá dài, cổ đứng cao, gọi là áo “cổ y”, có lẽ du nhập từ ngoài Bắc. “Mừng chàng mặc áo cổ y - Đường kim mũi chỉn (chỉ) thậm chi tài tình”.

Quần thì ống ngắn đến cổ chân, cạp quần cao đến 10 - 12 phân để kéo múi cột thắt trước bụng, hoặc cột một sợi dây, hay vấn dây lưng, bỏ lá tọa. Dây lưng vấn quanh người, cột múi trước bụng bỏ hai múi dài xủ đến đầu gối. Áo dài mặc ngoài cũng là áo năm thân, dài quá đầu gối, áo của người giàu thường nhuộm nâu bầm, dày cộp.

Ngày thường, đàn ông để đầu trần, khi nhà có cúng đơm, khách khứa, đám đình, hoặc ra làng xã, mới vấn khăn. Khăn vải đen, vải nâu, sang thì khăn nhiễu, khăn lượt, về sau đội khăn đóng (khăn đính)… Các ông già có khi vấn khăn vải đỏ. Thợ thủ công, dân đi rừng, dân chài thường chít khăn thủ rìu, kể cả khi đi đám đình, khi ra làng xã.

Dân dã suốt đời quần áo nâu, có khi để vải mộc (trắng) hoặc vải thâm. Quan lại nhỏ, chức dịch, nho sĩ, nhà giàu, ở nhà ngày thường cũng mặc như dân dã, chỉ khác là dùng loại hàng tấm sang trọng hơn (nái mộc hoặc nâu, lụa mỡ gà, lụa da bài…) và may dôi dài hơn. Nhưng khi ra đường, đi làm việc, hội họp, tế lễ… thì ai cũng mặc áo dài thâm bằng lụa, lương, gấm… mùa rét thì áo dài kép xa-tanh lót nhiễu xanh…

Đoạn vè dưới đây nói về trang phục của một anh đồ nhà khá giả cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX: “Mở rương ra - Lấy áo the hoa - Cha Đồ mặc - Mệ Đồ mặc - Quần lụa Hạ mới cắt - Áo lương Hạ mới may - Của thầy mẹ mới cho đây - Khi đi thi, đi khóa - Khi đi làng đi xã - Đã có áo nu (nâu)

Page 322: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

322

bầm - Đã có áo kép thâm - Hãy đang còn lên nước…”.

Che nắng, che mưa thì có nón, tơi. Xưa kia, người ta đội cái lịp, một loại nón tự tạo, trên dưới là hai liếp đan hình chóp, ở giữa lót lá. “Ngồi buồn giở đến lịp tơi càng buồn” (Nguyễn Du). Về sau, đàn ông, đàn bà ra đồng, ra đường đều đội nón chóp bẹt (nón Thượng tức nón làng Thông ở Đức Thọ, nón chợ Cồ ở Thạch Hà). Khoảng 1920 về sau, một số người buôn bán đội nón Lứ, nón Ba Đồn, nón Huế, rồi nón Huế du nhập Đan Du (Kỳ Anh), Ba Giang (Thạch Hà), liền được nhiều người chuộng. Nhà nho, chức dịch giàu sang đội nón Gò Găng, cá biệt có người đội nón lông (chim), nhiều người đi ô lục soạn.

Ở Hà Tĩnh có hai loại tơi. Các huyện phía ngoài dùng loại tơi chằm bằng lá tơi già (lá non dùng lợp nón), cổ thắt sợi dây bện, mang vào trông bù xù như con nhím. Các huyện phía trong dùng tơi chằm bằng lá tro kè, mang gọn gàng. Vùng này có thói quen không chỉ mang tơi che mưa mà còn che nắng. Mùa hè đi làm đồng, đàn ông thường cởi trần mặc quần cụt, đàn bà mặc váy áo ngắn, và mang tơi, vừa mát, vừa tiết kiệm quần áo… Thời xưa, các quan lớn đi mưa cũng phải mang tơi lá như dân thường. Cụ Ngô Thì Nhậm có lời dẫn đầu bài thơ “Vũ y” (Áo mưa): “Ngày mồng tám tháng chạp năm Đinh tỵ (1797) buổi chầu sáng, trời mưa như trút, tôi mặc áo tơi mà đi vào. Qua cung Tây Kỳ, gặp hoàng đệ là Thái tể công đón đường hỏi, tôi đứng giữa trời mưa, để nguyên áo tơi nói chuyện. Có người không biết, tưởng là hai ông già nhà quê”.

*

* *

Cái lệnh “cấm quần thủng đáy” của vua Minh Mệnh không mấy kết quả, sau khi nhà vua chết thì đâu lại vào đấy, nhưng ít nhiều cũng có tác dụng thay đổi nếp nghĩ của người Nghệ. Dần dần, người ta cho rằng “ăn Bắc, mặc Kinh” là sang, là đẹp. Nhưng phải đến đầu thế kỷ XX, người Pháp tiến hành khai thác thuộc địa, tỉnh lỵ Vinh, Hà Tĩnh và các phủ, huyện lỵ mở mang, đường sắt, đường bộ đi qua nhiều vùng hẻo lánh, một đội ngũ tân học ra làm công nhân, viên chức hoặc buôn bán… thì việc ăn mặc mới từng bước thay đổi, từ thành thị, ảnh hưởng dần ra. Lúc này đã có máy khâu, quần áo được may đẹp hơn. Tuy nhiên ở nông thôn vẫn còn

Page 323: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

323

phải may tay, có những người giỏi vá may, có thợ chuyên may quần áo cưới.

Phụ nữ mặc “áo chít quần chin”, áo cánh không còn ngắn cũn cỡn, hở lườn, mà dài hơn, che kín lưng, bụng; ống tay cũng rộng thêm, cửa tay có xẻ để cài khuy bấm, rồi rộng dần không cần xẻ cửa tay nữa; cổ thìa vẫn còn nhưng thay dần thành cổ tròn; hai vạt trước chít từ cổ xuống bụng bằng khuy bấm hoặc xà cừ. Như vậy cái yếm không còn lý do tồn tại, dần dần được thay thế bằng cái “coóc-xê” (corset) rồi cái “xu-chiêng” (soutien-gorge). Quần phụ nữ cũng may đũng chéo rộng như quần đàn ông, chỉ khác là cái dải rút, về sau khoét đũng ở giữa, sít sao, gọn và đẹp hơn. Áo thường may bằng vải cát bá, “phin”, lụa trắng hay nhuộm nâu non; Quần nái, lụa đen hay lĩnh, “xa-tanh” (satin = đoạn, vải láng). Con gái mặc áo cánh trắng, quần lụa thâm trông rất xinh đẹp. Người đứng tuổi mặc áo dài năm thân, nhưng không cài khuy, người buôn bán thường thắt cái “bao bạc” bằng lụa ngãi ở lưng quần, để hai múi xủ ra trước. Nhiều người vẫn chít khăn hoặc vấn tóc trần, lớp trẻ thì cặp tóc, buông xõa sau lưng. Riêng nữ viên chức (giáo viên, y tá), nữ học sinh và những người có học thì mặc quần trắng (lụa, “cẩm cuốn”) và áo dài “tân thời” - kiểu áo do họa sĩ Cát Tường sáng chế, thường gọi áo “Lơ muya” (Le Mur).

Sự thay đổi y phục diễn ra từng bước, và chỉ ở trong bộ phận nhỏ. Riêng phụ nữ nông thôn thì vẫn ăn mặc như cũ, cái váy, cái yếm vẫn tồn tại đến mấy năm sau cách mạng tháng 8/1945. Có những cán bộ nữ lúc đến cơ quan thì mặc quần, nhưng về nhà vẫn mặc váy.

Vào nửa đầu thế kỷ XX, ở nông thôn đàn ông (cũng như đàn bà) chủ yếu đều mặc đồ nâu. Áo đàn ông phổ biến là loại “áo khách”. Lớp trẻ có học thích mặc quần áo trắng “hồ lơ” (tờ giấy màu xanh, hòa vào thau nước, đem quần áo nhúng vào, có màu trắng xanh).

“Mừng chàng quần áo mọi màu, Quần hồ lơ trứng sáo, áo trắng phau cánh cò.”

Viên chức, học sinh và người ở thành thị vẫn mặc quần trắng, áo dài (thâm hay trắng), rồi chuyển sang mặc đồ Âu: quần áo ngắn (đồ “xoóc” - short), đồ dài (com-lê - Complet), đội mũ “cát” (casque), đi dép xăng-đan hoặc giày da…

Page 324: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

324

Phải từ sau cách mạng nhiều năm mới có một sự thay đổi cách ăn mặc - một “cuộc cách mạng y phục” thật sự.

MỘT VÀI MÓN ĂN DÂN DÃ VÙNG SÔNG LA

Đức Thọ có tiếng “gạo trắng nước trong”, nhưng xưa kia lương thực chính của dân nhiều vùng lại là ngô, khoai. Đất bãi, đất đồng thì ngô nếp, ngô vang, khoai lang, khoai môn..., miệt đồi, núi có nưa, sọ, từ, vạc, sắn dây, sắn củ (loại sắn trắng, dẻo, người hạ huyện gọi là sắn thượng)… Khoai, sắn ăn tươi một phần, còn cắt lát, phơi khô dự trữ. Có nơi còn luộc múi mít tương, phơi khô làm lương thực. Gạo nếp và các loại đỗ chỉ để “ăn nhởi”, chủ yếu là dùng khi tết nhất, đám đình.

Thịt, cá không hiếm. Thịt lợn, thịt trâu bò… thì chợ lớn, chợ nhỏ đều có, nhiều nơi trong làng cũng có lò mổ. Vùng Kẻ Rạng (Lạng Quang), Kẻ Chay, Kẻ Nang (Hữu Chế) thường có thịt rừng (nai, mang, lợn lòi…). Chim thì ngoài gà vịt, còn có vạc, cò, cói, én, chim manh, mùa nào thứ ấy. Cá thì, biển lên có chim, thu, bù, cháy, trích, nục, thèn, thẩng…; sông có gáy, măng, chày, mè, mương, bống, ngạnh, chạch…; đồng có rô, tràu, dưng, giếc, leo…, và tôm, tép, dam (cua đồng), lươn, ếch, rùa… Lại có cả rươi, giắt ở vùng hạ lưu sông Cả chở đến bán rao. Còn hến là sản phẩm của sông Lam, sông La, hến Kẻ Thượng, Kẻ Cầu và hến vạn Cồn, vạn Sét (bên Nghệ). Hến là loại thức ăn phổ biến, ai cũng ưa thích, lại rẻ tiền, nên “Đi quanh về quắt không khỏi nước giắt Kẻ Thượng” (hay chợ Cầu, chợ Đò).

Ngày trước, trừ một số nhà giàu sang, người buôn bán hay làm nghề dễ kiếm ra tiền, khi giỗ tết, nhà có công chuyện, người ta mới mua thức ăn đắt tiền. Còn thì, từ người cày thuê cuốc mướn, cho đến nhà ruộng sâu trâu nái, đều coi “Thịt cá là hương hoa, tương cà là gia bản”.Cho nên, nhà nào cũng có các loại đồ mặn muối trường: Cà thì cà pháo (cà Nghệ) là nhất, ngoài ra còn có cà dừa, cà tứ thời; Dưa cải, dưa non (dưa hồng); Nhút mít non, ngọn đỗ ngon hơn cả, có khi muối cả muống, dênh (dền), rau vác, rau choóc (ở bãi bồi), và củ chuối, trái sung, trái ráng, thân cây đu đủ… Có chất hơn là các loại nước: Nước tương (đỗ), nước mắm (cá biển) không phải ai cũng có điều kiện chế biến, còn nước dam (cua đồng), nước cáy thì nhà nào cũng có. Nhiều người làm được nước mắm cá đồng, ruốc tép đồng,

Page 325: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

325

ruốc rươi.

Thức ăn bốn mùa là rau: cải, muống, dênh (dền), bầu, bí, cà, mướp, đỗ dải (đỗ đũa), đu đủ, chuối xanh, dưa non, măng tre… cho đến hẹ, mùng tơi, rau ngót, bồng ngọt, cà kiu… Nhưng khi lụt lội, hạn hán, đói kém thì cũng không dễ có: “Đói thì rau má, rau khoai”, và cả rau trai, đọt mưng (lộc vừng), cộc (củ) chuối… Song, nếu có “Cá lẹp mà kẹp rau mưng, (thì) Ông ăn to mánh (miếng) mụ trừng mắt lên”. Củ chuối muối làm nhút, lại cũng chế biến là nham (nộm), trộn tí lá chanh thái nhỏ vào cũng thơm ngon, vừa là rau lại vừa là “cơm”. Củ chuối cũng đã vào thơ Phan Điện: “Một tháng lấy đầu ba lão sứ” (chuối sứ, ám chỉ công sứ Pháp).

Các món ăn chế biến thịt cá, rau quả thì ở Đức Thọ cũng có đôi phần kỹ thuật, kỹ xảo riêng, nhưng đại loại cũng như ở các huyện trong tỉnh, trong vùng. Ở đây, xin giới thiệu một ít món ăn được chế biến từ sản phẩm địa phương theo cách ăn thông thường ở địa phương ngày trước.

- Ngô là nông phẩm chủ yếu và là lương thực chính của dân vùng bãi bồi ven sông. “Tường Xá là đất bãi bồi - Em về Tường Xá cạp chồi lồ ngô”. Cạp chồi (thời kháng chiến chống Pháp, người ta gọi đùa: “thổi ác-mô-ni-ca”), là ăn ngô bắp luộc hoặc nướng, hay luộc chín rồi nướng cho thơm dẻo. Cách ăn uống thường là hầm hay vùi. Ngô lòn giã kỹ, bỏ vỏ, cám; ngô nếp đãi vỏ bằng nước vôi (xát vôi). Loại hạt vỡ nát (ngô nhỏ) đem ghế với cơm (hấp cơm); loại hạt nguyên (ngô nậy) thì hầm (bung) lên ăn. Hầm tốn củi mà ăn không ngon, người ta đun sôi ngô (bằng ấm đất), nhắc xuống đặt lên nắm rơm, đổ trấu đốt bén rồi vùi tro lại, chừng một buổi giở ra ăn rất ngon; nếu trộn thêm ít đỗ hay lạc vào thì càng ngon. Ngô rang thường là để ăn chơi. Ngô non để tươi, trộn lá chanh thái nhỏ, rang vào chảo hay nồi rang, ăn dẻo thơm; ngô khô rấm nước, dùng ấm đất có ít cát đun trước cho nóng, rồi đổ vào rang, ngô sẽ nổ giòn, ăn mềm. Ngô rang nổ ăn kèm với lạc rang, hoặc rẩy nước cáy vào, ăn càng thú vị, nhất là khi có lụt, ngồi rỗi. Ngô rang thường chỉ đãi khách quen. Ngô giã bột nấu cháo hoặc đổ bánh đúc. Bánh đúc ngô cũng là thứ quà chợ dân dã, nhiều người thích, ăn với đường đen chợ Trổ. Có câu trách một người thích ăn loại quà này: “Mấy lâu ni chị bỏ đi mô, để cho mẹt bánh đúc ngô đợi chờ!”. Nhà sang thì nấu chè ngô. Ngô nếp sữa, lấy dao nạo hạt, bỏ vỏ, nấu với đường

Page 326: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

326

phèn hoặc đường cát, ăn mát và bổ.

- Khoai lang cũng là lương thực chính của nhiều vùng: “Em về Bãi Trửa (giữa) mà coi. Hai nồi úp một hẳn hoi vô chừng”. Đó là cách nấu khoai lang củ ở Bãi Trửa (Đức Quang). Khoai lang (và sắn) cắt lát phơi khô để dành, có thể giã lấy bột gói bánh; bột khoai cũng có thể tráng làm bánh đa. Bánh khoai, bánh sắn, bánh (đa) khoai, đều là những hàng quà chợ. Còn khoai xéo là cách ăn phổ biến: Khoai khô nấu với ít nếp, đỗ, dùng đũa bếp xéo cho đều, cho dẻo: Có bài hát giặm nói về khoai xéo: “… Vô trửa tiết giêng hai - Ông vô xúc một đọi (bát) độ (đỗ) - Mụ vô xúc một cạu (rổ con) khoai - Nấu lên một nồi hai - Nhắc ra trửa cửa nhà ngoài - Ông thì trốc cúi (đầu gối) quá tai - Mụ thì ngồi chọ hỏ (xổm) xéo khoai - Hai ông mụ ngồi nhai - Đẹp bằng năm ô lục soạn - Sướng bằng mười ô lục soạn”.

- Bún, giá (đỗ) được sản xuất ở xã Yên Trung (nay là thị trấn Đức Thọ) từ lâu đời. Ở đây đã có một làng được gọi là “làng Giá” và một bến sông được gọi là “bến Giá”. Nhưng bây giờ dân làng này không làm nghề này nữa, mà giá đỗ được làm rải rác ở nhiều nơi, vẫn bán nhiều ở các chợ. Còn bún, tuy lẻ tẻ cũng có một số hộ ở vài xã trong huyện làm, nhưng tập trung nhất vẫn là ở hai xóm Yên Thịnh, Yên Trung thuộc thị trấn Đức Thọ (tức xã Yên Trung xưa), với hơn 60 hộ sản xuất. Bún là loại hàng chợ phổ thông ở cả nước và mỗi nơi có một cách ăn độc đáo, có tiếng, như bún bò Huế… Dân Đức Thọ cũng có cách ăn của mình. Bún quệt ruốc, bún riêu cua thì ăn ngoài chợ; Bún xáo bò, Bún thịt chó ăn trong quán hàng; Bún thịt lợn rang cong, Bún lòng lợn thường ăn ở nhà. “Bún sốt lòng tươi” lại là quà chợ con cháu biếu ông bà cha mẹ khi mồng năm ngày tết để tỏ lòng hiếu thảo. Và nữa, bún rau, lá rau cải luộc chín, vắt kiệt nước, và bún, hai thứ xé tơi, trộn đều, nêm nước mắm vừa phải, rắc thêm nắm ngò, là món ăn ngày tết, để khỏi ngán mùi mỡ, của dân một số vùng. Nhưng có lẽ bún giá cá ruốc là độc đáo. Bún, cá trích nướng hay cá nục kho, giá đỗ, ruốc tôm, (tất nhiên còn có cả ớt tươi, rau thơm nếu thích), vừa gắp bún, giá, gỡ thịt cá, lấy tí ruốc cho vào bát, ăn thong thả mới cảm nhận hết cái sự ngon lành…

- Hến, như đã nói ở trên, là thức ăn phổ biến ở vùng ven sông Đức Thọ.

Page 327: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

327

Thông thường nhất là cơm nước hến, nước luộc hến, lóng lấy nước trong, nếu nguội thì đun sôi, bỏ ruột hến vào, nêm muối và cho thêm một miếng gừng tươi giã nát, (vì hến mát (lạnh) cần có gừng (nóng) để điều hòa. Ở đây có câu: “Đời ông truyền lại đời cha; Ăn cơm nước hến có cà mới ngon”. Ăn cơm nước hến phải có cà pháo muối mới thật đậm đà. Bún giá xào ăn kèm bánh tráng, nước hến thả bún, bánh đúc (cắt lát)… là những thức ăn quê mùa mà ngon miệng, còn cháo hến cũng là món mát, bổ.

- Miến bột chợ Càu là sản phẩm quý chế biến theo kỹ thuật truyền thống của người Hoa. Miến sợi nhỏ, dai, có thể cuộn lại mà không gãy, vụn. Khi dọn cỗ, thông thường phải có bát miến nấu với lòng gà. Bột có hai loại, làm bằng bột gạo tẻ gọi là bột lọc, làm bằng gạo nếp gọi là bột châu. Khi dùng, người ta bỏ một nắm thanh bột vào nước lã, đánh tan, đun cho bột đặc sánh thì vừa chín, thường dùng làm hồ gián giấy, nên khi dùng cho trẻ con ăn cũng gọi là “hồ”. Khi dùng cho người già yếu, người ta cho thêm thịt băm viên, còn gọi là cháo bột lọc, có nơi gọi là cháo canh. Ngày tết, người ta gói bánh bột lọc, nấu bột thành hồ đặc, gói vào lá dong, đem hấp… Bánh có hai loại bánh trắng và bánh mật, là loại sang và tuyệt ngon.

- Kẹo lạc thì ở đâu cũng có, nhất là kẹo “Cu Đơ” đã được cả nước biết đến. Nhưng ở Đức Thọ còn có loại kẹo non nấu bằng mật mía và lạc rang đãi vỏ lụa, không để quá già lửa, mà khi mật vừa đông thì đổ vào bẹ chuối tươi. Kẹo non mềm, dẻo, vừa nhai thong thả vừa nhâm nhi nước chè xanh càng thú vị.

Cũng cần nhắc đến hai món quà chợ nông thôn là bánh tráng cặp kê đỗ và bánh tráng rắc mật (sắc đặc) mà trẻ con, người lớn đều thích.

VÀ MỘT ÍT MÓN ĂN DÂN DÃ KHÁC

Cũng như vùng sông La, nơi nào trong tỉnh cũng có những loại thực phẩm quý, và những món ăn độc đáo. Vùng biển, ngoài cá tôm tươi, còn có moi khô, ruốc, nước mắm. Nước mắm Cương (Nghi Xuân), nước mắm Nhượng được khách hàng chuộng hơn cả. Đặc sản biển có cua, mực, tôm hùm, cửu khổng, sò huyết, rau câu… Trên ngọn núi Bằng Sư mé biển (Kỳ

Page 328: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

328

Anh) có loại cu kỳ (sơn cưu). Xưa kia, ở đảo còn có yến sào… Vùng núi, không còn nguồn thịt rừng thuở trước. Ở Tiêm - Da (Hương Khê) từ lâu cũng không nhập khẩu lợn Lào, trâu Lào. Nay là bò, dê, lợn, gà, vịt khá dồi dào. Nhưng chỉ xin nhắc đến một ít loại thức ăn dân dã, là sản vật tự túc. Đó là măng chua, là nưa muối… Đó là các loại cá mọn ở khe suối, sông, bàu. Mu mủ bàu Côốc (Phúc Nghĩa, Hương Sơn) là loại cá thân bằng cộc hương dài chừng đốt tay, kho nước mắm thật rặc, thêm tí mật mía, nghệ, ớt tươi, ăn dai mà bùi, thơm, béo… Cá mát sông Con (Hương Sơn) sông Ngàn Trươi (Vũ Quang) rán hoặc kho khô cũng là món ngon, bổ. Vùng xuôi có cá bống, chạch thú, cá gáy (chép), cá tràu (quả), cá rô, hến, ốc, dam (cua đồng)…

Mỗi thứ hàng ăn, hàng quà ở quán, ở chợ đều mang đậm dấu ấn riêng, không chỉ trong địa phương mà còn truyền xa theo bước chân của khách bộ hành trên đường thiên lý. Quán Bấn có xôi dẻo chấm muối vừng, với câu “quảng cáo” bình dị: “Cơn da (cây đa) ba nhánh chín chòi - Ai về Kẻ Bấn ăn xôi thì về”. Nếp Bấn hông xôi còn nếp Voi gói bánh. Bánh tày quán Voi rất đắt khách. Và nếp cái Kẻ Hồ thì nấu cơm nếp đỗ: “Muốn ăn cơm nếp đỗ chà - Muốn cưới vợ đẹp thì ra Yên Hồ”. Có những món quà trở thành tên riêng. Quán Bánh Gai, xóm Đỗ Đen. Chợ Cày có bánh đúc gói mo cau; chợ Cồ, chợ Lụi có bánh tráng (bánh đa) ngon; chợ Tỉnh, chợ Trường có bánh cặp “hai ướt một ráo”…

Cháo có cháo lòng lợn, giò lợn, cháo cá, cháo lươn v.v… Cháo lươn được coi là mát, bổ. Lươn thả vào vại nước ít ngày hoặc dùng tro bếp, lấy lá ráng tuốt cho hết nhớt, rửa sạch, lược lấy thịt tao hành mỡ, còn xương chặt khúc, rang dòn, tán bột, lúc cháo chín đem bỏ thịt và bột xương vào, nêm muối, gia tiêu ớt…, hoặc làm sạch, bỏ cả con vào nấu với cháo, khi chín tuốt lấy thịt, vứt bỏ xương, gia giảm như trên…

Canh rau hoa quả có rất nhiều loại, nhưng người ta thường nhắc đến loại “canh tập tàng”, dùng nhiều loại rau, loại lá, mỗi thứ một nắm nhỏ… “Canh tạp tàng thì ngon, con tạp tàng thì khôn”. Hoa bồng bồng (Lilium auratum - Đằng minh sâm) nấu với tép khô là loại canh đặc biệt ngon, bổ - “Bồng bồng nấu với tép khô - Có chết xuống mồ cũng về mà ăn”… Các loại canh chua người Nghệ Tĩnh gọi là giấm: Giấm khế, giấm dưa chua…

Page 329: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

329

“Kẻ ưa cá đồng nấu khế, người ưa cá bể nấu dưa”. Mùa nắng đi làm đồng về mà được bát giấm cà kiu (một loại cà chua trái chỉ bằng đầu ngón tay út, có vị chua thanh thanh) thì tuyệt. “Nồi giấm mà nấu cà kiu - Anh ăn một bát chín chìu thương em”.

“Ếch tháng ba, gà tháng tám”. Thịt ếch ngày trước đã là món đắt tiền ở các cao lâu, và ngày nay được coi là “đặc sản” thì xưa là món phổ biến ở nông thôn Nghệ Tĩnh. Có nơi, như một số làng ở Cẩm Xuyên, phải ăn thịt ếch đến phát… khiếp: “Yên Hầu, Yên Lạng - Bắt ếch tư mùa - … Thịt ếch với bù (bầu) khô - Ăn tra (già) đời trọn kiếp!”.

Thịt chó được nhiều người ham thích, được nâng lên thành loại thức ăn “lý tưởng”; “Chết tiếng trống, sống mánh (miếng) dồi chó”. Thịt me (bê) tái, thịt bò hui (thui) đều rất ngon, nhưng không phải nhiều người được ăn, riêng thịt thui thì chỉ khi làng tế mới có.

Ngoài những món ăn dân dã, còn có loại chế biến công phu, cao sang. Đó là giò lụa chợ Tỉnh. Ở Kỳ Anh cũng có giò lụa ngon, chỉ gói nhỏ bằng cán dao, thường ăn với bánh tày.

Dọn cỗ là dịp để các bà nội trợ và những đầu bếp chuyên nghiệp, gọi là “thợ nấu”, trổ tài nghệ đỉnh cao của mình. Cỗ làng do làng cắt lượt hoặc kêu gọi các nhà khá giả bày dọn khi có việc công ích huy động nhiều người. Cỗ tết, cỗ cưới là việc riêng của từng nhà. Nhưng khi dọn cỗ, ai cũng có ý ganh đua, thi đua ngầm với người khác.

Thông thường, lớp trung bình trở lên, cỗ thường có hai, ba lớp, nhưng cũng tùy gia cảnh mà bày biện ít nhiều khác nhau. Lớp dưới, đặt trên mâm có bốn, năm bát yêu, gồm bung lợn, bung gà, mọc, thịt bò rim, miến nấu lòng gà, hoặc chỉ một vài món trên, thêm vào là thịt lợn, giả cầy, măng khô nấu sườn lợn, hay măng tươi băm nhỏ nấu giả rươi, chuối xanh nấu sườn lợn, giả hôn, canh củ đậu, rau cải… Lớp trên chủ yếu là đồ nhắm, bày đĩa, gồm các loại giò (giò lụa, giò mỡ, giò bì, giò hoa…), các loại chả (chả đúc, chả tráng, chả chìa), nem chua, ram (nem), thịt lợn luộc, thịt bò tái, thịt bò rim, lòng lợn, rau cải trộn giá xào, xuốn (một loại rau sống), chuối xanh cắt lát, trám, trái tro om v.v… và bắt chẻo vừng hay chẻo lạc, bát nước mắm ngon… Người khéo tay còn bày biện ra nhiều thứ nữa. Lớp thứ ba là đồ tráng miệng, đồ ngọt, thường dọn riêng trên mâm chè, gọi “cỗ chè” có các

Page 330: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

330

thứ bánh trái, đồ ngọt. Bánh bột nếp có bánh trắng, bánh mật, bánh gai, bánh ngào mật, bánh viên rán mỡ (bánh cà), bánh trôi, bánh lúa nước (bánh trong), bánh bột lọc (trắng, mật), bánh ong, bánh cốm (bỏng nếp)…, chè đậu xanh v.v… Có người còn mua các loại bánh ở thành thị về bày đĩa. Cỗ tết nhất thiết có bánh chưng, bánh tét…

Cỗ tết, cỗ cưới nhiều nơi rất sang, rất hậu. Ở Thạch Hà, cỗ cưới ở Đại Tiết được coi là hậu nhất, có câu: “Hồng Đông Lỗ, cỗ Đại Tiết”.

Cùng với cỗ bàn, phải có rượu. Có điều, rượu không nhiều như ngày nay, mỗi mâm chỉ một cút (be nhỏ) rượu, đủ cho mỗi người một vài chén hạt mít. Nhưng người ta chuộng rượu thật ngon nấu bằng gạo nếp. Ở huyện nào cũng có làng chuyên nấu rượu và nhiều làng có rượu ngon, nổi tiếng nhất là rượu Thanh Lạng (Đức Thọ).

Nước uống có nước trâm, nước vối, nhưng phổ biến là nước chè xanh (chè tươi). Uống nước chè xanh lâu đời đã thành tục, thành nét văn hóa độc đáo ở xứ Nghệ.

Dưới đây xin giới thiệu thêm một ít món ăn, thức uống ở các vùng trong tỉnh:

Giò lụa Nhà văn Nguyễn Tuân viết: “Biết chế lợn ra thành cân giò lụa, đó là

đỉnh cao của một dạng văn hóa dân tộc”. Ở Hà Tĩnh thì đâu cũng biết làm giò, nhất là vào dịp tết và khi có đám đình. Có nhiều loại giò: Giò nạc, giò mỡ, giò bì, giò thủ, giò hoa (trộn mộc nhĩ hoặc mỡ, tiết chín vào hoặc dùng trứng tráng làm áo, khi cắt ra, miếng giò có hoa). Có người gói giò xong dùng 4 thanh nứa cột ép phía ngoài, con giò có hình hoa thị. Có loại giò lớn, có loại chỉ gói bằng cán dao. Có loại giò thịt bò, nhưng chủ yếu là giò thịt lợn.

Giò có nhiều loại, nhưng giò lụa là ngon, là sang nhất, và giò lụa chợ Tỉnh có tiếng không chỉ ở địa phương mà cả trong Nam ngoài Bắc đều biết.

Nem Nem ở đây khác với nem Huế. Người ta dùng thịt lợn chả (nạc) loại

ngon, thái mỏng, cho tí muối và thính (gạo rang, tán bột) bóp cho thật

Page 331: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

331

nhuyễn rồi đem gói, trong là một trong các thứ lá lộc (đinh lăng, lộc ớt, lá ổi, lá vông non, lộc sim…) ngoài lá chuối, buộc thật chặt.

Để vài hôm, nem chua mới dùng làm thức nhắm rượu.

Thịt chó Thịt chó là thức ăn bổ dưỡng. Các quán hàng thịt chó rất đông khách. Ở

nông thôn vào mùa lạnh, người ta thường đụng nhau làm thịt chó đánh chén. Thịt chó ở đây có hai món: dồi và rựa mận.

Dồi chó làm khá công phu. Ruột chó lộn trái, cạo rửa thật sạch, tiết chó vằm nhỏ tim, gan, rau má, rau húng, ớt tươi… trộn vào, đổ vào ruột, cột lại thật kỹ, luộc chín rồi vớt ra bỏ vào chảo gang đốt cho thật khô kiệt nước… Những tay sành ăn coi miếng dồi chó là thức nhắm thượng hảo hạng.

Nấu rựa mận thì thịt chó cắt to bản một chút, đổ vào nồi, cho ruốc (mắm tôm), nước mắm, mật mía, rượu ngon vào bóp thật kỹ, gia hành, ớt, rồi trộn riềng (hay sả) cắt lát, lá quýt tươi vào; xương gàu, thịt rẻo thì băm nhỏ, vo viên gói vào lá mùng, cùng cho vào nồi, đậy thật kín, bắc lên đun nhỏ lửa… (Nếu là chó mỡ - béo thì cứ một lớp thịt đổ một lớp bỏng rang; chó nạc - không béo, thì phải đặt lên miệng nồi thịt một nồi nước để bịt thật kín, không cho nước thịt bốc hơi). Nấu khoảng 5 giờ liền, giở ra đã đầy nồi nước màu mận chín, là đẹp. Loại rựa mận này có mật, ăn ngọt, nên người Bắc đùa là “chè chó”, còn rựa mận Bắc người Nghệ Tĩnh lại nói là “canh chó”. Rựa mận thường ăn với bún là hợp. Có người còn có cách dự trữ thịt - người ta đùa là làm “thịt hộp” để ăn dần, thịt đã làm kỹ nhưng không nấu mà gói vào tờ giấy xơ, ngoài bọc bùn kín, bỏ vào đống trấu đốt cho đến lúc vỏ bùn khô cứng như gạch. Khi dùng, chỉ việc đập vỡ vỏ đất ra, thịt vẫn ngon, thơm như mới nấu.

Cuốn - Chả cuốn Đây là món rau sống bày khi dọn cỗ. Người ta lấy một lá diếp bỏ chỗ

cồi to, cho ít chẻo vừng hay lạc đã đánh sẵn, gói thành một gói nhỏ hình vuông, trên bày dăm bảy ngọn lá ngó, một con tôm kho, một lát thịt lợn luộc và một lát trứng rán, đều cắt vuông vức bằng gói chẻo, dùng một sợi lá tỏi vấn buộc lại. Mỗi gói chỉ đủ ăn một miếng. Mỗi đĩa đặt bốn miếng cho bốn người. Đĩa cuốn đặt chính giữa các đĩa thức ăn khác trông như một

Page 332: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

332

đĩa hoa. Lá ngò xanh xỏa ra bốn phía, giữa có màu đỏ vỏ tôm, màu trắng thịt lợn, màu vàng trứng rán…

Nhưng có nơi thì món cuốn lại không phải là rau, mà là một cách ăn bún, gọi là chả cuốn. Dưới cũng không phải là gói chẻo mà là một miếng bún cắt vuông vức, trên đặt một lá chuối xanh, một lát trứng rán cùng cỡ, trên cùng là con tôm bóc vỏ, một lát ớt tươi cắt dọc, và cũng buộc bằng lá tỏi. Đáy bát có tý chẻo vừng hay chẻo lạc gói trong lá chẹo, đặt chả cuốn lên, vừa đủ ăn một miếng. (Chẻo là vừng rang hoặc lạc rang giã nhỏ, trộn trong nước mắm có gia mật, gừng, tỏi, ớt…).

Cùng gọi là cuốn, nhưng đây là hai món ăn hoàn toàn khác nhau.

Đỗ đen Mé bắc phường Trần Phú, TP. Hà Tĩnh bây giờ, trước là đất xã Đông

Lỗ, huyện Thạch Hà, có một khóm nhà lá gọi là xóm Đỗ Đen hay quán Đỗ Đen. Xưa kia, ở đây có các quán bán một thứ quà mọn cho khách bộ hành qua lại trên đường thiên lý: Đỗ đen - thứ đỗ vỏ đen mà ruột xanh, thường gọi đỗ xanh lòng.

Đỗ đen không phải là cháo, là chè, mà nấu phui với lá tía tô, nêm muối, ăn ngon, bổ và mát trong mùa nắng nóng. Về sau, người ta cũng nấu với mật mía, nhưng nấu khô, như “đỗ tẩm mật”. Món quà dân dã này rất được khách ưa chuộng, không chỉ là người lao động, mà cả các thầy đồ, cậu nho…

Món đỗ đen này đã mất từ lâu, nhưng vẫn còn cái tên “quán Đỗ Đen” và một vế đối đến nay chưa ai đối được của một nhà nho ra cho bạn bè trong khi ngồi ăn quà sáng để ra Văn miếu tỉnh dự sát hạch chọn người đi thi hương: “Vô Đỗ Đen, ăn đỗ đen, hết vận đen, ra thi đỗ”.

Bánh cặp Bánh cặp thường quen gọi “hai ướt một ráo” - hai bánh mướt (ướt) cặp

một bánh tráng mỏng quạt dòn ở giữa, một loại quà phổ biến ở vùng Thạch Hà, Cẩm Xuyên - từ chợ Cày đến chợ Trường. Người ta kể về nguồn gốc của loại bánh này: Ngày trước, một anh chàng có việc đi xa. Qua chợ, chị vợ đang bán hàng, vội ra đón, bỏ vào đãy gai cho anh một gói bánh bọc trong cái lá gon, để ăn đường. Trưa, anh giở ra thì đây là gói bánh mướt,

Page 333: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

333

kèm theo cái bánh tráng bẻ tư… Nhưng vì đi đường cái đãy bị xóc mạnh, bánh tráng vỡ nát, dính vào bánh mướt. Anh ta đành vo trộn hai thứ lại mà ăn, nào ngờ, thấy rất ngon… Trở về, anh kể chuyện lại, nhiều người làm theo, đều thấy thú vị. Từ đó, bánh cặp ra đời, trở thành một thứ quà chợ nhiều người ưa thích. “Hai ướt một ráo, cổi áo mà ăn”… Bà hàng lấy chiếc bánh tráng đã quạt sẵn, gỡ mấy cái bánh mướt đắp lên hai mặt, đặt vào cái lá gon sạch, gấp đôi lại, vỗ vỗ phía ngoài cho bánh tráng gãy nát rồi lấy ra, bày lên đĩa trao cho khách cùng với bát nước mắm ngon có chanh, tỏi, ớt… Khách lần lượt nhận hàng, vừa ăn vừa chuyện trò vui vẻ. Ở vùng chợ Trường, Cẩm Xuyên, mỗi lần có dăm ba người ăn, người ta cùng vỗ tay vào bánh, tạo nên một âm thanh vui tai.

Bánh gai Bánh bột nếp nhân đậu xanh gói vào dịp tết có bánh trắng (không mật),

bánh mật, và bánh gai.

Bánh gai, nhiều nơi quen gọi “bánh gây”, là loại bánh dọn cỗ tết, cũng là bánh đi lễ hỏi vợ. Có điều bánh lễ hỏi gói dày dặn vuông vóc, đẹp như chiếc bánh chưng nhỏ. “Có chồng anh hỏi chi đây? Một be rượu lạt, một quả bánh gây đi rồi”, ý nói là đã nhận lễ hỏi.

Bánh gai làm bằng bột nếp sú mật mía trộn lá gai137 (tước bỏ cồi, nấu chín) giã thật nhuyễn, đem gói, trong có nhân đỗ xanh đãi vỏ, giã nhỏ. Người ta còn đốt một ít lá chuối hột khô, lấy tàn cùng bỏ vào giã với bột để trau cho bánh đen nháng. Bánh ăn dẻo, thơm, giữ được nhiều ngày không hỏng.

Ngày trước, ở địa phận làng Hạ Lối, huyện Can Lộc, có quán bánh gai trên đường thiên lý chuyên bán bánh gai cho khách bộ hành qua lại. Bánh gai ở đây gói bằng lá chuối khô, nhân đỗ hoặc nhân vừng rang. Ngày nay có loại bánh gai xứ đạo Nghĩa Yên bán ở thị trấn Đức Thọ, cũng được khách hàng ưa chuộng.

“Bánh mọi” “Bánh mọi” là loại bánh đặc biệt mỗi năm chỉ làm một lần ở vùng

137 Cây gai: Trừ ma, tầm ma - Tên khoa học là Boehmerianivea - Urtica nivea.

Page 334: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

334

Tiêm-Da vào dịp lễ hội đền Tâm Phúc xã Hương Vịnh, huyện Hương Khê, để tưởng niệm Quận công Trần Phúc Hoàn, người mở đường Trìm - Trẹo sang Lào thế kỷ XVIII.

“Bánh mọi” phỏng theo loại bánh cám mà những người mở đường mang theo để ăn, nhưng được chế biến công phu và ngon. Người ta chọn loại nếp cái thơm, dẻo, trắng nõn, giã, rây ba bốn lần cho mịn như bột lọc. Nhân bánh dùng vừng xác rang dòn, lấy đũa chà cho sạch vỏ, ngào với mật ong, gia ngũ vị (quế chi, thảo quả…), cô lại dẻo quánh, vo viên. Bột nếp sú nhuyễn, bọc một lớp mỏng ngoài viên nhân vừng, dùng lá chuối tơ hơ lửa cho mềm gói theo hình con thoi, đem hấp. Khi ăn phải tước nhỏ tấm lá gói, bóc nhẹ nhàng cho khỏi dính, nhai chầm chậm mới cảm hết được cái vị thơm, dẻo, ngọt, bùi của bánh.

Bánh dì Bánh dì (bánh dầy) còn gọi là “bánh quết” (giã nhuyễn). Xưa được

dùng ở các đám ma chay nhà giàu có, để đi biếu bà con thân thích, làng xóm. Nhưng một vài nơi như Phú Phong có tục làm bánh dì vào dịp lễ hội đầu xuân.

Nếp làm bánh phải chọn loại thật tốt, thật dẻo, lại phải lựa bỏ những hạt đục, hạt có vết, lấy mười hạt độ mười. Đồ dùng cũng phải chuẩn bị trước thật chu đáo. Người ta dùng cật bèn tro vót thật nhẵn, đan tấm liếp vuông mỗi cạnh từ 1m đến 1,20m gọi là cái trình để quết (giã) chứ không dùng cối. Chày giã cũng phải rọc mo cau đan một tấm áo bọc, buộc thật chặt, dùng lòng đỏ trứng gà hòa với rượu ngon, bôi trơn cho khỏi dính. Xôi hông chín, đổ ngay lên liếp, hai ba người thật khỏe giã cấp tập, không để nguội. Khi giã nhuyễn thì lấy ra vo tròn như quả bưởi, rồi đặt lên tấm lá chuối lót trên mâm thau, bắt thành bánh dẹt, bằng cái đĩa lớn… Người bắt bánh cũng phải thạo, vì phải làm ngay khi còn rất nóng… Bánh có thể dùng nhiều ngày, nếu khô cứng, người ta cắt rán mỡ để ăn.

Có câu hát về bánh dì:

“Trẻ chưa qua, già chưa đến Đường nhân duyên nghĩ chín hơn xôi. Đem thân ra cho thiên hạ nhồi,

Page 335: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

335

Sao mà em lại chịu lời bất nhân?”138

Bánh lọc - Bánh trong Ở Đức Thọ có loại lúa cấy ở các biền (đồng lầy), hạt có râu dài, gọi là

lúa nước. Lúa tuốt đưa về phơi khô hoặc rang khô (trạo) làm gạo, giã bột gói bánh, nhân hành mỡ hoặc thịt chả băm nhỏ, đem hấp chín. Đây là bánh lúa nước, cũng gọi là bánh lọc nước, trắng trong, ăn dẻo.

Đức Thọ và một vài nơi ở Can Lộc, lại có bánh bột lọc, một đặc sản chế biến bằng bột gạo và nước cây bông vang, ở làng Hạ Tứ, xã Bùi Xá. Người ta khuấy bột lọc thành nước, đun cho đông, rồi gói trong lá dong, nhỏ bằng hai ngón tay, dài khoảng một gang. Bánh có hai loại, bánh trắng và bánh mật. Bánh mật cho rất ít mật, chỉ đủ ngọt, không quá khay. Có nơi chỉ làm bánh mật, cũng có thứ không gói lá, mà bỏ thêm thịt trái gấc cho nổi màu, và có chất béo, đồ chín, dạt mỏng ra mâm, cắt theo hình quả trám hay hoa thị… Bánh bột lọc trong suốt, nên có người gọi là bánh trong.

“Khéo thì bánh lọc, bánh trong, Vống (vụng) thì gánh nước cho còng lưng tôm.”

Kẹo “Cu Đơ” Từ lâu đời, kẹo lạc - lạc nấu với mật mía - đã rất phổ biến ở vùng Đức

Thọ, Hương Sơn. Kẹo già, giòn, đổ lên giấy, cắt thành từng thanh bán ở chợ. Kẹo non, dẻo, mềm, nấu để ăn trong nhà, đổ vào bát nhỏ hoặc vào bẹ chuối cho mau nguội và không dính… Uống nước chè xanh và ăn kẹo non thì tuyệt.

Khoảng 1950-1951, thời kháng chiến chống Pháp ở làng Thịnh Xá, nay là xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, có ông Đinh Vị, tên thường gọi ông Cu Hai, có bí quyết nấu kẹo lạc, từ việc chọn mật, rang lạc, vắt chanh, gia va-ni, đổ khuôn… liều lượng và thời gian nào đều có cách riêng… theo yêu cầu của từng loại, kẹo già, kẹo non… nên được khách hàng rất chuộng. Về sau ông lại có sáng kiến đổ kẹo giữa cặp bánh tráng, càng được người

138 Dì, tiếng Nghệ Tĩnh là không non, không già. Bánh dì không có nhân.

Page 336: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

336

ăn hoan nghênh…

Đám học sinh, nhất là thiếu sinh quân đóng ở địa phương rất mê kẹo ông Cu Hai, và vui miệng gọi loại kẹo lạc của ông là “kẹo Cu Đơ” (Đơ, tiếng Pháp: Deux là Hai). Từ ấy đến nay và mãi về sau “Thương hiệu Cu Đơ” chắc chắn vẫn còn, mặc dầu người sáng tạo ra mặt hàng ấy đã mất vào sau năm 60 của thế kỷ trước.

Nước chè xanh “Ai về Hà Tĩnh thì về, Mặc lụa xứ Hạ, uống chè Hương Sơn”.

Không chỉ Hương Sơn, mà trong tỉnh nhiều nơi trồng chè, chè trại, chè vườn, có tiếng như chè khe Yên (Rú Hống), chè Hương Bộc (Thạch Hà)… Vùng Đức Thọ còn nhập chè Gay (Nghệ An) về.

Nước chè thường nấu rất đặc, “khăm (cắm) đũa không bổ (ngã)”. Nước chè mới nấu, uống lần đầu - nước chè cốt, rất hợp với người nghiện. Nhiều nơi, người ta nấu nước chè rất cầu kỳ: Am nấu nước là ấm đồng hoặc ấm đất thuộc mới ngon. Củi thường là củi tre, không dùng củi có mùi thơm vì sẽ lạt nước. Nước lã thường là nước giếng không nhiễm mặn, (trước kia dùng nước sông). Chè cắt ngoài vườn hoặc mua về, rửa sạch, bỏ vào ấm, đun sôi một lúc, pha vào nửa gáo nước lã để giữ màu xanh, có nơi lúc nước vừa sôi, người ta đổ hẳn nước đầu rồi đổ nước vào nấu tiếp cho đến lúc chín. Người sành uống đòi hỏi nước phải có màu xanh, thơm, chát và nóng.

Nước uống sau bữa ăn phải là nước ngon, nước mới. “Cơm sốt, canh sốt, nước chè cốt mới nấu”. Người đi cày, đi làm đồng, cũng thường mang theo một vùa nước mới. Nước chè lạt, nước chè hâm chỉ khi khát, người ta mới uống.

Khách đến nhà, nhất thiết phải mời uống nước. Cơi trầu đọi nước là chuyện hàng đầu khi có khách khứa. Khách vào nhà, bà chủ liền ra vườn chè. Đám đình thì hàng đầu cũng là trầu, nước.

Nhiều nơi có tục mời uống nước mới: Trong xóm, năm bảy nhà ở kề nhau như có giao ước ngầm, thay nhau nấu nước vào buổi sáng, buổi trưa hoặc buổi tối. Nước vừa sôi, chủ nhà ới lên một tiếng, là hàng xóm lục tục kéo đến, vừa uống nước, vừa chuyện trò, từ chuyện làm ăn, đến chuyện

Page 337: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

337

thời cuộc, thời sự, trong làng ngoài nước, chuyện “đời sơ đời sắc”, chuyện trạng, chuyện đố… Chuyện vãn thì ấm nước cũng kiệt… Chủ nhà pha thêm nước lã vào, đun lại để uống trong ngày… Có thể coi tục uống nước chè xanh là “trà đạo” của người Nghệ Tĩnh.

Page 338: HÀ TĨNH ĐẤT VĂN VẬT HỒNG LAM - nhatbook.com€-TĨNH... · Giăng Màn. Cùng thuộc hệ này còn có dãy Thiên Nhẫn “999 ngọn” trên đất Thanh Chương,

338

MỤC LỤC

ª Tỉnh Hà Tĩnh ............................................................................. 3

ª Phần thứ nhất PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT

I. Vùng đất tranh chấp giữa núi và biển

II. Vùng đất sôi động trong lịch sử

III. Vùng đất nghĩa khí và tài năng

ª Phần thứ hai

NHỮNG CHỨNG TÍCH VĂN HÓA

I. Cảnh quan thiên nhiên .................................................... 105

II. Dấu vết văn hóa thời tiền sử và cổ sử ............................ 157

III. Các làng nghề tiêu biểu ................................................ 181

IV. Một số dòng họ tiêu biểu ............................................. 205

V. Những địa điểm lịch sử ................................................. 249

VI. Tín ngưỡng, tôn giáo và các di tích tiêu biểu ............... 305

VII. Vài nét về nghệ thuật dân gian .................................... 361

VIII. Lễ hội dân gian cổ truyền .......................................... 397

IX. Văn hóa phục trang và ẩm thực .................................... 431