Upload
others
View
5
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 1
Hƣớng Dẫn
THỰC HÀNH TU TẬP
http://hoasentrenda.com
Tháng 8 – 2010
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 2
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 3
OM, VAIROCANA HÙM
SUBHAM
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 4
“Xin hồi hƣớng công đức tu hành này đến cho những ai có
tai mà muốn nghe để họ mau thành đạt quả vị Giải Thoát
còn con ra sao thì cũng đƣợc. ”
HL.
Đạo sƣ Hai Lúa
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 5
Các pháp thực hành sau đây là kinh nghiệm và
chứng nghiệm của chính bản thân chú Tibu và nhiều hành
giả tu tập theo sự hƣớng dẫn của chú Tibu, chứ không
phải là những lý thuyết suông. Đúng với câu "Nói việc
mình Làm và Làm việc mình Nói".
Trong Võ thuật cổ truyền, khi Lý Tiểu Long (chƣa có bằng Cao Đẳng) cho ra đời môn
"Triệt Quyền Đạo" thì ai cũng tƣởng rằng đây là một môn võ mới!
Nhƣng thật ra, đây chỉ là một tiến trình bắt buộc của hệ thống Võ Thuật
con ngƣời!
Võ Sƣ đã khéo léo trộn lại hết tất cả những cái hay, cái khéo của những môn
Võ trên thế giới (từ Vĩnh Xuân Quyền, qua Võ Tự Do Thái Lan, qua Arnis của Phi
Luật Tân, Judo, Aikido, Nhu Thuật, rồi Savate của Âu Châu... Ông đem bỏ hết
những động tác thừa của những môn này và cô đọng lại thành những chiến thuật,
chiến lƣợc để cho những võ sinh của mình thao dƣợt! Và dĩ nhiên với phƣơng thức mới
này (học ngay bằng chiến thuật và chiến lƣợc chớ không phải là học tấn, học thế, rồi
học đòn nhƣ những môn võ khác): Võ Sƣ trở nên rất là nổi tiếng.
Trong giới theo học Võ Sƣ, có hai loại:
Loại 1: Là loại theo chính ngay Võ Sƣ để học. Những võ sinh này là từ đai đen
đệ tứ đẳng cho tới đệ bát đẳng! Toàn là loại... "Võ Sƣ mà lại đi theo học Võ Sƣ"
không mà thôi!
Loại 2: Là loại không thích theo, là vì môn Triệt Quyền Đạo là một môn võ
mà trong đó không có ai mang đai! (Đối với Võ Sƣ Lý Tiểu Long thì cái đai chỉ có
công dụng là giữ cái quần đừng bị tuột!) Do vậy mà những võ sinh tự động liệt môn
này là một môn võ thuật thuộc loại tự phát và do đó là loại võ giang hồ.
Thế nhƣng, khi nghe ngóng thì môn võ này lại quá là hay: Tất cả những
võ sinh theo chân Võ Sƣ, sau một thời gian, đều có thể biểu diễn những ngón đòn
rất là đặc biệt.
Nhƣng... Kẹt một cái, nếu mà mình ghi danh xin theo Võ Sƣ để học thì... quê
quá đi! Là vì mình cũng là võ sƣ kỳ cựu của những môn Võ thuộc loại chính phái: có
đai, có bằng cấp đàng hoàng! Mà nay lại... hạ mình xuống để đi theo một tên vô
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 6
danh tiểu tốt, không biết từ xứ nào đến, lại chƣa có bằng Cao Đẳng (college), để học!
Để rồi... danh dự của môn phái mình cũng theo đó mà tiêu thành mây... thành khói
luôn sao! Nếu mà làm vậy thì... Ai mà coi cho đƣợc!
Do vậy mà... Thôi thì đành... Học lén vậy!
Đó là chuyện võ thuật này trở lại chuyện chủ trƣơng của Hoa Sen Trên Đá:
Dẹp bỏ hết tất cả những hoa lá cành không cần thiết ( vì tính cách
thƣơng mại nhiều hơn là giúp cho trình độ tu chứng: Nhƣ hƣơng hoa, quần áo,
chuông mõ, bàn thờ).
Và khai triển triệt để "Tứ Như Ý Túc" còn gọi là "Tứ Thần Túc" và nhất
là "Dục Thần Túc" là một cái mà tất cả những chủ trƣơng tu hành khác của Phật Giáo
đều cố ý lãng quên và không đƣợc khai triển (Đối với những phƣơng thức tu hành
này: Ba Mƣơi Bảy Phẩm Trợ Đạo do chính Đức Phật Thích Ca trình bày từ xa xƣa thì
đến nay chỉ còn có ba mƣơi sáu (36) phẩm), mời các Bạn đến đây coi:
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A9_th%E1%BA%A7n_t%C3%BAc
Từ năm 1992, những trận mƣa pháp này đã tuôn xối xả xuống những diễn đàn
Phật Giáo và cũng từ đó những huyền thoại tƣởng chỉ xảy ra trong truyện Cổ Tích và
Tề Thiên Đại Thánh nhƣ là: Linh ảnh Ngài Quan Thế Âm, hiện tƣợng "Ngộ Đạo",
những công thức vào Diệt Thọ Tƣởng Định, những phƣơng pháp "Phân Thân",
những phƣơng pháp "Độ Tử"... đã đƣợc khai quật trở lại và đƣợc trình bày dƣới dạng
văn chƣơng bình dân.
Cái độc đáo của trang nhà này là: Sai lầm về "Lịch Sử" thì có thể xảy ra
(hoàn toàn do cố ý). Nhƣng sai lầm về "Phƣơng Pháp Thực Hành" thì chƣa một lần
xảy ra!
Tất nhiên, các Bạn có thể học lén phƣơng pháp tu hành này... y nhƣ những võ
sƣ khác đối với môn "Triệt Quyền Đạo".
Nhƣng tỷ lệ thành công chỉ dành cho những tu sĩ đã có để lại ít nhất là một
thân xác trên Địa Cầu này mà thôi. Còn ngoài ra, tuy rằng khi đọc thì rất là "ngon ăn"
và thậm chí "rất là dễ làm nữa đó", nhƣng khi tập thì nó có những biến khúc mà một
tu sĩ, dù có giỏi cách mấy đi nữa, cũng đều bí và bị vấp ngã.
Trƣờng hợp này sẽ không xảy ra... nếu và chỉ nếu: Chính họ đã để lại một thể
xác trên Địa Cầu.
Nếu có gì thắc mắc thì xin mời các Bạn gia nhập vào Forum, hay mục "Hỏi
và Đáp" để có thể cùng "nói chuyện ngang cơ". Lý do là vì ở đây, cũng... "không có
đai" đối với nhau.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 7
MỤC LỤC A. GIỚI ĐỊNH HUỆ .................................................................................... 17
1. Ăn Ngay Nói Thật ............................................................................ 17
2. Có Hiếu với Cha Mẹ ......................................................................... 18
B. HƢỚNG DẪN THỰC HÀNH ................................................................ 18
I. THIỀN ĐỊNH ......................................................................................... 18
1. NHƢ LAI THIỀN (THIỀN TIỂU THỪA) ....................................... 18
a) THIỀN TÂM .................................................................................... 19
b) QUAN NIỆM CƠ BẢN của ĐẠO PHẬT ......................................... 19
c) ĐỊNH NGHĨA CƠ BẢN ................................................................... 19
d) CÁCH CHỌN MỘT ĐỀ MỤC ĐỂ BƢỚC VÔ CÔNG PHU ............ 22
e) THỰC HIỆN CHÁNH ĐỊNH TRÊN MỘT ĐỀ MỤC....................... 22
2. THỰC HÀNH ................................................................................... 30
a) PHƢƠNG PHÁP ĐIỀU THÂN ........................................................ 30
b) PHƢƠNG PHÁP ĐIỀU TỨC ........................................................... 31
c) HỘ THÂN ........................................................................................ 33
d) ẤN KIM CANG ĐỊNH TRONG CÔNG PHU .................................. 36
e) THỰC HIỆN CHÁNH ĐỊNH TRÊN MỘT ĐỀ MỤC: LỬA ............ 38
II. TỊNH ĐỘ ............................................................................................. 62
1. Tịnh Độ Là Gì? ................................................................................ 62
a) Pháp môn Tịnh Độ ............................................................................ 62
b) Nguyên tắc hoạt động của Tha Lực trong Tịnh Độ. .......................... 64
2. PHƢƠNG PHÁP THỰC HÀNH ...................................................... 66
a) Chuẩn Bị Niệm Phật ......................................................................... 66
b) Kỹ thuật niệm Phật ........................................................................... 66
c) AN TRÚ CHÁNH NIỆM ĐẰNG TRƢỚC MẶT .............................. 67
d) NIỆM PHẬT - CÔNG PHU HẰNG NGÀY ..................................... 68
e) NIỆM PHẬT RẢI TÂM TỪ - QUÁN CHẤM ĐỎ............................ 68
f) NIỆM PHẬT - KỸ THUẬT VÀ NIỆM LỰC ................................... 69
3. ĐÔNG PHƢƠNG TỊNH ĐỘ ............................................................ 78
a) Chú Dƣợc Sƣ quán đảnh chân ngôn: ................................................ 78
b) Trong 12 lời nguyện của Ngài ........................................................... 79
c) Ứng dụng .......................................................................................... 80
III. MẬT TÔNG ......................................................................................... 82
1. TAM MẬT TƢƠNG ƢNG ............................................................... 82
2. ĐÀN PHÁP ...................................................................................... 85
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 8
a) Đàn pháp QUÁN THẾ ÂM (hay QUAN THẾ ÂM) .............................. 85
b) Đàn Pháp Quan Thế Âm (mới) ......................................................... 87
c) Đàn Pháp Văn Thù Sƣ Lợi - Om Driym ................................................ 88
d) Đàn Pháp Phật Mẫu Chuẩn Đề .......................................................... 89
e) Đàn Pháp Ngũ Phật Trí ........................................................................ 91
IV. VẠN THẮNG CÔNG ....................................................................... 94
1. XUẤT THỦ (Kim Báo Long Trảo) .................................................. 95
a) Các tên gọi khác nhau: ..................................................................... 96
b) Ca quyết: .......................................................................................... 96
c) Xuất Thủ Trị Liệu: ........................................................................... 97
d) Phản ứng: ......................................................................................... 97
e) Đặc điểm của Xuất Thủ. ................................................................... 98
f) Nguyên lý. ....................................................................................... 99
g) Vài khẩu quyết quan trọng .............................................................. 101
2. VẠN THẮNG CÔNG VÀ OM AH HÙM ...................................... 101
a) Chiêu 1 - Xuất Thủ: ....................................................................... 103
b) Chiêu 2 - Phi Lâu Diệu Thủ: .......................................................... 105
c) Chiêu 3 - Vỗ Tay Thoát Khỏi Hồng Trần: ...................................... 105
3. CHÚ Ý ........................................................................................... 107
4. OM AH HÙM ................................................................................. 108
C. ỨNG DỤNG ......................................................................................... 110
I. HỒI HƢỚNG CÔNG PHU .................................................................... 110
1. Hồi hƣớng - Kim Cang Thừa .......................................................... 110
2. Hồi hƣớng về một đối tƣợng ........................................................... 112
a) Hồi Hƣớng cho ngƣời còn sống ...................................................... 112
b) Hồi Hƣớng cho Ngƣời Chết ............................................................ 114
c) Cúng Kiếng Cầu Siêu...................................................................... 114
d) Ngƣời Thân Chết ............................................................................ 114
e) Tâm Lực ......................................................................................... 115
f) Tu Hành và Mả Kết ........................................................................ 115
3. Lời Nguyện - Nguyện Lực Chân Thật. ........................................... 116
a) Độ Sanh Giải Nạn ........................................................................... 116
b) Niệm Phật ........................................................................................ 117
c) Biệt Nghiệp ..................................................................................... 117
d) Trả Nghiệp....................................................................................... 117
e) Gia Trì Tiến Tu ............................................................................... 117
f) Hồi Hƣớng Trƣớc Khi Ăn ............................................................... 118
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 9
4. Làm sao để Hồi Hƣớng? ................................................................ 119
a) Tâm định: ....................................................................................... 119
b) Tâm lực: ......................................................................................... 119
5. Hồi hƣớng công đức là... Một pháp môn tu hành. ........................... 121
II. SÁM HỐI .......................................................................................... 122
1. Tại sao Sám Hối .............................................................................. 122
2. Phƣớc bất tòng lai, Họa vô đơn chí ................................................. 122
3. Lợi Ích Sám Hối.............................................................................. 123
4. Có nhiều cấp độ để sám hối, thông thƣờng thì có hai trình độ: ................ 123
5. Sám hối cho ngƣời không phải là Đạo Phật ..................................... 124
6. An Trú Đề Mục và Sám Hối ........................................................... 125
7. Trò Chơi Sám Hối ........................................................................... 126
8. Sám Hối Tiến Tu .............................................................................. 127
9. Sám Hối Theo Mật Tông................................................................. 128
III. PHƢƠNG PHÁP ĐỘ TỬ - HỘ NIỆM ................................................ 129
1. NIỆM PHẬT A DI ĐÀ ................................................................... 129
a) Cách thứ nhất: ................................................................................ 129
b) Cách thứ hai: .................................................................................. 129
2. ĐỘ TỬ - HỘ NIỆM ........................................................................ 129
a) Vào lúc chết, có hai việc đáng kể .................................................... 129
b) Tụng Kinh ....................................................................................... 130
c) Hộ niệm - Trƣớc Xác Chết .............................................................. 130
d) Hộ Niệm - Vắng mặt ....................................................................... 132
e) Độ Tử - Hấp Hối ............................................................................. 133
f) Kiểm Tra Điểm Nóng Cuối Cùng.................................................... 134
g) Hộ Niệm - thân trung ấm giảm đau trong vòng 49 ngày đầu? ................. 135
h) Hộ niệm - Độ Vong Linh ngƣời thân đã chết lâu năm ..................... 136
i) Chuông Trống Bát nhã .................................................................... 138
j) Cúng Thí Thực ................................................................................ 139
IV. PHƢƠNG PHÁP TRÌ CHÚ ............................................................ 142
1. Thần Chú ........................................................................................ 142
2. Trì chú ............................................................................................ 142
a) Tự Vệ Nhập Môn: .......................................................................... 143
b) Cận Định Trì Chú: ......................................................................... 143
c) Chánh định Trì Chú: ...................................................................... 143
3. PHƢƠNG PHÁP TRÌ CHÚ ĐẠI BI ............................................... 143
V. CÁCH NHÌN HÀO QUANG ............................................................. 145
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 10
VI. HÀN HÀO QUANG ....................................................................... 146
VII. SỬ DỤNG THẦN THÔNG ............................................................ 147
VIII. SONG HÀNH NHẬP ĐỊNH ........................................................... 151
1. Tu Sĩ Trợ Lực Tu Sĩ........................................................................ 152
2. Đồng Đội Trợ Lực .......................................................................... 153
IX. CHÂM CỨU ................................................................................... 154
X. SẠC PIN NHẬT NGUYỆT................................................................ 154
XI. CHỮA BỆNH VÀ PHÒNG BỆNH ................................................. 155
1. Thiền định điều hòa Tứ Đại ............................................................ 155
a) Gợi hứng thứ nhất: ......................................................................... 155
b) Gợi hứng thứ nhì: ........................................................................... 155
2. Nguyên tắc: .................................................................................... 155
3. Thực hành: ..................................................................................... 156
XII. TIỀN THAI GIÁO .......................................................................... 156
1. Có phải là nếu muốn có một "đứa con đặc biệt" thì chú và hành giả sẽ
xuất hồn lên trên để "chọn" một vị muốn xuống dƣới này không ạ? ............ 157
2. Quy trình Nhập Thai của 1 linh hồn diễn ra nhƣ thế nào? ............... 158
3. Điều kiện để một ngƣời có thể làm tiền thai giáo nhƣ thế nào? ................ 160
4. Đứa bé ra đời xong thì có cần luyện tập an trú chánh niệm đằng
trƣớc mặt không? Hay tự bé đã là một vị Bồ Tát xuất chúng và đi
làm hạnh ba la mật luôn? ................................................................... 161
a) Thời gian chuẩn bị: Ba tháng. ........................................................ 162
b) Thời gian nghiên cứu: Sau lúc rụng trứng 24 giờ. .......................... 162
c) Sau khi có bầu: ............................................................................... 162
5. Hỏi - Đáp ........................................................................................ 163
D. PHỤ ĐÍNH............................................................................................ 167
I. TỨ NIỆM XỨ ....................................................................................... 167
II. AN TRÚ CHÁNH NIỆM ĐẰNG TRƢỚC MẶT ................................ 169
1. An Trú Chánh Niệm và Chú Tâm: ................................................. 170
2. Chánh Định: .................................................................................... 170
3. Quán Pháp trên Pháp: ..................................................................... 171
4. Khi Niệm Thân: ............................................................................. 172
5. Trả nghiệp....................................................................................... 175
6. Phóng Tâm (Nghĩ bậy nghĩ bạ): ..................................................... 176
7. Hỷ Lạc ............................................................................................. 177
8. Nhất Tâm Bất Loạn......................................................................... 177
III. TRANH CHĂN VOI – NGHỆ THUẬT ĐIỀU TÂM .......................... 178
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 11
1. Quy Trình ....................................................................................... 178
a) Tu Sĩ: ............................................................................................. 178
b) Giai Đoạn: ..................................................................................... 178
2. Tranh Chăn Voi - Diễn Giải ............................................................ 180
IV. CHÁNH PHÁP VÀ TÀ PHÁP ........................................................ 185
1. Bùa Ngải, Thần Quyền ................................................................... 185
2. Tẩu Hỏa Nhập Ma. ......................................................................... 186
a) Tẩu Hỏa: ........................................................................................ 186
b) Nhập Ma: ........................................................................................ 187
3. Điện Thần Nhân .............................................................................. 187
4. Ma, Quỷ, quỷ hiền, quỷ dữ .............................................................. 187
5. Tà Đạo Trong Phật Giáo ................................................................. 190
a) Phƣơng pháp tu hành đi ngƣợc lại hoàn toàn với quan niệm cơ
bản của Phật giáo: ............................................................................... 190
b) Phƣơng pháp đi đúng đƣờng lối của Phật giáo nhƣng tu sĩ
không chịu vào Diệt Thọ Tƣởng Định, hay chƣa vào đƣợc. ................ 190
6. Yết Ma Bộ (Mật Tông của Quỷ Thần) ............................................ 192
V. BIA RƢỢU VÀ TU HÀNH ............................................................... 194
1. Vào "Cận Định" mà uống cho qua chuyện: .................................... 194
2. Vào "Tứ Thiền Hữu Sắc" để mà uống và sau đó là dùng màn
tivi đẩy chất độc ra khỏi cái hào quang bằng nhiều cách: .................. 194
3. Xong chuyện: ................................................................................. 194
VI. TÌNH TRẠNG Ù LỲ TRONG CÔNG PHU .................................... 195
1. Thói quen tu sĩ: .............................................................................. 195
a) Đóng dấu tâm linh khi còn trớn ở "Cận Định" ................................. 195
b) Chai lỳ tâm thức: ............................................................................ 196
2. Giải quyết: ..................................................................................... 197
a) Suy nghĩ dƣơng tính trong tình trạng thê thảm (tự bơm): ................ 197
b) Tỷ lệ "quyết tâm". .......................................................................... 198
c) Tuyệt chiêu của Đại Đệ Tử của Đức Phật. ...................................... 201
3. Kết Luận: ....................................................................................... 207
VII. CHÌA KHÓA SỐ VÀ THƢỢNG/TRUNG/HẠ CĂN ...................... 208
E. TỤI NHỎ TU HÀNH (Thay lời kết) .................................................... 210
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 12
Cấp cứu?
Không! Còn hơn như thế nữa: GIẢI THOÁT!
Phật nói: Này Ananda, anh hãy tránh qua một bên, Chƣ Thiên không thấy
đƣợc tôi!
Ananda, không hiểu ý, đã tránh qua một bên (y nhƣ Anh và tôi) thật đau đầu.
Ý Phật muốn là: Ananda hãy tránh cái bản ngã chứ không phải là cái thể xác,
y nhƣ Anh và tôi, nếu chúng ta đƣợc diễm phúc ở vào thời điểm đó.
Tất nhiên, chúng ta sẽ tiếp tục hiểu sai ý của Phật cho tới khi chúng ta hoàn
toàn đƣợc giải thoát… Xin thân tặng tập tin nhỏ này cho những ai đã từng khổ sở với
sự hiểu lầm của mình.
Đây là những vấn đề căn bản, để làm sống dậy NHỮNG ĐÓA HOA CHẾT
đƣợc trình bày rải rác trong những tài liệu về THỰC HÀNH TU TẬP vô cùng
hiếm hoi của PHẬT GIÁO.
Chúng ta thông qua cách đọc tài liệu này và để ý vào một số thái độ tu tập của
tu sĩ. Trƣớc hết: Phƣơng pháp tu hành của Phật giáo chỉ hiệu lực đối với những ai
có ý muốn giải thoát và nhất là có hiếu với cha mẹ…
1)Đọc CHẬM RÃI, đừng nhảy đoạn, vừa đọc vừa HÌNH DUNG coi nó ra sao.
2)Cố gắng thâm nhập vào cách hành văn lủng củng này.
3)Đọc nguyên cả tài liệu để có khái niệm tổng quát về con đƣờng tu tập.
4)Chân lý, không phải là sự thật: Nên chỉ có một.
5)Và dĩ nhiên không có chân lý của Tiểu Thừa và Đại Thừa.
6)Thấy cho kỹ, hỏi cho kỹ, nghe cho kỹ, đọc cho kỹ, rồi hẳn làm cho kỹ
7)Đừng bao giờ phiêu lƣu vào thế giới vô hình mà không hộ thân.
8)Đừng nên sửa đổi công thức trong lúc công phu: Vì chả đi tới đâu hết.
9)Tâm không cầu giải thoát: không có đạo giải thoát, dù có tu đạo Phật.
10)Nếu muốn xuất hồn, thì hãy xuất hồn bằng luồng Bhavanga (Tứ Thiền).
Ví dụ: Quán một màn TV: tác ý tên cung trời và tác ý muốn vào đó…
11)Thập phƣơng Chƣ Phật không chấp nhận bất cứ sự tình cờ ngẫu nhiên nào.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 13
12)Pháp mà vƣợt quá phàm phu tâm: sẽ bị khùng (vì quá tải).
Ví dụ: Biết hết lý giải thoát, rồi đem áp dụng với phàm tâm: Rất nguy hiểm.
Huệ mà không định thì điên… Định mà không huệ thì tà…
13)Nếu bị nghiệp nhẹ, niệm: Nhân lành thì quả phải lành! Rồi tu tiếp…
14)Bị nặng: Bám chết công phu, rồi niệm: Thân tứ đại coi nhƣ bỏ, cầu chánh
đạo (theo kiểu ông Phật) cho đời sau…
15)Nếu bị lùi: Sám hối, làm việc thiện, bình tĩnh tu tiếp, niệm liên tục…
16)Đừng dùng những lý thuyết không đầy đủ: Chỉ hại thêm thôi!
17)Mật Tông trình bày những việc tuần tự nên làm để vận hành: Đàn Pháp
18)Tịnh Độ trình bày diễn tiến niềm tin từ thấp lên cao…
19)Xả thiền: Nếu nằm làm nhƣ vừa ngủ dậy. Nên xả chậm, từng cấp một...
20)Công phu xong, nhớ HỒI HƢỚNG (Đọc hồi hƣớng, đọc kinh Đại Thừa…).
21)Đôi khi phải HỘ THÂN lại, rồi mới sinh hoạt bình thƣờng.
XẢ THIỀN THEO THẦY MILAREPA
Xả thiền là một giai đoạn chuyển tiếp từ một trạng thái Định tỉnh sang
một trạng thái Động, cơ thể ( hệ thần kinh) cần phải có một thời gian để chuẩn
bị. Xả Thiền là một yếu tố rất quan trọng y nhƣ là khi chúng ta đổ nƣớc nóng vào
một cái ly đang lạnh vậy. Nếu chúng ta đổ liền một phát: Ly sẽ bị nứt hay bể. Nếu
trái lại chúng ta đổ từ từ, vừa đổ vừa lắc đều thì chúng ta sẽ tránh đƣợc những
điều đáng tiếc. Ở mức độ Cận Định sự xả thiền dƣờng nhƣ không cần thiết lắm.
Nhƣng ở mức độ nhập định cao hơn (Tam Thiền tới Tứ Thiền Hữu Sắc) hành giả
sẽ bị choáng váng khi xả thiền một cách đột ngột, hiện tƣợng này sẽ tác động vào
hệ thần kinh và sẽ làm cho hành giả tự nhiên đau đầu, hay có những cảm giác nhƣ
bị Máu Xâm. Nặng hơn, hành giả sẽ có hiện tƣợng *Tự Nhiên Bất Tỉnh* ( mà
không rõ nguyên nhân). Trong cuốn Tibetan yoga and secret doctrines của W. Y
Evans-Wentz, ISBN 0-19-500278-4 có đề cập rất rõ về cách xả thiền.
THỰC HÀNH:
Nếu tƣ thế thiền là Nằm: Thì rất đơn giản, làm nhƣ vừa mới ngủ dậy.
Nếu là ngồi Kiết già: Tất cả những động tác sau đây nên làm chầm chậm và
liên tục (y nhƣ chiếu phim quay chậm vậy)
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 14
A.Đầu:
1. Quay đầu sang trái: thở ra
2. Trở về lúc đầu: hít vào
3. Lập lại những động tác trên, nhƣng lần này về bên phải.
4. Lập đi lập lại ba tối thiểu 3 lần.
B.Vai:
1. Xoay vai từ thấp lên cao. Vai lên cao (hít vào), vai thấp (thở ra)
2. Lập lại ba 3 lần
C.Xả Ấn (nếu có dùng)
1. Đem ấn đụng với đầu rồi mới Xả (bằng một động tác vuốt tóc bằng cả 2
lòng bàn tay nhƣ làm điệu vậy)
D.Tay:
1. Rảy 2 cánh tay: Nhƣ sự giãy giụa của con cá khi bị câu lên khỏi mặt nƣớc.
E.Chân:
1. Từ từ bung 2 chân ra, 2 tay chịu xuống nền nhà.
2. Nâng 2 chân lên
3. Rảy nhƣ đã làm với cánh tay
F.Thân:
1. Ngồi lại nhƣ lúc đầu công phu, nhỏm ngƣời nhƣ muốn nhảy lên
(chồm ngƣời ra phía trƣớc nhƣ muốn đứng lên rồi trở về lại tƣ thế khởi đầu).
2. Vừa nhỏm vừa hô: Huh... huh... (ứng với mỗi lần nhỏm dậy)
3. Nhỏm ngƣời 3 - 6 lần
4. Hơi từ bụng thóp vào tạo thành tiếng Huh (nên phát âm nho nhỏ thôi). Xả
thiền đúng sẽ tẩy đƣợc độc tố trong ta, và giúp cho lần sau tu tốt hơn.
Nhớ: đọc vài câu *Hồi Hƣớng Công Phu* trƣớc rồi mới xả thiền sau buổi tập.
Tác Hại Khi Xả Thiền Không Kỹ
Cứ muốn xuất hồn lên thƣợng giới
Linh hồn không chồng khít vào nhau sau khi xuất định
Bị nhức đầu kinh niên, uống thuốc hoài mà không bớt.
Phải tập lại cách xả thiền nhƣ của Thầy Milarepa thì mới có mòi khá hơn đƣợc.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 15
Tại sao là vì khi chàng tập xong thì là chàng đứng dậy liền không thèm
xả thiền cho đàng hoàng. Vả lại khi anh chàng lại vào thân thể thì cái linh hồn đó
không chồng khít vào thân hình của chàng nên... lâu ngày thành thói quen và sau
đó thì bị nhức đầu.
VÍ DỤ MỘT MẪU ĐỂ VÀO CÔNG PHU
1. Môi trƣờng công phu nên YÊN TỊNH, AN TOÀN, ban đêm là TỐT NHẤT
2. Chọn tƣ thế THÍCH HỢP, thƣ giãn, điều hòa hơi thở
3. Sửa quần áo đừng bị cấn
4. Đọc trong TÂM:
Hôm nay, tại đạo tràng (Số nhà… Đƣờng… v.v...), sau này giỏi rồi thì tu
sĩ vừa đọc vừa quán: CĂN NHÀ CỦA MÌNH…
Con (đệ tử) tên là… Pháp danh: …… TU PHÁP: ……
Sau này tu giỏi rồi, vừa đọc vừa quán: Tu sĩ đang ngồi tu trong nhà …
Nguyện xin chƣ vị hộ đạo tràng, hộ gia đình, hộ tiền, hộ của. Hộ trì cho… công
phu đƣợc TINH TẤN. Nguyện xin chƣ vị: Phƣớc đức tròn đầy, tuổi thọ tăng trƣởng.
Cùng với… tu hành đến bực CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC.
5. Vô công thức HỘ THÂN
• Con gái: Đọc câu OM, KRODANA HUM JAH (7 lần) vừa đọc vừa nhìn
bộ phận sinh dục ĐỂ TẨY UẾ + tránh CẢNH GIỚI CHI PHỐI khi công phu. Rồi lại
tiếp tục hộ thân theo cách của nam giới… Tu sĩ tu Tịnh Độ không cần đọc phần hộ
thân mà vào ngay công phu.
• Con trai: Vô theo cách BÌNH THƢỜNG.
6. Vô công phu... Nhớ ghi nhận trạng thái TÂM LÝ sau buổi công phu.
BẤT CỨ SỰ DAO ĐỘNG TÂM LÝ NÀO ( do mƣa, bão, sấm, tiếp xúc
với ngƣời ác, nói chuyện quá nhiều, sân hận… hay không giữ Giới Luật) ĐỀU
DẪN ĐẾN TUỘT ĐỊNH hay nôm na là thụt lùi trong công phu.
7. Sau khi công phu, nhớ HỒI HƢỚNG và CẢM ƠN chƣ vị hộ pháp.
ĐỪNG CÓ BAO GIỜ NHẦM LẪN GIỮA: TÂM LÀNH và TÂM KHÔNG.
Định nghĩa: Tâm lành là sự yên tĩnh tâm lý của tu sĩ đã TU LÂU rồi, trong lúc
VÔ SỰ (cơm no, áo ấm...). Ở trạng thái này, có những CẤP ĐỘ sâu dày nhƣ sau:
• Có một sự DỬNG DƢNG đối với mọi vấn đề trên đời, có khi có cảm
giác mình TỪ ĐÂU TỚI chớ KHÔNG PHẢI Ở ĐÂY. Chẳng có một ƣớc muốn gì cả…
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 16
• Cao hơn chút nữa, tu sĩ hay có linh tính: Có một vấn đề gì đó sắp xảy ra
mà lại KHÔNG BIẾT NÓ XẢY RA CÁI GÌ! Nhƣ trƣờng hợp của YOGANANDA
trong XỨ PHẬT HUYỀN BÍ, lúc ông ấy cản không cho mấy đứa trẻ xuống tắm ở
một cái hồ.
Chúng ta đặc biệt lƣu ý đến SỰ BÌNH TĨNH của tu sĩ lúc này, nhất là SỰ
NHẠY CẢM: Khi đi thăm bệnh, bệnh nhân BỆNH LÀM SAO, thì tu sĩ BỊ Y
CHANG nhƣ vậy.
TÂM KHÔNG CÒN GỌI LÀ BÌNH THƢỜNG TÂM
TÂM KHÔNG là một sự YÊN TĨNH HƠN tâm lành RẤT NHIỀU... RẤT
NHIỀU... Đến độ CHỈ CẦN HỎI một vấn đề LÀ HỌ TRẢ LỜI ĐƢỢC NGAY không
thông qua bất kỳ một trạng thái trung gian nào cả nhƣ: Nhập định, thần giao cách
cảm, vô Mạn Đà La, v.v…
Trạng thái này, chỉ có những ngƣời đã đắc đƣợc: JNÃNA-PARAMITA…
Và xin nhớ rằng: Họ làm được, mình làm được!
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 17
A. GIỚI ĐỊNH HUỆ Thực hành mà không có một phƣơng hƣớng và nhất là một phƣơng pháp rõ ràng và đầy
đủ, thì tỷ lệ bị rơi vào "Tình_Trạng_Rối_Loạn_Pháp_Môn" rất là cao và khó có thể thoát
đƣợc. Y nhƣ một con chó khi bị mấy con chó khác cắn hội đồng. Nó sẽ cắn bên
phải một phát, rồi đớp bên trái một miếng thì nó sẽ chết. Nhƣng nếu nó biết cách
mở đƣờng máu, chỉ tấn công về một hƣớng thì tổn thất sẽ ít hơn và khả năng
thoát khá cao. Nhƣ vậy, thực hành theo kiểu "nghe đâu tập đó", hay "vui đâu tập
đó", hay tập vì có một số khá đông đang tập và đang hoan hô phƣơng pháp này...
thì kết quả, nếu có, sẽ không là bao nhiêu, mà phải y nhƣ là lời nhắn nhủ của
Thầy Milarepa:
"Phải có một phƣơng pháp tối thƣợng và một vị Thầy kề cận thì các con
mới đạt đƣợc mục đích tối hậu của mình".
Hay là lời của Bổn Sƣ: Phƣơng pháp mà các ông có dịp trình bày phải đƣợc:
- Hoàn hảo ở giai đoạn đầu (đƣợc hiểu là Giới).
- Hoàn hảo ở giai đoạn giữa (đƣợc hiểu là Định)
- Hoàn hảo ở giai đoạn cuối (đƣợc hiểu là Huệ)
Kết luận: Không phải đụng đâu tập đó, mà có thể thành công đƣợc mà phải
có một phƣơng pháp có tính xuyên suốt, rõ ràng và hoàn hảo ở ba giai đoạn: Giới,
Định, Huệ.
Với phƣơng pháp tối thƣợng này thì khả năng thành công mới nhiều đƣợc.
Nhƣ vậy, vì căn tánh chậm chạp (2500 năm rồi mà vẫn chƣa xong) bọn mình nên tận
lực thực hành và cố gắng... hết sức thì mới có thể thành công đƣợc.
Giới Luật:
Hoasentrenda chủ trƣơng là tu sĩ phải trang bị hai điều kiện:
1. Ăn Ngay Nói Thật
Trung bình thì một ngƣời hay nói xạo một ngày một lần (theo đài truyền hình
PBS điều tra). Tuy nhiên đó là chuyện bên Mỹ. Nhƣng ở những vùng chạy gạo nhƣ...
đà điểu thì không nói xạo thì... diệt vong luôn đó chớ đừng có nói là chỉ riêng một
mình mình chết mà thôi!
Nhƣng khi tu hành thì lại phải giữ giới. Đây là thế kẹt.
Tuy nhiên, vẫn có thể gỡ đƣợc một phần nào!
- Chọn ngƣời để nói thật:
Nếu mình chọn một ngƣời trong gia đình của mình, thế nào cho: hễ mà mình
nói chuyện với nhân vật này thì mình lại nói thật.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 18
Làm đƣợc nhƣ vậy thì ngoài đời mình có nói xạo thì chính nhờ vào ngƣời này
mà mình lấy lại đƣợc thăng bằng.
- Chọn một nơi để nói thật:
Hay là mình chọn một chỗ trong nhà mình, nếu mà bị hỏi, hay là chuyện trò
ngay nơi này thì mình lại nói thật.
Chỉ có hai cách này mà thôi.
2. Có Hiếu với Cha Mẹ
Coi cha mẹ là trên hết, quyết định đứng đắn của cha mẹ đƣợc tôn trọng cho đến cùng. Cha
mẹ nói đúng là mình làm liền, vì coi cha mẹ là tối thắng nên ý của cha mẹ nhiều lúc không phải ý
của mình thì phần đông mình cũng phải làm cho đƣợc luôn mới thôi.
B. HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
I. THIỀN ĐỊNH
1. NHƢ LAI THIỀN (THIỀN TIỂU THỪA)
(Dành cho những ngƣời có một tinh thần khoa học cao không tin vào
những điều huyền bí viển vông, vốn là một ngƣời rất nhân hậu và có rất nhiều
phƣớc báu điển hình: Họ kiếm tiền rất dễ mà không cần lừa dối ai chỉ dựa vào sự
nhân hậu của họ mà thôi).
Vì tự mình đi tìm chân lý nên họ thƣờng gặp rất nhiều trở ngại và phản ứng
phụ khi tu tập. Vì quá tự tin, họ sẽ bị thế giới vô hình lừa dối họ bằng cách:
Cầm chân họ lại, không cho họ tiến tu mà họ không hề hay biết! Nhƣ:
- Tạo những linh ảnh rất đẹp để họ ngắm nhìn mà quên mục đích chính của
mình là tu giải thoát.
- Báo mộng và nhất là dùng giấc mộng để lung lạc niềm tin của họ.
- Tạo những sự việc gần đúng với luận đoán của họ để họ tăng bản ngã lên và
quên mục đích chính là giải thoát.
- Tập hợp những ngƣời lạ lại rồi tuyên xƣng họ là Thầy này, Thánh kia.
Họ rất lanh lợi trong đời sống hằng ngày nhƣng lại rất ngây thơ trong đời
sống tu hành. Thật ra chúng ta nên làm ngƣợc lại thì đúng hơn.
Vì kết quả của việc tu tập một cách sai lầm chỉ xảy ra cho họ sau một thời gian rất lâu
(từ 6 tới 12 năm): Nên họ không cách gì mà biết đƣợc. Quả thật là phức tạp.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 19
a) THIỀN TÂM
Trong Thiền Tông, thƣờng nói đến một trạng thái tâm lý đƣợc gọi là:
TÂM THIỀN.
Có nghĩa là một sự thảnh thơi nào đó của tâm lý, hay một trạng thái
KHÔNG nào đó. Sự việc này thƣờng dẫn đến những sự hiểu lầm rất TAI HẠI, vì:
Nó sẽ đƣa chúng ta đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Và cũng chính nó làm ĐẢO
LỘN tâm lý của ta và có thể biến chúng ta thành những ngƣời KHÙNG, ĐIÊN,
MAD… (Mà những ngƣời nhẹ dạ có thể tƣởng lầm đó là những vị đã ĐẮC ĐẠO).
Để tránh tình trạng trên, chúng ta nên đọc những tài liệu sau:
1. ĐỨC PHẬT và PHẬT PHÁP của NARÃDA.
2. TRUNG BỘ KINH (tập 3) của THÍCH MINH CHÂU
Trong những tài liệu trên, còn thiếu rất nhiều những KỸ THUẬT về phần
thực hành. Để bổ túc vô khoảng đó, tài liệu này chỉ bàn về THỰC HÀNH, và những
phản ứng phụ CÓ THỂ xảy ra cho chúng ta trong lúc công phu.
b) QUAN NIỆM CƠ BẢN của ĐẠO PHẬT
1. Con ngƣời không có linh hồn và tƣ tƣởng.
2. Không một cảnh giới nào làm ta phải khiếp sợ và khuất phục cả.
3. Cố gắng giữ giới luật theo sức chịu đựng của mình.
4. Không đƣợc nóng vội, đốt giai đoạn trong lúc công phu.
5. Nên tìm ngƣời giỏi hơn mình để đàm luận hữu ích.
c) ĐỊNH NGHĨA CƠ BẢN
(1) CẬN ĐỊNH:
Là những phản ứng, cảm giác, hình ảnh xảy ra BẤT CHỢT, KHÔNG
BÁO TRƢỚC trong lúc đang công phu hay sau khi công phu.
a. Phản ứng: Gồm những cử động bất chợt, không biết nguyên nhân, trên thân.
b. Cảm giác: Gồm những cảm nhận trên thân (nóng, ngứa, nghiêng, nổ,
lắc, rần…)
c. Hình ảnh: Gồm những linh ảnh xuất hiện trƣớc hay sau khi nhập “chánh định”.
(2) TÀ ĐỊNH:
Là tất cả những cách thức công phu dựa vào ngũ quan để tập trung tƣ tƣởng.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 20
Ví dụ: Thôi miên: nhìn vào nhang, hay vào mặt trời; niệm sáu chữ A Di
Đà chạy lòng vòng trên cơ thể: tập trung tƣ tƣởng đằng sau ót, hay có cảm giác
nằng nặng, châm chích đằng sau ót hay trên bả vai…
(3) CHÁNH ĐỊNH:
Chánh Định là an trú chánh niệm đằng trƣớc mặt, có nghĩa là mình nhắm
mắt 100% và dùng trí tƣởng tƣợng của mình mà vẽ cho ra cái đề mục (có 4 mức độ
riêng biệt từ SƠ đến TỨ THIỀN).
Ví dụ: Tu sĩ nhắm mắt lại, rồi tập trung tƣ tƣởng về một ngọn LỬA và vẽ ngọn
lửa đó bằng trí tƣởng tƣợng của mình cho tới khi: Ngọn lửa xuất hiện đằng trƣớc mặt
mình một cách rõ ràng NHƢ THẬT.
Đó là giai đoạn đầu (hình ảnh đứa bé đứng chựng và đi loạng quạng, té lên,
té xuống, khóc lóc trong bƣớc đầu tiên là giai đoạn này đây).
Giai đoạn thứ hai là do thói quen (làm đi làm lại nhiều lần) nên mình có thể
giữ đƣợc lâu hơn cái hình ảnh mà mình tự vẽ ra. (hình ảnh đứa bé dựa vào bàn, ghế để
đứng lâu hơn và "đi" xa hơn, là giai đoạn này đây).
Hai giai đoạn này là chƣa nhập Chánh Định.
Điều nên làm: Hay lắm rồi đó! Nhƣng, chƣa đƣợc gì đâu em ơi! Chỉ mới là
giai đoạn đầu mà thôi! Cố lên!
Điều cấm kỵ: Tự cho đó là ảo giác. Điều này là cho chính tâm thức của mình
nó... bị rối loạn! Nó không biết phải làm sao luôn!
Đây nè nha:
Bắt nó vẽ ra cái đề mục! Nó nghe lời, nó bỏ những suy nghĩ lăng xăng và cố
gắng vẽ cho ra! Rồi khi nó vẽ ra đƣợc rồi thì kết án nó là "Mầy làm sai rồi! Vì đây
chỉ là ảo giác!" Thế là nó hết đƣờng chạy và không biết làm sao luôn.
Bạn đi đúng hƣớng rồi đó, nhƣng còn nhiều giai đoạn lắm! Việc của bạn,
hiện này, chỉ là đứng chựng đƣợc ngay trên đề mục này là ƣa lắm rồi đó!
Giai đoạn kế tiếp là đề mục phát sáng: Đây là khởi sự của phép lạ và cũng là
giai đoạn của "Chánh Định"
Nói về thời gian xuất hiện của đề mục thì có 12 giây mà thôi. Nói về khó
khăn thì "khỏi nói":
Tình trạng "Khó đƣợc và dễ mất" xảy ra thƣờng xuyên (nguyên nhân: Lo
ra, không giữ giới, nghĩ tầm bậy tầm bạ, ăn nói tàm xàm ba láp, thức khuya nhiều
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 21
quá, cƣời nói nhiều quá, ngủ nhiều quá, ăn nhiều quá, bị dị ứng về phƣơng hƣớng, dị
ứng về tiếng động, dị ứng về cuộc sống...).
Sách gọi đây là "Sơ Thiền".
Nét Chính của Chánh Định
Chỉ nói thêm những điều thƣờng hay làm, nhƣng không có nói ra trong các tài
liệu dạy về Thiền Định. Đề mục trong quy trình “Chánh Định” nên đƣợc tu sĩ từ Tứ
Thiền Hữu Sắc trở lên tìm kiếm, dựa trên tiêu chuẩn sau:
1. Hiếu Thảo
2. Ăn Ngay nói thật
Ngoài ra tu sĩ trứ danh này còn xem xét tình trạng Hào Quang [Rách (do
bệnh tật), méo, thiếu màu sắc… đƣợc trị bằng cách đeo hộ phù) …], Độ quyết
tâm, Biệt Nghiệp …
Đƣa ra đề án để chống trả lại ác nghiệp trong tƣơng lai bằng cách khuyến
khích tạo cho nhiều phƣớc báu. Để khi gặp ác nghiệp thì đỡ đi phần nào ác báo.
Một đôi khi lại cần cả ba bốn tu sĩ trứ danh xem xét lại cẩn thận sau đó mới quyết
định đƣợc.
Video Nét Chính Chánh Định: http://www.youtube.com/watch?v=jT5Vx7nnOXY
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 22
d)CÁCH CHỌN MỘT ĐỀ MỤC ĐỂ BƯỚC VÔ CÔNG PHU
(1) DỰA VÔ ĐẶC TÍNH ÂM DƯƠNG CỦA TỨ ĐẠI:
Với mức độ âm dƣơng từ thấp tới cao của TỨ ĐẠI đƣợc dự kiến nhƣ sau:
ĐẤT < NƢỚC < LỬA < GIÓ.
1.1 Đề mục ĐẤT: Giúp ta nhập vô SƠ THIỀN.
Lấy một cục đất sét có đƣờng kính 05cm hay 02” sơn lên đó màu hồng lợt.
1.2 Đề mục NƯỚC: Giúp ta nhập vô NHỊ THIỀN.
Lấy một ly nhỏ, đổ đầy nƣớc. Dùng bề mặt của nƣớc làm đề mục
1.3 Đề mục LỬA: Giúp ta nhập vô TAM THIỀN.
Lấy một ngọn lửa nhỏ, nhƣ ngọn lửa của ngọn đèn dầu hột vịt
1.4 Đề mục GIÓ: Giúp ta nhập vô TỨ THIỀN.
Lấy ảnh của một cửa sổ (chính diện hay tả diện), trên đó có một tấm màn
mỏng bị gió thổi và phất phơ nhẹ nhàng.
(2) DỰA VÔ TÍNH TÌNH CỦA TU SĨ:
2.1 Nóng tính (nhạy bén, lanh lẹ, nhạy cảm…)
Lấy đề mục nƣớc, hay một hòn bi xanh lơ, đƣờng kính 03cm
2.2 Ù LỲ (Chậm chạp, lờ mờ, ít nhạy cảm…
Lấy đề mục lửa, hay một hòn bi đỏ, đƣờng kính 03cm
Trong ĐẠI THỦ ẤN hai Tổ TILOPA và NAROPA đã dùng 2 cách trên để
chọn ĐỀ MỤC.
e) THỰC HIỆN CHÁNH ĐỊNH TRÊN MỘT ĐỀ MỤC
Trƣớc hết, chúng ta phải hiểu tại sao lại phải thực hiện CHÁNH ĐỊNH
Trong những tài liệu về PHẬT GIÁO, về phần vũ trụ quan, có nói tới nhiều
thế giới khác, trong một vùng không gian rộng lớn đƣợc gọi là: TAM THIÊN ĐẠI
THIÊN THẾ GIỚI. Vùng không gian này đƣợc chia ra làm BA vùng nhỏ hơn dựa
vào những đặc tính chung của từng vùng. Ba vùng đó có tên nhƣ sau:
DỤC GIỚI ( Gồm từ chƣ TIÊN Dục Giới: Tha Hóa Tự Tại đến A Tỳ
Địa Ngục). Ở đây lúc nào cũng có sự hiện diện của 02 giống: ĐỰC và CÁI. Hành
động của chúng là ĂN, UỐNG và GIAO DÂM. Tuổi thọ của những loài từ CON
NGƢỜI trở xuống đều không BẰNG NHAU; những loài trên CON NGƢỜI đều có
CÙNG MỘT TUỔI THỌ nếu cùng ở trên cùng một cung trời.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 23
Khi nằm mơ thấy CON TRAI, CON GÁI vì: Tâm còn THAM DỤC.
SẮC GIỚI ( gồm từ chƣ THIÊN Sắc Giới: Sơ Thiền đến Tứ Thiền). Ở
đây KHÔNG CÒN 02 giống: ĐỰC và CÁI. Không có vấn đề giao dâm, và ăn uống.
Thức ăn của họ chính là: LINH ẢNH của họ tạo ra trong cơn THIỀN ĐỊNH. Tuổi thọ
của họ rất giống nhau trên cùng một cung trời.
VÔ SẮC GIỚI (gồm những chƣ THIÊN từ Không Vô Biên Xứ, tới Phi Tƣởng
Phi Phi Tƣởng Xứ). Ở đây không còn hình tƣớng của bất cứ cái gì nữa. Chỉ gồm toàn là tƣ
tƣởng. Tuổi thọ của họ rất giống nhau trên cùng một cung trời.
Chúng ta lại biết rằng:
Ở DỤC GIỚI, trạng thái TƢ DUY đứng đầu. Có nghĩa là, ở đây, hiện tƣợng
này KẾ TIẾP hay ĐẰNG SAU hiện tƣợng kia: Khi ta thấy hiện tƣợng này, thì lại
KHÔNG THẤY hiện tƣợng đứng liền sau đó.
Ở SẮC GIỚI, trạng thái ĐỊNH lại đứng đầu. Có nghĩa là, ở đây, hiện tƣợng
này ở KẾ BÊN hiện tƣợng kia. Tƣơng tự nhƣ vậy:
Ở VÔ SẮC GIỚI, khi ta thấy hiện tƣợng này, thì ta lại THẤY RẤT RÕ hiện
tƣợng đứng liền sau đó.
Vậy lợi điểm của vấn đề NHẬP CHÁNH ĐỊNH là: Ta có thể biết ngay lập
tức BẤT CỨ vấn đề gì vì: hai hiện tƣợng lại ở KẾ BÊN nhau (nhƣ cái bàn ở KẾ
BÊN cái ghế vậy).
Đó chỉ là lợi điểm nếu áp dụng nó vào đời sống hàng ngày…
Ví dụ:
Thực hiện CHÁNH ĐỊNH nơi luân xa YẾT HẦU: Tu sĩ sẽ không đói và khát
Thực hiện CHÁNH ĐỊNH nơi điệu bộ và hình tƣớng: Tu sĩ sẽ biết đƣợc
TÂM LÝ.
Thực hiện CHÁNH ĐỊNH nơi điệu bộ và ký hiệu: Tu sĩ sẽ biết đƣợc
NGÔN N G Ữ . Ở đây, chúng ta chỉ bàn tới việc sử dụng nó vào việc GIẢI THOÁT
mà thôi.
(1) CẤU TRÚC VÀ SỰ HÌNH THÀNH CỦA MỘT TƯ TƯỞNG
Trƣớc khi vô vấn đề “thực hiện chánh định trên một đề mục”, chúng ta phải
biết sơ qua về cấu trúc, sự vận hành, và sự tạo nghiệp của một tƣ tƣởng. Vấn đề này
có trình bày trong kinh VI DIỆU PHÁP hay TỐI THẮNG TẬP YẾU LUẬN của
Thích Minh Châu (2 tập).
Chúng ta để ý đến sự việc xảy ra nhƣ sau:
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 24
Tiếng “cạch” do chùm chìa khóa rơi trên mặt bàn. Khi đem phân tích nó dựa
trên VI DIỆU PHÁP, ta có kết quả sau:
Sau khi ta nhận thức đƣợc sự việc vừa xảy ra nhƣ trên, trong một tiếng “cạch”:
Ta biết rằng, hay có một tƣ tƣởng trong đầu ta kết luận rằng: Đó là tiếng động của
chùm chìa khóa rơi trên mặt bàn, thì tƣ tƣởng đó đã qua năm (5) giai đoạn sau:
1. Xuất phát từ luồng “BHAVANGA” (Cá tính của ta).
2. Vào những giác quan (ở đây gồm: Mắt, Tai và Ý).
3. Làm các giác quan chú ý đến sự việc.
4. Vào Tốc hành tâm (JAVANA) một cách yếu ớt.
5. Ra Đăng ký tâm và Xác định tâm.
Tƣ tƣởng đó đã di chuyển từ VI TẾ TÂM (1,2,3,4) đến THÔ TÂM (5) và mất
đi một thời gian là: 17 sát-na tâm thức.
(2) NGUYÊN TẮC TẠO NGHIỆP CỦA MỘT TƯ TƯỞNG
1. Một tƣ tƣởng SẼ TẠO NGHIỆP khi nó đủ mạnh có nghĩa là từ: (2,3,4,5)
2. Một tƣ tƣởng KHÔNG TẠO NGHIỆP khi nó không đủ mạnh có nghĩa là (1)
Để GIẢI THOÁT hay GIẢI THOÁT TRI KIẾN, chúng ta đem theo sự THANH
TỊNH đến cho bằng đƣợc luồng BHAVANGA (cá tính) và VƢỢT QUA nó để đạt
đƣợc sự THANH TÂM hay AN CHỈ.
(3) ĐỊNH NGHĨA LUỒNG BHAVANGA
Là phần đầu của VI TẾ TÂM nó lúc nào cũng RUNG ĐỘNG và khó làm
cho nó chấm dứt đƣợc. Nó đƣợc tạo nên, do, và theo ý của TƢ TƢỞNG CUỐI
CÙNG của ta, khi ta chết ở kiếp trƣớc. Và chính nó đã âm thầm hƣớng dẫn ta làm
việc này việc nọ, ghét ngƣời này thƣơng ngƣời kia và cũng chính nó đã dìm,
đắm ta trong NGHIỆP QUẢ.
Nhƣ vậy cũng đã có QUÁ ĐỦ lý do để chúng ta thực hiện cuộc HÀNH
HƢƠNG từ miền VÔ MINH đến miền GIẢI THOÁT qua con đƣờng CHÁNH
ĐỊNH. Con đƣờng này không dành cho những THIÊN TÀI, mà chỉ dành riêng
cho những ai tự thấy rằng mình phải CẦN CÙ BÙ KHẢ NĂNG. Hay cho những ai vì
tò mò muốn tìm hiểu coi GIẢI THOÁT và GIẢI THOÁT TRI KIẾN là gì?
(4) NIMITA? Ồ Thật Giản Dị
Nimita là những hình ảnh mà thiền sinh khi nhắm mắt hay mở mắt và tập
trung tƣ tƣởng vào một đề mục, thƣờng gặp trong lúc công phu.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 25
Nimita trong hiện tƣợng của cận định (tâm gần nhập đƣợc chánh định): Hình
ảnh này lúc đầu thƣờng xuất hiện với 3 tính cách sau đây:
Bất ngờ.
Không báo trƣớc.
Và không theo một chủ đề nhất định nào.
Dao động tâm thức lúc này chỉ gồm 10 sát na tâm thức, với 7 sát na tâm
thức căn bản và 3 tâm thức ở luồng tốc hành tâm (Javana): Chuẩn bị, thuận thứ, cận hành.
Cận Định là: Cách gọi ba sát na tâm thức đầu tiên trong luồng Javana: Chuẩn
Bị, Thuận Thứ, Cận Hành.
1. Chuẩn bị: Những cảm nhận trên thân thể trong khi đang tập trung tƣ
tƣởng ngay đằng trƣớc mặt. Tùy theo cảm giác mà "phàm tâm" của tu sĩ đƣợc biểu hiện.
2. Thuận Thứ: Những biểu hiện của cái thấy qua những màu sắc, khi tập
trung tƣ tƣởng ngay đằng trƣớc mặt. Đây cũng là những biểu hiện các phàm tâm của tu sĩ.
3. Cận Hành: Sự tập trung tƣ tƣởng ngay đằng trƣớc mặt đã đủ mạnh để
có thể thấy đƣợc hình ảnh, hoặc là ngửi đƣợc mùi của những sinh vật trong cõi
Dục Giới.
Video Nét Chính Cận Định: http://www.youtube.com/watch?v=MvRiPrF5CJ8
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 26
(a) Khi đạt đƣợc sát na CHUẨN BỊ:
Hành giả có những cảm giác ngay trên THÂN mình nhƣ sau:
Phình to ra, teo nhỏ lại, bị nghiêng, lúc lắc, tê rần từng luồng, nổ trong đầu
( kèm theo một tia chớp sáng), ngủ gục (cả ngƣời hay từng phần).
Phân Tích:
Nimita ở cận định thƣờng phản ảnh trạng thái thô tâm của mình khi tâm đang
lắng xuống do tác động của công phu, ở đây:
Phình to ra: do tính cách tự cao, tự tôn, tự đại.
Teo nhỏ lại: tự ti, mặc cảm.
Bị nghiêng: thiên lệch khi phê bình, cũng có khi do ảnh hƣởng của từ
trƣờng chỗ tu tập gây nên, Nếu bị vậy: cứ xoay 45º theo chiều kim đồng hồ để khỏi
bị hao lực trong lúc công phu.
Lúc lắc: Lăng xăng (khi nhƣ vầy, khi nhƣ thế kia).
Tê rần từng luồng và nổ là do tác động của thô tâm sân hận.
Ngủ là do thô tam si nên thƣờng bị mê, nhƣng cũng có khi do mệt gây ra.
Ngủ ở đây là nói về trƣờng hợp sau khi đã ngủ một giấc đã đời rồi mà khi tập
mà vẫn bị ngủ thì cái này đích thị là do thô tâm si gây ra.
(b) Sát na THUẬN THỨ:
Tâm thức có những hình ảnh sau đây, tất nhiên là vì cận định nên hình ảnh
cũng xuất hiện với 3 tính chất:
Bất ngờ.
Không báo trƣớc.
Và không theo một chủ đề nhất định nào.
Đối với những hành giả nào nhắm mắt sẽ thấy rõ hơn. Nếu mở mắt vẫn có
thể thấy rõ trong màn đêm.
Một đốm màu xanh lơ.
Một đốm có màu sắc lẫn lộn.
Một đốm sáng màu đỏ hay cam.
Hình nhƣ có một đèn pha chiếu từ bên trái hay bên phải kèm theo những
giải màu sắc (đủ màu).
Với sát na Thuận thứ: hình ảnh thƣờng cho biết những nét chính của hào quang mình.
Đốm màu xanh lơ: ngƣời trầm tính thích đọc sách.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 27
Một đốm sáng màu đỏ hay cam: ngƣời nóng tính
Một đốm có màu sắc lẫn lộn: Ngƣời ta có khuynh hƣớng thần quyền
( vẽ bùa), tính tình bất nhất, đa nghi một cách tiêu cực (chỉ nghi ngờ vậy thôi chứ
không cố gắng tìm hiểu).
Hình nhƣ có một đèn pha...: cũng đa nghi nhƣng tích cực hơn.
Đặc biệt những ai có... tâm nhiều họ cảm nhận đƣợc hai cảm giác của 2 sát
na Chuẩn bị và Thuận thứ. Có nghĩa là vừa có cảm giác ở thân thể mà lại có những
hình ảnh nói trên.
(c) Tiếp đến sát na CẬN HÀNH trong luồng Javana:
Ở trình độ công phu này hành giả có thể gặp những hình ảnh sau:
Một con mắt trái, hoa rơi, ngƣời đứng hay ngồi lúc nhúc, nghe tiếng nói bên
tai, mùi thơm, hôi, mùi phòng thí nghiệm.
Do tác động yên tĩnh của thô tâm sau một thời gian ngồi với một quan niệm
“KHÔNG” nào đó hay một quan niệm buông xả hay buông bỏ (từ ba tháng trở đi tuy tùy
theo nghiệp quả từng ngƣời), hệ thần kinh trở nên trong sạch và cảm nhận đƣợc những
rung động rất là tế nhị của những thế giới vô hình.
Những hình ảnh này không mời mà xuất hiện là do sự cộng hƣởng của một giai
tầng KHÔNG nào đó (Ý của Hai Lúa tôi là: KHÔNG cũng có nhiều trình độ khác
nhau!) Cũng nhƣ không thể nói là vọng tâm (vì trƣớc khi đó mình không có một khởi
niệm về nó thì dựa vào đâu mà kết luận: nó là vọng?)
Ba hình ảnh đầu tiên thuộc về thế giới của THA HÓA TỰ TẠI. Đặc biệt
hình ảnh hoa rơi làm cho mình lầm tƣởng đó là cảnh giới thuyết pháp của Chƣ
Phật đƣợc miêu tả trong các kinh Đại Thừa. Hai Lúa tôi xin mạn phép chép lại
một đoạn kinh Pháp Hoa cho các bạn nghiên cứu ( câu 21-22 phẩm Tựa, trang
43), Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh lúc đó nói kinh Đại Thừa tên là Vô Lƣợng
Nghĩa Xứ Giáo Bồ Tát Pháp Phật sở hộ niệm.
Khi ấy trời mƣa hoa Mạn Đà La, hoa Ma Ha Mạn Đà La… Hai lúa tôi bị lọt
bẫy ở nơi này khá lâu (1977-1983), Nghe tiếng nói hay ngửi đƣợc mùi là vì cái trạng thái
KHÔNG của hành giả đã ổn định hơn trƣớc, nên mới bắt đƣợc các tần số đó.
Hƣơng: thƣờng phát ra một mùi thơm nhƣ hoa
Tha Hóa Tự Tại: mùi thơm ngọt nhƣ bánh ngọt
Quỷ thần: mùi khét hay mùi phòng thí nghiệm
Hộ pháp Kim Cang: thƣờng phát ra một mùi trầm (mùi của loại trầm tốt)
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 28
Nguy Hiểm:
Ngửi hay thấy “sau một thời gian” hành giả có thể bị cảnh giới ảnh hƣởng và
làm tăng bản ngã vì hai lý do:
1. Khi đi hỏi thì không ai giải thích rõ ràng, làm cho mình suy diễn là chỉ
có mình là đạt tới trình độ tâm linh đó thôi. Đặc biệt, ai mà thấy hoa rơi nhiều
thƣờng hay bố thí một cách rất là “ta đây”.
2. Phần đông là không ai thấy gì cả nên mình thƣờng cho rằng: ta là tu hành
tinh tấn hơn những ngƣời khác (là do lúc trƣớc đó mình cũng nhƣ họ)
Do vậy, các thiền sƣ lỗi lạc thƣờng định nghĩa THA HÓA TỰ TẠI là con
của THIÊN MA!
Khi tụi mình ngồi nhƣ vậy với một tâm KHÔNG nào đó, một cách thụ động,
sau một thời gian hệ thần kinh tạm ổn định ở trạng thái thô tâm và trở nên nhƣ một
máy thu sóng, nên lúc đó mình tự nhiên thấy này thấy nọ. Do thấy này thấy nọ thành
thử hành giả thƣờng lầm lẫn đây là Huệ nhãn.
Xin thƣa: đây không phải là Huệ nhãn. Tại sao?
1. Vì tụi mình không điều khiển đƣợc cái thấy này!
Ví dụ: trong khi thấy này nọ thử tác ý muốn thấy trên con đƣờng dọc theo xóm
của mình có bao nhiêu cái cây?
Xin thƣa cái này nó không có khả năng đó. Huệ nhãn thì thấy đƣợc liền.
2. Và nếu đã nói là huệ thì mình phải biết nguyên nhân tại sao những cảnh giới
này xuất hiện và nguồn gốc của nó. Ngay khi mình thấy nó: chi tiết này rất quan
trọng khi các bạn gặp những ngƣời tự xƣng hay có những hành động chứng tỏ rằng
“mình đã khai Huệ hay khai Huệ nhãn”. Ngƣời đã khai Huệ rồi thì không có cái
trò đoán mò và nói chuyện một cách “tâm lý nhƣ thầy bói”.
Họ nói ngắn gọn và chính xác.
Xin hẹn thƣ sau sẽ bàn về Chánh định có nghĩa là mình sẽ thấy gì ở sát
na Chuyển tính.
(d) Nay vào sát na kế tiếp, CHUYỂN TÁNH:
Tâm lý hành giả đƣợc nhảy vọt và thăng cấp bằng cách:
1. Chuyển tánh công phu: thay vì ngồi hay nằm: với “tâm không” một cách
thụ động nhƣ đã bàn vào bài trƣớc đó với tất cả những hậu quả của nó. Nay hành giả cố
gắng tạo một hình ảnh xuất hiện đằng trƣớc mặt. Hình ảnh đó là đề mục thiền định do
mình tự chọn hay do một thiền sƣ chọn cho mình.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 29
2. Do cố gắng tạo một hình ảnh xuất hiện đằng trƣớc mặt nên hành giả không
còn ngồi hay nằm một cách thụ động nữa mà lại rất là tích cực - Do tính cách
“Chuyển tính” ( từ thụ động sang tích cực) này mà hành giả không còn thấy
những cảnh giới trƣớc đó nữa - cách này hoàn toàn hợp lý.
Điểm sai lầm thƣờng gặp là:
1. Vì tiêm nhiễm tính cách KHÔNG của thể tính mà hành giả cố tình gạt bỏ hay xóa
bỏ tất cả những hình ảnh ở trạng thái cận định để cố gắng vào cái KHÔNG: chính cách
này sẽ làm hành giả rơi vào một tình trạng là: Không đƣợc gì cả.
Ngƣời đầu tiên rơi vào trên chính là ngài Ma Ha Ca Diếp. Tại sao? Vì lúc đó là
huệ mà không có định.
Các bạn sẽ đụng những tu sĩ này ở những lý luận không rõ ràng, giải quyết
thắc mắc không rõ nét và thực tế. Lời nói thƣờng hay bị hiểu lầm.
Do đó các thiền sƣ lỗi lạc có định nghĩa tình trạng này nhƣ sau:
Huệ mà không có định là điên (vì tính cách hiểu lầm của những ngƣời nghe
pháp, mà ngƣời thuyết pháp không có cách gì để kiểm tra họ đƣợc vì: tình trạng là
(ngƣời thuyết pháp) không có “Chánh định”)
2. Sợ quá mà không tập nữa: vì không ai giải thích. Vì ngƣời ta nói là KHÔNG!
Mà tại sao mình ngồi thì lại thấy tùm lum nhƣ vậy là có sai cái gì đó: thôi không tập nữa.
Kết luận: Và sau khi đã “Chuyển tánh” đƣợc rồi thì sẽ thấy đề mục ở đang hình nổi 3D.
Cũng nói thêm rằng: tất cả những linh ảnh biến hiện một cách không tự chủ ở
trên đầu tự động biến mất. Nói một cách xác thực, nhờ vào tốc hành tâm Chuyển
tánh mà mình có thể nhập chánh định trên đề mục đƣợc.
Do vậy mà để rút ngắn hơn nữa thời gian thành tựu: Hai Lúa tôi thƣờng xuyên
đề nghị các bạn, ngay từ giai đoạn đầu, nên tập trung tƣ tƣởng đằng trƣớc mặt và cố
tạo ra một hình ảnh từ một đề mục chọn sẵn là vậy đó.
Và tất nhiên sau đó là những cặp vé số Thanh tịnh hay An chỉ. Nếu cái thấp
nhất là Sơ Thiền thì cái cao nhất tất nhiên là Diệt Thọ Tƣởng Định.
Xin mời các bạn đến đó xem và thƣởng thức cái tính giải thoát mà Đức
Phật Thích Ca đã phát kiến ra, cách đây tròn 2500 năm.
(e) Cách thoát Cận định
Tibu bị hiện tƣợng Cận Định này rất là lâu. Sau này, do an trú chánh
niệm đằng trƣớc mặt, mới thoát đƣợc. Gần đây thì lại có câu của Ngài Xá Lợi Phất nên
anh em thoát nhanh hơn.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 30
Có nghĩa là, đọc trong tâm câu đó với đại ý nhƣ sau:
"Tui không muốn thấy các sắc pháp này nữa, vì tui biết còn rất là
nhiều cảnh giới cao đẹp hơn, tui còn rất là nhiều việc phải làm. "
Và kế đó là niệm liên tục tên của đề mục mình và nhìn ngay đằng trƣớc mặt và
cố mà vẽ cho ra cái viền của đề mục.
Tới đây thôi, thì các cảm giác của Cận Định, với ba đặc tính rất là rõ ràng:
1. Xuất hiện bất ngờ
2. Không thể lập lại, y chang lần thứ hai, theo ý muốn.
3. Ngoài chƣơng trình tu tập.
Sẽ tự động biến mất từ hồi nào không hay.
Cách hộ thân: Tất nhiên, là nên dùng chỉ với ý đồ là phòng xa mà thôi.
2. THỰC HÀNH
a) PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU THÂN
(1) TƯ THẾ THIỀN:
Nhớ để nguyên CÁI LƢỠI tiếp xúc với HÀM ẾCH.
(a) Định nghĩa:
Là một tƣ thế ĐƠN GIẢN, thăng bằng, an toàn, ít bị mỏi.
(b) Phân loại:
Có hai tƣ thế thƣờng dùng: NGỒI và NẰM.
Ngồi: Ngồi ở đâu, nhƣ thế nào cũng đƣợc, miễn an toàn thôi. Nếu thích
ngồi BÁN GIÀ thì nên theo cách đã đƣợc trình bày ở các sách HATHA YOGA (Nhớ
để bàn chân PHẢI trên bàn chân TRÁI). Nếu chọn tƣ thế ngồi trên ghế thì để hai
gót chạm nhẹ vào nhau.
Nằm: Nằm ở đâu, nhƣ thế nào cũng đƣợc, miễn an toàn thôi
(c) Phƣơng Hƣớng:
Có những ngƣời không hề bị DỊ ỨNG thì sẽ có (4) cảm giác chính sau:
Cảm giác không ĐÃ, hay không AN TOÀN khi quay mặt về hƣớng đó.
Khi công phu BỊ VẶN CỔ một cách đột ngột về một hƣớng khác.
Cảm giác NHƢ BỊ NGHIÊNG, mà thật ra mình ngồi rất thẳng.
Cảm giác LẮC LƢ nhẹ nhàng, ngay cả lúc nằm cũng vậy.
(d) Giải quyết:
Cứ XOAY từ từ cả thân hình qua hƣớng khác (nhớ xoay theo chiều kim đồng hồ).
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 31
Ví dụ: Nếu lần này ngồi ở hƣớng BẮC thì tới lần công phu sau sẽ ngồi
quay mặt về hƣớng ĐÔNG BẮC. Nếu lại không đƣợc, thì ở lần sau, ta lại xoay qua
hƣớng ĐÔNG…
(2) THƯ GIÃN:
(a) Định nghĩa:
Là không gồng bất cứ bắp thịt nào KHÔNG CẦN THIẾT trong lúc công phu:
Vẫn giữ hàm răng KHÍT, cả cái lƣỡi tiếp xúc với hàm ếch (vòm họng).
(b) Mục đích:
Tránh VỌNG NIỆM thƣờng xuất hiện vào lúc mới vô công phu.
(c) Thực hành:
Buông thả tất cả các bắp thịt từ đầu ngón chân, qua các khớp, lên đến đầu.
Nếu trong lúc buông thả mà có chỗ nào bị trở ngại thì:
Gồng nhẹ nó lên rồi thả ĐỘT NGỘT (Nhƣ 1 sợi dây đang căng bị cắt đứt đột
ngột !). Điều thân cho ngon lành đã, rồi mới thực hành TIẾP TỤC…
a) Buông xả mọi việc và ý tƣởng.
Đã buông xả thì buông xả thể xác trƣớc, rồi tới tƣ tƣởng sau: Thì mới đi
xa đƣợc. Cách buông xả của Hai Lúa tôi, khi ngồi, nhƣ sau: Từ tƣ thế ngồi cứ một
hơi thở hít vô rồi thở ra, tôi để ý đến ngón chân và khi thở ra: tôi buông thả nó, xong
tới bắp vế, rồi tới đùi, hậu môn, vai, cổ hơi cúi đầu xuống (Gập cằm, nhẹ thôi!), dùng
đầu nhƣ “đội trần nhà sẽ làm xƣơng sống thẳng một cách tự nhiên.
b) Đếm hơi thở
Sau đó tôi đếm hơi thở nhƣ sau: Hít vào thở ra, tôi tƣởng tƣợng vẽ một con
số trong các loại đồng hồ điện tử xuất hiện đằng trƣớc mặt nhƣ sau:
1,2,3... Cho tới 12.
Lặp đi lặp lại ba chu kỳ, những con số chỉ cần xuất hiện “Mờ Mờ” thôi là
đủ rồi vì đây chỉ là cách để làm cho tâm quên đi những việc thƣờng ngày thôi
(buông xả tƣ tƣởng).
b) PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TỨC
(1)Định nghĩa: Là sự chú ý vào sự RA, VÀO của hơi thở, dựa vô đó có
thể thư giãn được dễ dàng hơn, chỉ đưa tu sĩ tới CẬN ĐỊNH thôi, đừng quá tin
vô kinh sách.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 32
(2) Sự phân bổ khí lực:
Khi hít VÀO: Khí lực bị CHẶN ĐỨNG. Khi thở ra: Khí lực đƣợc LƢU
THÔNG.
Vì thế, nên thƣ giãn các cơ bắp vào lúc: THỞ RA (thở ra dài hơn hít vô).
(3) Mục đích:
Nối tiếp tình trạng CẬN ĐỊNH với CHÁNH ĐỊNH:
Từ CẬN ĐỊNH qua CHÁNH ĐỊNH là qua hai trạng thái tâm lý rất khác nhau:
Ở cận định: THAM DỤC còn rất nhiều (không thể hết đƣợc!).
Ở chánh định: THAM DỤC càng ngày càng mất đi (tùy theo độ nhập định).
Nên khi đi từ cận định đến chánh định, ta sẽ không tránh khỏi một sự đảo lộn
về tâm lý. Nhƣ chúng ta sẽ thấy nhƣ sau:
"BẤT CỨ SỰ DAO ĐỘNG TÂM LÝ NÀO ĐỀU DẪN ĐẾN VẤN ĐỀ:
tuột định. "
Do đó nên giải quyết nhƣ sau:
(4) Thực hành:
Với hai ngõ vào (mũi, miệng) và hai chỗ chứa (phổi, bụng), ta có ngay sự phân
bố về đặc tính ÂM (-), DƢƠNG (+) nhƣ sau:
Mũi (+) --- VÀO --- (-) Miệng
PHỔI (+) --- CHỨA --- (-) BỤNG
Ta nhận xét nhƣ sau: nếu khi thở, mà dùng MŨI với PHỔI là thuần DƢƠNG (+, +):
Ta sẽ bị nóng tính, hồi hộp, dễ kích động, KHÓ THƢ GIÃN…
Nếu khi thở có sự phối hợp giữa MIỆNG và BỤNG là thuần âm (-, -): Ta sẽ
bị: chết vì kiệt, hay yếu xìu, bệnh nặng…
Vì vậy: Ta nên dùng MŨI và BỤNG: Âm dƣơng điều hòa: (+, -) là hơi thở TRẺ THƠ!
CHÚ Ý TỚI HƠI THỞ RA nhiều hơn HÍT VÀO (thở DÀI ra nhƣng đừng quá mức).
Ví dụ: Nhắm mắt lại, khởi sự bằng hơi HÍT VÀO, khi THỞ RA lại
tƣởng tƣợng:
Con số xuất hiện (mờ mờ) ngay đằng trƣớc mặt trong một khung hình nhỏ.
Lập lại ba (3) chu kỳ; mỗi chu kỳ gồm 12 con số hay 12 HƠI THỞ.
Chú ý đến việc TÁC Ý vô những con số đó để làm cho chúng RÕ lên.
Nên thở chậm thôi, cố gắng phồng BỤNG lên khi hít VÀO. RỒI SẼ QUEN
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 33
c) HỘ THÂN
Giúp ta thực hiện công phu AN TOÀN hơn, khi hộ thân KỸ LƢỠNG,
những luân xa sẽ đƣợc KHÉP CHẶT lại và tránh tình trạng xuất hồn mà không
TỰ CHỦ đƣợc.
(1) Công Thức Hộ Thân:
(a) Hộ Thân Phái Nữ
Đọc câu: AUM, KRODANA HUM JAH (7 lần), vừa đọc vừa nhìn nó
(CƠ QUAN SINH DỤC) để TẨY UẾ + tránh CẢNH GIỚI CHI PHỐI khi công phu.
Rồi lại tiếp tục hộ thân theo cách của nam giới… Tu sĩ tu Tịnh Độ khỏi cần đọc phần
hộ thân mà vào ngay công phu.
(Chú giải: Có hình vẽ này, nhìn vào hai cái đùi thì mình sẽ
thấy nguyên không gian này có dạng hình ngƣời. Nè nha:
Chỗ "Ấy ấy" là cái đỉnh đầu, hai bên đùi là cái dạng của cái
đầu, hai đầu gối là... Hai vai và cẳng chân là hai bờ vai.
Tóm lại đây là một cái khung hình con ngƣời thuộc dạng...
Chân dung.
Khi ngƣời dùng trí tƣởng tƣợng mà để ý tới chuyện "nghiên cứu" thì chỗ này
nó phát ra một cái lực thu hút phái bên kia.
Khung hình chân dung có lực hẳn hoi.
Nạn nhân do cứ làm tới làm lui chuyện tƣởng tƣợng này nọ mà "Điện
Thần Nhân" mới có thể thấy đƣợc và nhập vào cái khung hình này để mà nghiên cứu
mình! Đó là nguyên nhân của bệnh "Đằng Dƣới".
Do vậy mà khi con gái (ngƣời có trí tƣởng tƣợng mạnh gấp ngàn lần ngƣời
con trai) mà tu tập thì có ngƣời lại theo thói quen lại suy nghĩ về "chuyện ấy". Nên
chỗ đó ( Khung hình chân dung) lại có dịp dao động.
Để phá cái dao động này nên các Tổ và Thầy đã tìm ra đƣợc thần chú: OM,
Krodana Hùm Ja. Do vậy mà Hộ Thân của phái Nữ cần thêm cái đoạn này.)
Quán cho đƣợc một chữ AUM (ÔM) ngay CƠ QUAN SINH DỤC.
Lƣu ý: âm thanh cao quý OM phát xuất từ luân xa thứ 6: Ajna. Âm thanh này
chỉ thua những chấn động tự nhiên của các Tâm Chú (Hrih, Vãm...) Vốn có nguồn
gốc từ luân xa thứ 7. Nên chỉ trong những trƣờng hợp thật sự bất thƣờng (do biệt
nghiệp: Hai bộ phận sinh dục cùng xuất hiện) thì mới dùng chữ Om ngay nơi này.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 34
Ngoài ra thì nó làm cho những cõi giới kinh hoàng khi ngay chỗ này lại phát ra âm
thanh OM. Do vậy mà hầu nhƣ rất là ít có ai lại quán chữ này nơi đây.
(b) Con Trai: Vào theo cách BÌNH THƢỜNG:
Thần chú: OM, DRIYM (ôm dri - dim).
(2) Kiết ấn hộ thân:
Thƣờng, nên tìm tu sĩ tu đắc pháp Mật Tông để truyền ấn thì ấn pháp có tác dụng mạnh
hơn. Nếu không có duyên thì tự phát bi nguyện rồi tự tập bắt ấn lấy.
- Chắp 2 tay, co 2 ngón trỏ y nhƣ hình, ngón trỏ phải nằm trên ngón trỏ trái.
- Hai ngón cái thẳng, trám kín vòng cung của ngón trỏ phải.
- Chạm ngón cái của khế ấn vô 6 chỗ trên thân thể.
Chạm nhẹ ẤN vô 6 chỗ sau: Vừa chạm nhẹ, vừa đọc trong tâm câu chú: VỚI
TẦN SỐ CAO
1. Giữa THÓP. (Huyệt Thần Đình, trong các sách châm cứu có nói tới).
2. Giữa TRÁN. (Huyệt Ấn đƣờng).
3. Giữa chỗ LÕM ngực PHẢI. (Huyệt Vân Môn).
4. Giữa chỗ LÕM ngực TRÁI. (Huyệt Vân Môn).
5. Giữa NGỰC. (Huyệt Chiên Trung).
6. Giữa MIỆNG.
(Thực hành 7 chu kỳ)
Khi kiết ấn (bắt ấn) thì các bắp thịt của bàn tay nên đƣợc "thƣ giãn vừa phải".
Thực hành về khái niệm "thƣ giãn vừa phải":
1. Ngửa bàn tay ra với các ngón tay khít lại với nhau.
2. Để bàn tay này lên trên mặt bàn.
3. Thƣ giãn cái bắp thịt của bàn tay.
4. Chú ý đến độ thƣ giãn của các ngón tay. Các ngón tay nghiêng cỡ 45 độ là
"vừa phải" còn cong lại nhƣ chữ "C" là thƣ giãn nhiều quá.
Kiết ấn: Với mức độ thƣ giãn của các ngón tay thì khí lực mới cộng hƣởng với
tâm lực mà phát ra đƣợc.
Kiết ấn có ba trƣờng hợp:
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 35
a. Tu sĩ mới tu hành và có những hiện tƣợng nhƣ sau:
- Đã tu tập và có sử dụng "Thần Quyền" vào những việc nhƣ đánh võ,
chữa bệnh, viết bùa... Rất là nhiều lần, một cách siêng năng.
- Khi đang tu tập một mình mà cửa tự mở hay là đồ đạc trong phòng tự
di chuyển.
- Tiền kiếp đã tu về "Thần Quyền".
Thực hành: Tu sĩ kiết ấn bằng tay và hộ thân theo công thức.
b. Tu sĩ có khuynh hƣớng xuất hồn, hay là khi tập thì nó đau ngay ngực:
Hiện tƣợng này xảy ra là vì đang tu đến khoảng Tam Thiền và lúc này
các trung tâm năng lực nó bị nở ra quá! Nhất là trung tâm năng lực Anahata (ngay ngực).
Thực hành: Tu sĩ bất ấn bằng cách quán hình ellipse (hột gà dựng đứng với hai
đầu bằng nhau) màu vàng khè. Trong hình ellipse này có một tu sĩ đầu trọc và bận áo
cà sa màu vàng khè. Tu sĩ quán cho ông tu sĩ này hộ thân. Khi ấn chạm tới đâu thì tu sĩ
sẽ thấy chỗ đó lóe hào quang, căn cứ vào mức độ lóe sáng này thì tu sĩ sẽ biết đƣợc
mức độ vững chắc của cách hộ thân.
c. Kiết ấn với trình độ "Thƣờng Trú Tam Bảo".
Cách này dành cho Tứ Thiền Hữu Sắc trở lên. Ở trình độ này, khi tu sĩ để
ý đến trên đảnh của mình, thì tu sĩ có thể thấy có những ngƣời ngồi hay đứng trên
hoa sen.
Những ngƣời này đƣợc sắp xếp theo thứ tự sau đây:
Gần mình nhất có thể là vị Thầy của mình và cũng có thể là cái vòng
phép ( Mạn Đà La) mà mình đang học, cao hơn một tí thì những vị Thầy khác và cao
hơn tý nữa thì tới những vị Phật. Có hai trƣờng hợp rõ ràng:
- Tu sĩ chƣa vào các định ở Vô Sắc: Vị Phật cao nhất là Tỳ Lô Giá Na
phát quang màu xanh dƣơng.
- Tu sĩ vào đƣợc các định ở Vô Sắc: Vị Phật cao nhất là: Hắc Bì Phật
phát quang 7 màu cầu vòng.
Các vị này cƣ ngụ thƣờng xuyên trên đảnh của tu sĩ: Nên gọi là "Thƣờng Trú
Tam Bảo".
Đây là một tình trạng cao cấp của Mật Tông. Tuy nhiên nó lại có những mức
độ cao thấp của chính nó.
Mức độ 1: Tu sĩ thấy hào quang của những vị này phát sáng rất là linh
động, nhƣng pháp thân thì cứng đơ, y nhƣ là hình chụp. Muốn tiến tu thì tu sĩ dùng
nguyên tắc: "Muốn có thì phải cho" có nghĩa là tiếp tục cho và tiếp tục làm việc thí pháp...
Mức độ 2: Hào quang linh động và Pháp Thân cũng sinh động luôn. Đây quả
thật là trình độ cao cấp nhất của Mật Tông.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 36
Lúc này tu sĩ làm bất cứ việc gì thì những hành động này đều là "ấn". Và
dĩ nhiên là tu sĩ nói bất cứ điều chi thì lời nói này đều là "thần chú"
(3) Đọc Lời Nguyện trầm nhất
Nguyện xin ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƢ LỢI BỒ TÁT hộ trì cho
con trong buổi công phu hôm nay đƣợc yên ổn và bình an.
Nguyện xin các chúng HỮU TÌNH cùng tu hành với con
đều đƣợc bình an
Nguyện xin các chƣ vị HỘ PHÁP, HỘ ĐẠO TRÀNG đẩy lui tất
cả các ác đạo, ác tâm, ác nghiệp ra khỏi chốn đạo tràng (chỗ tu).
Nguyện xin các chƣ vị THANH TỊNH, ĐẠI THANH TỊNH.
Hộ thân là một xảo thuật (lấy "Huyễn Trị Huyễn") trong Mật Tông. Nó có
tác dụng là bảo vệ cái hào quang và khép lại những trung tâm năng lực của mình.
Nó còn có tác dụng là kêu gọi những vị Hộ Pháp Kim Cang đến để bảo vệ mình
khi mình tu hành.
d)ẤN KIM CANG ĐỊNH TRONG CÔNG PHU
(1) KIẾT ẤN:
Ấn (theo thủ hiệu OK) còn gọi là "Kim Cang một tay" đó là ngón tay trỏ
đụng ngón tay cái tạo thành một vòng tròn và các ngón tay kia thƣ giãn theo kiểu vừa phải.
Ấn Kim Cang hai tay: Với tâm lực của tu sĩ thì dùng ấn này nó ngon lành hơn
cái ấn Kim Cang một tay. Thiết lập:
Tay phải bất ấn "Cam Lồ": Ngón áp út đụng với ngón cái tạo thành một
hình vòng tròn các ngón tay kia lại thƣ giãn một cách vừa phải.
Tay trái bắt ấn "Dƣợc Sƣ" ngón tay giữa đụng với ngón tay cái tạo thành
một vòng tròn, các ngón tay kia lại thƣ giãn vừa phải.
Hai tay lại để ngửa, các đầu ngón tay hƣớng vào nhau.
Động tác kế tiếp là: tu sĩ cứ một mạch đẩy cho hai bàn tay khít lại với
nhau, các ngón tay sẽ tự động xen kẽ: ngón trên, ngón dƣới một cách hài hòa và tự nhiên.
Động tác cuối cùng là: Thả hai cái vòng ở hai bàn tay đó ra và để hai đầu ngón
cái đụng nhau và nằm trên trỏ phải thì đây là ấn Kim Cang hai tay.
Chú ý:
Trong điều kiện này: Ngón trỏ của bàn tay "Phải" sẽ nằm trên ngón trỏ của bàn
tay "Trái". Ngón giữa phải lại nằm "dƣới" ngón giữa trái... Và…
Khi bắt ẤN 2 bàn tay đụng nhẹ nhau nhƣ KẸP 1 TỜ GIẤY HÚT
THUỐC LÁ
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 37
Để cái Ấn ngay chỗ nào thỏm nhất cho vững.
Xong rồi là thƣ giãn các cơ bắp nhƣng không phải xụi lơ 2 bàn tay. Nếu
nhƣ gồng là 10 và xụi lơ là 0, thì nó ở mức độ 2 hay 3.
Nên đọc từ từ kỹ lƣỡng, đọc tới đâu làm tới đó.
Âm (bàn tay phải) khí đi xuống. Dƣơng (bàn tay trái) Khí đi lên.
Từ đó âm dƣơng giao hòa, tạo thành ấn Kim Cang. Và khi các ngón tay đan lại
với nhau thì tu sĩ sẽ không bị tình trạng tuột ấn (các ngón tay hở ra) khi nhập chánh
định cực kỳ cao độ. Vì khi xuất định với các ngón tay hở ra thì những tu sĩ trứ danh này
lại bị bệnh (Có nghĩa là Khởi sự thì ấn khít, đến lúc xả thì ấn hở làm cho Tu sĩ bị
bệnh do khí lực không ổn định).
Do vậy mà thời xa xƣa, Các Tu sĩ trứ danh đã phải tìm cách bó hai bàn tay lại
khi bắt ấn Đại Định bằng một sợi dây. Ấn Đại Định: Hai bàn tay để chồng lên nhau
(tay phải ở trên tay trái, với các ngón tay không có đan vào nhau).
(2) XẢ ẤN:
Đem ẤN ĐỤNG DA ĐẦU RỒI MỚI XẢ.
Chú ý: Hộ thân trên chỉ tác dụng lên hệ thần kinh.
Ứng với tình trạng tu cao cấp (từ Tam Thiền trở lên), tu sĩ phải quán một hột
vịt đứng (hai đầu to bằng nhau) màu vàng trong đó có một ngƣời ngồi bắt ấn hộ
thân và quán cho họ thực hiện lại những động tác hộ thân vừa nêu trên. Hộ thân
này rất tốt với hào quang của tu sĩ. Nên nhớ cho kỹ rằng: Mỗi lần đọc một câu
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 38
chú để hộ thân, hột vịt lại lóe hào quang. Căn cứ vào mức độ lóe sáng đó, tu sĩ
biết đƣợc độ vững chắc của sự hộ thân.
e) THỰC HIỆN CHÁNH ĐỊNH TRÊN MỘT ĐỀ MỤC: LỬA
(Các đề mục khác áp dụng tƣơng tự)
(1) CHỨNG VÀ ĐẮC THIỀN HỮU SẮC
Tƣởng tƣợng một ngọn LỬA xuất hiện đằng trƣớc mặt:
1. Khi ngọn lửa CHƢA xuất hiện, tâm đọc câu: LỬA… LỬA… chậm chậm thôi.
2. Khi ngọn lửa ĐÃ xuất hiện, tâm đọc câu: LỬA 1… LỬA 2… cách nhau 1 giây.
3. Khi ngọn lửa xuất hiện lần đầu tiên, tu sĩ bị MẤT cảm giác thân thể.
4. Cố gắng THƢ GIÃN, đừng nôn nóng, đừng thi đua với nhau.
5. Nếu thấy trở ngại: SÁM HỐI, cố gắng GIỮ GIỚI càng kỹ, càng tốt.
6. Khi chánh định tới TAM THIỀN thì mới thấy ĐÚNG một cái gì đó.
7. Nếu không, tu sĩ sẽ BỊ MA NHẬP, hay MA CHO THẤY, và sẽ bị
CHI PHỐI !
8. Nếu có SỢ thì đừng có SỢ: CÁI SỢ của mình.
9. Dùng câu: NHÂN LÀNH THÌ QUẢ PHẢI LÀNH để trấn áp cơn SỢ HÃI.
CHỨNG: Mới nhập chánh định một vài lần đầu tiên: Chƣa đƣợc TỰ TẠI.
ĐẮC: Muốn xuất và nhập định bao lâu, lúc nào, ở đâu cũng đƣợc: Gọi là TỰ TẠI.
(a) SƠ THIỀN: Giữ đề mục 12 giây
Ở đây tu sĩ mất SÂN HẬN, LO, SỢ, hết nghi ngờ về phƣơng pháp, ít ngủ.
Tâm tƣ lăng xăng vô cùng, nay chỉ còn 5 vấn đề:
1. Tầm: Tìm kiếm đề mục.
2. Tứ: Giữ đề mục càng lâu càng tốt (khoảng từ 1 đến 12 lần đếm).
3. Hỷ: Vui ở ý, miệng mỉm cƣời do nhập đƣợc chánh định.
4. Lạc: Nhẹ nhàng ở thân.
5. Nhất tâm: Đƣợc xác định do độ trong suốt, rõ ràng, và sự xuất hiện lâu dài
của đề mục.
Nếu tinh tấn: Không gian quanh đề mục có màu đen tuyền và xa thăm thẳm.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 39
Video Nét Chính Sơ Thiền: http://www.youtube.com/watch?v=QHCSaLQo1m8
Cận Định là: Cách gọi ba sát na tâm thức đầu tiên trong luồng Javana: Chuẩn
Bị, Thuận Thứ, Cận Hành.
Nguyên tắc thứ nhất là: Nhìn chăm chăm vào đề mục, đừng đếm xỉa gì
chung quanh đó. Chỉ khi nào đề mục hiện ra thật vững chắc thì những chi tiết khác
mới lần lƣợt hiện ra!
Nguyên tắc thứ hai là: Kiên trì, kiên định và nên nhớ làm tới 70% sức lực mà thôi.
Đề mục đã hiện ra thì: Đừng có sa đà, làm hăng máu quá mà sinh ra tức
ngực, chóng mặt. Những cảm giác vừa nêu ra này đều có khuynh hƣớng chận bƣớc
tiến tu. Tốt nhất làm tới 70% sức lực thì ngƣng.
SƠ THIỀN và TIẾNG ỒN
Khi đề mục xuất hiện đằng trƣớc mặt khoảng 12 giây là hành giả vào
đƣợc ngƣỡng cửa của Sơ Thiền. Hành giả sẽ bị những tiếng ồn sau đây chi phối:
Tiếng ồn có tánh cách bất chợt nhƣ một vật gì đó rớt xuống nền nhà, một tiếng kêu
của ai đó, một bƣớc chân của ai đó đang đi tới chỗ mình tập. Để khắc phục chỉ còn
nƣớc là: đi chỗ khác mà tập. Hay là dặn ngƣời nhà là đừng làm ồn, hay là ( trƣờng
hợp của Anh Sơn) là nghiến răng, và ép nguyên cả cái lƣỡi lên nóc vọng và tập
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 40
trung tƣ tƣởng liên tục vào đề mục (vì vợ anh ấy hễ thấy anh tập là chị lại chơi
piano. Và nhất là tiếng í í trong lỗ tai phải (nhiều hơn): Tiếng ồn này không có gì là
khó chịu lắm đâu. Vì đó là tiếng ồn của phần não bộ bên phải nó phát ra... khi vô
thức của hành giả do tu tập mà mạnh dần lên. Nguyên tắc là vẫn tập trung vào đề
mục chớ đừng có mất thì giờ mà ngồi nghe cái tiếng í í này: nó chẳng dẫn mình
đi đâu xa cả ngoài hiện tƣợng Cận Định mà thôi.
Ngoài ra có hành giả còn nghe luôn đƣợc cả tiếng ù ù của bộ An Ninh
Quốc Phòng các cƣờng quốc. Tiếng ù ù này dùng để phát hiện vị trí những tàu ngầm
của nhau. Chỉ còn một cách là... uống rƣợu cho say để mà ngủ. Hay là nghiến răng lại
và ép cả cái lƣỡi lên nóc vọng và tập trung tƣ tƣởng vào đề mục để thoát khỏi sự
nhạy cảm của hệ thần kinh này.
(b) NHỊ THIỀN: Từ 12 đến 40 giây
Những kết quả do từ bỏ THAM, SÂN, SI ở trên càng đƣợc củng cố và mạnh mẽ.
Tâm còn 4 vấn đề:
1. Tứ: Đề mục xuất hiện liên tục từ 12 đến 40 lần đếm.
2. Hỷ: Nên niệm nó và tiến tu dễ dàng hơn. Xin đừng quên.
3. Lạc: cảm giác nhẹ nhàng, hạnh phúc càng tăng so với Sơ Thiền.
4. Nhất tâm: đề mục đã phát ra ánh sáng xung quanh. Tâm lý: SỢ MẤT ĐỀ
MỤC xuất hiện.
Nếu tinh tấn, đề mục nhỏ lại và đứng im.
Video Nét Chính Nhị Thiền: http://www.youtube.com/watch?v=1AyQm59v_JE
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 41
Đặc điểm thứ nhất: Vì tình trạng đề mục rất là khó giữ và làm cho hiện
ra. Đồng thời là: Sau khi đã hiện ra rồi thì cứ bị mất hoài! Nên tâm lý "Sợ mất cái đề
mục" lúc nào cũng ám ảnh Tu sĩ khi leo lên đến Nhị Thiền.
Đặc điểm thứ hai là: Đề mục tự phát ra ánh sáng. Và hiện ra đƣợc từ 12 giây
cho tới 40 giây.
Tất nhiên, thực tế không hẳn là nhƣ vậy! Ý là thời gian xuất hiện của đề
mục thông thƣờng là nhƣ trên. Nhƣng sau này, cái chất lƣợng của đề mục mới thật
sự là cần thiết: Tức là độ phát sáng của đề mục. Hoặc là đề mục thay đổi cƣờng
độ phát sáng (lập lòe) ! Đặc biệt: Khi thấy đƣợc sự lập lòe này, tu sĩ lại có thể hiểu
đƣợc luôn ý nghĩa của nó!.
NHỊ THIỀN với TẦM VÀ TỨ
Khi đề mục phát ra ánh sáng là hành giả đã vào đƣợc Nhị Thiền hay nếu nói
về thời gian xuất hiện thì sẽ là từ 12 đến 40 giây đồng hồ. Khi này thì tâm lý
lại có khuynh hƣớng: Sợ đề mục lại biến mất đi trong tầm nhìn. Do vậy mà tầm (cố vẽ
đề mục bằng trí tƣởng tƣợng) và tứ (là cố giữ đề mục xuất hiện càng lâu càng tốt) lại
là một trở ngại trong khi hành thiền ở trình độ Nhị Thiền.
Giải quyết: Khi đề mục biến mất trong tầm nhìn thì hành giả cũng nên
niệm trong tâm rằng: Đó chẳng qua là sự sinh diệt của các pháp. Khi mình chứng
đƣợc sự sinh diệt của các Pháp này rồi thì mình trở nên bình tĩnh hơn trong
công phu. Có nghĩa là mình không còn lên án rằng là “mình tu quá tệ” nữa, khi đề
mục lại biến mất trong tầm nhìn. Mà mình hiểu rằng: sự biến mất này là cái tự
nhiên của tất cả các pháp. Do bình tĩnh hơn và nhất là không lập tâm rằng mình
sẽ ráng làm cho ngon lành hơn... Hồi hôm qua khi khởi đầu buổi công phu. Nên
tâm mình trở nên an phận hơn. Do sự an phận này mà mình lại an vui hơn. Và vì
mình cố ý tác ý về sự an vui này khi đề mục phát ra ánh sáng thì sự Hỷ và Lạc
càng thấm nhuần thân thể và càng mạnh mẽ hơn khi còn ở Sơ Thiền. Do an vui
mà mình vô Tam Thiền hồi nào mà mình cũng không hay.
(c) TAM THIỀN: Từ 40 đến 70 giây
Sự từ bỏ THAM, SÂN, SI càng rõ và mạnh hơn (đời không còn đáng lo nữa cho
dù: Động đất hay cháy nhà). Tâm chỉ còn ba vấn đề.
1. HỶ: Nên niệm: hỷ… hỷ… tới khi có một niềm vui dâng lên rồi tu tiếp.
2. LẠC: Nhẹ nhàng hơn Nhị Thiền nhiều. Hạnh phúc vô cùng!
3. NHẤT TÂM: đề mục xuất hiện dễ dàng, có hào quang chói về cái thấy.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 42
Bị tức ngực (do không hộ thân kỹ) có nguy cơ xuất hồn. Dừng lại: HỘ
THÂN CHO KỸ ĐÃ.
Nếu tinh tấn: giữ đề mục cho lâu và thực hiện công đoạn đổi đề mục đƣợc nói
rất kỹ ở phần Tứ Thiền. Đề mục xuất hiện từ 40 đến 70 lần đếm. Lúc này sự THANH
TỊNH đã lấn xuống luồng BHAVANGA rồi, nên tu sĩ cảm nhận có một sự RUNG
ĐỘNG tuy rất NHẸ, nhƣng nó cũng làm cho tu sĩ rất KHÓ CHỊU và có cảm giác
nhƣ BỊ TUỘT ĐỊNH. Ngay lúc này mới đổi đề mục để vào Tứ Thiền.
Tam Thiền, ôi cái rắc rối của cuộc đời! Đề mục đã chói sáng rất là mạnh và
phát ra hào quang (trên lý thuyết là từ 40 cho tới 70 giây). Hiện giờ tu sĩ chỉ chú ý tới
cái độ chói sáng của nó mà thôi.
Một trạng thái loạn động cực kỳ khó chịu lại xuất hiện! Tu sĩ nghi ngờ là
mình bị "thảm họa" tuột định! Tại sao đề mục vẫn chói sáng ngon lành nhƣ vậy
mà trong tâm lại kèm theo một hiện tƣợng dao động theo kiểu bị tuột định lạ lùng nhƣ kia?
Thật ra đây là lần đầu tiên tu sĩ tiếp xúc với sự loạn động của "Vi Tế
Tâm". Phần đông tu tới đây, thì rất là chán nản và sau cùng là bỏ cuộc luôn!
Nguyên tắc vƣợt qua là:
Tu sĩ đọc lại Đại Nguyện và chỉ chăm chăm vào đề mục bất chấp chuyện gì
xảy ra. Tu sĩ... sống giữa hai trạng thái "Định Tỉnh" cực kỳ ổn định. Đồng thời tu sĩ
cảm nhận luôn đƣợc cái loạn động của Vi Tế Tâm. Rất là khó chịu.
Video Nét Chính Tam Thiền: http://www.youtube.com/watch?v=oVKNJ0p8qNk
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 43
TAM THIỀN và HỶ
Khi đề mục lại phát ra tia sáng mạnh nhƣ tia hồ quang (cái tia sáng màu trắng
xanh khi thợ hàn điện đang hàn đó mà!) thì mình lại vào đƣợc Tam Thiền, hay nói
theo thời gian xuất hiện của nó thì khoảng 40 đến 70 giây. Tuy vậy cái trở ngại của nó
lại là cái hỷ ( cái vui ở trong bụng). Tại sao? Là vì khi mình tới Nhị Thiền thì cái
vui này nó càng ngày lại càng mạnh. Đến độ, nếu bất chợt nhìn vào gƣơng thì mình
lại thấy cái mép của mình cứ cong cong y nhƣ là nụ cƣời của La Joconde (bức tranh
trứ danh của Leonard De Vinci) vậy.
Và tất nhiên là khi vào Tam Thiền thì cái hỷ này biến mất và hiện tƣợng
trụ tâm vào cái xả cùng với sự cố gắng giữ cái chánh niệm và sự tỉnh giác mà
thôi. Do không biết cái chuyện này nên hành giả lại đi tìm ngƣợc lại cái hỷ. Nên lại
tự lâm vào cái tình trạng cà xịch, cà đụi: có nghĩa là vừa lên đƣợc Tam Thiền (mất
cái hỷ) thì lại tìm xuống Nhị Thiền (để tìm lại cái hỷ) v.v… Và cứ lòng vòng nhƣ vậy hoài.
Ngoài ra, tình trạng Tam Thiền là một tình trạng có rất nhiều cảm nhận đặc biệt:
Đến đây. Sự thanh tịnh đã có lực: Thô Tâm hầu nhƣ đã im lặng, nhƣng vi tế tâm vẫn còn
dao động (dĩ nhiên). Nhƣng cũng vì lúc này cái tâm đã có lực rồi, nên nó cảm nhận đƣợc
sự dao động của vi tế tâm hay là luồng Bhavanga (vốn là cái cá tánh đặc biệt của mình:
cá tánh này đƣợc tích lũy do những chập tƣ tƣởng cuối cùng của từng kiếp khi mình chết
đi và sống lại trong hàng tỉ kiếp luân hồi). Cũng do cảm nhận đƣợc sự dao động này mà
hành giả lại có cảm giác là mình đang tuột định. Đặc biệt, một vài hình ảnh tiền kiếp của
chính mình bỗng nhiên xuất hiện trong vòng một sát na. Cuối cùng, đây cũng là cái trần
nhà khi nhập chánh định trên một đề mục (kasina) mà thôi. Không cách gì mà lên đƣợc
Tứ Thiền với phƣơng tiện này đƣợc.
(d) TỨ THIỀN: Từ 70 giây trở lên
Những kết quả HẾT THAM, SÂN, SI gần nhƣ lúc nào cũng có bên ta.
Tâm còn hai vấn đề:
1. Lạc.
2. Nhất tâm.
Ở đây, cố gắng chịu đựng độ chói sáng của đề mục và giữ nó càng lâu càng
tốt, kế đó đổi đề mục: Quán một khối cầu màu xanh lơ hay xanh lá cây non (màu
xanh lá cây non sẽ làm cho tâm tu sĩ ít dao động hơn) có đƣờng kính 3cm. Sau khi
đề mục xuất hiện dễ dàng:
Làm cho nhỏ lại bằng cách tập trung vào trung tâm của đề mục (hòn bi) và
tác ý làm cho nó nhỏ lại. Sau khi, thực hiện thành công hai giai đoạn trên, tu sĩ thực
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 44
hiện lại công đoạn trên nhƣng với đề mục (hòn bi) lần lƣợt có những màu khác
nhau: đỏ, vàng, trắng.
(Thay đổi những hòn bi và làm cho nhỏ lại) + Tâm Lực (một mất, một còn) =
Tứ Thiền.
Ghi chú: Đừng đợi cho đề mục nó tự mất mà phải làm cho nó nhỏ lại khi nó
vừa hiện hơi lâu một chút (có nghĩa là lúc thân hòn bi trong hơn) thì đổi đề mục
ngay, nhớ làm theo thứ tự từ lớn sang nhỏ.
Phản ứng phụ:
Bất ngờ, thấy rơi một cái (nhƣ máy bay rớt xuống khi vào một túi không khí loãng) và
một không gian trong suốt bao la xuất hiện càng ngày càng rõ. Tu sĩ đã chứng: Quang Quả
Thiên (cung trời đầu tiên của Tứ Thiền, Cung trời có không gian rộng lớn, trong sáng với
không khí sạch sẽ nhƣ đƣợc lau chùi.).
Xuất hồn: Đang tập mà tự nhiên thấy mình đứng ngay ở một chỗ nào
đó, không có sự cảm nhận của thân thể! Nhƣng chỉ có "cái Thấy". Giống nhƣ là con
mắt nó di chuyển đến chỗ đó vậy. Tiếp tục dùng kỹ thuật thiền định để vào Quang
Quả Thiên.
Sau Khi ở Quang Quả Thiên thì: Trong bất cứ điều kiện nào thì hành giả
đều cố gắng giữ tình trạng đang có càng lâu càng tốt. Tất nhiên, vào những lúc đầu (1
và thì không làm gì đƣợc là cái chắc. Nhƣng sau đó thì làm đƣợc và làm rất là
dễ dàng.
Do hành giả trụ tại sự thanh tịnh này nên khi ở càng lâu thì sự thanh tịnh
càng nhiều và đi đến cái tƣ tƣởng nó... keo lại (Vô Tƣởng Thiên). Vô Phiên Thiên là
cung trời của các Thánh Tăng.
Lúc bây giờ công việc tu tập trở nên đơn giản hơn. Công việc kế tiếp là phải: ngăn
không cho tình trạng an chỉ, vừa mới có, chìm xuống luồng Bhavanga.
Quán một MÀN TIVI màu trắng nhƣ hột gà bóc, tâm đọc thật chậm rãi:
Chuẩn bị... Thuận thứ... Cận hành... Chuyển tánh... An chỉ…
Cho tới khi thấy hơi ngộp thở dài thì giảm cƣờng độ tập trung. Tập đi tập
lại cho thật nhuyễn rồi mới bƣớc sang con đƣờng Minh Sát Tuệ. Ở đây tu sĩ
thƣờng mắc phải sai lầm là hấp tấp trong khi tu tập, lần này đừng để phạm sai lầm
đó nữa, tu sĩ phải từ tốn, đừng vội vàng. Phải tập đi tập lại cho nó nhuyễn rồi mới
bƣớc vào Minh Sát Tuệ.
Ghi chú: Khi đọc chậm rãi câu trên, tu sĩ nên lắng tâm để thâm nhập vào ý nghĩa của
từng chữ, vì đó là năm (5) chập tƣ tƣởng của Tốc hành tâm (Javana).
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 45
Video Nét Chính Tứ Thiền: http://www.youtube.com/watch?v=pOOHCDLW8FI
TỨ THIỀN và HƠI THỞ
Chắc rằng các Bạn cho rằng: Đây là bƣớc đầu của sự tự thắng, nên chỉ còn
một nƣớc là: Một mất, một còn chớ gì? Đó là trên lý thuyết mà thôi. Xin quý bạn
bình tâm và đừng có lo về cái chuyện phải chiến đấu với cái hơi thở ở cái trình
độ Tứ Thiền này.
Một ví dụ:
Lấy một cái đồng hồ báo thức loại cổ lỗ sĩ ( loại lên dây thiều) loại mà khi
nó chạy, nó kêu một cách ồn ào: tích tắc... tích tắc đó. Kế đó là mình ngồi lắng
nghe tiếng động của cái đồng hồ này, khi mình đã có thể nghe rõ cái tiếng tích tắc
tích tắc của nó rồi, thì mình lại để cái đồng hồ đó cách xa mình hơn một tí. Kế đó là
mình cứ ngồi yên tại chỗ cũ mà cố nghe cái tiếng động của cái đồng hồ đó. Sau khi
nghe đƣợc rồi, thì lại đem cái đồng hồ đó ra xa hơn một tí nữa và cứ thế mà làm cho
tới khi phải cố gắng lắm thì mình mới có thể nghe đƣợc nó. Tới đây, quý vị có để ý
rằng: hơi thở của chính mình lại tự động chậm lại và đôi lúc mình lại tự động... nín
thở để mà nghe chăng?
Tứ Thiền cũng dùng một nguyên tắc đó để tự động quên hơi thở. Sau khi
dùng cái đề mục của mình để vào đƣợc Tam Thiền (đề mục phát hào quang) thì
mình lại đổi cái đề mục ấy thành những hình ảnh của những hòn bi có những màu
sắc khác nhau và theo thứ tự nhƣ sau: Màu xanh dƣơng, màu đỏ, màu xanh lá cây,
màu vàng và cuối cùng là màu trắng.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 46
Về đƣờng kính của các hòn bi này thì có 2 (hai) giai đoạn:
1. Giai đoạn thứ nhất: là đƣờng kính khoảng 3cm hay là to nhƣ trái banh cù (golf).
2. Giai đoạn thứ nhì: là tập trung vào ngay trung tâm của hòn bi, sự tập
trung vào chỗ này, tự động làm cho hòn bi đó nhỏ lại và có đƣờng kính là một ly (1mm).
Cách thực hành nhƣ sau:
Khi hòn bi xuất hiện ra ngay đằng trƣớc mặt mình rồi và có cái màu mà
mình muốn (ví dụ nhƣ là màu xanh dƣơng, màu xanh da trời đó mà) thì mình lại
tập trung vào ngay trung tâm của nó để làm cho hòn bi đó nhỏ lại. Sau khi nó nhỏ
lại rồi, thì mình lại đổi cái màu của nó. Hành động này, muốn cho dễ làm, thì mình
phải vẽ nó lại ở cái dạng có đƣờng kính to hơn, có nghĩa là: nhƣ trái banh cù hay là
khoảng 3cm. Sau khi nó có màu sắc khác (màu đỏ chẳng hạn) thì lại làm cho nó
nhỏ lại bằng cách là nhìn vào ngay trung tâm của nó. Và cứ lập đi lập lại nhƣ vậy
với những hòn bi có màu sắc khác nhau.
Hỏi: Tại sao lại là phải theo cái thứ tự màu sắc đó?
Đáp: Là vì màu xanh dƣơng là âm, màu đỏ là dƣơng, màu xanh lá cây (màu
xanh đọt chuối) là tâm đã thanh tịnh, màu vàng là màu của sự giữ giới luật và màu
trắng là... bảy màu hòa lại, và là màu đầu tiên để vào cõi Vô Sắc.
Hỏi: Tại sao phải làm cho hòn bi nhỏ lại?
Đáp: Là vì để nâng cao hơn nữa sự tập trung tƣ tƣởng hay tình trạng
nhập chánh định. Nhập vào Tứ Thiền: Trong lúc đang làm nhƣ trên thì hành giả
cảm nhận rằng thân thể mình nó rớt xuống một cái, y nhƣ là... máy bay nó sụp ổ gà
vậy. Và các hòn bi biến mất và thay vào đó là một không gian trong và sáng, bao
la và rộng lớn: Hành giả đã vào đƣợc tầng trời đầu tiên của Tứ Thiền Hữu Sắc. Các
Ngài đã đặt tên là “Quang Quả Thiên” có nghĩa là chƣ Thiên ở những nơi có không
gian quang đãng và rộng lớn. Hơi thở tự động biến đi trong khi nhập định bằng
cái mẹo vặt thay đổi các đề mục nhƣ trên đã trình bày.
(2) QUÁN MÀN TIVI - TÂM KÍNH ĐÀN
Trình độ lý tƣởng là... Tứ Thiền Hữu Sắc (TTHS).
Hành giả dùng đề mục nhập vào TTHS. Khi nhập chánh định vào tới đó:
hành giả thay đổi đề mục, quán một cái khung nhƣ một màn ảnh Tivi (TV). Màn
ảnh này có kích thƣớc 9 cm × 12 cm. Về màu sắc thì tùy vào trình độ nhập định
nông hay sâu mà màu sắc sẽ xuất hiện theo trình tự biểu kiến nhƣ sau: Màu đen
xám, màu xám, lấm tấm những hạt cát màu vàng, rồi màu vàng và sau cùng là
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 47
màu trắng nhƣ trứng hột gà bóc. Màu trắng này đặc biệt là hành giả có thể thấy cả
chiều sâu của nó.
Tâm lực thể hiện qua mức độ quán tƣởng của hành giả. Tâm càng có lực thì
linh ảnh trong màn TV càng rõ, càng nhiều chi tiết và rất sống động.
Tâm Kính Đàn
1. Dùng đề mục để chứng các từng thiền
2. Quán một cái màn ảnh nhƣ màn ti vi to cỡ 9cm x 12cm
3. Sơn cho màn ti vi đó nó có màu trắng y nhƣ hột gà luộc và bóc vỏ.
4. Giữ cái màn ti vi này 24 trên 24 trong vòng 1 tuần.
5. Sử dụng cho việc đời thì Màn ti vi lại nằm ngang (tự động)
6. Sử dụng cho việc Đạo thì màn ti vi lại dựng đứng (cũng tự động).
Nhiên liệu để chạy màn tivi hay là "Tâm Kính Đàn":
1. Giữ giới luật cho thật là ngon lành.
2. Kiểm tra tƣ tƣởng liên tục (có nghĩa là không có chuyện giải lao)
3. Và Thiền Định.
(3) TU TẬP THẦN THÔNG
Khi vào đƣợc Tứ Thiền, tu sĩ lo tu về thần thông để tập làm chủ tƣ tƣởng. Ở
đây, tu sĩ đã gần kề mục tiêu của Phật giáo rồi, nhƣng chƣa có một tí gì về Phật pháp
hết. Mặc dù với sự cố gắng hết sức, tu sĩ có thể có đủ ngũ thông:
- Thiên nhãn thông: Quán một màn tivi, giữ cho nó trong suốt và ổn định. Tác
ý muốn coi một cảnh vật nào đó (nên chọn một cảnh vật gần nơi mình ở để có thể
kiểm soát khi mình làm xong thí nghiệm).
- Thiên nhĩ thông: Quán một màn tivi giữ cho nó trong suốt và ổn định. Tác
ý muốn coi một ông bạn hiện giờ ở đâu, và đang nói những gì? Liền thấy ổng đang làm
cái gì đó trong màn tivi, và nghe tiếng nói của ổng “xuyên qua” đầu mình. Nhớ kiểm
tra lại để tránh rơi vào ảo giác!
- Tha tâm thông: Quán một màn tivi giữ cho nó trong suốt và ổn định. Tác
ý muốn coi một ông bạn hiện giờ đang nghĩ gì? Liền nghe tiếng nói của tƣ tƣởng
ổng xuyên qua đầu mình. Nhớ kiểm tra lại để tránh rơi vào ảo giác!
- Túc mạng thông: Quán một màn tivi giữ cho nó trong suốt và ổn định. Tác ý
muốn coi một quá khứ gần mình đang làm những gì: Liền thấy mình đang làm cái gì
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 48
đó trong màn ti vi. Cùng một thể thức ấy, tác ý muốn coi mình đang làm gì vào lúc ba
tuổi chẳng hạn... Một tuổi... Không tuổi... Lúc này nên đặt câu hỏi “Rồi sao nữa”
để thấy đƣợc tiếp... Nhớ giữ giới luật thật nghiêm khắc khi thử nghiệm.
- Thần túc thông: Trƣớc khi thí nghiệm, lấy một cái đĩa và rắc khá dày
bột phấn rôm (talc) hay tro lên đĩa đó, để dĩa trên bàn ngoài phòng khách. Vào nơi
mình tu tập, nhập Tứ Thiền, quán một màn tivi giữ cho nó trong suốt và ổn định.
Tác ý muốn thấy nơi mình để cái dĩa và tác ý muốn vào nơi đó để in bàn tay
mình lên đĩa đó. Liền thấy mình đứng trƣớc đĩa và in bàn tay mình lên đó. Xuất
định, đi ra kiểm soát coi có dấu tay mình trên đó không? Nhớ nhờ một ngƣời khác
xác nhận có đúng vậy không? Để tránh rơi vào ảo giác! Sau đó tác ý đi lấy một
cái gì đó của một anh bạn nào đó... Lấy xong nhớ trả lại họ chớ không thì tội
nghiệp họ. Tuy vậy, họ vẫn bị Phật giáo gọi là tà đạo! Và nhƣ vậy, cho tới khi tu
sĩ vào đƣợc Phi Tƣởng Phi Phi Tƣởng Xứ. Lúc này tu sĩ có thể coi đƣợc bốn mƣơi kiếp (40),
vì còn tà đạo, tu sĩ không cách gì coi đƣợc kiếp thứ bốn mƣơi mốt (41) !
Thật là ghê gớm, khi đƣợc biết mình vẫn còn bị kìm hãm trong tà giáo! Lúc
đó tu sĩ mới hiểu đƣợc sự cao siêu của Đức Phật. Chỉ khi nào Tu sĩ vào đƣợc
Diệt Thọ Tƣởng Định thì lúc đó tu sĩ mới đƣợc công nhận là không còn tà đạo nữa!
Tất nhiên còn phải vào cho đủ bảy lần để chỉ thành Độc Giác Phật. Còn bậc “Nhƣ
Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thƣợng Sĩ, Điều Ngự Trƣợng Phu, Thiên Nhân Sƣ, Phật, Thế Tôn” thì Thằng ngọng
tôi, xin nghiêng mình đảnh lễ! Trên đây là con đƣờng dành cho những ngƣời thật
là bình thƣờng đi vào chính đạo ( có nghĩa là phải đắc các từng thiền trƣớc rồi
mới vào đƣợc Chân lý). Còn một con đƣờng khác hay hơn và rất là hiếm khi
thành công, đó là con đƣờng đi tắt vào Chân lý. Có nghĩa là, khi ngồi nghe nói
chuyện đạo, tự nhiên do câu chuyện gây xúc động mãnh liệt, tâm của ngƣời đó đột
biến và ngừng dao động, nếu cứ để yên nhƣ vậy thì có thể đắc ngay quả vị A La
Hán mà không cần phải đắc các từng thiền. Chúng ta nên thận trọng khi gặp những
cái gọi là Tà sƣ, có những tà sƣ thật sự là dở (phần 1.). Đối với các pháp môn đó,
là Phật tử, chúng ta không tu theo họ. Nhƣng cũng có những “tà sƣ” nhƣng vẫn
còn dùng đƣợc vì chữ tà đây lại có nghĩa là chƣa tu xong. Vậy chúng ta đừng vội
cho ông này tà, bà kia chính. Vì thật sự vấn đề chánh, tà hoàn toàn nằm ngoài tầm
tay của chúng ta. Vì oái oăm thay, chúng ta hoàn toàn vô minh có nghĩa là còn tệ
hơn là tà đạo nữa! Thật vậy tà đạo chỉ dùng cho những tu sĩ hoặc tu sai lầm, hoặc
chƣa tu xong. Còn chúng ta không hiểu gì hết về vấn đề tu hành (vì còn là vô
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 49
minh) mà bày đặt đi lo phê bình này nọ theo quan niệm rất là phàm phu của
chúng ta.
(4) VÔ SẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP TU TẬP
(a) TRẠNG THÁI TÂM LÝ Ở VÔ SẮC:
Đó là 5 trạng thái tâm lý khác nhau hoàn toàn: Không thể giải thích cho cặn
kẽ đƣợc... Trừ khi Anh tới đó vì: Lời nói viết chỉ là một phần thôi còn khi Anh đạt
đƣợc nó rồi lúc đó Anh mới hiểu rõ nó trong cái toàn diện.
1. Không Vô Biên Xứ: Hƣ không là vô biên có cái cảm giác là mình “trải rộng
ra” vô biên.
2. Thức Vô Biên Xứ: Tâm thức không còn gì hết. Và có rõ ràng cái cảm giác
là nó rộng và to lớn, vô biên.
3. Vô Sở Hữu Xứ: Không có cái gì thuộc về mình cả. Và vẫn có cái cảm giác
là nó rộng lớn vô biên.
4. Phi Tƣởng Phi Phi Tƣởng Xứ: Nói rằng ngƣời đó Có Tƣ Tƣởng thì không
đúng nhƣng nói rằng họ không có tƣ tƣởng thì cũng không đúng luôn. Kèm theo một
cảm giác là sâu xa thẳm và rộng lớn vô biên.
5. Tính Không: Vô Ngã, trong veo và vắng lặng.
(b) PHƢƠNG PHÁP TU TẬP
Video Nét Chính Vô Sắc: http://www.youtube.com/watch?v=NlrggsA8eB8
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 50
Đề Mục là ngôi sao màu trắng nhỏ nhƣ cái chấm, không kể cái ngoặc (.)
Đề mục phát hào quang:
- Hào quang trắng chói chang + một tí màu cầu vòng: Không Vô Biên
- Hào quang bảy màu (nhƣ cầu vòng): Thức Vô Biên
- Hào quang bảy màu chiếm hết không gian của tầm nhìn: Vô Sở Hữu.
- Nhƣ trên nhƣng mạnh mẽ hơn nhiều Phi Tƣởng Phi Phi Tƣởng.
(i) Không Vô Biên Xứ:
Điều kiện:
Xuất và nhập Tứ Thiền Hữu Sắc dễ dàng nhƣ... cao bồi rút súng vậy.
Đề mục:
Nhắm mắt 100% và quán tƣởng về một cái chấm trắng nhỏ nhƣ vầy đây: (.)
Diễn tiến:
Chấm trắng nhỏ xíu (càng nhỏ càng tốt) sau một thời gian đƣợc hành giả
khéo léo an trú thì đã có thể phát ra những tia sáng. Những tia sáng này càng lúc
càng sáng và càng lúc càng lan rộng ra, và chiếm dần khoảng không gian (màu
đen) bao la và rộng lớn. Sau khi lan rộng một mức độ nào đó thì những tia sáng
này ngừng lại, không thể lan rộng thêm nữa. Và bƣớc kế tiếp là những tia sáng này
biến thành những màu sắc của cái cầu vòng. Diễn tả thêm về những màu sắc này.
Những màu sắc này không có giới hạn riêng biệt của nó mà chúng lại nhòa dần và
đồng thời chuyển dần sang từ màu này qua màu kia (y nhƣ sự chuyển biến các
màu sắc trong cái cầu vồng vậy).
Vì đôi lúc, trong quá trình tu chứng ở cõi Hữu Sắc, hành giả cũng có lúc lại
có cái cảnh Không gian đầy màu sắc. Nhƣng những màu này nó không nhƣ là màu
sắc trong cái cầu vồng mà nó lại có ranh giới hẳn hoi. Cảnh này là cái tâm sân hận.
Khả năng:
Cõi đầu tiên của Vô Sắc là: Không Vô Biên Xứ, đạt đƣợc cảnh giới này
thì hành giả có khả năng cảm nhận đƣợc những cảm giác của một chúng hữu tình
nào đó. Một ví dụ: NP ( thằng nhóc của Cô Bé Hàng Xóm) mới có 13 tuổi, khi nó
vào đƣợc cái cảnh giới này thì khi nó tập trung vô cây ớt thì nó biết là cây nó đang
khát nƣớc! Và khi nó ngắt trái ớt thì nó biết là cây ớt nó bị đau. DP (em của nó)
cũng vào đƣợc lớp định này và nó hay để ý tới đệ và khi đệ đau cái dây thần kinh
tọa thì nó nói nó cũng đau chỗ đó!
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 51
Nhƣ vậy cái cảm giác của thân thể hành giả nó không còn giới hạn trong cái
thân thể của mình nữa mà nó lại có thể lan ra đến độ... không còn biên giới nữa. Do
đặc tính này mà cõi này mới có tên là: Không Vô Biên Xứ.
(ii) Thức Vô Biên Xứ
Nhập vào từng lớp định này là cả một vấn đề, vì cái màu sắc trong không
gian làm hành giả chia trí và khó tập trung cho đƣợc vào cái chỗ của ngôi sao đã
biến đâu mất tiêu rồi. Tuy vậy với cố gắng và sự tinh tấn, hành giả rồi cũng làm
đƣợc. Lần này hành giả sẽ thấy đƣợc nguyên cả cái không gian đã đƣợc nhuộm bởi
màu sắc (y nhƣ cầu vồng).
Kết quả là hành giả có thể đọc tƣ tƣởng một cách dễ dàng. Ví dụ:
Cô Bé Hàng Xóm lại báo cáo với đệ là hai đứa nhỏ, sau khi vào đƣợc Thức Vô
Biên Xứ thì: “Tụi nó nói chuyện với nhau bằng... Thần Giao Cách Cảm”. Ngƣời ngoài
sẽ không nghe gì hết và cũng không hiểu gì hết luôn. Chỉ thấy tụi nó lắc đầu và gật
đầu mà thôi. Y nhƣ là mình coi phim câm.
(iii) Vô Sở Hữu Xứ
Hành giả cũng ngay vào chỗ cái ngôi sao mà chú tâm thì, bỗng nhiên không
gian từ từ đen ngòm lại và tuy rằng đen ngòm nhƣng hành giả có thể cảm nhận đƣợc sự
to lớn của nó. Kết quả hành giả có thể cùng một lúc cảm nhận đƣợc ngƣời khác
đang đau ở chỗ nào và cũng đồng thời đọc đƣợc tƣ tƣởng của họ luôn.
Con Ngƣời thì gồm có hai cái: Thể xác và tƣ tƣởng, nay do lớp định này
mà hành giả đã có thể phá tan cái giới hạn của hai cái thể này! Cả hai đều trải rộng
ra vô tận, nên cả hai không còn thuộc về mình nữa do vậy mà nó có tên là: Vô Sở Hữu Xứ.
(iv) Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
Cũng cái chỗ đó mà hành giả tập trung tƣ tƣởng vào không gian càng bao la
và càng đen ngòm.
Kết quả: sự im lặng tƣ tƣởng nó có thể kéo dài lâu cỡ nào cũng đƣợc. Thô tâm
và vi tế tâm đã bị định lực khuất phục. Đến độ, hành giả có cảm giác là mình đã thanh
tịnh thật sự rồi. Nếu và chỉ nếu... khi hành giả thật sự chú tâm vào cái sự thanh tịnh
này thì bất chợt hành giả tự hiểu rằng:
Thứ nhất, đây là một sự thanh tịnh rất là cao cấp. Từ hơi thở đã chấm dứt từ
lâu ( nếu hành giả vào lớp định này cho thật là sâu)
Thứ hai: Nhƣng... Não bộ vẫn còn hoạt động. Do vậy mà bản ngã vẫn
còn mạnh nhƣ tự thủa nào.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 52
(5) MINH SÁT TUỆ
Video Nét Chính Minh Sát Tuệ: http://www.youtube.com/watch?v=Eu9iRBPNPXY
Là trí tuệ quán xét mình hay chứng và đắc câu:
“THÂN NÀY KHÔNG LÀ TA, LINH HỒN NÀY KHÔNG PHẢI TA,
TƢ TƢỞNG NÀY KHÔNG LÀ TA. ”
A. Nhập lên Phi Tƣởng Phi Phi Tƣởng vững mạnh.
B. Chánh niệm
1. Sau đó là niệm thanh tịnh hoài thôi. Nhập từ SƠ THIỀN tới TỨ THIỀN
(dựa vô đề mục), kế đó quán một màn tivi trắng nhƣ hột gà bóc, giữ càng lâu càng
tốt. Tâm niệm: THANH TỊNH, THANH TỊNH…
2. Sẽ tới lúc cảm thấy ngộp thở. Lúc đó cố gắng niệm tiếp một niệm
QUYẾT ĐỊNH: THANH TỊNH! Từng tý một, từng ngày một mà tu sĩ cứ đong đƣa
với sự ngộp thở. Tất nhiên là chẳng có ai mà quen đƣợc với cái chuyện lạ đời này. Dĩ
nhiên là sợ! Sợ bị điên (Tibu), sợ bị chết... Khẩu quyết của chƣ tổ ghi lại là: Cho dù có
sợ, thì đừng có sợ cái sợ của mình. Có nghĩa đừng có sợ quá rồi ngƣng không tập luôn
thì toi cơm! Mà nên coi lại giới luật, xong rồi đi hỏi ngƣời đã làm xong coi có bị
điên hay bị chết hay không? .. Chuyện gì cũng vậy, ngƣời đi trƣớc lại cƣời ngặt
nghẽo mà nói rằng: "Nó không có chết đâu, không ai bị gì cả. Chẳng qua là cái bản
ngã nó sợ chết, nó sợ điên nên nó xúi mình nghỉ chơi đi đó. "
Đừng có tới liền mà cứ nhích từng tý một và khi nó quen thì nó qua nhẹ hìu hà!
2.1. Tu sĩ sẽ thấy hình ảnh của mình xuất hiện trên màn tivi. Ở đây tu sĩ lại rất
XA LẠ với hình ảnh đó: Không biết đó là AI? Không biết nó tên gì? Kế đó là làm
quen với anh chàng ngu ngu này.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 53
2.2. Và sau đó là tiến thêm một bƣớc quan trọng nữa là: Ở trong trạng
thái ngộp thở này mà suy nghĩ về Trái Đất! Làm đi rồi mới biết nó ra làm sao! Vì cứ
vào đó thì ở trong sự "Thanh tịnh" thì khó làm đƣợc cái gì khác lắm! Nếu suy nghĩ về TRÁI
ĐẤT thì có cảm giác: Tôi chƣa sinh ra ở đó một (1) lần nào!
Nhƣng cũng vì tính kiên trì và cũng vì thói quen mà rồi có lúc hành giả
làm đƣợc và làm một cách dễ dàng. Sự dễ dàng này là vì nhờ vào ba cái chuyện độ tử,
độ sinh này nọ khi mình đang tập sự "hành nghề" tu sĩ.
2.2.1. Câu trả lời lạ đời: "Tôi chƣa sanh ra ở chỗ này lần nào!" Khi đối diện
với Trái Đất trong không gian bao la... là một điều hoàn toàn phi lý!
Nhƣng sau này tu sĩ hiểu rằng: Sự thanh tịnh cao độ (ngƣng thở...) chƣa lần
nào xảy ra cho một chúng sinh khi vẫn còn sống trên Trái Đất này!
C. Thực tập chánh định
Là một kỹ thuật tập dƣợt về tâm lực cao cấp nhất. Tu sĩ dƣợt kỹ những kỹ thuật
này cho thật là nhu nhuyễn và dễ sử dụng. Tu sĩ càng nắm vững các tầng thiền chừng
nào, thì vào Diệt Thọ Tƣởng Định càng dễ chừng đó.
(6) VÔ DƯ NIẾT BÀN
Video Nét Chính Vô Dư Niết Bàn: http://www.youtube.com/watch?v=P_n9PhgFVOU
Sau khi qua đƣợc sự ngộp thở. Rồi đến chuyện suy nghĩ về Trái Đất với
trạng thái thanh tịnh và nhất là với câu xác minh: "Chƣa bao giờ sinh ra đƣợc ở nơi này".
Hành giả đã hiểu rất rõ là chƣa có một chúng sinh nào đƣợc sinh ra ở Trái Đất với
sự thanh tịnh y nhƣ hành giả đã vừa và đang trải qua.
Đây là cái mớm mồi của sự không tái sinh. Và cũng có thể hiểu là: Với sự thanh
tịnh này thì không có nơi nào mà có thể… chứa hành giả cả.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 54
Do đó, khi hành giả sút quả cuối cùng, qua cách định nghĩa của cái anh
chàng ngu ngu ( vốn đại diện cho sự sống hiện tại...) bằng ba pháp ấn: Khổ, Vô
Thƣờng, Vô Ngã (với dụng ý là… hành giả chê cuộc sống này là giả tạm!).
Thì việc giải thoát mà còn gặp… trở ngại, hoặc là… không thực hiện đƣợc
thì mới là lạ!
(7) DIỆT THỌ TƯỞNG ĐỊNH
Muốn nhập vào trạng thái đầu tiên của quy trình Diệt Thọ Tƣởng Định thì hành
giả dùng cái niệm "Thanh Tịnh" ở vào trình độ Tứ Thiền Hữu Sắc:
Khi trạng thái "Thanh Tịnh" tác động ngƣợc vào chính ngay thân thể của hành
giả thì hành giả sẽ cảm thấy nhƣ mình đang bị... ngộp thở vậy.
Lời bàn: Hiện tƣợng này thật ra cũng là bình thƣờng hết sức là vì: các Ngài
đã từng nói rằng: "Tâm Thanh Tịnh thì Cảnh Thanh Tịnh". Do cái xì xụp của hơi
thở nó còn hoạt động nên theo đúng nghĩa của chữ "Thanh Tịnh" thì thực tế rằng
mình đang còn... dao động. Do vậy mà khi nhập vào Tứ Thiền Hữu Sắc thì tâm lực
lúc này rất là mạnh nên khi niệm "thanh tịnh" thì việc đầu tiên nó sẽ tác động vào
hơi thở của mình.
Với cái đặc tính "Dũng" của một ngƣời đã từng thề rằng: Một là sanh cỏ, hai
là đỏ ngực: nay con đã quyết chí đi theo con đƣờng của Ngài thì nhằm nhò gì ba
cái chuyện ngợp thở này. Đọc xong thì hành giả tự chiến đấu với cơn ngợp thở và
cố gắng niệm cho đƣợc cái niệm "Thanh Tịnh" cuối cùng trong lúc nhập chánh định
cao độ này:
Do trạng thái nhập chánh định cao độ này cộng với cái niệm "Thanh Tịnh"
kia: Hành giả đã có thể quên đƣợc cái bản thân và... lọt vào "Chân Nhƣ" qua
"Cái Thấy"
Hiện tƣợng kế tiếp là:
Hành giả nay đã là "Cái Thấy" thấy hình ảnh của một anh chàng đang ngồi
kiết già ở trong một cái khung hình dựng đứng. Đối trƣớc cái hình ảnh của anh
chàng này, "Cái Thấy" lại có cảm giác rằng đã có thấy ông này ở đâu đó nhƣng lại
không biết ở đâu, cảm giác quen quen và ngờ ngợ này rất là lạ kỳ, khi nhìn vào cái
hình ảnh này "Cái Thấy" lại... hiểu rằng cái anh chàng này sao mà ngu ngu và khờ
khờ và không đƣợc... bình thƣờng lắm.
Khi tác ý vào Trái Đất thì một tƣ tƣởng lại xuyên qua đầu mình từ bán cầu
Phải sang bán cầu Trái của cái não bộ của mình nhƣ sau:
- Tôi chƣa từng sanh ra ở đó một lần nào cả !
Thập phƣơng Chƣ Phật không chấp nhận bất cứ một trƣờng hợp “Bất Kỳ” nào cả. Do vậy,
chuyện vào Diệt Thọ Tƣởng Định phải hội đủ những điều kiện tối thiểu sau đây:
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 55
1. Tâm lực phải đủ mạnh, có nghĩa là trình độ Nhập Định phải là Tứ Thiền
Hữu Sắc. Tâm lực này biểu hiện qua ngũ thông. Mà mình có thể tập đƣợc.
2. Ý đồ Giải Thoát phải là cái đích để đến, Không nuôi dƣỡng và tìm
cách thực hiện cái ý đồ này thì “Không có chuyện Giải Thoát” cho dù có tu
theo... Đạo Phật.
3. Bí quyết vào Diệt Thọ Tƣởng Định phải đƣợc học thuộc nằm lòng.
4. Hành giả phải hiểu rằng khi vào đó xong thì hơi thở sẽ ngừng
hoạt động. Do vậy, phải một mất một còn với cái... hột cát hơi thở này.
5. Họ cũng là ngƣời và đã làm đƣợc thì mình phải làm đƣợc. Chỉ hơn
thua phƣơng pháp mà thôi, nay mình đã đƣợc biết phƣơng pháp rồi thì chỉ có làm
mà thôi, không thèm nói nữa. Cũng nhƣ là biết bơi rồi vậy, kể từ giây phút này thì
có quăng xuống nƣớc thì bì bõm lội đƣợc thôi. Không quên đƣợc. Tất cả những
từng lớp thiền đều còn đó, một khi đã tập qua. Chỉ có cái đặc biệt là khi giải thoát
xong thì cái tƣ tƣởng lại xẹt qua xẹt lại trong đầu của mình nhƣ sau: “Tu đã thành,
học đã xong, tôi làm việc tôi làm”.
Mục đích của những tu sĩ PHẬT GIÁO. Ở đây tu sĩ đã lọt vô đƣợc
CHÍNH ĐẠO. Còn phần trƣớc là TIÊN ĐẠO hay còn gọi là TÀ ĐẠO hay con
đƣờng chƣa tu đƣợc hết.
Nếu vô đƣợc: 1 lần (TU ĐÀ HƢỜN).
2 lần (TU ĐÀ HÀM).
4 lần (A NA HÀM).
7 lần (A LA HÁN).
Tƣơng tự nhƣ MINH SÁT TUỆ, nhƣng cho tới khi bị NGỘP thật sự, cố gắng
niệm 1 trong 3 PHÁP ẤN:
1. ĐỜI: VÔ THƢỜNG
2. PHÁP: VÔ NGÃ
3. THỌ: THÌ KHỔ.
Hay: KHỔ, VÔ THƢỜNG, VÔ NGÃ. Là lọt vô.
Ở đó nếu tu sĩ có ý niệm về một vật hay một nhân vật nào đó thì: tu sĩ sẽ
LÀ NÓ, bằng cách: Tu sĩ MANG HÌNH DẠNG nó và có những RUNG ĐỘNG
đặc biệt của nó. Nếu không muốn tập nữa thì thôi. Khi ra khỏi tình trạng đó, tu sĩ sẽ
nhận thấy rằng:
TIM và PHỔI đều ngưng hoạt động trong lúc CHỨNG QUẢ.
Thời gian đắc quả tùy theo ý muốn của mình có thể từ 01 giờ đến 07 ngày.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 56
(8) NGỘ ĐẠO - NHẬP LƯU
Thƣờng đƣợc nói đến rất nhiều trong các tài liệu về THIỀN TÔNG, nhƣng ít
ai biết THỰC CHẤT nó là nhƣ thế nào: dựa vô đâu mà các thiền sƣ nói ngƣời
này NGỘ, ngƣời kia chƣa NGỘ? Lúc nào thì tu sĩ có khả năng NGỘ? Nói nhƣ thế có
nghĩa là khi nào thiền sƣ mới cho thiền sinh MỘT CÔNG ÁN? Biểu hiện của
ngƣời NGỘ ĐẠO là nhƣ thế nào?
Ở đây chỉ là những nhận định và những kinh nghiệm của những bậc đàn anh
đã tu chứng và truyền đạt lại cho chúng ta, nên tu sĩ có TRỌN QUYỀN nghe theo
hay không tùy:
(a) Lúc nào tu sĩ có KHẢ NĂNG ngộ đạo?
Lúc tu sĩ chứng và đắc NHỊ THIỀN. Lúc bấy giờ, tu sĩ TẠM THỜI ngƣng
công phu và chuyển sang một trong hai câu hỏi sau:
a. Phật tính Ở KHẮP MỌI NƠI, mà sao mình không biết cà?
b. Vạn vật ĐỒNG NHẤT THỂ, tại sao mình lại không biết cà?
(b) Biểu hiện của ngƣời ngộ đạo là nhƣ thế nào?
Trong khi đang nhập định với tƣ tƣởng trên, sẽ có một lúc tu sĩ cảm thấy
mình TAN RA hay BIẾN ĐÂU MẤT và tu sĩ có cảm giác rằng: Mình ở KHẮP
CẢ MỌI NƠI, tuy nhẹ nhƣng cảm giác đó GÂY TÁC DỤNG rất MÃNH LIỆT
trên thân thể của tu sĩ: Bằng chứng là, tu sĩ BỊ NGẦY NGẬT SUỐT 24 GIỜ ( kể
từ lúc có cảm giác đƣợc nói ở trên).
Xin nhắc lại cho KỸ: Thời gian ngộ đạo rất ít khi XẢY RA TRONG
LÚC CÔNG PHU, mà thƣờng xảy ra lúc ta đang SINH HOẠT bình thƣờng ( hay
lúc ĐI, ĐỨNG, NẰM, NGỒI).
Khi hành giả Ngộ Đạo thì hành giả sẽ phải qua một quy trình tạm gọi là:
Quy trình Reset! Có nghĩa là cái hệ thần kinh của hành giả hiện nay chỉ hoạt
động theo chiều hƣớng của Nghiệp Lực mà thôi. Sau khi đƣợc gọi là “Nhập
Lƣu” hay “Ngộ Đạo” hệ thần kinh của hành giả sẽ rung động để thấm nhuần cái
Chân Lý mà hành giả chỉ mới nếm đƣợc trong một chớp mắt mà theo danh từ
chuyên môn: thời gian ngắn ngủi đó còn đƣợc gọi là một “Sát Na”. Sự rung động
của hệ thần kinh trên sẽ làm cho hành giả chóng mặt trong suốt 24 giờ kể từ lúc
hành giả Ngộ Đạo VÀ NẾU, KHÔNG CÓ CẢM GIÁC NGẦY NGẬT VỪA NÓI
TRÊN, LÀ CHƢA ĐÚNG.
(c) Dựa vô đâu mà thiền sƣ nói ngƣời này NGỘ?
Dựa vô THẦN THÔNG, Với THIÊN NHÃN thanh tịnh, Thiền sƣ thấy
ngay GIỮA NGỰC ai đó CÓ MỘT CHỮ VẠN VỚI ĐƢỜNG KÍNH 10cm MÀU
VÀNG SÁNG CHÓI! Và ông ta nói ngay, nói một cách KHÔNG NGƢỢNG
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 57
MIỆNG, nói rất CHÂN CHÍNH và rất CHÍNH NGỮ rằng: “NÀY BẠN, BẠN ĐÃ
NGỘ ĐẠO!
Nhƣng tôi có BỔN PHẬN phải nhắc với bạn rằng: Bạn còn CÁCH PHẬT
RẤT XA! Y nhƣ bạn vừa mới lấy BẰNG XÓA NẠN MÙ CHỮ xong, nhƣng
bằng này đƣợc cấp cho bạn VỀ PHƢƠNG DIỆN TÂM LINH. Vì bạn chỉ mới
NGỘ, còn NHẬP nữa!”.
LỜI DẶN: Nếu trƣớc khi nhập định mà thấy: CON MẮT TRÁI, HOA RƠI,
NGƢỜI LÚC NHÚC, NHIỀU NGƢỜI NGỒI XẾP BẰNG KHÔNG CÓ Ở TRÊN
HOA XEN NÀO CẢ, NGHE TIẾNG NÓI BÊN LỖ TAI, TỨC NGỰC, NGỬI
ĐƢỢC MÙI THƠM… MỘT CÁCH BẤT NGỜ:
Thì phải ngừng ngay! Và tập HỘ THÂN, nếu không sẽ bị CẢNH GIỚI
CHI PHỐI!
TB: Kinh nghiệm của bản thân đệ là: khả năng Ngộ Đạo cao nhất là trình
độ nhập vào Nhị Thiền: Khi hành giả đã thấy đề mục rồi và kèm theo trạng thái tâm lý
là "sợ đề mục lại mất đi". HL
(9) HOẠT ĐỘNG TÂM THỨC TRONG CÔNG PHU
Do ý thức càng ngày càng mạnh, vì càng ngày càng thanh tịnh nhờ vào việc
nhập chánh định. Nên, tu sĩ có thể cảm nhận một cách rõ ràng sự hiện diện của bản ngã
qua sự rung động của luồng Bhavanga khi chứng Tam-thiền.
Áp dụng công thức đổi đề mục liên tục, tu sĩ sẽ nâng cao hơn nữa mức độ tập
trung tƣ tƣởng để vào Tứ Thiền (vùng trời của sự làm chủ tƣ tƣởng).
Ở đây, ý thức dùng niệm: “thanh tịnh” để làm Mạc Na Thức xuất hiện. Dƣới
tác dụng của niệm “thanh tịnh” đƣợc ý thức đọc lên ở trạng thái Tứ Thiền, bản ngã
văng ra ngoài, bị khuất phục đợt một, và tiếp tục lừa đảo bằng cách cho tu sĩ biết
Minh Sát Tuệ. Thực tế, nếu tu sĩ chấp nhận một cách ngây thơ rằng mình đã đƣợc
giải thoát, tu sĩ chỉ mới chứng đắc đƣợc quả vị Minh Tiên với một bản ngã còn to nhƣ
thửa nào.
Thế nhƣng, do định lực dũng mãnh của ý thức. Tu sĩ lập lại hiện tƣợng trên
và dùng ngay “ lý” của Chân lý để định nghĩa lại Mạc Na Thức: Khổ… Vô
thƣờng… Vô ngã… (khi bị ngợp thở dƣới tác dụng của niệm “thanh tịnh”). Lúc bấy
giờ ý thức đã đủ lực để hòa tan đƣợc bản ngã (Mạt Na Thức hay là ý thức) và Mạc
Na Thức đã hoạt động đồng bộ, hay đúng hơn:
Từ tình trạng không đồng bộ, ý thức và Mạc Na Thức đã tạo nên một “pháp giới
của thói quen vô minh”: A Lại Da Thức.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 58
Nay, do chúng đã hoạt động đồng bộ nên tu sĩ đã bƣớc sang một thế giới
mới của sự: Giải thoát tri kiến hay Đại Viên Cảnh Trí, tới đây con đƣờng đạo pháp
lại mở ra hai ngả rõ rệt:
1. Nếu có ác nghiệp đời trƣớc (giết anh em để đoạt của, giết cha mẹ…) mà tu
hành thành công: Tu sĩ sẽ không có cơ hội để nói lại kinh nghiệm tâm linh của mình
cho “Con ngƣời” nghe. Điều này buộc tu sĩ phải vào Niết Bàn với quả vị Độc
Giác Phật hay Bích Chi Phật.
2. Nếu do thiện nghiệp mà tu thành: Tu sĩ sẽ có cơ hội để nói lại cho
“Mọi ngƣời” nghe và thực hành theo kinh nghiệm tâm linh của mình. Tu sĩ này đƣợc
gọi là: Bồ Tát hay ngƣời dẫn đƣờng. Lúc bấy giờ, Niết Bàn không còn là cứu cánh
nữa. Mà là “phƣơng tiện độ và hiệu quả độ” mới thực sự là cứu cánh. Vì tu sĩ chỉ
sống để thực hiện cho bằng đƣợc 4 hay 6 đại nguyện đã đƣợc dõng dạc tuyên bố lúc
tu sĩ nhập Diệt Thọ Tƣởng Định…
(10) QUÁN VÔ THƯỜNG
Tập trung tƣ tƣởng để tạo ra một cảnh Vô Thƣờng: Nấm Mồ. Khi cái linh ảnh
này xuất hiện nhƣ thật ngay đằng trƣớc mặt thì tiếp tục quán cái sự thật phũ phàng
rằng: mình cũng sẽ lò mò vào đó, kế đó là vì mình đã lò mò vào đó rồi thì hãng
xƣởng, xí nghiệp, cơ nghiệp, ngƣời tình, con cái, của cải cũng đều về đó.
Tác dụng: Làm đƣợc cái linh ảnh đó rồi thì tâm lý hành giả sẽ trở nên dửng
dƣng trƣớc những hiện tƣợng có ảnh hƣởng đến mình trong đời sống hàng ngày. Sau
khi có cái tính cách dửng dƣng này rồi thì đợi đến lúc cái cảm giác này nó chín muồi
qua ba giai đoạn: Tẩm ƣớt, tràn đầy và sung mãn. Khi cái tâm lý này trở nên sung
mãn thì trong lúc công phu thì cái nấm mồ nó... Morph (biến dạng) ra thành cái... nải
chuối... (ý lộn) cái hoa sen màu vàng với năm cánh hẳn hoi.
Tịnh Độ: Với cái Hoa Sen năm cánh đó trong linh ảnh thì động tác kế tiếp
là Niệm danh hiệu Ngài: Nam Mô A Di Đà Phật.
Hay muốn cho nó tây hơn thì dùng câu chân ngôn: Om, Amitabha
Hrih Svaha.
Thì lọt vào Tây Phƣơng Tịnh Độ liền. Mời các Bạn tu thử coi mình có vào
đƣợc không.
(11) QUÁN XÁC CHẾT
Chuyện này rated R, trò chơi này chỉ là dân thứ dữ mới chịu nổi. Trong
Mật Tông, có vị Thần Kim Cang đang làm tình với một Kim Cang nữ.
Không biết bao nhiêu ngƣời tƣởng bở cứ nhào vô làm đại, cho mình là chì, là
gồ để rồi: Tối tối, Thầy tìm đệ tử... nghiên cứu. Chuyện này nhan nhản.
Khi gặp ngƣời khác phái thì đừng có nhìn Lỡ nhìn thì đừng có nói,
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 59
Lỡ nói thì phải dùng chánh niệm.
Chánh niệm này cũng tùy vào đối tƣợng:
Hai Lúa đệ lo thủ cẳng công thức quán xác chết cho chắc ăn.
Hảo ngọt (khoái những đứa trẻ mới lớn nhƣ... Phật Thích Ca) thì chỉ còn
cách không đƣợc làm biếng để chống lại mƣời Đạo quân Ma.
Còn một cách nữa là ngay từ lúc đầu: cứ coi ngƣời khác phái đó là...
ngƣời trong nhà thì cụt hứng liền.
Cái nguy hiểm của cách quán Vô Thƣờng trong trƣờng hợp này là khi mình
thấy một ngƣời... quá đẹp thì mình lại quên không thấy cái Vô Thƣờng nơi đối tƣợng
đó. Do vậy, cách quán Vô Thƣờng lại ít ép phê.
(12) QUÁN TỪ BI
(Là cái khốn nạn và... khó nhất)
Công việc mà nói ra thì rất là dễ nhƣng làm cho đƣợc thì trần ai chi chí.
1. Nhắm mắt (100%)
2. Hình dung cho ra cái khuôn mặt dễ thƣơng của cô bé hàng xóm, ngƣời
mà mình yêu thích và ƣa làm đẹp lòng nhất. Điều này rất là dễ… Kế đó
3. Hình dung ra khuôn mặt Sadden Hussen, ngƣời mà mình thù và ghét
nhất ( chẳng hạn). Sau khi hình ảnh này xuất hiện thật là rõ đằng trƣớc mặt mình
(điều này cũng rất là dễ, nếu mình thù ghét họ đủ... đô) thì...
4. Hình dung luôn cả hai cái hình ở phần 2. và 3... Hai khuôn mặt này
phải ngang nhau và rõ nhƣ nhau!
Trần ai chi chí là ở chỗ này đây. Cái tâm của mình nó không có chịu làm
cái chuyện này.
Phải có một cuộc sống đầy đủ đức độ thì mới làm đƣợc, còn không thì chỉ
còn nƣớc ngồi... nhắm mắt và nghĩ chuyện đời mà thôi.
5. Sau đó là nguyện của tâm từ bi.
Sƣ Huynh nào rảnh thì làm thử coi thì biết liền.
Theo chỗ đã tới của đệ thì Mật Tông có một Ngài tên là Tỳ Lô Giá Na.
Và cũng ngay cái chỗ đọc kinh Vạn Phật thì Ngài đầu tiên lại có tên là...
Đấu Chiến Thắng Phật.
Rồi từ đó đệ có tò mò đi tìm Ngài Đấu Chiến Thắng Phật này ra làm sao, Và
cũng biết rằng Ngài cầm gậy Cô Lâu (Đầu Lâu) và có hỏi Ngài làm cách nào để
thành Phật thì Ngài có nói lại là:
Tôi chỉ có giỏi một pháp là: Quán Vô Thƣờng mà thành Phật.
Tất nhiên là: Không có một Đức Phật nào dùng phƣơng tiện... đọc sách để
tăng kiến thức cả. Mà chỉ dùng chánh định để tìm hiểu vấn đề mà thôi.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 60
Và cũng không có một Đức Phật nào lại bắt chƣớc vị nào khác cả, mà các Ngài
đều có một dấu hiệu để nhận nhau mà thôi, đó là câu:
- Tôi không có một ai làm Thầy tôi cả
(13) QUÁN TỪ BI HỶ XẢ (Tứ Vô Lượng Tâm)
Trình độ Tứ Thiền Hữu Sắc.
Đầu tiên quán hình một kẻ thù và sau đó là quán một cái hình của ngƣời
mình yêu thích. Bƣớc kế tiếp là quán cho cả hai cái hình đó xuất hiện nhƣ thật
ngay đằng trƣớc mặt của mình. Sau khi các pháp đã bình đẳng, có nghĩa là: Cả hai
cái hình đã có thể xuất hiện ra đƣợc một cách điều hòa và dễ dàng rồi thì lúc đó mới
phát tâm Từ Bi Hỷ Xả về một đối tƣợng nào đó. Ngắm nhìn đối tƣợng đó thay đổi ra
làm sao.
Kế tiếp là phóng Tứ Vô Lƣợng Tâm về hai đối tƣợng, phóng xong rồi thì
ngắm nhìn coi tác động của nó nhƣ thế nào qua những biến chuyển của đối tƣợng
(nhƣ cây mọc tốt hơn, ra hoa to hơn, trái ăn ngọt hơn...)
Hay (ngƣời ghét mình bỗng nhiên hỏi thăm và tỏ vẻ ra thân mật hơn...)
Kế tiếp nữa là phóng tâm cho ba đối tƣợng, rồi quan sát coi các đối tƣợng đó bị
tác động ra làm sao?
Sau đó là một nhóm đối tƣợng... Và cứ thế mà phóng tâm cho càng lúc
càng nhiều đối tƣợng... Cho tới khi nào mà mình đụng trần thì phải cứ cố gắng hoài
và miệt mài với công việc phóng tâm này
(14) QUÁN THÂN BẤT TỊNH
Lâu quá lại có dịp trình bày lại cho Huynh nghe cái chuyện lòng vòng
này: Tham Dục. Đệ vốn là một ngƣời rất là sung sức nên cái chuyện ấy thì quả là
một... cái núi... riêng cho đệ. Sách nói rằng: để đối trị cái chuyện trên thì nên quán
"Thân Bất Tịnh".
Đây là dùng chiêu Triệt Quyền Đạo của Lý Tiểu Long có nghĩa là theo môn võ
này thì phe ta sẽ tấn công và hạ đối thủ, trƣớc khi đối thủ có đủ thời giờ để xuất
chiêu tấn công mình. Cũng vậy, ở đây tâm thức sẽ giải quyết ngay từ trong trứng
nƣớc tình trạng tham dục kỳ quái trên. Bằng cách tạo thành một thói quen suy nghĩ
khác về phái đẹp ( hay phái xấu cũng đƣợc).
1. Lựa đối tƣợng:
a) Lúc mới bắt đầu, thì Huynh đừng có nên lấy đối tƣợng là một mái tóc dài
xinh nhƣ mộng. Mà nên khởi đầu bằng hình ảnh của một bà cụ cỡ 80 lƣng còng,
má hóp, da nhăn...
b) Rồi khi Huynh đi đƣa đám ai đó thì Huynh ghi nhớ cái cảnh chôn cất
thảm não đó.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 61
c) Sau cùng là Huynh ghi nhớ cái hình ngôi mộ đầy hoa và lạnh lẽo.
Sau khi có đủ ba (3) phần (a, b, c) rồi thì Huynh bƣớc qua phần thực hành:
2. Thực hành:
a) Đƣợc ba mẩu phim đó rồi thì Huynh về nhà nằm ngửa (cho nó khỏe) và ráp
nối lại cho nó thành một cuốn phim nhƣ thật trong trí tƣởng tƣợng của Huynh.
Có nghĩa là: Cho bà cụ 80 đứng đâu đó rồi hình ảnh bà cụ nhòa dần để rồi hiện
ra cảnh đƣa đám rồi kế đó là cái hình của cái ngôi mộ hiện rõ lên và đè lên tất cả...
Và sau cùng là chỉ còn có ngôi mộ.
Nếu Huynh tự đạo diễn và chiếu đƣợc cuốn phim này trong trí tƣởng tƣợng
của Huynh thì Huynh đã thực hiện đƣợc cái chữ "Quán" thƣờng nói đến trong sách
thiền rồi đó. Huynh sẽ thấy rằng cái chuyện ấy cũng theo đó mà tiêu ma hồi nào
không hay. Nếu chƣa đƣợc thì tự chiếu phim này thêm vài lần nữa.
Rồi thay vì bà già thì thay vào đó một mái tóc dài với sắc đẹp bình thƣờng.
Giải thích:
Sở dĩ phải dùng bà già trƣớc vì cái tâm của mình nó... cho bà già chết một cách
dễ dàng hơn. Nếu không ép phê thì cho một sắc đẹp trung bình vào (một cô bé ó đâm
nào đó cũng đƣợc).
Theo kinh nghiệm của đệ thì đến đây trong cái đám lu bu đã nhẹ ngƣời hết
99% rồi (Đám lu bu gồm khoảng 50 gia đình vào năm 1991).
b) Cách này thì phớt lờ nó đi vì... điều kiện để phá tham dục không có.
Cũng theo sách vở thì không thể nào có cái chuyện hết tham dục trong điều
kiện tâm lý nhƣ ngay bây giờ.
Vì điều kiện ắt có và đủ để hết cái chuyện "Tham Dục" này là vô cho đƣợc
"Sơ Thiền"
Vì cũng theo sách vở thì khi nhập Sơ Thiền những chuyện này lại xảy ra:
1. Tầm
2. Tứ
3. Hỷ
4. Lạc và Nhất Tâm
Nhƣng theo trong sách thì có nói đến câu "Ly Tham Dục thì chứng Sơ Thiền".
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 62
II. TỊNH ĐỘ
Dành cho những ai bị nghiệp sát, nghiệp tham ái nhiều, nhƣng một lòng thích
tu hành và tin vào bốn mƣơi tám đại nguyện của Phật A Di Đà ở Tây Phƣơng Cực
Lạc, ý thức rằng đời thì mình chẳng đƣợc gì, còn đối với đạo mình chẳng có ký lô
nào cả. Nhƣng trên hết, mình có một niềm tin tuyệt đối vào ngài A Di Đà.
1. Tịnh Độ Là Gì?
Có ba kiểu tin, hiểu, đoán về Tịnh Độ.
Ngƣời có học thức và có căn bản về Thiền: Họ cho rằng Tịnh Độ trong Tâm.
Ngƣời ƣa chuyện Huyền bí, Họ cho rằng có một Ông Phật và có câu chú của
Ổng là nhƣ vậy: Om, Amitabha Hrih Svaha.
Ngƣời bình dân học vụ: tin rằng có một ông Phật với 48 đại nguyện và
nếu mình làm một điều kiện là niệm danh hiệu của Ổng thì Ổng sẽ dẫn mình về xứ
của Ông với 9 phẩm, sau đó học với ổng trở thành Nhất Sanh Bổ Xứ rồi Thành Bất
Thối Chuyển Bồ Tát rồi đi giúp các chúng hữu tình.
a) Pháp môn Tịnh Độ
Pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn chuyên dùng câu A Di Đà Phật để
vào chánh niệm, rồi dựa vào niềm tin mạnh mẽ, tu sĩ có thể đạt đƣợc từ Sơ phẩm
đến Cửu phẩm sau đó phát đại nguyện để vào Nhất Sanh Bổ Xứ và đi độ sanh cũng
bằng câu niệm Phật bất hủ đó.
Video Nét Chính Tịnh Độ: http://www.youtube.com/watch?v=cFFnwz6VsS4
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 63
Nhƣng với màn vô minh dày đặc không biết có bao nhiêu ngƣời đã cho rằng:
- Tịnh Độ Tông chỉ dành riêng cho những ai hết xí quách hay gần chết tu
thôi. Một pháp môn chỉ dành cho những ngƣời đã hết nhựa sống tu, thực tế chả hấp
dẫn tý nào! Vì vậy, ngƣời niệm Phật chiếm đa số là già. Còn đám trẻ mà nói tu
Tịnh Độ lại có mặc cảm nặng nề vì ngƣời đối diện thế nào cũng an ủi họ rằng:
Pháp môn nào cũng tốt hết, tôi thì theo Thiền Tông nó có vẻ trí tuệ hơn ( ý muốn
nói: Thiền Tông ngon hơn Tịnh Độ nhiều!) và sau câu nói xã giao, ngƣời bạn Thiền
Tông bỏ mặc anh chàng Tịnh Độ rồi quay sang những ngƣời khác nói công án này
công án nọ.
Đó là chuyện thƣờng tình trong những nhóm theo đạo Phật. Mặt khác
những buổi giảng đạo thƣờng lấy đề tài là công án này công án nọ có vẻ hấp dẫn
hơn và thu hút một số khá đông ngƣời mộ đạo trẻ tuổi. Ai cũng thích nói về các bộ
kinh lớn nhƣ Kim Cang, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm. Còn nói về Tịnh Độ, giảng sƣ hình
nhƣ kẹt đề tài.
Thật vậy, chỉ có chúng ta ở Nam Thiện Bộ Châu với đầy chất vô minh mới
có ý nghĩ kỳ quái đó. Có lẽ chuyện này xảy ra vì cái đám học giả vốn là cái
đám ăn không ngồi rồi. Tự cho mình thông minh, học giỏi lại là con nhà giàu, nên
có quyền ấn loát, cắt xén nguyên bản và viết lại theo ý nghĩ của mình... Với hai
thần thông: Ngu si thông và Vô minh thông, họ đã cắt xén nguyên bản của Pháp
môn Tịnh Độ, biến chế theo ý riêng của mình. Họ vô tình tiếp tay với Thiên ma,
hóa phép từ một pháp môn cực kỳ khó khăn thành một pháp môn chỉ dành cho
những ai gần đất xa trời tu mà thôi.
Thật ra, họ có biết đâu: Cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm, vào một
hôm, Sariputa, với sự nhạy cảm cực kỳ của mình, phát hiện ra sự đăm chiêu của Đức
Phật. Ông nghĩ rằng: Đây là lần độc nhất mình thấy Thầy có vẻ trầm tƣ một cái gì đó.
Hay là mình hỏi thử xem sao? Nghĩ tới đó, ông liền hỏi và Phật im lặng không nói...
Ông lại hỏi lần thứ hai, Phật vẫn im lặng... Đến lần thứ năm, Phật mới nói: Khó lắm!
Rồi im lặng... Sau khi hỏi thêm bốn lần nữa, Phật đều trả lời: Khó lắm đừng hỏi thêm
chi cho mất công. Và nhƣ vậy, đây cũng là lần độc nhất Phật nói Khó tới năm (5) lần
trƣớc khi trình bày một pháp môn! Một pháp môn mà khởi đầu bằng tới năm cái
khó của một Đức Phật thì đủ hiểu nó khó đến chừng nào... Ấy vậy mà vẫn có ngƣời cứ
cho rằng: Tịnh Độ là dễ tu. Thật là vô minh hết biết luôn!
Tịnh Độ là pháp môn dựa vào tha lực của ngài A Di Đà Phật nên dành cho
ngƣời mạnh về niềm tin và/hoặc nặng về nghiệp sát và ít phƣớc báu. Khi đi dƣới đại
nguyện của ngài thì không lo gì. Còn đi trật cái đƣờng rầy là nghiệp sát nó "hỏi thăm"
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 64
liền. Khi gặp ngài A Di Đà Phật thì hành giả có thể hỏi ngài về những thắc mắc và
ngài sẽ trả lời. Cách này cũng dùng để độ tử đƣợc. Cuối cùng là đạt đƣợc vãng sanh
về Tây Phƣơng Tịnh Độ, Thƣợng Phẩm Thƣợng Sanh, rồi đi ra sau lƣng ngài làm Bồ
Tát Nhất Sanh Bổ Xứ, và phát nguyện quay lại cứu độ bà con của mình.
Còn Thiền thì dành cho ngƣời ít nghiệp sát hơn.
Do đó mà con đƣờng hợp lý là: Từ Tịnh Độ sang Thiền Tông [từ vị trí
nhiều nghiệp sát và do tu hành mà nghiệp sát nó bớt đi (do làm chuyện độ tử thiên
hạ) nên ngƣời này mới có điều kiện thay đổi pháp môn là nhảy qua Thiền Tông] thì
có lý hơn là từ Thiền Tông mà chạy sang Tịnh Độ. Vì vậy mà "Tịnh Thiền song tu" nó
có lý hơn là chữ "Thiền Tịnh song tu".
b) Nguyên tắc hoạt động của Tha Lực trong Tịnh Độ.
Khi đệ chết lần thứ nhất và qua đƣợc bên đó thì đệ mới biết đƣợc nguyên tắc
của cái gọi là Tha Lực.
Xuất phát của Phật lực: Ngài A Di Đà Phật Phát ra một luồng hào quang rất
là mạnh từ Ajna của Ngài.
Phân tích luồng năng lực này:
Trong nhiều kinh Đại Thừa có diễn tả về cung cách phóng quang của Chƣ
Phật: Trích từ “KINH ÐẠI ÐÀ RA NI MẠT PHÁP TRUNG NHẤT TỰ TÂM CHÚ”
Ngài nhập nơi đảnh Tam muội của tất cả Nhƣ Lai tối thƣợng đại Chuyển
Luân Vƣơng, liền ở giữa chặng mày phóng một đại hào quang, hào quang kia
chiếu khắp mƣời phƣơng thế giới hết thảy các Phật sát, trong ấy chúng sanh nào gặp
đƣợc ánh hào quang thảy đều vui mừng. Hào quang kia chiếu khắp rồi, trở về đến
chỗ Phật nhiễu quanh ba vòng rồi nhập vào đảnh của đức Nhƣ Lai.
Đại khái là nhƣ vậy, có nghĩa là luồng hào quang xuất phát từ trung tâm năng
lực Ajna (từ điểm giữa của chân mày kéo thẳng lên một khoảng cách dài bằng đốt
giữa của ngón giữa). Và bay ra, rồi vòng về lại và nhập vào đảnh.
Nhƣ vậy, có thể nói là năng lực (hay hào quang) này có hai phần:
PHẦN 1: Xuất phát từ trung tâm năng lực Ajna và phóng thẳng ra.
Ngƣời có thần nhãn ( thấy đƣợc hào quang bằng mắt thịt) có thể thấy đƣợc
rất là rõ cái phần này khi nhìn một tu sĩ Tứ Thiền Hữu Sắc đang sử dụng Thiên
Nhãn ( danh từ của bọn lu bu: Màn ti vi) để quán xét này nọ. Ngƣời này thấy ngay
từ trung tâm năng lực của tu sĩ này phóng ra một tia laser màu vàng rực, đồng thời
ngƣời này cũng hiểu là tu sĩ đang sử dụng tinh khí của chính họ để làm chuyện
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 65
này, do vậy mà sau khi quán này nọ xong thì tinh khí cũng bị mất đi phần nào: Ngƣời mà dùng
màn ti vi nhiều quá thì cũng xanh xao vàng vọt nhƣ những tay ăn chơi hạng nặng.
Cái lợi:
Cái gì đồng dạng là tự động cộng hƣởng đó là định luật tự nhiên của vũ trụ. Do
vậy mà khi quán thì năng lực này cũng cộng hƣởng với nhau! Ví dụ nhƣ, ngay lúc
này thì có 40 tu sĩ đang quán này nọ thì khi chính mình vào cách quán thì 40 ngƣời
kia cùng cộng hƣởng với mình để mà tự động trợ lực với nhau, mình vẫn bị mệt
nhƣng hiệu suất rất là cao. Lần hồi, do tâm mình nó càng nhạy cảm nên khi quán
mình cũng cảm nhận đƣợc sự cộng hƣởng này tạm gọi là “năng lực gia trì” của Thập
Phƣơng Chƣ Phật. Một khi đã gia nhập vào đây rồi thì hành giả lúc nào cũng ở trong
tƣ thế quán, và có thể gọi là khi họ nhìn bằng mắt thịt thì cũng là lúc họ nhìn qua
Thiên Nhãn. Thiên nhãn là mắt thịt, mắt thịt là thiên nhãn.
Chú ý quan trọng:
Chỉ khi lên đến Tứ Thiền hành giả tác ý về hiện tƣợng “năng lực gia trì”, thì
mới đƣợc an toàn. Còn mới tập quán mà đã để ý tới năng lực gia trì thì rất là dễ bị
Tha Hóa Tự Tại chi phối.
Đặc biệt trong Tịnh Độ:
Khi tu sĩ độ tử thì động tác dễ làm nhất là: Quán Tam Tôn (tính từ bên trái qua
bên phải là: Ngài Quan Thế Âm, Ngài A Di Đà và Ngài Đại Thế Chí). Khi linh ảnh
đã xuất hiện thì các Ngài tự động độ ngƣời này. Tu sĩ chỉ cần theo dõi coi ngƣời này ở
vào phẩm nào vậy thôi.
Lời bàn:
Khi tu sĩ tập trung tƣ tƣởng và quán cho ra Tam Tôn thì có thể nói là tu
sĩ chính là cái kính hội tụ để hội tụ lại cái tha lực mà Ngài A Di Đà đã phóng ra từ
Ajna của Ngài vào đối tƣợng hữu duyên. Khi đã hội tụ lại đƣợc rồi thì cái tha lực
tự động làm việc.
Và dĩ nhiên đó cũng là sự sử dụng của cái phần “phóng đi” của Ngài A Di
Đà. Nay bàn tiếp về phần năng lực quay về.
PHẦN 2 Sau khi lực phóng quang này đi hết đà, thì hào quang tự quay về
với cái đảnh của Ngài A Di Đà.
Phần quay trở về này, đƣợc lợi dụng tối đa để cho những tu sĩ chƣa đƣợc
thấy Ngài A Di Đà. Thật vậy, khi mà tu sĩ làm một cách nào đó để biến mình
thành ra đƣợc một tƣ tƣởng thì tu sĩ này có thể nƣơng vào cái lực quay trở về kia
mà có thể về lại ngay cái đảnh của Ngài và do đó mà có thể thấy đƣợc Ngài một cách lẹ nhất.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 66
2. PHƢƠNG PHÁP THỰC HÀNH
a) Chuẩn Bị Niệm Phật
(1) Bước thứ nhất - Chuẩn bị tâm lý:
Đời thì chẳng ra gì. Đạo thì cũng chẳng đi tới đâu, vì khó tu quá.
Thế nên chuẩn bị... "vƣợt biên" đi tìm một chỗ khác để tu cho dễ hơn. Do tâm lý
sẽ "vƣợt biên" nên mình chỉ tạm sống ở đây mà thôi. Cũng vì sẽ "vƣợt biên", nên chỉ
cần đủ no và đủ ấm mà thôi, cuộc sống đơn giản chừng nào thì tốt chừng đó.
Trang bị nhẹ chừng nào thì dễ đi chừng đó.
Vì tình trạng mong cầu về xứ Phật để tu tiếp nên cứ vào buổi chiều khi mặt trời
lặn thì tự nhủ rằng:
- Một ngày lại trôi qua mà mình chƣa về đƣợc quê ( rồi thở dài, rồi suy
nghĩ tiếp) không biết mình ở đây mình làm đƣợc cái gì cà. Đó là chuẩn bị phần tâm lý.
(2) Bước thứ nhì là: Trạng thái cảm phục khi đọc qua những Đại Nguyện
của Ngài.
Những Đại Nguyện ngoài sức tƣởng tƣợng của Ngài để làm cho mình có
cảm hứng... bảo trợ và giúp đỡ những ngƣời thân thiết của mình theo cái cách làm
đƣợc cái gì cho họ đỡ khổ chừng nào thì mình vui chừng đó.
Trong nhóm lu bu xuất hiện những tay vừa niệm Phật, vừa làm việc thiện
một cách bất vụ lợi. Trạng thái của họ là cố gắng trải cái tâm linh của họ ra qua
những việc thiện và bất vụ lợi, thế nào cho nó (cái tâm) càng... đồng dạng với Ngài
(Đức Phật A Di Đà) chừng nào thì càng tốt chừng đó.
b) Kỹ thuật niệm Phật
Lật sách tu của Tiểu Thừa thì có nói đến cách nhập vào cõi Vô Sắc. Kỹ
thuật là quán một ngôi sao nhỏ nhƣ dấu chấm ở trong cái ngoặc này ( .). Nhƣ
đã biết, Vô Sắc là cõi của tƣ tƣởng. Và dĩ nhiên là nếu hành giả vào đƣợc cách nhập
định này thì đƣơng nhiên hành giả đã biến thành “tƣ tƣởng”. Nắm đƣợc bí quyết này
thì Tịnh Độ nằm trong tầm tay.
Nay lại bàn tiếp về “âm thanh” của năng lực quay về này của Ngài A Di Đà Phật.
Vì năng lực này là tƣ tƣởng nên nó cũng có âm thanh là “A Di Đà Phật”.
Nhƣng vì đây là Ngài nói cho tất cả các Thế Giới của Uế Độ nghe nên
Ngài không thể nói là A Di Đà Phật! A Di Đà Phật! Đƣợc! Mà phải là:
AAAaaaaa… DIIIIiiiiiiiiiiiii… ĐÀÀÀààààà… PHẬẬẬậậậậật…
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 67
Do vậy mà khi hành giả niệm nhƣ trên (từng tiếng một và kéo dài) và đồng
thời quán cho ra cái chấm đỏ là vô tình đƣợc cộng hƣởng với tiếng kêu gọi của Ngài
và thỏa điều kiện (biến mình thành một tƣ tƣởng) để có thể xuôi buồm thuận gió mà
về lại đảnh của Ngài và do đó mà có thể gặp Ngài một cách dễ dàng.
Đặc biệt: Cách này rất là khó làm nên tâm hành giả tạm ngƣng những cuộc
“nội chiến” về Tham Sân Si để chỉ lo chú ý vào công cuộc biến chính mình ra
cho đƣợc thành một tƣ tƣởng để có thể trở về với Ngài A Di Đà.
Do vậy mà danh từ bọn lubu có nói không ngoa rằng:
Chơi Tịnh Độ y nhƣ là em bé nắm chéo áo của ba để đi coi hát bóng (xinê). Em
bé này không cần biết luật đi đƣờng, không cần đọc bản đồ, không cần có tiền, không
cần gì hết. Chân thì cứ nhảy chân sáo, tay thì cầm cà rem, nhƣng khi tới nơi thì cà
rem vẫn ăn và xi nê vẫn cứ đƣợc coi!
Vì hành giả đi về để thăm một vị Phật thì đâu có ai giành đƣờng, hay khen chê,
hay chen lấn gì đâu? Nên phần hộ thân trong công phu cũng không cần thiết.
Đặc Biệt: Không có ai cấm cho những ngƣời Thiên Chúa Giáo lại dùng ý trên
để có thể gặp Đức Mẹ qua cách niệm:
AAAaaaaaa... Vêêêêêêêê... Maaaaaaa... Riiiiiiiiiiiiiiii… AAaaaaaaa…
Khi đọc nhƣ vậy thì hành giả quán 1 chấm màu trắng nhỏ nhƣ dấu chấm
trong ngoặc (.) hay là quán từng hột của vòng mân côi, sau khi ra nguyên vòng mân
côi rồi thì quán cái chấm nhỏ và có màu trắng (.).
c) AN TRÚ CHÁNH NIỆM ĐẰNG TRƯỚC MẶT
Chánh niệm là niệm về một niệm thế nào cho cái niệm đó không còn là niệm thì là
chánh niệm. Ví dụ: A Di Đà Phật là một niệm. Nhƣng khi niệm phóng mạnh cái niệm đó ra
đằng trƣớc mặt và đẩy nó ra càng xa càng tốt (cũng đằng trƣớc mặt thôi). Nhờ vào cái niệm có
đủ lực này mà mình có thể thành nhất tâm bất loạn đƣợc, mà nhất tâm bất loạn là cái sự tiêu hóa
của Chánh Niệm vậy!
À! Ở đây thì niệm từng chữ một:
AAAaaa... DIIIiiiiiiiii… ĐÀÀÀàà... Phậậậật...
Lại nữa: Trong câu Chú: Ôm, MaNi Padmê Hùm thì tụi mình lại có kỹ
thuật Chánh niệm nhƣ sau để mau nhất tâm bất loạn. Đọc trong tâm và chia ra làm
hai bè ( giọng) mà hợp ca:
Bè 1: ÔÔÔôôômmmm
Bè 2: Ma Ni Pad Mê Hùm
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 68
Rồi áp dụng kỹ thuật đẩy mạnh ra đằng trƣớc mặt nhƣ cách thức trên...
d)NIỆM PHẬT - CÔNG PHU HẰNG NGÀY
Niệm làm sao cho thấy cảnh luôn, vì thấy cảnh nên cái niệm này rõ ràng
là mạnh hơn (to hơn) những cái vọng niệm của mình thƣờng ngày, phần này làm
cho tất cả các tạp niệm biến mất. Tạp niệm rơi rụng (niệm đầu tiên bị văng ra
ngoài) vì có cảnh nên nó nhất tâm, vì tình trạng nhất tâm nên không mỏi mệt y nhƣ
mình đang coi xinê phim hay vậy:
Mình có thể ngồi 4 giờ liền há miệng mà dòm vào cái màn ảnh.
Nếu không có gì thì ai có thể ngồi há miệng mà coi cái màn ảnh trắng bệch đó?
Họa chăng chỉ là "Thiền Đăng".
Để lấy cái niệm này ra thì có nhiều cách: Cách đơn giản nhất và hữu hiệu nhất
là khi mình thấy Pháp Thân ông Phật thì để ổng lo, mình khỏi lo!
Trên là trong cái Pháp Niệm Phật không pha trộn.
e) NIỆM PHẬT RẢI TÂM TỪ - QUÁN CHẤM ĐỎ
Niệm Phật để rải cái Tâm Từ - Niệm Phật Quán Chấm Đỏ
(1) Tư thế:
Hành giả nhắm mắt 100%.
Trong khi nhắm mắt lại nhƣ vậy thì lại nhìn vào một điểm. Điểm này
nằm ngang với tầm nhìn và khoảng cách bằng một với tay của mình.
(2) Cách niệm:
Niệm với một giọng cao nhất bằng cái tâm, có nghĩa là niệm trong cái đầu, và
tất nhiên là không cho phát ra thành tiếng. Cách niệm này dân Mật Tông gọi là Kim
Cang Trì. Niệm từng chữ một và kéo dài ra nhƣ sau:
AAAaaaa... Diiiiiiiiiiiii… Đàààààà... Phậậậttt…
(3) Khi niệm:
Mắt chăm chăm nhìn vào một điểm ngay đằng trƣớc mặt và ngang với tầm
nhìn của chính mình. Đệ nói chăm chăm có nghĩa là nhìn cố định vào một điểm,
không nhìn về bên phải hay nhìn về phía trái. Có nghĩa là không cho cái nhìn của
mình nó chạy qua, chạy lại mà chỉ nhìn có vào một điểm duy nhất mà thôi
(4) Tưởng tượng
Tƣởng tƣợng cái điểm đó thành ra một cục màu đỏ y như đốm nhang (hay
to bằng cái đèn LED của máy vi tính).
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 69
Kỹ Thuật:
Nói là nói nhƣ vậy! Nhƣng trong thực tế, khi hành giả nhìn chăm chăm
vào một điểm thì vào những lần đầu tiên, cái điểm màu đỏ đó nó không chịu nằm
yên. Mà nó cứ chạy đi chỗ khác. Kinh nghiệm của đệ là khi nó chạy đi xa cỡ 5
cm ( 2") thì hành giả nên bỏ nó đi và dùng tâm lực của mình mà tạo ra một cục
màu đỏ khác ở vào ngay cái vị trí cũ. Chớ đừng có tốn sức mà kéo cái cục màu đỏ
đó lại về vị trí cũ của nó.
Làm đúng bốn động tác trên, thì hành giả rơi vào cái tâm lực của Ngài A Di
Đà Phật. Tại sao? Vì ở cõi Tây Phƣơng Cực Lạc: Chính Ngài A Di Đà Phật cũng
lại phóng cái câu niệm này bằng cái Ajna của Ngài. Câu niệm này, theo cái tâm lực
của Ngài, đi xuyên vào các cõi Uế độ và lại quay trở về lại chính nơi cái đảnh của
Ngài tạo thành một luồng tâm lực cứu độ, và cứ xoay vòng nhƣ vậy.
Mặt khác, khi nhìn chăm chăm vào một điểm ở ngay đằng trƣớc mặt và đồng
thời phóng mạnh cái niệm vào cái điểm màu đỏ đó thì hành giả "rất dễ quên mình"
khi niệm Phật. Do tình trạng "quên mình này" mà hành giả rất là dễ rơi vào tình trạng
"Nhất Tâm Bất Loạn". Mà đã "Nhất Tâm Bất Loạn" thì cảm giác đầu tiên là tình
trạng An Lạc liền xảy ra. Càng An Lạc thì chấm đỏ lại càng hiện ra càng rõ ràng hơn
nữa! Cho đến khi cái chấm đỏ lại phát ra hào quang thì phải hiểu rằng hành giả đã
gần nhƣ đi đƣợc nửa đoạn đƣờng rồi!
Đến giai đoạn này thì sự An Lạc "gần nhƣ" hiện tiền. Đem cái An Lạc này mà
hồi hƣớng cho ai đó thì... Nếu "Không phải là Từ thì nó cũng là Bi" và ngƣợc lại.
TB: Khi hồi hƣớng cho ai đó thì nên hồi hƣớng 100%, đừng có giữ lại cái gì
cho mình hết. Làm nhƣ vậy thì cái tâm của mình nó... đồng dạng với cái tâm của
Ngài A Di Đà Phật.
f) NIỆM PHẬT - KỸ THUẬT VÀ NIỆM LỰC
Niệm Phật mà không có lực thì không thành công đƣợc.
Ví dụ sau đây sẽ làm rõ câu trên, tụi mình thử quan sát hai cách ném giấy của
hai ngƣời sau đây:
1. Một lực sĩ cầm một tờ giấy lịch để nguyên nhƣ vậy và ném. Cho dù ông ta
ném mạnh đến đâu đi nữa, ông cũng không thể ném xa đƣợc.
2. Một em bé lấy một cục đá và gói trong miếng giấy đó và ném thì khỏi cần
nói: em bé có thể ném xa hơn lực sĩ kia mà không cần dùng sức nhiều cho lắm.
3. Lực sĩ và tờ lịch để nguyên là hình ảnh của một ngƣời đang niệm
Phật mà không có lực.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 70
Nhƣ vậy hình ảnh thứ hai là hình ảnh của ngƣời niệm Phật mà có lực.
Nhƣ vậy muốn niệm Phật cho đƣợc việc thì nên... gói cái gì trong câu niệm đó? “Niềm
tin”: Vì tin rằng có một thế giới là Cực Lạc nên ngƣời niệm Phật chỉ mƣợn tạm cuộc đời này để
sống tạm qua ngày qua bữa và mong về Tây Phƣơng Cực Lạc để tu tập tiếp.
Nhƣ vậy, vì cách sống tạm này mà họ không màng đến những chuyện có thể
kích động họ, họ sống... nhƣ cái bóng giữa cuộc đời.
(1) Bước đầu tiên:
Nhìn vào đâu để niệm Phật: Khi niệm thì nên nhắm mắt và nhìn về một
điểm duy nhất. Điểm duy nhất này lại ngang với tầm nhìn của mình. Diễn tiến nhƣ
sau: Đầu tiên, khi nhắm mắt lại thì cái thấy lại thấy nguyên một vùng không gian
đằng trƣớc mặt. Khi đã thấy đƣợc vùng không gian này rồi thì hƣớng tầm nhìn vào
một điểm ngay khoảng giữa của vùng không gian đó.
Niệm nhƣ thế nào?
Cứ nhìn vào điểm trên và niệm hướng về cái điểm đó. Cái tông niệm là
cao. Cao theo cái kiểu mình kêu ai đó. Niệm cao đã rồi thì la lớn ( la trong tâm).
La lớn mệt thì lại xuống tông để niệm cao. Cứ làm qua lại theo 2 cái này. Khi
niệm phóng mạnh cái niệm đó ra đằng trƣớc mặt và đẩy nó ra càng xa càng tốt
(cũng đằng trƣớc mặt thôi).
Thở nhƣ thế nào? Cứ thở tự nhiên hay một chữ một hơi thở cũng đƣợc, miễn
sao thấy thoải mái là đƣợc.
A DI ĐÀ PHẬT
Niệm từng chữ một: AAAaaaa… Diiiiiii… Đààààà… Phậậậậttt…
OM, AMITABHA HRIH, SVAHA.
- Cách niệm 1
Om… Om… Om... (Ôm)
A… A… Mi… Mi… Ta… Ta… Ba… Ba… Hrih …rih…
(Hơ Ri (hơ) ! Chữ (hơ) viết trong ngoặc là chỉ còn hơi ra mà thôi.)
Swaha... Ha… ha… (xoa ha)
- Cách niệm 2
Niệm Om làm bè 1 (ngân dài cho tới khi bè tứ hai chấm dứt)
Niệm A… Mi… Ta… Ba… làm bè 2 (đọc và để ý tới bè thứ nhất, và cho nó
ngân cho tới chữ xoa ha)
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 71
Cách này khó hơn nhƣng nếu làm đƣợc thì độ tập sẽ trung cao hơn. Nói cách
khác nó tƣơng tự nhƣ: Tay trái vẽ vòng tròn, Tay phải vẽ hình vuông!
(2) Bước thứ hai là:
Sau khi niệm một thời gian cho thuần rồi thì tưởng tượng ngay cái điểm
mà mình thường nhìn hằng ngày khi niệm Phật đó nó biến thành một đốm màu đỏ
như đốm cây nhang. Duy trì câu niệm và cái điểm đỏ đó càng lâu càng tốt. (hành giả
tƣởng tƣợng phóng cái niệm vào 1 điểm đỏ. Cái điểm đỏ này vốn là cái Đảnh
của Ngài, trong tầm nhìn cách khoảng từ 0.5m đến 1 sải tay. Kích cỡ của cái điểm
đỏ có đƣờng kính bằng hạt tiêu, 1,2 hay 3cm thì tùy theo hành giả kiểm tra mình
an trụ đƣợc cái nhìn với cái kích cỡ nào.
1. Khi nhắm mắt 100% thì đợi cho cái nhìn nó đứng im cái đã.
2. Kế đó là vẽ cái viền của đề mục trƣớc.
3. Rồi sau đó là mới tới giai đoạn sơn nó ra cái màu mình muốn. Khi nó
đã lâu, rõ và đứng im rồi thì mới tác ý tô nó. Tuy nhiên cũng có ngƣời là tự
động nó thành ra màu vàng (nếu là lửa), hay là màu đỏ (nếu là cục màu đỏ,
dành cho niệm Phật).
Kỹ thuật:
1. Nó ra hiện cái gì thì... Kệ nó. Cứ một mạch vẽ đè lên đó cho nó ra cái đề
mục. Không thèm đếm xỉa gì tới những cái không mời mà đến! Chỉ chú tâm đến đề
mục thôi. Những cái hiện ra mà không dính líu gì đến đề mục thì chỉ ghi nhận rồi
quay lại liền với cái đề mục.
2. Điều cần yếu là không thèm để ý vào cái bề rộng của tầm nhìn mà chỉ
chăm chú vào cái chỗ mà ta vẽ mà thôi. Không thèm nhìn chung quanh coi nó ra cái gì?
3. Nhớ là 70% sức lực của mình mà thôi đó nghe.
Đề mục xuất hiện trong một sát na: Thông thƣờng là do Cái đầu chƣa đƣợc
yên lặng, hay là chƣa quen: Mình cứ làm tới làm lui nhiều lần. Khi nó quen, là nó
ra lâu hơn. Nhớ là cứ tập y nhƣ là lúc tập đi xe đạp vậy. Có nghĩa là nó té thì đứng
lên làm tiếp. Khi tập đi xe đạp thì chƣa có ai mà có ý nghĩ là mình phải đi đƣợc y
nhƣ hôm qua. Mà cứ leo lên đại và đạp đại. Và bị té thì ngay cái té đó mà mình sẽ
biết cách đối phó cho lần sau.
Khi quán ra đƣợc chấm đỏ: Mờ mờ; khi có, khi không.
Vị Trí: Đã ra rồi, nhƣng còn xa lắm, chƣa tới nơi.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 72
Lúc đó nên tiếp tục "vừa niệm và vừa quán" y nhƣ mới lúc đầu mà mình
tập vậy. Khi mà cái niệm... nó mạnh hơn cái quán thì lúc đó mình đang "dừng lại
để hỏi đƣờng". Cứ tiếp tục nhƣ vậy mà không quan tâm đến cái điểm đỏ có ra
hay không. Cho đến nó khi xuất hiện. Mờ mờ và ba chớp ba nháng. Lúc có lúc
không. Hành giả vẫn không quan tâm và vẫn tiếp tục công phu. Đến đây thì hành
giả đã đi đƣợc 1 đoạn đƣờng khá dài rồi. Tâm lý hành giả bây giờ ổn định hơn, tự
tin hơn, vui vẻ hơn và nhất là có đƣợc 1 Niềm Tin tƣởng nhƣ không gì lay chuyển
nổi. Và hành giả đã có thể công phu để hồi hƣớng, độ tử. Công phu trung bình từ
20 phút đến 1 giờ. Có ngƣời tới đây chỉ trong vòng 1 tuần. Nhƣng cũng có ngƣời
làm cả 10 năm vẫn chƣa xong giai đoạn này.
(3) Bước thứ ba:
Cái điểm đỏ bỗng dƣng càng rõ và càng xa cái tầm nhìn. Câu niệm có vẻ
có chiều sâu. Đề mục thì khi giữ nó và nó đã chịu xuất hiện lâu 12 giây thì nó tự
động dời ra xa. Chỉ một số rất là ít ngƣời mới nên đẩy nó ra xa mà thôi (những
ngƣời này hiếm lắm).
Rõ, nhƣng khi có và khi không: Gần hơn hồi nãy nhƣng chƣa tới đƣợc... trƣớc cửa.
Do đó mà vẫn cứ y nhƣ khi mới tu tập: Vừa niệm, vừa quán.
Khi mà cái quán... nó mạnh hơn cái niệm là mình đang tiến bƣớc để về
Tịnh Độ.
Điểm đỏ càng ngày càng ổn định. Hành giả khởi đầu công phu quán điểm
đỏ và giữ cho được 12 giây. Cái này khó vô cùng khó. Giữ đƣợc 2,3 giây là đã xé
rào. Đƣợc rồi là la lớn phóng cái niệm vào ngay trung tâm cái điểm đỏ. Hành
giả vừa niệm vừa tƣởng tƣợng đẩy cái điểm đỏ ra xa trong cái không gian đó. Nếu
để ý thì sẽ thấy cái không gian xung quanh điểm đỏ lúc này đen lại. Niệm đã rồi
hành giả chỉ nhìn vào cái điểm đỏ mà thôi. Nhìn trừng trừng nhƣ thôi miên. Mệt rồi
thì lại nhìn nó nhƣ canh 1 con ruồi muốn đậu lên cái bánh của mình. Làm qua
làm lại với 2 cách này. Chúc mừng hành giả đã tinh tấn đi đƣợc đến giai đoạn này.
Ở giai đoạn này hành giả đã có thể giữ điểm đỏ đƣợc 12 giây trở lên và hào quang đã
sáng chói vàng ròng rồi đó.
(4) Bước thứ tư
Khi cái điểm đỏ đó xa nhất và câu niệm gần nhƣ là tự động niệm thì lúc này
đọc câu chìa khóa để vào cõi Cực Lạc:
Câu đầu tiên là: Tứ Đại Nguyện
Câu thứ hai là: Nguyện xin thể hiện (Tây Phƣơng Cực Lạc)
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 73
Nhắm mắt nhìn vào một vùng không gian đằng trƣớc mặt là... tập trung
tƣ tƣởng, cái tầm nhìn này nó gần.
Sau khi thấy đƣợc vùng không gian này rồi thì lần này mình nhìn vào một
vùng nhỏ hơn, rồi sau đó thì có thể gom tầm nhìn vào một điểm. Đến đây mình sẽ
thấy cái tầm nhìn nó có vẻ xa hơn. Độ tập trung tƣ tƣởng lại mạnh hơn so với lúc
trƣớc. Muốn vào đến đây thì gần nhƣ mình phải thƣ giãn toàn bộ cơ thể, nhƣ vậy
là cả con mắt luôn.
Thế nhƣng đến lúc cục màu đỏ xuất hiện nhƣ đốm nhang thì tầm nhìn lại... tự
tại hơn nhiều:
Mình có thể nhìn phải, nhìn trái, nhìn xa, nhìn gần trong tƣ thế này. Càng tự
tại bao nhiêu thì câu niệm càng tự động bấy nhiêu.
Chấm Đỏ Sáng Ổn Định
Thấy chấm đỏ sáng chói và đứng yên:
Tới nơi rồi, nhƣng vì còn đang ở Vô Sắc, nên chỉ thấy đƣợc cái phần tƣ
tƣởng của Ngài A Di Đà Phật. Do đó mà nên nhìn rộng ra một tí thì sẽ thấy mái
tóc của Ngài (Từ Vô Sắc mình tuột xuống Hữu Sắc). Sau khi thấy mái tóc rồi thì
sẽ thấy cả Pháp Thân của Ngài! Rồi từ đó nới rộng tầm nhìn ra hai bên và hƣớng
xuống dƣới ở vào góc độ ( 60 độ âm) thì sẽ thấy hai Bồ Tát ở hai bên Ngài. Rồi
cứ tiếp tục nhìn rộng xuống thì có cả cõi Tịnh Độ. Thấy đƣợc Pháp Thân các Ngài
thì nhu nhuyễn dễ sử dụng.
Còn một cách nữa là: Đọc câu Nguyện xin thể hiện sau khi cục đỏ biến thành
chữ Hrih.
Hành giả giữ được điểm đỏ trên 40 giây.
Ở giai đoạn này quán điểm đỏ để thấy đƣợc Pháp Thân của Ngài. Còn quán
Hrih là để nhập vào Trí Tuệ của Ngài. Bất cứ ở giai đoạn nào 1,2,3 hay 4 Bà Rá Nhập
Ông Địa hành giả thấy cái mặt của Ngài thì chứng đƣợc Thƣợng Phẩm Thƣợng Sanh
tại thế. Và nếu thấy đƣợc nguyên Pháp Thân của Ngài thì hỏi mƣợn màn Tivi của
Ngài để hoằng Pháp độ Sanh. Tuy vậy hành giả không làm xong đƣợc giai đoạn 4
vẫn có thể có thể qua giai đoạn 5.
Niệm Phật - Quán Chấm Đỏ và Hrih (Hơ Ri (hơ)
1. Tâm niệm A Di Đà-Phật với tần số cao, mạnh, vang ra xa nhất và đẩy mạnh
niệm đó ra xa ngang với tầm nhìn của mình.
2. Quán một cục đỏ nhỏ nhƣ đốm nhang cho tới khi nó xuất hiện đằng trƣớc
tầm nhìn.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 74
3. Sau khi nó xuất hiện ra cho thật rõ (nhƣ thật) với một màu đỏ rực.
4. Quán một chữ Hrih. Chữ Hrih xuất hiện trong một mặt trời nhỏ
bằng móng tay cái của mình.
5. Giữ hình đó cho lâu, và làm cho rõ lên. Khi chữ đó đã rõ, thì thấy mình phải
hơi ngƣớc lên để nhìn chữ đó: Y nhƣ mình đang ngồi dƣới chữ đó vậy (vấn đề trên
chỉ còn thời gian thôi, đừng nôn nóng, nên giữ tín tâm thanh tịnh).
6. Tâm đọc câu: Nguyện xin thể hiện. Nó sẽ hiện ra một cái gì đó. Nhớ tìm
ngƣời giỏi hơn mình để kiểm tra hình ảnh đó có đúng không?
7. Hình ảnh xuất hiện ở đây không đƣợc tính ở mức độ định mà nó chỉ là kết
quả của niềm tin thôi.
8. Niệm cho tới lúc hết niệm nổi mà hình ảnh vẫn xuất hiện đó mới thật
là niệm: Vô niệm.
Ôm, Amitabha hrih, svaha. (Dành cho ngƣời để đƣợc vãng sanh).
Ôm, krêkara krêkara hrih hrih hrih, svaha. (Để vãng sanh cho súc vật).
HRIH chữ đỏ, viền đỏ, nền vàng tất cả đều phát hào quang.
(5) Chỉ Còn Cái Quán
Và sau cùng là chỉ còn cái quán: Mình đã tới nơi nhƣng còn lạ nƣớc,
lạ cái: Hỏi chẳng ai trả lời, hay là im ru vì không có gì để hỏi cả. Và dĩ
nhiên, khi là cƣ dân ở đó rồi thì... quán và hỏi, nó dễ dàng nhƣ mình đang ở
Địa Cầu vậy.
Nhƣ vậy cái diệu dụng lại quan trọng hơn. Miễn là mình xài đƣợc là
ngon lành.
Mình dùng cái của mình đang có: Rồi từ đó đặt câu hỏi (Đơn giản trƣớc).
Sau đó khi pháp nó đã lƣu xuất đƣợc rồi thì hỏi cái gì thì cũng tƣơng đƣơng
với màn tivi.
Thời gian đầu trong cả năm hay hơn nữa nhớ thử và kiểm tra. Nếu không thì
chỉ là cái Bản Ngã nó kể chuyện. Hành giả đã giữ được điểm đỏ hay Hrih trên 70
giây và Dứt Luôn Câu Niệm.
Giai đoạn nào thì hành giả có thể đổi điểm đỏ thành Hrih để quán?
- Điểm đỏ là Vô Sắc, là phƣơng tiện để đi về Tây Phƣơng Cực Lạc. Khi tới
đó đƣợc rồi thì sẽ có hai cách:
1. Nhìn chung quanh điểm đỏ thì thấy đƣợc mái tóc của Ngài, và kế đó là
thấy luôn Ngài và Tam Tôn và sau cùng là toàn cõi Tây Phƣơng Cực Lạc.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 75
2. Nguyên cõi Tây Phƣơng Cực Lạc kể cả Tam Tôn có thể biến mất và chỉ còn
chữ Hrih. Là vì đây là Tâm Chú của các Ngài.
Có thể quán Hrih ở ngay Ajna của Ngài?
- Khi quán ra chữ Hrih thì Linh Ảnh của Ngài biến mất vì mình đã vào Tâm
Chú của Ngài rồi. Rõ hơn, Hữu Sắc là có cảnh vật, Linh Ảnh này nọ.
Còn Tâm Chú thì chỉ có chữ Hrih.
Cô Ba Hột Nút đã làm thử và nói là Chữ Hrih và Linh ảnh tác dụng nhƣ
nhau. Một bên là ý (chữ Hrih), một bên là Linh Ảnh. Chấm đỏ là trung gian của
hai hiện tƣợng này.
(6) Nhất Tâm "Bất Loạn"
(a) Nhất Tâm:
Có thể ví nhƣ là tìm ngƣời bạn mà chỉ mới biết có cái tên, và không biết mặt
mũi ra sao! Dùng cái tên mà đi hỏi là phải kiên cƣờng ghê lắm và nó... buồn ngủ dễ
sợ luôn. Vì đâu có làm cái gì đƣợc đâu: Lúc nào cũng dùng cái tên mà hỏi. Do cứ làm
nhƣ vậy... đều đều hoài nên dễ sinh ra chuyện buồn ngủ.
(b) Bất Loạn:
Có thể ví nhƣ là ngƣời tìm bạn ở trên đã hỏi ra đƣợc căn nhà, và bây giờ đang
đi tìm ngƣời bạn đang còn đi làm!
Tâm lý: Khi thấy đƣợc một cái gì của ngƣời kia rồi thì hăng máu ghê
lắm. Chuyện buồn ngủ không còn nữa. Nó tỉnh rụi y nhƣ là về nhà mà coi phim Tề
Thiên Đại Thánh (phim bộ của Trung Quốc đó!).
Trong công phu thì đề mục đã xuất hiện đƣợc một vài lần, và khi nó xuất hiện
thì hành giả rất là tỉnh và khó ngủ lắm.
Bất Loạn nặng hơn một tí là thấy đƣợc cái mặt của Bổn Tôn (ngƣời mà mình
đang tìm gặp bằng câu niệm).
Kinh nghiệm là: Khi Thấy đƣợc mặt của Bổn Tôn thì tính tình liền thay đổi.
Xử lý công việc nó có tình và có lý liền. Con ngƣời hiền khô. Tính tình thay đổi có thể
là nói là... Một sớm một chiều!
(c) Bây giờ tới Ngộ Đạo:
Thử nghĩ, chỉ cần vài cái nét đẹp bề ngoài thôi mà mê nhau tít thò lò và theo
nhau... Từ kiếp này qua kiếp khác!
Huống chi là khi gặp cái nét đẹp nhất của các chúng hữu tình đó là "Chân Lý"
thì làm sao mà bỏ đƣợc đây!
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 76
Chuyện gì xảy ra sau khi là Thánh Tăng?
Cho dù có ƣơng ngạnh nhƣ thế nào đi chăng nữa, có nghĩa là:
Sao khi Ngộ Đạo mà Tu Sĩ vẫn cứ làm bậy thì... sẽ gặp tình trạng: Nhân
Quả Đồng Thời!
Một khi Con Ngƣời nó đã có mùi vị của Thánh Tăng rồi thì tự động...
nó không thích ở dơ nữa.
Có nghĩa là: Tu sĩ mà cứ tạo nhân cà chớn, thì quả báo nó xảy ra ngay vài ngày
sau và kéo dài một tuần là tối thiểu
1) "Khi thành Phật mới Nhất Tâm Bất Loạn"
HL: Ý của đệ là: tình trạng này mạnh nhất là vì đây là sự Nhất Tâm của một
Đức Phật mà!
2) "Về Tịnh Độ thì lại có những kỹ thuật để vào tình trạng Nhất Tâm Bất
Loạn lẹ nhất"
Lẹ nhất là vì khi mình dồn sức để chỉ còn có tiếng niệm Phật với một tâm lực
khá mạnh (tình trạng bắn mạnh câu niệm ra ngay đằng trƣớc mặt và vào chỉ có một
điểm). Thì vô tình mình bị lọt vào dòng tƣ tƣởng của Đức A Di Đà Phật. Nên mình
nƣơng vào dòng tƣ Tƣởng này của Ngài mà mình có thể qua cõi Tịnh Độ.
Dòng tƣ tƣởng này do Ngài phóng ra từ Ajna và đi vào cái uế độ rồi quay trở
về lại ngay cái đảnh của chính Ngài. Hiện tƣợng này Huynh có thể tìm thấy trong rất
nhiều các kinh sách Đại Thừa. Thông thƣờng là: Đức Phật nhập Định rồi thì hào
quang từ Ajna của Ngài phát ra và bay ba vòng theo chiều bên phải và lại quay trở về
cái đảnh của Ngài.
3) "Đệ tập thử thì biết rằng đây là tình trạng Nhất Tâm Bất Loạn"
Thật ra mỗi ngƣời khi chập chững với con đƣờng Tịnh Độ, họ đều có một
tình trạng nhất tâm riêng của họ với một cƣờng độ khác nhau. Do vậy mà khi một
hành giả nào mà tập đƣợc một tình trạng nhƣ thế nào đó, thì đệ thật tình cũng
không có biết. Nhƣng khi đệ tập lại đúng cái cách của hành giả đó thì thấy rằng đây
cũng có thể gọi là một tình trạng "Nhất Tâm Bất Loạn" thì đệ mới nói lại câu trên.
(7) Tây Phương Cực Lạc
Theo kinh nghiệm của đệ thì khi vào Tây Phƣơng Cực Lạc thì cái phần trƣớc
mặt của Phật A Di Đà Phật lại dễ vào hơn cái phần đằng sau lƣng của Ngài. Vì cái
phần đằng trƣớc này là những Ngài chƣa tu xong, các Ngài còn bị Hoa Sen tám
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 77
cánh (nếu nhìn từ trên cao nhìn xuống theo chiều thẳng đứng), và Hoa sen năm
cánh (nếu nhìn ngang) và ngay đằng trƣớc mặt các Ngài chi phối.
Mở Ngoặc: Hoa sen trên đó có hai vị trí để nhìn: từ trên nhìn xuống thì Hoa
Sen lại có tám cánh vốn là Bát Chánh Đạo. Và nếu nhìn ngang ở vị trí ngay đằng
trƣớc mặt thì Hoa sen lại có hình năm cánh đó là Ngũ Uẩn Giai Không. Tất nhiên vì
ngƣời đƣợc độ đối với Ngũ Uẩn họ lại "Giai Hữu Quá Nặng" nên Hoa Sen, trong
điều kiện này bị nặng ngay trung tâm, nên lại... khép lại tạo thành tình trạng Hạ
Phẩm Hạ Sanh. Và dĩ nhiên là khi Ngũ Uẩn hơi hơi giai không thì Hoa Sen sẽ hở ra
một tí Tạo thành tình trạng Hạ Phẩm Trung Sanh v.v... và v.v...
Cái phần đằng sau lƣng của Ngài là cái phần không gian có chứa những
Bảo Tháp. Vốn là nơi các Nhất Sanh Bổ Xứ đăng ký trở về độ Bạn Bè. Những Bảo
Tháp là những ngõ vào của những thế giới uế độ. Nên muốn ra đằng sau lƣng
Ngài A Di Đà thì phải ở trạng thái Thƣợng Phẩm Thƣợng Sanh và phải phát
nguyện thì mới vào đƣợc vùng đó. Nay lại trở qua cung trời Sắc Cứu Cánh. Sắc
Cứu Cánh lại không xa hơn Tây Phƣơng Cực Lạc nhƣng lại đòi hỏi ở trạng thái
tâm hành giả phải thanh tịnh hơn và trộn lẫn kinh nghiệm của những lần mình vào
Diệt Thọ Tƣởng Định. Do vậy mà muốn vào thì phải mất nhiều thời giờ hơn. Tất
nhiên: cái phần Sắc Cứu Cánh và cái cảnh đằng sau lƣng Ngài A Di Đà thì có phần
tƣơng đƣơng nhau. Có nghĩa là qua Tây Phƣơng rồi, nhƣng khi muốn ra đằng sau
lƣng Ngài A Di Đà Phật thì cũng phải khá chật vật mới có thể nhớ lại những Đại
Nguyện và phát tâm đọc Đại Nguyện.
Tuy rằng đây là hai vấn đề thật là đơn giản nhƣng khi đến Tây Phƣơng Cực
Lạc thì có ngƣời lại... Quên và chỉ thích đi đều bƣớc (nhƣ Sinh Viên Sĩ Quan của
Trƣờng Võ Bị đi dạo phố Đà Lạt) và ngắm cảnh. Do vậy mà lâu lâu lại có những Bồ
Tát từ các uế độ xuất hiện ở bên đó và nhắc nhở các Ngài rằng: Còn rất nhiều thế giới
đang cần đến mấy ông, Tôi nghĩ mấy ông nên phát nguyện độ sanh. Một cảnh cũng
khá đặc biệt là khi từ Thƣợng Phẩm Thƣợng Sanh mà qua dạng Nhất Sanh Bổ Xứ,
hầu nhƣ tất cả các Ngài đó đều trải qua một trạng thái bất tỉnh. Trạng thái bất tỉnh
này cũng tƣơng đƣơng với trạng thái nhập Diệt Thọ Tƣởng Định. Và sau đó là các
Tân Nhất Sanh Bổ Xứ này bay vào các Bảo Tháp và bắt đầu cuộc hành trình
độ sanh bằng cách: Nhập Thai Biết, Xuất Thai Biết.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 78
3. ĐÔNG PHƢƠNG TỊNH ĐỘ
Hôm nay thì Tibu quay qua đề mục: Đông Phƣơng
Tịnh Độ, một đề mục thật sự là nghèo nàn thê thảm về kinh
sách, tài liệu.
Dân bình dân học vụ thì chỉ nghe qua câu: Nam Mô
Dƣợc Sƣ Lƣu Ly Quang Vƣơng Phật.
Ngon lành hơn tí xíu: Thì có đọc qua cuốn
Sám Pháp Dƣợc Sƣ ( Một cuốn sách mỏng tanh và
nhỏ xíu)
Dân có thớ tí xíu: Lại biết là Ngài có bắt cái ấn
bàn tay dựng đứng và đầu ngón giữa đụng đầu ngón
cái, tạo thành một cái vòng tròn.
Còn câu chú của Ngài thì cũng có ngƣời biết, cũng lại có ngƣời lại tròn xoe con mắt khi
nghe ngƣời khác đọc một cách rành rẽ:
a) Chú Dược Sư quán đảnh chân ngôn:
Nam Mô, Bạt già phạt đế, bệ xát xả lũ rô-bệ lƣu ly bát lạc bà - hát ra xà dã, đát
tha yết đa dã - a ra hất đết, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệt sát
thệ, bệ sát xả - tam một yết đế, ta ha. (Trích trong Kinh Dƣợc Sƣ).
Tibu hỏi Thầy Google: Thì Thầy cho biết là nên lên chùa này mà nghe ngƣời
ta tụng câu chú 24 trên 24:
(Nguồn: http://www.jivanjili.org/medicine_buddha_mantra.html)
The Mantra word for word:
1. OM: We begin with Om the under-current tone of the universe.
2. NAMO: Means yielding or full of trust also can mean to bend or bow
and might mean to melt into.
3. Bhagawate: means in intimate relation to the Divine and often means
the entire cosmos.
4. Bhaishjaye: a name for the Medicine Buddha.
5. Guru: Spiritual Master also means the “that” which transmutes ignorance
into wisdom.
6. Vaidurya prabha: Divine deep blue light, like that of Lapis Lazuli.
7. Rajaya: means Great King.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 79
8. Tathagataya: means once came or once gone.
9. Arhate: one who has conquered the cycle of birth death.
10. Samyaksam buddhaya: perfectly enlightened.
11. Teyatha: do it like this.
12. OM: Again we begin with Om the under-current tone of the universe.
13. Bekhajye bekhajye: do away with the pain of illness.
14. Maha bekhajye: do away with the pain of illness ( of the darkness
of Spiritual Ignorance).
14. Bekhajye: do away with the pain of illness.
15. Samudgate: means the supreme heights. Like this, go go go ( my
prayer shall go to the highest and the widest and the deepest).
16. Svaha: I offer this prayer and now relinquish it… (to you Medicine Buddha)
Phải nói cái thời xa xƣa (thời còn đi xe ngựa) mà mò ra đƣợc chừng này kiến
thức thôi thì có khi đã mãn đời rồi.
Gì thì gì, cũng không thể nào lột hết đƣợc ý của Ngài Dƣợc Sƣ.
b)Trong 12 lời nguyện của Ngài
(Trong kinh Dƣợc Sƣ:
http://www.niemphat.com/kinhdien/kinhduocsu.html)
(Nên đọc 12 lời nguyện của Ngài).
Tibu tóm tắt lại nhƣ sau:
1. Tôi đã thành Phật và đƣợc những gì, thì mọi ngƣời sẽ đƣợc y nhƣ vậy.
2. Nói về ngọc lƣu ly: Sáng suốt, trong veo, nhìn vào thì phát triển Trí Tuệ.
3. Phƣơng tiện làm ra của cải.
4. Bỏ Tà Đạo, quy Chánh Đạo
5. Giữ Giới Luật đầy đủ
6. Hết bệnh bẩm sinh, kinh niên, bệnh Bác sĩ chê.
7. Gia đình ly tán, bệnh, nghèo.
8. Chuyển nghiệp: Gái (tồi tệ) thành Trai (ngon lành).
9. Bỏ Tà Kiến qua Chính Kiến.
10. Giảm tù tội, đƣợc ân xá
11. Thoát nạn đói
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 80
12. Quần áo đầy đủ.
Các Bạn cũng không ngờ là cái chìa khóa nó nằm ở câu thứ hai:
“2. Nói về ngọc lƣu ly: Sáng suốt, trong veo, nhìn vào thì phát triển Trí Tuệ. ”
c) Ứng dụng
Chỉ nhƣ vậy thôi. Tibu dùng câu này để tự nâng cao thể trạng. Chữa bệnh và
đả thông kinh mạch.
(1) Nguyên tắc:
1. Nằm tập đừng có làm cho máu huyết tắc nghẽn bằng cách ngồi. Mà chỉ,
xin nhắc lại, là: Nằm trên giƣờng (cho nó êm cái thân già) đắp mền cho nó ấm nếu
là trời lạnh.
2. Nhắm mắt 100%
3. Nhìn ra đằng trƣớc mặt thấy một vùng xám xám đen đen. (Cận Định)
4. Nhìn vào một vùng ngay giữa, ngang với tầm nhìn (An Trú Chánh Niệm
Đằng Trƣớc Mặt).
5. Nhìn kỹ thì sẽ thấy một cái đám bùi nhùi.
6. Đám bùi nhùi
7. Trong đám bùi nhùi có hiện ra cái cục trong trong mờ mờ nhỏ xíu. (Lƣu Ly
của mình đó)
8. Tới đây thì nhìn nó (cục lƣu ly của mình) nhƣ nhìn con ruồi. Hình ảnh thì
mờ mờ ảo ảo, khi có, khi không.
9. Kệ nó cứ nhìn vào chỗ đó mà vẽ (hay đúng hơn là mƣờng tƣợng) cho ra cái
cục có màu và cũng có phần nào trong trong.
Khi nó ra thì bình tĩnh niệm "trong tâm" câu:
Nam Mô Dƣợc Sƣ Lƣu Ly Quang Vƣơng Phật. (nhấn mạnh giọng ở
chỗ "Lƣu Ly")
10. Hình ảnh theo sự chú tâm có ra phần nào rõ hơn.
11. Kệ nó, bây giờ mới tác ý là: Con làm cái này cho sức khỏe tổng quát (toàn thân).
12. Nhìn cái cục trong trong thì cũng tác ý là: Đây là cục ngọc lƣu ly, nó phải
chắc chắn và trong.
(2) Kết quả:
Đói bụng! Cơn đói ấp tới bất thần.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 81
(3) Phản ứng:
Tác ý: Đói thì ăn cho hết cái bệnh đi!
Làm nhiều lần! Và đừng có dại dột mà đứng lên tìm cái ăn! Làm cho tới có
khi ngủ luôn càng tốt. Có khi phải thức dậy để làm cái gì đó:
Cảm giác là thân thể đã đƣợc đả thông phần nào: Thân Thể nhẹ nhàng. Bà con
làm thử, có gì thì cứ hỏi Tibu sẽ tìm ra câu trả lời cho.
(4) Bệnh Từng Vùng
Tiếp theo là dùng cục lƣu ly của mình để giảm những triệu chứng đầu tiên của các cơn
bệnh vặt. Ví dụ nhƣ ngứa cổ họng, để lâu nó ho, rồi từ ho, nó ra sổ mũi.
Ngay triệu chứng đầu tiên, hành giả:
1. Ngậm miệng lại
2. Nín thở
3. Ép nguyên cả cái lƣỡi lên vòm họng, nhắc lại là: Ép nguyên cả cái lƣỡi.
4. Nhắm mắt 100%
5. Nhìn cho ra viên lƣu ly của mình.
Cảm giác là:
Ngứa cổ dữ dội, và khi viên lƣu ly hiện ra mờ mờ đằng trƣớc mặt thì cảm
giác giảm rõ rệt và biến luôn.
Liên quan:
Nhƣ vậy những chỗ bị đau thƣờng ngày thì mình sẽ khoanh vùng nó và mình
biết chỗ nào là gốc của cái cảm giác đau:
Cứ việc hễ mà rảnh là:
1. Để ý tới chỗ đó, chỉ một chỗ mà thôi. (kinh nghiệm: Làm chỗ ít đau trƣớc).
2. Nhắm mắt 100%.
3. Nhìn cho ra viên lƣu ly của mình.
4. Tác ý (có nghĩa là: dùng trí tƣởng tƣợng của mình) làm cho nó cứng lại (vì
là "ngọc" mà) !
5. Cảm giác bị đói
6. Lại tác ý: Đói thì ăn cái chỗ này cho nó bớt đau đi.
Bàn về cảm giác đói:
Có khi, do việc nhìn chƣa ra đƣợc cho rõ viên ngọc lƣu ly của mình nên nó
chƣa có đói. Rồi do chƣa ra mà mình ngƣng tập và sinh hoạt lại bình thƣờng.
Thì sau đó vài mƣơi phút, nó lại đói.
Nguyên tắc là đừng có đi tìm cái ăn, mà hãy tác ý: Đói hả? Thì ăn cái chỗ
hồi nãy đó, cho nó bớt đau đi.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 82
III. MẬT TÔNG
1. TAM MẬT TƢƠNG ƢNG
Ngày hôm qua, Nhí đã đủ điều kiện vào học ở Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na.
Nhí ( anh) do hiền hơn Nhí (em), nên đã đƣợc cái nƣớc rút là vào ngay
vùng đầu của Pháp Thân. Nhí cứ đi xuyên qua các cảnh giới diễn tả lại các kinh
nghiệm Tâm Linh của Pháp Thân. Và đi dần vào trung tâm Trí Tuệ của Pháp Thân
Tỳ Lô Giá Na. Tới đó, Nhí biết là mình đã thành một Đức Phật y nhƣ bốn Đức
Phật khác đã ở đó từ lâu.
Năm Đức Phật y nhƣ nhau này cùng quăng năm cái chày Kim Cang lên
không gian. Theo Nguyên Lý cuối cùng: Sự Vô Ngại của kinh Kim Cang.
Khi quay phim và cho chạy chậm lại, quang cảnh sẽ là nhƣ sau:
Đức Phật ở giữa quăng chày thẳng đứng lên trên. Đồng thời bốn Đức Phật kia
ở bốn hƣớng Nam, Tây, Bắc, Đông. Và năm chày này đụng nhau tạo thành tiếng nổ
rất là to, tiếng nổ đó là dĩ nhiên là: "Subham"
Chứng và đắc cảnh này: Nhí ( anh) đƣơng nhiên đạt đƣợc Tƣớc Hiệu
"Phật" (nôm na: hơi hám của một Đức Phật, vì chƣa có chính thức). Vì còn thiếu một
chiêu cuối cùng là "Phản Bổn Hoàn Nguyên". Chiêu này thì Tibu phải xin phép gia
đình Nhí. Nếu gia đình chấp nhận thì tibu chỉ tiếp. Nếu gia đình không chấp nhận thì
Tibu sẽ chỉ tiếp khi Nhí tới tuổi "Trƣởng Thành".
Nhí vì chƣa có tƣớc vị chính thức vì còn thiếu một chiêu cuối cùng "Phản
Bổn Hoàn Nguyên". Và cũng đƣợc biết là đã có Nhí (anh) đang ngồi bên tay trái của
Ngài Tỳ Lô Giá Na. (Bên Trí Tuệ). Nhí (em) hiền nhƣ Nhí (anh) và cũng vào cảnh
giới "Sự Sự Vô Ngại" và cũng đã quăng chày và đã nghe tiếng nổ "subham". Nhí
(em) chƣa thông báo là đang ở bên nào của Ngài Tỳ Lô Giá Na.
Tất nhiên, khi đối diện với hai Nhí này thì ngƣời có cái tâm rộng lƣợng,
không tƣớng nhƣ thế nào thì cũng vẫn còn lui vào tƣ thế... xét lại.
Thƣa bà con: Một Nhí vào Mật Tông bằng... Tịnh Độ. Và Nhí kia bằng Thiền Quán.
Có ngƣời hỏi:
Làm sao mà Tịnh Độ mà vào Mật Tông đƣợc.
Vì Tịnh Độ là phƣơng pháp tập của ngƣời bị nhiều nghiệp sát. Nhƣng không
phải là không vào đƣợc một khi cố gắng tới "thành ngƣời câm lặng": Nhí Tịnh
Độ, hiểu nhiều, nhƣng lại không có đủ chữ để nói. Nhí rất là ngại đi tiếp xúc với
ngay cả Cô Bác trong đám lubu.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 83
Nhí sẽ rầy Tibu khi Tibu viết lại chuyện của Nhí Tịnh Độ đây.
Trong suốt thời gian vào Tịnh Độ Nhí chƣa có lần nào rời Linh Ảnh của Tam Tôn.
Bà con làm thử và giữ thử thì biết liền.
Với mức độ kiên định, một mất một còn với Linh Ảnh. Nên cái Chánh Định
của Nhí đã vƣợt ra khỏi mức bình thƣờng của những ngƣời tu tập Tịnh Độ. Và dĩ
nhiên đủ sức vào Mật Tông.
Nay lại bàn về cái mà tibu gọi là Tƣớc Hiệu:
Chỉ là danh từ mà thôi, chƣa có chính thức. Vì phải vào cho đƣợc Chân Nhƣ và
khi ra lại thì đƣợc Chân Nhƣ ghi cho Tƣớc Hiệu Vĩnh Viễn:
Y nhƣ là tibu, cô Ba Hột Nút, cô Trang đã... bị ghi:
Khi xuất định khỏi quy trình "Phản Bổn Hoàn Nguyên" thì tƣ tƣởng sau đây
lại xuất hiện, tƣ tƣởng này do Chánh Định và trình độ Chánh Trí mà có:
Tƣ Tƣởng đi từ bên Phải qua bên Trái của Đại Não nhƣ sau: Đời Đời Làm Bồ
Tát Độ Sanh.
Tất nhiên, để làm nổi thì phải có sức khỏe. Bây giờ thì Nhí yếu xìu hà. Phải
tĩnh dƣỡng một thời gian.
Mật Tông là cách đi từ con đƣờng "Có" vào con đƣờng "Không".
Vì có cái tên là "Mật Tông" nên ai cũng tƣởng đây là "Bí Mật", là "Kín",
là "Chỉ có một số ngƣời nào đó đƣợc biết mà thôi". Hay là Pháp Môn này
"thuộc về mâm trên".
Do đó cho nên, những ngƣời Thầy đều làm bộ là "Mật" nên họ muốn nói sao
thì nói, và nói ra sao thì cũng đƣợc.
Pháp Môn "Mật Tông" bị các Thầy tung hỏa mù đến độ. Cho đến bây giờ
cũng chẳng còn ai biết đâu là đâu nữa.
Tất nhiên, đó là cái sai lầm lớn của một số ngƣời làm nghề là "Thầy Tu". Chớ
có ai ngờ đâu: Mật là "Tam Mật Tƣơng Ƣng".
Nói theo cách này thì dễ nghe và dễ hiểu hơn:
Tam Mật là: Thân, Khẩu, Ý.
Tƣơng ƣng là: y chang, là giống nhau y đúc, là trùng nhau.
Nhƣ vậy là Tam Mật Tƣơng Ƣng là: Tu sĩ y chang nhƣ là Đức Phật.
Có nghĩa là... Tu xong rồi.
Thế nào là tu xong rồi? Là Ngũ Uẩn Giai Không.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 84
Và đi từ đƣờng "Có" nên nó khác rất là xa cách đi từ con đƣờng "Không".
Đƣờng "Có" là có đủ thứ:
1. Có linh ảnh của Bồ Tát (tibu thì là: Linh ảnh Nghìn Tay, Nghìn Mắt và 11
cái đầu của Ngài Quan Thế Âm).
2. Có linh ảnh của Phật (tibu là: Ngài A Di Đà Phật),
3. Có Linh ảnh của Hành Giả,
4. Có linh ảnh của Hộ Pháp.
5. Và có luôn linh ảnh của vị Phật cao cấp nhất: Đó là linh ảnh của Ngài Tỳ Lô
Giá Na ở trên Liên Hoa Tạng.
Tu sĩ gôm đƣợc đủ nguyên bộ Linh ảnh này rồi thì sẽ thực hiện công
đoạn "Phản Bổn Hoàn Nguyên". Có nghĩa là quay về cội nguồn.
Năm linh ảnh này khi hội tụ trên trung tâm của Liên Hoa Tạng thì lại đóng vai
là Ngũ Uẩn.
Và khi thi hành công đoạn "Năm Ông Nhập Một" (danh từ của lubu) thì tu
sĩ có thể là:
Một vị Phật.
Một vị Độc Giác Phật.
Một vị Bồ Tát.
Quy trình này do Tibu tìm ra, và sự tập dợt rất là gian nan và có khi lại
nguy hiểm. Nhất là lúc thực hiện kinh nghiệm của hai chày Kim Cang giao nhau.
Ba chày Kim Cang giao nhau. Bốn chày Kim Cang giao nhau và sau cùng là năm
chày Kim Cang giao nhau.
Cuối cùng mới là giai đoạn "Phản Bổn Hoàn Nguyên".
Sau này, tibu lại tìm ra cách cho mấy Nhí vào trực tiếp mà không cần qua các
giai đoạn đã trình bày ở trên! Một phát kiến chỉ có ở Việt Nam.
Quy trình lại đơn giản, ít gian nan và ít nguy hiểm hơn, nếu tu sĩ trụ vào
những việc thiên về "Phƣớc Báu Độ Sanh".
Hai Nhí Bám sát tibu và dùng Diễn Đàn để thực hiện những việc thiên
về Phƣớc Báu Độ Sanh. Và khi đi gặp Ngài Tỳ Lô Giá Na, cả hai Nhí đã đủ phƣớc
báu và đã lọt vào quy trình năm chày Kim Cang giao nhau tạo ra tiếng nổ Trứ
danh: Subham!
Hiện nay Nhí (anh) và Nhí (em) đang nghỉ mệt.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 85
Tibu không thể viết rõ ra quy trình "Phản Bổn Hoàn Nguyên". Là vì hễ mà viết
ra là Hai Nhí này sẽ làm liên, trong khi sức khỏe chƣa phục hồi đƣợc bao nhiêu. Và
đó là điều nguy hiểm.
2. ĐÀN PHÁP
MẬT TÔNG
>AUM<
PHƢƠNG TIỆN ĐỘ LÀ CỨU CÁNH
AI MUỐN CÓ ĐỦ NÊN DỰA TRÊN NGUYÊN TẮC:
"MUỐN CÓ THÌ PHẢI CHO!"
AI ĐÃ VÔ “DIỆT THỌ TƢỞNG ĐỊNH” và TỪ ĐÓ PHÁT “6 ĐẠI NGUYỆN”
ĐƢỢC GỌI: BỒ TÁT.
AI ĐÃ SỐNG VÀ HÀNH ĐỘNG NHƢ MỘT VỊ BỒ TÁT ĐƢỢC GỌI: BỒ TÁT.
Tu sĩ MẬT TÔNG là một ngƣời sống bình phàm, mang lý tƣởng BỒ TÁT, trên
tiếp thông với Chƣ Phật, dƣới phổ độ chúng sanh, khi bình thƣờng: nhƣ ngƣời
thƣờng, khi có việc lại SIÊU PHÀM VƢỢT THẾ.
Ở đây, chúng ta chỉ nói đến một số kỹ thuật để khai triển hết mức một ĐÀN PHÁP rất
phổ thông và ít nguy hiểm (hầu nhƣ không có phản ứng phụ):
a) Đàn pháp QUÁN THẾ ÂM (hay QUAN THẾ ÂM)
Tất cả những điều viết sau đây chỉ có hiệu lực cho những tu sĩ đắc Tứ Thiền
Hữu Sắc, đã vào Diệt Thọ Tƣởng Định ít nhất một lần, và đã dõng dạc tuyên bố Lục
đại nguyện ở trong định đó:
1. Chúng sanh vô lƣợng thệ nguyện ĐỘ.
2. Phiền não vô biên thệ nguyện TẬN.
3. Phƣớc trí vô biên thệ nguyện TẬP.
4. Pháp môn vô lƣợng thệ nguyện HỌC.
5. Bồ Tát vô cùng thệ nguyện SỰ.
6. Phật đạo vô thƣợng thệ nguyện THÀNH.
1. Nhập vô TỨ THIỀN ( nhờ vô đề mục), quán HỘT CHÂU MẪU, vừa
đọc trong tâm NAM MÔ QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT. Khi hột châu mẫu xuất hiện rõ
nét, đặt câu hỏi: Tại sao phải làm vậy? Liền thấy một cảnh khổ, rối ta nguyện xin
ĐỨC QUAN THẾ ÂM xuất hiện để cứu khổ: QUAN THẾ ÂM xuất hiện và rƣới nƣớc
cam lồ cho họ.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 86
2. Quán một màn tivi, và đọc NAM MÔ QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT. Thấy
Ổng xuất hiện, giữ càng lâu càng tốt ! Nhớ thử Ổng rồi mới xài. ĐỪNG BAO
GIỜ QUÊN!
Phƣơng pháp thử một linh ảnh coi có thiệt không:
a. Giữ linh ảnh cho lâu
b. Tâm đọc: tất cả các chúng hữu tình không có phận sự hãy lui ra.
c. Đọc chậm rãi ba (3) lần, lần cuối thêm: (không thôi bị tổn thƣơng!).
d. Nếu linh ảnh không biến: Quán ẤN HỘ THÂN bay vô NGỰC linh ảnh.
e. Nếu linh ảnh PHÁT QUANG: Đúng là thứ thiệt! Xài đƣợc!
f. Nếu nó CHÁY hay tiêu ra NƢỚC: là thứ dỏm. Không xài và không sao hết.
3. Đang lúc tu sĩ giữ linh ảnh: Ổng xuất hiện nhƣ thật trƣớc mặt mình: TÂM
GIỚI HẠN, NĂNG LỰC GIỚI HẠN.
4. Ở đây, có thể GIẢI OAN cho cả gia đình tu sĩ: bằng cách quán một
vài ngƣời trong gia đình cùng cầu nguyện với mình trong đàn pháp vào BAN ĐÊM.
5. Thắc mắc cái ĐẢNH bằng thịt hay xƣơng: giữ Ổng lại, Ổng trùm vô
mình: lấy TAY rờ thử: TIẾP XÚC VỚI TẤT CẢ Ý TƢỞNG TỐT, VÀ KINH
NGHIỆM ĐỘ SANH.
6. Làm một vài việc nhỏ mang tính cách TỪ BI…
7. Hỏi xem câu chú của Ổng là gì: Ổng sẽ thần giao cách cảm với mình
về CÁCH ĐỌC THẦN CHÚ, nhớ LẠI cho kỹ và nói lại cho anh em khi cần.
8. Thắc mắc LƢNG Ổng để làm gì? Và ra sau lƣng Ổng coi: Hình ảnh đó để
độ tử. Đi độ tử, rồi về hỏi Ổng (ở hình ảnh đó): thần chú của Ông lúc này, đọc làm sao?
9. Tƣơng tự nhƣ vậy đi hết 6 mặt (trái: TỪ, phải: BI, dƣới: HỶ, trên: XẢ).
10. Quán coi hiện giờ AI đang HỘ TRÌ mình? Hỏi họ có cần làm ngƣời
không? Nếu họ cần: Nhờ họ làm một công việc thiện nhỏ, RỒI ĐỘ HỌ QUA TỊNH
ĐỘ. Lúc này HỘ PHÁP VI ĐÀ mới xuất hiện! (cao khoảng 3 mét).
11. Sau đó làm một vài việc về TỪ, BI, HỶ, XẢ: độ tử, độ sinh (chữa bệnh).
12. Nguyện xin Ổng thể hiện ĐẠI NGUYỆN? Ổng liền xuất hiện trong
TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI: TÂM VÔ LƢỢNG, NĂNG LỰC VÔ
LƢỢNG. (đàn pháp gốc).
13. Độ liên tục, phân thân lung tung, thuyết pháp trong ĐÀN PHÁP GỐC trên.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 87
14. Nguyện xin Ổng biểu hiện ở PHƢƠNG TIỆN VÔ LƢỢNG: Ổng xuất
hiện ở dạng THIÊN THỦ THIÊN NHÃN. (Hình ảnh này không có 6 mặt).
15. Chƣ vị quỷ thần đến hộ trì mình (tay họ đã cầm chày KIM CANG), họ
cao khoảng 10 mét. Thực hiện lại điều (10).
16. Đem THIÊN THỦ THIÊN NHÃN qua đàn pháp gốc (12): Nguyện xin
ngài phát Đại Nguyện. TÂM VÔ LƢỢNG + NĂNG LỰC VÔ LƢỢNG +
PHƢƠNG TIỆN VÔ LƢỢNG.
17. Dựa vô uy đức của Ổng, nguyện xin cho tu sĩ đi (BẤT CỨ nơi nào:
SẮC CỨU CÁNH để gặp hóa thân của Phật Thích Ca để học hỏi tất cả tàng kinh
các, qua thập phƣơng Tịnh Độ để cúng dƣờng hay xin thập phƣơng Chƣ Phật ẤN
CHỨNG, đi gặp CÁC TỔ: Ca Diếp, Long Thọ, Milarepa, Babaji, chúa Jesus
Christ… mỗi ông đều có cái hay riêng, nên đặt câu hỏi: Họ sẽ không giấu một điều
gì hết…). Khi đi qua đức A Di Đà, nhớ nhờ ổng đƣa qua Liên Hoa Tạng để gặp
Đức Tỳ Lô Giá Na, và nhờ ổng đƣa vào đảnh để học bộ kinh Kim Cang Đảnh rất
hay… Đi với ổng rồi, nhớ hỏi ổng cách thức tự đi qua đó (cố nhớ lại cho kỹ.). Nếu muốn chơi
trò chơi lớn thì nhờ mấy ổng dẫn về pháp giới một lần…) vui lắm! Không quên đi thăm Địa
Tạng Vƣơng Bồ Tát để học bộ Khổng Tƣớc kinh (bộ kinh bí mật của chƣ Tổ), ghé qua tổ Long
Thọ để học bộ Hoa Nghiêm… tu sĩ cũng có thể đi hết 6 mặt của từng ông một để học hỏi thêm.
Vì pháp môn vô lƣợng thề nguyền học mà!...
Xin thông cảm cho, không ai có đủ sức để nói hết phần này đƣợc.
18. Lúc này HỘ-PHÁP KIM CANG MẬT TÍCH mới xuất hiện cao khoảng
16 mét. Để phân biệt HỘ PHÁP KIM CANG với chƣ QUỶ THẦN, tu sĩ căn cứ vô
CẶP MẮT của họ:
Hộ pháp Kim Cang có cặp MẮT LỒI, tròng đen có VÒNG XOÁY. Khi
mở miệng lại PHUN RA LỬA NGỌN. Tay cầm chày KIM CANG màu VÀNG,
SÁNG CHÓI.
Chƣ quỷ thần có cặp MẮT PHƢỢNG, xếch, không lồi. Khi mở miệng không
có lửa. Tu sĩ sẽ tiếp thông đƣợc với ĐẠI NHẬT QUANG NHƢ LAI và với TỲ LÔ
GIÁ NA, còn phần trƣớc, tu sĩ chỉ mới tiếp xúc đƣợc với chƣ vị BỒ TÁT (để ý đến
đảnh của mình là biết liền).
b) Đàn Pháp Quan Thế Âm (mới)
(1) Bước thứ nhất:
Đọc đều đều trong tâm câu: Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát. Vừa đọc vừa
nhắm mắt, vừa dùng trí tƣởng tƣợng vẽ ra một hòn bi màu vàng hoa quỳ, ngay
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 88
đằng trƣớc mặt, ngang với tầm nhìn. Sau khi hòn bi xuất hiện nhƣ thật ngay đằng
trƣớc mặt thì tiếp tục vẽ một hòn bi thứ hai và cứ tiếp tục nhƣ vậy cho tới khi đủ
một vòng tròn gồm 18 hòn bi.
Khỏi nói, bạn cũng có thể hiểu đây là mình tạo ra trong trí tƣởng tƣợng
của mình... một xâu chuỗi 18 hột bằng câu niệm trên. Chú ý: khi hòn bi đầu tiên xuất hiện rõ
ràng thì Huynh mới vẽ tiếp hòn bi thứ hai, hòn bi này nằm bên trái hòn đầu tiên và cứ thế mà vẽ
cho tới khi có đủ một vòng tròn gồm 18 hòn bi.
(2) Bước thứ hai:
Là ngay giữa hòn bi thứ nhất và hòn bi thứ 18, ở phía trên một tí Huynh tiếp
tục vẽ cũng bằng trí tƣởng tƣợng một hòn bi thứ 19 (vốn là hột châu mẫu).
(3) Bước thứ ba:
Với 19 hòn bi màu vàng xuất hiện đằng trƣớc mặt mình nhƣ thật nhƣ
vậy, Huynh hƣớng cái tầm nhìn vào hột châu mẫu. Hột châu này càng ngày càng chiếu
sáng, khi cảm thấy rằng nó sáng lắm rồi thì đọc câu: nguyện xin thể hiện.
(Thì đối với Cô Vân: Hột châu mẫu biến mất và một cảnh tƣợng cứu độ
của Ngài Quan Thế Âm nhƣ sau: trong cảnh tranh tối, tranh sáng, có một đám
đông ăn bận rách rƣới và nghèo khổ, họ giơ tay lên trời và kêu gào thảm thiết.
Một vùng ánh sáng xuất hiện và trong vùng ánh sáng này tất nhiên là Ngài Quan
Thế Âm đang cầm bình cam lồ và nhành dƣơng liễu: Ngài rảy nƣớc tới ai thì ngƣời
đó ăn bận lành lặn và yên bình tới đó...
Đối với Cô Trang thì: Ngài Quan Thế Âm xuất hiện tay trái nâng cái hƣ
không ngang tầm bụng, tay phải lại bắt ấn cam lồ, Ngài xuất hiện tới đâu thì đám
đông đang đau khổ, kêu gào thê thảm, bỗng nhiên biến mất dƣới hào quang
phóng ra từ toàn thân của Ngài.
Đối với đệ: đệ là... Quan Thế Âm ở tƣ thế thiên thủ thiên nhãn, thân hình to
lớn và cao vời vợi. Chung quanh đệ là có một vùng ánh sáng khá rộng và ngoài
vùng ánh sáng này là cảnh tấn công biển ngƣời, họ nhiều nhƣ kiến, họ tràn vào
vùng ánh sáng từ khắp nơi, hễ mà họ đụng tới vùng ánh sáng này thi họ liền biến
mất! Chƣa hết, từ Ajna của đệ phóng ra một tia hào quang màu vàng, tia này quét
tới đâu là đám đông trống trơn tới đó.)
c) Đàn Pháp Văn Thù Sư Lợi - Om Driym
Nhập Tứ Thiền, quán Mạn Đà La Văn Thù Sƣ Lợi (hình cô bé trẻ ngồi trên kỳ
lân màu xanh da trời, với bàn tay phải có ngón tay út chỉ Hƣ Không, và bàn tay trái
giấu dƣới áo).
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 89
Khi mình có cái hình Nhất Tự Chú Vƣơng thì mình dùng màn tivi... chụp hình
cái hình đó bằng cách cho vào màn tivi và từ đó đặt câu hỏi thì Ngài trả lời, hay là chỉ
giữ Ngài cho lâu thì Ngài sẽ xoa đầu thọ ký, sau đó là mình làm
việc về cái Trí Tuệ của Ngài (Chỉ cho ngƣời khác tu bằng
phƣơng pháp tròn đầy:
Kiếp này là xong nếu ngƣời đó hội đủ điều kiện, còn
chƣa xong, vì thiếu điều kiện, thì về Tịnh Độ mà dợt cho xong) !
Cho nên nếu tính bằng kiếp ngƣời thì toàn là dân... Bất Lai
không mà thôi Là vì, kiếp này là... Kiếp Vô Minh cuối cùng!
d) Đàn Pháp Phật Mẫu Chuẩn Đề
Quán các mẫu tự của câu chú: Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Taba Ha.
Mạn Đà La này có hai phần:
Phần thứ nhất là phần mọc tay (y nhƣ cái hình vậy) Những cánh tay này
dựa trên căn bản của tĩnh điện đƣợc tạo ra từ luồng kundalini.
Hình ảnh đƣợc thể hiện nguyên một cái hình Phật Mẫu Chuẩn Đề với 18
tay đầy đủ binh khí và thêm hai con rồng đội cái hoa sen. Chƣa hết, trên hào quang
lại có câu chú bằng tiếng Phạn, Án chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Câu chú đi
đúng cái phần không gian của hào quang của Ngài khởi sự từ vai phải và chấm
dứt ngay bon vào vai trái của Ngài.
Phần thứ nhì là dùng cách quán tƣởng "hai chiều xoay" của các chữ
trong vòng phép Chuẩn Đề. Không có kinh nghiệm về kundalini thì sẽ không đƣợc,
khi hành giả khai mở đến chỗ này.
1. Nó đòi hỏi một ý chí sắt đá, mà ý chí này chỉ có, khi hành giả đã thành
thục về sự khai mở kundalini. Chớ không phải loại ý chí sơ sơ qua những buổi thức
khuya trồng cây si ở dƣới mƣa, hay là cái ý chí của những đêm thức khuya để gạo bài thi...
(Phần này bàn về "Ý Chí": Có thể gọi chí và ví nó nhƣ là chữ "l-ò" trong
cụm từ: Lò nguyên tử vậy: Lò này chỉ có thể chạy với nhiên liệu đặc biệt dành
riêng cho nó mà thôi, tuy cũng gọi đó là cái "l-ò" nhƣng cái lò này không thể chạy
bằng...cũi đƣợc.)
2. Nó khó làm y nhƣ là khi, cùng một lúc dùng cả hai tay để mà vẽ những
hình nhƣ sau:
Trong khi tay trái đang vẽ vòng tròn thì tay phải đồng thời vẽ một hình vuông.
Giới thiệu vòng phép:
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 90
Trong vòng phép Chuẩn Đề thì Các Bạn sẽ thấy có một hình toàn bằng chữ
không mà thôi. Hình này gồm hai vòng tròn đồng tâm với nhau:
Vòng thứ nhất, ở bên trong, chỉ có một chữ độc nhất là chữ Om (hay là Aum)
Vòng thứ hai ở bên ngoài ( trên cái vành khuyên đƣợc tạo bởi hai vòng
tròn đồng tâm) gồm tám chữ của câu thần chú đó là: Chiết; Lệ; Chủ; Lệ; Chuẩn;
Đề; Taba; và sau cùng là chữ Ha (Trong cuốn Kinh Chuẩn Đề Đà La Ni của Thích
Viên Đức)
Thực hiện:
Hành giả quán cho ra cái hình này. Sau khi cái hình xuất hiện nhƣ thật đằng
trƣớc mặt của mình thì động tác kế tiếp là:
Quán phần Chữ OM cho thật đứng im, có nghĩa là phần nằm trong cái hình
thì đứng im, không nhúc nhích.
Kế tiếp thì quán tám chữ kia, tức là phần ngoài của cái hình.
Hành giả phải quán thế nào cho những chữ này: ***quay trên chính
nó*** theo chiều ***ngƣợc với chiều kim đồng hồ*** và đồng thời, tám chữ
này phải chạy theo cái vành khuyên (phần này đƣợc tạo bởi hai vòng tròn đồng
tâm) ***theo chiều kim đồng hồ***. Làm đƣợc nhƣ vậy (có nghĩa là cùng một lúc
phóng ra ba (3) tƣ tƣởng: Đứng im, Bên trái và Bên phải) thì sẽ đƣợc Phật Mẫu
Chuẩn Đề xuất hiện và ấn chứng bằng hai cách:
1. Xoa đầu hành giả
2. Là chính Ngài sẽ vẽ lên thân thể của hành giả những chữ này qua những
yếu huyệt hay trung tâm năng lực.
Làm không đƣợc thì sẽ bị hất văng ra khỏi vòng phép bằng sự tuột định bất ngờ.
Tất nhiên là có thể bị bệnh.
Phật Mẫu Chuẩn Đề có cách quán kỳ lạ là: Các chữ tự xoay trên chính
nó theo chiều: Ngƣợc chiều kim đồng hồ. Đồng thời cả câu chú lại quay trên
một vòng tròn thuận theo chiều kim đồng hồ. Tất nhiên, để làm nổi chuyện này
thì tâm tu sĩ phải vào một tình trạng "Không Chấp phải cũng không chấp trái" thì
mới làm đƣợc. Mà nhƣ vậy chỉ có ông Phật thì mới chơi đƣợc mà thôi! Vì vậy mà các
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 91
Tổ mới đặt tên là: Phật Mẫu Chuẩn Đề (Mẹ của Phật hay đúng ra pháp quán (vision) dễ
nói, rất chi là khó làm này sẽ giúp mình thành Phật).
e) Đàn Pháp Ngũ Phật Trí
Pháp thân Tỳ Lô có thể chứng bằng cách nhập vào các Đàn Pháp. Con
đƣờng khá dài, nguy hiểm và đầy dẫy những kỹ thuật: Khi hành giả đổi cung cách
tu hành và dùng hình ảnh các biểu tƣợng để đem áp dụng cái Không Trí vào Thế Sự
thì có rất nhiều con đƣờng. Đệ bị ảnh hƣởng nặng nề những tiền kiếp nên đã quay
lại và khai triển những đàn pháp theo một dạng rất là đặc biệt (dạng hình lập
phƣơng: y nhƣ cục Rubic vậy). Trình bày một trong những cách nhập vào Pháp
Thân Tỳ Lô: Đàn Pháp Quan Thế Âm là bƣớc đầu dễ dàng nhất và không có phản
ứng phụ. Sau khi học hết sáu mặt ( Từ, Bi, Hỷ, Xả, độ Sinh và độ Tử). Kế đó là
thay đổi hệ hộ pháp và đi tìm cho mình một Kim Cang Vƣơng. Tiếp là Qua Tây
Phƣơng Cực Lạc để gặp Ngài A Di Đà Phật.
Tiếp nữa là nhờ Ngài A Di Đà Phật giới thiệu cảnh Liên Hoa Tạng Thế Giới:
cả ba ngƣời trong một cái duỗi tay của Ngài A Di Đà Phật, đã... cùng với Ngài A Di Đà
Phật đi vào Pháp Giới Liên Hoa Tạng để gặp Ngài Tỳ Lô Giá Na trong cái núi Tu Di
ở ngay giữa Liên Hoa Tạng, núi này cao hơn những núi kia một tí. Sau đó, là quy trình
phá Chấp Kim Cang: Hành giả cùng với Kim Cang vƣơng qua Liên Hoa Tạng và
quăng chày Kim Cang vào đảnh của Ngài Tỳ Lô Giá Na. Kim Cang Vƣơng không
chịu và bỗng nhiên biến thành... Chấp Kim Cang. Vì Ngài mắc quai lời nguyện nên,
Ngài đành phải miễn cƣỡng qua đó để hộ trì mình.
Phải nói rằng tính phá chấp phải thật là mạnh thì mới dám làm chuyện
này trƣớc cảnh hào quang rực rỡ màu xanh của tia hồ quang của Ngài Tỳ Lô mà
mình dám quăng chày Kim Cang vào ngay đảnh của Ngài Tỳ Lô. Ba Chày chạm nhau
tạo thành âm thanh vốn là Tâm Chú của Ngài Tỳ Lô.
Và sau cùng là cả bốn ngƣời là (A Di Đà, Quan Thế Âm, Kim Cang Vƣơng
và đệ) trong cái duỗi tay của Phật A Di Đà mà qua đến Liên Hoa Tạng gặp Đức
Tỳ Lô để quăng chày khi năm chày gặp nhau và đệ bay theo luôn thì cả năm đều
bình đẳng và tan biến trong tiếng nổ Subham. Từ đây, không còn hình ảnh nào mà
đệ phải quán tƣởng nữa. Câu khái niệm: Phật trong ta, ta trong Phật đã đƣợc hoàn
thành. Tâm lúc bây giờ rỗng lặng và sự thỏa mãn tâm lý này đã dẫn đến tình trạng mà mình
thƣờng bàn tán đó là: Thƣờng Lạc Ngã Tịnh.
So Sánh: Nhƣ vậy Diệt Thọ Tƣởng Định là tình trạng thanh tịnh trong một
cảnh nhỏ của Vũ Trụ Quan của Phật Giáo: Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới với
chỉ một Trái Đất.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 92
Chứng nhập Pháp Thân Tỳ Lô là một cảnh Thanh Tịnh đối trƣớc Liên
Hoa Tạng Thế Giới với hằng hà sa số Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới cùng với
hằng hà sa số Trái Đất.
TB: Sự so sánh một cách chính xác thì... đệ chịu vì dụng cụ hiện nay là
Ngôn Ngữ. Cách thức là: hãy đến mà xem thì mới rõ đƣợc. Nhƣng một cách tổng
quát và rất là gƣợng ép thì có thể nói nhƣ sau: Cảnh thanh tịnh khi vào Diệt Thọ
Tƣởng Định này có thể ví nhƣ mình rất là bình tĩnh khi... cầu chì nhà bị đứt. Còn chứng
nhập pháp thân Tỳ Lô Giá Na là mình vẫn bình tĩnh khi bị... động đất, trƣớc cảnh nhà thì sụp,
vợ con, bạn bè thì chết…. Cái thanh tịnh thứ nhì này nó đầm hơn vì mình đã có thể đem
ra áp dụng nó vào chuyện thế gian.
(Phần Đọc thêm)
PHÁ CHẤP... CHẤP KIM CANG:
Một hôm, đệ vào Liên Hoa Tạng và thấy rằng Ngài Tỳ Lô lại thành Hắc
Bì Phật với tay phải cầm chày Kim Cang và tay trái cầm chuông Kim Cang, Hai
tay lại bắt ấn A Xà Lê ( cánh tay phải nằm bên ngoài và chéo với cánh tay trái
ngay ngực Ngài). Vì thấy Ngài có vũ khí và đệ cũng sẵn cái chày nên đệ... nhắm
ngay đầu của Ngài mà quăng liền. Trong chớp mắt một tiếng nổ kinh hồn
"Brhum" chấn động cả pháp giới. Hai chày đã đụng nhau vào ngay điểm giữa của
quỹ đạo. Có nghĩa là khi đệ quăng chày thì Ngài cũng quăng cái chày của Ngài ra
và hai chày đụng nhau vào khoảng giữa của quỹ đạo, tạo thành tiếng nổ *Brhum*.
Khi xuất định, đệ vẫn còn ù tai vì âm thanh quá lớn đó nhƣng trong thâm tâm
của đệ, đệ lại cảm thấy nó thiêu thiếu một cái gì đó. Đệ bèn nghĩ rằng, lần sau rủ
Hộ Pháp Kim Cang qua bên đó với ý đồ là lập lại thí nghiệm trên: Hộ Pháp lắc đầu
không chấp nhận. Tƣ Tƣởng lại xẹt qua xẹt lại: Đây là một Chấp Kim Cang!
Đệ lại hiểu rằng: Kim Cang mà đã chấp thì phải có cái còn cứng hơn
Kim Cang để phá cái chấp này! Nhƣng cái nào lại có thể cứng hơn Kim Cƣơng?
À!... Dùng màn TV: Màn TV im lặng, không cho đáp số. Phải mất ba tháng sau,
đệ mới tìm ra đáp số để phá... Chấp Kim Cang. Đệ lại nói với Kim Cang một
cách rõ ràng hơn: Không phải tôi nhờ ông quăng một mình đâu, nhƣng chính tôi
cũng quăng nữa, nhƣ vậy ông có đi không? Chấp Kim Cang lƣỡng lự một hồi, nhìn
đệ, hả miệng phun lửa ào ào, rồi quyết định:
- Vì tình bạn, ông làm thì... Tôi làm! Sống, cùng sống! Chết thì cùng chết!
Tƣ tƣởng lại xẹt qua xẹt lại: Quả thật, kim cƣơng cứng nhƣng tình bạn
còn cứng hơn nhiều. Thế là cả hai tên qua đó và khi tác ý quăng chày thì tự động...
Hộ Pháp xuất hiện ở ngay đằng sau lƣng của Ngài Tỳ Lô Giá Na (mà nay là Hắc Bì Phật) và
cả ba cùng quăng chày: Đệ nhận thấy rằng: Chày của đệ bay cong lên cao tạo thành một phần
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 93
tƣ vòng tròn (1/4 vòng tròn). Chày của Hộ Pháp cũng vậy. Và chày của Ngài lại bay thẳng góc
lên cao... Và ba chày đụng nhau tạo thành âm thanh "Vãm" còn to hơn cả "Brhum" trƣớc đây.
Nhận xét:
Nếu có thể vẽ lại những quỹ đạo của ba cái chày trên thì đệ và Hộ Pháp lại
ở trên một Đƣờng Kính và Ngài Hắc Bì Phật lại là trung tâm. Quỹ đạo 2 cái chày
của đệ và của Hộ Pháp tạo thành 1/2 vòng tròn và tất nhiên quỹ đạo chày của
Ngài Hắc Bì Phật là đƣờng bán kính thẳng góc với đƣờng kính nối liền đệ và
Hộ Pháp. Âm thanh tuy rằng to nhƣ vậy nhƣng vẫn không làm đệ xuất định.
Chứng tỏ mức độ yên lặng của đệ lúc này nó khá hơn trƣớc rất nhiều, và đệ chỉ có
nói về âm thanh còn ánh sáng khi ba chày đụng lại thì nó sáng đến mức độ mà mình
thấy nó... thành xanh nhƣ tia hồ quang, nhƣng trạng thái định vẫn không bị lung lay gì
cả. Khi xuất định thì đệ vẫn còn cái cảm giác là... đi đúng hƣớng rồi đó... Nhƣng... vẫn
chƣa xong...
Tất nhiên là lần sau, đệ sẽ mời cả bốn ngƣời là A Di Đà Phật, Quan Thế Âm, đệ và Hộ
Pháp cùng qua bên đó để lập lại thí nghiệm trên, nhƣng lần này là với bốn ngƣời. Thế là cả bốn
ngƣời qua tới Liên Hoa Tạng. Và khi quăng thì cả bốn ngƣời tự động vào vị trí tứ trụ và năm cái
chày chạm nhau trên không trung tạo thành một âm thanh "SuBham" cùng với chấn động và ánh
sáng chói chang... Tuy là quang cảnh nó kinh hồn nhƣ vậy nhƣng tâm của đệ vẫn vững vàng và
không xuất định! Chứng tỏ cái sự yên lặng lúc này rất là mạnh. Khi xuất định, đệ lại vẫn còn cái
cảm giác là... chƣa xong. Nó còn lấn cấn một cái gì đó.
Lần này thì trong tiếng "SuBham" Kinh thiên động địa của năm cái chày hợp
lại thì đệ tác ý nhắm ngay vùng chấn động và ánh sáng đó mà lao mình vào luôn, đệ chỉ
thấy các Vị kia cũng làm nhƣ vậy luôn! Và chung quanh toàn là ánh sáng trong
suốt nhƣ đƣợc mặt gƣơng đã đƣợc lau chùi. Và sau tiếng nổ "SuBham" thì đệ lại
hiểu cái ý của Chân Ngôn này là: "Nó là Nhƣ Vậy".
Cùng một lúc, cái tƣ tƣởng lại xuất hiện:
Năm Ông đã nhập một, Ngũ uẩn đã giai không, tâm thức đã phản
bổn hoàn nguyên. Và một sự tĩnh lặng vô cùng, ngay khi suy nghĩ về một vấn đề gì
thì đệ có cảm giác nhƣ tƣ tƣởng nó chạy rất là chậm. Đồng thời, tất cả các hiện
tƣợng đều phản ảnh rất là trung thực và rõ ràng khi tâm thức rơi vào sự "im lặng
sấm sét" nhƣ vậy. Và cái biết nó càng trở nên bén nhạy.
Sau đó khoảng một tháng thì các hình ảnh của màn Tivi lại càng có nhiều
chi tiết hơn trƣớc nữa. Cô Trang nói là hình ảnh có thể phân bố nhƣ là trong chƣơng
trình "Picture in picture" của Tivi vậy. Màn Tivi trở nên mềm dẻo, nhu nhuyễn và
dễ sử dụng hơn nhiều... Câu chuyện đến đây... Lại chƣa hết vì khi lao vào vùng
chấn động đó, đệ mới hiểu tại sao họ lại làm cái chày Kim Cang với hình thức lạ kỳ nhƣ vậy.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 94
IV. VẠN THẮNG CÔNG
Vạn Thắng Công có từ thời Phù Đổng Thiên Vƣơng (Với Thế Vƣơn Vai),
rồi qua Đinh Bộ Lĩnh ( Với thế: Phi Lâu Diệu Thủ), rồi qua Trần Quốc Toản
( Với thế nắm tay bóp bể trái cam) từ đây thế võ này bị thất truyền... Cho đến 1966
tại Đồi Cù Đà Lạt, một dị nhân gặp một thằng bé mồ côi và vị này đã chỉ lại cho
thằng bé. Mãi đến năm 1990 thì thằng bé sáng tác ra thế “Vỗ tay Thoát khỏi Hồng Trần”.
Vạn Thắng Công còn có tên là “Kim Báo Thần Công”.
Là một môn “Thần Công” thuần túy Việt Nam. Gọi là “Thần Công” chớ
không phải là “Nội Công” là vì lý do sau đây:
Nhờ niệm mà chuyển là tà.
Không niệm mà chuyển mới là chánh tông.
Ngƣời Việt Nam... không ƣa những môn “Nội Công” của Tàu vì rất là khó
tập. Bởi lý do dễ hiểu là: Không ai biết thực chất... Cái Đan Điền nằm chính xác ở
đâu trên vùng bụng. Và muốn thành công, khi tập Nội Công, thì phải dồn đƣợc khí
xuống Đan Điền.
Dồn đúng thì phát kình lực, dồn không đúng thì bị trĩ, bị bất tỉnh, bị đau bụng
y nhƣ triệu chứng kẹt ruột... Do vậy mà những tay nội công tập trật (số này khá
đông) hay bị bệnh là vậy... Tập Thần Công thì không cần biết đến cái đan điền,
chẳng cần dồn khí, chẳng cần... niệm cái gì hết mà khí vẫn chuyển... Có thể chữa
bệnh... ung thƣ nhƣ thằng bé đã nói lại cho đệ nghe vào năm 1991. Quảng cáo nhƣ
vậy đã đủ.
Nay thử nhìn anh Vĩnh Song tập 24 giờ môn Vạn Thắng Công. Tất nhiên, đây
lại là một guinness nữa của anh ấy. Tụi đệ dùng phấn để ghi lại những giọt mồ hôi
của anh ấy trên sàn gỗ. Lúc đầu những giọt mồ hôi nhỏ tại chỗ, nhƣng khi anh ấy
“Vô Xê” thì những giọt mồ hôi văng rất là xa, rồi khi anh ấy đuối sức thì những giọt
mồ hôi không còn văng ra xa nữa. Khi anh ấy té xỉu trong khi quay thân hình vào
thế cuối cùng thì anh ấy có những linh ảnh rất là bất ngờ. Anh kể lại: Tôi thấy đƣợc
thế giới Vô Hình... Và tôi hiểu đƣợc cấu trúc của Bàn Thờ Việt Nam.
Có lẽ là Ngài rơi vào tình trạng này chăng?
Có một lần tập Vạn Thắng Công ở ngoài sân khi còn ở Đà Lạt, vào một
ngày mây mù: đệ đả phá đƣợc một ô vuông rộng lớn những đám mây ở ngay trên
đỉnh đầu của đệ.
Cảnh tƣợng nhìn cũng đã lắm: cả bầu trời Đà Lạt thì xám xịt duy chỉ có một chỗ
ngay nhà của đệ thì mây không có và một bầu trời màu xanh dƣơng xuất hiện... theo
hình chữ nhật sắc cạnh.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 95
1. XUẤT THỦ (Kim Báo Long Trảo)
Các vị Lạt Ma Tây Tạng thƣờng nói: "Lha-Dre-Mig-Cho-Nang-Chig” nghĩa
là quỷ thần và nhân gian cũng bị chi phối nhƣ nhau bởi những định luật huyền bí của
vũ trụ và những định luật thiên nhiên.
Thay vì phủ nhận sự hiện hữu của những sức mạnh huyền bí đó: Bởi lý do
ngƣời ta không thể cân lƣờng hay quan sát phản ứng của chúng dƣới ảnh hƣởng các
hóa chất trong phòng thí nghiệm, những bậc danh sƣ bên Đông Phƣơng đã cố gắng
tăng gia khả năng kiểm soát của họ đối với những mãnh lực thần bí vô hình.
Bản chất thật sự của vũ trụ là “khí” từ đó ta có động và tĩnh, hợp và tan, co và
dãn và nhiều tác động hỗ tƣơng khác.
Vũ trụ tuyệt đối trong trạng thái của nó và đƣợc biểu lộ trong tính cách
nhị nguyên là Vô Song Nguyên Lý hay Thuyết Âm Dƣơng.
Ngƣời xƣa dựa vô quy luật của vũ trụ hay nói cách khác là tìm sự biến đổi của
hai hoạt động âm dƣơng và những thăng trầm của nó mà tìm ra phƣơng pháp thể dục
để trị bệnh hữu hiệu: Vừa phát triển đời sống tâm linh bên trong, và vừa là một môn võ đạo
tự vệ vô địch và bồi bổ cơ thể đẹp đẽ và cƣờng tráng.
Ngƣời Tây Tạng đã khám phá ra những bí quyết của những hiện tƣợng
thần nhãn, thần giao cách cảm và những hiện tƣợng siêu hình khác. Nhiều vị có
thể ngồi trầm mình trong tuyết lạnh và làm tan rã băng tuyết chỉ qua quyền năng ý
chí. Các vị ấy cũng có thể khinh thân nhẹ bổng lên không trung. Hai thầy trò có thể
mang đôi guốc đánh võ trên mặt nƣớc. Những quyền năng đó không có gì là nhiệm
mầu cả, mà chỉ là kết quả của sự áp dụng một vài điều luật thiên nhiên.
Các vị Trung y cổ, các võ gia cũng đã dựa vào các định luật thiên nhiên
mà khám phá ra những tƣ thế (động tác) dùng để trị bệnh hay những thế võ cao
siêu bí ẩn.
Ngày nay chúng ta không tìm học cái gốc, trái lại thƣờng đeo đuổi cái ngọn tức
là tập luyện những trƣớc tác võ thuật của các vị ấy, học nhƣ thế, chúng ta không đủ
tuổi thọ để học.
Hãy phản bổn hoàn nguyên, quay về học cái gốc, tìm hiểu các vị đó dựa
vô những định luật nào để sáng lập ra những quyền thức. Chúng ta hãy học cái định
luật đó rồi những đòn thế sẽ phát vô tận.
Cũng nhƣ chỉ bảy màu sắc mà Picasso đã để lại bao nhiêu là tuyệt tác. Với bảy nốt
nhạc mà Mozart, Beethoven đã làm cho lòng ngƣời xao xuyến cảm hứng.
Các bậc tiền bối đã dựa vô vài định luật của vũ trụ rồi áp dụng trên cơ thể
( là tiểu vũ trụ) để phát huy các chiến vũ và đƣợc xây dựng trên hai ý thức: Dƣỡng
sinh và chiến đấu.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 96
Mỗi duỗi tay, chân của các chiến vũ, trọng tâm duy nhất đều tập trung vô
thế “Xuất Thủ”, đó là chiến vũ khởi đầu.
Thế này, nói về võ đạo là tất cả các tinh hoa của các võ phái cƣơng nhu,
nội ngoại công phu vì xuất thủ là một định luật quan trọng nhất của vũ trụ về
dƣỡng sinh và võ đạo.
Trƣớc khi trình tấu một bản nhạc, ngƣời nhạc công dạo đoạn mở đầu: Ngƣời
sành nhạc đã hiểu nội dung bài nhạc. Tƣơng tự nhƣ vậy chỉ cần học duy nhất một thế xuất
thủ là đủ, vì đến mức tột cùng chính là niềm giản dị lớn của tạo hóa.
a) Các tên gọi khác nhau:
1. Xuất thủ liệu pháp dịch cân kinh
2. Kim Báo Công Trảo
3. Thôi Sơn Thủ
4. Thế chèo đò và quay tay
5. Thế đánh đƣờng xa
6. Quả lắc đồng hồ
7. Nội Giản Thần Công
8. Hổn Nguyên Nhất Khí Công.
b) Ca quyết:
Xuất thủ liệu pháp gồm 16 câu:
1. Thƣợng nghi hƣ (Phần trên nhẹ thả lỏng)
2. Hạ nghi thực (Phần dƣới trụ chắc)
3. Đầu nghi huyền (Đầu nên lơ lửng nhƣ treo)
4. Khẩu nghi độc (Mồm để mặc, tự nhiên)
5. Hung nghi nhu (Ngực hít thở đều đặn)
6. Bối nghi bạc (Lƣng nên thẳng đứng)
7. Yên nghi trục (Eo nhƣ trục)
8. Tý nghi dao (Cánh tay nên đong đƣa)
9. Trửu nghi trầm (Cánh tay nên để trầm xuống)
10. Uyên nghi trọng (Cổ tay nên nặng)
11. Thủ nghi hoạch (Bàn tay nên đƣa)
12. Phúc nghi hoạch (Bụng nên đầy)
13. Khỏa nghi tùng (Toàn thân để lỏng tự nhiên)
14. Công nghi đề (Hậu môn thoát lên)
15. Cân nghi thạch (Gót chân chắc nhƣ đá)
16. Chi nghi trảo (Ngón chân bám chặt mặt đất)
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 97
Bất cứ bệnh gì đều không phải cố định và bất biến, điều quan trọng là: Tranh
đấu và đấu tranh đến cùng để dành được thắng lợi.
HL: Đây là lời nói của Anh Minh Đen, anh bị ung thƣ gan và chỉ dùng chiêu
này và anh đã xuất thủ trong vòng 24 giờ là hết bệnh.
c) Xuất Thủ Trị Liệu:
Có thể trị đƣợc bệnh tật? Theo quan niệm y học Trung Hoa: Khí huyết
khó chuyển sẽ phát sinh hàng trăm bệnh tật. Nếu khí huyết thông suốt thì trăm bệnh
cũng hết, tự nó biến đi.
Xuất thủ làm thông suốt khí huyết do đó có thể cải tạo thể chất xem nhƣ
khoa trị liệu.
d) Phản ứng:
Khi tập Xuất Thủ, ta thấy có phản ứng rõ rệt. Phản ứng ở chỗ khí huyết
thay đổi: Vùng ngực, vùng bụng nhẹ nhàng, chân thấy nóng lên. Những chỗ máu
chƣa chảy tới đủ nay đả thông dễ dàng. Tam Tiêu ( Ba vùng chính yếu ở thân
thể: Đầu, ngực, và bụng) cũng đƣợc thông suốt. Có ngƣời phản ứng thấy nấc cụt, ợ hơi,
đánh rắm, nhức mỏi, tê đau, nóng lạnh, ngứa ngáy, cảm giác nhƣ sâu bò, rung động.
HL: Cảm nhận mát mát từng điểm tròn tròn trên thân thể đã đƣợc ghi nhận từ
xa xƣa nên Xuất Thủ còn có tên là “Kim Báo Long Trảo”
(1) Xuất Thủ làm thay đổi mạch.
Từ sự biến hóa của mạch, có thể hiểu đƣợc sự biến hóa của lục phủ ngũ tạng,
sự mạnh yếu của thể chất.
Mạch bình thƣờng: 60 đến 80 lần trong một phút, mạch đập kéo dài, có sức mà sâu.
Bệnh tim, huyết áp cao: Mạch nổi, mạnh.
Bệnh tim, già yếu: Mạch dƣới 60 và đập cạn.
Bệnh thận, thần kinh, điên: Mạch đập nhanh và trơn nổi.
Các chứng về máu: Mạch chậm yếu, có khi không thấy đập, cũng có khi 2 bên
đập khác nhau (do bị té…).
Bán thân bất toại: Hai bên mạch khác nhau, chênh lệch ở chỗ xƣơng một
bên thông suốt, một bên tăng áp lực.
Tại sao Xuất Thủ là cải tạo?
Mạch đập nhanh vì máu không chế đƣợc khí, khí mất đi, thành phần máu
sẽ không đầy đủ ( thiếu dƣỡng khí), Xuất Thủ làm cho máu có tác dụng chế đƣợc
khí, hấp thụ đƣợc dinh dƣỡng. Mạch đập chậm vì máu lƣu thông trở ngại và
thiếu về lƣợng (áp huyết hạ), Xuất Thủ làm khai thông máu huyết, máu tụ sẽ tản
mát rồi mạch sẽ bình thƣờng trở lại.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 98
(2) Sự thay đổi mạch là sự thay đổi Kinh Lạc.
Mạch bắt đầu từ ngón chân. Trọng tâm của Xuất Thủ là ở hai chân, chân
mà dùng sức nhƣ cây mọc rễ, nhƣ đóng đƣợc cọc. Ngƣời ta thƣờng nói “Xem chân,
xem cẳng” xét ra cũng không ngoài ý trên.
Ngƣời già cả hai chân run rẩy, tập võ cũng cần nhất “Mã Bộ” (Một thế tấn
để chiến đấu với sự phân bố trọng lƣợng là 30% ở chân trƣớc và 70% ở chân sau).
Máu ở chân (tốt) lƣu thông sẽ gây ảnh hƣởng tốt đẹp cho toàn thân.
Quyền thuật phải tập “Mã Bộ” cho thần khí xuống đan điền đó là cứu vãn lại
mọi tệ hại. Ngoài ra dƣới lòng bàn chân có huyệt “Dũng Tuyền” ( Nguồn Suối
của Sức Mạnh) rất quan trọng, là nơi thông khí huyết lên thận con ngƣời.
Đối với Nhu Đạo: Động tác nhảy ếch là một động tác rất quan trọng để luyện
tập phần dƣới cho cứng chắc.
Trong môn Không Thủ Đạo, các lực sĩ thƣờng mang guốc sắt nặng 10 ký để tập.
Xuất Thủ là một động tác bao gồm sự vận động của tay chân, thân hình, hô
hấp, mắt, di động của tinh thần. Nếu động tác yếu đuối quá thì không đủ lực
chuyển, nếu mạnh quá ta sẽ không đủ sức đeo đuổi. Xuất Thủ nơi đây là một động
tác nhu nhuyễn phô diễn “luật tuần hoàn của vũ trụ”.
e) Đặc điểm của Xuất Thủ.
Thƣợng hƣ, hạ thực hay thƣợng tam, hạ thất (trên ba, dƣới bảy). Động tác
dịu dàng, tinh thần tập trung ở đan điền. Làm nhƣ vậy có thể thay đổi trạng thái
“thƣợng thực hạ hƣ” của những thể chất yếu kém, dần dần trở thành “thƣợng hƣ hạ
thực”: Bệnh tật tự biến mất.
Thƣợng tam, hạ thất là nguyên tắc bất di bất dịch, là bí quyết của phƣơng
pháp Xuất Thủ đã quy định rõ rệt mức độ dùng sức của sự hƣ thực.
Khi đứng trong thế Xuất Thủ phần trên của thân hình để tự nhiên, lƣng
thẳng đứng, eo chắc. Chân phải cứng chắc, gót chân bám chặt vào đất chắc nhƣ hòn đá.
Nói về động tác tay, khi phóng ra đằng trƣớc thì nhẹ nhàng tự nhiên đó là
“thƣợng hƣ” hay “thƣợng tam”.
Khi quật tay ra đằng sau thì phải dùng sức rồi theo trọng tâm của một vật, đó
là “hạ thực” hay “hạ thất”. Khi quay tay, khớp ngón tay lúc hơi co, lúc thì hơi duỗi,
nhất là sự co duỗi ở cổ tay lại càng lớn.
* Không dùng sức không có nghĩa là hoàn toàn để lỏng, vì không gây đƣợc tác dụng.
* Dùng sức không có nghĩa là toàn bộ đều dùng sức. Nếu tay dùng sức,
chân không có sức thì sẽ mất động lực (thƣợng thực, hạ hƣ). Bán thân bất toại cũng
là mất động lực. Sự công hiệu của Xuất Thủ là điều chỉnh đƣợc sự mất động lực,
lấy lại đƣợc quân bình.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 99
Tầm quan trọng của sự dùng sức ở chân: Ở chân có nhiều huyệt vị của ngũ
tạng và lục phủ. Huyệt “Dũng Tuyền” ở lòng bàn chân chạy tới thận tạng. Mỗi khi
tim đập mạnh, mất ngủ: Xoa bóp huyệt này là ngủ đƣợc. Say rƣợu bôi vôi cũng nơi
này là giải rƣợu. Dựa vào những huyệt đạo ở chân, ngƣời ta có thể chữa đƣợc những
căn bệnh về lục phủ, ngũ tạng. Xuất Thủ có thể chữa đƣợc trăm bệnh không phải là
điều phóng đại. Bản thân Xuất Thủ đã là một phép lạ rồi.
f) Nguyên lý.
Lý dƣỡng sinh và võ đạo của Xuất Thủ đặt căn bản trên lý tiến hóa của Trời
Đất, tức là Thái Cực. Hổn nguyên khí (Koilon, Ojas...) của vũ trụ có sức ép khoảng
một trăm triệu tấn trên một phân vuông. Xuất Thủ là lợi dụng sức mạnh của Thiên
Nhiên làm sức mạnh của mình.
Tổ sƣ Yeshiba suốt đời không có đối thủ nào quật ngã đƣợc là nhờ luyện
thành “Hổn Nguyên Khí Công”. Với cách nói tràn đầy tính Đạo ông phát biểu: “Vì tôi
là tiểu vũ trụ hòa đồng với đại vũ trụ, nên ai đụng tới tôi tức đụng tới đại vũ trụ mà vũ
trụ thì không ai lay chuyển nổi. ”
Trên hai vai, phía sau lƣng có huyệt “Cao Hoang du”, kích thích huyệt này
sẽ tiêu trừ mọi chứng bệnh. (HL: Huyệt này khi hơ nóng thì có khả năng tăng
hồng huyết cầu, mà nhiều hồng huyết cầu thì máu đem nhiều dƣỡng khí nuôi cơ
thể. Tập Xuất Thủ một thời gian thì môi son và móng tay thì hồng là do huyệt này làm ra).
Hai tay đƣa lên trời là hạ hỏa ở Tam Tiêu (bộ tiêu hóa).
HL bàn: Khi tập Xuất Thủ thì con ngƣời lúc lắc và đong đƣa nên Khí
và Huyết bị lực ly tâm đƣa lên não bộ rất là nhiều: Để ý là sau vài phút tập thì gân
máu ở chân biến đi đâu mất. Và khi tập từ từ lại thì máu lại dồn trở xuống (do
lực ly tâm bớt mạnh đi) và nhất là nhờ vào cách uốn éo mà có thể làm cho các bế
tắc ở ba vùng quan trọng trong thân thể (Tam tiêu: Đầu, ngực, và bụng) đƣợc súc
sạch sẽ và khai thông.
Các pháp tấn rất cần vì nó dẫn khí xuống tận đan điền, trừ đƣợc hỏa Tam Tiêu.
(lời bàn dựa theo kinh nghiệm thực chứng của HL ở trên)
Các Đạo Gia thƣờng nói: "Con ngƣời cũng nhƣ là Trời Đất: “Trời thanh mà
nhẹ, Đất nặng và trọc”.
Nếu không hiểu thâm lý này mà để cho “trên nặng dƣới nhẹ” là trăm bệnh dễ
sinh ra, tính mạng phải ngặt nghèo.
Quyền thuật phải luyện tập mã bộ cho thần khí xuống đan điền đó là cứu vãn
lại mọi tệ hại.
Đan điền là gốc rễ của thảo mộc, bồi dƣỡng đan điền là bồi dƣỡng cái gốc
rễ khiến cho nó đƣợc ấm nhuần.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 100
Đan điền mỏng từng lớp nhƣ cánh sen. Khi mới sanh ra rất dễ thấy nhờ nó
thoi thóp và rất quan hệ đến tính mạng.
Vận dụng đan điền làm cho tinh khí vận chuyển mạnh mẽ. Ngƣời tập Xuất
Thủ: bụng thì to ở phần dƣới chỗ đan điền. Bụng dƣới tròn nhẵn láng, không có
ngƣời thành tựu Xuất Thủ nào mà bụng teo nhƣ con ve đực. Nếu ngƣời ấy cởi trần ta
sẽ phần bụng dƣới thoi thóp nhẹ nhàng đó là họ thở bằng bụng, ngƣời thƣờng thở
bằng ngực. Trong Võ Đạo, đan điền là trọng tâm của tinh thần. Thể chất và tinh thần
cùng quy chú về đan điền gọi là “thể xác và tinh thần hợp nhất”.
Đó là sức mạnh đích thực của vũ trụ mà các bậc hành giả cố gắng tu luyện.
Ngày nay môn Aikido cũng nhƣ những võ phái khác cùng tôn trọng chân lý: Tinh thần
điều chỉnh thể xác.
Tƣ tƣởng là những âm ba rung động của tinh lực. Vật chất chỉ là tinh lực
đông đặc lại.
Một tƣ tƣởng nếu biết đúng cách và kết tinh lại có thể di chuyển một đồ vật.
Nếu biết điều khiển nó theo phƣơng pháp thần giao cách cảm, ngƣời ta có thể làm
cho một ngƣời khác ở cách xa cảm nhận đƣợc ý nghĩ của mình và có thể hành
động một cách thích nghi theo ý mình muốn.
Trong phép Xuất Thủ, chúng ta quay hai tay theo lực ly tâm hay là lúc phóng
tay ra theo vòng tròn quỹ đạo từ dƣới lên trên và khi thu tay về cũng theo vòng tròn
quỹ đạo ngƣợc lại. Tác dụng làm cho khí lƣu thông từ đan điền ra các đầu ngón tay
hay là đả thông kinh mạch (Phế Kinh, Tâm Kinh, Tam Tiêu Kinh, Tâm Bào Lạc và
Đại Trƣờng Kinh). Cử động quay tay dẫn khí và huyết lƣu thông qua các vùng vai,
toàn thân hai tay, ngực, lƣng, bụng …
Động tác này làm cho máu huyết lƣu thông đến tận các mao quản nhỏ nhất.
HL: Đây là một điều quan trọng trong các chiến vũ. Khi mạch máu bị dồn
một cách tự nhiên ra cái mao quản nhỏ nhất thì trên não bộ cũng diễn ra hiện
tƣợng y chang nhƣ vậy: Thế là khi suy nghĩ điều gì, thay vì ngồi một chỗ thì
nên thử vừa Xuất Thủ và vừa suy nghĩ xem có gì khác lạ hơn không? Đối với
HL thì khả năng “đau lƣng do ngồi suy nghĩ nhiều quá” biến đi đâu mất, và kết quả
hiện ra nhanh hơn.
Máu huyết sẽ sinh ra nhiều tinh (30 giọt máu sinh ra một giọt tinh). Nếu tinh
mất thì hai thứ còn lại cũng rời khỏi thân thể. Vì “Tinh” chế thành “Khí” mà “Khí”
lại hóa thành “Thần”.
Đến đây là hết phần kỹ thuật của Thế Xuất Thủ.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 101
g) Vài khẩu quyết quan trọng
Tuy nhiên, khi HL gặp anh Minh Đen thì cũng có trao đổi và có ghi nhận thêm
vài khẩu quyết quan trọng khi tập Xuất Thủ tới chiêu thức thứ ba.
Đại khái là:
Chiêu đầu tiên là: Xuất Thủ (sáng tác vào thời Phù Đổng Thiên Vƣơng)
Chiêu thứ hai là: Phi Lau Diệu Thủ ( sáng tác vào thời Đinh Bộ Lĩnh
qua truyền thuyết là “Lấy Cờ Lau mà tập trận”)
Chiêu thứ ba sáng tác tại Đà Lạt với tên là: Vỗ Tay Thoát Khỏi Hồng Trần.
Tuy rằng là đƣợc anh Minh Đen dặn là đừng có phổ biến những khẩu quyết sau
đây một cách đại trà, nhƣng vì xét thấy... theo năm tháng, những khẩu quyết này, nếu
áp dụng đúng cách, cũng chỉ có tác dụng là phát triển thể lực, linh tính và một vài khả
năng thần bí thuộc loại thƣờng thƣờng.
Nên sau khi suy nghĩ kỹ càng thì HL sẽ ghi ra đây thêm ba khẩu quyết nữa. Chỉ là
ghi ra mà thôi, không có bình luận và giải thích:
1. Khẩu quyết thứ nhất là: Khi ôm là ôm vào cả Vũ Trụ.
2. Khẩu quyết thứ hai là: Khi kéo là kéo cả Vũ Trụ.
3. Khẩu quyết thứ ba là: Nên Xuất Thủ lần lƣợt theo từng hƣớng một, trong
tám hƣớng chính. Hay là cả tám hƣớng trong một lần tập thì cũng đƣợc.
2. VẠN THẮNG CÔNG VÀ OM AH HÙM
Trigia: Anh Hai hỏi Bt tập tành VTC ra sao rồi.
Bt: Dạ, đang tính email cho chú nhƣng chƣa kịp. Ngày xƣa, khi Chú Tibu chỉ,
con tập hăng lắm. Con tập liên tục chừng 5 phút thì chịu không nổi, lúc đó chỉ cảm
thấy khỏe thôi. Sau này, chú Tibu nói tập đừng nên nhanh quá, tập vừa vừa sức của
mình nhƣ chạy Marathon vậy, có thể chạy lâu chạy dài đƣợc.
Với một bí quyết nữa của chú Tibu, con tập vài ngày thì có những triệu
chứng rất lạ. Đầu tiên, con cảm giác rất vui. Cái vui của sự thanh tịnh. Cái vui
nằm bên trong và âm ỉ vui làm mình cảm giác mạnh mẽ và vui vui, chứ không phải
cái vui vẻ bình thƣờng. Vài ngày sau, khi đi cầu, dầu phun ra rất nhiều. Lúc đó, con
nghi ngờ đó là kết quả của Vạn Thắng Công, nên hỏi chú Tibu, và đƣợc cho biết
là Vạn Thắng Công đẩy chất độc hay những chất dƣ thừa trong cơ thể ra. Tình
trạng này kéo dài khoảng 3 ngày.
Và đây là bí quyết mà Chú Tibu chỉ con. Bí quyết là áp dụng 3 chữ OM,
AH, HÙM khi tập:
1. OM: Khi đánh tay xuống lần thứ nhất, thì đọc trong tâm: OM.
2. AH: Khi đánh tay xuống lần thứ hai, đọc trong tâm: AH
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 102
3. HÙM: Khi đƣa tay lên trời (thế 1) hay chặp 2 tay vào nhau (thế 2 và 3), thì
đọc: HÙM.
Chỉ có nhiêu đó thôi. Trạm 1 đã kiểm tra mẹ nó khi tập VTC với ba chữ này
thì thấy hào quang phóng ra rất mạnh và xa, đồng thời nó nói, ba chữ này có nhiều
công dụng khác nữa nhƣ trị bệnh, v.v… Có gì chƣa rõ, nhớ cho con biết nha.
QT: Chú Tibu cũng có chỉ con tập chiêu thứ 3 với OM AH HUM, mục
đích lúc đó để chữa bệnh cột sống cho Chị của con và con nhớ không lầm là chỉ có 2
hoặc 3 ngày là chị hết đau... Vừa tập VTC vừa nghĩ đến ngƣời mình muốn chữa
bệnh, và khi tập xong thì massage ngay vùng bị đau, ngƣời bệnh sẽ thấy rất dễ
chịu. Trong ngày mình nên dành nhiều thời gian để nghĩ đến ngƣời đó nữa, thật là hay
vậy đó…
HL: .. . Qua chuyện QT đã đƣa ra kết quả cùng với chuyện ị ra dầu và vui
lâng lâng, là mình có quyền đƣa ra cho bà con tập là ngon lành rồi. Sở dĩ, mình
dùng Om Ah Hùm khi niệm trong tâm mà không có để ý tới là phải dùng lực ra làm
sao (Nhƣ là phóng ra đằng trƣớc mặt nhƣ thƣờng làm), nên tự nó chấn động đến
cả ba hệ thống của Chƣ Phật và Bồ Tát trong ba thời: Quá khứ ( Om), Hiện tại
( Ah) và Vị lai ( Hùm). Vì là động công nên nó là cái nền rất là vững chắc để những
ngƣời mới tu tập ( tâm lực chƣa mạnh) có thể phát huy đƣợc phần nào sự cầu
nguyện của mình cho một ngƣời nào đó. Đồng thời do VTC nó có tác dụng là... tự
tạo ra những dây chằng trong não bộ nên ngƣời tập, sau một thời gian, sẽ thấy rằng
mình tự nhiên rất là thăng bằng: Ít khi nào mà bị trợt chân mà... té lắm.
Trigia: Nhƣ vậy thì ngoài tác dụng trên thân khác nhau ở từng ngƣời,
công năng thuộc tâm linh của VTC phát triển cũng khác. Thanh tịnh thì bớt sân
hận... Chú thì lại hay vỡ lẽ nhiều thứ linh tinh trong khi tập VTC. Sự phát triển
thuộc dạng Linh Tính, đôi lúc lại là Trí Tuệ. Chỉ biết kết luận VTC thật là lạ. Khó
có thể hiểu cho hết đƣợc sự vận hành của nó. Chỉ duy vừa tập vừa kiểm tra lại với
bài viết Xuất Thủ thì y chang nhƣ vậy. Đó là chỉ mới tập trong 20 - 30 phút thôi.
Nếu tập cỡ 2,3 tiếng mỗi ngày thì cái gì nữa phát sinh chƣa hiểu đƣợc. Anh Bt có thể
nói lại cho rõ hơn không.
Bt: Đọc OM, AH là khi đánh tay qua một bên. Thánh Gióng cầm gậy tre đập
qua trái (OM), đập qua phải (AH), và bay lên trời là lúc đứng đinh tấn hay tay đƣa
lên trời ( hay chặp tay lại với nhau), thì mình đọc HÙM. Con trình bày lại 3 chiêu
này với phần OM, AH, HÙM:
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 103
a) Chiêu 1 - Xuất Thủ:
Hình chiêu 1.a: Khởi thế với Trảo Mã Tấn. Hai tay nắm nhẹ, và làm đồng thời
những việc này cùng một lúc:
- Đánh tay qua một bên
- Hít vào bằng mũi.
- Nhìn vào phần lỗ rốn (Đan Điền)
- Đọc trong tâm: OM
Hình chiêu 1.b: Quay người 180 độ, tư thế ngược lại, và đồng thời làm những
việc này cùng một lúc:
- Trong khi quay ngƣời về hƣớng đối nghịch, xoay lòng bàn chân sau theo
hƣớng quay cho đến khi mũi chân hƣớng thẳng phía trƣớc (thƣờng là một góc
khoảng 90 độ). Lòng bàn chân chà sát mặt đất khi xoay
- Đánh hai tay qua một bên
- Hít vào bằng mũi.
- Nhìn vào phần lỗ rốn (Đan Điền)
- Đọc trong tâm: AH
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 104
Hình chiêu 1.c: Tất cả những việc này đồng làm cùng lúc:
- Chân chuyển thành Đinh Tấn
- Thở ra bằng miệng
- Đánh hai tay lên trời,
- Đọc trong tâm: HÙM.
Hình chiêu 1.d
Đến đây là kết thúc chiêu đầu tiên. Và tiếp tục đánh 2 tay xuống qua 1 bên, chân
chuyển thành Trảo Mã Tấn, hít vào bằng Mũi, nhìn vào phần lỗ rốn, và đọc trong
tâm: OM để trở về chu kỳ đầu của chiêu 1, và cứ tiếp tục nhƣ thế.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 105
b) Chiêu 2 - Phi Lâu Diệu Thủ:
Giống nhƣ chiêu thứ nhất, chỉ khác là hai tay ôm vòng từ dƣới lên trời sao cho
các ngón của hai bàn tay chặp vào nhau thay vì đánh 2 tay lên trời
Hình chiêu 2: Phi Lâu Diệu Thủ
c) Chiêu 3 - Vỗ Tay Thoát Khỏi Hồng Trần:
Hình chiêu 3.a: Khởi thế với Trảo Mã Tấn. Hai tay nắm nhẹ, và làm đồng thời
những việc này cùng một lúc:
- Đánh tay qua một bên
- Hít vào bằng mũi.
- Nhìn vào phần lỗ rốn (Đan Điền)
- Đọc trong tâm: OM
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 106
Hình chiêu 3.b: Quay người 180 độ, tư thế ngược lại, và đồng thời làm những
việc này cùng một lúc:
- Trong khi quay ngƣời về hƣớng đối nghịch, xoay lòng bàn chân sau theo
hƣớng quay cho đến khi mũi chân hƣớng thẳng phía trƣớc ( thƣờng là một góc
khoảng 90 độ). Lòng bàn chân chà sát mặt đất khi xoay.
- Đánh hai tay qua một bên
- Hít vào bằng mũi.
- Nhìn vào phần lỗ rốn (Đan Điền)
- Đọc trong tâm: AH
Hình chiêu 3.c: Tất cả những việc này đồng làm cùng lúc:
- Chân chuyển thành Đinh Tấn
- Thở ra bằng miệng
- Hai tay ôm vòng từ dƣới lên trời sao cho các ngón của hai bàn tay chặp vào nhau.
- Đọc trong tâm: HHÙÙMMM
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 107
- Hơi thở ra và âm thanh: HHÙÙMMM sẽ kéo dài tiếp cho hết chiêu này
lúc vỗ tay.
Kế tiếp chuyển từ Đinh Tấn lùi ngƣời ra sau thành Trảo Mã Tấn, hai tay
cũng đồng chuyển đánh từ sau ra phía trƣớc song song với chuyển từ Trảo Mã Tấn
sang Đinh Tấn v.v…
Đúc kết lại thì: 1 ngƣời bình thƣờng mới tập có thể tập chiêu 1 trong 3
tháng. Làm thêm chiêu 2 trong 3 tháng kế tiếp.
Tập chiêu thứ 3 và chỉ tập chiêu này cho đến khi nhuần nhuyễn.
Nhuần nhuyễn là khi các động tác từ tay, chân đến bộ tấn đƣợc múa nhịp nhàng và
kết hợp hòa điệu với hơi thở.
Và sau rốt là áp dụng Om Ah Hùm vào VTC nhƣ đã trình bày ở trên. Nhƣ
vậy là xong 3 chiêu của Vạn Thắng Công.
3. CHÚ Ý
- Cái hay của VTC là dùng hơi thở ngƣợc: Khi khom người thì lại hít
vào bằng mũi (hít vào tới hai lần, 1 lần khi ẹo bên này, và lần nữa khi ẹo bên kia. Mắt
thì phải nhìn xuống rún, để khi hít vào thì mình cảm nhận là bụng nó phình lên, khí
dồn xuống bụng chứ không phải trên ngực. Còn khi ưỡn người thì lại thở ra bằng
miệng! Thở ra một tiếng khù to là hay nhất, hơi phải đƣợc đẩy từ bụng thở ra cái Phù,
nếu thở ra bằng ngực thì dễ bị đuối sức lắm.
- Chân thì phải đứng hơi rộng so với vai, nếu khoảng cách 2 chân mà bằng
vai hoặc quá xa nhau thì khi tấn sẽ không vững, lực phân phối ở chân sau là 70% và
chân trƣớc là 30%... Khi nào rảnh là cứ đứng tập tấn cho quen rồi sau đó kết hợp
với tay. Thế đứng của Vạn Thắng Công cũng gần giống nhƣ Trảo Mã Tấn nhƣng cả
bàn chân đều phải chạm mặt đất. Cách dồn trọng lƣợng là 3 phần trƣớc và 7 phần
sau theo nhƣ truyền thuyết Thánh Gióng 7 mâm cơm 3 mâm cà. Tất cả những thế
đứng tấn trong Vạn Thắng Công đều có bàn chân chạm mặt đất và khi quay một
góc 90, thì cũng chà xát dƣới mặt đất.
- Để chân trần, chịu sức nặng trên gót chân và nhƣớng các ngón chân
ngƣợc lên. Việc này để cho huyệt Dũng Tuyền chà nhẹ vào nền nhà. Chỉ chà nhẹ
nhƣ tiếng gọi nhỏ nhẹ của ngƣời yêu thì khí lực mới chuyển. Còn khi mình tham
lam nhấn hơi nặng xuống thì thành ra tiếng cằn nhằn của "Bà Chằn Lửa" nên khí
lực sẽ không chuyển đƣợc. Lấy gót chân làm trục khi quay ngƣời. Và để kích
thích đƣợc huyệt Dũng Tuyền dƣới lòng bàn chân, nhƣớng các ngón chân lên khi
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 108
quay. Quay ngƣời chớ không phải xoay ngƣời. Hai cái khác nhau. Tập lâu ngày tự
nhiên sẽ làm đƣợc.
- Cong cổ tay để tụ đƣợc Khí
- Khi đánh tay xuống, hơi căng cơ bắp vai bằng cách đánh ra sau 1 chút. Nhớ
là chỉ căng một chút thôi. Cẩn thận nếu không rất dễ bị rách bắp thịt ở đây. Nhất là khi
bắt đầu tập, chƣa nóng ngƣời, lại tập quá nhanh quá mạnh. Tập lâu ngày chỉ cần tác
ý về VTC 5 phút là ấm ngƣời ngay
Nên tập đều đặn 30 phút mỗi ngày.
- Bạn nên tập chậm chậm, thật chậm, chậm nhƣ con rùa ấy.
- Thời gian sau quen rồi thì bạn tập sẽ đều tay hơn.
- Đến khi thật sự thích nghi rồi thì bạn sẽ tập vừa vừa là đƣợc (cảm nhận).
1. “Khi ôm là ôm cả Vũ Trụ”: khi tập thì động tác nào mà giống nhƣ ôm vào
thì lúc đó mình tác ý câu 1.
2. "Khi kéo là kéo cả Vũ Trụ”: khi tập đến động tác nào mà giống nhƣ kéo cái
gì đến gần ngƣời mình thì mình tác ý câu 2.
3. Quay 8 hướng: Thầy giải thích: "Sở dĩ mình quay tám hƣớng là để làm
quen với chiều từ trƣờng nơi mình tập và những bức xạ phát ra từ những cây cối, đồ
vật, và các quặng mỏ ở dƣới đất... Cũng có khi những bức xạ này lại là ác xạ! Nhƣ
vậy là hệ thần kinh đƣợc tôi luyện bởi những cái bức xạ từ bên ngoài đƣa vào thân thể của mình.
Sau khi chiến thắng đƣợc những cái này thì Thần Công mới phát ra đƣợc. "
Đối với 1 ngƣời bình thƣờng chƣa biết gì hết về võ thuật thì có mấy giai
đoạn nhƣ sau:
- Làm quen: 1 tháng
- Vừa tập vừa sửa cho đúng động tác: 15 ngày
- Kết hợp động tác với hơi thở: 15 ngày
- Trồi lên thụt xuống nhịp nhàng, ẹo qua ẹo lại nhịp nhàng, tay với chân
nhịp nhàng ăn khớp, hơi thở với động tác ăn khớp tự nhiên: 6 tháng
- Động tác nhẹ nhàng đều đặn nhƣ nƣớc chảy: 3 năm trở lên.
4. OM AH HÙM
OM là nguyên ngôn của Vũ Trụ
Ah là nguyên ngôn (âm thanh căn bản) của các loài hữu tình.
Hùm là chấn động hƣớng về tƣơng lai.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 109
Giải thích tí xíu về âm thanh Hùm: Sở dĩ có chuyện này là khi hành giả
đánh nhau với Hộ Pháp (Đây là một phần quy trình để tiến tới cách vào Chân
Nhƣ bằng con đƣờng "Có"). Vào lúc gần xong trận đánh thì tới lúc cả hai
( Hành Giả và Hộ Pháp) tung ra những tuyệt chiêu nhƣ là quăng chày Kim Cang
lên và chày này sẽ bay theo ý tƣởng của Hành Giả. Lúc chày của Hộ Pháp đụng
vào cơ thể của hành giả thì nó phát ra một âm thanh to khủng khiếp. Nhƣng nếu
hành giả đủ bình tĩnh để nghe cho đƣợc thì nó có âm thanh là Hùm. Do hiện
tƣợng này mà nói là chữ Hùm hƣớng về tƣơng lai.
Cũng vậy, chữ về quá khứ là Phát do chày đụng vào đằng sau lƣng).
Trong các câu chú, lại có những câu tận cùng bằng: Hùm Hùm Hùm, Phát
Phát Phát là có ý này đây. Hết phần giải thích.
Nay bàn tiếp về Om Ah Hùm
Vận Hành của Om AH Hùm:
Trong chấn động vũ trụ (ý nói về nguyên ngôn OM): Chấn động hay nhất là
sự trao truyền lại kinh nghiệm Tâm Linh.
Trong chấn động của các chúng hữu tình (nguyên ngôn Ah): chấn động hay
nhất là... Thuyết pháp Giải Thoát.
Trong chấn động hƣớng về tƣơng lai (Hùm): vốn là một chuyển biến có tính
cách nối liền ba thời:
Quá Khứ (mình đã từng làm chuyện này).
Hiện Tại ( hiện này mình đang làm: Do đƣa ra câu hỏi, nhận xét về
kinh nghiệm, phƣơng pháp...).
Tƣơng lai (là mình sẽ còn làm dài dài những chuyện này trong tƣơng lai).
Do mình làm nhƣ vậy trong thực tế đời sống hằng ngày: nên khi mình tụng trong tâm:
Om Ah Hùm thì mình đụng đến một thứ ngôn ngữ tâm Linh của Chƣ Phật và
Chƣ Bồ Tát trong ba thời quá khứ, hiện tại, và tƣơng lai.
Ngoài ra Vạn Thắng Công (VTC) là một động công có tính cách tạo nên một
cái nền vững chắc qua những chuyển động tự nhiên của khí huyết. Nên khi mình tập
VTC và tác ý Om Ah Hùm, cộng với tính cách trao truyền kinh nghiệm tâm linh thực
sự trong sinh hoạt hằng ngày. Thì sự chấn động đến cả ba hệ thống của Chƣ Phật và Bồ Tát
trong ba thời: Quá Khứ, Hiện Tại và Vị Lai là chuyện tự nhiên.
Mà ngƣời ta ghi gọn lại thành Om (quá khứ) Ah (hiện tại) Hùm (vị lại) là vậy.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 110
C. ỨNG DỤNG
I. HỒI HƢỚNG CÔNG PHU
Hỏi: Chú ơi! Có phải mình có cách gửi e mail bằng tƣ tƣởng phải không chú?
Chú có thể chỉ lại cái chiêu đó không chú? Và làm sao thì biết ngƣời ta nhận
đƣợc e mail của mình?
HL: Chuyện gởi e mail bằng tƣ tƣởng có từ khuya rồi. Gởi e mail bằng
tƣ tƣởng trong Phật Giáo là... Hồi hướng đó.
1. Hồi hƣớng - Kim Cang Thừa
Bài này thật là trứ danh và có... hậu hoàn toàn, thuộc về Kim Cang Thừa.
Nguồn gốc: Thông thƣờng thì vị Thầy hay đi tìm cho đệ tử của mình một bài
hồi hƣớng hay sám hối một cách riêng biệt. Để làm đƣợc nhƣ vậy: Vị Thầy lặn lội
xuống tận... A Tỳ Địa Ngục rồi coi hồ sơ mật của vị đệ tử. Hồ sơ này trình bày đầy
đủ các ác pháp mà vị đệ tử có thói quen hay làm từ lâu lắm rồi. Sau đó, Ngài mới
hỏi Ngài Địa Tạng Vƣơng Bồ Tát một bài sám hối hay hồi hƣớng đặc biệt chỉ dành
riêng cho vị đệ tử này mà thôi. Và sau đây là bài hồi hƣớng tổng quát dành cho
mọi ngƣời tu hành theo phái Kim Cang Thừa:
Hôm nay tại đạo tràng: số nhà… Đƣờng… Con tên… (sau này tu giỏi
rồi thì vừa đọc vừa quán) thuộc dòng pháp KIM CANG.
1. Nguyện xin hồi hƣớng công đức trì tụng chân ngôn chú
pháp đến Chƣ Phật Chƣ Bồ Tát 10 phƣơng, tổ pháp Mật Tông, giáo
chủ mật giáo ĐẠI NHẬT NHƢ LAI, giáo chủ mật giáo TỲ LÔ GIÁ NA
MÂU NI THẾ TÔN, tổ thầy Kim Cang sƣ, chƣ thiên, chƣ tiên các cõi
các tầng trời, thiên long bát bộ, hộ chú, hộ pháp, hộ đạo tràng, hộ gia
đình, thần tài, thần tiền.
Nguyện xin tất cả đồng tăng phƣớc đức, thọ mạng lâu dài, tội
chƣớng nghiệp đều đƣợc tiêu trừ, tu hành đều đƣợc rốt ráo, thành
tựu CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC.
2. Nguyện xin hồi hƣớng công đức trì tụng chân ngôn chú
pháp đến: Tổ thầy kiếp này, kiếp trƣớc, vô lƣợng kiếp trƣớc. Chƣ vị hộ thầy
tổ, huynh đệ kiếp này, kiếp trƣớc, vô lƣợng kiếp trƣớc:
Nguyện xin tất cả đồng tăng phƣớc đức, thọ mạng lâu dài, tội
chƣớng, nghiệp chƣớng tiêu trừ, tu hành chóng thành CHÁNH QUẢ.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 111
3. Nguyện xin hồi hƣớng công đức trì tụng chân ngôn chú
pháp đến: chƣ THIÊN MA, TIÊN MA, ĐỊA MA, TỲ NA DẠ DA, DƢỢC
XOA, LA SÁT, CHƢ BỘ ĐA, Quỷ Thần HỘ TÔI.
Nguyện xin tất cả tội chƣớng, nghiệp chƣớng kiếp này, vô
lƣợng kiếp trƣớc đều ĐƢỢC TIÊU TRỪ, phƣớc đức tăng trƣởng, tu
hành thành tựu CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC.
4. Nguyện xin hồi hƣớng công đức trì tụng chân ngôn chú
pháp đến: chƣ THIÊN MA, TIÊN MA, ĐỊA MA, TỲ NA DẠ DA, DƢỢC
XOA, LA SÁT, CHƢ BỘ ĐA, Quỷ Thần PHÁ HOẠI TÔI.
Nguyện xin tất cả đồng xóa bỏ tâm ác, phát tâm lành. Đổi các
phá hoại thành giúp đỡ. Các oan gia, nghiệp chƣớng với tôi, nguyện
xin giải trừ. Tất cả đồng hƣớng về CHÍNH PHÁP, cùng tôi tu hành.
NGUYỆN XIN ĐỒNG TU HÀNH ĐỒNG THÀNH TỰU.
Nguyện xin hồi hƣớng công đức trì tụng chân ngôn chú pháp
đến: chúng sanh, mà đệ tử dùng thân mạng của họ để nuôi sống đệ
tử. Những chúng sinh mà đệ tự cố ý giết hại hoặc vô tình giết hại kiếp
này, kiếp trƣớc, hoặc vô lƣợng kiếp trƣớc.
Nguyện xin tất cả đồng TĂNG TRƢỞNG PHƢỚC ĐỨC, tội
chƣớng nghiệp chƣớng kiếp này, kiếp trƣớc, hoặc vô lƣợng kiếp trƣớc
đƣợc tiêu trừ và đƣợc VÃNG SINH TỊCH TỊNH THẾ GIỚI.
6. Nguyện xin hồi hƣớng công đức trì tụng chân ngôn chú
pháp đến: chƣ VONG LINH CỬU HUYỀN THẤT TỔ BÊN NỘI, BÊN
NGOẠI, BÊN VỢ, BÊN CHỒNG. Chƣ vong linh theo hộ TÔI TU HÀNH,
theo HỘ GIA ĐÌNH.
Nguyện xin tất cả đồng TĂNG TRƢỞNG PHƢỚC ĐỨC, tội
chƣớng nghiệp chƣớng kiếp này, kiếp trƣớc, hoặc vô lƣợng kiếp trƣớc
đƣợc tiêu trừ và đƣợc VÃNG SANH TỊCH TỊNH THẾ GIỚI.
7. Nguyện xin hồi hƣớng công đức trì tụng chân ngôn chú
pháp đến: thân tộc hiện tiền bên nội, bên ngoại, bên vợ, bên chồng,
tất cả chúng hữu tình giúp đỡ tôi, hộ tôi tu hành. Nguyện xin tất cả
đều đƣợc bình yên, đêm yên, ngày yên, đêm và ngày đều bình yên,
tài bảo gia tăng, tai nạn bệnh tất thảy đều tiêu trừ.
Sau cùng con (tên…)
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 112
1. Nguyện xin tất cả Nhƣ Lai nhiếp thọ, hộ niệm cho con: Tất cả
tội lỗi, khuyết phạm khi tu hành đều đƣợc tiêu trừ. Tất cả các tội lỗi
của thân quá khứ, hiện sanh thân này đều đƣợc rốt ráo thanh tịnh.
Ôm, sạc vat a tha gat a hơri da gia ma ni j va la tê a vít hi gia, hùm. (21 lần)
(OM, sarva tathagata hridaya mani jvalatê avisthiya, hùm)
2. Nguyện xin đệ tử đƣợc yên ổn tu hành. Nguyện xin tất cả
những oan gia ác nghiệp, phiền não đều đƣợc hóa giải, khiến con tu
pháp yếu của Chƣ Phật mau đƣợc thành tựu.
3. Nguyện xin Chƣ Phật gia hộ cho con. Tất cả Nhƣ Lai, Chƣ Bồ
Tát, Hộ Chú, Hộ Pháp, Chƣ Thiên, Chƣ Tiên, các cõi các tầng trời gia hộ
con. Tất cả mong cầu, nguyện lực đều đƣợc viên mãn. Tâm ƣa thích
muốn cầu điều chi, đều đƣợc thành tựu.
Cách phiên âm của câu chú (Phiên âm là phiên âm theo tiếng Pháp): Ôm, sạc vat
a tha gat a hr da gia (gia này có âm nhƣ trong chữ gia đình) ma ni j (nhƣ chữ job đó)
va la tê a vít (tất cả âm i đều nhƣ visitor) hi gia hùm.
Cách đọc:
Thông thƣờng: Ðọc trong tâm với giọng vừa thôi, có nghĩa là y nhƣ mình
nói chuyện vậy.
Muốn hồi hƣớng khắp mƣời phƣơng Chƣ Phật và Chƣ Bồ Tát thì: Ðọc trong
tâm với giọng Bass và rền nhƣ sấm sét vậy.
Muốn tác dụng vào những cõi thấp thì đọc thì thầm trong miệng theo kiểu xù xì
xù xì của mấy ông thầy phù thủy.
2. Hồi hƣớng về một đối tƣợng
Hồi hƣớng là cái khó nhất trong công phu để thực tập làm một vị Bồ Tát sau này.
Hồi hƣớng... Khơi khơi: Nhƣ là những câu hồi hƣớng trong khi đọc những
nghi thức tụng niệm, hay là có khi cao hứng thì đọc trong tâm và không chủ định là
cho ai cả.
a) Hồi Hướng cho người còn sống
a. Hẹn giờ để biết giờ đối tƣợng đang tập.
b. Đối tƣợng (hành giả) phải tác ý về ngƣời Bạn mà mình đã nhờ họ hồi hƣớng
cho mình.
c. Bên kia thì ngƣời Bạn (tất nhiên là dân có nghề) dùng hai cách sau đây để
hồi hƣớng cho có tác động:
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 113
- Ngƣời bạn xuất hồn bằng luồng Bhavanga
Ngƣời Bạn giỏi hơn đó dùng màn tivi coi hành giả bạn của mình đã ổn
định trong khi tu tập hay chƣa. Khi ngƣời bạn của mình đã ổn định rồi thì tác ý
đến ngồi đối diện với ngƣời bạn đó (hành giả). Lúc này hành giả (khi nhắm mắt)
sẽ thấy một cái bóng mờ của ai đó đang ngồi trƣớc mặt mình. Và hành giả cứ một
mạch nhìn vào cái bóng mờ đó. Trong khi đó, ngƣời Bạn tác ý và làm cho cái
tâm thức của mình rung động đồng dạng với đối tƣợng (hành giả). Lúc này Đối
tƣợng hành giả sẽ thấy cái bóng càng lúc càng rõ hơn. Đối tƣợng hành giả tự động
chuyển dần về cách tu tập của mình khi thấy cái bóng đã tạm rõ. Bên kia ngƣời
Bạn chỉ làm khoảng một giờ là bở hơi tai, mờ con mắt. Nhƣng không sao! Vì là
ngƣời Bạn hành giả đang học đòi làm Bồ Tát mà nên có mệt thì là mệt chết đi
đƣợc, nhƣng cũng là rất là đã. Bên này thì đối tƣợng hành giả tập tành tinh tấn
khỏi nói luôn, nếu tới luôn bác tài bằng cách cứ tập tiếp thì tinh thần trong lúc tu
tập lên cao cực độ, để rồi từ đó mới đủ sức tự tu tập một mình.
- Nhờ vào Mạn Đà La mà hồi hƣớng:
Ngƣời Bạn dùng màn tivi quán ra vị bổn tôn của Đàn Pháp (Mạn Đà La) ví dụ
nhƣ Quan Thế Âm Bồ Tát ở dạng... Trăm tay Ngàn Mắt (dạng 11 dầu), hay là dạng
Nhƣ Ý ( dạng ba đầu) hay là dạng 4 tay (theo kiểu Mạn Đà La Om Mani Padme Hùm),
hay là dạng 12 tay (có vũ khí) hay là dạng 18 tay (cũng có vũ khí)... (đệ chịu thua và
không diễn tả đƣợc hết vì khả năng của Ngài rất là vi diệu).
Kế tiếp, quán:
Bên phía tay trái của Ngài thì là mình, còn bên phải lại là đối tƣợng hành
giả. Mình bèn phóng quang vào Bổn Tôn và kèm theo lời hồi hƣớng cho đối
tƣợng. Bổn Tôn phóng quang vào đối tƣợng và đồng thời mình cũng phóng quang
ngang qua đối tƣợng luôn. Những phóng quang này tạo thành một tam giác đều mà
trên đảnh là Bổn Tôn, bên trái của Ngài là ngƣời Bạn, còn bên phải cũng của
Ngài lại là đối tƣợng hành giả.
Kết quả:
Phía đối tƣợng hành giả thông thƣờng thì không cảm nhận gì cả và cứ công
phu theo thƣờng lệ, nhƣng khi công phu thì tinh tấn và tiến bộ trông thấy luôn.
Kết luận:
Làm cách thứ hai này thì ngƣời Bạn ít bị mệt hơn, và tác động cũng
tƣơng đƣơng.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 114
b) Hồi Hướng cho Người Chết
Còn hồi hƣớng cho Ngƣời đã chết thì cũng dùng hai cách đã trình bày trƣớc đó:
1. Dùng xuất hồn bằng luồng Bhavanga: Nhập Tứ Thiền rồi quán một màn ti
vi, sau khi màn ti vi thật là trắng và sáng (hình ảnh này chính là sự biểu hiện tình
trạng tâm thức của hành giả đã đạt đƣợc trình độ thanh tịnh rất là cao và mạnh). Kế
tiếp tác ý coi ngƣời đó ở đâu, sau đó thì hồi hƣớng công đức và lời nguyện của mình
cho ngƣời đó. Làm cách này hành giả bị mệt.
2. Dùng Mạn Đà La: Nhờ Bổn Tôn làm giùm mình. Cách này ít mệt hơn cách
trên nhƣng không đã bằng.
3. Còn một cách thuộc loại "Vô Chiêu" về hồi hƣớng là cứ miệt mài niệm Phật
và tác ý cho ngƣời đó (dù đã sống hay đã chết). Sau một thời gian... rất là lâu, bất ngờ
hành giả sẽ rơi vào một giấc mơ và trong giấc mơ đó thì hành giả sẽ biết đƣợc kết quả
của sự hồi hƣớng của mình.
a. Hành giả sẽ thấy ngƣời đó ở nơi sáng sủa hơn, bận đồ mới và mạnh khỏe hơn.
b. Hành giả sẽ thấy ngƣời đó không còn ở vào cảnh sa mạc nữa mà đã vào
đƣợc thành phố, tuy là một thành phố vắng nhƣng cũng đỡ hơn là ở sa mạc.
c. Hành giả sẽ thấy ngƣời đó vƣợt biển và khi qua đƣợc bờ bên kia thì lại bận
đồ thầy chùa.
d. Trong một pháp hội giảng kinh thuộc dạng Đại Thừa: hành giả nhận ra
đƣợc ngƣời đó cũng có mặt tại pháp hội đó luôn.
e. Hành giả sẽ nằm mơ thấy ngƣời đó cám ơn hành giả và nhắn lại rằng: Gia
đình còn có rất nhiều ngƣời đàng bị lầm than nhƣ vậy, và đề nghị hành giả nên cố
gắng niệm Phật để cho những ngƣời đó đƣợc siêu thoát.
c) Cúng Kiếng Cầu Siêu
Hình thức cúng kiếng hay nhất là... Hồi hƣớng công đức công phu của
mình cho ngƣời nhà mà mình biết tên. Sau đó, khi tâm lực mạnh hơn thì mới có
thể hồi hƣớng cho những ai mà mình không biết tên. Và sau cùng là cho cha mẹ,
huynh đệ, Thầy Tổ kiếp này, kiếp trƣớc. .. Đây là một hành động với cái tâm tỉnh
thức nhất và hiệu quả nhất.
d) Người Thân Chết
Không còn cách nào khác hết là chính mình tu hành và hồi hƣớng công đức
cho ngƣời nhà của mình.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 115
Cách thứ hai là: Cách này chỉ làm khi tâm của mình nó có cái cảm giác là
xót xa cho ngƣời thân đó khi mình nghĩ về cái chết của họ. Nếu không có cái cảm
giác đó thì... thôi vậy.
1. Dùng con mắt thịt của mình rồi nhìn vào tấm hình của ngƣời thân.
2. Sau một thời gian (tùy vào từng ngƣời có ngƣời chỉ cần vài giờ, có ngƣời lại
vài tháng) khi nhắm mắt mà tƣởng tƣợng ra cái mặt của ngƣời đó thì mình đã có thể
thấy nhƣ thật thì ngay lúc đó nên bỏ hết mọi chuyện mà đọc câu niệm Phật thƣờng
ngày. Khi đọc thì cứ nhìn vào cái linh ảnh đó.
3. Nếu linh ảnh vì một nguyên nhân nào đó mà mất đi thì cứ y vào chỗ đó mà
nhìn và cứ niệm.
e) Tâm Lực
Thực tế, Hồi hƣớng là một động tác của Tâm Lực.
Tâm không có lực thì không làm gì đƣợc cho cả hai trƣờng hợp hữu duyên
và không có duyên. Ngƣợc lại, một khi mà Tâm đã có lực thì chỉ có thể thành
công trong trƣờng hợp hữu duyên mà thôi. Còn trƣờng hợp không có duyên
nghiệp với nhau thì... chịu. Trong trƣờng hợp hữu duyên thì mình biết ngay vì câu
chuyện nó làm cho mình khó chịu. Còn trong trƣờng hợp vô duyên thì tâm mình nó
dửng dƣng nhƣ chuyện con muỗi nó bị xịt thuốc nó chết vậy. Có nghĩa là mình vẫn
sống tỉnh queo, không có áy náy một tí xíu nào cả.
f) Tu Hành và Mả Kết
Con cháu thì tự nhiên có đứa thích chuyện tu hành một cách... không thực tế
tý nào cả. Đó là hai dấu hiệu chính của sự kết của mồ mả.
Bàn qua sự kết của mồ mả.
Nguyên tắc: tự nhiên ngay vùng đó: Nhiệt độ lại ổn định, và tự nhiên chỗ
đó lại có thể duy trì một độ ẩm rất là ổn định và không thay đổi thì lúc đó mồ mả
mới kết. Trong nhà của em ( bên vợ) thì nhà lại có hai hủ cốt đƣợc để lên bàn
thờ. Tuy rằng, hủ cốt để khơi khơi nhƣ vậy mà hủ của Ba lại có hiện tƣợng kết.
Em có mở ra coi thì thấy có một lớp màn mỏng y nhƣ màng nhện và có màu hồng:
Đời Cháu làm ăn khá. Quả nhiên là nhƣ vậy! Nhìn qua, nhìn lại thì lại thấy công
này là do thằng rể là... em. Nhƣ vậy mồ mả kết là do phƣớc báu tăng. Phƣớc báu
tăng nhanh nhất không phải là đem cốt của ông bà đem đi táng nơi long mạch mà
lại là đƣợc tăng do sự hồi hƣớng công đức tu hành của con cháu. Phƣớc báu mà
do công đức tu hành của con cháu là... bất tận vì cứ hết một buổi công phu thì nó
lại tự động hồi hƣớng y nhƣ là đắp đê vậy. Nó càng ngày càng to và càng chắc!
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 116
3. Lời Nguyện - Nguyện Lực Chân Thật.
Chính do hành giả nói lời chân thật nên "nguyện lực chân thật" mới tạo
thành năng lực phi thƣờng và những kết quả ngoài sức tƣởng tƣợng!"
Nguyên tắc chính là giọng trầm, nguyên tắc thứ hai là hồi hƣớng công đức tu
hành của mình cho họ bằng câu:
Từ hồi tôi chƣa tu hành thì tôi cũng có phạm những ác
nghiệp, nhƣng khi tôi tu theo chánh pháp cho đến nay thì tôi không hề
cố ý làm hại bất cứ chúng hữu tình nào. Nếu đúng là nhƣ vậy:
- Nguyện xin cho... (anh hay chị)... Đƣợc về vùng thanh tịnh và
nƣơng vào tâm lực này mà về vùng ánh sáng.
- Nguyện cho chị… sinh con dễ dàng, mẹ tròn con vuông
- Vân vân…
a) Độ Sanh Giải Nạn
Trong bộ phim DVD nhiều tập, khi nói đến làm sao để hồi hƣớng cho
ngƣời thân đang sa lầy vào những thói hƣ tật xấu và có thể dẫn đến hậu quả tai
hại không sớm thì cũng muộn. Anh HL đã diễn đạt nhƣ là một khám phá mới mà
theo đệ hiểu nhƣ là một mật pháp chƣa bao giờ đƣợc nói ra. Vì tính cách quan
trọng của lời nguyện và phƣơng pháp, đệ mạn phép ghi lại để quý huynh tỷ tiện
áp dụng khi gặp chuyện tƣơng tự và đang bí lối và đang cần một giải pháp để giúp
đỡ ngƣời thân của mình.
“Trƣớc sau gì ngƣời ta cũng bỏ thói hƣ tật xấu... Với công phu
này, tôi nguyện xin cho... của tôi đƣợc gặp nhân duyên sớm trƣớc khi
hậu quả tai hại xảy ra” HL.
Lời nguyện này nên tác ý vào giữa thời công phu, sau đó thì tiếp tục công
phu với tâm thức hoàn toàn quên hẳn lời nguyện và chỉ chú tâm vào công phu mà thôi.
Thời điểm để công phu và phát ra lời nguyện là thời gian chập choạng vừa
mới ngủ của ngƣời thân mà mình muốn hồi hƣớng.
Đây là một cách gởi thƣ bằng tâm linh, mà lời nguyện nhƣ là một lá thƣ,
và ngƣời nhận là ngƣời thân của mình. Sau khi bỏ thƣ vào thùng thƣ thì mình sẽ
tiếp tục công phu và quên hẳn cái thƣ đó đi (tiếp tục công phu và quên hẳn lời
nguyện mình phát ra). Cứ nhƣ vậy mà làm nhiều lần trong lúc công phu thì sẽ tác
động đến hệ tƣ tƣởng của ngƣời nhận.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 117
b) Niệm Phật
Khi nhìn chăm chăm vào một điểm ở ngay đằng trƣớc mặt và đồng thời
phóng mạnh cái niệm vào cái điểm màu đỏ đó thì hành giả "rất dễ quên mình"
khi niệm Phật. Do tình trạng "quên mình này" nên hành giả rất dễ rơi vào tình
trạng "Nhất Tâm Bất Loạn". Mà đã "Nhất Tâm Bất Loạn" thì cảm giác đầu tiên là
tình trạng An Lạc liền xảy ra. Càng An Lạc thì chấm đỏ lại càng hiện ra càng rõ
ràng hơn nữa! Cho đến khi cái chấm đỏ lại phát ra hào quang thì phải hiểu rằng
hành giả đã gần nhƣ đi đƣợc nữa đoạn đƣờng rồi!
Đến giai đoạn này thì sự An Lạc "gần nhƣ" hiện tiền. Đem cái An Lạc này mà hồi
hƣớng cho ai đó thì... Nếu "Không phải là Từ thì nó cũng là Bi" và ngƣợc lại.
Khi hồi hƣớng cho ai đó thì nên hồi hƣớng 100%, đừng có giữ lại cái gì
cho mình hết. Làm nhƣ vậy thì cái tâm của mình nó... đồng dạng với cái tâm của
Ngài A Di Đà Phật.
1. Niệm Phật:
Niệm xù xì trong miệng trong khi nhắm mắt 100%. Khoảng 1 giờ sau thì
độ tập trung của tu sĩ tài tử này mới có thể thấy đƣợc ngƣời đã chết. Hồi hƣớng công
đức tu hành và chúc ngƣời đó tƣơi đẹp, khỏe mạnh ra và hạnh phúc. Sau rồi
nếu ngƣời đó còn đứng xớ rớ trong tầm nhìn của tu sĩ tài tử này thì tu sĩ hộ
niệm cho ngƣời này về trên đó chơi luôn cho rảnh việc.
2. Nhập Tứ Thiền Hữu Sắc rồi quán ra ngƣời đó và hồi hƣớng công đức tu
hành cho ngƣời đó.
c) Biệt Nghiệp
Một cách đặc biệt dành cho biệt nghiệp nhƣ bị đau nhức khi tu tập, thần
kinh hay giựt khi tu tập, bắp thịt co giật khi tu tập (xem lại phần Hồi Hƣớng -
Kim Cang Thừa).
d) Trả Nghiệp
Trả nghiệp bằng cách hồi hƣớng (Nhập chánh định nơi vùng bị thân bệnh của tu
sĩ thì sẽ thấy nguyên câu chuyện về nhân quả của ác nghiệp. Tìm lại ngƣời mà mình
đã hại họ, rồi độ tử và nguyện xin cho hết bệnh thì liền đƣợc hết bệnh).
e) Gia Trì Tiến Tu
Cô Bé đã tận mắt chứng kiến hai đứa nhỏ cùng trả lời nhƣ nhau khi đƣợc hỏi
cùng một vấn đề. Tụi nhỏ (đứa thì mƣời tuổi, đứa thì mƣời một tuổi) bàn về nghiệp quả
rất là... chuyên nghiệp:
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 118
- Mẹ! Đó là ác nghiệp đó! Mẹ càng quậy thì nó càng trở nên rắc rối hơn! Mẹ
nhịn một tí đi mà!
Phải nói là nhờ vào cái Minh Triết của tụi nhỏ mà Cô Bé càng hay hơn nữa. Cô
Bé bị kềm kẹp tứ phía:
- Mẹ! Tới giờ tập rồi! Mẹ xuống dƣới nhà tập đi rồi tụi con mới đi ngủ đƣợc!
- Mẹ! Để khi đƣợc nghỉ thì con hồi hƣớng cho Mẹ! Để Mẹ tu tập dễ dàng hơn!
- Chà Mẹ lại giữ cục đỏ lâu quá hớ! Mẹ tập tới đâu thì con biết tới đó, rất là rõ,
nhƣ hồi nãy Mẹ giữ cục màu đỏ lâu ghê hớ!
Cô Bé cứ nhấc điện thoại lên gọi đệ để kiểm chứng liên tục:
- Có đúng không vậy Chú! Tụi nó có Tha Tâm Thông rồi hả Chú?
- Có đúng không vậy Chú! Tụi nó có thể biết con tập tới đâu hả Chú!
- Có đúng không vậy Chú! v.v… và v.v… Có Đúng không vậy Chú!
f) Hồi Hướng Trước Khi Ăn
Hỏi: Chú cho cháu hỏi chút, là Phật Tử tại gia, không có điều kiện ăn
chay luôn, ăn thịt lung tung chẳng lẽ cứ nhờ độ hoài hay sao thƣa chú?
HL: Nghe là tái da gà liền. Mình nên dƣợt rồi đọc đoạn hồi hƣớng sau đây:
Nguyện xin hồi hƣớng công đức trì tụng chân ngôn chú pháp
(có thể thay thế bằng phƣơng pháp tu hành của mình) đến: Chúng sanh mà
đệ tử dùng thân mạng của họ để nuôi sống đệ tử. Những chúng sanh
mà đệ tử cố ý giết hại hoặc vô tình giết hại kiếp này, kiếp trƣớc, vô
lƣợng kiếp trƣớc.
Nguyện xin tất cả đồng tăng trƣởng phƣớc đức, tội
chƣớng nghiệp chƣớng kiếp này, kiếp trƣớc, vô lƣợng kiếp trƣớc đều
đƣợc tiêu trừ và đƣợc vãng sanh Tịch Tịnh Thế Giới.
Thì sau đó pháp nó tự nhiên lƣu xuất và đồ ăn cũng đƣợc thanh tịnh đƣợc
phần nào. Tuy nhiên đừng có nặng nề quá mà sanh ra khó khăn trong cuộc sống
vốn đã quá tệ rồi!
Hồi xƣa là tibu không biết nói làm sao, thành thử tự nói nhƣ vầy:
Tôi sẽ tu hành cho thật là giỏi và tôi sẽ độ cho mấy ông. Chớ tôi mà không
dùng những thức ăn này thì lại không đƣợc! Và ăn theo kiểu: ăn để mà sống.
Sau này có bài bản đàng hoàng nên cũng đỡ khổ hơn. Lại nữa là vì phƣớc
báu của họ rất là yếu nên khi mình hồi hƣớng thì 80% là đƣợc với một tâm lực cỡ
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 119
"Cận Định". Còn đề mục mà ra trong vòng 12 giây thì thông thƣờng là mình đƣa
đƣợc cỡ 90 % !
Do đó mà đi đâu cũng... làm một cái gì đó thuộc công phu thì cũng đỡ vả lắm đó.
Công phu có lý là niệm Phật.
4. Làm sao để Hồi Hƣớng?
Muốn làm đƣợc nhƣ vậy thì phải có hai điều kiện:
a) Tâm định:
Trình độ lý tƣởng là... Tứ Thiền Hữu Sắc (TTHS).
- Bƣớc một: hành giả dùng đề mục nhập vào TTHS. Khi nhập chánh định
vào tới đó: hành giả thay đổi đề mục, quán một cái khung nhƣ một màn ảnh TV.
Màn ảnh này có kích thƣớc 9 cm × 12 cm và trong trƣờng hợp này thì màn ảnh sẽ
thẳng đứng và có bề đáy là 9 cm. Về màu sắc thì tùy vào trình độ nhập định
nông hay sâu mà màu sắc sẽ xuất hiện theo trình tự biểu kiến nhƣ sau: Màu đen
xám, màu xám, lấm tấm những hạt cát màu vàng, rồi màu vàng và sau cùng là màu
trắng nhƣ trứng hột gà bóc. Màu trắng này đặc biệt là hành giả có thể thấy cả chiều
sâu của nó.
- Bƣớc hai: Vừa duy trì cái màn TV này, hành giả vừa đọc bài hồi hƣớng. Đọc
đến cảnh giới nào thì màn ảnh hiện ra những chúng sanh hữu duyên ở cảnh giới đó. Hành giả
sẽ có thể thấy ngay sự thay đổi về y báo và chánh báo của họ. Với phƣơng tiện thiện
xảo này hành giả sẽ làm lợi cho rất nhiều bạn bè của mình …
Còn trình độ khả dĩ có thể chấp nhận đƣợc là… sự “Thật lòng”. Trong
điều kiện eo hẹp về “Định và Lực” này, hành giả sẽ mất khá nhiều thời giờ để hồi
hƣớng. Dĩ nhiên, đây là những bƣớc chập chững của 1 Bồ Tát tƣơng lai. Sau khi
đọc bài hồi hƣớng thì có lúc hành giả sẽ có một giấc mơ thấy những ngƣời ăn xin,
bận đồ rách rƣới, đứng trƣớc cửa ngõ nhà mình. Một thời gian sau thì hành giả sẽ
nằm mơ thấy họ ăn bận đàng hoàng hơn…
Khẩu quyết: Vấn đề là đừng có bám víu vào cảnh giới này. Bằng cách tự
nhiên thấy thƣơng họ và rồi cứ lo hồi hƣớng, cúng kiến họ hoài mà quên rằng: công
việc chính của mình là tu giải thoát. Thì vô tình mình lại bị họ cầm chân mình, trong
khi đó thì mùi vị giải thoát lại chƣa nếm qua. Sống nhƣ vậy là rất hay! Nhƣng đối với
đạo “Giải Thoát” thì đây là một trong những cảnh “Chết Chùm Cả Đám”.
b) Tâm lực:
Thông thƣờng đƣợc hiểu là “Ý chí”. Nhƣng trong vấn đề tế nhị này: Tâm lực
thể hiện qua mức độ quán tƣởng của hành giả. Tâm càng có lực thì linh ảnh trong
màn TV càng rõ, càng nhiều chi tiết và rất sống động.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 120
Thực tế tâm lực lại có những quái chiêu của nó. Một vị thầy, trƣớc khi cúng
thí thực, bị lạc mất chùm chìa khóa. Trong khi làm nghi thức trên, thầy bị chia trí và
suy nghĩ về chùm chìa khóa… Sau đó, thầy lại tu tập bình thƣờng. Bỗng một hôm,
trong cơn nhập định hộ pháp xuất hiện và thông báo rằng:
- Ông ơi! Vừa rồi ông cho ngƣời ta… ăn sắt không hà!
Toát mồ hôi lạnh, thầy ráng quán tƣởng lại và thấy cảnh: Bạn bè mình đƣợc
mời đến vào mùa vu lan cách đây vài… năm! Và chính trong lần đó, họ đƣợc mời ăn
chìa khóa!
Trƣớc hết là phải có những điều kiện nhƣ sau:
(1) Tâm lực mạnh (Tứ Thiền Hữu Sắc):
(a) Địa chỉ:
1. Cái mặt của ngƣời này phải đƣợc hành giả quán cho ra.
2. Và khi ra rồi thì phải giữ cho nó tự động nổi lên.
3. Sau khi nó đã tự động nổi thì hành giả phải giữ cho nó mạnh lên (rõ ràng
càng nhiều chi tiết chừng nào thì tốt chừng đó).
(b) Gởi tin tức:
1. Quán mặt ngƣời nhận cho nó rõ và nổi. (lúc đó là khoảng 70% tâm lực)
2. Gởi tin qua sự tác ý
3. Thay đổi đề mục bằng cách: Tập tiếp phần công phu hằng ngày của
mình ( phần này không dính dáng gì đến ngƣời nhận: Ví dụ nhƣ là ngọn lửa, hay là
niệm A Di Đà Phật khi làm mà đừ quá)
(2) Tâm lực yếu:
(a) Địa chỉ:
Mƣờng tƣợng cái mặt của ngƣời này rõ chừng nào hay chừng đó.
(b) Gởi tin tức:
Lựa lúc ngƣời này vào giấc ngủ: Nếu mà cánh cho đúng thì là đang thiu thiu
ngủ. Còn không đƣợc thì cứ làm búa xua.
Những bức thƣ tình hay nhất thế giới (Sau đây là vài hàng mẫu để mà gửi tin):
1. Con tên là... xin hồi hƣớng (phƣơng pháp tu hành của
mình) đến...
Nguyện xin cho... rút đƣợc kinh nghiệm đau thƣơng này để mà
thay đổi tính tình và tinh tấn tu hành nhƣ con vậy đó.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 121
2. Nếu mà không đƣợc thì cũng xin nhờ các Hộ Pháp che chở cho
(vị này) đƣợc yên ổn, tai qua nạn khỏi và dùng phƣơng tiện bí mật của
Chƣ Phật và Chƣ Bồ Tát mà khuyến tu.
Biểu hiện nhận đƣợc e mail là họ thích hay hỏi chuyện tu hành của mình vậy thôi.
5. Hồi hƣớng công đức là... Một pháp môn tu hành.
Thƣờng thì tụi mình chỉ nghĩ về một vế của sự hồi hƣớng mà thôi. Trong ví dụ
của Thầy CQ có bàn về một ngƣời bệnh, rồi ngƣời nhà đi làm phƣớc và sau đó hồi
hƣớng công đức cho ngƣời đó.
Chuyện đơn giản là: Sở dĩ có kết quả là vì ngƣời nhà đó hồi trƣớc lại mắc
nợ ngƣời bị bệnh... Nay họ trả lại vậy thôi.
Còn chuyện bình thông hơi thì là chuyện có thật. Ví dụ nhƣ: Hai lúa đệ tu, rồi
đem kinh nghiệm bản thân ra chỉ cho một Bạn Hữu Duyên, Và Bạn Đó Lại Làm Theo
rồi có ép phê lập tức, thì không phải là một dạng của bình thông nhau là gì?
Phân tích cho cùng thì:
Kinh nghiệm bản thân của đệ khi nói lại cho ai đó, là: Một Sự Hồi Hƣớng
Công Phu cho Bạn hữu duyên đó.
Và tất nhiên Sự Làm Theo của Bạn đó là một sự chấp nhận sự hồi hƣớng công
đức của đệ.
Nhƣ vậy trên một phƣơng diện nào đó cũng có thể nói là tôi tu giùm anh
đƣợc quá đi chớ! Vì thực tế, có những lúc chính đệ lại gặp những Bạn hỏi về
những hiện tƣợng mà Bạn đó gặp phải khi bạn đó tu tập theo một pháp môn mà đệ
chƣa bao giờ biết tới!
Thông thƣờng khi gặp trƣờng hợp nhƣ vậy thì đệ thƣờng đề nghị: Án binh
bất động! Đợi đệ về dƣợt thử cái đã rồi sẽ phân tích và nói lại sau. Tất nhiên có
khi họ không nghe (nhƣ Anh H. ở Đà Lạt với hậu quả là bị mù mắt do khí lực chạy
bậy). Và cũng lại có ngƣời lại nghe theo... Nếu cùng trình độ với nhau thì còn lẹ
hơn nữa: Chỉ cần một cái nhƣớng mắt là đủ rồi! Chuyện xảy ra hằng ngày ở chùa
của đệ. Vả lại việc hồi hƣớng công đức còn thấy rất rõ ở pháp môn Mật Tông khi
một ngƣời A Xà Lê truyền khế ấn cho một ngƣời hữu duyên. Có thể nói là truyền
xong, về nhà tập là ép phê liền.
Hỏi: Công phu tu hành của ngƣời này “bán cái” cho ngƣời khác đƣợc chăng?
Cái này thì phải dùng cái trí tuệ xẹt qua, xẹt lại đây hí hí. Tùy vào nhân duyên
sâu dày hay không: Chuyện này vẫn có thể Bán Cái cho nhau đƣợc nhƣ thƣờng! Có
nghĩa là trong một nhóm đã từng sống chết với nhau từ kiếp này sang kiếp nọ, tuy
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 122
rằng lần này, họ không hề biết nhau, nhƣng một sợi dây vô hình vẫn liên kết họ với
nhau một cách chặt chẽ:
Đệ có kinh nghiệm về chuyện này: Từ một cây cỏ gai gồm 16 nhánh, nay...
đã thành 16 ngƣời. Cứ mỗi lần, họ đồng thành ngƣời thì sợi dây liên kết với nhau
rất là rõ nét: Hễ một ngƣời trong nhóm làm business thì cả nhóm cùng sống kẻ
nghèo, ngƣời giàu lu bu với công việc làm ăn chả ai để ý đến vấn đề Đạo Hạnh
cả. Hễ có ngƣời đi tu (... Không ra gì thì cả nhóm cũng sống dở dở ƣơn ƣơn, nửa
đời nửa đạo, lu bu tu sĩ... Nhƣng hễ có ngƣời tu thành công, thì điều trƣớc tiên là
họ sẽ lôi cái nhóm của họ. Và khi gặp nhau, thì ngƣời tu thành công đó đều nhận
thấy rằng cả nhóm đều là "dân có máu mặt" trong các vị trí của các tôn giáo, tôn
phái khác nhau, hoặc tuy là dân làm ăn nhƣng khái niệm về tu hành rất mạnh: Chỉ
cần một câu khai mào thôi là họ cắm đầu cắm cổ, bỏ hết để tu liền, và phong cách
tu hành là y nhƣ bài Thầy Ajahn Chah vậy).
Kết Luận:
Có thể nói là: Cùng một khối với nhau thì công phu của ngƣời này, do
nhân duyên sâu dày, có thể Bán Cái một phần nào đó cho nhau. Còn ngoài khối thì
không có ép phê cho dù đó là con cái hay anh em ruột.
"Cũng vì lý do đó mà Đức Phật của tụi mình mới nhấn mạnh đến chuyện
Cúng Dƣờng các Thầy, để hy vọng rằng: Một Thầy tu thành công thì sẽ lôi theo một
nhóm. Và cứ nhƣ vậy mà oánh. "
II. SÁM HỐI
1. Tại sao Sám Hối
Chúng ta vẫn còn ở trong vòng u minh của luân hồi sinh tử nên không
sao tránh khỏi những điều sai lầm tội lỗi, và nghiệp sát mà chúng ta đã tạo ra
không chỉ trong đời này mà từ vô lƣợng kiếp trƣớc do thân khẩu ý sanh ra. Sám
hối để hối cải, để chừa và từ bỏ, để không dám tái phạm, khiến tội lỗi giảm dần
cho đến hoàn toàn trong sạch.
Bồ Tát Di Lặc hiện sám hối 6 thời một ngày tại cung trời Đâu Suất. Chúng ta
là phàm ngu nên bắt chƣớc Ngài, và nên sám hối nhiều hơn.
2. Phƣớc bất tòng lai, Họa vô đơn chí
Trên đƣờng tu hành, chúng ta thấy chƣớng nhiều thuận ít, hoặc sau khi tu
tập một thời gian có chút ít vốn liếng, và cũng bởi những nghiệp duyên đời trƣớc
giờ chủ nợ đến đòi. Hoặc chúng ta đã vƣợt pháp, đi ra khỏi căn cơ biệt nghiệp,
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 123
cho nên ác nghiệp và tai họa ập đến. Hoặc trong khi phát nguyện tu hành gặp
toàn những trở ngại, hoặc thân thể bệnh hoạn ngăn trở sự tu, hoặc túc nghiệp ác
duyên khiến mờ mịt ngu tối... Nên khi gặp những hoàn cảnh trên, chúng ta nên
nhanh chóng và thành tâm sám hối.
Với tấm lòng thiết tha chân thành, chúng ta sám hối và hứa nguyện cầu Chƣ
Phật và Bồ Tát chứng minh, gia hộ. Và cũng do lòng thành khẩn thiết tha này, nên
sám hối tội lỗi chóng sạch.
Con đã tạo bao điều ác nghiệp, Đều bởi do tánh tham sân si, Từ thân miệng ý
mà phát sanh, Tất cả, nay con xin sám hối.
3. Lợi Ích Sám Hối
Nhờ vào năng lực của việc sám hối và tu tập, chúng ta sẽ tu sửa con ngƣời
của mình bằng cách quán sát thân khẩu ý từng giây phút không ngừng nghỉ, và hành
thiện tránh ác thì kết quả chắc chắn sẽ đến, cho dù chƣa trở thành bậc Thánh nhƣng
cũng sẽ trở nên ngƣời hiền:
Những lợi lạc sẽ đến chắc chắn: Thiện Duyên Tăng Trƣởng, Nghiệp Chƣớng
Tiêu Trừ, Tham Sân Si Giảm, Thân Tâm An Lạc, Tu Tập Tinh Tấn.
4. Có nhiều cấp độ để sám hối, thông thƣờng thì có hai trình độ:
(1) Trình độ tự vệ nhập môn:
Đọc kinh Dƣợc Sƣ sám pháp là ngon lành: nó vừa ngắn, nó vừa hay.
- Cách tổng quát: Muốn đánh xà càng, là đọc câu: Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ
Tát Ma Ha Tát.
- Cách tổng quát thứ hai: Làm phƣớc theo kiểu trả nghiệp.
- Cách đặc biệt dành cho biệt nghiệp nhƣ bị đau nhức khi tu tập, thần kinh hay giựt khi
tu tập, bắp thịt co giựt khi tu tập: Đọc bài "Hồi Hƣớng" mà đệ đã đăng.
(2) Sau khi tu một thời gian thì (Tam Thiền là tối thiểu):
Vừa đọc, vừa quán một vị Phật xuất hiện ngay trƣớc trán (cách trán khoảng
30cm, hay một cánh tay).
Cách dùng năng lực thiền và quán để sám hối:
1. Tự sám hối: Lên Tứ Thiền và dùng thiên nhãn để sám hối, có nghĩa là quán màn Ti
Vi rồi sám hối từng tội một nhƣ: ăn cắp, tà dâm, tà hạnh, khẩu nghiệp...
2. Dùng Mạn Đà La (vòng phép) mà sám hối từng tội một.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 124
3. Còn cách này thì lại không khá cho một số rất là đông: Đó là loại thuốc tê
mà quý vị thƣờng đọc tụng hằng ngày. Phải cẩn thận vì đó thuốc của những vị thƣợng
căn hay đã tu xong rồi.
Ghi Chú: Tất nhiên, cái hay nhất vẫn là... xin chừa và không tái phạm.
Niệm A Di Đà Phật thông thƣờng là để sám hối những tội ác vì tập thể
mà mình làm (nhƣ đi lính và bắn giết ngƣời bên kia chiến tuyến chẳng hạn).
Niệm Dƣợc Sƣ Lƣu Ly Quang Vƣơng Phật thông thƣờng là để sám hối những
tội ác vì cho mình mà mình làm.
Niệm Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát nhƣ đã giải thích ở trên. Cho những tội
ác cực nặng nề. Sám hối không xong, chỉ còn biết cầu sám hối mà thôi.
Thông thƣờng thì Sám hối dành cho Thiền và Mật, Tịnh Độ không sám hối
vì ngƣời chuyên trì niệm Phật thƣờng ở trên Cái Đƣờng Rầy hay Cái Dù Che của
Ngài rồi. Tuy vậy ngƣời niệm Phật vẫn có thể thƣờng tác ý nhƣ ở đoạn sau đây trích
từ bài Độc Thoại của anh Hai (anh Hai Lúa):
…Trong tất cả các cách tu hành nguyên tắc chính là suy nghĩ đến
chuyện “chƣa tu xong“ của mình. Và lấy làm hổ thẹn với chính mình. Qua lí luận
sau đây: đã hơn 2500 năm rồi mà vẫn mình vẫn chƣa làm nên trò trống gì cả.
Ngƣời thân trong gia đình của mình rồi đây sẽ lần lƣợt qua đời. Không lẽ mình
không làm hay giúp họ đƣợc cái gì hay sao? Và sau đó là đọc cái câu của ngài Xá
Lợi Phất: tôi còn rất nhiều chuyện phải làm. Rồi mình nên chú ý đến chuyện tu
hành là chính... Là chính chớ không phải là phụ.
5. Sám hối cho ngƣời không phải là Đạo Phật
Câu chuyện là có một ngƣời thuộc tôn giáo khác đã hỏi đệ về cách sám hối, vị
này không phải là Phật Giáo. Sau một hồi mày mò và kiểm tra lại cho thật là chắc ăn,
đệ mới phát kiến ra cung cách tuyệt vời này. Cách này đƣợc phát kiến ra qua cách
"Thực hiện Chánh định về câu kệ Sám Hối Thông Thƣờng: "Tội từ tâm làm, đem tâm
sám... ". Và sau đây là kết quả. Có hai cách để sám hối:
(1) Cách 1.
- Là cố gắng tƣởng tƣợng cái thánh giá màu vàng cao bằng móng tay cái của mình.
- Đọc bài sám hối, hay kinh ăn năn tội
- Vừa đọc vừa cố gắng giữ cây thánh giá màu vàng xuất hiện cách trán
của mình cỡ 10cm (hay là 3").
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 125
(2) Cách 2.
- Là tự mình kể lại một cách chi tiết câu chuyện mà mình vô tình hay cố
ý phạm tội.
- Vừa kể vừa cố gắng tƣởng tƣợng cho ra cây thánh giá trên và làm cho nó
xuất hiện ngay trƣớc trán của mình và cách cái trán 10cm (hay là 3").
Tại sao phải làm vậy. Vì đây là cách chung để liên lạc với các Giáo Chủ của tất
cả các Tôn Giáo trên Trái Đất (hay là kết hợp với ý của các Ngài) bằng cách quán cho
ra ký hiệu thông dụng của Tôn Giáo đó.
Ví dụ nhƣ:
- Công Giáo: thì quán cho ra cây thánh giá.
- Phật Giáo: thì chữ Vạn (cái chữ mà khi mình nhìn vào thì thấy đƣợc chữ "S"
thì mới đúng là chữ Vạn).
- Cao Đài, Hòa Hảo: thì quán cho ra con mắt trái.
Và từ bàn đạp này: hành giả sám hối. Y nhƣ là đối trƣớc các Giáo Chủ này
để mà sám hối vậy! Cách này ép phê vô cùng. Tùy vào tình trạng tập trung của
hành giả ( mà hành giả có thể kiểm tra qua sự xuất hiện liên tục hay sự rõ ràng của
các ký hiệu trên) mà hành giả biết đƣợc mức độ đƣợc tha tội. Làm đi, làm lại công
thức tuyệt vời này.
Kết quả:
Thì sẽ có lúc hành giả chợt nghĩ về các tội lỗi mà mình đã vô tình hay cố
ý phạm tội. Và ngay lúc đó hành giả lại có cảm giác là những tội lỗi này do ai làm đó
chớ không phải là do chính mình làm nữa. Có nghĩa là sự nặng trĩu của lƣơng tâm
biến đâu mất và không còn nữa! Mỗi khi, do bất chợt, mình suy nghĩ về những điều đã
lỡ hay cố ý mà mình đã làm trƣớc đây.
6. An Trú Đề Mục và Sám Hối
… Cố gắng tƣởng tƣợng cho ra cây thánh giá trên và làm cho nó xuất hiện
ngay trƣớc trán của mình và cách cái trán 10 cm (hay là 3") …
1- Nếu khoảng cách chỉ khoảng 10cm nhƣ nói trên thì cái đề mục chỉ mờ mờ.
Đôi lúc chỉ còn là sự tƣởng tƣợng. Sức chuyên chú lại khá do cảm giác nằng nặng ở
trán và sự cố gắng làm cho rõ đề mục.
Phân tích: Đây là sự giao lƣu giữa "Cận Định" và "Chánh định" có nghĩa là
với phƣơng cách tập trung tƣ tƣởng này (đề mục cách trán 10cm hay là 3") thì chấn
động của não bộ nằm y boong ngay cái mà thiên hạ gọi là "lƣơng tâm". Có nghĩa
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 126
là mình rà lại các dao động tƣ tƣởng và đặt nó ngay boong cái tần số của lƣơng
tâm, rồi từ vị trí này mình mới đọc bài sám hối. Đây là một kỹ thuật tuyệt vời! Ít ai
biết và lại đi nói một cách công khai nhƣ vậy. Do tƣ tƣởng nó nằm ở khoảng cuối
của cái Thô tâm ( thể hiện qua hiện tƣợng Cận Định: có cái cảm giác nằng nặng ở
trƣớc trán). Và ở ngay đầu của Vi Tế Tâm ( thể hiện qua hiện tƣợng Chánh định
sơ sơ: linh ảnh xuất hiện mờ mờ). Qua các cảm giác nằng nặng ở trƣớc trán và sự
xuất hiện mờ mờ của linh ảnh mà hành giả đã biết đƣợc rằng não bộ đang hoạt
động ngay tần số của cái "lƣơng tâm". Tất nhiên từ vị trí này mà sám hối thì
không còn gì bằng.
7. Trò Chơi Sám Hối
Rất là quái đản và tất nhiên chiêu thức này là made in Việt Nam:
- Điều kiện: Hành giả đã có thể vừa giữ linh ảnh cách 10cm ở trƣớc trán 10cm,
hay là 3" và vừa đọc bài sám hối. Nhận xét: Tuy nhiên linh ảnh cũng có khi xuất hiện
và cũng có khi lại biến đâu mất.
- Trò chơi sám hối: Khi hội đủ hai điều kiện trên thì hành giả lại... lấy một cây
bút chì và một cuốn kinh sám hối (có ngon thì dùng Thủy Sám, không có ngon thì
dùng Dƣợc Sƣ...).
- Cách thức chơi:
Cứ thong thả đọc bài kinh sám hối với linh ảnh mờ mờ đằng trƣớc trán. Mỗi
khi linh ảnh biến mất thì hành giả lại đánh dấu vị trí này trên cuốn kinh. Sau khi đọc
xong một chƣơng và đã đánh dấu các vị trí mà linh ảnh bỗng nhiên biến mất nhƣ
vậy trên chƣơng đó. Xong rồi, với tâm bình thản: hành giả đọc lại một cách bình
thƣờng (nhƣ đọc truyện vậy) đoạn kinh đó (hay chƣơng đó). Đọc bình thƣờng là
buông cây bút chì xuống và không còn tác ý về sự xuất hiện của linh ảnh nữa. Vừa
đọc bình thƣờng nhƣ trên và vừa để ý cái linh tính của mình nó phản ứng khi đọc tới chỗ
linh ảnh biến mất và ghi nhận cái cái phản ứng đó.
Nó có hai phản ứng rõ rệt:
1. Tội này là của mày nè, sám hối đi con!
2. Không có gì là của mày cả! Linh ảnh chỉ biến mất một cách bình thƣờng vì
sự chú ý của mày lúc này nó không còn mạnh nữa
Nhận Xét:
1. Nếu là đằng trƣớc mặt và trong tầm nhìn, khoảng từ 30cm đến 0.5 thƣớc thì
cái thấy rõ hơn. Và còn có thể thấy đƣợc cái không gian đen chung quanh cái đề mục.
Nhƣng độ chuyên chú lại kém vì cảm giác nằng nặng giảm đi.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 127
Đúng vậy, vì đây là Chánh định, lúc này Não bộ đã đi sâu vào Vi Tế Tâm rồi.
Do vậy mà những tội trọng cũng đã vơi đi phần nào rồi! Vì đây là cái suy nghĩ của các
Chƣ Thiên nên phần tội lỗi thuộc loại thô đã mặc nhiên bớt đi phần nào rồi. Có nghĩa
là nếu đề mục xuất hiện đằng trƣớc mặt ở khoảng một sải tay (60 cm) thì lúc này hành
giả cũng đã sám hối... xong một số các trọng tội rồi.
2. Nếu lùi cái thấy vào bên trong trán thì lại có thể thấy rõ đề mục và cái
không gian đen chung quanh. Sự chuyên chú có vẻ khá nhƣ trong trƣờng hợp 1. Cảm
giác nằng nặng ở trán cũng giảm.
Đây lại là cái tần số của lƣơng tâm.
3. Không quan tâm đến khoảng cách mà chỉ nhìn cái đề mục theo tầm nhìn thôi
thì sự chuyên chú, cái sắc nét của đề mục và cái không gian chung quanh lại lúc thế
này lúc thế kia. Vì cái này là phản ứng của những bƣớc đầu tiên, khi hành giả mới
vào đƣợc Chánh định, nên sự an chỉ chƣa đƣợc ổn định.
8. Sám Hối Tiến Tu
Hành Giả Trên Đƣờng Tu Tập: Có 2 trƣờng hợp xảy ra:
Hành giả tu tập đến một lúc nào đó tâm sẽ thanh tịnh, lắng qua thô tâm, đụng
tới 1 phần rất lấn cấn trƣớc khi vào vi tế tâm
Lấn cấn (tuột định hay tu tập cà xịch cà đụi) xảy ra lúc này là do nghiệp ác
nằm chờ ở đây để đòi nợ không cho hành giả thành tựu, và vì không thể nào biết
đƣợc là do hành nghiệp nào nên hành giả chỉ biết sám hối mà thôi.
Thực Hành:
Quy trình tu tập... Tác ý sám hối hay tụng bài sám hối rồi niệm 1 trong 3 cách sau:
Nam Mô A Di Đà Phật (nghiệp ác ở đây là nhẹ nhất. Biết là ác mà vẫn làm.
A Di Đà Phật vì tâm nguyện bảo hộ nên sẽ hóa độ hành giả)
Nam Mô Dƣợc Sƣ Lƣu Ly Quang Vƣơng Phật (ác nghiệp nặng
hơn) không việc ác nào mà từ nan)
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát (nghiệp ác ở đây là nặng nhất. Ví dụ nhƣ
Tần Thủy Hoàng nổi giận cho giết tất cả mọi ngƣời trong vòng chu vi 4 dặm khi đi chu
du và xe bị vấp phải 1 ổ gà). Thông thƣờng sự đòi nợ này nằm dƣới dạng Thiên Ma
quấy phá hành giả.
Cái nào đúng thì hành giả sẽ kinh nghiệm lại sự thanh tịnh sau chỉ khoảng 20 -
30 niệm.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 128
Do ép phê của sự bức phá đa số hành giả sẽ không chịu nổi và khò ngay. Cũng
có ngƣời có thể tu tập tiếp.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát
9. Sám Hối Theo Mật Tông
Về tội, phƣớc thì... trong Mật Tông lại rõ ràng hơn: Ví dụ nhƣ khi mình sám
hối theo kiểu: Đối trƣớc Chƣ Phật, Chƣ Bồ Tát mà sám hối (câu này ở trong kinh Nhật
Tụng). Để đƣợc cái hiện tƣợng gọi là “Đối Trƣớc” này thì hành giả phải tập xong một
Mạn Đà La ( ví dụ nhƣ Mạn Đà La Quan Thế Âm chẳng hạn).
Động tác đầu tiên là: Hành giả quán mình ngồi hay đứng trƣớc Ngài Quan
Thế Âm. Có nghĩa là tƣởng tƣợng ra cái màn ti vi trong đó có cái cảnh mình đứng
hay ngồi trƣớc linh ảnh của Ngài. Giữ cái cảnh này một thời gian. Khi đủ lực, thì cái
khung của màn tivi lại biến mất và chính mình lại đứng hay ngồi trƣớc Ngài nhƣ là...
thật vậy. Đây là giai đoạn “Đối Trƣớc”.
Kế đến là giai đoạn sám hối. Ví dụ nhƣ mình lại tác ý:
- Cho con sám hối về khẩu nghiệp (chẳng hạn).
Thì Ngài liền biến mất và thay vào khoảng không gian đó là những cái
hình nhỏ nhƣ móng tay cái, diễn tả những cái cảnh mà chính mình nói dối hại
ngƣời, nói đâm thọc, cho đến cái cảnh mình tính toán nói xạo hại ngƣời từ những kiếp
xa xôi cho tới nay, hình ảnh này nhiều không thể đếm hết đƣợc... Và ngay chính
giữa những cái hình nhỏ này là cái hình to tổ chảng diễn tả cái cảnh mà mình
phải chịu những cái nghiệp này. Trong trƣờng hợp của đệ thì bạn bè xa lánh, và
sống cô độc. Đối trƣớc cái cảnh tội lỗi nhƣ vậy với cái niềm cảm xúc ghê tởm
những hành động trên thì tự nhiên mình hứa “xin chừa” và “không tái phạm”. Khi hứa nhƣ
vậy xong rồi thì có cái giọng của Ngài Quan Thế Âm vang lên trong không gian rằng:
- Ông muốn tôi xóa hay là để đó làm kỷ niệm?
Đệ tác ý:
- Để đó làm kỷ niệm.
Thì lạ lùng thay, khi nhìn lại những hình ảnh đó thì mình có cảm giác đó là của
ai đó làm chớ không còn cái cảm giác mặc cảm tội lỗi nhƣ của chính mình làm nữa.
Sau đó thì chính cuộc sống của đệ thì: Cảnh cô độc thì vẫn bị nhƣng không còn cái
cảm giác nặng nề nhƣ đeo chì nữa.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 129
III. PHƢƠNG PHÁP ĐỘ TỬ - HỘ NIỆM
1. NIỆM PHẬT A DI ĐÀ
a) Cách thứ nhất:
Là niệm Phật xù xì trong miệng:
AAAaaa... Diiiii... Đaàa... Phaậttt…
Niệm kéo dài 1 giờ đồng hồ, thì sau 1 giờ thì có thể thấy ngƣời chết đang đi ở
dƣới tầm nhìn của mình (y nhƣ là mình bay trên họ và ở đằng sau họ, với góc độ nhìn
là 30 độ tới 60 độ. Mình càng niệm thì họ càng có thể đi đƣợc xa, mình nên niệm
cho tới khi họ vƣợt qua 1 cái biển (biển khổ), và sau khi qua bờ bên kia thì mình
mới không niệm nữa.
b) Cách thứ hai:
Nhìn vào trung tâm Ajna của họ (trung tâm này ở ngay trán, vào khoảng 1 thốn
cao hơn cặp chân mày. Thốn là cách đo trong các sách châm cứu)
Sau đó là niệm Phật, thì sẽ có cảm giác là vui khi họ đi về đƣợc, hay là
nếu hành giả (có thể thấy) thì sẽ thấy Phật A Di Đà đem hoa sen đến để đƣa họ về
Tịnh Độ.
2. ĐỘ TỬ - HỘ NIỆM
a) Vào lúc chết, có hai việc đáng kể
1- Những gì ta đã làm trong đời. 2- Tâm trạng ta lúc sắp chết.
Dù ta có tích lũy rất nhiều ác nghiệp, song nếu ta có thể thật sự thay đổi lòng
dạ vào lúc sắp chết, thì điều ấy chắc chắn có thể ảnh hƣởng đến tƣơng lai ta và
chuyển hóa nghiệp của ta, bởi vì giờ phút chết là một cơ hội vô vàn mãnh liệt để tịnh
hóa nghiệp chƣớng.
Vì đã từng chết đi sống lại đến bốn ( 4) lần nên chuyện bị coi lại cuốn
phim cuộc đời của mình là chuyện... có thật 100%. Các Bạn thử để ý một chi tiết
nhỏ này. Khi mình coi một cuốn phim đến lúc họ mùi mẫn nhau, hay bắn giết nhau,
hay là chia tay nhau thì các Bạn có thấy mình bị cuốn hút vào các hiện tƣợng và sự
dao động tình cảm ấy làm cho mình thấy khó chịu, buồn rầu, và ghê tởm không? ..
Đó là chuyện của thiên hạ mà mình còn nhƣ vậy huống chi là chuyện ...
của chính mình đóng phim? Bao nhiêu là chuyện tức tối? Bao nhiêu là chuyện
giận nhau, bao nhiêu là chuyện hiểu lầm nhau, đánh nhau, chia tay, xa lìa,
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 130
chuyện chƣa làm xong mà họ đã chết rồi? .. Vấn đề đặt ra là liệu trong lần
duy nhất lên sân khấu (đệ có cái may mắn là đƣợc lên đó tới bốn lần) thì mình
có đủ bình tĩnh để nhận dạng rằng đó là chuyện mộng huyễn không? Hay là
cũng sẽ bị lôi cuốn bởi tình cảnh... rất thật đã xảy ra do chính mình đã làm
với những kết quả rành rành ra đó?
“GIÂY PHÚT CHẾT - Hãy nhớ mọi tập quán, khuynh hƣớng đã chất
chứa trong nền tảng tâm thông thƣờng của ta đang nằm sẵn để có thể bị khởi động bởi
bất cứ một ảnh hƣởng nào. Ngay hiện tại ta cũng biết chỉ cần một khiêu khích nhỏ
cũng đủ để làm cho những phản ứng quen thuộc, bản năng nơi ta, nổi lên. Điều này
càng đúng hơn vào lúc chết. ”
b) Tụng Kinh
Tụng kinh ồn ào rôm rả thì cũng có thể độ đƣợc ngƣời... sắp chết nhƣ mình.
Tụng kinh hay chú theo kiểu vi thinh (đọc xù xì nho nhỏ trong miệng) thì có thể
gây ảnh hƣởng đến những cõi giới thấp sống xen kẽ với mình, những cõi mà ông bà
mình thƣờng gọi là: Cô Hồn Các Đảng.
Tụng bằng tâm rồi nhắm mắt đồng thời chú tâm vào một điểm ngay đằng trƣớc
mặt của mình thì khoảng... một giờ đồng hồ sau thì có thể thấy cái cảnh mà ngƣời đang
chết đang đi qua. Tác ý rằng họ cứ theo tiếng niệm này mà đi... Cảnh giới xuất hiện ra
nhiều thêm và sẽ tới lúc hành giả sẽ thấy ngƣời chết vào vùng ánh sáng, lúc này mình sẽ
biết rằng sức tiếp dẫn của mình chỉ có bấy nhiêu.
Nhƣng dùng quán tƣởng ở Tứ Thiền Hữu Sắc thì trong vài trƣờng hợp hữu duyên
với mình thì mình có thể độ đƣợc ngƣời chết một cách ngon lành.
c) Hộ niệm - Trước Xác Chết
Nếu cái xác đang còn nằm trƣớc mặt mình thì khi dùng cái niệm A Di Đà
bằng cách đọc xù xì xù xì (nho nhỏ trong miệng). Vừa đọc vừa nhìn vào cái trung
tâm năng lực Ajna (ngay cái chỗ giữa trán đó). Hay là ngồi tại chỗ có cái xác của
họ, rồi nhắm mắt niệm A Di Đà Phật và phóng cái niệm đó ra đằng trƣớc mặt
của mình. Hay là dùng câu chân ngôn:
Ôm AMiTaBha Hrih Svaha.
Đọc một hồi thì nếu có duyên thì sẽ thấy thần thức của họ lang thang ở đâu
đó. Tiếp tục đọc cho đến khi họ vào vùng ánh sáng là ngon lành.
Hỏi: Ngƣời chết đạo công giáo mà mình niệm Phật thì có khiến thần thức
họ thêm bực mình rồi nổi sân si không?
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 131
Họ không biết gì hết là vì cái công thức tôn giáo hàng ngày của họ là chỉ là
những suy nghĩ rất là ấu trĩ. Và không có một tác động nào trong lúc họ đối diện với cái
chết của chính họ cả. Cho dù là một ngƣời vô thần nòng cốt chí đến một anh chàng sùng
đạo nào đó thì khi chết họ đều đƣợc coi lại cuốn phim của đời họ. Cuốn phim đó sẽ đứt
phim khi tâm của họ bị dao động bởi những tình tiết nào đó: Họ sẽ giận dữ hay thất
vọng ê chề hay xấu hổ... và nhƣ vậy họ sẽ không còn có thể coi cuốn phim đó nữa mà
chỉ còn cái hình ảnh cuối cùng đó nó ám ảnh mà thôi. Ngay lúc đó mà có một ngƣời nào
đó dùng cách thức:
- Phóng mạnh cái niệm đó ra đằng trƣớc mặt,
- Nhìn vào trung tâm năng lực Ajna.
- Phát tâm dũng mãnh cố giúp ngƣời này.
Thì ngƣời này sẽ cảm thấy chấn động và chính họ sẽ nghe một tiếng nói
trong không gian và họ sẽ không còn cách nào khác là theo tiếng nói đó để mà đi theo
mà thôi. Ngay lúc này, họ không có thì giờ để nhớ lại rằng mình là con chiên, hay
là mình đã quy y ai cả chỉ còn có cái tiếng nói trong không gian này mà thôi. Hiện
tƣợng này sẽ xảy ra bất kỳ một ai, cho dù đó là một đại đức, một thƣợng tọa, một linh
mục, một ông vô thần... Mặc dù rằng ở ngoài đời: dân chúng cho rằng mình đạo cao
đức trọng, cho dù rằng họ có phong chức cho mình là thầy trụ trì này nọ, cho dù rằng
họ trao tặng mình những bằng cấp này kia... Thì khi chết mình cũng phải đối diện
với cuốn phim bất hủ này. Và mình sẽ bị những tình tiết đó nó lôi cuốn và một khi đã
bị lôi cuốn thì ai cũng nhƣ ai. Sự thật nó... dã man nhƣ vậy đó.
TB: Tất nhiên là vì ngƣời tiếp dẫn chỉ ngồi một đống đó và nhắm mắt lại im
lặng trì niệm danh hiệu hay chân ngôn thì chỉ có ngƣời có tha tâm thông thì mới biết
mà thôi còn bàn dân thiên hạ thì mỉa mai:
- Hứ cái đồ hư đồ thúi, đang lúc tang gia người ta bối rối mà cứ ngồi đó mà
ngủ gục!
Hỏi: Tác Hại cũng nhƣ sự Lợi Hại nếu một ngƣời dùng cách của chú để
làm chuyện này?
Chẳng có tác hại gì cả. Là vì mình dùng câu niệm Phật để tiếp dẫn họ. Hay là
mình dùng câu chân ngôn để tiếp dẫn họ thì cũng chỉ là một. Nếu hội đủ nhân duyên
thì đƣợc, còn không thì... thôi. Thế nào là hội đủ nhân duyên? Xin thƣa rằng: Khi
nghe tin buồn đó thì mình thấy nặng nề, áy náy, khó chịu, và nhất là muốn giúp họ
một tay trong việc tiếp độ. Không có tác động trên thì không làm đƣợc vì nạn nhân với
mình không có nhân duyên.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 132
Sự áy náy và nặng nề trong tâm thức của mình càng mạnh thì nhân duyên càng
sâu dày. Còn bàn về tâm lực mạnh hay yếu thì không có chuyện đó trong vấn đề độ
tử. Tại sao? Xin thƣa, là vì đã ra tay tiếp độ thì ai cũng nhƣ ai, ngay lúc này chỉ còn là
đối tƣợng chớ không còn ngƣời tiếp dẫn nữa. Cũng y nhƣ là các y sĩ trong phòng cấp
cứu vậy, họ làm việc một cách cấp bách và... không hề thấy mình. Trong trƣờng
hợp đầy đủ nhân duyên: một giờ hay vài giờ chỉ là một cái vèo là hết. Làm xong thì
mệt nhoài, nên đi kiếm cái gì đó để ăn cho lấy lại sức.
Hỏi: Lại thắc mắc là khi tứ đại tan rã, các căn đã hoại thì thần thức ngƣời
chết cảm nhận những tác động của môi trƣờng qua sự dao động của tâm thức chứ
không bằng những âm thanh sắc tƣớng nhƣ ngƣời còn sống?
Thần thức là cái linh hồn đó. Có nghĩa là cái thân xác của họ y nhƣ lúc
còn sống, nhƣng nó lại ở dạng... khí. Mở ngoặc: ngƣời có thần nhãn thì chỉ thấy
một cái đám khói màu xanh da trời tròn vo nhƣ cái thúng vậy. Ngƣời có thiên nhãn
thì sẽ thấy hình ảnh của đƣơng sự rõ ràng hơn: Nếu là một ngƣời kém thì áo quần
của họ là y nhƣ họ sinh hoạt bình thƣờng vậy. Nếu là một ngƣời có thiện tâm thì
là áo choàng ( theo kiểu áo ngủ kín đáo của mấy cô đó...). Cho nên họ cũng vẫn có
thể nghe và thấy y nhƣ là mình... nằm mơ vậy đó.
d) Hộ Niệm - Vắng mặt
Có hai cách để làm:
1. Là đi xin cái hình của đƣơng sự về nhà của bà đầm rồi nhìn bằng mắt thịt
của mình cho nó... thuộc cái mặt của đƣơng sự. Kế đó là nhắm mắt lại và tự tạo một
cái linh ảnh của đƣơng sự thế nào cho cái mặt của đƣơng sự xuất hiện “nhƣ thật”
ngay đằng trƣớc mặt của mình. Sau khi có cái linh ảnh đó rồi thì dùng câu niệm Phật
hay chân ngôn của Ngài là:
Om Amitabha Hrih svaha và phóng mạnh cái niệm đó vào cái linh ảnh đó.
2. Nhập Tứ Thiền Hữu Sắc và khi tìm ra cái thần thức của họ đang lang
thang đâu đó thì mình hồi hƣớng công đức của mình cho họ, hay là dùng câu niệm
Phật mà tiếp dẫn họ.
Nhận xét: làm xong cái chuyện... Cách sơn đã Ngƣu (cách một hòn núi mà
giết đƣợc con trâu)... này thì nó mệt lả ngƣời y nhƣ là bị bỏ đói lâu ngày mà còn bắt
mình leo núi nữa đó. Hành giả có một sự nhạy cảm rất là đặc biệt thì khi hành pháp nào
đó thì nên “Hộ Thân” cho kỹ trƣớc cái đã nghe. Ý của đệ là nói về cái cảm giác “cận
định” (rờn rợn xƣơng sống) mà hành giả đã cảm nhận đó mà.
Hỏi: Ngƣời chết xem lại cuốn phim cuộc đời mình nhƣ thế nào?
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 133
- Cũng y nhƣ là mình coi xi-nê vậy, cũng cái màn ảnh rộng đại vĩ tuyến nhƣng
cuốn phim là những hành động thƣờng ngày của mình với đầy đủ tình tiết...
Sau này đệ dùng cách tu hành để giúp những ngƣời hữu duyên thì khi làm
xong thì đệ đều kiểm tra lại thì họ đều trải phải qua cái cuốn phim này cho dù là bị
banh thây, nát thịt. Tất nhiên rằng, khi... bị coi lại những chuyện trên thì tâm lý của
đƣơng sự rất là nhạy cảm, những chuyện buồn tủi thì nó lại nặng nề hơn 100%, cũng
y nhƣ những lúc mình làm bậy làm bạ nhƣ lừa dối, xúi bậy, nói xạo, nói gièm pha
thiên hạ thì đƣơng sự bị quê cơ đến 100% và xấu hổ vô cùng... Tóm lại bị lƣơng tâm
hành hạ 100% thì... hết đỡ. Nhƣ vậy đó là tiếng nói của lƣơng tâm.
Còn cách vận hành nhƣ thế nào thì khi nào Huynh vào Tứ Thiền và dùng
Vi Diệu Pháp để coi lại thì Huynh sẽ biết cái vận hành của chập tƣ tƣởng này ứng với
từng cá nhân một trong lúc cận tử nghiệp. Do vậy mà bất cứ tôn giáo nào cũng đều
khuyên là nên làm lành và tránh làm dữ là vì nguyên nhân này đó.
e) Độ Tử - Hấp Hối
Làm thế nào để giúp ngƣời thân đang hấp hối đƣợc bớt sợ sệt và an lạc khi
gần kề cái chết?
Bệnh nhân Đạo nào thì nên cho ngƣời Đạo đó... hƣớng dẫn. Riêng Đạo Phật
thì mình nên dùng tiếng trầm nhất để khuyên, tức là khi khuyên thì nên dùng
giọng Bass. Phƣơng cách:
Hỏi: - Em có cảm thấy sợ không? Đáp: - Có.
Khuyên: -Nhƣ vầy đây nè: Em sẽ thấy hơi ngợp thở một tí, rồi kế đó là hiện
tƣợng mất cảm giác bắt đầu từ chân lên dần cho tới ót. Cảm giác lạnh này sẽ không
cho em để ý đến hơi thở nữa.
Cƣời nhẹ: - Vậy hả anh?
Khuyên tiếp: - Sau đó em thấy một đám mây, đúng hơn là: em đang ở
trong một cái ống mà cái thành của nó là mây xám và đằng xa là một vùng
sáng rất là mạnh.
Cƣời nhẹ: - Em vẫn sợ.
Khuyên tiếp: - Tất nhiên là sợ, nhƣng em nên niệm Phật A Di Đà và đi vào
vùng sáng đó. Việc của em ở đây đã xong rồi, việc còn lại để anh lo hết cho. Em
đừng lo lắng gì cả.
Sau đó một tiếng đồng hồ, thì cơn ngợp thở đến, cô nắm bàn tay của
Anh Nhâm hơi mạnh. Theo lời dặn của đệ thì lần này, Anh Nhâm nói với giọng trầm
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 134
nhất và nhắc lại với cô em (nói vào lỗ tai của Cô): - Nó sáng lắm lận, cứ một lòng
niệm A Di Đà Phật và đi vào vùng sáng đó.
Đôi môi mấp máy nhƣ cố nói một điều gì và cô em tắt thở Anh Nhâm kể tiếp:
Sau đó, theo lời em dặn, anh niệm Phật nho nhỏ với giọng trầm nhất vừa niệm
vừa nhìn vào huyệt Ấn Đƣờng.
Toàn thân bỗng nhiên lạnh toát, bàn tay của Cô, anh cầm cũng lạnh luôn.
Và cũng theo lời căn dặn của em, anh vừa niệm Phật nho nhỏ với giọng trầm nhất,
Anh rờ cái trán của Cô và nhận thấy rằng chỗ này nó nóng nhƣ bị sốt cao độ vậy và
sau đó khoảng năm phút, anh mới xác định đƣợc là điểm nóng cuối cùng là ngay
cái thóp của Cô ấy.
Cả nhà À lên một tiếng vui vẻ:
- Tịnh Độ, Cô về Tây Phƣơng rồi.
Anh Nhâm có Cô em tu theo Thầy Thanh Từ và bị ung thƣ ngực, Anh
Nhâm xuống đó hộ niệm theo lời dặn của đệ. Anh đã hoàn thành nhiệm vụ một cách
xuất sắc. Anh hiện nay ở Đƣờng Đông Tỉnh Đà Lạt. Tuy là một cƣ sĩ nhƣng anh đã
leo đến Phi Tƣởng Phi Phi Tƣởng.
Hỏi: Bệnh nhân đang lúc yếu tinh thần nhất, sợ chết nhất, nếu gặp phải
những ngƣời lợi dụng thời cơ nhƣ kể trên đến rù quyến bỏ đạo thì thân nhân phải
đối phó ra sao?
HL: Nếu bệnh nhân còn tỉnh thì để bệnh nhân nói với họ. Còn khi bệnh
nhân đã nằm thiêm thiếp thì ngƣời nhà nên chỉ dùng cái Đạo của nạn nhân mà
khuyên mà thôi.
Bệnh nhân không có Đạo mà bọn mình phải khuyên thì mình nên nhắc nhở họ rằng:
- Anh/Chị nên bỏ hết đừng lo lắng gì hết, Cứ nhắm cái ánh sáng đó mà đi tới.
Vì rằng sau khi cái ánh sáng đó hết đi, thì sẽ rơi vào Cận Tử Nghiệp có nghĩa là:
1. Cuốn Phim cuộc đời của mình sẽ đƣợc chiếu lại
2. Mình có thể bỗng nhiên ganh ghét, thƣơng nhớ, Tức tối một vấn đề gì đó.
3. Bất tỉnh nhân sự
4. Lo sợ vì bỗng nhiên căn nhà vắng lặng với ánh sáng mờ mờ ảm đạm. Thế
là lại luân hồi...
f) Kiểm Tra Điểm Nóng Cuối Cùng
Khi mình đi trì tụng cho ngƣời chết thì có nghe ai nhắc đến cái chuyện gì đang xảy ra ở cái
thể xác kia không chớ? Có ai để tay lên ngƣời chết để kiểm tra cái điểm nóng cuối cùng không?
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 135
Biết rằng:
Nóng ngón chân cái là A Tỳ.
Nóng háng là súc vật.
Nóng bụng dƣới là quỷ đói.
Nóng trên lỗ rún là Thần.
Nóng ngực là Con Ngƣời.
Nóng mặt là Chƣ Tiên ở Dục Giới.
Nóng trán là Chƣ Thiên ở Sắc Giới.
Nóng đỉnh đầu là Tịnh Độ.
Tịnh Độ có một công dụng nữa là độ tử. Tập cái gì hay làm cái gì đi nữa
mà không làm đƣợc chuyện độ tử (giúp cho những ngƣời đã chết) thì cũng chỉ là
bánh vẽ, không có ích lợi gì cho mình và cho ngƣời.
Cái lớn lối thứ nhất của ngƣời tu Tịnh Độ là nhƣ sau: Khi đi hộ niệm, mà
ngƣời hộ niệm đến trƣớc (có mặt sớm nhất) thì gia đình may mắn đó có thể biết đƣợc
kết quả của sự hộ niệm.
Cái lớn lối thứ hai của ngƣời tu sĩ Tịnh Độ là khi đi hộ niệm mà lại đi đến
sau thì: tu sĩ phải biết ngƣời đi trƣớc đã độ cho ngƣời này tới đâu rồi. Nếu ngƣời tới
trƣớc đã độ xong rồi thì tu sĩ sẽ tuyên bố với chủ nhà rằng: Nghi thức độ tử không
cần thiết nữa. Còn nếu chƣa xong thì tu sĩ sẽ độ tiếp và gia đình sẽ đƣợc tƣờng thuật
lại đầy đủ chi tiết.
Ngoài ra, đôi khi, gia đình còn nhận đƣợc lời nhắn nhủ cuối cùng của ngƣời đã chết.
Hai đề tài này ngoài bọn lu bu ra thì chƣa ai đƣợc nghe nói tới trong bất kỳ bài
giảng nào về Tịnh Độ.
g) Hộ Niệm - thân trung ấm giảm đau trong vòng 49 ngày đầu?
Có nhiều cách.
1. Niệm Phật:
Niệm xù xì trong miệng trong khi nhắm mắt 100%. Khoảng 1 giờ sau thì độ
tập trung của tu sĩ tài tử này mới có thể thấy đƣợc ngƣời đã chết. Hồi hƣớng công đức tu
hành và chúc ngƣời đó tƣơi đẹp, khỏe mạnh ra và hạnh phúc. Sau rồi nếu ngƣời đó
còn đứng xớ rớ trong tầm nhìn của tu sĩ tài tử này thì tu sĩ hộ niệm cho ngƣời này về
trên đó chơi luôn cho rảnh việc.
2. Nhập Tứ Thiền Hữu Sắc rồi quán ra ngƣời đó và hồi hƣớng công đức tu
hành cho ngƣời đó.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 136
h) Hộ niệm - Độ Vong Linh người thân đã chết lâu năm
Đối với Bạn nào có những triệu chứng sau đây có thể giải quyết bằng cách này:
(1) Triệu chứng hay hội chứng:
a) Thƣờng nằm mơ và thấy đi thấy lại một ngƣời thân đã quá cố
b) Khi mơ thấy ngƣời đó lại có cảm giác tê rần cả ngƣời mặc dù đang ngủ
c) Tâm bất an, và hình nhƣ trong thâm tâm biết rằng ngƣời thân chƣa đƣợc yên
ổn lắm cho lắm.
(2) Giải quyết:
Thƣ giãn tất cả các bắp thịt từ chân lên đến đầu và thƣ giãn từng phần một ví
dụ: Ngón chân... Lòng bàn chân... Cổ chân... Đầu gối... Đùi
a) Niệm A Di Đà Phật trong tâm nhƣ sau:
AAAaaa... DDiiiii... ĐĐaàa... PPhaậtt ...
Cứ mỗi lần niệm cố gắng đẩy mạnh niệm về một điểm phía trƣớc và đƣa điểm
đó ra xa, càng lúc càng xa [Chỉ đẩy điểm đó ra xa thôi chứ đừng cho một tọa độ nào
cả (Ví dụ: mình phóng cái điểm này qua nhà hàng xóm, rồi xuống down town rồi
về Việt Nam...) ] ngay đằng trƣớc mặt, không lệch trái hay lệch phải hay hƣớng
xuống dƣới hay chếch lên trên.
b) Hay dùng cách thứ hai cho dễ hơn:
Niệm chậm rãi, khoan thai niệm này nối tiếp niệm kia: A Di Đà Phật, A
Di Đà Phật, A Di Đà Phật,... Hít vào hay thở ra, chúng ta đều đẩy mạnh
niệm lực đó hƣớng về ngay đằng trƣớc mặt.
Chúng ta có thể thấy đƣợc ngƣời quá cố với một độ dốc là 45 độ tới 60 độ nhƣ
là từ trên cao nhìn xuống. Cứ giữ khoảng cách biểu kiến đó, đừng tác ý tới gần
họ. Nguyên tắc là đƣa họ về vùng có ánh sáng và lên cao. Trong khi làm việc đó không
tác ý nói chuyện với họ. Nếu trong lúc làm, mà tự nhiên biết rằng họ bị ngợp thở: Nên
hồi hƣớng công đức tu tập đến cho họ và làm tiếp. Khi tác pháp là làm một lèo luôn đừng có
ngƣng giữa chừng cho tới lúc làm không nổi nữa mới thôi. Chúc các Bạn có những hội chứng
trên thành công và an lành.
(3) Thư gửi người em Thiên Chúa Giáo
Em, Tụi mình đều là những cƣ dân trên Trái Đất. Cùng chia sẻ mọi thứ mà
Trái Đất trao tặng không một chút điều kiện nào. Và cùng đi qua một quy trình không
ngừng biến chuyển từ vật chất đến tâm linh ở bản thân tuy trƣởng thành khác nhau
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 137
và sống khác nhau trong hoàn cảnh và môi trƣờng chung quanh cá biệt. Anh theo
Phật Giáo. Còn em theo Thiên Chúa Giáo.
Sự khác biệt này có làm cho mình khác nhau không? Anh nghĩ là không.
Vì mình đều biết đau ở thể xác và buồn khổ ở nội tâm. Anh nghe là mẹ em mất
rồi và em nói là qua những giấc mơ em biết mẹ chƣa siêu thoát hay chƣa về với
Chúa. Qua 1 vài thông tin em nói là em sẽ gặp bạn anh để nhờ họ đƣa mẹ em về
với Chúa. Thú thật anh nghi ngờ điều này vì em là con chiên của Chúa mà bạn
anh thì lại con em của Phật. Nên anh nói với chị là để anh coi lại xem em có thật
lòng tin không. Vì anh nghĩ Niềm Tin là cái cửa đầu tiên trên con đƣờng này. Rồi
anh nhận đƣợc email từ ngƣời anh của anh: Dù ngƣời đó có xấu đến đâu, tồi tệ
đến đâu nhƣng vẫn còn nghĩ đến cha mẹ và biết hiếu thảo với cha mẹ thì cũng
đủ để họ xứng đáng là Con Ngƣời… Đụng tới Cha Mẹ của ai thì cũng làm liền
thôi. Còn họ tin hay không thì không thành vấn đề…
Chúa nói đến Tình Thƣơng. Phật nói đến Từ Bi. Các Đấng Giáo Chủ lớn đã
nói nhƣ vậy thì đâu có gì khác đâu mà sao anh cứ nghĩ khác. Từ chỗ này anh có ý đề
nghị em làm những việc sau đây:
• Lúc nào em nghĩ đến mẹ dạt dào nhất thì em khởi ngay Cầu Nguyện. Hay
nhất là buổi tối sau 1 ngày lăn lộn với đời.
• Nhắm mắt lại vì em đang gác bỏ tất cả chuyện đời qua 1 bên, đang cố gắng
hòa nhập vào Tình Thƣơng Thiên Chúa mà cầu nguyện cho mẹ em. Làm đƣợc thì
em nhìn thấy Thiên Chúa với linh ảnh đầu tiên lúc đó là 1 không gian ba chiều tỉnh
lặng đằng trƣớc mặt. Ba chiều vì nó có chiều sâu em à.
• Trong điều kiện này đọc nhiều lần 1 bài Kinh em thích nhất cũng sẽ giúp em
trở về với Thiên Chúa nhanh nhất.
• Rồi nghĩ đến mẹ sao cho cái gì đó cứ dâng trào lên lồng ngực và hình ảnh của
mẹ hiện ra đằng trƣớc mặt em trong khi em vẫn nhắm mắt.
• Nhìn vào linh ảnh của mẹ, tiếp tục cầu Kinh với tác ý là Thiên Chúa sẽ đƣa
mẹ em về vùng Ánh Sáng của Ngài.
• Cứ làm nhƣ vậy thôi, rồi em sẽ hiểu đƣợc nhiều điều. Mến chúc em Làm
Nổi và Làm Đƣợc.
Rồi ngày nào đó về đây, em sẽ gặp bạn bè của anh. Những ngƣời thật
bình thƣờng, sống bình thƣờng, giữa những ngƣời bình thƣờng.
Anh.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 138
i) Chuông Trống Bát nhã
1) Xuất xứ của chuông trống Bát-nhã?
2) Xin cho biết ý nghĩa chuông trống Bát-nhã?
Trong một lúc vào đƣợc cõi Tây Phƣơng Cực Lạc thì Cô Vân nhắc nhở Các
vị Thƣợng Phẩm Thƣợng Sanh nên phát nguyện trở về độ Bạn bè ở các uế độ. Lạ
Lùng thay, sau lời nhắc nhở Này thì: Cả pháp giới liền vang lên hồi trống và
chuông Bát Nhã.
Sáng hôm sau, tóc của Cô Vân rụng từng mảng. Sau này Cô Trang cũng lập
lại và kết quả cũng y chang: Sau hồi chuông Bát Nhã thì tóc của Cô cũng rụng.
Đệ có hỏi thì cả hai cô đều nói rằng: Phiền Não nó rụng, thể theo lời ƣớc nguyện
của một Cổ Phật (không biết tên). Nhƣ vậy, Hồi Chuông và trống Bát Nhã có
nguồn gốc từ đây.
Trọc Đầu
Cảm khái cái chuyện Địa Tạng của Huynh AP nên Hai Lúa tôi lại nhớ đến
câu chuyện này khi còn ở Đà Lạt.
Có một hôm, Cô Vân, trong lúc vui câu chuyện, mới hỏi Hai Lúa tôi rằng:
“Ngƣời ta thƣờng viết nói rằng “Tự Tính Di Đà”, hay “A Di Đà là chính anh!”
Vậy anh có cái cách nào chứng minh rằng câu đó là đúng không? ”
Vì là tu bụi đời (không có ông Thầy nào dẫn dắt hết) nên Hai Lúa tôi đề nghị
cô về làm nhƣ sau:
“Tối nay, khi em qua Tây Phƣơng Cực Lạc rồi đối trƣớc cảnh đó mà
phát nguyện rằng:
Nguyện xin tất cả các chúng sanh trong chín phẩm đƣợc thành Nhất Sanh Bổ
Xứ và cùng với tôi, phát nguyện xuống Nam Thiện Bộ Châu để độ các chúng sanh khác!
Làm xong nhớ cho anh biết và coi kết quả nó ra sao? Cô về nhà làm y chang,
sáng hôm sau, cô nói:
“Khi em đọc xong câu nguyện đó thì ao hồ bỗng nhiên trống trơn, không
gian bổng vang lên hồi trống Bát Nhã (té ra điệu trống này ở chỗ đó). Và sáng nay
tóc em tự động rụng rất nhiều, em nghĩ rằng nếu tới chiều thì đầu em thành trọc, và
khi em nhìn tóc em rụng thì tƣ tƣởng sau đây tới với em:
“Phiền Não rơi rụng!”
“Vậy em muốn nó hết rụng không? ”
“Muốn”
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 139
“Có rất nhiều cách làm cho ngƣng tóc rụng nhƣng cách này là hay nhất: Em
lại vào cảnh giới đó nữa và đối trƣớc Phật A Di Đà em đọc Tứ Đại Nguyện!
Sáng hôm sau, Tóc hết rụng, cô nói:
“Em hiểu tại sao trong các tranh ảnh hay diễn tả các đệ tử của Phật lại trọc
đầu nhƣng bất cứ ông Phật nào cũng có tóc cả!”
“Tại sao? ”
Đầu tiên, hình ảnh các chúng sanh có tóc, tóc đó biểu tƣợng cho cái Khổ
hay phiền não, sau khi tu thì phiền não rơi rụng thể hiện bằng hình ảnh thực chứng:
Đầu trọc một cách tự nhiên, và sau đó nhờ phát nguyện mà tóc lại mọc lại: Tóc này
có lại là do Đại Nguyện!”
j) Cúng Thí Thực
Trong kinh Vu Lan Bồn có nhắc tới một thế giới vô hình gọi là Ngạ quỷ.
Có nhiều loại Ngạ quỷ mà hình nhƣ đã có ngƣời dùng huệ nhãn vẽ lại tỉ mỉ từng
loại một mà Hai Lúa tôi quên tên cuốn kinh đó rồi. Về nghi thức cúng thí thực
lại có nhiều cách, và thuộc về Yết Ma Bộ (một nhánh của Mật Tông chuyên liên
lạc với các loại Quỷ thần).
Nguyên tắc: Vạn Pháp Duy Tâm Tạo. Thành thử, dựa vào sức quán mà vị tu sĩ
đó cúng thí thực:
Hôm ấy cũng vào ngày Vu Lan này, Hai Lúa tôi đến nhà anh Hùng trên
Đà Lạt, vào ngay lúc anh đang cúng thí thực, anh muốn tôi dòm coi chuyện gì
xảy ra. Hai Lúa tôi xuống nhà bếp và nhắm mắt nhập định. Và kể lại cho anh nghe
nhƣ sau. Ngay vào lúc vào đƣợc Tứ Thiền, và quán một màn Tivi xuất hiện rõ ràng
đằng trƣớc mặt, rồi tác ý coi chuyện gì xảy ra: Liền thấy trên bàn nào là bánh tráng,
rồi hột nổ đủ màu, có tô cháo, rồi chè và chuối, lạ lùng là không thấy bát nhang
đâu cả. Vì nhập định khá sâu nên Hai Lúa tôi chỉ nghe tiếng tụng kinh văng
vẳng: “U-âu... U-âu. v.v… “Rồi bất ngờ, đồ ăn nhiều ra, Rồi đƣợc cỡ ba cái bàn,
rồi họ tới, Hai Lúa tôi thấy rất rõ, có hai loại Ngạ quỷ:
- Một loại lông lá xồm xoàm, ngƣời không thấy mặt mũi, rồi trong cái
đống lông lá đó họ cục cựa khó chịu vì bị lửa tự cháy ngún trên thân thể họ, họ
câm lặng chịu cực hình.
- Một loại thứ hai thì có dạng ngƣời, đầu trọc nhƣ thầy chùa tay thì bị liệt
nên họ có tay mà dùng không đƣợc. Họ ăn bằng cách thò cái lƣỡi to tƣớng của
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 140
họ vào một cái... ao. Cái lƣỡi đó run run và một vài hạt cháo vƣớng vào các sợi
lông trên cái lƣỡi đó!
Hai Lúa tôi trực nhận: “Họ đói và lạnh lắm lận!”. Rồi bỗng nhiên mọi cảnh
đều biến mất, khi anh Hùng tụng chú Bát Nhã, có một vài Ngạ quỷ suốt buổi lễ không ăn
đƣợc gì: Họ bò ở dƣới đất, họ chồm lên bàn nhƣng chỗ họ đứng lại không có gì:
Đồ ăn nhƣ sợ họ mà chạy đi vậy! Có vài ngƣời, bỗng nhiên biến thành hình dạng con
Ngƣời có quần áo đàng hoàng và ngồi bàn ăn uống thỏa thích! Anh Hùng giải thích:
“Cái lúc đồ ăn nhiều ra là do Chú Biến Thực!”
Nhƣng cũng nhƣ Hai Lúa tôi, anh cũng thắc mắc và cứ xuýt xoa: “Tội nghiệp!
Họ còn đói! Tôi không thấy mà còn xót lòng, huống chi là anh thấy họ đƣợc! Ủa vậy
ra, họ không ăn đƣợc mấy thứ khác mà chỉ ăn cháo thôi sao? ”
“Dạ có một vài Ngạ quỷ bỗng nhiên biến thành dạng ngƣời và có bận đồ, thì
ăn uống tùm lum thứ!”
À! Chắc nhờ có câu niệm: Nam Mô Diệu Xác Thân Nhƣ Lai mà ra
chăng? ” Rồi Hai Lúa tôi bàn chuyện đạo cho tới sáng mới về! Hai Lúa tôi có hứa là
sẽ cúng lại một lần nữa cho họ ăn thoải mái luôn trong vòng hai tuần nữa.
Hỏi: Mình hay cúng thí thực cô hồn rằm tháng bảy, vậy thực sự cúng
những vong hồn đó nhƣ thế nào mới đúng cách để họ có thể hƣởng đƣợc?
Thứ nhất là phải có đủ tâm lực, khoảng Tam Thiền là tối thiểu.
Sau đó là mình phải hƣớng tâm thức về những cõi Ngạ Quỷ, sau đó là mình
thấy có một nỗi xót thƣơng cho cái cảnh khổ do cái tính tham của họ, và sau đó là tác
ý mời họ tới, họ tới đông ghê lắm (Tam Thiền mà đã kêu là uy lực ghê lắm), và tác ý
có đồ ăn cho họ ăn. Không có: Hƣơng, nhang, đèn, tụng kinh gì hết. Chỉ toàn là tác ý,
và tất nhiên:
Tứ Thiền là hết chạy! Đó là mâm trên họ cúng.
(1) Vật dụng nên có những thứ như sau:
1. Một tô cháo loãng: Cháo mà loãng là phải thiệt là loãng: 1 muỗng cà
phê gạo và 1 tô nƣớc nấu thành cái thứ nƣớc màu trắng cho tù ở xà lim họ ăn họ
còn chê nữa đó!
2. Một cái lọ cắm nhang, và 1 cây nhang.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 141
(2) Nghi thức cúng:
Tay trái bắt ấn Cam Lồ, tay phải bắt ấn Kim Cang (theo thế bƣng cái chén)
Ấn Cam Lồ: bàn tay duỗi thẳng các ngón tay, các ngón tay khít lại
với nhau, kế đó là thƣ giãn các ngón tay, các ngón tay sẽ tự động
cong lại tự nhiên, kế đó là tu sĩ đem cái đầu ngón áp út đụng với đầu
ngón cái.
Ấn Kim Cang (thế bƣng chén): ngón giữa và ngón áp út cong
hết cỡ vào trong lòng bàn tay, và ba ngón còn lại thì duỗi thẳng,
và để cái chén vào giữa ba ngón tay.
(3) Tác pháp:
Tu sĩ nhìn chén cháo loãng và đọc xù xì câu chú:
Om Amitabha Hrih svaha
Đọc vài mƣơi lần, xả ấn (tay trái) và để chén cháo xuống bàn cúng, kế đó là
tạt nguyên chén cháo đó xuống đất và sau đó tu sĩ bắt ghế ngồi đâu đó trong nhà và
nhìn ra ngoài chỗ chén cháo đã bị đổ xuống đất, và niệm câu chú đó (Niệm xù xì, xù
xì), cho tới khi mình cảm thấy vui trong bụng thì mới thôi, hết.
Chú ý: Khi cúng thí thực mà không làm đúng nhƣ vậy thì họ (cô hồn các đảng)
sẽ không hƣởng đƣợc gì hết.
Tham khảo thêm thức ăn của các cõi giới:
Cõi dƣới hơn: Địa Ngục thì ăn sự nặng nề và ăn sự hành hạ của ác nghiệp. Cõi
mình thì ăn thức ăn.
Cõi rồng thì ăn đồ ăn chay và tráng miệng bằng bùn. Cõi Ma thì ăn cái buồn phiền.
Cõi quỷ thì ăn xác chết, ăn đồ ói mửa, ăn tinh khí, ăn máu...
Cõi tiên thì hấp thụ sinh khí cầu, hấp thu ánh sáng, hấp thụ tĩnh điện, hấp
thụ ánh sáng ngôi sao mà khi mình sanh ra thì mình bị nó ảnh hƣởng, hấp thụ âm thanh...
Cõi trên thì ăn bằng hình ảnh lúc Thiền Định.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 142
IV. PHƢƠNG PHÁP TRÌ CHÚ
1. Thần Chú
Thần Chú là chân ngôn hay là lời nói chân thật, ý nghĩa của Chú chỉ có Chƣ
Phật mới hiểu. Chú do tâm Phật, do lòng từ bi của Chƣ Phật mà có. Mật chú của
Chƣ Phật là phép bí mật chỉ có Phật với Phật tự biết nhau, các vị Thánh không thể đạt.
Chỉ tụng trì là diệt đƣợc đại lỗi mau lên Thánh vị.
Mật chú không thể giải thích đƣợc là vì Thần chú là viên mãn, giải thích
bằng ngôn từ sẽ trở nên phiến diện, làm mất đi thần lực của chú, bởi vậy cho nên
không giải thích cho ngƣời khác rõ đƣợc, mật nghĩa nằm trong đó, cần phải suy nghĩ.
Công năng của Thần chú khác nhau, tùy vào ngƣời truyền chú và cũng
tùy thuộc vào tâm lực của hành giả. Sự chứng nghiệm và kết quả sẽ đƣợc hiện lộ
sau khi hành trì.
Sau đây là những Thần Chú phổ biến:
Phật, Bồ Tát Thần Chú
Phật Thích Ca Om, Muni Muni Mahamuni sakyamuni Svaha
Phật Tỳ Lô Giá Na Om, Vairocana Hùm
Phật Bảo Sinh Om, Ratnasambhava Tram
Phật Bất Không Thành Tựu Om, Amogasiddhi Ah
Phật A Di Đà Om, Amitabha Hrih
Phật Bất Động Om, Akshobya Hùm
Quan Thế Âm Bồ Tát Om Mani Padme Hùm
Văn Thù Sƣ Lợi Bồ Tát Om Driym
Chuẩn Đề Bồ Tát Om Kalê Kulê Kundê Svaha
Địa Tạng Vƣơng Bồ Tát Om Chalohê Kara svaha
Hộ Pháp Kim Cang Om Vajra Agnipranan Pataya Svaha
Ngoài ra còn có nhiều loại thần chú: Hộ thân, chữa bệnh, hàng long v.v...
2. Trì chú
Nhƣ là học sinh học võ thuật với đủ thứ binh khí: Đoản côn (khúc gậy
ngắn), trƣờng côn (khúc gậy dài), nhị khúc (roi của Lý Tiểu Long), Tam Khúc (dài
gấp bốn lần cái nhị khúc.. Cái nào cũng... chết ngƣời hết. Nhƣng có ngƣời thì thích
vũ khí dài, có ngƣời lại thích cái ngắn. Nhƣ vậy Chú cũng cùng một ý nhƣ trên. Nay
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 143
bàn về trình độ cao thấp khi trì chú và những triệu chứng của nó. Trì niệm chú
thuật thì có rất là nhiều trình độ:
a) Tự Vệ Nhập Môn:
Công dụng là dùng ngôn ngữ
"Có Vô Lƣợng Nghĩa" của Thần Chú để thô tâm bớt vọng. Cao hơn một tí
thì chƣ quỷ thần theo hộ chú vì ƣa thích tính tình của mình nhƣ: sự cố gắng tu
tập tuy rằng không có thời giờ. Từ đây tu sĩ tài tử đã có ngƣời hộ vệ nên linh tính
khá bén nhạy.
b) Cận Định Trì Chú:
Vì thô tâm thanh tịnh nên tình trạng Cận Định (gần nhập đƣợc chánh định)
xuất hiện: Tình trạng này làm cho hành giả cảm nhận có những ngƣời theo mình
hay ở phía sau lƣng mình. Mình có thể cảm nhận sự xuất hiện của họ qua cảm giác
mát lạnh sau gáy hay nằng nặng sau cổ ở vùng bả vai. Trình độ này nếu phƣớc báu
nhiều thì có thể chữa bệnh Ma Nhập hay giải bùa ngải và đôi khi chữa đƣợc một
số thân bệnh nhƣng kết quả không rõ ràng cho lắm. Bạn bè vô hình thƣờng là cõi
Tha Hóa Tự Tại là nhiều.
c) Chánh định Trì Chú:
Tới đây thì mới có thể gọi là tôi tập Mật Tông đƣợc rồi đây. Vì hầu nhƣ
các khai triển Đàn Pháp đề đòi hỏi Hành Giả phải có trình độ nhập chánh định tối
thiểu là Tứ Thiền Hữu Sắc. Còn các từng thiền khác nhƣ Tam hay Nhị và Sơ
Thiền thì tâm lực đều còn yếu và nhƣ vậy: chƣa đủ lực để chuyển câu Chú và học hỏi
ở câu chú đó.
Tóm lại trình độ của hành giả chỉ là Tự Vệ Nhập Môn nên tụng câu nào mình
thấy quen là đƣợc rồi.
3. PHƢƠNG PHÁP TRÌ CHÚ ĐẠI BI
Đệ có cuốn Đà La Ni xuất tƣợng của Nguyên Phong dịch, nguyên câu
( trang là: Phát nguyện ấy rồi, chăm lòng xƣng niệm danh hiệu của tôi và phải
chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà Nhƣ Lai là đấng Bổn Sƣ của tôi, vậy sau
mới tụng đủ năm biến, là đã trừ diệt tội nặng trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử trong
bản thân.
Kinh nghiệm bản thân của nhóm lu bu thì không cần tới năm biến mà chỉ
cần một biến thôi cũng đủ, nếu có một tâm lực mạnh. Cái chìa khóa của cách trì
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 144
tụng không nằm ở con số năm mà lại nằm ở đoạn trên đó, mà đệ xin ghi lại một
lần nữa cho rõ:
Phát nguyện ấy rồi, chăm lòng xƣng niệm danh hiệu của tôi và phải
chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà Nhƣ Lai là đấng Bổn Sƣ của tôi, vậy sau
mới tụng đủ năm biến.
Khi đọc tới đây, đệ hiểu rằng phải đọc liên tục và không đƣợc dứt niệm. Nhƣ
vậy, thì dùng cái gì hay cách gì để cùng một lúc có thể đọc:
1. Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát (y nhƣ kinh đã ghi câu: "chăm lòng
xƣng niệm danh hiệu của tôi")
2. Nam Mô A Di Đà Phật (để thỏa điều kiện: "và phải chuyên niệm danh
hiệu Đức Phật A Di Đà Nhƣ Lai là đấng Bổn Sƣ của tôi").
3. Và trì tụng chú Đại Bi, nhƣ kinh đã chỉ cách: (vậy sau mới tụng đủ năm
biến). Đệ tìm ra có hết thảy... ba cách để có thể trì tụng:
Cách 1:
Dùng trình độ chánh định của Tứ Thiền Hữu Sắc để quán cho ra cả ba vị:
Phật A Di Đà ở ngay giữa, bên phải của Ngài là Bồ Tát Quan Thế Âm, bên Trái
của Ngài là Đại Thế Chí Bồ Tát. Tất cả đều đứng trên Hoa sen năm cánh. Sau đó
là tác ý đọc chú Đại Bi.
Cách 2:
Cũng dùng trình độ chánh định trên mà quán cho ra chữ Hrih
(vốn là tâm chú của Quan Thế Âm Bồ Tát và cũng là tâm chú của Ngài
A Di Đà Phật). Chữ có màu đỏ trong cái mặt trời màu vàng sáng chói.
Và sau cùng là tác ý đọc Chú Đại Bi.
Cách 3:
Nhắm mắt nhìn chăm chú vào một điểm ngay đằng trƣớc mặt và trì chú.
Cách này chỉ dùng niềm tin với một tâm lực yếu hơn hai cách trên. Biểu hiện khi
trừ diệt tội nặng:
Ở hai cách đầu (1 và 2) thì linh ảnh biến mất và sẽ xuất hiện một màn ảnh rất
là lớn (có thể nói là cả cái tầm nhìn 360 độ). Ở ngay giữa là một hình ảnh khá lớn,
hình ảnh này mang ý nghĩa tổng quát của những khuynh hƣớng gây tội của mình, và
chung quanh cái hình chính này là những hình nhỏ nhƣ ngón tay cái, mỗi hình lại
diễn tả chi tiết những lần phạm tội của mình, nếu mình tập trung vào cái hình đó. Kế
đó, một giọng nói xuất phát từ một điểm cao hơn tầm nhìn khoảng 45 độ và ngay
đằng trƣớc mặt. Giọng nói này vang khắp cả bầu trời làm chấn động cả không gian:
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 145
- Ông muốn tôi xóa hết hay là để đó làm kỷ niệm?
Hễ mình tác ý xóa thì màn ảnh liền trắng (Cô Trang), còn hễ mình tác ý là
để làm kỷ niệm (Đệ và Cô Vân) thì màn ảnh còn y nguyên. Nhƣng khi nhìn vào
những hình ảnh nhỏ đó thì mình chỉ thấy đó là chuyện của ai đó đã làm chớ
không phải là mình đã làm, nhƣng mình hiểu rằng là chính mình đã làm. Và giọng
nói đó lại một lần nữa vang lên với bài kệ của kinh nhật tụng quen thuộc. Ở cách
3 thì không đƣợc rõ ràng nhƣ vậy mà chỉ hiểu mang máng rằng mình cảm thấy nhẹ
nhàng trong tâm và những giấc mơ với những nhân vật trong gia đình đã quá cố
xuất hiện cám ơn mình đã trì tụng và họ đã đƣợc nhẹ tội. Sau khi đã trì tụng một thời
gian khá lâu.
V. CÁCH NHÌN HÀO QUANG
Nhìn vào bàn tay ngƣời khác phái (ngƣời yêu) là tốt nhất. Nếu không có thì...
dùng bàn tay của mình vậy.
Các ngón tay xòe ra hết cỡ, cách khoảng một vài cm một cái nền có màu hơi
tối. Dùng đèn ngủ có màu hồng lợt (anh Sơn) hay bình dân hơn: Một cái đèn hột vịt
đƣợc vặn lên đừng cho có khói là đƣợc rồi. Hai Lúa tôi, thƣờng để cái đèn dầu đó
đằng sau lƣng và dùng cái bóng mình làm nền là tự nhiên hơn hết. Nhìn vào cái viền
các ngón tay (ngón giữa và ngón trỏ). Nếu nhìn đúng cách sẽ thấy nhƣ có một màn
sƣơng, sau đó sẽ thấy một màu xanh dƣơng lợt hay màu tím lợt. Vẫn tiếp tục nhìn
nhƣ vậy một thời gian: Bất chợt sẽ thấy lóe lên màu sắc HQ của bàn tay. Tập cho
thuần thục bài tập trên, sau đó mới tập ngoài ánh sáng tự nhiên...
Nếu muốn thấy nguyên cấu trúc của HQ trên một con ngƣời:
- Nhìn vào một điểm tƣởng tƣợng gần phía trƣớc mình (khi đó sẽ thấy có 2
đối tƣợng vì do mình lé)
- Sau đó di chuyển điểm tƣởng tƣợng đó về phía đối tƣợng cho tới khi hai
đối tƣợng chập lại một.
- Tập trung cái nhìn vào điểm đó. Đối tƣợng mờ mờ đằng trƣớc mặt sẽ lóe sáng
lên với tất cả màu sắc và cấu trúc của HQ.
Khi làm thì thở vững chắc, sâu và chậm. Tất nhiên là không cố gắng quá sức
mà bị mệt oan uổng. Tập trƣờng kỳ cho tới khi thấy màu sắc mới thôi. Nếu tập
trung cao hơn: Mình sẽ thấy đƣợc nguyên hệ thống kinh lạc của châm cứu: Châm
vào điểm sáng nhất hay tối nhất: Bệnh sẽ giảm. Làm cách này mình sẽ rất mệt vì đã
dùng thần thông can thiệp vào nghiệp quả của ngƣời khác.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 146
VI. HÀN HÀO QUANG
Hào quang thƣờng phản ảnh về tình trạng sức khỏe, tinh thần và tƣ tƣởng.
Và khi nhìn vào cấu trúc của hào quang sẽ thấy đƣợc tình trạng của Tâm và tâm
lực. Khi nói đến việc hàn hào quang là vì hào quang bị rách trong những trƣờng hợp
sau đây:
Tan vỡ thành nhiều mảnh vụn (trƣờng hợp ngài Quan Thế Âm)
Khuyết lõm do bị cảnh giới chi phối
Khuyết lõm hay rách do bị bệnh lâu ngày
Và tập theo kiểu "Cận Định" lâu ngày. Nói lâu ngày là cả 5 năm trở lên thì
nó mới rách đƣợc.
Nghiệp sát làm nó rách.
Rách do ma nhập hay do bệnh đằng dƣới
Ngƣời bị nhập thì hào quang bị rách và khi hết thì tinh khí theo chỗ đó
mà thoát ra. Do đó mà ngƣời cứ nhƣ là trên mây, trên khói. Đến lúc bị bệnh thì lại
phải làm sao đó cho bị nhập lại thì mới đỡ đi chút đỉnh, nhƣng sức khỏe thì
càng ngày càng xuống. Chỉ có trƣờng hợp là đã có duyên nợ với nhau thì tính tình
trở nên hung hăng, hay giận hờn và làm ẩu với ngƣời khác phái. Ma nhập vào để
chữa bệnh thì ngƣời cứ ủ rũ. Quỷ mà vào thì ăn uống nhiều lắm. Tiên mà vào thì
đàng hoàng hơn, ít ăn uống.
Tự kiểm tra:
Đề mục không ra tuy rằng đã làm đúng cách. Song song vào đó, cái cảm giác
lành lạnh khó chịu cứ thoát từ thân thể. Hai cảm giác này là do nghiệp sát, đồng
thời "Cận Định" lâu quá.
Còn nó đã ra cho dù là mờ mờ thì những hiện tƣợng trên đều đƣợc miễn nhiễm.
Chỉ còn lại những biệt nghiệp nho nhỏ mà thôi.
Ngài Vajrapani Kim Cƣơng Thủ là chuyên gia về hàn hào quang, ngài đã
hàn hào quang khi ngài Quan Thế Âm bị bể đầu thành nhiều mảnh vụn vì nản
chí việc cứu độ chúng sanh do cứu hoài mà thấy còn hoài. Ngài Quan Thế Âm đã
cầu cứu đến thầy mình là A Di Đà Phật và nhờ lực của Thập Phƣơng Chƣ Phật
biến thành Quan Thế Âm có 11 đầu, dƣới cái đầu của A Di Đà là đầu của ngài
Vajrapani, còn có tên khác do anh em Lubu gọi là ông Thần Xanh.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 147
Phƣơng pháp nhƣ sau:
Ngài Vajrapani dùng... NU nhờ ngài Thần Xanh phóng quang từ trung
tâm Ajna của ngài để hàn hào quang cho mẹ.
Khi ngƣời này niệm Phật thì nhờ Chƣ Phật hàn hào quang bị rách lại cho ngƣời đó.
Ngƣời già lắm rồi, thì nhờ bằng cách nào? Niệm Phật, là vì pháp môn là niệm
Phật mà. Nhƣ vậy, do cách niệm Phật mà hào quang nó tự hàn lại. Dựa vào tha lực của
Chƣ Phật.
VBT dùng chày Kim Cang để hàn hào quang, cầm chày tô lên những chỗ
lõm, rách giống nhƣ là cầm bút lông tô màu vậy. Cách thứ 2 là dùng hào quang của
chính mình hàn lại cho đối tƣợng.
VII. SỬ DỤNG THẦN THÔNG
Hỏi: Có thần thông để làm gì?
Đó chẳng qua là hoa mọc bên đƣờng khi đi theo bƣớc chân Phật. Nếu dùng
nó cho đúng cách (?) tụi mình biết đại khái những khuyết tật (Tâm bệnh) của bạn
mình mà điều chỉnh tác xạ cho hiệu quả vậy thôi. Tất nhiên, khi có Thần Thông,
anh có quyền biểu diễn cho bà con cô bác coi chơi. Và sau khi biểu diễn anh sẽ tự
biết... đã phạm giới luật (Y nhƣ bịt mắt mà chạy xe lên freeway vậy). Tuy vậy, để
đạt đƣợc nó: Không phải là một chuyện dễ, hí hí vì: Thần Thông là một pháp tu rất
cao cƣờng. Thần thông là biết rõ: Ta và Ngƣời; Trong và Ngoài. Thần thông là một
phƣơng tiện độ để giúp bạn bè “Đến Gần” với giải thoát. Nó là thế giới của phƣơng
tiện độ.
Hào quang thƣờng cho biết về tình trạng sức khỏe, tinh thần và tƣ tƣởng.
- Bệnh tuyệt vọng: hào quang (HQ) phai nhạt.
- Ngƣời chết bất đắc kỳ tử, khi sức khỏe còn tốt: HQ vẫn còn lƣu lại một lúc sau.
- Ngƣời chết từ từ: HQ mất đi ở óc trƣớc, sau đó lần lƣợt ở các bộ phận sau và
sau cùng là tóc và móng tay.
- Ngƣời bình thƣờng thì có vầng ánh sáng xanh vàng.
- Khi nói xạo: Màu xanh vàng (lá úa) bay vọt lên xuyên đỉnh HQ.
- Ngƣời nặng nề về Tâm Linh: Màu HQ rất đậm, dơ và cũ.
- Ngƣời đa nghi: Nâu đục quanh viền.
Màu áo thƣờng mặc lúc sinh hoạt bình thƣờng hàng ngày thƣờng đƣợc chọn
một cách vô thức theo kết cấu của HQ.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 148
- Tâm linh tiến hóa: Màu sắc thay đổi từ đậm sang nhạt nhƣng vẫn rõ (màu sắc
rất thanh).
- Tâm linh thụt lùi: Màu vàng y nhạt đi hoàn toàn (biến từ màu vàng đục rồi
qua vàng kem)
Màu Đỏ: Khi nói đến màu Đỏ hay bất cứ màu nào ngƣời thấy đƣợc HQ sẽ
thấy tỷ lệ màu đỏ chiếm rất cao trong cấu trúc HQ. Màu Đỏ tƣợng trƣng cho sự hay
khả năng thúc dục, tài chỉ huy.
- Màu đỏ trong sáng: Tƣớng lãnh đạo giỏi
- Đỏ trong sáng có viền vàng: Tính chinh phục và luôn luôn giúp ngƣời
- Đỏ trong sáng hay những chớp sáng phát ra từ nơi nào đó: Bộ phận đó
rất mạnh.
- Đỏ úa bầm quá tối ở viền HQ: Tính tình xấu hay tranh cãi, phẩm chất bóc
lột ngƣời bằng sức lao động.
- Đỏ mờ nhạt: Tính tình nóng nảy, dễ khích động.
- Đỏ thoái hóa (càng ngày càng nhạt và yếu đi): Bứt rứt khó yên, dễ thay đổi ý.
- Đỏ mờ nhạt + nâu thoi thóp: Phát ra từ chỗ nào là chỗ đó bị Ung Thƣ.
- Đỏ lấm chấm hay lóe sáng ở hàm: Đau răng.
- Đỏ chói phát ra ở đỉnh đầu sau một lời phát biểu: Tự tin hay sự giả kiêu hãnh.
- Đỏ chói ở hông một ngƣời Nữ phập phồng và thoi thóp: Gái điếm vì tiền
chớ không phải vì ƣa thích.
- Đỏ chói + Nâu từng tia viền HQ không đều đặn phát rất rõ ở hông: Gái điếm
vì ƣa thích.
- Đỏ nâu màu gan tƣơi: Ngƣời bẩn thỉu mang đến rắc rối. Nếu xuất hiện trên
toàn cơ thể: Sắp chết.
Màu Hồng: Chƣa trƣởng thành, tính tình trẻ con, vô tội.
Nếu bất chợt xuất hiện ở một ngƣời bình thƣờng, sau một lời kết án: Họ vô tội.
Chiếm tỷ lệ rất cao trong cấu trúc HQ.
Cam sáng đậm: Hay quan tâm đến ngƣời khác, lòng nhân đạo và nhân hậu.
- Cam nâu: Lƣời biếng, ẩu.
- Nếu xuất hiện ở vùng thận kèm theo nhiều màu hỗn loạn: Bị sạn thận
- Cam và Xanh lá cây đậm (Xanh lá cây ở giữa màu Cam): Hay cãi
nhau, không nghe lời.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 149
Vàng: Màu này chiếm tỷ lệ rất cao trong cấu trúc HQ.
- Vàng y: Đạo đức, Tâm linh tự nhiên (Vàng sáng ở đỉnh đầu và chung quanh).
- Vàng rực và chàm: Tâm linh tiến bộ.
- Vàng nghệ: Hèn nhát (ngƣời không có “cú sút” theo danh từ đá banh).
- Vàng đỏ: Yếu đuối vì tình cảm và vật chất, không có lập trƣờng.
- Vàng đỏ hay nâu đỏ: Đang tìm kiếm cái gì đó.
- Lóe sáng vàng đỏ: Ngƣời hiếu chiến, mặc cảm tự ti.
- Đỏ đậm trong vàng đậm: Mặc cảm.
- Vàng nâu: Tƣ tƣởng xấu, trí tuệ yếu, ngu độn.
- Nâu tối (dơ) và vàng tối ở hông: Khuynh hƣớng xấu (dê xồm).
- Lóe sáng: Vàng, đỏ, nâu trên đỉnh đầu: Khùng, bệnh tâm thần.
- Vàng (dơ) và xanh dƣơng (nửa bên là vàng dơ, nửa bên là Xanh dƣơng dơ):
Cốt đồng.
- Vàng y tinh khiết: Tâm linh tuyệt vời, giới luật nghiêm chỉnh.
Xanh lá cây: Ngƣời thấy đƣợc hào quang sẽ thấy rằng màu này chiếm tỷ lệ rất
cao trong cấu trúc HQ.
- Xanh lá cây (xanh nhƣ dạ quang): Thầy thuốc giỏi. Bác sĩ giải phẫu giỏi.
- Xanh lá cây (nhƣ áo lính) và đỏ: Vật lý giỏi.
- Xanh lá cây và Xanh dƣơng: thành công nhờ dạy học, thầy giáo yêu nghề.
- Phần viền nhiều màu xanh lá cây: Ngƣời bị dị ứng đối với súc vật.
- Xanh Vàng úa: Xạo, lừa đảo, không nên giao thiệp, ngƣời không có thật.
Xanh trái chanh + Vàng + Xanh Dƣơng (tất cả đều trong sáng, đẹp): Đáng tin cậy.
Xanh lơ (dƣơng): Màu xanh này chiếm tỷ lệ cao trong cấu trúc HQ.
- Xanh lơ: Thông minh, thích đọc sách, thế trí biện thông.
- Xanh rực rỡ phát ra đều đặn khắp ngƣời: Sức Khỏe tốt.
- Xanh nhạt màu đục nhƣ sƣơng mù: Ngƣời không tự quyết định đƣợc (đợi
thúc hối mới làm).
- Xanh đậm: Sợ tiến bộ (dị ứng với sự văn minh) ù lì, tự mãn.
- Chàm trong + tím: Tín ngƣỡng mạnh mẽ, ngƣời này có trực giác về
chính pháp, không tin bậy bạ.
- Hồng trong Chàm: Quá nhạy cảm, nếu kèm theo những hiện tƣợng khó chịu:
Sự nhạy cảm bị thoái hóa.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 150
- Xám: Rối loạn thần kinh, sức khỏe kém, tính tình yếu đuối (hết pin).
Ngoài ra Hào quang còn tạo thành những hình dáng trên đỉnh đầu.
- Hình một vƣơng miện màu xanh dƣơng: Ƣa thích tiền bạc (tay làm ăn, ít
tình cảm).
- Một đám khói màu đen nhảy nhót trên đỉnh đầu: Tính tình bất nhất.
Khi nói về vấn đề gì mà họ không biết (thực chứng): Một hình xoắn ốc
có màu tùy theo đề tài sẽ phóng xuất nơi miệng họ:
- Màu vàng đậm: Tâm linh.
- Màu nâu và đen: Lấy ngƣời bạn của mình ra làm thí nghiệm nhƣng điều
mình chƣa biết.
- Màu đen nhƣ khói: Lời nói bậy bạ (khẩu nghiệp).
- Màu Xanh dƣơng đục: Phóng đại một câu chuyện, khi chỉ có nghe lại
(Không đƣợc chứng kiến).
Một ngọn lửa màu cam: Có khuynh hƣớng Tâm linh cao, nhƣng chƣa
định hƣớng đƣợc, ƣa chuyện nhân nghĩa, thích giúp đời.
Khi hai ngƣời đang trò chuyện trong một quán cà phê, Ngƣời thấy hào quang
sẽ biết đƣợc hai ngƣời đó là ngƣời bạn thân, hay bạn qua đƣờng:
1. Bạn thân: Một cầu vòng màu xanh dƣơng nhƣ khói thuốc và giao tiếp với
cầu vòng bên kia, nơi giao tiếp sẽ hiện ra hình của đề tài nói chuyện.
- Một cái nhà: họ đang nói về nhà cửa
- Một con ngƣời trần truồng: Họ đang phân tích tâm lý một ngƣời nào đó.
2. Bạn qua đƣờng: Hai phần HQ sẽ nối với nhau trên đƣờng thẳng (không phải
là cầu vòng) tình bạn không bền, họ đang lợi dụng nhau.
Ngôn ngữ Tâm linh là ngôn ngữ của màu sắc và hình tƣợng cực kỳ phong
phú, ngƣời đọc đƣợc ngôn ngữ đó không bao giờ hết chuyện để nói, và không bao
giờ họ ngƣng học hỏi, những hiện tƣợng trên chỉ là một phần nhỏ của cái thấy của
Hai Lúa tôi. Cái thấy này có tác dụng hai chiều: Ở lúc tâm chính, Hai Lúa tôi
thấy và trực nhận ngay lập tức, rất chính xác ý nghĩa của nó. Nhƣng nếu, Hai Lúa
tôi chỉ thấy mờ mờ và phải luận đoán vòng vo tam quốc: Hai Lúa tôi biết ngay là
mình còn tà niệm.
Vậy khi thấy đƣợc HQ mình không cách gì làm bậy đƣợc Vì thấy nó rất là
khó, nhƣng mất nó lại rất là dễ vì chây lƣời, không thèm tập hay phạm giới luật. Nó
(Thần Thông) là một ngƣời Bạn chân tình. Và cũng một ngƣời Thầy rất nghiêm.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 151
Định luật vũ trụ sẽ rất khắt khe đối với những ai sử dụng thần thông một
cách bừa bãi.
- Thần thông không liên quan gì đến nhân quả.
- Thần thông là quả báo của Thiền Định.
- Thần thông là một pháp tu rất cao cƣờng.
- Thần thông là biết rõ Ta và Ngƣời, Trong và Ngoài.
- Thần Thông chỉ là phƣơng tiện để đƣa bạn bè gần đến đƣờng Giải Thoát.
- Thần thông rất khó đạt, nhƣng lại rất dễ mất vì: Chây lƣời hay phạm giới
luật Thần Thông là con dao hai lƣỡi:
“Nếu lạm dụng thì nó sẽ thiêu đốt hành giả, còn nếu dùng nó làm
phương tiện để chỉ đường đi cho bạn bè thì nó lại càng làm cho tâm linh
hành giả cao thêm. ”
1. Nó sẽ là chất xúc tác để nâng cao trình độ tâm linh của bạn
2. Nếu dùng bậy bạ (với đầy bản ngã, Ta Đây): Nó sẽ quất sụm bạn.
Nguyên tắc tối hậu của Thần thông là: Muốn có thì phải cho. Vậy Thần
thông không có gì phải sợ mà tránh né nó. Theo kinh nghiệm của Hai Lúa tôi: Có
thì cứ dùng, muốn dùng thì phải “Giữ” vậy.
VIII. SONG HÀNH NHẬP ĐỊNH
Chỉ là một thủ thuật: đó là dùng tha tâm thông và cách nhập định để rà
theo tiến trình tu hành của đối tƣợng với ý đồ là để đo lƣờng một trình độ công phu
bất kỳ nào đó.
Khi đối tƣợng tu tập đến cái giới hạn cao tột, hành giả có thể theo dõi và
biết đƣợc cái giới hạn của đối tƣợng và nguyên nhân của giới hạn đó, và có thể
tìm ra phƣơng pháp để giúp đối tƣợng vƣợt qua giới hạn đó mà tiến tu đến cảnh
giới cao hơn.
Kẹp nách nó có ba cách:
1. Thôi miên:
Tu sĩ thôi miên hành giả và khi lúc hành giả bất tỉnh thì cũng là lúc tu sĩ xuất
hồn bằng luồng bhavanga và đƣa đi dạo chơi lòng vòng trong thành phố hay một
cảnh giới nào đó. Vừa đi tu sĩ vừa hồi hƣớng công đức tu hành của tu sĩ cho hành giả.
2. Đo Tâm lực của hành giả:
Tu sĩ quán hành giả và đo tâm lực của hành giả và lƣu vào bộ nhớ của màn ti vi.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 152
a) Và đợi tới lúc: Hành giả tu tập thì tu sĩ chen vào và cho hành giả cảm nhận
đƣợc sự thanh tịnh của tu sĩ bằng cách "Thần Giao Cách Cảm" cho hành giả biết
câu niệm "Thanh Tịnh, Đại Thanh Tịnh"
b) "Thần Giao Cách Cảm": Tu sĩ dùng màn ti vi đƣa hành giả vào đó và nhìn
vào trung tâm Ajna của hành giả. Kế đó là tu sĩ tác ý truyền cái màn tivi của mình
vào cho hành giả thấy đƣợc và đồng thời tu sĩ cũng truyền luôn câu niệm "Thanh
Tịnh, Đại Thanh Tịnh" cho hành giả cùng niệm với mình.
3. Tu sĩ đo tâm lực của hành giả và hẹn giờ công phu.
a) Tu sĩ đợi tới lúc hành giả đã ổn định công phu, có nghĩa là hành giả chỉ
tập đƣợc tới đó là hết sức thì tu sĩ dùng màn tivi cho hành giả vào đó và cùng lúc
xuất hồn bằng luồng Bhavanga và hiện ra trƣớc mặt hành giả và ngồi đối diện
với hành giả.
b) Tu sĩ vẫn trụ ở Chân Nhƣ và tác ý hồi hƣớng công đức tu hành của tu sĩ
cho hành giả.
- Nếu hành giả có tâm nhu nhuyễn, dễ sử dụng thì: Hành giả sẽ có thể thấy
đƣợc cái bóng mờ mờ của tu sĩ đang ngồi trƣớc mặt mình. Sau khi thấy mờ mờ thì
hành giả trở về đề mục của mình và nhấn ga tinh tấn tu hành.
- Nếu tu sĩ biết là hành giả chƣa có tâm nhu nhuyễn và dễ sử dụng thì tu sĩ neo
vào màn tivi và xuất hiện đằng trƣớc mặt một cách từ từ, ăn khớp theo tâm lực của
Hành Giả. Hành giả cũng có thể thấy đƣợc cái bóng mờ mờ của tu sĩ đang ngồi trƣớc
mặt mình. Hành giả vào lại đề mục và nhấn ga tu tập.
Ghi chú:
Trong cả hai trƣờng thấy hình bóng mờ mờ trên: Hành giả đều có cái cảm giác
là không gian nó lắng xuống và trở nên thanh tịnh. Khi có cái cảm giác này rồi là trở
về đề mục và nhấn ga tu hành.
Chú ý: Nhu nhuyễn là có thể dƣới sự tác ý của mình, mình làm cho đề mục to
hay nhỏ một cách dễ dàng.
Dễ sử dụng: Là hành giả có thể tác ý và thay đổi đề mục của mình một cách dễ dàng.
1. Tu Sĩ Trợ Lực Tu Sĩ
Rải cái Tâm Từ Bằng Linh Ảnh: Cái này lại dành cho bọn Mật Tông.
Tất nhiên là tuyến xuất phát vẫn là trình độ nhập định khoảng "Tứ Thiền Hữu
Sắc". Sau đó là nhập vào một Mạn Đà La, Vòng Phép hay Đàn Pháp nào đó. Ví dụ
nhƣ là Đàn Pháp Quan Thế Âm đi. Sau khi linh ảnh này xuất hiện nhƣ thật ngay đằng
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 153
trƣớc mặt của mình rồi thì hình ảnh lại chuyển thành hình nổi (3D) phóng hào quang
màu vàng rực sáng chói nhƣ mặt trời không có mây che và vào lúc 12 giờ trƣa. Hình ảnh
càng sáng hơn nữa khi hành giả lại cẩn thận thử cái linh ảnh này bằng cách quán cái ấn
"Hộ Thân" và phóng cái ấn này vào ngay ngực của linh ảnh.
Sau đó là công thức phóng cái tâm từ: Khi tác ý nhƣ vậy thì từ cái "Chân Nhƣ"
cái thấy lại thấy đƣợc cái cảnh nhƣ sau:
1. Linh ảnh Ngài Quan Thế Âm ngồi (hay đứng) trên hoa sen chỉ có năm cánh.
2. Linh ảnh của chính hành giả đang ngồi tƣ thế Liên Hoa (Padmasana).
3. Linh ảnh của đối tƣợng mà hành giả muốn rải cái Tâm Từ, linh ảnh này
cũng ngồi thế Liên Hoa.
Cả ba linh ảnh này hợp thành một hình tam giác đều với Linh ảnh của
Ngài Quan Thế Âm ngồi ở trên đảnh.
Rải Tâm Từ: hành giả phát nguyện với linh ảnh Ngài Quan Thế Âm và cùng
với mình (hành giả) rải tâm từ và thấm nhuần cái tâm từ cho đối tƣợng.
Từ cái thấy ở "Chân Nhƣ", hành giả sẽ chứng kiến một cách phóng quang rất
là ngoạn mục. Đầu tiên, lời nguyện của hành giả biến thành một tia hào quang màu
vàng rực phóng lên linh ảnh của Ngài Quan Thế Âm, Linh ảnh của Ngài lại phóng
dội ngƣợc lại hành giả không những một tia mà lại là một chùm hào quang cũng màu
vàng rực. Kế đó một tia hào quang nữa lại xuất hiện cũng từ hành giả bay ngang qua
đối tƣợng. Ngay khi tia này đụng đến đối tƣợng thì Linh ảnh của Ngài cũng phóng về
phía đối tƣợng một chùm tia hào quang.
Ngày mai, mọi tình trạng hục hặc, nghi ngờ, không ăn rơ, thù vặt, hoạnh
họe v.v… giữa hai đối tƣợng đều tiêu theo mây khói. Lấy Huyễn trị Huyễn là nghề
của bọn Mật Tông mà.
2. Đồng Đội Trợ Lực
Điều kiện là cùng một đề mục với nhau. Thí dụ nhƣ đề mục quán lửa.
Theo phƣơng thức của hốt hụi, đó là tất cả cùng góp vào (công phu), và chỉ có
một ngƣời đƣợc sử dụng lƣợt của mình để hốt hụi (nhận hồi hƣớng tu tập của đồng
đội). Nhƣ vậy ngƣời đƣợc hồi hƣớng sẽ gom tất cả tâm lực tu tập của nhóm cho
mình và nhờ lực đẩy của đồng đội mà tiến tu. Tất nhiên là sau đó đến lƣợt mình
công phu và hồi hƣớng cho ngƣời khác.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 154
IX. CHÂM CỨU
Tập nhìn hào quang trƣờng kỳ cho tới khi thấy màu sắc rõ ràng mới thôi. Tốt
nhất là ở trình độ Tứ Thiền Hữu Sắc, với màn Tivi (thiên nhãn) nhuần nhuyễn, khi
tập trung cao hơn: Mình sẽ thấy đƣợc nguyên hệ thống kinh lạc của châm cứu:
Khi hành giả chăm chú để tìm vị trí chính xác của huyệt đạo thì phần da chỗ
đó lóe sáng lên và hành giả thấy rõ những cái ống, cái ống này không phải là dây
thần kinh hay mạch máu gì cả mà đúng những đƣờng kinh huyệt mà các sách châm
cứu có vẽ lại.
Châm vào điểm sáng nhất hay tối nhất: Bệnh sẽ giảm.
Làm cách này mình sẽ rất mệt vì đã dùng thần thông can thiệp vào nghiệp quả
của ngƣời khác. Bệnh nhân giảm bệnh thì hành giả sẽ bị đau đúng ngay cái chỗ mà
bệnh nhân đau, tuy nhiên cƣờng độ đau đớn ít hơn và ngắn hơn.
X. SẠC PIN NHẬT NGUYỆT
Với những hành giả, sau khi vào Tứ Thiền, vì có nhiều việc phải làm: Độ
sanh, độ tử, giải oan, giải nạn và cõng nghiệp cho ngƣời khác sẽ làm mất máu và
tiêu hao năng lƣợng rất nhanh. Ngƣời lúc nào cũng lừ đừ bơ phờ, mặt mày xanh
xao, không muốn ăn.
Trong trƣờng hợp này ngoài việc ăn uống bồi bổ cơ thể và nghỉ ngơi dƣỡng
sức, tu sĩ cũng có thể dùng những phƣơng thức đặc biệt:
- Phƣơng pháp Sạc Pin Nhật Nguyệt:
Quán màn TV, quán chính mình vào, tay trái cầm mặt trời, tay phải cầm
mặt trăng; dùng năng lƣợng ánh sáng của mặt trời và mặt trăng chiếu vào cái thấy là
hành giả, âm dƣơng trong ngƣời sẽ đƣợc bồi bổ và điều hòa. Việc sạc pin sẽ rất hiệu
quả khi mất năng lƣợng không dƣới 50%. Ngoài ra với tu sĩ đã mở đƣợc kundalini
(nội hỏa), sẽ dùng phƣơng thức ăn ánh sáng.
- Hấp Thu Ánh Sáng:
Tu sĩ có thể khởi động Kundalini, thu nạp ánh sáng vào hệ thống luân xa trong
cơ thể của tu sĩ, năng lƣợng của ánh sáng này rất là thuần khiết sẽ giúp cho cơ thể của
tu sĩ phục hồi một cách nhanh chóng.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 155
XI. CHỮA BỆNH VÀ PHÒNG BỆNH
1. Thiền định điều hòa Tứ Đại
Lâu nay tụi mình đều nghe là Thiền định có thể điều hòa đƣợc Tứ Đại và do
đó mà cơ thể có thể duy trì một phần nào đó sự trẻ trung và hoạt bát của nó. Nhƣng
cũng chỉ là "tin đồn" và những biểu hiện mờ nhạt ( nhƣ là trẻ hơn ngƣời
thƣờng, thông minh hơn, sức chịu đựng dai hơn...) Nhƣng cụ thể là nhƣ thế nào thì
chƣa có ai mà đi vào đề tài này.
Ngày hôm qua, trong dịp châm cứu ngƣời chị, tibu khám phá ra cách tự
điều chỉnh "Tứ Đại" để mà phòng ngừa bệnh tật cho cả tâm bệnh và thân bệnh.
Quy trình vừa mới làm xong, còn nóng hổi:
a) Gợi hứng thứ nhất:
Câu đầu thứ nhì của Pháp Cú:
2. "Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bƣớc theo sau,
Nhƣ bóng, không rời hình ".
b) Gợi hứng thứ nhì:
Nhập Phi Tƣởng Phi Phi Tƣởng và khi tác ý về Tứ Đại thì có kết quả nhƣ sau:
- Đất: Nguyên tố của sự sống (hóa chất, tế bào, kim loại, thần kinh,...)
- Nƣớc: Nguyên lý của sự sống (lực nối kết lại của các chất trong thân thể, sự
uyển chuyển)
- Lửa: Biểu hiện của sự sống (sức nóng, và sức lạnh)
- Gió: Sinh động của sự sống (cục cựa, lƣu thông, bế tắc...)
2. Nguyên tắc:
Hành giả lần lƣợt: "Quán" các Tứ Đại.
Kế đó là tác ý, làm cho nó hoàn chỉnh chừng nào hay chừng đó.
"Quán": Là nhắm mắt 100% và dùng trí tƣởng tƣợng để mà vẽ ra đề mục.
Đề mục này xuất hiện ngay đằng trƣớc mặt, ngang với tầm nhìn và cách xa
khoảng một với tay.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 156
3. Thực hành:
Đất: Quán một hòn bi to bằng mút đũa (cỡ 3 ly đƣờng kính, d= 3mm)
Nước: Quán giọt nƣớc có bề ngang cỡ 3 ly (3mm).
Lửa: Quán Ngọn lửa có bề ngang cỡ 3 ly (3mm).
Gió: Quán cái cửa sổ có cái tấm màn và tấm màn này đang bị gió thổi và đông
đƣa tự nhiên. To bằng móng tay cái của mình.
Điều chỉnh:
Đất của tibu nó nứt nẻ và cũ kỹ (do tuổi già...), tibu tác ý làm cho nó tròn quay
lại và trơn láng ra và tô cho nó thành màu vàng.
Nƣớc: Dơ và méo mó: tibu làm cho nó tròn trịa lại và làm cho giọt nƣớc... cho
ra một giọt nƣớc.
Lửa: mờ mờ, ảo ảo... thấy mà ghê: tibu tác ý làm cho nó hoàn chỉnh lại.
Kết quả:
Chƣa có gì biểu hiện rõ ràng: Nhƣng tƣ thế ngồi bỗng nhiên vững chãi,
chắc chắn và trẻ trung ra, ngƣời ấm ra và sức sống có chuyển biến tốt đẹp.
Gió thì cái màn cứng đơ, nghiêng cỡ 45 độ về phía cái "Thấy": Tibu tác ý làm
cho nó dẻo dai và uyển chuyển lại.
Kết quả: Có cảm giác hồi sinh cái gì đó trong thân thể.
XII. TIỀN THAI GIÁO
Bác sĩ Ohsawa ( http://www.ahvinhnghiem.org/angaolut.html) (Gạo Lức
Muối Mè) đề cập ra chuyện tiền thai giáo bằng cách cho em bé ăn uống theo âm dƣơng.
Cho tới nay, tất nhiên là những đứa bé này đã khôn lớn, nhƣng lại không có ai
nghe nói năng gì những vị đã "Hợp với Âm Dƣơng" này cả.
Tiền thai giáo là giáo dục đứa bé trƣớc khi sinh ra đời, Vốn là một
chuyện không tƣởng y nhƣ là alchemy (chỉ đá hóa vàng)
http://en.wikipedia.org/wiki/Alchemy
Do đó cho nên: Bí lù là chuyện thƣờng tình!
Tuy nhiên, vì là sức trai trẻ nên tibu lại cũng... mò ra. Và nay vì duyên lành
của Diễn Đàn thì Tibu chỉ tự ý đục bỏ những vấn đề của ngƣời lớn với nhau. Còn
chuyện diễn tiến bên kia thế giới thì sẽ ghi rõ lại. Bà con chuẩn bị câu hỏi và
cũng nhƣ thƣờng lệ: Cứ tự nhiên mà hỏi. Tibu sẽ cố gắng tìm ra câu trả lời.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 157
1. Có phải là nếu muốn có một "đứa con đặc biệt" thì chú và hành
giả sẽ xuất hồn lên trên để "chọn" một vị muốn xuống dƣới này
không ạ?
Chƣa có đƣợc nhƣ vậy đâu!
Là vì có một vấn đề khá nan giải là:
Trong chuyện sinh đẻ, Mẹ là ngƣời trực tiếp chịu đựng và là liên lạc viên giữa
hai thế giới. Thế giới của các Linh Hồn (thế giới bên kia cửa tử) và thế giới bên này
(thế giới của những chúng hữu tình có thân xác). Thông thƣờng theo kiểu bà rá nhập
ông địa thì ít có khi xảy ra chuyện gì ghê gớm lắm!
Nhƣng khi đứa bé chiến đấu mà xuống thì chuyện này có thể xảy ra: Vì
Mẹ không có đủ sức nên khi sinh. Thì một đôi khi con lại rút hết năng lƣợng
của Mẹ nên... Mẹ bị hủy hoại luôn.
Phƣớc báu không đầy đủ thì có nguy cơ đi đứt một thành viên trong gia đình:
Ví dụ nhƣ là Mẹ sinh ra con và con đang cần rất là nhiều Phƣớc Báu để mà thi
hành phận sự thì con sẽ rút hết năng lƣợng của Mẹ và chuyện Mẹ đi đứt là... chuyện
bình thƣờng.
Chuyện Bổn Sƣ của mình:
1. Tình hình gia đình:
Trong gia đình thì ngƣời Mẹ là ngon lành, nhƣng ngƣời Cha thì tham
vọng Chính Trị rất là lớn.
Một bên là nghiêng hẳn về Đạo Đức và một bên nghiêng về chuyện đời.
Hai thái cực hoàn toàn khác nhau.
Một bên (Mẹ) là tu thân, cố gắng hiền hòa. Một bên (Cha) thủ đoạn, mƣu mô,
rất là đời.
2. Khuyết điểm lớn nhất:
Vả lại về đêm thì Vua hay bỏ vợ một mình. Vợ bị rơi vào hoàn cảnh éo le
và buồn lắm nhƣng không biết cùng ai để mà thổ lộ!
3. Khi Bổn Sƣ vào thọ thai.
Tất nhiên là khi thọ thai thì linh hồn của Mẹ và linh hồn của Ngài gặp nhau
và Ngài đọc đƣợc sự buồn phiền của Mẹ và Ngài làm theo quán tính là đƣa Mẹ lên
Đao Lợi nghỉ mát dài hạn trên đó cho khỏe.
"Đối với Ngài thì đâu có gì là sai trái, nhƣng đối với dân gian thì đây là một
thảm họa!
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 158
Ngƣời ta xầm xì: Ngƣời mà đẻ con ra rồi chết liền thì đứa con là "kẻ
thù", Triều Đình có vấn đề!
Thế là chiêu: Bảy bƣớc trên hoa sen đƣợc đƣa ra để lấy lại uy tín! Tất nhiên, ai
mà không tin là tối đến có ngƣời hỏi thăm!"
Nay tibu lại trở về lại câu hỏi trên:
Sau khi cân đong đo đếm về phƣớc báu xong, tibu lên trên Đâu Suất và hỏi coi
có anh chàng nào muốn tháp tùng xuống chơi... cho biết đá, biết vàng không? Thì
cũng có vài ngƣời.
Nhận xét:
1. Sau đó thì tibu thấy rằng dân ở trên không có làm ăn gì nhiều lắm (vì có
lý lịch là dân mâm trên) nên lè phè, và không năng nỗ gì cho lắm. Nhí vừa vừa ra
đời từ đó.
2. Nên tibu thay đổi chiến thuật là đi xuống để tìm. Và cũng có ngƣời hƣởng
ứng. Thế là Nhí xịn ra đời.
Thông thƣờng thì nếu có trình độ tâm linh (Tam Thiền) thì có giấc mơ là cùng
tibu lên trên mà lựa đứa nhỏ.
Lại có hai vấn đề:
1. Lựa và ôm đi, là có con
2. Bốc lên, rồi thả xuống! Lại là chƣa có con (vì chƣa đủ điều kiện). "
2. Quy trình Nhập Thai của 1 linh hồn diễn ra nhƣ thế nào?
Buồng trứng có trứng chín. Vòi trứng hút buồng trứng và chỉ có trứng chín
thì mới bị hút vào vòi. Trứng lại có trang bị những sợi lông chung quanh nên khi
đang di chuyển trong vòi trứng mà đụng tinh trùng thì nhờ những sợi lông này mà
không thể thụ thai (Tất nhiên, do thiếu những sợi lông này mà có tình trạng thụ thai
ngoài tử cung). Khi di chuyển trong vòi trứng thì các sợi lông này rụng dần cho tới khi
trứng vào đƣợc tử cung thì sạch sẽ và sẵn sàng thụ thai.
Thì phải có ba cái, mới ra đƣợc một em bé: Trứng + Tinh Trùng + Linh
Hồn. Hai cái đầu là vật chất. Còn cái thứ ba là tâm linh. Mà tâm linh thì kèm theo
Ác và Thiện.
Ở đây định luật cộng hƣởng đƣợc áp dụng tối đa.
Ngắn gọn, khi linh hồn thấy đƣợc cảnh nghiên cứu thì linh hồn bị cuốn hút vào đó.
Lúc này nếu mà nó để ý đến Mẹ nó thì nó là con trai, và nếu ngƣợc lại thì nó
là con gái.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 159
Khi nó bị cuốn hút vào đó thì nó bị một cơn gió xoáy rất là mãnh liệt. Nó bị hút
vào đó và đầu thai.
Bàn về cơn lốc Nghiệp Quả:
Trong cơn lốc này về phần đứa bé thì nó bị cái tƣ tƣởng cuối cùng khi nó chết
vừa rồi chi phối rất là mạnh:
Thể xác sẽ là tập hợp của những thói hƣ tật xấu, cùng với những tánh tốt
của chính nó.
Tóm lại, nó là kết quả của chính nó qua những thói quen mà chính nó đã từng làm.
Phật Ngôn: Chính mình làm cho mình tốt, và cũng chính mình làm cho mình xấu.
Có nghĩa là nó phải trả những gì! Hoặc là làm chuyện gì khi nó thành
ngƣời! Là đã đƣợc định đoạt vào lúc này rồi.
Sự định đoạt này là do nguyên tắc: Gieo nhân nào thì lãnh quả đó!
Không có sự can thiệp từ bên ngoài!
Từ căn bản này, mà bé làm tốt thì sẽ dễ thở chút đỉnh. Còn mà càng làm xấu
hơn, thì càng ngợp thở hơn, sau khi thành ngƣời.
Cơn lốc và cộng nghiệp:
Khi nó bị cơn gió xoáy này thì nó lại bị cộng nghiệp với ngƣời Mẹ, và ngƣời Cha.
Ngay lúc này tƣ tƣởng ngƣời nào mà mạnh hơn thì nó lại bị ảnh hƣởng
nghiêng nặng về ngƣời đó hơn.
Ví dụ nhƣ:
Ngƣời Cha lại nghĩ về cô đào hát bóng (Tà Dâm trong tƣ tƣởng) thì nó bị
ngọn gió dằng vật từ nhè nhẹ cho đến dữ dội (Phim nhà nghèo, hay là thuốc kích thích...)
Linh hồn bị va vào vách tử cung đùng! đùng!
Và càng bị va vào thì càng bị mất trí nhớ, Khi lớn lên, nó càng chậm
chạp trong lối suy nghĩ dị thƣờng, và rất là khác ngƣời khi giải quyết sự việc
(Không đƣợc bình thƣờng).
Nhƣ vậy làm sao mà không bị hay là tránh bị va chạm đƣợc chừng nào
hay chừng đó?
Tại đây, thì ngƣời có tập an trú chánh niệm đằng trƣớc mặt lại chiếm ƣu
thế, có thể nói là 100%.
Tâm lực là từ Tam Thiền trở lên. (đề mục phát ra ánh sáng chói lòa về phía cái
thấy, hoặc là từ 40 cho tới 70 giây).
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 160
Ngƣời có tƣ tƣởng nhƣ vậy sẽ hét trong tâm câu Niệm Phật khi có linh tính là
sắp xong.
Cú nƣớc rút này cực kỳ quan trọng.
Sức hút của nó rất là mãnh liệt và có thể lật ngƣợc thế cờ ngay cả phía bên kia
có suy nghĩ Tà Dâm nhƣ thế nào đi nữa (Chỉ áp dụng cho Tam Thiền, những
mức độ khác thì tibu chƣa kiểm chứng).
Đây là chiêu thức một mất một còn với vấn đề này.
Tóm lại, khi làm nhƣ trên (hét trong tâm câu niệm thƣờng ngày) thì: Toàn
lực của công đức tu hành từ trƣớc tới giờ đều đƣợc bàn giao toàn bộ cho đứa con tƣơng lai.
Hiện tƣợng xảy ra, khi chấm dứt:
Đối tƣợng phía bên kia sẽ thấy bên này (bên hét trong tâm câu niệm) bị hụt
hơi và mệt lả.
Nhƣ vậy nếu Cha hay là Mẹ chỉ là "Cận Định" thì đứa bé đƣợc nâng lên cỡ
"Tha Hóa Tự Tại" khi nhập thai.
Sơ Thiền thì bé là Sơ Thiền khi nhập thai v.v… và v.v…
Tứ Thiền thì dĩ nhiên, bé "nhập thai biết và xuất thai biết".
3. Điều kiện để một ngƣời có thể làm tiền thai giáo nhƣ thế nào?
Có những ngƣời họ nguyện là họ sẽ làm cầu để lót đƣờng cho những ngƣời
giỏi ra đời.
Có những gia đình sống "Thuần Thiện" thì Linh Hồn cực kỳ giỏi sẽ tìm ra gia
đình này mà tự nghiến răng bay vào, tự mƣu sinh thoát hiểm (do ảnh hƣởng của
những va chạm vào vách tử cung, những va chạm này là do Mẹ là nhƣ vầy, và Cha thì
lại nhƣ kia: Khi nghiên cứu) và ra đời để làm tu sĩ.
Bàn về "Thuần Thiện":
Có nghĩa là chỉ sống rất là hiền lành, tu tâm, dƣỡng tánh, không hề nghĩ ác
và làm ác cũng không nổi! Là một gia đình lúc nào cũng nghèo nàn, bị ăn hiếp,
hoặc là đƣợc bà con hàng xóm thƣơng yêu, kính trọng và sẵn sàng giúp đỡ (Theo
kiểu: Nhà chị túng thiếu quá, thì chị cứ qua tôi mƣợn về xài, khi nào chị có thì chị
trả, chúng tôi không có đòi).
Nó khác với khái niệm "Chí Thiện" vì chí thiện là đỉnh cao của thiện thì nó
sẽ biến đổi thành Tà liền, theo quy luật Dịch Lý ( Cực Âm thì sinh Dƣơng; và
ngƣợc lại).
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 161
Do đó "Chí Thiện" thì có thể dẫn đến chuyện tầm bậy. Nhƣng "Thuần Thiện"
thì... không có chuyện đó.
Lý tƣởng là Cha và Mẹ đều an trú chánh niệm đằng trƣớc mặt, trình độ
"Tam Thiền trở lên".
4. Đứa bé ra đời xong thì có cần luyện tập an trú chánh niệm đằng
trƣớc mặt không? Hay tự bé đã là một vị Bồ Tát xuất chúng và đi
làm hạnh ba la mật luôn?
Đây chỉ là một đứa bé với ác nghiệp và thiện nghiệp y nhƣ bao đứa bé khác!
Có nghĩa là:
Chuyện gì cũng có thể xảy ra cho đứa bé, nhƣng chắc chắn là nó sẽ tu hành.
Nhà gần ngƣời giỏi thì 7 tuổi đem nó tới ngƣời đó và đƣợc nhắc lại cách thức
An Trú Chánh niệm Đằng Trƣớc Mặt là yên tâm công tác! Nó có đi đông, đi tây thì
rồi nó cũng tu hành.
Còn những đứa khác thì sao?
Quanh quẩn hai vấn đề: Ăn ngay nói thật, và chữ Hiếu.
7, 14, 21 tuổi là những thời gian thay đổi tâm lý: Ác nghiệp có thể vào
cũng nhƣ là Thiện nghiệp cũng có thể tới: Ăn nhằm vào môi trƣờng và cái nhìn của nó.
Vì đây là những đứa mà mình bị vuột tay (nó ra đời trƣớc khi mình biết cách
tu), nên còn nƣớc thì còn tát. Đƣợc tên nào, hay tên đó. Còn không đƣợc thì... thôi!
Không có gì phải nặng nề.
Đây là những viên thủy ngân đã bị rớt xuống đất. Muốn lấy nó lên thì
phải nhẹ nhàng và khéo léo ghê lắm. Còn lụp chụp là nó vỡ ra, hay là nó
chạy lung tung.
Có điều này:
Mình đã có những đứa con và cũng tính chuyện đầu tƣ này nọ, và để lại gia tài,
của cải với mục đích là: Hy vọng là nó đỡ khổ. Khi đứa nhỏ tu hành thật là giỏi
thì nó đang đi trên đƣờng hết khổ (chớ không phải là đỡ khổ), và nó đi giỏi hơn là
cách của mình đang đi! Thì đừng có mong là đứa nhỏ sẽ xuất sắc ở Đời và ở
Đạo. Thông thƣờng chỉ làm đƣợc một cái mà thôi.
Không phải chỉ riêng mình!
Mà có một giai thoại kể về một ông Vua, khi Hoàng Hậu tới nghe Đức Phật
thì lại đắc quả A La Hán, trong khi đó Vua thì chƣa đƣợc gì. Và ngay hôm đó là
Hoàng Hậu đi xin ăn.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 162
Phật có nói là:
- "Ông này không làm chuyện đời đƣợc nữa"!
Vua chỉ còn nƣớc là:
- "Thôi thì Ngài cho vợ con xin ăn quanh thành phố để con còn dịp để
nhìn nàng, vì con thƣơng nàng lắm"!
Nên chuẩn bị tinh thần nhƣ vậy, khi có Nhí ra đời.
Vai trò của ngƣời cha trong lúc này là gì? Ngƣời cha phải và nên làm gì khi
biết mình sắp có con và mong nó trở thành tu sĩ thứ thiệt trong cuộc đời?
Tại đây chỉ nhận dân có nghề, ngƣời Cha hay là Mẹ mà không có nghề thì chỉ
chầu rìa. Không có tâm lực thì độ ảnh hƣởng rất là ít. Mẹ có nghề thì lợi điểm hơn
Cha. Vì Cha phải đi làm, còn Mẹ thì lúc nào cũng có bé.
a) Thời gian chuẩn bị: Ba tháng.
1. Ngƣời không có nghề: Ngƣời Mẹ có nghề hay là không, nên làm
chuyện này: Chép tay một cuốn kinh nhỏ và ngắn để chuẩn bị tâm thức cho có tí xíu
chất tâm linh trong đó.
2. Ngƣời có nghề thì: Công phu, công phu và công phu. Sau khi xả thì liền nghĩ tới
đứa con và trộn đứa con theo tỷ lệ: 50% của mình với 50% của bà xã.
3. Tƣ thế điều hòa khí lực cho cả hai vợ chồng, có tên là: Tƣ Thế Chuyển
Luân Vƣơng:
Nằm nhƣ thế nào cho hai lòng bàn tay và hai lòng bàn chân của cả hai
vợ chồng đụng với nhau, trƣớc khi ngủ thiếp đi! Chớ không phải là của một ngƣời,
hay là mỗi ngƣời đâu nghe.
b) Thời gian nghiên cứu: Sau lúc rụng trứng 24 giờ.
Chỉ cần một lần là đƣợc.
c) Sau khi có bầu:
Công việc là làm cho bé thƣ giãn chừng nào thì hay chừng đó. Bằng cách
dùng công phu (Niệm và nhập chánh định trên đề mục của mình và để tay lên bụng:
Đứa bé đang gò cứng thì lại thƣ giãn một cách rất là sâu:
Ngƣời Mẹ có thể cảm nhận đƣợc điều đó.
Các điềm lành cũng có thể xảy ra, chỉ có trong vài trƣờng hợp đặc biệt:
Giấc mơ đi tìm con,
Hay là ngƣời Mẹ đi học kinh.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 163
Ngƣời mẹ (khác tôn giáo) đang đọc kinh thƣờng xuyên của mình thì bị lôi vào
câu niệm: A Di Đà Phật. (Hơi hiếm).
Những hành vi nên tránh của cha và mẹ trong lúc mang thai?
Coi phim nhà nghèo. Gây gổ với nhau. Mẹ ăn dƣa (Âm quá). Mẹ chạy, nhảy,
leo trèo... (Tất nhiên, nếu là vận động viên thể thao thì cũng chƣa đến nỗi nào).
Nghiên cứu liên tục trong ba tháng đầu, tính từ khi có bầu.
Một số các câu hỏi khác đã đƣợc trả lời gián tiếp đâu đó rồi. Bà con nên đọc
lại cho kỹ. Tất nhiên là chủ đề này là không có chuyện đóng, hay là kết luận. Bà
con cứ việc suy nghĩ, hễ mà nó ra cái gì thì ghi lên miếng giấy chớ không thôi nó
quên. Tất nhiên, lubu có những trƣờng hợp tiền thai giáo bằng... Niệm Phật. Niệm
Phật quán chấm đỏ. Xin mời quý Bạn ghi vội vào hàng về chuyện này cho bà con
sau này lên tinh thần.
5. Hỏi - Đáp
1. Do Ác nghiệp gì mà bào thai trở thành dị dạng bệnh tật?
Do chất độc. Nghiệp sát, Nghiệp Sân.
2. Khi ngƣời làm cha mẹ là những ngƣời đang tập tu biết mình có con nhƣ vậy
thì nên làm gì? Chỗ này nó vô cùng khó luôn chú ơi…
Biến Nghiệp thành Nguyện. Vui vẻ mà Trả một lần cho thật là đàng hoàng và
để cho nó hết luôn.
3. Khi bào thai va vào thành tử cung thì sẽ từ từ quên đi mọi chuyện, nhƣ
vậy làm sao để bào thai đừng va vào thành tử cung vì ngƣời mẹ còn có những
sinh hoạt hằng ngày?
Tà Dâm trong tƣ tƣởng là một trong những nguyên nhân làm cho cơn
bão nghiệp lực trở nên quá mạnh: Linh hồn ( linh hồn cũng đã từng là nhƣ vậy!
Cộng nghiệp mà) khi bị cuốn hút ngay vào lúc đầu thai thì bị va vào tử cung.
Chớ không phải là ngƣời mẹ sinh hoạt hằng ngày nhƣ là lăn lộn, chạy giặc, hay
là chiến đấu, hô hào... mà Linh hồn mới bị va vào tử cung đâu. Có làm nhƣ vậy thì
thai bị động chớ linh hồn không có bị va vào thành tử cung.
Kế đó là Sân Hận.
Sự tác hại nó tỷ lệ thuận với tâm lực.
Phật nói có một chữ: lửa. Thì nên hiểu: Là nó thiêu rụi hết đó Sân Hận là thuốc
độc trong tâm linh.
Tu sĩ tẩy chay cái này, và làm càng sớm chừng nào thì càng tốt chừng đó.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 164
Có nghĩa là khi chƣa tu mà Sân Hận thì cao lắm là bể chén, bể đồ trong nhà.
Hay vài ngƣời bị chết là cùng.
Còn khi tu hành đã có tâm lực thì nó chặn đứng lại hết. Nếu quá mạnh thì nó
làm cho mình trở thành bất bình thƣờng và mình phải mất thời gian để học cho thật là
thuộc cái bài này.
4. Vì sao lại tập trung đánh mạnh vào 3 tháng đầu kể từ ngày mới thụ thai
vậy chú? Còn sau đó thì sao chú ơi?
Bé đang tu ở cõi của nó và bị hoa sen bốc đi bổ nhiệm chỗ khác. Bé rất là
sợ chuyện không đƣợc tu hành. Tâm hồn hoang mang và lo lắng. Sau khi đầu
thai, không bị va vào tử cung và lại còn nghe câu niệm Phật thì bé yên tâm công tác.
5. Nếu nhƣ đã mang thai 1 thời gian ngắn (dƣới 3 tháng) rồi mới biết những gì
chú chỉ dẫn thì phải làm gì để chữa cháy vậy chú?
Thay đổi phƣơng cách sống, tu tập thiệt tình, ăn ngay nói thật, Có Hiếu với Ba
và Má. Chú ý tới sự Sân Hân.
Sau đó là khi bé gò, gồng, chòi... thì dùng công phu mà thoa dịu nó. Nên nhớ
là "Còn nƣớc, còn tát" và làm đại theo kiểu tới đâu hay tới đó.
6. Ngƣời cha có nên đọc câu sám hối mà chú hay dạy để giúp cho đứa con
của mình đỡ đƣợc ác nghiệp và ra đời cho ngon lành, có đƣợc không chú?
7. Nếu tâm thức của ngƣời mẹ còn yếu thì nên niệm làm sao để giúp đứa con
mình thoát khỏi vòng ác nghiệp vậy chú?
Còn nƣớc còn tát, làm đại, và làm cái gì cũng đƣợc theo nguyên tắc: Công
Phu, công phu, công phu.
8. Chú ơi, có lần đang ngủ, con mơ thấy mình đang đi trên đồi thông ở Đà
Lạt và trên tay đang ẵm một đứa bé trai rất tuyệt vời xinh đẹp bỗng nhiên xung
quanh con xuất hiện 4 con quỷ ở 4 hƣớng, và tụi nó đòi bắt đứa bé đi, con nhất
định không cho và nghĩ rằng "muốn sống chết thì bắt tôi đi, chứ đừng đụng vào
đứa nhỏ này", vậy là tụi nó nhào tới liền. Con cố gắng bắt ấn và chống trả, có con
quỷ đánh vô sau lƣng con, có con đánh vô bên phải, con đánh trƣớc ngực nhƣng
không làm gì đƣợc vì con đang dùng tay phải bắt ấn mà. Riêng con bên trái thì lợi
dụng lúc tay trái con ôm đứa bé và không bắt ấn đƣợc nó thò tay chụp ngay đứa
nhỏ trong lúc con đang trở tay bắt ấn ngăn cản nó. Con nghe tiếng đứa bé khóc
thét lên và bay mất. Con giật mình tỉnh dậy nhƣng bên tai vẫn nghe thấy tiếng
khóc thét của đứa bé. Vậy trƣờng hợp này là sao vậy chú?
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 165
Nó đẹp bên ngoài mà tâm nó lại là tâm quỷ thì quỷ nó mới dành. Còn với cái
đẹp ở bên trong thì quỷ nó dành về hang ổ của nó để nó... tế à! Giấc mơ thông báo là
nhìn bề ngoài nhiều quá đó.
9. Chú ơi, Loại kinh nào giúp ích cho ngƣời mẹ và bào thai trong quá trình mang thai
vậy chú? Chú có đƣờng link cho con xin. Con cám ơn chú lắm…
Thiên Chúa Giáo: Đức Mẹ ở Lộ Đức
http://www.dongcong.net/MeMaria/NhungNgayCuaMe/05.htm
http://www.dongcong.net/MeMaria/LinhDiaDucMe/10.htm
http://www.catholic.org/clife/mary/lourdes1.php (cái này có vẻ hay hơn)
Phật Giáo: Kinh Duy Ma Cật
http://www.thuvienhoasen.org/khduyma-00.htm
10. Trong mấy bài trƣớc, chú có nói đến đứa bé sinh ra sẽ trên con đƣờng hết
khổ, chứ không phải là đỡ khổ, và nếu nó đang tiến lên trên con đƣờng tinh thần, thì
về mặt vật chất, sẽ là không đƣợc đầy đủ.
Riêng đứa nhỏ thì chẳng có vấn đề gì lắm đâu: đủ ăn, đủ bận vậy thôi.
11. Nhƣ vậy thì đối với ngƣời vợ/ngƣời chồng (chủ yếu), bố mẹ anh chị em
của ngƣời sinh ra bé; nếu họ không đƣợc chuẩn bị tinh thần, chƣa hiểu gì về đạo thì
sẽ nhƣ thế nào ạ? Vì cũng không ai muốn con cháu mình sinh ra phải sống một cuộc
sống khổ sở về vật chất cả?
Gia đình thì giai đoạn đầu thì mệt mỏi lắm. Giai đoạn kế thì đỡ hơn vì đứa
trẻ đã lớn.
12. Có cách gì để giải quyết điều này không chú?
Tùy vào đứa nhỏ, nếu vì nguyên nhân nào đó mà nó nghiêng hẳn về Chuyện
Đạo thì... thôi (Thuận Hạnh Bồ Tát). Còn nếu mà nó nghiêng lại vào Đời thì phải
biết là "Nghịch Hạnh Bồ Tát" ra đời. Từ đây trở đi thì không còn tiêu chuẩn nào để mà
đo lƣờng đứa bé đƣợc nữa. Nó làm gì thì nó làm.
13. Gia đình thì giai đoạn đầu thì mệt mỏi lắm. Giai đoạn kế thì đỡ hơn vì đứa
trẻ đã lớn. Tại sao lại mệt mỏi vậy chú? Do gia đình có bất đồng quan điểm? Hay do
bé tập hăng quá nên hay bị bệnh? Giai đoạn đầu là giai đoạn bé bao nhiêu tuổi ạ?
Tại sao sau khi bé lớn thì lại đỡ hơn ạ?
Chỉ là phƣớc báu của gia đình. Ở bên Tây Tạng dân tình ở đây là nghèo
là chuyện bình thƣờng, nhƣng khi có tu sĩ ngon lành ra đời thì càng đói vì mất
mùa: Phƣớc báu không đủ.
14. Ra là do phƣớc báu của gia đình. Vậy để phƣớc báu đƣợc nhiều thì
mình nên tập an trú chánh niệm đằng trƣớc mặt để đạt đƣợc các tầng thiền và đến
lúc hồi hƣớng phƣớc đức của mình cho những trƣờng hợp nhƣ các nhí trên này đã
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 166
từng làm, thì phƣớc báu sẽ tăng lên. Và thế là khi ngƣời mẹ sinh ra bé, thì phƣớc
báu của gia đình may ra mới có thể chệch lệch không đáng kể so với bé. Cháu
nói nhƣ vậy có đúng không chú?
Đúng 100%
15. Vậy trƣờng hợp của gia đình chú thì nhƣ thế nào? Chú đạt đƣợc Tứ Thiền Hữu
Sắc từ rất lâu rồi, chứng tỏ phƣớc đức tạo ra cũng không thể gọi là ít. Vậy khi dùng phƣơng
pháp tiền thai giáo, thì gia đình có gặp lộn xộn không?
Chú thì: Đứa đầu thì bị suy dinh dƣỡng nhẹ (tiền thai giáo ba rọi: Chú là
"Cận Định" với sự tác ý là tìm một đứa để chỉ cho nó tập Yoga), đứa thứ hai thì ngon
lành (tiền thai giáo chiến đấu).
16. Câu hỏi của con hơi... thực dụng một tí. Con đọc thấy Chú có nói là khi
Nhí mà ngộ đạo thì bà mẹ cũng đƣợc 'ăn theo' (tức là ngộ đạo sau đó). Vậy tu sĩ có
nên nghĩ theo hƣớng "hy sinh đời bố củng cố đời con" không vậy Chú vì xem ra... đầu
tƣ uốn nắn một cái cây non bao giờ cũng dễ hơn cái cây già?
Cũng đúng, vì trong gia đình mà có một tu sĩ ba rọi thì bà con cũng
hƣởng đƣợc nhiều điều hay, huống chi là Nhí thì còn gì bằng. Nhƣng suy nghĩ nhƣ
vậy nó cũng đã hơi lỗi thời rồi. Vì Nhí sau này nó làm mạnh quá. Do đó cũng
không cần gấp gáp gì cho lắm.
17. Nhƣng những gì nó liên quan đến 'tôi' và 'của tôi' thì lại làm cái tâm mình
khó mà vô lƣợng cho đƣợc. Và Chú cũng đã nói "bạn đã chọn con đƣờng khó khăn" khi ai đó
mời Chú đi ăn cƣới. Điều này có thể đƣợc hiểu là nếu gặp thuận duyên thì cuộc sống 'mình ên'
vẫn là con đƣờng ngƣời tu sĩ nên hƣớng đến?
Tất nhiên, khi trang bị nhẹ thì đi xa hơn. Đó là trên lý thuyết, nhƣng mà nên
nhớ là con ngƣời khi sinh hoạt bình thƣờng thì hình ảnh chính xác nhất là hình
ảnh một ngƣời đang nhảy dù. Gió thổi chiều nào thì dù sẽ bay về hƣớng đó.
(đối với 99%). Ngƣời mà cƣỡng lại đƣợc là những ngƣời biết cách lèo lái (ý là
ngƣời biết cách tu). Và ngƣời rơi vào đúng ngay boong chỗ mình muốn thì phải
nói là trong muôn một!
Do đó, mà tibu cũng chỉ nói là: Dựa trên kinh nghiệm của ngƣời đi trƣớc mà cứ
làm theo đại. Y nhƣ Nhí: Tụi nó làm đại. Thấy là nói Thấy.
Chớ còn "ngƣời lớn" khi "Thấy" thì lại cứ cho rằng "Không phải đâu: Đây chỉ
là trí tƣởng tƣợng".
Chỉ có khác nhau một tí xíu chỗ đó thôi mà cách xa nhau cả hàng tỉ năm ánh sáng
(ý nói về trình độ Tâm Linh).
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 167
D. PHỤ ĐÍNH
I. TỨ NIỆM XỨ
Trong Vipassana cái khó hiểu nhất là cái câu "An Trú Chánh niệm
Đằng Trƣớc Mặt". Nhƣ trong bài kinh quán niệm hơi thở của Trung Bộ Kinh tập ba:
http://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung118.htm:
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến
ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lƣng thẳng và trú niệm trước mặt Chánh niệm, vị ấy
thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra.
Nay lại bàn tiếp:
Và sau đó là hàng loạt chi tiết nhƣ: Chánh niệm vị ấy thở vô; chánh niệm vị
ấy thở ra. Thông thƣờng thì hành giả hay thông qua cái chi tiết trên ( trú niệm
trƣớc mặt).
Và nhảy vào làm ngay vipassana ngay trên cảm giác của thân thể hay ngay
trên những biểu hiện của tâm thức. Hành động vội vàng này cũng giúp hành giả vào
đƣợc một ít thanh tịnh này nọ. Nhƣng sự thanh tịnh theo kiểu của các bậc Thánh (nhƣ
Tu Đà Hƣờn, Tu Đà Hàm,...) thì chƣa đƣợc.
Tại sao? Là vì:
Tuy rằng sau một thời gian thực tập nhƣ trên thì cái cảm giác của "Vô Thƣờng"
nó có xuất hiện, nhƣng tình trạng này chỉ là tình trạng... Ba chớp ba nháng, và chƣa
đƣợc thƣờng trú.
Do chƣa đƣợc thƣờng trú nên hạnh phúc Giải thoát chƣa hiện tiền. Do
hạnh phúc Giải Thoát chƣa hiện tiền nên quả vị Bậc Thánh còn bấp bênh.
Ví dụ nhƣ khi gặp chuyện bực mình thì hành giả bị lôi cuốn ngay vào đó liền
và do tính cách bị lôi cuốn vào đó nên tham sân si cứ loạn xạ cả lên.
Khác với cảnh của Đức Vua Bình Sa Vƣơng, với quả vị Tu Đà Hƣờn cùng
với nghiệp sát cao nhƣ núi Hy Mã Lạp Sơn! Trong đoạn trích dẫn sau đây, quý
Bạn sẽ thƣởng thức phản ứng của ngƣời thánh tăng này khi gặp chuyện trắc trở theo
kiểu "trời ơi, đất hỡi" này!
Trích Đoạn từ cuốn "Đức Phật và Phật Pháp" của Narada
http://www.budsas.org/uni/u-dp&pp/dp&pp11.htm [... ]
Hoàng tử Ajatasattu ( A Xà Thế) bị Devadatta ( Đề Bà Đạt Đa) xúi giục,
âm mƣu sát hại vua cha là Bimbisara (Bình Sa Vƣơng) để chiếm ngôi. Nhƣng công
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 168
việc bại lộ, Ajatasattu bị bắt quả tang, và ngƣời cha đầy lòng bi mẫn không đành
xử phạt xứng đáng nhƣ quần thần xin, mà còn nhƣờng ngôi vàng cho hoàng tử, vì
thấy con thèm muốn làm vua. Để trả ơn, vị hoàng tử bất hiếu vừa lên ngôi liền hạ
ngục cha và ra lệnh bỏ đói cho chết dần. Chỉ một mình hoàng thái hậu đƣợc phép
vào thăm. Mỗi khi đi, bà giấu đồ ăn trong túi áo đem cho chồng. A Xà Thế hay
đƣợc quở trách mẹ... Sau lại, bà giấu trong đầu tóc. A Xà Thế cũng biết đƣợc.
Cùng đƣờng, bà tắm rửa sạch sẽ rồi thoa vào mình một thứ đồ ăn làm bằng mật
ong, đƣờng và sữa. Vua gợt lấy món ăn này để nuôi sống. Nhƣng Ajatasattu ( A Xà
Thế) cũng bắt đƣợc, và cấm hẳn mẹ không cho vào thăm vua cha nữa.
Lúc ấy Bimbisara (Bình Sa Vƣơng) cam chịu đói, nhƣng lòng không oán
trách con. Ngài đã đắc Quả Tu Đà Hƣờn nên thản nhiên, cố gắng đi lên đi
xuống kinh hành, chứng nghiệm hạnh phúc tinh thần.
Thấy cha vẫn vui tƣơi, Ajatasattu (A Xà Thế) nhất định giết cho khuất mắt
nên hạ lệnh cho ngƣời thợ cạo vào khám, lấy dao bén gọt gót chân vua cha, xát
dầu và muối vào rồi hơ trên lửa nóng cho đến chết. Khi ngƣời cha bất hạnh thấy thợ
cạo đến thì mừng thầm, ngỡ rằng con mình đã ăn năn hối cải, cho ngƣời đến cạo
râu tóc để rƣớc về. Trái với sự ƣớc mong của Ngài, anh thợ cạo đến chỉ để thi
hành lệnh dã man của Vua A Xà Thế một cách tàn nhẫn, đem lại cho Ngài một cái
chết vô cùng thê thảm.
[... ]
Nay, đệ lại bàn tiếp về chi tiết quan trọng trên:
Đây là cái mồ chôn tập thể của những ai đang miệt mài tập vipassana
mà không biết cách "An Trú Chánh niệm Đằng Trƣớc Mặt"
Do không biết cách "An Trú Chánh niệm Đằng Trƣớc Mặt" mà suốt thời
gian miệt mài sati, hành giả chỉ có thể chơi với Thô Tâm mà thôi, còn Vi Tế Tâm
thì chƣa đụng tới đƣợc.
Chuyện này, cũng y nhƣ trò chơi "Đập đầu con chó cỏ" ở các chợ phiên.
Ngƣời chơi chỉ cần cầm cái búa và đập lên đầu những con chó cỏ sẽ trồi lên từ những
cái hang. Con chó trồi và khi ngƣời chơi đập đƣợc vào đầu nó thì nó lại thụt xuống
và con khác lại trồi lên...
Cảnh này y chang nhƣ tình trạng làm vipassana mà không có biết:
"An Trú Chánh niệm Đằng Trƣớc Mặt"
Tƣ Tƣởng, y nhƣ những con chó cỏ, nó cứ trồi lên và khi mình nhìn ra đƣợc
nó, y nhƣ lúc ngƣời chơi dùng búa đập trúng vào đầu của con chó cỏ, thì nó lại biến
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 169
mất hay đúng hơn là nó lại chìm xuống luồng Bhavanga. Và rồi từ đó nó lại tiếp tục
trồi lên, để rồi mình lại nhìn ra nó và nó lại chìm xuống luồng Bhavanga. Chu kỳ này
cứ lập đi, lập lại bất tận. Tạo nên một sự thanh tịnh nào đó nhƣng chƣa phải là sự
thanh tịnh của các bậc thánh.
Kỹ thuật:
Để thực hiện thật đúng lời dạy của Đức Phật, bọn mình phải biết cách "An
Trú Chánh niệm Đằng Trƣớc Mặt":
Khi theo dõi hơi thở. Hành giả nhắm mắt 100% và dùng trí tƣởng tƣợng
của mình mà tƣởng tƣợng ra: Một cái khung hình trong đó có cái bụng của
mình và cái bụng đó (cái bụng trong khung hình) đang phồng xẹp theo cái
bụng thật của mình, khi mình thở.
- Trở ngại: Vô số kể, khó vô cùng vì nó (cái bụng trong khung hình) không
thèm ăn khớp với cái bụng thật của mình. Hình ảnh thì lúc có, lúc không, cứ mờ
mờ, ảo ảo thấy mà chán!
- Tinh tấn: Cứ làm nhƣ vậy sau một thời gian, thì sẽ cảm thấy rằng:
1. Mức độ "bị lo ra" tan biến, vì độ tập trung tƣ tƣởng nó mạnh hơn.
2. Do mình đã... rù quyến đƣợc nguyên con "cái tâm" (Gồm cả thô tâm và vi
tế tâm) vào công việc làm vipassana.
3. Do nguyên con "cái tâm" nó làm nên khi nó phát hiện ra cái
Vô Thƣờng thì cái Vô Thƣờng nó trụ lâu dài hơn. Và có thể, nếu tinh tấn, thì
mình đạt đƣợc quả vị Thánh Tăng và sống rất là hạnh phúc bất chấp chuyện gì
xảy ra cho mình, y nhƣ vua Bình Sa Vƣơng với đứa con cực kỳ bất hiếu kia.
II. AN TRÚ CHÁNH NIỆM ĐẰNG TRƢỚC MẶT
Một kỹ thuật mà cho đến nay, có thể nói là đã gần nhƣ là thất truyền trong
Phật Giáo. Giá trị: Anh Sơn (A La Hán ở Đà Lạt) đã từng than thở:
“Tôi mà biết đƣợc cái kỹ thuật An trú chánh niệm đằng trƣớc mặt và sự
mầu nhiệm của nó thì tôi đã không uổng phí thời gian trong vòng 30 năm để tu
tập tầm bậy tầm bạ. ”
An trú chánh niệm đằng trƣớc mặt có đề cập đến trong kinh điển nhƣng không
có một ai biết đƣợc hết cái giá trị siêu phàm vƣợt thánh của nó! Vì sự thật là: rất ít ai
biết cách thức an trú chánh niệm đằng trƣớc mặt!
Nên nhớ rằng: Kinh Majjhima Nikaya (Trung Bộ Kinh tập 3) kinh số 107.
Kinh Ganaka Moggallàna ( Ganakamoggallàna sutta) có đề cập đến một trình tự tu
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 170
tập và trong đó, Đức Phật cũng có nhắc đến chuyện chú ý tỉnh giác khi đi đứng nằm
ngồi và sau đó là quy trình "an trú chánh niệm đằng trƣớc mặt" và chỉ có bấy nhiêu
mà thôi, còn phần kỹ thuật thì không ai biết nó ra làm sao cả!
1. An Trú Chánh Niệm và Chú Tâm:
"An Trú Chánh Niệm Đằng Trƣớc Mặt". Nó là một trời một vực với cái
chuyện chú tâm vào hành động của mình. Cái chú tâm vào hành động của mình, nó không
dẫn mình đi tới đâu hết vì đó là giai đoạn đầu của "Chánh Niệm".
Phân tích ra thì thấy liền:
Khi mình chú tâm vào một mục tiêu Đang Di Động ( ở đây là hành động
của mình) thì tâm của mình cũng Di Động theo mục tiêu đó.
Vì hành động này vẫn còn là Động nên không thể dẫn dắt mình vào Chánh
Định đƣợc.
2. Chánh Định:
Là an trú và làm cho đề mục xuất hiện nhƣ thật đằng trƣớc mặt bằng sự
tập trung tƣ tƣởng ( có bốn mức độ sâu dày riêng biệt từ Sơ tới Tứ Thiền). Ví dụ:
Tu sĩ nhắm mắt lại, và tập trung tƣ tƣởng về một ngọn lửa bằng cách: vẽ nó bằng
trí tƣởng tƣợng của mình. Cho tới khi: Linh ảnh của ngọn lửa xuất hiện đằng trƣớc
mặt mình rõ ràng nhƣ thật (nên nhớ là chỉ có một ngọn lửa thôi, chớ không có
đèn đuốc gì ở dƣới đó cả!).
Có thể nói "Chánh Định" đƣợc hiểu theo định nghĩa sau đây: "An trú
chánh niệm đằng trƣớc mặt", là một cách... đánh vần và ghép chữ khi hành giả gặp
chữ "Quán" trong các công thức để vào các Mạn Đà La (vòng phép hay còn gọi là
đàn pháp).
Để quán cho ra hồn thì hành giả phải có một trình độ tập trung tƣ tƣởng rất
là cao. Thể hiện bằng một tâm lực rất là mạnh và kiên cố. Có nghĩa là một khi đã
tập trung vào một đề tài hay đề mục nào, thì hành giả rơi ngay vào tình trạng "quên
rằng mình đang ở đâu, và mình không còn nghe đƣợc những tiếng động bên ngoài nữa".
Với hai tình trạng trên, hành giả có thể khẳng định rằng mình nay đã có một
định lực rất là vững bền. Nếu so sánh với khi hành giả đang ra sức học một ngôn ngữ
mới thì hành giả phải qua những bƣớc sau đây:
- Cách biết mặt chữ.
- Cao hơn một tí là cách ghép chữ và đánh vần.
- Cao hơn một tí nữa là cách tránh lỗi chính tả.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 171
- Cao cấp nhất là cách hành văn sao cho mạch lạc, dễ hiểu, với đầy đủ dấu chấm câu.
Với bốn yếu tố trên, hành giả có thể tự hào rằng mình đã rành cái ngôn ngữ đó.
Thì ngôn ngữ tâm linh cũng phải qua bốn trình độ của sự nhập chánh định:
1. Sơ Thiền: đề mục xuất hiện ngay đằng trƣớc mặt lâu khoảng 12 giây.
2. Nhị Thiền: đề mục xuất hiện lâu hơn một tí: hơn 12 giây, và có thể kéo dài
đến 40 giây.
3. Tam Thiền: thì sự xuất hiện lại lâu hơn trên 40 giây và sẽ biến mất
vào khoảng 70 giây.
4. Tứ Thiền: thì sự xuất hiện lại lâu hơn: đề mục xuất hiện trên 70 giây.
Đến trình độ Tứ Thiền thì hành giả mới có đủ khả năng để... quán cho ra một
cái gì đó. Chƣa đến trình độ này thì chỉ là... nói không mà thôi! Chớ chƣa có thể làm
đƣợc gì cả. Do vậy mà đệ đƣợc các Ngài mách nƣớc cho một công thức chính để có
thể vào bất cứ Mạn Đà La (vòng phép hay đàn pháp) nào. Có thể nói đây là cách
hành pháp thuộc thế hệ thứ hai về Mật Tông.
Và cũng từ đó đệ mới biết rằng:
Khi "An Trú Chánh Niệm Đằng Trƣớc Mặt" thì phép lạ liền xảy ra. Kế đó, là
cảnh "Tức nƣớc vỡ bờ":
3. Quán Pháp trên Pháp:
1. Nhắm mắt 100%, tƣởng tƣợng cái tƣ thế mình đang nằm/ngồi trên ghế hay
trên giƣờng. Khi đã thiện xảo về phép "An Trú Chánh Niệm Đằng Trƣớc Mặt" rồi
thì hành giả có thể mƣờng tƣợng ra cái thân mình đang đi trên hè phố.
2. Niệm: "Buồn à! Buồn à!"
3. Cảm giác buồn rầu y nhƣ cái bánh xe bị xì hơi: Cảm giác buồn nó giảm
một cái... Vèo! Đúng là phép lạ Vipassana
4. Hành giả đƣợc ngay cái tính miễn nhiễm ở trình độ buồn này.
Có nghĩa là Hành giả sẽ bị buồn lại và chỉ buồn khi cái buồn nó nặng nề
hơn tình trạng này. Còn nếu nó nhẹ hơn hay bằng thì cũng chỉ mỉm cƣời và dƣ
sức qua cầu.
Nhƣ vậy, hai cách quán kia cũng cùng công thức.
TB: Cũng y nhƣ Ngài U Silanda đã đề cập: Chánh định lại nằm ngay
trung gian của Chánh niệm và Chánh Huệ nhƣng Ngài lại không miêu tả cái kỹ
thuật nó ra làm sao.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 172
4. Khi Niệm Thân:
Sau một thời gian thực tập và tu sĩ đã tỉnh giác đƣợc rồi, thì kế đến là phần kỹ
thuật an trú chánh niệm đằng trƣớc mặt trên "Thân" nó là nhƣ thế này:
Bƣớc thứ nhất:
Tu sĩ nhắm mắt 100% và nhìn chăm chăm về hƣớng đằng trƣớc mặt, ngang
với tầm nhìn và dùng trí tƣởng tƣợng của mình, tƣởng tƣợng ra một cái hình
ellipse (hột vịt mà hai đầu đều bằng nhau) dựng đứng. Thông thƣờng thì khi hình
này hiện ra thì đã có một hình ảnh ( mờ mờ) của một Con Ngƣời ngồi theo thế
kiết già và bận áo Thầy Chùa màu vàng. Nhƣ vậy trong kỹ thuật an trú chánh
niệm đằng trƣớc mặt với đề mục là "Thân" thì hành giả phải thấy đƣợc hai 2 thành
phần của Con Ngƣời:
a. Thành phần Hào Quang (là phần không gian trong cái hình ellipse)
b. Và phần thân thể là cái hình Con Ngƣời bận áo Thầy Chùa, đầu trọc ngồi
kiết già ở trong cái hình ellipse đó.
(1) Ý nghĩa:
Tu sĩ đang bận áo Chánh Pháp và đang thực tập về cách quán hay an trú
chánh niệm đằng trƣớc mặt với đề mục là "Thân" với mục đích là ly khổ (cái đầu trọc).
(2) Trình độ:
- Bƣớc thứ nhất (Thấp): Hành giả dùng trí tƣởng tƣợng của mình và bằng
cái nhìn chăm chăm vào cái linh ảnh đó và... tô (sơn) nó lên, và làm cho nó thật là rõ, khi cái
hình nó nổi lên rõ ràng thì đó là dấu hiệu báo rằng bƣớc thứ nhất đã tạm đƣợc.
- Bƣớc thứ nhì ( Cao): Hành giả dùng trí tƣởng tƣợng và... thấy luôn cả
bộ xƣơng. Đây là trình độ cao nhất mà hành giả có thể an trú chánh niệm đằng trƣớc
mặt trên đề mục là "Thân".
(3) Khó khăn:
Khó vô cùng, vì nó đòi hỏi "nguyên con cái tâm" (Vi tế tâm và Thô Tâm)
phải tham gia vào việc quán hay an trú chánh niệm đằng trƣớc mặt. Do vậy mà tu sĩ
phải thật là chú tâm vào công thức quán này, thì nó mới chịu ra. Và phải kiên định
lập trƣờng ( phải tập cho xong) cũng nhƣ tinh tấn đến cao độ, có thể nói là tập "một
mất một còn" với nó... thì mới xong cái phần căn bản này!
(4) Nhận Xét:
a) Kỳ lạ là: Tuy rằng tu sĩ, đang nằm, hay ngồi trên cái ghế, để quán thì lúc
nào hình ảnh của Con Ngƣời trong cái hình ellipse cũng đều ngồi ở tƣ thế Kiết Già!
Và lúc nào cũng bận đồ cà sa màu vàng và đầu lúc nào cũng là đầu trọc.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 173
b) Một khi cái phần căn bản trên đã làm xong thì khi áp dụng kỹ thuật an
trú chánh niệm đằng trƣớc mặt vào Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì chỉ là trò hề! Nó rất là
dễ làm và có kết quả có thể nói là rất là tức thời!
(5) Áp dụng:
a) Hơi thở: áp dụng cho cả hai trình độ ( thấp và cao), khi an trú chánh
niệm đằng trƣớc mặt thì tu sĩ sẽ thấy rằng: khi mình thở "ở ngoài này" thì cái
ông đang ngồi xếp bằng đó cũng thở y chang nhƣ mình! Sự hoạt động đồng bộ này
là dấu hiệu của "nguyên con cái tâm" nó đang học và khi nó học thì nó hiểu rằng:
Tất cả đều có, khi còn cái phồng xẹp này! Và tất cả sẽ biến mất, khi không còn cái
phồng xẹp này nữa (dĩ nhiên).
(Trƣớc đây chỉ có cái "Thô Tâm" nó hiểu mà thôi, còn cái "Vi Tế Tâm" thì
nó cứ lăng xăng nên sự hiểu biết này chƣa có đủ sức mạnh để ngăn cản những sự
xé rào (bỗng dƣng mình cảm thấy ƣa cái này, thích cái kia), và nhất là những cơn
bùng dậy của Tham, Sân, Si sau khi đã... ngủ ngầm một thời gian! Nay, cũng là bổn
cũ soạn lại, nhƣng lần này thì có cái khác là: Nguyên con cái tâm nó biết và một khi nó
biết rõ là nhƣ vậy, thì nó tự điều chỉnh.
Nên chỉ cần vài tuần, hay vài ngày thì nó đã đủ sức mạnh để hiểu rõ cái tình
trạng "Vô Duyên" hay sự "Lãng Xẹt" khi mình tham cái này, giận cái kia, hay thích
cái nọ! Ái mà dứt đƣợc rồi, thì cái gì mà còn?)
Kết quả: Tập nhƣ vầy thì cũng đã đủ để siêu vƣợt thế gian rồi.
b) Đi (Đứng, Nằm, Ngồi): Chỉ áp dụng cho trình độ cao, hành giả vừa đi
vừa quán thấy nguyên cả bộ xƣơng mình cũng đang đi, y chang nhƣ mình đang
đi ở... ngoài này!
• Trí Tuệ: Cả bộ xƣơng mà đi đứng nằm ngồi thì rõ ràng là tu sĩ hết còn cái
nhìn ở lớp da (ai cũng biết cái nhìn này tạo ra sự phân biệt: có Nam, có Nữ, có Già, có
Trẻ, có Đẹp, có Xấu,...) mà nó đã vào tới tận cùng xƣơng tủy. Chỉ cần nguyên con cái
tâm (gồm cả hai phần: Vi Tế tâm và Thô Tâm) mà thấy đƣợc nhƣ vậy thì tự nó hiểu
rằng không có Nam, không có Nữ, không có Già, không có Trẻ,... Vì vậy mà nguyên
con cái tâm nó dứt đƣợc hết các phân biệt này nọ.
• Kết quả: đi coi vũ sexy thì chỉ thấy bộ xƣơng nó cục cựa, nhìn thấy ngƣời
đẹp cƣời thì cũng chỉ thấy có bộ xƣơng nó cƣời. Tham ái tự dứt: A Na Hàm và A
La Hán trong tầm tay. Tập tới đây thôi cũng là đủ rồi! Không cần tập thêm cái gì nữa cả.
c) Thọ, Tâm, Pháp: Ba cái này rất là dễ làm! Chỉ cần tu sĩ chú ý đến cái
phần không gian trong cái hình ellipse (cái hào quang).
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 174
Nguyên tắc: Một khi mà nguyên con cái tâm nó đã biết thế nào là đẹp thế
nào là xấu thì nó tự động không thèm tham gia vào những hành động hay những
suy nghĩ dẫn đến những cái xấu nữa! Y nhƣ tình trạng đem cứt mà để lên bàn thờ
vậy! Nguyên con cái tâm nó không chấp nhận và nó cũng không làm đƣợc nhƣ vậy luôn.
Thực tế, khi an trú chánh niệm đằng trƣớc mặt của "Thân trên Thân" thì nó đã
tự động dẫn đến cái chuyện không còn Tham, Sân, hay Si rồi! Nhƣng để gọi là "đóng
chốt" luôn cái tình trạng này, nên các tu sĩ khác cũng đã cẩn thận cho "nguyên con cái
tâm" nó học hỏi và hiểu biết luôn với mục đích là để chừa luôn, không còn thèm
Tham Sân Si nữa: Bằng cách cho nguyên con cái tâm nó hiểu rằng những chuyện gì sẽ
xảy ra khi mình Tham, Sân và Si.
c.1. Thực hành:
Cho tới bây giờ thì khó có cơ hội để mà Sân hận đƣợc! Nên chỉ còn hai cách:
• Nhìn ngƣời ta đang Sân Hân hay Tham: Sau đó thì nhìn hào quang của ngƣời
đó. Tu sĩ sẽ thấy nó dơ nhƣ cứt vậy! Chỉ cần một lần thôi thì nguyên con cái tâm nó
chê và không thèm chơi luôn với ba cái Pháp lăng nhăng này.
• Hồi tƣởng lại hồi xƣa: Mình cũng còn giận hờn nhƣ ai vậy và tác ý muốn
thấy lại cái hào quang của mình ngay vào lúc đó: Liền thấy ông ngồi Kiết Già với cái
đầu thì trọc mà lại có cái hào quang quá là dơ dáy!
Dĩ nhiên chỉ cần làm một lần thôi thì cả nguyên con cái Tâm nó đã thuộc bài
và không thèm chơi với ba cái pháp theo kiểu xịt bộp này nữa! Trên đây chỉ bàn đến
kết quả tất nhiên của kỹ thuật an trú chánh niệm đằng trƣớc mặt.
c.2. Nguyên Tắc Trả Nghiệp
Nay đệ lại bàn về sự mầu nhiệm của an trú chánh niệm đằng trƣớc mặt đối với
ác nghiệp quá khứ và nguyên tắc trả nghiệp! Muốn bàn về vấn đề này thì nên biết
về vài thông số kỹ thuật mà đệ đã thực nghiệm qua: Tất nhiên là khi an trú chánh
niệm đằng trƣớc mặt thì tu sĩ sẽ có thể đo đƣợc sự xuất hiện lâu hay mau nhƣ thế nào
của đề mục. Tuy rằng không chính xác cho lắm nhƣng cũng gọi là tàm tạm.
Và sau khi nhìn lại từ trình độ Tứ Thiền thì đệ đã đúc kết ra đƣợc thời gian
tối thiểu mà đề mục xuất hiện đằng trƣớc mặt để xác định trình độ tâm linh của cá
nhân đó nhƣ sau:
- Hình ảnh đề mục xuất hiện ngay đằng trƣớc mặt, ngang với tầm nhìn và lâu
tới 12 giây: Sơ Thiền
- Hình ảnh đề mục xuất hiện ngay đằng trƣớc mặt, ngang với tầm nhìn và lâu
từ 12 tới 40 giây: Nhị Thiền
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 175
- Hình ảnh đề mục xuất hiện ngay đằng trƣớc mặt, ngang với tầm nhìn và lâu
từ 40 tới 70 giây: Tam Thiền
- Hình ảnh đề mục xuất hiện ngay đằng trƣớc mặt, ngang với tầm nhìn và lâu
trên 70 giây: Tứ Thiền
Theo Kinh sách thì:
Tuổi thọ của Sơ Thiền: từ 1/3 đến 1 A Tăng Kỳ Kiếp
[1 A Tăng Kỳ là: Một con số một với 47 con số không ( từ điển Phật Học
của Đoàn Trung Côn) ] ( Và một kiếp là vài trăm vạn năm ở Trái Đất)
Tuổi thọ của Nhị Thiền: từ 2 đến 8 Đại A Tăng Kỳ Kiếp. Tuổi thọ của Tam
Thiền: từ 12 đến 32 Đại A Tăng Kỳ Kiếp.
Tuổi thọ của Tứ Thiền: từ 500 đến 16000 Đại A Tăng Kỳ Kiếp
Nhƣ vậy tuổi thọ này nó tính ra làm sao đối với một Con Ngƣời đang tu tập
với cách an trú chánh niệm đằng trƣớc mặt?
Ví dụ nhƣ là tu sĩ chỉ tới Sơ Thiền có 12 giây đồng hồ:
Phải hiểu rằng tu sĩ chỉ ở Sơ Thiền chỉ có 12 giây thôi và hiện tƣợng tuột định
liền xảy ra. Lý do là do hết sức, hoặc là do độ nhập Chánh Định chƣa có mạnh cho
lắm vì chƣa quen vậy thôi. Tuy vậy chỉ cần 12 giây vàng son này thôi thì tu sĩ đã có thể
bao trùm vài ngàn kiếp ở Trái Đất thuộc về quá khứ!
Tại sao?
(Đƣờng trở nên cực kỳ trơn trợt, xin Các Bạn giảm vận tốc đọc lại thật là chậm
và suy nghĩ cho kỹ)
Lý do là vì tu sĩ chết ở Sơ Thiền 12 giây trƣớc đó và tiếp tục sống lại liền ở
đây! Do vậy mà cái tuổi thọ mà tu sĩ đã sống 12 giây ở Sơ Thiền, nó... lại bao
trùm ngƣợc về quá khứ, Có nghĩa là khi sống 12 giây ở Sơ Thiền thì tu sĩ đã sống
tƣơng đƣơng với vài chục ngàn năm ở Trái Đất vào thời quá khứ!
5. Trả nghiệp
Đối với một ngƣời không có tu hành (anh A):
Khi ngƣời này (anh A) bị ai đó đá một cú vào đít của mình, thì chỉ có một ý
nghĩa duy nhất là: Vì kiếp trƣớc anh A này đã có đá vào đít của ngƣời kia một lần!
Và chỉ là nhƣ vậy mà thôi. Do vậy mà anh A rất là hận ngƣời đá vào đít của mình!
Vì anh A đâu có biết nguyên nhân hồi kiếp trƣớc đâu nè!
Đối với ngƣời tu tập theo cách an trú chánh niệm đằng trƣớc mặt thì
Nghiệp quả cũng sẽ tới với một cú đá vào đít, y nhƣ anh A đã bị! Nhƣng vì âm
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 176
hƣởng của thời quá khứ (do tuổi thọ 12 giây ở Sơ Thiền) nên nghiệp quả còn mang
một tính chất đặc biệt nữa là: Nó lại đại diện cho vài ngàn cú đá ở vào những kiếp
quá khứ! Do vậy mà tu sĩ này nhận cú đá với nụ cƣời trên môi. Vì tu sĩ biết chắc
rằng: Mình đã có dịp trả nghiệp vào thời quá khứ nhanh gấp vài ngàn lần so với một
phàm phu!
Vì lý do đó mà Đức Phật Thích Ca chỉ nhắc chừng cho những tu sĩ mới tu,
Ngài đã nói:
- Ông bị muỗi cắn suốt đêm và ông ngủ không đƣợc à! Ông nên nhẫn nại...
6. Phóng Tâm (Nghĩ bậy nghĩ bạ):
1. Nhắm mắt 100%
2. An trú Chánh Niệm đằng trƣớc mặt bằng cách: tƣởng tƣợng ra cái tƣ thế
của chính mình (tƣ thế nằm hay ngồi) trên ghế hay giƣờng.
3. Khi mình đã thấy rõ tƣ thế của mình rồi thì Niệm: Nghĩ bậy à! Nghĩ bậy à!
4. Cảm giác rúng động toàn thân, và liền sau đó là sự thanh tịnh.
Giải thích: khi an trú Chánh Niệm ra đằng trƣớc mặt thì Thô Tâm và Vi
Tế Tâm cùng hoạt động đồng bộ ( Sự đồng bộ này sẽ ảnh hƣởng đến cái hình
ảnh mà Hành Giả thấy đƣợc. Có nghĩa là sự đồng bộ càng mạnh thì hình ảnh
càng rõ ràng. Và khi mình niệm một tình trạng mất thằng bằng (ở đây là tình trạng
"nghĩ bậy") thì lập tức có một sự tự điều chỉnh (Vô Sƣ Trí chăng?), chấn động tự
điều chỉnh này ảnh hƣởng từ cái hào quang, qua các trung tâm năng lực và vào
hệ thần kinh. Sự rúng động này rất là mãnh liệt và có hiệu năng dập tắt tất cả
những tạp nhiễm trải dài từ Thô Tâm và ảnh hƣởng đến Vi Tế Tâm! Do cái tình
trạng thấm sâu vào Vi Tế Tâm nên cái âm hƣởng (ở đây là sự thanh tịnh) nó kéo
dài rất là lâu. Trong ứng dụng này, thì sự thanh tịnh ập đến ngay sau khi mình mới
niệm chỉ có ba lần.
Khác với khi mình niệm mà không an trú Chánh Niệm: Lúc này chỉ có
Thô Tâm niệm mà thôi tuy rằng nó cũng biến mất nhƣng nó có lại liền. Cách này
là dậm chân tại chỗ y nhƣ khi nhảy đầm vậy: Cũng có này có nọ nhƣng lại không
đi đâu xa cả.
So sánh hai cách công phu trên, mình có thể nói là cách có An Trú
Chánh Niệm đằng trƣớc mặt y nhƣ cảnh một lực sĩ dùng xà beng thọc sâu xuống đất và
bẩy hòn đá (thói quen hay tạp nhiễm) lên. Do cách này, hòn đá lung lay và có thể bị bật gốc.
Còn cách niệm mà không an trú thì là cảnh ngƣời lực sĩ dùng sức của mình mà xô cục
đá. Cục đá có thể lung lay nhƣng không thể bật gốc đƣợc.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 177
7. Hỷ Lạc
... Coi vậy chớ tài liệu này, và cũng nhƣ những tài liệu khác đều lại thiếu cái
phần quan trọng bậc nhất đó là kỹ thuật "An Trú Chánh Niệm Đằng Trƣớc Mặt".
Không có cái này thì không có cái cảm giác an vui theo cái kiểu tẩm ƣớt, tràn đầy,
sung mãn y nhƣ kinh đã nói có nghĩa là tới trạng thái Sung mãn thì khi để ý đến cái
đầu gối thì cũng thấy nói... vui. Cảm giác đặc biệt này chỉ dành cho những ai biết
cách "An Trú Chánh Niệm Đằng Trƣớc Mặt". Mọi ngƣời khác thì không cách gì mà
có đƣợc cái cảm giác An Vui một cách chắc nịch này.
8. Nhất Tâm Bất Loạn
Nói gì thì nói, nhƣng khi dùng Niệm để mà tu thì:
- Nhất Tâm là phải thấy.
- Không hoặc là chƣa Nhất Tâm là không thấy.
- Nhất Tâm Bất Loạn là khi niệm cái gì là thấy cái đó.
Ví dụ nhƣ niệm A Di Đà Phật mà thấy ánh sáng là Nhất Tâm nhƣng chƣa...
Bất Loạn đƣợc. Nhƣng khi niệm A Di Đà mà thấy đƣợc Ngài là Nhất tâm và Bất
Loạn. Còn niệm A Di Đà mà không thấy gì cả thì chỉ là Tạp Niệm, hay là niệm chƣa có lực.
Muốn cho có lực thì phải biết "An Trú Chánh Niệm Đằng Trƣớc Mặt". Khi
biết cách "An Trú Chánh Niệm Đằng Trƣớc Mặt" một cách "Nhu Nhuyễn" và
"Dễ Sử dụng" thì trong bọn lubu có những oắt tỳ chƣa sạch mũi xanh chỉ cần 1
niệm mà thôi thì những oắt tỳ này đã thấy Ngài A Di Đà Phật rồi. Điều này còn
lẹ hơn cả trong kinh (Phải là 10 niệm).
Mặt khác bọn lubu cũng chơi cái trò luyện tập... "Thân Nhất Tâm".
Bài tập có ba trình độ:
1. Trình độ thƣờng: Hành giả cầm cái xâu chuỗi và đi ngủ, sáng thức dậy
thì vẫn cầm thì đó là trình độ sơ cấp của "Thân Nhất Tâm". Trong khi ngủ mà nếu
rớt thì lại giựt mình thức dậy mà tìm cái xâu chuỗi: Đó là dấu hiệu đầu tiên của
"Thân Nhất Tâm".
2. Bắt ấn và đi ngủ. Sáng thức dậy vẫn bắt ấn: Trình độ Trung bình của
"Thân Nhất Tâm"
3. Giữ một thế ngủ, tay cầm xâu chuỗi, tay bắt ấn và đi ngủ: sáng thức dậy
vẫn y chang nhƣ trƣớc khi đi ngủ: "Trình độ cao đẳng của Thân Nhất Tâm".
Đức Bổn Sƣ ngủ với tƣ thế tự nhiên khi Ngài Nhập Tứ Thiền Hữu Sắc,
có nghĩa là Ngài nằm tƣ thế Nhập Niết Bàn. Ngài cũng khởi sự nằm bình thƣờng
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 178
nhƣ bọn mình, nhƣng tới khi Ngài nhập vào Tứ Thiền thì tự động thân thể của Ngài
lại vào cái thế khi Ngài Nhập Niết Bàn.
III. TRANH CHĂN VOI – NGHỆ THUẬT ĐIỀU TÂM
1. Quy Trình
a)Tu Sĩ:
Điều kiện: Nói Thật và Có Hiếu.
Đề mục: Phải hợp với Biệt Nghiệp, Từ 2008 cho tới hiện nay, trên mạng chỉ
có: hoasentrenda.com
Pháp Khí:
1. Búa Chú Tâm: An trú chánh niệm ngay đằng trƣớc mặt (Thiền Sƣ dơ búa)
2. Dây Tỉnh Thức: Kiểm tra tƣ tƣởng liên tục
b) Giai Đoạn:
Mới bắt đầu, tâm thức hành giả là: Voi Phàm Phu, và Khỉ Ảo Giác của Bản Ngã.
Hành giả cảm thấy tâm rất là loạn động và khó làm theo ý của hành giả (đề
mục xuất hiện từ 0 giây cho tới 40 giây).
Hành giả đã làm chủ phần nào tâm thức: Và đã cảm nhận đƣợc sự dao động
của Thỏ Vi Tế Tâm. (Đề mục xuất hiện từ 40 cho tới 70 giây).
Hành giả "một mất một còn" để lên Tứ Thiền Hữu Sắc (Đề Mục xuất hiện từ
70 cho tới vài phút).
Hành giả rơi vào tình trạng lý tƣởng để tu hành: Đạo đã nhiều hơn Đời.
Thƣờng Trụ Tam Bảo đang thành hình.
Công phu bị chậm lại chút đỉnh do những cái gợn nhẹ của Tham Sân Si.
Thƣờng Trụ Tam Bảo đang ở vào giai đoạn cuối
Hành giả có thể nhập Đại Định với đề mục: từ 1 giờ cho tới 1 tuần và có khi cả tháng.
Giai đoạn vào Vô Sắc Định, làm Minh Sát Tuệ trong lớp định này thì mới
có hiệu quả.
Diệt Thọ Tƣởng Định (Hữu Dƣ Niết Bàn). Cực kỳ khó khăn: "Voi đi ngƣợc".
Yếu Tố Thành Công:
Tu sĩ: (70%)
Pháp Khí và Giai đoạn: (30%)
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 179
Link tranh chăn voi:
http://www.hoasentrenda.com/images/HinhAnh/Chanvoi_final.jpg
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 180
2. Tranh Chăn Voi - Diễn Giải
Một bức tranh tuyệt kỹ về nghệ thuật điều tâm: Tranh Chăn Voi.
Phát tâm tu hành: (Góc phải: Núi và cây)
Tuy rằng đã đƣợc nhấn mạnh: Tham Sân Si là "ba ngọn núi ngoại khổ" (trong
hình hai ngọn núi rƣỡi) thì vẫn có ngƣời chỉ nhận thức là Tham Sân Si cao lắm chỉ to
bằng ba cái cây cổ thụ cũng thuộc diện "quá khổ" ở ngay sau hè.
Do tình trạng sai lầm này mà hiếm khi có ngƣời quyết tâm tu hành cho đúng lắm.
Dân nghiệp dƣ (tu tài tử) do nhìn gần nên tƣởng rằng đây chỉ là ba cái cây cổ
thụ sau hè (ba cây sau chùa), nên dự trù:
Sau khi tớ ăn uống no say, có chút đỉnh vốn liếng rồi! Là ta vác búa ra làm
vài nhát là có thể đốn tận gốc!
Dân chuyên nghiệp thì do nhìn xa hơn nên nhận thấy đây là ba ngọn Hy
Mã Lạp Sơn nên việc san bằng chỉ còn tính đƣợc ở mức độ làm đều đều và theo
kiểu: Cần cù bù khả năng! Họ hiểu rõ đây là không phải một sớm, một chiều mà
làm xong đƣợc.
Đứng nhìn từ nhịp cầu 12 nhân duyên (12 dòng nƣớc), thiền sƣ bắt đầu đi
chập chững những bƣớc điều tâm đầu tiên.
Lúc đầu là Thiền Sƣ nhìn theo cái tâm. Và nhận thấy rằng cái tâm gồm hai
phần Voi Tâm Thức Phàm Phu và Khỉ Ảo Giác của Bản Ngã.
Hai thành phần này rất là u mê, khó dạy bảo theo kiểu muốn đi đâu thì cứ đi.
Và mình (Thiền Sƣ) cứ phải theo đuôi nó hoài mặc dù đã trang bị đầy đủ dụng cụ để
khuất phục nhƣ dây nài (Sự Tỉnh Thức) và búa (Sự Chú Tâm).
Trong giai đoạn (1) này thì Khỉ lại dẫn Voi chạy lung tung ở phía trƣớc,
không có thứ tự. Lúc nào Khỉ cũng nói chuyện với Voi và lôi cuốn Voi chạy hết ga sau
lƣng mình. Cả hai không thèm để ý tới Thiền Sƣ. Trong hình số (1) Thiền Sƣ với
bàn chân đứng yên ngay tại chỗ diễn tả cảnh... chƣa kịp phản ứng gì cả. Thiền Sƣ
trợn mắt mà nhìn hai con Vật Bất Kham này! Mặc dù đã đƣa Dây Nài Tỉnh Thức và
Búa Chú Tâm nhƣng Khỉ và Voi chƣa bị cầm chân chút nào hết. Thiền Sƣ không làm
gì đƣợc cả, trong giai đoạn đầu này.
Giai đoạn (2) (chú ý vào chân của Thiền Sƣ) Ngài đã bƣớc đi đƣợc vài
bƣớc trong kinh nghiệm điều tâm: Khỉ và Voi không thể nào chạy nhảy nhƣ ở
giai đoạn đầu nữa. Tuy nhiên, Ngài vẫn phải chạy theo chúng bở hơi tai! Búa Chú
Tâm vẫn phải giữ đằng trƣớc mặt, Dây Nài Tỉnh Thức đã đƣợc Ngài dơ cao
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 181
chuẩn bị quăng vào hai con thú Bất Kham này, Vì chúng càng ngày càng gần và
càng ngày càng vào tầm quăng của Ngài.
Lúc này, Thiền Sƣ hay phát giác ra đƣợc sự rối loạn của tâm thức nhƣ là: Sao
mà mình nghĩ bậy bạ dữ vậy nè! Hoặc là tự đánh giá: Mình còn sân quá! Mình đúng là
đồ cà chớn...
Lửa Giới Luật phực cháy hai bên đƣờng! Lửa này vừa cản trở đƣợc hai con vật
Bất Kham, nhƣng đồng thời cũng cản trở chính Thiền Sƣ luôn (vì phƣơng pháp đƣa
và giữ Búa Chú Tâm ngay đằng trƣớc mặt lại quá khó) !
Chƣa hết, hƣơng thơm của hoa Tham Dục (màu hồng) trong đời sống, Hƣơng
vị của trái cây Danh Vọng tuy là ở xa hai bên đƣờng, nhƣng lúc nào cũng ám ảnh và
có thể đánh gục Thiền Sƣ bất cứ lúc nào!
Giai đoạn (3) Vừa tầm rồi! Quăng! Voi Phàm Phu đã bị Dây Nài Tỉnh Thức
quăng tròng qua đầu và dƣới sức mạnh của sự Tỉnh Thức: Voi bị giật mạnh và
quay đầu lại nhìn Thiền Sƣ vì đã bị khuất phục phần nào rồi! Voi Phàm Phu và
Khỉ Ảo Giác đã bị đổi màu vào những phần chính yếu (Đầu và Cổ). Thì ngay lúc
này Thiền Sƣ phát hiện ra Thỏ Vi Tế tâm ngồi chễm chệ trên Voi Phàm Phu từ
đời nào rồi. (Trình độ tƣơng đƣơng Tam Thiền). Thỏ Vi Tế tâm này trƣớc đó (giai
đoạn 1 và giai đoạn 2) Thiền Sƣ chƣa đủ sự Tỉnh Thức để theo dõi. Nay thì Thỏ Vi
Tế tâm đã đƣợc phát hiện. Trong giai đoạn (3) này: Búa Chú Tâm đã đƣợc Thiền
Sƣ sử dụng thuần thục, với hai chiêu: Nhu Nhuyễn và Dễ Sử Dụng. Thiền Sƣ
không cần để ra trƣớc mặt nữa mà chỉ thủ thế để khi hữu sự thì chỉ việc phóng Búa
ra là yên tâm.
Tới đây có hai quan niệm:
1. Các Thiền Sƣ Tây Tạng quan niệm rằng: Từ Giai Đoạn (1) cho tới giai đoạn
(3) này thì Thiền Sinh nên dùng Dây Nài Tỉnh Thức nhiều hơn là Búa Chú Tâm.
Các Ngài bàn rằng là: Nếu mà dùng Dây Nài Tỉnh Thức nhiều hơn thì có thể khống
chế sự loạn tâm. Và sau khi sự loạn tâm đƣợc khuất phục thì Các Ngài mới dùng
Búa Chú Tâm để đánh gục thói hƣ dã dƣợi, buồn ngủ!
2. Tibu không nhìn theo hƣớng này, có thể là tibu tập trong xứ nóng nên tibu
theo sát diễn tiến trong tranh ảnh: Tibu khai triển tối đa Búa Chú Tâm để đánh cùng
một lúc tính loạn động và sự dã dƣợi, buồn ngủ.
Giai đoạn (4) Voi Phàm Phu giãy chết và lồng lên dữ tợn! Thiền Sƣ phải
thâu ngắn Dây Nài Tỉnh Thức, đứng trong tầm sát hại và vung Búa Chú Tâm tử chiến
với Voi để bắt Voi Phàm Phu phải nghe lời!
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 182
(Bằng các bài tập càng ngày càng khó, và theo sát các khẩu quyết thâm diệu và
các kinh nghiệm sống về Tâm Linh.
Và hơn lúc nào hết:
Họ làm đƣợc là mình làm đƣợc) !
Trong khi đó Khỉ Ảo Giác của Bản Ngã nhìn thấy hoa quả Danh Lợi mọc
đầy bên lề đƣờng, tay Khỉ chỉ chỏ và chuẩn bị chộp lấy! Giai đoạn này là ghê
gớm nhất đối với Thiền Sƣ: Cây Trái Danh Vọng và Hƣơng Thơm Tham Dục đã
chín muồi: Chỉ cần Thiền Sƣ gật đầu là... Nhà lầu, và xe hơi! Trong khúc quanh
nguy hiểm này: Ngọn Lửa Giới Luật phực lên và đốt cháy hết những rác rƣởi!
Thiền Sƣ bẻ cua và bƣớc sang giai đoạn thứ (5).
Giai đoạn này (5) (Giai đoạn chỉ trông cho trời mau tối, để mà dợt: Giai
đoạn Đạo nhiều hơn đời) thì Voi Phàm Phu, Khỉ Ảo Giác của Bản Ngã, Thỏ Vi Tế
tâm chỉ còn hoạt động yếu ớt! Thiền Sƣ chỉ cần quay lại trừng mắt nhìn hay là
vung những nhát Búa Chú Tâm chí tử vào ngay đầu của Voi Phàm Phu (ý là bắt
Voi tập bài tập Thiền Định với đề mục) thì Khỉ Ảo Giác của Bản Ngã và Thỏ Vi
Tế tâm bị khuất phục toàn bộ. Những loạn động không còn làm tổn thƣơng Thiền
Sƣ nữa. Buồn phiền rơi rớt (hình ốc Loa) và niềm vui Chƣ Thiên bắt đầu xuất hiện
(Cặp Phèn La).
Giai Đoạn (6) Thỏ Vi Tế tâm biến mất, Voi và Khỉ đi theo Thiền Sƣ một
cách ngoan ngoãn. Tất cả những vũ khí nhƣ Dây Nài Tỉnh Thức và Búa Chú Tâm chỉ hiện
diện cho có lệ. Hoa "Trí Tuệ" trong tầm mắt (Hoa màu xanh dƣơng).
Nói nhƣ vậy:
Không có nghĩa là Thiền Sƣ lè phè đi uống rƣợu, ăn thịt chó... Hoặc là ngâm
thơ, sáng tác bài hát... nhƣ sách vở đã nhồi sọ quý bà con cô bác! Mà ngƣợc lại là
đàng khác! Do Thiền Sƣ đã tập, và còn đang tiếp tục tập những món trên, một cách
liên tục và đã... thành thói quen.
Đề mục có khuynh hƣớng di chuyển theo chiều đi thẳng lên. Trình độ
"Thƣờng Trú Tam Bảo" đang thành hình.
Giai đoạn (7) Voi có thể đi trƣớc hay đi sau gì cũng đƣợc, tuy rằng vẫn còn
vài điểm đen nhƣng chỉ là chuyện nhỏ. Khỉ Ảo Giác của Bản Ngã vái lạy Thiền Sƣ và
giã từ. Trong giai đoạn này chỉ còn vài cái gợn nhẹ của tâm thức. Nhƣ là gợn nhẹ Sân
hận, gợn nhẹ Tham ái,... Tuy rằng những vấn đề trên vẫn đƣợc Thiền Sƣ chú ý và biết
đến nhƣng tính cách nguy hiểm thì đã qua lâu lắm rồi.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 183
Giai Đoạn (8) Voi Phàm Phu đã thành Bạch Tƣợng! Voi "Nghe Lời" Thiền
Sƣ sai bảo một cách chăm chỉ. Tuy nhiên, một đôi lúc cũng cần phải chú tâm khá
mạnh để hoàn thành những bài tập thiền định! Tâm Kính Đàn trong tầm tay.
Tứ Thiền Hữu Sắc:
Thƣờng Trú Tam Bảo đang ở vào những giai đoạn cuối: Thiền Sƣ đã có thể
thấy đƣợc "ai đó" đang ngồi hay đứng trên đảnh của mình.
Thiền Sƣ đã có thể trao truyền cách bắt ấn.
Giai đoạn ( 9) Bạch Tƣợng nằm ngủ Thiền Sƣ vào giai đoạn Nhập Đại
định. Hành giả có thể nhập Chánh Định vào đề mục trong vòng một ngày, một tuần
và ngay cả Tháng cũng còn thấy dễ dàng!
Giai Đoạn ( 10) Giai Đoạn Minh Sát Tuệ. Đây là vùng ảnh hƣởng của Tƣ
Tƣởng, nên trong hình lại vẽ cầu vòng bảy màu: Đó là biểu tƣợng của cõi Vô
Sắc. Về phần này:
Gần nhƣ 99.99 % giới tu hành đã thực hành Minh Sát Tuệ quá sớm ( từ
"Cận Định" cho tới "Hữu Sắc") nên không có đủ lực để... vói tới cái đáy của tâm thức
là cái "tƣ tƣởng" để dứt điểm nó!
Do đó cho nên, Bà con cô bác sẽ đọc không biết bao nhiêu là Sách Vở và nghe
rất là nhiều Băng Thuyết Pháp nói về chuyện này nhƣng chƣa có một ai làm cho
xong! Toàn là nói và tƣởng tƣợng không mà thôi!
Nguyên tắc là phải bò vào cõi Vô Sắc để có thể đánh cận chiến với khối
tƣ tƣởng, thì may ra nó mới yên.
Giai đoạn (11) Hành giả cầm gƣơm lửa Trí Tuệ và vào Diệt Thọ Tƣởng Định.
Ngọn lửa cuối cùng: Lửa Giải Thoát Tri Kiến!
Tập trật là thành ông tiên bay lơ lửng... thấy mà ớn óc. Nhận Xét:
Những kết quả hiển nhiên khi thiền định từ giai đoạn ( 5) trở lên nhƣ là:
Bớt Khổ tâm (Ốc Loa), Hỷ Lạc của Chƣ Thiên (Đôi phèn la), Hƣơng Hoa Trí Tuệ
(Hoa Xanh Dƣơng) mà có thể dịch là hiểu biết do trực giác, Thiên Nhãn (Tâm
Kính Đàn) tất cả đều đƣợc cố ý vẽ nằm ngoài con đƣờng tu hành, tức là chỉ
nằm ở bên lề. Đây là cách diễn tả rất đúng với Chánh Pháp trong khi đang hƣớng về
Niết Bàn để tu.
Điều lý thú mà ngƣời vẽ tranh đã tóm tắt nguyên Con Đƣờng này bằng hai
hình vẽ nhỏ xíu trên cao, bên góc trái của tấm hình:
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 184
1. Sáu chấm nhỏ màu trắng:
Đó là sáu "Công Đoạn" mà Thiền Sƣ nên làm trƣớc khi thành Phật. Tibu
không nhìn ra đƣợc những giai đoạn này. Sau khi bàn với Nhí thì Nhí cũng...
chịu thua. Nhƣng liền sau đó, tibu lại tìm ra: Nhìn nguyên cái hình thì có sáu con
đƣờng nằm ngang, đƣờng cuối cùng (Thứ sáu) là đƣờng của cầu vòng (cõi Vô
Sắc) và là "công đoạn" cuối để "Mình Chiến Thắng Chính Mình" (Nhí đặt tên).
2. Kế đó là cái cục màu nâu và cái vòng màu trắng bao quanh:
Cục màu nâu tƣợng trƣng cho "Trái Đất" và cái vòng màu trắng lại tƣợng trƣng
cho "Con Đƣờng Tu Đã Đƣợc Minh Họa" ở phía dƣới.
Chƣa hết!
Vòng tròn, có màu trắng và khép kín này, còn có một ý nghĩa nữa là: Đây là
con đƣờng tu hành để thành Phật dành riêng cho Con Ngƣời.
Nhí hiểu và đặt tên là: "Bài Học Đi Vào Phật Đạo".
Cũng Lại Chƣa hết: Một thành viên trong Diễn Đàn lại phát hiện ra:
- Bên kia cũng có một cái cục với một cái vòng nâu! Nó có ý nghĩa gì vậy Thầy?
Phải đợi Nhí về và tibu hỏi Nhí cho ra đầu ra đũa.
Nhí vừa lên mạng là bị hỏi liền, tất nhiên, câu hỏi không dễ dàng! Tuy nhiên,
Nhí thì có cái gì mà tìm không ra!
Sau mƣời phút (Nhập Chánh Định), Nhí trình bày:
- Con thấy đó là một pháp tu,
- So với phƣơng pháp của ông Phật thì nó có đúng không?
- Đúng.
Và tibu nói với Nhí rằng:
- Bên kia lại có cái cục nhƣng cái vòng lại là màu trắng!
Sau mƣời phút (Nhập Chánh Định), Nhí xác quyết:
- Muốn tu thành Phật thì phải đi qua cái màu nâu. Còn chê cái nâu thì không
thể thành Phật đƣợc!
Tibu nhận xét:
- Con nói đúng hoàn toàn vì cái màu nâu là... Vô Sắc. Không qua Vô Sắc là
không đụng tới đƣợc tƣ tƣởng nên không thể nào vào Diệt Thọ Tƣởng Định đƣợc.
Tới bây giờ thì mới là hết thiệt đây:
Thành viên trong diễn đàn lại đặt câu hỏi:
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 185
- Sao mà có hai con đƣờng "Cầu Vòng" vậy, Thầy?
- Một con đƣờng có Thiền Sƣ và Bạch Tƣợng "de lui"! Cƣỡi Voi mà "de lui"
là khó làm lắm! Dám nói de lui là vì theo chiều tiến của các "Công Đoạn". Và
con đƣờng kia thì thuần túy Vô Sắc, phải có ngọn lửa "Giải Thoát Tri Kiến" thì
nó mới cùng chiều đƣợc.
Và câu hỏi cuối cùng của thành viên này là:
- Ngay ngực của Thiền Sƣ lại đi ra hai con đƣờng "Cầu Vòng", có ý gì
khôngThầy?
- Khi mà đã tập xong thì Thiền Sƣ phân biệt rất là dễ dàng hai con đƣờng
"Vô Sắc": Một con đƣờng thành ông Chƣ Thiên bay lơ lửng, và một con đƣờng đi
vào Niết Bàn.
Trên cùng, với con mắt chuyên nghiệp: Họa Sĩ Thiền Sƣ nhắn lại thế gian là:
Tuy trong kinh không hề gọi Ngũ Uẩn là "núi".
Nhƣng sau khi làm xong với bao nhiêu khó khăn.
Họa Sĩ Thiền Sƣ đã dùng bốn ngọn núi rƣỡi để diễn tả: Ngũ Uẩn thật ra
là "Năm Ngọn Núi Quá Khổ" và không phải là chuyện dễ khi muốn san bằng nó
thành "Giai Không" đƣợc đâu.
So sánh với 10 bức tranh chăn trâu, bức ảnh này rõ hơn nhiều về cả phần kỹ
thuật điều tâm, lẫn ý nghĩa thâm sâu.
IV. CHÁNH PHÁP VÀ TÀ PHÁP
1. Bùa Ngải, Thần Quyền
Chữ Tà đi với chữ Ta một vần. Ai cũng vậy: Đang tu hành ngon trớn mà bị...
kết án là Tà thì hết thuốc chữa. Ấy vậy mà có những tà sƣ xài đƣợc và những tà sƣ
chính hiệu con nai vàng. Loại này có tác dụng và có đặc tính "truyền nhiễm" nhƣ
trong y khoa vậy: Tất nhiên là tà 100% và không xài đƣợc. Xin liệt kê một ít pháp
môn mà đệ đã đụng và đã thử sức khi còn lu bu ở Đà Lạt:
- Loại pháp môn luyện bùa: Bùa năm ông, bùa Lục tổ, bùa ngũ hành, bùa
án nhãn, bùa cách không lấy vật, bùa gồng, võ bùa.
- Loại luyện ngải: Ngải yêu, Ngải mà mắt, Ngải đi mƣợn đồ giùm, Ngải thời
tiết, Ngải đắt khách.
- Loại Pháp môn có lấy kinh Phật để luận giải:
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 186
1. Phật Quyền, sau là Vạn Thiên Giới Linh sau cùng là Tâm Linh (ký hiệu là
Đức A Di Đà đứng trên... Địa Cầu. Pháp môn này dùng chữ Hrih của Ngài A Di Đà
và đƣợc gọi là *Tâm Chú*
2. Pháp Lý Vô Vi...
3. Vô Thƣợng Sƣ...
Và sau đây là những điểm giống nhau của những pháp môn này:
- Nghi lễ gồm (con số 5 (năm) làm chuẩn): Năm ly nƣớc, năm loại trái cây,
năm cây nhang.
- Nội quy, hay giới luật, có nhiều điểm khác nhau nhƣng... có hai điều
rất giống nhau:
1. Con trai mà phạm giới thì bị mù.
2. Con Gái thì bị điên.
Cách nhập đề để vào pháp môn cũng có tính giống nhau: để ý câu "cho
mƣợn quyền năng"
- Cái này là do... Thiêng Liêng cho mƣợn quyền năng để mình dễ bề tu hành
theo chánh pháp hơn thôi. Sau nghi lễ, hay có khi chỉ qua một cái rờ đầu hay một câu
đề nghị đại khái là:
- Con về con quay mặt về hƣớng Tây và cầu nguyện nhƣ thế này nghe!
Nếu làm theo lời chỉ dẫn của họ thì: Sau đó thì ngƣời nhập môn có những
cử động lạ kỳ (nhƣ đánh võ, hay nói tiếng lạ, và đôi khi đọc kinh cũng lạ kỳ, hầu
nhƣ không ai hiểu gì cả, nhƣng ngƣời yếu bóng vía khi nghe những chuỗi âm
thanh đó thì... bị nhức đầu... bán nhà, bán cửa theo họ. Đó là những nét chính của
các Tà Pháp đó.
2. Tẩu Hỏa Nhập Ma.
Là hai (2) bệnh khác nhau:
a) Tẩu Hỏa:
Khi tu sĩ dọa dẫm, toan tính khai mở luồng hỏa hầu ( tục gọi là Kundalini)
và khờ dại đến mức dùng thô tâm để Khai mở (qua cách thở bằng... lỗ mũi trái... , lỗ
mũi phải...) thì:
1. Luồng hỏa hầu cũng sẽ đƣợc khai mở ( sau một thời gian dài thực
tập). Nhƣng vì vi tế tâm chƣa có thanh tịnh nên tu sĩ không có cách nào mà giữ
cái luồng kundalini này lại. Nên cái luồng khí nóng này sau khi khởi sự từ xƣơng
cụt và chạy trong cái đƣờng rãnh trong xƣơng sống ( thƣờng gọi là Canal) và khi
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 187
lên đến đầu và khi nó đến huyệt Bách Hội (có nói trong các sách châm cứu) thì nó
vọt ra không gian và bay đi mất tiêu luôn.
2. Hậu quả: Luồng Kundalini do tinh khí tạo ra. Do cái luồng này không thể
ở lại trong thân thể mà lại bay đi luôn nên tình trạng của tu sĩ sẽ là tƣơng đƣơng
với một ngƣời bị xuất tinh ra mà không thể kiềm chế đƣợc. Hiện tƣợng là tu sĩ sẽ
bị lạnh kinh khủng, bị mất sức và có thể đi đến tình trạng mất mạng sống, hay bị
điên (là do quá sợ hãi).
b)Nhập Ma:
Là sau khi luồng kundalini vọt ra không gian và bay đi luôn thì sẽ tạo ra
một khoảng trống. Khoảng trống này sẽ tạo ra một hấp lực để hút có thể có ở chung
quanh ngƣời tu sĩ, nếu quanh nơi đó có một con ma hay con quỷ thì nó sẽ bị hút
vào. Vì bị ngoài ý muốn của họ nên họ cũng hoảng sợ và chạy nhảy lung tung. Thì
ngay lúc này, tu sĩ cũng chạy nhảy, la hét, lung tung vì đã vô tình bị họ nhập vào
thân thể. Do vậy mà tu sĩ chỉ nên mở kundalini vào lúc chứng Tam Thiền Hữu
Sắc mà thôi.
Tại sao?
Là vì ở trình độ Tam Thiền thì không những Thô Tâm đã yên lặng lắm rồi mà vi
tế tâm cũng đã yên tĩnh đƣợc một phần nào rồi. Bằng chứng là ở trình độ này (Tam
Thiền) tu sĩ đã có thể thấy một vài hình ảnh của chính tiền kiếp của mình.
3. Điện Thần Nhân
…Là vì đây là dạng tu sĩ mở huệ âm. Thực chất họ không có đủ nội lực để
làm chuyện này chuyện nọ mà họ phải nhờ những điện thần nhân. Điện thần nhân
không có bao giờ... cho không một cái gì… Ngƣời nào mà lạm dụng họ mà hành
pháp thì kết quả là khi về già thì tinh khí lại xuất ra dầm dề và bị bịnh rất là nặng
trƣớc khi chết. Có ngƣời bị mù, có ngƣời bị điên.
Ghi chú: Quý vị có thể đọc trong cuốn Đức Phật và Phật Pháp của Nãrada do
Bác Phạm Kim Khánh dịch. Vào Chƣơng 14 (Đại Niết Bàn) Đoạn: Bốn Điều Tham
Chiếu Lớn để tham vấn thêm về chánh pháp và tà pháp.
4. Ma, Quỷ, quỷ hiền, quỷ dữ
Thế nào là ma?
- Do buồn phiền mà thành Ma
Thế nào là Quỷ?
- Do sân hận rồi đi phá phách
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 188
Thế nào là ma hiền?
- Ma chỉ có biết... Buồn mà thôi
Thế nào là ma dữ?
- Ma nhập vào ngƣời khác rồi khóc lóc, kêu than.
Thế nào là Quỷ Hiền?
- Nhập vào ngƣời khác nhƣng lại xem bói, coi đƣợc chuyện tốt xấu, hộ
trì những ngƣời hiền...
Thế nào là Quỷ Dữ?
- Nhập vào ngƣời khác và gây bệnh tật, xúi ngƣời ta chém giết nhau.
Ma Nhập
Vào một buổi trƣa thanh vắng, Anh Hòa... Bùa tà tà từ Hợp Tác Xã Thông
Xanh đi về nhà, trên đƣờng Phan Đình Phùng, Không hiểu từ đâu một hình Phật
rơi xuống cách Anh Hòa Bùa vài ba mét. Anh cúi ngƣời xuống lƣợm và nhìn dáo
dác coi có ai ra xin lại không, nhƣng không có ai cả nên anh định bụng sẽ đem qua
nhà ngƣời vợ sắp cƣới ở ngay cây xăng Kim Cúc. Chỗ ngã tƣ khi từ đèo Prenn đi
vào thành phố Đà Lạt.
Hình Phật A Di Đà đã đƣợc Anh đóng khung và tự động đặt lên bàn thờ.
Khoảng ba tháng sau, cô Vân (em vợ của Anh Hòa) bị nhập tự xƣng là Quan
Thế Âm. Anh Hòa lúc này chƣa có... nghề nhƣng Anh nghĩ rằng câu chuyện này là do
ma nó nhập vào cái hình Phật.
Anh tức tốc cầm cả cái khung hình xuống và nguyện rằng:
Nếu con đấm vào cái hình này mà mặt kính không bể thì quả thật là có chuyện
ma nhập vào cái hình này.
Và Anh ấy đấm thật mạnh, (Anh là võ sĩ Thiếu Lâm Tự có thể nhổ bật gốc
cây thông to bằng bắp chân). Mặt kính cong hẳn lại và trở về bình thƣờng. Anh tức
tốc đốt cái hình Phật. Và Anh cũng phát minh ra cách là cả nhà đọc câu Nam Mô A
Di Đà Phật để... hàng ma.
Trong nhà, chẳng ai tin cả, nhƣng chỉ có bà mẹ vì bí quá mà bà làm liều theo
vậy thôi. Trong khoảng một tuần, thì bà mẹ bỗng nhiên lăn lộn và chỉ chỏ tùm lum và
nói nhƣ mê sảng:
Kìa kìa họ đi ra quá xá trời luôn... Bà mẹ nhìn đệ và xác nhận:
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 189
Chính Bác thấy, họ là những ngƣời cao khoảng nửa thƣớc vì câu niệm Phật
mà đƣợc ra đi vui vẻ, họ đông lắm lận...
Cả nhà nhìn đệ và cầu khẩn:
Anh Phƣớc, anh đừng cho nó hành em Vân nghe, cƣơng quyết không cho nó ở
lại đây nghe. Đây là lần thứ nhì em nó bị.
Đệ thủng thẳng vào phòng có Cô Vân nằm, vừa thấy đệ thì con ma nói tầm bậy
tầm bạ và hoàn toàn vô nghĩa.
Công việc đầu tiên là kiết giới bàn thờ trong nhà. Kế tiếp là kiết giới nguyên cả
cái nhà. Sau khi làm xong thì đệ vào cái phòng của Cô Vân.
Lại nói về Cô Vân:
Cô Vân là một kịch sĩ nổi tiếng của Đoàn Văn Công Lâm Đồng. Trong khi dợt
một vai ngƣời điên trong một vở kịch thì ngay lúc đó cô bị... nhập luôn.
Nay lại kể tiếp:
Vì cung cách siết chặt vòng vây bằng cách kiết giới nhƣ trên nên khi thấy đệ
đi vào phòng thì con ma lại ê a đọc bằng một ngôn ngữ nhƣ tiếng Tàu và âm điệu nhƣ là
đọc kinh trong chùa vậy.
Đệ hiểu rằng là đối phƣơng đã sợ khi đối diện với oai lực của những hộ pháp
Kim Cang mà đệ đã gọi đến để kiết giới.
Đệ nói với con ma rằng:
Vì nhân duyên cô cho tôi cái điều kiện để trình bày lại với gia đình một vấn
đề trọng đại là "Chết không phải là hết" nên cô muốn tôi làm cái gì thì tôi sẽ làm cho.
Con ma nhìn đệ trừng trừng và trợn mắt và lè lƣỡi và... nhập hoàn toàn 100%
vào ngƣời Cô Vân. Ngày lúc đó trời Đà Lạt bỗng nhiên mƣa. Con ma nói tiếng Việt
trệu trạo nhƣ là ngƣời Tàu nói vậy:
Trời mƣa, lâu quá tôi không nghe tiếng trời mƣa.
Và cô (con ma) cho biết là tên cô là "A Bình" cô bị hãm hiếp và treo cổ vào
cuộc cách mạng văn hóa bên Tàu vào lúc cô mới có 16 tuổi.
Cả nhà há hốc, im lặng ngồi nghe cô kể chuyện hồi còn là một thôn nữ ở giáp giới Việt
Nam và Trung Hoa. Câu chuyện có những chi tiết thật là thƣơng tâm...
Vậy cô có cần tôi làm cái gì cho cô không? Trƣớc khi cô đi?
Không, vì tôi có nghe nói rằng nếu về cõi đó thì yên vui lắm phải không anh?
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 190
Tôi có qua bên đó vài lần, bên đó yên vui, có Phật chỉ cách tu hành, cô ráng tu
hành cho ngon lành rồi đi giúp ngƣời ta nghe.
Nhƣ anh vậy đó hả? Ừ, nhƣ tôi vậy.
Và sau khi diễn lại cảnh bị chết treo cổ một lần nữa thì cô ra đi.
Vào buổi chiều hôm sau, trong khi hồi hƣớng công đức cho cô, thì trong
cái... chuồng của đệ, cô xuất hiện một lần cuối, cô đẹp hẳn ra, cô cám ơn đệ và vui
vẻ ra đi trong câu niệm Phật.
(Hai Lúa.)
TB: Cảm kích vì nhìn thấy tận mắt cái tính hiền hòa và khôn ngoan của một tu
sĩ Mật Tông, trong gia đình có Anh Cƣờng phát tâm tu hành.
Đệ nghe lại là Cô Vân đã có chồng, Anh Cƣờng nay là hƣớng dẫn viên du lịch
đến nay vẫn tu hành ngon lành. Đời sống dễ thở hơn.
5. Tà Đạo Trong Phật Giáo
Tà đạo: Chúng ta thƣờng có thói quen kỵ hai chữ tà đạo và không ƣa ai đó
tặng mình hai chữ đó. Ngƣợc lại, trong Phật giáo, chúng ta lại có hai quan niệm rõ rệt
về cung cách tu hành tà đạo.
a) Phương pháp tu hành đi ngược lại hoàn toàn với quan
niệm cơ bản của Phật giáo:
Phật Thích Ca có một lần nhắc nhở La hầu La:
-Thể xác này không là ta, linh hồn kia không là ta, tƣ tƣởng nọ không là ta.
Vì vậy, Phật giáo không chấp nhận có thể xác, linh hồn và tƣ tƣởng trong điều kiện
“toàn giác”. Nên Phật giáo có một cách tu hành đặc biệt để loại bỏ dần các thành
phần trên để vào đƣợc Niết Bàn. Dựa vào phát kiến đầy trí tuệ trên: Chúng ta liệt kê
những pháp môn tu về: Tinh khí thần, Xuất hồn, đánh võ thần quyền, thôi miên,
luyện mặt trời, luyện mặt trăng, luyện thu lôi, Bát Tinh, Thất Sơn, Năm Ông, luyện
bùa ngải... đều thuộc về tà đạo (100%).
b) Phương pháp đi đúng đường lối của Phật giáo nhưng tu sĩ
không chịu vào Diệt Thọ Tưởng Định, hay chưa vào được.
Trong điều kiện này, Phật giáo vẫn gọi đó là tà đạo. Kể từ khi tu sĩ đạt đƣợc
trình độ Sơ Thiền (chớ không phải thiền sơ sơ) với đầy đủ tầm, tứ, hỷ, lạc. Tu sĩ đã đi
trên con đƣờng Phật giáo rồi, nhƣng vẫn không hiểu gì về Phật pháp hết. Khi vào
đƣợc Tứ Thiền, tu sĩ lo tu về thần thông để tập làm chủ tƣ tƣởng. Ở đây, tu sĩ đã gần
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 191
kề mục tiêu của Phật giáo rồi, nhƣng chƣa có một tí gì về Phật pháp hết. Mặc dù với
sự cố gắng hết sức, tu sĩ có thể có đủ ngũ thông:
- Thiên nhãn thông: Quán một màn tivi, giữ cho nó trong suốt và ổn định. Tác
ý muốn coi một cảnh vật nào đó (nên chọn một cảnh vật gần nơi mình ở để có thể
kiểm soát khi mình làm xong thí nghiệm).
- Thiên nhĩ thông: Quán một màn tivi giữ cho nó trong suốt và ổn định. Tác
ý muốn coi một ông bạn hiện giờ ở đâu, và đang nói những gì? Liền thấy ổng đang làm
cái gì đó trong màn tivi, và nghe tiếng nói của ổng “xuyên qua” đầu mình. Nhớ kiểm
tra lại để tránh rơi vào ảo giác!
- Tha tâm thông: Quán một màn tivi giữ cho nó trong suốt và ổn định. Tác
ý muốn coi một ông bạn hiện giờ đang nghĩ gì? Liền nghe tiếng nói của tƣ tƣởng ổng xuyên
qua đầu mình. Nhớ kiểm tra lại để tránh rơi vào ảo giác!
- Túc mạng thông: Quán một màn tivi giữ cho nó trong suốt và ổn định. Tác
ý muốn coi một quá khứ gần mình đang làm những gì: Liền thấy mình đang làm cái
gì đó trong màn ti vi. Cùng một thể thức ấy, tác ý muốn coi mình đang làm gì vào lúc
ba tuổi chẳng hạn... Một tuổi... Không tuổi... Lúc này nên đặt câu hỏi “Rồi sao
nữa” để thấy đƣợc tiếp... Nhớ giữ giới luật thật nghiêm khắc khi thử nghiệm.
- Thần túc thông: Trƣớc khi thí nghiệm, lấy một cái đĩa và rắc khá dày
bột phấn rôm (talc) hay tro lên đĩa đó, để dĩa trên bàn ngoài phòng khách. Vào nơi
mình tu tập, nhập Tứ Thiền, quán một màn tivi giữ cho nó trong suốt và ổn định.
Tác ý muốn thấy nơi mình để cái dĩa và tác ý muốn vào nơi đó để ịn bàn tay
mình lên đĩa đó. Liền thấy mình đứng trƣớc đĩa và ịn bàn tay mình lên đó. Xuất
định, đi ra kiểm soát coi có dấu tay mình trên đó không? Nhớ nhờ một ngƣời khác
xác nhận có đúng vậy không? Để tránh rơi vào ảo giác! Sau đó tác ý đi lấy một
cái gì đó của một anh bạn nào đó... Lấy xong nhớ trả lại họ chớ không thì tội
nghiệp họ. Tuy vậy, họ vẫn bị Phật giáo gọi là tà đạo! Và nhƣ vậy, cho tới khi tu
sĩ vào đƣợc Phi Tƣởng Phi Phi Tƣởng Xứ. Lúc này tu sĩ có thể coi đƣợc bốn mƣơi
kiếp (40), vì còn tà đạo, tu sĩ không cách gì coi đƣợc kiếp thứ bốn mƣơi mốt (41) !
Thật là ghê gớm, khi đƣợc biết mình vẫn còn bị kềm hãm trong tà giáo! Lúc đó
tu sĩ mới hiểu đƣợc sự cao siêu của Đức Phật. Chỉ khi nào Tu sĩ vào đƣợc Diệt Thọ
Tƣởng Định thì lúc đó tu sĩ mới đƣợc công nhận là không còn tà đạo nữa! Tất nhiên
còn phải vào cho đủ bảy lần để chỉ thành Độc Giác Phật. Còn bậc “Nhƣ Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thƣợng Sĩ,
Điều Ngự Trƣợng Phu, Thiên Nhân Sƣ, Phật, Thế Tôn” thì Thằng ngọng tôi, xin
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 192
nghiêng mình đảnh lễ! Trên đây là con đƣờng dành cho những ngƣời thật là bình
thƣờng đi vào chánh đạo (có nghĩa là phải đắc các từng thiền trƣớc rồi mới vào đƣợc
Chân lý). Còn một con đƣờng khác hay hơn và rất là hiếm khi thành công, đó là con
đƣờng đi tắt vào Chân lý. Có nghĩa là, khi ngồi nghe nói chuyện đạo, tự nhiên do câu
chuyện gây xúc động mãnh liệt, tâm của ngƣời đó đột biến và ngừng dao động, nếu cứ
để yên nhƣ vậy thì có thể đắc ngay quả vị A La Hán mà không cần phải đắc các từng
thiền. Chúng ta nên thận trọng khi gặp những cái gọi là Tà sƣ, có những tà sƣ thật sự là
dở (phần 1.). Đối với các pháp môn đó, là Phật tử, chúng ta không tu theo họ. Nhƣng
cũng có những “tà sƣ” nhƣng vẫn còn dùng đƣợc vì chữ tà đây lại có nghĩa là chƣa tu
xong. Vậy chúng ta đừng vội cho ông này tà, bà kia chính. Vì thật sự vấn đề chính, tà
hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của chúng ta. Vì oái oăm thay, chúng ta hoàn toàn vô
minh có nghĩa là còn tệ hơn là tà đạo nữa! Thật vậy tà đạo chỉ dùng cho những tu sĩ
hoặc tu sai lầm, hoặc chƣa tu xong. Còn chúng ta không hiểu gì hết về vấn đề tu hành
(vì còn là vô minh) mà bày đặt đi lo phê bình này nọ theo quan niệm rất là phàm phu
của chúng ta.
6. Yết Ma Bộ (Mật Tông của Quỷ Thần)
Không thể gọi là Mật Tông là một phƣơng pháp tu của Phật Giáo đƣợc. Mà
thật ra nó đƣợc chia ra làm ba bộ:
1. Quỷ thần
2. Bồ Tát
3. Phật
Trong 3 cái này thì Bồ Tát và Phật thì đƣợc chớ cái bộ của Quỷ Thần thì rắc rối
vô cùng. Và không biết đâu mà rờ. Là vì trong bộ này thƣờng hay có danh từ... "nhập
vào" và "xuất ra". Và cũng có danh từ... đánh võ, uống bùa, xâm bùa, kiêng cữ
những cái là lạ nhƣ là: Không đƣợc ăn... khế, thịt chó, thịt trâu, chui qua dây phơi đồ...
Và dĩ nhiên là cái lạ nhất là: Nếu mà phạm thì sẽ bị bùa quật, hay là hành xác...
Do đó cho nên, không có ai khi chơi Mật Tông mà lại đi tìm những cái thuộc
về "cái bộ cho quỷ thần" này.
Duy chỉ có một phần là đƣợc hay dùng đó là cách lên đồng của quỷ thần.
Cách lên đồng nhƣ sau:
Ngƣời lên đồng dùng 1 sợi dây tự thắt cổ, hay là nhờ 2 ngƣời đứng hai bên
xiết thật mạnh và thật chặt sợi dây vào cổ của mình.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 193
Và khi sợi dây lún sâu vào cổ, với cái mặt tím lè vì nghẹt thở, thì cũng là lúc
quỷ thần nhập vào và tiên đoán này nọ. Có khi cả tiếng đồng hồ!
Yết Ma Bộ (Mật Tông của Quỷ Thần)
Lâu lắm rồi, tibu có tới một cái chùa gần "Chùa Tàu" trên Đà Lạt và có gặp
"Sƣ Phụ" (là danh xƣng mà ngƣời ta thƣờng gọi thầy). Khi đƣợc mời vào cốc của
thầy để "một chọi một", thì thầy ngồi trên cao và tibu ngồi dƣới đất.
Thầy nhắm mắt và khi mở mắt ra thì tibu có cảm giác nhƣ có một cái luồng
điện gì đó nó chạy xuyên vào thân thể của mình. Tibu tác ý là nối cái lực này xuống
Đất. Thế là cái lực đó mất tiêu và Thầy nhắm mắt lại và nói một câu: "Cái này là
măng lại già hơn tre đây".
Giải thích:
Thông thƣờng là ngƣời dùng Yết Ma Bộ (Mật Tông của quỷ thần) hay dùng cái
lực này để đục thủng hào quang của ngƣời đối diện.
Và ghi vào đó một mã số để khi mình tập theo lời chỉ dẫn của ngƣời này
thì mình sẽ nhận thấy cái lực này thêm nhiều lần nữa và chẳng mấy chốc mình sẽ
bị các "Điện Thần Nhân" xâm nhập và điều khiển mình y nhƣ là con rối.
Có hai trƣờng hợp xảy ra:
1. Mình hoan hỷ chấp nhận sự khó chịu này thì mình đƣơng nhiên là... hội viên
của họ. Có nghĩa, một lần nữa, là khi mình tập theo lời yêu cầu của họ thì mình sẽ
bị các "Điện Thần Nhân" này nhập vào thân thể của mình.
2. Mình chống lại bằng cách của hpm, hay là cách của tibu, hay là cách
của Hòa Lùn thì bộ mặt thật của họ sẽ lộ ra trong giấc mơ ngay liền lập tức (y nhƣ
là hpm đã kể).
Cách của Hòa Lùn:
Anh chàng tự chế lời nguyện nhƣ sau:
- "Con không biết cái này là cái gì! Con sẽ làm theo lời Thầy dạy, nhƣng trƣớc
khi con làm thì cho con một giấc mơ. "
Mộc mạc nhƣ vậy đó, và hiệu quả vô cùng (sở dĩ nó đƣợc là vì: Anh Hòa lùn
của mình ăn ngay nói thật ghê lắm).
Thế là, sáng hôm sau, anh chàng mò qua Trạm Y Tế để gặp tibu và kể rằng:
"Tôi gặp lại ông Thầy trong giấc mơ và thấy ông Thầy bận quần xà lỏn với cái
áo cà sa! Tôi chƣa lần nào thấy tu sĩ nào mà ăn bận gì kỳ cục nhƣ vậy cả! Tôi thấy nó
kỳ kỳ sao đó! Chắc là tôi không tập theo ông ấy đâu. "
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 194
V. BIA RƢỢU VÀ TU HÀNH
Sau đây là những cách làm, khi uống rƣợu (làm thử trƣớc ở nhà):
1. Vào "Cận Định" mà uống cho qua chuyện:
Chú ý tới trung tâm năng lực Ajna và giữ cho chỗ này nặng nặng hoài thôi
(Từ khi ở nhà cho tới khi hết chuyện). Xong chuyện, thì chú ý đến trung tâm
năng lực Anahata ( Huyệt Ngọc Đƣờng) và tƣởng tƣợng cho chỗ đó quay ngƣợc
chiều kim đồng hồ.
Miêu tả:
Vị trí tƣởng tƣợng là "từ bên trong thân thể" nên khi tƣởng tƣợng là từ
bên trong ra ngoài. Và nhớ cho chỗ đó nó quay ngƣợc với chiều kim đồng hồ.
Không nên cho nó chạy ngƣợc chiều kim đồng hồ nhƣng lại tƣởng tƣợng từ
bên ngoài mà nhìn vào cơ thể Vì khi làm nhƣ vậy là: Làm cho nó chạy ngƣợc lại rồi
(đừng có dại dột mà làm thử). Không hiểu thì cứ hỏi lại cho rõ.
2. Vào "Tứ Thiền Hữu Sắc" để mà uống và sau đó là dùng màn tivi
đẩy chất độc ra khỏi cái hào quang bằng nhiều cách:
1. Quán ngay luân xa anahata (huyệt Ngọc Đƣờng) và tác ý cho nó quay
thuận theo chiều kim đồng hồ.
2. Quán cái hột vịt hai đầu bằng nhau và quán cho hào quang nó sạch sẽ
và bóng láng sau khi làm cho xong.
3. Xong chuyện:
Mƣợn hộ pháp Kim Cang Vƣơng của Tibu và nhờ anh chàng tẩy sạch
hào quang của mình bằng cách nói chuyện đại ý nhƣ sau:
- Ông à! Tôi có nghe ông Tibu kể lại chuyện ông ấy cai thuốc lá và ông đã
dùng cái chày Kim Cang của ông mà làm sạch sẽ cái hào quang của ông tibu.
Hiện giờ thì tôi không có thể thấy ông đƣợc, nhƣng khi tôi đọc câu chú mà ông tibu có
cho tôi thì nhờ ông làm một phát y chang nhƣ là ông đã làm cho ông tibu.
Sau đó là đọc câu chú:
Om Vajra Agni Prananpataya, svaha
Ôm Vat ra A (gơ) ni Pra năn pa tai gia, soa ha
TB: Ajna là cái trung tâm năng lực thứ 6. Vị trí là ngay giao nhau của hai
chân mày với đƣờng thẳng đứng ngay xoang mũi. Từ điểm này (Tha Hóa hay tập
trung nơi này lắm đây) lại đo lên phía trên thêm 1/3 khoảng cách tới chân tóc.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 195
Ngƣời đầu trọc, thì lại đo từ điểm này lên phía trên 1 bề ngang của ngón tay cái
của chính mình. Nhớ soi gƣơng mà làm chuyện này cho chắc ăn.
Hỏi: Chết rồi thầy ơi, con đang uống rƣợu thuốc rễ cây để chữa bệnh đau dạ dày và hệ
thống tiêu hóa. Mỗi tối trƣớc khi lên giƣờng là con làm 1 chén hạt mít. Giờ con không đƣợc
uống nữa phải không ạ? Thảo nào cái đề mục biến đâu mất tiêu.
HL: Luật hồi xa xƣa, thời Đức Phật: Khi bị bịnh thì tu sĩ có quyền uống rƣợu
để chữa bệnh. Thì con nằm trong trƣờng hợp này. An toàn 100%, uống chừng đó đâu
có xỉn đâu mà sợ!
VI. TÌNH TRẠNG Ù LỲ TRONG CÔNG PHU
1. Thói quen tu sĩ:
Tu sĩ hay bất cứ nghề gì cũng bị cái thói quen nghề nghiệp nó làm cho tu
sĩ, theo thời gian, mất đi cái cảm giác của "cái thuở ban đầu lƣu luyến ấy", có nghĩa là:
Thay vì vừa làm vừa thƣởng thức thì lại làm một cách máy móc, theo phản xạ.
Điều tai hại lúc nào cũng xảy ra, nếu tu sĩ không làm cho mình "vui số 10" (với số
0 là không vui gì hết, và số 10 là vui tối đa). Không có cái vui này thì cái tâm nó lại
chạy theo thói quen "buôn bán, tính toán này nọ" liền!
Thói quen thâm căn cố đế:
Cái mặt chìm của cuộc sống là đi tìm hạnh phúc, không có cái này thì... ai mà
dại dột làm việc đó chi cho mất công, và tốn thời giờ một cách vô ích nhƣ vậy?
Từ uống rƣợu, hút xì ke, đánh bạc, đi ăn vụng, ăn cao lƣơng mỹ vị, uống máu,
nhóm họp bạn bè, làm ăn... Cái gì cũng không ngoài cái mục đích là đi tìm cái hạnh phúc.
Trong đó có cái tu tập, cái mà nó đòi hỏi "Con Ngƣời" phải đạt tiêu chuẩn
hạnh phúc rất là cao cấp, và cực kỳ rõ ràng. Tuy nhiên, do thói quen đã nói ở trên:
Hành giả sau 1 thời gian tu tập thì tự nhiên lòi ra những phản ứng phụ trong công
phu, những phản ứng này phát xuất từ nghiệp sát.
a) Đóng dấu tâm linh khi còn trớn ở "Cận Định"
Có nghĩa là khi vừa mới ra cái bùi nhùi màu sắc mờ mờ, ảo ảo, xìu xìu, ễnh
ễnh ( củi lửa không nên thân).
(1) Trước hết là nên hiểu tình trạng "cận định" và tầm ảnh hưởng của nó:
Tâm ở Cận Định là một dạng công phu cao cấp ở Dục Giới (Tƣơng đƣơng với
Tha Hóa Tự Tại). Đồng thời nó cũng là... tiếng nói của lƣơng tâm (nếu tâm thức dao
động ngay ở cái bản lề giữa Thô Tâm và Vi Tế Tâm).
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 196
(2) Kế đó là nên biết cái ưu điểm và cái khuyết điểm của nó:
Trong tƣ thế này mà kết luận bất cứ cái gì thì hành giả đều có thể tác dụng trực
tiếp vào cái "Vô Thức".
Mà cái "Vô Thức" mà bị kích động... đúng thì nó lại bơm cho hành giả tiếp
tục tiến tu.
Nhƣng nếu mà nó bị... kết án thì nó sẽ cầm chân hành giả lại một thời gian rất
là dài. Hƣ bột hƣ đƣờng cũng là ở chỗ này đây!
Bơm à?
Ừ, nó có thể bơm hành giả khi hành giả "vui số 10". Còn "không vui đƣợc số
10", thì hành giả ráng sức mà tự bơm mình lên bằng cách là suy nghĩ về phƣớc báu
vô lậu này là: Ngồi xa lông mà cũng có đầy đủ pháp hành! (khỏi cần trèo non lội
núi để tìm Milarepa) Ra ngoài đƣờng thì tay bắt mặt mừng với Quan Thế Âm bằng
xƣơng bằng thịt!... Có gì thì... Mách Quan Thế Âm và nhờ giải quyết!
Và nhớ là suy nghĩ về nhƣng chuyện này khi vừa công phu xong. Lúc này tâm lực nó
đang còn ở tình trạng "Cận Định" với cách suy nghĩ về cái phƣớc báu này thì qua lần công phu
sau: nó có thể lên tinh thần và... bơm mình để có thể tiến tu.
Cầm chân đƣợc à?
Ừ, nó bị chính mình kết án là... Đồ cù lần! Làm ăn không nên thân! Ông đã chết
lên chết xuống và đƣa tới tận miệng mà làm... cũng không xong!
Với câu kết án nhƣ vậy thì nó xuống tinh thần và lần sau là... chƣa tập đã
bị... khiếp vía và do đó là... hết pin! Nó còn bị cái ký ức này kềm lại khi gặp trở ngại
trong công phu.
Nó là cái "lƣơng tâm" hay là cái "Vô Thức" đó! Cả hai cái mà nó rị lại là thua to.
b) Chai lỳ tâm thức:
Nhƣ trên đã nói là sau một thời gian tu tập thì buổi công phu biến thành phản
xạ, hành giả làm... nhƣ máy, và mất hết cái "tình cảm" mà mình có đƣợc vào những
buổi đầu: Tâm thức trở nên "chai lỳ". Do sự nhàm chán này mà tính cách linh động
của đề mục lại không còn nữa.
Sự phát sinh:
1. Sở dĩ có tình trạng này là vì... trong vùng mình ở... chƣa có ai tập hay
hơn mình, tính cách "ta đây" nho nhỏ xuất hiện và mọi cố gắng trở nên vô nghĩa!
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 197
2. Hoặc là có ngƣời cùng tập với mình. Nhƣng ngƣời này lại quá hay,
quá chính xác, nên mặc cảm "thua thiệt" bắt đầu xuất hiện và do đó mà tâm thức trở
nên ù lỳ và từ tình trạng này nó thành chai lỳ luôn!
Đây là tình trạng mà sách vở nói về "vi tế ngã" tức là một hạt cát của cái gợn
nhẹ về bản ngã này đã chặn đứng đƣợc nguyên bộ máy tâm linh!
3. Ngoài ra, vì chƣa có ai hay hơn mình nên mình không cần cố gắng nữa! Và
tự cho là "Nhất Thiên Hạ" rồi!
Đây cũng là... có lý khi hành giả này:
Nói về nghe thì họ có thể nghe từ tiếng ììì của sợi dây có dòng điện đi qua, cho
tới tiếng kêu của "Trái Đất". Hay từng hành tinh một trên dãy Ngân Hà!
Nói về Thấy thì hào quang của họ từ nữa thƣớc (lúc đầu tu tập) thì nay đã
phủ trùm từ chỗ họ ở cho tới phân nửa Thái Bình Dƣơng! Và dĩ nhiên là họ đã coi
qua luôn đƣợc cái kiếp thứ 41 từ khuya rồi.
Nói về nếm thì hành giả có thể nếm cả cái mùi của chính thân thể mình và ngay cả cái
mùi... chƣa đúng hay chƣa chuẩn của một hệ thống hay là của một cái gì đó!
Nói về rờ thì đã từ lâu lắm rồi: Họ đã rờ đƣợc từng bộ phận trong thân thể của
họ và cho tới... Mặt Trời và Mặt Trăng.
Làm đƣợc nhƣ vậy: Thì dĩ nhiên, câu nói "Trên Thế Giới này chƣa ai làm
đƣợc nhƣ con hết!" là... đúng!
2. Giải quyết:
Nhƣ vậy là... ai cũng bị! Nhỏ bị theo nhỏ, lớn bị theo lớn! Cách giải quyết
là: Mình tu để làm cái gì? Tất nhiên là để cho mình "hạnh phúc" và cứ suy nghĩ về câu
trả lời này thì... an toàn.
Có nghĩa là lúc nào mình cũng vui và nhẹ nhàng là ngon lành.
Còn y nhƣ chƣa tu, có nghĩa tâm nó cứ bơ bơ và hễ mà có tý chuyện là
mình cảm thấy đƣợc cái nặng nề... cái mệt mỏi và nhất hay "lên giọng" hơi cáu
gắt... là có vấn đề!
a) Suy nghĩ dương tính trong tình trạng thê thảm (tự bơm):
Cái phần này dành cho những ngƣời "hay kết án mình"! Phải hiểu là sự kết án
này nó phát xuất từ:
1. Cái tình thƣơng chân thành với thằng Bạn của mình.
2. Do mình cũng muốn phụ nó một tay để cho nó đỡ mệt.
Nhƣng vì tập hoài không xong, nên mới sanh ra cái phản ứng trên.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 198
Lời khuyên là: Nên để ý đến câu chuyện "Học đánh kiếm để trả thù cho gia đình".
Chuyện rằng:
Có gia đình nọ bị cƣớp vào và bị giết hết. May thay, còn lại bà mẹ và đứa con út.
Mẹ nuôi con lớn lên và cho con đi học kiếm để phục thù. Khi thanh niên này
gặp đƣợc vị Thầy thì anh chàng hỏi rằng:
- Học nhanh nhất thì trong bao nhiêu năm mới thành kiếm sĩ?
Thầy nhìn tƣớng ngƣời học trò, đo xƣơng bả vai (theo truyền thống bí mật
của Samurai), xong rồi mới gật gù trả lời:
- 5 năm.
Học trò đề nghị là:
- Nếu con học siêng năng và ngày đêm thao dƣợt thì bao nhiêu năm?
- 10 năm thì xong.
Nếu con bỏ hết, ngay cả thời gian ngủ, nghĩ và tiết chế cả ăn và uống để dành
cả thời giờ đó vào việc thao dƣợt thì bao nhiêu năm?
- 15 năm có thể là xong, nhƣng chắc rằng xong rồi thì hết làm gì đƣợc.
Và nhìn anh thanh niên này, Kiếm Sƣ nói lên khẩu quyết quan trọng nhƣ sau:
- Này anh bạn à, sở dĩ có chuyện trễ nải đến nhƣ vậy là vì anh bị phân
tâm trong việc học. Anh bạn phải mất đi 10 năm vì anh bị hai cái: cái thứ nhất là
việc học kiếm, và cái thứ hai là việc trả thù. Còn chuyện 15 năm là vì anh sẽ bị ba
cái: cái thứ nhất là học kiếm, cái thứ hai là trả thù và cái thứ ba là không có đủ
sức khỏe. Lời khuyên của tôi là anh cứ lo học kiếm và khi học là gác chuyện trả thù
qua một bên.
Khi nào xong thì tôi sẽ nói cho anh bạn biết, và tôi sẽ là ngƣời nhắc cho anh
bạn nhớ lại là phải đi trả thù.
Kết quả: ba năm sau là anh chàng học xong.
b) Tỷ lệ "quyết tâm".
Ai cũng quyết tâm hết á! Có ngƣời làm đƣợc, và cũng có ngƣời lại không làm đƣợc.
Tại sao?
Nguyên nhân sâu xa:
(1) Trí óc thì biết đây là phương pháp đầy đủ và muốn thực hành, nhưng do
thói quen lâu đời nên khó có thể quyết tâm được.
Thói quen này do đâu mà có?
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 199
Con Ngƣời chƣa tu tập xong thì có ba phần: Tƣ tƣởng, linh hồn và thể
xác. Trong đó thể xác ảnh hƣởng nặng nề nhất, kế đó là linh hồn và sau cùng là
cái tƣ tƣởng.
Thể xác thì... ở đây. Linh hồn thì có khả năng di động nhiều hơn, còn tƣ tƣởng
là cái hay trở về với những thói quen xa xƣa của hành giả.
Có nghĩa là khi hành giả ngủ thì tƣ tƣởng lại có thói quen lôi cái linh hồn về
lại cõi mà nó hay ở.
Dùng thiên nhãn mà coi một hành giả, thì sẽ thấy đƣợc nguyên nhân này liền:
Khi còn thức là "con ngƣời" nhƣng khi đi ngủ thì linh hồn lại trở về cõi A Tu
La, hay cõi linh vật (Rồng), hay là đi gặp lại những vị thầy mà mình đã tu tập với
họ: Thông thƣờng là những cõi của những "Điện Thần Nhân".
Những hành giả này rất là khó mà quyết tâm.
(2) Sau đây là những kinh nghiệm của những người, tuy rằng đang lâm vào
tình trạng trên, nhưng vì có phước báu nên đã mò ra cách thức như sau:
(a) Điều đình tâm thức:
Nhƣ đã nói ở trên, tâm của hành giả "chạy ngƣợc chiều" với lòng mong muốn
(áp dụng cho những hành giả có liên quan đến cái "Điện Thần Nhân").
Trong điều kiện này thì phải quay ngƣợc 180 độ.
Nhƣng làm nhƣ vậy là quá đột ngột nên tâm lý nó bị dao động rất là mạnh
và không ổn định. Do tình trạng không ổn định này mà nó không thể yên tâm mà vào đề
mục đƣợc. (tình trạng ngủ mê mệt khi sắp sửa vào đề mục).
Nguyên tắc là làm từ từ. Vào thời kỳ của Đức Phật Thích Ca thì Ngài cho
thời gian là ba tháng. Những hành giả này làm cái gì trong ba tháng này?
Họ... hoan hỷ ở "Cận Định" nhƣng lại kiểm soát không cho mình "lớn lối",
và không cho mình "hở tý là sân hận", "hở tý là ghen tuông”. Trong ba tháng
vào quân trƣờng này họ rơi hoàn toàn vào tình trạng "không phải là Tha Hóa Tự
Tại" (do không cho mình "lớn lối") và "không phải là A Tu La" ( do ngăn chặn
tình trạng ghen tuông và sân hận). Cũng trong ba tháng này họ cũng đƣợc nghe tin
tức: Những ngƣời tu sĩ đƣợc quả vị này, đƣợc quả vị kia... Việc này để bơm họ lên.
Do sự chuẩn bị tâm lý đƣợc nhƣ vậy nên khi họ có, hay là gặp những
triệu chứng nhƣ sau, thì họ biết là thời gian nhấn ga tu hành đã đến:
1. Ra ngoài đƣờng thì hay nghe những ngƣời khác gọi nhau sau lƣng
mình. Chuyện kỳ lạ là họ vẫn cứ gọi nhau hoài đó chớ! Nhƣng trong tình trạng
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 200
"ba tháng quân trƣờng" thì hành giả lại nghe tiếng gọi lại có tính cách "hƣớng về
mình" và rất là chói tai.
2. Khi công phu vào "Cận Định" thì trong khi nhắm mắt nhìn cái đám
sƣơng mù, hay là màu sắc bùi nhùi, xoay xoay ngay đằng trƣớc mặt (thông thƣờng
hành giả chỉ dừng ở ngay chỗ này thôi) thì đồng thời cũng có cảm giác là có cái gì
đó nó đang ở sau lƣng mình. Và hành giả biết là "cái đằng sau lƣng là không đúng,
và không tự nhiên".
Hai hiện tƣợng này nó phản ảnh tình trạng níu kéo của các cảnh giới thuộc
loại thói quen xa xƣa của mình.
Sau khi cứ bị đi, bị lại tình trạng trên, thì hành giả nên hỏi ngƣời có thiên nhãn
xác nhận lại lần cuối, coi có đúng là nhƣ vậy không?
Nếu đúng, là hành giả nhấn ga tu hành vào cách "Nhập Chánh định" vào
đề mục. Song song vào đó, nên nhớ tác ý về tình trạng hỷ lạc khi đề mục đã xuất hiện ổn
định ( lâu từ 40 giây đồng hồ trở đi).
Mẹo vặt: Trong khi đề mục chƣa có xuất hiện mà hành giả cũng còn đang
loay hoay với cái đám sƣơng mù hay là đám màu sắc... thì hành giả nên bơm
mình lên bằng cách suy nghĩ: Đây là cơ hội ngàn vàng do cố gắng cá nhân mà
tôi đƣợc nhƣ vầy đây! Tôi đang đi trên con đƣờng "Chánh Pháp" đây là kết quả
của những "Phƣớc Báu Vô Lậu" mà tôi đã gieo trồng từ vô lƣợng kiếp cho tới
này. Đây đúng là thời thoát xác tu hành!
Và với tâm hoan hỷ nhƣ vậy, hành giả vào công phu và tìm cách vẽ bằng
tƣ tƣởng cho ra cái đề mục ngay đằng trƣớc mặt mình.
Nếu chƣa ra thì nên biết là từ Vô Lƣợng kiếp cho tới nay, hành giả chƣa một
lần đạt đƣợc tình trạng công phu theo kiểu này! Do đó mà nó mới... khó làm nhƣ vậy!
Hiểu nhƣ vậy thì không nên kết án mình là... dở, là... không ra gì! Mà vô tình lại rơi
vào cái vòng lẩn quẩn của tình trạng ù lỳ trong công phu! Mà nên... bơm mình lên
bằng cách nói cho mình nghe là:
Chẳng qua đây là thói quen! Mà thói quen thì làm riết thì nó... quen! Và khi nó
đã quen thì nó làm đƣợc! Vấn đề chỉ còn là cố gắng cá nhân và nhớ là phải làm đều
đều, một cách "trung đạo".
(b) Nhập Chánh định vào đề mục:
Trong khi tu hành nƣớc rút này:
1. Hành giả không đƣợc bƣớc ra khỏi chƣơng trình tu hành. Có nghĩa là phải
kềm cái tâm của mình lại, và dán nó vào cái đề mục.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 201
2. Hoặc là sau này (có thiên nhãn rồi), thì dán cái tâm vào cái điều mà
mình muốn quán tƣởng. Không cho nó chạy bậy.
Điều này khó làm... trần ai luôn đó!
Nhƣng sau khi bị mệt phờ râu, mệt gần chết, mệt lả ngƣời... thì tâm thức đã
bị khuất phục và nó phải làm theo ý của mình.
Đối với những ngƣời hay về cõi Linh Vật (Rồng) thì chỉ cần sám hối và vào
tập vào Chánh định! Loại hành giả này không thích sám hối đâu! Nhƣng chỉ có cách
này thì mới tiến đƣợc mà thôi. Hay nói cách khác đây chỉ là quẹo cua 90 độ mà thôi,
nên tình trạng điều đình tâm thức nó không có nặng nề nhƣ hành giả A Tu La hay
là hành giả "Điện Thần Nhân". (Đệ là hành giả "Điện Thần Nhân").
Một giấc mơ, hay là một linh ảnh chứng tỏ là hành giả đã giã từ đƣợc
cảnh giới đó và ra đi:
Các Bạn cứ tƣởng tƣợng một vận động trƣờng có thể chứa đƣợc vài tỷ ngƣời,
và vài tỷ ngƣời này đồng thời vẫy tay chào hành giả. Trong khi đó là hành giả lại bay
từ từ trên hƣ không! Cảnh tƣợng ngoạn mục và thanh tịnh không thể tả đƣợc.
Lúc này mà ngủ quên trong chiến thắng là...” không có cái ngu nào bằng
cái ngu này". Lúc này là lúc nhấn ga tu hành và nhập cho vững chắc vào cái "Chánh
định trên một đề mục". Làm nhƣ vậy là khẳng định với chính mình là "không về
lại thế giới này nữa đó!
c) Tuyệt chiêu của Đại Đệ Tử của Đức Phật.
Nói về những Ngài này, ít ai ngờ rằng những gian nan và khó khăn mà các
Ngài phải tự chiến đấu với cái thói quen lâu đời của mình. Thật là ngoài sức tƣởng
tƣợng của bọn mình khi có thể tạm thời hình dung đƣợc hoàn cảnh cô đơn và tuyệt
vọng của các Ngài khi đang phấn đấu và tự bức phá để tu hành!
Những Đại Đệ Tử này thật là xứng đáng và là những tấm gƣơng không bao
giờ phai mờ. Chỉ trong vòng một tuần thôi mà các Ngài đã chứng tỏ cho cái đám
hậu sinh nhƣ bọn mình đây... phải... xanh mặt khi chỉ có đọc đƣợc phần tóm tắt về
những khó khăn mà các Ngài đã phải trải qua trong thời kỳ chập chững vào Chánh Pháp.
(1) Mục Kiền Liên:
Ngài thứ nhất và cũng là Ngài lỳ đòn nhất, không ai khác hơn là Ngài Mục
Kiền Liên:
Đó là Ngài mà các tu sĩ sau này chế ra cái chuyện "ăn bánh bao có thịt chó" (Ấn
Độ đâu có ăn... bánh bao!), mà bọn mình có thời kỳ "tin nhƣ sấm" đó.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 202
Lý lịch cá nhân: mù mờ (vì đây là lúc Ngài còn đang tu hành.)
Phản ứng của tu sĩ, phản ứng này... chỉ có Đức Phật Thích Ca là ngƣời phát
hiện ra khi Ngài ở Tứ Thiền và đi ăn xin: Ngài đã tỏ ra mất kiên nhẫn khi đứng trƣớc
cửa nhà ai đó! Trong dịp này Đức Phật đã dặn dò Ngài là: "Mỗi lần các thí chủ này
trễ nải về chuyện để bát cho ông thì ông nên nhớ cho tôi điều này là: Không phải họ
khinh ông, mà là họ đang bận làm chuyện gì đó mà thôi!"
Chỉ một chi tiết nhỏ nhƣ vậy thôi mà Ngài Mục Kiền Liên đã nhận ra
cái không hợp lý của chính mình!
Đó là: Tại sao đã là Tứ Thiền rồi mà còn có tình trạng... mất kiên nhẫn?
Lời bàn:
Thật là tinh tế khi Ngài tìm ra điều này! Tứ Thiền có thể ví nhƣ là Bác Sĩ. Và
mất kiên nhẫn là phản ứng của ngƣời chƣa tu, thì có thể ví nhƣ là "tình trạng mù
chữ". Bác Sĩ và tình trạng mù chữ là hai hiện tƣợng không chấp nhận, và không thể
nào đi đôi với nhau.
Hết lời bàn.
Ngài rà soát kỹ lƣỡng hơn nữa trong một ngày và coi Ngài có làm gì sai
trái không? Thì Ngài thấy là Ngài không phạm điều gì hết! Vả lại, Ngài lại tu hành xa
Đức Phật nên không biết tính sao, và không biết hỏi ai!
Và từ đó Ngài thấy rất là rõ cái gợn nhẹ của sự phật ý! Và chính sự phật ý
này lại đƣa đến sự mất kiên nhẫn, khi Ngài gặp điều gì không đƣợc nhƣ ý nhƣ là
đứng đợi khi đi ăn xin.
Đây là cái gai!
Nhƣng nguyên nhân của cái gai thì Ngài lại mù tịt!
Cô đơn và tuyệt vọng trong rừng, Ngài không tìm ra đƣợc đâu là cái
khuyết điểm về cách tu hành của mình!
Ngài tự nhủ:
- Thật là điên cái đầu! Mình giữ giới luật tới nhƣ vậy là cùng cực rồi! Tập tành
nhƣ vậy là hết rồi! Đề mục rõ và không gian thanh tịnh nhƣ vậy là hết mức rồi!
Nhƣng ở đâu lại ra cái tình trạng "mất kiên nhẫn này" vậy ta!
Tất nhiên, "hay gõ thì sẽ mở", "hãy tìm thì sẽ gặp" lại không sai trong trƣờng
hợp này: Ngài đã tìm ra đƣợc nguyên nhân của cái thời gian mà Ngài không
kiểm soát đƣợc! Đó là lúc Ngài đi ngủ! Ngài tự nhủ:
- À há! Do tình trạng không thể kiểm soát này mà sự mất kiên nhẫn cứ hành hạ mình!
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 203
Bởi vậy mà Đức Phật mới có cơ hội để thuyết pháp về cách tu hành để chống
lại cơn buồn ngủ.
Trích dẫn
Còn Mahà Moggallàna thì không sử sách nói rõ tại sao Ngài lại chọn nơi ẩn
tu xa xôi tận rừng núi, tại ngôi làng Kalla Vàlaputta, thuộc vƣơng quốc Ma Kiệt Ðà
(Magadha). Ở đó, với một sự tinh tấn bất thối Ngài luôn luôn giữ tâm trong
pháp thiền, ngay cả trong lúc đi kinh hành hay trong những oai nghi khác.
Mặc dù vậy, Ngài vẫn bị những cơn buồn ngủ nặng nề tràn ngập. Ngài
không muốn đầu hàng những hôn trầm này. Nhƣng Ngài vẫn bất lực, không thể giữ
cho thân mình ngồi thẳng, và đầu vẫn ngục xuống. Có những lúc Ngài phải vận dụng
toàn lực để mở rộng đôi mí mắt, không cho nó khép lại.
Ðây là một trạng thái rất dễ hiểu. Bởi khí hậu vùng nhiệt đới oi bức, và bởi
sau những năm dài du phƣơng tầm đạo. Ðại đức Mahà Moggallànagiờ đây thân thể
phải mệt mỏi và những cơn buồn ngủ đến với Ngài là một sự tự nhiên.
Nhƣng đức Thế Tôn, bằng đức tính chăm sóc của một bậc thầy đến hàng đệ
tử, Phật dù biết vậy, vẫn không ngừng theo dõi mọi sinh hoạt của Mahà
Moggallàna. Ðức Phật tuy ở xa, nhƣng với nhãn lực siêu phàm Ngài đã thấy rõ
những trở ngại tu tập của ngƣời tân môn đồ đó, nên dùng Phật lực hiện ra trƣớc mặt
Mahà Moggallàna.
Khi Mahà Moggallàna thấy Phật đang đứng trƣớc mặt mình, một phần lớn
sự buồn ngủ, sự mệt nhọc tự nhiên bị biến mất. Bây giờ đức Thế Tôn mới hỏi Ngài:
- Phải chăng Mahà Moggallàna đang ngủ gục?
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy!
Phật bèn dạy tám pháp giải trừ chướng ngại hôn trầm (buồn ngủ) như sau:
1/ Này Mahà Moggallàna! Ðừng nghĩ rằng có cơn buồn ngủ đang ở trong ông,
rồi chú ý đến nó. Giữ tâm nhƣ thế cơn buồn ngủ sẽ biến mất.
2/ Nếu làm nhƣ vậy mà hôn trầm không đi mất thì ông nên nhớ lại những lời
dạy của Nhƣ Lai và suy ngẫm. Khi ông nhớ đủ, rồi soi xét ý nghĩa giải thoát thì hôn
trầm sẽ biến mất.
3/ Nhƣng nhớ đủ Phật ngôn nhƣ thế mà hôn trầm không biến mất, thì ông nên
lập lại sự phán xét ấy một cách chi tiết hơn về các pháp hữu vi của Nhƣ Lai đã dạy,
hôn trầm sẽ theo đó mà biến mất.
4/ Nhƣng nếu hôn trầm cũng không biến mất thì ông đem tâm ý vào xúc
giác, cọ mạnh đôi vành tai và xoa bóp tứ chi thì hôn trầm (hay cơn buồn ngủ) sẽ biến mất.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 204
5/ Khi làm nhƣ vậy mà hôn trầm cũng không đi mất thì ông nên đổi oai nghi,
để tâm và ý duyên vào động tác, nhƣ đứng dậy đi rửa mặt bằng nƣớc mát, rồi phóng
tầm mắt quan sát tất cả mƣời phƣơng tám hƣớng. Ðoạn ông nhìn lên bầu trời, quan
sát mọi tinh tú, không gian, thì hôn trầm sẽ biến mất.
6/ Nhƣng nếu làm nhƣ thế mà hôn trầm vẫn không biến mất thì ông nên chăm
chú đến ánh sáng. Nếu ấy là ban ngày thì lấy ánh sáng mặt trời làm đề mục. Ban đêm
thì lấy ánh sáng tinh tú (trăng, sao) làm đề mục. Ðây là cách làm cho tinh thần xán
lạn không bị u ám, hôn trầm sẽ biến mất.
7/ Nhƣng nếu dùng ánh sáng bền ngoài mà hôn trầm không biến mất thì
ông quay lại soi xét nội tâm. Lấy nội tâm làm đề mục và cố gắng xem kỹ từng ý
nghĩa, giống nhƣ lấy ánh sáng tinh thần để rọi thẳng vào tâm thức để thấy rõ từng
chập tƣ duy khác nhau, đừng để một thứ tƣ duy nào hiện lên trong đầu ông mà ông
không biết, đồng thời ông đứng dậy đi kinh hành. Làm thế hôn trầm sẽ biến mất.
8/ Nhƣ thế mà hôn trầm vẫn không biến mất thì ông có thể nằm xuống, biết
rõ mình đang nằm nhƣ một con sƣ tử: vai mặt ở dƣới, vai trái ở trên, hai chân
duỗi thẳng, kê lên nhau, giữ trong tâm một ý niệm mạnh mẽ là: "Ta phải biết mình
toàn thân đang nằm nhƣ thế nào? Nếu thân thể ta mệt mỏi thì ta để cho nghỉ ngơi,
nhƣng ta không say đắm trong sự nghỉ ngơi ấy!" thì hôn trầm sẽ biến mất.
Tất nhiên, Ngài chiến thắng và làm xong trong 1 tuần.
Sau này Ngài sƣu tra lại lý lịch của mình thì Ngài phát hiện ra mình đã
là "Thiên Ma".
Nhƣ vậy, hành giả "Thiên Ma" sẽ phải vƣợt qua một cái núi Tu Di
khó khăn đó là "Chống lại cơn buồn ngủ". Chỉ còn độc lộ này (con đƣờng duy
nhất) để mà thoát thân mà thôi! Vì hễ mà hành giả đi ngủ là thói quen làm Thiên
Ma lại có dịp hoành hành và lấy lại sức để rồi... làm cho hành giả mất kiên nhẫn,
có nguy cơ dẫn đến sân hận và sau cùng là trở về an trú trong Tứ Thiền với
khuyết tật sân hận này. Và dĩ nhiên là chôn đời trong vòng lẩn quẩn để làm đi,
làm lại cái chuyện... Thiên Ma!
Vòng tròn khép kín đến vô tận.
Ngài Mục Kiền Liên đã đập tan ngục tù này chỉ trong vòng có 7 ngày!
Trong cái chỗ giam ngƣời: Cực hình không cho ngủ là một trong cái dã
man nhất: Nạn nhân bị điếc, bị nhức đầu, mệt mỏi cực kỳ, và sau cùng là ảo giác, rồi
điên. Tất cả cực hình này chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 205
(2) Ngài Xá Lợi Phất:
Đại Đệ Tử thứ hai này của Đức Phật Thích Ca là Ngài Xá Lợi Phất. Nghe
tới Ngài thì có ai ngờ là để có cái tài thuyết pháp tƣơng đƣơng với Đức Phật thì chính
Ngài phải... tự thắng một cách cam go nhƣ thế nào!
Trong bài trích dẫn về chuyện ngủ gục của Ngài Mục Kiền Liên, nếu các
Bạn đọc kỹ thì sẽ thấy cái đoạn giải thích rằng Ngài Mục Kiền Liên ngủ gục vì cái
nóng oi ả của xứ Ấn Độ! Hiện tƣợng "lấy bụng ta, suy ra bụng ngƣời" là một trở
ngại lớn nhất trên con đƣờng tu hành. Với sự thông minh sẵn có, tu sĩ này dùng lý
luận theo cái nhìn bình thƣờng và giải thích rất là ngon lành, chẳng coi trƣớc và xem
sau gì cả.
Cái trở ngại này, Đức Phật gọi là "Thế Trí Biện Thông". Do "suy luận" nó
nhảy vào và dùng sự nhận xét logic của nó để giải thích mọi sự việc. Tất nhiên,
làm kiểu này thì kết quả sẽ là "gần đúng" và từ đó sẽ đẻ ra nhiều pháp môn "gần
đúng". Do cái tình trạng na ná này mà Chánh Pháp bị tan tành đó là cái thảm họa
lớn nhất! Còn cái thảm họa nhỏ hơn là khi hành giả nghe về "Vô Thƣờng" thì cái
"thế trí biên thông" nó nhảy vào và đƣa ra hàng loạt kết luận: Vì tất cả là "Vô
Thƣờng" nên hiện tƣợng hiển nhiên là: Không có pháp nào để tu, không có quả vị nào
để chứng!
Ngài Xá Lợi Phất bị cái cú này!
Khi Ngài quán đề mục thì vừa lúc đề mục xuất hiện mờ mờ thì "thế trí
biện thông" nhảy tót vào và định nghĩa:
- Cái này đâu có phải là quán mà chỉ là trí tƣởng tƣợng mà thôi! Và khi đề mục
mới xuất hiện và chỉ là mờ mờ:
Thế trí biện thông lại xuất hiện:
- Cái này đâu có phải là thấy, nếu mà là "thấy" thì nó phải là rõ nhƣ mình nhìn
cái lá cây kia kìa! Cái này đúng là do tƣởng tƣợng, nó chẳng có ăn nhập vào đâu cả!
Và làm nhƣ vậy là... sai rồi!
Và Ngài làm bất cứ cách nào thì cái suy luận này cứ nhảy vào, rồi định nghĩa!
Ác một cái là nó tự cho nó điểm bằng cách nhận xét, phê bình này nọ luôn!
Không cần phải suy nghĩ dông dài! Ngài chỉ hét trong cái tâm của Ngài cái
câu trứ danh:
"Tôi không muốn thấy các sắc pháp này nữa! Vì tôi biết còn có nhiều cảnh
giới cao đẹp hơn, cũng nhƣ còn nhiều sự giải thoát cao hơn nữa! Tôi còn rất
nhiều việc phải làm!"
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 206
Với chiêu thức này, cùng với ngay lúc Ngài cảm nhận đƣợc sự hỷ lạc lan tỏa
ra trong thân thể của Ngài khi Ngài chứng Sơ Thiền thì "thế trí biện thông" tạm
thời lui binh.
Quật ngã Ngài không đƣợc, "thế trí biện thông" lui vào linh tính và làm cho
Ngài có một trực giác rất là bén nhạy: Ngài thuyết pháp rất là trúng ý của Đức Phật
Thích Ca. Đến độ, Đức Thế Tôn đã nhiều lần xác định rằng:
- Nếu mà tôi có nói cho mấy ông nghe thì cũng đến cỡ này là hết! Xá Lợi Phất
đã trình bày không sót một chi tiết, mấy ông nên theo đó mà làm.
Và cứ thế, Ngài cứ một mạch sử dụng cái linh tính này. Tuy nhiên, cái linh
tính đâu phải lúc nào cũng đúng đâu!
Nếu nói về thuyết pháp thì Ngài Xá Lợi Phất siêu đẳng bao nhiêu thì ngƣợc
lại: Chuyện hƣớng dẫn những ngƣời khác tu hành, Ngài lại sơ hở bấy nhiêu.
Cũng vì cái linh tính này mà Ngài bị hố to! Chuyện rằng:
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/u-dp&pp/dp&pp08.htm
Trích dẫn:
[... ]
Đến năm lên mƣời tám, nhân dịp một tƣ tƣởng luyến ái phát sanh có liên
quan đến thân hình đẹp đẽ của mình, Sa-di Rahula ( La Hầu La) lại đƣợc nghe
một bài Pháp thâm diệu về sự phát triển tinh thần. Ngày nọ thầy Sa-di theo Đức
Phật trì bình. Phong độ oai nghiêm quý trọng của hai vị tu sĩ xem tựa hồ nhƣ thớt
ngự tƣợng dõng dạc cùng đi với tƣợng con quý phái, nhƣ thiên nga của đức vua
dắt con lội trên mặt hồ trong cung điện, nhƣ hổ chúa oai phong và hùm con lẫm liệt.
Cả hai Ngài đều có thân hình đẹp đẽ, cả hai đều thuộc dòng mã thƣợng và vƣơng
tôn, cả hai đều từ ngai vàng cất bƣớc ra đi. Trong lúc chiêm ngƣỡng dung nhan
Đức Thế Tôn, Sa-di Rahula ( La Hầu La) nghĩ rằng: "Ta cũng đẹp đẽ nhƣ Đức Thế
Tôn, cha ta. Thân hình của Đức Phật vô cùng đẹp đẽ và thân hình ta cũng vậy. [16]"
Đức Phật đọc ngay tƣ tƣởng bất thiện ấy. Đang đi, Ngài dừng chân, quay lại
dạy nhƣ sau:
"Bất luận hình dáng đẹp đẽ hay xấu xa, hay thế nào đi nữa, cũng phải
đƣợc quan sát nhƣ vầy: Cái này không phải của ta (N'etam mama); cái này không
phải là ta (N'eso'ham' asami); cái này không phải là linh hồn của ta (Na me so atta) [17]"
Thầy Rahula cung kính bạch với Đức Phật có phải ta chỉ nên xem hình thể
nhƣ thế ấy không. Đức Phật dạy rằng ta phải xem tất cả năm uẩn (khandha) [18]
nhƣ thế ấy.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 207
Sau khi nghe lời giáo huấn của Đức Thế Tôn, Thầy Rahula xin phép không đi
theo vào làng trì bình nhƣ mọi hôm. Thầy dừng lại dƣới cội cây, ngồi chéo chân theo
lối kiết già, thẳng mình và chú tâm hành thiền.
Đức Sariputta (Xá Lợi Phất), thầy tế độ của Sa-di Rahula (La Hầu La), lúc
ấy không biết ngƣời đệ tử đang hành thiền về một đề mục mà Đức Phật vừa dạy,
thấy thầy Rahula ngồi kiết già dƣới cội cây thì khuyên nên chú tâm về pháp niệm
hơi thở ( Anapana Sati).
Sa-di Rahula lấy làm phân vân khó xử bởi vì Đức Phật dạy một đề mục và vị
thầy tế độ lại dạy một đề mục hành thiền khác.
[... ]
Hết phần trích dẫn.
Thế là Ngài La Hầu La toát mồ hôi lạnh vì không biết tính sao?
Đây đều là hai sƣ phụ, nếu mà La Hầu La làm theo ý Ngài Xá Lợi Phất thì
Ngài bị phạm lỗi là không thi hành lời khuyên của Đức Phật và ngƣợc lại! Ngài bèn đi
hỏi Đức Phật!
Cũng may La Hầu La là một Phật Tử đúng hiệu con nai tơ! (con ruột của
Đức Phật, thì khi hỏi ba mình thì đâu có gì là ngại ngùng?), chớ nếu mà lại là một
Phật tử xoàng xoàng và do cái tính hay ngại ngùng khi đặt câu hỏi và rồi cứ ngồi đó nhắm
mắt mà nghĩ tới chuyện đời thì hậu quả sẽ không biết ra sao!
Vì không có thể khai triển cái năng lực quán tƣởng ( còn gọi là: Thực
hành chánh định trên một đề mục) nên Ngài Xá Lợi Phất đã không có đủ phƣơng
tiện để độ những đệ tử của mình lên Tu Đà Hàm đƣợc! Mà Ngài chỉ dừng lại ở
trạng thái "Nhập Lƣu" hay là Tu Đà Hƣờn mà thôi. Trong khi đó thì Ngài Mục
Kiền Liên là độ cho tới A La Hán luôn.
3. Kết Luận:
Bài này tới đây là hết.
Nhƣng chắc chắn sẽ không bao giờ hết đƣợc! Vì mỗi hành giả là một sự đặc biệt
Tuy nhiên, có thể tự mò ra những khiếm khuyết của mình qua những ví dụ trên.
Vì thật ra, là ít có ai mà không bị pha trộn lắm!
Thông thƣờng là "Hành giả Thế Trí Biện Thông" lại rất là nhiều.
Còn những trƣờng hợp đặc biệt nhƣ là hành giả Thiên Ma thì đệ chƣa có gặp ai cả.
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 208
VII. CHÌA KHÓA SỐ VÀ THƢỢNG/TRUNG/HẠ CĂN
Cách đây ba hôm, đi với đứa Con Gái vào chợ đồ cũ. Đít không có đồng xu nhớt.
Và dòm đứa Con Gái lựa món này, bóc món kia! Đi lòng vòng thì Tibu nhìn lên cái kệ để
lung tung đồ và "Bắt" phải một cái ổ Khóa cực kỳ đặc biệt: Ổ khóa màu xám có bọc cao
su chung quanh và to nhƣ nắm tay ngƣời lớn nặng cỡ gần một ký lô, hiệu Master! Hiệu
khóa tốt bên này. Nhìn vào cái giá thì thấy có 0,50 đô. Có nghĩa là 50 xu. Thế là tibu
mừng húm vì có trò chơi.
Đem về nhà thì bà chị vợ qua dòm cái ổ khóa khổng lồ và nói:
- Ở đâu mà ra cái thứ này đây?
- Dạ chợ đồ cũ.
- Rồi làm sao mà mày mở ra?
- Dạ nó có 10.000 con số thôi. Em vặn từ từ thì nó cũng phải ra!
- Đồ điên! Đồ khùng! Biết chừng nào mới ra chớ!
- Dạ khởi sự từ bốn số không và em làm đều đều thì thế nào nó cũng ra! Vợ đi
làm về nghe ngay câu cuối cùng và nói vào:
- Khùng điên quá anh ơi! Của ngƣời ta đã bỏ thì làm sao mà anh làm ra đƣợc?
- Tại vì họ không có phƣơng pháp và đầy đủ kiên nhẫn thì làm sao mà ra đƣợc?
Để coi anh là "Thƣợng Căn" Trung Căn hay là "Hạ Căn".
Cả hai chị em cùng hỏi một lúc:
- Mở khóa mà có "Thƣợng Căn", "Trung Căn" và "Hạ Căn" nữa sao?
Khùng điên vừa vừa! Để cho ngƣời ta khùng điên với! Chớ mày dành hết thì
sao đƣợc! Hahahaha!
Tibu cũng cƣời theo:
- Hahahahaha!
Thế là Tibu vặn cho tới bốn số: 0 0 0 0
Và bắt đầu xoay từ từ, và đều đều, xoay không nôn nóng, không suy nghĩ, đến
lúc đau tay thì tibu nghỉ mệt. Hết đau tay thì lại xoay tiếp, khi rảnh rỗi...
Trong khi xoay thì ông đi qua bà đi lại:
- Đúng là đồ khùng! Đồ điên!
- Trời! Trời! Ba làm gì nữa đây!
- 10.000 cách xoay thì xoay biết chừng nào mới xong chớ! Ba ngày sau, bà xã
đang đọc báo:
Cụp!
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 209
- Hehehehe! Nó phải ra thôi: 6519 cách xoay: Anh là "Trung Căn"! Bà xã quay
qua nói:
- Hay lắm vậy là khi đi chợ đồ cũ thì hễ thấy là rinh về cho anh mở! Hehehe! Bà
cầm lên và khen cái ổ khóa:
- Nó nhƣ là một cái két sắt vậy hớ! Mình có thể đựng đồ vào cái thân của
nó luôn! Hay quá! Thiệt là tiện lợi!
Rồi bà nghiêm nét mặt:
- Mà sao lại là "Trung Căn"
- Khi mình nhận phƣơng pháp về rồi để đó thì là... "Ngu Căn". Còn vọc thử
và vọc đều đều thì y nhƣ cái ổ khóa này: Ngƣời chủ trƣớc bắt buộc phải làm một mã
số và con số đó phải nằm trong khoảng từ 0000 cho tới 9999 (vị chi là 10 000 con số).
Vì anh vặn đều đều và tới số 6519 thì ra. Và con số đó nằm ở giữa nên anh là
"Trung Căn". Nếu mã số lại nằm ở đoạn đầu thì anh là "Thƣợng Căn"! Còn ở
phần cuối thì lại là "Hạ Căn". Thƣợng, Trung, Hạ... Là kết quả của cách làm đều
đều. Còn ngồi đó mà... nói, mà mơ tƣởng... thì lại là "Ngu Căn"
Hƣớng Dẫn Thực Hành Tu Tập 2010 http://hoasentrenda.com
Đọc cho kỹ, Suy nghĩ cho kỹ, Hỏi cho rõ và thật là kỹ và sau cùng là làm cho thiệt là kỹ. HL. 210
E. TỤI NHỎ TU HÀNH (Thay lời kết) Sau khi thí nghiệm vào hai đứa con của tui, thì tui mới khám phá ra là ngay
khi tuổi tụi nhỏ tới 7 tuổi thì đây là thời gian mà trí tƣởng tƣợng của tụi nó
phong phú nhất. Có nghĩa là khi tụi nhỏ tƣởng tƣợng ra cái gì thì cái đó xuất hiện
nhƣ thật ngay đằng trƣớc mặt của tụi nó. Ngay thời điểm vàng son này mà có
ngƣời tu sĩ nào có nghề chỉ cần chỉ cho tụi nó cách thức "An Trú Chánh niệm
Đằng Trước Mặt" thì tụi nó phát triển ghê hồn lắm. Thật vậy, chỉ cần không tới
một, hai tháng là tụi nhỏ đã có thể xâm nhập vào Thế Giới Tâm linh dễ dàng còn hơn
mình... đi chợ nữa.
Tụi nhỏ có thể lấy lại cuộc sống thời kỳ còn ở Châu Atlantic. Có nghĩa là tụi
nhỏ, không một trở ngại gì cả, có thể sống cùng một lúc ở hai thế giới: Thế Giới
Thần Linh và Thế Giới Hiện Tại. Kết quả thật là ngoài sức tƣởng tƣợng: Tụi nhỏ
dần dần ít bệnh hoạn và sống rất là đàng hoàng, không quậy phá, rất trung thực và
cực kỳ hiếu thảo. Hiện tƣợng chuyển hóa này hiệu nghiệm đến độ mà những gia
đình có những đứa trẻ ( mà, thông thƣờng, ai cũng tƣởng là tụi nó đều thuộc loại
thƣợng căn) này đều có ý tƣởng là: Nhờ Hai Lúa tôi mở một trƣờng để đào tạo
những tài năng này... Nhƣng câu chuyện không dễ dàng nhƣ vậy đâu…
Kết quả: Bên Utah, Hai Lúa tui chỉ có chơi với hai gia đình: Cô Bé Hàng
Xóm ( với hai đứa con) và cô Không Nói Xạo (với một đứa con): Cả ba đều là tu
giỏi và tu cao. Không những vậy mà ngay ngày tụi nhỏ thành Thánh Tăng thì bà
mẹ cũng "bị" thành Thánh Tăng luôn. Cô "Không Nói Xạo" thì ngay lúc đó, còn
"Cô Bé hàng Xóm" thì vài ngày sau đó. Bên Việt Nam, thì ngay đêm đó thì cả ba
bà mẹ cũng bị cộng hƣởng nhƣ trên luôn.
Mến.
Ghi chú:
Chúng tôi thành thật hoan nghênh tất cả những sự ấn loát, dịch thuật phổ
biến, với một điều là: Ghi lại sau đó, đầy đủ nguyên bản tiếng Việt, để giữ được
nguyên ý. HL.
Hướng Dẫn Thực Hành Tu Tập
Đạo Sư Hai Lúa
Vẽ bìa: Ánh Sáng Font size : Time New Roman 13
Khổ sách: A4, pdf Số trang: 178 Admin sửa lần cuối: 14/6/2015