176
Hoa Huệ Giữa Chông Gai Những Câu Chuyện Làm Chứng Về Anh Hùng Đức Tin Tại Trung Quốc Thưa các bạn tín hữu "Hoa Huệ Giữa Chông Gai" là một tác phẩm gồm 8 câu chuyện làm chứng về những anh hùng đức tin tại Trung Quốc. Đức Chúa trời đã dùng những con người tầm thường để hoàn thành những công việc vĩ đại của Ngài tại Trung Quốc. Đó là công việc rao truyền ơn cứu rỗi cho các dân tộc duới ách thống trị của nhà cầm quyền cộng sản vô thần tại Trung Quốc, và thống nhất Hội Thánh Chúa trên đất nước rộng lớn này. Tám câu chuyện là những lời chứng được đóng dấu bằng máu và nước mắt, nhưng không kém phần hùng tráng. Từ trong tối tăm của sự đọa đày và nhục hình, những địa ngục trần gian, phát lên những lời nguyện cầu, những tiếng hát từ những con tim đã hiến dâng trọn vẹn cho Chúa, vượt không gian đến tận Ngôi Thánh của Đức Chúa Trời, làm thứ hương thơm dâng lên cho Ngài, và vượt cả thời gian chạm đến hàng triệu con tim của các thánh đồ để minh chứng rằng: "Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Chúa Giêxu Christ." (Philip 4:7). Câu chuyện thứ l CÂY BÁCH CỦA RỪNG LIBAN Mao tiên sinh ra đời năm 1916. Lúc còn trẻ, anh chống đối đạo Chúa kịch liệt. Anh khinh bỉ Cơ Đốc Giáo và dùng mọi cơ hội để phỉ báng những người tin Chúa.

Hoa huệ giữa chông gai

Embed Size (px)

Citation preview

Hoa Huệ Giữa Chông Gai

 

Những Câu Chuyện Làm Chứng Về Anh Hùng Đức Tin Tại Trung Quốc

Thưa các bạn tín hữu

"Hoa Huệ Giữa Chông Gai" là một tác phẩm gồm 8 câu chuyện làm chứng về những anh hùng đức tin tại Trung Quốc. Đức Chúa trời đã dùng những con người tầm thường để hoàn thành những công việc vĩ đại của Ngài tại Trung Quốc. Đó là công việc rao truyền ơn cứu rỗi cho các dân tộc duới ách thống trị của nhà cầm quyền cộng sản vô thần tại Trung Quốc, và thống nhất Hội Thánh Chúa trên đất nước rộng lớn này.

Tám câu chuyện là những lời chứng được đóng dấu bằng máu và nước mắt, nhưng không kém phần hùng tráng. Từ trong tối tăm của sự đọa đày và nhục hình, những địa ngục trần gian, phát lên những lời nguyện cầu, những tiếng hát từ những con tim đã hiến dâng trọn vẹn cho Chúa, vượt không gian đến tận Ngôi Thánh của Đức Chúa Trời, làm thứ hương thơm dâng lên cho Ngài, và vượt cả thời gian chạm đến hàng triệu con tim của các thánh đồ để minh chứng rằng: "Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Chúa Giêxu Christ." (Philip 4:7).

Câu chuyện thứ l

CÂY BÁCH CỦA RỪNG LIBAN

Mao tiên sinh ra đời năm 1916. Lúc còn trẻ, anh chống đối đạo Chúa kịch liệt. Anh khinh bỉ Cơ Đốc Giáo và dùng mọi cơ hội để phỉ báng những người tin Chúa.

Vào đầu năm 1948, anh bị một căn bệnh vô phương cứu chữa, anh đã làm tất cả những gì mình có thể làm, để được chữa lành. Khi các bác sĩ ở quê anh đã bó tay, anh đi lên bịnh viện lớn nhất ở tỉnh. dốc hết tiền vào sự chữa chạy. Nhưng chỉ vài tuần sau thì họ cho anh về, vì họ cũng không giúp gì được cho anh.

Anh nằm ở nhà tuyệt vọng chờ chết, thì có người bà con đến thăm anh, và giục lòng anh tin Chúa Giêxu. Đang trong lúc tuyệt vọng,

Mao đã bám vào cọng rơm duy nhất còn lại này vì nó còn có thể mang hy vọng đến cho anh. Sau vài lần nói chuyện với người bà con, anh đã quyết định: Nếu như Giêxu này có thể giúp anh thực sự, thì anh sẽ từ bỏ tất cả những thái độ chống đối Cơ Đốc Giáo. Bây giờ, nó liên hệ đến sự sống còn của anh, và anh cũng chẳng mất mát gì.

Nên anh đã quyết định làm một thử nghiệm là cầu nguyện với Chúa Giêxu, Khi anh hứa rằng anh bắt đầu một cuộc sống mới với Chúa Giêxu, thì anh đã nói bằng sự nghiêm túc và chân thành. Ngay lập tức anh kinh nghiệm được một sự bình an mới mẻ trong tâm hồn và xua tan mọi sự sợ chết đang dày vò. Trong những ngày kế tiếp, tình trạng sức khoẻ của anh tiến triển khá hơn. Bây giờ anh muốn biết ông Giêxu này là ai mà lại giúp đỡ anh quá rõ ràng, mặc dù từ trước tới giờ anh toàn chống đối Ngài. Anh tận dụng mọi cơ hội để tìm hiểu thêm về Đức Chúa Trời và Thánh Kinh. Mấy ngày sau đó, anh hoàn toàn bình phục. Kể từ lúc đó, không có gì làm anh say mê hơn là gần gũi Chúa và Lời của Ngài.

Chỉ bảy tuần lễ sau, anh được một mục sư cử đi giảng ở một vùng nọ. Đó là bắt đầu của cuộc đời làm mục sư và rao truyền Tin Lành. Anh đã hầu việc Chúa rất tận tụy. Anh càng nhận biết Ngài thì càng yêu mến Ngài hơn, và càng kinh nghiệm quyền năng và sự gần gũi Chúa nhiều hơn. Anh không hề sợ hãi trước những sự tấn công và bắt bớ vì đức tin.

Sáu năm sau vào mùa đông năm 1954, Mao bị mời lên chính quyền địa phương. Những người trong quân đội nhân dân và công an đả kích anh kịch liệt và tìm cách cải tạo anh. Người chỉ huy hỏi cung anh là một cán bộ đảng địa phương, giải thích cho anh về những điều then chốt của chính sách tôn giáo: "Niềm tin vào Chúa Giêxu là nọc độc của chủ nghĩa đế quốc và phương tiện của phản động nước ngoài. Dân tộc chúng ta chỉ tin vào chủ nghĩa Mác-xít. Chúng tôi nghiêm cấm anh tin vào Chúa Giêxu, nếu anh còn tiếp tục tin, thì anh sẽ bị coi là phản cách mạng...". Sau khi người cán bộ nói xong, thì ra lệnh cho Mao phải từ bỏ đức tin mình, và phải viết một tờ tuyên bố ly khai với nhà thờ.

Mao trả lời bằng giọng điềm tĩnh: "Chúa Giêxu là Đấng Cứu Rỗi đời sống tôi, nếu không có Ngài thì chắc hôm nay tôi không còn nữa. Trong khi tôi bị bệnh chỉ còn chờ chết, thì Ngài đã đến chữa lành tôi. Nếu tôi chối bỏ Ngài, thì tôi thật vô ơn với Ngài. Tôi không thể làm

theo lệnh của các ông được." Khi những người công an nghe những lời đó thì họ giận dữ, và bắt đầu đấm đá anh túi bụi. Mao đã cầu nguyện khẩn thiết, xin Chúa giúp sức cho mình, để khỏi phải sợ hãi trước những đau đớn. Anh không thể nào muốn phản bội niềm tin của mình, nhưng với sức lực con người thì khó có thể chịu đựng nổi cuộc tra tấn này. Và khi những đòn tra tấn đổ xuống trên thân thể anh, anh kinh nghiệm được sự vui mừng siêu nhiên, càng ngày càng đầy dẫy anh càng thêm. Anh cảm nhận Đức Thánh Linh gần gủi mình và rất dễ chịu. Mặc dù những kẻ tra tấn dùng đủ biện pháp, cũng không đạt được ý nguyện là khuất phục ý chí của Mao. Họ gán cho anh là phản Phát-xít và nổi loạn chống "chủ tịch vĩ đại". Anh bị chụp mũ là tên phản cách mạng và bị công an canh giữ. Ít lâu sau đó, chính quyền lên án anh đã cấu kết với các tổ chức phản động nước ngoài. Mấy ngày sau đó anh bị bắt giam. Vào khoảng cuối năm 1954, anh bị kết án 5 năm tù và phải bị đi cải tạo ở một trại cải tạo thuộc tỉnh H là vùng lạnh nhất Trung Quốc. Ở đó, anh đã trung thành với niềm tin và còn làm chứng cho bạn tù về Chúa Giêxu. Vì vậy án tù của anh đã tăng lên 10 năm. Vậy là anh phải chịu 15 năm sống trong trại tù cải tạo và lao động ở miền đông bắc Trung Quốc.

Đó không phải là thời gian nhẹ nhàng. Anh ở trong một trại tù vô nhân đạo, nền đất quanh năm phủ tuyết băng giá. Anh thường xuyên bị tên cai ngục đánh bằng roi da hay phải bị tra khảo không ngớt. Tại nơi quê nhà xa xôi anh không còn cha mẹ, anh chị em hay Hội Thánh đứng đằng sau mình. Niềm an ủi duy nhất của anh, đó là lời cầu nguyện của người vợ trẻ và những lời khích lệ trong những lá thư chung thủy và dạt dào tình cảm.

Vào năm tù thứ hai, anh phải nói với người vợ trẻ yêu dấu của mình là anh đã phải bị tăng án tù từ 5 năm lên đến 15 năm. Anh cảm thấy lo lắng cho vợ mình, nàng sẽ chịu đựng ra sao khi nghe cái hung tin này ? Một thời gian lâu, anh không nhận được thư trả lời của vợ. Sau cùng, lá thư đã đến, đó là một sự chấn động kinh hoàng, sự đau đớn nhất mà anh chưa từng thấy. Sau khi vợ anh nghe tin án tù của anh đã tăng lên 15 năm, đó là thời gian dài, sự lạnh giá, và đói khát, thì nàng đã từ bỏ niềm hy vọng được nhìn thấy chồng mình, nên đã yêu cầu Mao đồng ý cho nàng ly dị.

Mao vừa đọc xong lá thư, anh vẫn còn chưa tin ở mắt mình, sau khi người đề nghị ly dị đó lại là vợ mình, thì một sự hốt hoảng đã ập đến anh, khiến anh bị ngất đi. Về sau, anh suy nghĩ về hoàn cảnh của

mình, anh mới cảm thấy đau đớn, vì bây giờ anh không còn ai ở bên cạnh nữa, cả người vợ yêu dấu của anh cũng bỏ anh, nàng là người duy nhất trên trần gian này, là người giúp đỡ và cầu nguyện cho anh.

Anh cảm thấy mình bị bỏ rơi và bất hạnh, anh không còn biết gì đến sự lạnh giá, anh đã mở toang cánh cửa phòng và chạy ra một khu rừng nhỏ, ở đó anh quỳ xuống cầu nguyện và khóc sướt mướt với Chúa. Nỗi đau đớn đầy trong anh, đến nỗi không thể nói thành lời được. Anh cứ để cho nước mắt mình trào ra. Rồi bỗng nhiên anh nghe thấy tiếng êm dịu của Đức Thánh Linh phán rằng: "Con phải nhịn nhục để làm trọn ý muốn của Đức Chúa Trời, sau đó con sẽ nhận ra lời hứa." Liền tức thì, anh nhớ đến Thi Thiên 73:25 : "Ở trên trời tôi có ai trừ ra Chúa, còn ở dưới đất tôi chẳng ước ao người nào khác hơn Chúa."

Sự hiện diện của Đức Chúa Trời dần dần an ủi anh, và nỗi đau đớn anh tan dần. Sau khi anh trút hết tấm lòng mình cho Chúa, thì anh bắt đầu hát bài này:

" Gia đình tôi đã ngoảnh mặt khỏi tôi. Các bạn bè tôi chế nhạo tôi. Ngài ban cho tôi sự nhịn nhục và kiên trì. Để chịu đựng sự nhục nhã. Chúa ơi, con yêu Ngài với tất cả trái tim. Con yêu Ngài hết lòng bây giờ và mãi mãi. Cho dù biển cạn và đá ghềnh tan nát. Chúa ơi, con yêu Ngài với tất cả trái tim."

Sự gần gũi và êm ái của Thánh Linh bao phủ anh, Đức Chúa Trời của anh sẽ không bao giờ lìa bỏ anh như lời Ngài đã hứa. Bằng một giọng nhỏ nhẹ anh cảm tạ ơn Ngài, vì tình yêu vĩnh cửu của Ngài. Ngài thật xứng đáng dể phó thác mọi sự trong tay Ngài. Nếu giả sử không còn ai cầu nguyện cho anh thì Chúa Giêxu luôn ở bên Cha để cầu nguyện cho anh. Đức Thánh Linh nhắc nhở cho anh nhớ lại tất cả những lời an ủi trong Thánh Kinh, để cho anh thấy tình yêu cao cả của Chúa, dần dần anh trở nên bình tĩnh. Anh có thể tha thứ cho người vợ của mình, có thể chúc phước cho cô, và anh cảm tạ Đức Chúa Trời là Đấng săn sóc anh bằng sự an ủi và động viên anh trong những năm tháng sắp đến ở trước mặt anh. Anh từ từ đứng lên trở về phòng giam. Ngay trong buổi tối hôm đó, anh đã viết bức thư cho vợ mình, tuyên bố mình đồng ý ly dị.

Ở trong trại cải tạo lao động trong đó có tất cả 1,300 tù nhân, nhưng số người tin Chúa rất ít. Bởi vì Mao là tín dồ, nên anh thường xuyên bị theo dõi. Những công an chìm trà trộn khắp mọi nơi, không rời mắt khỏi anh. Vào một ngày kia, anh đang làm chứng cho các bạn tù về Chúa Giêxu, thì có những kẻ giám sát rình nghe trộm được. Nhiều lính canh xông vào trói anh, rồi đem lên phòng quản lý nhà tù. Ở đó, chúng bắt anh quỳ trên một chiếc ghế gỗ có bề ngang chỉ bằng bốn ngón tay. Chúng thay phiên nhau xông vào đấm vào mặt anh, nhổ vào mặt anh và lấy làm thích thú nói :" Đấng Cứu Thế của mày ở đâu rồi hả, hãy nói với Ngài đến mà báo thù chúng tao." Mao quỳ trên ghế gỗ và cứ để cho điều đó diễn ra mà không trả lời một tiếng nào. Trong lòng anh cầu nguyện không thôi. Anh tha thứ cho những kẻ hành hạ mình, và xin Thánh Linh ban sức lực cần thiết cho anh. Sự hiện diện của Chúa đã đưa anh khỏi cơn gian nguy này, trong lòng anh đầy sự bình an và vui mừng vì kinh nghiêm được sự gần gũi Chúa hơn mọi sự tấn công và đau đớn. Hằng giờ đồng hồ qua, những giây trói gắn chặt vào tay chân anh bị tê dại, cuối cùng anh thấy tối sầm ngã quị xuống đất và ngất đi.

Có lần chúng đeo lên cổ anh một tấm vỉ sắt của lò sưởi bằng gang, nặng hơn 20 cân, trên đó chúng gắn một tấm bảng đề là: " Mao, tên cầm đầu mê tín dị đoan, phản cách mạng." Anh phải đeo nó đi vòng quanh ngoài nhà tù. Khi chúng cảm thấy tất cả những thứ đó chẳng ích gì, và dường như Mao thà chết còn hơn là từ bỏ niêm tin, thi chúng dùng đến biện pháp cứng rắn nhất. Chúng xiềng tay anh lại và trói chân anh vào một khúc gỗ bị chôn chặt dưới đất, và anh cứ phải ở yên như vậy trong mấy tháng liền trong một xà lim cá nhân không có cửa sổ. Nhưng điều đó cũng không thể khuất phục được đức tin của Mao, vì Chúa luôn ở bên anh, và những sự đày đọa bên ngoài không thể so sánh được với sự tốt lành của Chúa ở bên trong mà anh kinh nghiệm dược.

Vào một mùa đông buốt giá, nhiệt độ ở khắp tỉnh H giảm xuống 45 độ. Nhiều người già và yếu bị chết cóng. Đồng thời có một bịnh truyền nhiễm lan tràn trong vòng trại tù. Những tù nhân mắc bệnh bị sốt cao và chân tay run rẫy, rồi chết. Đó là một cảnh tượng đầy tang thương. Trong vòng ít ngày đã có 1,050 người chết trong số 1,300 tù nhân. Những người có trách nhiệm, đã cho đào một hố lớn, và cho xe tải chở xác chết đẩy xuống hố chôn người tập thể.

Mao cũng bị chứng bịnh kinh khủng đó. Khi người bác sĩ đã kiệt sức và thiếu ngủ đến khám cho anh và lắc đầu nói với những người đứng canh chung quanh: " Lại thêm một người nửa." Chúng đem anh vào một phòng riêng cất xác người trước khi chở ra xe đẩy xuống hố chôn tập thể. Vậy anh nằm ở đó nửa sống nửa chết ở giữa các xác chết. Nhưng tâm linh anh vẫn tỉnh táo, anh cầu nguyện với Chúa rằng:" Chúa ơi, xin Ngài hãy cứu sống con, đừng để con chết ở chỗ vô thần này, Hãy chữa lành con và đem con trở về bình an, con nguyện sẽ hầu việc Ngài mỗi ngày còn lại của đời con, con muốn rao truyền Tin Lành cho Ngài như Ngài đã cho phép con." Ngay lúc đó có một Thiên sứ hiện ra trước mặt Mao, Thiên sứ mặc áo trắng và gương mặt ngài tỏa chiếu vinh quang của Chúa. Trên lưng ngài đeo theo một túi y tế, mang hình thập tự giá, ngài nói với Mao một giọng rất êm dịu: " Anh là Mao phải không ? Đừng sợ, hãy tin mà thôi." Rồi thiên sứ giơ tay phải ra nắm lấy tay Mao và đem ra khỏi căn nhà. Thiên sứ đem anh đến một phòng rất đẹp, căn phòng có màu trắng không thể tả được, và ngài đặt anh ngồi trên một ghế màu trắng. Thiên sứ cầm lấy ống nghe bịnh, đem bỏ vào đó một bịch thuốc màu trắng, và thổi qua ông nghe bịnh đó. Trong lúc đó Mao có cảm giác lành lạnh dễ chịu và bắt đầu thấy tươi tỉnh. Sau khi anh tỉnh lại thì căn bịnh đã rời khỏi anh. Lập tức anh quỳ xuống giữa những xác chết nằm ngổng ngang trên mặt đất mà tạ ơn Đức Chúa Trời. Anh lại hứa nguyện dâng đời sống mình cho Chúa và để Ngài sử dụng anh vô điều kiện. Sau đó, anh nhanh chóng rời khỏi nhà xác và chạy đến gặp bác sĩ. Khi bác sĩ thấy anh đi vào thì toát mồ hôi lạnh, hoảng sợ, nói ú ớ: " Anh...anh...anh là một con ma!". Xin ông đừng sợ, tôi là Mao đây, Đức Chúa Trời đã chữa lành cho tôi, Chúa Giêxu đã cứu tôi thoát chết, Ngài đã sai tôi đến chỉ cho ông con đường đến với Chúa, xin ông hãy tiếp nhận Chúa Giêxu đi."

Người bác sĩ nghe thấy điều đó, lập tức quỳ xuống và nói: "Đức Chúa Trời của anh là có thật. Chúa Giêxu là Chúa hằng sống. Bây giờ tôi cũng muốn tin Ngài, xin Ngài tiếp nhận tôi."

Mao đã nhiều lần chứng kiến Chúa cứu anh khỏi nanh vuốt của tử thần ra sao. Ở một miền đất không có sự sống, đầy băng tuyết, phải chịu đựng 15 năm ròng rã, bị phó cho những sự tra tấn đầy đọa dã man, anh còn sống được thì đó là một phép lạ. Đa số những người bị đem đến trại cải tạo H đều chết trong những năm đầu tiên. Nhưng trong thời gian dài bi tù đày ở H, làm thế nào mà Mao có thể sống sót được?. Khu rừng nhỏ bên cạnh đó là điều bí mật của anh. Bất cứ

lúc nào thuận tiện anh đều rút vào khung trời tự do nhỏ bé này, hầu hết là vào ban đêm, khi tất cả mọi người đã ngủ hết thì anh ra đó cầu nguyện, và anh đã nhận được sức mới từ Đức Chúa Trời, một sức mạnh thậm chí vượt qua khỏi sự chết và sống một đời sống đắc thắng trong những hoàn cảnh kinh khủng.

Rồi ngày Mao tiên sinh được thả ra đến,15 năm ở trong trại lao động cải tạo lùi lại sau lưng Mao như một cơn ác mộng. Lúc ông ngồi trong toa tàu vào năm 1969, chở ông về tỉnh nhà, trong lúc suy nghĩ, ông tràn đầy sự biết ơn, dù rằng nhớ lại những đau thưong, trong đó có cả máu và nước mắt, ông đã kinh nghiệm được sự gần gũi của Đức Chúa Trời, và sự nương náu trong Ngài. Đồng thời, sự suy nghĩ của ông cũng vượt nhanh hơn chuyến tàu. Ông không ngớt nghĩ đến cảnh gặp gỡ anh chi em con cái Chúa, và những điều mình sẽ kể cho họ nghe. Có biết bao nhiêu phép lạ mà ông đã kinh nghiệm trong những năm qua. Ông vui mừng vì sẽ được chia xẻ cùng các bạn bè ở quê hương về những kinh nghiệm này. Nhưng ông chưa biết là thời kỳ hoạn nạn của ông chưa chấm dứt, đang còn những sự bắt bớ tiếp tục chờ đợi ông.

Trong khi Mao tiên sinh còn ở trên chuyến tàu dài ngày, và cuối cùng đến tới mảnh đất quen thuộc trước đây từng là quê hương mình, thì ông chưa thể hình dung hết những điều gì đã xảy ra ở dưới cuộc cách mạng văn hóa. Ông không biết rằng cuộc cách mạng này đã lan tràn khắp nơi, và đến cả những nơi xa xôi hẻo lánh nhất. Những công nhân viên và quan chức của chế độ cũ bị nghi ngờ, đều được giải đi công khai trên đường phố để đến các cuộc đấu tố. Đó là những chuyện xảy ra ở thời kỳ cách mạng văn hóa. Họ bị tra khảo, bị mắng chửi, bị đánh đập, và bị bắt ép như tự tố giác mình. Và cuộc sống của những người xưng nhận niềm tin công khai lại càng ở trong sự bắt bớ nguy hiểm.

Khi Mao tiên sinh vừa đặt chân đến chỗ ở mới của mình, thì ông bị chính quyền địa phương mời lên. Những cán bộ hỏi ông: "Sau khi ông đã ở trong trại cải tạo 15 năm, ông có từ bỏ niềm tin của mình không ?" Mao suy nghĩ về sự hiện diện của Chúa mà ông đã thường xuyên kinh nghiệm trong suốt 15 năm qua, cho dù ông cảm thấy yếu đuối và cho dù sự tấn công có điên cuồng và tàn bạo đến đâu, thì ông đã được kinh nghiệm và quyền phép của Đức Thánh Linh một cách đặc biệt. Nhưng làm sao ông có thể giải thích cho những người này hiểu được là sống trong sự tương giao với Chúa là tuyệt

vời dường nào!. Ông cảm thấy vài cặp mắt long sòng sọc như muốn ăn tươi nuốt sống ông, và ông trả lời một cách quả quyết: "15 năm qua sống trong trại lao động cải tạo đã không làm cho niềm tin của tôi yếu đi, trái lại nó đã góp phần làm cho mối quan hệ của tôi với Chúa Giêxu càng khắng khít hơn, và niềm tin tôi càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết."

Ngay lập tức, Mao tiên sinh tuy vừa mới ra tù lại bị đánh đập túi bụi bằng đấm đá và gậy gộc. Vào năm 1970, chính quyền địa phương lại ra lệnh bắt giam ông, và bắt ông phải tham gia một khóa huấn luyện cải tạo. Tham gia khóa này, phần lớn là đầu trộm, đuôi cướp, chủ chứa, chủ sòng và những thành phần không muốn hội nhập vào trong xã hội. Những người này hay bộc lộ sự cứng cỏi và bản lãnh của mình. Nhưng giờ đây đối diện với bạo lực chuyên chính của nhà nước, thì trông họ như những võ sĩ bại trận nhục nhã. Họ đi lướt thước với đôi vai thòng xuống, và một sự bạc nhược tràn ngập trên họ. Mao phải sống chung với họ suốt 73 ngày, và dù họ có thường xuyên khiêu khích ông, hay thậm chí đánh đập ông, nhưng ông không để bị mất tinh thần. Bất cứ lúc nào thuận tiện, ông đã hát và cầu nguyện nho nhỏ. Có khi ông đang nhắm mắt cầu nguyện tạ ơn trước bát cơm, thì đã có người lén lấy cắp của ông. Nhiều cú đấm của sự điên cuồng và khiêu khích do bị dồn chứa lâu ngày đổ lên đầu và thân thể gầy còm của ông.

Một ngày kia có một tu sĩ Phật giáo nổi tiếng bị bắt giam và ở cùng một lớp huấn luyện với ông. Ông tu sĩ này bị rơi vào tình trạng khủng hoảng tột độ, hết sức tuyệt vọng và nản chí, đến nỗi ông đã nghĩ đến chuyện tự tử. Một lần nữa, các tù nhân bị bắt buộc phải tham gia một cuộc diễn hành trên đường phố. Trong khi Mao đã nhiều lần tham gia rồi, còn đối với tu sĩ này là lần đầu tiên phải tham gia một cuộc diễn hành như vậy. Trong những ngày đó những cuộc đấu tố thường xảy ra. Một cái mũ dài thòn như mũ thằng hề được đem đội trên đầu các tù nhân. Cứ như vậy họ phải đi đi lại lại trong các đường phố tư sáng đến chiều tối. Trên mũ đề tất cả các tội phạm có thễ có của người đó. Dân làng thường là những hàng xóm và bạn thân của nạn nhân hô lên những lời đấu tố họ. Người ta xui trẻ con ném đá vào những kẻ tội phạm đã thú tội. Tiếng hoan hô reo hò nổi lên. Khi có một đứa trẻ chạy ra giữa đường đánh vào tù nhân, hay ném rác vào mặt họ. Đó là những giờ phút nhục nhã mà các tù nhân phải chịu đựng.

Vào buổi tối, khi mọi người trở về nơi mình bị nhốt, thì người Phật tử bắt chuyện với Mao và hỏi :"Hôm nay tôi quan sát ông trên đường phố, trông ông bước đi dõng dạc và hiên ngang, làm sao ông có thể quên được điều đang xảy ra quanh mình ? Mao tươi cười trả lời: "Tôi là người theo Chúa Giêxu, Chúa của tôi đã sống lại từ cõi chết, Ngài có thật, và tôi đi đâu thì Ngài cũng đi với tôi. Nhờ được ở bên cạnh Ngài, tôi có sự bình an lớn, và sự vui mừng vô biên. Đối với ông không như vậy sao ? Vì ông là người theo Phật Thích ca, thì chắc ngài phải đến và an ủi ông?. Người Phật tử không đáp lại lời đó được.

Vào một buổi chiều đặc biệt nóng bức, không một làn gió, sức gió như đè lên mọi người. Mao phải cùng với các tù nhân khác tham gia một cuộc đấu tố. Những cán bộ ra lệnh cho một vài tù nhân đi trói những người được đem lên buổi meetting hôm nay. Số tù nhân đi trói tỏ vẻ khoái chí khi được thi thố bạo lực. Chúng siết dây trói thật chặt, đến nỗi làm người bị trói phải kêu la. Rồi họ được xe tải đem đến một chỗ đấu tố.

Bên cạnh những cuộc cổ võ rầm rộ, thì đây là một phương tiện thường được dùng trong những cuộc cách mạng văn hóa, để chống lại tất cả các Phật tử khả nghi của cách mạng, hay đơn giản chỉ vì họ quá giàu, hay học vấn quá cao. Nhưng các Cơ Đốc Nhân cũng đặc biệt hay bị lâm vào vụ này. Nếu có một cuộc đấu tố được tổ chức, thì trước đó hàng giờ đồng hồ các xe tải chạy qua các đường phố phát loa phóng thanh, thông báo về thời gian của buổi đấu tố. Sự tham gia là nghĩa vụ của mọi người. Những bục khán đài được dựng lên tại những nơi xa xôi nhất, ở trong những làng mạc hẻo lánh nhất. Các tội đã thú nhận của các nạn nhân đã được đọc lên cho công chúng nghe. Nó có thể liên quan đến việc chứa chấp một đĩa nhạc Beethoven, một cái quần ngoài tiêu chuẩn, hay một thái độ mập mờ chống đối đảng. Chiếu theo những lời đó, lính hồng vệ binh hô to lời tuyên án. Những người trong công chúng được yêu cầu bước lên để vạch mặt "phần tử tội phạm".

Có những cha mẹ bị con trai hay con gái mình đấu tố. Có những học sinh gán cho các thày cô giáo mọi tội tùy ý thích, như một sự trả thù của bản thân, có lẽ vì thày cô đã có lần đánh trượt chúng, hay là trong quá khứ đã làm chúng bị mất mặt với bạn bè.

Vào giờ khắc được ấn định trước, có tiếng hô từ trong đám đông: " Đủ rồi, chúng tôi muốn sự công bình. "Những người khác hùa theo,

rồi tất cả cùng la to: "Sự công bình, sự công bình." Một cán bộ hỏi qua loa phóng thanh đặt ở trên xe tải: "Có tội hay không có tội." Khung cảnh diễn ra giống như một sự đánh cá cược, xem ai là tội to nhất?. Chính mình mà không tham gia vào, cũng phải bị quỳ lên khán đài trước đám đông để tiếp nhận sự công bình.

Mao và các tù nhân khác được chở trên xe thùng đến chỗ đấu tố. Ông và mọi người cùng đi để nhìn thấy từ xa một số đông người đang tụ tập chung quanh một khán đài được dựng gấp lên bằng những tấm ván. Theo thứ tự, Mao là người đầu tiên bị kéo xệch lên trên một cách dã man. Những cán bộ đảng từng người một bước ra, và gán cho ông những tội phạm hung bạo và ghê tởm nhất. Sau đó họ yêu cầu ông phải tuyên bố ly khai khỏi niềm tin của mình, và chối bỏ sự thực hữu của Chúa Giêxu trước đám đông đang tụ tập tại đó. Hơn nữa, họ còn đe dọa ông rằng: "Nếu ông còn tiếp tục giử niềm tin vào Chúa Giêxu, thì hôm nay chúng tôi sẽ đánh ông cho đến chết."

Mao tiên sinh vươn thẳng người lên và nhìn vào quần chúng đang chờ đợi, ông im lặng trong giây lát để cầu xin Đức Thánh Linh ban cho mình những lời cần thiết để ông nói cùng thính giả: "Thưa Đức Thánh Linh yêu dấu, con xin Ngài hãy nhận trách nhiệm về mọi sự bây giờ sẽ diễn ra." Đó là những lời cầu nguyện thầm của ông, sau đó ông tập trung vào đám đông trước mặt, ánh mắt ông sáng ngời và ông nói bằng một giọng dõng dạc vào micro: "Kính thưa bà con cô bác, bởi vì tôi tin Chúa Giêxu, nên tôi đã phải chịu 15 năm trong trại cải tạo lao động ở H. Ở đó tôi đã thường xuyên bị đánh đập, và tôi đã kinh nhiệm qua những buổi đấu tố như thế này. Dù vậy thì đức tin tôi qua đó càng vững chắc hơn. Quý vị muốn biết vì sao không?. Chúa Giêxu là Đấng tôi tin, Ngài là Đức Chúa Trời có thật và hằng sống. Ngài là Con Đức Chúa Trời, và Ngài đã dựng nên trời đất. Ngài được sinh ra như một con người vì cớ chúng ta, và vì tội lỗi chúng ta nên Ngài bị giết trên thập tự giá. Qua đó Ngài đã mở cho chúng ta một con đường đến với Thượng Đế, xuất phát từ tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Bởi vì Thượng Đế muốn cứu vớt mọi người chúng ta. Quý vị hãy quên các thần tượng của mình đi, và hãy tin vào Chúa Giêxu, thì Ngài sẽ ban cho quý vị sự sống đời đời."

Khi những kẻ kết án ông thấy vậy thì họ đâm bổ vào ông một cách điên cuồng như dã thú. Cùng một lúc 19 tên đấm đá ông liên hồi. Một số kẻ khác liên tục đánh vào mặt, vào đầu ông. Còn kẻ khác đánh trên thân thể ông. Những kẻ khác dùng giầy đạp lên thân và

lên ngực ông. Bỗng nhiên mấy người chung quanh nghe tiếng Mao vang lên rõ ràng: "Chúa ơi, hãy tha tội cho họ. Chúa ơi, con xin giao linh hồn trong tay Ngài." Rồi ông từ từ ngã gục xuống trên khán đài.

Mặc dù bị chấn thương nặng, nhưng Mao không chết. Trong vài tuần sau ông được hồi phục. Quê cha của Mao vốn ở một làng nhỏ trên núi, là nơi hầu hết những bà con đang sinh sống. Khi họ hàng nghe tin ông sống không xa họ lắm, và chỗ ông ở thường xuyên bị công an chính quyền tấn công, thì họ xin cho ông được về ở cùng chỗ với quê cha ông. Dù được chấp thuận cho chuyển chỗ ở, Nhưng không phải vì vậy mà ông thoát khỏi sự bắt bớ.

Chỉ ít ngày sau khi chuyển về chỗ ở mới, ông đã bị bắt giam và giải đến chính quyền địa phương. Ông bị giam giữ và tra khảo trong nhiều ngày liền. Họ muốn biết kết quả của sự cải tạo ông về chính trị và tôn giáo đã đi đến đâu. Kết quả đã khiến cho cấp lảnh đạo không hài lòng. Một cuộc vận động quần chúng công khai được tổ chức ngay trong sân làng. Cả làng phải đến dự từ khi sáng sớm. Những cán bộ tường thuật về quá khứ phản cách mạng của Mao. Sau đó họ tuyên bố thời gian của cuộc đấu tố rằng: "Vào lúc 8 giờ sáng mai, sẽ có buổi họp đấu tố ở điểm D. Chúng tôi muốn tất cả dân làng phải có mặt."

Ở vùng này, đã có nhiều Hội Thánh Cơ Đốc lớn mạnh từ nhiều năm nay. Những Cơ Đốc Nhân đã trải qua nhiều sự bắt bớ, dù vậy không làm lu mờ tình yêu nhiệt thành của họ đối với Chúa Giêxu. Bây giờ khi họ nghe rằng con người của Đức Chúa Trời này đang đứng trước một cuộc đấu tố, thì họ lập tức bắt đầu cầu nguyện và kiêng ăn ráo riết cho anh. Họ quyết định sáng ngày mai sẽ có mặt ở buổi đấu tố, để ủng hộ ông bằng sự cầu nguyện và sự có mặt của họ. Vì thế, sáng sớm hôm sau, trước giờ khai mạc rất lâu, đã có một đám đông tụ tập quanh khán đài là nơi sẽ xảy ra màn kịch khi những công an đem phạm nhân đến.

Sau đó, những người tổ chức màn kịch đã đến. Họ giải theo ông

Mao bị trói chặt, cùng với súng ống đã lên đạn sẵn sàng. Họ đem ông lên khán đài. Khi Mao nhìn lướt qua chung quanh, ông kinh ngạc nhận ra nhiều khuôn mặt trìu mến và quen thuộc đứng quanh mình. Những người chờ đợi chung quanh không phải là những người buộc tội và thanh trừng ông, mà đó là những anh chị em cùng đức tin. Vị

mục sư ngồi ngay hàng ghế đầu tiên, ông gật đầu chào Mao, ánh mắt ông chan chứa sự an ủi, và thông cảm.

Mao cảm nhận được uy quyền và sự hiện diện của Đức Chúa Trời, khi anh nhìn vào ánh mắt của vị mục sư, dường như họ ngầm báo tin cho nhau. Không, chúng ta không lẻ loi và vô vọng đâu. Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta, nếu có ai tấn công chúng ta thì sẽ không thành công, vì nó xảy ra ngoài ý muốn của Chúa. Nếu ai tấn công chúng ta thì rơi vào sự tấn công Chúa. Những vũ khí chống lại chúng ta sẽ vô hiệu quả. Chúng ta sẽ định tội mọi đầu lưỡi dấy lên kiện cáo chúng ta (Êsai 54). Mao nhướng thẳng người lên, ông cảm nhận được quyền năng và sự xức dầu của Đức Thánh Linh đến trên mình, và mạnh hơn tất cả những người có thể làm hại anh.

Một tên lính xô Mao lên phía trước, giơ cao tay phải hắn lên và hô to khẩu hiệu: "Đả đảo Mao là tên phản cách mạng. Chúng ta không dung chứa một sự mê tín dị đoan và tôn giáo nào. "Nhưng chỉ có vài giọng rời rạc trong đám đông cùng hô khẩu hiệu với hắn. Điều sau đó giống như những buổi đấu tố trước mà Mao phải trải qua. Trước hết một viên chỉ huy bắt đầu chửi rủa nhà thờ. Hắn kết tội Mao đội lốt tôn giáo phản cách mạng, và sau đó ra lệnh cho ông nhận tội và tuyên bố bỏ Chúa Giêxu. Những Cơ Đốc Nhân nhìn thấy kinh ngạc, vì một ánh hào quang của Đức Chúa Trời chiếu trên gương mặt của Mao. Ông từ từ bước lên micro và bắt đầu nói :"Tại sao các ông không lấy dao mà moi trái tim của tôi ra, thì các ông có thể thấy được thật cái gì đã chứa đựng trong nơi sâu thẳm nhất của lòng tôi." Sau lời nói đó, ông bắt đầu hát lên với giọng trong trẻo, loa phóng thanh phát ra xa ngoài sân làng, hầu như cả làng đều nghe thấy, những con cái Chúa trước khán đài nhận thấy sự hiện diện của Đức Chúa Trời ở trên sân bãi và nhiều người bắt đầu khóc, và sau đó tất cả đồng thanh hát như một ca đoàn vĩ đại. Họ cùng nhau hát :

"Tôi muốn trung thành với điều được giao cho tôi. Tôi muốn trung thành với Chúa yêu dấu của tôi. Hãy ban cho con sức mạnh để con trung thành với Ngài. Cho dù không còn ai nữa đi theo Ngài. Và con đường tôi đi qua những sự gian khổ, thì tôi vẫn đứng vững bên cạnh Chúa tôi. Chúa của tôi luôn luôn muốn thấy tôi trung tín.

Khi những người công an nhận định được tình hình, thì trước hết họ bối rối, và không biết nên xử trí ra sao. Họ không những đã nhìn thấy và nghe lời hát của những người mà đáng lẽ sẽ nguyền rủa và

lên án tù nhân, mà còn cảm thấy bầu không khí của sự bình an, sự hiệp một và tình yêu. Đó là điều khiến họ không chịu được nổi. Những tên lính vũ trang trên khán đài chờ đợi cách vô vọng, xem sẽ có ai can thiệp vào. Thật là nhục nhã ! Mồ hôi tuôn đổ trên trán họ. Nếu rốt cuộc có sự gì đó xảy ra thì điều đó cũng như một sự giải cứu, tức là khi có một vài người có trách nhiệm gạt đám đông đi lên, đẩy Mao xuống khỏi khán đài, và dẫn ông đến văn phòng và trung tâm chính quyền địa phương. Nhưng con cái Chúa nhóm lại cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự can thiệp của Ngài. Họ nghĩ rằng sự việc chắc đã qua đi và ai nấy trở về nhà mình.

Nhưng phòng công an an ninh vẫn chưa xong kế hoạch của họ. Các cán bộ an ninh sôi sục sự giận dữ và căm thù. Dám cả gan làm mất mặt họ giữa thanh thiên bạch nhật. Mao đã khiến họ trở thành trò hề. Bọn họ chắc chắn sẽ không chịu ngồi yên vì chuyện này. Họ nghĩ rằng dù sao đi nữa thì rốt cuộc họ vẫn là những người cầm đằng chuôi. Vậy thì tên Cơ Đốc Nhân này đừng hòng sống sót được. Vào buổi chiều cùng ngày hôm đó, Mao bị trói chặt bằng một sợi dây nylon mỏng tanh. Những tên công an đã dùng hết sức bình sinh mà siết sợi dây thật chặt, đến nỗi nó cứa đứt khắp người ông. Mao bủn rủn vì đau đớn, bây giờ sẽ diễn ra một cuộc diễn hành. Mao phải đội một cái mũ hề nhọn đầu, bị giải đi qua các đường phố, có các công an vũ trang vây chung quanh, Có nhiều kẻ hiếu kỳ tham gia vào đoàn người. Nhưng không có ai trong số họ là Cơ Đốc Nhân, Những học sinh của trường phổ thông cơ sở và trung học đang trên đường về nhà, đều theo sau Mao cùng tung hô khẩu hiệu:

"Đả đảo mọi kẻ thù giai cấp. Hãy diệt trừ Mao, tên chống cộng. Tước quyền những phần tử phản động. Đảng cộng sản muôn năm."

Mao bước đi hiên ngang và đàng hoàng giữa đám đông hỗn loạn. Trong ý thức ông biết chắc mình không đơn độc, vì có Chúa đi cùng ông. Sau khi họ đã nhiều lần đi qua đi lại trong vùng, thì những viên chỉ huy hỏi ông :"Ông có tiếp tục tin Chúa Giêxu hay không ?" Mao đã trả lời không hề lưỡng lự :"Tôi tin và tôi sẽ còn tin cho đến hết cuộc đời tôi." Ngay khi ông nói chưa dứt câu thì đã có kẻ dùng búa đập lên đầu ông. Máu chảy ra từ vết thương, chảy lên tóc và lên áo ông. Sau vài bước, bọn chúng lại hỏi ông :" Ông muốn tin đến bao giờ? "Ông trả lời sang sảng và dõng dạc: "Tôi tin và dù các ông có đánh tôi chết, tôi vẫn tin. Những tên lính lại đánh ông bằng búa, và các bướu to tiếp tục sưng lên trên đầu ông. Trong khi ông bước đi,

bọn họ đánh ông không ngừng. Chẳng mấy chốc trên đầu ông đầy những thương tích và khối u.

Sau khi đoàn người bước đi như vậy chừng nửa cây số thì đầu ông sưng to, và máu khô đọng cứng lại. Bởi những trận đòn đến nỗi mắt ông hầu như không mở lên được, vì mặt đã sưng vù.

Cứ như thế đoàn người đi qua một quầy hàng. Trước cửa quầy hàng đó là một đống đá xanh chất cao lởm chởm. Các tên chỉ huy dùng dao nhọn chọc sau lưng bắt ông phải đi tới, trèo qua đống đá đó mà đi. Nhưng vì hai tay Mao bị trói chặt, nên ông bị mất thăng bằng và trượt ngã trên những hàng đá nhọn, không có gì chống đỡ, khiến ông bị gẫy vài cái xương sườn. Những kẻ hành hạ anh lại lôi anh đứng dậy, và bắt anh đi tiếp tục. Bây giờ khuôn mặt ông đã ước đẫm mồi hôi, trở nên trắng bạch, anh thở hổn hển và máu trào ra từ miệng. Ông phải đi tiếp như vậy dưới những trận đòn. Đoàn người đi qua một hố sí công cộng. Thật ra những người có trách nhiệm muốn ném ông xuống hố phân sâu hơn hai mét đó. Nhưng vì cớ đoàn người đi xem đã trở nên rất đông, nên họ không dám làm điều đó, thay vào đó họ ném mũ của Mao xuống hố phân, rồi họ dùng một gậy tre tẩm nó trong phân người và đội nó trên đầu Mao, đang mang đầy các thương tích. Phân người và nước tiểu chảy lên đầu tràn trên gương mặt và trên lưng ông, cho đến khi các áo sơ mi cũng bị ước sũng.

Trong khi tiếp tục giải ông đi như vậy. Một tên công an lấy hai cây tre gắp phân chó và tìm cách nhét vào miệng Mao. Bởi vì ông ngậm chặt miệng nên hắn đã bôi trét phân chó hôi thối lên trên mồm và môi của ông. Khi Mao mở miệng để thở lấy hơi, thì một ngụm máu tươi đã trào ra khỏi miệng ông. Không biết con người còn có khả năng tàn bạo đến đâu nữa.

Cuối cùng họ đem Mao đến một gốc cây cổ thụ và treo ông tít lên cao, ném đá vào ông, sỉ nhục ông, nguyền rủa ông, nhưng lúc ấy Mao đã bất tỉnh rồi. Khi trời gần tối, họ đem ông xuống khỏi cây, ném thân thể không còn động đậy gì nữa của ông bên vệ đường, và ai về nhà nấy.

Mao nằm đó bất động và trơ trọi. Những tia nắng cuối cùng trong ngày chiếu trên mặt ông. Khuôn mặt bị hành hạ đến nỗi không còn

nhận dạng được nữa. Nhưng trên những đường nét của nó vẫn còn có thể thấy sự cương quyết không thỏa hiệp còn động lại.

Lúc trời đã tối, những tín dồ trong làng mới nghe tin, đã vội vã chạy đến tìm Mao. Họ đem ông vẫn còn bất tỉnh về nhà trong một gia đình trong Hội Thánh. Họ cẩn thận lau rửa những vết thương cho ông, và đặt ông trên chiếc giường êm nhất của họ. Có nhiều tín đồ đã đến và đứng khóc trong phòng. Họ cùng nhau cầu nguyện, xin Chúa cứu sống con người lão thành và bất khuất này.

Đến khoảng nửa đêm, Mao dần dần tỉnh lại. Tuy ông không mở mắt lên được, nhưng ông nghe thấy tiếng khóc và cầu nguyện vây quanh mình. Ông cố gắng nói một cách khó nhọc : "Anh chị em thân yêu, xin đừng khóc cho tôi. Nhưng hãy khóc vì sự chống nghịch của nhân dân ta. Hãy khóc cho đồng bào của ta còn vô tín. Khóc cho những người lãnh đạo của chúng ta còn vô thần." Những lời nói của ông làm cho các tín đồ xúc động sâu sắc, khiến họ càng cầu nguyện khẩn thiết hơn nữa.

Trong những tuần lễ kế tiếp, Mao được phòng công an để cho yên. Cộng với những lời cầu nguyện, và sự săn sóc ân cần của con cái Chúa, mà ông được bình phục trở lại. Còn 18 năm nữa đang chờ ông. Trong những năm sau đó, ông đi hầu việc Chúa không mệt mỏi. Ông đến thăm các Hội Thánh để khích lệ các con cái Chúa, và đem những người chưa biết Chúa đến với tình yêu của Ngài.

Cuộc đời của Mao tiên sinh không những đánh dấu bằng những biến cố đau thương, những chịu đựng gian khổ, nhưng trước hết còn được đánh dấu bằng sự kính sợ của ông đối với Đức Chúa Trời Hằng Sống, qua sự trung tín và niềm vui dạt dào bên trong. Kể từ thời gian ông ở trại lao động khổ sai ở miền bắc Trung Quốc, ông đã có thói quen thức dậy mổi sáng để cầu nguyện cho đất nước, cho đồng bào, và cho Hội Thánh mình. Ngay cả trong những năm ở quê nhà, khi phải chịu đựng nhiều bắt bớ, ông vẫn trung tín với thói quen này, cho đến lúc chết, người ta có thể thấy ông cầu nguyện trước khi mặt trời mọc. Sau giờ cầu thay, ông dành nhiều thời gian từ buổi sáng này qua buổi sáng khác để đọc Thánh Kinh dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu. Nhiều đêm ông không muốn đi nằm. Ông thường bỏ những buổi ăn để có thể đọc Thánh Kinh, vì ông đã dành nhiều thời gian cho việc học hỏi Lời Chúa, nên ông rất thông thạo và thuộc lòng rất nhiều đoạn Thánh Kinh dài. Dầu vậy, ông không bao giờ thỏa

mãn với điều gì mình đã biết từ Thánh Kinh, ông còn lợi dụng cơ hội để học hỏi nơi các tín đồ khác bằng sự hạ mình.

Thỉnh thoảng nếu trong khi học Thánh Kinh, có một chương đoạn nào đặc biệt cảm động ông, Đức Thánh Linh giải thích Lời Ngài cho ông và làm cho lời đó trở nên sống động, thì ông mừng rỡ đến nỗi nhảy tung lên, và bắt giọng một bài thánh ca, và nhảy múa vòng quanh phòng.

Mặc dù ông không lấy vợ sau lần ly hôn, và chưa hề có con, và mặc dù đời sống ông trong những năm tháng ở trại lao động khổ sai không phải là nhẹ nhàng, và sau đó ông cũng hay đi công tác hầu việc Chúa khắp nơi trong nước như những người rao giảng Tin Lành, mặc dù nhiều lần bị đe dọa bắt giam, lại mọi sự bắt bớ trong gian nguy luôn rình rập ông, mặc dù vậy, cuộc đời ông vẫn được đánh dấu bằng niềm vui lớn.

Nếu ông là khách ở bất cứ đâu, thì những người hàng xóm ở đó có thể nghe thấy ông hát. Khi ông càng già, giọng ông càng dõng dạc hơn. Ông là con người có thể khóc cười bằng cả trái tim. Cùng là một người bà con cũng là tín đồ, và là bạn thân của ông. Cả hai có thể thức thâu đêm đến sáng. Sau đó họ kể cho nhau nghe những gì mình đã kinh nghiệm về Đức Chúa Trời, khích lệ lẫn nhau và cùng nhau đọc Thánh Kinh, cùng nhau hát ngợi khen Chúa. Bài hát mà họ ưa thích thường cùng nhau hát đi hát lại hằng tiếng đồng hồ. Có những lời như sau :

"Khi tôi đắm chìm trong biển đời tội lỗi, trong sóng cuồng khổ đau, mưa tuôn buồn bã. Những đêm đầy tiếng hú chó rừng, thì trái tim tôi đầy sợ hãi. Tôi tê dại vì nỗi kinh hoàng, đầy bụi gai khô, những rừng núi hoang vu, thung lũng ngàn trùng heo hút. Tôi mong mỏi trở về đàn. Tình Yêu Diệu Kỳ đã tìm và gặp tôi. Huyết báu Diệu Kỳ đã rửa sạch tôi. Ân Điển Diệu Kỳ đã đem tôi trở về đàn."

Những Chúa Nhật đối với Mao là những ngày hội, ông thường dùng những ngày này cho sự tương giao với Đức Chúa Trời, với Lời Ngài và với những tín đồ khác. Trong toàn bộ cuộc đời theo Chúa của ông, chỉ có 4 lần ông không đi thờ phượng Chúa. Tất nhiên ngoại trừ 15 năm ông ở trong trại tù khổ sai.

Trong vòng 18 năm cuối đời, cuộc sống của Mao tiên sinh trở nên bớt căng thẳng hơn, nên ông có thể dành nhiều thời gian và sức lực vào việc truyền bá Tin Lành. Trong tất cả mọi việc, ông được mọi người tín nhiệm. Ông thường đặt mình xuống dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh và dưới sự vâng phục của Hội Thánh. Nếu Chúa bảo ông đi đến một vùng nào đó thì ông luôn luôn lên đường ngay, cho dù đó là những vùng đất xa xôi hiểm trở. Nhiều năm liền ông đả đi đến những địa phương thuộc rừng núi V là nơi không chỉ khó khăn đi lại, mà còn nguy hiểm nữa. Nhất là vào mùa đông, những con đường nhỏ cheo leo trên dốc núi bị phủ băng tuyết. Nhưng ông không quản ngại gian khổ, lúc bão tuyết, ông cũng lên đường thăm viếng các con cái Chúa, và giảng cho họ về Lời Chúa, nên Tin Lành lan rộng trên miền rừng núi V, và có nhiều Hội Thánh mới mọc lên khắp nơi.

Ông rất kỷ luật và cẩn thận về những điều ông nói và làm. Ông ghét mọi loại tội lỗi, và ông là một tấm gương trong mọi việc cho các tín đồ. Nếp sống của ông rất bình dị, ông không bao giờ thích sự nhàn rỗi hoặc sự tán gẫu. Ông ăn uống rất đơn giản, khoai lang và rau quả. Ông ăn mặc không cầu kỳ, và sống trong một túp nhà nhỏ đơn sơ. Dù vậy, ông vẩn cho cách sống của mình như vậy là lãng phí khi so với sự đói khổ của bao người dân Trung Quốc.

Ông mang một tình yêu sâu đậm đối với con cái Chúa trong Hội Thánh. Ông quan tâm đến các gia đình họ, sự lớn lên về thuộc linh của họ trong đời sống hàng ngày. Ông nhắc nhở họ bằng tình yêu thương. Ông săn sóc họ và thấy mình có trách nhiệm đối với họ.

Trước khi Mao tiên sinh qua đời, ông nằm liệt giường 80 ngày. Hằng ngày mọi con cái Chúa từ mọi nơi đến thăm ông. Mặc dù ông không có con theo xác thịt, nhưng ông là người cha thuộc linh của rất nhiều nguời. Những đứa con đó đã khiến cho đời sống ông đầy sự vui mừng. Ông về với Chúa vào ngày 17 tháng 10 năm 1989. Một cuộc đời hạnh phúc trọn vẹn và rất thành công. Hơn ngàn người đã dự đám an táng của ông, tất cả họ đều yêu mến ông, và muốn noi gương ông. Khi họ thả chiếc quan tài xuông huyệt, thì tất cả cùng dồng thanh hát bài thánh ca:

"Chúng ta vui mừng đón Chúa Giêxu đến. Cuộc hội ngộ long trọng thay ! Tiếng hát những người yêu mến con người của Đức Chúa Trời này vang vọng toàn thung lũng. Khi các môn đệ của Chúa Giêxu rời khỏi đất thì họ về nhà. Bạn bè họ thương khóc, còn họ sung sướng

nhất. Chúa Giêxu gánh tội lỗi họ. Ngài đổ huyết mình. Và Ngài sẽ trở lại. Ôi, sự hội ngộ thật long trọng thay. Chúng ta chỉ chia ly giờ đây. Không phải là mãi mãi. Rồi chúng ta sẽ ở cùng nhau.”

KẾT LUẬN

Câu chuyện cuộc đời theo Chúa của Mao tiên sinh đến đây là hết. Thật là một câu chuyện cảm động và đầy sự khích lệ thuộc linh. Đây là tấm gương đáng cho những con cái Chúa phải noi gương theo. Trên bước đường theo Chúa, chúng ta có thể quả quyết là trong vòng chúng ta không có ai có sự bắt bớ nào có thể so sánh với sự bắt bớ tàn bạo như của Mao tiên sinh.Vậy hãy cứ vững lòng chịu khổ mà theo Chúa cho đến cuối cùng, bạn nhé. Xin hẹn tái ngộ với các bạn trong câu chuyện anh hùng đức tin Trung Quốc kế tiếp.HẾT

Người công dân Thiên quốc Đó là vào đầu tháng hai năm 2001: chúng tôi cầu nguyện, và trông mong tin tức về

“Người công dân thiên quốc”. Vào tháng mười hai, anh đã bay đến một nước á châu, để đón gia đình sang Đức. Những tin tức đáng lo ngại đã khiến chúng tôi đến với sự cầu nguyện: Vào ngày mười một tháng hai, anh Yun bị biệt tăm. Đã bay, nhưng không đến nơi. Vào ngày mười hai tháng hai: Yun bị bắt! Anh mang theo người những hộ chiếu và giấy tờ cần thiết của gia đình, để từ đó anh cùng gia đình bay sang Đức. Ngày mười ba tháng hai: anh bị nguy cơ bị bắt tù từ một đến ba năm và bị trao trả lại Trung Quốc. Điều đó chắc chắn sẽ là một án tử hình. Mỗi ngày chúng tôi chờ đợi tin tức về “người công dân thiên quốc”, là người mà quyền công dân ở dưới đất đã bị khước từ. 

Bây giờ anh ở đâu? anh cảm nhận và suy nghĩ gì? Lại phải chia ly với gia đình và bị vào tù, lại phải gặp những nguy nan. Dẫu vậy, chúng tôi tin rằng Đức Chúa Trời cầm giữ tất cả trong tay Ngài và mở một lối ra. 

Đôi điều sơ qua về bối cảnh hiện tại. “Người công dân thiên quốc” này là ai? Tôi được vinh dự làm quen với “người công dân thiên quốc” ở vùng hoạt động của anh vào trong những năm chín mươi. Đó là ở nơi hoang vu của rừng núi Trung Quốc, trong một hang động. 

1. Một giáo sĩ Phần Lan đã mời Erwin Wendland và tôi làm một chuyến đi vào Trung hoa nội địa. Chúng tôi đã đợi ở một sân bay Trung Quốc để bay tiếp, đang trong lúc đó chúng tôi đã lấy đồ ăn ra và ăn. Xung quanh chúng tôi có nhiều người bản xứ, họ kinh ngạc nhìn chúng tôi ăn bánh mì đen Đức. Chúng tôi đã mời họ nếm thử. Họ ăn loại bánh mì lạ đó, nhưng người dẫn đường chúng tôi cho biết rằng sau đó đã có vài người

biến mất, để đến chỗ kín mà làm nhẹ bụng. 

Cuối cùng, chúng tôi đã đến nơi. Những anh em Trung Quốc đã đón chúng tôi bằng một chiếc gọi là “xe chở bánh mì” Erwin và tôi phải ngồi vào hàng ghế trong cùng của chiếc xe mi-ni bus. Có người đưa cho chúng tôi chăn đắp, không phải để đắp vào những ngày cao điểm giữa mùa hạ này, nhưng để trốn trong đó. Tôi nhớ đó là một chuyến đi đêm hối hả. Chúng tôi luôn luôn được nhắc nhở là phải im lặng, đặc biệt khi đi qua những đoạn đường có trạm gác công an. Vào gần sáng, chúng tôi đến một thành phố lớn. chúng tôi dừng ở bên một khách sạn tương đối tồi tàn, đổ nát. Vì mệt, nên chẳng mấy chốc tôi đã ngủ say. Sau đó, khi chúng tôi đi bách bộ qua những đường phố, tôi ngạc nhiên vì nghe nói rằng ở đây có đến nhiều con cái Chúa như vậy. Tôi tự hỏi, những người Trung Quốc mà tôi gặp ở đó có phải là anh chị em hay không?. Nghe lời người dẫn đường, chúng tôi cẩn trọng và không muốn làm hại cho ai. 

Cuối cùng, trời đã tối, và trong buổi tối đó, chúng tôi sẽ gặp người anh em Yun. Tôi còn nhớ, mình đã hồi hộp chờ đợi và lúc chúng tôi chuẩn bị lên đường, ánh trăng đêm mờ nhạt chiếu thật huyền ảo trên cảnh vật ra sao. Những chiếc xe vận tải chở đá nặng nề chạy vù qua và quấn theo bụi mù mịt. Chúng tôi đi qua những chỗ đổ nát và những nơi có lấp lánh ánh đèn và cuối cùng đến một ngôi nhà nhỏ. Trong một phòng con, có vài anh chị em đang đợi chúng tôi. 

ở đây, lần đầu tiên tôi gặp anh. Một người đàn ông nhỏ nhắn và rạng rỡ đến chào đón chúng tôi bằng một sự niềm nở, mà người ta ít khi gặp trong những cuộc gặp gỡ lần đầu tiên ở nơi xứ lạ. Tất nhiên, chúng tôi rất hồi hộp và trông mong quá chừng. ở nơi hoang vu hiu quạnh này có một Đại hội Mục sư? ở đây chúng tôi phải nói chuyện với các anh chị em lãnh đạo, là những người dẫn dắt hàng chục nghìn người? Trong tâm tư, tôi tự hỏi, buổi nhóm sẽ họp ở đâu vậy kìa? Đây là sự tiếp xúc đầu tiên của tôi với nhà thờ bí mật. Tôi đã vài lần ở Trung Quốc và đã được nghe đây đó những lời làm chứng về những người tử đạo, tôi đã gặp những người nam nữ, từng ở tù hai mươi năm và nhiều hơn vì cớ Chúa Giê-xu, chịu nhiều đau đớn trong tù. Nhưng những buổi nhóm như thế thường ở một khách sạn hay ở trong một nhà riêng. 

Lần này sẽ là một buổi họp có nhiều Mục sư đến dự. Yun niềm nở nói với chúng tôi trước hết nên ăn một chút gì đã. Có một bữa ăn thịnh soạn bằng sự hiếu khách của người Trung Quốc, mà vợ tôi Kriemhilde yêu thích những món ăn được dọn ra hơn là tôi. Điều đáng chú ý là bầu không khí tôi được chứng kiến ở đây. Ngưòi tây phương, chúng ta thường có những quan niệm sai lầm về sự bắt bớ của những cơ đốc nhân trong nơi dầu sôi lửa bỏng. Tại đây, tôi kinh nghiệm ở giữa sự hoạn nạn, bắt bớ, một niềm vui, sự niềm nở và tiếng cười trong sự thông công với một người đã từng bị trên dưới mười lăm lần bị bắt và hàng năm ròng phải ở tù. Anh thật vui vẻ và cười nói hồn nhiên làm sao. 

Cuối cùng, sau khi chúng tôi đã ăn uống và đã nói chuyện xong, Yun nói, “Bây giờ chúng ta sẽ đến chỗ nhóm”. Erwin và tôi đi theo anh. Cái sân mờ mờ dưới ánh trăng. Trong bóng tối, một lúc lâu sau chúng tôi mới có thể quen được với các vật xung quanh. Trong sân có nhà và chòi rơm. Phía đằng xa, người ta nghe thấy tiếng máy

công nghiệp mạnh mẽ chạy. Đi được vài bước, chúng tôi đứng trước một bức tường, có một lỗ thủng. Chúng tôi khom người đi vào. Dưới ánh đèn pin, chúng tôi nhận ra đó là lối đi xuống một hang đá. Sau một lúc đi vòng vèo, có thể nghe thấy tiếng hát vọng ra từ đâu đó. Sau này chúng tôi mới khám phá ra, trong thời gian bị cải tạo lao động ở một núi đá, Yun đã học được nghề đục đá, để xây dựng hang đá trong những phiến đá. Lúc đó anh đã kêu than vì cực khổ: “Chúa ơi, tại sao con phải làm công việc nặng nhọc này?”. Nhưng chương trình Đức Chúa Trời là để anh học cho về sau. Sau khi được giải thoát, anh đã vận dụng điều đã học và tạo nên hang động này, ở một nơi an toàn, để có thể tổ chức Đại hội các Mục sư. 

Bây giờ, chúng tôi được phép đi thăm chỗ đó. Trong lúc đó, tiếng hát càng to hơn, cùng với những tiếng vỗ tay nhịp nhàng. Khi chúng tôi bước vào phòng, chúng tôi thấy những gương mặt rạng rỡ. Đối với tôi, đó là khoảnh khắc cao đẹp nhất mà tôi từng được chứng kiến trong một buổi nhóm. Điều đáng ngạc nhiên là có ít nhất một nửa số những người tham dự là những thanh niên trẻ tuổi, đa số đó lại là những cô gái trẻ. Họ là những người dẫn dắt nhà thờ bí mật Trung Quốc, những người lãnh đạo nhà thờ tư gia Trung Quốc sao?. 

Đây là những “anh hùng của Đức Chúa Trời”, mỗi ngày sẵn sàng liều mạng để dẫn dắt, an ủi, nhắc nhở, động viên, sửa đổi và gây dựng dân sự Đức Chúa Trời. Tôi thấy mình thật nhỏ bé và không xứng đáng để phục vụ những anh hùng đức tin này. Tôi sẽ phải nói với họ điều gì đây? Về phía họ, tôi cảm nhận một sự mong đợi. Chúng tôi thuộc trong số ít người tây phương, được họ tin tưởng tiếp nhận giữa vòng họ. Về điều đó, chúng tôi biết ơn người bạn cùng đi của chúng tôi, là người đã nhiều năm có kinh nghiệm ở á châu và nói thông thạo tiếng Trung Quốc. 

Sau đó, Đức Chúa Trời đã cho tôi một Lời cho những con người này, mà cho đến hôm nay tôi vẫn còn ngỡ ngàng kinh ngạc. Tôi nói về những anh em đã dòng Phao-lô chạy trốn qua tường thành Đa-mách và đã cứu ông khỏi bị giết. Tôi nói về sự quan trọng, nắm giữ sợi dây của Đức Chúa Trời, để những người được sự kêu gọi của Ngài có thể tiếp tục rao giảng tin lành. Lời đó được tiếp nhận nồng nhiệt, và qua đó Đức Chúa Trời đã an ủi và khích lệ những người nghe. 

Đó là sự tiếp xúc đầu tiên của AVC (Uỷ ban hành động vì những cơ đốc nhân bị bắt bớ) với những người lãnh đạo nhà thờ ở nơi bí mật. Kể từ thời điểm đó, mối liên lạc trực tiếp với nhà thờ tư gia Trung Quốc được xiết chặt, trong khi trước kia, chúng tôi đóng góp phục vụ cho Trung Quốc qua những tổ chức truyền giáo khác. 

Trong những chuyến đi của tôi ở nước ngoài tôi thường có thói quen thăm hỏi về những nhu cầu thiết yếu. Cũng giống như ở đây, tôi nghĩ rằng họ sẽ xin tiếp trợ Kinh Thánh và lời cầu nguyện. Nên tôi càng ngạc nhiên hơn, khi nghe lời đề nghị của Yun. Đó là anh xin một chiếc máy gặt. Anh cần máy gặt để làm gì vậy? 

Và anh đã giải thích cho tôi: “Những người truyền giảng tin lành như chúng tôi thường đi công tác mười một tháng trong năm. Khi họ có một tháng nghỉ ở nhà, thì họ dùng thời gian này để gặt vụ mùa, hầu cho gia đình họ được nuôi sống. Vậy nên, tuy những

nhà truyền giảng nghỉ ở nhà, nhưng họ phải làm việc. Với một cái máy, việc thu hoạch có thể được hoàn tất trong hai đến ba ngày. Điều đó nghe sáng tỏ. Giá tiền một vài nghìn Mác cũng có thể xoay sở được. Tôi đã hứa sẽ lo liệu. Bằng cách đó, những nhà truyền giảng có thể dành thời gian quí báu nghỉ ngơi với gia đình. Có điều tôi không biết: đó là qua công trình này, Yun được Đức Chúa Trời cho thấy một khải tượng đặc biệt. Anh nhìn thấy rằng, một ngày kia, Đức Chúa Trời sẽ ban cho anh một máy gặt thuộc linh, để thu hoạch mùa gặt linh hồn ở một qui mô rộng lớn và nhanh chóng hơn những công việc thủ công khó nhọc. Yun nhận được khải tượng rằng anh sẽ truyền giảng tin lành trên thế giới cũng như ở Tây phương bằng một máy gặt lớn. Và khải tượng đã thành hiện thực. Trước đây hai năm, trong một Đại hội nhân sự của chúng tôi ở Norddeich, tôi có gặp lại Yun. Trong lúc đó, anh đã được giải cứu khỏi nhà tù một cách khác thường, như về sau chúng ta sẽ rõ. Một phép lạ của Đức Chúa Trời, mà chúng ta chỉ thấy có ở trong Công vụ các sứ đồ. Phép lạ thứ hai là, do sự giúp đỡ của một người bạn, sống ở Đức, anh đã làm một chuyến đi nguy hiểm từ Trung Quốc sang Đức và cuối cùng đã đến nơi. Đầu tiên anh đã sống bí mật và im lặng. Nhưng sau đó, đã có cuộc gặp ở Norddeich như đã nói ở trên. Chúng tôi, với tư cách là một Uỷ ban Quốc tế vừa họp lại cùng với một vài khách mời. Lúc đó vẫn còn sự đề phòng, anh chưa nên lộ diện công khai. Khi Yun bắt đầu cầu nguyện, không một cặp mắt nào còn khô ráo được. Tất cả đều bị sự hiện diện của Đức Chúa Trời đụng chạm bởi lời cầu nguyện đơn sơ và rúng động của người anh em. Khi anh gặp tôi, bày tỏ tình yêu chan chứa và sự kính trọng của anh, và gọi tôi bằng “Papa” làm tôi không tài nào quên được. 

Và bây giờ trở lại với câu hỏi: “người công dân Thiên Quốc” đó là ai? Khi anh đến chỗ chúng tôi và sống với chúng tôi, anh đã kể cho chúng tôi câu chuyện của mình lại một cách trực tiếp. Chính sách tuyên truyền của Trung Quốc về sự tự do tôn giáo ngày càng gia tăng, ngay cả ở Tây phương, cũng có những người giống như những “Ăng-ten” cho Trung Quốc (funfte Kolonne) đi gieo rắc những điều này. Có thể là do Trung Quốc là một đất nước rộng lớn. Điều ở một vùng là đúng, thì ở một vùng khác có thể hoàn toàn là bịa đặt. Điều có thể được phép ở một vùng, thì ở một nơi khác có nghĩa là án tử hình. Đúng là cho đến hôm nay những người cộng sản không những đã khống chế nhà thờ ba tự túc chính qui bằng tư tưởng vô thần của họ, mà thực tế họ đã lãnh đạo. 

Đúng là có mười hai triệu Kinh Thánh được in ấn ở Trung Quốc hợp pháp. Nhưng điều đó không có nghĩa là mười hai triệu Kinh Thánh đó được phân phát trong đất nước. Chúng được đem đi xuất khẩu để lấy ngoại tệ. Những hàng hoá về Kinh Thánh của Trung Quốc như vậy, tương đối rẻ, chính tôi đã nhìn thấy ở Nga, bằng tiếng Nga. 

Đúng là, ở đây, hay ở đó có những giấy cho phép xây dựng nhà thờ công khai. Nhưng mặt khác những nhà thờ hiện có bị phá huỷ. Có nơi, thậm chí có cả những Seminar (lớp về Thần học), nhưng cũng đúng là còn có những Mục sư nhà thờ tư gia bị bắt giam, bị truy lùng và bị tra tấn trong tù, bị đánh đập và bị bắn. Bằng mọi cố gắng họ bị “làm việc”, để khiến họ phải lìa bỏ niềm tin vào Chúa Giê-xu. Bằng mọi quyền lực người ta tìm cách phá huỷ những công việc Hội thánh. 

Yun được gọt đẽo ra từ loại “gỗ” nào và được tôi luyện trong loại “lửa” gì, để đức tin trở nên mạnh mẽ, tôi luyện cứng như thép, thì bạn sẽ đọc sau đây. 

 

Trước đây hơn một trăm năm, những Giáo sĩ từ Tây phương đã tìm đường đến Trung Quốc. Hồi đó họ thường đi bằng đường biển. Khi gặp dân bản xứ, họ đụng độ phải sự kháng cự, phải vật lộn với những hoàn cảnh sống thiếu thốn và tệ mạt, hết sức cố gắng họ đã học một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ và gánh chịu nhiều đau khổ vì cớ đức tin. Nhiều người trong số họ cũng đã phải trả một giá cao nhất – sự sống của mình. 

Trong lúc họ đã gieo bằng giọt lệ, họ chưa biết được rằng nhiều năm sau đó, tại những nơi họ đã phục vụ, có vô số những linh hồn quí báu được bước vào nước trời. Hôm nay, sự phấn hưng ở Trung Quốc được nhiều người cho rằng đó là mùa gặt thuộc linh lớn nhất kể từ thời kỳ Công vụ các sứ đồ. Những cơ đốc nhân Trung Quốc đi gặt hái nhiều bông trái bằng sự vui mừng (Thi Thiên 126, 5 – 6). 

Nhiều người lãnh đạo truyền giáo ở Phương tây ngày nay đang ngóng đợi sự mở cửa ở Trung Quốc, để những Giáo sĩ Tây phương có thể trở lại phục vụ ở đất nước rộng lớn này. Tôi cho rằng dịp tiện đó đã đi qua. 

Thiên kỷ mới đã trình báo bằng những sự thay đổi kinh khủng. Chính những nhà truyền giáo Trung Quốc hôm nay đang chuẩn bị từ quê hương họ đi đến những nước khác. Hàng nghìn người, trong số họ đã nhận được sự kêu gọi thánh, rời khỏi Trung Quốc và đi rao truyền tin lành cho thế giới. Họ sẵn sàng lên đường, sau khi họ đã được tôi luyện và được nhào nặn trong những ngọn lửa của sự bắt bớ khốc liệt và những sự gian khó. Đó không phải là một sự phát triển mới – trên một nghìn năm, Đức Chúa Trời đã chuẩn bị nhà thờ Trung Quốc cho giờ phút như thế này. 

Họ đã nhận được một sự kêu gọi Thiên thượng, để đem tin lành đến thế giới phật giáo, ấn độ giáo và hồi giáo. 

“Người công dân thiên quốc” đứng ở tuyến đầu trong phong trào truyền giáo này. Anh là một cơ đố nhân thuộc thế hệ thứ hai. Mẹ anh, qua lời làm chứng của một nữ Giáo sĩ người Na-uy đã trở lại tin Chúa. Hôm nay, chính “người trời” đã thăm thế giới Tây phương, để qua đó biết ơn những Giáo sĩ trước kia trong công tác tiên phong của họ đã hết lòng hy sinh vì nhiệm vụ của mình và đã gieo những hạt giống. Anh đã thách thức những cơ đốc nhân ngày hôm nay, hãy cùng đứng với những anh chị em Trung Quốc, trong nhiệm vụ dùng tin lành đột phá thế giới. Nhiệm vụ của họ là, đem tin lành “trở về Giê-ru-sa-lem”, có thể nói rõ hơn: trải qua những khu vực rộng lớn của thế giới, ở đó, hầu như chưa hề được nghe về tin lành. 

Câu chuyện này muốn thách thức và động viên, và có thể sẽ làm cho người này người kia thấy nặng trĩu trong lòng khi họ đọc về những sự bắt bớ cực khổ mà nhà thờ Tư gia ở Trung Quốc phải chịu ngày nay. 

Xin bạn hãy can đảm, cùng đứng chung và ủng hộ những anh chị em Trung Quốc của chúng ta, để đem tin lành “trở về Giê-ru-sa-lem”. 

1. Quyển Kinh Thánh do một sứ giả của Chúa đưa đến. 

Yun sinh năm 1958, mười năm sau khi dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, người cộng sản, sáng lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. 1958 là khởi đầu của một thời kỳ rất khó khăn cho người Trung Quốc. Lúc đó Mao bắt đầu một trong những thí nghiệm vĩ đại của mình, để hiện đại hoá Trung Quốc. Ông gọi đó là “bước đại nhảy vọt”. 

Những tư tưởng kỳ quoặc càng ngày càng thâm nhập vào trong đời sống hàng ngày. Những bác nông dân được khuyến khích hãy mua cho mình những lò đúc kim loại để sản xuất sắt thép cho Trung Quốc, góp phần vào sự phát triển kinh tế Trung Quốc. Những sáng kiến như vậy đã hoàn toàn bị thất bại. Sắt được luyện trong những lò luyện thô sơ như vậy, không sử dụng được. Hàng triệu người Trung Quốc đã lãng phí biết bao giờ làm việc quý giá, để sản xuất những loại sắt thiếu chất lượng đó. Bước đại nhảy vọt đã trở thành một bước thụt lùi to lớn. Chính quyền dưới thời Mao đòi hỏi nhiều sự hy sinh của quần chúng. Đáng buồn là những người được chủ nghĩa cộng sản giải phóng lại trở thành những người phải trả gía cho những giấc mơ không tưởng của sự lãnh đạo của họ. 

Bước đại nhảy vọt dẫn đến một nạn đói lan tràn toàn khắp Trung Quốc. Yun còn nhớ, lúc còn nhỏ anh đã phải ăn xin ra sao. Hồi đó, ở Henan có những người ăn cỏ và vỏ cây để sinh tồn, không phải là chuyện không bình thường. Vào trong những năm lúc Yun từ một đến bốn tuổi, có khoảng tám triệu người bị chết đói ở Henan. 

Lúc Yun lên tám tuổi, Mao Trạch Đông bắt đầu một thí nghiệm khác - cuộc “cách mạng văn hoá”. Quyển sách nhỏ màu đỏ của Mao Trạch Đông đại diện cho nguyện vọng của người dân Trung Quốc, được giải phóng khỏi tất cả mọi sự ràng buộc của xã hội, những khái niệm, tư tưởng văn hoá, phong tục tập quán và truyền thống lâu đời. Hàng triệu những thanh niên trẻ, nổi tiếng là những “Hồng vệ binh” được thả ra, để đi giải phóng nhân dân. Nhưng họ càng đem lại sự đau khổ và cực hình cho nhân dân. Những trường học và đại học bị đóng cửa, và cả cuộc sống của Yun cũng bị ảnh hưởng qua đó. Anh chỉ đi học có ba năm phổ thông. Cuộc cách mạng văn hoá đối với các cơ đốc nhân đồng nghĩa với sự bị bắt bớ nhiều lần hơn. Tất cả các nhà thờ bị đóng cửa và các cơ đốc nhân bị cấm đi cầu nguyện hay nhóm lại để thông công. Tất cả những “hoạt động mê tín dị đoan”, trong số đó cơ đốc giáo cũng bị liệt vào, đều bị bài trừ triệt để, và thậm chí còn mạnh hơn bao giờ hết. ở giữa những sự biến động này, các tín đồ đã buộc phải nhóm bí mật. Nhưng tuy nhiên, vào thời gian này, có nhiều người đã được thêm vào Hội thánh của của Đấng Christ. 

Yun được cứu khi lên mười sáu tuổi. Mẹ của anh là một cơ đốc nhân; bà đến với Chúa lúc còn rất trẻ. Trong thời gian cách mạng văn hoá, những Giáo sĩ bị bắt bớ và buộc phải rời khỏi Trung Quốc, nên có nhiều con chiên bị bỏ lại không có một người chăn. Vào thời gian khó khăn đó, mẹ của Yun đã xa cách Chúa. 

Khi anh lên mười sáu tuổi, vào năm 1974, cha anh bị bệnh rất nặng. Ông bị hen suyễn và đã phát triển thành ung thư phổi, rồi lan xuống dạ dày. Bác sĩ nói không còn hy vọng gì nữa. Chứng ung thư chỉ còn có một kết quả là cái chết. Nhưng sự mê tín cổ truyền vẫn còn lại trong gia đình Yun. Nên bố anh đã mời ông thầy Pháp trong làng đến để đuổi ma ung thư ra khỏi ông. Bố của Yun, tin vào quyền lực của các thầy Pháp thậm chí đã khuyến khích con mình hãy trở thành học trò của ông thầy Pháp, để học được môn phép thuật đó. Theo truyền thống, Yun cũng như đa số những thanh niên ở Trung Quốc đều sẵn sàng đi theo nguyện vọng của bố mình. Trung Quốc bị ảnh hưởng về đạo lý Khổng tử trên hai nghìn năm, đòi hỏi phải vâng lời bố mẹ và những đấng bậc trong xã hội. Nên cậu thanh niên Yun mười sáu tuổi đã sẵn sàng học môn phép thuật phù thuỷ. Bệnh tình của bố đã làm một gánh nặng cho gia đình. Không chỉ họ không có đủ thức ăn, mà còn không có đủ tiền. Mẹ anh đã bán hầu hết những tài sản trong nhà để chạy chọt thuốc men. Bà biết rằng, chẳng bao lâu bà sẽ trở thành goá phụ. Tất cả những suy nghĩ của bà bị dồn ép bởi câu hỏi khủng khiếp, gia đình mình sẽ sống ra sao đây nếu không có người đàn ông trụ cột trong gia đình. Trong những chuỗi ngày đó, vào một buổi tối, mẹ của Yun nghe thấy một giọng êm dịu nói với mình, “Chúa Giê-xu vẫn luôn luôn yêu thương”. Bà đã được Chúa đánh thức dậy. Bà đã dậy và quì gối cầu nguyện. Một lần nữa bà đã ăn năn tội lỗi mình và đã tái dâng mình cho Chúa. Rất đáng ngạc nhiên là ngày hôm sau, bố của Yun đã được chữa lành. Yun nhận thấy rằng đó là Chúa Giê-xu đã chữa lành bố mình, nên anh cũng đã tiếp nhận Chúa. Trong lòng anh đã hứa nguyện dâng mình để phục vụ Chúa Giê-xu. 

Sau đó, mẹ anh đã nói là tất cả những sự dạy dỗ của Chúa Giê-xu được viết lại trong Kinh Thánh. Kể từ ngày đó, Yun ước ao được nhìn thấy quyển Kinh Thánh. Anh hỏi thăm những tín đồ Kinh Thánh trông ra sao. Nhưng không ai trong số họ nhìn thấy Kinh Thánh bao giờ. 

Nên một ngày kia, Yun phải lăn lội gần năm mươi cây số để đến thăm một người kia mà người ta nói là người giảng đạo. Khi đến nơi, Yun nói cho ông mục đích của chuyến đi. Ông thấy anh còn trẻ quá nên không giám đưa Kinh Thánh cho anh xem. Ông nói, “Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời; đó là quyển sách từ trên trời. Không ai có thể có Kinh Thánh được. Nhưng nếu anh thực sự muốn có một quyển, anh có thể cầu xin Đức Chúa Trời ban cho”. Nên ông đã bảo Yun hãy kiêng ăn và cầu nguyện. Yun thì không biết kiêng ăn và cầu nguyện như thế nào. Ông mục sư đã giải thích cho Yun, “kiêng ăn là không ăn. Cho đến khi thời gian kiêng ăn đã hết thì Chúa sẽ ban cho anh một quyển Kinh Thánh”. Yun trở về nhà và kiêng ăn, cầu nguyện hai tháng liền. Mỗi lần anh cầu nguyện, anh đều nói, “Chúa ơi, xin cho con một quyển Kinh Thánh” Amen!” Hai tháng trôi qua. Không có điều gì xảy ra. Yun vẫn chưa nhận được quyển Kinh Thánh. Nên anh đã lặn lội đến gặp ông Mục sư lần nữa. Ông Mục sư nói, “Khi anh cầu xin Chúa một quyển Kinh Thánh, anh đừng chỉ quì gối và cầu nguyện. Anh còn phải than khóc trước Chúa nữa. Anh càng tha thiết cầu khẩn bao nhiêu, anh càng sớm nhận được bấy nhiêu”. Lần này, anh chỉ ăn một bữa trong ngày và cầu nguyện và than khóc trước Chúa. Nhiều tháng trôi qua, vào một buổi sáng sớm kia, khi Yun còn đang ngủ, anh mơ thấy một ông già. Ông cụ hỏi Yun, “Anh Yun này, anh có gì ăn không?” 

Yun trả lời, “Không” 

Sau đó, ông cụ đã đưa cho anh một chiếc bánh mì nho. Yun đưa tay ra nhận, thì nó biến thành một quyển Kinh Thánh. Yun quì gối xuống nói “Đáng ngợi khen Danh Chúa! Ngài đã nghe lời cầu nguyện của tôi và đã ban cho tôi một quyển sách!” 

Sau đó Yun đã thức dậy. Tiếng khóc của anh cũng đã đánh thức bố mẹ. Khi họ nghe thấy anh kêu to như vậy, họ nghĩ rằng anh bị thần kinh. Yun nói cho họ về giấc mơ, nhưng họ đều cho là anh sắp mất trí. Ngay lúc đó, cánh cửa đột nhiên mở ra và có hai người bước vào. Họ không quen biết Yun, nhưng họ được Đức Thánh Linh dẫn dắt đến để đưa cho Yun một quyển Kinh Thánh. Đó là anh Vang và anh Song, đến từ một làng cách xa đó. Họ kể cho Yun rằng, có một Giáo sĩ, sau một thời gian cầu nguyện được Đức Thánh Linh dẫn dắt đem cho Yun một quyển Kinh Thánh. Hai anh em mang sách đến cho anh là những người chuyển tin. Kể từ ngày hôm đó, Yun đã học thuộc lòng mỗi ngày một chương Kinh Thánh. Vào một ngày kia, khi Yun đang đọc sách Công vụ các sứ đồ, Chúa đã hiện đến với anh trong một khải tượng. Ngài nói với anh ba lần hãy ra đi và rao giảng tin lành. Chúa cũng nói chính xác cho anh địa điểm mà anh đến để phục vụ Ngài. Nhiều năm sau, sự kiện đó đã được ứng nghiệm. Có một lần, anh đọc một câu Kinh Thánh trong Công vụ các sứ đồ, anh đã chợt ngừng lại để tiếp nhận vào lòng. “Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất”. 

“Đức Thánh Linh - Đó là ai vậy?” Khi anh hỏi mẹ, thì bà khó nhọc giải thích cho anh về những gì bà biết về Đức Thánh Linh. Nhưng câu trả lời của mẹ chỉ càng làm cho anh bối rối thêm. Cuối cùng, Yun cầu nguyện y như đã chép trong câu Kinh Thánh đó và cầu xin Đức Chúa Trời ban cho Đức Thánh Linh. “Lạy Chúa Giê-xu yêu dấu. Con cầu Đức Thánh Linh. Xin hãy ban cho con quyền phép của Ngài, con sẵn sàng làm nhân chứng cho Ngài”. Bỗng nhiên có điều đã xảy ra. Một tình yêu không tả xiết và sự mặc thị về bản thân Đức Chúa Trời đã tràn ngập con người anh. Những bài hát mà anh chưa từng hát bao giờ, đã tuôn trào ra từ trong anh như một dòng sông chảy cuồn cuộn. Những bài hát này, ngày nay còn được hay hát trong những nhà thờ tư gia ở Trung Quốc. Đó là một trong những biến cố quyết định trong cuộc đời của thanh niên Yun trẻ tuổi, vừa mới tin Chúa, trước khi Đức Chúa Trời kêu gọi anh làm nhà truyền giảng tin lành. Bây giờ, chúng ta hãy đi tiếp những sự kiện đã được nói đến ở trên, khi Yun nhận được sự kêu gọi bắt đầu chuyến đi đầu tiên đến miền Tây và miền Nam. 

 

2. Hãy đi về phía Tây và phía Nam 

Vào thời kỳ bắt đầu cuộc cách mạng văn hoá. Chủ tịch Mao Trạch Đông đã thành lập đội “Hồng vệ binh” bất khả chiến bại. Gần một thập kỷ, bất kỳ nơi nào ở Trung Quốc họ đặt chân qua, họ đều để lại đằng sau một sự hoang vu, rộng lớn. Trong mọi lĩnh vực của xã hội đều chế ngự một sự rối loạn về kinh tế và chính trị. Mọi người sống trong sự sợ hãi, chỉ được cung cấp tạm sống và không ai biết được điều gì sẽ diễn ra tiếp theo.

Tuy nhiên họ đã dần dần làm quen với điều đó ngay cả trước khi Mao Chủ tịch lên nắm quyền năm 1949. Những trận lụt lội dữ dội, hạn hán và đặc biệt là những sự tranh chấp giữa những băng đảng, những chủ nông và những nhóm cách mạng, càng ngày càng trở nên bánh ăn hàng ngày. Người dân Trung Quốc đã sống hàng thế kỷ như vậy dưới những điều kiện bất ổn. 

Vào một buổi tối năm 1975, khoảng mười giờ đêm, đa số những người dân của một thị trấn nhỏ ở Trung tâm đất nước Trung Quốc đã lên giường đi ngủ. Cũng giống như hầu hết mọi người họ đều đi qua một ngày làm việc mệt nhọc. Nên họ mong được nghỉ ngơi. 

Cả chàng thanh niên Yun cũng đã nằm trên giường. Theo như thói quen của mình, Yun đã cầu nguyện một lúc lâu, trước khi đi ngủ. Yun thường dành nhiều thời gian để cầu nguyện và đọc Kinh Thánh, một món quà quý giá mà trước đây một thời gian anh đã nhận được. Yun là một trong số ít người ở quê hương anh có Kinh Thánh. Cách thức anh nhận được Kinh Thánh cũng đã gây cho nhiều cơ đốc nhân phải kinh ngạc, quyển Kinh Thánh thật sự là quý báu đối với Yun. Anh mang theo nó cả ngày, tại nơi làm cũng như ở nhà. Và khi đã lên giường, anh đặt nó lên ngực. Không những Yun đọc Kinh Thánh – thậm chí anh có thể thuộc lòng một phần lớn, trong số đó là tin lành Ma-thi-ơ và Công vụ các sứ đồ. Anh đã mong đợi với sự hy vọng đầy tràn rằng Đức Chúa Trời sẽ sai anh đi, làm một chứng nhân cho Ngài. 

Trong buổi tối hôm đó, Yun vừa ngả lưng, thì anh lại thình lình ngồi bật dậy và xuống khỏi giường. Anh chạy sang chỗ bố mẹ, lúc đó chưa ngủ, và hỏi mẹ: “Mẹ có gọi con phải không? Con có cần làm gì không?”. 

Mẹ anh trả lời: “Không, tại sao?” 

Yun trả lời ngạc nhiên: “Nhưng có ai đã gọi con và đã nói tên con? Ai đã chạm vào con?” Mẹ của anh cũng không kém phần kinh ngạc, nói với anh, “bố và mẹ không nói gì với con cả. Không có ai gọi con. Hãy lên giường đi ngủ đi”. Bà bảo anh. 

Nửa tiếng đồng hồ sau, anh lại nghe thấy tiếng đó. Lần này rất rõ ràng. “Yun, con phải đi về phía Tây và sau đó đi về phía Nam và rao truyền tin lành! Con phải làm nhân chứng cho ta!”. 

Và anh lại đến với mẹ và kể cho bà về điều mình đã nghe thấy. Bà rất sửng sốt và sợ là con trai mình bị mất trí. Nên anh lại lên giường, quì gối và cầu nguyện: “Chúa ơi, nếu Ngài đã kêu gọi con, thì hãy nói cho con biết điều Ngài muốn. Con sẵn sàng là một chứng nhân cho Ngài”.

Vào đêm hôm đó, khoảng bốn giờ sáng, Yun có một khải tượng. Anh nhìn thấy một ông già, mà trước đó anh đã nhìn thấy trong một giấc mơ. Lần này ông già đến với anh và nhắc lại những lời mà Yun đã nghe trong tối qua. “Trước tiên anh sẽ đi về phía Tây và sau đó là về phía Đông. Anh sẽ truyền giảng tin lành và làm chứng nhân cho ta”. 

Sau đó, bức tranh thay đổi và bỗng nhiên Yun thấy một đoàn người đông. Ông già, một người có uy quyền tỏa ra, đến nói với Yun hãy làm chứng cho họ. Yun lưỡng lự một lúc. Sau đó ông già đã bảo Yun hãy cầu nguyện cho một phụ nữ đang ở trong đoàn người. Bà bị một tà linh áp chế. Anh vâng lời làm theo. Bà ta vật lộn như sắp chết. Nhưng sau một hồi lâu cầu nguyện bà hoàn toàn được giải phóng khỏi tà linh. 

Mọi người thấy điều đó đều kinh ngạc. Một thanh niên trẻ từ trong đoàn người đến với anh và hỏi, anh có phải là Yun không. Người đó đã nói rằng, những anh chị em ở làng họ đã cầu nguyện và kiêng ăn ba ngày liền để anh đến và giảng tin lành cho họ. 

Yun hỏi người thanh niên, đến từ đâu, “Em đến từ miền Nam”. Sau đó giới thiệu tên cho Yun và tên làng mình. Yun có ấn tượng sâu sắc trước sự nghiêm túc của con người này và hứa ngày hôm sau sẽ đến. 

Khi Yun tỉnh lại khỏi giấc mơ và khải tượng, anh biết chắc là Đức Chúa Trời đã kêu gọi anh để truyền giảng tin lành ở miền Tây cũng như ở miền Nam. 

Yun (tên người đã thay đổi) xuất thân từ tỉnh Henan, một địa phận ở trung tâm Trung Quốc. 

Có rất nhiều Giáo sĩ người Na-uy đã làm việc ở đó từ trước thế chiến thứ hai cho đến năm 1950. Họ đã để lại những dấu ấn thuộc linh trong vùng này. Nhiều người Trung Quốc đã được biết về Chúa Giê-xu và đã tiếp nhận Ngài làm cứu Chúa của mình. 

So với các tỉnh khác của Trung Quốc, ở quê hương của Yun có nhiều cơ đốc nhân. Mẹ của Yun là một người trong số họ. Trong những năm bốn mươi, bà đã tin Chúa Giê-xu Christ. Nhưng đến khi những người cộng sản lên nắm quyền, đa số những người lãnh đạo cơ đốc nhân bị bắt và bị kết án nhiều năm ở tù hay ở trại cải tạo lao động. Có nhiều người đã bị giết. Vào thời gian đó, trong số tất cả các tôn giáo ở Trung Quốc, thì cơ đốc giáo bị bài trừ nhiều nhất. Nó được xem như một thứ tôn giáo của Tây phương, đạo của Mỹ muốn đồng hoá dân Trung Quốc. Những sứ giả, những Giáo sĩ, bị coi như những gián điệp của chủ nghĩa đế quốc Tây phương và của chủ nghĩa thuộc địa, muốn phủi sạch Trung Quốc. Dưới những điều kiện như vậy, có nhiều tín đồ Trung Hoa đã bắt buộc phải đi vào bí mật. Họ không được tự do thông công với những cơ đốc nhân khác hay học hỏi Lời Đức Chúa Trời. Thật nguy hiểm, nếu ai đó bày tỏ công khai mình là cơ đốc nhân, tin Chúa Giê-xu Christ. 

Mẹ của Yun tuy không chối bỏ Chúa, nhưng do nhiều hoàn cảnh khác nhau, mối tương giao của bà với Chúa đã bị nguội lạnh. Điều này thường xảy ra trong số các cơ đốc nhân ở Trung Quốc thời gian đó. 

3. Chuyến công tác đầu tiên về phía Tây và phía Nam 

Sau khi Đức Chúa Trời đã nói vào đời sống anh, Yun đã nói cho bố mẹ biết rằng Đức Chúa Trời đã kêu gọi mình làm một nhân chứng cho Chúa Giê-xu cho toàn đất nước Trung Quốc. Mẹ anh muốn biết Đức Chúa Trời sẽ sai anh đi đâu bây giờ. Yun chỉ biết

trả lời, rằng Đức Chúa Trời gọi anh đi đến miền Tây và đến miền Nam để rao truyền tin lành. 

Yun đã kể cho bố mẹ về giấc mơ của mình. Anh giải thích cho họ, rằng sau chuyến đi của anh đến miền Tây, vào ngay buổi tối hôm đó sẽ có một thanh niên trẻ đến nhà mình. Yun miêu tả người thanh niên trẻ trông giống như một người đến từ hướng Nam và mặc một chiếc áo trắng và quần nâu có miếng vá ở đầu gối. 

“Nếu bố mẹ gặp, thì hãy nói chàng thanh niên đó nán lại cho đến khi con trở về”. Yun nói với mẹ: “những người trong làng họ đã kiêng ăn và cầu nguyện ba ngày để con đến làm chứng chỗ họ và giảng tin lành. Thanh niên đó có tên là Jing Cai Yu”. Cảm nhận rằng Đức Chúa Trời đã sai con minh đi, bà cầu nguyện xin sự che chở, mặc dù bà hoàn toàn không hiểu về điều cậu con trai nói là gì. 

Khi Yun quay về hướng tây, anh không biết đến làng nào. Nên anh cứ đi tiếp tục. Anh đi qua một con sông, ở đó anh gặp một người anh em tên là Young. Người đó hỏi anh đi đâu. Yun đáp là Đức Chúa Trời đã sai anh đi về phía tây và sau đó về phía nam, để làm chứng nhân cho Ngài và truyền giảng tin lành khi Young nghe câu chuyện của Yun, anh rất cảm động và nói: “Tôi đến để gặp anh và đưa anh về làng chúng tôi, làng có tên là “làng miền tây”. Những anh chị em ở đó đã được nghe câu chuyện anh đã cầu nguyện một thời gian dài để được một quyển Kinh Thánh, và Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu nguyện của anh ra sao. Họ mời anh hãy đến chỗ họ để giảng tin lành và đọc Kinh Thánh cho họ”. 

Khi Yun đến làng, thì lúc đó là mùa gặt. Những người nông dân ngoài đồng vừa nghe nói Yun đến, họ đã bỏ liềm cuốc xuống và chạy về nhà, nơi Yun đang ở đó. Họ muốn nhìn xem quyển Kinh Thánh của anh và lắng nghe anh. Những người trẻ, già, nam nữ, tất cả đều chạy nhanh đến, vì cả đời họ chưa hề nhìn thấy tận mắt một quyển Kinh Thánh bao giờ. Khi Yun thấy sự đói khát Lời Đức Chúa Trời của họ, anh bắt đầu hát những bài hát, mà Đức Thánh Linh đã ban cho mình. Những giọt nước mắt lăn trên đôi gò má, khi họ lắng nghe. Họ nài Yun hãy để lại nội dung bài hát cho họ và giục anh hãy đọc Kinh Thánh cho họ. 

Trong khi anh cầm lấy quyển Kinh Thánh, anh giải thích cho họ, đã kiêng ăn và cầu nguyện ra sao cho đến khi Đức Chúa Trời đã nhận lời cầu nguyện của anh. Vì anh không biết phải giảng ra sao, anh cứ bắt đầu đọc lại trong trí nhớ cả sách tin làng Ma-thi-ơ: từ đầu đến cuối. Từng chương, từng chương, tuôn ra từ trong anh. Những thiếu niên, hầu như không hiểu điều anh nói là gì, và cả người nghe cũng không hiểu nữa. Nhưng thần Đức Chúa Trời đã giáng xuống, và Lời Đức Chúa Trời đã đem lại bông trái. Những tấm lòng của họ được dụng chạm bởi Lời Đức Chúa Trời và bởi chân lý trong những lời nói của Yun. 

Cuối cùng, khi anh đọc đến tin lành Ma-thi-ơ chương hai mươi tám, thì anh đứng lên, và đến lúc anh phải rời khỏi làng. Nhưng mà họ muốn thêm hơn, và anh đã tiếp tục, đọc cho họ từ trong Công vụ các sứ đồ. Mười hai chương đầu tiên đã tuôn trào ra từ trong anh. 

Khi Yun đến, ở làng đó chỉ có ít cơ đốc nhân, nhưng khi anh chia tay, số tín đồ đã tăng lên đáng kể. Đó là lần đầu tiên Yun nói về nước Đức Chúa Trời – ở tuổi mười bảy. 

Anh kể cho những dân làng, rằng anh phải đi về miền nam, có những người ở đó đang đợi anh. Một phụ nữ đã hỏi anh, anh sẽ đi đến làng nào, anh đáp, anh sẽ gặp một người và anh đã nói tên người đó. Người phụ nữ đã kinh ngạc nói: “Anh cũng biết người này sao?” Phải, trong một chừng mực nào đó, anh biết người đó. Anh đã gặp người đó trong những giấc mơ vào buổi sáng, khi anh hứa là sẽ đến đó làm chứng và giảng tin lành. Người phụ nữ tư lự một hồi, nước mắt rưng rưng “người đó là em trai tôi”, người phụ nữ nói: 

Người phụ nữ đó đã lớn lên trong làng mà Yun có ý định muốn đi đến đó. Bà đã kể về Chúa Giê-xu, và nhiều người đã tiếp nhận Ngài làm cứu Chúa của mình. Bà cũng đã kể là Yun đã nhận được Kinh Thánh ra sao. Trong làng có nhiều người đã kiêng ăn và cầu nguyện cho Yun có thể đến giảng. 

Khi Yun bắ đầu lên đường trở về, có một phép lạ xảy ra, giống như Phi-líp trong Công vụ các sứ đồ đã kinh nghiệm. Yun sống cách xa làng miền tây đó khoảng chừng hai tiếng đồng hồ. Khi anh lên đường trở về, thì anh bỗng nhiên không mất một chút thời gian nào - đã về đến làng bố mẹ mình. 

Khi bước vào nhà, mẹ anh vui mừng sung sướng gặp lại con. “Ngay sau khi con vừa đi xong, có một người mà con đã nói rằng sẽ đến. Người đó giống như con đã kể. Mẹ hỏi anh ta, có phải tên anh là Yu phải không, và anh đến từ miền nam. Anh hết sức ngạc nhiên vì những điều đó đều đúng. Mẹ đã hỏi có phải những người ở đó đã kiêng ăn và cầu nguyện ba ngày để cho con trai tôi đến đó và đọc trong Kinh Thánh cho họ nghe không? Khi anh nghe không những ngạc nhiên mà còn có một sự kính sợ”. 

Anh ta đáp “Làm sao bác biết tất cả những điều đó? Cháu chưa gặp bác trước đó một lần nào”. 

Mẹ đã kể cho anh ta nghe là Đức Chúa Trời đã báo cho con trai tôi trong một giấc mơ. mẹ cũng nói là con đã hứa, khi trở về sẽ đến làng họ. 

Yun hỏi mẹ, người đó bây giờ ở đâu rồi. “Anh ta không ở đây”, mẹ anh nói. “Mẹ đã hỏi anh có muốn uống gì không, nhưng anh đã về ngay lập tức, để nói mọi điều đó cho những cơ đốc nhân khác ở làng mình, và nói với họ Đức Chúa Trời đã nhận lời cầu nguyện của họ. Anh quá bất ngờ, đến nỗi đã bỏ quên chiếc mũ rơm lại”. 

Trong khi Yun còn nói chuyện với mẹ, thì Yu đã đến, mệt đừ vì vừa quay lại. Mồ hôi chảy ròng rã. Yun cầm lấy tay Yu và nhìn kỹ anh. Vì sao? Bởi vì người đó trông giống hệt như người anh đã thấy trong giấc mơ. Yun nói: “anh là anh Yu. Anh và những người khác trong làng anh đã cầu nguyện ba ngày, để em có thể đến chỗ các anh. Tất cả những điều đó em đã thấy trong giấc mơ đêm qua, Chúa Giê-xu yêu anh”. Yu ôm chầm lấy Yun và khóc. Bây giờ mẹ của Yun bắt đầu hiểu là con trai mình hoàn toàn

bình thường và những khải tượng của nó không phải là một dạng bệnh thần kinh. Nên bà đã chúc phước cho con trai và người khách. Cả hai đã lên đường về hướng Nam. Lúc đó, trời đã xế tà. 

Đó là lần đầu tiên Yun đi về hướng tây và hướng nam, để làm chứng về Chúa Giê-xu. Ngọn lửa tin lành đã nhanh chóng lan tràn rộng rãi – bằng những dấu kỳ và phép lạ. 

Vừa bước vào tuổi thanh niên, Yun khái niệm về “hướng tây và hướng nam”, đó là những vùng lân cận của làng anh. Càng về sau, hai mươi lăm năm tiếp theo, khái niệm đó đã mở mang đến những khu vực trong toàn cõi Trung Quốc, và bây giờ đã vượt ra ngoài biên giới Trung Quốc. 

Mỗi một giây phút rảnh rỗi, Yun đọc Kinh Thánh. Mặc dù anh không học một trường Kinh Thánh, nhưng anh đã nghiên cứu Kinh Thánh, học thuộc lòng và đào sâu tra cứu Lời Đức Chúa Trời. Sự thành công về sau này của anh liên hệ cơ bản đến sự hiểu biết của mình: tra cứu Lời Đức Trời và sau đó bởi đức tin vận dụng vào thực tế. Hôm nay, khi nhìn lại anh nói, “Nếu Chúa bảo tôi làm điều gì đó, thì tôi luôn luôn sẵn sàng vâng lời”. 

4. Sự bắt bớ, sự phấn hưng và sự mở cửa 

Như thường xảy ra, kèm theo sự phấn hưng là những sự chống đối, bắt bớ và đau đớn. Yun và mẹ anh và nhiều cơ đốc nhân khác cũng đã bị công an bắt, đánh đập, và bị nhục hình. Họ bị tố cáo là giảng công khai về niềm tin cơ đốc, là điều không được phép. Nhưng cho dù Sa-tan đã làm mọi điều có thể, nó cũng không thể dập tắt ngọn lửa phấn hưng. Ngay giữa thời kỳ bắt bớ này, ngọn lửa phấn hưng đã cháy bùng và lan tràn ra mọi phương trời. 

Trong một làng ở phía nam mà Yun đã đến thăm, sau đó vài ngày đã bị công an bất ngờ đến khám xét. Công an an ninh đã hùng hổ bắt giam tất cả các cơ đốc nhân trong làng. Nhưng điều ngạc nhiên là những cơ đốc nhân đã phản ứng bằng một sự vui mừng không thể tả được, đến nỗi nó đã chuyển thành những tiếng cười thánh. Yun cũng đã nói cho họ về những lời Chúa Giê-xu nói rằng, phước cho những ai chịu sự bắt bớ vì cớ Ta. Và hình thức để bộc lộ sự vui mừng đó là tiếng cười. Những người công an chưa hề thấy có ai đó bị bắt mà lại cười được. Và vì họ nghĩ rằng chắc là những cơ đốc nhân muốn trêu chọc họ và hạ thấp họ, nên họ đã bắt đầu đánh đập các anh chị em tín đồ. 

Chẳng bao lâu, phòng công an an ninh càng thấy rõ rằng Yun là một trong những nhân vật then chốt trong vòng những cơ đốc nhân ở trong huyện. Tên của Yun thường xuất hiện trong những tài liệu công an, đầu tiên mới ở mức độ địa phương, sau đó là đến cấp huyện, rồi đến tỉnh. Cuối cùng tên anh cũng đã được biết đến ở những cơ quan và chính quyền các tỉnh lân cận. 

Trong những năm đầu, khi Yun trở lại với Chúa, anh đã dẫn hàng nghìn người đến với Chúa Giê-xu Christ. Khi lên mười tám tuổi anh bắt đầu đi công tác ở những tỉnh lân

cận. Khi lên hai mươi tuổi, anh tổ chức những trường huấn luyện cho những nhân sự của mình. Anh hiểu được rằng một sự đào tạo kỹ lưỡng về Lời Đức Chúa Trời là rất cần thiết. 

Cùng trong thời gian đó, anh đã có liên lạc với những nhà thờ tư gia hoạt động bí mật ở Trung Quốc, một trong những mạng lưới hoạt động lớn nhất đó có tên là “Phong trào tái sinh” và có nguồn gốc từ vùng mà Yun xuất thân. Đó là nơi mà một nửa thế kỷ trước những nhà truyền giáo Châu âu đã gieo những hạt giống của Lời Đức Chúa Trời. Những giáo sĩ này đặt trọng tâm vào việc những cơ đốc nhân phải thực sự được tái sinh. Nhiều người lãnh đạo những nhà thờ tư gia còn trẻ tuổi. Nhưng đó không phải là tuổi tác quyết định ai là người lãnh đạo, mà là sự trưởng thành thuộc linh. Vào mùa đông 1978, Yun và những nhân sự của mình bắt đầu cử hành lễ báp-tem cho những tín đồ mới. Hầu hết họ làm báp-tem vào ban đêm, vì lúc đó ít bị bắt bớ gay gắt hơn. Vào mùa đông họ đục những lỗ thủng dưới con sông và báp tem những tín đồ dưới nước băng giá đó. Hàng trăm người có thể được báp tem trong một đêm. 

Vào ngày chín tháng chín, 1976, vị “Chủ tịch vĩ đại” của Trung Quốc Mao Trạch Đông từ trần và cùng ra đi với ông là cuộc cách mạng văn hoá với những kết cục thảm hại. Nền kinh tế đất nước bị tiêu đứng. Xã hội Trung Quốc hoàn toàn bị trật khỏi đường ray. Về nhiều khía cạnh, Trung Quốc bị phát triển thụt lùi. Vào lúc đó điều cấp thiết là củng cố đất nước và đưa các sinh hoạt trở về sự bình thường hóa. 

Vào năm 1979, khi Yun hai mươi mốt tuổi, Đặng Tiểu Bình lên lãnh đạo. Đặng đã lập tức thi hành những biện pháp để bình thường hoá Trung Quốc – một sự cần thiết tuyệt đối. Thuộc vào một phần trong chính sách của sự mở cửa, ông cho phép tự do tôn giáo phần nào – ít nhất cũng như những cơ đốc nhân trong những năm năm mươi đã được hưởng. Đặng đã cho phép những tổ chức lớn có tên gọi là năm tổ chức tôn giáo yêu nước bao gồm Phật giáo, Lão giáo, Hồi giáo, Công giáo và Tin lành hoạt động trở lại. Tổ chức chịu trách nhiệm về hội Tin lành có tên là “Phong trào ba độc lập yêu nước” (Patriotische Drei-Selbst Bewegung), hay còn gọi là “nhà thờ ba độc lập” (Drei-Selbst Kirche). Phong trào ba độc lập, được hình thành từ những năm năm mươi do đại đa số những nhà thần học tự do. Trong cuộc cách mạng văn hoá tất cả những hoạt động tôn giáo, kể cả của nhà thờ ba độc lập đều bị nghiêm cấm. Bây giờ dưới thời Đặng, nhà thờ ba độc lập lại được phép trở lại. Đảng cộng sản thấy rằng phải công nhận chút ít niềm tin của người dân là một điều cần thiết, nên đã cho phép tự do tôn giáo trong một chừng mực nhất định. Họ tin rằng, tất cả các tôn giáo rồi sẽ qua đi. Theo như học thuyết Mác, thì đó chỉ là một câu hỏi của sự tiến bộ và sự giáo dục đầy đủ, và tất cả mọi loại hình tôn giáo sẽ bị biến mất khỏi đầu óc con người. 

Nhưng, sự tự do tôn giáo này có một điều kiện tiên quyết kèm theo, đó là họ phải qui phục sự kiểm soát của nhà nước. Những tổ chức tôn giáo không được phép đối lập lại những giá trị và mục đích của chính phủ Trung Quốc trong việc xây dựng đất nước. 

Ngày nay, nhà thờ ba độc lập được ủng hộ bởi một hiệp hội có tên gọi là “Hội đồng cố vấn của những cơ đốc nhân” (Chinesischer Rat der Chisten) và “Văn phòng phụ trách về những vấn đề tôn giáo” (Buro fur religiose Angelegenheit), một cơ quan của chính

phủ, với chủ trương áp dụng những mục tiêu chính trị của Đảng cộng sản. Những tổ chức này canh phòng để cho đường lối của Đảng liên quan về vấn đề tôn giáo được thi hành ở nhà thờ ba độc lập, cho dù đó là bằng “bàn tay sắt hay là bằng ‘găng tay nhung’. 

Người Trung Quốc được tuyên truyền rằng họ chỉ cần thực hành đức tin một cách cá nhân và giữ cho mình. Sự giảng đạo và thờ phượng Chúa chỉ được cho phép ở những nhà thờ chính qui được đăng ký với nhà nước. Những người trẻ hơn mười tám tuổi không được phép tham dự buổi thờ phượng Chúa. Giảng Tin lành công khai bị tuyệt đối nghiêm cấm. 

Về phần hạ tầng, trong vòng nhà thờ ba độc lập, có nhiều cơ đốc nhân sốt sắng muốn làm chứng về đức tin mình cho những người khác ở ngoài nhà thờ, nhưng họ phải được sự chấp thuận của chính phủ về điều đó, trước khi đi ra và giảng đạo. 

Nhà thờ tư gia bác bỏ mọi điều kiện này và không muốn để cho những người như vậy lèo lái hay định đoạt, vì đó là những người không chấp nhận giá trị của Lời Đức Chúa Trời. Theo cách nhìn của nhà thờ tư gia, thì một chính phủ vô thần không thể nào lại có thể đảm nhận lãnh sự lãnh đạo nhà thờ được. Kể cả Yun, anh luôn luôn là người đứng lên nói rằng, nhà thờ tư gia cần phải tách ra khỏi sự kiểm soát của chính phủ. 

5. Đừng là một Giu- Đa 

Trong khi Yun đang đi chuyến công tác về phía nam. Đức Chúa Trời đã ban cho anh một bài hát lạ thường. Nội dung nhắc nhở đừng sờn lòng nản chí; Một sự cảnh tỉnh đối với những tín đồ. đừng làm một Giu-đa. Bài hát nhắc nhở nhà thờ Trung Quốc, bắt buộc phải anh dũng làm một chứng nhân trung tín cho Đức Chúa Trời và gạt bỏ tất cả những sự thoả hiệp với những quyền lực của thế giới này và những thế lực của nó. Một điểm mà sắp tới Yun sẽ được thử luyện. 

Vào tháng tư 1979, chính phủ đã cho phép nhà thờ mở cửa dưới sự kiểm soát của phong trào ba độc lập. Những người đầu đàn, những linh mục và các cơ đốc nhân, thuộc vào thành phần những nhà thờ này, họ đều trở nên thành viên của nhà thờ ba độc lập là nhà thờ có đăng ký. Sự đói khát thuộc linh lên cao, và nhiều nơi, mọi người đã đổ về những nhà thờ đó. Lần đầu tiên kể từ nhiều năm nay, họ được phép cầu nguyện và nghe giảng tin lành, nhiều điều tốt đẹp đã diễn ra trong thời gian này. Tuy nhiên, tất cả những người không công nhận sự kiểm soát của chính quyền cộng sản vô thần trên nhà thờ đã chấp nhận bị coi là liên quan với nhà thơ tư gia. Trong toàn Trung Quốc những nhóm này đểu gia tăng về số lượng và về sức mạnh. 

Cho đến những năm tám mươi những nhà thờ tư gia ở Trung Quốc hoạt động rất độc lập với nhau. Nhưng vì đà phát triển, nên họ đã dần dần hiệp lại thành những mạng lưới khác nhau. Bằng cách đó, trong toàn Trung Quốc họ đã hiệp với nhau. Một thực tế, mà về sau đó chúng ta sẽ thấy. 

Kinh nghiệm ở những nước cộng sản cho thấy là ở đó có những biện pháp hữu hiệu

được áp dụng để đạt đến sự kiểm soát trên nhà thờ bí mật, cũng như đã xảy ra ở Trung Quốc. Một trong những hiệp pháp đó thường được gọi là phương pháp “găng tay nhung” 

Vào cuối những năm tám mươi Đảng cộng sản Trung quốc đã cùng với công an bộ nội vụ, những người lãnh đạo tôn giáo và những nhân vật có thế lực khác triệu tập một cuộc hội nghị ở vùng Yun xuất thân. Đó là phần của chiến lược để dành sự kiểm soát trên nhà thờ ba độc lập; tức là xây dựng một tổ chức tôn giáo dưới sự điều khiển của chính phủ. Vào thời gian đó còn rất khó nhận biết được những mưu đồ chính trị sâu xa. Một trăm hai mươi đại biểu, đến dự đại hội, đại diện cho cơ đốc giáo, hồi giáo, phật giáo và lão giáo. Mục tiêu của cuộc họp là bầu cử một ban chủ tịch cho mỗi tôn giáo. Chính phủ đã thực sự tiến cử Yun làm chủ tịch cho những người tin lành trong ban này. Khi đi dến sự thống nhất, đa số đã đồng ý chọn anh. Chỉ có vài người thần học tự do và vài cơ đốc nhân khác đã tuyên bố ly khai với nhà thờ trong những năm năm mươi không tán thành theo ý kiến đó thôi. Một trong những người đó, tên là Hồ, đã tuyên bố trước đại hội rằng Yun hoàn toàn không tương xứng với vị trí này. Ông nói, Yun không có trình độ, và cũng không bao giờ học thần học. Hơn nữa, ông còn lên án Yun và những cơ đốc nhân khác là những thầy giáo giả. Hồ đã nói tiếp rằng mình đã tin Chúa từ khi lọt lòng mẹ, mặc dù ông có từ bỏ niềm tin trong thời kỳ cách mạng văn hoá. Ông đã khoe là từng học trong một trường truyền giáo. Ông tiếp tục nói với ngụ ý rằng, mình là người xứng đáng với vị trí đó, có thể đại diện tốt nhất cho nhà thờ Trung Quốc ở vùng này, sau khi tự do tôn giáo đã được tái lập. Ông đã chỉ thẳng vào mặt Yun và một vài người khác, theo ông là có những hoạt động đảo chính. Ông gọi họ là những nhà truyền giáo giả, thực hành những sự gớm ghiếc như đuổi quỉ và cầu nguyện chữa bệnh. Ông lên án họ làm rối loạn mọi người và gây rối trậ tự xã hôi. 

Công an bộ nội vụ và những người của cơ quan Đảng cộng sản đều hài lòng về bài diễn thuyến này. Họ vui miừng về sự công kích, vì họ nhận thấy rằng người này đã sẵn sàng để được họ dung, nhằm chiếm được một địa vị trong hệ thống tôn giáo. Hồ được khích lệ, càng chỉ trích Yun và những nhà truyền giáo khác. Ông chỉ huy công an nói rằng những chuyện xì-can-đan (Skannda) trong vòng cơ đốc nhân ít khi lộ ra bên ngoài. Bây giờ ông muốn nghe nhiều hơn và hỏi Hồ: “ Hãy kể cho chúng tôi biết, những thầy giáo giả này đã làm rối loạn trật tự xã hội ra sao.” Được khích lệ để nói tiếp, nên ông càng tự tin hơn. Giọng nói càng oang oang với những sự lên án Yun, anh vẫn đang yên lặng. Nhưng cuối cùng, Yun không chịu nổi nữa, vì cứ có những sự lên án tiếp tục chống lại nhà thờ tư gia và những giáo sĩ và những người được Đức Chúa Trời kêu gọi làm lãnh đạo thuộc linh. Hội thánh của Đức Chúa Trời hằng sống bị bôi xấu. Yun đã đứng dậy khỏi ghế và bảo: “Trong Danh Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét, tôi truyền cho ông hãy im ngay.” 

Tất cả những người đó đều sững sờ. Người thanh niên hai mươi hai tuổi này cho mình là ai mà dám quở mắng một quí ông lớn tuổi hơn mình và có học thức hơn, bằng cách thô kệch như vậy? Anh không tôn trọng họ hay sao? Được đầy dẫy Đức Thánh Linh, Yun vẫn chưa nói hết câu, và anh tiếp tục: “Đức Chúa Trời không hài lòng về buổi họp này.” Trong khi đó anh chỉ tay vào Hồ và nói: “Sự ô nhục đổ trên ông vì sự làm nhục hội thánh trước mặt những người vô tín! Chúa Giê-xu Christ sẽ xét đoán ông! Lời Kinh

Thánh nói cho chúng ta rằng chúng ta đừng mang ách chung với kẻ chẳng tin. Sự sáng làm sao có thể hiệp với sự tối tăm được chăng?” 

Một vài anh chị em đến chỗ Yun và xin anh hãy ngồi xuống Những người hướng dẫn cuộc họp im bặt. Nhưng họ nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, và một người trong số họ đập bàn. Ông đã đề phòng những kẻ gây rối và khiêu khích. Ông đã ra lệnh cho họ hãy lập tức rời buổi họp ngay. Yun đã nói lớn đáp: “Tôi đi và sẽ không bao giờ tham gia một buổi họp như vậy”. Anh đã làm một sự lựa chọn. Qua đó, anh đã để cho Đức Chúa Trời hợp pháp đưa anh qua con đường được đánh dấu qua sự đau đớn và cực khổ. Ngay sau buổi họp đó, có Lời Chúa đến với anh. Lần này liên hệ đến những người lãnh đạo chỉ biết nghĩ đến mình mà không lo cho nhà thờ. Anh đã khóc, khi nghĩ đến kinh thánh trong Ê-xê-chi-ên: 

“Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng: Hỡi con người, hãy nói tiên tri nghịch cùng kẻ chăn của Ysơraên; hãy nói tiên tri, và bảo những kẻ chăn ấy rằng Chúa Giê-hô-va đã phán như vầy: Khốn nạn cho kẻ chăn của Y-sơ-ra-ên là kẻ chỉ biết nuôi mình! Há chẳng phải những kẻ chăn nên cho bầy chiên ăn sao? Các ngươi ăn mỡ, mặc lông chiên, giết những con chiên mập, mà các ngươi không cho bầy chiên ăn! Các ngươi chẳng làm cho những con chiên mắc bệnh; nên mạnh chẳng chữa lành những con đau, chẳng đem những con bị đuổi về, chẳng tìm những con lạc mất; song các ngươi lại lấy sự độc dữ gay gắt mà cai trị chúng nó. Vì không có kẻ chăn thì chúng nó trở nên mồi cho hêt thảy loài thú ngoài đồng. 6 Những chiên Ta đi lạc trên núi và mọi đồi cao; những chiên Ta tan tác trên cả mặt đất chẳng có ai kiếm, chẳng có ai tìm.” (Ê-xê-chi-ên 31:1-6) 

Kể từ thời gian đó, đoạn Kinh Thánh này là một hòn đá móng trong sự phục vụ của Yun, nhắc nhở anh, đừng thành lập một Hội thánh bị để cho chính phủ hay những quyền lực thế gian kiểm soát. Kể từ ngày anh ra khỏi buổi họp, anh cảm thấy mình được tự do như một con chim. Giống như anh đã thóat khỏi cạm bẫy, mà ma quỉ đã cài đặt. Cả những lời của tiên tri Giê-rê-mi đã làm xúc động lòng anh: 

“Ta đã lập cho người làm tiên tri các dân ... Chớ nói: Tôi là con trẻ; vì ngươi đi khắp nơi mà Ta sai ngươi đi, và sẽ nói mọi điều Ta truyền cho nói. Đừng sợ vì cớ chúng nó; vì Ta ở với ngươi đặng giải cứu ngươi, Đức Giê-hô-va phán vậy... Nầy ngày nay, Ta lập ngươi lên làm thành vững vên, làm cột bằng sắt, làm tường bằng đồng, nghịch cùng cả đất này, nghịch cùng các vua Giu-đa, các quan trưởng nó, các thầy tế lễ, và dân trong đất. Họ sẽ đánh nhau với ngươi; vì Ta ở cung ngươi đặng giải cứu ngươi. Đức Giê-hô-va phán vậy.” 

(Giê-rê-mi 1:5-7; 18-19) 

Có một sự kêu gọi lớn trên anh. Đối với chính quyền, anh bị coi như kẻ thù của nhân dân. Công an săn lùng anh không thôi. Những lời Chúa nói trước khi Ngài về trời nung nấu trong lòng anh. “Nếu có ai không tiếp nhận các ngươi thì hãy đi ra khỏi nhà đó hay khỏi thành phố đó... hãy đi giao truyền nước thiên đàng đã gần rồi... hãy đi chữa lành người bệnh, khiến sống kẻ chết” (Mathiơ 10:7,8,13). Sau cuộc gặp gỡ với chính quyền, giờ đây anh và các anh em lãnh đạo khác đã nhìn thấy rõ nhiệm vụ của mình hơn. Đức

Chua Trời đã dùng cái nhìn bên trong của họ giúp đỡ họ xây dựng một Hội thánh, chỉ duy nhất được thành lập trên lời Đức Chúa Trời và không phụ thuộc vào tổ chức do con người đặt ra. Điều đó có nghĩa là một cuộc đời của một người giảng tin lành phải luôn luôn lẩn trốn. Vào thời gian đó, Chúa dã ban cho Yun một khải tượng kỳ lạ về Nước Trời. Anh được ban nhiệm vụ khai triển khải tượng và cùng làm việc chung với những đồng lao có một khải tượng với anh. Đức Thánh Linh đã dạy anh một bài hát, có đoạn kết là: “ lúa mì và cỏ lùng mọc lẫn lộn. Phi-e-rơ và Giu-đa đều có cả. Một người thì yêu mến Chúa. Người kia thì lừa dối Ngài. Hỡi những tôi tớ Chúa, đừng sợ hãi, hãy đứng lên và gọi đích danh tôi ra.” 

Sau đó, những nhà thờ tư gia Trung Quốc đã cùng nhau ra một cương lĩnh nói về những mục tiêu và niềm tin căn bản của họ. Mục thứ ba của cương lĩnh này liên hệ đến nhà thờ ba độc lập “tất cả những người giảng đạo và những cộng tác viên trong những buổi họp phải nhận biét rằng nhà thờ ba độc lập không phải nhà thờ theo ý Chúa, Chúng ta không được phép dự phần vào đó, thay vào đó chúng ta phải cố gắng cứu những con chiên bị nhà thờ này kiểm soát.” 

Điểm bốn của cương lĩnh này là nêu lên những đặc điểm chính của một buổi nhóm cơ đốc thật sự. Trong đó nói, rằng thân thể Đấng Christ, cô dâu chỉ có thể được hình thành bởi những người được tái sinh. Đó là những người ý thức được tình trạng của mình trước Đức Chúa Trời, đó là ăn năn tội lỗi và xưng nhận Chúa Giê-xu là Đấng cứu chuộc và Chúa của mình.Họ phải quay khỏi con đường gian ác và nhận lãnh ân điển của Đấng Christ. Cho nên, nhà thờ không phải là một toà nhà, cũng không phải là một tổ chức, mà là một thân thể, một cơ chế sống. Lời Đức Chúa Trời giải thích rõ ràng rằng một hội thánh như vậy được hình thành bởi những viên đá sống, mà hòn đá móng là Chúa Giê-xu Christ. Để chứng tỏ sự tận trung của họ đối với phúc âm, những người lãnh đạo nhà thờ tư gtia đã khẳng định một lần nữa vào năm 2000, rằng họ không đặt trọng tâm vào việc xây dựng những toà nhà thờ. Mà hơn thế, họ dồn mọi phương tiện cho sự rao giảng tin lành và cho công tác truyền giáo. Tất cả những điều đó thách thức hệ thống tôn giáo ở Trung Quốc – cũng giống như vậy, ở tây phương đây cũng sẽ là một sự vấp phạm. 

6. Sự bắt giam và chạy trốn 

Chúng ta ở tây phương cần phải hiểu rằng, sự phủ nhận đối với nhà thờ ba độc lập không phải là quyết định của một số ít người. Cuối cùng,Thời tiết mà họ chịu dãi dầm, tương ứng với sự bắt bớ đang đợi họ. Một cơn gió lạnh giá từ miền Si-bi-ri tràn vào phía bắc Trung Quốc. Nhiều người thường vẫn hay che giấu người truyền giảng tin lành, cũng đã bị bắt. Cho đến bây giờ, những người truyền giảng tin lành vẫn thường được hết lòng đón tiếp trong những ngôi nhà đơn sơ, được chu cấp đồ ăn và chỗ ngủ. Nhưng bây giờ nhiều người đã sợ hãi và lo cho sự an toàn gia đình mình. ở một vài làng, những người truyền giảng tin lành không đến được, vì cớ sợ sự bắt bớ của công an đối với những người đã giúp đỡ họ. 

Có một phụ nữ đã quì trước họ và van nài họ hãy ra đi. “Nhà chúng tôi không thể tiếp nhận các anh được, xin hãy đến một địa phương khác.” Yun rưng rưng nước mắt hỏi

bà, có thể đưa cho họ một cái chăn để họ chống lạnh được không? Họ nhất thiết phải cần cái gì đó để chống lại giá lạnh và cơn gió bấc lạnh giá nhất. Nhưng người phụ nữ sợ hãi và không giám đưa cho họ thứ gì, sợ rằng công an biết được và tìm ra tung tích của cái chăn. Những người truyền giáo không tìm được chỗ dừng chân. Trong những đêm tiếp theo họ phải chống lạnh bằng cách đi vào trong rừng sâu gần bị đông lạnh, đói khát và chỉ ăn mặc sơ sài. 

Trong đêm lạnh, gió rít, họ hát những bài ca để sưởi ấm cho nhau. Một trong những phụ nữ đã tìm được chỗ náu mình trong một cái chòi rơm. Yun và các anh em khác náu mình trong một bụi rậm gần hồ nước. Có đỡ một chút, nhưng họ hoàn toàn bị phó mặc cho sự lạnh giá. Nhiệt độ càng giảm, cơn gió càng lạnh. Không khí lạnh tràn vào giống như cây kim sắt, xuyên tận thấu bên trong, qua những kẽ hở quần áo của họ. Hai người bạn đã ôm chặt vào nhau để tránh lạnh. Khị họ nằm đó như vậy, răng đánh cầm cập, đói lả, họ đã cầu nguyện cho đồng bào mình. 

“Chúa ơi chúng con cầu nguyện, xin Chúa Thương xót và tha thứ những người lãnh đạoTrung Quốc, xin Ngài chúc phước cho họ. Vì cớ huyết của Ngài, xin hãy thương xót đất nước chúng con.” 

Khi họ cầu nguyện và hát như vậy, Yun cảm thấy một sự giận dữ và cay đắng dâng lên trong lòng. Cuối cùng anh kêu lên: “Đức Chúa Trời của con ơi, con có mẹ và vợ ở nhà. Tại sao Ngài lại để con như thế này?” Nhưng Ngài đã im lặng mặc dù Yun đã trút hết sự bực tức của mình. 

Anh muốn về nhà. Nhưng anh vẫn đi tiếp tục. Dần dần anh mới vỡ lẽ ra rằng, Đức Chúa Trời đã dùng những nghịch cảnh và sự khổ đau để nắn dựng anh. Qua đó anh mới có thể vượt qua được những tình cảm và suy nghĩ cay đắng của mình. Và một bài hát mới nảy sinh trong ý tưởng và tâm trí anh: 

“Tôi còn sống đến chừng nào, 

tôi sẽ yêu mến chỉ một mình Ngài. 

Bằng tất cả trái tim và sức lực. 

Và bằng tất cả khả năng của tôi. 

Tôi sẽ chỉ yêu mến một mình Chúa tôi. 

Cho dù biến cố gì, 

tôi sẽ chỉ yêu mến một mình Chúa của tôi. 

Bằng những lời nói và việc làm của mình. 

Bằng cả đời sống tôi. 

Tôi sẽ chỉ yêu mến một mình Chúa của tôi.” 

 

Những hình ảnh về sự Chúa Giê-xu bị đóng đinh ra sao, đến trong tâm trí anh. Anh nghe thấy tiếng Chúa nói: “Ta đã yêu con bằng tình yêu đời đời và sẽ mãi mãi không bao giờ lìa xa con”. 

Yun tự ghi nhớ tất cả bài hát và khải tượng anh nhận được. Anh luôn luôn hình dung trước mắt những gì Chúa đã nói cho anh và đã làm gì cho anh. Vì lý do đó, ngày hôm nay anh có thể nhớ rõ tất cả những điều đó. 

Yun thường nhắc đến câu Kinh Thánh trong Giăng 12:26 “Ai hầu việc ta, thì phải theo ta. Ta ở đâu, ngươi sẽ ở đó với ta. Ai hầu việc ta, Cha ta ắt tôn quí người.” 

 

đó là kết quả do nhiều cơ đốc nhân Trung Quốc qua sự suy ngẫm và sự khải thị đã đạt được. 

Vào năm 1980, Yun trở thành một trong những người được giảng đạo dẫn đầu, đã phô bày nhà thờ ba độc lập giống như bản chất của nó. Chẳng bao lâu sau, anh phải đương đầu với những hậu quả của hành động mình. Mười tám năm tiếp theo của cuộc đời anh là một chuỗi của sự chạy trốn, giảng tin lành, bị ruồng bỏ, bị bắt giam và tra tấn cực hình. Anh chịu đau khổ và than khóc nhiều vì cớ những sự nguy hiểm, mà anh làm cho gia đình mình phải chịu cùng. Nhưng anh luôn luôn nói: 

"Tình yêu giục giã tôi làm tiếp tục". 

 

Vào một ngày tháng sáu năm 1981, Yun ở một làng ở miền nam tỉnh Henan. Anh gặp gỡ với những cộng tác viên đáng kính của nhà thờ tư gia ở vùng đó. Sự thảo luận của họ tập trung vào việc phơi bày nhà thờ ba độc lập như bản chất của nó, và xây dựng hội thánh thật sự của Đấng Christ qua sự truyền bá Phúc âm. Họ hoạch định những bước để truyền giảng tin lành. 

Đó là vào một đêm tối đen và gió, những đám mây che phủ bầu trời sao sáng. Yun giảng hăng say về thập tự giá của Đấng Christ và về sự sẵn sàng của Chúa Giê- xu chịu lấy thập tự giá. Anh nói, cũng giống như những sứ đồ đầu tiên, họ cũng phải sẵn sàng chịu khổ và vì cớ tin lành sẵn sàng chấp nhận cái chết. Có hơn một trăm cơ đốc nhân đã nhóm lại. Họ đều được sứ điệp đó đụng chạm. 

Thình lình, có những tiếng xe máy trong đêm và trong phòng nhóm, người ta có thể nhận thấy tiếng súng nổ. Sau đó có hơn ba mươi công an đã ập vào với những dùi cui,

dây da và súng lục. Họ lập tức phát hiện ra Yun, kẻ hay gây rối trị an. Họ bắt anh, còng tay lại và bắt anh phải quì ra giữa nhà. Đôi vợ chồng chủ nhà, cũng bị còng tay. Công an Trung Quốc đặc biệt nổi tiếng về sự tàn bạo và sự cứng rắn. Họ không ngại gì mà không hành hung những người bị tình nghi, đánh đập và đôi khi bắn bỏ. 

Một vài cơ đốc nhân chống cự thì bị dày đạp và xô xuống nền nhà, trước khi bị trói. Yun cũng vẫn bị đấm đá tiếp tục. Họ muốn qua đó bắt anh phải khai ra, ai là người tổ chức buổi họp này. Anh giải thích cho họ, anh là người chịu trách nhiệm duy nhất. Nhưng sau đó có một người khác bước ra và nhận lấy trách nhiệm. Những người công an càng giận giữ và đánh đập điên cuồng hơn. Trừ một vài bà cụ, tất cả đều bị đánh dã man. Sau khi họ đã ghi tên họ và địa chỉ, thì công an thả đa số ra, nhưng họ bắt giữ Yun và một vài người khác. Họ bị tống lên xe để đưa về đồn. Nhưng vì vội vã, nên công an đã dồn quá nhiều người lên xe, nên lốp xe đã bị non hơi. Để không phải ngủ đêm ở giữa trời đêm này, nên những người công an đã ra lệnh cho Yun và những người khác hãy xuống xe và lập tức ra trình diện ở đồn công an. Họ biết rằng Yun và những người khác không dám chạy. Cho nên họ đã tống xuống khỏi xe và để chạy khỏi. Đó là một khả năng Chúa đã ban cho để chạy trốn. Nhưng sau đó Yun đã bắt đầu kêu than với Chúa, khi anh đi một mình trong bóng đêm. " Chúa ơi, Chúa ơi, tại sao họ đã đối xử với con như vậy? Tại sao Ngài không che chở con? Rồi Chúa đã nhắc cho anh câu Kinh Thánh, nói: " Vì anh em đã được kêu gọi đến sự đó; vì Đấng Christ đã chịu khổ cho anh em, để lại anh em một gương hầu cho anh em noi theo dấu chân Ngài". (I.Phi- e- rơ 2,21) 

Và anh lại nghĩ đến những lời " Con hãy đi về phía tây và phía nam và truyền bá Tin lành. Hãy quay lại, vì nước thiên đàng đã đến gần...Khi các ngươi bị bắt bớ ở nơi này, thì hãy chạy sang nơi khác." 

Anh lại đến một nơi khác, để phục vụ ở đó, chẳng bao lâu sau, anh lại bị quen mặt với công an ở đó, như một kẻ " làm mất trật tự an ninh xã hội trong cả vùng". Khi công an nhận thấy một vài người bị bắt không ra trình diện công an, họ đã tức giận sôi sục đến bắt từng ngôi nhà, kể cả nhà của Yun. Tất cả đều bị khám xét kỹ và tài sản bị tịch thu. Vợ của Yun quá sợ hãi đến nỗi cô không dám về nhà. Thậm chí công an đã đưa mẹ của Yun lên đồn để hỏi cung. 

Nếu một con cái Chúa hay một mục sư bị bắt, thì cả gia đình cùng hứng chịu. Công an thường tịch thu toàn bộ của cải, thậm chí cả lương thực, để cho gia đình không có nơi nương tựa. ở trường, những học sinh bị các thầy cô giáo và các bạn bè cô lập và miệt thị. 

Dưới con mắt của công an, Yun là một trong những tội phạm bị truy nã ghê nhất. Chẳng bao lâu sau, những tấm áp-phích có chụp ảnh của anh được treo ở những ngôi nhà, cột điện thoại và những bờ tường. Mặc dù lúc đó anh đang 20 tuổi, công an coi anh là kẻ chịu trách nhiệm chính về những nhà thờ bí mật trong cả tỉnh. Anh bị gán cho tội gây rối loạn và phản Cách mạng, không sẵn sàng ra nhập và qui phục nhà thờ chính qui và chịu sự kiểm soát của nhà thờ ba độc lập. Điều đó quả là đúng như vậy. Yun nói:"Những người giảng Tin lành của chúng ta hoàn toàn khác với những người của

nhà thờ ba độc lập được nhà nước ủng hộ. Thật ra, điều đó không phải là không bình thường, nếu công an lên án chúng ta là người gây mất trật tự trong xã hội và giảng một Chúa Giê Xu khác với của nhà thờ chính qui. Chúa Giê Xu đã nói với chúng ta: "Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ gì. Hãy giảng lời của sự sống cho đồng bào Trung Quốc, cho dù vì thế mà các con có phải chịu đựng." 

Trong những năm đầu tiên, sau khi tin Chúa, Yun bị bắt giam nhiều lần, nhưng anh luôn luôn chạy thoát được trước khi công an phát hiện ra. Vào một đêm anh và vợ Deling cùng một vài cơ đốc nhân đang trên đường đến một buổi nhóm quan trọng. ở một bến xe buýt, Yun bị một anh công an phát hiện, anh ta đã nắm lấy cổ áo Yun và nói: " Hãy đi theo tao!". Đồng thời anh công an đã túm chặt túi xách của Deling và Kinh Thánh của cô. Bỗng nhiên, Yun nghe rất rõ tiếng Đức Thánh Linh bảo anh: " Chạy đi!". Yun phản ứng bằng một giọng kêu to: "Chạy đi!". Đồng thời anh đã giật mình khỏi viên công an. Anh đã có thể bỏ xa viên công an một quãng, trước khi nó nhận thấy điều gì vừa mới xảy ra. Sau đó anh công an đã hô hoán: " Hãy giúp với! Bắt tên gián điệp lại!". Những người có mặt quan sát sự kiện một cách sợ hãi và đôi chút sửng sốt. Yun và Deling đã chạy thoát được. 

Đáng tiếc là viên công an đã giật được túi sách tay của Deling. Bên cạnh những thứ khác, công an còn tìm thấy những địa chỉ mà họ định đi thăm. Nên công an đã tức tốc đi khám xét tất cả những nơi đó. Tuy họ không thể tìm thấy Yun, nhưng thay vào đó thì chúng bắt giam rất nhiều người lãnh đạo thuộc linh tại địa phương. 

7. Lại chạy trốn "Đức Chúa Trời của Phi-e-rơ là Đức Chúa Trời của ngươi" 

 

Vào năm 1983, chính phủ Trung Quốc tiến hành một cuộc thanh tẩy những thế lực mà họ gọi là những kẻ làm " ô nhiễm tinh thần". Chính phủ tuyên bố rằng kể cả những " tà giáo nguy hiểm". Nhưng những tiêu chuẩn để họ qui cho là những "tà giáo nguy hiểm" đó là gì? Điều bất hạnh là tất cả những hội thánh tư gia ngoài phạm vi nhà thờ ba độc lộc đều bị nhà nước liệt vào đó và bị coi là "những kẻ làm ô nhiễm tinh thần". 

Trong toàn đất nước những cơ đốc nhân bị bắt giam và kết án nặng. Cuộc truy quét này cũng đánh vào Yun, những bạn bè đồng lao và những cộng tác viên của anh ở tỉnh Henan. Vào dịp đó Yun có linh cảm sẽ có điều gì đó trầm trọng sảy ra. Vào một ngày kia, anh cầu nguyện với nhiều người bạn cho sự kêu gọi của Đức CHúa Trời đối với đời sống và sự phục vụ của mình. Những bạn bè đã nói cho anh biết rằng họ đã nhận được một lá thư của các cơ đốc nhận ở Shaanxi, một tỉnh phía tây Henan. Họ xin có người đến chỗ họ để giúp đỡ thành lập những hội thánh mới và đào tạo những giáo sĩ truyền giảng tin lành. Một trong những người bạn đã nói với anh rằng nhiệm vụ đến Shaanxi chỉ có thể dành cho anh vì anh đã được kêu gọi đi về phía tây để giảng tin lành và làm chứng nhân cho Chúa. Yun nói rằng sẵn sàng lên đường. 

Vào một buổi tối trước khi lên đường, anh cầu nguyện lâu với các bạn mình. Thình lình, có một khải tượng tối tăm, kinh khủng ập đến anh. Một con quái vật có gương mặt rùng

rợn xông vào anh. Nhưng lập tức Yun kêu to "Halêlugia! Chúng ta đã thắng bởi huyết Chúa Giê Xu! Chúa Giê Xu là Đấng chiến thắng!" Khi khải tượng đi qua, những người khác hỏi anh, có điều gì vậy. Yun nói với họ là có một con quái vật đến định quật anh xuống đất và muốn ngồi trên anh. "Nó tìm cách dùng tay bịt miệng tôi lại. Sau đó gần bị nghẹt thở, tôi thấy có một thiên sứ bay đến gần tôi. Tôi dùng hết sức chọc ngón tay vào mắt con quái vật. Nó ngã xuống nền nhà và tôi cùng với thiên s ứ bay đi." 

Vào ngày hôm sau, Yun chuẩn bị lên đường, lần này đi bằng xe buýt đến Shaanxi. Những người lãnh đạo thuộc linh địa phương đã nhóm lại ba ngày trên ngọn đỉnh núi của tỉnh. Vào ngày thứ hai, Yun bị mất giọng và phải nghỉ ngơi. Anh được đưa đến một nhà gần chỗ nhóm. Nên anh đã nằm nghỉ. Sầm! cánh cửa phòng bị đánh tung, có ba công an xông vào và trói Yun bằng sợi dây. Khi họ vừa định ra khỏi phòng, họ khám phá ra một thập tự giá màu đỏ bằng gỗ ở trên tường. ở đó ghi: "Đức Chúa Trời yêu thương tất cả mọi người". Những công an đã cười khoái trá - và họ đã có một sáng kiến! Có thể chúng ta sẽ buộc cây thập tự giá này vào sau lưng của Yun. Người chủ nhà đến gần và nói cho những công an là anh không làm điều gì xấu và các ông hãy bắt mình thay cho Yun. Nhưng công an đã trả lời ông bằng những cú đạp và những đòn đấm đá. 

Tất cả những điều đó đã xảy ra trong một khu rừng núi tương đối hẻo lánh. Những dân cư ở đây có rất ít mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Họ chưa một lần nào thấy một giáo sĩ đến thăm. Nên họ kinh ngạc khi thấy những công an với người khách lạ này- vì trông thấy một cây thập tự giá lớn màu đỏ trên lưng anh. Nhiều người đã đi theo. Đi đầu có một xe Ô-tô chạy chầm chậm, có một cái loa cứ lặp đi lặp lại: "Người này là người ở Henan, đã nói về Chúa Giê Xu. Hắn đã làm hại đến trật tự xã hội và qua đó gieo rắt nhiều điều thậm tệ, và chúng ta phải trừng trị nó nặng nề." 

Và họ đã làm như vậy- họ bắt đầu đấm đá anh túi bụi, từ mọi phía xông vào đạp anh. Yun ngất đi. Trong chốc lát, khuôn mặt anh đã bê bết máu. Khi anh nhìn lên , anh thấy mọi người đi dọc theo phố chợ. Họ đã khóc vì thương cho anh đã bị hành hạ kinh khủng như vậy. 

Khi đến đồn công an, anh bị lôi vào trong một phòng hỏi cung rộng, có cửa sổ bằng chấn song và cửa chính cài then. Đức Thánh Linh đã nhẹ nhàng nhắc anh nhớ lại: " Cha của con sẽ che chở con". Có hai sĩ quan bắt đầu cuộc hỏi cung Yun giải thích cho họ rằng anh là người Henan. Sau khi đã trả lời những câu hỏi cơ bản của họ anh chỉ còn nhấp môi trả lời và nhìn chăm chăm vào viên công an. 

Những cán bộ cho rằng anh bị điên và ngoài sân đã có những người tò mò tập trung lại và chăm chú nhìn qua cửa sổ, giống như họ là những khán giả xem một vở kịch sân khấu. Một người công an đã ra khỏi phòng để gọi điện hỏi công an ở Henan về Yun. Sau đó viên công an khác cũng ra khỏi phòng. 

Bây giờ Yun còn lại một mình Đức Thánh Linh nói với Yun: " Đức Chúa Trời của Phi-e-rơ là Đức Chúa Trời của con". Lập tức anh nhớ đến chỗ thiên sứ đã mở cửa tù cho Phi-e-rơ ra sao, Yun bị trói bằng nhiều sợi dây, nhưng một vài sợi bây giờ đã tung ra

một cách kỳ lạ, chỉ còn tay anh là bị trói. Nhưng anh có thể đứng lên và đi ra cửa, không khoá. Anh dùng miệng tháo then cài ra và mở cửa. Sau đó anh đi qua đám người trong sân về phía bắc của đồn công an. Anh suy nghĩ tiếp tục rằng Huyết của Chúa Giê Xu che chở mình. Không ai thấy anh. Giống như là anh đang tàng hình vậy. Nhưng cuối cùng, anh thấy một nhà tắm và vào đó, để cởi dây trói ra. Đôi tay anh tê cứng và bị trói lâu. Làm sao anh có thể vượt qua tường và chạy chốn được? Khi được Đức Thánh Linh dẫn, anh đã vận dụng uy quyền trong Đấng Christ và truyền lệnh cho tay và chân hãy bình thường trở lại. trong nháy mắt như có phép là xảy ra trong lòng và thân thể anh. Anh nhận thấy rõ ràng rằng Đức Chúa Trời của Phi-e-rơ cũng là Đức Chúa Trời của mình. 

Bằng một quỳên năng siêu nhiên giống như có một thiên sứ nâng anh lên vậy, anh đã nhảy lên bức tường cao mà trên đỉnh có đầy những mảnh chai nhọn chĩa lên, và từ đó nhảy xuống phía bên kia. Bên đó có một đường mòn lúc đó trời đã chiều. Anh đi một lúc lâu như vậy trong bóng tối anh có đi qua nhiều ngọn đồi và một con sông. Sau vài tiếng anh nghe thấy có người gọi tên mình. Anh mới biết rằng, người gọi anh là một cơ đốc nhân ở vùng đó. Anh có tham dự buổi nhóm và đã ra về trước khi Yun bị công an bắt. Bây giờ, anh đang bón phân cho nương rẫy của mình . Anh dẫn Yun đến nơi có mấy anh em đàng nhóm lại. Họ đi hết hai tiếng đồng hồ mới gặp được những người đó, họ đang than khóc và cầu nguyện: họ đã cầu nguyện cho Yun. Rõ ràng họ đã cầu nguyện cho Yun kể từ khi anh bị bắt và xin Đức Chúa Trời cho anh được thả ra. Khi anh đứng giữa họ , hầu như họ không tin vào mắt mình. Những điều Yun đã thấy trong khải tượng đi về hướng tây, bấy giờ đã hiện ra. Con quái vật đã thua cuộc. Đức Chúa Trời đã giải phóng anh khỏi tay những kẻ ác bằng phương cách kỳ diệu. Những anh em đã giúp anh lau vết thương. Sau đó anh đã chia tay họ để tiếp tục đi truyền giảng, dạy dỗ và lại kinh nghiệm sự chạy chốn liên tục. 

8. Hãy hướng nhìn về Giê-ru-sa-lem 

Yun nói: "Trong những ngày này, tôi đi giảng và thường xuyên phải chạy trốn, Đức Chúa Trời đã an ủi tôi rất nhiều và luôn luôn giúp đỡ tôi. Nên tôi cũng có thể an ủi những người khác và giục lòng những người cộng tác với tôi. "Họ đã cùng nhau ban phát sự an ủi, cùng nhau động viên và cầu nguyện. Bằng cách đó mà thân thể của Đấng Christ ở đó cùng nâng đỡ nhau. Thân thể đó giống như một đội quân ra trận, để phá huỷ,đẩy lùi ma quỉ và loan báo Vương Quốc Đức Chúa Trời. Đối với các nhà truyền giảng, tuy nhiên điều đó có nghĩa là phải chia lìa gia đình, chịu sự bắt bớ, nhục hình và đánh đập thường xuyên. Nhưng bất chấp tất cả họ vẫn vui mừng hớn hở trong Đức Chúa Trời, là Đấng ở với mình và họ kinh nghiệm mối tương giao thật với các anh em ở trong sự phục vụ là gì. 

Có vô số những lời tiên tri, về những địa phận phải được rao truyền Tin lành đến. 1982 và 1983 ngọn lửa tin lành đã bùng cháy bằng quyền năng lớn lao ở các tỉnh Schaanxi và Hubei. Cũng trong thời gian đó thì làn sóng bắt bớ càng khốc liệt . Những người truyền giảng tin lành ở Trung Quốc thường sử dụng xe đạp để đi từ nơi này đến nơi khác. Năm 1982 Yun cùng với một vài anh em cộng tác viên khác đã đạp xe đi đến phía nam đến tỉnh Hubei. Một người trong số họ có Ding được Đức Thánh Linh ban cho

nhiều bài hát. Một trong những bài hát đó là: 

" Tây tiến đoàn quân ngẩng cao đầu. 

Nhìn những cánh đồng mênh mông hoang vắng 

Trái tim Chúa ngày ngày phiền muộn 

Ai sẽ đi cho Chúa? 

Mạch máu sôi cuồn cuộn 

Thập tự giá cùng tôi 

Hãy tiến lên, đi cứu những con chiên lạc!" 

Quan trọng là tiếp tục đi về hướng tây. Trong bài hát này ý muốn của Đức Chúa Trời được diễn tả về phương hướng rõ ràng. Họ cần phải nhìn về phía tây, hướng Giê-ru-sa-lem. Trong bài hát cô tín đồ trẻ đã nói lên những gì Đức Chúa Trời đã giao thác cho họ. Yun cảm nhận là Đức Chúa Trời đã cho anh có cơ hội được kể cho những người bạn đồng lao về những điều này: "Bằng quyền phép ít ỏi mà chúng ta có, chúng ta phải theo gương hôi thánh Phi-la-đen-phi-a, không quản ngại truyền bá Tin lành. 

Khi con số những tín đồ gia tăng, thì Sa- tan cũng tiếp tục vở cũ của nó. ở vùng giáp ranh biên giới giữa Henan và Hubei có nhiều người truyền giảng Tin lành, bị bắt. Công an khám xét nhiều người qua lại, ở những chiếc xe buýt và xe lửa. Những điều đó không ngăn được Yun và những bạn đồng nghiệp của mình, đi truyền rao tin lành. Họ thường hát bài hát sau: 

"Đứng lên đi, bước theo Chúa, không hề nhìn lại. 

Đứng lên đi, bước theo Giê- xu, cùng dấn thân, 

không hề quay lại. 

Ai cầm cày mà không ngoái lại đằng sau 

Đó là người đáng cho Nước Trời." 

Công an bộ nội vụ càng tăng cường những biện pháp phòng chống nhà thờ tư gia trong toàn tỉnh Hubei. Đâu đâu cũng thấy tấm áp-phích đề khẩu hiệu đả đảo nhà thờ tư gia. Những trạm phóng thanh tuyên truyền mọi nơi rằng tất cả những người truyền giảng Tin lành trái phép ở tỉnh Henan cần phải bị bắt. 

Đức Chúa Trời đã giải phóng anh khỏi tay những kẻ ác bằng phương cách kỳ diệu. Những anh em đã giúp anh lau rửa những vết thương. Sau đó anh đã chia tay họ để

tiếp tục đi truyền giảng, dạy dỗ, và lại kinh nghiệm sự chạy trốn liên tục. 

 

8. Hãy hướng nhìn về Giê-ru-sa-lem 

Yun nói, “Trong những ngày này, tôi đi giảng và thường xuyên phải chạy trốn, Đức Chúa Trời đã an ủi tôi rất nhiều và luôn luôn giúp đỡ tôi. Nên tôi cũng có thể an ủi những người khác và giục lòng những người cộng tác với tôi.“ Họ đã cùng nhau ban phát sự an ủi, cùng nhau động viên và cầu nguyện. Bằng cách đó mà thân thể của Đấng Christ ở đó cùng nâng đỡ nhau. Thân thể đó giống như một đội quân ra mặt trận, để phá huỷ những bộ sậu của ma quỉ và loan báo Vương quốc Đức Chúa Trời. Đối với các nhà truyền giảng, tuy nhiên điều đó có nghĩa là phải chia lìa gia đình, chịu sự bắt bớ, nhục hình và đánh đập thường xuyên. Nhưng bất chấp tất cả, họ vẫn vui mừng hớn hở trong Đức Chúa Trời là Đấng ở với mình, và họ được kinh nghiệm mối tương giao thật với các anh em ở trong sự phục vụ là gì. 

Có vô số những lời tiên tri, về những địa phận phải được tin lành ra truyền đến. 1982 và 1983 ngọn lửa tin lành đã bùng cháy bằng quyền năng lớn lao ở các tỉnh Schaanxi và Hubei. Cũng trong thời gian đó, thì làn sóng bắt bớ càng khốc liệt. Những người truyền giảng Tin lành ở Trung Quốc thường sử dụng xe đạp, để đi từ nơi này đến nơi khác. Năm 1982, Yun cùng với một vài anh em cộng tác viên khác đã đạp xe đi đến phía nam, đến tỉnh Hubei. Một người trong số họ, cô Ding, được Đức Thánh Linh ban cho nhiều bài hát. Một trong những bài hát đó là: 

“Tây tiến đoàn quân ngẩng cao đầu, 

Nhìn những cánh đồng mênh mông hoang vắng. 

Trái tim Chúa ngày ngày phiền muộn. 

Ai sẽ đi cho Chúa? 

Mắt chúng con lệ tuôn rơi. 

Mạch máu sôi cuồn cuộn. 

Thập tự giá cùng tôi. 

Hãy tiến lên, đi cứu những con chiên lạc!” 

Quan trọng là tiếp tục đi về phía tây. Trong bài hát này ý muốn của Đức Chúa Trời được diễn tả về phương hướng rõ ràng. Họ cần phải nhìn về phía tây, hướng Giê-ru-sa-lem. Trong bài hát cô tín đồ trẻ đã nói lên những gì Đức Chúa Trời đã giao thác cho họ. Yun cảm nhận là Đức Chúa Trời đã cho anh có cơ hội được kể cho những bạn đồng lao về những điều này: “Bằng quyền phép ít ỏi mà chúng ta có, chúng ta phải theo

gương Hội Thánh Phi-la-đen-phi-a, không quản ngại truyền bá Tin lành cứu người”. 

Khi con số những tín đồ gia tăng, thì Sa-tan cũng tiếp tục vở cũ của nó. ở vùng giáp ranh biên giới giữa Henan và Hubei có nhiều người truyền giảng Tin lành bị bắt. Công an khám xét nhiều người qua lại, ở những chiếc xe buýt và xe lửa. Nhưng điều đó không ngăn được Yun và những bạn đồng nghiệp của mình, đi truyền rao Tin lành. Họ thường hát bài hát sau: 

“Đứng lên đi, bước theo Chúa, không hề nhìn lại. 

Đứng lên đi, bước theo Giê-xu, cùng dấn thân, 

không hề quay lại. 

Ai cầm cày mà không ngoái lại đằng sau, 

Đó là người xứng đáng cho Nước Trời”. 

Công an Bộ nội vụ càng tăng cường những biện pháp phòng chống nhà thờ tư gia trong toàn tỉnh Hubei. Đâu đâu cũng thấy những tấm áp-phích đề khẩu hiệu đả đảo nhà thờ tư gia. Những trạm phóng thanh tuyên truyền mọi nơi rằng tất cả những người truyền giảng tin lành tráI phép ở tỉnh Henan cần phải bị bắt. 

Thời tiết mà họ chịu dãi dầm, tương ứng với sự bắt bớ đang đợi họ. Một cơn gió lạnh giá thổi từ miền Si-bi-ri tràn vào phía bắc Trung Quốc. Nhiều người thường vẫn hay che giấu những người truyền giảng Tin lành, cũng bị bắt. Cho đến bây giờ, những người truyền giảng Tin lành vẫn thường được hết lòng đón tiếp trong những ngôi nhà đơn sơ, để được chu cấp đồ ăn và chỗ ngủ. Nhưng bây giờ nhiều người đã sợ hãi và lo cho sự an toàn gia đình mình. ở một vài làng, những người truyền giảng Tin lành không đến được, vì cớ sợ sự tàn bạo của công an đối với những người đã giúp đỡ họ. 

Có một phụ nữ đã quì trước họ và van nài họ hãy ra đi. “Nhà chúng tôi không thể tiếp nhận các anh em được, xin hãy đi đến một địa phương khác”. Yun rưng rưng nước mắt hỏi bà, có thể đưa cho họ một cái chăn để họ chống lạnh được không? Họ nhất thiết cần cái gì đó để chống lại cơn gió bấc lạnh giá. Nhưng người phụ nữ sợ hãi và không hề giám đưa cho họ thứ gì, sợ rằng công an phát hiện được và tìm ra tung tích của cái chăn. Những người truyền giảng Tin lành không tìm được nơi dừng chân. Trong những đêm tiếp theo, họ tìm cách chống lại gió lạnh bằng cách vào trong rừng sâu – gần bị đông lạnh, đói khát và chỉ ăn mặc sơ sài. 

Trong đêm lạnh, gió rít, họ hát những bài ca, để sưởi ấm cho nhau. Một trong những phụ nữ đã tìm được chỗ náu mình trong một cái chòm rơm. Yun và các anh em khác náu mình trong một bụi rậm gần hồ nước. Có đỡ hơn một chút, nhưng họ hoàn toàn bị phó mặc cho sự lạnh giá. Nhiệt độ càng giảm, cơn gió càng lạnh. Không khí lạnh tràn vào giống như những cây kim sắt, xuyên thấu tận bên trong, qua những kẽ hở quần áo của họ. Hai người bạn đã ôm chặt vào nhau để tránh lạnh. Khi họ nằm ở đó như vậy,

răng đánh cầm cập, đói lả, họ đã cầu nguyện cho đồng bào mình. Cho dân tộc mình, cho những người lãnh đạo Đất nước.. 

“Chúa ơi, chúng con cầu nguyện, xin hãy thương xót dân tộc Trung Quốc. Vì cớ huyết của Ngài, xin hãy thương xót đất nước chúng con”. 

Khi họ cầu nguyện và hát như vậy. Yun cảm thấy một sự giận dữ và cay đắng dâng lên trong lòng. Cuối cùng anh kêu lên: “Đức Chúa Trời của con ơi, con có mẹ và vợ ở nhà. Tại sao Ngài lại để con như thế này ?” Nhưng Ngài đã im lặng, mặc dù Yun đã trút hết sự bực tức của mình. 

Anh muốn về nhà. Nhưng anh vẫn đi tiếp tục. Dần dần anh mới vỡ lẽ ra rằng, Đức Chúa Trời đã dùng những nghịch cảnh và sự khổ đau, để nắn dựng anh. Qua đó anh mới có thể vượt qua được những tình cảm và sự suy nghĩ cay đắng của mình. Và một bài hát mới nảy sinh trong ý tưởng và tâm trí anh: 

“Tôi còn sống đến chừng nào, 

tôi sẽ yêu mến chỉ một mình Ngài 

Bằng tất cả trái tim và sức lực 

Và bằng tất cả khả năng của tôi 

Tôi sẽ chỉ yêu mến một mình Chúa tôi 

Cho dù biến cố gì, tôi chỉ yêu mến một mình Chúa của tôi. 

Bằng những lời nói và việc làm của mình 

Bằng cả đời sống tôi 

Tôi sẽ chỉ yêu mến một mình Chúa của tôi”. 

Những hình ảnh về sự Chúa Giê-xu bị đóng đinh ra sao, đến trong tâm trí anh. Anh nghe thấy tiếng Chúa nói: “Ta đã yêu con bằng tình yêu đời đời và sẽ mãi mãi không bao giờ lìa bỏ con”. 

Yun tự ghi nhớ tất cả những bài hát và khải tượng anh nhận được. Anh luôn luôn hình dung trước mắt những gì Chúa đã nói cho anh và đã làm gì cho anh. Vì lý do đó, ngày hôm nay anh có thể nhớ rõ tất cả những điều đó. 

Yun thường nhắc đến câu Kinh Thánh trong Giăng 12, 26 “Ai muốn hầu việc ta, thì phải theo ta. Ta ở đâu, người sẽ ở đó với ta. Ai hầu việc ta, Cha ta ắt tôn quí người”. 

 

9. Càng khó khăn gian khổ hơn 

Trong tâm linh, Yun cảm thấy rằng có sự đau đớn đang chờ trước mắt. Sự đau đớn đó sẽ đến với anh để chuẩn bị và trang bị cho anh cho sự kêu gọi lớn mà Đức Chúa Trời đã dành cho. 

Có một người anh em đã cầu nguyện cho anh và nói tiên tri rằng: “Hỡi con trai ta, cho dù những hoàn cảnh xảy ra, hãy nhìn lên Chúa Giê-xu. Hãy ngợi khen Ngài và dâng vinh hiển về cho Ngài. “Yun đã triệu tập các nhân sự lãnh đạo nhà thờ tư gia ở miền nam Henan và miền bắc Hubei. Trong cuộc họp, Yun cảm nhận được sự dẫn dắt đã đọc trong Công vụ các sứ đồ 20, 22-38. ở đó Sứ đồ Phao-lô thông báo rằng mình phải lên Giê-ru-sa-lem, dù Đức Thánh Linh đã cho ông biết xiềng xích, hoạn nạn và bắt bớ đang đợi ông. Khi anh đọc hết đoạn, tất cả đều khóc nức nở. Nhiều người nói tiên tri rằng điều đó sẽ xảy ra trong thời gian này. Tất cả đều dự báo rằng sẽ có sự đau đớn ở trước Yun. Vào ngày hôm sau, Yun và vợ Deling ra bến xe về hướng bắc. ở bến xe, họ nhìn thấy một tờ áp-phích truy nã anh. Đọc thấy điều đó, làm cho Yun có một cảm giác kỳ lạ, bây giờ anh là một người bị công an truy lùng. Dưới tấm ảnh của anh, có lời giải thích anh là một phần tử tội phạm hình sự nguy hiểm ra sao. Công an gọi anh là một tên cầm đầu một nhóm phản cách mạng. Anh bị coi là kẻ gây rối, xúi giục những cơ đốc nhân vi phạm luật pháp. Yun đeo kính râm. Vợ anh nghe thấy những người đi đường bàn tán xôn xao về Yun, là người bị truy nã. Người nào có thể chỉ cho công an Yun ở đâu, chắc chắn người đó sẽ nhận được một cục tiền. Trên đường về, họ gặp một phụ nữ đi thăm chồng mình trong tù. Anh bị bắt vì đã giảng Tin lành. Người chồng đã bị hành hạ ghê gớm. Người vợ hầu như không thể nhận ra chồng mình, vì cớ sự tra tấn dã man trong tù. Anh gầy gò và rất ốm yếu. Yun và Deling đã khóc và cầu nguyện cùng với người phụ nữ đó. Thật xúc động quá, nên Deling đã đưa cho chị toàn bộ số tiền của mình. 

Khi họ về đến nơi thuộc vùng đông bắc Henan, họ nhận thấy tình hình ở đó thật là căng thẳng. Trong tâm linh, Yun tiếp tục hát, “bây giờ tôi được Đức Thánh Linh giục giã đến Giê-ru-sa-lem. Tôi không biết điều gì sẽ đợi tôi ở đó, nhưng tôi chẳng coi sự sống mình là quí, miễn là chạy cho xong cuộc chạy mà Chúa Giê-xu đã ban cho tôi, là một chứng nhân về ân điển của Đức Chúa Trời”. 

Trong vùng đó, chỗ nào cũng trông thấy những khẩu hiệu vô thần. Trên một tờ áp-phích có thể dễ dàng đọc thấy sự lùng bắt những cơ đốc nhân và đòi hỏi phải tiêu diệt nhà thờ tư gia. Nhưng những anh chị em trong vùng này không hề sợ hãi. Mặc dù gặp nguy cơ có thể bị bắt, và bất chấp mọi nghịch cảnh, họ sẵn sàng che giấu những người truyền giảng Tin lành. Một người trong số đó, là một người cầu nguyện sốt sắng đã nói tiên tri rằng “trong ba ngày tới sẽ có một số người bị bắt và thậm chí sẽ bị tử đạo”. 

Qua sự cầu nguyện và những bài ca, họ giữ vững nhuệ khí. Họ thật đúng là những chiến sĩ không chịu bỏ cuộc và muốn bằng mọi giá làm trọn cuộc chạy của cuộc đời mình. Trong lời chia sẻ Yun nói với họ về sự chịu khổ và sự tử đạo vì cớ Tin lành. Mỗi người đều đồng lòng và cùng hòa nhịp hát: “Tôi sẵn sàng chịu chết vì Chúa”. Yun và vợ

đã quyết định trở về nhà để thăm viếng các gia đình nhân sự có người thân vừa bị bắt và an ủi họ. 

 

10. Khi họ đuổi bắt các ngươi trong thành này, hãy chạy trốn sang thành kia ( Ma-thi-ơ 10: 23 ) 

Đó là vào năm 1984, bóng đêm đang bao trùm lên thị trấn Heping, giáp ranh với tỉnh Henan và Hubei. Trời tối đen như mực đến nỗi nếu thò tay ra ngoài bạn cũng không thể nhìn thấy những ngón tay của mình. Cơn gió lạnh từ Si-bi-ri thổi về hất những đống rơm vào mặt hai người đang đi đường. Nhiều con chó trong đường làng đang sủa inh ỏi vào họ. Hai người đã núm chặt cổ áo lại và đi nhanh xuống con đường đến một ao cá, ra khỏi làng. Một người trong số đó là anh Ming, từ thành phố ‘F’, ngoài ba mươi tuổi và người kia là Yun từ thành phố ‘G’ đang tuổi đôi mươi. Hai người đều không có trình độ học vấn, và chất phác, nhưng họ được Đức Chúa Trời lựa chọn. Họ đi từ làng này sang làng khác và từ thị trấn này sang thị trấn khác. Hàng ngày, họ đổ nước mắt để khuyên giục mọi người hãy ăn năn trở lại cùng Chúa. Họ an ủi và động viên các anh chị em ‘tỉnh thức và cầu nguyện và yêu mến Chúa hết lòng, vì ngày của Chúa đã đến gần’. Họ đầy dẫy quyền năng và ân điển của Chúa, và những dấu kỳ phép lạ đã đi theo họ. Bất cứ nơi nào họ đi, có nhiều người ăn năn và tin Chúa. Những Hội Thánh hâm hẩm được phấn hưng và những Hội Thánh ở miền nam Henan được gây dựng. 

Hội Thánh vừa mới được kinh nghiệm sự phấn hưng, thì một làn sóng bắt bớ đã tràn đến. Chính quyền với lý do là loại trừ ‘tà giáo hay la hét’. Nhiều người đã bị bắt, truy nã, làm hại và bị kết án nặng. Các anh em đã phải chạy trốn khỏi nhà để tránh bị bắt, truy nã, làm hại và bị kết án nặng. Chạy trốn khỏi nhà để tránh bị bắt và tiếp tục công việc Chúa. Trong số những người bị truy nã có hai người then chốt, anh Minh và Yun. Họ lẩn tránh những sự lùng bắt của công an Bộ nội vụ và làm tiếp tục, không ngưng chỉ công việc mà Chúa đã giao cho họ. 

Vào ngày đó, họ đến thị trấn He Ping giáp ranh với tỉnh Hubei. Họ định đi thăm các anh chị em, không ngờ rằng tình hình ở đây rất căng thẳng. Vừa vào buổi sáng hôm đó, anh Enshen đã bị kết án và Hội Thánh phải đối diện với sự bắt bớ lớn. Vì thế các anh chị em đã sợ hãi và không có tín đồ nào dám tiếp nhận Ming và Yun vào buổi tối hôm đó. Lúc ấy trời đã tối, hai anh em không thể tìm được chỗ nghỉ cho đêm đó. Lính tuần tra đi lại thường xuyên. Nên họ phải rời khỏi nơi đó. Họ quyết định nghỉ đêm tại một ao cá ngoài trời thị trấn. Khi bóng đêm càng buông xuống, ngọn gió càng dữ dội. Trời càng trở nên lạnh hơn và hai người đã quì bên bờ ao, răng đánh cầm cập. Họ chỉ còn biết ôm chặt nhau lại và kêu cầu với Chúa, “Chúa ơi, hãy cất đi những sự ngăn trở khỏi Trung Quốc, hãy thay đổi hoàn cảnh, hãy thương xót dân tộc chúng con và cứu nhân dân chúng con…” 

Yun được cảm động hát bài ca này: 

“Chúa đã cho phép tôi được sống vì tình yêu Ngài. 

Ngài dùng trái tim tôi, sức lực và khả năng của tôi, 

vì tình yêu Ngài, 

Cho dù điều gì xảy ra, chỉ vì tình yêu Ngài, 

Trong mọi hành động và lời nói, chỉ vì tình yêu Ngài, 

Trong lúc bị lao đao để học từ Chúa, vì tình yêu Ngài, 

Trong lúc bị hoạn nạn để có sự vui mừng, vì tình yêu Ngài, 

Cho dù tôi nghèo đói hay no đủ, vì tình yêu Ngài, 

Tôi thuộc về Ngài dù sống hay chết, vì tình yêu Ngài, 

Vì Chúa đã phó sự sống cho tôi, 

Tội lỗi tôi đã được tha, 

Tôi đã phó dâng đời sống tôi cho Chúa, 

Vì tình yêu Ngài”. 

Vào khoảng bốn giờ sáng, hai người không thể chịu được cơn lạnh. Bỗng nhiên Yun thấy một khải tượng. Anh thấy các cơ đốc nhân ở đất nước này đâu đâu cũng bị bắt bớ, giam cầm và nhiều người bị xiềng xích lao tù. Yun bèn nói với Ming: “Chúng ta hãy nhanh chóng rời khỏi đây”. Không đợi đến lúc trời sáng, họ tiếp tục đi đoạn đường trong đêm tối. 

11. Người phải chịu đau đớn vì Danh ta biết dường nào (Công vụ các sứ đồ 9:16) 

Sau khi Ming và Yun rời khỏi thị trấn Heping, họ đến huyện ‘A’ ở tỉnh Henan. Khi đi đường, họ khóc và hát trong Công vụ các sứ đồ 20, 22 – 24: 

“Kìa, nay bị Đức Thánh Linh ràng buộc, tôi đi đến thành Giê-ru-sa-lem, chẳng biết điều chi sẽ xảy đến cho tôi ở đó; duy Đức Thánh Linh đã bảo trước cho tôi rằng từ thành này sang thành khác dây xích và hoạn nạn đương đợi tôi đó. Nhưng tôi chẳng kể sự sống mình làm quí, miễn chạy cho xong việc đua tôi và chức vụ tôi đã lãnh nơi Đức Chúa Jêsus, để mà làm chứng về Tin lành của ơn Đức Chúa Trời”. 

Tình hình ở huyện ‘A’ rất căng thẳng. Dọc đường, trong làng, đâu đâu người ta cũng có thể thấy những tấm áp-phích chống Chúa, những hình ảnh tấn công nhà thờ và những tấm ảnh có đăng tên những người mà chính quyền muốn bắt giam. Những anh chị em ở đó khác với những người ở thị trấn Heping. Họ thực sự yêu mến Chúa và những đầy

tớ của Chúa và họ sẵn sàng chịu chết, nếu tiếp đãi những anh chị em đang bị truy nã. 

Những nhân sự ở huyện ‘A’ đã triệu tập một buổi nhóm vào ngày mười lăm tháng mười hai để động viên lẫn nhau đứng vững và đắc thắng trong hoàn cảnh khó khăn này. Anh Ming, Yun và Jian đã thay nhau giảng ở buổi nhóm này. Anh Yun đứng lên. Anh khoảng hai mươi lăm tuổi, dáng người vừa vừa và đã đi công tác phục vụ Chúa khắp nơi trong những năm qua. Người anh gầy như một que củi. Gương mặt anh thường điểm một nụ cười, ít khi buồn. Dưới đôi lông mày rậm là một đôi mắt to, tỏ ra một sự ấm áp và sức mạnh. 

Những anh chị em đã bắt đầu buổi nhóm bằng một bài hát: 

Được hy sinh vì Chúa: 

1. Kể từ khi Hội Thánh đầu tiên xuất hiện trong ngày lễ ngũ tuần, 

Những người theo Chúa đều sẵn sàng hiến thân mình. 

Hàng chục nghìn người đã hy sinh sự sống, để Tin lành được phát triển. 

Những người đó được nhận mão triều thiên của sự sống. 

 

2. Những sứ đồ đó đã yêu mến Chúa cho đến cuối cùng, 

Sẵn sàng theo Chúa trên con đường đi xuống của sự đau đớn. 

Giăng đã bị đày sang đảo Bát-mô hiu quạnh. 

Ê-tiên đã bị đám đông ném đá chết. 

 

3. Ma-thi-ơ đã bị dân tùng xẻo cho đến chết tại Ba-tư 

Mác đã chết khi hai chân bị hai con ngựa xé đôi. 

Bác sĩ Lu-ca đã bị treo cổ tàn bạo. 

Phi-e-rơ và Phi-lip và Anh-rê đã bị đóng đinh trên thập tự giá. 

 

4. Ba-thê-lê-my đã bị người ngoại lột da, 

Thô-ma đã chết ở ấn Độ khi có năm con ngựa xé tan thân thể ông, 

Sứ đồ Gia-cơ thì bị vua Hê-rốt chém đầu, 

Gia-cơ nhỏ thì bị cưa xẻ. 

 

5. Gia-cơ, anh em Chúa đã bị ném đá đến chết, 

Giu-đe thì bị trói vào cột và chết dưới làn tên. 

Ma-thi-ơ thì bị chém đầu tại Giê-ru-sa-lem. 

Phao-lô đã tử đạo dưới triều đại Nê-rô. 

 

6. Tôi sẵn sàng nhận lấy thập tự giá và bước tiếp, 

Để theo chân các sứ đồ đi trên con đường đi xuống của sự hiến thân 

Để cho hàng nghìn linh hồn quí giá có thể được cứu, 

Tôi sẵn sàng từ bỏ tất cả và làm một người hy sinh vì Chúa. 

 

 

Điệp khúc: 

“Được hy sinh cho Chúa, được hy sinh cho Chúa, tôi sẵn sàng tử đạo vinh quang cho Ngài!” 

 

Họ hát hết lòng và cả nơi nhóm lại đã rúng động. Người ta chỉ có thể nghe thấy những tiếng khóc. Yun được đầy dẫy Đức Thánh Linh và giảng bằng uy quyền lớn. Vào buổi sáng thứ ba, anh Jian đã nói tiên tri rằng, “Trong vòng ba ngày, sẽ có một vài người ở đây bị bắt vì Chúa và bị trói”. 

Vào buổi chiều hôm đó trời đổ tuyết dữ dội. Chẳng mấy chốc, có một tấm thảm màu trắng đã bao trùm lên ngọn núi. Gần đó, người ta có thể nghe thấy tiếng những cành cây gãy vì bị tuyết đè nặng. Có vài ngôi nhà xiêu vẹo trong làng không đỡ nổi đống tuyết nặng nên cũng đã đổ xuống. Ngoài trời rất lạnh, và những giọt nước đã nhanh

chóng biến thành băng đá. 

Bên trong chỗ nhóm, có một ngọn lửa bùng cháy trong lòng các anh chị em như những lời cầu thay và ngợi khen bay lên thiên đàng. 

Buổi nhóm kéo dài đến nửa đêm mới chấm dứt và mọi người đều ra về, đến nhà những anh chị em khác nhau để nghỉ. Yun và mấy anh chị em khác chưa đi được bao xa, thì có một tốp người tiến đến gần họ. Có khoảng hơn mười người cầm đèn pin sáng. Họ xông đến Yun và hét lớn tiếng. “Chúng mày làm gì ở đây?” Các anh em thấy có điều gì đó không ổn rồi, nên đã bỏ chạy. Nhưng một người trong số bọn họ đã bắt được Yun và dí roi điện vào người anh. Toàn thân thể anh bị điện giật và anh cảm thấy như bị bọ cạp cắn, hay như hàng nghìn mũi kim đâm trong tim. Anh ngã xuống tuyết, không thể động đậy được. 

Toán người đó thuộc đồn công an an ninh địa phương. Không nói một lời, họ trói chặt Yun. Thình lình, có một tiếng nói từ trên cao nói với Yun, “Ta biết” (xem Khải Huyền 2, 9) Ngay lập tức sự đau đớn và sợ hãi rời khỏi anh. 

Có người thét lên thất thanh, “Mày từ đâu đến? Mày tên gì? Có bao nhiêu người cùng với mày? Bây giờ chúng nó ở đâu? Hãy trả lời khẩn trương, nếu không chúng tao sẽ đánh mày chết”. 

Yun rất cứng rắn. Anh không quan tâm đến sự an toàn riêng mình, nhưng lo cho Ming, Jian và nhiều anh chị em nhân sự khác. Làm sao có thể báo cho họ biết được sự bắt bớ này? Anh lập tức nhớ đến Đa-vít, khi ông đã giả điên. Anh đã kêu thật to: 

“Tôi là một… người… công dân thiên quốc, sống trong làng… tin lành… Tên tôi là tạo… vật… mới. Cha tôi là Đấng… nhân… từ. Mẹ tôi là đức tin… hy vọng… tình yêu”. 

Công an bắt đầu đấm đá anh, và giận dữ nói, “Định giở trò gì thế? Chúng tao hỏi mày từ đâu đến và có những ai đi với mày!” 

Yun trả lời thật to, “Tất cả họ đều ở sau làng này”. 

“Vậy hãy dẫn chúng tao đến đó. Nếu mày không nói thật cho chúng tao biết, chúng tao sẽ lột da sống mày” những người công an an ninh doạ dẫm. 

Sau đó Yun đã dẫn công an đến đằng sau làng, la thật to, “Tôi là người công dân thiên quốc. Công an đã bắt giữ tôi” Anh đã kêu to như vậy, hy vọng các anh chị em có thể nghe thấy mình. 

Hơn mười anh chị em ở địa phương đã nghe thấy sự huyên náo và chạy ra để xem. Công an liền hỏi họ, “Chúng mày làm gì ở đây?” 

Một chị em trả lời, “Đi xem một bộ phim”. 

Khi Yun nghe thấy như vậy, anh liền nghĩ đến I. Cô-rinh-tô 4,9 và thầm nói với Chúa, “Chúa ơi, con xin Ngài giúp con có thể làm một sự phô bày thật tốt cho thế gian và thiên sứ cùng xem!” Yun lững thững bước đi chậm chạp. 

Công an quát Yun “Nhà nào vậy? Hãy khẩn trương dẫn chúng tao đến đó!”. 

Yun cố tình làm như mình bị lúng túng và giả vờ ngạc nhiên nói: “Thôi đúng rồi, không phải làng này mà là làng kia kìa”. 

Câu trả lời của anh đã càng làm cho công an tức giận, nên các anh công an đã dùng nắm đấm, chân đạp roi điện, roi da và báng súng đánh đập Yun. Nếu đó không phải là sự che chở của Chúa, chắc chắn là Yun đã bị đánh chết rồi. Khi những anh chị em đi theo Yun thấy Yun bị đánh tàn bạo như thế, họ đã bật khóc. 

Yun sợ là họ có thể bị rắc rối, nên kêu to “Tôi là người công dân thiên quốc, và không nhận ra một ai trong các người. Làm sao các người có thể nhận ra tôi?” 

Yun bị giải đến đồn công an. Anh Jian và ba anh em khác cũng đã bị bắt đến đó. Nhiều mẹ già tin Chúa đã đến, vài người phải chống gậy, không quản ngại thời tiết băng giá, để đem áo ấm, cơm và rau. Khi những người công an hỏi họ những đem thứ này cho ai, họ nói đem cho ‘những người công dân thiên quốc’. 

ở trong xà lim, Yun nghe thấy điều đó và nước mắt đã chảy vòng quanh đôi gò má anh. Tình yêu cuả các anh chị em đã làm cho lòng anh được ấm áp. ở phía bắc huyện ‘A’, nhiệt độ ít khi nào hạ xuống mười lăm độ dưới không. Chân của Yun bị tê cứng vì lạnh, toàn thân thể anh run rẩy. Còng tay càng làm cho anh đau đớn hơn, anh càng động đậy bao nhiêu, thì càng nhức nhối bấy nhiêu. Yun thấy mình giống như một con đại bàng đang dang cánh, nhưng thình lình bị bắt nhốt vào trong một lồng sắt. Anh không ngớt gọi “Giê-xu” và hát tôn vinh Chúa. 

Yun thấy trong phòng giam có một cái thúng lớn, nên anh đã giơ tay bị xiềng lên và bắt đầu gõ. Trong khi đánh trống, anh hát Thi thiên 150: 

“Ha-lê-lu-gia! Hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va trong nơi Thánh Ngài! Hãy ngợi khen Ngài trong bầu trời về quyền năng Ngài!… Hãy đánh trống cơm và nhảy múa…” 

Anh đã đứng lên và nhảy múa. Đôi cánh tay anh có cảm giác trở lại và cả thân thể cảm thấy ấm áp. Những anh lính thì thấy khó chịu. Nhưng dẫu sao, họ đã ngủ trong chiếc nệm êm, không ai muốn dậy để ngăn ‘thằng điên khùng’ đó. 

Vào buổi sáng hôm sau, Yun, Jian và ba anh em khác đã bị đưa ra sân sau. Tuyết phủ ngập đầy sân, Công an đã nới còng tay cho họ và nói rằng, “Hôm sau chúng tôi muốn xử đẹp với các anh và tháo còng tay cho. Các anh phải quét tuyết trong sân này. Nhưng đối với đứa ‘người Trời’ này, chúng tôi không những không tháo còng tay mà còn hình phạt nó nặng nề’. 

Lúc đó người cai tù đã bắt Yun phải quì xuống. Nhưng Yun nói, “tôi không quì trước ông đâu, tôi chỉ quì trước Chúa tôi, là Đức Chúa Trời tôi thôi”. 

Anh ta nói giọng mỉa mai, “Tao là Chúa của mày. Chỉ cần quì trước tao, rồi tao sẽ thả mày ra”. 

Yun nói giận dữ, “Trong Danh Chúa tôi nói, ông không phải là Chúa của tôi. Chúa của tôi ở trên thiên đàng và tôi là một người công dân ‘thiên quốc’. 

Người cai ngục đã nắm lấy cây roi điện, nói khinh bỉ, “Nếu mày là người công dân thiên quốc, thì sẽ không sợ roi điện. Vậy hãy dí tay mày vào roi điện này”. 

Anh bị các viên công an khác dùng sức mạnh bắt thò tay vào roi điện. Khi luồng điện xuyên qua thân thể, lập tức anh la lên “Chúa ơi, xin cứu con!” Cây roi điện không làm việc nữa, anh có thể cầm chặt nó và nhìn thẳng vào mặt người đã nói rằng ‘tao là Chúa’. Hắn ngậm miệng tháo mồ hôi lạnh, ném roi điện xuống chuồn thẳng. 

Ngày hôm đó, các anh em đã bị tống vào một xe tải và đưa đến nhà tạm giam của công an Bộ nội vụ, tại huyện ‘A’. Khi Yun và Jian bị đưa vào một xà lim kia, họ mới biết là, qua vụ bắt bớ này, có nhiều anh chị em đã ở đây. Vì thế, Yun đã kêu lên, “Tôi là một người công dân thiên quốc. Một người công dân thiên quốc không muốn làm một Giu-đa. Một người công dân thiên quốc phải mạnh mẽ và can đảm”. 

Có một anh em bị bắt vào và bị công an hỏi có phải là một người công dân thiên quốc không. Người đó đã từ chối, nói, “tôi là một người bình thường, không phải là người công dân thiên quốc”. Công an mới nói, “Được, vì anh là một người bình thường, nên anh sẽ được nhốt chung với một người công dân thiên quốc”. 

Khi người đó bước vào xà lim của Yun, anh đã nhìn thẳng vào mắt người đó và nói “Chúng ta cần phải nói Không! Không! Không! Với Sa-tan” Khi anh nói điều đó, anh đứng dậy, vừa lập lại, vừa viết lên tường “Không! Không! Không!”, cho đến khi đầu ngón tay rớm máu và những đường nét màu máu đỏ “Không! Không! Không! Hiện lên tường. Người anh em đó rất xấu hổ, cúi đầu xuống và buồn bã khóc. 

Các anh chị em đã đưa chăn áo ấm và tất cho Yun. Nhưng anh chỉ nhận được một cái chăn rách tươm cùng với những chữ ‘người công dân thiên quốc’ viết trên đầu. Tuy vậy, Yun cảm tạ Chúa. Họ cũng đã đưa cho anh một đôi dày đông mới nhưng người lính canh giữ anh đã tịch thu. 

Cuộc sống trong tù rất khó khăn. Mỗi bữa ăn, các tù nhân ăn những đồ ăn bằng bột khoai lang đã bốc mùi hôi mốc, trộn với vài loại rễ rau cỏ. Một lần trong tuần họ được phép ăn một bánh bao nhỏ. Sau khi Yun vào đây được ít ngày, đến bữa họ được ăn bánh bao. Anh đã hai tay cầm chiếc bánh bao nặng chừng sáu mươi gam giơ lên, và quì gối xuống cảm tạ Chuá. Khi anh quì gối xuống có một bạn tù đã giật lấy chiếc bánh bao khỏi tay anh và dấu vào trong áo mình. Yun vẫn quì gối trên nền, hai tay giơ lên. Tên trùm phòng đó thấy bánh bao đã biến mất khỏi tay anh, lập tức tra hỏi mỗi tù nhân

trong phòng. Ai nấy đều nói, không biết nó đi đâu. Tên trùm bèn báo cho phòng quản lý nhà tù, chúng đi khám mỗi tù nhân. Kết quả là cuối cùng là chúng tìm được kẻ thủ phạm. Những cai tù bèn bắt người đó phải quì gối xuống nền nhà và bắt những tù nhân khác đánh đập tàn nhẫn. Những tù nhân đó, đa số là những kẻ đập phá, chấn lột, đầy sự hận thù. Họ thường thích thú được hả hê đánh ai đó. Chúng bắt đầu đấm đá người tù nhân đó cho đến khi máu chảy ra từ mũi, mắt, mồm. Chúng xốc ngược người đó lên như một con gà quay đem nhúng vào một thùng nước tiểu, cho đến khi không còn động đậy gì nữa và người đó nằm sóng sượt giữa sàn nhà. 

Thấy người đó đã chết, Yun thấy cắn rứt và bật khóc không kiềm chế được. Anh Jian cũng thấy buồn rầu và chiều hôm đó không nuốt nổi miếng bánh. Tối hôm đó, họ đã dành cả buổi tối để cầu nguyện và kêu cầu. Vào buổi sáng hôm sau, viên cai tù xúi giục các tù nhân hãy đánh đập Yun. Điều đó đã trở thành lệ thường trong nhiều ngày. Thể lực của anh rất yếu. Làm sao anh đã có thể vượt qua những trận đòn của những tên côn đồ kia? Chúng nện Yun xuống nền nhà và đạp lên ngực và bụng anh. Yun bắt đầu nôn ra máu. Anh hầu như chỉ còn thoi thóp. Anh Jian giúp đỡ Yun, khóc nức nở. Trong số đó, có một tù nhân trẻ, có mẹ là cơ đốc nhân, nhưng người đó chưa tin Chúa. Nhiều ngày ở với Yun cùng phòng, người đó cảm thấy Yun không phải là một siêu nhân, nhưng là một con người khác thường. Người đó thấy Yun bị đánh ra sao. Chân anh bị lột trần và đỏ tấy vì lạnh. Máu vẫn chảy ra từ mồm và thân thể anh run rẩy. Người bạn tù đó không cầm được nước mắt vì thương cho Yun, và thấy lo cho tình trạng của anh nên đã dùng chiếc áo của mình để đắp cho anh. 

Kinh Thánh nói, “Phước cho những kẻ hay thương xót, vì sẽ được thương xót” (Ma-thi-ơ 5:7). Vào ngày hôm sau, họ đưa người trẻ tuổi đó ra khỏi phòng và cho phép người đó nấu ăn trong nhà bếp. Không lâu sau đó, anh được ra và đã trở thành một cơ đốc nhân. 

Công an Bộ nội vụ ở ‘A’ tra khảo Yun nhiều lần. Cho dù bị đánh đập như vậy, họ không thể moi được tin tức nào từ Yun. Nên họ đã xin sự giúp đỡ của công an các huyện, thành phố và các vùng xung quanh, đề nghị sai đưa người đến nhận dạng anh. Họ gửi đến những tấm ảnh truy nã, nhưng Yun không có trong số đó. 

Vào ngày hai mươi lăm tháng giêng, công an an ninh ở thành phố ‘B’ mang những tấm ảnh đến. Khi Yun bước vào phòng khảo tra, viên thanh tra ở thành phố ‘B’ lập tức nhận ra anh. Ông ta cười to, “Anh đã đóng vai giả điên khá lắm. Anh nghĩ rằng anh là một người rất khôn ngoan, nhưng anh không tài nào thoát được tôi đâu”. 

Yun không được cho ăn sáng. Trước khi bị đưa đến thành phố ‘B’, công an lại đánh đập anh nữa. Con mắt anh đã thâm tím, khuôn mặt sưng vù, không ai còn nhận ra, họ khoá chéo tay anh lại và còng anh thật chặt, đến nỗi kim loại cứa đứt da thịt anh. Yun nghĩ rằng chắc mình sẽ chết, và cầu xin Chúa tiếp lấy linh hồn mình. Các anh công an đưa anh đến công an Bộ nội vụ ở thành phố ‘B’. 

12. Ngài đã kiêng ăn bốn mươi ngày và bốn mươi đêm ( Ma-thi-ơ 4: 2) 

Những ai tin ta… sẽ làm những việc lớn hơn ta nữa 

(Giăng 14: 12) 

Vào ngày hai lăm tháng ba (nhằm ngày hai mươi ba tháng mười hai âm lịch), có một trận gió mạnh như cơn bão thổi tràn từ phía bắc xuống. Trong chiếc xe công an, Yun cảm thấy đau đớn quá đến mức anh không chịu đựng nổi. áo anh bị ướt đẫm máu. Đôi còng tay cứa sâu vào da thịt anh và nếu anh khẽ cử động, cũng nhức nhối như có hàng nghìn mũi kim đâm trong tim’. 

Yun nghĩ, “Đã nhiều ngày mình đã ở huyện ‘A. Để xem công an ở thành phố ‘B’ đối xử với mình như thế nào?” Khi anh suy nghĩ như thế, lời Chúa đã tác động anh mạnh mẽ: 

“Hãy yên lặng và biết rằng ta là Đức Chúa Trời… Đức Giê-hô-va Vạn quân ở với chúng ta, Đức Chúa Trời của Gia-cốp là nơi ẩn náu của chúng ta”. Thi-thiên 46, 10-11. 

Sự sợ hãi và nghi ngờ trong lòng lập tức rời khỏi anh. Anh nhận lãnh một sự ban cho tươi mới, được sức mới của Chúa. 

Khi chiếc xe đi qua những đường phố ở thành phố ‘B’, đâu đâu cũng thấy những khẩu hiệu xanh đỏ đề: “Hoan hô công an an ninh đã bắt được tên phản cách mạng Yun!” 

“Tên phản cách mạng Yun đã bị bắt giam là tin mới cho nhân dân thành phố ‘B’”. 

“Hãy quyết tâm đánh hạ tên cơ đốc nhân Yun cầm đầu bọn phản cách mạng!”. 

“Quyết tâm ủng hộ chính quyền nhân dân thành phố ‘B’ trong việc bắt giữ và triệt hạ hoạt động phản cách mạng của Yun, kẻ đội lốt tôn giáo!”. 

Những khẩu hiệu này có thể thấy bất cứ nơi nào trong hay ngoài sở công an thành phố và trang trại tạm giam. Tin mới về việc Yun bị bắt giữ đã đồn ra nhanh chóng và nhiều sĩ quan công an đã đổ xô đến để nhìn xem anh. Khi họ trông thấy đó là một người mảnh khảnh gầy gò, với một gương mặt không có gì là đặc biệt, ướt đẫm máu, mặc một chiếc áo rách tươm, tóc bết dính, thân đi trần, thì họ không thể không phá lên những tràng cười. 

Một cán bộ đã dụng ý nói “Chúng tôi có một mạng lưới bao phủ các tầng trời, không có kẽ hở nào. Nếu mày có ba đầu sáu tay đi nữa, đừng nghĩ là thoát được cánh tay dài của luật pháp chúng ta đâu! Tốt hơn hết, hôm nay mày hãy công nhận là bị thua trận. Những người bạn mày tên là … là … đã bị rơi vào tay chúng tao rồi. Hội Thánh của chúng mày đã kết thúc và ngày hôm nay tất cả chúng mày đã bị thất bại!”. 

Khi nghe thấy những lời đó sự phẫn nộ sôi lên trong lòng anh. Nhưng không để bị làm trò cho họ anh chỉ cười và nói, 

“Tin lành đã được rao truyền ra mọi nơi ở dưới trời và chân lý đã đi vào trong hàng vạn

con người”. 

Phiên toà của Yun bắt đầu ngay. Vị chánh án nói khinh bỉ với Yun “Anh Yun, hôm nay anh đã nếm mùi đủ rồi. Anh phải thấy rằng tội phạm anh trầm trọng ra sao. Nhưng chính sách của đảng là đối xử khoan hồng đối với những ai thú nhận tội lỗi và trừng trị thẳng tay những người nào ngoan cố. Hôm nay, chính quyền đưa ra một lối thoát cho anh. Anh phải khai báo thành thật tất cả những hoạt động trong thời gian những năm vừa qua, những chi tiết về tổ chức của anh về việc anh đã chống đối sự lãnh đạo của đảng ra sao. Sau đó anh sẽ được thả tự do và được phép về nhà với gia đình và mẹ anh và được ăn tết đón xuân cùng với họ.” 

Yun lưỡng lự trả lời “Kìa, tôi đã bị đánh như thế này trong những ngày qua, không được ăn uống gì, tôi không còn sức để nói. Hơn nữa những điều các ông muốn biết đã xảy ra cách đây nhiều năm rồi. Tôi không thể nhớ chính xác được nữa. Tôi yêu cầu các ông phải để cho tôi có nhiều ngày để suy nghĩ về việc đó. Sau đó, tôi sẽ nói cho các ông biết”. Quan toà thấy Yun nói hợp lý, nên nói, “Được, tôi cho phép anh có thời gian để xem xét lại. Nhưng anh cần bao nhiêu ngày?”. 

Yun nói, “Đến ngày tôi suy nghĩ xong, tôi sẽ nói cho ông biết”. 

Yun bị đưa đến khu tạm giam. Để vào trong đó, người ta phải đi qua bốn cổng sắt, sau đó, họ đến nhà tù số hai. Xung quanh khu nhà tù này là một bức tường cao lớn bằng gạch bê-tông, bên trên có hàng rào điện. Trên bức tường, có bốn vọng canh ở bốn góc. Trên bốn vọng canh đó, lúc nào cũng có lính canh gác. Quả thật đó là một nhà tù có hệ thống canh gác chặt chẽ và bầu không khí ở đó thật rùng rợn.

Khi bước vào nhà tù này, người ta có thể cảm thấy như bước vào hang quỉ. Yun cảm thấy là anh sẽ phải đối diện với sự thử thách lớn trong nơi này. Anh đã quyết định vì Tin lành, vì nhiều linh hồn ở đó và hầu cho anh được đắc thắng trong thời gian bị giam cầm ở đây, nên anh sẽ bước vào một thời gian kiêng ăn và cầu nguyện mà trong thời gian đó anh sẽ không ăn uống gì. Dẫu sao, kể từ khi anh kiêng ăn và cầu nguyện, anh phải đối diện với những sự cám dỗ lớn. Tù nhân ở đây thường nhận được một khẩu phần nhỏ đồ ăn thô và có mùi ôi. Nhưng hôm đó là một ngày lễ lớn. Cho nên để bày tỏ ‘mặt nhân đạo của cuộc cách mạng vĩ đại’, và theo thói quen quần chúng địa phương, chính quyền đã ‘nhân từ’ đãi các tù nhân. Vào buổi chiều hôm đó, các tù nhân được phép nhận một cái bánh bao và một bát xúp có cần tây và thịt lợn. Khi nhận đồ ăn đó, những tù nhân đang chết đói và ngấu nghiến như những sư tử đói. Họ ăn sạch và còn liếm sạch đĩa. Yun đã giả vờ là một người điên nhiều ngày nay và kể từ đó ăn rất ít. Trong ngày đó, anh không ăn một hạt cơm và dạ dày anh thì bắt đầu sôi sùng sục. Khi nhìn vào bữa tiệc đặt trước mặt, làm sao anh không thể ăn một miếng được? Sa-tan đã cám dỗ anh ghê gớm. Một lúc lâu, trong tâm linh của Yun đã có cuộc tranh chiến và anh đang khổ sở. Cảm tạ Chúa, anh đã nhớ được, Chúa Giê-xu đã đắc thắng ra sao. Sau đó, tin vào quyền phép Đức Thánh Linh, anh đã có thể vượt qua sự cám dỗ của ma quỉ. Đây là một sự bắt đầu quan trọng và là chìa khóa cho sự chiến thắng cho bảy mươi tư ngày kiêng ăn mà anh mới bắt đầu bây giờ. 

Yun đã đưa khẩu phần ăn của anh cho tên trùm phòng giam và nó đã chia cho những tù nhân khác. Tuy mỗi tù nhân đều nhận được một phần rất nhỏ, nhưng họ hết sức vui mừng. Kết quả của sự hậu đãi của Yun, các tù nhân khác đã bắt đầu có một thái độ tốt đối với anh. Tất cả họ đều đề nghị Yun hãy hát cho họ một bài. Yun rất sung sướng và hát bài hát này 

1. “Gió bấc thổi gay gắt, ngọn gió nam nhè nhẹ; 

Trong mọi cái, ý muốn của Chúa đã được trọn vẹn. 

Gió bấc thì mạnh mẽ và lạnh giá, nhưng nó không thổi được lâu; 

Chẳng bao lâu gió nam sẽ thổi. 

Hãy kiên tâm và chờ đợi, hãy kiên tâm và chờ đợi; 

Chúa có chương trình cho mỗi sự. 

Khi thời gian đã đến, khi thời gian đã đến, 

Ân điển dồi dào sẽ dành cho bạn. 

2. Hỡi bạn đừng buồn rầu, đừng thở than làm chi; 

Chúa muốn gánh vác cho bạn. 

Nếu Cha thiên thượng không cho phép, 

ai có thể chống lại bạn? 

Hãy kiêm tâm và chờ đợi, hãy kiên tâm và chờ đợi; 

Chúa có chương trình cho mọi cái. 

Khi thời gian đã đến, khi thời gian đã đến, 

Ân điển dồi dào sẽ dành cho bạn”. 

Có lẽ những tù nhân đã hiểu, nhưng họ không thật sự hiểu được. Nhưng tất cả họ đều tin vào số phận, nên họ đều thích bài hát này. Yun đã tận dụng cơ hội đó để nói cho họ về Thi – thiên 90, 10 và Hê-bơ-rơ 9, 27 “đã được định cho loài người phải chết một lần và sau đó là sự đoán xét”, anh đã giải thích ‘số phận’ là gì. Yun cảm thấy đầu và ngực anh đau nhức, khi nói hơn một tiếng rưỡi đồng hồ. Anh nói với họ, “Đầu và ngực tôi đau quá. Xin thứ lỗi tôi không thể nói tiếp được. Bắt đầu từ hôm nay, tôi không ăn uống gì. Tôi muốn chia phần thức ăn của tôi cho các anh em. Những các anh em đừng nói điều đó cho người cai tù, nếu anh em nói, thì anh em không được chia phần thức ăn

của tôi đâu”. Tất nhiên là những tù nhân đồng ý hợp tác, hơn nữa, càng sau tết, khẩu phần ăn của họ càng xấu hơn nhiều. 

Vào ngày hai mươi bảy tết (29-01-1984) Yun lại bị đưa đi khảo cung. Ông quan toà hỏi Yun, “Trong mấy ngày qua anh có câu trả lời chưa? Nếu có, anh hãy trình bày tất cả hôm nay, hầu cho anh có thể về nhà ăn tết” Yun điềm tĩnh trả lời, “Tôi đã làm nhiều việc, đến nỗi tôi không thể sắp xếp chúng lại được trong một thời gin ngắn như thế. Tôi không muốn nói cho ông những việc mà chính tôi không biết rõ ràng, nếu không những chuyện của tôi sẽ làm cho ông thấy không bình yên mà ăn tết chăng”. Ông quan toà lại thấy có lý. Không nói một lời nào, ông nói những cai tù đưa anh đi. 

Cám ơn Chúa! Trở lại nhà tù. Yun đã nhớ lại những người đã vượt qua và họ đã vượt qua ra sao. Anh đã nghĩ Chúa Giê-xu đã chết ra sao, về Giô-sép phải ở tù, về Đa-ni-ên trong hang sư tử, về ba người bạn trong lò lửa rực. Anh cũng đã nghĩ về Ê-tiên đã bị ném đá chết, về Phao-lô đã bị vào tù ra tù, về Phi-e-rơ trong Công vụ các sứ đồ 12. Anh nhớ lại nhiều lần trong quá khức Chúa đã giửi cứu anh ra sao khỏi sự ác. Anh tiếp tục suy nghĩ về những điều đó và thấy được bình yên và an toàn như một đứa trẻ dứt sữa bên mẹ mình. 

Chúa đã ban cho anh chìa khóa đi đến sự đắc thắng: “Hãy tin, đừng sợ hãi. Đừng nhìn vào hoàn cảnh, đừng nhìn vào mình và đừng nhìn vào con người. Hãy chỉ nhìn lên Chúa, hãy cầu nguyện nhiều và ngươi sẽ thấy sự vinh hiển Chúa”. Sau đó, anh nằm xuống và hàng ngày yên nghỉ trong Chúa. Anh vẫn luôn luôn suy ngẫm trong lòng và dùng những lời thông hiểu để hát. Anh hay hát Thi-Thiên 23: 34, 146 và Rô-ma 8:35-39. 

Thời gian trôi qua nhanh chóng, và năm mới đã đến. Vào ngày mồng mười tết (11-02-1984), họ lại hỏi cung anh lần nữa. Lần này, họ đưa anh vào phòng tra khảo. Những viên công an thấy đôi mắt Yun nhắm nghiền, khi anh nằm bất động dưới nền nhà. họ hỏi anh nhiều câu hỏi, nhưng anh không mở miệng. Họ nghĩ rằng anh giả vờ và bắt đầu đánh đập anh bằng roi da. Nhưng tù nhân đã đưa Yun đến đây nói, “Từ ngày người này đến đây, nó nói đầu và ngực nó đau nhức nhối. Đã mười ngày rồi nó không ăn thứ gì”. Những công an không biết làm gì hơn là bảo người kia hãy khiêng Yun về phòng giam. 

Vào ngày hai lăm tháng giêng sau tết, tức là ngày hai tháng ba, 1984, Yun đã kiêng ăn và không uống nước. Hai ngày liền anh bị đưa đi để bị tra khảo. Mỗi lần anh đều không nói năng gì, cứ nhắm nghiền đôi mắt và không chú ý gì đến xung quanh. Công an đã dùng mọi biện pháp kể cả tra tấn, nhưng không thể làm cho anh mở miệng được. 

Tuy Yun gầy như cái que, nhưng trong tâm linh, anh thấy mình thật gần với Chúa. Khi kỳ kiêng ăn của anh đến ngày thứ ba mươi tám, ba chín, thì có một cuộc chiến trong lòng anh. Sa-tan nói với anh, “Ê, Yun, Chúa Giê-xu chỉ kiêng ăn có bốn mươi ngày thôi đấy. Học trò có thể lại lớn hơn thầy được sao? Đầy tớ có thể lớn hơn chủ được sao? Ngươi định vượt qua bốn mươi ngày chăng?”. 

Trong lòng Yun như bị tra tấn và con đường trước mặt anh dường như đen tối. Một cảm giác đáng sợ làm mất nhuệ khí và một sự tuyệt vọng ập đến anh, đến nỗi anh đã tính đến chuyện tự sát. Hơn nữa, anh biết tội tự sát giống như tội giết người. Anh không biết phải làm gì hơn là kêu cầu lên Chúa, “Chúa ơi! Con phải làm gì? Con xin Ngài hãy cất lấy linh hồn con!” Bỗng nhiên, có ánh sáng Đức Thánh Linh đã chiếu rọi đến và Lời Chúa đã đến với anh đầy quyền năng “Hỡi con trai ta, ta biết những công việc con: kìa, ta đã đặt trước con một cánh cửa mở, và không ai có thể đóng được: vì con đã có ít năng mà đã giữ Lời ta, và không chối bỏ Danh ta” (Khải huyền 3: 8) Ha-lê-lu-gia! Sự tối tăm bỏ chạy và Sa-tan đã bị bại trận. Sau đó, trái tim Yun được đầy dẫy ánh sáng, quyền năng và niềm vui. Anh không thể kiềm chế được nên đã hát nhẹ nhàng lên cho Chúa “Con còn sống, con sẽ ngợi khen Ngài, Chúa ơi: con sẽ hát tôn vinh Ngài cả đời sống con…” (Thi-thiên 146:2-10). Anh nói rất nhỏ nhẹ với Chúa, “Lạy Chúa yêu dấu, khi con còn hơi thở, con muốn sống cho Ngài”. Sau đó anh đã khóc, hát và trò chuyện với Chúa. Thình lình, Lời Ngài đến với anh, “Quả thật, quả thật, ta nói với các ngươi, là những kẻ tin ta, sẽ làm những việc ta làm và con làm việc lớn hơn thế nữa; bởi vì ta đi về cùng Cha” (Giăng 4:12). Những câu đó, những ngày đã đến với anh, đầy quyền năng. Mỗi ngày anh đã công bố câu đó và đã có thể kiêng ăn bảy mươi tư ngày. 

Vào ngày kiêng ăn thứ bốn mốt, anh thấy một khải tượng: Một trận bão dữ dội tràn từ phía đông bắc thổi ập vào căn nhà của anh. Nó đã nhấc bổng cả ngôi nhà và hất tung mái nhà tranh. Sau đó có vô số những con ong sắt và bọ cạp, những con rết và những con rắn độc bao phủ đầy bầu trời và trái đất và tấn công Yun. Anh hoảng sợ và không biết phải làm gì. Bỗng nhiên, anh thấy một con đĩ vẫy gọi anh và nói: “Hãy lại đây nhanh lên và đi theo tôi!” Khi Yun vừa định đi theo con đĩ đó, thì anh thấy mẹ mình đứng trước mặt. Hơn nữa, trên gương mặt bà có một vầng sáng. Bằng một giọng rất cứng rắn bà nói với anh “Con trai ơi, hãy quì gối xuống nhanh lên”. Yun làm theo, và bà đưa cho anh một miếng bánh mì to và âu yếm nói, “Con trai ơi, hãy ăn bánh này đi”. Khi Yun mở miệng ra để ăn, thì một đoàn ong sắt, bọ cạp, rắn, rết đã tấn công anh và bắt đầu chích và cắn anh. Yun đã kêu lên, “Chúa ơi, cứu con!” 

Khải tượng đã chấm dứt, Yun mở mắt ra và quay sang nói với Li, đang nằm cạnh anh, “Tôi nghĩ rằng, ngày mai tôi sẽ bị tra khảo nữa”. Anh Li đó đã thường cõng anh đến phòng tra khảo. Anh được công an sai đến để quan sát và theo dõi Yun. Nhưng anh đã ở bên cạnh Yun ngày và đêm và cuối cùng anh đã tiếp nhận chúa Giê-xu làm cứu Chúa của mình và trở thành người anh em và bạn của Yun. 

Khi anh đang nói, thì Yun lại bị hôn mê. Anh thấy mình bước vào một phòng trắng nhỏ và đẹp tuyệt vời, trong chốc lát căn phòng đó đã biến thành một khoảng không vô tận. ở đó anh nhìn thấy có nhiều tờ giấy trắng. Có một người mặc đồ trắng đến với Yun và nói với anh, “Anh phải để dấu tay lại trên tờ giấy này. Theo sự hướng dẫn của người đó, anh đã đưa tay ra và tì ngón tay vào một chồng giấy. Anh làm như vậy từ chồng này cho đến chồng khác, nhưng đáng ngạc nhiên là không có dấu mực in vào. Những dấu in trong giấy đều có màu đỏ. 

Anh tỉnh lại sau sự hôn mê và bắt đầu suy nghĩ về ý nghĩa của khải tượng thứ hai.

Nhưng anh không thể hiểu được. Anh đã nói với anh Li, “Ngày mai, tôi sẽ bị tra khảo và anh hãy cầu nguyện cho tôi và cầu xin Chúa thương xót tôi và che chở tôi tớ Ngài. “Vào buổi sáng hôm sau, lúc chín giờ sáng, khi tiếng chuông nhà tù reng lên và cai tù hô, “hãy đưa tên Yun ra”. Những công an thấy Yun vẫn cứ gan lì nhắm nghiền mắt lại và từ chối trả lời mọi câu hỏi, thì họ đã lấy roi, gậy và roi điện và những dụng cụ tra tấn khác. Và họ bắt đầu đánh vào đầu và vào mặt anh. 

“Chúng tao sẽ đánh mày cho đến chết” họ nói “Mày vẫn thường luôn luôn nói rằng nhà thờ ba độc lập được Nhà nước ủng hộ là một con đĩ. Tại sao bây giờ mày lại giả câm, giả điếc hả?” 

Sau một hồi lâu, ông quan toà nói, “Hôm nay, chúng tôi đưa cho anh cơ hội cuối cùng. Nếu anh hứa ủng hộ nhà thờ ba độc lập, chúng tôi không những sẽ không điều tra những hoạt động trước kia của anh nữa, nhưng chúng tôi còn cho phép anh được có một địa vị chính thức làm chủ tịch Hội Thánh. Bây giờ, anh phải nói cho chúng tôi biết, anh có đồng ý làm điều đó không?”. 

Thình lình, khải tượng mà Yun đã thấy trong buổi chiều hôm trước lại hiện ra: những con ong sắt, bọ cạp, rết và rắn độc, tất cả đều tấn công anh và bắt đầu cắn, đốt anh. Sau đó con đĩ đã quyến rũ anh hãy đi theo nó xuống dưới đường. Ha-lê-lu-gia! Ngợi khen Chúa! Tuy thân thể Yun có chịu đựng nhiều sự tàn bạo và sự tra tấn vô nhân đạo, trong tâm linh, anh vẫn tin cậy vào lời hứa của Chúa và được mạnh mẽ, thêm nghị lực. Anh không thèm để ý đến sự dụ dỗ này của bên chính quyền. 

Anh Li không thể cầm được nước mắt. Trong lòng anh nói với Chúa, “Chúa ơi, con không thể chịu được sự đau đớn của tôi tớ Ngài. Con xin Ngài, Chúa ơi, hãy thương xót người tôi tớ Ngài!. Xin hãy che chở anh!” Yun đã thầm cầu nguyện, xin Chúa che chở mình. Trái tim của họ cùng hiệp ý và một đợt sóng của tình yêu đã bắt đầu tuôn trào ra từ họ. Tình yêu đó đã chảy vào những nhân viên ở đó, chảy xuyên qua nhà tù, và có thể vượt qua tất cả mọi trở ngại. Vào lúc đó, ông bác sĩ của toà án đến, một người mập lùn, mặc đồ trắng. Ông nói với mọi người, “Có đúng là người này không thể nói được không? Thử xem, tôi sẽ làm cho hắn nói được!” Những nhân viên cai tù đứng dạt sang bên, ông bác sĩ đã cầm tay Yun và bằng một cái nhìn mỉa mai và miệt thị nói, “Có thật là anh không thể nói được, đúng vậy không? Được, hôm nay tôi sẽ cho anh một mũi tiêm để chữa bệnh câm của anh!” Ông bác sĩ bèn cho bốn lính cai giữ chặt tay Yun xuống. Sau đó, ông lấy ra từ trong cái hộp một cây kim to. Bằng một giọng cười khoái trá, Ông bác sĩ đâm cây kim xuống dưới móng tay cái của tay trái Yun. Một sự đau đớn chạy xuyên thấu qua thân thể anh, và không thể nhịn được, anh kêu lên. Rồi anh nhớ lại khải tượng chiều qua mà anh đã đóng dấu tay mình. Sau đó, ông bác sĩ lại lấy hết cây kim này sang cây kim khác đóng vào đầu mười ngón tay anh. Sau cây kim thứ tư anh đã ngất đi. Gương mặt anh vàng khè, mồ hôi vã ra trên đầu và máu tuôn trào từ những đầu ngón tay. Còn những công an tiếp tục đấm đá anh cho đến khi anh ngã gục xuống sàn nhà, họ căm thù nói “Hãy cứ ngoan cố mà đi gặp Chúa của mày!” Li đưa Yun về xà lim. Khi về phòng anh sấp mặt xuống đất và kêu to. Những tù nhân khác thấy tình trạng thê thảm đó, tất cả đều muốn khóc vì thương cho Yun. 

Bạn đọc thân mến, hôm nay vào thập kỷ chín mươi này, mọi người trên thế giới đều bênh vực những lối sống văn minh. Bạn có biết rằng có biết bao cơ đốc nhân đã phải đối diện với sự bắt bớ vô nhân đạo và bạo tàn ở ngay thời đại của ‘lối sống văn minh này không?’. 

Sau nhiều ngày, công an Bộ nội vụ đã nghĩ ra một ‘chiến lược vĩ đại’. Nhiều lính vũ trang đã đến bắt Yun lúc đó đang nửa sống nửa chết, đi đến bệnh viện để khám nghiệm. Bác sĩ nói Yun không việc gì cả, anh chỉ bị mất nước. Bác sĩ bèn lấy nước dung dịch có pha muối (saline) và truyền nước đó vào người anh. Một trong những công an đứng một góc để quay phim. Mục đích của họ là để cho nhân dân biết rằng “chính phủ chúng ta có một trái tim đầy sự nhân đạo!” Họ dò động mạch của Yun một lúc lâu, nhưng không thể tìm được. Nên họ đã mặc kệ tiếp ống nước đó vào cơ bắp anh. Yun bắt đầu bị phù từ bắp tay lên đến vai. Sự đau đớn khủng khiếp đến nỗi anh lại ngất đi. Vẫn không hài lòng với cách đó, những công an lại suy nghĩ và cuối cùng họ lại nảy ra một ‘chiến thuật vĩ đại’ để xử với Yun.Họ nói cho những tù nhân khác trong xà lim rằng “Yun là một tên phản cách mạng nguy hiểm. Nó biết tội nó nặng nên nó đã giả vờ ốm và không ăn để chống lại nhà cầm quyền. Các bác sĩ đã khám nó và thấy nó không bị bệnh gì hết. Phòng giam này bị nó làm ảnh hưởng đem tai tiếng cho mọi người ở đây, vì đây là phòng giam ghê sợ nhất trong toàn trại giam. Nên tất cả phải tách mình ra khỏi tên phản cách mạng này và mỗi nguời phải hiệp đồng lại và đánh hắn. Nhưng ai làm điều này giỏi, thì cuối cùng sẽ được phần thưởng và được giảm án”. Ngoại trừ anh Li, những tù nhân còn lại, tuy tôn trọng Yun, nhưng vẫn chưa tin Chúa Giê-xu. Bị những công an xúi giục, những sự hận thù trong họ nổi lên và họ bắt đầu tấn công Yun. Những con người này là những tội phạm hình sự. Bây giờ hằng ngày, con người thứ hai của chúng mong để hành hạ Yun. Cho dù chúng có đánh đập và hành hạ anh đến đâu, nhưng mọi người đều mặc kệ. Bị rơi vào tay những tên này còn khủng khiếp hơn là rơi vào tay những anh công an!. 

Chúng đưa đồ đạc của Yun đến chỗ đi tiểu cạnh tường (trong mỗi xà lim có một chỗ đi tiểu. Còn đi ngoài, người ta phải đợi đến giờ cho phép đi ra ngoài khu nhà tù). Nếu đi tiểu, bọn chúng sẽ cố ý đi trùng vào đầu Yun. Anh quá yếu không thể chống đỡ lại được và chỉ biết âm thầm chịu đựng. Có một ngày kia khi những tù nhân được phép đi ngoài, chúng đưa Yun ra nhà vệ sinh và bắt Yun phải đại tiện được. Tội nghiệp cho Yun, vì đã hai tháng liền không ăn đến một hột cơm, làm sao anh có thể đi ngoài được? 

Sau đó, một nhân viên cai tù lực lưỡng và thô bạo đi qua, cầm roi điện trong tay. Thấy cảnh đang diễn ra, viên cai tù nói với một giọng cười độc ác, “Hãy để nó cho tao”. Và vung roi điện ra và chạm vào hông sườn Yun. Một luồng điện giật chạy qua thân thể anh giống như những con rắn rết cắn. Thấy Yun không cử động gì, viên cai tù xốc anh lên như thể anh là một con búp bê bằng thạch cao, rồi ném anh xuống sàn nhà. Và làm như vậy nhiều lần (lúc đó Yun chỉ còn lại da bọc xương, anh chỉ còn nặng ba mươi cân, nên rất dễ cho anh cai tù tung hứng anh). dày đạp anh và nhạo báng nói, “Hãy dậy và bò đi!” viên cai tù có ý nói giỡn chơi với anh như anh là một con chó. Lúc đó có hàng trăm tù nhân đứng xung quanh cười thích thú. 

Thình lình, trong số các tù nhân có một thanh niên trẻ bước tới. Người đó là em trai của vợ Yun, vì đã vi phạm luật pháp và phải bị tù, ở cạnh xà lim với Yun. Người đó nhào tới Yun và khóc lóc. Anh cai tù đang hăng máu như một con chó sói đã đánh người kia bằng một roi điện và hét lên rủa sả, “Mày là ai, tại sao mày dám cả gan đến đây ngăn cản và la khóc?”. 

Người thanh niên nói, “tôi là em rể anh ta”. 

“Hãy cút ngay, nếu không tao cho mày ăn roi điện bây giờ!” cai tù hét lên đe doạ. Người kia không biết làm gì hơn là nghe theo. 

Chuyện này xảy ra vào tháng hai âm lịch. Lúc đó trời tối, mây mù và gió bấc lạnh buốt thổi trên những đồng bằng miền bắc vào lúc sắp sang xuân. Sau một thời gian được phép đi dạo trong sân nhà tù, những tù nhân phải trở về phòng giam mình, Yun bị quăng ở cầu tiêu, mặc một chiếc áo sơ mi cũ đằng trong một chiếc áo bông sờn rách, phía dưới thân thể anh chỉ có duy nhất một chiếc khăn quấn. Đó là cái khăn, trong đêm bị bắt anh Minh, một đầy tớ Chúa đã đưa cho anh. Lúc đó anh Minh đã ân cần nói, “Thời tiết thì lạnh như cắt, cậu phải quàng chiếc khăn này”. Từ lúc đó Yun thường đem theo. Tất cả những quần áo khác, kể cả cái quần của anh đều bị tịch thu. Nhưng vì chiếc áo bông đã quá cũ nát, nên không bị lấy mất. 

Yun nằm một mình trên nền đất, bị bỏ rơi, không bạn bè. Ai sẽ đến để an ủi tấm lòng đau thương của anh? Ai sẽ thương đến anh? Anh bị khinh bỉ và trong con mắt họ anh là một con chó không hơn không kém. Anh muốn kêu lên, nhưng không còn giọng để kêu. Anh muốn khóc, nhưng nước mắt đã cạn khô. Anh nhấp môi và hát bằng một giọng buồn thảm: 

“Con nhướng mắt con trông lên Ngài. Ôi, Đấng ở trên trời, kìa như mắt kẻ tôi tớ trông nơi tay ông chủ mình, và như mắt đầy tớ gái trông nơi tay ông chủ mình, và như mắt đầy tớ gái trông nơi tay bà chủ mình; thì mắt chúng con ngưỡng vọng Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời chúng tôi thể ấy, cho đến khi nào Ngài thương xót chúng tôi: vì chúng tôi đã bị đầy dẫy sự khinh bỉ, linh hồn chúng tôi đầy dẫy sự nhạo báng của những kẻ vô tâm, và sự khinh bỉ của kẻ kiêu ngạo” (Thi – Thiên 123:1-4) 

Đến chiều Yun được đưa vào phòng giam. Những tù nhân cứ tiếp tục đi tiểu tiện vào người anh. Anh khóc nói với Chúa, “Chúa ơi, con xin Ngài tha cho họ”. Yun có một tách uống chè buộc bên hông. Một chị em ở huyện ‘A’ đã tặng cho, đến khi thăm anh. Trên chén có hình thập tự giá và đối với Yun đó là một bảo vật. Bây giờ, những tên tội phạm hình sự kia, mất hết tính người đã giật lấy chiếc chén đó quăng vào thùng nước tiểu. Anh cố gắng lấy nó lên, buồn rầu và hết sức khó khăn anh đã thò vào trong thùng nước tiểu để vớt cái chén lên. Sau đó anh đã giữ chặt nó lên ngực và khẽ rên lên. Anh cầm nó dường như nó là một người bạn đã bị biệt tăm từ lâu và không thể để cho mất đi nữa. 

Chẳng bao lâu, sự thịnh nộ của Đức Chúa Trời đã giáng trên những tù nhân này. Từng người một, đều bị một chứng ung nhọt, đến mức không thể chịu đựng được nữa, và

không thể ngủ cả ngày lẫn đêm. Đức Chúa Trời toàn năng đã che chở đứa con trai của Ngài, bởi vì Yun không bị sao cả. Anh không bị đến một chút trên thân thể mình. Những tù nhân mới nghiệm thấy đây là điều rất kỳ lạ và đã để cho anh ngủ ở giữa họ. Họ đem tấm chăn của tên đứng đầu (tên đó tàn bạo nhất và bị nhiều ung nhọt nhất) và đắp cho Yun. Dẫu sao, Chúa đã che chở cho Yun và anh không bị một chút gì. 

Trước khi mọi điều đó xảy ra, anh Li đã bị đưa sang phòng khác, và một tù nhân khác đến thế vào chỗ đó, một người có họ là Yu, thay chỗ Li, là người bạn của Yun. Yu thấy mọi điều xảy ra và nhanh chóng thay đổi thái độ mình. Anh bắt đầu đứng vào chỗ của Li là phục vụ Yun. Chúa đã đặc biệt chúc phước cho con người này và về sau đã trở thành một cơ đốc nhân tích cực. Công an đã nghĩ rằng chắc chắn Yun sẽ chết, nhưng họ không thể cậy miệng Yun nói đến nửa lời. Nếu anh chết, làm sao họ có thể báo cáo cho cấp trên của mình được? Và bèn nghĩ ra một kế khác. Họ sai nhiều cô chăm sóc vào nhà tù và cám dỗ để cho Yun mở miệng và tìm cách bỏ ít hạt cơm vào miệng của Yun. Một trong những lý do là để sau khi Yun chết họ có thể chìa tấm ảnh này ra làm tài liệu. Thêm vào đó, họ sử dụng tấm ảnh này để tuyên truyền cho dân chúng về tinh thần ‘chủ nghĩa cách mạng nhân đạo vĩ đại’ của mình. Dù vậy, không một hạt cơm hay một giọt nước vào miệng anh, vì anh sẽ lại nhổ ra. Tuyệt vọng, họ cho phép mẹ và vợ anh đến thăm, hy vọng họ nói điều gì đó. Từ lúc anh bị bắt cho đến giờ, gia đình anh không được phép thăm. 

Từ ngày hai mươi lăm tháng một cho đến mùng bảy tháng tư, 1984, Yun đã kiêng ăn bảy mươi tư ngày và đêm mà không uống một giọt nước nào, vì cớ Hội Thánh, vì nhiều linh hồn trong tù và anh đã được đắc thắng trong chốn lao tù. Bạn đọc thân mến, trong lịch sử sáu nghìn năm nhân loại, bạn đã nghe thấy có ai không hề ăn uống trong bảy mươi tư ngày và còn sống không? Nhưng con người như vậy đã có mặt trong thế hệ này. Hơn nữa anh là một người chất phác. Vô học thức, một người giảng Tin lành đơn sơ. Đó là công việc quyền năng của Đức Chúa Trời, một phép lạ kỳ diệu. Trong vòng bảy mươi tư ngày không bình thường đó, không thể kể hết sự nhục nhã, phỉ nhổ và những trận đòn thập tử nhất sinh mà anh phải hứng chịu. Trong sự đau đớn đó, có roi điện và những dụng cụ tra tấn khác và tất cả các ngón tay anh đều bị đâm bằng những mũi kim to. Nếu đó không phải là sự bảo vệ của Chúa, thì ở trong sự tra tấn như vậy, không phải một Yun mà là một nghìn Yun cũng đã chết từ lâu rồi. 

Vào ngày bảy tháng tư, buổi sáng sớm, Yun thấy một khải tượng: nhiều anh chị em đang quì gối ngoài bức tường nhà tù giơ tay lên trời cầu nguyện. Anh thấy mình yên nghỉ trong ngực mẹ và vợ mình, cô em gái và những anh chị em đang than khóc. Sau đó, anh thấy có một đứa trẻ khoảng bảy tám tuổi đang ngồi trên khung xe đạp của nó và nói, “Chú ơi, cháu hát cho chú một bài nhé!” Nó bắt đầu hát (Giăng 14:6 ) Chúa Giê-xu phán: “Ta là đường đi, chân lý và sự sống: chẳng bởi Ta, không ai được đến với Cha”. Khi Yun đạp xe, nghe thấy tiếng nó hát, anh được thêm sức lực. 

Sau đó, anh nhìn thấy một khải tượng nữa, như khải tượng trước được lặp lại: vô số ong sắt, bọ cạp và rết rắn độc lại tấn công. Vào tám giờ sáng, những công an nói Yu hãy đưa Yun đến phòng khảo cung. Mẹ và vợ anh đã đến sớm hơn. Nhưng công an không muốn cho họ thấy trực tiếp anh. Họ lại muốn sử dụng tra tấn cực hình để bắt anh

nói. Nên anh vừa đến phòng, thì những công an đã lập tức quất roi điện vào người anh, y như anh đã trông thấy trong khải tượng. Yun ngất đi. Khi anh nằm bất tỉnh, thân thể anh cảm thấy rất ấm áp và dễ chịu. Anh cảm thấy như có những giọt nước ấm tươi mát đổ lên mặt anh. Yun dần dần tỉnh lại. Giống như trong khải tượng anh đã thấy vào lúc sáng, anh thấy mình đang nằm trong ngực mẹ và những giọt nước mắt bà chảy xuống gương mặt anh như những hạt ngọc. Deling vợ anh, chị và em gái và nhiều anh chị em trong Chúa, tất cả tám anh chị em xung quanh anh. Họ không thể nhận ra anh. Mặt anh gần khô, da bọc sát đôi gò má nhọn. Thân thể anh giống như một cái que. Kết quả là, mắt anh rộng hơn, đôi môi nhô ra và mở rộng. Anh không thể đóng miệng lại được, nên thấy hai hàng răng vàng đục. Tóc anh bết trên khuôn mặt và râu anh mọc tua tủa. Gương mặt anh lấm những vết máu khô và quần áo vô cùng bẩn thỉu. Họ không thể kiềm chế được tiếng than khóc. Deling kinh hoàng và cô gần bất tỉnh. Thấy cảnh đó, thì đến người cứng rắn, cò lòng chai đá đến đâu cũng phải khóc. 

Yun cảm thấy một lớp sóng quyền năng tuôn tràn qua anh. Anh đã chuẩn bị để nói ngày hôm đó. Anh đã bắt đầu nói, chị gái anh đã nhanh chóng dùng tay bịt miệng anh lại. Cô biết anh đã khước từ không thú nhận và không ăn bảy mươi tư ngày rồi. Nếu bây giờ anh nói, anh sẽ bị tra tấn cực hình, nhưng bằng một sức mạnh siêu nhiên, Yun đã gạt tay chị ra và tuyên bố dõng dạc, “Đừng nhờ cậy nơi các vua chúa, cũng đừng nhờ cậy nơi các con cái loài người, là nơi không có sự tiếp trợ” (Thi – thiên 146:3). Đừng sợ, thà tin cậy Đức Chúa Trời, còn hơn tin cậy các vua chúa (Thi-thiên 118, 9)” Sau đó anh nắm chặt tay anh A-Hong và nói, “Anh ơi, sự giàu có không thể làm hư hỏng chúng ta, sự đe doạ không thể đánh bại được chúng ta, sự nghèo đói không thể lay chuyển được chúng ta, hãy tin cậy Chúa Giê-xu và hãy mạnh mẽ. Cha Thiên thượng đã nói cho tôi biết là anh sẽ đến thăm tôi hôm nay”. 

Khi nghe thấy những lời đó, không ai có thể kiềm chế thêm được nữa, tất cả họ đều than khóc thảm thiết. Sau đó bằng một tiếng kêu xé lòng, anh nói, “mẹ ơi, con trai của mẹ đói! Mẹ ơi, con trai của mẹ khát! Mùa thu đã qua và mùa đông đã tới. Trời thì lạnh. Tại sao mẹ không đem áo trong cho con trai mẹ? Mẹ ơi, con trai mẹ đói! Con trai mẹ khát!” Một chị em đã chạy nhanh ra ngoài cổng nhà tù và mua ít thức ăn. Mẹ anh, nước mắt dàn dụa, nói với anh, “không phải là mẹ không lo cho con, đã nhiều lần mẹ muốn gửi quà, nhưng không thể đưa cho con được!”. 

Yun kêu lên, “Mẹ ơi, con trai mẹ đói và khát không phải là vì bánh và nước đời này, nhưng vì những linh hồn! Nếu con được giảng tin lành để cứu những linh hồn, thì đó là đồ ăn duy nhất mà con cần!”. 

“Mẹ ơi, con đã kiêng ăn bảy mươi bốn ngày rồi và Chúa nói là con sẽ gặp mẹ hôm nay, nhưng cũng có thể là con sẽ bị đánh đến chết. Mẹ ơi, hôm nay mẹ có đem theo thịt và huyết chiên con không?”. 

Lúc đó, những chị em chạy đi mua thức ăn trở vào cầm một bọc đủ các loại bánh dòn khác nhau và một hộp nước hoa quả. Anh đã đưa bánh lên chúc phước và đưa cho mẹ, Deling, A-hong và những anh chị em còn lại. Anh nói rất trịnh trọng, “Đây là thân thể của Chúa đã vì chúng ta mà phó cho. Chúng ta hãy làm điều này để nhớ đến

Chúa”. (Cô-rinh-tô 11:24). Mỗi người đều cúi đầu nhận bánh tiệc thánh. 

Sau đó Yun rót một ít nước hoa quả. Rồi anh chúc phước, uống một ngụm và đưa cho họ và nói, “đây là huyết Chúa đã đổ ra vì chúng ta. Con nghĩ rằng, đây là lần cuối cùng con dự tiệc thánh chung với mẹ, Deling và các anh chị em. Con sẽ gặp lại mẹ, Deling và các anh chị em trên thiên đàng”, 

Những lời của anh đã xuyên thấu vào trong trái tim người mẹ, Deling và mọi người trong phòng. Chị anh ôm lấy anh lo lắng nói, “Yun, làm sao em có thể bỏ lại mẹ già một mình và người vợ trẻ và chết được? Hơn nữa Deling đang có thai tháng thứ năm. Sao em lại nhẫn tâm như vậy”. Mẹ anh kêu lên “Yun, con không thể chết được! Các anh em con đã quì gối cả ngày hôm qua ở nhà mình để cầu nguyện. Không có sự khó khăn nào không thể giải quyết được. Con trai ơi, con không thể chết được!” 

Sự kiện đó xảy ra trong phòng khảo cung có những công an an ninh đang nhìn vào. Đức Chúa Trời đã dùng cánh tay quyền phép Ngài để bảo vệ buổi tiệc thánh trịnh trọng và xúc động này. Sau đó, khi xong rồi, giống như là những công an vừa tỉnh lại sau khi mơ màng. Một anh đã đập bàn và thét, “Chúng mày làm gì ở đây thế hả? Đủ rồi! Hãy cút khỏi đây ngay! Hãy đưa Yun về phòng!” 

Làm sao mẹ anh lại có thể để cho ai đưa con trai mình đi? Làm sao Deling lại để cho chồng mình bị đưa đi? Làm sao những anh chị em trong Chúa lại đành lòng để người anh em yêu dấu mình bị đưa đi như vậy? Mẹ và vợ Yun giữ chặt anh và những người còn lại cầm chặt tay anh. Những cai tù tìm cách tách họ ra bằng những cú xô, đạp đẩy họ xuống nền nhà và cuối cùng giải phóng Yun ra khỏi sự níu kéo của họ. Và đưa anh đi qua cánh cổng sắt, và đóng lại cái rầm. Mẹ của Yun đấm ngực kêu to, “Con trai ơi, hãy nhớ lời mẹ, hãy mạnh mẽ và tiếp tục sống!” Từ phía bên kia cánh cổng, giọng của Yun vang ra, “Hãy trở về, giảng Tin lành, và cứu linh hồn. Hãy nói với Hội Thánh cầu nguyện cho con và kiêng ăn…” Giọng anh xa dần. Mẹ của Yun, Deling, A-Hong và những người còn lại vẫn đang khóc, nhưng bị bắt buộc phải rời khỏi phòng khảo cung. Họ đi qua đường chính của thành phố tấp nập, than khóc. Mọi người ở chợ, thấy lạ, chạy lại xung quanh họ và hỏi có chuyện gì. 

 

13. Người công bình sẽ được tốt tươi như cây cọ 

(Thi-thiên 92, 12) 

Khi Yun trở lại phòng giam số hai, tên cầm đầu phòng giam bắt đầu đạp vào anh và nói khinh bỉ, “Giờ thì sao, mày vẫn còn tiếp tục giả vờ câm à? Mày vẫn còn định không ăn uống gì à?” Những tên tù còn lại dùng những lời để hạ nhục anh. 

Sau đó Yun được Đức Thánh Linh cảm động mạnh mẽ. Anh đứng lên và nói với mọi người: “Hỡi các bạn, ngược lại, hôm nay, tôi sẽ nói đôi lời với các bạn. Các bạn hãy chú ý lắng nghe”. Khi nghe anh nói, họ thật sự sửng sốt. Con người này đã kiêng ăn

bảy mươi tư ngày, và bây giờ nói với một đáng kính và uy quyền đến như vậy. Ai nấy đều thấy khâm phục anh. 

Anh nói tiếp, “Đức Chúa Trời đã sai tôi đến đây vì các anh em. Khi tôi đến phòng giam này, tôi đã nói cho anh em về tin lành của thập tự giá của Chúa Giê-xu. Hơn nữa, các anh em đã nhìn thấy tận mắt, bảy mươi tư ngày qua, tôi đã không ăn một hạt cơm và không uống một chút nước. Tôi muốn hỏi các anh em: Mấy nghìn năm qua, có ai thấy có người nào làm như vậy mà còn sống không? Hôm nay, tôi đứng đây, một nhân chứng sống giữa các anh em. Điều đó không đủ để chứng minh rằng Chúa của tôi là chân thần và hằng sống sao? Các anh em còn tiếp tục cứng cổ và từ chối Chúa Giê-xu sao? Nếu sự phán xét đến, làm sao các anh em lại có thể thoát được sự thịnh nộ? Hôm nay, Chúa thương xót các anh em và ban hồng ân tha thứ cho các anh em. Ngài đã gọi tôi đến để nói cho các anh em biết về sứ điệp ăn năn và tha tội này. Cho nên mỗi anh em hãy quì gối xuống trước Chúa Giê-xu Christ, xưng nhận tội lỗi và ăn năn, hầu cho anh em có thể thoát khỏi sự phán xét và sự chết sẽ đến trên anh em, để được cứu và bước vào vương quốc đời đời ở thiên đàng”. 

Mấy lời ít ỏi đó rơi xuống họ như những quả bom nguyên tử. Một nhóm mười người hết sức hung ác đó đã phạm đủ loại tội, thảy đều quì xuống trước Chúa. Người đầu tiên quì xuống là tên đứng đầu. Sau đó, lần lượt từng người, tất cả đều quì gối xuống. Mỗi người đều được Đức Thánh Linh đụng chạm và những tội lỗi họ đã phạm chạy qua mắt họ như những cuốn phim, cảnh này tiếp sang cảnh khác. Tất cả họ đều kêu to. Bên ngoài nhà giam, viên cai tù nghe thấy tiếng huyên náo và lộn xộn bên trong. Viên cai tù đứng như bị mọc rễ khi thấy cảnh tượng đó trước mắt mình. anh không nhúc nhích một hồi lâu. Nắm lấy cơ hội đó, Yun đã làm báp-tem cho mười lăm người. Sau đó, nhân cơ hội đến thời gian được đi ra ngoài, và đã đi đến những phòng khác. Tin lành vì thế đã được giảng cho cả nhà tù và nhiều tù nhân đã ăn năn và tin Chúa. 

Ha-lê-lu-gia! Tất cả các tù nhân trong phòng giam số hai trở thành con cái Đức Chúa Trời. Những kẻ thù trở thành những anh em thuộc linh. Chỗ đó đã từng là địa ngục trên đất, nay trở thành Hội Thánh Đức Chúa Trời. Yun giống như một cây cọ bị cắt, lột vỏ, đúng như thế, một cây cọ phải chịu đựng những đau đớn như vậy. Nhưng bây giờ đã sinh sản ra nhiều bông trái khắp nơi. Cộng vào đó, những Hội Thánh bên ngoài tường thành nhà tù được kinh nghiệm sự phấn hưng. 

Hội Thánh ở thành phố ‘B’ đúng là như vậy. Hậu quả của việc Yun bị bắt và những anh em bị bắt bớ qua đó, mà có nhiều người đã nguội bị lạnh về thuộc linh. Khi tin tức mới mẻ về sự chịu đựng của Yun trong tù và về sự kiêng ăn cầu nguyện bảy mươi tư ngày của anh được đồn ra mọi nơi, nó đã đem lại sức mạnh. Đâu đâu, linh sợ hãi, sự hâm hẩm, và ngủ gật của các anh chị em đều bị đánh tan. Những buổi cầu nguyện chật ních người và nhiều tín đồ bắt đầu kiêng ăn và cầu nguyện dốc đổ vì phúc âm và vì những anh chị em trong tù. Tin lành được phát triển, có nhiều người mới tin Chúa hàng ngày thêm vào Hội thánh. 

Một chị em, có chồng từ trước đến giờ chưa tin Chúa, sống ở trong một làng nọ. Đứa con trai duy nhất của họ bị một chứng bệnh kinh niên. Người chồng đồng ý cho gọi

những anh chị em đến cầu nguyện. Buổi chiều hôm đó, có hơn mười anh chị em đến, họ quì gối xuống và không thể kìm được sự than khóc khi họ cầu nguyện cho Yun đang bị giam cầm trong tù. Người chồng nghe thấy mọi người cầu nguyện và khóc than cho Yun theo cách đó thì nói, “Nếu đứa con trai tôi được lành, không chỉ tôi tin Chúa Giê-xu, nhưng tôi còn đến thăm con người đó vì có sự liên hệ tới gia đình tôi”. Đức Chúa Trời đã nghe những lời cầu nguyện của những tín đồ và con trai họ đã được giải phóng khỏi tà linh. Người chồng thật hết sức sung sướng và hai ngày sau đó ông đã đến phòng công an thăm một người bà con, làm sĩ quan ở đó. Ông nói với người đó, “Yun là cháu tôi, xin hãy lo liệu cho cậu ta”. 

Ông nói tiếp, “Trong tù nó không ăn uống gì hết trong bảy mươi tư ngày. Nó là một con người phi thường, Đức Chúa Trời của nó là chân thật và sống thật sự. Anh có làm gì thì làm, nhưng đừng làm hại nó”. Ông cán bộ công an giật mình khi nghe thấy điều đó, bởi vì ông là người chịu trách nhiệm về vụ bắt bớ của Yun. Sự kiện Yun không ăn uống gì bảy mươi tư ngày, trong đồn công an ai ai cũng biết. Kể từ lúc đó, ông cán bộ thôi không bắt bớ Yun nữa, mà hết sức tốt đối với anh. Trước đó đã lâu, Yun được thăng lên làm trưởng phòng giam số hai. Một ngày kia, có một người quản lý của phòng lãnh đạo đến đưa Yun lên phòng hành chính. Họ nói với anh, “chúng tôi biết anh có một trái tim tốt. Hôm nay chúng tôi sẽ đưa cho anh một công việc. Có một tên giết người bị giam ở phòng số chín, mỗi ngày đều tìm cách tự sát. Hôm nay chúng tôi sẽ chuyển nó sang phòng của anh để anh có thể chú ý đến nó. Đừng cho phép nó tự sát, cho đến ngày tử hình, ngày đó nó phải ở trong tình trạng sức khoẻ tốt. Nếu anh không lo liệu và để cho nó tự sát, anh sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Yun cảm thấy không những mình được giao cho mạng sống một người để coi sóc, mà anh còn được giao cho một linh hồn quí giá. Cho nên anh quyết định nhận lãnh trách nhiệm này. Trở về phòng anh bàn bạc với những anh em ở đó và họ sẵn sàng ủng hộ. 

Con người đó mới chỉ hai mươi hai tuổi, tên là Hoàng. Không chỉ thanh niên đó giết người, mà còn hành hung, cướp giật và phạm những tội hình sự khác. Cha cậu, một cán bộ cao cấp thấy thẹn mặt, nếu đến thăm đứa con trai. Nhưng ông đã gửi cho đứa con một chiếc áo sơ mi có dòng chữ viết sau lưng. “Con trai yêu quí, bây giờ bố không thể nào đến thăm con được, nhưng bố sẽ gặp con trong buổi mít tinh quần chúng (ngụ ý nói ngày tử hình)!” Khi Hoàng đọc nó, thì trái tim cậu đã tan nát. Nên mỗi ngày cậu đã tìm mọi cách để tự sát. ở phòng số chín Hoàng bị những tù nhân khác dày đạp. Họ thường ăn hầu hết thức ăn của cậu ta, chỉ để lại một phần nhỏ cho cậu. Chúng đã cố tình đổ thức ăn lên đầu, áo xống cậu luôn luôn dính thức ăn. Hàng ngày chúng trói chặt tay Hoàng lại sau lưng và cùm chân cậu lại thật chặt bằng những vòng kim loại đến nỗi chúng cứa sâu vào da thịt làm toé máu. Nhưng cậu không sợ sự đau đớn và không chỉ cậu tiếp tục đi lại trong phòng, cậu còn nhảy lên nhảy xuống cho đến khi xương mắt cá lòi ra. Những tên cùng phòng sợ là Hoàng sẽ tự sát và chúng sẽ phải chịu trách nhiệm. Nhưng chúng vẫn tiếp tục đánh đập và hạ nhục cậu. Một ngày kia, khi chúng không để ý, Hoàng đã đập đầu vào tường. Cậu không chết, nhưng đã để lại một chỗ hõm trong tường. Vào buổi chiều đó, Hoàng bị chuyển đi và bị đưa vào phòng giam số hai. Khi bước vào phòng giam này, cậu có thể cảm thấy một bầu không khí hoàn toàn khác so với phòng số chín. ở đây, những ‘anh em đối lập’, nhìn cậu với một sự thiện cảm, niềm nở mỉm cười, cậu được nghênh tiếp như một người bạn. Yun nói bằng một giọng ân

cần như một người mẹ, giục Hoàng hãy ngồi xuống và đừng đi lại, nếu không xích chân sẽ làm cho cậu càng đau đớn hơn. Yun lấy một ít nước nóng, và sau khi đã làm nguội, rửa chân cho Hoàng. Mỗi lần họ cho cậu ăn một ít. Bữa ăn chiều hôm đó, họ được ăn bánh bao. Chỉ một lần trong tuần họ được phép ăn một bánh bao nặng sáu bảy mươi gam. Yun nói với các anh em hãy ăn khẩu phần bánh bao của mình và để dành canh rau lại cho Hoàng. Sau đó, anh bẻ tư chiếc bánh bao của anh ra và cất phần còn lại trong túi áo. Buổi sáng hôm sau, bữa ăn sáng chỉ vẻn vẹn một bát xúp với vài cọng mì trong nước, chủ yếu là nước. Nhìn vào tô xúp bạn có thể thấy rõ đôi hàng lông mi. Ban quản lý nhà tù chắc đã nghĩ rằng bữa ăn tối qua quá hào phóng, cho nên đã quyết định giảm khẩu phần thức ăn ban ngày. Các anh em đã đồng ý chia sẻ một ít xúp của họ cho Hoàng. Yun cung cấp cho cậu một ít cơm và sau đó quay lưng lại với Hoàng, anh đã bẻ phần bánh bao còn lại đưa vào bát Hoàng và tiếp tục đưa cho cậu ăn. Vào lúc đó trái tim Hoàng đã tan chảy. Bỗng nhiên cậu quì gối xuống và khóc to tiếng. Có thể đây là lần đầu tiên cậu đã kêu khóc như một người lớn. 

Vừa khóc Hoàng vừa nói, “Anh ơi, em là một tên giết người ai cũng căm thù. Ngay cả bố, mẹ các anh chị em của em và người yêu không cần em. Tại sao anh lại yêu mến em như vậy? Bây giờ em không thể trả cho anh được, nhưng sau khi em chết và hoá thành ma, bằng cách nào đó em sẽ đền đáp lại lòng tốt của anh đối cùng em!” Yun được đầy dẫy tình yêu Chúa, quay sang Hoàng rơm rớm nước mắt nói, “Hoàng ơi, em hãy cảm tạ Chúa Giê-xu, vì các anh đều tin Ngài, chứ không thì các anh cũng đối xử với em như những người ở phòng giam số chín thôi. Hôm nay các anh yêu em bằng tình yêu của Chúa Giê-xu Christ. Vậy thì, sau khi em chết, không những em không thể trả cho các anh được, nhưng linh hồn em sẽ đi vào hoả ngục và bị hình khổ đời đời. Cho nên em hãy ăn năn và tin Chúa Giê-xu, vì chỉ Ngài là Đấng duy nhất có thể cứu em được”. 

Ngay lập tức Hoàng đã nói một cách rất thành thật với Chúa, “Chúa Giê-xu ơi, con cám ơn Ngài vì Ngài đã yêu thương một tội nhân như con”. 

Yun an ủi Hoàng. Khi ăn, anh đã nói cho cậu về sự sinh ra, sự chết, và sự sống lại, sự thăng thiên và sự trở lại lần thứ hai của Đấng Christ và giải thích cho cậu về sự cứu rỗi. 

Anh nói cho Hoàng biết “Nước dưới trần gian còn có luật pháp, thì nước trên thiên đàng còn hơn thế nữa. ở dưới đất này có nhà tù, thì đời sau còn có một nhà tù là hoả ngục đời đời”. 

Hoàng lắng nghe, và ánh sáng của Đức Thánh Linh chiếu le lói trong trái tim đen tối của cậu ta. Hoàng không thể kiềm chế được mình mà quì xuống trước Chúa và kêu gào bằng sự ăn năn thống hối và sự xưng nhận tội lỗi. 

Câu chuyện của Hoàng đã hé mở. Sau khi tốt nghiệp trường trung học, Hoàng đã làm việc ở một nhà máy điện ở thành phố ‘B’. Bố mẹ cậu, cả hai đều là Bí thư Đảng uỷ trong hai cơ quan lao động lớn. Gia đình cậu hưởng thụ một cuộc sống sung sướng và bố mẹ đều yêu thương cậu. Trong thời gian này Hoàng đã đính hôn, vợ chưa cưới của

cậu rất yêu cậu. Tuy nhiên Hoàng vẫn không quan tâm lắm đến những điều này. Những bạn bè cậu thuộc trong giới giang hồ. Những kẻ sống gấp, say sưa, và hành hung, làm thiệt hại mọi người. Thậm chí, chúng còn gom thuốc nổ lại và làm chết nhiều người. Vì vụ này mà công an an ninh đã bắt cùm. Nhưng nhờ sự ảnh hưởng của bố mẹ chúng, mà vụ án nghiêm trọng này được khoan hồng và Hoàng chỉ bị đi lao động hai năm. Cậu được thả ra vào mùng một tháng năm, 1983. Ai có thể nghĩ được rằng, vào đêm trước khi Hoàng được thả ra, cậu đã đánh nhau cùng với một người bạn cũng bị cải tạo lao động ở đó: Khi hai người ngồi nói chuyện, những lời nói giận dữ độc ác bắt đầu tuôn ra. Hai người nói về tương lai và cả hai đều cảm thấy cô đơn, sự vô nghĩa và vô vọng. Sau đó, hai đứa bắt đầu uống rượu để giết sự buồn chán, nhưng chúng càng uống thì càng tồi tệ hơn. Kết quả là chúng đã kết ước với nhau. Chúng đã quyết định: “Nếu chúng ta không thể sống với nhau được, thì tối nay chúng ta sẽ chết chung”. Sau đó, cả hai tên đã liều lĩnh đi lên nhà kho và ăn cắp hai dùi cui và năm cân thuốc nổ. Sau đó, chúng thề với trời rằng nếu một người bị người kia giết, thì người còn sống phải lấy xác của người chết là bạn mình để chuyển đổi năng lượng, bằng cách dùng thuốc nổ. Người sống sẽ ôm lấy người bạn đã chết và bằng cách đó đêm đó cả hai sẽ cùng chết chung với nhau. 

Mỗi đứa đều bắt đầu dùng cây dùi cui bằng kim loại khua chân múa tay với nhau, rồi đi đến chỗ choảng nhau. Hoàng khoẻ hơn, và khi đến vòng đấu thứ ba, cậu đã đánh gục và đập toác sọ bạn mình, làm não bắn tung toé. Khi Hoàng đang khiêng xác bạn mình, thì bị cán bộ phát hiện, và đã lập tức bắn cảnh cáo. Nhận thấy không thể theo như kế hoạch cũ nữa, cậu đã bỏ người chết lại và chạy trốn. Cậu chạy đến một huyện khác, thay đổi ý định không tự sát nữa. Cậu quyết định đi phiêu lưu khắp mọi thành phố lớn của đất nước, tham quan mọi thắng cảnh và kỳ tích và thưởng thức cuộc sống. Sau đó, chỉ khi cậu trở về nhà thì mọi cái mới kết thúc. 

Cậu mua một con dao bấm để cướp của không biết bao nhiêu khách đi đường và hãm hiếp không biết bao nhiêu cô gái. Cậu trải đã qua tất cả các thành phố, lên những núi nổi tiếng và những địa danh. Nhưng buông mình vào nhục dục và tội lỗi, vẫn không làm cậu thấy thoả mãn. Trên thực tế, cậu cảm thấy đau khổ hơn, càng bị dày vò và vô vọng. Cậu đã leo lên những đỉnh núi nổi tiếng, để người ta bói tương lai cho và cậu thờ phượng những tượng phật. Nhưng những điều đó không làm cho cậu thấy bình an. Trong sự tuyệt vọng, cậu đã mua một cái hộp đựng lưỡi lam, tháo cổ áo ra cậu dấu lưỡi lam vào trong cái cổ áo và vào cửa hàng tập hoá ăn trộm hai hộp thuốc ngủ. Sau đó, cậu mua vé tàu về nhà, ở đó cậu định tự sát. Tuy nhiên, kế hoạch đó đã bị thất bại. Khi Hoàng vừa xuống tàu, những công an an ninh đã bắt được. 

Nhưng trong những ngày ở tù đó, Hoàng đã giao phó mình cho Chúa và Ngài đã cứu cậu. Sau đó, Hoàng đã để cho Yun lấy những lưỡi lam dấu trong cổ áo mình… Hoàng có một sự đói khát Lời Chúa và luôn luôn yêu cầu Yun giảng Kinh Thánh cho mình. Hoàng thích hát những bài hát tôn vinh. Yun đã dạy em hát “Tôi yêu Chúa Giê-xu” Hoàng hát say sưa: 

“Tôi yêu Chúa Giê-xu, 

Tôi yêu Chúa Giê-xu, suốt cả đời sống tôi, 

Yêu Ngài trong khi mặt trời mọc, 

Yêu ngài khi bão tố nổi lên, 

Mỗi ngày trên đường đời, 

Vâng tôi yêu Chúa Giê-xu”. 

Nhìn chung, tù nhân bị kiểm soát rất gắt gao. Nếu có ai đó làm ồn sẽ bị hình phạt nặng nề. ở trên nền nhà trong phòng giam có một cái lỗ nhỏ, nhưng đút lọt một đầu người vào đó. Công an sẽ dí đầu kẻ nào vi phạm nội qui vào đó, hay đấm đá hoặc dùng báng súng đánh người đó. Đa số các tù nhân đều im lặng vì sợ hãi. Ai mà dám nói hay hát to tiếng? Tuy nhiên, các anh em ở phòng giam số hai vẫn hát luôn luôn, họ hát bằng giọng nhỏ nhẹ, hay đợi cho đến khi lính canh đi khuất thì mới dám hát to hơn. 

Hoàng tuy đã nhận ân điển của Chúa, nhưng vẫn là một tử tù đợi ngày hành quyết. Em không sợ chết. Ngày và đêm em hát rất to, “Tôi yêu Chúa Giê-xu…” Kỳ lạ là chẳng có một lính gác nào quan tâm. Sự can đảm của các anh em tăng lên. Phòng giam này đầy dẫy tiếng hát, tiếng cầu nguyện của các Thánh đồ và họ họp nhóm cả ngày. Hoàng có một sự khao khát về thập tự giá của Chúa và em đã nài xin “anh Yun ơi, hãy vẽ cho em một thập tự giá trên tường. Nếu công an có biết được, em chịu trách nhiệm hết cho”. Yun không thể làm thất vọng người tín đồ mới sắp sửa bị tử hình này. Nên khi được phép ra ngoài, anh đã tìm mảnh sành hay thuỷ tinh vỡ để có thể rạch một thập tự giá cho Hoàng ở trên bức tường phòng giam cứng như đá. 

Bức tường này được đổ bê tông, nên rất cứng. Yun đã nỗ lực dành thời gian quí báu của mình cho đến khi một thập tự giá rộng và to hiện ra trên tường. Dưới thập tự giá anh vẽ một bức tranh về thế giới và trên những đường nét đó có dòng chữ “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian”. 

Những anh em, đặc biệt là Hoàng đều trầm trồ sung sướng. Em rất vui mừng đến nỗi đã kêu lên. Em đề nghị Yun hãy vẽ ở dưới thập tự giá một cái mộ, có một hòn đá chắn trước cửa mộ, có dòng chữ đề, “Nấm mộ của Hoàng, là người đã nhận được ân điển”. Yun càng rạch, anh càng có thêm sức lực. Cuối cùng cửa nhà giam và bốn bức tường được che phủ bằng những câu: “Đứa con hoang đàng đã trở về”, “Trong sự đau khổ đã phó thác cho Chúa”. (Giăng 3:16); (Rôma 3:23-24) và những câu Kinh Thánh khác. Ngợi khen Chúa! Chúa nói: “Ta đã ban cho ngươi chìa khóa của Đa-vít và Ta đã mở một cánh cửa không ai đóng được, và đóng thì không ai mở được” (Khải huyền 3:8) Đúng như vậy. Mặc dù họ làm mọi điều đó, không một lính gác nào để ý đến và kể từ lúc đó không ai vào phòng giam để điều tra. 

Thập tự giá và những câu Kinh Thánh còn lại trong phòng giam này cho đến ngày hôm nay. Mỗi một tù nhân đến phòng này đều được đọc câu Kinh Thánh đó, và nhiều người đã ăn năn và tin Chúa Giê-xu. Các anh em đã dùng những kim gài của những huy hiệu

nhà tù mà họ phải đeo để làm những cây kim. Họ tháo từng sợi chỉ của khăn mặt. Mỗi người đã khâu một thập tự giá rất trang nhã trên ngực trái của bộ đồ tù nhân. Họ đã xét may một thập tự giá màu đỏ trên áo của Hoàng. Chẳng bao lâu, mỗi người đều có thập tự giá trên ngực mình và họ thật hết sức cảm động, đều quì xuống và khóc. 

Ngày mà Yun kết thúc sự kiêng ăn ngày thứ bảy tư là ngày anh gặp mẹ và vợ. Anh đinh ninh rằng sẽ không thể nào thoát khỏi sự hình phạt nặng nề và tàn nhẫn ngày càng gia tăng hơn. Cho nên trong lòng, anh đã chuẩn bị cho cái chết. Nhưng ai có thể biết được rằng Chúa đã thương xót anh và đã che chở anh cho hai tháng tiếp theo, đến khi tin lành được phát triển trong tù? Chỉ sau đó anh mới bị đưa trở lại sự xét xử. 

Công an an ninh đã chuẩn bị tới nơi tới chốn cho cuộc hỏi cung này. Trong hai tháng qua, họ đã điều tra tới những huyện và làng xã, những nơi mà Yun đã hoạt động ở đó. Họ đã huy động một cuộc điều tra rộng lớn và qui mô và tìm được nhiều sự sáng tỏ về những tội phạm hình sự. Khi Yun được đi hỏi cung, anh thấy trong người rất yếu. Tuy lần này anh sẽ nói, nhưng công an sẽ chắc chắn thất vọng. Anh xin các anh em trong phòng giam hãy cầu nguyện dốc đổ cho mình, còn anh cầu xin Chúa ban cho mình đủ sức lực và đức tin để đương đầu với cuộc hỏi cung một cách thắng lợi. 

Người quan toà khoảng chừng hơn ba mươi tuổi, một người thấp bé, có khuôn mặt tối sầm và một cặp mắt nham hiểm. Ông ta có khuynh hướng ưa thích bạo lực. Khi Yun được đưa vào, ông bắt đầu với Yun bằng sự điên cuồng. Người ngồi cạnh ông là một người đàn ông cao to trạc tuổi năm mươi. Tóc ông ta bạc trắng, ông có một nụ cười trên mặt và có vẻ nhẹ nhàng hơn. 

Phiên toà bắt đầu và ông chánh án nói với Yun, “chính phủ đã tha cho anh và thấy anh không được khoẻ về thân thể, chúng tôi đã cho anh mấy tháng để nghỉ ngơi. Nên hai tháng qua chúng tôi không gọi anh lên. Bây giờ sức khoẻ anh đã hồi phục và anh đã có đủ thời gian để suy xét. Hôm nay anh có cơ hội để nhận sự khoan hồng thông qua sự thành thật và để lập công chuộc tội” anh phải cúi đầu xuống và thú nhận tội lỗi”. Sau đó ông quan toà hỏi Yun những câu hỏi sau: 

1. Ai là người liên lạc với anh ở vùng ‘A’ 

Anh đến đó định kỳ ra sao? 

2. Anh đã phát triển sự tuyên truyền phản cách mạng ở thành phố ‘B’ bằng những loại hình gì? Anh đã xúi giục tín đồ chống lại chính sách tôn giáo của Đảng ra sao? 

3. ở thành phố ‘G’ anh đã có những hoạt động gì? 

Bị dội bom bằng những câu hỏi như vậy, câu trả lời duy nhất của Yun là tôi không biết. Điều đó càng chọc tức ông quan toà, nên ông đã đập xuống ghế rầm rầm. Sau đó nghiến răng, ông nói, “Thử coi, hôm nay anh bảo vệ mình ra sao. Hãy đưa cái máy ra đây!” 

Một anh công an đã đem một máy nghe băng đến và bật lên. Một giọng người đang giảng kèm theo với tiếng khóc nói, “anh em ơi, đừng để bị con dâm phụ (con đĩ) lừa dối… đừng quá ngây thơ vì sự trá hình của con đĩ… Hãy như Phi-nê-a cầm một ngọn giáo trong tay (xem Dân-số-ký 25, 6-18)… Đừng như Giu-đa và phản bội Chúa và bạn bè. Anh em hãy sẵn sàng làm một người sẵn sàng hy sinh cho Chúa… hãy dấy lên, hãy trung tín và can trường rao giảng chân lý”. Từ trong máy có tiếng nhiều người khóc. Sau đó người giảng đã hát bài này: 

“Hãy dạn dĩ và anh dũng, hãy dạn dĩ và anh dũng, 

Vì Chúa ở với bạn, hãy dạn dĩ và anh dũng. 

Dù có hàng nghìn ma qủi, dù có hàng chục nghìn kẻ thù. 

Hãy tin cậy Đấng cứu chuộc, đừng sợ hãi, 

Hãy dạn dĩ và anh dũng”. 

Kế tiếp ngay sau đó người anh em đó cầu nguyện bằng một giọng buồn rầu và xúc động làm rung chuyển trời đất: 

“Chúa ơi, xin hãy cất đi những đám mây đen bao phủ trên bầu trời đất nước chúng con, hãy trói buộc những quyền lực tối tăm, hãy phá đổ sự kiểm soát của tà linh. Chúng con xin Ngài hãy thay đổi tấm lòng những người cầm quyền hiện thời trên dân tộc chúng con, hãy giải phóng tất cả các anh chị em đang trong tù và xin hãy dấy lên những Ê-xơ-tê và Đa-ni-ên cho thế hệ này…”. 

Sau đó nghe thấy giọng của hai người anh em khác hướng dẫn sự cầu nguyện. 

Khi Yun nghe thấy chính mình đang giảng, hát và cầu nguyện trong buổi nhóm ở thành phố ‘B’ hai năm trước đây, trái tim anh được cảm động mạnh mẽ bằng quyền phép qua chính bài giảng và lời cầu nguyện của mình. Ngay lập tức anh đã mặc vào toàn bộ khí giới của Đấng Christ và Gươm Đức Thánh Linh trong tay. Anh đứng trong toà án với tư cách là một nguyên soái của nước trời. 

Chiếc máy nghe băng tắt cái cạch. Ông quan toà tin tưởng nói với anh “anh đã nghe rõ những điều đó! Lời giảng, cầu nguyện và đúng là giọng hát của anh, là một sự chống đối rõ ràng và ngông cuồng đối với đảng chúng ta, và đã làm phật ý chính phủ, vì nói rằng nhà thờ, Hội Thánh của chính phủ là một con đĩ. Bây giờ anh phải thú nhận đó có phải là giọng của anh không? Những người cộng tác với anh kia là ai? Hai người cầu nguyện tiếp sau anh tên gì?” 

Yun trả lời, “Giọng trong băng không rõ lắm và tôi không thể nhớ được có phải đó là giọng của tôi giảng và cầu nguyện không. Xin hãy cho nghe lại một lần nữa”. 

Ông quan toà thật giận dữ, đến nỗi tròng mắt muốn rơi ra ngoài, và ông lại đập băng

ghế một lần nữa. Ông tiến đến gần Yun, chỉ ngón tay vào mặt Yun, và nguyền rủa anh, “Mày là thằng đểu sự minh bạch chống lại mày sờ sờ như một ngọn núi mà còn ngoan cố hả, còn dám nói với tao như vậy hả? Bây giờ tao ra lệnh mày phải quì gối xuống và lặp lại lời cầu nguyện mà tao đã nghe đó một lần nữa!”. 

Trong phòng xét xử có nhiều công an vũ trang cầm roi điện quát vào Yun “quì xuống! quì xuống! quì!…” 

Nhưng quyền phép của Chúa đã giáng trên Yun và anh vẫn giữ chí khí mạnh mẽ và anh dũng. Không hề sợ hãi gì cả, và bằng một giọng đầy uy quyền anh nói, “Các ông lấy quyền gì mà ra lệnh cho một tôi tớ Đức Chúa Trời phải quì xuống trước các ông? Kiều hỏi cung như thế này hoàn toàn không hợp lý. Bây giờ trong Danh Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét, tôi ra lệnh cho các ông hãy quì xuống. Tôi sẽ đặt tay trên các ông và cầu xin Chúa tha tội cho các ông. Hãy quì xuống! tất cả các ông hãy quì xuống!”. 

Liền đó, ông quan toà mặt đỏ phừng phừng vì điên tiết, tai đỏ tía, còn miệng thì méo lại vì quá tức tối và đôi mắt nẹt lửa. Ông mất bình tĩnh một hồi lâu và cứ đập bàn liên hồi và thét lên khản cả giọng, “Phản bội! Phản bội! Sao mà một tên tù nhân chính trị phản cách mạng lại dám ra lệnh cho những người trong toà án của công an Bộ nội vụ phải quì xuống!… Mày… Mày… Mày láo vừa thôi nhá! Mày… Mày… Mày không phải là người nữa!”. 

Vâng đúng thật như vậy, thưa bạn đọc, anh Yun không phải là một người bình thường, khi anh tuyên bố vào buổi chiều bị bắt rằng ‘Tôi là người trời’. Vâng, chỉ những người như thế, với ân tứ từ Trời mới có sự anh dũng từ trời! Bởi vì Yun đã tôn cao Chúa Giê-xu Christ, và dạn dĩ và không khiếp sợ như một con sư tử, nên kế hoạch của công an Bộ nội vụ đã không đạt được kết quả gì. Ha-lê-lu-gia! Sự vinh hiển về Danh Ngài! Để xử với Yun, công an Bộ nội vụ đã yên lặng chờ đợi, tìm mưu kế và dùng mọi biện pháp, kể cả những hình thức tra tấn man rợ nhất, nhưng cuối cùng họ không thể bắt anh khai một lời để tự buộc tội mình. Hơn nữa, Những trò rẻ tiền của họ đã bị lộ tẩy. Cho nên họ đã gửi ‘trường hợp này’ cho những kẻ bắt bớ ở vùng ‘B’ và cho Toà án Nhân dân ở vùng đó. Sau nhiều ngày, những kẻ bắt bớ ở vùng ‘B’ đã bắt Yun đi xét xử. Ai mà lường trước được rằng, người xét xử Yun lại là người anh em con chú con bác với anh? Yun biết rằng đó lại là một trò khác của ma quỉ!. 

Vị quan toà nói với Yun, “Chiếu theo tài liệu gửi cho chúng tôi từ phòng công an an ninh ở thành phố ‘B’ liên quan đến vụ của anh, anh đã phỉ báng chính sách của Đảng chúng ta là những kế hoạch của ma quỉ. Hơn nữa anh đã tấn công chính sách tôn giáo của đảng chúng ta là những kế hoạch của ma quỉ. Hơn nữa anh đã tấn công chính sách ôn giáo của đảng chúng ta và đã cổ động tín đồ chống lại sự lãnh đạo của đảng và chính quyền nhân dân. Thể theo những điều đó cũng đủ đã kết án anh mười năm tù, tù chung thân và bị tử hình. Hôm nay, anh có thể nói trực tiếp với tôi về sự thật là những điều đó có đúng vậy không. Anh phải nói cho tôi biết các tên họ những người kia và phạm vi hoạt động của họ, chỉ như thế anh mới có thể lập công và chuộc tội mình. Chỉ bằng cách đó, nếu anh làm như vậy, tôi có thể tìm cách để giảm án cho anh”. 

Yun trả lời không chút lưỡng lự, “Mặc dù ông là họ hàng với tôi, ông phải làm phận sự mình và tôi sẽ giữ niềm tin của tôi. Tôi phải thành thật đối với Chúa mình. Tất cả những gì ông vừa nói là không sát thực. Tôi không biết”. 

Người anh em con chú con bác của anh không thể làm gì được và cuối cùng, ông chỉ biết nói, “Anh phải lắng nghe lời cảnh tỉnh của tôi, nếu không anh sẽ sống mà hối tiếc nó!”. 

Những nhà chức trách của toà án nhân dân ở địa phận ‘B’ bắt đầu xét xử trường hợp của Yun. Hai công an đã đưa Yun và hội trường chính của toà án. Trên đường đi đến đó, Yun đầy tràn sự vui mừng. Khi anh đi đến phòng xét xử, anh trông thấy nhiều chiếc ghế trống và anh không biết chỗ nào là của bị cáo, chỗ nào là của nguyên cáo hay chánh án và, không chút suy tính, anh ngồi ngay vào ghế dành cho chánh án. Ông chánh án nói giận dữ, “Ê, ai xét xử ai vậy? Anh dám cả gan ngồi vào hàng ghế của quan toà à. Hãy xuống ngay!”. 

Yun đứng lên và nói nhẹ nhàng, “Nếu như ông kiên quyết đòi tôi xuống. Đáng lẽ ông phải nói cho tôi biết từ đầu”. Khi anh làm như vậy, anh tự nghĩ, “Đến một ngày, cùng với Chúa, trên ngôi của Ngài tôi sẽ xét xử ông là nhân dân, và tôi sẽ xét xử những thiên sứ!”. 

Phiên toà bắt đầu. Trong phòng toà án có những sĩ quan công an, những nguyên cáo, những sĩ quan của mặt trận thống nhất và những viên chức của các cơ quan khác nữa, tổng cộng là bốn đến năm mươi người. Đằng sau băng là ông quan toà, thẩm phán, nguyên cáo và bí thư, tất cả cộng lại là tám hay chín người. Trên băng là một quyển Kinh Thánh và nhiều sách bồi linh khác”. 

Ông quan toà nói ngạo nghễ, “Anh Yun, những chiến lợi phẩm này là của anh phải không?”. 

Khi nghe thấy từ ‘chiến lợi phẩm’, Yun rất bất bình và với một thái độ cương trực anh nói, “Đây không phải chiến lợi phẩm, đúng hơn đây là những vật thánh cho Chúa”. 

Ông quan toà lưỡng lự, không biết nói gì “không cần biết là anh gọi nó là gì, có phải nó là của anh không?” 

Yun trả lời, “hãy đem chúng lại đây cho tôi xem”. 

Một công an đem quyển Kinh Thánh cho Yun, Yun mở ra và thấy tên mình ghi trong đó. Anh nói “Đấy là của tôi”. Rồi anh xem một bản sao của “Dòng sông trong xa mạc”. Với một sự đói khát lớn, anh bắt đầu xem qua, như anh đã tìm gặp một người bạn bị thất lạc từ lâu. Anh xem lời cầu nguyện ngày mười bốn tháng tám và mắt anh dừng lại câu Kinh Thánh trên đầu trang, “Nếu chẳng phải từ trên cao đã ban cho ngươi, thì ngươi không có quyền gì trên ta” (Giăng 19, 11) Yun xem Lời Chúa ban cho anh ngày hôm đó, biết rằng thời gian đã đến. Anh phải đầu phục ý muốn Đức Chúa Trời và đi con đường đi xuống mà Ngài đã định cho anh. Cho nên không chút lưỡng lự và sợ hãi anh

nói với quan toà, “những cái này là của tôi”. 

Sau đó họ đã bật lại băng giảng của anh. Khi nghe, anh đã được thêm sức mạnh và anh xưng nhận, “Đó là của tôi” Sau đó họ tiếp tục hỏi Yun về những anh em cộng tác của anh và những người khác, nhưng anh nói không biết gì hết. 

Sau một hồi giải lao ba mươi phút, toà án lại triệu tập lại để nghe lời kết án. Theo kế hoạch lúc đầu của công an an ninh, Yun phải bị xử tử. Dẫu sao, Chúa còn nhiều việc cho anh phải làm. Cho nên, ai cũng ngạc nhiên, anh chỉ bị kết án bốn năm tù. Khi anh về phòng giam, các anh em vui sướng quá đỗi khi thấy tình thế thay đổi. Tất cả đều cúi đầu và thờ phượng Đức Chúa Trời. 

Vào buổi chiều ngày mười sáu tháng tám các anh em đã báp-tem cho Hoàng và hai người nữa. Những người đó được đưa đến phòng giam sau khi mười lăm người đã được báp-tem. Một người trong số đó bị án tù chung thân. Anh ta đang ở tuổi hai mươi, và là trùm sỏ của một băng đảng. Trước khi bị bắt anh dính vào những vụ cướp giật, hành hung, và những tội phạm nghiêm trọng khác không thể kể hết ra (người Trung Quốc nói: “ống nứa sẽ bị bục ra nếu mà kể hết tội”). Những điều anh kể có thể sẽ làm cho người nghe hoang mang sợ hãi. Chiếu theo luật pháp chính phủ, con người này phải bị tử hình. Nhưng bởi vì người bà con anh là một sĩ quan cao cấp, án tử hình đã giảm xuống thành tù chung thân. Người kia là một thanh niên mới ngoài hai mươi, bị kết án hai mươi năm tù. Anh có vợ và bố mẹ ở nhà. Bản tính vốn rất hung ác và rất lẽo mép và đã lừa dối nhiều phụ nữ. Người này đã dụ dỗ biết bao cô gái chưa chồng phạm tội ngoại tình với mình. Trầm trọng hơn, người này đã lẻn vào phòng ngủ của các nữ học sinh của một trường trung học kia, cùng với nhiều kẻ khác chúng đã cưỡng hiếp nhiều nữ học sinh. 

Khi hắn bị công an bắt, họ đánh đập hắn thập tử nhất sinh. Khi bị đưa vào phòng giam số hai, hắn không có áo và trên thân thể đầy những vết sẹo. Yun đã có lòng thương xót đối với hắn giúp hắn bằng mấy cái áo. Cho nên hắn đã được đụng chạm, và sau đó đã ăn năn và tin Chúa. Con người hết sức gian ác này đã tìm thấy sự sống mới trong nơi chốn này. Sau buổi lễ báp-tem các anh em hát bài hát này: 

“Tôi có một ngôi nhà vinh hiển trên trời (hát ba lần) 

và tôi sẽ luôn luôn nhớ tới. 

Chúa Giê-xu có thể cứu tôi và Ngài có thể cứu bạn, (hát hai lần) 

Chỉ hãy đến và tin vào Ngài 

Điệp khúc: 

Chúa ơi, Chúa ơi, đừng lìa bỏ con, (ba lần) 

Hãy luôn luôn nhớ đến con”. 

Từ nhóm này đến nhóm khác bắt đầu hát. Tiếng hát vang dội khắp các phòng giam của nhà tù. Nước mắt rưng rưng, Hoàng nói “anh ơi, những người trong gia đình em có thể được cứu không? Mẹ em có thể được ở cùng với em trong tương lai không?”. 

Yun nói, “Em phải cầu nguyện dốc đổ cho bố và mẹ em. Chắc chắn họ sẽ tin Chúa và trong tương lai họ có thể ở cùng em”. Buổi tối hôm đó, Hoàng đã thức thâu đêm cầu nguyện cho bố mẹ mình. Vào buổi sáng ngày thứ hai, Hoàng nói với Yun, “Thưa anh, có một điều em xin anh hãy giúp em. Em sẽ viết một lá thư cuối cùng cho bố mẹ em. Anh có thể tìm cách gửi đến cho họ được không?” 

Yun nói, “Được chứ, anh chắc chắn sẽ tìm được cách. Nhưng chúng ta lấy bút và mực ở đâu?” 

Hoàng nói, “Em đã có cách” 

Sau đó em quay lại và nói với lính gác đang đứng bên ngoài cửa và gọi to, tôi muốn trình đơn lên toà. Hãy đưa cho tôi giấy và một cây bút”. Ngay sau đó, tên lính gác đưa tới một cây bút bi và hai tờ giấy. 

Bây giờ bạn có thể hỏi làm sao một con người bị trói hai tay ngoặt đằng sau lưng lại có thể viết được? Ngợi khen Chúa, sau khi em ăn năn, Yun đã nói với lính gác, “Hoàng sẽ không còn tìm cách tự sát nữa, nên hãy mở còng tay cho cậu ta!” Tuy cả hai tay bị trói lại đằng sau lưng, nhưng em có thể đưa tay phải lên gần miệng. Khi em ngồi ở hành lang, em để tờ giấy bên tay phải và dựa người viết lá thư cuối cùng, vừa viết vừa khóc. 

Tuy nhiên, sau khi viết được vài dòng, thì bút hết mực. Tức khắc và không lưỡng lự em cúi đầu cắn vào ngón tay phải và dùng máu đó để viết một “huyết tâm thư” đầy xúc động. (người Trung Quốc có câu: khi một người gần kề cái chết, những lời đó là chân thành nhất; như một con chim gần kề cái chết, tiếng kêu nó thật thảm thiết) Lá thư đó viết như sau: 

“Kính thưa bố mẹ; 

Con trai của bố mẹ không kính trọng bố mẹ. Con trai bố mẹ biết rằng, bố mẹ yêu thương con. Sau khi con ra đi, bố mẹ đừng buồn. Con trai của bố mẹ không nói cho bố mẹ biết về những tin hung bây giờ đâu – con không chết vì con đã nhận được sự sống đời đời. Trong tù con đã gặp được một người tuyệt vời, đó là Yun, người anh đáng kính trọng. Anh đã cứu đời sống con, đã dẫn con đến với Chúa Giê-xu. Hơn nữa anh đã quan tâm đến con về mọi mặt và đã yêu cầu con bằng tất cả những gì anh có. Anh cho con ăn mỗi ngày. Kính thưa bố và mẹ, chẳng bao lâu con sẽ bước vào thiên đàng. ở đó cầu nguyện cho bố mẹ. Bố mẹ phải tin Chúa Giê-xu và cho phép anh Yun có cơ hội giảng tin lành cho bố mẹ. Đến lúc đó anh sẽ nói cho bố mẹ biết những điều liên quan đến con. Con cầu nguyện cho bố mẹ nhận được sự sống vĩnh cửu và con có thể gặp bố mẹ trên thiên đàng!”. 

Vào buổi chiều đó, không khí trong nhà tù đặc biệt căng thẳng. Cứ năm phút lại có lính tuần tra đi qua cửa phòng giam của họ. Cứ ba mươi phút lính lại vào phòng họ và khám xét mỗi người. Tù nhân biết rằng cứ mỗi lần điều đó xảy ra, có nghĩa là vào ngày hôm sau có một tù nhân bị tử hình. Vừa khóc, các anh em vừa rửa chân cho Hoàng. Nhưng trái tim Hoàng đầy dẫy một sự bình an yên nghỉ kỳ lạ và em đã từ giã các anh em bằng một nụ cười trên gương mặt. 

Cả buổi chiều Hoàng đều hát, ‘Tôi yêu Chúa Giê-xu’ và ‘Tôi có một ngôi nhà vinh hiển ở phía bên kia’. Vào ngày mười sáu tháng tám, ba ngày sau khi Hoàng nhận báp-tem một cơn mưa nhẹ rơi bên ngoài trời. Vào sáng sớm, cửa nhà tù mở ra bằng một tiếng kêu. Một người lính có vũ trang chỉnh tề đứng ở cửa ra vào và nói bằng một giọng lớn, “Hãy đưa Yun đi”. 

Sau đó tên lính nói, “Hãy đưa Hoàng đi” 

Hoàng nói với mỗi người, “em sẽ gặp lại các anh em ở trên thiên đàng” Em bị đưa đi. Khi em đến gần pháp trường, em đã chuẩn bị tư thế để chết. Khi em bước đi, em vẫn ngoái đầu lại nhìn vào Yun, nghĩ rằng Yun có thể bị đưa đi khỏi. Một tiếng súng nổ. Thân thể em tuy nằm chết vì kết quả của tội lỗi, linh hồn Hoàng đã lên yên nghỉ trong Chúa Giê-xu, Đấng chăn chiên lớn. Giống như có chép rằng, “Đức Chúa Giê-xu đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn, đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy”. (I. Ti-mô-thê 1, 15) 

Yun bị trói từ đầu đến chân và bị quẳng vào trong xe thùng không nắp. Anh bị đưa đi để bị bêu gương và bị đấu tố. Yun không thể kìm chế được niềm vui đang tuôn trào, nên anh hát về Chúa Giê-xu và nói về Chúa Giê-xu. Điều đó càng làm cho anh chỉ huy công an rất căm tức. anh ra lệnh cho cấp dưới của mình hãy trói Yun càng chặt hơn. Điều đó không làm cho anh nao núng. Anh càng tôn vinh Chúa to tiếng. Viên chỉ huy dí roi điện vào gáy anh. Nghiến răng đe doạ anh, “Tao nói cho mày biết, nếu mày còn hát theo kiểu đó khi bị đi diễu hành để bị người ta bêu gương, thì khi về nhà tù, tao sẽ lột da sống mày” ở đó có tám đến chín tù nhân cùng đi trong xe, để bị đưa ra bêu rếu trước công chúng hôm đó. Trong số đó có một cô gái trẻ ngoài hai mươi tên Xiaojiun. Cô bị trói cùng một sợi dây như Yun và đứng đằng trước. 

Chiếc xe chở tù binh chạy chậm chậm vào trong phố và khi cơn mưa càng rơi nặng hạt, Yun nói lên tiếng, “Chúa ơi, con thật đói khát cơn mưa của ân điển Ngài biết làm sao! Xin hãy đổ xuống cơn mưa ân điển của Ngài trên tôi tớ Ngài!” Sau đó anh bắt đầu hát; 

“ở giữa thế hệ hung ác và truỵ lạc này, 

tất cả đều sẽ thay đổi, trời và đất sẽ rúng động, 

ma quỉ giận hoảng, 

nhiều tôi tớ và tín đồ đã bặt tăm. 

Trong trái tim bạn có sự sợ hãi, 

nghi ngờ và không có sự dẫn dắt chăng? 

Hãy dấy lên, dạn dĩ anh dũng và trung tín vì Vua của chúng ta. 

 

Điệp khúc: 

Hãy trung tín, hãy trung tín, 

hãy rao giảng sứ điệp này khắp nơi nơi, 

Hãy trung tín với những điều đã được giao cho bạn, hãy trung tín với Chúa vinh hiển của bạn, hãy trung tín, 

hãy trung tín dù số đông không theo bạn. 

Dù bạn phải gặp bất cứ điều gì, hãy sát cánh bên Chúa, 

Hãy để cho Chúa thấy bạn trung tín”. 

Những người bên đường phố cầm ô che nhìn khung cảnh đó một cách thu hút. Những tín đồ rất xúc động và bắt đầu khóc. Xiaojuan, đã bị trói với Yun, rất lúng túng và cô gục đầu xuống vì sợ những người cùng quận mình nhìn thấy mình bị bêu gương. Nhưng Yun vẫn hát và giảng, thực tế anh thật vui mừng và muốn nhảy nhót. Xiaojuan nhìn anh kinh ngạc. 

Cô nói với Yun, “Anh kia ơi, hôm nay chúng ta bị bêu gương và đấu tố, tại sao anh lại có thể vui mừng như thế được?”. 

“Làm sao tôi lại có thể sung sướng như vậy được ư? Bởi vì tôi được kể là xứng đáng chịu phục vì Danh Chúa Giê-xu!” Khi nghe thấy điều đó, gương mặt của cô đỏ lên. Yun vẫn hát to tiếng. 

“Mặc dù cả thế giới có căm ghét tôi; bạn bè tôi bỏ tôi, 

thân thể tôi tan nát; vì sự kiện cáo, vu khống, bắt bớ, ruồng bỏ và đánh đập; thậm chí tôi phải đổ máu và hy sinh. 

Trong cả đời sống tôi, 

tôi chỉ muốn làm đẹp lòng Cha Thiên Thượng. 

Để được nhận một mão triều thiên 

và bước vào nước thiên đàng”. 

Xe chở tù binh đi đến con đường làng. Yun nhìn ra và thấy đã gần cuối thu và khắp cõi giống như một ông già đau bệnh. Không có màu xanh và hoa. Không có gì là sự sống. Mọi nơi đều là sự hiu quạnh và trông thật thảm thương. Nhìn vào xung quanh, Yun chợt nghĩ về tình trạng Hội Thánh và không thể kìm chế được mình. Anh không ngăn được nỗi buồn và nước mắt tuôn chảy khi anh hát bài: 

“Hãy nhướng mắt lên mà nhìn vào cánh đồng gặt mênh mông vắng vẻ. 

Trái tim Chúa tan nát mỗi ngày; ai sẵn sàng ra đi cho Chúa? 

Mắt tôi tràn giọt lệ, máu sục sôi trong lòng ngực, 

Khi tôi giương cao ngọn cờ của Đấng Christ 

và cứu những con chiên bị lạc mất” 

Cơn mưa đổ xuống xối xả hoà với nước mắt anh. Khi nghe tiếng hát đầy xúc động đó, Xiaojuan không còn lúng túng nữa nhưng rất xúc động. Tình yêu của Yun đối với Chúa đã thu hút cô. Cô không kìm được lòng mình và bắt đầu khóc vì ăn năn. Thình lình, cô quay lại và lấy ra một chiếc khăn tay trong túi áo. Sau đó, đứng trên đầu ngón chân cô đã lau những giọt nước mắt của Yun. 

Yun rất cảm động, kinh ngạc nói với cô gái bằng giọng trìu mến, “này em gái, tôi bị đấu tố vì cớ Chúa. Còn em, tại sao em lại ở đây?” 

Xiaojuan bắt đầu khó nức nở. Cô nói, “em cũng tin Chúa Giê-xu, nhưng mẹ em và em không sẵn sàng chịu khổ. Cả hai đã bị liên luỵ đến một cuộc ẩu đả với hàng xóm và em gái em đã xé áo quần của đứa con gái của nhà hàng xóm. Họ là những người có quyền thế và mẹ em và em đã bị bắt vào tù”. 

Yun thấy thương cảm, và anh nói với cô, “đứa con hoang đàng trở về còn quí hơn vàng bạc. Chưa quá muộn để quay lại. Em gái ơi, em phải biết rằng, hàng ngày Đức Thánh Linh bị em và mẹ em làm Ngài buồn. Hãy quay lại, Cha đang đợi em!”. 

Những lời của Yun đầy quyền phép như một cái búa và đập vào trái tim của Xiaojuan. Cô đã khóc nức nở và cầu nguyện, “Chúa ơi, xin thương xót con, và tha tội cho con”. 

Yun đã cầu nguyện khẩn thiết xin Chúa thương xót cô. Cảm tạ Chúa, vì ngay lập tức cô đã nhận sự bình an trong lòng. Sau đó Xiaojuan quay sang với anh, “Em có nghe nói về anh Yun bị tù vì cớ Chúa và phải chịu nhiều đau đớn. Anh có biết người đó không? Bây giờ người đó ở đâu?” 

Yun cười bảo, “Em muốn nhìn thấy người đó sao?” 

“Làm sao em có thể gặp được người đó?” 

“Đó là người đang nói chuyện với em” Yun trả lời. 

Khi cô nghe rằng người đứng trước mình là tôi tớ Chúa đã kiêng ăn cầu nguyện bảy mươi tư ngày, và cô thấy được sự dạn dĩ và can đảm của Yun trong buổi này, thì cô thật xúc động, nên lập tức cô đã giữ chặt anh. Cô nhìn vào anh kinh ngạc và nói với mình, “Chúa ơi, con cảm tạ Ngài! Chúa con ngợi khen Ngài”. 

Cơn mưa vẫn cứ không ngớt. Cơn mưa vào cuối mùa thu và những đợt gió lạnh đập vào mặt đến nỗi rét run cầm cập. Tất cả các lính công an đều có áo che mưa để mặc. Họ không để ý gì đến Yun. Vì kết quả của cơn mưa to quá mà buổi đấu tố bị bãi bỏ. Yun và những tù nhân khác được đưa về đồn công an. 

Buổi chiều hôm đó mỗi tù nhân được ăn một cái bánh bao. Những con người tội nghiệp thật là đói bụng, đến nỗi họ gần ngất xỉu. Họ bẻ những miếng bánh làm hai và nuốt luôn. Xiaojuan đã giữ lại một cái đưa cho Yun. 

“Anh Yun ơi, những nữ tù nhân được ăn uống khá hơn những tù nhân nam, và hôm nay em không đói. Anh hãy cầm lấy cái bánh này và ăn đi”. 

Yun rất cảm động. Nhưng Yun biết rằng cũng giống như anh, cô cả ngày nay không ăn gì. Làm sao anh có thể nhận của cô một cái bánh bao duy nhất này? 

Bỗng nhiên, Yun nhớ lại lời Chúa và nhận ra rằng Chúa muốn anh hiểu được một chân lý quan trọng, “Ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh” (Công vụ các sứ đồ 20: 35). Anh nhận cái bánh bao, và sau khi chúc phước anh đã bẻ ra làm hai và giữ lại miếng bé hơn và đưa miếng lớn hơn cho Xiaojuan. 

Anh nói, “Chúa nói với tôi, ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh. Cho nên cả hai chúng ta đều nhận sự chúc phước này”. Sau đó cả hai cùng ăn miếng bánh trong nước mắt. Không lạ gì, chiếc bánh bao đó rất thơm và ngọt bùi. 

 

15. Chúng tôi đi quả lửa qua nước; nhưng Chúa đem chúng tôi ra nơi giàu có. 

Vào một ngày tháng mười 1984, Yun bị đưa khỏi trại tạm giam của thành phố ‘B’ và đưa đến trại lao động cải tạo Baoshan. Trại nằm ở ranh giới tỉnh Henan và Hubei. Có một rặng núi bao phủ xung quanh, nên khí hậu ở đó khá đặc biệt. Hầu như cả năm trời mưa và sương mù. ở đó có rất nhiều muỗi và rắn độc. Dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa, nên trại cải tạo có hơn một nghìn tù nhân này được bao bọc bởi những ruộng lúa nước. Trong bốn năm Yun ở trại cải tạo, phân và nước trở thành người bạn hàng ngày của anh. Mỗi lần, anh xuống ruộng lúa để làm việc, đỉa bò lên chân và bắp đùi anh, nhiều đến nỗi người ta chỉ cần quơ một cái là được một nắm. Để kỷ niệm cho

những năm đó, anh đã viết bài hát này: 

“Cứ hết mùa xuân, hạ, thu, đông, 

Tuyết đuổi theo mưa, 

Dầm dề những cơn mưa nặng hạt và ít những ngày trong sáng, 

Những con rắn độc, muỗi và đỉa, 

Roi điện, roi da”. 

Vào ngày thứ hai, khi Yun đến trại cải tạo anh phải đào một cái hố. Sau đó họ phải khiêng đất lên bậc thang, đến trên một con dốc. Từ ngày anh bị bắt, sức khoẻ anh bị giảm sút và những sự tra tấn trên thân thể làm cho thân thể anh rất yếu. Khi anh vật lộn để khiêng một thùng đất lên đầu bậc thang, anh đã bị hoa mắt và ngất đi. Anh đã ngã xuống cùng với thùng đất trượt xuống dưới chân. Một lúc lâu sau anh mới tỉnh lại. Vì thấy chuyện như vậy, người cai đội đi hỏi thăm xem anh đã phạm tội gì mà bị kết án. Sau khi đọc lời kết án của anh, ông ta lắc đầu và nói nhỏ “à, là vì tin Chúa Giê-xu. Người tin Chúa 

Giê-xu không phải là người xấu!”. 

Cảm tạ Chúa, người quản lý đã thương cảm đến sự yếu đuối của tôi tớ Chúa. Kể từ lúc đó, người nhân viên có đôi chút nới lỏng cho Yun. Trước đó đã lâu, những người trong phòng của Yun đã cảm thấy anh không phải là con người bình thường. Những lời nói của anh có một sức mạnh đặc biệt, và anh nói bằng sự khôn ngoan. Anh đầy dẫy tình yêu và sự thông cảm đối với những người khác và mỗi người đều tôn trọng anh. Yun đã nổi tiếng trong tù là một cơ đốc nhân kiêng ăn bảy mươi tư ngày. 

ở đó có một vị linh mục công giáo bị bỏ tù mười năm, vì lý do dùng nhà thờ công giáo như một công cụ chính trị. Ông bị đưa đến trại cải tạo này trước Yun một năm, Yun tìm cách để gặp ông. Đầu tiên, ông linh mục thận trọng đối với Yun và không hề hồ hởi gì lắm khi chào hỏi anh. Nhưng Yun cầu nguyện khẩn thiết cho ông, và yêu mến ông từ tận đáy lòng và phục vụ ông. Anh cho ông sữa bột và vài thứ khác mà các anh chị em đã đem vào cho anh. Cuối cùng ông đến muốn biết tất cả về những tra tấn cực hình mà Yun đã trải qua trong tù và anh đã kiêng ăn cầu nguyện bảy mươi tư ngày ra rao. Ông hết sức tôn trọng anh và kể từ lúc đó thái độ của ông đối với Yun đã thay đổi. Yun đưa cho ông một quyển Kinh Thánh và vài sách bồi linh, ông hết sức sung sướng. Ông là một người rất có học thức, và sau khi đã nghiên cứu Kinh Thánh và những quyển sách khác, ông chấp nhận sự dạy dỗ của Hội Thánh cơ đốc. Ông trở nên một trong những cộng tác gần nhất của Yun ở trại cải tạo lao động. Ông giới thiệu cho những người công giáo ngoài nhà tù hãy đến mà thăm Yun. Sau khi cả hai cùng được thả ra, người linh mục đã đến thăm Yun thường xuyên và thường mời anh đến nhà thờ công giáo để giảng. Yun tin cậy vào Đức Thánh Linh và giảng bằng quyền phép lớn, đến nỗi chính anh và những giáo dân cũng được nhận lãnh. Yun đã có ảnh hưởng đến một đời sống

của một tù nhân khác có họ là Zhou, là người đã vào chùa lúc lên tám tuổi, để được tu luyện thành sư. từ đó, ông là một nhà sư qua nhiều thập niên và không chỉ ông có một kiến thức toàn diện về giáo lý phật giáo, mà ông còn là một người có nghệ thuật viết chữ đẹp. Mọi người càng ngạc nhiên hơn, khi thấy ông rất điêu luyện võ thuật. Ông có thể dùng ngón tay để đập vỡ gạch và đập vỡ đá bằng lòng bàn tay. 

Có một lần ông ra chợ để mua thứ gì đó, có một tên ăn cắp đã lấy cắp túi tiền ông. Ông đã túm lấy hắn và đánh rất nhẹ, nhưng tên ăn cắp đã chết. Điều đó đã bị trình thưa lên công an. Biết được Zhou có khả năng võ thuật điêu luyện, nên có nhiều binh lính được phái đến để bắt ông. Thậm chí nếu có thể bay được, thì ông làm sao có thể thoát khỏi những công an có vũ khí này? Cuối cùng Zhou bị bắt và bị đánh bằng roi điện và dùi cui nửa sống nửa chết. Cánh tay trái của ông đã bị gãy. 

Trong khi ông ở trung tâm tạm giam, ông được nghe về Tin lành của Chúa Giê-xu Christ và rất thích thú về những gì ông nghe. Ông bắt đầu nghi vấn về giáo lý phật giáo về ‘Vô sắc, vô dục, vô tư’ (no colour, no taste, no consciousness), và về năm kiêng (five abstinences). Sau khi bị kết án, ông bị đưa đến trại cải tạo lao động của Yun. Anh đã giải thích cho ông về con đường cứu rỗi cao hơn qua Chúa Giê-xu và chỉ cho ông thấy những sai lầm của phật giáo và tội lỗi thờ phượng thần tượng. Zhou bèn đem ra tất cả những giấy vàng và những bùa ngải đủ kiểu và những tràng hạt và đốt chúng. Ông đã xưng nhận tội lỗi với Chúa, ăn năn và trở lại với Chúa Giê-xu. 

Một người là một linh mục công giáo, và người kia là một phật tử. Nhưng cả hai đều được ân điển cứu rỗi của Chúa Giê-xu Christ đụng chạm, và trở thành những anh em của Yun. Bạn có thể hình dung được một niềm vui lớn lao trong trái tim Yun ra sao. 

Sau đó, là một tù nhân khác, một mục sư đang ở tuổi ba mươi, đã rơi vào tội lỗi, và đã kết thúc trong một trại cải tạo lao động. Cả người đó cũng gặp Yun và bởi tình yêu của mình, sự nhắc nhở, sự hướng dẫn, và cầu nguyện, anh đã nhận được sự tha thứ tội lỗi và được tái tạo về tâm linh. Người anh em này luôn luôn đứng hàng đầu, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, yêu thương người khác như chính mình, và luôn luôn có một nụ cười. Cho nên, anh có một tên vui là ‘gương mặt cười’. Vào ngày hai mươi lăm, tháng mười hai, 1985, A-Hong và các anh em khác đã vào trại cải tạo thăm Yun. Anh rất xúc động vì điều đó. Anh mới nói với người đội trưởng lao động, “hai người anh em của tôi cần đi vệ sinh và chúng tôi xin ông chấp thuận cho”. Ông đội trưởng rất dễ chịu đối với Yun và đã đồng ý. Yun làm như vậy để họ có thể vui giáng sinh và thờ phượng Chúa chung với nhau. Khi cả ba người đi vào nhà vệ sinh, họ nhớ lại sự giáng sinh của Chúa trong máng cỏ. Yun bắt đầu khóc dàn dụa và quì gối xuống nền nhà cầu nguyện, “Chúa ơi, hoàn cảnh như thế này, nên chúng con chỉ có thể thờ phượng Ngài thậm chí như ở chỗ như thế này. Ngài đã trở nên một trẻ thơ ở trong một máng cỏ lạnh lẽo. Chúa ơi, chúng con muốn có một phần trong máng cỏ của Ngài, một phần trong sự chịu đựng của Ngài một phần trong thập tự giá của Ngài”. 

Trong khi họ cầu nguyện như vậy, thình lình có người đi đến. Đó là một người có tên là Kê, vốn là một họ hàng với trưởng trại cải tạo lao động. Kê là tổ trưởng của tù nhân. Hắn là một người rất độc ác, chuyên môn trình những việc của tù nhân lên cho người

lãnh đạo và cư xử như một bạo chúa. 

Khi Kê phát hiện ra ba anh em cầu nguyện trong nhà vệ sinh, hắn quát tháo họ, “Yun, tại sao mày lại dám cả gan đưa những người bên ngoài vào trại cải tạo để thực hiện những hoạt động mê tín dị đoan. Tao sẽ báo cáo cho ban lãnh đạo trại!”. 

Yun được Đức Thánh Linh giáng lên anh nói dạn dĩ, “Kê, Tại sao anh lại dám chống lại Đức Chúa Trời chân thật của chúng tôi? Trong Danh Thánh Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét, tôi ra lệnh cho anh hãy quì xuống, nộp mình cho Chúa và ăn năn đi!” Ha-lê-lu-gia! Những lời của anh đầy uy quyền, và quyền năng hơn cả một điều luật của hoàng đế. Chính kê đã quì gối xuống và giống như Sau-lơ trên đường đến Đa-mách, nộp mình cho Chúa. 

Bốn năm hoạn nạn và đau khổ ở trại cải tạo lao động sắp sửa kết thúc. Một trăm ngày, trước khi án phạt của Yun chấm dứt, công an đã đến nhà Yun và tiến hành lục soát toàn bộ. Hàng chục công an đã bao vây ngôi nhà và lục soát những ngăn kéo, và các căn phòng trong nhà anh. Kết quả là Kinh Thánh của Yun, những sách bồi linh và sổ ghi chép bị phát hiện. Quan trọng là có những lá thư anh viết cho gia đình và Hội Thánh trong thời gian ở tù và được Đức Thánh Linh soi dẫn. Trong những lá thư này, Yun đã khuyên giục các anh chị em hãy mạnh mẽ và dạn dĩ, đừng sợ hãi những sóng gió. Anh khuyên họ đừng đi đến nhà thờ giả của chính phủ, vì nó là một con đĩ. Mặt sau của một lá thư có viết một bài hát miêu tả cuộc sống trong tù: 

“Sống trong một nơi chông gai, thật như một ngôi mộ mới, 

Một người khi đã có một quỉ vào rồi biến thành người có bảy quỉ, 

Vì những xiềng xích không thay đổi một cuộc và được tái sinh; 

Một người già trở thành một người mới và hàng ngày sẽ hát ngợi khen”. 

Có một lá thư khác do một anh em đã viết cho Yun, nói rằng có một giáo sĩ Mỹ nổi tiếng được đảng và Nhà nước mời đến thăm Trung Quốc và để ‘truyền giảng’. Sau khi họ tìm thấy những tài liệu đó, công an an ninh đã ngay lập tức đến nhà tù vào phòng Yun, ở đó họ thấy Kinh Thánh, những sách vở bồi linh và sách cầu nguyện hàng ngày. 

Yun bị trói và bị đưa lên phòng tra khảo. Ông chỉ huy của công an nói, những cán bộ của trại cải tạo và nhiều công an đều nhìn chĩa vào anh.

Ông chỉ huy chỉ vào anh nói, “Mày là thằng tù chết tiệt, mày không sợ gì à?” 

Yun trả lời bình tĩnh, “thưa ông chỉ huy, tôi muốn báo cáo cho ông là kể từ khi tôi bị bắt cho đến nay tôi đã tuân theo những nội quy nhà tù, tôn trọng những người lãnh đạo, làm việc chăm chỉ và tôi không phạm tội gì?”. 

Ông ta quá điên tiết vì câu trả lời đó và đã đập bàn nguyền rủa Yun. 

“Mày là thẳng đểu cáng. Mày đã dùng mọi thủ đoạn. Đầu tiên khi mày bị bắt ở địa phận ‘A’, mày đã giả vờ điên và không nói gì cả. Sau đó ở trại tạm giam ở thành phố ‘B’, mày đã giả vờ ốm và không chịu ăn. Kể từ ngày hôm đó đến giờ, mày vẫn chống lại chính quyền. Có ai ngờ rằng khi mày bị đi cải tạo, thì mày lại phạm tội nặng hơn? Thứ nhất, mày đã móc ngoặc với những người nước ngoài. Nhiều tháng trước khi có một người Mỹ nào đó đến Trung Quốc, mày đã biết rồi. Hơn nữa, người báo tin cho mày điều đó là một tội phạm hình sự bị truy nã trong đất nước chúng ta. 

“Thứ hai, trong thời gian này ở trại cải tạo, mày đã chinh phục có không biết bao nhiêu người đi theo. Nếu chúng tao muốn giam giữ mày ở đây thêm vài năm nữa, chúng tao sợ rằng mày sẽ lên quyền kiểm soát cả trại cải tạo này. (Khi nghe thấy điều đó, Yun vui mừng hết sức và anh ngợi khen Chúa). 

“Thứ ba, mày đã miêu tả nhà tù là một chỗ của CHÔNG GAI, một nghĩa địa mới. Mày đã mỉa mai chính sách cải tạo lao động của đảng, nói rằng một người có một quỉ, khi vào đó sẽ thành một người có bảy quỉ. 

“Thứ tư, mày đã chống lại chính sách tôn giáo của đảng, và coi nhà thờ được Đảng ủng hộ là một nhà thờ giả, một con đĩ. Mày! Mày! Mày thật là táo tợn! Chúng tao sẽ cho mày biết một là một, hai là hai. Hãy đến và đánh nó đi!”. 

Đáp lại mệnh lệnh đó, có nhiều cai tù đã xông vào Yun đánh đập anh tàn nhẫn. Giống như anh đã viết trong bài hát, ‘Những roi điện, gậy gộc và roi da’. Anh bị đánh cho đến khi lòi thịt và những thương tích đầy trên thân thể anh. 

Kết quả là Yun bị giam ở phòng biệt giam một trăm ngày, trong thời gian đó anh không được gặp một ai. Anh bị còng tay và phải đi qua bốn cổng sắt trước khi đến phòng biệt giam. Bên trong, chỉ có một ít ánh sáng. Cả chỗ đó chỉ khoảng hơn một mét vuông và sàn nhà rất ẩm ướt. Hàng năm liền không được sử dụng, nên đầy mùi mốc meo. Làm người ta muốn chóng mặt và buồn nôn. Yun không bao giờ thấy ánh sáng mặt trời ở đó. Đầu tiên anh cảm thấy rất cô đơn và sự đau đớn vì bị đánh đập và xiềng tay càng làm cho anh nản lòng. Có một ngày anh nghe thấy tiếng của một con chim hót. Anh lập tức đi tới cổng sắt. Trên đầu cửa là một cửa sổ nhỏ để lính canh có thể quan sát tù nhân bên trong. Nhưng qua khe hở của cửa sổ có song sắt, anh có thể nhìn ra ngoài. Anh thấy một cây nhỏ. Trên cành lá có nhiều con chim nhỏ đang líu lo, dang cánh vui đùa. Chúng được tự do! 

Yun, nước mắt chảy xuống gương mặt, hỏi Chúa “Chúa ơi, bao giờ, con sẽ được tự do như những con chim nhỏ này?” Sau đó, Lời Chúa đến mạnh mẽ trong anh, “Anh em đã được kêu gọi đến sự đó, vì Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho anh em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em nơi dấu chân Ngài”. (I. Phi-e-rơ 2: 21). Anh đã tụt xuống quì gối và giơ tay bị còng lên và kêu to, “Chúa ơi, con sẵn sàng. Con sẵn sàng đi theo dấu chân Ngài. Xin hãy để cho ý muốn Ngài được nên trong tôi tớ Ngài”! Sau đó tấm lòng anh đã tràn ngập tình yêu, sự vui mừng và bình an của Chúa nên anh không thể dừng được mà hát lên bài: 

“Tình yêu Ngài đã chắp cánh cho con, 

xin hãy nhìn xuống và nghe bài hát trữ tình của con. 

Tình yêu ngọt ngào đã rung động tâm can con, 

con xin sẵn sàng làm một tù nhân và không muốn cao chạy bay xa”. 

Yun không đọc Kinh Thánh trong những ngày qua và anh có một sự đói khát cùng cực nên anh đã cầu nguyện dốc đổ với Chúa xin một quyển Kinh Thánh. Vào một đêm anh đã có một giấc mơ, anh thấy còng tay anh mở ra và anh cầm một quyển Kinh Thánh và đọc. Ông linh mục mà anh đã kết bạn trong tù thì đứng bên ngoài vui mừng tuyên bố, “Chúa Giê-xu chiến thắng! Chúa Giê-xu chiến thắng” Sau đó Yun tỉnh dậy và giơ tay ra thấy còng tay đã rơi khỏi. 

Vào buổi sáng hôm sau, lúc tám giờ sáng, một ông lãnh đạo trong trại đã dúi quyển Kinh Thánh qua cái cửa sổ song sắt và nói với anh, “Tuy anh có phạm tội, nhưng chúng tôi vẫn tôn trọng tín ngưỡng của anh. Này, đây là quyển Kinh Thánh của anh. Hãy nhận lấu!” Ha-lê-lu-gia! Điều đó thật không thể ngờ được! Ông lãnh đạo này vẫn thường căm ghét những người tin Chúa. Nếu ông ta bắt gặp một ai đọc Kinh Thánh, thì ông sẽ giật lấy và tịch thu. Nhưng Đức Chúa Trời đã dùng ông để đưa Kinh Thánh đến cho Yun. Anh khóc vì sung sướng. Anh cầm lấy quyển Kinh Thánh với sự kính trọng và giở ra Khải Huyền 22: 20 – 21, “… phải lạy Đức Chúa Trời Giê-xu, xin hãy đến”. Sau đó anh đã nghiên cứu Kinh Thánh ngày và đêm và trong một thời gian ngắn chín mươi ngày anh không những chỉ đọc toàn bộ Kinh Thánh cựu ước, tân ước, nhưng đã học thuộc lòng tất cả các sách từ Hê-bơ-rơ đến Khải Huyền, tổng cộng là năm mươi lăm chương. 

 

16. Cả nhà đều kính sợ Chúa (Công vụ các sứ đồ 10:2) 

Chúa đã chúc phước cho Yun bằng một gia đình kính sợ Đức Chúa Trời. Anh có một người mẹ giàu tình yêu và một người vợ chung thuỷ. Mẹ anh đang ở tuổi bảy mươi và trong suốt đoạn đời bà đã gặp những hoạn nạn, đi qua nhiều gian khó và đã trung tín phục vụ Chúa. Bà có tình yêu dồi dào đối với những người khác. Hơn thế nữa, bà cũng thường kiêng ăn và cầu nguyện. Hàng ngày bà đã khóc than và cầu nguyện cho Hội Thánh và cho hàng vạn linh hồn hư mất. 

Vợ của Yun, Deling, rất trẻ và xuất thân từ trong một gia đình không biết Chúa. Nhưng khi cô gặp Yun và gia đình, cô đã nhận biết Chúa. Khi họ vừa mới cưới, thậm chí Yun phải rời khỏi nhà để tránh khỏi sự lùng bắt của công an vì đã giảng Tin lành. Nhưng cô đã đồng thông cảm với chồng và cầu nguyện ngày và đêm cho anh. Khi Yun vừa bị bắt, cô đang có thai. Cô rất yếu về sức khoẻ, nhưng tất cả sinh hoạt trong gia đình đều đặt trách nhiệm lên cô. 

Vào lúc đó nhiều anh chị em bị bắt và Hội Thánh dường như chịu một sự đi xuống. Sau khi Yun bị bắt có vài anh chị em đã đến giúp đỡ cô. Và khi Yun bị kết án là một tù nhân chính trị phản cách mạng, ngay cả những anh trai cô đã tấn công cô. Tất cả những người bà con đều cắt đứt quan hệ với cô. 

Mặc dù đã có thai nhiều tháng rồi, nhưng cô vẫn ra đồng làm việc mỗi ngày. Có một ngày cô rất mệt, và rất khó khăn vì công việc nhổ cỏ dại trong ruộng. Cô làm việc trong nhiều giờ đồng hồ nhưng ruộng lúa vẫn mênh mông bát ngát những cỏ dại và cô không biết hoàn thành công việc này như thế nào. Bỗng nhiên, cô bị chóng mặt và ngất xỉu. Cô không còn đứng vững và quỵ xuống. Sau một lúc cô tỉnh lại. Cô nhận thấy gia đình và bạn bè đã lìa bỏ cô, những hàng xóm thì mỉa mai và châm chọc cô, và anh trai cô không tôn trọng cô. Cô cảm thấy thật cô đơn và tan nát trái tim, trong khi đang nằm trên cánh đồng lúa như vậy. Sau đó cô nhìn lên trời và bắt đầu hát Thi Thiên 123. 

“Tôi ngước mắt lên hướng về Ngài, 

Hỡi Đấng ngự trên các từng trời” 

Cô hát cho đến khi bật khóc thành tiếng 

Trước khi anh Ming ở thành phố ‘F’ đến một ít lâu, có vài anh chị em đến giúp đỡ Deling về công việc đồng áng. A-Hong, đang sống ở làng bên, cũng đến giúp đỡ cô. Nhưng những anh em và các hàng xóm láng giềng đã nguyền rủa và mỉa mai cô. Hàng ngày Deling rửa mặt bằng nước mắt và thời gian trôi qua một cách cay đắng. Dẫu sao, tay Chúa ở trên cô và làm mạnh mẽ lòng cô bằng câu Kinh Thánh, “Chúng tôi bị khổ mọi bề, nhưng không đến nỗi bị bỏ quên, bị đánh ngã, nhưng không đến bị tiêu diệt” (II. Cô-rinh-tô 4: 8-9) 

Sau đó Deling nhận được một lá thư của Yun gửi bí mật từ trong tù. Nó làm cho cô được an ủi, vì trong lá thư anh đã viết bài hát, 

“Thân thể dù già nua, 

những bà con, bạn bè có thể ruồng bỏ, 

con đường chúng ta đi xuống có thể còn khó khăn hơn, 

nhưng bạn hãy vâng theo đường lối Chúa” 

Sức mạnh cô đã được đổi mới và cô quyết định trong lòng cùng mang thập tự giá với chồng mình. 

Vì có nhiều gian nan trong thời gian mang thai nên đứa trẻ đã chào đời sớm hơn hai tháng. Vào buổi tối, trước khi chính quyền địa phương định bắt ép cô phải vào bệnh viện để nạo đứa con ra. Cùng với mẹ chồng và một vài anh chị em con cái Chúa khác, họ đã dốc đổ kêu cầu Đức Chúa Trời xin làm một phép lạ… Và đứa trẻ đã được ra đời. 

Vào ngày sinh nở, ngày mười tám tháng tư, 1984. Cô vừa buồn lẫn vui. Vui mừng vì đã mẹ tròn con vuông, nhưng lòng cô nhớ thương chồng, sao anh không ở đây để chia sẻ với cô giờ phút quý giá này. Cô nghĩ, “Đứa con sẽ được cha nó đặt tên cho!”. 

Vào buổi chiều hôm đó, Yun có một giấc mơ anh thấy Deling ẵm một đứa con trai và đi lại phía anh nói, “Anh hãy đặt tên cho con!” Yun ẵm đứa con và nói “Tên nó sẽ là Y-sác!” Vào ngày hôm sau, khi một người bà con đến nói với Yun về tin vui, thì anh đã có một tên cho con. Một trong những người lính canh nói với anh: “Ê, Yun vợ mày đã sinh một con trai, bây giờ họ đang chúc mừng và họ nói hãy viết tên con ra một mảnh giấy đưa cho họ”. 

Họ đưa cho anh một mảnh giấy và bút chì và anh viết tên con là ‘Y-sác’ . Yun viết thêm những lời này cho con: “Khi con được sinh ra, Bố của con ở trong tù vì cớ Chúa Giê-xu: Bố con không biết sẽ còn sống được để gặp con hay không. Tất cả bố mẹ đều mong muốn cho con mình trở thành cái gì đó. Tuy nhiên, bố của con chỉ có một nguyện vọng, rằng con sẽ bước theo Chúa Giê-xu và giống như tên của con - Y-sác – con sẽ trở thành một con người của đức tin và của sự vâng lời”. 

Chẳng mấy chốc, cánh đồng lúa đã chín vàng. Các anh chị em giúp đỡ gia đình Yun để thu hoạch. Họ để lại một phần đã gặt xong, nhưng chưa đưa về vẫn để ngoài đồng. Buổi chiều hôm đó, thình lình thời tiết chuyển mưa, sấm chớp mây đen kéo đến. 

Deling vừa sinh xong và không thể xuống khỏi giường được. Nên chỉ còn lại mẹ già của Yun phải đem lúa thóc vào. Bà mẹ kéo chiếc xe, đôi chân bó nhỏ của bà lảo đảo, đôi tay gầy guộc run rẩy vì không có sức. Thế rồi một điều không tránh khỏi đã xảy ra, chiếc xe bị đổ nghiêng và lăn xuống một cái hố. Mẹ của Yun bị gãy tay trái và bị thương nặng bên hông. Đó là những hoạn nạn mà Deling và mẹ chồng phải trải qua trong những ngày Yun bị tù. Dẫu vậy, Chúa canh phòng trên họ và lòng họ luôn luôn đầy dẫy một niềm vui thiên thượng.

17. Hãy đi vào đánh chiếm xứ mà Chúa Đức Chúa Trời ngươi đã ban cho ngươi (Giô-suê 1:11) 

Vào một ngày năm 1987, những cán bộ trại cải tạo đã nói với Yun là anh được chuyển về thành phố ‘B’. Những anh em bạn tù nghĩ rằng chắc chắn anh bị đưa về trung tâm tạm giam để bị tra tấn cực hình. Bởi vì công an đã tìm ra những bằng chứng chống lại Yun. Cho nên, Yun đinh ninh là sẽ có nhiều sự đau đớn xảy đến. Hơn nữa, anh đã quyết định trong lòng không lưỡng lự làm một lễ vật hy sinh. Anh sẵn sàng dâng đời sống mình cho Chúa và vui mừng chịu đổ huyết mình. 

Vào ngày hôm sau, một chiếc xe công an an ninh ở ‘B’ đến để đưa anh đi. Sáng hôm sau, anh gặp nhiều sĩ quan công an và những cán bộ Đảng, những người lãnh đạo trong mặt trận thống nhất và người đứng đầu bộ phận về những vấn đề tôn giáo của thành phố ‘B’. 

Bằng một giọng trịnh trọng, ông thủ trưởng công an an ninh nói, “Anh phải biết là vấn đề của anh rất nghiêm trọng. Anh sẽ phải bị trừng trị thích đáng. Hơn nữa, nếu chúng tôi có giết anh, thì sự lỳ lợm của anh cũng không thay đổi, chúng tôi đã quyết định cho phép anh về nhà. Ngoài ra, chúng tôi muốn thông báo cho anh rằng: 

1. Anh bị tước đoạt mọi quyền hạn và anh không thể cất bỏ ‘cái mũ’ tù nhân chính trị được. Anh phải bị kiểm soát và theo dõi của chính quyền địa phương. 

2. Anh phải ra trình diện ở công an địa phương hàng tháng. 

3. Anh phải đi nhà thờ ba độc lập đã được công nhận và được Nhà nước ủng hộ. 

Yun trả lời, “Kính thưa vị lãnh đạo, kể từ khi tôi bị tước đoạt mọi quyền công dân, làm sao tôi lại có thể được đến thăm tổ chức vĩ đại và được Nhà nước ủng hộ này? Điều đó không mâu thuẫn hay sao?” 

Ông thủ trưởng công an an ninh im bặt vì giận dữ. “Yun, anh thật là ghê gớm. Chúng tôi phải nghiêm khắc cảnh cáo anh, khi anh về nhà, nếu anh xúi giục những tín đồ chống lại chính sách tôn giáo của Đảng, thì anh sẽ phải gánh lấy hậu quả!” 

Không lâu sau khi Yun được thả ra, anh được công an tỉnh, và những sĩ quan công an quận và địa phương đến thăm. Trong làng, nơi Yun sống có một buổi họp lớn được tổ chức, dành cho tất cả các cán bộ và lực lượng dân quân. Trong buổi họp họ nêu lên chính sách tôn giáo của Đảng và đã được quần chúng ủng hộ ra sao’. Họ qui cơ đốc giáo trước kia là một công cụ được nước ngoài sử dụng để xâm lược Trung Quốc và để đầu độc dân chúng. Họ cảnh cáo rằng “chỉ nhà thờ ba độc lập được công nhận và được chính phủ ủng hộ”. 

Họ nhắc lại rằng tất cả các buổi nhóm tư gia đều là bất hợp pháp và tất cả các cán bộ và dân quân tự vệ phải trừng trị những người tham gia những buổi nhóm họp như thế này. Vào cuối phiên họp, công an Bộ nội vụ tuyên bố: 

1. Yun vẫn còn là một tù nhân chính trị và bị tước đoạt mọi quyền công dân. 

2. Chính quyền địa phương, các cán bộ, những dân quân tự vệ và tất cả quần chúng đều có quyền kiểm soát những hoạt động của hắn. 

3. Hắn phải lên trình diện ở công an địa phương. 

4. Hắn không được tự động rời khỏi làng. 

5. Nếu có một người không quen biết nào có liên lạc với hắn, Yun phải lập tức bị trói và bị đưa đi điều tra. 

Nhưng làm sao người ta có thể ngăn chặn được công việc của Chúa? Chẳng bao lâu, sau khi Yun trở về nhà, công việc của Đức Thánh Linh bắt đầu thịnh vượng ở làng anh.

Yun được đầy dẫy Đức Thánh Linh và nhiều dấu kỳ phép lạ đã đi theo anh. Những hàng xóm láng giềng đã châm chọc Deling trước kia, bây giờ tin Chúa Giê-xu. Họ thật sự đáng tiếc vì đã bắt bớ gia đình Yun. Các anh chị em vợ của Yun đã ăn năn. Ngọn lửa tin lành đã lan tràn khắp làng. Y như Yun đã nói vào buổi tối anh bị bắt, là anh sống ở làng ‘tin lành’! Trong các làng lân cận, con số tín đồ tăng lên trông thấy. Hội Thánh ở thành phố ‘B’ kinh nghiệm được một cơn phấn hưng lớn. Ha-lê-lu-gia! Sự vinh hiển thuộc về Chúa!. 

Đối với Yun, bây giờ cũng như trước kia khi bị bắt anh không thể nào qui phục nhà thờ ba độc lập. Theo những tiêu chuẩn Kinh Thánh, thì nó hoàn toàn không phải là nhà thờ. Chính phủ chỉ tạo nên mô hình nhà thờ này để kiểm soát cơ đốc nhân và tuyên truyền sự giáo dục xã hội chủ nghĩa trong vòng những cơ đốc nhan. Ngoài ra, các mục sư và những thành viên của nhà thờ bị hạn chế rất nhiều trong công tác phục vụ. Vậy nên Yun và bạn bè anh không thể chấp nhận được mọi điều đó. Tuy vậy, Yun và những bạn đồng nghiệp của anh trước kia cũng như bây giờ đều nhận thấy rằng ở hạ tầng cơ sở của nhà thờ ba độc lập có nhiều cơ đốc nhân thành thật, tận tuỵ và trung thực với Phúc âm, và đó là một sự kiện vẫn tiếp tục tồn tại. 

Tầng lớp lãnh đạo của nhà thờ ba độc lập bị các cán bộ Đảng kiểm soát. Nhiều người trong số họ là những nhà thần học hết sức tự do, thậm chí hầu như không quan tâm đến sự truyền bá Tin lành ở trong khiá cạnh giúp đỡ nhân đạo và những công tác xã hội. Vài người trong số họ thậm chí là những người vô thần. Còn những người khác lại cho rằng giáo lý của cơ đốc giáo phải làm sao thích hợp với sự giáo dục của Chủ nghĩa xã hội. 

Yun không thể bị nhụt chí vì những sự đe doạ và cảnh cáo. Một thời gian sau, anh đã tiếp tục lên đường, giảng dạy, và rao truyền Tin lành như xưa. Sự phóng thích của anh khỏi trại cải tạo xẩy ra trong một thời điểm quyết định cho nhà thờ tư gia Trung Quốc. 

Đức Chúa Trời đã sử dụng những con người chất phác, vô học thức để giảng lời Ngài và xây dựng vương quốc Ngài. ở đó, không còn chỗ cho những nhà thần học khô khan và có trình độ cao. 

Ngọn lửa Đức Thánh Linh phong toả nhanh chóng khắp các tỉnh thành. Mọi người đã kinh nghiệm được vô số những dấu kỳ phép lạ. Những người điếc nghe được, những người mù thấy được những người bệnh và đau yếu được đưa đến buổi nhóm và thỉnh thoảng có đến ba nghìn người nhóm họp. Yun và những cộng tác viên của anh đã đặt tay trên người bệnh và họ được lành. Quyền phép của Phúc âm trở thành chủ đề của những cuộc nói chuyện trong các làng mạc thôn quê. Công an an ninh bất lực đối với quyền phép của Đức Chúa Trời. 

Yun tìm thăm gia đình của Hoàng. Khi bố mẹ của Hoàng trông thấy anh, họ đã ra ôm chầm lấy anh và kêu lên. “Chúng tôi đã nhận được ‘huyết tâm thư’ của nó, nó nói về sự giúp đỡ của anh đối với nó trong tù. Và chúng tôi biết rằng, khi nó ở tù anh rất yêu nó. Anh là vị cứu tinh của con trai tôi và của toàn thể gia đình chúng tôi. Tuy con trai chúng tôi đã chết, kể từ giờ phút này, anh sẽ trở thành con trai chúng tôi”. 

Yun nói, “Tuy con trai của hai bác đã chết, linh hồn em vẫn sống, em đã đi về yên nghỉ với Chúa Giê-xu. Tương tự như vậy, những lời em ghi trong thư cho hai bác không chết. Những lời cầu nguyện của em vẫn sống. Lý do chính ngày hôm nay cháu đến nói cho hai bác về cầu nguyện vọng cuối cùng của con trai của hai bác. Em nói, hai bác phải tin Chúa Giê-xu!”. 

Bố mẹ Hoàng cho biết rằng, điều đó sẽ rất khó khăn cho họ, bởi vì họ là những cán bộ cấp cao. Yun đã dành nhiều thời gian nói chuyện với họ và cuối cùng họ đã dúi vài trăm đô-la vào túi áo anh. Yun lấy tiền ra và để trên đĩa cốc chè. 

Anh nói, “Cháu không muốn tiền của hai bác, nhưng muốn linh hồn của hai bác. Bây giờ trong Danh Thánh Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét, cháu nói với hai bác hãy quì xuống và tiếp nhận Chúa Giê-xu làm cứu Chúa!”. 

Những lời của anh tuôn trào như một dòng thác mạnh mẽ. Lập tức bố mẹ Hoàng đã quì gối xuống và trong nước mắt đã xứng tội trước Chúa. Kể từ ngày đó họ trở thành môn đệ của Chúa. 

Khi anh từ giã họ và đi bách bộ trên con đường, Yun nghĩ rằng mình đang nghe xung quanh có muôn vàn tiếng nói rằng “Hãy lại đây! Hãy đưa ngọn lửa phấn hưng đến làng của chúng tôi!” Phải, anh cần phải nhận ân điển đầy tràn của Đức Chúa Trời, để đưa quyền phép chữa lành của Chúa Giê-xu phục sinh, đến cứu hàng triệu linh hồn. Anh cần phải đi đến mỗi tỉnh thành, huyện lỵ, mỗi núi rừng, hải đảo và mỗi chi tộc. Yun trung kiên đi tới vì Chúa của mình. 

 

 

 

18. Nhiệm vụ mới: một công cụ cho sự hiệp nhất 

Vào những năm chín mươi, tuy anh phải ra vào nhà tù nhiều lần và một lần nữa lại phải chịu kết án tù, nhưng anh đã đóng một vai trò quan trọng trong sự xây dựng Hội Thánh ở Trung Quốc. Cứ mỗi lần anh bị vào tù, thì đều bị tra tấn cực hình. Trên hai mươi năm qua, chính quyền không làm sao đánh gục con người có dáng người nhỏ nhắn này được. Họ coi anh là một mối nguy cơ đe doạ toàn bộ hệ thống cộng sản chủ nghĩa. Và bắt bớ anh giống như là một trong những tên tội phạm hình sự nguy hiểm nhất ở Trung Quốc, bởi vì anh thuộc trong số những người lãnh đạo nhà thờ tư gia. 

Vào năm 1992, Đức Chúa Trời ban cho anh một nhiệm vụ mới. Một nhiệm vụ mà anh không thấy mình có khả năng chút nào và chắc chắn đó là điều anh không mong đợi. Ngược lại, anh thấy bản thân mình hoàn toàn không tương xứng với nhiệm vụ đã đặt cho mình. Đức Chúa Trời nói với anh và yêu cầu anh hãy đưa các mạng lưới nhà thờ

tư gia khác nhau đến sự hiệp nhất, và anh cần tìm những người lãnh đạo có cùng khải tượng với mình. 

Khi Đức Chúa Trời nói với Yun về điều đó, anh bắt đầu cưỡng lại và than thở với Chúa. Chắc chắn là Đức Chúa Trời có thể tìm một ai khác hơn để thực hiện nhiệm vụ đó. Yun biết rằng các trào lưu nhà thờ tư gia khác nhau ở Trung Quốc nhìn nhau không chút thiện cảm chút nào. Thiết lập sự thống nhất giữa các tổ chức không phải là một việc dễ dàng, và anh lo sợ trước điều đó. Những người lãnh đạo đã từng một thời gian dài nói tiêu cực về nhau và hoàn toàn khác ý kiến ở trong một số điểm cơ bản về giáo lý. Càng làm cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn, các nhà thờ tư gia đều xét đoán lẫn nhau là những tà giáo. Yun biết tất cả những điều đó và cảm thấy mình không kham nổi nhiệm vụ này, nên cũng giống như Môi-se ở bụi gai cháy, anh đã đến kêu than lên với Chúa. 

Đang trong khi kêu nài và than thở, Đức Chúa Trời đã ngắt lời anh và nói: “Ngươi không phải là sự lựa chọn đầu tiên của ta”. Thình lình Đức Chúa Trời khiến cho Yun chú ý. Ngài cho Yun biết rằng trong quá khứ Ngài đã muốn giao cho những người khác nhiệm vụ này, nhưng họ không sẵn sàng làm theo, nên Đức Chúa Trời đã tìm người khác. Sự gặp gỡ đó đã làm thay đổi hoàn toàn thái độ của Yun. Anh bắt đầu bằng cách đi đến những người lãnh đạo khác nhau và mời họ hãy đến làm hoà với nhau. Vào thời gian đó, Yun đã kết ước với Chúa, đó là anh sẽ không ăn thịt và trứng, cho đến khi sự hiệp nhất của các người lãnh đạo trong nhà thờ tư gia được thiết lập. Một trong những người lãnh đạo đã nhận thấy điều đó và hỏi Yun, tại sao anh không ăn. Yun đã giải thích lý do của mình. Qua đó, người lãnh đạo này cũng quyết định làm giống như vậy. Trong thời gian tiếp theo, Yun không mệt mỏi tìm sự liên lạc với những người lãnh đạo khác của nhà thờ tư gia và cuối cùng anh đã đạt được điều mong muốn, tất cả họ đã họp lại với nhau. Với sự hiệp nhất tiến triển trong họ, cuối cùng đã đi đến điểm mà tất cả họ đều nhất trí. Họ bắt đầu giảng ở những nhà thờ tư gia khác nhau, hát những bài hát của các Hội Thánh khác và làm việc chung nhau ở trên những mức độ và bình diện khác nhau. Theo thời gian, những ấn tượng và định kiến biến mất và sự hiệp nhất càng vững chãi hơn. Sau này, họ đã thống nhất với nhau đặt cho mình tên gọi theo như trong Ê-sai 49, 12 là ‘Hội Si-ni’ (Sinim Fellowship)! “Nầy, những kẻ này sẽ đến từ nơi xa; kìa, những kẻ kia sẽ đến từ phương bắc, những kẻ nọ từ phương tây, và những kẻ khác từ xứ Si-ni”. Nhiều người nghiên cứu Kinh Thánh đều cho rằng tên ‘Si-ni’ là tên gọi xa xưa của Trung Quốc. Những người lãnh đạo đã chọn Yun làm chủ tịch và người phát ngôn cho các nhà thờ tư gia khác nhau của ‘Hội Si-ni’. Bắt đầu thiên niên kỷ này, hội này có chừng năm mươi đến bảy mươi triệu tín đồ. Mỗi ngày, có chừng hai mươi đến ba mươi nghìn người ở Trung Quốc tin Chúa Giê-xu Christ làm Đấng cứu chuộc của mình, TƯƠNG ĐƯƠNG VỚI TÁM ĐẾN MƯỜI TRIỆU CON CÁI CHÚA MỚI MỖI NĂM. Khi các giáo sĩ rời khỏi Trung Quốc cách đây năm mươi năm chỉ khoảng 850.000 tín đồ tin lành ở Trung Quốc. Điều đáng kinh ngạc nhất, đó là sự phát triển phi thường nhất lại xảy ra trong một quốc gia cộng sản vô thần lớn nhất thế giới, trong một Nhà nước mà tất cả các công dân đều được thuyết phục rằng Đức Chúa Trời chết rồi. Trước đây hai mươi lăm năm báo chí tây phương đã đưa tin rằng cơ đốc giáo ở Trung Quốc đã chết, và bà quả phụ Mao khoe khoang với những khách tham quan nước ngoài rằng đức tin cơ đốc ở Trung Quốc chẳng mấy chốc sẽ chỉ còn tìm thấy trong viện bảo tàng. 

 

19. Cánh cổng sắt mở ra 

Sự hiệp nhất gần đây trong vòng những nhà thờ tư gia đã nhanh chóng dẫn đến một sức mạnh phi thường. Những người lãnh đạo đã suy nghĩ rằng làm sao họ có thể ứng dụng khải tượng đó vào thực tế được. Vào tháng ba năm 1997, công an Bộ nội vụ đã bắt được tin là những người lãnh đạo của nhà thờ tư gia hiệp lại ở trong những cuộc họp với cái tên gọi là ‘những cuộc bàn thảo đi đến hiệp nhất’. Đảng cộng sản đã hiểu sai đó là những cuộc hội đàm của cả Hội Thánh để lập một đảng đối lập, làm một sự đe doạ đối với đất nước. Do sợ hãi, những cơ đốc nhân có thể gây phân rẽ làm suy yếu hệ thống cộng sản, nên công an Bộ nội vụ đã ra tay. 

Những người lãnh đạo đã họp lại trong tầng một của một toà nhà lớn, khi những công an an ninh đã ập đến không báo trước. Đã quen thuộc với những năm tháng phải chạy trốn, Yun tìm cách chạy trốn lần này và đã nhảy từ tầng một đó xuống. Nhưng đó là một tầng cao, nên anh đã bị chấn thương ở hai chân. Công an đã bắt trói anh và tám người lãnh đạo khác. Bởi vì họ biết quá khứ của Yun, họ hỏi anh có tìm cách chạy trốn nữa không?. Yun trả lời “Nếu Chúa cho tôi cơ hội, thì tôi sẽ chạy trốn”. Câu trả lời của anh đã làm cho viên công an giận điên người và đã lôi anh lên nóc một toà nhà cao tầng. Sau đó anh ta đã đẩy Yun vào góc của một mái nhà và nói với anh rằng bây giờ là cơ hội chạy trốn: “Nào, hãy nhảy đi ! anh công an trợn trừng mắt. Nhưng Yun trả lời, rằng lần này anh sẽ không chạy trốn, bởi vì Chúa không ban lệnh cho anh. Chính quyền đã quyết rằng nhất định lần này phải bẻ gãy ý chí và sự ngoan cố của Yun. Để đề phòng Yun vượt ngục, các anh công an đã lấy một loại búa tạ và đập ống chân của anh, chỉ còn cơ và gân giữ chân anh lại với nhau. Kể từ lúc đó, Yun không thể nào đi đứng được. Lại một lần nữa anh bị đau đớn quá độ. Bây giờ ‘người công dân thiên quốc’ là một tàn phế, mà người ta muốn để cho anh lê lết trong xà lim cho đến chết thì thôi. ít ra thì qua đó anh được thoát khỏi sự đau đớn và khổ ải. Có lẽ đó là suy nghĩ duy nhất của anh về tương lai. Mặc dù lúc đó anh mới ba mươi chín tuổi, anh sẽ không bao giờ được ở cùng vợ con nữa. 

Bây giờ thì rõ ràng là cả những người lãnh đạo nhà thờ tư gia khác cũng phải chịu đau đớn. Công an Bộ nội vụ muốn tiêu trừ vĩnh viễn những hoạt động làm mất trật tự an ninh này, là những thành phần không tôn trọng luật pháp. Tất cả những người bị bắt đều bị đưa đến một nhà tù được canh phòng cẩn mật nhất Trung Quốc, nên việc vượt ngục hoàn toàn không thể được. Một người anh em được lệnh phải đưa Yun đi vệ sinh và lên phòng khảo cung. Yun đã quá nhiều sự đau đớn, và họ lại không thôi hành hạ anh. Họ không những cương quyết nhốt anh sau chấn song, mà còn xoá sổ anh hoàn toàn. Một ngày kia, anh đang ở phòng tắm, anh có điều kiện nói chuyện với những người lãnh đạo cơ đốc nhân khác. Người anh em đó đã nói nhỏ với Yun: “Anh là người cần phải vượt ngục”. Nhưng Yun đáp lại: “Chúng ta đang ở trong tù và hãy nhìn vào đôi chân của tôi đây. Tôi không thể đi được nữa. ở đây có quá nhiều cổng sắt, làm sao tôi có thể ra ngoài được?” Một vài ngày sau, Yun lại gặp lại người anh em đó, lần này, người anh em đó cũng lại nói rằng anh cần phải vượt ngục. Yun lại nhắc cho anh ta

biết rằng, mình không thể đi đứng được và thay vào đó anh ta hãy vượt ngục thế chỗ của anh, vì chưa bị thương. Nhưng người anh em vẫn một mực nhắc lại: “Anh có thể đi được, anh có thể vượt ngục được”. 

Trong đêm đó, Yun không thể ngủ được vì sự đau đớn trong đôi chân. Anh đặt đôi nạng xuống đất, đưa hai chân lên, để giảm sự đau nhức. Tất cả những gì anh còn có thể làm được đó là kêu than với Chúa về sự khốn nạn và tuyệt vọng của mình: “Ôi Chúa ơi, con lại phải bị tù lần nữa. Xương chân con đã bị đánh dập. Trông giống như là đến cả Ngài cũng không làm gì cho con được nữa. Ngài đã ra lệnh cho con hãy đem Tin lành đi về phía tây và đi về phía đông, nhưng làm sao con có thể đi được bây giờ? Con nằm ở đây và không thể đi được. Con có phải là một thằng ngốc không?”. Anh đã kêu lên với Chúa như vậy. Nhưng ngay cả bây giờ Đức Chúa Trời đã chứng tỏ cho Yun về sự thành tín của Ngài và nói với anh những lời sau: “Đây là giờ của sự giải phóng của con” và trong khi anh còn đang thức anh thấy trong khải tượng Deling, vợ anh vào trong phòng giam. Cô đã băng bó cẩn thận cho vết thương. Sau khi thấy hình ảnh đó, anh gõ cửa xin cho được đến nhà tắm. ở đó, anh lại gặp người anh em đã hai lần yêu cầu anh phải vượt ngục. Anh nói với Yun lần thứ ba: “bây giờ là thời cơ, hãy trốn đi!” Đó là vào tám giờ sáng ngày năm tháng năm 1997. Lúc đó đang thay đổi phiên gác và trong cả ngày, đây là lúc bận rộn nhất. Vào lúc đó, có nhiều lính canh hơn cả so với bất kỳ thời điểm nào trong ngày. Yun được đưa trở về phòng giam. Cánh cửa đóng lại đằng sau anh. Sau đó Yun quyết định rằng giờ vượt ngục đã đến, mặc dù trông có vẻ như là vô vọng. Trong đức tin và sự vâng lời, anh dám thử những bước đi đầu tiên. Thì bỗng nhiên quyền năng của Đức Chúa Trời đã tuôn tràn qua thân thể, anh đứng lên, và Anh có thể đi được! Nên anh đã đi về phía cánh cửa phòng giam đang mở. Trong đức tin, anh đi những bước đầu tiên vào sự tự do. Anh ngạc nhiên là tất cả những cánh cửa khác cũng mở ra khi anh đến gần. Nhiều định luật tự nhiên đã đồng thời bị vô tác dụng. Khi đi đến cánh cổng chính, dẫn ra sân nhà tù, anh thấy một anh em khác đi lại phía anh. Cánh cửa giữa họ chỉ có thể do một lính gác bấm nút mới mở ra được thôi. Một phép lạ, là Yun có thể đi tiếp tục và không bị phát hiện, trong khi cùng lúc đó, người anh em kia đi vào nhà tù. Người anh em đó đã kinh hoàng khi nhìn thấy Yun đi được, và nói với anh: “tôi vừa đi vào”, và Yun đáp lại “Tôi vừa đi ra”. Về sau, người anh em ấy còn thuật lại chi tiết về sự kiện kỳ lạ, mà anh đã chứng kiến bằng sự quan sát của mình. “Tôi đi dọc theo nhà tù, sau khi bị một vài lính canh kiểm soát. Điều đáng ngạc nhiên và thật kinh hoàng là tôi nhìn thấy Yun. Tôi biết là anh bị đánh dập ống chân hoàn toàn tàn tật. Nhưng bây giờ, tôi nhìn thấy anh đi vội vã về phía tôi. Không lưỡng lự, anh cứ bước ra cổng và đi qua. Người lính đã khám tôi, không hề nhận ra anh. Sau khi trở lại phòng giam, tôi đã leo lên song sắt chỗ cửa sổ phía trên, từ đó, tôi có thể nhìn thấy bao quát sân nhà tù. Tôi còn thấy Yun bước đi thoăn thoắt qua sân, về phía cổng chính và ra ngoài. Từ chỗ tôi, tôi có thể thấy có khoảng độ ba mươi lính canh đứng ở ngoài sân, nhưng không ai nhận ra sự trốn thoát của Yun. Ngoài nhà tù có một chiếc ta-xi đậu bên đường. Yun đến đó lên xe, không ai để ý đến bộ quần áo tù nhân, người lái xe hầu như không để ý gì đến điều đó. Ông chỉ thấy là Yun đang rất vội vã, và hỏi anh đi về đâu. Yun nhớ đến một gia đình con cái Chúa. Và xin người tài xế lái xe đến đó. Sau khi đến đó, Yun xuống xe, vào nhà và nhờ họ trả tiền cho ông tài xế. Khi anh gõ cửa nhà người bạn, thì người đó hoảng sợ, không dám mở cho anh. Họ hỏi có phải anh được thả ra không. Anh trả lời, Cha thiên thượng chúng ta đã ra lệnh cho tôi hôm nay hãy ra khỏi

nhà tù, nhưng bây giờ tôi cần tiền để trả cho người tài xế ta-xi. Họ đưa tiền cho anh, và anh trả cho ông tài xế. Ông ta nhìn vào anh kinh ngạc, dường như là ông không nhận ra điều gì. Ông đã nhún vai, không tài nào hiểu nổi, tại sao trên đời này lại có người tự nhiên đưa cho mình tiền. Ông không hề nhớ được rằng Yun là người khách vừa rồi của mình. Đức Chúa Trời đã làm cho người tài xế quên đi những chuyện vừa rồi. Nên, dù cho có hỏi cung theo kiểu gì đi nữa, công an cũng không thể nào moi tin tức gì từ ông. Còn có một chuỗi những sự kiện lạ thường đi kèm trong chuyến vượt ngục của Yun. Có những người, bằng cách nào đó đã được nhìn thấy, về sau đã xác nhận và dâng sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời, vì thấy Ngài đã tổ chức một chuyến vượt ngục không ai có thể dùng lí trí mà hiểu được.

Người vợ của gia đình mà Yun đến đó sau khi vượt ngục, đã kiêng ăn và cầu nguyện một tuần trước đó và cầu xin sự giải phóng cho Yun. Rõ ràng là Chúa đã nói cho người phụ nữ này biết trước, rằng Yun sắp được tự do và sau đó sẽ đến nhà bà. Đồng thời bà cũng được sự thôi thúc chuẩn bị cho Yun một chỗ trốn, lương thực và Kinh Thánh. 

Chỉ một chốc sau khi Yun vượt ngục, cả nhà tù đã báo động. Lại một lần nữa, người công dân thiên quốc’, một trong những kẻ bị truy nã hàng đầu ở Trung Quốc, lại có thể vượt ngục khỏi một nhà tù đại kiên cố. Nhiều người đã bị mất thể diện, đặc biệt công an nhà tù. Khi Yun đi đến chỗ ẩn náu, thì ở trong thành phố có một cơn mưa bão càn quét qua thành phố, nhiều người làm chứng lại rằng, đó là trận mưa dữ dội nhất ở khu vực này kể từ khi cha sinh mẹ đẻ đến nay. Kết quả là có một cơn lụt làm tê liệt toàn bộ hệ thống điện thoại truyền thông. Nên công an và ban lãnh đạo nhà tù đã bị đánh mất những giây phút đồng hồ thật quí giá đối với họ và cả đối với Yun. Đến khi công an có thể chặn các tuyến đường giao thông, thì Yun đã đến nơi an toàn. Nhiều năm trước đó Đức Chúa Trời đã cho anh biết rằng những biến cố như vậy sẽ xảy đến với anh. Nhờ Lời và Thần của Ngài mà anh đã chuẩn bị cho giờ phút này. Mười ba năm trước Đức Chúa Trời đã nói cho Yun trong nhà tù: “những cánh cổng sắt sẽ mở ra trước mặt con, và con sẽ được tự do”. Đức Chúa Trời đã giữ Lời của Ngài. Khi Yun đi qua cánh cổng sắt đầu tiên, anh còn chưa chắc chắn, rất có thể bị phát hiện, tệ hơn nữa, có thể bị bắn chết. Nếu họ bắt được anh, thì chắc chắn mười năm tù tiếp theo đang đợi anh. Nhưng anh hành động, vâng theo những lời Đức Chúa Trời bảo anh. Từ cánh cửa này đến cánh cửa khác đã mở ra, và bây giờ anh được tự do!. 

 

20. Chạy trốn khỏi Trung Quốc 

Vài ngày sau, có một mục sư thân quen đến thăm Yun trong chỗ anh đang ẩn náu. Khi họ cùng trò chuyện và cầu nguyện, và cởi mở nói về việc Yun sẽ làm gì bước tiếp theo. “Đức Chúa Trời sẽ dẫn anh đi đâu?”. Người mục sư nói cho Yun biết là ông tin chắc rằng Đức Chúa Trời dùng anh để đem tin lành và kinh nghiệm về nhà thờ tư gia ở Trung Quốc đến phần còn lại trên thế giới. Đúng là có nhiều phép lạ xảy ra trong đời sống của Yun, nhưng anh làm sao có thể chạy trốn khỏi Trung Quốc? Theo cách nhìn con người, thì một người đang bị truy nã như anh không thể nào chạy khỏi đất nước được. Nhưng sự vượt ngục của Yun, đầu tiên cũng giống như là không thể được. Yun

nhớ lại rằng, khi còn là một thanh niên, Đức Chúa Trời đã nói rằng Ngài sẽ dùng anh về sự phục vụ tiên tri ở nhiều nước. Nên anh đã hỏi Chúa Giê-xu: “Có phải đó là sự thật không, hay Ngài muốn con trở thành một kẻ ngu dại?” Nhưng Chúa Giê-xu trả lời: “Đúng như vậy, ta không thay đổi ý định”. 

Vậy là có một vé máy bay của hãng Lufthansa được mua cho Yun, từ Bắc Kinh đến Đức. Nhưng vẫn còn sự cản trở lớn: Hộ chiếu của Yun. Anh không có gì. Anh đã bị mất hết giấy tờ tuỳ thân, từ những năm tháng trước đây bị bắt. Tình hình còn trở nên khó khăn hơn, đó là Yun là một trong những kẻ bị truy nã số một ở Trung Quốc. Những điều bất ngờ là có thể tìm cho Yun một hộ chiếu. Khi anh nhìn hộ chiếu, đáng lẽ phải có ảnh của anh, nhưng đó lại là ảnh một người khác, mang tên người khác. Tất cả những gì anh có thể làm đó là cầu nguyện Đức Chúa Trời và tin cậy Ngài. 

Khi anh đến sân bay để kiểm tra hộ chiếu, người công an cửa hải quan nhìn kỹ anh và nói: “Đây không phải là ảnh của anh”. Yun chỉ cười, vì Chúa đã nói cho anh là không nói gì cả, chỉ cứ im lặng. Người hải quan kiểm tra lại một lần nữa tấm ảnh, vì thật sự là con người trước ông ta và người trong tấm ảnh, không hề giống nhau. Yun vẫn im lặng và nhìn ông ta tỏ vẻ ngây thơ - vẫn giữ một nụ cười. Sau đó người nhân viên kiểm tra lại trong Computer xem tên này có trong lệnh truy nã không. Tất nhiên, anh là một trong những kẻ bị truy nã số một ở Trung Quốc. ảnh và những thông tin khác đều có trong mỗi tài liệu lưu trữ, kể cả ở sân bay. Giờ chỉ còn là việc trong khoảnh khắc, Yun sẽ bị bắt và không thể rời khỏi Trung Quốc được. Bởi vì kéo dài quá lâu khi kiểm tra hộ chiếu của Yun, nên những hành khách phía sau càng trở nên nóng ruột hơn. Người hải quan nhận thấy sự sốt ruột của họ nên nói với Yun hãy đứng sang một bên, để giải quyết cho những hành khách khác. Một lúc sau, người nhân viên nói với Yun, “cho dù nếu tôi để cho ông đi qua, thì ở Đức họ không cho ông vào. Họ sẽ gởi ông quay trở lại” Và sau đó, ông lấy con dấu và đóng cho Yun được ra khỏi đất nước. Sự chú ý của ông nói lên rằng con người hay mỉm cười này không có hộ chiếu hợp pháp. Nhưng tại sao và bằng cách nào mà ông ta lại để cho Yun đi qua? Câu trả lời không phù hợp với sự giải thích của lý trí. Trước khi Yun lên máy bay, anh lại phải lộ trình hộ chiếu và giấy tờ một lần nữa. Người nhân viên nhìn lại Yun. Ông đã gọi điện thoại, để kiểm tra một lần nữa xem có hợp lệ không. Yun không biết nói năng làm sao, nhưng anh vẫn bình tâm và tươi cười. Anh biết rằng, cho đến chừng nào anh vâng lời và làm theo những gì Đức Thánh Linh nói, thì không có vấn đề gì. Cuối cùng, anh có thể qua cửa khẩu được và lên máy bay sang Đức. Hàng giờ đồng hồ sau đó anh sang đến Đức, ở đó lại bị kiểm tra hộ chiếu. Cảnh như cũ lại tái diễn. Những nhân viên nhìn đăm đăm vào hộ chiếu của anh. Họ kiểm tra lại tấm ảnh hộ chiếu nhiều lần, và đưa mắt nhìn qua Yun để đối chiếu. Một lúc lâu, nhưng cuối cùng những nhân viên cũng hài lòng và để cho anh đi qua. Người hải quan của Trung Quốc đã nhầm, vì anh không bị trả lại. Cuối cùng, thì anh đã đặt chân đến Châu Âu. Tuy hôm nay Châu Âu là một trung tâm của Chủ nghĩa vật chất và ích kỷ, nhưng dẫu sao trước đó nhiều năm, từ đây đã có nhiều giáo sĩ đem Phúc âm và Kinh Thánh đến quê hương anh. Bây giờ anh đến đây như một người, mà sự từng trải trong những năm qua là một bằng chứng sống nói lên rằng, anh không đến đây bằng sự hợp lý theo kiểu suy nghĩ của con người, mà bằng và chỉ bằng đức tin mà thôi. Anh đã gìn giữ những gì các giáo sĩ đã giao phó cho dân tộc anh. Một vài tháng sau đó, vợ và các con anh cũng đã rời khỏi Trung Quốc một cách kỳ diệu. 

 

21. Không thể giết chết một giấc mơ 

Đức Chúa Trời nói với Yun: “Giống như ta đã đưa ngươi ra khỏi nhà tù thế nào, thì ta cũng đưa một trăm nghìn giáo sĩ từ Trung Quốc ra khỏi đất nước đến những nước á Châu. Sau khi anh đã hồi phục lại sau lần chạy trốn và những cực hình tra tấn trong tù, Yun bắt đầu sự phục vụ của mình ở tây phương. Một trong những nước đầu tiên anh đến thăm là Na-uy. Hai lần anh đến đó, phục vụ ở đó và nói lời cám ơn những cơ đốc nhân địa phương đã gởi biết bao giáo sĩ đến Trung Quốc. Như anh nói: họ đã đem ánh sáng đến cho những đồng bào anh. Chuyến đi thăm của anh ở đó, đối với Yun trên phương diện nào đó giống như một sự trở lại cội nguồn thuộc linh của mình. Mẹ anh đã tin Chúa qua một nữ giáo sĩ người Na-uy. Mặc dù bà có một thời gian xa cách Chúa, nhưng sau đó bà đã quay trở lại và cuối cùng đã dẫn con trai mình đến với Chúa. Chúng ta nhớ lại khi Yun còn là một thanh niên trẻ, Đức Chúa Trời kêu gọi anh đi đến phía tây và sau đó đến phía nam. Nó bắt đầu từ một vài làng mạc và lan rộng ra huyện lỵ. Sau đó sang đến các tỉnh và cuối cùng bây giờ có một đội quân thuộc linh hùng mạnh ở Trung Quốc đã sẵn sàng. Những Hội Thánh ở xứ Skandinavien đã gởi đi biết bao giáo sĩ đến toàn thế giới. Khi Yun nói cho họ biết khải tượng về sự gởi đi một trăm nghìn giáo sĩ, trái tim họ đã bùng cháy. Họ có một ước muốn mãnh liệt được cùng làm việc với Yun và để cho chương trình của Đức Chúa Trời ở Trung Quốc được hoàn tất. 

Khi những người lãnh đạo của nhà thờ tư gia họp lại vào năm 2000, họ đã nói lên một vài điều lệ căn bản, để theo đó mà họ muốn thực hiện cho thế kỷ hai mốt. Một trong những điều lệ đó là: “Chúng ta hứa nguyện sẽ đặt một điểm chính yếu vào sự truyền giảng tin lành và vào sự làm ứng nghiệm đại mạng lệnh truyền giáo bằng quyền phép Đức Thánh Linh”. Nếu họ đề cập về điều họ gọi là sự ‘trở về Giê-ru-sa-lem’, thì họ đã có một mục tiêu rõ ràng trước mắt. Trước hết điều đó chỉ ra một phương hướng nhất định, để họ bước đi; và đó tây tiến. Dự định đó không phải là một cuộc chạy đua, và cũng không phải là gởi một trăm nghìn giáo sĩ Trung Quốc đến một đại hội của thủ đô của Israel. 

Trên đường đi đến đó, có nhiều chi tộc sinh sống, chưa được nghe về Tin lành và Hội Thánh cần phải được thành lập. Đó sẽ là ‘một chuyến đi công tác truyền giảng tin lành’, kéo dài nhiều năm. Bây giờ không ai biết cần bao nhiêu năm để đạt đến những chi tộc nằm trên đường họ đến Giê-ru-sa-lem. Những giáo sĩ đầu tiên đã lên đường và bây giờ đang ở ngoài biên giới Trung Quốc. Hơn ba mươi giáo sĩ sẽ đi vào cuối tháng ba năm 2000, và nhiều người sẽ đi sau họ. ở nhà thờ tư gia có hơn một triệu mục sư và giáo sĩ. Khoảng mười phần trăm trong số họ có một sự kêu gọi truyền giáo cho bản thân. Nên người ta có thể dễ dàng tính ra đúng là có một trăm nghìn người đang sẵn sàng lên đường. 

Yun là một nhân vật then chốt trong công tác này, nhưng anh không đứng một mình. Những cơ đốc nhân Trung Quốc nhấn mạnh rằng điều Kinh Thánh nói về Hội Thánh – là một thân thể, một cơ chế sống. Mỗi một người có những nhiệm vụ khác nhau và

những ân tứ khác nhau, nhưng nếu muốn cho thân thể hoạt động cân đối; và cũng giống như vậy để cho một đội quân chiến thắng trong trận đánh, thì đồng thời tất cả họ phải phụ thuộc vào nhau. Thật là cuốn hút, khi tiếp cận với khải tượng này trong việc sai phái hàng nghìn giáo sĩ đi đến những nước á Châu. Có một điều chắc chắn là khải tượng này được nhiều người chia sẻ và không phải là mới, hay là một kiểu thời trang mới. Trước đó nửa thế kỷ, trước khi Yun sinh ra, Đức Chúa Trời đã đặt giấc mơ đó vào trong lòng nhiều cơ đốc nhân Trung Quốc. Thời đó, họ bị coi là ‘những người nằm mơ’. Nhưng cho đến những năm hai mươi vừa qua, họ đã nhóm lại tại vùng tây bắc. Mục đích của họ là Giê-ru-sa-lem. Nhưng họ đi không được xa lắm. Cho đến thời điểm đó, họ còn thậm chí chưa ra khỏi Trung Quốc. 

Những cơ đốc nhân này đã đọc về đại mạng lệnh truyền giáo và hiểu rằng Đức Chúa Trời đã kêu gọi họ: “Vậy nên hãy đi và khiến muôn dân trở thành môn đồ ta” Họ đã hiểu trong tâm trí và phạm vi tổng thể của họ, về những lời Chúa Giê-xu nói cho môn đồ Ngài đó là một mạng lệnh đối với tất cả các cơ đốc nhân, không phân biệt chủng tộc và văn hoá. Họ không bao giờ nghi ngờ rằng đất nước rộng lớn nhất thế giới này lại không có phần trong nhiệm vụ đó. 

Tin lành đặt tất cả mọi người trên một nền tảng giống nhau. Sự truyền giáo không chỉ là nhiệm vụ của những người da trắng, thậm chí của nhiều tổ chức ở tây phương có thái độ xem như đó là nhiệm vụ và cánh đồng của duy nhất một mình họ. Vào những năm 1940, một thế hệ mới đã tiếp nhận sự kêu gọi và khải tượng ban cho. Yun đã được gặp Simon Tsao vị mục sư lão thành và đáng kính vào cuối những năm tám mươi. 

Hơn bốn mươi năm trước, vào thời gian trước khi người cộng sản sắp sửa lên nắm quyền, thì Simon Tsao và vợ mình đã lên đường tây tiến; họ đi về Lanchow. Nhiều người đã nối theo họ, và Đức Chúa Trời đã ban cho họ nhiều bài hát, nói về sự truyền giáo về hướng tây. Điều kỳ lạ là Simon Tsao vừa mới viết những bài hát mà Yun và các cơ đốc nhân khác đã hát nhiều năm nay. Lúc đó, Yun và các anh chị em chưa hề biết điều đó. Một trong những bài hát bắt đầu bằng câu: “Hãy nhướng mắt về hướng tây”. Simon Tsao và những bạn đồng hành đã đi đến giáo ranh với Xinijang ở miền tây Trung Quốc. ở đó họ bị người cộng sản bắt giam. Simon Tsao bị bắt tù hơn bốn mươi năm. Nhưng, những cơ đốc nhân khác đã giữ vững khải tượng này và tiếp tục truyền đạt lại, cả trong những năm khó khăn bị sự bắt bớ dữ dội. Một trong những bài hát mà họ thường hát kết thúc bằng câu: 

“Chúng ta đều có cùng sự khao khát và sự mong mỏi về con đường Si-ôn. 

Chúng ta cùng nhịp bước về Giê-ru-sa-lem. 

Chúng ta đã hiến dâng tấm lòng cho Chúa. 

Quyền năng của Ngài đã thắng tất cả mọi dân tộc. 

Ôi, Chúa Giê-xu Christ, có ai mà không muốn theo Ngài chăng?” 

Đối với họ, sự đi về Giê-ru-sa-lem có một ý nghĩa tượng trưng. Điều đó có nghĩa là mỗi ngày đi với Chúa Giê-ru-sa-lem và mỗi ngày rao giảng tin lành. Nhưng trong ánh sáng của lịch sử chúng ta có thể khẳng định rằng sự kêu gọi đem tin lành từ Trung Quốc trên đường đến Giê-ru-sa-lem, là một khải tượng sống và quyền năng trong vòng những cơ đốc nhân Trung Hoa kể từ một trăm năm trở lại đây. Sau khi Đức Chúa Trời ban cho Yun nhiệm vụ hiệp nhất các nhà thờ tư gia lại, thì đây là lần đầu tiên Yun được gặp Simon Tsao. Bậc đàn anh lão thành kể cho anh rằng sự kêu gọi của ông đặc biệt dành cho những nước hồi giáo phía tây Trung Quốc. Trong cuộc nói chuyện đó, người lớn tuổi hơn cảm nhận bây giờ mình có thể giao lại tấm áo choàng cho người trẻ hơn, là người sẽ kế tiếp mình. Vậy là cuối cùng ông đã gặp ai đó cũng có một sự kêu gọi đi về phía tây. Trong khi ông ôm chầm lấy Yun, ông đã khóc vì sung sướng. 

Cuộc cách mạng văn hoá và giai đoạn bắt bớ dữ dội kèm theo không giết chết được giấc mơ. Giấc mơ này bây giờ lại nổi lên trên bề mặt và được những con người trẻ tuổi tiếp nhận lấy cách mới mẻ. Chẳng bao lâu, đã thấy rõ ràng là Đức Chúa Trời điều khiển và phối hợp khải tượng này, vì mỗi nhà thờ tư gia độc lập với nhau đều có cùng khải tượng. Nó đã bắt đầu từ hơn bốn mươi năm trước ở Henan, một tỉnh ở chính giữa Trung Quốc. Từ đó, khải tượng đã trào dâng không mệt mỏi, như những đợt sóng về phía tây và về phía nam. ở Trung Quốc có những sự cố gắng lớn lao được đầu tư, để truyền giáo cho nhân dân mình, trong số đó có nhiều nhóm sắc tộc trong địa phận Trung Quốc. Nhiều sắc tộc đó có một thái độ thù hận đối với người Trung Quốc. Nhưng những người truyền giảng tin lành Trung Quốc đã đột phá được hàng rào này và đã đạt đến được với họ. Đức Chúa Trời đã sử dụng lòng trung dũng của họ cùng với quyền phép tin lành để làm sự hoà giải giữa những con người này và để vượt những sự ngăn trở. 

Những người sẵn sàng từ bỏ định kiến về niềm tin cơ đốc và nếu biết đánh giá nó một cách khách quan, thì họ sẽ nhận thấy ngay rằng ở đâu tin lành được hành động, thì ở đó có sự hoà giải và an bình – không những giữa những cá nhân mà còn giữa các bộ tộc. 

Nếu chúng ta nhìn vào cửa sổ mười bốn mươi (tính theo đường vĩ tuyến), trải rộng từ tây phi đến Đông á, từ vĩ tuyến mười đến bốn mươi phía bắc xích đạo – sau đó người ta tính rằng có khoảng bốn tỷ người sống trong phạm vi này. Hơn một nửa dân số thế giới. Trung Quốc và ấn Độ có hơn hai tỷ người nằm trong cửa sổ chiến lược này. Trong phạm vi này có chín mươi phần trăm dân số thế giới sinh sống chưa hề nghe đến tin lành. Nếu đại mạng lệnh truyền giáo được thực hiện, thì chắc chắn vùng Châu á này phải được đạt đến. ở miền đông xa xôi, ở Trung Quốc, Đức Chúa Trời đã để cho một Hội Thánh sống, dấy lên mạnh mẽ và được trưởng thành và kêu gọi họ, quan tâm đến những con chiên lạc. Hội Thánh này được tẩy sạch qua nhiều sự gian truân. Bây giờ trái tim đó đang bùng cháy bởi một sự khao khát, đem tin lành trên đoạn đường cuối cùng trước ngày Chúa Giê-xu Christ trở lại. Đối với họ cánh đồng truyền giáo nằm ở phía tây. 

22. Ba tuyến đường – về hướng tây và hướng nam 

Phong trào ‘Trở về Giê-ru-sa-lem’ đã đặt ra ba tuyến đường, để đem tin lành vượt qua những biên giới, đến những đất nước ít được truyền giáo nhất trên thế giới. Tuyến đường thứ nhất, ở phía bắc và tương ứng với con đường xưa kia, giữa Trung Quốc và Trung á - quen thuộc là con đường tơ lụa. Nó đã được sử dụng trước khi Chúa Giê-xu giáng sinh. Marco Polo đã đi trên những con đường này. Nó đi qua thành phố Kascar ở phía tây của Xinjiang, chạy qua những nước cộng hoà vùng Trung á của nước Liên Xô cũ, và cuối cùng chạy qua Iran đến biển địa Trung Hải. 

Tuyến đường giữa, được gọi là con đường Hy-Mã-Lai. Nó bắt đầu từ Tây tạng và sẽ đưa những giáo sĩ qua Bhutan và Nepal đến Afganistan, Pakistan, Iran, Trung á và sau đó về Israel. Hai tuyến đường này chủ yếu đi qua những nước hồi giáo. 

Tuyến đường thứ ba, bắt đầu từ Việt Nam, đầu tiên đi xuống miền Nam và sau đó đến miền Tây. ở Việt Nam có nhiều nhà thờ tư gia được thành lập. Những người Trung Hoa có sự liên hệ chặt chẽ với họ. Nếu người ta đi về hướng tây, thì sẽ đi qua những nước như Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan, Miến Điện và ấn Độ. Mục đích của tuyến đường này là truyền giảng tin lành ở trái tim của Phật giáo và ấn Độ giáo. Không một địa phận nào ở trong những vùng này, mà những giáo sĩ có thể đi lại mà không có sự nguy hiểm. Trái lại, sự xuất hiện của họ sẽ thách thức những thế lực và quyền binh của những vùng này! Những giáo sĩ Trung Quốc biết rằng, nếu họ phải đi qua những nước đó, là những nước hoàn toàn chống lại tin lành, nhiều người trong số họ sẽ phải chịu tủ đạo. 

Những giáo sĩ đầu tiên đã lên đường. Nhiều người bây giờ đang chuẩn bị cho nhiệm vụ lớn và sẽ nối theo họ. Họ học ngôn ngữ, ví dụ như ả - rập và tiếng anh. Họ được huấn luyện, để hiểu những phong tục và văn hoá của những nước họ được sai đến. Những cơ đốc nhân Trung Quốc đã truyền giảng tin lành cho những người hồi giáo ở miền tây Trung Quốc. Một vài người hồi giáo đã tin Chúa. Những xuất xứ về hồi giáo của họ sẽ rất có lợi thế, nếu họ tiếp tục đi đến những vùng hồi giáo khác. Những nhà sư sãi ở Tây tạng cương quyết chống lại người Trung Quốc, vì đã chiếm đất của họ. Một vài người trong số đó đã tiếp nhận Chúa Giê-xu và giờ đang được huấn luyện để rao truyền tin lành cho đồng bào mình. ở những nước láng giềng, đã có những sự phấn hưng rộng lớn, ví dụ như ở Nepal và một vài vùng ở Việt Nam và ấn Độ. ở nhiều vùng đã có Hội Thánh, làm một cơ sở cho sự phát triển Hội Thánh tiếp tục. Những người Trung Quốc biết rằng đến với những đất nước này mà chỉ bằng lời nói sẽ không làm được gì. Những lời nói cần phải có quyền phép kèm theo, quyền phép của tin lành – bằng những dấu kỳ và phép lạ để nói cho mọi người biết rằng có một Đức Chúa Trời hằng sống và có thật mà họ có thể thờ phượng. 

Yun đóng một vai trò quan trọng vào đó, để tổ chức huấn luyện và sai phái những con người này. Trong vòng năm đến mười năm tới sẽ có hơn một trăm nghìn giáo sĩ Trung Quốc lên đường rời khỏi Trung Quốc đi về phía Tây. Yun được tôn trọng và có uy quyền trong vòng những người lãnh đạo nhà thờ tư gia Trung Quốc. Anh là một trong số những người lãnh đạo được nhiều người cần những ý kiến và lời khuyên. Mặc dù anh có một vai trò cốt yếu, nhưng anh nhấn mạnh rằng mỗi người phải làm trọn nhiệm vụ của mình và không có sự lãnh đạo của Đức Thánh Linh và không có sự liên hệ mật thiết hàng ngày với Đấng Christ, thì sự phục vụ của họ sẽ không có kết quả. Họ và

chúng ta tất cả đều cần có một thái độ hạ mình, sự cầu nguyện, ân điển và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. 

Những cơ đốc nhân đã tham gia vào những phong trào không được đăng ký đều phải đi một con đường khó khăn và gian khổ. Họ phải trả một giá đắt, để bảo tồn sự tự do của các Hội Thánh trước sự kiểm soát của hệ thống tôn giáo. Ví dụ như sự tự do được sai trái những giáo sĩ ra đi kể cả ở trong Trung Quốc và nước ngoài. Trong nhiệm vụ này nhà thờ ba tự túc chân tay đều bị trói. 

Những cơ đốc nhân thường vẫn tìm đến những nơi mà trước đây đã có các giáo sĩ bị tử đạo, để tưởng nhớ họ bằng một buổi thờ phượng tưởng niệm. Yun thường nhắc đi nhắc lại rằng, cũng như các giáo sĩ đã xả thân vì cớ tin lành, thì ngày nay, anh chị em Trung Quốc chúng ta cũng phải sẵn sàng đem ánh sáng đến cho hàng triệu người đang sôngs trong vùng á Châu tăm tối. 

Nhân đây, cũng cần phải nói rằng, những cơ đốc nhân Trung Quốc hoàn toàn không đồng ý với tất cả những sáng kiến của các tổ chức tây phương. Đó là một sự thật đáng buồn rằng có một vài công trình đã ra đời chỉ vì một tổ chức hay nhà thờ có nhu cầu gây sự chú ý của mọi người. Điều đó không ích lợi cho nhà thờ tư gia Trung Quốc. Trái lại, theo lời của nhiều lãnh đạo nhà thờ tư gia, những công trình như vậy còn đem lại những sự thiệt hại và thất bại. 

Một ví dụ về một trong những công trình như vậy mà nhà thờ tư gia không hề được hưởng, đó là quyên góp tiền để in Kinh Thánh ở trong Trung Quốc dưới sự kiểm soát của nhà thờ ba tự túc. Những tổ chức tây phương cho rằng những nhà thờ tư gia sẽ nhận được một phần xứng đáng trong số đó. Điều họ không biết đó là trên thực tế công an Bộ nội vụ kiểm soát ngặt ngèo sự phân phối Kinh Thánh. Họ đã đánh dấu ở đâu và những ai đã đặt mua. Bằng cách đó, họ có thể lần tìm dấu vết những người đã đặt những quyển Kinh Thánh, và tìm ra nhà thờ tư gia dễ dàng. Một phần của số tiền quyên góp in Kinh Thánh thậm chí được dùng để tài trợ cho nhà thờ ba tự túc. Đáng buồn là đôi khi chúng được dùng để kiểm soát và đàn áp nhà thờ tư gia. 

Có nhiều nhà thờ tây phương, những giáo phái và những tổ chức truyền giáo, theo đuổi mục đích của mình ở Trung Quốc. Yun nói, những mục đích của họ thường không phù hợp với những mục đích ở những nhà thờ tư gia. Tuy nhiều tổ chức nhà thờ tây phương cho tiền ủng hộ các cơ đốc nhân Trung Quốc, nhưng động cơ kèm theo của họ là những nhà thờ đó, sau đó phải trở thành ‘chi nhánh hay là trụ sở’ của họ. Với tư cách là một người vì sự hiệp nhất, Yun tuyên bố rõ ràng rằng: “chúng tôi không mong muốn những giáo phái tây phương và sự không hiệp một của nó”. 

Cách đây không lâu, những lãnh đạo nhà thờ tư gia đã xiết kiến nghị lên chính phủ Trung Quốc xin được công nhận và được tôn trọng. Nhưng nhà cầm quyền đã từ chối. Sự bắt bớ và tra tấn các cơ đốc nhân vẫn tiếp tục gay gắt không giảm sút. Thực tế là trong thập niên vừa qua, số cơ đốc nhân bị tù nhiều hơn trong những năm tám mươi. Trái ngược với những sự mong đợi là đáng lẽ áp lực trên nhà thờ tư gia giảm sút, thì hiện nay nó càng tăng lên. 

Những người lãnh đạo nhà thờ tư gia đồng ý để cho tây phương được biết điều này. Tuy nhiên, họ không nhìn nhận đó là một dạng phản đối theo kiểu vi phạm nhân quyền. Thậm chí, họ còn cho rằng sự nhấn mạnh của tây phương về quyền con người và dân chủ đã đánh lạc hướng điều thật sự quan trọng. Họ nói rằng, qua đó con người càng được đặt làm trung tâm, chứ không phải Đức Chúa Trời. Về nhiều phương diện cơ đốc nhân ở Trung Quốc sống trong một quan hệ hoàn toàn khác với những người Tây phương. Họ không muốn để tư tưởng của chủ nghĩa nhân đạo lên kiểm soát nhà thờ. Vì vậy họ rất cẩn thận đối với sự hăng say của tây phương đuổi theo vật chất, mội mức sống cao hơn và những hình thức giải trí mới, là những cái chỉ làm đất nuôi dưỡng cho một tôn giáo bằng kinh nghiệm, tìm kiếm những cách diễn đạt mới. Kiểu ‘tự xoay vòng’ này cuối cùng sẽ dẫn đến một sự trống rỗng và sự xơ xác về thuộc linh và dẫn đến tình trạng các Hội Thánh sẽ ‘ngủ trên những vọng canh của mình’. Yun nói rằng sẽ có nhiều người Trung Quốc đến Châu Âu và Mỹ để thách thức những Hội Thánh ngủ triền miên. 

Câu chuyện của chúng ta bắt đầu với một chàng thanh niên ở một ngôi làng nhỏ, không tên tuổi, trong thời kỳ cách mạng văn hoá ở Trung Quốc. Từ thời còn thanh thiếu niên, anh đã được sự kêu gọi làm giáo sĩ cho hướng tây và hướng nam. Anh đã vâng lời và không hề thoả hiệp, mặc dù bị tù tội nhiều lần, bị bắt bớ và đau đớn. Kết quả của sự thành tín đó là hôm nay anh được Đức Chúa Trời kêu gọi cho một công tác rộng lớn hơn trong Vương quốc Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể thấy rõ sự thành tín của Đức Chúa Trời trên đời sống anh. Điều Đức Chúa Trời đã hứa, Ngài cũng đã làm. 

Những ‘cánh cổng sắt’ đã mở ra – cả ở trong một ý nghĩa rộng hơn – từ cánh này đến cánh khác. Mẹ Yun đã dẫn anh và gia đình đến với Đấng Christ. Cho đến ngày về với Chúa, cuối năm 2000, bà là một “lực sĩ” trong sự cầu nguyện. Chúng ta kết thúc câu chuyện này bằng một lời tường thuật về người phụ nữ, mà đã có ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của cậu con trai và qua đó, đến sự phát triển nhà thờ tư gia Trung Quốc. Chúng ta có thể nói rằng bà là một trong những nhân vật then chốt trong sự phấn hưng đã diễn tiến hai mươi năm qua. Lời chứng về sự chữa lành sau đây đã làm một ví dụ điển hình về quyền phép Đức Chúa Trời lẫn về những phép lạ đã xảy ra ở Trung Quốc ngày nay. 

Trước đây một vài năm, khi bà vừa được bảy mươi tuổi, mẹ của Yun bị lâm bệnh tai biến mạch máu não, bà bị liệt một thời gian và không biết gì. Những bác sĩ đã khám nghiệm nhiều lần và đi đến kết luận là tình trạng của bà không còn hy vọng nữa. Theo lời họ nói, thì bà không thể bình phục được và sẽ chết sau một thời gian ngắn. Con trai còn ở trong tù và không thể đến thăm bà được. Mẹ của Yun đã hồi tỉnh lại trong một thời gian ngắn và nói với con gái hãy đem mình về nhà, để bà có thể chết ở đó. Trong một buổi nhóm cầu nguyện tại gia đình bà, bà được mọi người cầu nguyện, Đức Chúa Trời đã đụng chạm bà. Bà đã được chữa lành và ngợi khen Đức Chúa Trời. Bây giờ, bà muốn đến thăm con trong tù. Trong lần đến thăm đó, bà kể cho con trai nghe rằng nếu Đức Chúa Trời không chữa lành cho bà, thì bà không bao giờ gặp được con trai nữa, vì các bác sĩ đã bó tay. Một vài năm sau, vào năm 1996, đang trong lúc giảng, Yun nhận được một điện tín rằng mẹ anh lại bị một cơn tai biến não nữa. Hậu quả là một phần thân thể bị liệt, khuôn mặt bà bị méo mó. Yun đã đến thăm bà trong bệnh

viện. Mẹ anh mở mắt ra và nói hãy mặc cho mình bộ đồ trắng, để bà đi gặp Chúa. Trong khi ở đó, Chúa nói với lòng Yun, rằng bệnh này không đến mức chết. Anh đã cầu nguyện bằng uy quyền lớn lao cho mẹ mình và đẩy lui căn bệnh trong Danh Chúa Giê-xu. Bà cảm thấy thân thể mình có một luồng sức mạnh tuôn chảy, bà đã đứng dậy và bước đi. Khuôn mặt bà hoàn toàn trở lại bình thường. 

Cuối cùng, mẹ anh lâm bệnh lần thứ ba vào năm 1998. Đó là su khi Yun đã đến Châu Âu. Ai cũng nghĩ rằng lần này bà sẽ chết. Gia đình không còn hy vọng gì nữa. Thậm chí, người ta đã chuẩn bị cho điều cuối cùng và mặc y phục người chết vào cho bà. 

Con trai bà, đã nhiều năm có một mối liên hệ mật thiết với mẹ, lúc đó đang giảng ở đất nước Thuỵ sĩ xa xôi. Khi Yun được báo tin về bệnh tình của mẹ, anh gọi về nhà bằng điện thoại cầm tay. Khi ở Trung Quốc reo chuông, gia đình đưa điện thoại đến gần tai bà. Yun nói những lời ngắn ngủi: “Mẹ ơi, mẹ có nghe thấy không? Chúa Giê-xu yêu mẹ và ngài sẽ chữa lành cho mẹ”. Khi bà nghe thấy những từ “Chúa Giê-xu yêu mẹ”, thì bà liền lập tức đứng dậy, đi lại và nhảy múa vui sướng. Một lần nữa, bà lại chiến thắng trên sự chết và bệnh tật. (Vào tháng mười hai, năm 2000 bà đã được Chúa gọi về nhà). 

Những phép lạ xảy ra trong nhà thờ tư gia Trung Quốc, nhiều vô số như những ngôi sao trên trời. Chúng tôi chỉ nhắc đến một vài trường hợp. Phép lạ lớn nhất, không phải là những người bệnh được lành mà hàng triệu tội nhân đã tiếp nhận Đấng Christ làm cứu Chúa của mình và đặt niềm tin vào Đức Chúa Trời hằng sống. Trong những ngày sắp tới trước mặt, sẽ có nhiều người trong số họ phục vụ Chúa trên mọi nẻo đường về hướng nam và hướng tây, qua Châu á đến tận Giê-ru-sa-lem. 

 (Thưa quí đọc giả cuốn HOA HUỆ GIỮA CHÔNG GAI có tám ghi chép, về những anh hùng đức tin ở Trung Quốc trên đây là ghi chép 5. cầu Chúa ban phước cho bạn)

Thế Gian Không Xứng Đáng Cho Họ

Tác giả: Danyun

 

Tường thuật về sự phấn hưng tại Trung Quốc

1. Lời Giới Thiệu

Chín ngày liền, mỗi một giọt nước ở vùng đồng bằng Fanda, thuộc miền bắc Trung Quốc đều bị đông đá. Nhiệt độ đã hạ xuống mười chín độ dưới không. Có một ngọn gió tây bắc thổi, quét những đợt tuyết quấn lại giống như những quả bóng bằng bông. Sau nhiều giờ

đồng hồ, tuyết dày đến một mét đã bao phủ khu vực giống như một tấm chăn màu trắng. Có vẻ như nó che phủ mọi tội lỗi của loài người. Vào lúc hai giờ sáng, ở một huyện nọ tại làng 'Tình Yêu', có một người đàn ông trạc tuổi trung niên, ngoài bốn mươi, quì gối cầunguyện trong sân đằng sau nhà. Ông cầu nguyện hơn hai tiếng đồng hồ. Ông cầu nguyện dốc đổ lên cùng Chúa cho đất nước mình, cho đồng bào, và hàng nghìn linh hồn và vì công việc Hội thánh. Khi ông cầu nguyện, mắt cá chân ông càng lún sâu xuống tuyết sâuhơn và sâu hơn. Ông bắt đầu khóc và nước mắt ông đã rơi xuống tuyết. Ông tiếp tục cầu nguyện và thình lình ông nghe thấy trong lòng có tiếng êm dịu nhỏ nhẹ nói với ông: “Trong ba ngày nữa, ngươi sẽ bị bắt vì Chúa”. Từ tận đáy lòng, ông cảm tạ Chúa và đứnglên. Lúc đó chiếc quần của ông trở nên giống như đá. Ông là ai? Từ đâu đến? Tại sao ông lại đến cầu nguyện ở chỗ đó?

2. Ánh sáng đã mọc lên trên những kẻ ngồi dưới bóng sự chết (Ma-thi-ơ 4:16)

Mặt nước sông trong xanh chiếu lấp lánh, như những đốm lửa dưới ánh mặt trời buổi sáng sớm. Bạn dường như thấy ánh sáng cứ tiếp tục lan ra, khi dòng sông chảy từ hướng bắc đổ về phía nam. Những con cá nhỏ bơi lượn dưới ánh mặt trời ban mai, nếu mà có vài cậu chăn bầy đi qua, có lẽ chúng sẽ nhảy xuống sông để nô đùa. Phía đông của giòng sông là một ngọn núi nhỏ. Tuy nó không cao lắm, vốn là phần của một dải núi kéo dài một nghìn sáu trăm cây số. Dải núi trùng trùng điệp điệp có cây rậm bao trùm, làm cho nó có một dáng vẻ rất đặc biệt. Trong ngôi làng ở dưới chân núi, có bốn ngôi nhà tranh nằm ven sông. Ở đây có một đôi vợ chồng và năm đứa con sinh sống.

Đầu của gia đình là Cheng Jian. Anh có dáng người vừa vừa, nhưng rất chắc nịch, với đôi lông mày đậm, đôi mắt sáng, một gương mặt tròn, cái mũi to và một cái miệng rộng. Anh là người đầy tràn sức sống. Tuy đã ngoài ba mươi và có một cuộc sống khắc nghiệt, nhưng anh vẫn thường cởi mở, dí dỏm và lạc quan như những ngày còn trẻ tuổi. Anh là một người đầy dẫy sự vui mừng, dù cho trong hoàn cảnh khó khăn nhất, bạn vẫn có thể nghe thấy tiếng cười của anh.

Bởi vì tình trạng đất nước bi đát, nên đối với mỗi người, cuộc sống rất khó khăn. Vợ của Jian rất hay bị đau ốm. Họ nghèo đến nỗi nhiều khi nhà không có đồ ăn. Điều đó đã kéo dài sáu đến bảy năm. Đôi khi, Jian đi ngang qua nhà của người họ hàng mình chỉ để chào hỏi. Người họ hàng của anh thì lo sợ rằng anh sẽ mượn tiền của họ. Họ thấy không biết nói chuyện gì với Jian. Điều đó càng làm cho Jian lúng túng hơn và không biết làm thế nào.

Trong cuộc cách mạng văn hóa, đối với các Cơ-đốc nhân, xuống đường để bị 'bêu gương' là chuyện rất bình thường. Lúc đó là vào mùa xuân năm 1974. Vào một buổi trưa, Jian đi ngang qua một xóm kia. Anh trông thấy có một bà già bị bắt ra đường để bị 'bêu gương'. Bà khoảng chừng sáu mươi tuổi. Jian đã nghe thấy bà nói rằng “Gia đình chúng tôi rất nghèo, và chúng tôi thường bị đau ốm. Thậm chí, tôi bị nhiều chứng bịnh khác nhau. Tôi đã tốn hết bao nhiêu tiền cho thuốc men và thật là khổ sở. Nhưng kể từ khi tôi đến với Chúa Giê-xu, trong gia đình tôi có sự bình an.”

Sau khi Jian nghe thấy điều đó, anh tự nghĩ: “Hay đấy, tin Chúa Giê-xu có thể làm cho mình được khỏe mạnh.” Nên anh đã chạy về nhà và tìm những người của Hội thánh. Anh nói rằng anh muốn tin Chúa Giê-xu, và nhờ Hội thánh hãy cầu nguyện cho vợ của mình. Nhưng các anh em đã không tin lời anh. Nhưng anh đã kiên quyết. Anh đã ba bốn lần trong ngày đến

nhà của các anh em, để xin họ cầu nguyện. Cuối cùng, các anh em đã được lay động. Họ đến nhà của anh để cầu nguyện cho vợ anh. Họ làm liên tiếp ba ngày liền. Ngợi khen Chúa! Vợ của Jian đã được lành hẳn. Cô không trông như đã từng bị bệnh một thời gian dài, nhưng cô đã ra đồng làm việc được ngay vào ngày thứ tư và những người trong tổ sản xuất đều rất ngạc nhiên. Cô thường hay kêu la và rất khó gần. Nhưng bây giờ cô đã hoàn toàn thay đổi. Mọi người hỏi cô “Có phải chị tin Chúa Giê-xu không?” Chị Jian chỉ cười; chị không nói một lời nào. Nhưng bản thân Jian, thì vẫn chưa đến với Chúa. Tấm lòng anh vẫn còn cứng cỏi. Anh nghĩ, bởi vì vợ tôi được chữa lành, nên cô sẽ là người tin Chúa Giê-xu, chứ không phải là tôi. Vào một buổi tối, vợ anh từ buổi nhóm trở về. Cô đã quì gối trong phòng riêng và cầu nguyện dốc đổ cho jian, trong khi Jian đang ngủ ở một phòng khác. Sau đó Jian cảm thấy người khó chịu quá. Anh đã quì gối xuống và bắt đầu kêu gào. Anh đã kêu la mấy tiếng đồng hồ như vậy, cho đến khi anh được sự bình an trở lại trong lòng, và tối hôm đó anh đã tiếp nhận Chúa. Jian vốn là người 'hồn nhiên, ngây thơ' và được mọi người yêu mến. Nhưng sau khi anh được cứu, mọi người bắt đầu ghét bỏ anh.

3. Khi ngươi đã quay trở lại, hãy làm vững chí anh em mình. (Lu-ca 22:32)

Vào một ngày kia, khi Jian và vợ đang làm việc ngoài đồng, có hai người bắt đầu châm chọc và nói những điều có ý khích bác. Họ rất có vẻ miệt thị và nhạo báng Đức Chúa Trời, đến lúc Jian không thể đứng yên được nữa, anh lên tiếng nói “Thôi đi! Nếu các ông muốn nói gì, thì hãy nói ra! Tôi có làm hại các ông điều gì chăng, mà các ông lại xúc phạm đến Đức Chúa Trời của tôi như vậy?” Hai người không dám nói điều gì thêm. Họ gục đầu xuống và bắt đầu làm việc.

Jian đi nhóm thường xuyên. Vào một ngày kia anh và vợ bị bắt trong một buổi nhóm và bị đưa đi 'học tập'. Năm đứa con nhỏ bị bỏ lại ở nhà, không ai chăm sóc. Mười ngày sau, tất cả những người trộm cắp, cờ bạc, và gây gổ đều được thả ra, ngoại trừ Jian và vợ anh. Cuối cùng không còn thức ăn ở nhà nữa. Các con cứ đến lớp 'học tập' và đứng ngoài kêu gào. Điều đó làm cho trái tim Cheng Jian tan nát. Càng tệ hơn, những người lãnh đạo đảng tiếp tục dọa nạt họ. Nên cuối cùng, Jian chối bỏ Chúa Giê-xu và ký tên vào.

Sau khi về nhà, họ vô cùng buồn bã. Họ không thể ăn ngủ được. Sau đó họ đã quì gối xuống và khóc lóc trước Chúa. “Chúa ơi, chúng con đã không thành tín, chúng con không biết là Ngài có còn yêu chúng con nữa hay không. Nếu Ngài còn yêu chúng con. Xin hãy để cho chúng con bị ốm trong mười ngày.” Sau khi họ đã cầu nguyện lời cầu nguyện đó, họ càng khóc thảm thiết hơn nữa. Ba ngày sau đó, cả gia đình đều lăn ra ốm. Người lãnh đạo đảng thấy gia đình Jian không ra đồng làm việc mấy ngày, thì ông cùng với mấy người nữa đã đến, để tìm ra nguyên nhân. Jian nói với ông ta, “Bởi vì các ông bắt ép tôi chối bỏ Chúa Giê-xu và ký tên, nên chúng tôi đã bị ốm, và Chúa cũng đã tha thứ cho chúng tôi. Hãy đưa lại cho tôi tờ 'tuyên bố ly khai', nếu không chúng tôi sẽ chết. Kể từ lúc này, không những cả gia đình tôi tin Chúa Giê-xu, chúng tôi còn hiến dâng cả nhà cửa chúng tôi cho Chúa nữa. Chúng tôi sẽ có những buổi nhóm ở nhà chúng tôi.

Sau khi Jian đã ăn năn như vậy, anh bắt đầu tháo mồ hôi và được lành hoàn toàn. Một vài ngày sau, cả gia đình đều được lành. Họ cảm thấy kinh hoàng và ngợi khen Chúa.

Chúa đã đặc biệt lựa chọn gia đình và căn nhà đó để làm nơi nhóm họp rất tốt. Gần như mỗi ngày, họ đều có những tín đồ đến nhà mình. Chính quyền thấy rất chướng tai gai mắt, thường sai những kẻ gây rối và dọa nạt họ. Nhưng cả gia đình Jian cùng họp lại cầu nguyện. Họ hứa nguyện phú thác mọi sự trong tay Chúa và không lo sợ gì hết.

Ba tháng sau, Jian nhận được sự kêu gọi giảng tin lành. Từ lúc đó, anh luôn luôn đi ra giảng tin lành và phục vụ mọi người. Lời giảng của Jian rất thu hút và có sức thuyết phục. Trên hết mọi điều đó, anh có một trái tim dành cho những linh hồn. Anh luôn luôn bằng nước mắt, giục dã mọi người hãy ăn năn và quay trở lại với Chúa. Và nhiều người trở lại với Chúa qua những lời giảng của anh. Có một ngày, Jian nghe nói có một đầy tớ Chúa, người anh em Ming, sống ở trên đồi, bị đi tù vì cớ tin lành. Vào năm 1974, anh bị kết án bảy năm tù. Jian đã cầu nguyện khẩn thiết cho người anh em Ming và gia đình anh. Vào ngày hai mươi ba tháng giêng 1975, vợ của Jian nói với chồng hãy đem lúa đi ra phố chợ bán. Với số tiền có được, anh có thể mua ít đồ ăn và thực phẩm chuẩn bị cho tết năm mới. Rồi anh ra đi, và bán được sáu Yuan. Sau đó anh đã nghĩ đến gia đình anh Ming và thấy thương họ. Anh quyết định đến thăm họ. Jian chỉ biết là anh Ming sống ở trên đồi, nhưng anh không biết cụ thể ở chỗ nào, và anh biết là nếu hỏi thăm người ngoài là thiếu khôn ngoan. Anh đã bắt đầu đi lúc trưa và mất sáu tiếng đồng hồ sau mới đến chân đồi. Lúc đó trời đã rất tối và có gai góc, bụi gai mọc dọc đường, thật sự là rất khó khăn. Tuy nhiên, Jian vẫn cứ đi tiếp. Vào tối mịt, Jian có thể nhìn thấy vài ánh đèn trên đồi. Anh đi theo hướng có ánh sáng. Vào lúc nửa đêm, anh mới tìm được nhà. Anh gõ cửa, và một ông già ra mở cửa. Khi ông thấy Jian, ông rất ngạc nhiên, bà cụ đứng sau đã mời anh vào. Tất cả họ đều ngồi bên đống lửa và ông già hỏi Jian đến từ đâu và tại sao anh lại đến vào lúc đêm hôm khuya khoắt này. Jian nhìn xung quanh và trông thấy một thiếu phụ trẻ ngồi bên hai ông bà, nhưng không thấy có đứa trẻ nào. Anh bắt đầu ngạc nhiên và hỏi “Có phải đây là gia đình của anh Zhang không?”

“Vâng, đúng rồi” bà cụ nhã nhặn trả lời.

“Vậy ở trong gia đình này có bao nhiêu người vậy?”

“Cộng tất cả lại là năm.”

“Thế còn hai người nữa ở đâu?”

“Một người là đứa cháu tôi, nó vừa tròn một tuổi. Bây giờ nó đang ngủ. Người còn lại là con trai tôi. Nó đang ở trại 'lao động' vì cớ tin lành. Và đây là con dâu tôi.”

Khi Jian nghe thấy điều đó, anh không thể không thốt lên, “Chúa ơi, cuối cùng Ngài đã đưa con đến nhà người anh em Ming.” Bố mẹ anh Ming và vợ anh đều rất ngạc nhiên. Jian nói với họ, tại sao anh đến đây và có điều gì đã xảy ra dọc đường. Jian lấy bốn Yuan ra và đưa vào tay bà cụ và nói, “xin bà hãy nhận lấy và mua sắm gì đó cho ngày tết năm mới”. Xong rồi, anh đứng lên và bắt đầu ra về. Nhà họ Zhang không làm sao giữ anh ở lại được. Nên họ tiễn anh ra cửa và xúc động khóc.

Khi Jian về nhà, vợ hỏi, anh ở đâu vậy? “Anh có đem gì về cho năm mới không?” Jian nói với vợ điều đã xảy ra và cô kêu thốt lên. Lúc đó, chưa đến hai mươi tám tháng giêng, với hai Yuan còn lại, Jian mới ra đi và mua ít thịt mỡ cho năm mới.

Vào buổi tối hôm Jian trở về từ nhà anh Ming, anh có buổi nhóm tại nhà anh. Anh nói cho tất cả các anh chị em về gia đình anh Ming và nói “Chúng ta có thể bớt phần ăn đi, để có thể giúp đỡ gia đình anh Ming.” Mọi người đều xúc động. Vào ngày hai mươi tám tháng giêng, một nhóm anh chị em đến thăm gia đình anh Ming. Họ đem theo gạo, bột, thịt mỡ, muối và giấm. Khi đến nhà anh Ming, tất cả họ đều khóc. Khi ra về, có vài người đã để áo choàng của họ lại cho nhà ông Zhang. Đó là lần đầu tiên trong những năm qua, nhà ông Zhang có một năm mới hạnh phúc. Nhưng Jian có một ước mong chưa được thỏa nguyện. Đó là đến thăm anh Ming, là người đã bị đi cải tạo vì cớ Đấng Christ. Lúc đó là vào một ngày đẹp trời mùa xuân năm 1976. Anh Ming đang làm việc ở vườn rau. Khi nhìn lên, thấy những cây ăn trái, anh cảm thấy rất buồn. Anh suy nghĩ về Hội thánh ở thành phố 'F' và ở tỉnh 'J', về những anh chị em đang bị tù, về bố mẹ, vợ và con trai và anh không thể kiềm được nước mắt.

Sau đó, người lính canh đến nói với anh là anh có người đến thăm. Vì thế, Ming đến phòng tiếp khách. Khi Ming bước vào phòng khách, có một người đàn ông đi lại bắt tay anh thắm thiết và nói, xin chào anh Ming, tôi là Cheng Jian. Rất mừng được gặp anh. Tôi đã dự định đến thăm anh.

Ming đã được nghe về Jian và gia đình anh và các anh chị em khác, là những người nóng cháy vì Chúa. Bây giờ, Jian đã đi một đoạn đường dài để thăm anh, làm anh rất xúc động, nên anh đã đưa Jian ra vườn rau. Jian kể cho Ming tình hình Hội thánh ra sao và về lần đến thăm đầu tiên của anh tại gia đình Ming. Cả hai đều khóc. Trước khi anh ra về, Jian đã đưa cho Ming năm hào trong một túi nhỏ. Ming không hiểu tại sao lại như vậy, nên Jian đã nói với anh: “Trên đường đến đây thăm anh, tôi gặp một cháu gái chừng mười mấy tuổi. Gia đình và bố mẹ cháu đều không tin Chúa và cháu hay bị phạt khi đi nhóm về. Cháu luôn luôn cầu nguyện cho Hội thánh và cho những người đang bị tù vì cớ tin lành. Cháu mong ước được đến thăm anh, nhưng vì cớ gia đình và lý do tài chính, cháu không thể đi được. Cháu nói với tôi, hãy đưa cái này cho anh, đây là số tiền cháu dành dụm được.

Khi Ming nghe thấy điều đó, anh không cầm được nước mắt và nói “Tôi không thể nhận cái này được. Anh Jian, anh hãy lấy tiền đó và mua một cái khăn tay cho cô em gái chúng ta. Hãy nói với em, hãy dùng chiếc khăn tay để lau nước mắt mỗi khi em cầu nguyện và khóc.” Trên đường về, Jian đã làm như Ming bảo anh. Anh mua một chiếc khăn tay bằng số tiền của cháu gái. Nên cô em gái càng cầu nguyện khẩn thiết hơn và dùng chiếc khăn tay để lau những giọt nước mắt.

Jian thường xuyên đến thăm gia đình Ming cùng với các anh chị em khác. Anh luôn luôn đến đây để giúp đỡ họ trong vụ mùa và để an ủi gia đình Ming trong những ngày lễ hội. Vợ của Ming đã rất xúc động, nên cuối cùng cô đã tiếp nhận Chúa. Cho nên, có một sự phấn hưng trong gia đình của Ming trước khi Ming ra tù.

4. Quả thật các ngươi sẽ uống chén mà ta uống (Mác 10:39)

Vào một buổi tối mùa xuân năm 1978, trong khi Jian đang giảng ở một làng không cách xa nhà anh bao nhiêu, anh đã bị bắt cùng với tám mươi anh chị em khác. Họ bị nhốt chung trong một phòng của căn nhà hành chính của đội sản xuất. Những người trong làng đến tập hợp bên ngoài và đả đảo họ, dùng những lời lẽ thậm tệ. Nên Jian đã hướng dẫn những tín đồ hát tôn vinh Chúa.

“Chúa Giê-xu đến Ghết-sê-ma-nê; Những tên lính đến để bắt Ngài; Giu-đa đến để hôn Chúa...”

Sau khi họ hát được mấy câu, thì họ bắt đầu khóc. Họ vừa khóc vừa hát như vậy trong một tiếng rưỡi đồng hồ, và càng ngày hát càng to hơn.

Trước khi trời tối, có một cô bé mười ba tuổi đến với Jian và nói, “Bác ơi, cháu đến dự buổi nhóm sau khi học về. Còn bây giờ cháu đã bị bắt. Nếu cháu không về nhà được hôm nay, bố cháu sẽ đánh cháu, và cháu sẽ bị đuổi học nữa.” Khi cô vừa nói xong, cô lớn tiếng nói và khóc.

Cánh cửa bị khóa và bị gài then chốt kim loại bên ngoài. Anh không thể mở được bằng sức lực của mình. Cô bé càng khóc to hơn. Trong phòng có hơn ba mươi chiếc ghế. Anh tự nghĩ “Có thể dùng những chiếc ghế này đập cho cánh cửa mở ra.” Vậy nên, anh đã cầm chiếc ghế lên và chuẩn bị đập vào cánh cửa. Nhưng thình lình, một người anh em nói “Kỳ lạ chưa, cánh cửa đã mở ra!” Tất cả họ đều giật mình và ngợi khen Chúa, sau đó chạy ra khỏi phòng. Jian thì ở lại trong phòng, bởi vì phải có một ai đó chịu trách nhiệm cho những điều đã diễn ra, và một vài anh chị em cũng ở lại phòng với anh. Vào lúc đó, cómột ông bác sĩ đi qua. Ông là người rất có uy tín trong vùng. Khi ông thấy điều xảy ra, ông nói: “Tốt hơn hết là các anh hãy chạy đi, dại gì mà ngồi đây chịu hình phạt? Bên cạnh đó, tin Chúa Giê-xu không phải là một tội hình sự trầm trọng. Tại sao lại ở lại? Hãy chạy đi!” Vì thế, họ đã chạy. Khi họ rời khỏi văn phòng, lúc đó trời đã tối.

Vào buổi sáng hôm đó, đội sản xuất có một buổi họp đột xuất liên quan đến chuyện những Cơ-đốc nhân kia. Quyết định cuối cùng là những Cơ-đốc nhân bị phạt sẽ phải trả tiền xem phim cho cả làng trong một năm.

Khi họ đến chỗ những Cơ-đốc nhân bị nhốt, họ kinh ngạc vì thấy cánh cửa mở và không có một ai ở trong đó. Chỉ có hai người có chìa khóa vào phòng: một người là bí thư và người kia là kế toán. Cho nên ông bí thư đi với một số người đến nhà của người kế toán. Họ hỏi vợ của ông kế toán, “Ai là người mở cửa cho những Cơ-đốc nhân tẩu thoát?”

“Không phải là chúng tôi đâu. Chúng tôi không hề mở cửa cho họ. Chúng tôi vô tội.” Vợ ông kế toán kêu la như hô hoán. Bà cầm lấy cổ áo ông bí thư và dồn ông ra ngoài, bắt ôngthề giữa trời rằng họ vô tội. Ông phải nhờ những nhân viên đi theo để thoát khỏi tay bà.

Nên họ đã trở lại văn phòng, mệt lả người và nói với nhau: “Chúng ta sẽ làm gì với những Cơ-đốc nhân này? Đi 'học tập' không ăn thua vì bọn chúng không sợ roi vọt và tra tấn. Cách duy

nhất để truy quét chúng.” Họ cùng đi đến một ý kiến rằng, nếu các Cơ-đốc nhân bị bắt trong một buổi nhóm, chúng phải tìm một cây roi và bắt họ đánh lẫn nhau.

Vào tháng bảy cùng năm đó, Jian phải đi lao động công ích ba mươi lăm ngày. Và người đội trưởng chỗ anh làm sẽ thi hành lệnh đó. Jian rất bất bình. Anh cầu nguyện với Chúa khẩn thiết. Chúa nói với anh “Ta biết sự khó khăn của con...” Anh được an ủi và sự bình an trở lại trong lòng. Sau đó anh nghe một giọng nói rõ ràng trong lòng “Ngày mười hai tháng tư.” Jian nói “Chúa ơi, con ngợi khen Ngài. Dù cho ngày đó có xảy ra điều gì, con đã sẵn sàng. Con vui mừng làm theo ý muốn Ngài.”

Thời gian trôi đi nhanh chóng. Chẳng bao lâu đến ngày mười hai tháng tư năm sau. Lúc đến chiều, Jian có buổi họp với các bạn đồng lao. Trong khi anh đứng lên để đọc Lời Chúa, những công an an ninh đã ập đến. Chúng đánh đập anh. Jian ngã xuống nền nhà, máu me bê bết. Sau đó, chúng đưa anh đến đồn công an. Trên đường lên đồn công an, đôi giày của Jian hay bị tuột ra ngoài, nên anh đã cúi xuống để buộc chặt lại. Khi tên chỉ huy công an thấy vậy thì la lên “Mày làm gì thế?” Tuy nó biết anh cúi xuống để buộc dây giày, nhưng hắn vẫn ra lệnh tháo giày Jian ra. Con đường đó vừa mới làm xong, trải đầy đá nhọn sắc. Phải đi trên đó thật là đau đớn và Jian gần ngất xỉu. Sau đó, anh đã nghĩ về Chúa: Về con đường của Ngài lên Gô-gô-tha, Ngài còn phải mang một thập tự giá. Jian nói với Chúa, “Chúa ơi, tuy con đường con đi khó khăn, nhưng không thể so sánh với con đường Ngài đã đi. Cái chén con uống tuy đắng, nhưng vẫn không thể so sánh với cái chén mà Ngài đã uống.” Khi anh cầu nguyện xong, những viên đá dưới chân anh trở nên rất mềm. Jian nhảy lên và kêu to 'Ha-lê-lu-gia!'.

Cuối cùng, họ đến đồn công an an ninh, ở đó Jian bị hỏi cung. Anh không nói một lời nào, dù chúng có hỏi anh đến đâu. Tên chỉ huy công an rất giận dữ và ra lệnh đánh đòn anh. Vào lúc đó, có năm chị em tới, người lớn tuổi nhất chỉ mới mười chín. Họ đã cùng ở trong buổi nhóm của Jian vào buổi tối hôm đó và đã bị giải theo anh suốt dọc đường. Khi họ trông thấy Jian bị đánh, họ kêu lên, “Đấy là chúng tôi đề nghị anh ta giảng. Anh ta đã mắc tội gì? Nếu các ông muốn đánh anh ta, thì cũng hãy đánh luôn cả chúng tôi nữa.” Nên chúng đưa Jian qua một phòng khác và khóa cửa lại. Chúng còng tay anh lại đằng sau lưng và treo anh lên một xà nhà trong phòng. Nhưng mái nhà quá thấp và chân của Jian vẫn chạm được vào nền nhà. Nên chúng đã nghĩ ra cách tàn bạo hơn để làm cho Jian đau đớn. Chúng đã trói khuỷu tay Jian vào một xà nhà, sau đó buộc một cục đá to lên trên cây xà đó. Thật hết sức đau đớn. Anh tiếp tục cầu nguyện xin Chúa giải cứu mình. Cuối cùng anh ngất đi. Khi anh hồi tỉnh, lúc đó trời đã tối. Jian thấy mình vẫn còn ở trong căn phòng ngột ngạt đó và xung quanh có đầy muỗi. Anh suy nghĩ về đất nước mình và về sự nổi loạn chống lại Đức Chúa Trời; anh nghĩ về những anh chị em bị bắt vì cớ Chúa; anh nghĩ về Hội thánh và sự bị cô lập. Anh nghĩ về nhiều anh chị em đã ngã xuống, anh không kìm được nước mắt và khóc thổn thức. Hai ngày sau, Jian bị bắt phải làm việc. Anh bị bắt phải gánh cát để đắp đường. Nhưng vết thương anh chưa lành hẳn, nên anh đã ngất xỉu.

5. Còn ngươi hãy vững lòng bền chí

Đó là vào đêm mùa đông lạnh giá năm 1979; anh Ming vừa ra khỏi tù và đang giảng ở một buổi nhóm ở trong một làng kia. Jian cũng có mặt ở đó; anh là người hướng dẫn buổi thờ phượng. Chỗ nhóm chật ních người. Khi Jian đi vào, anh thấy có một nhóm người đang tán chuyện làm anh rất ngạc nhiên. Anh hỏi một người chị em, “Có điều gì xảy ra thế? Tại sao họ

lại không hát?” Người chị em trả lời, giọng thì thào “Có một đảng viên đang ngồi đàng trước kia.” Jian bèn đi lên và ngồi bên cạnh ông ta. Anh tự nghĩ, “Nếu ông ta đứng lên làm mất trật tự buổi nhóm, anh sẽ kéo ông ta xuống.”

Jian đứng lên và hướng dẫn mọi người hát tôn vinh:

“Nguyện hết thảy cừu địch Ngài đều hư mất như vậy!Nguyện những kẻ yêu mến Ngài được giống như mặt trời, khi mọc lên rực rỡ.”(Các quan xét 5:31) 

Khi họ vừa hát xong, Jian hướng dẫn họ cầu nguyện. Sau đó anh nói “Bây giờ chúng ta sẽ dâng thời gian còn lại cho đầy tớ Chúa là anh Ming” Nên Ming đã đứng lên, đi về phía trước và bắt đầu giảng. Anh giảng về sự tái lâm của Chúa và những dấu hiệu xảy ra vào thời kỳ cuối cùng. Khi họ đang lắng nghe bài giảng của Ming, thì ông đảng viên đứng lênnói “Hãy ngừng lại và đi theo tôi!” Ông nắm cổ áo Ming và tìm cách lôi anh đi. Vào ngay lúc đó, Jian chạy lại và dùng hết sức ôm chặt lấy ông ta. Jian siết chặt ông ta đến nỗi ông ta không cựa quậy được. Vào lúc đó, anh Ming đã chạy thoát. Thế nên ông càng tức giận; ông thét vào Jian, “Tôi biết anh làm gì rồi!”

Jian đáp thẳng thừng “Tôi cũng biết ông làm gì chứ! Tôi biết động cơ của ông!”

“Tôi biết động cơ của ông!” Jian nói tiếp, “Ông chỉ bắt bớ những Cơ-đốc nhân chúng tôi;đó là tất cả những gì ông làm. Ông chỉ đến ngăn cản những buổi nhóm chúng tôi, nhưng chúng tôi không bao giờ ngăn cản ông. Đó là loại chính sách gì vậy?”

“Tôi là một đảng viên, anh phải nghe theo tôi!”

“Không, chúng tôi không nghe theo các ông; chúng tôi chỉ nghe theo Chúa mà thôi.”

Sau khi Ming đã chạy khỏi, Jian buông ông đảng viên ra. Sau đó anh hướng dẫn mọi người tiếp tục hát tôn vinh. Và rồi anh kết thúc buổi nhóm.

Tất cả đều trở về nhà; không một ai để ý đến ông đảng viên. Ông ta giận điên người và hăm dọa rằng “Hãy đợi đấy!”

Vào ngày hôm sau, đội sản xuất đã tố tụng các Cơ-đốc nhân lên cho công an an ninhhuyện. Mấy ngày sau, ông cán bộ đảng đó đã đi với một toán lính đến nhà của Jian. Ông ta cười vỗ vỗ vai Jian và nói “Hôm nay tôi mời anh lên uống nước chè với tôi; hãy đi theo tôi.” Sau đó, ông bảo với những kẻ đi cùng, “Hãy trói hắn lại!” Jian bị bắt giải lên văn phòng đội sản xuất; khi ông bí thư chủ tịch trông thấy anh, ông quát vào mặt Jian “Có phải anh là thằng Jian khốn kiếp đó phải không?”

Jian vẫn tỉnh khô. Ông cán bộ đảng liền điên tiết đánh vào trán Jian “Đồ khốn nạn, đất nước chúng ta thật vững mạnh và hùng cường; con người sống một đời sống rất sung sướng, không ai bị đau khổ. Tại sao mày lại tấn công đất nước chúng ta?” Jian thấy kinhngạc. Anh không hiểu điều ông ta nói. Ông bèn tát má Jian và nói “Đừng giả vờ nữa! Mày là đứa đã lãnh đạo sự cầu nguyện trong buổi nhóm ở làng Guo.”

“Đúng thế,” Jian trả lời.

“Sau khi cầu nguyện xong, mày nói 'bây giờ chúng ta dâng thời gian còn lại cho những sự đau khổ.'” (Chữ đầy tớ và đau khổ phát âm gần giống nhau.)

“Không, tôi không hề nói như vậy.”

“Mày còn dám cãi nữa à! Đến khi chúng ta có tất cả các bằng chứng, thì mày liệu hồn.”Ông cán bộ đảng chạy lại và đấm vào đầu Jian. “Chính tai tao đã nghe mày nói, hiểu chưa.”

Lúc đó Jian mới vỡ lẽ điều ông ta nghĩ; anh nói: “À, tôi hiểu ra rồi, tôi có nói, 'Bây giờ chúng ta sẽ dâng thời gian còn lại cho đầy tớ Chúa', chứ không phải là cho những sự đaukhổ.” ông đã nghe nhầm điều tôi nói. Ông bí thư chủ tịch, có nhiều kinh nghiệm trong việc xử trí với Cơ-đốc nhân, và ông có một vài kiến thức về từ ngữ của họ hay dùng. Saukhi Jian giải thích, ông bắt đầu hiểu. Nên ông nói: “Thôi được rồi. Ông X đã nghe nhầm. Nhưng tên đầy tớ có nghĩa là gì vậy?”

Jian đáp: “Tên gì mới được chứ? Đầy tớ là một đầy tớ. Một tên đầy tớ là một đầy tớ. Nó còn có tên nào khác nữa.”

Ông bí thư chủ tịch rất thất vọng; ông nghĩ, Jian chỉ là một gã nông dân dốt nát. “Đồ ngu! Mày mà cũng không biết đầy tớ có nghĩa gì à. Mày là loại người giảng đạo gì vậy?” Nên ông đã thôi không theo đuổi sự việc thêm nữa. Nhưng ông căm ghét Đức Chúa Trời và những Cơ-đốc nhân, và ông bắt đầu nói phạm thượng Đức Chúa Trời và sự giáng sinh của Chúa Giê-xu bởi nữ đồng trinh. Jian tức giận; anh đứng lên và đập tay vào bàn. Anhmắng ông chủ tịch, “Ông hãy câm đi! Đừng nói xúc phạm đến Đức Chúa Trời của tôi!Ông nói tôi không biết gì. Nhưng còn ông thì biết những gì? Thậm chí ông còn không biết chính sách của đảng nữa kìa.”

Ông chủ tịch thẹn tím mặt; ông thuỏng cho Jian một cái tát. “Được. Hãy nói cho tao biết đi, mày biết điều gì?” Những tiếng nguyền rủa và nạt nộ phừng phừng kéo theo, nhưng Jian là một con người vui tính; ở ngay trong hoàn cảnh đó, anh đứng thừ người và cảmthấy buồn ngủ. Khi ông bí thư chủ tịch thấy như vậy, ông càng tức giận hơn. Ông lại tát vào mặt Jian. Jian vẫn đứng như vậy và gật gù buồn ngủ. Cuối cùng anh cũng được thả ra.

Vào một ngày mùa đông đổ tuyết khác năm 1978, Jian thức dậy vào buổi sáng sớm để cầu nguyện giữa trời tuyết. Anh tự nghĩ, “Thật là một cơ hội quí giá để ra đi giảng tin lành.” Bình thường, nếu anh đi ra truyền giảng, anh phải xin phép đội trưởng sản xuất cho nghỉ mấy ngày. Bởi vì trời tuyết, nên anh không phải làm thế; anh cứ việc đi. Khi Jian đi vào nhà lấy Kinh thánh, con trai anh nói “Bố ơi, bố cho phép con nói điều này không?”

“Tất nhiên rồi, điều gì thế con?”“Nếu bố đi lần này, bố có thể mua cho chúng con một cái bơm máy được không?”“Để làm gì thế con?”“Bởi vì bố và mẹ thường hay bị bắt và bị nhốt trong tù, và chúng con thì còn nhỏ. Nếuchúng con đi lấy nước, chúng con rất khó khăn. Nếu bố có thể mua cho chúng con một

cái bơm, và chúng ta có thể đào một cái giếng trước sân nhà. Để cho, nếu lần sau bố bịbắt, chúng con vẫn có nước uống.”

Jian rưng rưng nước mắt; anh nói trong thâm tâm “Chúa ơi, con cám ơn Ngài, vì ngay cả con trẻ cũng biết sự bắt bớ gian khổ là gì.” Jian đi lên tỉnh, anh tìm mua một cái máy bơm. Bây giờ chính quyền biết Jian là một con người có nhiều ảnh hưởng và anh sẽ không chịu luồn cúi, nên họ đã nghĩ ra một mưu kế. Cơ quan huyện gởi cho anh một lá thư mời anh đến dự một buổi họp cấp huyện và trở thành một thành viên của ủy ban. Khi đội sản xuất nhận được lá thư, họ đã ghen tức: “Cái gì? Mời tên Cơ-đốc nhân này lên họp trên huyện à?” Họ không biết làm gì hơn là tuân theo mệnh lệnh. Nên họ đã cử hai đảng viên đưa lá thư đến cho Jian.

Khi họ đến nhà của Jian, họ nói rất từ tốn. “Anh đến dự cuộc họp trên huyện là một vinh dự đối với chúng tôi. Anh phải cố gắng và nói là chúng ta đã làm việc tốt ra sao.” Jian cầm lấy lá thư và đọc, để sang một bên và nói, “Tôi chỉ là một nông dân, làm sao tôi có thể là một thành viên ủy ban được?”

Họ đến với Jian ba lần bốn lượt, nhưng Jian vẫn phớt lờ. Cuối cùng, chính quyền huyện đã gọi điện thoại cho đội sản xuất bảo phải làm sao cho Jian đến cuộc họp trên huyện. Nhưng Jian vẫn không chịu đi. Nhà cầm quyền tức giận và cử một cán bộ đến gặp riêng Jian.

Đội sản xuất gọi Jian lên, nhưng Jian từ chối không lên. Anh nói: “Tôi phải làm mấy thứ đồ gỗ, phải đến một thợ mộc, nên không đi được.” Người cán bộ rất bực mình.

“Họ đã cử một cán bộ để đến gặp anh và anh vẫn không chịu đi. Anh...”

Jian tiếp tục nói, “Nếu có điều gì cần thiết, hãy nói với ông ta đến thẳng nhà tôi.” Ông cán bộ không biết làm gì nên ra về.

Sau đó, ông ta đến nhà Jian cùng với các nhân viên. Jian đứng dậy và để cho những nhân viên ngồi trên chiếc giường gãy của mình. Người cán bộ thấy khó chịu và một lúc lâukhông nói được câu nào. Sau đó Jian nói với ông ta một cách đàng hoàng “Ông muốn gì ởtôi?” Ông cán bộ nhìn vào Jian và hỏi anh, “Anh có nhận được 'Mười không', mà chúng

tôi đã đưa cho anh chưa?”

“Chưa,” anh trả lời.

Ông cán bộ đảng xen vào, “Chúng tôi đang lược thảo. Nhưng chúng tôi rất bận; chúng tôi

vẫn chưa đưa.”

“Tôi chưa nhận được; tuy nhiên, tôi có nghe nói về những điều đó. Có phải trong đó nóirằng không ai dưới mười tám tuổi được trở thành Cơ-đốc nhân không?”“Đúng thế.”“Không được cầu nguyện cho người bệnh? Không được đuổi quỉ?”“Đúng y như vậy.”“Tôi không cần biết là có bao nhiêu không trong đó, nhưng vừa mới xem những điểm đầu

tiên, tôi không thể chấp nhận được.”“Anh dám bài bác sao?”“Không, đó không phải là bài bác. Hãy để cho tôi hỏi các ông: Tôi có năm đứa con, đứa

lớn nhất vừa mới mười tám. Chúng tôi có năm buổi nhóm chiều mỗi tuần. Vào mùa xuân trời hay mưa, mùa thu trời gió và mùa đông thì lạnh. Tôi có thể nào để con tôi ngoài trời và để chúng đợi đến khi buổi nhóm kết thúc chăng? Nếu các ông là tôi, các ông có làm như vậy không?”

Ông cán bộ câm tịt, nên ông đã thay đổi đề tài. Và ông hỏi Jian, “Tại sao anh lại không

đến cuộc họp trên huyện?”“Tôi không thể chấp nhận 'mười không' của các ông được! Và đó là lý do tại sao tôi lạikhông đi.”

“Đó không phải là chúng tôi đưa nó ra; nhưng là do một mục sư trong tỉnh đề ra. Ông tabiết Kinh thánh giỏi hơn anh.”“Ông ta có tin Chúa Giê-xu không?”

“Tất nhiên rồi. Làm sao ông ta là mục sư mà không tin Chúa Giê-xu được?”“Không, tôi không tin là ông ta tin Chúa Giê-xu. Vì trong Kinh thánh chỉ có 'mười điềurăn' thôi; chứ không có cái gì gọi là 'mười không' cả. Tôi phản đối kịch liệt loại giả hìnhtôn giáo này.”

“Tôi không tranh luận với anh. Lý do tôi đến đây hôm nay là mời anh tham dự nhà thờ ba độc lập của chúng tôi và ủng hộ công việc của chúng tôi.”

“Trong Kinh thánh không có loại nhà thờ 'ba độc lập' nào cả, và tôi sẽ không đi theo.”

“Liên kết với chúng tôi không có nghĩa là anh không được cầu nguyện hay nhóm họp. Thế thì tại sao anh lại không nghe chúng tôi?”

“Chúng tôi chỉ nghe theo Đức Chúa Trời, chứ không nghe theo con người.”

Ông cán bộ trở nên giận dữ và ông nói: “Nếu không liên kết với tổ chức tôn giáo của chúng tôi, tất cả mọi buổi nhóm trong nhà anh đều là bất hợp pháp và sẽ bị đình chỉ.”

“Không, chúng tôi không ngưng nhóm. Kinh thánh không nói bỏ sự nhóm họp lại với nhau.”

“Nếu anh không ngừng lại, anh sẽ phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm hình sự trong làng.”

“Nếu đó là lý do an ninh, thì các ông hãy ngưng chiếu những loại phim ảnh và các cuộc chơi. Chúng tôi chỉ ngừng nhóm khi những cái đó cũng ngưng.”

Mười ngày sau, ông chủ tịch gọi Jian lên văn phòng đội sản xuất và nói: “Lần cuối cùng tôi thông báo cho anh biết rằng không được sự chấp thuận của chúng tôi, tất cả những buổi nhóm trong nhà anh là bất hợp pháp. Tại sao ông lại không thể nghe theo và ngừng nhóm đi?”

Jian tươi cười, “Ông có nhớ sự thỏa thuận của chúng ta không? Chúng tôi chỉ ngừng nhóm lại khi mọi hoạt động khác trong làng cũng bị ngừng. Đó là ông đã vi phạm sự thỏa ước giữa chúng ta, không phảo tôi. Tại sao ông lại có thể trách tôi vì điều đó?”

Ông chủ tịch nghiến răng và nói: “Những người cộng sản cuối cùng cũng sẽ giỏi hơn anh. Anh hãy đợi đấy!”

“Được, nếu ông cứ vô lý như thế, tôi nghĩ rằng tốt hơn hết là tôi ra về.”

“Anh sẽ phải chịu hoàn toàn hậu quả.”

“Đức Chúa Trời của tôi sẽ chịu những hậu quả.” Jian trả lời to, sau đó anh đã ra về và không thèm ngoái đầu lại. Cuối cùng họ đã trình thưa trường hợp của Jian lên công an an ninh ở thành phố 'B'.

6. Thế gian không xứng đáng cho họ (Hê-bơ-rơ 11:38)

Vào một ngày kia, Jian nghe thấy một giọng nói rõ ràng trong lòng anh, “Con phải rời khỏi gia đình trong vòng ba ngày.” Vào buổi tối hôm đó, trong khi Jian đang giảng, Chúa lại nói với anh lần nữa, “Hãy chọn một ai đó để đảm trách công việc của con; hãy khăn gói và đi càng sớm càng tốt.”

Sau buổi nhóm, Jian gọi tất cả các anh em nhân sự lại và nói với họ. Sau khi đã thực hiện xong sự xếp đặt, họ cùng dâng Jian lên cho Chúa và khóc. Sau đó, họ đều ra về. Đến khi Jian về nhà, anh đem theo một ít đồ đạc: một quyển Kinh thánh và một vài quyển ghi chú. Sau đó, vợ và các con tiễn anh ra cửa. Lúc Jian ra đi, trời đã tối đen như mực.

Ba ngày sau, một chiếc xe công an đến đậu trước cửa nhà Jian. Một số công an và một toán binh lính đã đi thẳng vào nhà. Họ lục soát căn nhà, nhưng không tìm thấy Jian. Nên họ đã hỏi cung vợ Jian và các con, nhưng tất cả đều nói không biết Jian ở đâu. Sau đó, họ quay sang đứa con gái của Jian, mười ba tuổi. Họ xách tai đứa bé lên và hỏi “Bố mày ở đâu?” nó trả lời “Tôi không biết!” Chúng tát má cháu; máu mồm và máu mũi chảy ra. Một tên trong bọn định treo cháu lên, nhưng cháu rất nhanh chân chạy vụt ra khỏi nhà, trước khi chúng có thể bắt được, cháu đã chạy trốn xuống một cái hố. Nước ở đó ngập sâu và bẩn, nên chúng không hành hạ cháu nữa và bỏ đi.

Kể từ ngày đó, Jian sống trốn tránh trong hai mươi mốt tháng. Anh Ming, chị Bài và một vài anh chị em khác nữa cũng như vậy. Họ thuòng ngủ đêm trên đồi, trong rừng, trong bụi cây và trên những cánh đồng. Họ phải chịu giá lạnh và gió rét và bị muỗi cắn. Họ không thể đến nhà của những tín đồ trước khi trời tối. Và Chúa luôn luôn giải phóng họ khỏi tay kẻ thù. Họ và công an cứ giống như chơi trò 'ú tim'. Bất kỳ lúc nào có cơ hội, họ đều giảng tin lành và nhắc nhở anh chị em hãy phục vụ Chúa hết lòng.

Có một thời kỳ, công an an ninh đã đuổi sát gót họ; họ dường như thở không kịp. Nên họ đã đến một thị trấn có tên 'He-Ping' thuộc tỉnh 'R'. Tình hình an ninh ở đây rất căng thẳng, nên các anh chị em không dám đón tiếp họ. Không thể đi đâu được, nên họ đã ra một chuồng

ngựa. Thấy đâu cũng có phân ngựa; thậm chí không thể tìm được một chỗ để đứng. Cuối cùng, họ nhặt được một ít rơm, rồi chui vào đó mà ngủ. Trời càng khuya càng trở nên lạnh, họ đều run rẩy. Nên họ đã quyết định đi ra khỏi chỗ đó và chạy bộ để chống lại cơn lạnh. Trong khi đang đi ngoài đường, họ gặp anh Ming và anh Yun. Và họ đã cùng chạy với nhau rời khỏi tỉnh 'R'.

Khi họ đến một vùng có tên là Liu Shan, Jian muốn đến thăm một người bà con ở đây và để xem gia đình họ sống ra sao. Anh Ming biết rằng gia đình này vì cớ Jian mà sẽ chịu nhiều khó khăn, nên khuyên Jian phải trở về sớm và không ngủ đêm lại đó. Khi Jian đến nhà người bà con, anh được tiếp đón nồng hậu, họ không muốn để cho anh đi, nên Jian đã ở lại. Vào nửa đêm, khi Jian đang ngủ, thì những người bên công an an ninh ập đến, họ bao vây căn nhà và lục soát từng phòng. Ở trong nhà có bốn phòng. Khi họ lục soát đến phòng thứ ba, Jian rất sợ hãi, nên anh đã giao phó mình trong tay Chúa. Sau đó anh nhận thấy có một cái hòm bên cạnh chiếc giường. Nên anh đã giở nắp ra lấy chăn chiếu trong đó để lên giường và anh thì chui vào trong hòm và đậy nắp lại. Khi Jian trốn xong thì các tên công an vào. Họ quét đèn pin tìm anh mọi nơi. Một trong những tên đi theo đã lấy gậy đập trên nắp rương. Jian sợ là chúng sẽ giở nắp rương, nhưng chúng đã không làm điều đó. Sau đó một lúc chúng bỏ ra về.

Sau khi những công an an ninh đã ra về, những người họ hàng của Jian đã chạy vào tìm anh. Họ tìm anh trong mỗi căn phòng, nhưng không thấy anh đâu. Jian không biết đó là họ, nên anh không dám cựa quậy. Sau đó bà cụ vào lo lắng nói, “Anh ta đi đâu rồi kìa?” Jian nhận ra đó là bà cụ, bèn nói, “Cháu ở đây. Họ đã đi khỏi chưa?” và anh đứng dậy. Khi họ thấy anh. Họ thật sung sướng và ngợi khen Đức Chúa Trời. “Đúng là chúng tìm chúng tôi; tốt hơn hết là tôi phải đi và báo cho các anh em biết.” Nên Jian đã chạy bộ ba mươi cây số và cuối cùng tìm đến chỗ Ming và những người khác ở và họ đã chạy ra cánh đồng ngủ đêm ở đó.

Vào một buổi tối, Jian trở về nhà và ở đó ba ngày. Ban ngày, vợ anh và các con đi ra đồng làm việc và cửa nhà thì khóa. Những lúc anh ho hay hắt hơi, anh phải trùm chăn lại; và anh cảm thấy rất cô đơn. Vào buổi tối thứ ba, Sa-tan đã đến tấn công anh. Trong khi anh đang ngủ, có một con chuột cống đã đến cắn vào cánh tay anh, làm thương một cái gân tay và chảy máu rất nhiều. Chỗ chảy máu không cầm lại được. Cả gia đình anh quì gối xuống cầu nguyện và kêu cầu lên Đức Chúa Trời; thình lình máu ngưng lại. Nhưng tay của anh vẫn bị sưng và rất đau.

Jian trở lại chỗ Ming và những người khác. Anh đi đến nhiều nơi. Bất kỳ nơi nào anh đi, anh đều gây dựng Hội thánh và tìm cách trốn tránh công an an ninh.

7. Họ được kể là xứng đáng chịu nhục vì danh Chúa (Công vụ các sứ đồ 5:4)

Jian, Ming, Yun và một vài người khác đã tổ chức một lớp huấn luyện vào tháng giêng năm 1984. Vào buổi tối đó anh đi ra sân đằng sau nhà; anh quì gối xuống tuyết và cầu nguyện. (Sự kiện này được nhắc lại trong câu chuyện 'Người Công Dân Thiên Quốc') Chúa đã chỉ cho anh rất rõ là trong ba ngày nữa, một vài người trong số họ sẽ bị bắt.

Vào buổi sáng thứ ba, khi họ đang nhóm lại với nhau, Jian đứng lên và nói: “Hôm nay có vài người trong chúng ta sẽ bị bắt vì cớ Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện dốc đổ cho những người đó.” Vào buổi tối đó, Jian, Yun và ba người khác đã bị bắt trên đường về nhà sau buổi nhóm.

Công an đánh Jian bằng một cây gậy, nhưng kỳ lạ là anh không cảm thấy đau đớn gì. Khi họ thấy những cây gậy giáng trên người không ăn thua gì với Jian, chúng đẩy anh xuống nền nhà và trói quặt tay anh đằng sau lưng. Từ khi anh bị chuột cắn, cánh tay anh vẫn còn bị thương, nên nếu anh bị trói ngoặt lại như vậy, rất có thể anh sẽ bị tật nguyền. Điều kỳ lạ là tay phải của Jian bị vết thương bấy lâu nay, sau khi anh bị trói đã không bị đau nữa.

“Anh đến từ đâu?” Chúng hỏi anh.

“Tôi đến từ thành phố 'F'”. Tôi chỉ đi ngang qua đây. Khi tôi thấy có buổi nhóm ở đây, tôi mới vào xem.” Jian trả lời.

“Buổi nhóm ở đâu, hãy đưa chúng tôi đến đó.” Chúng ra lệnh cho anh, nên Jian đã đưa họ đến một trường trung học và đứng bên ngoài.

“Đây, đây là địa điểm.” Các công an an ninh và binh lính nhảy xổ vào trong. Có một nhóm thầy giáo đang chuẩn bị giáo án. Khi họ thấy công an đi vào thì một người đứng lên hỏi “Các anh làm gì ở đây?”

Công an an ninh tỏ ra rất bực tức; nên chúng càng đánh Jian nhiều hơn. “Hãy khai ra đâu là chỗ nhóm lại? Nếu mày không nói cho chúng tao biết, chúng tao sẽ giết mày!” Jian muốn cho các anh em biết là công an an ninh đến nên đã lớn tiếng nói: “Tại sao các ông lại đánh tôi như vậy? Tôi đã quên họ nhóm lại ở đâu rồi.”

Cùng lúc đó, Yun đã được các công an giải đến. Nên anh đã la to, “Tôi đến từ thiên quốc; tôi không biết họ nhóm lại ở đâu.” Các anh chị em ở nơi nhóm lại nghe thấy tiếng nói của Jian và Yun, nên họ đã dời sang nơi khác ngay. Công an biết rằng họ đã bị lừa, nên rất tức giận. Chúng nói “Thôi bây giờ hãy đi, về đồn, chúng mày sẽ biết tay.” Chúng đẩy Jian lên chiếc xe tải. Bởi vì tay Jian bị trói, anh đã bị tuột xuống và ngã xuống tuyết. Bọn lính xốc anh lên và quẳng anh lên thùng xe. Đầu anh đập vào thành xe, anh bất tỉnh. Khi những anh chị em thấy điều đó, họ rất đau buồn và khóc; họ không dám nói một lời nào.

Chúng đưa Jian và ba anh em kia đến đồn công an Shi Lin. Khi họ đến, Yun đã có mặt ở đó; tất cả đều bị còng tay. Năm người họ run rẩy vì trời lạnh, nên họ đã quì gối xuống cầu nguyện, và họ đã cầu nguyện dốc đổ.

Sáng sớm hôm sau, họ bị đưa ra sân sau để xúc tuyết. Sau đó, Jian,Yun và một anh em bị đưa đến nhà tạm giam. Ở đó đã có tám người. Khi cai tù thấy hai người mới đến, hắn chống nạnh, nhìn họ gườm gườm. Hắn thét lên rằng “Hãy lại đây!” Jian và Yun vâng lời, sau đó hắn nói: “Bây giờ tao sẽ cho chúng mày làm vài việc – đó là 'câu cá' và 'chạy xe máy'.”

Cái gọi là 'câu cá', là một hình thức tra tấn rất dã man. Tù nhân phải lấy một cọng rơm cho vào miệng và nhúng vào thùng nước tiểu. Sau đó phải thổi thành những cục bong bóng cho đến khi nước tiểu bắn đầy mặt. Tên cai ngục cứ cười và diễu cợt, “Chúng mày có nhận được gì không?” Loại hình tra tấn thứ hai 'chạy xe máy' là: tù nhân phải ngồi chồm hổm, giống như ngồi trên ghế, và giơ hai tay ra, phải làm tiếng còi xe lửa hú. Nếu ai không làm được, hay ngừng làm, sẽ bị hình phạt nặng nề. Chao ôi! Đã có bao nhiêu đầy tớ trung tín của Chúa

đã bị làm nhục và hành hạ ở đây. Quả thật, thế gian không xứng đáng cho họ. Tên cai ngục ra lệnh cho những tù nhân khác đánh Yun. Sau khi Yun bị đánh, anh ngã xuống nền nhà. Còn những tù nhân khác thì đạp lên anh. Máu chảy xối xả từ miệng; anh như là gần chết.

Đầu tiên Jian và Yun giả vờ họ không biết nhau. Nhưng khi Jian thấy Yun bị đánh quá chừng, anh không thể giả vờ được nữa. Anh chạy lại với Yun, đỡ anh và khóc. Anh xin Chúa hãy an ủi và che chở Yun, và anh đã chùi máu đang trào nơi miệng Yun.

Sau đó ít ngày, những tù nhân thấy Jian thật dễ mến và dễ gần, họ bắt đầu thích anh và họ nói anh hãy hát cho họ một bài hát. Nên Jian đã bắt đầu hát và anh đã chia xẽ tin lành cho họ, trong khi đó Yun cầu nguyện dốc đổ cho họ. Họ đã làm điều đó trong ba ngày liền. Vào ngày thứ tư, Jian bắt đầu hát, sau khi anh đã thức dậy:

“Hôm nay là một ngày tuyệt vời;Là ngày Chúa đã dựng nên;Ngài dọn bàn cho tôi trước mặt kẻ thù nghịch tôi.Ngày hôm nay Chúa ở với tôi.”

Những tù nhân khác chú ý lắng nghe; dường như họ hiểu những gì Jian đang hát. Sau khi ăn sáng, xe công an đến đưa Jian đi. Những tù nhân khác rất ngạc nhiên, họ nói với nhau,“Ô! Thật con người này là cái gì đó; Nó hát về một ngày tuyệt đẹp hôm nay và bây giờ thì được thả ra!” Họ bắt đầu suy nghĩ về những gì Jian đã chia xẽ với họ trong những ngày vừa qua và một vài người trong số họ đã tiếp nhận Chúa.

Trong lúc đó, thì công an an ninh đã khóa còng tay và xiềng chân Jian lại và trói anh vàoghế xe công an. Họ đi chưa được bao xa thì chiếc xe bị hỏng và dừng lại. Ông chỉ huyquát vào mặt Jian, “Tao cấm mày chạy!” Jian tươi cười “Ông có đùa không? Tôi bị còng tay và xiềng chân, lại bị trói chặt vào ghế xe, làm sao tôi có thể chạy được?”

Tên chỉ huy tức giận và nói: “Cấm mày cười! Chúng tao phải tốn vài nghìn Yuan để bắt mày, và bây giờ thì cái xe bị hỏng; mày phải trả giá cho mọi cái.”

Jian mỉm cười nói: “Tôi không đòi hỏi ông làm điều đó. Đó không phải là lỗi tại tôi.”Ông chỉ huy lấy ra một cái roi kim loại và ném vào Jian. Jian quay đầu để tránh, nhưng anh không thể tránh được, nó đã đập vào trán và trán anh bị thương nhẹ và bắt đầu chảy máu.

Trong lúc đó có một đám đông vây xung quanh họ. Vài người thì nguyền rủa và nhổ nước miếng vào anh, nhưng những người khác thì chỉ tay vào công an và nói, “Người gì mà vô nhân đạo quá.” Công vụ 5:41 liền đến trong tâm trí anh: “Hãy vui mừng vì họ đã được kể là xứng đáng chịu nhục vì danh Chúa.” Jian mỉm cười. Những người xung quanh thấy rất kinh ngạc và nói, “Người này là giống gì vậy?” Có nhiều cặp mắt nhìn vào, ông thủ trưởng không biết phải làm gì. Nên đến khi chiếc xe đã sửa được, họ liền chạy mất.

Chiếc xe chạy đến và đứng bên ngoài cổng nhà tù. Những tên lính canh gác đẩy Jian xuống khỏi xe và ông chỉ huy hỏi anh “Anh có biết chỗ này không?”

“Không”

“Không? Đây là nhà tù nổi tiếng ở thành phố 'F', và đây là chỗ của anh.”

“Chỗ của tôi? Ha,ha!”

“Đừng có mà tẩu thoát! Nếu mày chạy trốn, mày sẽ chết ở đây!”

Không khí trong nhà tù rất căng thẳng đến nỗi kẻ mới đến không dám thở. Jian bị lục soát khắp thân thể, cả thắt lưng và dây giày của anh cũng bị tịch thu. Jian bị đưa đến một căn phòng và một tù nhân già ở đó nói với anh rất nghiêm túc “Anh đừng tin những gì họ nói, anh phải nói sự thật.” Jian mỉm cười và nói “Xin cám ơn về sự quan tâm của ông. Tôi tin vào Chúa Giê-xu, không có gì để giấu cả. Bên cạnh đó, Chúa của tôi sẽ lo cho tôi.”

Vào buổi chiều hôm đó, Jian bị tra khảo. Họ hỏi anh về Hội thánh ở huyện 'B'. Jian dạn dĩ và can đảm; anh sử dụng sự khôn ngoan mà Đức Thánh Linh ban cho anh để trả lời những câu hỏi. Chúng cởi áo anh ra và đánh đòn anh. Anh nghiến răng chịu đựng và không hé môi kêu chút nào.

Những kẻ tra tấn điên khùng đó dùng mọi loại tra tấn để hành hạ anh. Khi chúng dùng một thanh sắt nung đỏ để gí vào thân thể anh, anh không thể chịu được. Anh kêu lên “Cha ơi, xin hãy giải cứu đứa con của Ngài!” Sau đó anh ngất đi. Một xô nước lạnh xối lên anh, Jian hồi tỉnh trở lại. Sau đó lại là sự tra khảo và tra tấn tiếp tục. Điều đó lặp đi lặp lại năm sáu lần; Jian bị thương nặng.

Bảy tháng trôi đi. Vào một đêm Chúa chỉ cho Jian. Khi cây cối bắt đầu đâm chồi, con sẽ rời khỏi đây. Mùa đông đã đi qua, mùa xuân đã đến. Hằng ngày Jian nhìn ra cửa sổ xem cây cối có đâm chồi chưa. Đó là một ngày đẹp trời, buổi sáng còn mờ mờ và mặt trời vừa mới chiếu những ánh đầu tiên. Jian đã quì gối trong xà-lim cầu nguyện mấy tiếng đồng hồ. Khi anh mở mắt ra, thấy ánh sáng chiếu rạng và anh đứng lên, vỗ tay và ngợi khen Chúa. Bỗng nhiên anh nhìn thấy một cành cây vắt ngang qua cửa sổ và bắt đầu đâm chồi nẩy lộc.

Nước mắt rưng rưng và anh nói thầm “Chúa ơi, con ngợi khen Ngài. Tuy con không biết điều gì xảy ra phía trước, con xin phú thác mọi sự vào tay Ngài. Chúa ơi xin hãy gìn giữ con.” Trong những ngày sắp tới, Jian bị kết án tù hai năm vì đã gây rối an ninh quốc gia.

Jian bị bắt đưa đến trại cải tạo ở Xin-Yan. Đó là một trại cải tạo khét tiếng trong tỉnh. Ở đó tù nhân bị hành hạ tàn bạo. Mỗi tù nhân chỉ được phát cho một bát cơm mỗi ngày và phải làm việc nặng nhọc mỗi ngày trên mười hai tiếng. Đó là lý do tại sao các tù nhân rất gầy ốm. Ngoài ra, họ còn bị đánh đập và tra tấn nữa.

8. Ngài bẻ ra..., đưa cho các môn đồ và họ ăn (Lu-ca 9:16,17)

Bạn càng luyện vàng bao nhiêu, nó càng trở nên tinh ròng bấy nhiêu. Tuy mỗi ngày thể lực Jian càng trở nên yếu hơn, nhưng trái tim anh càng ngày càng được đổi mới và anh càng trở nên mật thiết với Chúa hơn. Jian không bỏ lỡ một cơ hội nào để bày tỏ tình yêu đối với mọi người và cứu vớt những linh hồn.

Trong phòng anh có hơn hai mươi người. Anh vui tính và dễ gần, và những tù nhân khác nhìn vào anh như nhìn thấy một người cha. Bởi vì nhân cách đôn hậu của anh mà có nhiều người đã tiếp nhận Chúa.

Hai năm trôi qua, trước khi Jian được thả ra, anh được gọi lên. Họ nói với anh “Mọi người đều được thay đổi mỗi khi họ ở đây. Bây giờ anh đã ở đây hai năm, anh có thay đổi không?”

Jian tươi cười trả lời “Chúa Giê-xu sống trong lòng tôi; không cần biết là tôi phải ở đây bao nhiêu năm, mười hay hai mươi năm, tôi vẫn không thay đổi. Nếu các ông có giết tôi,Chúa Giê-xu sẽ đưa tôi về trời.” Ông ta rất tức giận, ông chỉ ngón tay vào mũi Jian và nói “Nếu tao còn bắt được mày nữa, tao sẽ làm thịt mày!” Sau đó ông hét lên “Hãy cút ngay!” Jian vui mừng đi khỏi.

Gia đình của Jian đã phải chịu bắt bớ và hành hạ nhiều vì cớ Chúa. Họ luôn luôn nhận được càng ít lúa giống và càng xấu hơn. Nhưng Kinh thánh nói với chúng ta: “Thà ít của mà công bình, còn hơn giàu có mà gian ác.” Lời Đức Chúa Trời đúng thật. Khi đó lương thực khan hiếm; cuộc sống rất khó khăn đối với mỗi người. Nhưng gia đình Jian lúc nào cũng đủ ăn. Đức Chúa Trời luôn luôn nhân từ.

Vào một mùa xuân, ba tháng trước mùa gặt, gia đình Jian chỉ còn lại một nửa thúng khoai lang. Thông thường, chừng đó chỉ đủ cho hai ngày. Khi Jian đem một ít đi xay, thì thật kỳ lạ, lượng bột thu lại nhiều gấp không biết bao nhiêu lần. Cả gia đình Jian quì gối xuống và cảm tạ trong nước mắt.

Vào một ngày nọ, có một tín đồ trong làng đến nhà anh và nói “Anh ơi, gia đình tôi có sáu người, tôi chỉ còn lại có ba mươi cân thóc, chừng đó chỉ đủ cho nửa tháng là cùng. Nhưng chúng ta còn ba tháng nữa mới đến mùa gặt, anh có biết là ai có thể cho mượn tiền hay là lương thực không? Jian trả lời “Hãy cứ tin cậy Chúa, Ngài sẽ giúp đỡ anh!” Nên người tín đồ đã về nhà. Cứ năm ngày, anh lại lấy bảy cân rưỡi đi xay bột. Anh cứ làm như vậy trong ba tháng mà vẫn còn lại mười lăm cân!

Có một lần, Jian đến tỉnh 'M' để giảng tin lành ở đó. Trong một buổi giảng có một phụ nữ đã đến với anh, bồng đứa con trên tay. Nó đã chết. Jian đã đặt tay trên nó và kêu to: “Trong Danh Chúa Giê-xu tôi truyền cho em hãy dậy đi!” Ngay lập tức, đứa trẻ mở mắt và vùng dậy.

Vào một lúc khác, Jian hướng dẫn một buổi thánh lễ báp-tem ở một con sông trong tỉnh đó. Có một đứa trẻ bị câm từ lúc mới sinh ra, khi lên khỏi nước, nó đã la lên “Ha-lê-lugia! Ngợi khen Chúa!”

Có một lần, một anh em họ Zhang bị bắt. Chính quyền gọi một đám đông đến để xem anh bị tra tấn. Họ muốn làm điều đó để làm cho dân chúng sợ, đừng tin Chúa Giê-xu. Chúng treo ngược anh lên, chúng đánh đập và đấm đá anh. Anh kêu lên với Chúa “Chúa ơi, Phi-e-rơ đã bị treo ngược lên vì cớ Ngài! nhưng con không xứng đáng!”

Khi những anh chị em nhìn thấy điều đó, họ đã khóc nức nở. Ngay cả những người vô tín cũng khóc nữa. Dẫu sao, những kẻ bắt bớ các Cơ-đốc nhân đều gặp một kết cuộc thảm hại.

Có một sĩ quan ở quân đội, rất căm ghét Cơ-đốc nhân. Có lần khi Jian bị bắt, hắn trói chặt anh và để anh ngoài hành lang, đạp và nện thình thịch lên lưng anh. Và hắn nói “Tao không đạp mày, mà tao đạp Chúa của mày; tao không trói mày, mà tao trói Chúa của mày. Để xem Chúa của mày có thể làm gì được tao!” Sau đó, hắn đưa Jian ra diễu hành ngoài đường phố để bị 'đấu tố'. Hắn vừa nói vừa đánh Jian “Kìa, Chúa của mày ở đâu? Tại sao Ngài lại không đến mà cứu mày? Tại sao Ngài không đến mà thi thố với tao?” Thình lình, có một con chó dữ từ trong ngõ chạy ra cắn vào chân hắn. Sau đó, vết thương bị nhiễm trùng và dạ dày hắn bị phình trướng lên. Trong vòng hai tháng, hắn chết một cái chết khủng khiếp.

Nhưng vẫn có một cuộc phấn hưng trong các làng lân cận. Chúa đã làm nhiều phép lạ dấu kỳ qua Jian và hàng ngày số những người được cứu được thêm lên.

Lửa tin lành cứ tiếp tục lan ra và lan ra...

Cây Bách Của Rừng Li ban Tác giả : Danyun

Tín đồ TinLành Tại Trung Quốc  Tường thuật về sự phấn hưng tại Trung Quốc 

X. Mao ra đời năm 1916. Lúc còn trẻ tuổi anh chống đối đạo Chúa kịch liệt. Anh khinh bỉ Cơ-đốc giáo và dùng mọi cơ hội để phỉ báng những người tin Đức Chúa Trời. Vào đầu năm 1948, anh bị một căn bệnh vô phương cứu chữa, anh đã làm tất cả những gì mình có thể làm, để tìm sự cứu giúp và sự chữa lành.Khi các bác sĩ ở quê anh không còn làm gì cho anh được nữa, anh đã lặn lội lên bệnh viện lớn nhất của tỉnh, đổ hết tiền của vào sự chữa trị.Nhưng mới vài tuần sau thì anh đã bị bệnh viện cho về, vì họ cũng không làm gì cho anh được nữa. Anh nằm ở nhà một mình, trong lúc rất tuyệt vọng và gần kề với sự chết, thì có một người bà con đến thăm và giục lòng anh tin Chúa Giê-xu.

Trong cơn hoạn nạn, Mao đã bám vào cọng rơm duy nhất còn lại này, còn có thể mang hi vọng đến cho anh. Sau vài lần nói chuyện với người bà con anh đã quyết định: nếu như Giê-xu này có thể giúp anh thực sự, thì anh sẽ từ bỏ tất cả những thái độ chống đối của mình với Cơ-đốc giáo. Bây giờ, nó liên hệ đến sự sống của anh và anh cũng chẳng mất mát gì. Nên anh đã quyết định làm một thử nghiệm và cầu nguyện với Giê-xu. Khi anh nói rằng, anh muốn bắt đầu một cuộc sống mới với Chúa Giê-xu là Chúa của mình thì anh đã nói bằng sự nghiêm túc và chân thành. Ngay lập tức, anh kinh nghiệm một sự bình an mới mẻ trong lòng và xua tan mọi sự sợ chết đang dày vò. Trong những ngày tiếp theo, tình trạng sức khỏe của anh tiến triển khá hơn. Bây giờ thì anh muốn biết ông Giê-xu này là ai, mà đã giúp đỡ anh quá rõ ràng, mặc dù từ trước tới giờ, anh toàn chống đối. Anh tận dụng mọi cơ hội để tìm hiểu thêm về Đức Chúa Trời và Kinh thánh. Mấy ngày sau đó, anh hoàn toàn bình phục. Kể từ lúc đó, không có gì làm anh say mê hơn là được tiếp cận với Đức Chúa Trời và với Lời của Ngài. 

Chỉ bảy tuần lễ sau khi tin nhận Chúa, anh đã được người mục sư cử đi giảng ở một vùng nọ. Đó là sự bắt đầu của một cuộc đời làm mục sư và rao truyền tin lành. Anh đã phục vụ Đức Chúa Trời rất tận tụy. Anh càng nhận biết Ngài, thì càng yêu mến Ngài hơn, và càng được kinh nghiệm quyền năng và sự gần gũi bên Ngài nhiều hơn, hầu cho anh không hề sợ hãi trước những sự tấn công, bắt bớ vì cớ đức tin. Sáu năm sau, vào mùa đông năm 1954, Mao

bị mời lên chính quyền địa phương. Những người trong quân đội nhân dân và công an an ninh đả

kích anh kịch liệt và tìm cách "cải tạo" anh. Người chỉ huy cuộc hỏi cung là một cán bộ đảng địa phương, giải thích cho anh về những điều then chốt của chính sách tôn giáo: "Niềm tin vào Chúa Giê-xu là nọc độc của chủ nghĩa đế quốc và là một phương tiện của phản động nước ngoài. Dân tộc chúng ta chỉ tin vào chủ nghĩa Mác-xít. Chúng tôi nghiêm cấm anh tin vào Chúa Giê-xu. Nếu anh còn tiếp tục tin, thì anh sẽ bị coi là phản cách mạng…" Sau khi người cán bộ nói xong, thì ra lệnh cho Mao phải tuyên bố từ bỏ đức tin của mình, và phải viết một tờ tuyên bố ly khai với nhà thờ. Mao đã trả lời bằng một giọng điềm tỉnh: "Chúa Giê-xu là Đấng Cứu Rỗi đời sống tôi. Nếu không có Ngài thì chắc hôm nay tôi không còn nữa. Trong khi tôi bị ốm chỉ còn chờ chết, thì Ngài đã đến và cho tôi khỏe mạnh trở lại. Tôi sẽ rất vô ơn nếu như tôi chối bỏ Ngài. Tôi không thể làm theo mệnh lệnh của các ông được." Khi những người công an nghe điều đó thì họ trở nên giận dữ, và bắt đầu đấm đá anh túi bụi. Mao đã cầu nguyện khẩn thiết, xin Đức Chúa Trời giúp đỡ mình, để khỏi bị sợ hãi trước những đau đớn. Anh không khi nào muốn phản bội lại niềm tin của mình, nhưng với sức lực con người của bản thân, thì chắc anh khó có thể chịu đựng nổi cuộc tra tấn này. Và, trong khi những đòn tra tấn đổ xuống trên thân thể, anh kinh nghiệm được một niềm vui mừng siêu nhiên, càng ngày càng đầy dẫy trong anh càng thêm. Anh cảm nhận Đức Thánh Linh gần gũi mình rất đặc biệt và rất dễ chịu. Mặc dù những kẻ tra tấn dùng đủ mọi biện pháp, cũng không đạt được ý muốn là làm khuất phục ý chí của Mao. Họ gán cho anh là kẻ phản Mác-xít và nổi loạn chống lại "chủ tịch vĩ đại". Anh bị chụp mũ là một tên phản cách mạng và bị công an canh giữ. Ít lâu sau đó, chính quyền lên án anh đã cấu kết với các tổ chức phản động nước ngoài. Mấy ngày sau đó anh bị bắt giam. Vào khoảng cuối năm 1954, anh bị kết án năm năm tù và bịđem đi cải tạo ở một trại cải tạo thuộc tỉnh H. vùng lạnh nhất của Trung Quốc. Ở đó, không những anh đã trung thành với niềm tin của mình, mà còn kể cho những bạn tù nghe về Chúa Giê-xu. Vì vậy, án tù của anh đã bị tăng lên mười năm. Vậy là anh phải chịu mười lăm năm sống trong một trại lao động và cải tạo ở miền Đông Bắc Trung quốc. 

Đó không phải là một thời gian nhẹ nhàng. Anh ở trong một nhà tù vô nhân đạo, nền đất hầu như quanh năm phủ tuyết băng giá. Anh thường xuyên bị tên cai ngục đánh bằng roi da hay phải bị tra khảo không ngớt. Tại nơi quê nhà xa xôi, anh không còn bố mẹ, anh chị em hay là Hội Thánh đứng đàng sau mình. Niềm an ủi duy nhất của anh, đó là lời cầu nguyện của người vợ và những lời khích lệ trong những lá thư chung thủy và dạt dào tình cảm. Vào năm tù thứ hai, anh phải nói cho người vợ trẻ yêu dấu của mình là anh đã bị tăng án tù từ năm năm trở thành mười lăm năm. Anh cảm thấy lo lắng cho vợ mình, nàng sẽ chịu đựng ra sao cái hung tin này? Một thời gian lâu, anh không nhận được thư trả lời của vợ. Sau đó, lá thư đã đến. Đó là một sự chấn động kinh hoàng, sự đau đớn nhất mà anh chưa từng thấy. sau khi vợ anh nghe tin án tù của anh đã tăng lên mười lăm năm, đó là một thời gian dài của sự lạnh giá và đói khát, thì nàng đã từ bỏ niềm hi vọng được nhìn thấy chồng mình, nên đã yêu cầu Mao đồng ý cho nàng li dị.

Mao vừa đọc xong thư, anh vẫn còn chưa tin ở mắt mình. Sau khi anh đã biết chắc rằng người đề nghị li dị đó là vợ mình, thì một sự hốt hoảng và kinh khủng đã ập đến, khiến anh bị ngất đi. Về sau, anh đã suy nghĩ về hoàn cảnh của mình, anh mới cảm thấy đau đớn, vì bây giờ không còn ai ở bên cạnh anh nữa. Cùng với người vợ, anh cũng đã mất đi người duy nhất trên trần gian này, là người giúp đỡ và cầu nguyện cho anh.Anh thấy mình bị bỏ rơi và bất hạnh, không còn biết gì đến sự lạnh giá, anh đã mở toang cánh cửa phòng và chạy ra một khu rừng nhỏ, ở đó, anh đã quì gối xuống trên tuyết và khóc nước mắt dàn dụa, kêu la thống thiết lên với Chúa. Nỗi đau đớn đầy trong anh, đến nổi không thể nói bằng lời được. Anh cứ để cho nước mắt mình trào ra. Rồi bỗng nhiên anh nghe thấy tiếng êm dịu của Đức Thánh Linh nói rằng: "Con phải nhịn nhục để làm trọn ý muốn Đức Chúa Trời, sau đó con sẽ nhận được lời hứa." Tức thì anh nhớ đến Thi Thiên 73:25 "Ở trên trời tôi có ai trừ ra Chúa? Còn ở dưới đất tôi chẳng ước ao người nào khác hơn Chúa." Sự hiện diện của Đức Chúa Trời dần

dần an ủi anh trở lại, và nỗi đau đớn tan dần. Sau khi anh đã trút hết tấm lòng mình cho Chúa, thì anh bắt đầu hát bài hát này: 

"Gia đình tôi đã ngoảnh mặt khỏi tôi "Các bạn bè tôi chế nhạo tôi "Ngài ban cho tôi sự nhịn nhục và kiên trì, "Để chịu đựng sự nhục nhã. "Chúa

ơi! Con yêu Ngài với tất cả trái tim!

"Con yêu Ngài hết lòng, bây giờ và mãi mãi

"Cho dù biển cạn và đá ghềnh tan nát

"Chúa ơi! Con yêu Ngài với tất cả trái tim! 

Sự gần gũi êm ái và âu yếm của Đức Thánh Linh bao phủ anh. Đức Chúa Trời của anh sẽ không bao giờ lìa bỏ anh, như Ngài đã khẳng định trong Lời Ngài. Bằng một giọng nhỏ nhẹ, anh cảm tạ Đức Chúa Trời vì tình yêu vĩnh cửu của Ngài. Ngài thật xứng đáng để phú thác và Ngài đã đáp ứng mọi nhu cầu của anh. Nếu giả sử không còn ai cầu nguyện cho anh, thì Chúa Giê-xu hàng ngày ở bên Cha để cầu nguyện cho anh. Đức Thánh Linh nhắc anh nhớ lại tất cả những lời an ủi trong Kinh thánh, để chỉ cho anh thấy tình yêu Đức Chúa Trời, dần dần, anh trở nên bình tỉnh lại. Anh có thể tha thứ cho người vợ của mình, có thể chúc phước cho cô và và anh cảm tạ Đức Chúa Trời, là Đấng sẽ săn sóc anh bằng những sự an ủi và động viên trong những năm tháng sắp đến đang ở trước mặt anh.Anh từ từ đứng lên và đi trở về phòng giam. Ngay trong buổi tối của ngày hôm đó, anh đã viết một bức thư cho vợ mình, tuyên bố mình đồng ý li dị. Ở trong trại cải tạo lao động có tất cả 1,300 tù nhân, nhưng số người tin Đức Chúa Trời là thiểu số rất ít. Bởi vì Mao là một Cơ đốc nhân, nên anh thường xuyên bị theo dõi. Những công an mật, trà trộn nhan nhản mọi nơi, không rời mắt khỏi anh. Vào một ngày kia, khi anh đang kể cho những bạn tù về Chúa Giê-xu, thì có những kẻ giám sát rình nghe trộm được. Nhiều lính canh xông vào anh, trói anh lại và đem lên văn phòng quản lý nhà tù. Ở đó, chúng bắt anh quỳ trên một chiếc ghế gỗ nhỏ có chiều ngang chỉ bằng bốn ngón tay. Chúng vây quanh anh, thay phiên nhau mà đấm vào mặt anh, nhổ trên mặt anh và lấy làm thích thú: "Đấng Cứu Thế của mày ở đâu rồi hả? Hãy nói với Ngài để đến mà báo thù chúng tao!" Mao quì trên ghế gỗ và cứ để cho mọi điều đó diễn ra, mà không trả lời một câu nào. Trong lòng, anh cầu nguyện không thôi. Anh tha thứ cho những kẻ hành hạ mình và xin Đức Thánh Linh ban sức lực cần thiết cho anh. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời đã đưa anh qua khỏi cơn gian nguy này, trong lòng anh đầy sự bình an và anh thấy vui mừng vì kinh nghiệm được sự gần gũi của Đức Chúa Trời hơn mọi sự tấn công và đau đớn. Hàng giờ đồng hồ trôi qua, những dây trói cắn chặt vào khuỷu tay, chân anh bị tê dại, cuối cùng anh thấy mặt tối sầm, ngã quị xuống đất và ngất đi.Dường như những tên cai tù không thiếu những sáng kiến hành hạ tù nhân. Nhiều lần chúng đeo lên cổ anh một tấm vĩ sắt của lò sưởi bằng gang, nặng hơn 20 cân. Trên đó, chúng gắn một tấm bảng đề: "X. Mao, tên cầm đầu theo sự mê tín dị đoan, phản cách mạng". Anh phải đeo nó đi vòng quanh ngoài nhà tù. Khi chúng thấy tất cả những cái đó không giúp ích gì, và dường như X. Mao thà chết còn hơn là phải từ bỏ niềm tin của mình, thì chúng dùng đến biện pháp cứng rắn nhất mà chúng hiện có. Chúng xiềng tay anh lại, trói chân anh vào một khúc gỗ bị chôn chặt xuống đất, và anh cứ phải ở như vậy trong một xà lim cá nhân trong mấy tháng liền, không có cửa sổ. Nhưng điều đó không thể khuất phục được đức tin của Mao, vì Đức Chúa Trời ở gần bên anh trong từng giây phút, đến nỗi những sự đày đọa bên ngoài không thể so sánh với những sự tốt lành bên trong mà anh kinh nghiệm với Đức Chúa Trời. Vào một mùa đông đặc biệt buốt giá. Trong khắp tỉnh H. nhiệt độ giảm xuống 45 độ âm. Nhiều người già và yếu bị chết vì lạnh. Đồng thời có một bệnh dịch truyền nhiễm lan tràn ra trong vòng những tù nhân. Những tù nhân mắc bệnh bị sốt cao, mắt họ lồi ra và chân tay run rẫy, rồi chết. Đó là một cảnh tượng đầy tang thương. Trong vòng ít ngày đã có 1,050 người chết trong số 1,300 tù nhân. Những

người có trách nhiệm đã cho đào một hố lớn, dùng xe tải chở những xác chết và vứt xuống hố chôn người tập thể đó. 

Mao cũng bị căn bệnh kinh khủng đó bắt lấy. Khi người bác sĩ đã kiệt sức vì thiếu ngủ, đến khám cho anh, thì lắc đầu và nói với những kẻ đứng canh chung quanh "lại thêm một người nữa!" Chúng đem anh vào trong một phòng dành riêng cất các xác chết, trước khi chở ra hố chôn tập thể. Vậy, anh nằm ở đó, nửa sống, nửa chết, ở giữa các xác chết, nhưng tâm linh anh vẫn tỉnh táo, và anh cầu nguyện thành lời: "Chúa ơi! Con xin Ngài hãy cứu sống con, đừng để con chết ở nơi vô thần này. Hãy chữa lành con và đem con trở về nhà bình an. Con sẽ hầu việc Ngài mỗi ngày còn lại, và con muốn làm người rao truyền tin lành cho Ngài theo như sự Ngài cho phép con." Cùng lúc đó, có một thiên sứ đến và đứng trước Mao. Thiên sứ mặc một áo trắng và gương mặt thiên sứ tỏa chiếu vinh quang của Đức Chúa Trời. Trên lưng thiên sứ đem theo một túi y tế, mang hình thập giá.bằng một giọng rất êm dịu, thiên sứ nói: "Anh là Mao phải không? Đừng sợ! Hãy tin mà thôi!" Rồi thiên sứ giơ tay phải mình ra nắm lấy tay trái Mao và đem anh ra khỏi căn nhà. Thiên sứ đem anh đến một phòng rất đẹp, căn phòng có màu trắng không thể tả được và thiên sứ đặt anh ngồi lên một chiếc ghế màu trắng. Thiên sứ cầm lấy ống nghe bệnh, đem bỏ vào đó một dịch thuốc màu trắng, và thổi qua ống nghe bệnh đó. Trong cùng lúc đó .Mao có một cảm giác lành lạnh dễ chịu và bắt đầu thấy tươi tỉnh.

Sau khi anh tỉnh lại, thì căn bệnh đã rời khỏi anh. Lập tức anh quì gối giữa những xác chết ngỗn ngang trên mặt đất và lớn tiếng tạ ơn Đức Chúa Trời. Anh lại hứa nguyện dâng trọn đời sống mình cho Đức Chúa Trời và để cho Ngài sử dụng vô điều kiện. Sau đó, anh nhanh chóng rời khỏi chỗ chết đó, chạy nhanh đến gặp bác sĩ và muốn xin ông ít thức ăn. Nhưng khi người bác sĩ thấy anh đi vào cửa, thì toát mồ hôi lạnh. Người bác sĩ lui lại hoảng sợ và nói ú ớ: "Anh… anh… anh… là… một… con ma?" Mao tươi cười bảo: "Xin ông đừng sợ, tôi là Mao. Đức Chúa Trời tôi đã chữa lành cho tôi. Chúa Giê-xu đã cứu tôi thoát chết. Ngài đã sai tôi để chỉ cho ông biết con đường đến với Đức Chúa Trời. Cho nên bây giờ ông hãy trở lại tin Chúa Giê-xu." Khi người bác sĩ nghe điều đó, ngay lập tức và rất bình tĩnh, ông đã quì gối xuống và nói: "Đức Chúa Trời của anh là thật. Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời hằng sống. Bây giờ tôi cũng muốn tin Ngài và xin Ngài tiếp nhận tôi."  

Mao đã nhiều lần chứng kiến Đức Chúa Trời cứu anh khỏi nanh vuốt của tử thần ra sao. Ở một miền đất không có sự sống, đầy băng tuyết, phải chịu đựng mười lăm năm ròng rã, bị phó cho những sự tra tấn và đày đọa dã man, anh còn sống sót được, thì đó quả là một phép lạ. Đa số những người bị đem đến trại cải tạo H. đều chết vào những năm đầu tiên. Nhưng trong thời gian dài bị tù đày ở H. làm thế nào mà Mao có thể sống sót được? Khu rừng nhỏ bên cạnh đó là điều bí mật của anh. Bất cứ lúc nào thuận tiện, anh đều rút vào trong khung trời tự do nhỏ bé này, hầu hết là vào ban đêm, khi tất cả đã ngủ hết, và anh đã cầu nguyện. Ở đó, anh đã nhận được sức lực mới từ Đức Chúa Trời, một sức mạnh, thậm chí vượt qua được cả sự chết và sống một đời sống đắc thắng trong những hoàn cảnh kinh khủng. Và rồi, ngày anh được thả ra đã đến. Mười lăm năm ở trại lao động cải tạo lùi lại sau lưng, lúc anh ngồi trong toa tàu vào năm 1969, chở anh về tỉnh quê nhà. Trong suy nghĩ, anh tràn đầy sự biết ơn, khi nhớ lại những lúc đau thương, nhưng trong những lúc có cả máu và nước mắt đó, anh đã kinh nghiệm được sự gần gũi của Đức Chúa Trời và sự nương náu trong Ngài, đồng thời sự suy nghĩ của anh cũng vượt nhanh hơn chuyến tàu. Anh không ngớt nghĩ đến sự tái ngộ với các anh chị em con cái Chúa khác, và những điều mình sẽ kể cho họ. Có biết bao phép lạ anh đã kinh nghiệm trong những năm qua! Anh vui mừng vì sẽ được chia xẽ cho các bạn bè ở quê hương về những kinh nghiệm này. Nhưng anh chưa biết rằng thời kỳ hoạn nạn của anh chưa phải là chấm dứt, rằng đang còn những sự bắt bớ tiếp tục chờ đợi anh. Trong khi Mao còn ở trên chuyến tàu dài ngày và cuối cùng đến trong mảnh đất quen

thuộc, mà trước đây từng là quê hương mình, thì anh chưa thể hình dung hết những điều gì đã xảy ra ở dưới cuộc cách mạng văn hóa. Anh không biết rằng cuộc cách mạng văn hóa đã

lan tràn khắp nơi và đến cả những nơi xa xôi hẻo lánh nhất. Những công nhân viên và quan chức của chế độ cũ bị nghi ngờ, thì bị đem giải đi công khai trên đường phố đến các cuộc đấu tố, đó là những chuyện thường ngày xảy ra ở thời kỳ đó. Họ bị tra khảo, bị mắng chửi, bị đánh đập và bị bắt ép "tự tố giác mình". Và cuộc sống của những người xưng nhận niềm tin công khai lại càng ở trong sự nguy hiểm. Và cũng như vậy, Mao vừa đặt chân đến chỗ ở mới của mình, là anh bị chính quyền địa phương mời lên. Những cán bộ hỏi anh: "Sau khi ông đã ở trong trại cải tạo mười lăm năm, ông có từ bỏ niềm tin của mình không?" Mao suy nghĩ về sự hiện diện của Đức Chúa Trời mà anh đã thường xuyên kinh nghiệm được suốt mười lăm năm qua. Dẫu anh cảm thấy yếu đuối và trong những hoàn cảnh đó, dù sự tấn công chống lại anh có điên cuồng và tàn bạo đến đâu, thì anh cũng được kinh nghiệm quyền phép của Đức Thánh Linh một cách đặc biệt. Nhưng làm sao anh có thể giải thích cho những con người này hiểu được rằng sống trong sự tương giao với Đức

Chúa Trời là tuyệt vời đến dường nào. Anh cảm thấy vài cặp mắt long sòng sọc nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống anh và anh trả lời cách quả quyết: "Mười lăm năm qua trong trại lao động đã không làm cho niềm tin tôi bị yếu đi, nhưng nó đã góp phần làm cho mối quan hệ của tôi đối với Chúa Giê-xu càng khăng khít hơn, và niềm tin tôi lại càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết." Ngay lập tức, Mao, tuy vừa ra tù, lại bị đánh đập túi bụi bằng đấm đá và gậy gộc. Vào năm 1970, mùa hè năm sau đó, chính quyền địa phương lại ra lệnh bắt giam anh và bắt anh phải tham gia một khóa huấn luyện cải tạo. Tham gia khóa này có phần lớn những kẻ đầu trộm, đuôi cướp, chủ chứa, chủ sòng, và những người khác, đó là những người không muốn hội nhập vào trong xã hội. Những người này hay bộc lộ sự cứng cỏi và bản lĩnh của mình. Nhưng giờ đây đối diện với bạo lực và chuyên chính của nhà nước, thì trông họ như những võ sĩ bại trận nhục nhã. Họ đi lướt thướt với đôi vai thòng xuống, và một sự bạc nhược tràn ngập trên họ. Mao phải sống chung với họ suốt 73 ngày, và dù họ có thường xuyên khiêu khích hay thậm chí đánh đập anh, nhưng anh không để bị mất tinh thần, bất cứ lúc nào thuận tiện anh đã hát và cầu nguyện nho nhỏ. Điều đó không chỉ xảy ra một lần, khi anh đang nhắm mắt trước bát cơm và tạ ơn Đức Chúa Trời về thức ăn, thì những kẻ chung quanh đã lấy mất thức ăn trước mặt anh. Nhiều cú đấm của sự điên khùng và khiêu khích, do bị dồn chứa lâu ngày, đổ lên đầu và thân thể anh gầy còm của anh. 

Một ngày kia, có một tu sĩ Phật giáo nổi tiếng bị bắt giam và bị sắp vào cùng lớp huấn luyện đó. Ông bị rơi vào tình trạng khủng hoảng tột độ, hết sức tuyệt vọng và nản chí, đến nỗi ông đã nghĩ đến chuyện tự kết liễu đời mình. Một lần nữa tất cả các tù phạm lại bị bắt buộc tham gia một cuộc diễu hành trên đường phố. Trong khi Mao đã nhiều lần tham gia, thì đối với vị tu sĩ, đây là lần đầu tiên ông phải tham gia một cuộc diễu hành như vậy. Trong những ngày đó, những cuộc đấu tố thường là phương tiện thông dụng của sự cải tạo. Một cái mũ dài thòng như mũ thằng hề được đem đội trên đầu các tù nhân, cứ như vậy họ phải đi đi lại lại trên các đường phố, từ sáng sớm đến chiều tối. Trên mũ đề tất cả những tội phạm có thể có của người đó. Dân làng, thường là những người hàng xóm và bạn thân của nạn nhân, hô lên những lời đấu tố họ. Người ta xui trẻ con ném đá vào những "kẻ tội phạm đã thú tội". Tiếng hoan hô reo hò nổi lên khi có một đứa trẻ chạy ra giữa đường đánh vào tù nhân hay ném rác vào mặt họ. Đó là những giờ rất nhục nhã mà các tù nhân phải chịu đựng. Vào buổi tối khi họ trở về nơi mình bị nhốt, thì người Phật tử bắt chuyện với Mao và hỏi: "Hôm nay tôi quan sát ông trên đường phố, trông ông bước đi dõng dạc và hiên ngang, làm sao ông có thể quên được điều đang xảy ra quanh mình?" Mao tươi cười trả lời: "Tôi là một người theo Chúa Giê-xu. Chúa Giê-xu của tôi đã sống lại từ cõi chết, Ngài có thật và sống, tôi đi đâu thì Ngài cùng đi với tôi. Nhờ được ở bên cạnh Ngài tôi có sự bình an lớn và sự vui mừng vô biên. Đối với ông, không như vậy sao? Vì ông là người theo Phật Thích Ca, thì chắc Phật Thích Ca phải đến và an ủi ông?" Người Phật tử không đáp lại lời đó được. Vào một buổi chiều đặc biệt nóng bức. Không một làn gió, sức nóng như đè lên mọi người. Mao phải cùng với những tù nhân khác tham gia một cuộc đấu tố. Những cán bộ ra lệnh một vài tù nhân trói nhóm người được đem lên buổi mít tinh hôm nay. Số tù nhân đi trói tỏ vẻ khoái chí khi được thi thố bạo lực. Chúng siết dây trói thật chặt, đến nổi làm những người bị trói phải kêu la. Rồi họ được xe tải đem đến một chỗ gọi là D. là nơi tổ chức buổi đấu tố. Bên cạnh những cuộc cổ động rầm rộ,

thì đây là phương tiện thường được dùng trong cuộc cách mạng văn hóa, để chống lại tất cả các phần tử khả nghi của cách mạng văn hóa, hay đơn giản, chỉ vì họ quá giàu, hay học vấn quá cao. Nhưng các Cơ đốc nhân cũng đặc biệt hay bị lâm vào. Nếu có một cuộc đấu tố được tổ chức, thì trước đó hàng giờ đồng hồ các xe tải chạy qua các đường phố và phát loa phóng thanh, thông báo về thời gian và địa điểm của buổi họp đấu tố.

Sự tham gia là nghĩa vụ. Những bục khán đài được dựng lên tại những nơi xa xôi nhất, ở trong những làng mạc hẻo lánh nhất. Các "tội đã thú nhận" của các nạn nhân được đọc lên cho công chúng nghe. Nó có thể liên quan đến việc chứa chấp một đĩa nhạc Bết thô ven, một cái quần ngoài tiêu chuẩn, hay một thái độ mập mờ chống đối đảng. Chiếu theo những lời đó, lính hồng vệ binh hô to lời tuyên án. Những người trong công chúng được yêu cầu bước lên và vạch mặt "phần tử tội phạm".

Có những người cha, người mẹ bị những con trai, con gái của họ tố giác; có những học sinh ném vào mặt các thầy cô giáo mình mọi tội tùy ý thích, như một sự trả thù cho bản thân, có lẽ vì thầy cô đã có lần đánh trượt chúng, hay là, trong quá khứ đã làm cho chúng bị mất mặt trước bạn bè. Vào giờ khắc được ấn định trước, có tiếng hô từ trong đám đông: "Đủ rồi, chúng tôi muốn sự công bình!" Những người khác hùa theo. Rồi tất cả cùng la to: "Sự công bình! Sự công bình!" Một cán bộ hỏi qua loa phóng thanh đặt ở trên xe tải: "Có tội hay không có tội?" Khung cảnh giống như một sự đánh cá cược, xem ai là tội to nhất. Chính mình mà không tham gia vào, cũng đồng nghĩa với sự phải tự quì lên khán đài, trước đám đông, để tiếp nhận "sự công bình".  Mao và những tù nhân khác được chở trên một xe thùng đến chỗ mít tinh. Anh và mọi người cùng đi có thể nhìn thấy từ xa một số đông người đang tụ tập chung quanh một khán đài được dựng gấp lên bằng những tấm ván. Theo thứ tự, Mao là người đầu tiên. Anh bị kéo xệch lên trên một cách dã man. Những cán bộ đảng, từng người một bước ra và và gán cho anh các tội phạm và là những tội hung bạo ghê tởm nhất. Sau đó, họ yêu cầu anh phải tuyên bố ly khai khỏi niềm tin của mình trước đám đông đang tập họp tại đó, và chối bỏ sự thực hữu của Chúa Giê-xu. Hơn nữa, họ còn đe dọa anh: "Nếu ông còn tiếp tục giữ niềm tin vào Chúa Giê-xu thì hôm nay chúng tôi sẽ đánh ông cho đến chết!" 

X. Mao vươn thẳng người ra và nhìn vào mắt quần chúng đang chờ đợi. Anh im lặng trong giây lát, trong khi anh xin Đức Thánh Linh ban cho mình những lời cần thiết để anh nói cùng thính giả: "Thưa Đức Thánh Linh yêu dấu! Con xin Ngài hãy nhận trách nhiệm về mọi sự bây giờ sẽ diễn ra." Đó là những lời cầu nguyện thầm của anh. sau đó, anh tập trung vào đám đông trước mình, ánh mắt anh ngời sáng và anh nói bằng một giọng dõng dạc vào mi-crô: "Kính thưa bà con cô bác, bởi vì tôi tin Chúa Giê-xu nên tôi đã phải chịu mười lăm năm trong trại cải tạo lao động ở H.. Ở đó, tôi đã thường xuyên bị đánh đập và tôi đã kinh nghiệm qua những buổi đấu tố như thế này. Dù vậy, thì đức tin tôi qua đó càng vững chắc hơn. Quý bà con cô bác muốn biết vì sao không? Chúa Giê-xu là Đấng tôi tin. Ngài là Đức Chúa Trời có thật và hằng sống. Ngài là Con Đức Chúa Trời, trời và đất do Ngài dựng nên. Ngài được sinh ra như một con người vì cớ chúng ta, và vì tội lỗi chúng ta Ngài bị giết trên thập tự giá. Qua đó, Ngài đã mở cho mỗi một người con đường đến với Thượng Đế, xuất phát từ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, bởi vì Đức Chúa Trời muốn cứu vớt mỗi một chúng ta. Quý bà con cô bác hãy quên những thần tượng của mình đi, và hãy tin vào Chúa Giê-xu, thì Ngài sẽ ban cho quý bà con cô bác sự sống đời đời."

Khi những kẻ kết án anh thấy vậy, thì họ đâm bổ vào anh điên cuồng như dã thú. Cùng một lúc mười chín tên đấm đá anh liên hồi. Một số kẻ khác liên tục đánh vào mặt vào đầu, còn kẻ khác đánh trên thân thể anh. Những kẻ khác dùng giày mà đạp lên thân thể, lên ngực anh. Bỗng nhiên những người chung quanh nghe thấy giọng của Mao vang lên rõ ràng: "Chúa ơi! Hãy tha tội cho họ! Chúa ơi! Con xin giao linh hồn con vào trong tay Ngài." Rồi Mao từ từ ngã gục xuống trên khán đài. Mặc dù bị chấn thương nặng nhưng Mao không chết, trong vài tuần sau, anh được hồi phục. Cha của Mao vốn ở một làng nhỏ trên núi, là nơi hầu hết những bà con anh đang sinh sống. Khi họ hàng nghe tin rằng Mao sống không xa họ lắm và chỗ anh ở

thường xuyên bị công an, chính quyền tấn công, thì họ tìm mọi cách để xin cho anh được về ở cùng chỗ với cha anh. Dù được chấp thuận cho chuyển chỗ ở nhưng không phải vì vậy mà anh thoát được sự bắt bớ. Chỉ ít ngày sau khi chuyển về chỗ ở mới, anh đã bị bắt giam, bị giải đến trước mặt chính quyền địa phương và bị giam giữ, tra khảo trong nhiều ngày liền. Họ muốn biết kết quả của sự huấn luyện cải tạo anh về chính sách chính trị và tôn giáo đã đi đến đâu. Kết quả đã khiến cho cấp lãnh đạo không hài lòng. Một cuộc vận động quần chúng công khai được tổ chức ngay trong sân làng. cả làng phải đến dự từ khi sáng sớm. Những cán bộ tường thuật cho dân chúng nghe về quá khứ "phản cách mạng" của Mao. Sau đó, họ tuyên bố thời gian của cuộc đấu tố: "Vào lúc tám giờ sáng mai sẽ có buổi họp đấu tố ở D., chúng tôi muốn tất cả dân làng phải có mặt."  Ở vùng này đã từng có nhiều Hội Thánh Cơ đốc giáo lớn mạnh và hoạt động từ nhiều năm nay. Những Cơ đốc nhân đã trải qua nhiều sự bắt bớ, dù vậy, điều đó không làm lu mờ tình yêu nhiệt thành và triệt để của họ đối với Chúa Giê-xu. Bây giờ, khi họ nghe rằng con người của Đức Chúa Trời này đang đứng trước một cuộc đấu tố, thì họ lập tức bắt đều cầu nguyện và kiêng ăn ráo riết cho anh. Họ quyết định sáng ngày mai sẽ có mặt ở buổi đấu tố, để ủng hộ anh bằng sự cầu nguyện và sự có mặt của họ. Vậy nên, vào sáng sớm hôm sau, trước giờ khai mạc rất lâu, đã có một đám đông những con người nhóm lại chung quanh khán đài, là nơi sẽ xảy ra màn kịch, trước khi những công an đem "tù phạm" đến. Sau đó, những người tổ chức màn kịch đã đến. Họ giải theo X. Mao bị trói chặt. Cùng với súng ống đã lên đạn sẵn sàng, họ đem anh lên khán đài. Khi Mao nhìn lướt qua chung quanh, anh kinh ngạc nhận ra nhiều khuôn mặt trìu mến quen thuộc đứng quanh mình. Những người chờ đợi chung quanh không phải là những người buộc tội và thanh trừng anh, mà đó là những anh chị em cùng đức tin. Vị mục sư địa phương ngồi ngay hàng ghế đầu tiên. Ông gật đầu chào anh, ánh mắt ông chan chứa sự an ủi và thông cảm. Mao cảm nhận được uy quyền và sự hiện diện của Đức Chúa Trời khi anh nhìn vào ánh mắt của vị mục sư. Dường như họ ngầm báo tin cho nhau: "Không, chúng ta không lẻ loi và vô vọng đâu, Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Nếu có ai tấn công chúng ta, thì sẽ không thành công, vì nó xảy ra ngoài Đức Chúa Trời. Nếu ai tấn công chúng ta thì rơi vào sự tấn công chống lại Đức Chúa Trời. Những vũ khí chế ra chống lại chúng ta sẽ không được thành công. Chúng ta sẽ định tội mọi lưỡi dấy lên cáo kiện chúng ta (Ê sai 54). Mao nhướng thẳng người lên, anh cảm thấy năng quyền và sự xức dầu của Đức Thánh Linh đến trên mình và mạnh hơn tất cả những gì con người có thể làm hại anh. Một tên lính xô Mao lên phía trước, giơ cao tay phải hắn lên và bắt đầu hô

khẩu hiệu: "Đả đảo Mao là tên phản cách mạng" Chúng ta không dung chứa một sự mê tín dị đoan tôn giáo nào." Nhưng chỉ có vài giọng rời rạc từ trong đám đông cùng hô khẩu hiệu với hắn. Điều sau đó xảy ra giống như trong các buổi đấu tố trước mà Mao đã phải trải qua. Trước hết, một viên chỉ huy bắt đầu chửi rủa nhà thờ. Hắn kết tội Mao đội lốt tôn giáo hoạt động phản cách mạng. sau đó, hắn ra lệnh cho anh nhận tội và phải tuyên bố chối bỏ đức tin vào Chúa Giê-xu. Những Cơ đốc nhân đứng trước khán đài kinh ngạc, vì thấy có một ánh hào quang của Đức Chúa Trời chiếu trên gương mặt của Mao. Anh từ từ bước lên mi-crô, và bắt đầu nói: "Tại sao các ông không lấy con dao và moi trái tim tôi ra, thì các ông có thể thấy được thật cái gì đã chứa đựng trong nơi sâu thẳm nhất của lòng tôi?"

Sau những lời nói đó anh bắt đầu hát lên với giọng trong trẻo. Loa phóng thanh phát đi vượt ra xa ngoài sân làng, hầu như cả làng đều nghe thấy. Những Cơ đốc nhân trước khán đài nhận thấy sự hiện diện của Đức Chúa Trời, ở trên sân bãi, và nhiều người bắt đầu khóc. Sau đó, tất cả đều lần lượt cùng đồng thanh hát, và như một dàn xướng ca vĩ đại họ cùng nhau hát: "Tôi muốn trung thành với điều được giao cho tôi "Tôi muốn trung thành với Chúa yêu dấu của tôi "Hãy ban cho con sức mạnh để trung thành với Ngài "Cho dù không còn ai nữa đi theo Ngài "Và con đường tôi đi qua những sự gian khó "Thì tôi vẫn đứng vững bên cạnh Chúa tôi "Chúa của tôi luôn luôn muốn thấy tôi trung tín Khi những người công an nhận định được tình hình, thì trước hết họ bối rối và không biết nên xử trí ra sao. Họ không những đã nhìn thấy và nghe lời hát của những người mà đáng lẽ sẽ nguyền rủa và lên án tù nhân, mà còn cảm thấy bầu không khí của sự bình an, sự hiệp một và tình yêu, đó là điều khiến họ không chịu đựng nổi. Những tên lính vũ trang trên khán đài chờ đợi cách vô vọng xem sẽ có ai can

thiệp vào. Thật là nhục nhã! Mồ hôi tuôn đổ trên trán họ. Nếu rốt cuộc có sự gì đó xảy ra, thì điều đó cũng như một sự giải cứu, tức là khi có một vài người có trách nhiệm gạt đám đông đi lên, đẩy Mao xuống khỏi khán đài và đem anh đến văn phòng trung tâm của chính quyền địa phương. Những Cơ đốc nhân nhóm lại cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự can thiệp của Ngài, họ nghĩ rằng sự việc chắc là đã trôi qua và ai nấy trở về nhà mình. Nhưng phòng công an an ninh vẫn chưa xong kế hoạch của họ. các cán bộ an ninh sôi sục sự giận dữ và căm thù. Dám cả gan làm mất mặt họ giữa nơi thanh thiên bạch nhật. Mao đã khiến cho họ trở thành trò hề. Bọn họ chắc chắn sẽ không chịu ngồi yên vì chuyện này. Họ nghĩ rằng dù sao đi nữa thì rốt cuộc họ cũng vẫn là những người cầm đằng chuôi. Vậy thì tên Cơ đốc nhân này đừng hòng sống sót được. Vào buổi chiều cùng ngày hôm đó, Mao bị trói chặt bằng một sợi dây ni lông mỏng tanh. Những viên công an đã dùng hết sức bình sinh mà siết những sợi dây thật chặt, đến nỗi nó cứa đứt khắp người anh. Mao bủn rủn vì đau đớn. Bây giờ sẽ diễn ra một cuộc diễu hành. Mao phải đội một cái mũ hề nhọn đấu, bị giải đi qua các đường phố, có các công an vũ trang vây chung quanh. Có nhiều kẻ hiếu kỳ tham gia vào đoàn người, nhưng không có ai trong số họ là Cơ đốc nhân. Những học sinh của trường phổ thông cơ sở và trung học đang trên đường về nhà, đều theo sau Mao và cùng tung hô khẩu hiệu: 

"Đả đảo mọi kẻ thù giai cấp!"

"Hãy diệt trừ X. Mao, tên chống cộng!"

"Tước quyền những phần tử phản động!"

"Đảng cộng sản muôn năm!" 

Mao bước đi hiên ngang và đường hoàng giữa đám đông hỗn loạn. Trong ý thức, anh biết chắc rằng mình không đơn độc. Chúa Giê-xu đi cùng với anh. Sau khi họ đã nhiều lần đi qua, đi lại trong vùng, thì những viên chỉ huy hỏi anh: "Anh có tiếp tục tin Chúa Giê-xu hay không?" Mao đã trả lời không hề lưỡng lự: "Tôi tin và tôi sẽ còn tin cho đến hết cuộc đời tôi". Ngay khi anh nói chưa dứt câu, đã có kẻ dùng búa đập lên đầu anh. Máu chảy ra từ vết thương, chảy lên tóc và lên áo anh. Sau vài bước, bọn chúng lại hỏi anh: "Anh muốn tin đến bao giờ?" Anh trả lời sang sảng và dõng dạc: "Tôi tin, và dù các ông có đánh tôi chết, tôi vẫn tin." Những tên lính lại đánh anh bằng búa và các bứu to tiếp tục sưng lên trên đầu anh. Trong khi anh bước đi, bọn họ đánh anh không ngừng. Chẳng mấy chốc, trên đầu anh đầy những thương tích và khối u. Sau khi đoàn người bước đi như vậy chừng nửa cây số, thì đầu anh sưng to và máu khô đọng cứng lại bởi những trận đòn, đến nỗi mắt anh hầu như không mở lên được nữa, vì mặt đã bị sưng vù. Cứ như thế, đoàn người đi qua một quầy hàng, trước cửa quầy hàng đó là một đống đá xanh, chất cao lởm chởm. Các tên chỉ huy dùng dao nhọn bắt anh phải tiếp tục đi tới, trèo qua đống đá đó mà đi. Nhưng vì hai tay Mao bị trói chặt, nên anh bị mất thăng bằng và trượt ngã trên những hàng đá nhọn, không có gì chống đỡ, khiến anh bị gãy vài cái xương sườn. Những kẻ hành hạ anh lại lôi anh đứng dậy và bắt anh đi tiếp tục. Bây giờ khuôn mặt anh ướt đẫm mồ hôi, trở nên trắng bệch, anh thở hổn hển và máu trào ra từ miệng. Anh phải đi tiếp như vậy dưới những trận đòn. Đoàn người đi ngang qua một hố xí công cộng. Thật ra những người có trách nhiệm muốn ném anh xuống hố phân sâu hơn hai mét đó.

Nhưng vì cớ đoàn người đi xem đã trở nên rất đông, nên họ không dám làm điều đó. Thay vào đó, họ ném mũ của Mao xuống hố phân. Họ dung một gậy tre tẩm nó trong phân người, và đội nó lên đầu Mao đang đầy các thương tích. Phân người, nước tiểu chảy trên đầu, tràn trên gương mặt và trên lưng anh, cho đến khi cái áo sơ mi anh bị ướt sũng. Trong khi tiếp tục giải anh đi như vậy, một tên công an lấy hai cây tre, gắp phân chó và tìm cách nhét vào miệng Mao. Bởi vì anh ngậm chặt miệng lại nên hắn đã bôi trét phân chó hôi thối lên trên mồm và môi của anh. Khi Mao mở miệng để thở lấy hơi, thì một ngụm máu tươi đã trào ra khỏi miệng anh. Không biết con người còn có khả năng tàn bạo đến đâu nữa! Cuối cùng, họ

đem Mao đến một gốc cổ thụ, và treo anh tít lên cao. ném đá vào anh, sỉ nhục anh, nguyền rủa anh. Nhưng lúc ấy, Mao đã bất tỉnh rồi. Khi trời gần tối, họ đem anh xuống khỏi cây, ném thân thể không còn động đậy gì nữa của anh bên vệ đường, và ai về nhà nấy. X. mao nằm đó, bất động và trơ trọi, những tia nắng cuối cùng trong ngày chiếu trên gương mặt anh, khuôn mặt đã bị hành hạ đến nỗi không còn nhận dạng được nữa, nhưng trên những đường nét của nó, vẫn còn có thể thấy sự cương quyết không thỏa hiệp còn đọng lại. 

Lúc trời đã tối, những Cơ đốc nhân trong làng mới nghe tin, đã vội vã chạy đến kiếm Mao. Họ đem Mao, vẫn còn bất tỉnh, về nhà của một gia đình trong Hội Thánh. Họ cẩn thận lau rửa những vết thương cho anh và đặt anh trên chiếc giường êm nhất của họ. Có nhiều tín đồ đã đến và đứng khóc trong phòng. Họ cùng nhau cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài cứu sống con người lão thành và bất khuất này. Đến khoảng nửa đêm, Mao dần dần tỉnh lại. Tuy anh không mở mắt lên được, nhưng anh nghe thấy tiếng khóc và cầu nguyện của những người vây quanh mình. Anh cố gắng nói một cách khó nhọc: "Anh chị em thân yêu, xin đừng khóc cho tôi, nhưng hãy khóc vì sự chống nghịch của nhân dân ta. Hãy khóc cho đồng bào của chúng ta còn vô tín, khóc cho những người lãnh đạo của chúng ta còn vô thần." Những lời nói của anh làm cho các tín đồ xúc động sâu sắc, khiến họ càng cầu nguyện khẩn thiết hơn nữa. 

Trong những tuần lễ tiếp theo, Mao được phòng công an để cho yên, cộng với những lời cầu nguyện và những sự chăm sóc ân cần của các con cái Chúa mà anh được bình phục trở lại. Còn mười tám năm nữa đang chờ anh. Trong những năm sau đó, anh đi hầu việc Chúa không mệt mỏi. Anh đến thăm các Hội Thánh, khích lệ các Cơ đốc nhân và đem những con người chưa biết Chúa Giê-xu đến với tình yêu của Ngài. Cuộc đời của X. Mao không những chỉ đánh dấu bằng những biến cố đau thương, những chịu đựng gian khổ, nhưng trước hết còn được đánh dấu bằng sự kính sợ của ông trước Đức Chúa Trời Hằng Sống, qua sự trung tín và niềm vui dạt dào bên trong. Kể từ thời gian ông ở trong trại khổ sai lao động ở miền Bắc Trung Quốc, ông đã có thói quen thức dậy sớm mỗi sáng để cầu nguyện cho đất nước, cho đồng bào, và cho Hội Thánh mình. Ngay cả trong những năm sau ở quê nhà, khi phải chịu đựng nhiều sự bắt bớ, ông vẫn trung tín với thói quen này. Cho tới lúc chết, người ta có thể thấy ông mỗi ngày cầu nguyện trước khi mặt trời mọc. Sau giờ cầu thay, ông dành nhiều thời gian, từ buổi sáng này, qua buổi sáng khác để đọc Kinh thánh dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu. Nhiều đêm, ông không muốn đi nằm. Ông thường bỏ những buổi ăn để có thể đọc Kinh thánh. Vì ông đã dành nhiều thời gian cho việc học lời Chúa nên ông đã rất thông thạo và thuộc lòng rất nhiều đoạn Kinh thánh dài. Dầu vậy, ông không bao giờ thỏa mãn với những gì mình đã biết từ Kinh thánh, ông còn lợi dụng mọi cơ hội để học hỏi nơi các Cơ đốc nhân khác bằng sự hạ mình. Thỉnh thoảng, nếu trong khi học Kinh thánh có một chương đoạn đặc biệt cảm động ông, Đức Thánh Linh giải thích lời Ngài cho ông và làm

cho lời đó trở nên sống, thì ông mừng rỡ đến nỗi nhảy tung lên và bắt giọng một bài hát, nhảy múa vòng quanh phòng. Mặc dù ông không lấy vợ sau lần li dị và chưa hề có con, và mặc dù đời sống ông trong những năm tháng ở trại lao động khổ sai không phải là nhẹ nhàng, và sau đó ông cũng hay đi công tác khắp nơi trong nước như một người rao giảng Tin Lành, mặc dù nhiều lần mọi sự đe dọa bị bắt giam lại và mọi sự bắt bớ gian nguy luôn rình rập ông, mặc dù vậy cuộc đời ông vẫn được đánh dấu bằng một niềm vui mừng lớn. Nếu ông là khách ở bất kỳ đâu, thì những người hàng xóm ở đó có thể nghe thấy tiếng ông hát, khi ông càng già, giọng ông càng dõng dạc hơn. Ông là một con người có thể hát, cười và khóc bằng cả trái tim. Cùng với một người bà con cũng là Cơ đốc nhân, và là một người bạn thân của ông, cả hai có thể thức thâu đêm đến sáng. sau đó, họ kể cho nhau nghe những gì mình đã kinh nghiệm được từ Đức Chúa Trời, khích lệ lẫn nhau và cùng nhau đọc Kinh thánh, cùng nhau hát ngợi khen Chúa. Bài hát mà họ yêu thích, thường cùng nhau hát đi hát lại hàng tiếng đồng hồ, có những lời như sau: 

"Khi tôi đắm chìm trong biển đời tội lỗi "Trong sóng cuồng khổ đau, mưa tuôn buồn bã "Những đêm đầy tiếng hú chó rừng "Thì trái tim tôi đầy sợ hãi "Tôi tê dại vì nỗi kinh hoàng "Đầy bụi gai khô, những rừng núi hoang vu "Thung lũng ngàn heo hút "Tôi mong mỏi trở vềđàn "Tình Yêu Diệu Kỳ đã tìm và gặp tôi "Huyết Báu Diệu Kỳ đã rửa sạch tôi "Ân Điển Diệu Kỳ đã đem tôi trở về đàn "Ân Điển Diệu Kỳ đã đem tôi trở về đàn.  

Những Chúa Nhật đối với X. Mao là những ngày hội. Ông thường dùng những ngày này cho sự tự do để thưởng thức sự tương giao với Đức Chúa Trời, với Lời Ngài, và với những Cơ Đốc Nhân khác. Trong toàn bộ cuộc đời theo Chúa của ông chỉ có bốn lần ông không đi thờ phượng Chúa. Tất nhiên ngoại trừ thời gian mười lăm năm ông ở trong trại khổ sai. Trong vòng mười tám năm cuối đời, cuộc sống của Mao trở nên bớt căng thẳng hơn nên ông có thể dành nhiều thời gian và sức lực vào sự truyền bá Tin Lành. Trong tất cả mọi việc, ông được mọi người tín nhiệm. Ông thường xuyên đặt mình dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh và sự vâng phục Hội Thánh. Nếu Đức Chúa Trời bảo ông đi đến một vùng nào đó, thì ông luôn luôn lên đường ngay, cho dù đó là những vùng rất xa xôi hiểm trở. 

Nhiều năm liền, ông đã đi đến các địa phương vùng núi V., là nơi không chỉ khó đi lại thôi, mà còn nguy hiểm nữa, nhất là vào mùa đông những con đường nhỏ, cheo leo trên dốc núi, bị phủ băng tuyết. Nhưng ông không quản ngại gian khổ, lúc bão tuyết ông cũng lên đường thăm viếng các Cơ Đốc Nhân và giảng cho họ về Chúa Giê-xu; nên Tin Lành về Chúa Giê-xu lan rộng trên khắp vùng núi V., và có nhiều Hội Thánh mới mọc lên khắp nơi.Ông rất kỷ luật và cẩn thận về những điều ông nói và làm. Ông ghét mọi loại tội lỗi và ông là một tấm gương trong mọi việc cho các Cơ Đốc Nhân. Lối sống của ông rất bình dị, ông không bao giờ thích sự nhàn rỗi hoặc sự tán gẫu. Ông ăn uống đơn giản, khoai lang và rau quả, ông ăn mặc không cầu kỳ và sống trong một túp nhà nhỏ, đơn sơ. Dù vậy, ông vẫn cho cách sống của mình như vậy là "lãng phí" (khi so với sự đói khổ của bao người dân Trung Quốc). Ông mang một tình yêu sâu đậm đối với các con cái Chúa trong Hội Thánh. Ông quan tâm đến gia đình họ, sự lớn lên về thuộc linh của họ trong đời sống hàng ngày, ông nhắc nhở họ bằng tình yêu thương, ông săn sóc họ và thấy mình có trách nhiệm đối với họ. 

Trước khi Mao qua đời, ông nằm liệt giường tám mươi ngày. Hàng ngày, nhiều Cơ Đốc Nhân từ mọi nơi đến thăm ông. Mặc dù ông không có con theo xác thịt, nhưng ông là người cha thuộc linh của nhiều con trai và con gái. Những đứa con đó đã khiến cho đời sống ông đầy sự vui mừng. Ông chết vào ngày mười bảy tháng mười năm 1989. Một cuộc đời hạnh phúc đầy đủ và rất thành công. Hơn nghìn người đã đến dự lễ an táng ông. Tất cả họ đều yêu mến ông già này và đều muốn noi theo tấm gương của ông. Khi họ thả chiếc hòm xuống huyệt, thì tất cả cùng đồng thanh hát bài: "Chúng ta vui mừng đón Chúa Giê-xu đến, cuộc hội ngộ long trọng thay!" Tiếng hát của những người yêu mến con người của Đức Chúa Trời này vang vọng toàn thung lũng: "Khi các môn đệ của Chúa Giê-xu rời khỏi đất, thì họ về nhà "Bạn bè họ thương khóc, còn họ sung sướng nhất "Chúa Giê-xu gánh tội lỗi họ, Ngài đổ huyết mình "Và Ngài sẽ trở lại, ôi sự hội ngộ thật long trọng thay "Chúng ta chỉ chia ly giờ đây, không phải là mãi mãi "Rồi chúng ta sẽ ở cùng nhau!

 

Từ HoiThanh.com