Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
hoav
BP.NGHIÊN CỨU&PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (08) 38 469 516 (1813/1815) – [e] [email protected]
Theo lãnh đạo chuyên trách của Ngân hàng Nhà
nước, nguồn lực ngoại tệ trong dân cư vẫn vận động,
chuyển hóa để đi vào các đích đến mà chính sách vĩ
mô muốn lai dắt. Ngay cả khi “nằm im”, thì cũng
đang thực hiện chức năng của nó, như phòng vệ rủi
ro lạm phát theo quan điểm của người sở hữu, hoặc
tích trữ tài sản của người dân. Khi lãi suất 0%/năm
người dân vẫn gửi ở ngân hàng vì không quá chú
trọng về lãi suất nhận được. Trong khi chỉ cần nâng
0,25-0,5%/năm lãi suất tiền gửi USD, ngoại tệ sẽ
càng “khê đọng”, càng khuyến khích dịch chuyển
găm giữ vào ngoại tệ, càng gây áp lực tăng lãi suất
VND và lãi suất cho vay “nhích lên”, tức gia tăng
thêm chi phí vay vốn của nền kinh tế.
Tin nổi bật
Từ lãi suất USD 0% đến kỷ lục 42 tỷ USD dự trữ
ngoại hối
Dòng vốn tín dụng vẫn đang tập trung vào lĩnh
vực sản xuất
Cảnh báo chất lượng quản lý rủi ro tài chính
Gần 73.000 doanh nghiệp ra đời trong 7 tháng
đầu năm
Vốn FDI tiếp tục tăng cao, đạt gần 22 tỷ USD
sau 7 tháng
FED giữ nguyên lãi suất
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 26/07)
HOSE 773,88 0,86%
HNX 99,43 1,65%
D,JONES CK Mỹ 21.711,01 0,45%
STOXX CK C.Âu 3.491,19 0,51%
CSI 300 CK TQ 3.705,39 0,38%
Vàng (cập nhật lúc 08h10 ngày 27/07)
SJC Ng,đ/L 36.400 0,30%
Quốc tế USD/Oz 1.249,00 0,22%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.430 0,01%
EUR/USD 1,1727 0,74%
Dầu
WTI USD/th 48,64 0,54%
6
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Từ lãi suất USD 0% đến kỷ lục 42 tỷ
USD dự trữ ngoại hối
Tuần qua, một lần nữa “yêu cầu” trở lại huy động USD qua hệ thống NH, nâng
trần LS 0%/năm lại được đặt ra, để tạo thêm nguồn đưa vào SXKD. Một số
chuyên gia có quan điểm rằng, trước mắt, việc nâng trần LS USD lên trên 0%,
trở lại huy động ngoại tệ như trước chắc chắn không xảy ra, dù có rất nhiều
bàn luận. Trong khi đó, nguồn vốn cho vay theo đúng nghĩa huy động qua NH,
trả LS, rồi bơm vào tín dụng, từ khi áp cơ chế trần LS tiền gửi USD 0%/năm
đến nay không thiếu. Thậm chí ở thời điểm hiện tại, tăng trưởng huy động vốn
mạnh lên, trong khi tín dụng có yếu tố mùa vụ đang chùng xuống từ đầu tháng
7 đến nay. Nguồn vốn trong hệ thống dư thừa đến mức NHNN phải liên tục hút
bớt về lượng lớn, điểm hoán đổi LS “đồng - đô” trên LNH chuyển sang âm…
Yếu tố nguồn đầu vào để cho vay cũng gia tăng 2 năm qua, từ sự chuyển hóa
trạng thái găm giữ, đầu cơ ngoại tệ sang VND, để vốn VND đi vào hệ thống NH
hoặc linh hoạt hơn trong SXKD. Đó cũng là những cái được từ chính sách áp
trần LS USD từ cuối 2015 với 0%/năm, bên cạnh nguồn lực chuyển hóa (thay vì
găm giữ với huy động trả LS như trước) vào sự gia tăng kỷ lục của dự trữ ngoại hối
hơn 42 tỷ USD hiện nay (do người dân bán lại ngoại tệ, chuyển hóa sang
VND). Tỷ lệ đô la hóa từng nhức nhối với mức độ lên tới 2 con số như 2010
trước thềm bùng nổ tỷ giá USD/VND có tỷ lệ đô la hóa lên tới 16,7%. Năm
2016, sau khi chính sách áp trần 0%/năm có hiệu lực với tiền gửi USD, tỷ lệ đô
la hóa đã giảm rất mạnh, xuống chỉ còn 8,92%. Xu hướng này tiếp tục thể hiện
cho đến 30/6/2017, còn 8,59%. Diễn biến suy giảm mạnh tỷ lệ đô la hóa nêu
trên, cùng với tốc độ gửi VND tăng cao, phản ánh sự chuyển hóa rõ rệt nguồn
lực từ ngoại tệ sang VND để đi vào NH và đi vào SXDK, tiêu dùng…, bên cạnh
góp phần cải thiện nhanh và mạnh nguồn lực quốc gia qua dự trữ ngoại hối.
Dòng vốn tín dụng vẫn đang tập trung
vào lĩnh vực sản xuất
Việc thị trường BĐS và CK có diễn biến tích cực kể từ đầu năm tới nay kéo
theo lo ngại dòng chảy tín dụng sẽ tập trung vào lĩnh vực này. Tuy nhiên, thực
tế, nguồn vốn NH vẫn đang hướng vào các lĩnh vực ưu tiên như SXKD, XNK,
nông nghiệp…Thống đốc khẳng định, cơ cấu tín dụng đã tập trung chủ yếu vào
lĩnh vực SXKD; trong đó tín dụng đối với một số ngành KT trọng điểm tăng cao
hơn sv mức tăng chung của toàn hệ thống, tín dụng đối với lĩnh vực ưu tiên
tiềm ẩn nhiều rủi ro tăng chậm lại. Riêng tại địa bàn Tp.HCM, ông Nguyễn
Hoàng Minh, PGĐ NHNN CN Tp.HCM cho biết, chương trình tháo gỡ khó khăn
cho DN 6 tháng đầu năm đạt 148.692 tỷ đồng dư nợ cho vay ngắn hạn đối với
5 nhóm lĩnh vực ưu tiên. Trong đó, cho vay hỗ trợ DNVVN chiếm tỷ trọng cao
nhất, đạt 94.088 tỷ đồng, chiếm 63,3% tổng dư nợ cho vay ngắn hạn đối với 5
Tài chính – Ngân hàng
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
lĩnh vực ưu tiên. Hiện chưa có số liệu thống kê được công bố từ NHNN về dư
nợ tín dụng BĐS, song ước tính cho vay lĩnh vực này tăng không quá 10%
trong những năm qua. Tuy nhiên, theo báo cáo về tình hình KT tháng 5 và 5
tháng đầu năm 2017 của UBGSTCQG, việc người dân vay vốn cho BĐS qua
tín dụng tiêu dùng tiếp tục tăng mạnh trong Q.I. Trước đó, vào cuối năm 2016,
UBGSTCQG từng lưu ý, tín dụng tiêu dùng 2016 ước 39% sv cuối năm 2015,
chiếm 11,4% tổng tín dụng (2015 là 9,8%). Trong đó, gần 50% tín dụng tiêu
dùng tập trung vào cho vay sửa chữa nhà, mua nhà để ở mà nguồn trả nợ
bằng tiền lương của khách hàng vay… TS. Võ Trí Thành cho rằng, NHNN cần
có các biện pháp giám sát dòng tiền vào các lĩnh vực phi SX rủi ro cao như:
CK, BĐS. Nguyên nhân là tổng dư nợ cho vay BĐS ở mức 8% trên tổng tín
dụng nhưng cho vay tiêu dùng thực chất phần lớn là cho vay BĐS, nếu cộng
cả con số này thì tỷ lệ phải >10%. Đồng quan điểm, TS. Nguyễn Trí Hiếu nhận
định, dư nợ tại các NH đang tăng rất nhanh, nhất là tín dụng tiêu dùng và tín
dụng cho BĐS. Tuy nhiên, với việc NHNN tiếp tục điều hành chính sách tín
dụng theo hướng kiểm soát quy mô tín dụng hợp lý, an toàn, hiệu quả, tạo
thuận lợi cho DN tiếp cận vốn; định hướng tín dụng vào lĩnh vực SXKD, trong
đó tập trung cho những lĩnh vực ưu tiên, dòng vốn sẽ không dễ dàng chảy
mạnh vào lĩnh vực BĐS. Ngay đầu năm, Thống đốc đã đưa ra thông điệp, tiếp
tục siết chặt tín dụng BĐS, các dự án BOT, BT giao thông và tập trung dư nợ
cho các lĩnh vực ưu tiên. Chưa kể, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN
về tổ chức thực hiện CSTT và đảm bảo hoạt động NH an toàn, hiệu quả 2017,
một lần nữa nhấn mạnh tập trung tín dụng vào các lĩnh vực SXKD, nhất là các
lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, đồng thời kiểm soát chặt chẽ
tín dụng vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như tín dụng trung, dài hạn, tín dụng đối với
nhóm khách hàng lớn, tín dụng đối với lĩnh vực BĐS, các dự án BOT, BT.
Tội phạm ngân hàng nhiều do sở hữu
chéo, lợi ích nhóm
Nhận định trên được nhiều chuyên gia và đại biểu nêu ra tại Hội nghị Nâng cao
hiệu quả công tác phòng ngừa và xử lý tội phạm trong lĩnh vực NH do VKSND
Tp.HCM tổ chức. Theo bà Nguyễn Quỳnh Lan, VKSND Tp.HCM, nguyên nhân
dẫn đến hàng loạt vụ án liên quan đến lĩnh vực NH thời gian gần đây là do sự
lỏng lẻo và thiếu đồng bộ trong việc ban hành và thực thi các VBPL, hệ thống
kiểm soát nội bộ, kiểm toán NH. Một số NH vì sức ép LN đã nới lỏng điều kiện
tín dụng, không tuân thủ trình tự, thủ tục quy định về cho vay. Trong khi một số
cán bộ ngân hàng suy thoái về đạo đức nghề nghiệp hoặc buông lỏng quản lý,
công tác thanh tra giám sát NH còn hạn chế trong việc phát hiện, xử lý các
hành vi tham nhũng và tiêu cực nội bộ. Có NH hoạt động yếu kém, bị đưa vào
diện giám sát đặc biệt nhưng tổ giám sát thiếu trách nhiệm, không phát hiện
hoặc không kịp thời ngăn chặn các hành vi trái quy định của pháp luật…
Trưởng Phòng PC46 Công an Tp.HCM, cũng cho rằng công tác quản lý, quản
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
trị tại các NH rất yếu kém, thậm chí có những nơi tổ kiểm soát bị vô hiệu hóa. “
Có những cán bộ giữ những vị trí không cao trong NH nhưng lại có thể vô hiệu
hóa toàn bộ hệ thống kiểm soát”. Đặc biệt, sở hữu chéo và lợi ích nhóm dẫn
đến việc cho vay chỉ phục vụ lợi ích của nhóm cổ đông lớn, khiến cho hoạt
động của một số TCTD thiếu lành mạnh, nợ xấu tăng cao. Việc bố trí cán bộ
không đủ trình độ và người thân trong gia đình vào TCTD cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ án trong lĩnh vực này. Theo PGĐ NHNN
CN Tp.HCM Trần Đình Cường, sở hữu chéo là vấn đề phát sinh gắn liền với
quá trình phát triển NHTMCP tại hầu hết các quốc gia có nền KT thị trường,
vấn đề sở hữu chéo tại VN phát sinh nhiều tiêu cực, gây ra mất an toàn hệ
thống, tác động xấu đến nền KT và là nguyên nhân phát sinh các tội phạm NH.
Cng tố viên của Nhật Takako Tsukabe (đại diện JICA), cho biết Nhật cũng có
loại tội phạm trong lĩnh vực NH như VN. Tuy nhiên, bên cạnh hệ thống luật
pháp chặt chẽ và rõ ràng, một trong những giải pháp được áp dụng nhằm giảm
loại tội phạm này là chuyển đổi nơi làm việc liên tục đối với lao động. “Khi đó,
người ta không dám làm sai bởi sẽ bị người mới dễ dàng phát hiện”… Chỉ trong
3 năm (2014-2016), theo báo cáo của VKSND Tp.HCM, Cơ quan điều tra Công
an thành phố đã thụ lý 207 vụ liên quan lĩnh vực NH, trong đó tòa án thụ lý 107
vụ với 452 bị cáo liên quan. Đặc biệt, nhiều lãnh đạo, cán bộ của các TCTD cố
ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý KT, vi phạm quy định cho vay
hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản của NH..., gây thiệt
hại lớn cho nền KT. Chẳng hạn, chỉ riêng vụ án Phạm Công Danh và đồng
phạm đã gây thiệt hại cho VNCB số tiền lên tới 9.000 tỷ đồng.
Cảnh báo chất lượng quản lý rủi ro tài
chính
Đây là nội dung được trao đổi tại Diễn đàn an ninh tài chính và cạnh tranh DN
do Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh (IBCS) phối hợp với
Cục An ninh tài chính, tiền tệ và đầu tư (A84-Bộ Công an) tổ chức ngày 25/7.
Phát biểu tại diễn đàn, PGS.TS. Nguyễn Văn Nam, Viện trưởng IBCS cho
rằng, trong thập kỷ gần đây khủng hoảng KT diễn ra đều là khủng hoảng về tài
chính, vì vậy tất cả lĩnh vực, các cơ quan, DN, NH đều phải hết sức quan tâm
đến an ninh tài chính. Nhấn mạnh vấn đề quản trị rủi ro tài chính trong DN Việt,
TS. Phạm Tuấn Anh (ĐH Thương mại) chỉ ra rằng, DN Việt đang phải đối mặt
với rủi ro thanh khoản, rủi ro LS, rủi ro hối đoái và rủi ro tín dụng… Năm 2016,
có 105 DNNY, trong đó có 81% DN thường xuyên nhận diện các rủi ro tài
chính, 22% DN sử dụng DV của tư vấn để nhận diện rủi ro, đồng thời phần lớn
DN nhận diện rủi ro thông qua phân tích các chỉ tiêu tài chính căn bản. Tuy
nhiên, các hình thức nhận diện rủi ro tài chính ở VN còn khá đơn giản và mang
tính hình thức. Nhiều DN ở các ngành, lĩnh vực khác nhau nhưng cách thức, kỹ
thuật nhận dạng rủi ro tài chính lại không có nhiều khác biệt. Trong khi đó, rủi
ro tại thị trường tài chính nước ta đang đặt ra những vấn đề rất cấp bách.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Ví dụ như có một số NHTM quản trị kém, phải sáp nhập hoặc bị buộc phải bán
với giá 0 đồng… Do đó, phải có nhiều giải pháp để bảo đảm an toàn và an ninh
tài chính quốc gia, DN. Nhận định về tình hình rủi ro an ninh, an toàn trong lĩnh
vực tài chính, Thiếu tá Dương Thu Ngọc, đại diện A84 cho rằng, hoạt động của
DN trên lĩnh vực tài chính, NH và đầu tư có một số diễn biến phức tạp. Một số
cá nhân, DN, NH không còn cạnh tranh đơn thuần, mà đang tinh vi, quyết liệt
hơn trong các giao dịch nội gián, đánh cắp thông tin của đối phương, tung tin
đồn thất thiệt để triệt phá nhau, “chạy chính sách”, tạo điều kiện cho “sân sau”
hoạt động… Có không ít cán bộ tín dụng, lãnh đạo các TCTD bị bắt giam, điều
tra… cùng nhiều sai phạm liên quan đến điều hành hoạt động và cho vay, gây
ảnh hưởng đến an ninh an toàn hệ thống. Do đó, DN cần nhận thức rõ được
tầm quan trọng trong việc bảo vệ thương hiệu và nguy cơ cạnh tranh DN trong
môi trường KT hội nhập ngày càng sâu rộng. Từ đó, DN cần có cơ chế kiểm
soát, phòng ngừa tốt, đặc biệt là các dữ liệu điện tử để tránh bị tấn công mạng,
đánh cắp thông tin. DN cũng nên có sự liên kết và gắn bó chặt chẽ với Hiệp hội
để từ đó có sự chia sẻ thông tin và bảo vệ trong lĩnh vực hoạt động của mình.
Mỗi vụ việc xảy ra không chỉ là việc cạnh tranh giữa DN trong nước, mà còn có
thể của DN có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, khi có vấn đề, DN cần mạnh dạn
tố cáo, đấu tranh với DN cạnh tranh không lành mạnh, DN có hành vi thao
túng, trốn thuế, không công bố thông tin với các cơ quan quản lý… Các cơ
quan chức năng sẵn sàng tăng cường phối hợp với DN để lành mạnh hoá thị
trường, góp phần tạo ra sân chơi công bằng giữa các DN.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Gần 73.000 doanh nghiệp ra đời trong
7 tháng đầu năm
Theo Cục Quản lý đăng ký KD, 7 tháng đầu năm, tổng số DN thành lập mới và
DN quay trở lại hoạt động của cả nước là 90.455 DN, trong đó có 72.953 DN
thành lập mới và 17.502 DN quay trở lại hoạt động. Tổng số vốn đăng ký bổ
sung vào nền KT trong 7 tháng là 1.670.465 tỷ đồng, gồm tổng số vốn đăng ký
của DN đăng ký thành lập mới là 690.738 tỷ đồng và tổng số vốn đăng ký tăng
thêm của DN thay đổi tăng vốn là 979.727 tỷ đồng với 21.383 lượt DN đăng ký
bổ sung vốn. Tỷ trọng vốn đăng ký BQ/DN 7 tháng đạt 9,5 tỷ đồng, 22,2% sv
cùng kỳ 2016. Tỷ lệ DN thành lập mới tăng ở hầu hết các ngành. Cụ thể, KD
BĐS đăng ký 2.706 DN, 68%; Tài chính, NH và bảo hiểm đăng ký 812 DN,
31,8%; Y tế và hoạt động trợ giúp XH đăng ký 385 DN, 31,8%; Giáo dục và
đào tạo đăng ký 1.886 DN, 29,2%;... duy nhất, lĩnh vực Vận tải kho bãi đăng
ký 3.563 DN, 6,1%. Tỷ lệ vốn đăng ký cho thấy có 4 ngành giảm sv cùng kỳ
2016, gồm: Khai khoáng đăng ký 6.994 tỷ đồng, 64,6%; Thông tin và truyền
thông đăng ký 14.452 tỷ đồng, 12,6%; Vận tải kho bãi đăng ký 18.224 tỷ
đồng, 8,7% và Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đăng ký 11.791 tỷ đồng,
8,4%. Các ngành còn lại đều có tỷ lệ vốn đăng ký tăng sv cùng kỳ 2016..
Riêng trong tháng 7, số DN được thành lập mới là 11.677 DN với số vốn đăng
ký là 94.543 tỷ đồng, 8,7% về số DN và 14,5% về số vốn đăng ký sv tháng
6. Tỷ trọng vốn đăng ký BQ/DN trong tháng 7 đạt 8,1 tỷ đồng, 21,3% sv
tháng 6. Sv tháng 6, số DN quay trở lại hoạt động trong tháng 7 là 2.123 DN,
10,5%; Số DN đăng ký tạm ngừng KD có thời hạn là 1.887 DN, 9,1%; Số
DN tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể là 3.810 DN,
18,5%; Số DN hoàn tất thủ tục giải thể là 1.165 DN, 53,7%.
Vốn FDI tiếp tục tăng cao, đạt gần 22
tỷ USD sau 7 tháng
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, 7 tháng đầu năm, tổng vốn đăng ký cấp mới,
tăng thêm và góp vốn, mua cổ phần là 21,93 tỷ USD, 52% sv cùng kỳ 2016.
Trong đó, tổng vốn đăng ký mới của DN nước ngoài 1,5 lần lên 12,92 tỷ
USD; Có 5,87 tỷ USD vốn đăng ký tăng thêm; Có 2.946 lượt góp vốn, mua cổ
phần của NĐTNN với tổng giá trị góp vốn là 3,12 tỷ USD, 2 lần sv cùng kỳ.
Ước đến 20/07, các dự án FDI đã giải ngân được 9,05 tỷ USD, 5,8% sv cùng
kỳ. Công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm
của NĐTNN khi chiếm gần ½ tổng số vốn vào VN với 10,83 tỷ USD. Lĩnh vực
SX, phân phối điện đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư 5,25 tỷ USD, # 23,98%.
Đứng thứ 3 là lĩnh vực khai khoáng với tổng vốn đầu tư đăng ký 1,28 tỷ USD,
#5,86%. Hàn Quốc đứng vị trí thứ nhất với tổng vốn đầu tư 5,62 tỷ USD,
#25,63%. Nhật đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký 5,46 tỷ USD.
Kinh tế Việt Nam
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy
sản đạt hơn 20 tỷ USD trong 7 tháng
Theo Bộ NN&PTNT, kim ngạch XK nông lâm thủy sản tháng 7 ước đạt 3,11 tỷ
USD, đưa tổng giá trị XK 7 tháng qua đạt 20,45 tỷ USD, 14,7% sv cùng kỳ
2016. Trong đó, sv cùng kỳ, giá trị XK các mặt hàng nông sản chính ước đạt
10,89 tỷ USD, 18%; giá trị XK thủy sản ước đạt 4,31 tỷ USD, 17,5%, giá trị
XK các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 4,41 tỷ USD, 10,8%. Gia tăng mạnh
nhất là ngành hàng cao su, 12,8% về khối lượng và 59,2% về giá trị sv
cùng kỳ. Cụ thể, ước tính khối lượng XK cao su tháng 7 đạt 154.000 tấn với giá
trị 230 triệu USD, đưa khối lượng XK cao su 7 tháng qua ước đạt 639.000 tấn
và 1,13 tỷ USD. Ngành hàng rau quả tiếp tục có sự gia tăng mạnh với giá trị
XK hàng rau quả tháng 7 ước đạt 360 triệu USD, đưa giá trị XK hàng rau quả 7
tháng đầu năm ước đạt 2,03 tỷ USD, 48,9% sv cùng kỳ. Trung Quốc, Nhật,
Hoa Kỳ và Hàn Quốc là 4 thị trường NK hàng đầu của hàng rau quả VN trong 6
tháng đầu năm, chiếm 84,4% tổng giá trị XK hàng rau quả. Ngành hàng thủy
sản, gỗ và sản phẩm gỗ là 2 ngành hàng đóng góp giá trị lớn nhất trong kim
ngạch XK toàn ngành. Cụ thể, giá trị XK thủy sản tháng 7 ước đạt 727 triệu
USD, đưa khối lượng XK thủy sản 7 tháng qua ước đạt 4,3 tỷ USD; giá trị XK
gỗ và các sản phẩm gỗ tháng 7 đạt 550 triệu USD, đưa khối lượng XK gỗ và
sản phẩm gỗ 7 tháng qua ước đạt 4,2 tỷ USD. Vẫn duy trì được đà tăng trưởng
trong những tháng gần đây, lĩnh vực lúa gạo duy trì mức 15,7% về khối
lượng và 13,7% về giá trị sv cùng kỳ. Với khối lượng gạo XK tháng 7 ước đạt
465.000 tấn với giá trị đạt 201 triệu USD, đưa khối lượng XK gạo 7 tháng qua
ước đạt 3,3 triệu tấn và 1,5 tỷ USD. Bên cạnh nhiều mặt hàng có sự gia tăng
cả về sản lượng và giá trị thì một số mặt hàng tuy giảm về khối lượng nhưng có
sự gia tăng về giá trị như cà phê 16,4% về khối lượng nhưng 7,9% về giá
trị, ngành hạt điều 2,2% về giá trị nhưng 24,2% về giá trị, riêng mặt hàng
sắn và sản phẩm sắn 1% về khối lượng và 8,1% về giá trị...
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Toanf
Thế giới - Nhà đầu tư đang mất lòng tin
vào các ngân hàng trung ương?
Theo khảo sát dành cho các CEO quỹ toàn cầu do Bank of America Merrill
Lynch tiến hành trong tháng 7, số lượng CEO quỹ toàn cầu tin rằng các NHTW
“quá nới lỏng” trong CSTT của họ đã đạt tới mức cao nhất trong 6 năm qua
(48%). Cuộc khảo sát cho thấy một quan điểm ngày càng lo lắng về các NHTW
trên toàn cầu và vai trò của họ trong CSTT, kích thích KT, trong đó nổi bật lên
một kết quả rất quan trọng: quá nhiều CEO quỹ xem FED là một chất xúc tác
rất có thể mang tính tiêu cực cho các thị trường, trong khi sự giảm tốc của tăng
trưởng KT và ước tính LN trên mỗi cổ phiếu “đang bị phớt lờ”. Ngoài ra, những
rủi ro đuôi (tail risk) lớn nhất được chú ý là cuộc sụp đổ trên các thị trường trái
phiếu và một “sai lầm” đến từ FED hoặc ECB. Rủi ro đuôi hàng đầu chưa bao
giờ là một cuộc sụp đổ trên thị trường trái phiếu kể từ tháng 11/2016 đến nay.
Những ai lo ngại về chính sách tiền rẻ của các NHTW cũng có lý của họ. Tuy
nhiên, những chính sách này là hợp lý nếu xét đến tình hình lạm phát thấp hiện
vẫn tiếp tục diễn ra ở các quốc gia phát triển trên khắp thế giới. “Các NHTW
chắc chắn muốn tăng LS. Họ muốn bình thường hóa chính sách sớm hơn thay
vì là trễ hơn nhưng họ đang bị ngăn cản bởi những nguyên tắc KT cơ bản vào
lúc này và tôi nghĩ rằng đó là vấn đề mà chúng ta thấy chính mình trong đó”…
“Ở Mỹ, tôi nghĩ rằng 12 nhân vật quyền lực nhất của FED hiện vẫn chưa quyết
định v/v sẽ nên có thêm một đợt tăng LS vào tháng 12 tới hay không. Tôi cho
rằng FED rất muốn thực hiện điều đó vì họ rất muốn tiếp tục với chủ đề bình
thường hóa của mình nhưng chuyện đó sẽ phụ thuộc nhiều vào người tiêu
dùng Mỹ. Chúng ta thật sự cần một trở lại mạnh mẽ trong nửa sau năm 2007.
Cho tới lúc này, mọi chuyện vẫn chưa có gì ngoài sự thất vọng.. Doanh số bán
lẻ của thứ Sáu vừa qua là một thảm họa và tôi nghĩ rằng nếu chúng ta thấy
thêm bất kỳ con số nào như thế thì việc FED tăng LS thêm nữa trong năm nay
là điều khó có thể xảy ra”. Khảo sát trên được tiến hành trong thời gian 07-
13/07, suốt thời gian mà các NHTW và giám đốc quỹ thảo luận công khai về
tình trạng chính sách LS trên toàn thế giới. .. Tuần trước, chủ tịch FED, đã có
những nhận định “bồ câu” hơn dự báo trước Quốc hội Mỹ, khi tỏ dấu hiệu cho
thấy rằng không cần phải tăng LS nhiều để đạt được một tình trạng CSTT
“bình thường hóa”. Ngày 20/7, ECB đã giữ nguyên LS chủ chốt của họ, và Chủ
tịch ECB thể hiện sự thận trọng trong việc tiến xa hơn vào giai đoạn tháo gỡ
chương trình nới lỏng định lượng. Cùng ngày, NHTW Nhật đã hạ mục tiêu lạm
phát của họ xuống lần thứ 6 và giữ nguyên LS…
Mỹ - FED giữ nguyên lãi suất
Ngày 26/7, FED đã quyết định giữ nguyên LS cơ bản ở mức 1,0-1,25%, đồng
thời cho biết vẫn đang tiếp tục theo dõi sát sao tình hình lạm phát. Tuyên bố
kết luận sau 2 ngày họp của Ủy ban Thị trường mở Liên bang, cơ quan hoạch
Kinh tế Quốc tế
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
định chính sách của FED, được đánh giá là không có nhiều khác biệt sv bản
tuyên bố hồi tháng 6 khi FED quyết định tăng LS. FED cho biết tỷ lệ lạm phát
của Mỹ hiện vẫn đang ở dưới mức mục tiêu 2% do yếu tố giảm giá ngắn hạn
tác động. Bên cạnh đó, FDE cũng xác nhận kế hoạch giảm khối lượng nắm giữ
trái phiếu kho bạc Mỹ và các loại CK được đảm bảo bằng nợ BĐS. Theo đó,
FED dự định sẽ tăng dần mức trái phiếu bán ra mỗi tháng nhằm đảm bảo thị
trường có thời gian điều chỉnh và thích nghi. Hiện FED nắm giữ >4.000 tỷ USD
các tài sản này, phần lớn được mua sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kT giai đoạn 2007-2009 như một biện pháp nhằm bơm tiền vào nền KT.
Ngày 14/6 vừa qua, FED đã quyết định tăng LS cơ bản thêm 0,25 điểm %, lên
mức 1,0-1,25%, sau khi nhận định nền KT tăng trưởng khiêm tốn, thị trường
việc làm tiếp tục được củng cố và lạm phát giảm nhẹ. Giới chuyên gia dự báo,
nhiều khả năng FED sẽ tiếp tục nâng LS cơ bản 3 lần nữa trong 2018 và 2019.
Trung Quốc - Đã kích thích kinh tế sai
cách?
Theo Bloomberg, khi cuộc Đại Suy thoái diễn ra, TQ không hề do dự trong việc
nới lỏng chính sách tài khóa. Tuy nhiên, quốc gia này cũng chấp nhận thêm
một dạng biện pháp kích thích khá khác với cái mà chuyên gia KT đề xuất, đó
là khuyến khích NH bắt đầu cho vay nhiều hơn. Họ đã cho vay đến các tập
đoàn, các cơ quan Chính phủ nội địa và rất nhiều công ty tư nhân. Đa số các
khoản cho vay này được tài trợ bằng việc phát hành các sản phẩm quản lý tài
sản (wealth management products - WMP). Về cơ bản, WMP là các khoản cho vay
LS cao do các hộ gia đình TQ cung cấp tới các nhà cho vay có liên kết với NH.
Một nghiên cứu mới của các chuyên gia KT đã cung cấp nhiều thông tin chi tiết
về những gì đã xảy ra trong quá khứ. Tại TQ, có 4 NH rất lớn được sở hữu bởi
Nhà nước là NH Nông nghiệp (ABoC), Bank of China, NH Xây dựng (CCB) và
NH Công thương (ICBC). Khi cơn dư chấn của cuộc Đại Suy thoái đe dọa nền
KT tQ trong 2009-2010, Chính phủ nước này đã cho phép các NH cho vay
nhiều hơn và họ đã làm thế. Bằng chứng là trong 2009-2010, số tiền mà nhóm
Big4 của TQ cho vay 7.000 tỷ CNY, #1.000 tỷ USD. Tuy nhiên, điều này
cũng đặt các NH nhỏ hơn rơi vào tình huống khó xử. Với mục đích duy trì tỷ lệ
dư nợ tín dụng trên vốn huy động theo quy định, NH lớn đã thu hút nhiều tiền
gửi hơn từ các hộ gia đình bằng cách đưa ra LS tiền gửi cao hơn và các biện
pháp khuyến khích khác. Điều này đã tạo ra một cuộc cạnh tranh gay gắt dành
cho NH nhỏ hơn, đồng thời buộc họ phải kiếm một vài nguồn tài trợ khác. Họ
không thể chỉ đưa ra LS tiền gửi cao hơn, vì lúc đó LS tiền gửi bị giới hạn bởi
Chính phủ. Câu trả lời của họ là dùng WMP, theo đó họ phát hành một cách
gián tiếp bằng cách tạo ra cái gọi là hệ thống NH ngầm (shadow banking), hoặc
các nhà cho vay hoạt động bên ngoài cơ chế tài chính được quản lý. Tính cạnh
tranh càng cao được tạo ra từ các Big4, thì các NH quy mô nhỏ lại phát hành
càng nhiều WMP. Những người dõi theo TQ từ lâu đã lo lắng về các rủi ro xuất
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
phát từ WMP và hệ thống NH ngầm. Như những gì đã xảy ra ở Mỹ và nhiều nơi
khác trên thế giới trong 2008, nếu có một lượng lớn khoản vay LS cao được tạo
ra từ mạng lưới các nhà cho vay ngầm thì điều này có thể là chất xúc tác châm
ngòi cho một cuộc khủng hoảng tài chính. Khi các WMP hết hạn, LS cho vay
LNH cũng gia tăng - đây là một chỉ báo rất đáng sợ đối với bất cứ ai còn nhớ về
tình trạng đóng băng LNH ở Mỹ trong 2008. Sau đó, LS cho vay LNH cao hơn
lại làm nhóm cổ phiếu NH TQ giảm giá, trong đó NH nào phát hành càng nhiều
WMP thì càng giảm mạnh hơn. Do đó, WMP tạo ra rủi ro cho toàn bộ hệ thống
tài chính của TQ… Vay mượn càng nhiều, công ty đi vay có năng suất ngày
càng thấp, rủi ro hệ thống càng cao đều phù hợp với câu chuyện nền KT TQ
đang trở nên quá phụ thuộc vào các nguồn tài trợ giá rẻ, dồi dào nhưng lại quá
lãng phí. Đương nhiên, Chính phủ TQ nhận thức được các rủi ro trên, và đang
thực hiện một số động thái để giảm bớt các rủi ro này. Tuy nhiên, những biện
pháp của Chính phủ có lẽ đã quá trễ. Những người đi vay có năng suất thấp đã
tích lũy quá nhiều nợ có LS cao. Do đó, sẽ mất vài năm để tháo gỡ hết đống nợ
này. Những năm đó có lẽ sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng của TQ, ngay cả khi
rủi ro xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính TQ tiếp tục tăng.
Myanmar - Cơ chế giao dịch chứng
khoán dành cho người nước ngoài đang
được triển khai
Trung tâm Giao dịch CK Myanmar (MSEC) cho biết, một cơ chế để NĐT và tổ
chức nước ngoài có thể tham gia trên SGDCK Yangon (YSX) đang được triển
khai. Để vực dậy các hoạt động thị trường, 1 hệ thống trong đó gồm cả NĐT
không có quốc tịch Myanmar từ nhiều lĩnh vực khác nhau phải được triển khai.
Hiện MSEC và YSX đang hợp tác triển khai hệ thống như thế. “Để TTCK
Myanmar trở nên sôi động, điều cần làm lúc này là triển khai một hệ thống áp
dụng cho NĐT từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Nếu như hệ thống này thành công,
thị trường sẽ có thêm nhiều NĐT hơn. Ngay tại thời điểm này, việc thu hút NĐT
cá nhân cũng rất cần thiết”. Được biết, giao dịch cổ phiếu hàng ngày giảm
đáng kể trong thời gian qua, khiến thị trường rơi vào trạng thái “uể oải”. Theo
đó, trong khi khối lượng trung bình giao dịch cổ phiếu mỗi ngày hồi tháng
6/2016 là 313 triệu Kyat thì trong tháng 6/2017 giảm còn chỉ 70 triệu Kyat. Chỉ
số CK Myanmar, với điểm cơ bản là 1000 vào ngày 25/03/2016, giảm còn
552.62 vào ngày 11/07/2017. “Chúng ta có thể thừa nhận rằng sự thay đổi này
xuất phát từ việc NĐT né tránh thị trường do giá cổ phiếu trì trệ. Để vực dậy thị
trường, điều cần thiết là có thêm nhiều DNNY và nhiều người tham gia giao
dịch hơn”. Theo Đạo luật DN Myanmar hiện hành, 1 công ty nếu có 1 người
nước ngoài nắm giữ bất kỳ loại cổ phiếu nào thì được xem là công ty nước
ngoài. Những DNNY trên YSX rất hạn chế v/v bán cổ phiếu cho người nước
ngoài. Myanmar đang chuẩn bị ban hành một Đạo luật DN mới và dự thảo của
Đạo luật mới này đã được trình lên Quốc hội. Theo quy định mới, một công ty
trong nước được phép nắm giữ lên đến 30% vốn đầu tư nước ngoài.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
http://www.bloomberg.com/markets/
http://www.sjc.com.vn/
http://goldprice.org/vi/index.html
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?centerWidth=80%25&leftWidth=20%25&rightWidth=0
%25&showFooter=false&showHeader=false&_adf.ctrl-
state=az57x7njj_4&_afrLoop=564852868666178#!%40%40%3F_afrLoop%3D564852868666178%26center
Width%3D80%2525%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26sh
owHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D1cs37zaa0q_4
Tài chính - NH http://baochinhphu.vn/Tai-chinh/Canh-bao-chat-luong-quan-ly-rui-ro-tai-chinh/312383.vgp
http://tuoitre.vn/tin/kinh-te/20170726/toi-pham-ngan-hang-nhieu-do-so-huu-cheo-loi-ich-nhom/1358446.html
http://vneconomy.vn/tai-chinh/tu-lai-suat-usd-0-den-ky-luc-42-ty-usd-du-tru-ngoai-hoi-
20170725063613876.htm
http://tinnhanhchungkhoan.vn/tien-te/dong-von-tin-dung-van-dang-tap-trung-vao-linh-vuc-san-xuat-
195303.html
Tin KT vĩ mô http://vietstock.vn/2017/07/gan-73000-doanh-nghiep-ra-doi-trong-7-thang-dau-nam-768-549450.htm
http://nhipcaudautu.vn/kinh-te/von-fdi-vao-viet-nam-tiep-tuc-tang-cao-dat-gan-22-ty-usd-sau-7-thang-
3319703/
http://vietstock.vn/2017/07/kim-ngach-xuat-khau-nong-lam-thuy-san-dat-hon-20-ty-usd-trong-7-thang-768-
549669.htm
Tin KT Quốc tế http://vietstock.vn/2017/07/nha-dau-tu-dang-mat-long-tin-vao-cac-ngan-hang-trung-uong-772-549404.htm
http://ndh.vn/fed-giu-nguyen-lai-suat-co-ban-20170727082225954p4c149.news
http://vietstock.vn/2017/07/trung-quoc-da-kich-thich-kinh-te-sai-cach-772-549563.htm
http://vietstock.vn/2017/07/chung-khoan-myanmar-co-che-giao-dich-danh-cho-nguoi-nuoc-ngoai-dang-duoc-
trien-khai-1328-549577.htm
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG LS LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
BĐS BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng bán lẻ NHBL
Chính sách tiền tệ CSTT NHNN NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP
DNNN DNNN Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMNN
DN tư nhân DNTN NSNN NSNN
DN vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI NK NK
Dự án DA SX KD SXKD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tài sản bảo đảm TSBĐ
Đăng ký KD ĐKKD TCTD TCTD
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng tài sản TTS
Giấy chứng nhận GCN Tổng SP quốc nội GDP
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Hợp đồng tín dụng HĐTD Trái phiếu Chính phủ TPCP
Khách hàng DN KHDN Trái phiếu DN TPDN
Khách hàng cá nhân KHCN TTCK TTCK
KT vĩ mô KTVM VN VN
Kho bạc Nhà nước KBNN Vốn điều lệ VĐL
KV KV Vốn tự có VTC
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Xã hội XH
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED XK XK
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Ngân hàng thế giới World Bank Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Hiệp hội Thép VN VSA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
KV sử dụng đồng euro EUROZONE Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM HOSE
Liên minh châu Âu EU Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Tổng cục thống kê GSO