Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
hoav
Ông Nguyễn Tiến Đông – Chủ tịch
VAMC cho rằng cái mới ở Nghị quyết 42 là
đã thay đổi tư duy về nợ xấu. "Trước đây,
suy nghĩ nợ xấu là của ngành ngân hàng.
Tuy nhiên, với Nghị quyết 42 thì tư duy của
nhà lập pháp đã thay đổi, nợ xấu không là
của riêng ngân hàng mà là của nền kinh
tế", theo ông Đông. Từ thay đổi tư duy đó
đã tạo hỗ trợ cho các tổ chức tín dụng, để
các bộ ngành, các cấp chính quyền cùng
vào cuộc xử lý, để tái tạo nguồn lực chung
cho nền kinh tế.
Tin nổi bật
Xử lý nợ xấu: Không quyết liệt thì không kịp!
NHNN bơm ròng 14.000 tỷ đồng qua kênh
tín phiếu
Nợ công, bội chi và rủi ro vẫn gia tang
Người tiêu dùng kết nối
Thị trường mới nổi sẽ gặp nguy nếu lợi suất
trái phiếu Mỹ lên 3,5%
Campuchia: Trái phiếu DN đầu tiên có thể
được phát hành trong năm nay
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 09/05)
VN - Index 1.056,97 0,33%
HNX - Index 123,86 1,17%
D.JONES CK Mỹ 24.542,54 0,75%
STOXX CK C.Âu 3.569,74 0,33%
CSI 300 CK TQ 3.871,62 0,18%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 10/05)
SJC Ng.đ/L 36.750 0,05%
Quốc tế USD/Oz 1.311,30 0,05%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.578 0,04%
EUR/USD 1.1845 0,11%
Dầu
WTI USD/th 71,50 1,82%
6
Thứ Năm, ngày 10/05/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Sẽ tăng hạn mức trả tiền bảo
hiểm tiền gửi khi điều kiện cho
phép
Tại kỳ họp Quốc hội gần đây nhất, cử tri các tỉnh Lâm Đồng, Vĩnh Long,
Phú Yên, Bà Rịa - Vũng Tàu băn khoăn về quy định: "Số tiền bảo hiểm
được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của
Luật BHTG (gồm cả gốc và lãi) của 1 cá nhân tại 1 tổ chức tham gia
BHTG tối đa là 75.000.000 đồng”. Cử tri cho rằng mức chi trả tối đa nêu
trên là còn thấp đối với những khoản tiền gửi có giá trị lên đến vài tỷ
đồng, đề nghị xem xét nâng mức tiền BHTG cho phù hợp thực tế. Trả
lời kiến nghị này, NHNN cho biết, việc nâng hạn mức trả tiền BHTG từ
mức 50 triệu đồng lên 75 triệu đồng được xem xét trên cơ sở: năng lực
tài chính của tổ chức BHTG, thực trạng tình hình KTVM ở VN, quy mô
tiền gửi và thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Theo thông lệ quốc tế và
khuyến nghị của Hiệp hội BHTG Quốc tế, hạn mức chi trả BHTG nên có
giới hạn, đáng tin cậy và bảo hiểm cho phần lớn người gửi tiền (bảo vệ
toàn bộ 90-95% người gửi tiền) nhưng phải đảm bảo có tỷ lệ đáng kể giá
trị tiền gửi tuân theo kỷ luật thị trường (nghĩa là chịu rủi ro theo biến động
thị trường). Do đó, số tiền được BHTG không tính theo tỷ lệ giá trị tiền
gửi của người gửi tiền, mà tính theo số tiền cụ thể… Cơ quan trả lời cử
tri khẳng định, với hạn mức 75 triệu đồng, BHTG VN có khả năng bảo
vệ toàn bộ được 87,32% số lượng người gửi tiền. Hạn mức này khá gần
với khuyến nghị của Hiệp hội BHTG quốc tế. Về kiến nghị nâng hạn
mức trả tiền bảo hiểm lên trên 75 triệu đồng, văn bản trả lời nêu rõ, để
làm được điều đó thì cần phải nâng cao năng lực tài chính của BHTG
VN thông qua tăng phí BHTG. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tăng phí bảo
hiểm trong bối cảnh nền KT vẫn còn không ít khó khăn như hiện nay sẽ
tăng thêm gánh nặng cho TCTD, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt
động của toàn hệ thống TCTD và hoạt động SXKD của DN. Ngoài việc
được nhận BHTG chi trả theo hạn mức quy định, khi phá sản người gửi
tiền còn có thể được nhận lại tiền gửi theo thứ tự phân chia tài sản quy
định tại khoản 1 điều 101 Luật phá sản. NHNN cũng khẳng định, quan
điểm, mục tiêu xuyên suốt trong chỉ đạo của Đảng, Nhà nước là phải
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Do đó, trong bất
cứ trường hợp nào, phương án xử lý các TCTD đều phải đặt mục tiêu
Tài chính – Ngân hàng
3
ưu tiên hàng đầu là đảm bảo an toàn hệ thống, củng cố lòng tin của
người dân vào hệ thống NH, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
người gửi tiền, không gây đổ vỡ ngoài tầm kiểm soát.
Xử lý nợ xấu: Không quyết liệt thì
không kịp!
Tại Diễn đàn toàn cảnh NH, ông Nguyễn Tiến Đông - Chủ tịch VAMC
cho rằng cái mới ở Nghị quyết 42 là đã thay đổi tư duy về nợ xấu.
"Trước đây, suy nghĩ nợ xấu là của ngành NH. Tuy nhiên, với NQ 42 thì
tư duy của nhà lập pháp đã thay đổi, nợ xấu không là của riêng NH mà
là của nền KT". Từ thay đổi tư duy đó đã tạo hỗ trợ cho các TCTD, để
các bộ ngành, các cấp chính quyền cùng vào cuộc xử lý, để tái tạo
nguồn lực chung cho nền KT. Trong khi đó, chuyên gia Cấn Văn Lực
cho rằng 1 trong những thành quả quan trọng trong quá trình xử lý nợ
xấu là không để xảy ra đổ vỡ có hệ thống, đây là bài toán rất quan trọng
trong bối cảnh ngân sách hạn hẹp, nguồn lực hạn chế, phải xử lý nhiều
vấn đề cùng lúc như tái cơ cấu nợ xấu DNNN, tái cơ cấu đầu tư công.
Đồng thời, hệ thống đã lành mạnh hơn, nợ xấu cũng đã giảm xuống
khoảng 6% và đến 2020 có thể đẩy xuống <3,5%. Ngoài ra, 1 điểm lớn
mà các NH có được sau 6 năm xử lý nợ xấu là ý thức xử lý nợ của bên
đi vay tăng lên rõ rệt. Cùng quan điểm, theo ông Nguyễn Tiến Đông,
thông thường cứ 10 khách thì chỉ được 1-2 khách thiện chí làm việc với
NH hay VAMC. Tuy nhiên, sau khi có Nghị quyết 42, cho phép được
làm một số việc như tiến hành thu giữ tài sản khi vi phạm cam kết. Điều
này đã được địa phương, các ngành ủng hộ, tạo ý thức tốt với khách
hàng. Dù vậy, không thể phủ nhận xử lý nợ xấu còn không ít vướng
mắc. Ông Lực cho rằng điều trước hết trong xử lý nợ xấu là phải quyết
liệt và đồng bộ: "Nếu như các bên liên quan đặc biệt NHTM và các
khách hàng không quyết liệt và đồng bộ thì chắc là khó kịp tiến độ".
Ngoài ra, định giá tài sản để đấu giá vẫn còn chưa chuẩn, khiến có khi
đến 2,3 phiên đấu nhưng chưa xong. Bên cạnh đó là vấn đề tài sản cần
xử lý, các hướng dẫn của bộ ngành liên quan trong đó có tòa án. Hơn
nữa, phải sớm tăng vốn cho các NHTM vì tín dụng tăng tưởng liên tục
17-18% nhưng vốn chủ sở hữu chỉ 8%. TTTD thúc đẩy tăng trưởng
KT song chỉ là 1 phần đóng góp, bên cạnh còn nhiều nguồn thúc đẩy
khác. Do vậy, không nên tạo ra sức ép cho hệ thống NHTM là phải tăng
trưởng bao nhiêu. "IFC cũng đã có cảnh báo nên xem xét cẩn trọng chỉ
tiêu TTTD và tôi cũng cho rằng điều này là quan trọng với VN hiện nay".
4
NHNN bơm ròng 14.000 tỷ đồng
qua kênh tín phiếu
Tuần 30/4-04/5), NHNN đã phát hành 1.700 tỷ đồng tín phiếu mới loại
28 ngày trong khi lượng vốn đáo hạn qua kênh này đạt 15.700 tỷ đồng.
Như vậy, tuần vqua NHNN đã bơm ròng 14.000 tỷ đồng qua kênh tín
phiếu. Diễn biến bơm ròng tuần thứ 3 liên tiếp cho thấy thanh khoản
toàn hệ thống đang có phần bớt dư thừa hơn trước. LS LNH trung bình
tuần qua có xu hướng tăng đối với các loại kỳ hạn qua đêm, 1 tuần và 2
tuần với biên độ tăng ở mức 0,063-0,129%. Cụ thể, LS trung bình kỳ
hạn qua đêm 0,08% đạt mức 1.7%/năm, LS trung bình kỳ hạn 1 tuần
0,063% đạt mức 1,8%/năm, LS trung bình kỳ hạn 2 tuần 0,129%
đạt mức 2,017%/năm. Ngược lại, tỷ giá giao dịch trung bình tại các
NHTM có xu hướng giảm (9,95 đồng) sv tuần trước đó, về mức 22.757
VND/USD. Trong khi đó, tỷ giá trung tâm có bước tăng (26.083 đồng)
đạt mức 22.552,33 VND/USD. Trên thị trường thế giới, USD có diễn
biến tăng mạnh (1,603%) sv các đồng tiền chủ chốt khác (EUR, JPY,
GBP, CAD, SEK, CHF) đạt mức 92,53 điểm.
5
Nợ công, bội chi và rủi ro vẫn gia
tăng
Thủ tướng vừa ký quyết định phê duyệt kế hoạch vay, trả nợ của Chính
phủ năm 2018. Theo đó, năm nay Chính phủ sẽ vay 384.000 tỷ đồng,
12,3% so với 2017 (342.000 tỷ đồng), trong đó vay trong nước là
276.000 tỷ, còn lại là vay nước ngoài. Tốc độ tăng này có khả năng sẽ
cao hơn tốc độ tăng GDP danh nghĩa của VN trong năm nay, nên có
thể suy ra rằng tỷ lệ nợ công/GDP 2018 sẽ tăng trở lại, nhất là trong bối
cảnh con số trả nợ theo kế hoạch năm nay lại nhỏ hơn năm trước (nếu
là 257.000 tỷ đồng trong 2018, so với 260.000 tỷ đồng 2017). Về nguồn vay,
kế hoạch sẽ là vay 276.000 tỷ đồng từ các nguồn trong nước, #72%
tổng vay nợ năm nay (2017 là 71%). Tuy nhiên, so với những năm trước
đây thì tỷ lệ vay trong nước trong 2 năm qua đang ở mức thấp nhất.
Đây là một vấn đề cần tiếp tục được cải thiện để giảm thiểu rủi ro đối
mặt bởi nợ công khi phải phụ thuộc nhiều vào vay nợ nước ngoài, đặc
biệt khi LS vay nợ thương mại trên TG đang có chiều hướng gia tăng.
Về sử dụng vốn vay, năm nay dự định dùng 195.000 tỷ đồng để bù đắp
bội chi, 13,4% so với 2017 (172.000 tỷ đồng). Nếu các điều kiện khác
không thay đổi, khi phải tăng bù đắp bội chi thì có nghĩa là bội chi tiếp
tục phình ra. Vì mức tăng bù đắp bội chi 13,4% này chắc chắn sẽ lớn
hơn tốc độ tăng GDP danh nghĩa năm nay nên đây là một chỉ báo nữa
cho thấy tỷ lệ bội chi ngân sách/GDP và cùng với đó là tỷ lệ nợ
công/GDP năm nay sẽ tăng trở lại sau khi sụt giảm mạnh trong 2017.
Đáng chú ý là khoản vay về để cho vay lại năm nay lại tăng mạnh lên
42.000 tỷ đồng so với 26.000 tỷ đồng của năm 2017. Vì vay để cho vay
lại về bản chất cũng không khác gì Nhà nước bảo lãnh các khoản vay
cho DNNN và địa phương nên đây cũng là một lĩnh vực rủi ro, cần hạn
chế. Do đó, việc gia tăng vay để cho vay lại trong năm nay là một diễn
biến đi ngược chiến lược kiểm soát an toàn nợ công của VN. Bất chấp
năm qua việc cổ phần hóa và thoái vốn tại các DNNN đã đem về cho
ngân sách một khoản thu lớn lên đến nhiều tỷ USD nhưng kế hoạch vay
và trả nợ của Chính phủ cho thấy tình hình ngân sách tiếp tục thêm
căng thẳng, bội chi ngân sách/GDP có xu hướng gia tăng trở lại trong
năm nay trở đi.
Kinh tế Việt Nam
6
Do đó, trong bối cảnh nợ công đã tiến sát ngưỡng trần cho phép ở VN,
nên cũng là dễ hiểu khi Chính phủ muốn tính toán lại GDP, cụ thể là
tính phần KT ngầm vào GDP của nền KT chính thức nhằm giúp nới trần
nợ công hoặc làm tăng dư địa để vay mượn nhiều hơn. Tuy nhiên, đây
chỉ là giải pháp tinh thần chứ không có ý nghĩa thực tế.
Người tiêu dùng kết nối
Theo Nielsen, VN là 1/10 quốc gia có người tiêu dùng (NTD) lạc quan
nhất TG. Tầng lớp trung lưu tại VN được dự đoán sẽ đạt 30 triệu người
trong 2020, 2 lần so với 2014. Boston Consulting Group của Mỹ ước
tính sự giàu có lên tiếp tục tăng mạnh tại VN. Nhóm này ước tính đến
năm 2020, 1/3 dân số của VN sẽ ở vào tầng lớp trung lưu hoặc cao
hơn, có nghĩa là mức thu nhập BQ/người trong nhóm này tối thiểu là
714 USD/tháng. Khi NTD giàu lên và sống tại các KV đô thị, họ sẽ
mong muốn được trải nghiệm những thương hiệu mới, các chuyên gia
gọi hành vi tâm lý tiêu dùng này là tâm lý “nâng tầm cuộc sống”. Theo
nghiên cứu của Nielsen, 3/4 người Việt có khả năng chi tiêu thoải mái
và sẵn sàng mua sắm khi họ cảm thấy thích. Dựa trên kết quả KD của
một số ngành hàng tại 6 thành phố lớn (TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Nha
Trang, Cần Thơ, Hải Phòng), Nielsen đã phát hiện ra phân khúc cao cấp
của ngành hàng thực phẩm đóng góp 20% doanh số với tốc độ 11%.
Trong khi đó, các sản phẩm cao cấp của ngành hàng chăm sóc cơ thể
chiếm 23% trong tổng ngành hàng với mức 22%. Ấn tượng hơn cả là
các sản phẩm nước uống cao cấp dù chỉ đóng góp 3% vào tổng doanh
số nhưng mức tăng trưởng lại đạt đến 103%. Người Việt đang tìm
những trải nghiệm đẳng cấp hơn khi mà trước kia họ chưa từng có cơ
hội để thỏa mãn. Theo báo cáo Chỉ số niềm tin NTD do Nielsen thực
hiện, sức khỏe của bản thân cùng với sự an khang và hạnh phúc của
cha mẹ nằm trong top 5 mối quan tâm lớn nhất của người Việt. Bên
cạnh đó, NTD cũng thận trọng hơn trong việc tìm kiếm và sử dụng các
loại thực phẩm tốt cho sức khỏe. Họ ưu tiên sử dụng các sản phẩm
không chứa chất tạo màu, tạo mùi, chất bảo quản nhân tạo cũng như
các sản phẩm không đường, ít chất béo và ưu tiên sử dụng các sản
phẩm được làm từ chất hữu cơ và không chứa chất biến đổi gien. Theo
Nielsen, một khía cạnh quan trọng khác của xu hướng hành vi tiêu dùng
người Việt trong tương lai là tính kết nối, hay còn gọi là NTD kết nối. Họ
được định nghĩa là người thường xuyên truy cập internet, đồng thời là
người có mức chi tiêu cao. Đây sẽ là những người quyết định nên sự
7
thành bại của DN trong tương lai khi họ được dự báo là nguồn tăng
trưởng doanh thu chủ yếu trong thời gian tới. Tại VN, số lượng NTD kết
nối trong 2015 là 23 triệu người và được dự đoán sẽ tăng gần như gấp
đôi, đạt 40 triệu người vào năm 2025. Ngoài ra, nghiên cứu Nielsen
cũng chỉ ra rằng, chi tiêu hằng năm của NTD kết nối tại VN sẽ tăng từ
50 tỷ USD trong 2015 lên đến 99 tỷ USD trong 2025. Đến 2025, ước
tính họ sẽ chiếm khoảng ½ tổng tiêu dùng hằng năm. Họ là những
người trẻ, có thu nhập cao và sẵn sàng chi tiêu… Nền KT VN sẽ tăng
trưởng mạnh hơn nữa trong năm 2018 và niềm tin NTD vẫn sẽ tiếp tục
đạt mức cao. Tốc độ tăng trưởng của thị trường FMCG phần lớn sẽ phụ
thuộc vào việc các DN hoạt động trong lĩnh vực này nắm bắt sự thay
đổi của thị trường như thế nào và sẽ có những định hướng ra sao để
bắt kịp với nhịp độ thay đổi liên tục của thị trường.
Giá trị xuất siêu lâm nghiệp đạt
trên 2 tỷ USD
Trong 4th/2018, ngành lâm nghiệp đạt giá trị xuất siêu >2 tỷ USD, #21%
trong tổng kim ngạch XK nông lâm thủy sản toàn ngành. Cụ thể, về XK
ước giá trị XK lâm sản tháng 4/2018 đạt 0,668 tỷ USD, lũy kế 4th ước
đạt hơn 2,7 tỷ USD, 7,9% so với cùng kỳ 2017. Hoa Kỳ, Trung Quốc,
Nhật Bản và Hàn Quốc là 4 thị trường NK gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất
của VN trong 3th/2018, #77,8% tổng giá trị XK gỗ và sản phẩm gỗ. Các
thị trường có giá trị XK gỗ tăng mạnh là Hàn Quốc (44,8%), Pháp
(22,8%) và Hoa Kỳ (10,8%). Bên cạnh đó, ước giá trị NK tháng 4/2018
đạt 178 triệu USD, đưa tổng giá trị gỗ và sản phẩm gỗ NK 4th/2018 đạt
698 triệu USD, 2,5% so với cùng kỳ 2017. Trong 3th/2018, giá trị NK
gỗ và các sản phẩm gỗ so với cùng kỳ 2017 của hầu hết các thị trường
NK chính đều tăng ngoại trừ thị trường Campuchia, Malaysia và thị
trường New Zealand. 3 thị trường có giá trị NK gỗ và sản phẩm gỗ tăng
mạnh nhất là Đức, Pháp và Brasil. Theo đánh giá của Tổng cục Lâm
nghiệp, giá trị XK lâm sản 4th/2018 đạt hơn 2,7 tỷ USD là một trong
những lĩnh vực có giá trị cao nhất trong giá trị XK của toàn ngành nông
nghiệp. Giá trị NK gỗ và lâm sản đạt 698 triệu USD, 2,5% là thấp nhất
trong tổng giá trị NK toàn ngành nông nghiệp, 11,9%. Giá xuất siêu
ngành lâm nghiệp chiếm gần 78% với >2 tỷ USD trong tổng giá trị xuất
siêu của ngành Nông nghiệp (2,57 tỷ USD).
8
Thị trường mới nổi sẽ gặp nguy
nếu lợi suất trái phiếu Mỹ lên
3,5%
Theo CNBC, ông Frederic Neumann, đồng GĐ nghiên cứu KT châu Á
của HSBC, cho rằng thời gian qua, nhiều nền KT mới nổi ở châu Á đã
thu hút được 1 lượng lớn vốn ngoại vào thị trường trái phiếu và CK. Nếu
lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng mạnh thì dòng vốn ngoại chảy vào
các thị trường mới nổi sẽ bị đảo ngược. Gần đây, lợi suất trái phiếu Mỹ
giằng co quanh ngưỡng 3%. Việc lợi suất trái phiếu Mỹ chưa vượt xa
hơn khỏi mốc này là 1 tín hiệu cho thấy NĐT không cho rằng lạm phát ở
Mỹ đang tăng mạnh. "Về cơ bản, thị trường vẫn chưa tin rằng chúng ta
đang bước vào một thời kỳ lạm phát tăng tốc kéo dài ở Mỹ và điều này
có ý nghĩa lớn đối với các thị trường mới nổi, bởi các thị trường này đã
trở nên phụ thuộc nhiều vào dòng vốn từ bên ngoài"… Chừng nào lợi
suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm còn ổn định ở ngưỡng hiện
tại, thì dòng vốn chảy vào các thị trường mới nổi sẽ giữ ổn định. Đánh
giá này được đưa ra trong bối cảnh 1 số nền KT ở châu Á, gồm Ấn Độ
và Indonesia, chứng kiến giới đầu tư rút vốn mạnh do lợi suất trái phiếu
Mỹ tăng. Trước đây, cả Ấn Độ và Indonesia đều từng là "nạn nhân" của
sự thoái vốn khi FED bắt đầu chương trình bán tài sản vào 2013.
Những đợt rút vốn như vậy có thể ảnh hưởng không nhỏ đến triển vọng
tăng trưởng của các nền KT mới nổi. Mối lo này đã khiến đồng tiền của
Ấn Độ và Indonesia mất giá mạnh sv USD từ đầu năm đến nay.
Campuchia: Trái phiếu DN đầu
tiên có thể được phát hành trong
năm nay
Theo Phnom Penh Post, Công ty Tài chính Vi mô Hattha Kaksekar
Limited (HKL) và IFC đã trở thành những tổ chức đầu tiên thông báo đề
xuất phát hành TPDN tại Campuchia, khởi động cho xu hướng sử dụng
1 công cụ mới để DN huy động vốn. Kể từ khi Ủy ban Giao dịch CK
Campuchia thống nhất các quy định về TPDN hồi tháng 8, họ đã nhận
thấy được sự quan tâm đáng kể của DN muốn được phê duyệt để tận
dụng công cụ huy động vốn này. Trong thông báo gần đây, IFC đã
công bố 1 đề xuất nhằm đầu tư lên đến 20 triệu USD vào trái phiếu
bằng Riel do HKL phát hành. IFC sẽ tận dụng kinh nghiệm toàn cầu
trong các đợt phát hành trái phiếu trong nước để giúp HKL phát hành
TPDN đầu tiên tại Campuchia. “Việc IFC đầu tư vào trái phiếu bằng Riel
Kinh tế Quốc tế
9
đầu tiên tại Campuchia là nhằm giúp thiết lập 1 thị trường TPDN trong
nước tại Vương quốc đồng thời hỗ trợ công ty huy động kinh phí để phát
triển chương trình cho vay dành cho các khách hàng vi mô…”. Chủ tịch
kiêm CEO của HKL chia sẻ: “Chúng tôi hy vọng có thể phát hành trái
phiếu trong năm nay”.
10
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH http://cafef.vn/xu-ly-no-xau-khong-quyet-liet-thi-khong-kip-20180509100933788.chn
https://vietstock.vn/2018/05/nhnn-bom-rong-14000-ty-dong-qua-kenh-tin-phieu-757-604086.htm
http://cafef.vn/se-tang-han-muc-tra-tien-bao-hiem-tien-gui-khi-dieu-kien-cho-phep-
20180509104244367.chn
Tin KT vĩ mô https://vietstock.vn/2018/05/no-cong-boi-chi-va-rui-ro-van-gia-tang-761-604192.htm
http://nhipcaudautu.vn/thuong-truong/nguoi-tieu-dung-ket-noi-3323886/
http://nhipcaudautu.vn/thuong-truong/gia-tri-xuat-sieu-lam-nghiep-dat-tren-2-ty-usd-3323869/
Tin KT Quốc tế https://vietnambiz.vn/thi-truong-moi-noi-se-gap-nguy-neu-loi-suat-trai-phieu-my-len-35-53393.html
https://vietstock.vn/2018/05/campuchia-trai-phieu-doanh-nghiep-dau-tien-co-the-duoc-phat-hanh-
trong-nam-nay-1328-604177.htm
11
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG LS LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bất động sản BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng bán lẻ NHBL
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng Nhà nước NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP
DN Nhà nước DNNN Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMNN
DN tư nhân DNTN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
DN vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách Nhà nước NSNN
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Ngân sách trung ương NSTW
Dự án DA Nhập khẩu NK
Dự trữ bắt buộc DTBB Sản xuất KD SXKD
Đăng ký KD ĐKKD Tài sản bảo đảm TSBĐ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổ chức tín dụng TCTD
Giấy chứng nhận GCN Tổng tài sản TTS
Giá trị gia tăng GTGT Tổng SP quốc nội GDP
Hợp đồng tín dụng HĐTD Trung Quốc TQ
Khách hàng DN KHDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Khách hàng cá nhân KHCN Trái phiếu DN TPDN
KT vĩ mô KTVM Thị trường chứng khoán TTCK
Kho bạc Nhà nước KBNN VN VN
Khu vực KV Vốn điều lệ VĐL
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Vốn tự có VTC
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Xã hội XH
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Xuất khẩu XK
Ngân hàng TG World Bank Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Hiệp hội Thép VN VSA
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
Liên minh châu Âu EU Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM HOSE
Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Tổng cục thống kê GSO