Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------
Mai Khánh Hưng
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA SỐ LIỆU THÁM KHÔNG GIẢ LẬP TRÊN
QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA VÀ HOÀNG SA ĐẾN DỰ BÁO BÃO TRÊN BIỂN
ĐÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà Nội – Năm 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------
Mai Khánh Hưng
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA SỐ LIỆU THÁM KHÔNG GIẢ LẬP TRÊN
QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA VÀ HOÀNG SA ĐẾN DỰ BÁO BÃO TRÊN BIỂN
ĐÔNG
Chuyên ngành : Khí tượng và khí hậu học
Mã số: 60440222
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS LÊ ĐỨC
Hà Nội – Năm 2014
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS.Lê Đức là người đã tận
tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô trong khoa Khí tượng – Thủy văn – Hải dương
học đã cung cấp cho tôi những kiến thức chuyên môn quý giá.
Tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ phòng Dự báo số và viễn thám, Trung tâm
Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương đã tạo giúp đỡ và điều kiện thuận lợi về cơ
sở vật chất, máy móc thiết bị trong suốt thời gian tôi thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn Phòng sau đại học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
đã tạo điều kiện cho tôi có thời gian hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, người thân và bạn
bè, những người đã luôn ở bên cạnh cổ vũ, động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất
cho tôi trong suốt thời gian học tập.
Mai Khánh Hưng
MỤC LỤC
DANH MỤC HÌNH VẼ ............................................................................................ 1
DANH MỤC BẢNG BIỂU ....................................................................................... 3
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................... 4
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 5
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP OSSE ........................................ 7
1.1 Tổng quan các nghiên cứu về OSSE trên thế giới và tại Việt Nam .................. 7
1.2 Phương pháp OSSE ......................................................................................... 11
Chương 2: HỆ THỐNG ĐỒNG HÓA SỐ LIỆU ................................................. 16
2.1 Phương pháp biến phân ba chiều 3DVAR ...................................................... 16
2.2 Mô hình dự báo thời tiết WRF và hệ thống đồng hóa WRF – 3DVAR .......... 18
Chương 3: SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP .......................................................... 23
3.1 Tổng quan về cơn bão Sơn Tinh (2012) .......................................................... 23
3.2 Số liệu .............................................................................................................. 27
3.3 Thiết kế thử nghiệm mô phỏng ....................................................................... 28
Chương 4: KẾT QUẢ THỬ NGHIỆM ................................................................. 33
4.1 Mô phỏng khí quyển ........................................................................................ 33
4.2 Dự báo quỹ đạo bão Sơn Tinh ......................................................................... 34
4.3 Dự báo cường độ bão Sơn Tinh ...................................................................... 42
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 47
1
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1 Sơ đồ hoạt động của một hệ thống OSSE. ................................................. 13
Hình 1.2 So sánh hệ hoạt động của hệ thống đồng hóa số liệu và OSSE ................. 14
Hình 1.3 Minh họa phương pháp thử nghiệm giả lập hệ thống quan trắc ................ 15
Hình 2.1 Hệ thống đồng WRF – 3DVAR chu kỳ 6h. ............................................... 19
Hình 2.2 Hiệu của trường nhiệt độ phân tích và nhiệt độ nền tại mực 850mb trường
hợp có đồng hóa 1 số liệu nhiệt độ tại tâm miền tính ............................................... 22
Hình 2.3 Hiệu của trường gió vĩ hướng phân tích và gió vĩ hướng nền tại mực
850mb trường hợp có đồng hóa 1 số liệu gió vĩ hướng tại tâm miền tính ................ 22
Hình 3.1 Quỹ đạo cơn bão Sơn Tinh ........................................................................ 23
Hình 3.2 Cường độ cơn bão Sơn Tinh – áp suất thấp nhất tại tâm bão .................... 24
Hình 3.3 Trường gió và độ cao địa thế vị tại mực 500mb tại thời điểm 7giờ các
ngày a) 23/10; b) 24/10; c) 25/10; d) 26/10 .............................................................. 25
Hình 3.4 Trường gió và độ cao địa thế vị tại mực a) 850 mb; b) 750mb; c) 500mb 26
Hình 3.5 Trường gió và độ cao địa thế vị tại mực 500mb tại ................................... 27
Hình 3.6 Miền tính của mô hình sử dụng trong luận văn ......................................... 28
Hình 3.7 Vị trí các trạm quan trắc, thám không và pilot được mô phỏng ............... 29
Hình 3.8 Minh họa quá trình đồng hóa số liệu được thực hiện trong thử nghiệm .... 32
Hình 4.1 Quỹ đạo giả lập cơn bão Sơn Tinh ............................................................. 33
Hình 4.2 Cường độ giả lập của cơn bão Sơn Tinh .................................................... 34
Hình 4.3 Dự báo quỹ đạo cơn bão Sơn Tinh tại thời điểm 19 giờ 25/10/2012. ........ 35
Hình 4.4 Sai số khoảng cách dự báo tâm bão với quỹ đạo mô phỏng Sơn Tinh thời
điểm 19 giờ ngày 25/10/2012.................................................................................... 36
Hình 4.5 Dự báo quỹ đạo cơn bão Sơn Tinh tại thời điểm 01 giờ 26/10/2012. ........ 37
Hình 4.6 Sai số khoảng cách dự báo tâm bão với quỹ đạo mô phỏng Sơn Tinh thời
điểm 01 giờ ngày 26/10/2012.................................................................................... 38
Hình 4.7 Dự báo quỹ đạo cơn bão Sơn Tinh tại thời điểm 07 giờ 26/10/2012 ......... 39
Hình 4.8 Sai số khoảng cách dự báo tâm bão với quỹ đạo mô phỏng Sơn Tinh thời
điểm 07 giờ ngày 26/10/2012.................................................................................... 40
Hình 4.9 Dự báo quỹ đạo cơn bão Sơn Tinh tại thời điểm 13h 26/10/2012. ............ 41
Hình 4.10 Sai số khoảng cách dự báo tâm bão với quỹ đạo mô phỏng Sơn Tinh thời
điểm 13h ngày 26/10/2012. ....................................................................................... 42
Hình 4.11 Dự báo áp suất cực tiểu tại tâm bão thời điểm 19 giờ 25/10/2012 so sánh
với áp suất cực tiểu mô phỏng .................................................................................. 43
2
Hình 4.12 Dự báo áp suất cực tiểu tại tâm bão thời điểm 01 giờ 26/10/2012 so sánh
với áp suất cực tiểu mô phỏng .................................................................................. 44
Hình 4.13 Dự báo áp suất cực tiểu tại tâm bão thời điểm 07 giờ 26/10/2012 so sánh
với áp suất cực tiểu mô phỏng .................................................................................. 45
Hình 4.14 Dự báo áp suất cực tiểu tại tâm bão thời điểm 13 giờ 26/10/2012 so sánh
với áp suất cực tiểu mô phỏng .................................................................................. 45
3
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Độ lệch chuẩn thám sát với trạm SYNOP ................................................ 20
Bảng 2.2. Độ lệch chuẩn thám sát với trạm cao không TEMP theo mực áp suất ..... 20
Bảng 3.1 Vị trí đặt trạm thám không mới tại Hoàng Sa và Trường Sa .................... 30
Bảng 3.2 Tóm tắt thông tin của quá trình điều khiển và các thử nghiệm ................. 31
4
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
3DVAR Three-dimensional variational Đồng hóa biến phân ba chiều
CR Control run Điều khiển
DAO Data assimilation Office Bộ phận đồng hóa số liệu
DA Data assimilation Đồng hóa số liệu
EXP Experiment Thử nghiệm
FNL Final Operational Global
Analysis data
Số liệu phân tích toàn cầu cuối
cùng
GARP Global Atmospheric Research
Program
Chương trình nghiên cứu khí
quyển toàn cầu
GFS Global Forecasct System Hệ thống dự báo toàn cầu
LSM Land – Surface model Mô hình bề mặt đất
NASA National Aeronautics and
Space Administration Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ
NCEP National Centers for
Environmental Prediction
Trung tâm dự báo môi trường quốc
gia Mỹ
NR Nature Run Giả lập khí quyển
OSSE Observation system simulation
experiments
Thử nghiệm giả lập hệ thống quan
trắc
PBL Planetary boundary layer Lớp biên hành tinh
WRF Weather Research and
Forecast model
Mô hình dự báo và nghiên cứu thời
tiết
WRF - VAR Weather Research and
Forecast – Variational
Mô hình dự báo và nghiên cứu thời
tiết kết hợp phương pháp biến phân
5
MỞ ĐẦU
Chất lượng dự báo của các mô hình số trị đã được nâng cao nhanh chóng
trong khoảng hai thập kỷ trở lại đây, tuy nhiên độ chính xác trong dự báo các hiện
tượng thời tiết có tác động lớn như bão hay xoáy thuận nhiệt đới vẫn còn là thách
thức. Các cơn bão thường diễn ra trên những vùng biển, đại dương nơi mà mật độ
các trạm quan trắc rất thưa thớt. Việc thiếu thông tin quan trắc đã dẫn tới trường số
liệu ban đầu của các mô hình số trị trở nên không chính xác, gây khó khăn trong
việc dự báo bão và xoáy thuận nhiệt đới. Việt Nam là quốc gia có đường bờ biển
dài trên 3000 km, nằm trong khu vực có tần suất hoạt động của bão lớn nhất trên thế
giới, thường xuyên phải đón nhận các cơn bão với sức tàn phá lớn. Vì vậy, dự báo
bão là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của dự báo số trị.
Tầm quan trọng của số liệu thám sát trong và xung quanh hoàn lưu bão đã
được biết đến từ nhiều năm. Tại các quốc gia tiên tiến, khi có bão, các quan trắc
dropsonde hoặc radar sử dụng máy bay thường được tiến hành để cung cấp thêm
thông tin trạng thái khí quyển trong bão. Do còn nhiều hạn chế về công nghệ, nhân
lực cũng như tài chính tại Việt Nam, các loại thám sát đặc biệt này vẫn chưa được
sử dụng. Tuy nhiên, Việt Nam có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trên biển
Đông, hoàn toàn có thể cung cấp các dự báo bổ sung này dưới dạng số liệu thám
không và được kỳ vọng có thể cải thiện được chất lượng dự báo bão. Tuy nhiên,
việc kiểm chứng tác động của số liệu này tới dự báo bão là không đơn giản khi các
trạm quan trắc chưa được xây dựng và số liệu thám không tại vực nói trên chưa tồn
tại. Trong khi đó, việc xây mới hay bảo trì, bảo dưỡng hệ thống quan trắc nói chung
hay từng trạm thám không riêng lẻ đòi hỏi nhiều chi phí, bên cạnh đó cần có những
điều tra tỉ mỉ, tốn nhiều thời gian về vị trí đặt trạm, tần suất hoạt động v..v.. để đảm
bảo số liệu thám sát mới có thể phát huy hiệu quả cao nhất. Do vậy, để kiểm chứng
được các tác động của loại số liệu thám không tới dự báo bão trong khi các trạm
quan trắc còn chưa được xây dựng, các nhà khoa học trên thế giới đã sử dụng
phương pháp Observing System Simulation Experiments (OSSE) tạm dịch là
phương pháp thử nghiệm giả lập hệ thống quan trắc. Phương pháp này cho phép
tiến hành các thử nghiệm giả lập những tác động của số liệu thám không tại Hoàng
Sa và Trường Sa tới quá trình dự báo. Từ đó ta có thể rút ra được những tác động
tiềm năng của số liệu thử nghiệm trong thực tế. Trên thế giới phương pháp này cũng
đã được áp dụng tại các trung tâm nghiên cứu khí tượng nổi tiếng như Trung tâm dự
báo khí tượng hạn vừa Châu Âu (ECMWF), Cục hàng không và vũ trụ Mỹ (
6
NASA), Trung tâm dự báo môi trường quốc gia Mỹ (NCEP), v…v… Các kết quả
của phương pháp OSSE là một kênh thông tin tham khảo đắc lực cho các nhà khí
tượng học trong công tác nghiên cứu cũng như nghiệp vụ hàng ngày. Trước tình
hình cần thiết ước tính được tác động tiềm năng của số liệu thám không bổ sung
trên khu vực biển Đông tới dự báo bão, luận văn này sẽ tiến hành “Nghiên cứu ảnh
hưởng của số liệu thám không giả lập trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa
đến dự báo bão trên biển Đông”.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc
với bốn chương bao gồm:
Chương 1: Tổng quan về phương pháp OSSE
Chương 2: Phương pháp đồng hóa
Chương 3: Số liệu và phương pháp
Chương 4: Kết quả thử nghiệm
7
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP OSSE
1.1 Tổng quan các nghiên cứu về OSSE trên thế giới và tại Việt Nam
Trong bài viết tổng quan về vai trò của phương pháp thử nghiệm giả lập hệ
thống quan trăc trong ngành khí tượng năm 1989, tác giả Alane.Lipton[7] đã cho
biết phương pháp này được ra đời vào những năm 1960 của thế kỷ trước. Động lực
đầu tiên thúc đẩy sự hình thành và phát triển của phương pháp này là kế hoạch xây
dựng một hệ thống quan trắc toàn cầu có độ chính xác cao của chương trình nghiên
cứu khí quyển toàn cầu (Global Atmospheric Research Program – GARP). Tuy
nhiên, xây mới một hệ thống quan trắc hay lắp đặt mới các thiết bị quan trắc là rất
tốn kém đặc biệt là các thiết bị quan trắc hiện đại như vệ tinh, radar v..v… Hơn nữa,
do kinh phí đầu tư là có giới hạn, nên việc lắp đặt thêm thiết bị quan trắc này đồng
nghĩa với việc giảm bớt thành phần khác quan trắc. Do đó, quá trình thiết kế hệ
thống quan trắc mới cần phải điều tra kỹ lưỡng nhằm ước tính được tác động của
quan trắc mới tới dự báo số. Tuy nhiên, đây là công việc khó thực hiện bởi hệ thống
quan trắc mới chưa được xây dựng, số liệu quan trắc mới chưa tồn tại. Để giải quyết
vấn đề trên, các nhà khoa học trên thế giới đã đề xuất một phương pháp cho phép
mô phỏng lại tác động tiềm năng của số liệu quan trắc mới hay hệ thống quan trắc
mới tới các dự báo số được biết với tên gọi là thử nghiệm giả lập hệ thống quan trắc
được gọi tắt là phương pháp OSSE.
Theo những nghiên cứu của Atlas và nnk vào năm 1985[9], Arnold và Dey
trong năm 1986[8] thì phương pháp OSSE được xếp nằm trong lớp bài toán kiểm
nghiệm, giả lập (mô phỏng) tuy nhiên khác biệt với thử nghiệm giả lập (mô phỏng)
thông thường, phương pháp OSSE cho phép giả lập những thứ chưa tồn tại cụ thể là
các quan trắc mới. Từ đó, dựa trên ý tưởng hệ thống đồng hóa số liệu, phương pháp
OSSE có thể ước tính được tác động tiềm năng của quan trắc mới tới hệ thống dự
báo số trị (NWP) làm cơ sở cho chương trình thử nghiệm thời tiết toàn cầu. Trong
nghiên cứu của Atlas và Emmitt vào năm 1991[11], của Rohaly và Krishnamutri
vào năm 1993[21] và của Atlas trong năm 1989[10] phương pháp OSSE còn được
sử dụng để cho phép ước lượng, điều chỉnh thêm hoặc giảm các thành phần cấu
thành nên hệ thống quan trắc.
Trong giai đoạn đầu phát triển từ năm 1960 đến 1980, phương pháp OSSE
gắn liền với các nghiên cứu trong chương trình nghiên cứu khí quyển toàn cầu. Với
mục tiêu là đưa ra được một mạng lưới quan trắc toàn cầu có độ chính xác cao,
8
GARP là tập hợp các nghiên cứu sử dụng phương pháp OSSE để thực hiện các thử
nghiệm để giúp các nhà khoa học có thể đưa ra được mạng lưới quan trắc tối ưu.
Tiêu biểu là các nghiên cứu của Charney và nnk thực hiện trong năm 1969[14],
nghiên cứu của Halem và Jastrow vào năm 1970[17], nghiên cứu của Williamson và
Kasahara trong năm 1971[23], Kasahara trong năm 1972[18], Gordon và nnk vào
năm 1972[16] và các nghiên cứu khác chuẩn bị cho chương trình thử nghiệm toàn
thời tiết toàn cầu. Các nghiên cứu này đã đạt được những kết qủa tích cực trong việc
thiết kế được mạng lưới các trạm quan trắc để có thể cung cấp được trường phân
tích đáp ứng được yêu cầu về số liệu của GARP, chỉ ra được mối liên hệ giữa các
biến quan trọng của khí quyển là nhiệt độ và gió. Sử dụng thám sát nhiệt độ từ vệ
tinh trong thời gian dài và liên tục đưa vào mô hình toàn cầu có thể tạo ra số liệu
quan trắc trường gió quy mô lớn, vì vậy các quan trắc gió bổ sung là không cần
thiết. Một trong những hướng nghiên cứu cũng tập trung nhiều sự quan tâm của các
nhà khoa là đưa ra một hệ thống đồng hóa số liệu phù hợp với những quan trắc mới.
Phương pháp OSSE sẽ giúp các nhà khoa học có thể thử nghiệm các phương pháp
đồng hóa mới trước khi số liệu quan mới được đưa vào sử dụng. Điều này sẽ giúp
tiết kiệm thời gian đưa số liệu quan trắc mới vào nghiệp vụ.
Trong những năm từ 1980 đến 2000, những nghiên cứu sử dụng phương
pháp OSSE dần chuyển hướng sang các nghiên cứu liên quan tới tác động của số
liệu gió từ vệ tinh. Đặc biệt là các tập hợp các nghiên cứu được thực hiện bởi các
nhà khoa học tại trung tâm đồng hóa số liệu NASA DAO nhằm xác định tác động
tiềm năng của profile gió vệ tinh LiDAR tới hệ thống đồng hóa và dự báo số lúc bấy
giờ và từ đó có thể đưa ra những điều chỉnh trong thiết kế thiết bị đo gió. Các
nghiên cứu tiêu biểu trong giai đoạn này là của Atlas và Kalnay thực hiện trong năm
1985[9], Atlas và nnk trong những năm 1990, 1991 và 1997[10][11][12], của Baker
và nnk vào năm 1995[13]. Trong những nghiên cứu này, các tác giả sử dụng mô
hình tích phân hoàn lưu chung khí quyển có độ phân giải 5o, hệ thống đồng hóa và
dự báo GEOS3 có độ phận giải 1o. Kết quả có được từ các nghiên cứu này đã chỉ ra
sự cải thiện rõ rệt độ chính xác của dự báo khi số liệu gió vệ tinh lidar được đồng
hóa. Cụ thể, kỹ năng dự báo trung bình đã được kéo dài thêm từ 12 – 18 giờ tại
Nam Bán Cầu và từ 3 - 6 giờ tại Bắc Bán Cầu. Tăng độ chính xác trong dự báo quỹ
đạo bão, sai số vị trí tâm bão dự báo giảm xấp xỉ 10% tính trung bình toàn cầu. Đặc
biệt với các cơn bão có cường độ mạnh (áp suất cực tiểu tại tâm nhỏ hơn 945hPa),
thì sai số khoảng cách giảm trung bình hơn 200km. Không chỉ vậy, các nhà khoa
9
học còn chỉ ra được tác động của gió Lidar này đã cải thiện được dự báo vị trí đổ bộ
của các cơn bão, giảm sai số xấp xỉ 250km.
Trước năm 2000, phương pháp OSSE thường được sử dụng trong các nghiên
cứu có quy mô lớn, các mô hình được sử dụng để thực hiện các giả lập thử nghiệm
là mô hình toàn cầu. Từ những năm đầu thế kỷ 21 cho đến nay, sự phát triển nhảy
vọt của khoa học kỹ thuật và năng lực tính toán của máy tính đã tạo điều kiện cho
các hệ thống mô hình khu vực cũng ra đời và hoàn thiện. Các nghiên cứu sử dụng
phương pháp OSSE đã tập trung hơn vào nghiên cứu quy mô vừa, đặc biệt là tác
động tiềm năng của số liệu viễn thám tới các loại thời tiết có tác động lớn như bão,
xoáy thuận nhiệt đới. Trong nghiên cứu sử dụng OSSE ước tính tác động tiềm năng
của số liệu gió Lidar Doppler tới việc dự báo các hiện quy mô vừa như bão tuyết,
xoáy thuận nhiệt đới vào năm 2009 [25], Pu và Zhang đã chỉ ra những khó khăn khi
sử dụng mô hình toàn cầu mô phỏng hiện tượng quy mô vừa do không phản ánh
được cấu trúc và cường độ của các hiện tượng này, do vậy cần có những thử nghiệm
dựa trên những mô hình khu vực. Năm 2013, Nolan và nnk [22] đã xây dựng một
khí quyển giả lập quy mô khu vực phục vụ cho xem xét tác động của các loại quan
trắc tương lai tới dự báo bão. Quá trình mô phỏng này được thực hiện thông qua
việc sử dụng mô hình WRF với đầu vào là khí quyển giả lập của ECMWF. Kết quả
đã phản ánh được mối quan hệ giữa áp suất và gió, cấu trúc động học và nhiệt động
lực học của lớp biên, bán kính gió mạnh cũng được xác định chính xác hơn. Cùng
năm này, Hongli Wang, Xiang – Yu Huang và Yongshen Chen[24] đã sử dụng hai
mô hình khu vực là MM5, WRF và hệ thống đồng hóa biến phân ba chiều
(3DVAR) trong nghiên cứu thử nghiệm tác động tiềm năng của số liệu phổ hồng
ngoại (IRS) từ vệ tinh địa tĩnh Meteosat thế hệ thứ ba tới dự báo số trị quy mô khu
vực. Các kết quả thu được cho thấy số liệu IRS đã có những tác động tích cực tới
các phân tích và dự báo, giảm sai số trường nhiệt và trường ẩm trong các phân tích.
Kỹ năng dự báo cho các biến nói trên cũng được tăng thêm 12 giờ. Độ chính xác
của dự báo mưa hạn 18 giờ cũng được cải thiện. Sớm hơn, năm 2010, Pu và Zhang
[19] sử dụng mô hình WRF và hệ thống 3DVAR nghiên cứu về ảnh hưởng của số
liệu lidar Doppler tới dự báo số. Các kết quả cho thấy việc đồng hóa các quan trắc
gió vào các mô hình quy mô vừa sẽ có những tác động tiềm năng rõ rệt trong việc
cải thiển chất lượng dự báo quỹ đạo và cường độ bão. Sai số giữa quỹ đạo dự báo
khi có sử dụng số liệu gió nhỏ hơn quỹ đạo của dự báo khi không đồng hóa số liệu
này trong dự báo hạn 48 tiếng. Cường độ bão được phản ánh chính xác thay vì cho
dự báo cường độ quá lớn.
10
Các nghiên cứu sử dụng mô hình khu vực và phương pháp OSSE làm công
cụ để nghiên cứu những tác động của các loại quan trăc dự kiến khác nhau tới dự
báo các hiện tượng thời tiết có tác động lớn nói chung và bão nó riêng đã được
nhiều nhà khoa học trên thế giới thực hiện và đã thu được những kết quả tích cực
trong dự báo bão. Tại Việt Nam, OSSE vẫn là phương pháp mới. Theo hiểu biết của
tác giả, chưa có các nghiên cứu sử dụng OSSE, tuy nhiên một số nghiên cứu có sử
dụng mô hình khu vực và sơ đồ đồng hóa số liệu 3DVAR để nghiên cứu tác động
của các loại số liệu quan trắc tới các hiện tương thời tiết có ảnh hưởng lớn đã được
thực hiện. Nghiên cứu của Kiều Thị Xin và Lê Đức (2003) [2] đã sử dụng mô hình
HRM kết hợp với sơ đồ đồng hóa biến phân ba chiều 3DVAR để đồng hóa số liệu
tại các trạm cao không và Synop. Kết quả cho thấy lượng mưa dự báo đã gần với
thực tế hơn so với trường hợp không có đồng hóa. Trần Tân Tiến và nnk (2009)[5]
đã thực hiện đồng hóa số liệu áp suất mặt biển và gió đã cho thấy những cải tiến
trong khả quan trong việc dự quỹ đạo và cường độ bão đặc biệt trong hạn dự báo từ
6 đến 48h. Cùng năm 2009, Phan Văn Tân và Nguyễn Lê Dũng [4] đã sử dụng mô
hình WRF kết hợp với hệ thống đồng hóa số liệu biến phân ba chiều của WRF thử
nghiệm cho dự báo một số cơn bão có quỹ đạo phức tạp trên biển Đông. Đồng hóa
số liệu được thực hiện với số liệu quan trắc giả lập tạo bởi một module ban đầu
xoáy hóa. Trần Tân tiến và Nguyễn Thị Thanh (2011)[6] đã nghiên cứu đồng hóa số
liệu vệ tinh MODIS trong mô hình WRF để dự báo mưa lớn ở khu vực Trung Bộ.
Các nghiên cứu được tiến hành trong hai mùa mưa 2007 và 2008 và thu được kết
quả khả quan, đã cải thiện đáng kể về diện mưa và lượng mưa trong dự báo 30 giờ
đầu. Cũng trong năm này, Kiều Quốc Chánh [3] đã tổng quan về hệ thống đồng hóa
lọc Kalman tổ hợp và ứng dụng cho mô hình dự báo thời tiết WRF. Kết quả thu
được cho thấy bộ lọc Kalman tổ hợp có khả năng nắm bắt tốt số liệu quan trắc vệ
tinh. Gần đây nhất, Hoàng Đức Cường và nnk (2013) [1] với nghiên cứu “Ứng dụng
mô hình WRF dự bão bão đến hạn 72h” thử nghiệm với 18 cơn bão trên biển Đông
trong hai mùa bão 2007 và 2008. Tác giả sử dụng sơ đồ đồng hóa 3DVAR cập nhật
số liệu synop và cao không cho trường ban đầu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sai số
đã giảm, đặc biệt là trong 42 giờ đầu khi sử dụng sơ đồ đồng hóa 3DVAR. Cần lưu
ý rằng ngoài Kiều Thị Xin [2] và Chánh Kiều [3], các nghiên cứu còn lại không
chạy một hệ thống đồng hóa đúng nghĩa theo chu kỳ mà chỉ thực hiện đồng hóa duy
nhất tại một thời điểm.
Qua các nghiên cứu trên thế giới, có thể nhận thấy phương pháp OSSE là
một công cụ hữu ích cho các nhà khoa học trong việc nghiên cứu tác động của các
11
loại số liệu quan trắc tương lai tới hệ thống dự báo số hiện tại. Các nghiên cứu trong
nước đã cho thấy hoàn toàn có cơ sở áp dụng phương pháp OSSE cho khu vực Việt
Nam dựa trên các mô hình khu vực. Đây cũng là cơ sở để tác giả lựa chọn mô hình
WRF và hệ thống đồng hóa số liệu biến phân ba chiều (3DVAR) để thực hiện nội
dung luận văn là nghiên cứu tác động của số liệu thám không giả lập tại Hoàng Sa
và Trường Sa tới dự báo bão tại biển Đông.
1.2 Phương pháp OSSE
OSSE là một công cụ quan trọng giúp chúng ta có thể ước tính được các tác
động của các hệ thống quan trắc dự kiến trong tương lai, tăng giảm các thành phần
trong khí thiết kế hệ thống quan trắc mới, và cải tiến phương pháp đồng hóa số liệu
cho các loại số liệu mới. Tùy vào từng mục đích, mà OSSE có nhiều các thiết kế
khác nhau, tuy nhiên tất cả đều gồm các bước cơ bản sau:
1) Giả lập (mô phỏng) khí quyển
Để biết tác động của số liệu quan trắc tới dự báo số, các nhà khoa học thường
so sánh các dự báo có và không có đồng hóa số liệu quan trắc với nhau. Số liệu
quan trắc là thước đo trạng thái khí quyển tại vị trí đặt trạm quan trắc hay có thiết bị
quan trắc, đo đạc. Tuy nhiên, tại những nơi chưa có trạm quan trắc, hay chưa có các
thiết bị quan trắc ta không thể biết được trạng thái khí quyển, do vậy không thể có
được số liệu quan trắc và cũng không thể xác định được tác động của số những số
liệu quan trắc chưa tồn tại tới hệ thống dự báo số. Do vậy, cần có một khí quyển giả
lập mà các nhà khoa học biết rõ để từ đó họ có thể có bất cứ số liệu quan trắc cần
thiết. Một tích phân đủ dài và không bị gián đoạn của một mô hình số sẽ có nhiệm
vụ cung cấp một trạng thái của khí quyển trong một khoảng thời gian cần nghiên
cứu được gọi tên là Nature run - tạm dịch là khí quyển giả lập. Mô hình thực hiện
giả lập khí quyển có thể là mô hình toàn cầu hoặc mô hình khu vực tùy vào quy mô
của hiện tượng. Với những hiện tượng quy mô lớn, khí quyển giả lập được tạo bởi
các mô hình toàn cầu, độ dài của khí quyển giả lập từ có thể kéo dài vài tháng đến
một năm. Với những hiện tượng quy mô vừa như bão hay xoáy thuận nhiệt đới thì
các khí quyển giả lập được tạo bởi mô hình toàn cầu không phản ánh được cấu trúc
bên trong của các hiện tượng này vì vậy cần có những khí quyển giả lập quy mô
khu vực (regional nature run) được tạo bởi các mô hình khu vực với thời gian ngắn
hơn, từ vài ngày đến một tuần và độ phân giải tinh hơn. Do trong thực tế, khí quyển
có nhiều quy mô khác nhau, cũng như các mô hình số trị là chưa hoàn hảo nên khí
quyển giả lập không thể giống chính xách hoàn toàn với khí quyển thực tế. Tuy
nhiên, để phương pháp thử nghiệm giả lập hệ thống quan trắc có thể ước lượng
12
được chính xác tác động của quan trắc mới thì khí quyển giả lập nên có những đặc
điểm của khí quyển thực tế trong thời đoạn cần nghiên cứu.
2) Giả lập số liệu quan trắc (Observation simulation)
Nếu như số liệu quan trắc thật có được thông qua các công cụ đo đạc thì ở
đây, số liệu quan trắc giả lập sẽ được mô phỏng từ khí quyển giả lập. Hiện nay có
hai cách tiếp cận để mô phỏng số liệu quan trắc [9]. Cách đơn giản nhất là nội suy
dữ liệu trên lưới mô hình của khí quyển giả lập về vị trí cần có số liệu quan trắc, quá
trình này bao gồm cả sai số của từng loại số liệu quan trắc. Một cách khác phức tạp
hơn và đắt hơn đó là sẽ giả lập cách thu thập số liệu quan trắc như trong thực tế.
Một điểm cần nói thêm, quá trình mô phỏng số liệu quan trắc bao gồm quá trình mô
phỏng lại các loại quan trắc đã có và mô phỏng, giả lập các loại quan trắc chưa có.
Việc lựa chọn đồng hóa loại số liệu quan trắc mô phỏng giả lập nào sẽ dẫn đến các
quá trình điều khiển hoặc thử nghiệm được trình bày trong bước 3 dưới đây.
3) Các quá điều khiển (Control Run), thử nghiệm (Experiments) và ước lượng tác
động của quan trắc mới
Để xem xét được tác động một loại số liệu, thì phương pháp phổ biến nhất là
so sánh, phân tích kỹ năng dự báo khi chưa có và có đồng hóa số liệu mới. Đối với
phương pháp OSSE cũng vậy, để biết tác động của số liệu quan trắc tương lai tới
chất lượng dự báo, ta cần có một quá trình chạy dự báo của mô hình khi chưa đồng
hóa số liệu quan trắc mới này. Quá trình này được gọi tên là Control Run (CR) tạm
dịch là quá trình điều khiển. Bản chất của CR là sự mô phỏng các dự báo của hệ
thống dự báo số hiện tại. Các số liệu quan trắc được đồng hóa trong quá trình điều
khiển là các quan trắc hiện thời giả lập (hệ thống quan trắc đang có), dự báo của quá
trình điều khiển được gọi là dự báo tham chiếu.
CR = dự báo + số liệu quan trắc hiện thời giả lập (1.1)
Các dự báo có đồng hóa thêm số liệu quan trắc mới được gọi là Experiments
(EXP) tạm dịch là các thử nghiệm. Một cách đơn giản, các thử nghiệm có thể được
hiểu như sau:
EXP = CR + số liệu quan trắc tương lai giả lập (1.2)
Các kết quả dự báo của EXP sẽ được đánh giá, so sánh với khí quyển giả lập
(NR) và kết quả dự báo của CR từ đó rút ra được tác động của số liệu quan trắc tới
dự báo số trong OSSE để đưa ra được những kết luận tương tự trong khí quyển
thực. Các thành phần chính của OSSE được thể hiện thông qua sơ đồ trong hình 1.1
dưới đây.
13
Điều kiện ban
đầu A
Mô hình số trị
chạy tạo khí
quyển giả lập
Khí quyển giả
lập (Dạng lưới)
Quá tình giả lập
số liệu quan trắc
Số liệu quan trắc
(hiện thời và tương
lai) giả lậpĐiều kiện ban
đầu B
Phân tích khách
quan/ ban đầu hóa
Trường số liệu
phân tích
Mô hình số trị
Số liệu dự báo
So sánh
So sánh
Các dự báo
Giả lập khí quyển
Giả lập số liệu quan trắc
Hình 1.1 Sơ đồ hoạt động của một hệ thống OSSE.
Có thể thấy rõ ràng, phương pháp OSSE được xây dựng dựa trên ý tưởng của
một hệ thống đồng hóa số liệu. So sánh giữa hai hệ thống này được thể hiện qua
hình 1.2.
14
a) Hệ thống đồng hóa số liệu b) OSSE
Hình 1.2 So sánh hệ hoạt động của hệ thống đồng hóa số liệu và OSSE
Từ hình 1.2 ta có thể thấy, sự khác biệt giữa hai hệ thống này chỉ đến từ ba
quá trình đầu tiên. Nếu với hệ thống đồng hóa số liệu, các số liệu quan trắc thật
thu thập được thông qua quá trình đo đạc từ khí quyển thực thì với quá hệ thống
OSSE tất cả cá quá trình trên đều được giả lập. Khí quyển được giả lập, các số liệu
quan trắc giả lập có được không phải do đo đạc mà là mô phỏng. Các quá trình
khác của hai hệ thống này là hoàn toàn giống nhau. Hình 1.3 dưới đây sẽ minh họa
rõ hơn sự tương đồng của OSSE và hệ thống đồng hóa số liệu.
Khí quyển
thực
Quá trình
đo đạc
Số liệu quan trắc hiện
thời có thật
Đồng hóa
số liệu
Mô hình
dự báo số trị
Khí quyển
giả lập
Quá trình
mô phỏng
Đồng hóa
số liệu
Mô hình
dự báo số trị
Số liệu quan trắc
(hiện thời và tương lai
giả lập)
15
Hình 1.3 Minh họa phương pháp thử nghiệm giả lập hệ thống quan trắc
Hệ thống đồng hóa số liệu sử dụng số liệu quan trắc thật (có được nhờ đo đạc
từ khí quyển thực) để cải thiện dự báo với mong muốn dự báo tiến tới sát được
trạng thái khí quyển thực. Hệ thống OSSE sẽ sử dụng số liệu quan trắc giả lập (có
được nhờ quá trình nội suy từ khí quyển giả lập) để cải thiện các dự báo với mong
muốn các dự báo tiến dần tới khí quyển giả lập. Tác động của các loại số liệu quan
trắc giả lập với dự báo số trong hệ thống OSSE sẽ được cho như là tác động của loại
số liệu quan trắc này khi nó được đưa vào sử dụng trong thực tế. Như vậy, cơ sở lý
thuyết của hệ thống OSSE là chính là quá trình đồng hóa số liệu. Hiện nay có nhiều
phương pháp đồng hóa số liệu, tuy nhiên để phù hợp với nội dung và quy mô của
một luận văn, tác giả sử dụng phương pháp biến phân ba chiều 3DVAR cùng mô
hình nghiên cứu và dự báo thời tiết (Weather Research and Forecast - WRF) để thực
hiện nội dung của luận văn
16
Chương 2
HỆ THỐNG ĐỒNG HÓA SỐ LIỆU
2.1 Phương pháp biến phân ba chiều 3DVAR
Đồng hóa số liệu là quá trình tạo trường ban đầu tốt nhất có thể cho mô hình
dự báo. Hiện nay, trên thế giới có hai phương pháp hiện đại được sử dụng trong
nghiên cứu cũng như trong nghiệp vụ là phương pháp đồng hóa biến phân
(variational assimilation) và phương pháp lọc Kalman tổ hợp. Đồng hóa biến phân
được chia thành đồng hóa biến phân ba chiều (3DVAR) và đồng hóa biến phân bốn
chiều (4DVAR). Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả chỉ áp dụng đồng hóa
biến phân ba chiều. Phương pháp 3DVAR sẽ tìm trạng thái khí quyển x phù hợp
nhất với quan trắc y hay chính là việc tìm trạng thái khí quyển x có xác suất cực đại
khi biết quan trắc. Theo công thức Bayes, xác suất có điều kiện của x khi biết trước
y được tính như sau:
( ) ( / )( / )
( )
P x P y xP x y
P y (2.1)
Vì P(y) không phụ thuộc vào x nên:
P(x/y) ~ P(x)P(y/x) (2.2)
Trong đó, x được giả định có phân bố Gauss:
1
/2 1/2
1 1( ) exp ( )
2(2 )
Tb bn
P x x x B x xB
(2.3)
với B là ma trận tương quan sai số nền (gọi tắt là ma trận sai số nền), xb là giá trị
trường nền. Tương tự ta có
1
/2 1/2
1 1( / ) exp ( ( ) ) ( )
2(2 )
T
pR
RP y x H x y H x y
(2.4)
với R là ma trận tương quan sai số quan trắc (gọi tắt là ma trận sai số quan trắc), y
là giá trị trường thám sát. Thay thế P(x) và P(y|x) trở lại vào (2.2) ta được:
P(x/y)~
1 1
/2 1/2 /2 1/2
1 1 1 1exp ( ) ( ( ) ) ( )
2 2(2 ) (2 )
T Tb bn p
RB R
x x B x x H x y H x y
(2.5)
Hay P(x/y) ~ /2 1/2 /2 1/2
1 1exp ( )
(2 ) (2 )n pB RJ x
với
1 11 1( ) ( ) ( ( ) ) ( )
2 2
T T
b bJ x x x B x x H x y R H x y (2.6)
17
Xác suất P(x/y) cực đại khi J(x) cực tiểu. Trường phân tích mà ở đó hàm J
đạt giá trị cực tiểu sẽ được xem là trường phân tích tối ưu nhất. Về mặt tính toán
thực tế, việc cực tiểu hóa hàm J gặp hết sức khó khăn do B có kích thước rất lớn nên
người ta thường cực tiểu hóa hàm J bằng phương pháp lặp. Dưới đây, quá trình cực
tiểu hóa J trong hệ thống đồng hóa của mô hình WRF sẽ được giới thiệu.
Để quá trình cực tiểu hóa hàm J được nhanh và hiểu quả, hệ thống đồng hóa
của mô hình WRF (WRF-3DVAR) đã sử dụng một số kĩ thuật chính như sử dụng
phép đổi biến (control variable transform) kết hợp với dạng gia số (increment form),
dạng số điều kiện xác định trước (preconditioning form) và sử dụng phương pháp
lặp gradient liên hợp (conjugate gradient method). Đầu tiên WRF-3DVAR sử dụng
dạng gia số sao cho biến trạng thái là tổng của giá trị nền xb và giá trị nhiễu x’, khí
đó phương trình (2.6) được viết lại theo dạng biến trạng thái nhiễu:
1 1' ( ') ( ') ( ( ') ') ( ( ') ')T TJ x x B x H x y R H x y (2.7)
Tiếp theo WRF-3DVAR sử dụng dạng chuyển biến sao cho biến trạng thái x
sẽ được đổi biến thành biến v với toán tử U theo công thức x Uv trong đó toán từ
U được lựa chọn sao cho thỏa mãn điều kiện TB UU . Với điều kiện này, thành
phần nền của J(x) sẽ giảm được chi phí tính toán từ bậc 2n xuống bậc n. Sử dụng
toán tử U với dạng chuyển biến 'x U khi đó có thể viết lại hàm chi phí J(x) từ
công thức (2.7) thành dạng
1( ) ( ') ( ')T TJ HU y R HU y (2.8)
Giá trị cực tiểu chính là giá trị phân tích tối ưu đạt được:
a bx x U (2.9)
Trong quá trình xử lý tính toán thực tế, WRF-3DVAR xem toán tử U trong
dạng chuyển biến điều khiển là một chuỗi các phép tính thực nghiệm hay 'x U sẽ
có dạng tương ứng là ' kx U U U . Trong chuỗi phép thực hiện này, toán tử kU đại
diện cho biến đổi theo phương ngang, vU đại diện cho biến đổi theo phương thẳng
đứng và cuối cùng toán tử pU đại diện cho những biến đổi vật lý. Trong WRF-
3DVAR, các biến đưa vào đồng hóa gồm các biến cơ bản như các thành phần gió
(u, v), nhiệt độ (T), áp suất p và độ ẩm riêng q.
Phương pháp cực tiểu hóa trong hệ WRF-3DVAR là phương pháp lặp
gradient liên hợp bao gồm 4 bước chính sau:
Bước 1: Khởi tạo các gia số x’ bằng không
Bước 2: Tính toán hàm cực tiểu J
Bước 3: Tính toán gradient của hàm cực tiểu
18
Bước 4: Sử dụng hàm J và gradient của hàm J để tính toán giá trị mới của các
biến điều khiển mới
Các bước 2 đến bước 4 sẽ được lặp nhiều lần cho đến khi đạt độ hội tụ cho
phép hoặc trả về kết quả lỗi nếu sau số bước (được định trước) không hội tụ được.
2.2 Mô hình dự báo thời tiết WRF và hệ thống đồng hóa WRF – 3DVAR
a) Mô hình dự báo thời tiết WRF
Mô hình WRF là kết quả của sự hợp tác phát triển của nhiều trung tâm
nghiên cứu và dự báo khí tượng ở Hoa Kỳ như Trung tâm Quốc gia về nghiên cứu
khí quyển (NCAR), Trung tâm dự báo môi trường quốc gia (NCEP),…và đội ngũ
đông đảo các nhà khoa học làm việc tại các trường đại học trên thế giới. Bên cạnh
mục đích dự báo nghiệp vụ, WRF còn có thể khả năng áp dụng trong nghiên cứu
mô phỏng các điều kiện thời tiết thực. Nó bao gồm nhiều tùy chọn và có hệ thống
đồng hóa số liệu tiên tiến. Xuất phát từ những tính năng trên mà mô hình WRF đã
được lựa chọn làm công cụ nghiên cứu trong luận văn. Các sơ đồ tham số hóa vật lý
trong mô hình WRF có thế chia làm năm loại chính, trong đó mỗi loại bao gồm một
số sơ đồ khác nhau. Chúng bao gồm:
a) Các quá trình vi vật lý
b) Tham số hóa đối lưu
c) Lớp biên hành tinh (PBL)
d) Mô hình đất
e) Bức xạ
Quá trình tham số hóa cho các thành phần vật lý được ưu tiên thực hiện ở
bước đầu tiên của mô hình. Quá trình này có thể bao gồm việc đọc file số liệu trong
đó người sử dụng sẽ tùy chọn sử dụng thành phần vật lý nào. Mỗi sơ đồ tham số hóa
vật lý được đóng gói sẵn thành một module riêng biệt trong đó chứa bản thân sơ đồ
tham số hóa và các hằng số của riêng chúng, bên cạnh các hằng số sử dụng chung.
Thông tin chi tiết về các sơ đồ tham số hóa có thể tham khảo tại [26].
b) Hệ thống đồng hóa WRF – 3DVAR
Để tiến hành thử nghiệm trong luận văn này, tác giả sử dụng mô hình nghiên
cứu và dự báo thời tiết WRF phiên bản 3.2 kết hợp với hệ thống đồng hóa số liệu
được gọi là mô hình WRF-3DVAR. Mô hình WRF-3DVAR được thiết kế và phát
triển theo quy trình ứng dụng nghiệp vụ chuẩn với cập nhật số liệu, xử lý đồng hóa,
và dự báo một cách tự động. Sơ đồ thiết kế hệ thống được minh họa trong hình 2.1
19
Chạy mô
hình (WRF)
Điều kiện
biên
Kết quả dự
báo (6 giờ)Trường nền
Đồng hóa số
liệu
(3DVAR)
Trường phân tích
Số liệu
thám sát
Hệ thống
phân tích
Mô hinh
toàn cầu
Hình 2.1 Hệ thống đồng WRF – 3DVAR chu kỳ 6h.
Kết quả dự báo của mô hình sau sáu giờ được sử dụng như trường nền kết
hợp với trường thám sát tạo thành trường phân tích nhờ phương pháp phân tích
khách quan 3DVAR. Trường phân tích này lại được sử dụng là trường ban đầu cho
lần chạy dự báo tiếp sau. Mô hình WRF sẽ không cần phải sử dụng kết quả phân
tích từ mô hình toàn cầu làm trường ban đầu. Như vậy, hệ thống WRF-3DVAR
được xây dựng sẽ bao gồm những đặc điểm sau:
Phương pháp phân tích khách quan: 3DVAR
Mô hình dự báo: WRF
Chu kỳ: 6h
Thám sát: mọi thám sát (cũ và mới) có được trên khu vực Việt Nam
Điều kiện ban đầu cho mô hình WRF: trường phân tích được tạo bởi chính
hệ thống WRF – 3DVAR.
Điều kiện biên: dự báo từ mô hình toàn cầu GFS
Quá trình đồng hóa được thực hiện nhờ hệ thống biến phân ba chiều
(3DVAR) cho mô hình WRF. Với mục đích cụng cấp trường phân tích tốt hơn cho
mô hình hệ thống đồng hóa sử dụng phương pháp cực tiểu hóa gradient liên hợp.
phương pháp này đã được nói tới trong mục 2.1 của luận văn. Ma trận tương quan
sai số quan trắc R và ma trận tương quan sai số nền B có vai trò quan trọng đặc biệt
là ma trận B quyết định sự hội tụ nhanh hay chậm của phương pháp cực tiểu hóa
gradient liên hợp. Do vậy, phần tiếp theo văn sẽ mô tả cấu trúc của hai ma trận R và
20
B được sử dụng trong chương trình 3DVAR cho mô hình WRF. So với ma trận B,
ma trận R dễ xử lý hơn. Do các quan trắc thường là độc lập với nhau nên tương
quan giữa các quan trắc khác nhau với nhau là bằng 0 do vậy R được coi là ma trận
chéo hay ma trận gần chéo. Các phần tử nằm trên đường chéo của ma trận R là
phương sai của quan trắc. Các giá trị này được có được dựa trên các thống kê và
hiểu biết về đặc tính của dụng cụ đo và được hệ thống đồng hóa WRF-3DVAR
cung cấp và được tóm tắt lại trong bảng 2.1 và 2.2 dưới đây.
Bảng 2.1. Độ lệch chuẩn thám sát với trạm SYNOP
ff(m/s) dd(o) Nhiệt độ (K) Áp suất bề mặt (Pa)
1.1 5 1 100
Bảng 2.2. Độ lệch chuẩn thám sát với trạm cao không TEMP theo mực áp suất
Lev
(hPa) H(m) T(K) Rh(%) P(Pa) ff(m/s) dd(o)
1000 7 1 15 100 1.1 5
850 7.73 1 10 100 1.1 5
700 8.2 1 10 100 1.4 5
500 12.1 1 10 100 2.3 5
400 14.9 1 10 100 2.8 5
300 18.8 1 10 100 3.3 5
250 25.4 1 10 100 3.3 5
200 27.7 1 10 100 3.3 5
150 32.4 1 10 100 3 5
100 39.4 1 10 100 2.7 5
70 50.3 1 10 100 2.7 5
50 59.3 1 10 100 2.7 5
30 59.3 1 10 100 2.7 5
20 59.3 1 10 100 2.7 5
10 59.3 1 10 100 2.7 5
Trong đó:
H là độ cao
T là nhiệt độ
Rh là độ ẩm tương đối
P là áp suất
ff là tốc độ gió
21
dd là hướng gió
So với ma trận R, ma trận B khó xử lý hơn nhiều và có vai trò quan trọng
hàng đầu trong đồng hóa biến phân ba chiều 3DVAR. Nhiệm vụ quan trọng nhất
của ma trận B là truyền thông tin. Như ta đã biết, phân bố các quan trắc trong không
gian là không đồng đều và không nằm trên các điểm lưới của mô hình. Do vậy sẽ có
những vùng quan trắc rất thưa thớt. Tại những vùng này, trường phân tích hoàn toàn
được xác định bởi hàm cấu trúc. Thông tin tại các điểm có quan trắc sẽ được truyền
tới khu vực lân cận thông qua các số hạng tương quan trong B. Để hiểu rõ hơn về
cấu trúc của ma trận B, kiểm tra đồng hóa một quan trắc đơn lẻ (“Single observation
test”) đã được thực hiện trong luận văn.
1( )T T
a b o bx x BH HBH R x H x (2.6)
Thực hiện kiểm tra đồng hóa một quan trắc đơn cho các biến (U,T,…) khi đó
tương quan sai số giữa các điểm đang xét và các điểm xung quanh sẽ tỉ lệ với hiệu
xa - xb.Việc thể hiện xa – xb trong trường hợp này sẽ thể hiện được cấu trúc của ma
trận B. Trong phần tiếp theo của luận văn, tác giả sẽ tiến thực hiện lần lượt đồng
hóa một số liệu nhiệt độ, gió vĩ hướng để minh họa cho ma trận B sử dụng trong
luận văn. Hình 2.2 là kết quả hiện thị của giá trị nhiệt độ phân tích (xa) trừ giá trị
nhiệt độ nền (xb). Một giá trị nhiệt độ có được từ việc nội suy trường nhiệt độ nền
tại mực 850mb về vị trí tâm miền tính và được được cộng thêm 1K. Giá trị này
đươc đồng hóa bằng hệ thống WRF-3DVAR tạo ra trường nhiệt độ phân tích (xa).
Hiệu của hai trường này sẽ cho biết sự khác biệt giữa của trường nhiệt độ tại 850mb
trước và sau khi có đồng hóa qua đó cho thấy tác động của số liệu được đồng hóa
tới khu vực xung quanh hay cho biết tương quan của điểm có số liệu được đồng hóa
với các điểm lân cận. Có thể nhận thấy, các điểm càng gần vị trí có số liệu đồng hóa
thì có giá trị tuyệt đối càng lớn, càng ra xa điểm đồng hóa này theo mọi hướng, giá
trị tuyệt đối càng nhỏ. Nói cách khác, điểm có số liệu đồng hóa sẽ có tương quan
lớn với những điểm gần nó hay những điểm càng gần điểm đồng có tương quan
càng lớn và ngược lại. Đây cũng chính là thể hiện nhiệm vụ truyền thông tin của ma
trận B. Thông tin quan trắc tại điểm có số liệu sẽ được truyền ra các điểm xung
quanh. Hình 2.3 tương tự như hình 2.2 nhưng là áp dụng cho trường gió vĩ hướng
tại mực 850mb thể hiện sự khác biệt của trường gió vĩ hướng U tại mực 850 mb sau
khi có đồng hóa với trước khi có đồng hóa một số liệu gió vĩ hướng tại tâm miền.
Càng ra xa tâm miền tính, tác động của số liệu được đồng hóa càng giảm dần.
22
Hình 2.2 Hiệu của trường nhiệt độ phân tích và nhiệt độ nền tại mực 850mb trường
hợp có đồng hóa 1 số liệu nhiệt độ tại tâm miền tính
Hình 2.3 Hiệu của trường gió vĩ hướng phân tích và gió vĩ hướng nền tại mực
850mb trường hợp có đồng hóa 1 số liệu gió vĩ hướng tại tâm miền tính
23
Chương 3
SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
3.1 Tổng quan về cơn bão Sơn Tinh (2012)
Để có thể thực hiện các thử nghiệm đánh giá được tác động tiềm năng của số
liệu thám không trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tới dự báo bão, tác giả đã
lựa chọn trường hợp nghiên cứu là cơn bão Sơn Tinh diễn ra vào tháng 10 năm
2012. Đây là một cơn bão di chuyển khá đặc biệt khi qua quần đảo Hoàng Sa đi vào
vịnh Bắc Bộ cơn bão di chuyển lệch về phía Bắc và đi vào khu vực Hải Phòng –
Quảng Ninh. Theo quy luật hoạt động hàng năm của bão thì thời điểm cuối tháng
10, các cơn bão hoặc ATNĐ trên biển Đông có xu hướng đổ bộ và các tỉnh Trung
Trung Bộ. Tuy nhiên, cơn bão Sơn Tinh đã đi lên phía bắc và đổ bộ vào duyên hải
Bắc Bộ, trái với quy luật hàng năm. Hình 3.1 và 3.2 lần lượt là quỹ đạo và cường độ
(áp suất thấp nhất tại tâm bão) của cơn bão Sơn Tinh kể từ khi hành thành đến khi
độ bộ và suy yếu.
Hình 3.1 Quỹ đạo cơn bão Sơn Tinh
24
Hình 3.2 Cường độ cơn bão Sơn Tinh – áp suất thấp nhất tại tâm bão
Ngày 23/10 vùng áp thấp ngoài khơi phía Đông Nam Philipine được phát
báo áp thấp nhiệt đới sau đó mạnh lên thành bão. Hình 3.3 là bản đồ trường gió và
độ cao địa thế vị tại mực 500mb từ ngày 23/10 đến 26/10. Sáng ngày 23/10, lưỡi áp
cao cận nhiệt đới đang lấn vào khá rõ với một vùng phân kỳ nằm ngay trên khu vực
đảo Hải Nam. Trong các ngày 24, 25 và 26/10, lưỡi áp cao cận nhiệt đới có xu
hướng rút dần ra phía đông và nâng trục dần lên tạo điều kiện cho cơn bão di
chuyển lên phía bắc.
a)
b)
25
c)
d)
Hình 3.3 Trường gió và độ cao địa thế vị tại mực 500mb tại thời điểm 7giờ các
ngày a) 23/10; b) 24/10; c) 25/10; d) 26/10
Trưa 26/10, khi cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 330km về phía Đông Nam,
bão di chuyển theo hướng Tây Tây Bắc, đi hướng về quần đảo Hoàng Sa và mạnh
dần lên cấp 12. Điều này được thể hiện thông qua hình 3.4. Sự đồng nhất về vị trí
tâm xoáy ở các mực từ 850mb cho tới 500mb cho thấy cấu trúc cơn bão rõ rệt,
thuận lợi cho bão phát triển trong những giờ tiếp theo.
a)
b)
26
c)
Hình 3.4 Trường gió và độ cao địa thế vị
tại mực a) 850 mb; b) 750mb; c) 500mb
Hình 3.5 là bản đồ trường gió và độ cao địa thế vị mực 500 từ thời điêm 19
giờ ngày 27/10 đến 7 giờ ngày 29/10. Từ tối 27/10 đến ngày 28/10, khi đi vào vùng
biển phía Nam vịnh Bắc Bộ, cách bờ biển Quảng Trị - Đà Nẵng khoảng 150km về
phía Đông Bắc bão đã mạnh dần lên cấp 14, giật cấp 16 – 17, và đổi hướng di
chuyển theo hướng Tây Bắc dọc theo bờ biển Thừa Thiên Huế - Nghệ An khoảng
15-20 km/h. Đêm 28/10, vùng tâm bão số 8 đi vào địa phận giữa Thái Bình – Hải
Phòng với cường độ cấp 11 - 12, giật cấp 14 - 15, sau đó đổi hướng di chuyển theo
hướng Đông Bắc men theo vùng bờ biển Hải Phòng - Quảng Ninh và suy yếu nhanh
thành một vùng áp thấp vào sáng 29/10 trên khu vực Quảng Ninh.
a)
b)
27
c)
d)
Hình 3.5 Trường gió và độ cao địa thế vị tại mực 500mb tại
a)19 giờ ngày 27/10; b) 07 giờ ngày 28/10; c) 19h ngày 28/10; d) 07 giờ ngày 26/10
3.2 Số liệu
Để thực hiện nội dung luận văn, tác giả sử dụng hai nguồn số liệu là số liệu
phân tích cuối cùng FNL (Final Operational Global) và số liệu dự báo toàn cầu GFS
(Global Forecast System) của Trung tâm dự báo môi trường quốc gia (National
Centers for Environmental Prediction - NCEP).
GFS: Số liệu dự báo toàn cầu với độ phân giải 1 độ kinh vĩ và cập nhật 6
tiếng/lần với hạn dự báo tối đa lên tới 16 ngày (384 giờ). Số liệu bao gồm các
trường khí tượng cơ bản là áp suất bề mặt, áp suất mực nước biển, độ cao địa thế vị,
nhiệt độ, nhiệt độ bề mặt biển, giá trị biến đất, lớp băng bao phủ, độ ẩm tương đối,
các trường gió kinh hướng và vĩ hướng, chuyển động thẳng đứng, độ xoáy và ozone
tại mực bề mặt và 26 mực khí áp từ 1000mb đến 10mb, trong lớp biên bề mặt và
trên một số mực sigma, tấng đối lưu hạn và một vài mực phụ khác trong lớp bề mặt
để khởi tạo các mô hình đất bề mặt (land-surface models).
FNL: Số liệu phân tích cuối cùng có độ phân giải 1 độ kinh vĩ và được cập
nhật 6 tiếng/lần. Đây là sản phẩm của hệ thống đồng hóa số liệu toàn cầu Global
Data Assimilation System (GDAS). Hệ thống này liên tục thu nhận số liệu quan trắc
thông qua hệ thống thông tin toàn cầu Global Telecommunications System (GTS)
từ nhiều nguồn và các phân tích khác nhau. Số liệu FNL được tạo ra bởi cùng mô
hình được NCEP dùng trong hệ thống dự báo toàn cầu. Số liệu FNL cập nhật chậm
hơn khoảng một giờ so với phân tích của GFS. Sự chậm trễ này là do có nhiều số
28
liệu quan trắc được sử dụng. Số liệu bao gồm các quan trắc bề mặt và 26 mực áp
suất từ 1000 mb đến 10mb.
Với độ chính xác cao hơn, số liệu FNL sẽ được sử dụng trong quá trình mô
phỏng khí quyển. Số liệu GFS sẽ được sử dụng trong các quá trình dự báo thử
nghiệm.
3.3 Thiết kế thử nghiệm mô phỏng
a) Cấu hình miền tính
Để thực hiện thử nghiệm tác động của số liệu thám không tại quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa tới dự báo bão trên biển Đông, tác giả lựa chọn miền dự
báo và cấu hình lưới như sau: Miền lưới tính bao gồm 221 x 161 điểm lưới theo
phương ngang với bước lưới là 17 km, và 26 mực thẳng đứng, tạo ra miền lưới bao
phủ từ 95oE đến 126.5oE và từ 5oN đến 26.5oN gồm trọn vẹn khu vực biển Đông và
một phần của quần đảo Philipine. Bước thời gian tích phân 90 giây. Miền tính của
mô hình được thể hiện qua hình 3.6
Hình 3.6 Miền tính của mô hình sử dụng trong luận văn
Các sơ đồ tham số hóa vật lý được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm:
Sơ đồ vi vật lý: Kain - Fritsch
Sơ đồ phát xạ sóng dài: RRTM
29
Sơ đồ phát xạ sóng ngắn: Dudhia
Tham số hóa lớp biên hành tinh: Yonsei
Sơ đồ lớp sát đất: Monin - Obukhov
b) Thiết kế thí nghiệm
Để ước lượng tác động của số liệu thám không giả lập tại quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa tới dự bão trên biển Đông dựa trên phương pháp OSSE, nghiên cứu
sẽ thực hiện xây dựng các bước của một hệ thống OSSE
1) Giả lập khí quyển
Như đã nói trong mục 1.2, khí quyển mô phỏng là một tích phân liên tục của
mô hình toàn cầu hay khu vực. Trong nghiên cứu này, để phản ánh được quá trình
cơn bão Sơn Tinh hoạt động trên biển Đông, mô hình WRF đã thực hiện tích phân
4.5 ngày từ 19h ngày 24/10/2012 tới 7h ngày 29/10/2012. Điều kiện biên và ban
đầu của quá trình này được cập nhật từ số liệu FNL.
2) Giả lập số liệu quan trắc
Số liệu quan trắc được trích tại vị trí các trạm được lấy từ Trung tâm Dự báo
Khí tượng Thủy văn Trung ương bao gồm 575 trạm Synop, 47 trạm thám không
chưa bao gồm hai trạm thám không giả lập, 5 trạm pilot và thêm hai trạm thám
không mới tại Hoàng Sa và Trường Sa có tọa độ như trong bảng 3.1. Hình 3.6 là
bản đồ phân bố các trạm thám sát truyền thống được mô phỏng trong luận văn.
Hình 3.7 Vị trí các trạm quan trắc, thám không và pilot được mô phỏng
30
Bảng 3.1 Vị trí đặt trạm thám không mới tại Hoàng Sa và Trường Sa
Danh sách trạm Vĩ độ Kinh độ
Trạm tại Hoàng Sa 16.82oN 112.33oE
Trạm tại Trường Sa 8.65oN 111.92oE
Phương pháp trích số liệu tại các điểm trạm quan trắc được sử dụng trong
luận văn là phương pháp nội suy điểm gần nhất, trong đó giá trị quan trắc tại điểm
trạm được gán bằng giá trị của điểm nút lưới gần nhất. Số liệu các trạm thám không
và pilot được giả lập phát báo 12 giờ một lần. Riêng hai trạm thám không thêm mới
là Hoàng Sa và Trường Sa trong điều kiện có bão sẽ được phát báo 6 giờ một lần
(thêm hai phiên quan trắc tăng cường). Số liệu quan trắc giả lập bao gồm các áp
suất, nhiệt độ, nhiệt độ điểm sương, hướng gió, tốc độ gió, độ cao địa thế vị và độ
ẩm tại 26 mực áp suất. Số liệu quan trắc được giả lập sẽ được cộng thêm các sai số
quan trắc với giả định phân bố Gaussian. Các sai số này được cho trong bảng 2.1 và
2.2.
3) Thiết lập điều khiển và các thử nghiệm để ước lượng tác động của số liệu thám
không mới.
Như đã trình bày trong mục 1.2, quá trình điều khiển (CR) là quá trình mô
phỏng lại hệ thống dự báo hiện thời. Do vậy các số liệu quan trắc được đồng hóa là
những số liệu quan trắc được giả lập tại những điểm trạm đã tồn tại
Thử nghiệm 1 (EXP1) là thử nghiệm có đưa thêm số liệu thám không giả lập
tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào đồng hóa. Một cách đơn giản, có thể
hiểu:
EXP1 = CR + thám không giả lập tại Hoàng Sa + thám không giả lập tại Trường Sa
Thử nghiệm 2 (EXP2) là thử nghiệm chỉ đưa thêm số liệu thám không giả
lập tại quần đảo Trường Sa. Một cách đơn giản có thể hiểu rằng
EXP2 = CR + thám không giả lập tại Trường Sa
Như vậy, sự khác nhau giữa CR, EXP1 và EXP2 chính là số liệu quan trắc. Điều
nay được tóm tắt thông qua bảng 3.2
31
Bảng 3.2 Tóm tắt thông tin của quá trình điều khiển và các thử nghiệm
Quá trình Số liệu quan trắc sử
dụng đồng hóa Điều kiện biên Trường nền
Điều khiển
(CR)
575 trạm Synop
47 trạm thám không
5 trạm Pilot
Cập nhật 6 tiếng
từ số liệu GFS
Từ dự báo 6 tiếng
của chu kỳ trước
Thử nghiệm 1
(EXP1)
Điều khiển + Thám
không tại Hoàng Sa và
Trường Sa
Cập nhật 6 tiếng
từ số liệu GFS
Từ dự báo 6 tiếng
của chu kỳ trước
Thử nghiệm 2
(EXP2)
Điều khiển + Thám
không tại Trường Sa
Cập nhật 6 tiếng
từ số liệu GFS
Từ dự báo 6 tiếng
của chu kỳ trước
Trong luận văn, tác giả lựa chọn 4 thời điểm khác nhau để thực hiện thử nghiệm
tác động của số liệu là:
19 giờ ngày 25/10/2012
01 giờ ngày 26/10/2012
07 giờ ngày 26/12/2012
13 giờ ngày 26/12/2012
Đây là 4 thời điểm liên tiếp từ lúc cơn bão Sơn Tinh tiến vào biển Đông. Từ
những thời điểm này, các dự báo 72 giờ được thực hiện, riêng tại thời điểm cuối
cùng, dự báo sẽ chỉ đến hạn 66h. Trước khi thực hiện dự báo tại các thởi điểm nói
trên, các số liệu quan trắc sẽ được đồng hóa với các chu kỳ cách nhau 6 tiếng từ 19h
ngày 24/10/2012. Hình 3.7 là minh họa cho chu trình đồng hóa 6 tiếng.
32
19H24/10 19H25/10 19H26/10 19H27/10 19H28/10
Quan trắc
giả lập
Quan trắc
giả lập
Quan trắc
giả lập
Dự báo 12h
Dự báo 12h
Quan trắc
giả lập
Dự báo 12h
Dự báo 12h
Quan trắc
giả lập
Trường nền
Trường nền
Trường nền
Trường nền
Dự báo từ mô hình toàn cầu GFS
Trường nền
Khí quyển mô phỏng
Dự báo 72h
Quan trắc
giả lập
Trường nền
Dự báo 72h
Trường nền
Quan trắc
giả lập
Dự báo 72h
Quan trắc
giả lập
Trường nền
Dự báo 66h
Hình 3.8 Minh họa quá trình đồng hóa số liệu được thực hiện trong thử nghiệm
33
Chương 4
KẾT QUẢ THỬ NGHIỆM
4.1 Mô phỏng khí quyển
Hình 4.1 là kết quả mô phỏng quỹ đạo bão Sơn Tinh từ 19 giờ ngày
24/10/2012 tới 7 giờ ngày 29/10/2012. Điều kiện biên và ban đầu của quá trình này
được cập nhật từ số liệu phân tích FNL. Quỹ đạo giả lập cơn bão Sơn Tinh được thể
hiện bằng đường màu xanh trong hình vẽ.
Hình 4.1 Quỹ đạo giả lập cơn bão Sơn Tinh
Có thể thấy quỹ đạo giả lập này đã phản ánh được khá chính xác với quỹ đạo
thực sự của cơn bão trong thực tế. Cơn bão di chuyển theo hướng giữa Tây và Tây
Bắc với vị trí khá sát so với thực tế. Tại thời điểm 19 giờ ngày 26/10/2012 cơn bão
có vị trí gần quần đảo Trường Sa, sau đó một ngày thì cơn bão có sự đổi hướng nhẹ
lên phía Bắc. Tuy nhiên, như đã nói trong các phần trên, do khí quyển chứa nhiều
các quá trình quy mô khác nhau, bên cạnh đó, các phương trình động học và động
lực học của mô hình còn chứa nhiều tham số vì vậy, quỹ đạo bão giả lập không thể
chính xác hoàn toàn như quỹ đạo bão trong thực tế. Tuy nhiên, quỹ đạo bão giả lập
đã phản ánh được những nét chính của quỹ đạo bão trong thực tế.
34
Hình 4.2 là kết quả giả lập áp suất cực tiểu tại tâm. Nhìn chung, quá trình giả
lập phản ánh được các quá trình mạnh lên trên biển Đông và suy yếu sau đó của cơn
bão. Áp suất cực tiểu tại tâm bão của quá trình giả lập khí quyển là xấp xỉ 960 mb,
trong thực tế, giá trị này là 954 mb. Sự khác biệt ngày có nguyên nhân một phần từ
độ phân giải thô 17km mà mô phỏng sử dụng. Để có thể mô phỏng tôt hơn cường
độ bão, một độ phân giải cao hơn cần được sử dụng.
Hình 4.2 Cường độ giả lập của cơn bão Sơn Tinh
4.2 Dự báo quỹ đạo bão Sơn Tinh
Hình 4.3 là kết quả dự báo quỹ đạo bão Sơn Tinh tại thời điểm 19h ngày 25
tháng 10 năm 2012. Trong hình vẽ, quỹ đạo giả lập cơn bão Sơn Tinh được thể hiện
bằng đường màu xanh với ký hiệu là NR – Nature Run. Dự báo của quá trình điều
khiển (dự báo tham chiếu) được thể hiện bằng đường màu đen với ký hiểu là CR –
Control Run. Các dự báo của thử nghiệm 1 và 2 lần lượt được thể hiện bằng đường
màu đỏ (ký hiệu EXP1) và màu da cam (ký hiệu EXP2).
35
Hình 4.3 Dự báo quỹ đạo cơn bão Sơn Tinh tại thời điểm 19 giờ 25/10/2012.
Từ hình 4.3 có thể thấy đường màu đen bám khá sát đường màu xanh, hay
dự báo của quá trình điều khiển khá gần với quỹ đạo giả lập cơn bão Sơn Tinh. Tuy
nhiên, sau 36 giờ dự báo đầu tiên, quỹ đạo dự báo điểu khiển lại đổi hướng và đi lên
phía bắc nhiều hơn so với quỹ đạo giả lập (NR). Nhưng nhìn chung, đây là một dự
báo khá tốt, đặc biệt là trong 36 giờ đầu tiên. Trong thử nghiệm 1, (EXP1) khi có
thêm sự đồng hóa số liệu thám không tại hai vị trí Trường Sa và Hoàng Sa, quỹ đạo
dự báo đã được cải thiện rõ rệt. Sự cải thiện này được thể hiện thông qua việc
đường quỹ đạo dự báo của thử nghiệm 1 luôn nằm giữa đường dự báo của điều
khiển và đường quỹ đạo bão mô phỏng. Nếu sau 36 giờ dự báo đầu tiên, quỹ đạo dự
báo điều khiển đi lệch lên phía bắc nhiều hơn, thì việc đồng hóa thêm số liệu tại hai
trạm Trường Sa và Hoàng Sa đã giúp giảm độ lệch này rõ rệt. Khi chỉ có số liệu
thám không tại Trường Sa được đồng hóa, thì dự báo đã không còn thể hiện được sử
cải thiện như trong thử nghiệm 1. Sự cải thiện chỉ được thể hiện trong 36 giờ dự báo
đầu tiên, đường màu da cam nằm giữa hai đường xanh và đen, nhưng không thể đạt
được đến kết quả như trong thử nghiệm 1. Từ sau 36 giờ dự báo, sự khác biệt giữa
quỹ đạo dự báo của thử nghiệm 2 và của điều khiển không còn rõ ràng. Hai đường
đen và da cam bám khá sát nhau. Nếu hình 4.3 cung cấp tổng quan về tác động của
36
số liệu thám không thì các kết quả tính toán cụ thể sai số vị trí tâm bão sẽ được thể
hiện trong hình 4.4 dưới đây.
Hình 4.4 Sai số khoảng cách dự báo tâm bão với quỹ đạo mô phỏng Sơn Tinh thời
điểm 19 giờ ngày 25/10/2012.
Sai số vị trí của quỹ đạo của điều khiển so với quỹ đạo mô phỏng được thể
hiện bằng cột màu đen; của thử nghiệm 1 là màu đỏ và của thử nghiệm 2 là màu da
cam. Với sai số của quá trình điều khiển, trong vòng 24 giờ đầu tiên đều nhỏ hơn
40km. Với hạn dự báo từ 30 đến 72 giờ sai số 50 đến 100km. Khi có đồng hóa thêm
số liệu thám không tại Trường Sa và Hoàng Sa, sai số dự báo vị trí bão đã giảm
đáng kể. Trong mọi hạn dự báo, sai số của thử nghiệm 1 luôn nhỏ hơn của điều
khiển. Trong 30 giờ dự báo đầu, sai số chỉ xấp xỉ trong khoảng 20km. Từ hạn dự
báo 36 giờ đến 72 giờ, sai số 50 đến 70km.
Khi chỉ có thêm số liệu tại Trường Sa, sai số trong 48 giờ dự báo đầu tiên đã
nhỏ hơn so với sai số của điều khiển. Tuy nhiên, khi so với thử nghiệm 1, các sai số
này lớn hơn. Từ hạn dự báo 42 giờ, có thể thấy giá trị sai số của thử nghiệm 2 và
điều khiển là không có nhiều khác biệt. Như vậy, có thể nhận thấy, tại thời điểm dự
báo 19h ngày 25/10/2012, kết quả của thử nghiệm 1 là tốt nhất trong mọi hạn dự
báo. Trong khi đó, với thử nghiệm 2, kết quả chỉ được cải thiện trong khoảng 48 giờ
đầu. Lý giải cho việc thử nghiệm 1 có dự báo tốt nhất là vì quỹ đạo bão đi khá gần
vị trí của quần đảo Hoàng Sa. Trong khi đó, tại thử nghiệm hai, vị trí của trạm tại
quần đảo Trường Sa lại khá xa so với vị trí tâm bão đi qua nên tác động của số liệu
quan trắc mới chưa được rõ ràng như trong thử nghiệm trước.
37
Hình 4.5 tương tự như 4.3 là bản đồ dự báo quỹ đạo bão Sơn Tinh tại thời
điểm 01 giờ 26/10/2012. Các quy ước và ký hiệu tương tự như trên. Dự báo của
điều khiển vẫn là một dự báo tương đối tốt. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy,
trong khoảng 30 giờ đầu, đường màu đen và màu xanh khá sát nhau. Tuy nhiên,
cũng như trong thời điểm dự báo trước, trong những hạn dự báo sau, quỹ đạo điều
khiển đã lệch lên phía bắc hơn. Quá trình đồng hóa thêm hai số liệu Hoàng Sa và
Trường Sa đã cải thiện được quỹ đạo dự báo. Ta có thể nhận thấy, đường quỹ đạo
dự báo của thử nghiệm 1 rất sát với đường quỹ đạo mô phỏng. Đặc biệt từ hạn dự
báo 36 tiếng, nếu dự báo của điều khiển cho cơn bão đi lên phía bắc, thì việc đồng
hóa đã giúp cho quỹ dạo dự báo trong thử nghiệm 1 không lệch nhiều lên phía bắc
và rất sát với quỹ đạo mô phỏng. Với trường hợp thử nghiệm 2, quỹ đạo dự báo lại
có xu hướng tương tự như dự báo của điều khiển. Cụ thể hơn, hình 4.6 sẽ cung cấp
chi tiết hơn về sai số khoảng cách giữa tâm bão dự báo với tâm bão mô phỏng.
Hình 4.5 Dự báo quỹ đạo cơn bão Sơn Tinh tại thời điểm 01 giờ 26/10/2012.
Hình 4.6 là sai số khoảng cách giữa tâm bão giả lập với lần lượt tâm bão dự
báo của điều khiển và các thử nghiệm. Trong 30 giờ đầu dự báo, sai số của điều
khiển rất thấp nhỏ hơn 40 km. Từ thời điểm dự báo 36 giờ, khi quỹ đạo dự báo của
điều khiển có lệch lên phía bắc nhiều hơn so với quỹ đạo mô phỏng thì sai số
38
khoảng cách lúc này đẵ tăng lên trong các hạn dự báo tiếp theo, sai số của điều
khiển tăng từ 60 - 100km. Khi có thêm số liệu thám không tại Hoàng Sa và trường
Sa, các dự báo đã được cải thiện tốt hơn, đặc biệt từ hạn dự báo từ 24 – 72 giờ. Sai
số khoảng cách của dự báo thử nghiệm 1 trong lần dự báo này không vượt quá
40km. Trong thử nghiệm 2, sai số khoảng cách giữa tâm bão dự báo và mô phỏng
chỉ cải thiện được trong các hạn dự báo từ 24 đến 48 giờ. Ngoài khoảng thời gian
này, thì sai số của thử nghiệm hai và điều khiển là xấp xỉ nhau.
Hình 4.6 Sai số khoảng cách dự báo tâm bão với quỹ đạo mô phỏng Sơn Tinh thời
điểm 01 giờ ngày 26/10/2012.
Như vậy, trong hai thời điểm dự báo đầu tiên là 19 giờ ngày 25/10/2012 và
01 giờ ngày 26/10/2012 có thể nhận thấy, các dự báo của quá trình điều khiển (mô
phỏng lại trạng thái dự báo hiện thời của ta) khá sát với quỹ đạo mô phỏng của Sơn
Tinh. Khi có thêm số liệu thám không tại hai trạm đảo Hoàng Sa và Trường Sa, dự
báo quỹ đạo bão đã được cải thiện rõ rệt. Quỹ đạo dự báo của thử nghiệm 1 tiến sát
với quỹ đạo mô phỏng Sơn Tinh và sai số khoảng cách giữa tâm bão dự báo và tâm
bão mô phỏng của thử nghiệm 1 nhỏ hơn của quá trình dự báo điều khiển tại hầu hết
các hạn dự báo. Tuy nhiên, trong thử nghiệm 2, khi chỉ có một số liệu thám không
tại Trường Sa được đồng hóa thêm, thì sự cải thiện không thật sự rõ ràng. Chất
lượng hầu như không khác biệt với dự báo của điều khiển.
Hình 4.7 là các dự báo quỹ đạo cơn bão Sơn Tinh tại thời điểm 7 giờ ngày
26/10/2012. Có thể thấy, sau khoảng 24 giờ dự báo, quỹ đạo bão dự báo của điều
khiển đã đi lệch lên phía bắc khá rõ. Điều này được thể hiện qua việc đường màu
39
đen chỉ bám sát với đường màu xanh trong khoảng 24 giờ đầu. Trong lần dự báo
này, thử nghiệm 1 tiếp tục cho thấy vai trò của số liệu thám không tại Hoàng Sa và
Trường Sa.
Hình 4.7 Dự báo quỹ đạo cơn bão Sơn Tinh tại thời điểm 07 giờ 26/10/2012
Khi có thêm hai quan trắc từ hai trạm đảo này, quỹ đạo dự báo đã ít lệch lên
phía bắc hơn và sát hơn với quỹ đạo mô phỏng bão Sơn Tinh. Quỹ đạo dự báo của
thử nghiệm 1 luôn nằm giữa quỹ đạo mô phỏng và dự báo điều khiển (Đường màu
đỏ luôn nằm giữa đường màu xanh và màu đen). Khi không có số liệu trạm Hoàng
Sa, nếu như trong hai lần dự báo trước, thử nghiệm 2 không thể hiện rõ sự cải thiện
thì trong lần này, đã cho thấy tác động của số liệu thám không Trường Sa. Quỹ đạo
dự báo bão Sơn Tinh của thử nghiệm 2 luôn nằm gần quỹ đạo mô phỏng hơn so với
quỹ đạo điều khiển tại mọi hạn dự báo tuy vậy vẫn có sai số lớn hơn so với quỹ đạo
trong thử nghiệm 1.
Hình 4.8 thể hiện kết quả tính toán sai số khoảng cách giữa tâm bão mô
phỏng và dự báo thực hiện lúc 07 giờ ngày 26/10/2012. Sai số của quá trình điều
khiển trong 24 giờ dự báo đầu khá nhỏ, tương ứng với quỹ đạo của điều khiển nằm
khá sát so với quỹ đạo mô phỏng. Sai số trong khoảng thời gian này không vượt quá
40
60km, trong đó phần lớn sai số tại các hạn dự báo chỉ từ 20 đến 40km. Từ hạn dự
báo 30 giờ, khi quỹ đạo dự báo của điều khiển có xu hướng đi lệch lên phía bắc. Sai
số tăng dần trong khoảng từ 60 đến xấp xỉ 140km tại hạn dự báo 60h, sau đó có xu
hướng giảm nhẹ.Với dự báo có đồng hóa số liệu Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như
trong hai thời điểm dự báo trước, sai số dự báo trong thử nghiệm một đã giảm đáng
kể và luôn nhỏ hơn của điều khiển. Trong dự báo 18 giờ đầu, sai số dự báo nhỏ hơn
20km, và quỹ đạo cũng có sự lệch lên phía bắc tương ứng với sai số trong các hạn
dự báo sau cũng tăng lên. Nhưng có thể thấy sự lệch lên không nhiều khi so sánh
với quỹ đạo mô phỏng. Độ lệch lớn nhất trong cả quá trình dự báo chỉ khoảng
90km. Với trường hợp chỉ có số liệu thám không tại Trường Sa được đồng hóa, nếu
như trong hai thử nghiệm trước (khi quỹ đạo dự báo cơn bão của điều khiển không
lệch nhiều) không có nhiều sự khác biệt giữa điều khiển và thử nghiệm hai thì trong
lần dự báo này, có thể thấy được hiệu ứng tích cực của số liệu thám không tại
Trường Sa. Tuy không đạt được đến giá trị sai số nhỏ như trong thử nghiệm 1, số
liệu thám không tại Trường Sa cũng đã giúp cho quỹ đạo bão thử nghiệm 2 sát hơn
với quỹ đạo mô phỏng. Sai số của thử nghiệm hai luôn nhỏ hơn của điều khiển. Sai
số lớn nhất cũng chỉ xấp xỉ 120 km.
Hình 4.8 Sai số khoảng cách dự báo tâm bão với quỹ đạo mô phỏng Sơn Tinh thời
điểm 07 giờ ngày 26/10/2012.
Có thể thấy rằng, khi quỹ đạo dự báo của điều khiển có xu hướng bám sát
với quỹ đạo mô phỏng thì việc đồng hóa số liệu thám không tại Trường Sa không
phát huy nhiều tác dụng, tuy nhiên, với một dự báo lệch rõ như dự báo tại 07 giờ
ngày 26/10/2012 thì số liệu Trường Sa đã cho thấy tác động tích cực, giúp quỹ đạo
41
dự báo ít lệch hơn. Các kết quả này một lần nữa được thể hiện qua lần dự báo lúc 13
giờ ngày 26/10/2012 được thể hiện trong hình 4.9. Trong lần dự báo này, quỹ đạo
dự báo của điều khiển tiếp tục lệch lên phía bắc khá nhiều so với quỹ đạo mô
phỏng. Việc đồng hóa số liệu Hoàng Sa và Trường Sa tiếp tục mang lại những hiệu
quả tích cực. Quỹ đạo dự báo trong thử nghiệm một sát với quỹ đạo mô phỏng hơn
nhiều so với quỹ đạo điều khiển. Với thử nghiệm 2, trong 24 giờ dự báo đầu, sai số
khoảng cách của thử nghiệm 2 và điều khiển khá sát nhau.Tuy nhiên, khi dự báo
điều khiển cho quỹ đạo bão Sơn Tinh đi lệch lên phía bắc, đồng hóa số liệu Trường
Sa đã giúp quỹ đạo dự báo bớt lệch kể từ các hạn dự báo tiếp theo, việc đồng hóa số
liệu Trường Sa đã giúp dự báo của thử nghiệm hai bớt lệch hơn.
Hình 4.9 Dự báo quỹ đạo cơn bão Sơn Tinh tại thời điểm 13h 26/10/2012.
Các kết quả này được cụ thể hơn trong hình 4.10. Trong 24 giờ dự báo đầu
tiên, quỹ đạo của điều khiển và của quỹ đạo mô phỏng không lệch nhau nhiều, sai
số khoảng cách chỉ biến đổi từ 18 đến 70km. Trong các hạn dự báo sau, khi quỹ đạo
dự báo lệch nhiều hơn phía bắc, sai số đã tăng nhanh lên xấp xỉ 150 km tại hạn dự
báo 54 giờ. Khi có đồng hóa số liệu thám không Hoàng Sa và Trường Sa thì sai số
khoảng cách đã được giảm rõ rệt. Sai số của thử nghiệm 1 trong khoảng 48 giờ dự
báo đầu không vượt quá 40km. Và trong các hạn dự báo cuối sai số từ 60 đến 100
km. Khi chỉ có một số liệu thám không tại Trường Sa được đồng hóa, trong khoảng
42
24 giờ đầu, sai số khoảng cách của thử nghiệm 2 và điều khiển xấp xỉ nhau, tuy
nhiên từ hạn 30 giờ số liệu thám không Trường Sa đã cho thấy tác động tích cực của
mình. Sai số khoảng cách của thử nghiệm 2 nhỏ hơn của điều khiển trong các hạn
dự báo sau này.
Hình 4.10 Sai số khoảng cách dự báo tâm bão với quỹ đạo mô phỏng Sơn Tinh thời
điểm 13h ngày 26/10/2012.
4.3 Dự báo cường độ bão Sơn Tinh
Yếu tố khí tượng thường được sử dụng trong việc xác định bão là áp suất cực
tiểu tại tâm bão. Cơn bão càng mạnh thì áp suất cực tiểu càng xuống thấp. Do vậy,
để nghiên cứu về tác động của số liệu thám không tới dự báo cường độ bão, luận
văn sẽ thực hiện kiểm nghiệm các tác động của thám không tại Trường Sa và Hoàng
Sa tới dự báo áp suất cực tiểu tại tâm bão. Các kết quả thu được trình bày dưới đây.
Trong dự báo quỹ đạo bão, việc đồng hóa thêm số liệu thám không tại hai vị
trí Hoàng Sa và Trường Sa đã mang lại những tín hiệu tích cực cho các dự báo. Cụ
thể, quỹ đạo dự báo bão đã tiến sát hơn với quỹ đạo cơn bão mô phỏng. Khi chỉ có
một mình số liệu thám không tại Trường Sa, tuy không thể có những kết quả tích
cực như có cả số liệu thám không tại hai trạm đảo nhưng cũng đã có những cải thiện
quỹ đạo đặc biệt trong trường hợp quỹ đạo dự báo bão lệch nhiều. Với dự báo
cường độ bão, việc đồng hóa thêm số liệu thám không tại hai trạm đảo Hoàng Sa và
Trường Sa không đem lại nhiều tác động tích cực. Các hình 4.11 đến 4.14 lần lượt
là kết quả thử nghiệm trong các thời điểm dự báo:
19 giờ ngày 25/10/2012
01 giờ ngày 26/10/2012
43
07 giờ ngày 26/12/2012
13 giờ ngày 26/12/2012
Tương tự quy ước trong 4.2, đường màu xanh là áp suất cực tiểu tại tâm bão
của quá trình giả lập khí quyển. Đường màu đen là dự báo áp suất cực tiểu tại tâm
bão của quá trình điều khiển. Hai đường màu đỏ và da cam lần lượt là các dự báo áp
suất cực tiểu của thử nghiệm 1 và 2. Tại thời điểm dự báo 19 giờ 25/10/2012, dự
báo áp suất cực tiểu tại tâm bão của điều khiển khá sát với áp suất cực tiểu mô
phỏng. Tuy nhiên trong khoảng 54 giờ dự báo đầu tiên, dự báo này thiên cao hơn và
từ hạn dự báo 54 đến 72 giờ thì thiên thấp hơn áp suất cức tiểu mô phỏng. Khi có sự
đồng hóa thêm quan trắc thám không từ Hoàng Sa và Trường Sa, thì dự báo được
cải thiện hơn trong 12 giờ dự báo đầu tiên và từ hạn dự báo 42 đến 54 giờ. Điều này
được thể hiện bằng việc đường màu đỏ trong các hạn dự báo này nằm giữa đường
màu xanh và màu đen. Trong các hạn dự báo còn lại, việc đồng hóa thêm số liệu
thám không tại Hoàng Sa và Trường Sa không cải thiện được dự báo. Với trường
hợp đồng hóa thêm số liệu tại Trường Sa, các kết quả thu được cũng tương tự như
trong thử nghiệm 1.
Hình 4.11 Dự báo áp suất cực tiểu tại tâm bão thời điểm 19 giờ 25/10/2012 so
sánh với áp suất cực tiểu mô phỏng
Hình 4.12 là các dự báo điều khiển và thử nghiệm đồng hóa được thực hiện
tại thời điểm 01 giờ sáng ngày 26/10/2012. Ta có thể nhận thấy, các dự báo của cả
điều khiển và các thử nghiệm cho cơn bão yếu hơn thực tế trong các hạn dự báo từ
06 đến 48 giờ (Các đường đen, đỏ và da cam ở phía trên đường màu xanh). Từ các
hạn dự báo 54 đến 72 giờ, các dự báo này lại cho cơn bão mạnh hơn so với cường
độ mô của quá trình khí quyển giả lập (các đường màu đen, đỏ và da cam ở dưới
44
đường màu xanh). Trong 18 giờ đầu, quá trình đồng hóa số liệu thám không tại
Hoàng Sa và Trường Sa không cải thiện được dự báo, từ hạn dự báo 24 giờ, quá
trình đồng hóa này mới có những tác động rõ rệt hơn, đường dự báo áp suất cực tiểu
tại tâm bão của thử nghiệm 1 đã sát với áp suất mô phỏng hơn so với dự báo của
điều khiển. Khi chỉ có một mình số liệu thám không tại Trường Sa được đồng hóa
thêm, thì sự cải thiện chỉ được thể hiện từ hạn dự báo 42 giờ trở đi.
Hình 4.12 Dự báo áp suất cực tiểu tại tâm bão thời điểm 01 giờ 26/10/2012 so
sánh với áp suất cực tiểu mô phỏng
Nếu như trong hai thời điểm dự báo đầu tiên, tác động của số liệu thám
không tại hai trạm đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thật sự rõ rệt thì trong hai
thời điểm dự báo sau, các cải thiện đã trở nên rõ hơn.
Hình 4.13 là kết quả thực hiện dự báo vào 07 giờ ngày 26/101/2012. Các dự
báo của điều khiển và thử nghiệm đều thiên cao hơn so với áp suất mô phỏng trước
thời điểm 7 giờ sáng ngày 28/10/2012 tương ứng với hạn dự báo 48 giờ (các đường
dự báo nằm phía trên đường áp suất mô phỏng) và từ hạn dự báo 48 giờ thì các dư
báo lại cho cơn bão mạnh hơn so với mô phỏng. Tuy nhiên, trong lần này ta có thể
nhận thấy các tác động của số liệu thám không tại Hoàng Sa và Trường Sa. Từ hạn
dự báo 18 giờ, dự báo thử nghiệm 1 đã có những cải thiện so với của điều khiển.
Đường dự báo của thử nghiệm 1 luôn nằm sát đường áp suất cực tiểu mô phỏng
hơn. Khi chỉ có một số liệu thám không Trường Sa thì phải từ hạn dự báo 48 giờ trở
đi, ta mới nhận được thấy được những cải thiện trong dự báo.
45
Hình 4.13 Dự báo áp suất cực tiểu tại tâm bão thời điểm 07 giờ 26/10/2012 so
sánh với áp suất cực tiểu mô phỏng
Hình 4.14 Dự báo áp suất cực tiểu tại tâm bão thời điểm 13 giờ 26/10/2012 so
sánh với áp suất cực tiểu mô phỏng
Hình 4.14, ta có thể nhận thấy tác động của số liệu thám không tại Hoàng Sa
và Trường Sa tới dự báo được thực hiện vào 13 giờ ngày 26/10/2014. Từ hạn dự
báo 18 giờ đến 66 giờ, đường màu đỏ (dự báo thử nghiệm 1) luôn nằm sát đường
màu xanh (áp suất mô phỏng) hơn soi với đương màu đen (dự báo điều khiển). Khi
bớt đi số liệu thám không tại Hoàng Sa, thì tác động số liệu thám không tại Trường
Sa phải đến hạn dự báo 42 mới có thể nhận thấy được cải thiện trong dự báo. Tuy
nhiên khác biệt này là do địa điểm đổ bộ khác nhau giữa hai dự báo
46
KẾT LUẬN
Các cơn bão được hình thành và phát triển trên các vùng biển rộng lớn. Tại
những nơi này số liệu quan trắc rất thưa thớt. Vì vậy, việc dự báo bão bằng các mô
hình số trị sẽ gặp nhiều khó khăn. Việc bổ sung số liệu quan trắc mà đặc biệt là các
số liệu thám sát bão là điều cần thiết. Việt Nam là một quốc gia với trên 3000km bờ
biển, trung bình hàng năm phải gánh chịu khoảng hơn 6 cơn bão ảnh hưởng từ nước
ta, các cơn bão này di chuyển từ biển Đông và ảnh hưởng tới đất liền. Tuy nhiên, số
liệu quan trắc tại biển Đông là rất ít, việc đưa thêm trạm quan trắc thám không dựa
trên vị trí các đảo tại biển Đông là cần thiết. Để biết tác động của số liệu này khi
chúng chưa được xây dựng, luận văn đã tiến hành xây dựng hệ thống thử nghiệm
mô phỏng hệ thống giả lập quan trắc. Bằng việc tiến hành xây dựng khí quyển giả
lập và đồng hóa số liệu thám không giả lập tại hai vị trí Hoàng Sa và Trường Sa.
Các kết quả thu được đã cho thấy những tín hiệu tích cực:
Về dự báo quỹ đạo:
Với thử nghiệm một, có sự tham gia của cả số liệu Hoàng Sa và Trường Sa,
quỹ đạo dự báo bão đã được cải thiện rõ rệt, sát với quỹ đạo bão mô phỏng
hơn khi chưa có đồng hóa.
Với thử nghiệm hai, chỉ có một mình số liệu Trường Sa được đồng hóa, có
hai nhận xét có thể rút ra:
o Khi quỹ đạo dự báo của điều khiển không quá lệch so với quỹ đạo bão
mô phỏng, thì tác động của số liệu tại Trường Sa không rõ ràng.
o Khi quỹ đạo dự báo của điều khiển lệch nhiều so với quỹ đạo bão mô
phỏng, thì khi đồng hóa số liệu Trường Sa đã có tác dụng làm giảm sự
lệch của quỹ đạo bão.
Những kết luận về tác động của số liệu thám không mới tại Hoàng Sa và
Trường Sa tới dự báo quỹ đạo bão được đưa ra trong luận văn dựa trên trường hợp
nghiên cứu cơn bão Sơn Tinh. Những kết quả này có thể sẽ thay đổi với cơn bão
khác và cần phải có thêm thử nghiệm với nhiều cơn bão khác để có thể đưa ra
những kết luận chắc chắn hơn.
Về dự báo cường độ:
Việc đồng hóa số liệu thám không tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã
đem lại những cải thiện trong dự báo áp suất cực tiểu tại tâm bão. Tuy nhiên, sự cải
thiện này chưa được rõ ràng như với những cải thiện trong dự báo quỹ đạo bão. Cần
47
thực hiện thử nghiệm với nhiều cơn bão hơn, kết hợp với những mô hình có độ phân
giải tinh hơn để có thể xác định tác động của số liệu mới tới dự báo cường độ bão.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Hoàng Đức Cường, Nguyễn ThịThanh, Trần ThịThảo (2013), “Nghiên cứu
ứng dụng sơ đồ đồng hóa số liệu 3DVAR cho mô hình WRF nhằm dự báo quỹ đạo
bão trên biển Đông”, Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi
trường và Biến đổi Khí hậu
2. Kiều Thị Xin, Lê Đức (2003), “Nâng cao chất lượng dự báo mưa bằng mô
hình khu vực phân giải cao HRM nhờ tăng độ phân giải và điều chỉnh trường
ban đầu bằng phương pháp đồng hoá số liệu ba chiều”. Tuyển tập hội nghị
khoa học, Viện Khoa học khí tượng thuỷ văn và Môi trường.
3. Kiều Quốc Chánh(2011), “Tổng quan hệ thống đồng hóa lọc Kalman tổ hợp
và ứng dụng cho mô hình dự báo thời tiết WRF ”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) Tr17-28
4. Nguyễn Lê Dũng, Phan Văn Tân (2008), “Thử nghiệm ứng dụng hệ thống
WRF-VAR kết hợp ban đầu hóa xoáy dự báo quỹ đạo bão trên khu vực biển Đông”,
Tuyển tập báo cáo Hội nghị dự báo viên toàn quốc lần thứ III, Tr 36-46
5. Trần Tân Tiến, Lê Thị Hồng Vân (2009), “Nghiên cứu ảnh hưởng của các
yếu tốcấu thành xoáy nhân tạo trong đồng hóa số liệu xoáy giả bằng mô hình WRF
đối với cơn bão Lêkima”, tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ, Số 3S (2009), tr508-516
6. Trần Tân Tiến, Nguyễn Thị Thanh (2011), “Đồng hóa dữ liệu vệ tinh modis
trong mô hình WRF để dự báo mưa lớn ở khu vực Trung Bộ”, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 3S tr.90-95.
Tiếng Anh
7. Alane. Lipton (1989), “Observing Systems Simulation Experiments:Their
Role in Meteorology”, Environmental Research Papers, No1028
8. Arnold, C.P,Jr., and C.H. Dey (1986), “Observingsystem simulation
experiments: Past, present, and future”. Bull. Amer. Meteor. Soc., 67, pp 687-695
9. Atlas, R., E. Kalnay and M. Halem (1985), “The impact of satellite
temperature sounding and wind data on numerical weather prediction”. Optical
Engineering, 24, pp.341-346
48
10. Atlas, R. (1990), “Simulation studies of the impact of satellite temperature
and humidity retrievals”. GEWEX Workshop Report on Retrievals of Temperature
and Humidity Retrievals from Space.
11. Atlas, R. and G.D. Emmitt (1991), “Implications of several orbit inclinations
for the impact of LAWS on global climate studies”. Second Symposium on Global
Change Studies, New Orleans, pp.28-32
12. Atlas, R.(1997), “Atmospheric observations and experiments to assess their
usefulness in data assimilation”. J. Meteor. Soc. Japan, 75, No. 1B, pp.111-130.
13. Baker,W.E., G.D. Emmitt, F. Robertson, R.M. Atlas, J.E. Molinari, D.A.
Bowdle, J. Paegle, R.M.Hardesty , R.T. Menzies, T.N. Krishnamurti, R.A. Brown,
M.J. Post, J.R. Anderson, A.C. Lorenc, and J. McElroy (1995), “Lidar measured
winds from space: A key component for weather and climate prediction”. Bull.
Amer. Meteor. Soc., 76(6), pp.869-888
14. Charney , J., M. Halem, and R. Jastrow (1969), “Use of incomplete
historical data to infer the present state of the atmosphere”. J. Atmos. Sci., 26,
pp1160-1163.
15. David S. Nolan, Robert Atlas, Kieran T. Bhatia, and Lisa R. Bucci (2013),
“Development and validation of a hurricane nature run using the joint
OSSE nature run and the WRF model”, Journal of advances in modeling earth
systems, vol.5, pp 382–405
16. Gordon, C.T., L. Umscheid, Jr. and K. Miyakoda (1972), “Simulation
experiments for determining wind data requirements in the tropics”. J. Atmos. Sci.,
29, 1064-1075
17. Jastrow, R. and M. Halem (1970), “Simulation studies related to GARP” .
Bull. Amer. Meteor. Soc., 51, pp.490-513.
18. Kasahara (1972), “Simulation experiments for meteorological observing
systems for GARP”. Bull. Amer. Meteor. Soc., 53, 252-264
19. Lei Zhang and Zhaoxia Pu (2009), “An Observing System Simulation
Experiment (OSSE) to Assess the Impact of Doppler Wind Lidar (DWL)
Measurements on the Numerical Simulation of a Tropical Cyclone”, Advances in
Meteorology
20. Michiko Masutani, John S. Woollen,Stephen J. Lord,G. David Emmitt,
Thomas J. Kleespies, Sidney A. Wood, Steven Greco, Haibing Sun, Joseph Terry,
Vaishali Kapoor, Russ Treadon and Kenneth A. Campana (2010), “Observing
49
system simulation experiments at the National Centers for Environmental
Prediction”, Journal Of Geographical Research, Vol. 115
21. Rohaly , G.D. and T.N. Krishnamurti, (1993) “An observing system
siumulation experiment for the Laser Atmospheric Wind Sounder (LAWS)”. J.
Applied Meteor., 32, pp.1453-1471
22. S. Nolan, Robert Atlas, Kieran T. Bhatia,and Lisa R. Bucci (2013),
“Development and validation of a hurricane nature run using the joint OSSE nature
run and the WRF model”, Journal Of Advances In Modeling Earth system
Research, Vol5, pp.382-405.
23. Williamson, D. and A. Kasahara (1971), “Adaptation of meteorological
variables forced by updating”. J.Atmos. Sci., 28, pp.1313-1324
24. Xiang-Yu Huang, Hongli Wang, Yongsheng Chen, Xin Zhang, Stephen A.
Tjemkes, Rolf Stuhlmann (2013), “An Observing System Simulation Experiment
using both MM5 and WRF: experiment configuration and preliminary results”,
Volume 2013 (2013), Article ID 971501.
25. Z.Pu, L.Zhang, B.Gentry,and B.Demoz (2009), “Potential impactof lidar
wind measurements on high-impact weather forecasting: a regional OSSEs study”
in Proceedings of the 13th AMS Conference on Integrated Observing Systems for
Atmosphere, Ocean, and Land Surface (IOAS-AOLS ’09),
26. William C. Skamarock, etc, 2005: A description of the advanced research
WRF version 2.