17

Click here to load reader

Ke thang nguoi thua - Ta chi dai Truong

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

Người thắng / kẻ thua, và rồi LỊCH SỬ

Hồi đó, có một quyển sách…

BÊN THẮNG CUỘC

Không cần khen Phò mã tốt áo: quyển sách đã gây được tiếng vang lớn. Với thời internet, có người đã

nhấp chuột, gõ máy để có sự kiện, con số đủ thuyết phục người hoài nghi. Sách được dịch ra tiếng nước

ngoài (Nhật) cũng được thông báo (BBC phỏng vấn 14-7-2013). Lại có ý nghĩ rằng sự ồn ào rồi cũng sẽ

chóng qua như mọi thứ thời trang khác trên đời, nhất là khi bắt đầu đặt một chân là trên thế giới ảo.

Tuy nhiên chính khu vực này cũng là một yếu tố thành công cho tác giả không phải chỉ vì sự loan truyền

mà cả trên tiến trình hình thành tác phẩm nữa.

Số lượng trang sách không mang tính cách tiểu thuyết feuilleton lằng nhằng ngày nào, nói lên đầy ắp các

sự kiện được dẫn chứng – chê hay khen lại là chuyện khác. Tác giả là một phóng viên có nghiệp vụ, quen

sự ghi chép, có ý thức về cái đích nhắm tới như đã thú nhận, thì từ năm 1997 đó, tạm cho là 15 năm đã

qua, đã tích tụ được những điều dành cho các trang giấy, hẳn cũng có thể gọi là nhiều. Có điều giá thuộc

vào lớp người trước, Huy Ðức không thể có, không thể ví dụ thành thạo sử dụng máy ghi âm, không có

cái PC chứa tạm gọi là bao nhiêu data cũng được – chưa nói đến những iPhone, iPad, tablet… thêm dạng

hình thông tin hầm bà lằng, và loại quảng bá cái gì mà Amazon Kindle và Smashbook. Kĩ thuật mới chật

vật đi vào kiến thức của các nhà lãnh đạo già bao nhiêu thì lại dễ dàng mang ích dụng cho lớp người trẻ

bấy nhiêu. Với phương tiện mới, Huy Ðức rõ ràng vượt được Vũ Thư Hiên quá xa nếu ta nghĩ đến những

thú nhận khó khăn của tác giả Ðêm giữa ban ngày, một quyển sách tạm gọi là đồng dạng, từng nổi tiếng

một thời, khi ông này phải viết dấm dúi, đánh máy lén lút, giấu đút bản thảo, đem nó ra khỏi nước… Cái

lợi thế về kĩ thuật internet đã phá vỡ mọi sự bưng bít thông tin của mọi quyền hành nào muốn giấu

nhẹm với dân chúng. Có internet, Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt mới dám khởi động đòi đất của Nhà

Chung trong tay người cầm quyền Hà Nội. Có internet, vụ Tiên Lãng mới ồn ào, gây phản ứng cấp thời

mà lan rộng gây khó khăn với nhà cầm quyền hơn là vụ nông dân Thái Bình (1997) trong thế kỉ trước. Có

internet, những quyển hồi kí mà những người vượt qua được nỗi sợ hãi di luỵ đến muôn đời con cháu

mai sau, đã dằn run rẩy viết lên nhưng vẫn không có nơi phổ biến, đã được tung lên mạng, dù có khi

được đẩy đưa trách nhiệm vào tay kẻ khác. Tấm màn thâm cung bí sử che lấp những điều lưu truyền

qua xầm xì lấm lét, bị vẹt ra khiến người ta thoải mái tỏ bày với anh chàng kí giả có “âm mưu”, để rồi

giật mình khi thấy nó xuất hiện trên giấy trắng mực đen… Tác động chính trị của internet cũng rõ ràng

không vượt qua tầm mắt của những người đầy phương tiện đã đem ra để bảo vệ quyền lực.

Người có trách nhiệm một thời nói ra ý nghĩ của mình, chịu kể chuyện “nội bộ” cũng chỉ vì nghĩ anh kí giả

kia là của “phe ta”. Hãy cứ nhìn bà Dương Thu Hương từng được bắt tay Tổng Bí thư, rồi sau khi phản

tỉnh chỉ phải ở tù vài tháng, và viết thư vẫn gọi tướng công an là “Anh”! Chuyện thoáng qua ngày ấy đã

Page 2: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

có thể là “sử” nhưng bằng cớ gần gũi thì đầy dẫy nơi các cuộc biểu tình những năm 2007, 2011… trong

đó các lời đấu khẩu giữa một bên có quyền lực dùi cui và bên kia có những cái miệng la lối, thấy cứ như

là chuyện gấu ó lẫn lộn giữa cái làng Hà Nội của tân cựu hương chức có đàn em đi theo. Và chỉ có nhắm

mắt lại mới không thấy những bày tỏ về cùng một sự kiện cũng có khác trên phố Hà Nội và đường Sài

Gòn. Cùng chống mất đất, Ðoàn Văn Vươn của Hải Phòng cho nổ súng hoa cải nhưng hai người phụ nữ ở

Hậu Giang chỉ có thể vùng vẫy trần truồng mà thôi. Sự cách biệt / khác biệt đi theo với lá cờ, chìm lấp

bởi các cách nhìn sôi động từ các vị trí khác biệt mang tính thời sự trong vụ Phương Uyên – Nguyên Kha

(5-2013) nhưng đã là trọng tâm công kích của phe Lề phải, và đủ lọt vào mắt ông Jonathan London để

ông không bằng lòng về sự xuất hiện cho là “lạc hậu” đó. Kẻ thua cuộc biết phận mình, không dám ngạo

mạn nhưng cũng được một người thắng cuộc ranh ma chỉ rõ, là “Các ông (lãnh tụ) ấy muốn tỏ ra bình

dân nên cũng dễ tiếp cận lắm”. Cái lợi thế ta/địch lớn lắm dù đôi khi cứ tưởng chỉ là của những “chuyện

nhỏ”. Cung Tích Biền muốn lưu giữ các phần viết tiểu thuyết của mình từ các trang báo hàng ngày trước

1975 cũng không được. Về phần Huy Ðức thì không phải chỉ thoải mái đọc Sài Gòn Giải Phóng mà còn

tận mắt ghi chép các tài liệu mật về cải tạo, đánh tư sản, cho vượt biên “bán chính thức”, đọc giấy tờ

của cái Tổng cục II ghê gớm kia…

Lại không phải chỉ có vấn đề của nội dung sách trần trụi. Giống như hòn đá ném xuống nước có những

vòng to nhỏ lan truyền. Sách nói chuyện chủ yếu về một quốc gia mà lại được xuất bản đầu tiên trên đại

lục, cách nơi xảy ra một bờ đại dương chứa đến ¾ nước địa cầu. Chuyện lại không phải mới hôm qua mà

bắt đầu từ 30-4-1975, nếu không muốn kéo thêm về trước. Cho nên ngoài sự lệch chuẩn không gian còn

có cả sự lệch chuẩn thời gian để cho những tâm tình phán đoán đủ đổi thay, nhân rộng khác biệt.

Khoảng thời gian đó giúp cho những sự kiện ẩn giấu, đi từ những xầm xì lén lút ra lời công khai theo kiểu

bị chê là “ngồi lê đôi mách” nhưng có khi lên đến báo chí bình thường, sách vở nghiên cứu mà người ở

xa không biết. Ðó là lí do một chừng mực hữu lí của những người công kích sách đưa ra: “Chuyện ai cũng

biết hết rồi”. “Không có gì mới”, là nói trong tầm mức sự kiện phổ biến đó chớ không phải đem đặt trên

bình diện phát hiện nghiên cứu, như một vài học giả đã nổi nóng. Vả lại ngay cả ở tầm mức nhận định,

thời gian cũng chen vào gây biến chuyển chứ không còn dừng lại ở lằn ranh khởi đầu. Không phải “ai

cũng biết hết” nhưng có nhiều, có khá nhiều người biết để không ngạc nhiên mà tán thưởng đến mức vồ

vập, như những người đang có một số vị trí an bình nào đó trên đất mới, không có cơ hội tiếp xúc với

thực tế, không rảnh rang nghe chuyện tiếu lâm thời mới như biến dạng của sự thật phi chính thống, râm

rang từ lâu trong nước – và đôi khi cũng lộ diện công khai bất ngờ, có lẽ trong sự sơ suất “mất cảnh

giác” của người cầm quyền: “Hồ hởi làm sao được hỡi Hồ?” (Vương Hồng Sển, Nxb. Trẻ 2003). Ngay ở

tầng lớp nghiên cứu, nơi một vài bài nhận định về cuốn sách Bên thắng cuộc của một vài nhân vật được

giới thiệu là gồ ghề, cũng vẫn chỉ thấy những ý kiến nhàn nhạt “ai cũng biết rồi”. Người cùng tiếng nói

còn như thế huống chi khách khoa bảng ngoại quốc sao lại không luận bàn theo cách có người chê là “ai

cũng biết”, dù rằng khách ở vào vị trí thuận tiện để thu nhận sự kiện, có khi bởi vị thế “Tây” của mình lấn

lướt đám dân nội hoá bản xứ, bởi sự cả nể của người cầm quyền không che giấu được mặc cảm tự ti

một khi sự tự tôn đành phải loại bỏ.

Page 3: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

Khoảng cách địa lí không làm mờ nhạt sự kiện mà còn khuấy động thêm chỉ vì có một nhóm dân tản lạc

chưa thể nào quên khá khứ rướm máu: “Chúng tôi có gần bốn mươi năm để làm người thua cuộc /

Chúng tôi không viết hoa vì đã thua người thắng lâu rồi” (Nguyễn Tấn Cứ). “Mỗi một người Việt xa xứ

mang theo cả một kho truyện đầy bi hài của một giai đoạn lịch sử nước Việt. Tốt nhất là đừng đụng đến

nó, nó như một ngọn lửa âm ỷ cháy, dễ bùng lên…” Người của Phe thắng cuộc Lưu Trọng Văn không phải

đến Australia mà đến Mĩ thì cũng vẫn giữ nguyên ý kiến đó. Ở đây không còn kịp cho vấn đề dàn trải lí lẽ

Phải Trái. Sự kình cãi giữa những kẻ lưu vong trên khu phố Bolsa diễn ra bằng các lời đối đáp đem lại

hãnh diện cho người đắc thắng có-chữ: “Ðã đọc chưa?” – “Không cần đọc, không cần biết!” Không cần

biết đến những thống kê lằng nhằng rắc rối, những tranh chấp cung đình phức tạp của những kẻ ngự trị

bằng quyền lực, đã hay đang đấu đá nhau. “Thấy mặt là đã không ưa rồi!” Bỏ xứ chạy, cứ tưởng là nhà ai

nấy ở, không ngờ người ta rượt ra tận biển khơi, hoang đảo đập phá hình tích trốn chạy “đi được thì con

nuôi Má, không được thì con nuôi cá…” Rồi thừa thắng xông lên, họ lấy tính cách chính thống chiếm lĩnh

dân nước, mở rộng uy thế của một thành phần quốc tế, dẫn dụ kẻ “chiêu hồi” nói lời đầu hàng nhục

nhã, đem rao giảng đạo đức bình thường mà trở thành độc tôn của kẻ thắng vào đến tận từng nhà trên

đất mới, gây thêm nỗi nhục hí hửng tưởng lầm “chỉ một lần thôi / Không thể có cơ thua thêm lần nữa

bao giờ!” Nghị quyết 36 kia không phải là lời hoà giải nhưng là mưu toan mang tính tấn công vào “hang

ổ cuối cùng”của bọn sổng thoát, nhen nhúm lại sau ngày 30-4-75. Muốn “cấm cửa Việt cộng” như các thị

xã Westminster, Garden Grove đã làm, người ta phải nại cớ thật sự khác: sợ tốn tiền “chào đón”! Chửi

thề, chổng mông tuột quần như ngày nào ở San Jose đúng là chướng, nhưng trong đó có sự thú nhận

thất bại, là phản ứng của kẻ cùng đường, dồn tức giận vào người trước mắt, bên cạnh. Trong giới hạn

tranh chấp thu gọn thì báo Người Việt cũng nên coi mình cũng chỉ là một nạn nhân của thời thế, cái thế

chịu đựng của sự hiện diện có-thế của mình – hãy so sánh với sự chống đối Việt Weekly thì dễ chấp nhận

hơn.

Gọi Huy Ðức là Việt-cộng-con, dựa vào thời điểm 30-4-1975 đó, có lí không phải từ thành kiến về nơi

xuất thân của anh mà còn từ chính ưu thế vẫy vùng của anh trong tiến trình phổ biến quyển sách nữa.

“Bên thắng cuộc nói gì viết gì / cũng không ghê rợn bằng chúng tôi đã sống”. So sánh với hiện tượng

best-seller của sách báo ở hải ngoại thì rõ ràng sự xuất hiện của các quyển Ðêm giữa ban ngày, Chuyện

kể năm 2000 (có người còn nhắc thêm các sách của Nguyễn Khải, Nguyễn Ðăng Mạnh…) và bây giờ, Bên

thắng cuộc, tuy mang yếu tố khích động tò mò về chuyện trong nước nhưng cũng không tránh khỏi cho

thấy có sự vồ vập ẩn giấu từ sự thu hút của Bên thắng cuộc. Sách vở Bên thua cuộc cũng đã có nhiều

nhưng được coi như thêm một bằng cớ thua cuộc nhục nhã (kiểu ông Hoàng Phúc Hải, cựu sĩ quan Cộng

Hoà, đương kim đại biểu Quốc hội của Tp. Hồ Chí Minh đưa ra). Hay rộng rãi ra thì chỉ là tiếng thở than,

căm giận có thể gợi thông cảm của kẻ thất thế chứ không thể là một bằng cớ cần ghi nhận về một sự

biến, một thời đại. Ở đây nổi bật lên vấn đề: phần của người thua cuộc phải được nói lên từ người thắng

cuộc mới có giá, giá bao nhiêu thì còn tuỳ… Những người phản tỉnh một thời tự ca tụng, nay thấy như

một dịp để bào chữa xuê xoa với kẻ mình hất hủi xưa kia. Cả người thua cuộc xiêu xiêu đang sống trong

an bình, cũng có dịp coi như một lần tự sướng để phải được nhắc nhở: “Không có gì phải sung sướng

ghê lên / khi họ bắt đầu trò chơi sám hối…/ khi họ buộc phải chìa ra bàn tay hoà hợp”. Hoà hợp hoà giải

là lí tưởng đẹp như mơ nhưng cũng là bằng chứng thử thách trí óc ngu muội của con người. Huy Ðức

Page 4: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

không có chủ ý vẫn phải chịu đựng sự hoài nghi không phải chỉ trở thành định kiến mà còn là sự hiển

nhiên, đương nhiên: “Bên thắng cuộc nói gì viết gì / cũng không gì mới hơn”. Phong trào vượt biên bị

chặn lại vì thế giới kinh hoàng trước làn sóng người đổ ào ra biển chứ không phải vì người cầm quyền Hà

Nội chùn bước trước nhu cầu an ninh của mình, phải “xuất khẩu phản động / nghèo đói”, trong đó

không khỏi có tham vọng “tát nước theo mưa”, cấy người làm cách mạng thế giới theo đà tự huyễn với

chiến thắng choáng ngợp ngày 30-4-1975. Cứ nhìn những diễn tiến từ bao nhiêu năm qua, và những lời

công kích đúng lập trường, hay tuy có chệch hướng vừa đủ mà vẫn không mất tính chính thống, được

đưa ra từ trong nước, nơi các comments trên mạng ủng hộ Nhà nước đương quyền, hay cả trên các

phát biểu bất chợt của những nhân vật như hiện vật khảo cổ đồng thời với con cháu họ, thì đủ biết.

Và “lịch sử” kế tục

Bởi vỉ lịch sử vẫn tiếp tục ở một phía. Có lẽ vì được ra ngoài, Huy Ðức mới có thêm được các chứng thực

đầy kinh hoàng về chuyện cải tạo, vượt biên. Cho nên mới có phản ứng gay gắt của anh sĩ quan Thuỷ

quân lục chiến nọ. Còn trường hợp nếu kẻ liên can không biết tới thì lại không có dịp cải chính. Ví dụ

chuyện nhà nước ta đến những năm 1980 còn giữ “BẢY TƯỚNG LĨNH Nam Triều Tiên” già yếu gần chết

trong các trại tập trung. Người không thạo chuyện binh lửa thì dễ tin như nghe chuyện anh hùng Nguyễn

Văn Bé “ba lần dũng sĩ: diệt Mĩ, diệt nguỵ, diệt xe tăng” của Viện Sử học, trong khi Seoul mắc lo đào củ

sâm làm kim chi, có vài anh mang bằng Tiến sĩ Việt (!) viết tiếng Việt không xuôi đăng bài, in sách dạy

dân nhà nước ta học sử, những người đó chắc không đủ chữ để tìm ra tin vể Bảy ông tướng của mình

còn mắc nạn trong rừng chữ của Huy Ðức. Chỉ có anh lính thường của Bên thua cuộc mới giựt mình:

“Cấp bực (ví dụ) Tiểu đoàn trưởng của Ðại Hàn là tướng hay sao mà để Việt Cộng bắt tới BẢY người như

bắt ruồi vậy?”

Loại viết theo thời sau 30-4-1975 — kể cả của những người từng quậy tưng bừng giữa đường phố, hiên

ngang trên sách báo, ở nghị trường, loại viết cầu sống này, bọn tù cải tạo đã ngậm ngùi đọc và cười ngất

trong trại. Không có gì lạ. Ông Hoàng Ngọc Hiến từng nói với tôi (đại khái): “Ðọc sách của anh mới biết

chuyện dữ dằn bên trong nhà giam (Dân chủ Cộng hoà)”. Ấy là tôi được ở trong một nơi nghe nói chưa

đủ “đô” so với các nơi khác, dù rằng Gia Trung là trại công an trực thuộc trung ương đầu tiên của Miền

Nam. Sự cách biệt trong, ngoài vòng rào giúp ta hiểu vì sao người ta truy bức tác giả Chuyện kể năm

2000. Sức tràn lấn của binh đội chiến thắng ngày 30-4-1975 khiến cho những biến động sau đó, dù to

lớn, dù đau thương thức mấy cũng chỉ được coi như những xáo trộn đương nhiên phải có chứ không thể

đặt thành vấn đề chính nghĩa cho chế độ.

Page 5: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

Cho nên, chớ nghĩ rằng các bài viết chê trách Bên Thắng Cuộc trên báo chí trong nước, dù là của Công

an, cũng chỉ là đơn thuần kiếm cơm, theo chỉ thị. Mà có là xỏ xiên móc ngoéo, mắng mỏ chửi bới thì

cũng chỉ giống nơi phía đối kháng – cái khác ở đây là họ đứng ở vị trí thành phần cai trị nước mà thôi.

Căn bản của sự lên tiếng vẫn là bằng chứng của lịch sử đã thành hình. Ðả phá “cái nhìn thiên kiến về lịch

sử” của quyển sách vì cho rằng phải “hiểu đúng về bản chất của cuộc chiến tranh” kết thúc ngày 30-4-

1975 đó, là tóm thâu cả một tin tưởng được thành hình để làm nên chiến thắng, là chính lịch sử đã qua

của họ, là quá khứ ùn ùn thiên lệch được trân trọng viện dẫn: “nhân dân một lòng theo Ðảng”, để người

ta chống đối những ai “bắn vào quá khứ” theo cách lúc nào cũng dễ tìm ra một danh ngôn phù trợ cho

mình. Ở trình độ thấp hơn, là những người ném đồ dơ vào nhà kẻ chống đối, còn anh, nhắc đến Tổ

quốc, công lao tiền nhân… dùng cho một phản biện, là một thủ thuật đã trở thành bình thường mà

người thanh niên thế hệ mới, được dạy bảo để bênh vực cho chế độ anh cho là không thể nào có mặt

trái. Anh chỉ đau lòng thấy các thần tượng “bị phỉ báng” mà không có dịp để bào chữa, chứ không nhận

ra rằng sinh thời các “vĩ nhân” đó hành động không cần tự bào chữa, không cần ai bào chữa giùm, vì đã

có một thời đại ùn ùn dâng lên che lấp các khuyết điểm – chưa nói đến xấu xa, của họ. Trong giai đoạn

tiến chiếm quyền hành, họ đã tụ tập được một lớp quần chúng trung thành được gọi là Ðảng viên,

hưởng chút ân huệ đứng ngoài pháp luật để đổi lấy ảo tưởng là tầng lớp ưu tú của nhân loại, có những

người như họ với vị thế lãnh tụ thần thánh nằm ở tột đỉnh, đứng trên pháp luật của mọi thời. Họ đã

vượt qua những triều đại đi trước trong khi thừa hưởng luôn cả những thu xếp trong quá khứ, để sống

với đặc quyền đặc lợi (“có chiếu cố đến nhân thân”) kéo dài đến sau khi chết, lưu giữ cả cho thế hệ tiếp

nối. Ðó là trường hợp tập ấm khá khôi hài trong tù của Cù Huy Hà Vũ, với một số đối xử riêng biệt, bất

ngờ phải xuất hiện công khai khi nhà cầm quyền lấy đó làm chứng cớ cho tính nhân đạo ban phát đều

khắp trong tù ngục của chế độ mình.

Ðắm mình vào giá trị đạo đức tưởng chỉ dành riêng cho tập thể mình, người ta viện dẫn đến trường hợp

cặp đôi : Lưu Quý Kỳ – Lưu Ðình Triều: “Không nhẽ, bố anh lại… không có trái tim”. Trong chuyện này có

sự lệch chuẩn thời gian, sự đổi thay tâm tình qua năm tháng mà Huy Ðức khi “phân trần” với Lưu Ðình

Triều đã giữ vững lời lẽ của mình. Còn bọn cải tạo, không chỉ có bằng chứng trên thân xác mà còn ghi

được trên giấy tờ, thì thấy rằng chuyện người “cách mạng” bảo lãnh cho người thân đang cải tạo cũng

xảy ra theo thực tế phức tạp của cuộc sống chứ không phải là chuyện của sĩ diện đạo đức vu vơ. “Ảnh sợ

mất tuổi Ðảng, má ơi!” Du kích làng, điếc không sợ súng, có khi làm giấy bảo lãnh nguỵ với lời lẽ mạnh

hơn bất cứ ông Cao cấp nào. Còn muốn bảo vệ giá trị đạo đức cho ông Lưu Quý Kỳ thì có thể viện dẫn

đến lập luận về dân chủ tập trung, về sự hi sinh cá nhân cho lí tưởng, về sự xấu xa của đạo đức tiểu tư

sản so với nền đạo đức vô sản ưu việt, về tinh thần khoan dung trời biển của dân tộc Việt, tất cả đầy dẫy

trong sách vở mới, nhẫy tai trong các cuộc hội họp. Từ đó đã xuất hiện một phong cách hành xử lạ lùng,

không có nơi nào, cả trong sách vở tranh bá đồ vương, về một lối thành thực nói dối trước những người

biết mình đang nói dối! Lối hành xử vẫn còn lẩn khuất trong đường hướng chủ đạo dẫn dắt đất nước

bây giờ, không chỉ ở chuyện “cải tạo” đã trở thành quá khứ.

Page 6: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

Nhắc lại chuyện xưa, khi Lưu Hữu Phước rủ rê người điên Nguiễn Ngu Í: “Hay là Nguyễn hãy vào chơi

Thiên Thai với Lưu một chuyến…” và được trả lời: “Ở Thiên Thai không có tình người”. Người cộng sản

tự phụ mình đầy nhân tính nhưng cái nhân tính đó chỉ là dành cho đời sau, đời của thứ lí tưởng mà dần

dà với thực tế được thấy là hoang tưởng, còn với ở đời này thì “tình yêu giai cấp” được cổ xuý đó mang

tính cách giai đoạn, phường hội, dẫn đến tình trạng trở trái làm mặt, xoay chuyển phụ thuộc vào sự điên

đảo của quyền lực ban phát – không phải cùng phe là “diệt”, “tận diệt”, cái đó khó có thể gọi là nhân

tính. Lằng nhằng thêm về một hai trường hợp riêng rẽ như thế cũng để chỉ lặp lại, là lịch sử đã thành

hình, đủ cho một cái khuôn may ra có thể vẽ thêm một chút gam màu cho bắt mắt hơn chứ còn lâu mới

tìm được một cái khuôn khác.

Lịch sử là tập họp, kết tụ của những diễn biến đã xảy ra, tiên vàn là trong hình thức xuất hiện trần trụi

của chúng. Nhưng cùng lúc, tác động lan toả cũng đã khác trên những tập đoàn khác nhau để dẫn đến

những suy luận thành hình khó xoá bỏ. Tấm hình cô bé trần truồng kêu khóc giữa khung cảnh bom đạn

đem lại huy chương quốc tế cho người phóng viên tập sự, thật ra chỉ là chụp được cách xa mặt trận, nếu

ta chú ý tới hậu cảnh gần với toán lính đi theo, đầu súng chúc xuống đất (nhận xét của Trần Hoài Thư).

Thế mà nó đã được chỉnh sửa tung ra theo nhu cầu thông tin nhạy cảm cấp thời – chưa tính tới sự khích

động tiềm ẩn từ khuynh hướng tả phái của nhóm, tập đoàn, ít nhiều cũng làm nên một yếu tố chống đối

một phe nhóm – sau này là Phe thua cuộc. Mọi thứ như thế cùng lúc với các yếu tố khác đã làm lệch cán

cân quyền lực trong tranh chấp đương thời. Sự định hình quanh bức ảnh vẫn không suy suyển dù rằng

với thời gian, Phe thắng cuộc đã phô bày sự bất xứng của mình. Chính hình tích cô bé cũng đã mờ nhạt

nơi phía bồi đắp thêm vinh quang cho cô, vì lúc lớn lên cô đã không chọn lựa phía ấy nhưng bốn mươi

năm sau, khi xuất hiện trên tivi (The Power of the Picture, đài ABC 2, 3-6-2012), vẫn thấy lửa napalm như

chồm lên người cô, như cháy tràn thị xã Củ Chi ngói lầu tở mở của năm 2012, còn cách thế phát biểu

tiếng Anh lưu loát, dáng vẻ phúc hậu an bình thì không gợi lại một chút gì giả trá được tạo dựng dành

cho hình ảnh cô ngày xưa. Vinh quang từ đó chỉ có người thắng cuộc được nhận lãnh, không suy suyển.

Còn nói gì đến các sự thật chòng chéo hơn. Như tính cách lệch chuẩn văn hoá khi tôi nói về bức hình

tướng Loan bắn người đặc công, “bức hình làm thay đổi đường hướng cuộc chiến” (National Geographic

tháng 10-2013). Ông ta được tình thế xếp hàng với tập đoàn những người đồng minh muốn thấy chiến

binh ra trận như tướng trên sân khấu hát bội: “Như ta đây là… Việt cộng!” Ông ta vốn cũng xuất thân

như những người ông chống đối, cho nên đoàng một phát trong lúc nóng giận – hay để tỏ oai phong /

“giựt le” , cũng không có gì là tàn nhẫn hơn cách thế đồng đội, cả bà con dân chúng, từng phải chịu đựng

khuất lấp trong xóm làng, có thể là cùng ngày hôm đó trên xứ Huế quê hương của ông. Rủi ro là các hình

chụp từ các đống xác sình thúi vài tháng sau, lúc sôi động đã qua một ít, lại không có một tấm hình

tương đương lúc người ta “đập đầu cá lóc”, để làm bằng chứng, khỏi phải tranh cãi về thủ phạm đích

danh với những người khăng khăng một mực, phát biểu như tụng kinh, hô khẩu hiệu, ngây thơ đến chết

người: “Phe ta mang chính nghĩa ngời ngời tiến hành cuộc chiến tranh thần thánh, có lẽ nào lại như

thế!” Ðể Huế hàng năm có trống rung, cờ mở ăn mừng chiến thắng, mắt ngơ tai điếc trước những bàn

thờ khấn vái hàng trăm, hàng ngàn người cùng một ngày khuất bóng. Chuyện không dừng ớ đó. Bức

Page 7: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

hình như bằng chứng tội phạm, không tha lúc Ông thua cuộc chạy trốn sự xua đuổi của cả những người

cùng phe, chắc hẳn cũng chưa thấy được giải thoát ngay cả lúc chết dù tác giả bức hình đã lên tiếng

phân trần cho ông. Sự hận thù có thể hạ nhiệt với thời gian nhưng bằng chứng chính/tà vẫn không suy

suyển. Thế hệ sau của Phe thắng cuộc có người lặp lại bằng bức tranh triển lãm vẽ người đặc công nhăn

mặt nhận được quả trứng vào mắt! Và đau thương hơn, có con cháu kẻ di tản, được hưởng gia tài

khoan dung trên đất mới, cũng lại chê trách thế hệ trước, coi như đó là bằng chứng của lí lẽ thua cuộc

hiển nhiên. The Power of the Picture không chỉ là sức mạnh tự thân của hình ảnh mà còn phải vướng

thêm sự định hướng của thời sự, thời thế cho nên Mĩ Lai mới lấn át Dak Sun ở xứ Thượng (1967) và gây

cả tranh cãi, phân vân trước thực trạng Huế! Muộn màng bên lề còn có chuyện đám con cháu lính Ðại

Hàn, sống trong thế giới an bình, tách rời khung cảnh truyền thống chiến tranh “thảo phạt” / chặt (loài)

cỏ rác, nên lên tiếng tố giác tội ác tày trời của cha anh họ trên đất Việt hiền hoà họ được tiếp đón ngày

nay, nhờ các đồng tiền củ sâm đấy bổ dưỡng! (Nói cho cùng thì chuyện “cải tạo” chỉ là hồi tiếp theo của

quan niệm truyền thống thảo phạt kia. Những phóng viên ngoại quốc ít oi còn hiện diện trong ngày 30-4

năm ấy, đang phải lăng xăng quanh dinh Ðộc Lập xem cái xe tăng nào húc đổ cây cổng đã mở ra, có ai

quan tâm tới cảnh đập đầu, thắt cổ nơi tỉnh, làng xa tít mờ mịt đâu!)

Quyền lực vững vàng của chính quyền thừa hưởng từ chiến thắng càng củng cố thêm những quan điểm

ủng hộ cũ, hay được coi là mới mà thật ra chỉ vì làm theo thói quen của phát biểu. Trên các bản tham

luận trong các cuộc hội nghị Việt Nam học ở Hà Nội của học giả ngoại quốc, thấy có các nhóm từ (đại

khái) “từ lúc / qua quá trình Ðổi mới…” Loại lời ca trong khẩu hiệu “Ðảng Cộng sản Việt Nam quang

vinh…” trở lại trên tivi CBS. Giới thiên tả quốc tế ngượng ngùng lẩn tránh sau các biến động vượt biên,

sau sự suy yếu của phong trào cộng sản, hay đã chuyển hướng qua các đề tài mới kiểu Bênh vực đồng

tính… cũng có dịp trở lại minh định chính nghĩa cũ với loại khảo cứu muộn màng kiểu Kill Anything that

Moves (2013) của Nick Turse. Ðã nói, lịch sử vẫn còn dịp là của người chiến thắng.

Nên lịch sử chính thống vẫn đang rùng rùng đi tới

Vì có cái thắng nào lại không có cái hữu lí của nó? Có lí hay không chỉ là do khác tiêu chuẩn định hình cho

phán đoán. Vượt trên mọi trở ngại lựa chọn tiêu chuẩn, Bên thắng cuộc đã tỏ rõ quyết tâm của mình.

“Giới lãnh đạo VNDCCH nắm chắc mục tiêu ‘dân tộc – cộng sản’ thẳng tiến vào Nam đến chiến thắng tận

Sài Gòn, không ngừng bước trước bất kì trở ngại nào và không ngần ngại trước bất kì hi sinh nào”. Sử gia

F. Guillemot chỉ lặp lại với một dạng khác lời của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dù phải chiến đấu đến 5 năm,

10 năm hay lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”. Có thế nên sau

chiến tranh, ông Trần Bạch Ðằng mới chê bai chuyện Mĩ kiên trì tìm vài ngàn người mất tích của họ, để

Page 8: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

so sánh với 800 000 MIA Việt nằm trên Trường Sơn, được giao phó cho nỗi nhớ của người thân và sự

lùng sục của các ông bà ngoại cảm xoáy tiền của nhà nước vô tội vạ với sự chuẩn nhận chia chác của các

nhà lãnh đạo cùng tâm thức, làm phát sinh thêm một ngành “khoa học tâm linh” phồn tạp với các danh

xưng Tổ chức, Trung tâm, Viện Nghiên cứu… không chừa các ghi chú bằng Anh ngữ oai phong với những

người đầu ngành là các Tiến sĩ, một cựu Bộ trưởng Giáo dục lên tiếng bênh vực ngay cả khi các “đồng

nghiệp” ra toà vì tội lường gạt! Chỉ với thời gian làm loãng các đầu óc nhồi nặn căm thù, có người mới

nhận ra: “Cuộc chiến chỉ tính nó là thắng lợi là chiến thuật là đấu trí mấy ai đong đếm máu người mấy ai

nhòm ngó đến nỗi đau khổ nhỏ nhoi cụ thể”, để chỉa mũi dùi trách móc vào “người đàn ông quyết liệt…

đêm đêm đi lại trong ngôi biệt thự xây kiểu Pháp giữa khu nhà dành cho những ngôi vị cao nhất” (Lê

Minh Khuê, 2012). Người đàn ông quyền lực đó lúc còn chưa đạt đỉnh cao đã chịu ăn mặc tồi tàn, sống

cam khổ, đủ dáng vẻ chuẩn mực đạo đức cao vời, lấn át thực tế chiếm đoạt, giúp an ủi thuyết phục cô

tiểu thư con một chức chưởng thời “thuộc địa”, “phong kiến” vừa bị buộc bỏ tình nhân đã có vợ để lấy

người có vợ khác! Và một khi đã “quyết liệt” bằng thân xác kẻ khác thì cũng dễ an tâm chuyên chú vào

những mục tiêu cố định, đem lại thành công chắc chắn, không dành chỗ cho những dao động khác chen

vào.

Ðây là lần đầu tiên – mà có lẽ cũng là độc nhất trong lịch sử, Việt Nam có một lớp người làm chính trị với

tính cách chuyên nghiệp – ăn, ngủ, thở, chết đều là với cái đích quyền bính. Ðối địch với họ chỉ có những

người hời hợt của đất thuộc địa lạc đường vào lịch sử, ngu ngơ giữa chợ đời chính trị, ngông nghênh gắn

bảng tên “révolutionaire annamite” trong khi đi cầu cơ, những người vung tay múa chân giật micro trên

sân khấu cải lương, hờn dỗi chống ba-toong làm ăn mày biểu tình, hay đem pha trộn chút lí tưởng nhà

nho thời suy tàn với sắc màu lãng mạn Tây phương trong hình ảnh nhân vật một chiều trên bến vắng

“lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang”, để rồi không chế ngự được nghịch cảnh, phải vật vã khùng điên lúc

cuối đời. Chính trị đối với những người này là những lúc hăng say bất chợt, vụt thấy “bên kia sông là ánh

mặt trời”, vui làm buồn bỏ, hoặc rồi sẽ trở về đời thường ở ẩn như ngày xưa, hay “trùm chăn” theo

nghĩa thời nay, nhai nuốt ân hận, nếu có bị đưa đẩy vào cuộc đời gió bụi thì cũng sẽ đến hoang mang lạc

lõng, tàn tạ như lời nhận xét trong lúc thành thật cuối đời của ông Nghiêm Xuân Hồng khi nói về các lãnh

tụ đồng thời (1945): “Có gì đâu, chỉ là (thuốc) phiện với đĩ thôi…” Cứ đọc hồi kí của “Việt cộng” tư sản

Trương Như Tảng, hay loại hồi kí “khoe một thời, giấu một lúc” của Lý Quý Chung thì đủ rõ những hoàn

cảnh khác nhau mà cùng chung một tính chất. Và cũng có thể kể thêm các nhân vật của “Lực lượng thứ

Ba” ngờ nghệch, phụ hoạ, bị chế riễu là “cầm cu cho chó đái”. Với số đông dân chúng thì sự ngây thơ

chính trị tỏ lộ trong những lần kéo đi xem “đánh nhau”: đảo chính, giải phóng – nhóm từ được sử dụng

một cách thản nhiên, hồn nhiên ngay cả khi họ phải sống cơ cực, cùng khốn dưới quyền những người

“giái phóng” họ. Tính chất ơ hờ, hơ hỏng của những người được nuôi dưỡng trong một không khí pháp lí

bình thường, khiến cho họ khi cầm quyền, dù phải nghi ngờ, dò xét lại vẫn xử lí kẻ chống đối theo mức

độ liên can “tội ai làm nấy chịu”, ví dụ không truy bức gia đình Lữ Phương, Nguyễn Thành Trung, vẫn cho

con gái Trương Như Tảng du học Mĩ, con gái Huỳnh Tấn Phát học ngôi trường Gia Long quý tộc, con trai

đỗ Tú tài rồi mới (bị) “bắt lính” vào Thủ Ðức như với một công dân bình thường…

Page 9: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

Trong khi, ở những người đối địch là lí tưởng cao vời trong hiện tại hoà nhập vang vọng đâu đó với ước

vọng khu vực về thời hoàng kim an lạc thái bình, được thực hiện theo những tấm gương tranh đoạt

quyền bính ở các tập “diễn nghĩa” Xuân Thu, Lương Sơn Bạc, noi gương các nhân vật giết vợ để làm

tướng quốc (Ngô Khởi), lăm le chăm sóc cho cái lưỡi của mình vẫn còn đó để đủ thuyết phục đấng quân

vương (Tô Tần)… Ông lãnh tụ “Danh nhân văn hoá thế giới” hụt, không phải đang hồi lao đao lận đận

trốn chui trốn nhủi, mà vào lúc đang ngồi trên đỉnh cao quyền lực, đã ép mình vào cảnh nghe lời “ các

Chú ở Bộ Chính trị (bảo) không lấy vợ thì có lợi hơn” nên chịu để khử cô sơn nữ ngây ngốc, không muốn

làm cha đứa con mất mẹ rơi rớt, cốt để giữ danh vị Cha già dân tộc, để được tung hô làm đấng khai sáng

triều đại, thúc giục hàng triệu người “Tiến lên toàn thắng ắt về Ta!” Câu hỏi: “Ông Hồ có vợ hay không?”

ồn ào khuất lấp một thời, đã làm bay chức cô Tổng thư kí báo Tuổi Trẻ, thực ra chỉ mang tính cách thời

sự nhưng bị ngăn chặn để không làm nảy ra câu hỏi mang tính cách trắng trợn hơn: “Ông Hồ / Bộ Chính

trị có giết vợ / xoá bỏ vật chướng ngại trên đường thành đạt không?” Trắng trợn nhưng cụ thể để có thể

đưa vào lãnh vực nghiêm túc, hàn lâm của các nghiên cứu về tâm thức tranh đoạt quyền bính, đề làm

bằng cớ trong hiện tại mà phỏng đoán về hành động các nhân vật lịch sử ít được soi sáng vì thiếu tài liệu

để lại.

Không chừa chỗ trống cho một hơ hỏng nào khác, người ta đày đoạ gia đình những người di cư làm việc

cho nguỵ, để một sớm tưng bừng nào đó, những người vợ, những đứa con dưới đáy tầng xã hội kia chợt

nghe báo rằng chồng, cha của họ mang quân hàm tướng tá, là anh hùng lực lượng đấu tranh trong lòng

địch, nằm ở những vị tri cốt cán của kẻ thù. May mắn hiếm hoi có lẽ là trường hợp người con cả của của

Thủ tướng / Tổng thống Trần Văn Hương, Trần Văn Dõi / Lưu Vĩnh Châu, viên Ðại uý dự trận Ðiện Biên

Phủ đó nhờ ông “du côn” Ung Văn Khiêm khuyên chớ “tự giác” (vì đó là tự sát), nên sau ngày thống nhất

được về sống với cha, để Ðảng lại được thêm tiếng bao dung…

Cái lối tính tiêu chuẩn giá trị dành riêng cho phe phái mình của người cộng sản đã trở thành bình thường

đến mức, khi đà thành công nâng cấp cho chủ thể, người ta liền đẻ ra một loại triết lí, giả triết lí để biện

minh : triết lí về bản chất và hiện tượng. Nó dẫn đến một tiêu chuẩn hành động ngang ngược nhất: Hễ

cứ cho là đứng về phía có chính nghĩa, nắm chân lí thì làm gì cũng là đúng, là phải hết. Không phải của

phe ta là diệt, tận diệt. Trừ khử trước để khỏi lo hậu hoạ có thể đến. Ám sát không phải là giết người,

giết kẻ khác-Phe, mà là Trừ gian, như Văn Cao đã làm, và cũng đã ân hận khi thất thế để có cùng hoàn

cảnh tạo được sự thông cảm. Ông thiếu cái may mắn của người giết Viện trưởng Nguyễn Văn Bông, sinh

viên Lê Khắc Sinh Nhật, người suýt có cơ hội “khử” Trịnh Công Sơn, Hồ Ngọc Nhuận… để có dịp huênh

hoang trong khoảng đời chiến thắng tiếp nối. Giáo sư Nguyễn Văn Trung một hồi tỉnh ngộ về “người anh

em phía bên kia”, cũng thắc mắc: “Các ông tín đồ lợi dụng sự cả tin của các giới chức đạo để leo cao luồn

sâu vào tận ngóc ngách cầm quyền cao cấp, thành công thì có đó nhưng cũng đúng là chuyện ‘lừa thầy

phản bạn’ không được chấp thuận ở bất cứ thời đại nào”. Chỉ có ông chê trách muộn màng, chứ cái lối

làm đám ma đưa quan tài chứa vũ khí vào thành phố đã được coi là phát kiến thần kì tự khen, và được

cả người ngoại quốc coi như là biểu hiện sự tinh ranh thông thái của một phe. Không ai thắc mắc về sự

lừa đảo ấy đã đụng chạm đến cả nền tảng đạo đức của dân tộc, của loài người, chính là một trong hàng

Page 10: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

trăm hàng ngàn hành động nhân danh lí tưởng, rồi sẽ làm xói mòn cả nền tảng xã hội xây dựng trên

chiến thắng vào hồi tiếp theo. Không chỉ lường gạt kẻ địch, cả về sau như trong trường hợp tìm cách len

vào WTO, người ta sẽ cứ áp dụng lề lối lường gạt “đả đả đàm đàm” đó, cả với người dân trên đất thang

mộc của mình. Cứ hỏi Ðoàn Văn Vươn thì rõ. Lịch sử không thể được dựng nên bằng các tiêu chuẩn đạo

đức lạc hậu cũ kĩ, đó là ý thức sâu kín hướng đến đỉnh cao quyền lực của những người đưa vận mệnh

dân tộc đến ngày 30-4-1975. Nền độc lập được tha thiết kêu gào thúc đẩy dân chúng phi chính trị,

giương cao trong mơ chủ nghĩa xã hội mang tầm thời đại, lúc đầu có thể là mục đích nhưng về lâu về dài

chỉ là phương tiện để tranh đoạt quyền lực trong cơn say máu ngà. Và lịch sử nay vẫn đang đi tới trong

bản chất những người điều hành đó.

Vì trước tiên, họ là người của một hội kín, hội kín Việt Nam, hội kín phương Ðông – cái đà có sẵn để tiếp

nhận thần phục dạng thức Trung Hoa thời mới, theo một trình tự thúc đẩy của một Hội chứng Phiên

thuộc ngàn năm mà một trăm năm thuộc Pháp ngắn ngủi khó có thể dứt bỏ được. Không phải bỗng

dưng, vì thù nghịch mà mật thám Pháp ghép đảng cộng sản Ðông Dương vào danh mục “hội kín”. Và

thật đúng như vậy, chuẩn mực hành động căn bản ban đầu của tập thể này là của riêng một nhóm

người, của hội kín đầy dẫy âm mưu, lúc nào cũng là âm mưu. Kể cả đối với đồng chí, nhất thời, như vụ

thanh toán nội bộ (1927?) của Xứ uỷ Nam Kì trên đường Barbier (Lí Trần Quán) Tân Ðịnh, Sài Gòn với sự

có mặt của Tôn Ðức Thắng, Phạm Văn Ðồng. Cái bất hợp pháp, với họ lại trở thành hợp pháp – hay nhoè

nhoẹt xê dịch với gam màu rộng giữa hợp pháp và bất hợp pháp. Cái “nết” thành hình thì trở thành khó

bỏ dù đã phát triển rộng lớn hơn. Trên những đường nét lớn, đó là chuyện “giải tán” đảng hồi tháng 11-

1946 để thành lập hội Nghiên cứu Mácxít thay thế. Những lãnh tụ đàn em mang đậm chất Liên Xô – xứ

chỉ mới có một nửa phương Ðông, không thể hiểu được hành động đó của con ông Phó bảng mà họ chê

tính lạc hậu, thoả hiệp đầu hàng nên đã buông lời phản đối. Ðảng không giải tán mà chỉ “lặn” sâu vào

bên trong. Ðã có chính quyền làm bình phong mà ví dụ, ông Bí thư Ðảng uỷ làm Phó lại điều khiển ông

Chủ tịch của cơ quan nhà nước. Chưa đạt được quyền bính toàn quốc vì hiệp định Genève, nên phải có

thành phần phía Nam của đảng Lao Ðộng là đảng Nhân Dân Cách Mạng để cùng với dạng hình chính trị

Mặt trận Giải Phóng, tung hoành với tính cách hợp pháp, bán hợp pháp đối với chính quyền tại chỗ,

không gây phản ứng bất lợi ngoài khu vực. Có được điều 4 Hiến pháp bảo vệ mà ngày nay các uỷ viên Bộ

Chính trị, những người thực sự chỉ đạo đất nước, có khi cũng không được ai biết mặt biết tên. Sự bí mật,

ẩn giấu đi theo với quyền uy mở rộng dễ dẫn đến tự tin rồi đồng hoá với địa vị thần thánh, như người ta

đã tự sắp xếp theo truyền thuyết để chen vào lễ hội Hùng Vương. Cho nên đến nay, ước mơ về một

nước Việt Nam pháp trị đã là điều có thể dẫn đến phạm pháp / phạm thượng, nói gì đến một nền dân

chủ pháp trị hoang tưởng chỉ đem lại hệ luỵ cho những cá nhân muốn vượt khỏi quyền uy của Ðảng,

Ðoàn, “cầm đèn chạy trước ô tô” lấn vào những vùng cấm vốn vẫn có thể được đổi thay vào một lúc nào

đó, cái lúc không tuỳ thuộc vào họ.

Lãnh tụ cầm quyền Nước, dù với nhân số dưới quyền đông hơn gấp bội, vẫn thấy như mình cầm quyền

Ðảng nên cách hành xử vẫn mang dáng vẻ ông làng băng đảng cũ. Họ không có ngôn ngữ “công”. Ðường

bệ thì có “đồng chí” mà quá khứ đè nặng đã chuyển qua dạng hình du đãng (mày tao), gia trưởng (chú

Page 11: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

bác, con cháu)… Cho nên trong các “phong trào” “chủ trương” cải cách ruộng đất, công thương nghiệp

theo kiểu tạo loạn mà có nhà nước (nhóm lãnh đạo) cầm trịch, họ sử dụng vừa tính hợp pháp của chính

quyền vừa tính bất hợp pháp của thảo khấu. Coi người dưới quyền không phải là dân nước, thì có

chuyện bán người cho sóng biển mà danh xưng Vượt biên “bán chính thức” có vẻ không thuận lỗ tai lại

là chữ dùng xác đáng nhất dành cho tình trạng mù mờ danh nghĩa đó. Ðổi dạng hội kín để lan toả trên

bề mặt quyền lực công khai, là các hành xử xã hội đen không giấu diếm với người bất đồng chính kiến.

Vững vàng đầy tự tín là những lời đe doạ giết người, làm việc trộm cắp hacker thốt ra từ giới chức cấp

cao, là những phán quyết án lệnh bất ngờ (kiểu vụ Phương Uyên Nguyên Kha 8-2013) mang những loại

văn từ pháp luật không cần ai cãi lại. Cả đất nước và số lượng dân chúng lớn có trong tay, trở thành món

quà trao đổi với bên ngoài để lấy viện trợ, đầu tư (lỗ có con cháu nó trả!), đạt bình thường hoá ngoại

giao với Mĩ, vào WTO… với cả nhãn hiệu nhân quyền sử dụng tuỳ thời tiết chính trị. Cách ứng xử có khi

chỉ là một loại phản ứng tỏ bày quyền uy, phản ứng cấp thời, mang tính ngắn hạn chính trị đối với sự

thách thức quyền uy: đánh chết người vì bị cãi lại, đạp mặt người biểu tình không hẳn vì bênh Tàu, toà

án ra tội nặng hơn chỉ vì người ngoài can thiệp nhiều hơn, mạnh hơn. (Hãy nhìn lại vụ Tố Hữu cho nhốt

Hoàng Cầm “thêm một năm” và vụ Ðiếu Cày bị tăng án vì Obama lên tiếng!) Trên bề mặt chính trị cấp

cao, những người công kích các chủ trương có tầm vóc, khi bị bắt lại là vì động đến cá nhân lãnh tụ.

Công trình Dung Quất, bauxit không dừng lại vì Bộ Chính trị, bậc Trên trước, không thể nào sai. Nhưng

những người bị bắt vì gián tiếp giúp cho các lãnh tụ có xương sống cứng hơn trước vấn đề biển Ðông,

vẫn chưa thể ra tù, người đã hết hạn tù ngục vẫn chưa hết bị hạch sách, đoạ đầy. Người có quyền không

thể nào sai. Họ không thể nào bị “giải thiêng”, như lời của một bậc “trí thức” đĩnh đạc tuyên bố. Cho nên

không thể chờ đợi họ buông bỏ quyền lực, nhất là khi sự phản đối chỉ thực hiện bằng lời nói, văn từ, căn

cứ trên vài nguyên tắc pháp lí, đạo lí thông thường – bình thường. Hầu hết những người có chức trách

có vẻ không biết mình đang sống ở thế kỉ XXI của nhân loại mà cứ hành xử như ở thế kỉ XIX rồi ngạc

nhiên, hoặc giận dữ với người xung quanh, kẻ dưới tay, có khi với cả chính mình (!). Họ khiến cho những

người cùng phe an tâm nên khi phải chống đối với những nguời chống đối, thấy chỉ cần đưa ra những lời

lặp lại, những khẩu hiệu vô duyên, kiểu “đất nước đổi mới từng ngày”, nếu không là mắng chửi “bán

nước, tay sai”… thấp thỏi trong tranh luận thấy rõ. Quen thói tung hoành trong nước chỉ có người tuân

phục, họ lạc lõng với thế giới bên ngoài nên căng cứng, co rút, lúng túng thật tội nghiệp trên diễn đàn

quốc tế. Họ không nhìn ra hình tích một thứ phong thuỷ chính trị toát ra từ công sức bảo vệ Ðảng: an

ninh chính trị thành hình chặt chịa thì những mâu thuẫn xã hội bức bách bị dồn nén, sẽ như theo long

mạch thời mới di chuyển qua lãnh vực dân sự, gây quấy đảo, đưa đến tình trạng suy sụp không thấy có

cơ cứu vãn. Chính quyền càng ngang ngược bó gọn lối nhìn an ninh trong sự tồn tại của Ðảng thì càng để

hở cho một xã hội lưu manh hoá tràn ngập trước mắt.

Tính chất hội kín phương Ðông nổi bật trong các hành động, tâm tính cá nhân mà Huy Ðức cho thấy

thêm chi tiết khi ta đi vào đời sống cung đình lớn nhỏ. Trong tương quan đôi lứa là những vụ lấy nhau

theo sự lựa chọn của đoàn thể mà vì là ở số đông, những trục trặc chỉ được thấy ra trong những trường

hợp, tình thế đặc biệt. Như tình hình của vài thanh niên xung phong Miền Nam, may mắn là đã không

xảy ra ở Miền Bắc lại xuất hiện vào thời kì khủng hoảng hậu chiến của Ðảng – hơi giống như trường hợp

Lê Ðạt về Hà Nội bỏ người vợ cốt cán thời cải cách ruộng đất ở chiến khu. Với lãnh tụ thì sự lựa chọn lại

Page 12: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

mang thêm tính chất xu phụ “dẫn gái”, gây ra những lệch lạc đến tận nền tảng đạo đức vốn lúc nào, dù

sao cũng phải được gìn giữ làm bề mặt ở tầng lớp thượng lưu. Kẻ thất thế như Nguyễn Văn Trấn thì chỉ

có thể huênh hoang kiểu AQ: “Tao ‘chơi’ bà Lê Duẩn trước ông ta”. May mắn thì qua mặt lãnh tụ, lén lút

(không biết?) như chàng trai Võ Văn Kiệt, ngông nghênh như ông Uỷ viên Bộ Chính trị Trần Quốc Hoàn.

Nhưng dù thế nào thì thảm cảnh của những bà hoàng hậu, thứ phi tân thời này có vẻ cũng không khác

người xưa. Như cô gái Nam Bộ định dành cho ông Chủ tịch, được nhắc nhở chỉ vì ông tình nhân vài đêm

về sau may ra làm lớn, có người con lao đao tìm cha mà không dám tìm mẹ. Như bà bé ông Tổng Bí thư

sống khuất lấp trên đất Cảng, nhìn vợ chồng ông Bùi Ngọc Tấn xe đạp đưa đón nhau mà tủi phận mình.

Thế còn may mắn hơn người chết vô danh ngay giữa thủ đô mà thân thuộc tận trên rừng núi vẫn không

thoát được vạ lây. Tất cả được Người trong cuộc / Người thắng cuộc hiểu trong một khung cảnh sinh

hoạt hội kín nên trở thành đương nhiên, không gây thắc mắc. Nó chỉ trở thành lạ lùng, phi nhân khi đưa

lên đến tầm mức diện địa quốc gia, được nhìn với tâm tính thời đại văn minh. Riêng đối với nữ giới thì

bộc lộ thêm cả một khía cạnh thân phận thấp hèn giữa đám đàn ông đang đem hết sức lực của giống

Ðực đi tìm quyền bính – trì níu quyền bính, chịu để thân phận khuất lấp rẻ rúng qua những vụ xâm phạm

thân xác bên trong các trụ sở hành chính cấp thấp. Chỉ là sự tiếp tục ở thời mới, trên cao độ ngút ngàn

của một xã hội trong quá khứ đã sinh ra những đau khổ, lận đận với các nhân vật Hồ Xuân Hương, Tản

Ðà mà người như bà Ngô Bá Thành mắc bận lên tiếng kêu gào “phụ nữ đòi quyền sống” trên Quốc hội,

đường phố Sài Gòn, và rồi lại quên bẵng trên loại Quốc hội vỗ tay nhất trí nhưng cũng đủ hào nhoáng để

Bà bật khóc khi thấy không được “cơ cấu” vào. Và đây cũng là minh chứng về tính chất bảo thủ cực kì

của những người lãnh đạo cứ cho rằng mình đang tranh đấu cho một chủ nghĩa tiên tiến. Bởi vậy, chiến

thắng 30-4-1975, về mặt văn hoá, là chiến thắng của bảo thủ lạc hậu truyền thống, rồi sẽ dần dần hé mở

công khai với những biện minh thúc đẩy mới.

Những mâu thuẫn phát sinh bên trong cái cơ cấu sừng sững đầy đe doạ đó mang đầy tính chất đối phó

phản trắc, khuất lấp với bên ngoài, không giống với tính cách tranh quyền đoạt lợi công khai thường

thấy. Chuyện kể về thân phận Vũ Thư Hiên ít nhiều gì cũng chỉ là của kẻ bên lề. Cũng giống như nỗi khổ

dù là cùng cực của Nguyễn Mạnh Tường, Trần Ðức Thảo, Nguyễn Khắc Viện (cuối đời)… Ðó là sự thất

sủng của những nhân vật mang yếu tố lạ cố len lách vào “đại cuộc” – và tưởng là len lách được trong

một thời, nay bị gạt ra vì đã hết “nhiệm vụ lịch sử”, nhiệm vụ dài hay ngắn lại không tuỳ thuộc vào họ.

Như ở lời tuyên bố đình bản tờ Tin Sáng của thành phần thứ Ba, thoáng cho thấy sự thất vọng đến tuyệt

vọng của một Châu Tâm Luân bị đòn ở trại tị nạn hay của một Nguyễn Ngọc Lan bị lưu đày. Nói gì đến

những chiến binh khuất lấp của các thời kì chống tứ phương khi chết đi không có hòm, bị phủ nhận danh

tính “vì đại cuộc”. Hãy chú ý đến tình trạng của những nhân vật dòng chính bị thải hồi mà vẫn phải còn

chường mặt với thế gian. Ở tột đỉnh quyền lực là trường hợp rơi tự do của Trần Xuân Bách, chỉ được

nhắc nhở khi báo tang. Ung Văn Khiêm, Bộ trưởng (?) Ngoại giao rồi Bộ trưởng Nội vụ (trùm Công an),

như Huy Ðức kể, khi thất sủng vợ con cũng bị các đồng chí của chồng tránh né, trong đó có Nguyễn Văn

Trấn, Hùm xám / “Le Hero de Chợ Ðệm” (lời Võ Nguyên Giáp) không dám gặp mặt vì sợ mất sổ gạo – các

đồng chí cùng xứ đó đã từng hãnh diện với nhau: “Thằng cộng sản Nam Kì nào cũng có máu du côn!”

Chia sớt máu du côn đó cũng còn là của Trần Văn Giàu, gan dạ hơn Tôn Quang Phiệt, không chịu làm

“phó tướng” cho Trung ương Hoàng Quốc Việt, cương quyết chiếm chính quyền Nam Bộ theo tình hình

Page 13: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

thực tế riêng của địa phương, nên bị lôi về Bắc mà có lời trăn trối “ Nhạc Phi về trào”. Lạc lõng trên đất

lạ, ông phải bỏ tiếng gọi “anh Hồ” xoay sang “Bác”, chịu chìm lấp trong chiến tranh, may mắn lấy lại

được chút uy thế khi về lại đất cũ để có thể vẫn nằng nặc “xã hội chủ nghĩa” nên chẳng nghe oan hồn

Cao Ðài, Hoà Hảo, Hồ Văn Ngà, Tạ Thu Thâu… réo gọi đòi mạng, dù còn gặp chút lúng túng nhỏ nhặt khi

phải đối đầu với Phan Thanh Giản của “thế kỉ XXI nhìn lại”. Không có đường sống cho kẻ thất thế, trừ sự

chui lòn khuất nhục. Uy danh quốc tế của người chiến thắng Ðiện Biên Phủ được bên ngoài lầm lạc cao

rao khen ngợi suốt cuộc chiến 30 năm, không đủ để Võ Nguyên Giáp chịu đựng những ngón đòn thù bao

vây, phát sinh một cuộc sống nhẫn nhục quá dài lâu dưới mắt những người bất mãn chứng kiến trong

nước. Không phải chỉ chuyện riêng rẽ cá nhân mà liên hệ đến cả anh em họ hàng nữa, như bằng chứng

dồn dập không che giấu bây giờ, trước mắt ở mức độ kềm toả trong xóm làng, phường khóm. Chuyện từ

đó để hiểu tâm trạng của cả người đảng viên bình thường, khuất lấp cảm thấy lúc bị khai trừ như là “đội

thúng cứt đi giữa chợ!” Nhưng họ vẫn còn may mắn vì sự hiện diện thừa thải của họ chưa đe doạ đến sự

tồn vong của Ðảng.

Và cái sinh hoạt hội kín đó lại có cơ hội thi hành vượt biên giới trong giao tiếp thậm thụt với láng giềng

phương Bắc theo lối nợ nần lẫn lộn ân tình khuất nhục từ ngàn xưa nay được làm mới lại. Chính cái bản

chất hội kín phương Ðông không dứt bỏ được này mới đẩy đất nước trượt về phương Bắc, không phải

chỉ vì ngón đòn đau 1979-87 thấm lâu mà đã mở màn từ những ngày “đánh thông biên giới” 1949-50,

loại trừ nỗi e dè Hoa quân nhập Việt 1945 để tiếp nhận lại sự đồng cảm chống đối Dương Di mới (“diễn

biến hoà bình”), về mặt văn hoá là biểu hiện trong sự xung đột với Công Giáo, càng lúc càng nổi bật lên

như đang đè nén một ước vọng vượt thoát từ bên trong, lặp lại dạng hình xã hội thế kỉ XIX với sự quân

bình lực lượng khác. Có một mặc ước Thiên triều – Phiên thuộc trở lại, với một dạng hình vừa mới đây

mang tên tình yêu giai cấp và viễn vọng xã hội chủ nghĩa, nay nối kết với sự tồn vong của Ðảng cầm

quyền. “Từ xưa ta vẫn phải xưng thần…” Cho nên không những người đồn trưởng ở biên giới thản nhiên

nhận tiền thưởng trực tiếp từ đàn anh bên kia biên giới mà Quân đội Nhân dân ta cũng không thắc mắc,

còn hãnh diện lây! Tôi đã từng nói đến loại “kẻ thù êm dịu” này. Bằng chứng mới cho tâm thức cũ – Hội

chứng Phiên thuộc, xuất hiện quá nhiều từ trung ương tới địa phương, từ lãnh tụ cấp cao đến người dân

thường, không cần phải moi móc thêm. “Tàu thì lạ mà sự hèn hạ thì quen”, người (trong phe) Thắng

cuộc có thể chỉ mới hãnh diện về việc mình tìm ra được một câu chữ vần nhịp đắc địa nhưng cái sự quen

thuộc kia vốn có thật, đã chất chứa tự ngàn đời, chỉ chực có dịp là tuôn ra. Một chút gượng gạo từ thúc

đẩy của những người lưu vong (cũng là một dịp “xả” căm thù!) đã đánh thức nỗi xấu hổ của người cầm

quyền, lo sợ cho sự an nguy của Ðảng, chuyển qua đày đoạ trên đám thanh niên dân nước có sẵn dưới

tay. “Thời này không còn Hai Bà Trưng, Quang Trung Nguyễn Huệ nữa đâu, ‘nó’ bảo bắt, không bắt thì

nó đánh!” Thú nhận đó được chỉ ra là tận Trung ương “Hà Nội”! Dù là lời nói lén lút nhưng “thuận chiều

lịch sử” thì cũng đáng tin lắm chứ! Bình luận về vụ Phương Uyên – Nguyên Kha thấy chỉ có chính khách

Phạm Hồng Sơn là nhận ra dấu hiệu đặc biệt mới về tình trạng phản kháng của lớp người trẻ, tuy có vẻ

như ông này chưa nhìn ra được yếu tố bị chèn ép ở địa phương phải nhận chịu, từ nạn nhân đến cả

chính quyền khu vực (ẩn khuất trong diễn biến của vụ án, dài mãi đến hồi phúc thẩm, và cuối cùng nổ

bùng với Lê Hiếu Ðằng, Hồ Ngọc Nhuận, hai nhân vật thời chống Mĩ một chừng mực đã “làm xong nhiệm

vụ lịch sử”, được đền bù bằng những ân huệ theo cấp bực công trạng, khuất lấp, nên khá xa lạ với

Page 14: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

người, phe Thắng cuộc). Khẩu hiệu “biến chiến trường thành thương trường” thành hiện thực rõ rệt với

dấu vết chiến tranh xoá sạch trên vùng biên giới – chỉ còn vài cái mả của vài người tò mò, với những

khoản kí kết chính thức chìm lắng mà nổi bật là các chuyến hàng hoá qua lại dồn dập, của xe cộ công

cũng như của cửu vạn, tạo ra nhập siêu phía Việt Nam, được một Thứ trưởng Bộ Công Thương coi là

bình thường, vì là một dạng hình cống sứ mới đủ cho các cột mốc được thành hình. Tiêu cực hay tích

cực gì thì Trung Quốc vẫn là một yếu tố tồn tại của đảng Cộng Sản Việt Nam. Cứ như ngày xưa cũng đã

thấy là đủ.

Lịch sử Việt Nam hiện đại được thành hình từ đó, và có thể lâu dài “vài thập kỉ nữa” trên căn bản đó. Có

những phát tán để những dao động bây giờ sẽ đi vào những trọng tâm khác. Ví dụ chuyện vượt biên

kinh hoàng, nhức nhối rồi sẽ chỉ là của lịch sử (một số) người Mĩ, người Úc… gốc Việt, với đám con cháu

chỉ cảm thấy là truyện kể trên những trang sách – dù là sách Ðại học mang tên “lịch sử truyện kể”, nếu

có chút loáng thoáng nào nghĩ về cái xứ bên kia đại dương thì cụ thể trước mắt là các bảng hiệu trên phố

Bolsa mà họ không đọc được, hay may mắn có dịp về xứ của ông cha thì sẽ là đối tượng tò mò của người

cùng trang lứa, xúm lại nghe thử “thằng Mĩ nói tiếng Việt” ra sao (giống như xướng ngôn viên “đài hải

ngoại” nói lạc dấu giọng, phổ biến ngôn ngữ lai Vinglish)… Người của thế hệ Một rưỡi (FOB, Fresh off

boat) dễ thích ứng hơn thì coi là một nơi đi du lịch, nơi có thể là “dễ làm ăn”, trong khi đối với lớp người

vẫn còn cay đắng thì quê cũ chỉ là một nơi phải nén tự ái để kiếm một chỗ nằm bên cạnh ông bà.

Việt Nam ít có tiền lệ một hệ thống đã thành hình lại bị lật đổ vì dân chúng không đồng tình mà chỉ có hò

vè, tiếu lâm xỏ xiên rồi im bặt. Bởi vì hình như dân chúng giỏi chịu đựng người trong nước áp bức hơn là

đối với người ngoài, vốn thường cưỡng ép đổi thay nhiều hơn. Bức tranh trước mắt giúp ta hiểu được

sự tồn tại của các chính quyền (Nho Giáo) cũ: loạn mà không đổ. Thanh niên bây giờ nói chuyện xã hội

chủ nghĩa như các bậc cha anh ngày xưa tụng kinh sách chi hồ giả dã thôi, và cũng lại bất động trong

vòng vây đó như người xưa. Có cả vài triệu thanh niên trong học đường mà một người trong bọn bị bắt

vì tuyên bố chính trị thì lại chỉ có vài chục người tứ phương biểu tình ngay nơi quê hương người bị nạn!

Lịch sử Việt Nam hiện đại có thể rồi sẽ được chỉnh sửa, có thể bớt chút gam màu vàng xỉn dân tộc huênh

hoang, chút vệt đỏ đậm máu hung hăng nhưng cũng sẽ vẫn với cái khung đó, lâu dài. Cái khung lịch sử

vương triều nay vẫn ẩn hiện với chút hoa hoè khoa học để người cầm quyền chen vào khuyến khích thúc

đẩy sáng tạo cho hợp với thời đại. Chiến thắng bằng binh lực mở đường cho sự tràn lấn “Nam tiến”

chưa từng thấy trong lịch sử, đến mức có thể nói đến một Chủ nghĩa Thực dân Nội biên về mặt chính trị,

hay một tiến trình quy chiếu cưỡng đoạt Ðại Việt Trung tâm luận (Lại Nguyên Ân) về mặt ngôn ngữ, văn

hoá, cái thứ văn hoá kênh kiệu vẽ vời quay ngược về truyền thống quê mùa cũ, càng lúc càng phô bày

những thể hiện mê tín lố lăng, quái gở mà ngang ngược. Mặt nào thì cũng làm nên nền tảng vững chắc

củng cố chế độ trên toàn thể đất nước.

Như hệ quả từ tính chất những người làm lịch sử đã nói thì không mong gì họ buông lỏng dây cương với

những người viết lịch sử. Cho nên khó có thể tìm được trong sách vở chính thống một sự điều chỉnh về

Page 15: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

lịch sử thời hiện đại để mở hướng thoáng đạt hơn. Chỉ vì sử gia Việt Nam theo truyền thống vốn chỉ là

viên chức của chế độ cầm quyền. Ngay sau bước chân của quân đội, công an, là các phái đoàn khảo cổ đi

tìm dấu vết người Việt cổ qua các trống đồng đào bới trên đất Người thua cuộc, rồi bỏ lửng không cho

biết họ đi đâu dưới thời các vua …varman trên đất liền, hay các mohamed trên hải đảo. Sử gia Ðại học

Hà Nội, Vinh “viện trợ” cho các Ðại học Miền Nam, thay thế các thầy đã vượt biên hay đang được lưu

dung mà làm Ban Ðời sống chia cá chia thịt, cũng tạo được một lớp người “nghiên cứu” ăn theo nói leo

chuyện vua Hùng Ðông Sơn, chuyện Bốn ngàn năm giữ nước dựng nước qua các Tuyên ngôn độc lập lần

thứ… dưới con mắt canh chừng của các ban Tuyên huấn tỉnh, hay cả đến các ban Bảo vệ chính trị. Vẫn

tiếp tục thì thấy Bộ Giáo dục cho ra đời (2004) phát hiện về 98 tên của các Lang, trong 100 con liu điu nở

từ trứng của ông bà Lạc, Âu. Bằng chứng ngớ ngẩn đó chỉ ra mối quan tâm của nhà cầm quyền thúc đẩy

hình tích bán-kèm “Bốn ngàn năm lịch sử” vừa được UNESCO công nhận giá trị (2012), hình tích có khi bị

công kích nhưng vẫn là cần thiết để níu kéo tính chính thống của một phía, dù sao cũng đã bị dao động

trong sự phân rẽ vừa qua. Cho nên với chuyện nay thì thấy cụm từ “Việt Nam Cộng hoà” xuất hiện trong

quyển Lịch sử Việt Nam 1954-1975 của PGS. TS. Nguyễn Ðình Lê (Nxb. Giáo dục Việt Nam 2010). Tuy

nhiên trong hơn 240 trang đó, người cựu tù cải tạo cũng chỉ thấy không hơn mấy bài học mà họ đã trải

qua, dàn trải có thể đến 5 năm, 10 năm hay hơn nữa… Thời thế internet là một lối thoát cho sự kềm toả

chính trị, thế mà vẫn không thấy xuất hiện một vài bài vở “lệch hướng” tí chút nào của lớp người gọi là

nghiên cứu gia đã trở thành công cụ nhẫn nhục mong chờ chỉ đạo, định hướng.

Các danh gia sử học Hà Nội vẫn loay hoay trong địa phương mình, không mở Thực lục của nhà Nguyễn

để thấy Tổng đốc Bình Ðịnh Vũ Xuân Cẩn đã làm tờ trình với triều đình Huế, xin cho viết sử Tây Sơn mà

kết quả hẳn là “quyển” 30 của Liệt truyện, trong đó chỉ có chữ “nguỵ” là chứng tỏ vị thế của Người

Thắng cuộc, không thấy bóng dáng của loại ngôn từ mày tao mi tớ, con kia thằng nọ của sử gia thời xã

hội chủ nghĩa, còn thì tất cả vẫn tạm cho là đẩy đủ các sự kiện của một dòng họ, một triều đại chìm nổi

từng gây biến động trong ba mươi năm trên toàn thể đất nước. Có quan tâm đến vấn đề thì họ lại gợi ý

qua cách giành danh dự đó cho ông tiến sĩ triều Nguyễn thoát tội “phong kiến” nhờ “Ðổi mới”, lại thêm

danh vị là ông nội của Tổng bí thư Trường Chinh. Ngành sử chính thống vẫn không cho thấy bóng dáng

những con người cụ thể mà chỉ là những con người vung vẩy khuôn khổ nấp sau những đường lối, chính

sách và những con số không mấy tin cậy. Do đó không thể thấy họ — và cả người sau, được chuẩn bị

thực sự để viết những trang sử thời hiện đại, trước mắt, điều thiếu thốn mà học giả nước ngoài đã cảnh

báo là đến ngày nào đó sử gia Việt Nam chỉ có thể tìm tài liệu từ bên ngoài nước. Nhân viên gốc Việt lo

bồi dán, chăm sóc vớt vát các tờ giấy cũ nát, có thể nói móc ông Trần Bạch Ðằng trong một chuyến thăm

viếng: “Thấy không, các ông đốt sách để bây giờ chúng tôi cực quá”. Nhưng cái ưu thế về tài liệu của phe

chiến thắng là điều không thể phủ nhận để sử gia phải bị lôi cuốn theo. Một Nhật kí Ðặng Thuỳ Trâm trở

về quê cũ không làm tăng giá trị nhân văn của người, tập thể giữ gìn sự thật lịch sử kia nhưng lại làm

bằng cớ củng cố thêm cho một chính quyền đã bị lạt màu uy thế theo với thời gian, trên một xứ sở mà

nhân vật chính đã lạc lõng một chừng mực nay, nếu còn sống qua giấc ngủ 30 năm, lại càng không thể

tìm ra vị trí của mình như được đặt để. Cuốn phim có lời “Ðừng đốt” không phải là để nhắn nhủ cho họ

có cách xử trí khác đối với phe thua cuộc. Học giả ngoại quốc từng nhắc chừng ở Hà Nội rằng có thể rồi

Page 16: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

Việt Nam phải lấy tài liệu ở bên ngoài mới viết sử hiện đại được, thế mà báo trong nước không dám

đăng!

Chuyên viên thì cũng là người của thời đại, bình thường vẫn phải khuất phục cái đã thành hình – có khi

hình trạng ấm ức chịu đựng này chỉ diễn ra trong thúc đẩy của tiềm thức. Người bình thường phải chấp

nhận cái đã thành hình, và cố uốn nắn vào đó. Quyền bính vững có thể vượt qua những sơ thất để kẻ

chịu thiệt thòi trở lại đầu phục, như trường hợp rất nhiều nhân vật nay ra làm chứng nhân lịch sử, công

khai kể lể những “công trạng” thời Cách mạng Mùa Thu, thời Chín năm, kể cả thời Chống Mĩ mà nhẹ

nhàng thoáng qua giai đoạn bị vùi dập của mình. Trung tá Ðặng Văn Việt, trở về đời thường đi bán bánh

cam bị công an xua đuổi, vẫn còn giữ nỗi hãnh diện là Người hùng đường số 4 (1950), tuyệt vọng đi đòi

quyền lợi cuối đời. Huỳnh Văn Tiểng của bộ-ba Hoàng (Huỳnh) Mai Lưu danh tiếng nửa đầu những năm

1940, qua thế kỉ XXI mới nhớ lại thoáng qua chuyện làm đảng viên Dân chủ bị người Cộng sản khinh miệt

như thế nào… Trần Dần đã chịu chấp nhận sự kiện ban phát trở lại làm hội viên hội Nhà văn khiến những

kẻ lệch bên lề “lịch sử” phải ngạc nhiên. Nhưng nếu đặt mình vào tình cảnh như ông: bị hành hạ đến

phải cầu mong Tố Hữu và Ðảng ngó lại mà vẫn không được đoái hoài trong 30 năm dài đằng đẳng, thì

chút danh hiệu đó không phải là dấu hiệu đạt thành cuối đời mà nạn nhân có thể vớt vát được trước khi

về cõi hư vô hay sao? Gần hơn, Bùi Ngọc Tấn đến Boston tuyên bố với người, trong cũng như ngoài, mà

chắc là cũng thành thật nói với mình (đại khái) rằng “Những gian khổ phải trải qua cũng chỉ là do tình thế

chung, do đại cuộc đòi hỏi sự trong sạch ở hậu phương để cho tiền tuyến chiến thắng”. Ðất nước thì bền

vững hơn chế độ nhưng chế độ lại dài hơn hẳn một đời người. Kẻ chịu đựng hệ luỵ bên trong, thấy chế

độ từng gạt mình ra nay vẫn sừng sững qua thế kỉ khác, làm sao phủ nhận được, bản thân vốn lại chỉ là

một thành phần của nó, thành phần từng dương danh chính nghĩa, cớ sao không tìm ra cách nhận chịu

chen lách vào để có chút hiện diện của mình trong đó?

Thế hệ của những người “cách mạng” mang “bằng cấp Ðại học” Sơn La, Bà Rá, Côn Ðảo chỉ có thể gây kì

công cướp đoạt chính quyền chứ không đủ khả năng quản lí đất nước. Khẩu hiệu “Vừa chạy vừa sắp

hàng” của chiến tranh vẫn tồn tại trong thời bình mang tính chai lì của các chính sách nối tiếp. Ổn định

chính trị trước đã. Kiến thức thâu nhận thời thuộc địa không giúp họ có viễn kiến mà chỉ lấy sự liều lĩnh

che lấp khuyết điểm. Họ chỉ dừng lại khi phải “đụng đầu” với nguy cơ mất sạch. Hiệp định Paris chỉ được

kí sau cơn bão lửa Giáng sinh 1972 mà họ gọi là Ðiện Biên phủ trên không. Và với thời bình thì có đòi hỏi

“Ðổi mới hay là chết”. Nhưng do đó cuối cùng, họ cũng đã tận lực xây dựng nên một chế độ độc tài

không lối thoát cho đất nước, và cho cả chính họ, canh cánh nỗi lo sợ buông tay để vướng phải cảnh

“nằm gầm cầu Thăng Long”, chưa kể đến những gì còn thê thảm hơn. Qua khủng hoảng sau chiến thắng,

“bám chặt xe qua khúc quanh” theo lời dặn của Lenin – mà cũng để tự cứu, “cùng tắc biến”, họ đã chấp

nhận giải pháp “Ðổi mới ” để nối kết với tương lai. Lớp người kế tiếp tuy phải chịu đựng cái “gân gà”

Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Ðổi mới nhưng theo đó, thừa hưởng được sự

chính thống ràng rịt vững chắc trên một đất nước đồ sộ mà giá trị tiền bạc tăng tiến ngợp người theo với

sự hội nhập vào thế giới toàn cầu hoá. Bây giờ không còn có sự hăng say khá vô vọng vì lí tưởng xã hội

xa vời nữa mà là theo một dạng quyền lực cụ thể hơn: tiền bạc “sờ thấy được”, đi theo sự thúc đẩy phát

Page 17: Ke thang nguoi thua   - Ta chi dai Truong

triển để bù đắp với sự chậm chân vì cô lập quá lâu, ít tốn xương máu hơn tuy cũng vẫn gay go, như đã

bộc lộ công khai lần đầu tiên trong cuộc đấu đá trên đỉnh cao quyền lực năm 2012.

Cụ thể với người bình thường là cuống quýt theo cơm áo trong cảnh thất thế triền miên, hay lấn lướt

nhau vồ vập với tiền bạc, cho bù với lúc cơm khoai rau sắn, để mau chóng ít nhiều thủ đắc những chiếc

xe, lớp hàng hoá vừa mới xuất hiện đã thấy ngay lạc hậu, để hò hét qua những showbiz, khóc lóc theo

thần tượng mới. Một thế hệ, hai ba thế hệ đã trôi qua để có đủ liên hệ thân sơ chia sẻ với quyền bính

sừng sững trước mắt mà cùng chung chịu đựng sống chết. Không tìm được trong nước thì “vượt biên”

lần nữa, tiếp tục nhẫn nhục chịu đựng hay đem cái thành tựu bất hợp pháp ma mảnh, lấn lướt đổ lên xứ

người, lại cũng gây kinh hoàng trên thế giới với các vụ trồng cần sa, săn tê giác, buôn người… Với người

cầm quyền là những đào bới khai thác tài nguyên đất nước — cả tài nguyên nhân lực dựa vào những cơ

sở kinh doanh ngoại quốc đến đầu tư. Họ làm theo sự xúi giục của các tay “cò” kinh doanh nương theo

hệ thống tư bản tài chính khu vực, toàn cầu để trở thành những Ðại gia với nề nếp sinh hoạt không có gì

là Thua hay Thắng cả. Ðó là các dự án bắt chước từ bên ngoài — bắt chước đến mức tê liệt trí óc mà

không tính được khả năng thực hiện, viễn vọng quản lí, kiểu coi lò nguyên tử như lò gạch, lò vôi… Sự thể

chỉ vì xuất phát điểm thấp của tập đoàn lãnh đạo tiến thân qua con đường hành chính sự nghiệp trong

Xây dựng Ðảng, tạo ra một tầng lớp thư lại mới đầy quyền uy mà không thể nào bắt kịp với tình hình thế

giới. Tuy nhiên sự thay đổi như thế, dù là lẽo đẽo theo sau người, vẫn có cái hào nhoáng bề ngoài che

lấp nỗi cùng cực bên trong, sâu xa trên diện địa, sâu kín ở đáy tầng xã hội, gộp lại đã tạo được một thế

an bình tương đối giúp quyền bính vốn vẫn vững vàng trên cao, tiếp tục có tiếng nói mạnh cho sự chính

thống của mình, và để sử gia tiếp tục an tâm phục vụ.