61
1 PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI. 1.1. KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI Vốn đầu tư nước ngoài được chia thành hai loại: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI -Foreign Direct Investment), và Đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Indirect Investment hoặc thường dùng hơn là Foreign Portfolio Investment). Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên giới. Nó chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính nước ngoài nhằm kiếm lời. Hình thức đầu tư này không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động quản lý và nghiệp vụ của doanh nghiệp giống như trong hình thức Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Điều 3 Luật Đầu tư của Việt Nam được thông qua năm 2005 và có hiệu lực từ tháng 7/2006 đã xác định: “Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác; thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”. Theo cách hiểu

Kinh tế

Embed Size (px)

Citation preview

1

PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI.

1.1. KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI

Vốn đầu tư nước ngoài được chia thành hai loại: Đầu tư trực tiếp nước

ngoài (FDI -Foreign Direct Investment), và Đầu tư gián tiếp nước ngoài

(Foreign Indirect Investment hoặc thường dùng hơn là Foreign Portfolio

Investment). Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên

biên giới. Nó chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính nước ngoài nhằm kiếm

lời. Hình thức đầu tư này không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động

quản lý và nghiệp vụ của doanh nghiệp giống như trong hình thức Đầu tư trực

tiếp nước ngoài. Theo Điều 3 Luật Đầu tư của Việt Nam được thông qua năm

2005 và có hiệu lực từ tháng 7/2006 đã xác định: “Đầu tư gián tiếp là hình

thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có

giá khác; thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài

chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt

động đầu tư”. Theo cách hiểu này, đầu tư gián tiếp nước ngoài là các khoản

đầu tư gián tiếp do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện. Để phân biệt với đầu

tư gián tiếp trong nước do các nhà đầu tư trong nước thực hiện được thông qua

2 hình thức chủ yếu sau:

- Nhà đầu tư trực tiếp mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ

có giá khác của các doanh nghiệp, của chính phủ và của các tổ chức tự trị

được phép phát hành trên thị trường tài chính.

- Nhà đầu tư gián tiếp thực hiện đầu tư thông qua Quỹ đầu tư chứng

khoán hoặc định chế tài chính trung gian khác trên thị trường tài chính.

Cách hiểu này gần với định nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): đầu tư

gián tiếp nước ngoài (FPI) là hoạt động mua chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái

2

phiếu) được phát hành bởi một công ty hoặc cơ quan chính phủ của một nước

khác trên thị trường tài chính trong nước hoặc nước ngoài.

1.2. CÁC HÌNH THỨC VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA FPI

1.2.1. Các hình thức của FPI

Theo Luật đầu tư năm 2005

Điều 26 quy định về các hình thức đầu tư gián tiếp vào Việt Nam

Nhà đầu tư thực hiện đầu tư gián tiếp tại Việt Nam theo các hình thức sau

đây:

Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác;

Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán;

Thông qua các định chế tài chính trung gian khác.

Đầu tư thông qua mua, bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá

khác của tổ chức, cá nhân và thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp theo

quyđịnh của pháp luật về chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có

liên quan.

Điều 76 quy định về các hình thức đầu tư gián tiếp ra nước ngoài của Việt

Nam:

Việc đầu tư ra nước ngoài theo hình thức đầu tư gián tiếp phải tuân thủ

các quy định của pháp luật về ngân hàng, chứng khoán và các quy định khác

của pháp luật có liên quan.

1.2.2. Đặc trưng cơ bản của FPI

Thứ nhất, nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp

phát hành chứng khoán hoặc các hoạt động quản lý nói chung của cơ quan

phát hành chứng khoán.

3

Thứ hai, nhà đầu tư không kèm theo cam kết chuyển giao tài sản vật

chất, công nghệ, đào tạo lao động và kinh nghiệm quản lý như trong trực tiếp

đầu tư (FDI). FPI là đầu tư tài chính thuần túy trên thị trường tài chính.

Trên thực tế, mặc dù FPI dùng để chỉ các hình thức đầu tư không phải là

đầu tư trực tiếp nước ngoài truyền thống (tức đầu tư để lập doanh nghiệp

100% vốn nước ngoài, lập liên doanh hoặc công ty cổ phần và kinh doanh

theo hợp đồng hợp tác kinh doanh…), song sự phân biệt này không phải lúc

nào cũng rạch ròi và thống nhất. Chẳng hạn, khi nhà đầu tư dùng vốn của

mình để mua cổ phiếu của doanh nghiệp, nếu tỷ lệ cổ phiếu do nhà đầu tư nắm

giữ thấp hơn mức nhất định (10% theo tiêu chuẩn của IM F và 30% theo

tiêu chuẩn của Việt Nam hiện hành) là đầu tư gián tiếp, nhưng khi vượt

ngưỡng này lại được xếp vào đầu tư trực tiếp và khi đó, nhà đầu tư có thể

dùng quyền bỏ phiếu của mình để can thiệp trực tiếp vào thực tế quản lý, kinh

doanh của doanh nghiệp…

1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞ NG ĐẾN DÒNG VỐN FPI

Nguồn vốn FPI chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau:

Bối cảnh quốc tế (hòa bình, ổn định vĩ mô, các quan hệ ngoại giao và

môi trường pháp lý quốc tế thuận lợi).

Nhu cầu và khả năng đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.

Mức độ tự do hóa và cạnh tranh (chủ yếu là ưu đãi tài chính và sự thân

thiện, sự thuận tiện của quản lý nhà nước đối với nhà đầu tư) của môi

trường đầu tư trong nước.

Sự phát triển của hệ thống tiền tệ và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh nói

riêng, của các thể chế thị trường nói chung ở nước tiếp nhận đầu tư.

4

Sự phát triển và độ mở cửa của thị trường chứng khoán, chất lượng của

các cổ phiếu, trái phiếu do doanh nghiệp và Nhà nước phát hành, cũng

như các chứng khoán có giá khác lưu thông trên thị trường tài chính.

Dòng FPI tỷ lệ thuận theo cấp số nhân cũng với sự gia tăng quá trình cổ

phần hóa các doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài đang hoạt động hiệu quả ở trong nước, cùng với việc mở

rộng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp.

1.4. VAI TRÒ CỦA FPI

FPI có vai trò lớn trong nển kinh tế toàn cầu nói chung và đối với từng

nước nói riêng. FPI có tác động nhiều mặt, cả tích cực và tiêu cực đối với

nước đầu tư và nước nhận vốn đầu tư.

1.4.1. Đối với nước đi đầu tư

Tác động tích cực

Đa dạng hóa cơ cấu đầu tư, cho phép các nhà đầu tư có thể chuyểnvốn

đến những thị trường mới nổi có mức lợi nhuận kinh doanh cao (kèm

theo hệsố rủi ro lớn). Bằng cách đầu tư FPI, các nhà đầu tư có thể nhanh

chóng khắc phục xu hướng lợi nhuận bình quân giảm dần, nâng cao

hiệu quả kinh doanh.

San sẽ rủi ro kinh doanh sang các khu vực khác, đặc biệt là các khu vực

thị trường mới nổi. So với đầu tư trực tiếp (FDI), khả năng san sẽ rủi ro

quađầu tư gián tiếp (FPI) nhạy bén hơn và đa dạng hơn.

Thông qua đầu tư gián tiếp, nhà đầu tư có cơ hội tìm hiểu và thâm nhập

thị trường mới, thích nghi từng bước với thị trường mới.

Tác động tiêu cực

5

Thứ nhất, những rỉ ro đặc biệt của thị trường tài chính nước ngoài, đáng

chú ý là rủi ro chính trị, rủi ro đạo đức và rủi ro kinh tế của thị trường

mới nổi.

Thứ hai, các rào cản về thủ tục hành chính và nhất là về thuế có thể làm

triệt tiêu lợi ích thu được.

Thứ ba, những chính sách điều tiết thị trường vốn của các nước nhận

vốn FPI.

Thứ tư, chi phí giao dịch trong đầu tư FPI có thể cao hơn so với dự

kiến.

1.4.2. Đối với nước nhận đầu tư

Tác động tích cực

Trước hết FPI là một kênh dẫn vốn có quy mô lớn hơn nhiều so với đầu

tư trực tiếp truyền thống, cho phép có thể thu hút lượng vốn lớn của

nước ngoài đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và

các mục tiêu tài chính. Hơn nữa, chính hình thức đầu tư FPI còn giúp

đẩy mạnh FDI thông qua mua cổ phiếu, NĐTNN có thể dễ dàng sở hữu

và trực tiếp quản lý doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra FPI giúp các

doanh nghiệp trong nước có thể hoạt động hiệu quả hơn, năng động hơn

và nâng cao giá trị của mình.

Vốn FPI chảy vào có thể đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của một nước

bằng cách làm tăng khả năng thanh toán và hiệu suất của thị trường vốn

nội địa.

Thị trường vốn với khả năng thanh khoản và hiệu suất cao cho phép

nguồn lực được sử dụng một cách có hiệu quả nhất dẫn đến đẩy nhanh

tốc độ tăng trưởng.

6

Khi nguồn vốn FPI chảy vào sẽ có tác động làm tăng tính thanh khoản

của thị trường, bởi các giao dịch vốn trên thị trường trở nên sôi động

hơn khi có sự tham gia của các NĐTNN, qua đó sẽ tạo điều kiện phát

triển phân phối nguồn lực và từ đó có tác động tích cực thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế. Thị trường vốn phát triển có tác động làm giảm rủi ro

thanh khoản. Thị trường vốn với khả năng thanh khoản cao làm cho đầu

tư dài hạn hấp dẫn hơn, bởi vì nó cho phép người gửi tiết kiệm có thể

nhanh chóng bán chứng khoán với chi phí giao dịch thấp khi họ cần sử

dụng khoán tiền tiết kiệm của mình. Khi đầu tư dài hạn trở nên hấp dẫn

hơn sẽ tạo điều kiện cải thiện tình hình phân phối vốn và tăng năng lực

sản xuất.

Tác động tiêu cực

So với các hình thức đầu tư nước ngoài, đầu tư gián tiếp có xu hướng

không ổn định hơn so với các hình thức đầu tư khác do đặc tính thị

trường và khả năng thanh khoản cao. Sự không ổn định của nguồn vốn

FPI ở một mức độ nhất định là có giá trị, bởi vì nó tạo cơ hội tiềm năng

thu hút các nhà đầu tư và kích thích thị trường hoạt động hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, tính không ổn định cũng sẽ gây ra rủi ro, những rủi ro này

nếu không được quản lý hiệu quả có thể gây ra tình trạng mất ổn định

của hệ thống tài chính và các khó khăn kinh tế khác.

Những rủi ro có thể xảy ra khi đầu tư nước ngoài chảy vào nhiều, nhất

là đầu tư gián tiếp đó là những rủi ro vĩ mô: Dòng vốn lớn chảy vào

cũng có thể làm mất cân bằng vĩ mô, đặc biệt là khi chính sách vĩ mô

không nhất quán và hướng tới những mục tiêu mâu thuẫn. Nguy cơ phổ

biến nhất là tỷ giá tăng lên quá mức (đồng bản tệ lên giá), chính điều đó

phá vỡ cân bằng tài khoản vốn và làm tích tự nợ nước ngoài.

7

Bên cạnh đó, vốn đổ vào có thể gây ra áp lực lạm phát trong một số

trường hợp như: khi tỷ giá cố định đươc duy trì, dòng vốn đổ vào dẫn

đến tình trạng mở rộng điều kiện tiền tệ trong nền kinh tế, qua đó sẽ tác

động đến mức giá, tỷ lệ lạm phát có thể gia tăng. Điều đó sẽ gây bất lợi

cho hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động của hệ thống trung gian

tài chính nói riêng.

Rủi ro khủng hoảng tài chính tiền tệ có thể xảy ra khi các NĐTNN rút

vốn ào ạt, nhất là đối với các nguồn đầu tư gián tiếp. Các cuộc khủng

hoảng tài chính tiền tệ ở M êxicô (1994), Thái Lan (1997) là một minh

chứng rất rõ nét về rút vốn ồn ạt của các nhà đầu tư gián tiếp. M ặc dù

các cuộc khủng hỏang tài chính tiền tệ, có thể xuất phát từ những

nguyên nhân khác nhau (khủng hoảng lòng tin, khủng hoảng các chỉ số

kinh tế cơ bản…), nhưng bối cảnh đó, nguồn vốn đầu tư gián tiếp chiếm

tỷ trọng cao trong các khoản vay nợ nước ngoài sẽ càng làm trầm trọng

thêm mức độ khủng hoảng. Chính vì vậy, để tránh những tác động xấu

của nhà đầu tư gián tiếp, việc kiểm soát chặt chẽ luồng vốn này là rất

cần thiết.

8

PHẦN II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP TẠI VIỆT NAM

2.1 SỰ CẦN THIẾT VÀ TIỀM NĂNG THU HÚT ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP

NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

2.1.1 SỰ CẦN THIẾT THU HÚT ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP.

Trên thế giới, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan

trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này bao gồm đầu tư

trực tiếp và đầu tư gián tiếp Trong khi nguồn vốn FDI có vai trò trực tiếp thúc

đẩy sản xuất, thì FII lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát triển

theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô và tăng tính minh

bạch, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước dễ dàng tiếp cận với nguồn

vốn mới; nâng cao vai trò quản lý nhà nước và chất lượng quản trị doanh

nghiệp, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ các mối quan hệ kinh tế.

Đối với Việt Nam, thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp mang một ý

nghĩa rất quan trọng. Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước,

Việt Nam cần một lượng vốn đầu tư rất lớn (khoảng 140 tỷ USD) cho giai

đoạn (2006-2010) để xây dựng, từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế

và hạ tầng xã hội. Các doanh nghiệp Việt Nam đang trong quá trình cải cách

và cổ phần hóa nhằm gia tăng năng lực và hiệu quả cạnh tranh khi gia nhập

WTO. Cổ phần hóa phải đi đôi với việc hình thành các thị trường vốn, các

kênh huy động vốn (hạt nhân là thị trường chứng khoán (TTCK). Các mối

quan hệ kinh tế gia tăng, dòng vốn lưu chuyển nhanh sẽ góp phần tạo ra các

hiệu ứng tốt tác động đến các doanh nghiệp. Vì lợi ích của hội nhập không

những được đánh giá thông qua sự luân chuyển (vào, ra) dễ dàng của dòng

hàng hóa, dòng người mà còn có cả dòng vốn.Việc tham gia của các nhà đầu

tư FII sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính, giúp cho thị trường tài

9

chính minh bạch và hoạt động hiệu quả hơn, xác lập giá trị thị trường của các

cổ phiếu niêm yết một cách chuyên nghiệp, giảm thiểu những dao động “phi

thị trường” và góp phần giải quyết một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế

(vốn, công nghệ, quản lý…).

Hơn nữa, đầu tư gián tiếp có thể giúp vốn cho doanh nghiệp trong nước,

giúp doanh nghiệp tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh, do vậy FPI

rất quan trọng đối với các doanh nghiệp trong nước đang thiếu vốn.

Tuy nhiên, dòng vốn FPI cũng tiềm ẩn những rủi ro hơn so với các kênh

huy động vốn từ nước ngoài khác. Do vậy, thúc đẩy thu hút FII ổn định, tương

xứng với tiềm năng, góp phần tạo động lực phát triển thị trường vốn, nâng cao

năng lực quản trị của nhà doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hậu

WTO là vấn đề cần được quan tâm.

2.1.2 TIỀM NĂNG THU HÚT FPI

Theo khảo sát của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) gần đây cho thấy, vào

năm 2001 lợi nhuận từ vốn FPI thế giới tăng gấp 2 lần vốn FDI. Trong vòng 4

năm, đầu tư gián tiếp toàn cầu đã tăng 2 lần; nước có tỷ trọng đầu tư gián tiếp

lớn nhất là Mỹ chiếm 24,5%, tiếp đó là Anh chiếm 10%. Dòng vốn FPI đang

trỗi dậy mạnh mẽ sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997 và đang chuyển hướng

đầu tư sang các quốc gia đang phát triển có tiềm năng, nhằm hạn chế các rủi

ro đầu tư.

Hiện có khoảng trên 100 định chế đầu tư tài chính chuyên nghiệp trên

thế giới đang quản lý một khối lượng tài sản khổng lồ, khoảng 300 tỷ USD.

10

Chỉ cần họ chấp nhận đầu tư vào Việt Nam 0,1% là chúng ta đã có khoảng

300 triệu USD.

Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, các yếu tố sản xuất trong quá trình tái

sản xuất hàng hóa, dịch vụ được dịch chuyển tự do hơn từ nơi này sang nơi

khác, nhằm phát huy lợi thế so sánh của mỗi quốc gia thông qua các cam kết

mở cửa thị trường. Việt Nam đang nổi lên như một quốc gia có nhiều tiềm

năng thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh vị trí địa lý thuận lợi, chính trị ổn

định, tiềm năng tăng trưởng kinh tế dài hạn, Việt Nam còn là một quốc gia có

nhiều lợi thế so sánh hấp dẫn nhà đầu tư như: nguồn lao động, thị trường, tài

nguyên. Hơn nữa, vận nước đang lên, Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò,

vị trí và tầm quan trọng của mình trên bản đồ kinh tế khu vực và thế giới. Sự

quan tâm của khu vực và thế giới tới Việt Nam, đặc biệt là thời điểm Việt

Nam gia nhập WTO, cộng với sự thành công của các nhà đầu tư hiện hữu tại

đây sẽ mở ra cơ hội lớn trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

Nhìn chung, nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FPI) là một tiềm năng rất lớn

đối với thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Với các yếu tố thuận lợi

khách quan, Việt Nam hoàn toàn có khả năng khai thác tiềm năng dòng chảy

vốn FII của thế giới phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

2.2 THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI FPI

Nước ta đã có những thành công trong thu hút nguồn vốn FDI, nhưng

nguồn vốn FPI vẫn còn hạn chế. Sau khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FPI

vào Việt Nam có xu hướng tăng, nhưng quy mô còn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp

so với vốn FDI. Một số quỹ mới hoạt động tại Việt Nam từ năm 2001 có quy

mô vốn bình quân từ 5-20 triệu USD cho một quỹ nhỏ hơn giai đoạn (1991-

11

1997), chiếm 1,2% vốn FDI, tăng lên 3,7% (2004), tỷ lệ này còn quá thấp so

với các nước trong khu vực (tỷ lệ thu hút FII/FDI trong khoảng 30-40%).

Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, đầu tư FPI vào Việt Nam trong thời

gian gần đây cũng đã tăng rất mạnh. Biểu hiện rõ nhất là việc đầu tư vào thị

trường chứng khoán của các tập đoàn tài chính quốc tế trong thời gian qua đã

không ngừng gia tăng. Đến cuối năm 2006, khoảng trên 2 tỷ USD vốn đầu tư

gián tiếp được công bố thông qua các quỹ đầu tư chính thức.

Theo các nhà đầu tư, lý do để họ hướng về Việt Nam là Chính phủ đã

khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển của nền

kinh tế, tính chuyên nghiệp hoá từng bước của môi trường đầu tư và sự thành

công của những nhà đầu tư hiện hữu. Bên cạnh đó, phải kể đến những bước

tiến mới trong lĩnh vực tài chính của Việt Nam bao gồm: việc phát hành thêm

trái phiếu chính phủ ra nước ngoài và trái phiếu tư nhân, thành lập Tổng công

ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC); quá trình cổ phần hoá đang

diễn ra tại Việt Nam bao gồm cả ngân hàng thương mại quốc doanh; tăng

cường đầu tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống điện và giao thông, cải cách

khung pháp lý dành cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Tuy nhiên, để có thể thu hút thêm nguồn vốn FII tương xứng với tiềm

năng của nền kinh tế và thị trường, Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt

động cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt là khung pháp lý, cơ chế và sách

lược phát triển thị trường chứng khoán

2.2.1 DÒNG VỐN FPI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

DÒNG VỐN FPI QUA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ

12

Kênh thu hút vốn này được coi là kênh mở đầu cho thời kỳ tiếp nhận

nguồn vốn FPI đối với toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù đã trải qua

nhiều giai đoạn thăng trầm khi xét trên góc độ quy mô vốn đầu tư, nhưng kênh

dẫn vốn này vẫn đang chứng tỏ là một trong những kênh huy động vốn dài

hạn quan trọng cho nền kinh tế. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy

mạnh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó có tái cấu trúc TTCK, theo đó

hành lang pháp lý cho các loại hình quỹ đầu tư đa dạng đang từng bước được

hoàn thiện để thu hút sự tham gia nhiều hơn của loại hình nhà đầu tư có tổ

chức trên TTCK.

Giai đoạn 1991 - 2005 (trước khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương

mại Thế giới - WTO). Mặc dù đây là giai đoạn nguồn vốn FII vào Việt Nam

phải chứng kiến nhiều sự biến động nhất, nhưng cũng là giai đoạn đã góp

phần tạo tiền đề cho lộ trình thu hút nguồn vốn FII ổn định và quy mô lớn hơn

cho suốt những giai đoạn sau đó.

Từ 1991 - 1996, tuy chưa có TTCK, nhưng FPI đã vào Việt Nam dưới

hình thức 7 quỹ đầu tư quốc tế với tổng số vốn khoảng 400 triệu USD (Bảng

1). Trong giai đoạn này, giá các chứng chỉ quỹ này tăng nhẹ và luôn cao hơn

giá trị tài sản ròng (NAV).

Năm 1997, mặc dù so với các nước khác trong khu vực, ảnh hưởng của

cuộc khủng hoảng tài chính châu Á tới nền kinh tế Việt Nam ít nặng nề hơn

nhưng nguồn vốn FII không vì thế mà khả quan hơn. Với các quỹ đang hoạt

động trong giai đoạn này, giá chứng chỉ quỹ giảm mạnh, mức chiết khấu từ

43,6 - 47,7% so với NAV. Hoạt động đầu tư thua lỗ, khiến các quỹ đẩy mạnh

cắt giảm quy mô, 5 trong số 7 quỹ đã rút khỏi Việt Nam, 2 quỹ còn lại thu hẹp

13

90% quy mô, trong đó chỉ còn duy nhất Quỹ Vietnam Enterprise Investment

Fund duy trì hoạt động. Thêm vào đó, trong thời gian này, số lượng doanh

nghiệp cổ phần hóa rất ít, cả nước chỉ có 38 doanh nghiệp tư nhân được thành

lập, 128 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa. Những điều này đã phần

nào làm giảm mức độ thu hút của thị trường Việt Nam đối với nhà ĐTNN. Do

đó, từ năm 1997 cho đến hết năm 2002, không có bất kỳ quỹ đầu tư mới nào ở

Việt Nam ra đời.

Từ năm 2003 tới năm 2005, dòng vốn FPI bắt đầu quay trở lại TTCK

Việt Nam với 13 quỹ mới được thành lập có tổng quy mô vốn đạt 908 triệu

USD. Đây là kết quả của sự ra đời và phát triển của Sở Giao dịch Chứng

khoán (SGDCK) Tp. Hồ Chí Minh (2000) và SGDCK Hà Nội (2005) cùng với

hành lang pháp lý được điều chỉnh theo hướng khuyến khích và tạo điều kiện

cho các nhà ĐTNN tham gia TTCK Việt Nam, đơn cử như việc điều chỉnh tỷ

lệ nắm giữ của nhà ĐTNN, từ mức 20% lên mức 30% (2003) sau đó lên mức

49%, đã tạo môi trường đầu tư rộng mở hơn cho các nhà ĐTNN.

Giai đoạn từ 2006 (Việt Nam gia nhập WTO) đến nay. Với tốc độ tăng

trưởng kinh tế những năm 2006, 2007 đạt mức bình quân 7,5%/năm, Tổ chức

xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã nâng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia Việt

Nam từ mức B3 lên B1. Việc gia nhập WTO vào năm 2006 cùng với sự tăng

trưởng nhanh chóng của TTCK đã giúp Việt Nam thu hút được đông đảo nhà

ĐTNN, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức (quỹ đầu tư) từ các nền kinh tế

phát triển. Quy mô vốn FII mới vào thông qua 12 quỹ đầu tư mới (2006) đạt

hơn 780 triệu USD với một số quỹ điển hình như Golden Brigde, Blackhorse,

DWS Vietnam Fund… Tính tới thời điểm cuối năm 2006, lượng vốn FII tăng

lên tới 2 tỷ USD, cao hơn tất cả giai đoạn trước đó cộng lại. Giao dịch của các

14

quỹ đầu tư thời kỳ này chiếm khoảng 60% tổng giao dịch toàn thị trường, có

vai trò dẫn dắt giao dịch của cả thị trường.

Trong giai đoạn từ 2008 đến năm 2011, dòng vốn của các quỹ ĐTNN

vẫn tiếp tục hướng tới thị trường Việt Nam kể cả khi TTCK có sự điều chỉnh

mạnh. Trong giai đoạn này, các quỹ đóng mới được thành lập và đặc biệt là sự

xuất hiện của ba quỹ hoán đổi danh mục (ETF - Exchange Traded Fund), gồm

các quỹ FTSE Vietnam Index ETF, Market Vectors Vietnam ETF và iShares

MSCI Frontier 100 ETF (Bảng 2).

Năm 2011, hai quỹ FTSE Vietnam Index ETF, Market Vectors Vietnam

ETF) đã góp phần huy động lên tới 150 triệu USD vốn ĐTNN vào thị trường

Việt Nam, nhưng năm 2012 giảm xuống còn hơn 80 triệu USD (FTSE

Vietnam ETF thu hút 28,5 triệu USD và Market Vectors Vietnam ETF thu hút

được 52,24 triệu USD). Trong hai năm 2013 – 2014, nhà ĐTNN có động thái

rút vốn tại các quỹ này, tuy nhiên quy mô rút vốn không lớn. Tính bình quân

cả năm thì hai quỹ ETF trên vẫn duy trì trạng thái vào ròng, trong đó tính

riêng năm 2013, quỹ Market Vectors Vietnam ETF đã tiếp nhận tổng cộng

66,88 triệu USD vốn ĐTNN, con số này tiếp tục tăng trong quý I/2014, đạt

83,37 triệu USD. Có thể nói, các quỹ ETF nước ngoài đã có những đóng góp

tích cực trong việc cải thiện thanh khoản TTCK trong thời gian qua và duy trì

triển vọng khả quan từ nguồn vốn của các nhà ĐTNN đối với TTCK Việt

Nam kể cả ở những thời điểm thị trường được đánh giá là khó khăn như giai

đoạn 2010 - 2012.

Mặc dù xu hướng vốn ĐTNN vào ròng tại các quỹ ĐTNN chiếm ưu thế,

nhưng cũng cần phải cân nhắc tới vấn đề thoái vốn từ các quỹ này khi các quỹ

15

đã đến thời gian đáo hạn cũng như xem xét áp dụng các biện pháp kiểm soát

hoạt động thoái vốn của các quỹ, nghiên cứu các sản phẩm bảo hiểm rủi ro

cho nhà đầu tư để tránh gây biến động lớn về giá cổ phiếu trên thị trường thứ

cấp và ảnh hưởng tới tâm lý của nhà đầu tư trong nước.

2.2.1.1 VÀI NÉT VỀ CÁC CÔNG TY QUẢN LÝ QUỸ VÀ QUỸ ĐẦU

TƯ NƯỚC NGOÀI CHỦ YẾU TẠI VIỆT NAM.

Theo thống kê của Công ty quản lý quỹ chứng khoán VN (VFM), hiện

có gần 30 quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn

rót vào nội địa khoảng 2 tỷ USD.

Hiện nay, hàng loạt quỹ đầu tư nước ngoài đang đổ vốn vào thị trường

chứng khoán Việt Nam.

Các quỹ đầu tư là phương tiện để nhà đầu tư đưa các khoản tiền của họ

vào nhằm có được yếu tố đầu tư đa dạng và điều kiện quản lý chuyên nghiệp.

Nhà đầu tư không hưởng lợi trực tiếp từ các cổ phiếu được mua bán trên thị

trường chứng khoán mà sẽ chia sẻ hiệu quả sau quá trình mua bán chứng

khoán tập trung của quỹ đó.

Lợi ích trước hết và quan trọng hơn cả khi tham gia vào quỹ đầu tư là

khả năng đầu tư đa dạng. Lợi ích khác do các quỹ đầu tư mang lại là trình độ

quản lý chuyên nghiệp. Một lợi ích nổi bật nữa của quỹ đầu tư là các cổ phần

góp vốn vào quỹ này có tính thanh khoản (nhà đầu tư muốn rút lui khỏi tổ

chức đầu tư này có thể bán lại phần tài sản của họ với giá phải chăng để

chuyển thành tiền mặt trong thời gian ngắn).

16

Hiện nay, nhiều công ty quản lý quỹ đầu tư tập chung chính vào thị

trường Việt Nam như Vina Capital, Mekong Capital, Dragon Capital.

Một số công ty Quản lý quỹ chủ yếu

1. Dragon Capital

Dragon Capital là điển hình về sự kiên trì “bám trụ” ở VN. Đây là công

ty quản lý quỹ thành lập ở Anh năm 1994. Năm 1997-1998, khi cuộc khủng

hoảng tài chính khu vực xảy ra, nhiều quỹ đầu tư đã ra đi. Nhưng Dragon

Capital thì ở lại, và đã thành công. Dragon Capital lập Quỹ Vietnam

Enterprise Investment Limited (VEIL) năm 1995. Đây là quỹ đầu tư nước

ngoài lớn nhất tại Việt Nam với tổng tài sản hiện nay ước tính khoảng 1 tỷ

USD. Năm 2003, Dragon Capital liên doanh với Sacombank để thành lập

VietFund Mangagement (VFM), công ty quản lý quỹ đầu tiên tại Việt Nam.

Hiện VFM đang quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VF1).

Cuối năm 2004, Dragon Capital lại thành lập quỹ thứ hai tại Việt Nam

là Vietnam Growth Fund Limited (VGF) hiện có tổng vốn 500 triệu USD.

Sang năm 2005, Dragon lập thêm quỹ Vietnam Dragon Fund Limited (VDF)

có tài sản hiện tại là 340 triệu USD. Quỹ đầu tư mới nhất của hãng này là

Vietnam Resource Investment (Holdings) Limited (VRI), từ 2007. Đây là quỹ

đầu tiên đầu tư vào các công ty kinh doanh về tài nguyên thiên nhiên.

Tháng 9 vừa rồi, Dragon Capital đã giới thiệu một chỉ số chứng khoán

riêng của mình, chỉ số Dragon Capital VN30 Index (DC VN30 Index), đo

lường các thay đổi trên cả 3 sàn giao dịch TP. HCM, Hà Nội và thị trường

OTC.

17

2. VinaCapital

Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ

tháng 11/2003 với việc ra đời quĩ đầu tư tư nhân Vietnam Opportunity Fund

(VOF). VOF là quĩ do một số tổ chức tài chính lớn thành lập để đầu tư vào

Việt Nam, trong đó ông Robert Knapp, Giám đốc quĩ Millennium Partners (là

quĩ đầu tư lớn tại Mỹ với số vốn 4 tỷ USD), có tỉ lệ góp vốn lớn nhất.

Từ giữa năm 2006, Công ty Quản lý quỹ VinaCapital khai trương Quỹ

bất động sản VinaLand, nhưng số tiền mà các nhà đầu tư nước ngoài góp vào

quỹ đã lên tới 65 triệu đô la Mỹ, vượt mức dự kiến 15 triệu đô la Mỹ. Ngoài

VinaLand, VinaCapital đang nỗ lực giải ngân nốt số tiền còn lại chừng 50

triệu đô la Mỹ trong tổng số 171 triệu đô la Mỹ của Quỹ Vietnam

Opportunities Fund (VOF) với hướng đầu tư chính của VOF tiếp tục là cổ

phiếu OTC và địa ốc.

Ngay từ đầu năm 2007, VinaCapital đã lên kế hoạch thành lập mới một

quỹ đầu tư bất động sản với tổng vốn đầu tư lên tới 200 triệu USD.

Ngày 5/7/2007, Vina Captial đã chính thức đưa Quỹ Cơ sở hạ tầng Việt

Nam (Vietnam Infrastructure Limited – VIL) lên niêm yết trên sàn chứng

khoán thứ cấp London (Alternative Investment Market – AIM). Đây là quỹ

đầu tiên giao dịch trên thị trường AIM tập trung vào các lĩnh vực hạ tầng cơ

sở then chốt của Việt Nam, bao gồm năng lượng, vận tải, nước và viễn thông.

Sự kiện này đã nâng số quỹ đầu tư mà Vina Capital mở tại Việt Nam lên thành

bốn quỹ với tổng số vốn đầu tư gián tiếp đã thu hút vào Việt Nam lên tới 1,8

tỷ USD.

18

VinaCapital cũng đang đẩy mạnh đầu tư vào các công ty công nghệ.

Công ty quản lý quỹ này đã liên doanh với Tập đoàn Draper Fisher Jurveton -

tập đoàn đầu tư mạo hiểm với tổng vốn đầu tư trên 3,5 tỷ USD để lập quỹ đầu

tư DFJ VinaCapital với tổng số vốn đầu tư ban đầu là 50 triệu USD.

3. Mekong Capital

Mekong Capital là công ty quản lý quỹ đầu tư tập trung vào Việt Nam

do các cá nhân có kinh nghiệm về mảng quản lý đầu tư cả ở Việt Nam và quốc

tế thành lập năm 2001.

Phần lớn các vị trí cao cấp trong công ty là do người Việt Nam nắm giữ

và cũng là cổ đông của công ty.

Công ty bắt đầu hoạt động từ năm 2002 tại Việt Nam với việc thành lập

Quỹ đầu tư Mekong Enterprise Fund đầu (tổng vốn đầu tư 18,5 triệu USD).

Mekong Capital chọn những công ty thuộc khu vực tư nhân ở các địa phương

với quy mô nhỏ làm đối tác.

Đến nay, quỹ đã đầu tư hết vào 10 công ty Việt Nam như Công ty Xây

dựng và Kiến trúc AA, Công ty tin học Lạc Việt, Công ty nhựa Tân Đại Hưng,

Công ty gỗ Đức Thành.

Ngày 5/6/2006, công ty đã chính thức khai trương quỹ đầu tư cổ phần

thứ 2 (Mekong Enterprise Fund II) tại TP.HCM. Quỹ có tổng vốn 50 triệu

USD, tập trung đầu tư vào các công ty tư nhân Việt Nam phục vụ cho thị

trường trong nước, hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, phân phối và quảng

bá thương hiệu (vốn đầu tư trung bình cho mỗi dự án là 3 triệu USD).

19

Cũng từ giữa năm 2006, Công ty đã đẩy mạnh đầu tư gần hết số vốn

18,5 triệu đô la Mỹ của Mekong Enterprise Fund vào các doanh nghiệp cổ

phần.

4. Indochina Capital

Indochina Capital đã hoạt động ở Việt Nam 15 năm

Trong 15 năm qua, công ty đã tiến hành đầu tư 1 tỷ USD vào các dự án

địa ốc, trong đó tiêu biểu là các dự án như Khách sạn Furama (Đà Nẵng),

Saigon Center (Tp.HCM), 63 Lý Thái Tổ (Hà Nội)... và nhiều dự án địa ốc

khác do công ty đầu tư chính; và góp vốn chung với một công ty khác đầu tư

dự án khu du lịch Nam Hải (Đà Nẵng).

Ngoài lĩnh vực bất động sản, công ty còn đầu tư vào thị trường chứng

khoán kể từ khi thị trường chứng khoán bắt đầu mở cửa cho đến nay và tổng

cộng công ty đã đầu tư khoảng 50 triệu USD vào thị trường chứng khoán.

Hiện công ty đang quản lý số vốn khá lớn của các tổ chức tài chính và các cá

nhân nhà đầu tư nước ngoài.

Năm 2006, Indochina Capital cũng đã thành lập hai quỹ, một địa ốc với

42 triệu đô la Mỹ và một quỹ chứng khoán với 50 triệu đô la Mỹ.

Để phục vụ cho mục tiêu lâu dài trên thị trường Việt Nam, Indochina

Capital đã thành lập Quỹ Indochina Capital Holding Limited và thực hiện đợt

phát hành và niêm yết trên thị trường chứng khoán London với quy mô ban

đầu là 500 triệu USD (3/2007). Sự kiện này ngay lập tức đã thu hút sự quan

20

tâm của nhà đầu tư nước ngoài và trong đợt phát hành lần đầu Indochina

Capital Vietnam Holding Limited dự định thu hút khoảng 300-350 triệu USD

nhưng đã nhận được sự quan tâm rất lớn của các nhà đầu tư và đạt được con

số 500 triệu USD.

Một số quỹ đầu tư chủ yếu

1. Prudential

Quỹ đầu tư Prudential (PRUBF1) do Công ty Quản lý Quỹ đầu tư

Prudential Việt Nam thành lập năm 2006.

Trong các quỹ đầu tư của nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam hiện

nay, Prudential được xem là quỹ đầu tư lớn nhất với quy mô quỹ vào khoảng

500 triệu USD.

Tuy nhiên, 65% vốn của quỹ này dành để đầu tư vào trái phiếu Chính

phủ, chỉ có khoảng 35% còn lại tương đương với khoảng 175 triệu USD là

dành đầu tư vào tài sản vốn và thị trường chứng khoán.

Theo đánh giá của các chuyên gia tài chính, Quỹ đầu tư này rất phù hợp

với các nhà đầu tư có khả năng chấp nhận rủi rot rung bình, thời gian đầu tư từ

trung bình đến dài hạn và mong muốn có thu nhập định kỳ cùng triển vọng

nâng cao giá trị vốn đầu tư.

2. Vietnam Enterprise Investment Fund (VEIL)

VEIL là quỹ đầu tư nước ngoài duy nhất có thời gian hoạt động lâu nhất

tại Việt Nam. Quỹ được thành lập vào tháng 7-1995 với tổng số vốn huy động

21

ban đầu là 35 triệu USD, và trong hơn 10 năm hoạt động đó VEIL đã vượt qua

khủng hoảng kinh tế khu vực và nâng số vốn huy động lên đến hơn 109 triệu

USD. Hiện nay, VEIL là quỹ đứng thứ hai tại Việt Nam về mặt quy mô vốn

huy động nhưng lại đứng đầu về lượng vốn hóa thị trường.

Nguồn vốn đầu tư của VEIL được huy động từ các nhà đầu tư có tổ

chức nước ngoài chủ yếu từ Anh, Mỹ và Canada. Bên cạnh đó, VEIL có một

phần vay từ tổ chức tài chính quốc tế IFC trực thuộc Ngân hàng Thế giới

WorldBank. VEIL là quỹ đóng và được niêm yết trên thị trường chứng khoán

(TTCK) NCB ở Ailen.

Quỹ VEIL được thành lập bởi Công ty quản lý quỹ Dragon Capital với

mục tiêu đầu tư vào các công ty tư nhân, doanh nghiệp nhà nước đang cổ phần

hóa, công ty cổ phần niêm yết hoặc chưa niêm yết và các công ty có vốn đầu

tư nước ngoài mà nguồn doanh thu chủ yếu từ Việt Nam.

VEIL ưu tiên đầu tư vào 5 ngành chính là tài chính ngân hàng, cơ sở hạ

tầng, bưu chính - viễn thông, du lịch, khai thác khoáng sản và hàng tiêu dùng.

VEIL tập trung đầu tư vào doanh nghiệp có quy mô vốn từ 2 - 3 triệu USD trở

lên và đặc biệt không đầu tư vào các công ty được quản lý bởi gia đình.

Trong năm 2005, VEIL được xem là quỹ có kết quả hoạt động tốt nhất

tại Việt Nam khi giá trị tài sản ròng trên một cổ phiếu quỹ tăng 37,1% so với

các năm trước và giá của một đơn vị quỹ VEIL được giao dịch cao hơn gần

11% giá trị tài sản ròng.

3. Vietnam Growth Fund (VGF)

22

Quỹ VGF cũng được quản lý bởi Dragon Capital và thành lập vào tháng

10-2004 với số vốn huy động ban đầu là 60 triệu USD. Cũng như VEIL, VGF

là quỹ đóng và được niêm yết ở TTCK NCB ở Ailen. VGF có tốc độ tăng vốn

khá nhanh so với VEIL, chỉ sau hơn một năm hoạt động quy mô vốn của quỹ

đã tăng 66,7% đạt 100 triệu USD.

Mục tiêu đầu tư của VGF là nhằm vào những công ty có tốc độ tăng

trưởng nhanh và thuộc những ngành đầu tư như VEIL. VGF đặc biệt không

đầu tư vào thị trường bất động sản. Giá trị tài sản ròng trên một cổ phiếu quỹ

và giá giao dịch của VGF vào cuối năm 2006 tăng 15% và 17,6% so với năm

trước.

4. Vietnam Dragon Fund (VDF)

Dragon Capital cho biết mới vừa thành lập Quỹ VDF vào đầu năm 2006

với số vốn đầu tư ban đầu là 35 triệu USD. Quỹ VDF được huy động vốn bởi

các nhà đầu tư Nhật Bản. Đây cũng là một quỹ đóng và được niêm yết ở

TTCK NCB. Mục tiêu đầu tư của VDF tương tự như VEIL là ưu tiên đầu tư

vào 5 ngành chính là tài chính - ngân hàng, cơ sở hạ tầng, bưu chính - viễn

thông, du lịch, khai thác khoáng sản và hàng tiêu dùng.

Trong 9 tháng đầu năm 2006, VDF đã thực hiện 30 khoảng đầu tư vào

các công ty niêm yết và không niêm yết hoạt động chủ yếu ở Việt Nam. Tổng

giá trị tài sản ròng tính đến cuối tháng 9-2006 đạt hơn 169 triệu USD tăng gần

22,5% so với tháng 12-2005.

5. Vietnam Opportunity Fund (VOF)

23

VOF của Vinacapital bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ tháng 9-2003,

đến tháng 9-2006 có quy mô tổng vốn huy động 171 triệu USD được tập trung

đầu tư vào những ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh như dịch vụ tài chính,

hàng tiêu dùng, bán lẻ, bất động sản, du lịch, cơ sở hạ tầng và ngành công

nghệ.

Mới hoạt động hơn 3 năm, VOF đã đạt kết quả đầu tư tốt và tốc độ tăng

vốn nhanh. Giá trị chứng chỉ quỹ luôn được giao dịch cao hơn giá trị tài sản

ròng trên một cổ phiếu quỹ khoảng 20 – 25% và thậm chí đạt đến đỉnh điểm

44,6%.

Giá trị tài sản ròng trên một cổ phiếu quỹ vào đầu năm 2006 đạt 1,6

USD, tăng 39,1% so với cùng kỳ năm trước. Quy mô vốn của VOF vào cuối

năm 2005 nhỏ hơn VEIL, nhưng gần đây VOF đã huy động thêm được hơn 76

triệu USD từ nhà đầu tư Millenium Parnerts của Mỹ và vươn lên đứng đầu về

vốn đầu tư tại Việt Nam.

6. PXP Vietnam Fund

Thành lập sau VOF chừng 3 tháng, PXP Việt Nam chỉ tập trung đầu tư

vào những công ty đã niêm yết hoặc chuẩn bị niêm yết tại TTCK Việt Nam.

Quỹ PXP đầu tư dài hạn vào những công ty Việt Nam hoặc có vốn đầu tư

nước ngoài nhưng lượng vốn hóa ở mỗi công ty phải đạt tối thiểu 5 triệu USD

hay có chỉ số giá trên thu nhập (P/E) của công ty đó phải tương đương với P/E

thị trường.

Nhờ vào sự tăng trưởng mạnh của TTCK Việt Nam nên PXP đã cải

thiện nhanh kết quả đầu tư, sau 2 năm hoạt động giá trị tài sản ròng trên một

24

đơn vị quỹ đạt 3,2 USD, tăng 33,3% so với năm trước. Với việc đầu tư vào

Công ty Dược phẩm Imexpharm, trong cùng thời gian này PXP đã nâng tổng

số công ty đã đầu tư lên 23 đơn vị và đạt 93% tổng lượng vốn huy động.

Tất cả 10 công ty chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng tài sản ròng của PXP

là những doanh nghiệp đã niêm yết trên TTCK và có kết quả kinh doanh tốt

trong năm vừa qua. Ngoài việc thành lập quỹ mới VEEF vào cuối tháng 11-

2005, PXP tăng quy mô quỹ từ 25,8 triệu USD lên khoảng 40 triệu vào quý 2-

2006 bằng cách phát hành thêm hơn 2 triệu cổ phiếu.

7. Vietnam Emerging Equity Fund (VEEF)

Bên cạnh PXP Việt Nam, PXP Asset Management đã mở thêm quỹ đầu

tư mới Vietnam Emerging Equity Fund (VEEF) vào thị trường Việt Nam với

quỹ mô vốn khoảng 15,9 triệu USD từ tháng 11-2005 và được niêm yết tại

TTCK Ai-len (NCB). VEEF cũng tập trung đầu tư vào những công ty niêm

yết hoặc chuẩn bị niêm yết trên TTCK Việt Nam. Đến giữa quý 3-2006,

VEEF đầu tư vào 28 công ty Việt Nam, giá trị tài sản ròng đạt 52,5 USD, tăng

36% so với lúc mới thành lập.

8. Mekong Enterprise Fund (MEF)

Trong số 7 quỹ tư nhân và quỹ không niêm yết của nước ngoài đầu tư

tại Việt Nam, MEF ra đời từ tháng 4-2002 với quy mô vốn 18,5 triệu USD và

do Công ty Mekong Capital quản lý. Đối tượng đầu tư của MEF là những

công ty gia đình vừa và nhỏ, có kết quả kinh doanh tốt, đặc biệt năng động

trong kinh doanh và có khuynh hướng niêm yết trên sàn giao dịch chứng

khoán.

25

MEF không quan tâm đến những công ty có quy mô lớn và thường cung

cấp dịch vụ hỗ trợ sau đầu tư để giúp các công ty đó cải thiện hoạt động quản

lý doanh nghiệp và có thể phát triển vượt bậc trong tương lai. Với tốc độ đầu

tư khoảng 3 - 4 công ty mỗi năm, đến nay MEF đã đầu tư 10 doanh nghiệp với

tổng vốn khoảng 13 – 14 triệu USD.

MEF đã đầu tư gần hết lượng vốn huy động, vì vậy Mekong Capital mở

thêm quỹ mới vào năm 2006 với quy mô vốn khoảng 40 triệu USD và cùng

chiến lược đầu tư như MEF.

9. IDG Ventures Vietnam (IDG)

IDG Ventures Vietnam (IDGVV) là quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên của

Mỹ tập trung vào lĩnh vực công nghệ cao được thành lập vào tháng 3-2004.

Quỹ này ưu tiên đầu tiên vào các doanh nghiệp trẻ kinh doanh các ngành công

nghệ cao tại Việt Nam.

Với quy mô 100 triệu USD, IDGVV đầu tư vào những doanh nghiệp có

tiềm năng phát triển cao thuộc các ngành công nghệ thông tin, viễn thông,

internet, truyền thông và công nghệ sinh học. Đến nay, IDGVV đã đầu tư 5

triệu USD vào 4 doanh nghiệp PeaceSoft, Isphere, VinaGame và

VietnamWorks.com.

Trong thời gian 7 năm (2003-2010), IDG dự kiến dành khoảng 100 triệu

USD đầu tư CNTT tại Việt Nam, riêng đầu tư mạo hiểm chiếm tới 80 triệu

USD.

26

Cho đến nay, IDG có 16 dự án đầu tư vào các công ty của Việt Nam với

tổng số vốn trên 25 triệu USD. Theo kế hoạch, từ nay tới cuối năm, IDG sẽ

đầu tư vào hai công ty nữa với số vốn từ 10 đến 12 triệu USD.

Theo IDG Ventures, yếu tố chính để họ quyết định đầu tư vào các công

ty được lựa chọn là yếu tố con người, lãnh đạo. Trung bình 1 tháng IDG nhận

được hơn 100 dự án mời gọi đầu tư của các công ty Việt Nam. Lĩnh vực mà

IDG quan tâm nhất vẫn là công nghệ cao và media.

2.2.2 DÒNG VỐN FPI THÔNG QUA CÁC GIAO DỊCH CHỨNG

KHOÁN

Dữ liệu thống kê từ Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, cơ cấu nguồn

vốn FII vào Việt Nam thời gian qua, xét theo loại chứng khoán đầu tư, tập

trung chủ yếu ở mảng giao dịch cổ phiếu.

Đối với mảng đầu tư trái phiếu, dòng vốn ĐTNN vào ròng nhiều nhất

vào hai năm 2005, 2010 với giá trị lần lượt đạt 709,37 và 981,29 triệu USD.

Kết quả khả quan này có sự đóng góp lớn từ giá trị vốn FII mà Việt Nam thu

hút được thông qua thị trường phát hành, cụ thể là hai đợt phát hành thành

công trái phiếu chính phủ quốc tế vào hai năm này, với quy mô vốn huy động

được lần lượt là 750 triệu USD và 1.000 triệu USD.

Trong khi đó, quy mô vốn cổ phiếu duy trì trạng thái ròng dương (vào

ròng) ở mức tương đối cao trong suốt thời gian qua, và bộ phận chủ yếu của

quy mô vốn cổ phiếu này là thông qua nguồn vốn của nhà ĐTNN đầu tư vào

thị trường giao dịch thứ cấp.

27

Duy nhất năm 2008, do ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc suy thoái kinh tế

toàn cầu, giá trị cổ phiếu trên TTCK sụt giảm mạnh, lượng FII vào thị trường

Việt Nam giảm mạnh, trong khi lượng vốn của nhà ĐTNN rút ra khỏi TTCK

Việt Nam lớn khiến cho dòng vốn FII năm 2008 ở trạng thái ra ròng. Năm

2009, lượng vốn FII tiếp tục giảm sâu xuống 71 triệu USD, tuy nhiên áp lực

thoái vốn đã giảm đi nên nguồn vốn này duy trì mức vào ròng giá trị thấp (128

triệu USD). Đến năm 2010, cùng với dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế thế

giới, lượng vốn FII vào TTCK Việt Nam tăng mạnh. Năm 2012, nhà ĐTNN

đã mua ròng gần 4.600 tỷ đồng trên cả hai SGDCK Hà Nội và Tp. HCM, giá

trị mua ròng tăng gần gấp 3 lần so với năm 2011 đã góp phần làm gia tăng quy

mô vốn cổ phiếu trong năm 2012 lên mức gần 1.900 triệu USD.

Tính tới cuối năm 2013, lượng vốn FII không có biến chuyển lớn với

tổng quy mô vốn cổ phiếu duy trì ròng hơn 1.800 triệu USD, thấp hơn giá trị

năm 2012, trong đó tính riêng giá trị giao dịch trên hai SGDCK, nhà ĐTNN

đã mua ròng khoảng 315 triệu USD (gần 6.650 tỷ đồng).

Ngoài quy mô vốn đầu tư, thì số lượng nhà ĐTNN tham gia đầu tư vào

TTCK Việt Nam cũng không ngừng gia tăng ,đặc biệt tăng mạnh trong giai

đoạn năm 2006 - 2007 cùng với sự bùng nổ của TTCK Việt Nam và tăng

trưởng kinh tế. Điều này đã góp phần đa dạng hóa cơ cấu nhà đầu tư trên

TTCK Việt Nam, đặc biệt là nhà đầu tư có tổ chức, bên cạnh việc đóng góp

vào cải thiện thanh khoản thị trường giao dịch thứ cấp.

2.2.2.2 ĐÁNH GIÁ CHUNG

Nhìn chung, nguồn vốn FII trên TTCK Việt Nam mặc dù có những sự

biến động tăng, giảm nhất định qua thời gian, nhưng dòng vốn này luôn

28

duy trì trạng thái vào ròng , đóng góp đáng kể vào nguồn vốn dài hạn cho

nền kinh tế bên cạnh nguồn vốn FDI .

Theo dõi Hình 4, có thể thấy, mặc dù FII cùng với FDI là hai dòng vốn

ĐTNN quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, nhưng so với FDI, FII chỉ

chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Lượng vốn

FDI tại thời điểm cuối năm 2013 gấp khoảng hơn 30 lần so với lượng vốn

FII. Biểu đồ trên cũng cho thấy vốn FII chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh

tế nhanh và mạnh hơn so với FDI. Trong khoảng thời gian từ năm 2007 tới

cuối năm 2013, lượng vốn FDI giảm 35,3% trong khi đó lượng vốn FII sụt

giảm mạnh tới 97,7%.

Thêm vào đó, so với các quốc gia khác trong khu vực, Việt Nam vẫn

đang là quốc gia có mức độ thu hút vốn FII rất thấp , chưa kể đến việc quy

mô vốn FII vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu thực tiễn đang

đặt ra đối với nền kinh tế và TTCK Việt Nam.

Thực trạng này bắt nguồn từ một số nguyên nhân như: (i) Chất lượng

hàng hóa trên TTCK chưa cao; (ii) Hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, đầy

đủ, chưa khuyến khích nhà ĐTNN (như quy định về công bố thông tin, quy

định về giới hạn tỷ lệ sở hữu - “room” áp dụng cho nhà ĐTNN, các văn

bản pháp lý điều chỉnh hoạt động của các quỹ đầu tư còn chưa đầy đủ, đặc

biệt là các quỹ ETF, Quỹ hưu trí, Quỹ REITs…); (iii) Quy mô thị trường

còn nhỏ, mức độ đa dạng hàng hóa thấp; (iv) Chưa có các sản phẩm phái

sinh, sản phẩm cấu trúc (Hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, hợp

đồng kỳ hạn…) giúp nhà ĐTNN bảo hiểm rủi ro đầu tư, dẫn đến nhà đầu tư

rút vốn ồ ạt khỏi thị trường như thời điểm năm 2008…

29

Do đó, để đẩy mạnh thu hút nguồn vốn FII trên TTCK trong thời gian

tới, cần phải xem xét và giải quyết triệt để các vấn đề tồn tại ở trên nhằm

tạo ra một điểm đến đầu tư hấp dẫn đối với các nhà ĐTNN.

2.3 TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI

VIỆT NAM.

2.3.1. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC

Trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp và gián tiếp làm tăng

tổng vốn đầu tư trực tiếp của xã hội

Khi vốn đầu tư gián tiếp quốc tế đổ vào Việt Nam sẽ trực tiếp làm tăng

lượng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường vốn trong nước. Hơn nữa, vốn đầu

tư gián tiếp quốc tế gia tăng sẽ gia tăng dây chuyền tới dòng vốn đầu tư gián

tiếp trong nước. Hay nhà đầu tư trong nước sẽ nhìn gương các nhà đầu tư gián

tiếp nước ngoài và tang động lực bỏ vốn đầu tư gián tiếp của mình, kết quả là

tổng đầu tư gián tiếp xã hội sẽ tăng lên.

Hơn nữa, khi dòng vốn đầu tư gián tiếp quốc tế gia tăng, thì đó sẽ là

một sự bảo đảm và tạo động lực mới hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư khác

mạnh dạn thông qua các quyết định đầu tư trực tiếp mới của mình, kết quả là

gián tiếp góp phần làm tăng đầu tư trực tiếp xã hội từ phía các nhà đầu tư cả

nước ngoài, cũng như trong nước.

Góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng, hoàn

thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung

Việc gia tăng và phát triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp quốc tế sẽ

làm cho thị trường tài chính (đặc biệt là thị trường chứng khóan) Việt Nam trở

nên đồng bộ, cân đối và sôi động hơn, khắc phục được sự thiếu hụt, trống

vắng và trầm lắng, thậm chí đơn điệu, kém hấp dẫn kéo dài của thị trường này

trong thời gian qua. Hơn nữa, đi kèm với sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp

30

quốc tế này là sự phát triển các định chế và dịch vụ tài chính - chứng khoán,

đó là các loại quỹ đầu tư, công ty tài chính, và các thể chế tài chính trung gian

khác, cũng như các dịch vụ tư vấn, bổ trợ tư pháp và hỗ trợ kinh doanh…bảo

hiểm, kế toán, kiểm toán và thông tin thị trường, đồng thời còn kéo theo sự gia

tăng yêu cầu và hiệu quả áp dụng các nguyên tắc cạnh tranh thị trường, trước

hết trên thị trường chứng khóan... Tất cả những điều này trực tiếp và gián tiếp

góp phần phát triển mạnh mẽ hơn các bộ phận và tổng thể thị trường tài chính

nói riêng, các thể chế và cơ chế thị trường nói chung trong nền kinh tế chuyển

đổi Việt Nam.

Góp phần tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải

thiện chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo người

dân.

Việc phát triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp cả bề rộng lẫn bề sâu sẽ

mang lại những cơ hội mới và sự đa dạng hoá trong lựa chọn các phương thức

đầu tư cho các nhà đầu tư tiềm năng nước ngoài và trong nước. Đông đảo các

nhà đầu tư nước ngoài và cả trong nước sẽ có thêm điều kiện lựa chọn sử dụng

vốn của mình để đầu tư dưới các hình thức trực tiếp tự mình hay thông qua

các định chế tài chính trung gian để mua - bán các cổ phiếu, trái phiếu và

chứng khoán có giá khác của Việt Nam trên thị trường tài chính trong nước và

nước ngoài. Việc đầu tư này sẽ cho phép họ thu nhận được lợi nhuận từ sự

chênh lệch giá cả khi mua - bán chứng khoán, cũng như từ lãi suất và cổ tức

các chứng khoán mà họ sở hữu theo thoả thuận hoặc thực tế kết quả kinh

doanh của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phát hành chứng khoán đó. Điều

này cũng đồng nghĩa với việc cải thiện thu nhập, mức sống của đông đảo các

nhà đầu tư là người dân, tuỳ theo lượng vốn và kỹ năng đầu tư chứng khoán

mà họ có. Hơn nữa, thông qua quá trình tham gia đầu tư gián tiếp này, các nhà

31

đầu tư trong nước sẽ được dịp "cọ xát", rèn luyện và bồi dưỡng kiến thức, kinh

nghiệm, kỹ năng, bản lĩnh đầu tư, nâng cao trình độ bản thân nói riêng, chất

lượng nguồn nhân lực nói chung, phù hợp yêu cầu và điều kiện kinh doanh thị

trường, hiện đại.

Góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước theo các

nguyên tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.

Việc quản lý và quản trị doanh nghiệp phát hành chứng khoán sẽ được

thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hơn do yêu cầu về báo cáo tài chính doanh

nghiệp và minh bạch hoá, cập nhật hoá thông tin liên quan đến các chứng

khoán mà doanh nghiệp đã và sẽ phát hành. Hơn nữa, về nguyên tắc, các nhà

đầu tư chỉ ưa lựa chọn đầu tư vào chứng khoán của các doanh nghiệp đáng tin

cậy, đang và sẽ có triển vọng phát triển tốt trong tương lai. Chính điều này sẽ

cho phép quá trình "chọn lọc nhân tạo", "bỏ phiếu" cho sự hỗ trợ và phát triển

các doanh nghiệp này trở nên khách quan và phù hợp cơ chế thị trường hơn

(còn những doanh nghiệp khác mà chứng khoán của họ không hấp dẫn sẽ phải

điều chỉnh lại định hướng và chất lượng quản trị kinh doanh, sáp nhập hoặc

giải thể). Hệ thống luật pháp, cũng như các cơ quan, bộ phận và cá nhân trong

hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến thị trường tài chính, nhất là đến đầu

tư gián tiếp nước ngoài sẽ phải được hoàn thiện, kiện toàn và nâng cao năng

lực hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc điểm của thị trường này, cũng như theo

các cam kết hội nhập quốc tế. Đồng thời, thông qua tác động vào thị trường tài

chính, nhà nước sẽ đa dạng hoá các công cụ và thực hiện hiệu quả việc quản lý

của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp. Trên cơ sở đó, năng lực và

hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, thị trường tài chính

nói riêng sẽ được cải thiện hơn.

2.3.2. TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC

32

Làm tăng mức độ nhạy cảm và bất ổn về kinh tế có nhân tố nước

ngoài

Khác với FDI là nguồn vốn đầu tư lâu dài chủ yếu dưới dạng vật chất

(nhà máy, mua sắm thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất),

khó chuyển đối hoặc thanh khoản, vốn đầu tư gián tiếp quốc tế được thực hiện

dưới dạng đầu tư tài chính thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi

và mang tính thanh khoản cao trên thị trường tài chính, nên các nhà đầu tư

gián tiếp nước ngoài dễ dàng và nhanh chóng mở rộng hoặc thu hẹp, thậm chí

đột ngột rút vốn đầu tư của mình về nước, hay chuyển sang đầu tư dưới dạng

khác, ở địa phương khác tuý theo kế hoạch và mục tiêu kinh doanh của mình.

Đặc trưng nổi bật này cũng chính là nguyên nhân hàng đầu gây nên nguy cơ

tạo và khuếch đại độ nhạy cảm và chấn động kinh tế ngoại nhập của dòng vốn

đầu tư gián tiếp quốc tế đối với nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt

khi việc chuyển đổi và rút vốn đầu tư gián tiếp nói trên diễn ra theo kiểu "tháo

chạy" đồng loạt trên phạm vị rộng và số lượng. Sự nhạy cảm và bất ổn kinh tế

có thể bắt nguồn từ các nguyên nhân bên trong, cũng có thể hoàn toàn do các

nguyên nhân bên ngoài nước tiếp nhận đầu tư do phản ứng dây chuyền, làn

sóng đô-mi-nô của các nhà đầu tư quốc tế như đã từng diễn ra trong cuộc

khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ

trước. Trong tình huống như vậy, cuộc khủng hoảng đầu tư - tài chính - tiền tệ

hay khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra đối với nước tiếp nhận đầu tư, nếu

không có và triển khai tốt các phương án phòng ngừa hiệu quả.

Làm gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn

tài chính đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng

khoán

33

Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ chứng khoán, nhất là các cổ phiếu, cổ phần

sáng lập, được biểu quyết của các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đến một

mức "vượt ngưỡng" nhất định nào đó sẽ cho phép họ tham dự trực tiếp vào chi

phối và quyết định các hoạt động sản xuất - kinh doanh và các chủ quyền khác

của doanh nghiệp, tổ chức phát hành chứng khoán, thậm chí lũng đoạn doanh

nghiệp theo phương hướng, kế hoạch, mục tiêu riêng của mình, kể cả các hoạt

động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là, tính chất gián tiếp

của vốn đầu tư nước ngoài đã chuyển hoá thành tính trực tiếp. Nhà đầu tư gián

tiếp sẽ chuyển hoá thành nhà đầu tư trực tiếp.

Làm tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng

tội phạm kinh tế quốc tế

Đầu tư gián tiếp quốc tế không chỉ làm gia tăng các nguy cơ và tác hại

của các hoạt động đầu cơ, lũng đoạn kinh tế vi phạm các quy định pháp lý của

nước tiếp nhận đầu tư, mà còn là mảnh đất mầu mỡ sinh sôi và phát triển các

loại tội phạm kinh tế có yếu tố nước ngoài, thậm chí xuyên quốc gia, như hoạt

động lừa đảo, hoạt động rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các vụ kinh doanh

phi pháp và hoạt động khủng bố, cùng các loại tội phạm và các đe doạ an ninh

phi truyền thống khác.

Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động mặt trái của

dòng vốn Đầu tư gián tiếp quốc tế nói trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách

"có tổ chức" của giới đầu cơ hay lực lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít

nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt và lâu dài gây tổn hại tới hoạt động

kinh tế lành mạnh và làm tang tính dễ tổn thương của nền kinh tế nước tiếp

nhận đầu tư trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay; Thậm chí trong một số

trường hợp, chúng còn làm mất uy tín nhà nước và gây sụp đổ một nội các

chính phủ...

34

Ngoài ra, sự gia tăng dòng vốn Đầu tư gián tiếp quốc tế vào Việt Nam

còn đặt ra yêu cầu Chính phủ và các cơ quan TW phải chủ động đổi mới và sử

dụng hiệu quả các công cụ quản lý kinh tế của mình theo nguyên tắc thị

trường hơn, trong đó có việc sử dụng bảo lãnh nhà nước, quy định tỷ lệ và sử

dụng các công cụ dự phòng, dư nợ cũng như các công cụ khác của các định

chế tài chính - tiền tệ quốc gia và địa phương... những điều cần thiết để đảm

bảo sự thu hút và khai thác có hiệu quả các tác động tích cực của dòng vốn

Đầu tư gián tiếp quốc tế.

PHẦN III : GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ

NƯỚC NGOÀI

35

3.1 NHỮNG HẠN CHẾ CHỦ YẾU CẦN KHẮC PHỤC ĐỂ HẤP DẪN

DÒNG VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP QUỐC TẾ ĐỔ VÀO VIỆT NAM

Nếu thu hút FDI có đóng góp cho ngành công nghiệp sản xuất, tăng kim

ngạch xuất khẩu và tạo công ăn việc làm cho người Việt nam nhưng lại không

tác động được tới các doanh nghiệp Việt nam thì thu hút FPI có thể giúp vốn

cho doanh nghiệp trong nước, giúp doanh nghiệp tăng trưởng và nâng cao

năng lực cạnh tranh. Do vậy, FPI rất quan trọng đối với các doanh nghiệp

trong nước đang thiếu vốn.

Dòng vốn FPI vào Việt nam tuy đã tăng trở lại sau cuộc khủng hoảng

tài chính khu vực nhưng vẫn đứng ở mức thấp so với dòng vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI). Cụ thể, năm 2002 chiếm 1,2%, năm 2003 lên 2,3% và đạt

3,7% vào năm 2004. Trong khi đó tỷ lệ này ở Thái Lan, Malaysia và Trung

quốc vào khảong 30-40%. Và so với FDI, tỷ lệ FPI này khá khiêm tốn, chỉ

bằng 2-3%.

Trước hết, để hiểu rõ vì sao trong thời gian qua, dòng vốn đầu tư FPI đổ

vào Việt nam lại quá khiêm tốn như vậy, chúng ta cần tìmhiểu bản chất của

nguồn FPI là gì. Như nhiều người đã biết, dòng vốn FPI được các nhà đầu tư

nước ngoài trực tiếp sử dụng để lập nên doanh nghiệp liên doanh hay doanh

nghiệp 100% vốn nứớc ngoài, còn nguồn vốn FDI lại được nhà đầu tư nước

ngoài đưa vào Việt nam thông qua các quỹ đầu tư hay qua thị trường chứng

khoán mua cổ phần của doanh nghiệp Việt nam. Mặc dù hiện nay chính phủ

đã nâng mức sở hữu cho các nhà đầu tư nước ngoài lên đến 49% đối với cổ

phiếu niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán , nhưng

một pháp nhân nước ngoài khi đầu tư vào một doanh nghiệp thường không

mua quá 30% vốn, nên doanh nghiệp được đầu tư vẫn là doanh nghiệp Việt

36

nam. Sự đầu tư này chủ yếu mang tính hỗ trợ về tài chính và quản trị hơn là

can thiệp vào công việc kinh doanh của doanh nghiệp.

Hiện có nhiều nhược điểm cản trở dòng vốn FPI đổ vào Việt nam. Điều

quan trọng nhất đối với nhà đầu tư là muốn hiểu được hoạt động của doanh

nghiệp một cách chân thực và chính xác qua bản báo cáo tài chính, nhưng

phần lớn doanh nghiệp ở Việt nam đều coi việc báo cáo tài chính chỉ để đối

phó với cơ quan thuế chứ không phải dành cho cổ đông cũng như các nhà đầu

tư tiềm năng. Doanh nghiệp Việt nam hiện nay thường lập 2 loại sổ sách kế

toán, một dành cho mình và một dành cho việc báo cáo thuế. Trong khi đó hệ

thống kiểm toán còn nhiều bất cập, có những qui định không theo chuẩn mực

quốc tế. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa

chủ yếu là tính theo giá trị sổ sách chứ không sử dụng phương pháp chiết khấu

dòng tiền, nên để đánh giá giá trị thực của một doanh nghiệp là rất khó. Hệ

thống thông tin của doanh nghiệp còn yếu, không cung cấp đầy đủ cho nhà

đầu tư về tình hình hoạt động cũng như những dự báo trong tương lai. Hoạt

động thâu tóm giữa các doanh nghiệp gần đây mới được công bố công khai.

Hầu hết doanh nghiệp Việt nam đều ngại công khai tình hình hoạt động kinh

doanh. Hội đồng quản trị chưa phải là tổ chức qui tụ những cổ đông lớn và

không hoạt động độc lập bởi tại nhiều doanh nghiệp Giám đốc lại kiêm luôn

chức chủ tịch Hội đồng quản trị.

3.2 GIẢI PHÁP THU HÚT FPI

Trong giai đoạn 2015-2020, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp thu hút

và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài nêu trên để phục vụ đắc lực

cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời tích cực góp

phần giảm nghèo nhanh và bền vững.

37

Thu hút vốn FDI trong giai đoạn đến năm 2020 phải được điều chỉnh

theo hướng chuyển từ thiên về số lượng như trước đây, sang chú trọng nhiều

hơn đến hiệu quả thu hút và nâng cao chất lượng đầu tư, tận dụng tối đa nguồn

FDI để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và hiệu quả,

thực hiện nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền

kinh tế, từ đó góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững.

Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích để thu hút các

dự án đầu tư hình thành mạng lưới liên kết sản xuất, kinh doanh, các ngành

công nghiệp hỗ trợ để hình thành chuỗi giá trị. Có chính sách thu hút công ty

đa quốc gia, có chính sách ưu đãi đối với các công ty đa quốc gia có kế hoạch

liên kết với các doanh nghiệp trong nước về tiêu thụ, cung ứng sản phẩm để

hình thành các cụm công nghiệp - dịch vụ.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung thể thế và triển khai áp dụng nghiêm hệ thống

quy định các yêu cầu bắt buộc về công nghệ, chuyển giao công nghệ, thu hút,

đào tạo kỹ năng cho người lao động. Quy định yêu cầu bắt buộc về chất lượng

của các dự án FDI tùy theo lĩnh vực và địa bàn đầu tư. Quy định về trình độ

công nghệ dự án FDI cho từng ngành theo địa bàn đầu tư. Đối với các đô thị

có mật độ công nghiệp cao, những địa bàn phát triển du lịch sinh thái sẽ hạn

chế tối đa thu hút FDI có hàm lượng công nghệ thấp, gây ô nhiễm ở mức độ

nhất định và tỷ trọng gia công cao.

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành cần tăng tỷ

trọng đầu tư nước ngoài như đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông, nông

nghiệp và nông thôn, điện, nước, tài chính, tín dụng, giáo dục, y tế, văn hóa,

thể thao, hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng; các ngành sản xuất có yếu

tố hàm lượng công nghệ, đào lạo lao động và chuyển giao công nghệ, kỹ năng,

hoạt động R&D. Hỗ trợ các hoạt động đầu tư có hiệu quả, đồng thời giảm

38

thiểu những mặt hạn chế, tiêu cực như nhập khẩu nhiều nhưng không chú

trọng sản xuất mà chỉ tập trung vào gia công, lắp ráp và khai thác thị trường

nội địa là chủ yếu; lợi dụng kẽ hở về chính sách, pháp luật của Việt Nam để

thực hiện hành vi chuyển giá, kê khai lỗ hoặc lợi nhuận thấp để chuyển lợi

nhuận về nước, không có đóng góp hoặc đóng góp rất thấp nguồn ngân sách

nhà nước của Việt Nam. Không tiếp nhận hoặc hạn chế tối đa những dự án

ĐTNN sử dụng công nghệ thấp, có khả năng tiêu hao nhiều năng lượng, gây ô

nhiễm môi trường, sinh thái.

Có các chính sách, quy định về thuế, phí, đất đai, quản lý ngoại hối... để

thu hút, khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất, chế biến sử

dụng đầu vào trong nước thay vì nhập khẩu, gia công, lắp ráp, chú trọng vào

kinh doanh thương mại, nhất là tại thị trường nội địa. Tăng cường thu hút đầu

tư nước ngoài vào các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa.

Ban hành văn bản pháp quy nhằm điều chỉnh và quản lý thống nhất hoạt

động xúc tiến đầu tư trên cả nước; xây dựng Chiến lược xúc tiến đầu tư điều

phối tổng thể các hoạt động xúc tiến ở bình diện quốc gia; xây dựng và công

bố danh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2011-

2015 và giai đoạn 2016-2020.

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả thu hút vốn ĐTNN, cần có sự kết

hợp chặt chẽ chính sách ĐTNN với các chính sách điều chỉnh ngành khác, bao

gồm chính sách đầu tư chung, chính sách KCN theo hướng hình thành cụm

công nghiệp có tính chuyên môn hóa và chính sách phát triển kinh tế vùng.

Các chính sách này cần xây dựng trên nguyên tắc tiếp cận tổng thể quốc gia để

tạo tín hiệu chung dẫn dắt FDI tới ngành, vùng cần khuyến khích phát triển;

hạn chế các địa phương thu hút các ngành nghề như nhau, thiếu sự phối hợp

39

và bổ sung cho nhau giữa các ngành dẫn đến tình trạng phát triển tràn lan mà

vẫn thiên lệch, thiếu chuyên môn hóa.

Rà soát và sửa đổi, bổ sung quy chế phân cấp quản lý đầu tư nước

ngoài, bảo đảm tính chủ động của các địa phương nhưng cần gắn với trách

nhiệm giải trình, hoàn thiện hệ thống chế tài để tăng cường vai trò kiểm tra,

giám sát, điều chỉnh của các Bộ, cơ quan Trung ương trong trường hợp cần

thiết.

Trong giai đoạn 2015-2020, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp thu hút

và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài nêu trên để phục vụ đắc lực

cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời tích cực góp

phần giảm nghèo nhanh và bền vững.