Upload
others
View
5
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Lời mở đầu
Thư viện tỉnh Quảng Nam trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc tập thư
mục tháng 9 năm 2018, gồm có các bài viết được sưu tầm, trích từ các báo, tạp
chí của Trung ương và địa phương, về các lĩnh vực:
- Kinh tế;
- Xã hội;
- Văn hóa;
- Giáo dục;
Trong quá trình sưu tầm, tập hợp và sắp xếp các bài viết trong thư mục
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp xây dựng
của bạn đọc. Xin trân trọng cảm ơn./.
THƢ VIỆN TỈNH QUẢNG NAM
KỶ NIỆM 73 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM Ở QUẢNG NAM:
Những quyết định mang tầm lịch sử...
Để Cách mạng tháng Tám thành công, theo PGS-NGND. Lê Mậu Hãn, có
nguyên nhân về những quyết định mang tầm lịch sử, trƣớc hết là quyết
định của Bác, Trung ƣơng Đảng; với các tỉnh, thành thì đó là quyết định
sáng suốt của những ngƣời lãnh đạo ở địa phƣơng, sau này đều là những
nhà lãnh đạo có nhiều đóng góp to lớn cho đất nƣớc.
Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp chụp ảnh chung với nhà cách mạng Cao Hồng
Lãnh nhân dịp mừng thọ 100 tuổi.
1. Tham gia sản xuất những tập phim về đề tài chiến tranh cách mạng của
tỉnh, tôi có được cơ duyên cùng PGS-TS. Ngô Văn Minh đến thăm, tiếp chuyện
PGS-NGND. Lê Mậu Hãn - người trọn đời cống hiến cho nền sử học đương đại.
Khi nói về cách mạng tháng 8.1945 ở Quảng Nam, PGS-NGND. Lê Mậu Hãn
đưa ra một số điều lý thú. Khi đề cập, Quảng Nam là một trong số 4 tỉnh thành
trong cả nước nổi dậy giành chính quyền thành công sớm nhất nước, PGS-
NGND Lê Mậu Hãn nói ngay đến những quyết định mà ông cho rằng “mang
tầm lịch sử và mang dấu ấn cá nhân của người lãnh đạo”. Và PGS.NGND. Lê
Mẫu Hãn đã nhắc đến Võ Toàn - tức đồng chí Võ Chí Công.
Khi tìm hiểu vấn đề này tôi được biết PGS-TS. Ngô Văn Minh cũng đã
có nghiên cứu và đề cập trong bài báo “Vai trò của đồng chí Võ Chí Công trong
cách mạng Tháng 8.1945 ở Quảng Nam” đăng ngày 7.8.2012 trên Tạp chí Xây
dựng Đảng. PGS-TS. Ngô Văn Minh cho hay, về bối cảnh đêm trước của cuộc
Cách mạng Tháng Tám. Đó là, lúc đầu, Thường trực Ủy ban bạo động tỉnh
Quảng Nam lên kế hoạch khởi nghĩa vào ngày 21.8 và dự kiến cấp phủ, huyện
khởi sự trước, sau đó mới tập trung lực lượng kéo về cướp chính quyền ở tỉnh lỵ
Hội An. Thế nhưng khi kiểm tra tình hình tại Hội An vào đêm 17.8.1945, đồng
chí Võ Chí Công lấy danh nghĩa Thường trực Ủy ban bạo động tỉnh đã triệu tập
khẩn cấp cuộc họp Ủy ban bạo động Hội An. Qua phân tích thấy tình hình ở đây
có những chuyển biến thuận lợi (Đồn bảo an đã có cơ sở nội ứng; Tỉnh trưởng
Tôn Thất Giáng thái độ lừng khừng không dám chống đối; quân Nhật đã rút ra
Đà Nẵng, chỉ để lại chưa đầy 10 tên) nhưng số phản đế và số chức sắc trong đạo
Cao Đài lại đang sắm cờ chuẩn bị tranh cướp chính quyền với Việt Minh, đồng
chí Võ Chí Công khẳng định thời cơ khởi nghĩa ở Hội An đã chín muồi, cần
nhanh chóng cướp chính quyền ngay trong đêm 17.8. Chỉ trong 4 tiếng đồng hồ,
rạng sáng ngày 18.8 cuộc khởi nghĩa ở Hội An giành thắng lợi. Hiện nay ở Hội
An có con đường mang tên 18.8, nhằm đánh dấu sự kiện trọng đại trên quê
hương đất Quảng trong mùa thu lịch sử 1945.
Cần nói thêm là đúng 30 năm sau, trong cuộc tổng tấn công nổi dậy mùa
xuân 1975, sau khi cơ bản giải phóng Đăk Lăk, Bộ Chính trị điện cho đồng chí
Võ Chí Công lên Tây Nguyên họp với Bộ Tổng Tư lệnh tiền phương tại Buôn
Mê Thuột bàn cách phát triển chiến dịch. Nhưng trên đường đi thấy chiến
trường có lợi cho ta, cụ thể địch rút chạy khỏi Kon Tum, nên đồng chí Võ Chí
Công đã điện Bộ Chính trị không đi họp nữa mà quay về giải phóng Đà Nẵng.
Đó là quyết định lịch sử đúng đắn để Đà Nẵng giải phóng vào ngày 29.3.1975.
2. PGS-NGND. Lê Mậu Hãn cho rằng mảnh đất Quảng Nam đã sinh ra những
con người kiệt hiệt, rất đúng câu nói: người có mặt khi lịch sử cần. Thêm một
người mà PGS-NGND. Lê Mậu Hãn nói đến là nhà cách mạng Cao Hồng Lãnh.
Ông tên thật là Phan Hải Thâm, sinh năm 1906 tại Hội An. Do yêu cầu của cách
mạng, năm 1927, Phan Hải Thâm tham gia Việt Nam Thanh niên cách mạng
đồng chí hội tại Quảng Trị và chính ông là người thành lập tổ chức này tại thị xã
Hội An.
PGS-NGND. Lê Mậu Hãn và PGS-TS. Ngô Văn Minh (phải).
Trước thời kỳ chuẩn bị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân năm 1944, Cao Hồng Lãnh cùng các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng
Văn Thái... tham gia tổ chức tuyển chọn người. Cách mạng tháng Tám bùng nổ,
đồng chí Cao Hồng Lãnh được Bác Hồ giao trách nhiệm là thành viên của đoàn
đại biểu Việt Minh đi từ Bắc vào Nam tiếp nhận chính quyền cách mạng và làm
Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến miền Nam, kiêm Khu ủy viên Khu V; đồng thời
chuẩn bị cho công tác kinh tế và tổ chức tiếp viện từ bên ngoài vào Việt Nam
ủng hộ công cuộc kiến quốc. Rõ ràng trong cách mạng Tháng 8.1945 ở Quảng
Nam, đồng chí Cao Hồng Lãnh là người trực tiếp lãnh nhiệm vụ của Bác Hồ,
các chủ trương Việt Minh về truyền đạt cho chính quyền cách mạng tỉnh Quảng
Nam cũng như các tỉnh thành miền Nam đứng lên cướp chính quyền và sau đó
là bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ.
Còn nhớ khi trò chuyện với chị Cao Minh Hà - con gái của nhà cách
mạng Cao Hồng Lãnh tại Hà Nội, chị Hà luôn bày tỏ niềm tự hào về quê hương
đất Quảng, đặc biệt tại Hội An, chính quyền đã xây nhà lưu niệm cho cha chị tại
số 129 Trần Phú. Hồi ức một lần về quê chị xúc động cho biết, nhà lưu niệm
nhà cách mạng Cao Hồng Lãnh hiện là điểm di tích tham quan thu hút rất đông
du khách. Đây chính là nơi cha chị tổ chức cuộc họp đầu tiên để thành lập
Thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Hội An vào tháng 10.1927. Đặc biệt,
không chỉ là người rất gần gũi với Bác Hồ, được Bác tin tưởng giao nhiều trọng
trách mà cha chị còn có mối tình thâm với một con người đáng kính nữa đó là
Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chị kể: “Hai ông không chỉ thường bàn bạc công
việc với nhau mà đời thường lại cũng rất thân nhau, quý nhau, thường đi lại
thăm hỏi khi có việc riêng tư… Đặc biệt cả hai cụ đều đại thọ”. Bức ảnh đại
tướng đến thăm nhân lễ đại thọ 100 tuổi của cụ Cao Hồng Lãnh là kỷ niệm đẹp
mà gia đình chị Cao Minh Hà trân trọng lưu giữ. Mở cuốn sổ lưu bút gia đình,
chị Cao Minh Hà cho hay, cha chị - nhà cách mạng Cao Hồng Lãnh mất ngày
26.7.2008 tại Hà Nội, thọ 102 tuổi và có đến 82 năm tuổi Đảng. Tại lễ mừng thọ
100 tuổi của ông, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Tôi và anh Lãnh
từng hoạt động cùng nhau ở Trung Quốc, ở chiến khu Việt Bắc... Sau này lại là
những người bạn tốt của nhau. Kỷ niệm giữa hai chúng tôi nhiều lắm, khó mà
kể hết được. Điều tôi thích nhất ở anh Lãnh là đức tính kiên định: kiên định đi
theo con đường cách mạng, đi theo Bác Hồ để giải phóng dân tộc, đem lại hạnh
phúc cho đồng bào”.
3. Quay lại vấn đề nhìn nhận về cuộc Cách mạng Tháng Tám, có thể nói
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các nhà tiền bối cách
mạng, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành
chính quyền. Từ ngày 14 đến 18.8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng
lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền
Nam. Quảng Nam vinh dự cùng với Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh là 4 tỉnh
thành tổ chức giành chính quyền thắng lợi đầu tiên trong cả nước. Cách mạng
Tháng Tám thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có
Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt trong lịch sử dân tộc Việt Nam: Nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á;
chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân
dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận
nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình.
Để cách mạng thành công, theo PGS-NGND. Lê Mậu Hãn, có nguyên nhân về
những quyết định mang tầm lịch sử, trước hết là quyết định của Bác, Trung
ương Đảng; với các tỉnh, thành thì đó là quyết định sáng suốt của những người
lãnh đạo ở địa phương, sau này đều là những nhà lãnh đạo có nhiều đóng góp to
lớn cho đất nước.
VÕ VĂN TRƢỜNG
VÕ VĂN THƢỞNG.Những quyết định mang tầm lịch sử.../Võ Văn
Thƣởng//Quảng Nam cuối tuần.-2018.-Ngày 1-2 tháng 9.-Tr.2.
Hồ Học - Chiến tƣớng Nghĩa hội
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền và nhân dân huyện Hòa
Vang (bấy giờ thuộc tỉnh Quảng Nam) đã làm lễ “phá xiềng” cho ngôi mộ
của Lãnh binh Hồ Học ở làng Vân Dƣơng (nay là thôn Vân Dƣơng, xã Hòa
Liên), một liệt sĩ của phong trào Cần vƣơng.
Mộ Hồ Học.
Liệt sĩ của phong trào Cần vƣơng
Hồ Học (còn gọi là Hồ Như Học), sinh năm 1855 tại làng Vân Dương,
tổng An Hòa, huyện Hòa Vang (nay là xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, Đà
Nẵng). Ông được nhân dân vùng tây Hòa Vang trước đây phong là Thống Hay,
là một chiến tướng của phong trào Nghĩa hội Quảng Nam.
Khi vua Hàm Nghi ban hịch Cần vương, Hồ Học đã mộ quân ứng nghĩa. Đội
quân của ông đông cả nghìn người được nhân dân vùng Hòa Vang và bắc
Quảng Nam bảo bọc. Khi Trần Văn Dư chính thức trở thành lãnh tụ của phong
trào ông dẫn quân về hợp tác. Hồ Học đã mang quân của mình cùng Nguyễn
Hàm (Tiểu La Nguyễn Thành) và các sĩ phu khác đánh chiếm tỉnh thành La Qua
(Điện Bàn).
Khi Trần Văn Dư bị sát hại, Nguyễn Duy Hiệu lên thay, đã nhân danh
vua Hàm Nghi phong cho Hồ Học chức Lãnh binh được quyền “tiền trảm hậu
tấu” và phân công chỉ huy lực lượng nghĩa quân ở vùng tây bắc Hòa Vang, hoạt
động từ đèo Hải Vân cho đến Phước Tường. Hồ Học đã xây dựng một hệ thống
đồn lũy thành thế trận liên hoàn quanh Đà Nẵng để dễ bề phòng thủ và tấn công,
thực hiện chiến tranh du kích theo lối đánh xuất quỷ nhập thần khiến quân Pháp
và Nam triều phải điêu đứng vì bị uy hiếp và bị tiêu hao lực lượng. Quân Pháp
và Nam triều phải co cụm lại trong khu vực quanh thành Điện Hải. Quân Thống
Hay làm chủ cả một vùng nông thôn rộng lớn.
Cuối năm 1886, trong trận đánh ở Hố Chuối, do quân Pháp quá đông lại
được tăng viện nên sau một ngày chiến đấu ác liệt, quân Nghĩa hội thất bại. Hồ
Học cùng nhiều đồng đội như Tán Bùi, Đốc Sành, Lãnh Địa, Cai Á… bị bắt,
nhiều người khác hy sinh. Hồ Học bị Pháp giải về Ty Niết ở Hội An. Một tên
đại tá của Pháp (từ Hà Nội vào) và Án sát Quảng Nam trực tiếp hỏi cung ông.
Khi họ dụ hàng, Hồ Học đã thình lình ném chiếc ghế dựa đang ngồi vào đầu tên
đại tá người Pháp. Tên này tránh kịp. Một tên lính bắn vào ông để cứu chủ. Sau
khi Hồ Học chết, người Pháp cho cắt đầu ông bỏ vào giỏ tre đem treo để “thị uy,
răn đe” ở làng Lai Nghi (nay là phường Cẩm Hà, Hội An). Mười ngày sau, đồng
đội của ông mới đánh cắp được đưa về an táng ở Vân Dương.
(Về việc ông bị bắt nhà nghiên cứu Lưu Anh Rô lại cho là: “Thực dân
Pháp mua chuộc được người hầu thân cận của Hồ Học và phục rượu cho ông
say để bắt. Đêm đó, Hồ Học say như chết, thanh gươm thì người vợ đem cất, chỉ
còn lại chiếc khiên bên cạnh. Khi tên phản bội dẫn Pháp đến, Hồ Học trở tay
không kịp nên bị bắt khiêng về Ty Niết ở Hội An”).
Mặc dù con cháu ông làm ba ngôi mộ khác nhau để đánh lạc hướng kẻ
địch, nhưng bọn Pháp và quân Nam triều vẫn truy tìm được ngôi mộ thật và cho
xiềng lại bằng một sợi xích sắt, dù dưới mộ chỉ có cái đầu của ông, phần thân
thể còn lại chỉ là cành dâu và đất sét. (Theo tục xưa, người ta lấy thân cây dâu
làm xương, lấy đất sét nắn lại hình nhân để thay cho những người bị chết chém
hoặc chết mất xác).
Mãi đến năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ngôi mộ ông mới
được nhân dân huyện Hòa Vang tổ chức lễ phá xiềng để giải phóng cùng với
mộ của ngài Khâm sai Nguyễn Hữu Lịch ở Hòa Sơn.
Hiện nay, để xây dựng Khu công nghệ cao Đà Nẵng, mộ của Hồ Học đã
được quy hoạch về Nghĩa trang xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang.
Ngàn sau còn vọng
Nhà nghiên cứu Lưu Anh Rô cho biết: “Dân các làng Vân Dương, Hưởng
Phước thường kể rằng: Để gây thanh thế, ông Học cho lính chặt dứa dại phơi
khô, xẻ ruột đổ dầu mù u vào rồi đốt, mỗi người cầm một đuốc, vai thì gánh hai
thân cây dứa đang cháy đi trong đêm, nên Pháp thấy quân Nghĩa hội nhiều vô
kể. Tại bãi cát Thanh Vinh, ông Học cho quân đào một hầm dài 1km, cao 1,5m,
dưới cắm nhiều chông, trên lấy cót tre đậy lại, rồi phủ cát và cỏ lên để ngụy
trang. Quân Pháp từ Đà Nẵng kéo lên, quân ông Học lao vào đánh giáp lá cà rồi
giả vờ bỏ chạy. Địch đuổi theo, liền bị rơi xuống hố”. (Báo Đà Nẵng số ngày
17.11.2008)
Hồ Học cũng là tác giả của chiến thắng Nam Chơn mà người Pháp sau
này gọi là “Thảm kịch Nam Chơn”. Trận đột kích diễn ra vào đêm 28.2 rạng
1.3.1886, đã xóa tên một đoàn công tác cầu đường thuộc một đơn vị công binh
ưu tú trong phái bộ quân sự Pháp tại Huế. Trận đánh này được Nguyễn Sinh
Duy mô tả: “Nghe có tiếng động Besson chụp ngay lấy súng lục trên bàn, bóp
cò rồi nằm sát đất. Nhưng đã chậm, nghĩa quân từ bốn phía gào thét, ập vào nhà
đè Besson xuống, cắt ngay lấy thủ cấp, đoạn rút ra khỏi nhà. Tức thì, bao nhiêu
mồi lửa cũng đồng thời phóng vào căn nhà tranh. Lửa bùng cháy. Bọn lính đánh
bộ ngủ ở căn nhà bên cạnh bị đánh thức bởi tiếng súng và tiếng gầm thét. Bọn
chúng hốt hoảng trong cơn ngái ngủ. Chúng không kịp cầm súng vì lửa đã bốc
cao trong nhà. Nghĩa quân chặn hết các lối ra. Tất cả đều chết cháy… Nam
Chơn hoàn toàn bị thiêu rụi, không thấy người An Nam nhưng bảy xác người
Pháp trong đó có ba cái mất đầu mà một là của Đại úy Besson...” (Phong trào
Nghĩa hội Quảng Nam, Nxb Đà Nẵng, 1998).
Trong tập truyện Hương máu (Nxb Trường Sơn, Sài Gòn, 1969), nhà văn
Nguyễn Văn Xuân đã viết những dòng bất hủ, làm cho cái chết của Hồ Học
càng trở nên bất tử: “…Một người cưỡi ngựa tiến lên trước, hai người cầm đuốc
ngồi trên lưng ngựa tiếp liền theo sau. Nhiều binh lính khác cũng cầm đuốc,
gươm tuốt trần, kèm một tù nhân đang thong dong đi ở giữa. Đó là một tráng
niên, mặc bộ đồ màu đà, bị trói chặt cánh khuỷu vừa đi vừa ngửng cao cái trán,
đầu tóc rối trước cơn gió lộng từ khoảng đồng rộng như dồn hết lại để thổi vào
dưới cửa thành… Qua cửa thành lính không dẫn về phía nhà lao mà về phía Ty
Niết. Hồ Học mím chặt đôi môi làm nổi bật cái cằm tua tủa những sợi râu cứng
đơ, mặt hầm hầm bước đi chắc nịch…
…Người ta nghe một tiếng vút cái ghế dựa bằng gỗ trong tay ông đã lao
tới như gió, đánh thẳng vào mặt viên đại tá. Y lấy tay đỡ thì một chân ghế đã
xoẹt qua đầu, hất cái mũ của y xuống đất. Lập tức hàng chục vũ khí tung ra giữa
lúc một viên hạ sĩ quan cận vệ của đại tá rút súng lục ra định bắn. Hồ Học liệng
mình lao tới, đá song phi vào khẩu súng và vào mặt hắn. Nhưng không kịp, vệ sĩ
thứ hai bắn liền hai phát vào hông. Ông ngã giục xuống vừa ôm bụng vừa trườn
tới để với khúc côn. Nhưng không còn kịp nữa ông trút hơi thở cuối cùng…”.
LÊ THÍ
LÊ THÍ.Hồ Học - Chiến tƣớng Nghĩa hội/Lê Thí//Quảng Nam cuối tuần.-
2018.-Ngày 15-16 tháng 9.-Tr.2.
Ngƣời Văn Hà xƣa làm nghề
Ở miền quê xứ Quảng thỉnh thoảng vẫn bắt gặp những ngôi nhà cổ
bằng gỗ mà ta quen gọi là nhà rƣờng nằm ẩn mình trong vƣờn cây rƣợi
mát, cây lá sum suê. Kiến trúc ấy đƣợc dựng nên bởi những ngƣời thợ tài
hoa của hai làng thợ mộc nổi tiếng trƣớc đây: Kim Bồng và Văn Hà...
Trong đó, thợ mộc Văn Hà tạo nên những nét chạm trổ tài hoa ở các ngôi
nhà rƣờng ở phía nam Quảng Nam.
Đình Chiên Đàn (Phú Ninh), công trình có sự tham gia xây dựng của
thợ làng Văn Hà. Ảnh: PHƢƠNG THẢO
Lai lịch làng nghề
Làng mộc Văn Hà xưa kia thuộc tổng Chiên Đàn; đến thời nhà Nguyễn
thuộc tổng Vinh Quý, huyện Hà Đông, phủ Thăng Bình, gồm 2 làng Văn Hà và
Văn An; trước năm 1975 thuộc thôn 4, xã Kỳ Bình; nay thuộc thôn Văn Hà, xã
Tam Thành, huyện Phú Ninh. Theo các vị cao niên trong làng, ông tổ của nghề
mộc Văn Hà có gốc gác từ Thanh - Nghệ di cư vào (có một ít người lúc đầu vào
sinh sống ở những làng kề cận như: Tuần Dưỡng, An Mỹ Tây…) rồi sau đó mới
về định cư tại đây. Cũng theo các vị cao niên, các bậc tiền hiền, tiền nhân của
làng đến khai cơ, lập nghiệp vào thời Lê Thánh Tông (thế kỷ 15). Lúc mới di
cư vào, đa số người làng tập trung sinh sống tại Quán Rường (Tam Đàn, Phú
Ninh). Làng này khi mới khai canh, dân cư không nhiều, gồm các tộc họ: Đinh,
Nguyễn, Trần, Phạm, Võ… Họ Đinh đến trước, nhưng không hiểu nguyên nhân
nào mà ở làng nhiều người cho là: tiền hiền họ Nguyễn, hậu hiền họ Đinh, tính
đến nay đã trải qua hơn 13 đời.
Ngày ấy, do cuộc sống còn nhiều khó khăn, người làm nghề mộc của làng
phải ly hương, tìm kiếm việc làm ở những địa phương khác. Tuy những bậc tiền
nhân đã bắt đầu khai phá ruộng đất để cày cấy, nhưng vẫn coi nghề mộc là
chính, việc đồng áng đều do người phụ nữ lo toan. Những người thợ tài hoa vào
thời ấy phải kể đến cụ Đinh Văn Khóa, Đinh Luyện, Nguyễn Hòe, Trần Huy…
Điều khó khăn nhất của người thợ Văn Hà lúc ấy là lập nghiệp trên một miền
quê xa xôi, hẻo lánh, không có điều kiện sinh hoạt gần gũi nơi phố hội, không
được giao tiếp với những thị dân như Kim Bồng (Hội An). Tuy vậy, những
người làm nghề mộc Văn Hà cũng biết tạo ra cho mình một “chỉ dấu” khác
những người làm nghề nơi khác, cụ thể là họ tập trung vào những nét chạm trổ
tỉ mỉ trên các sản phẩm gia dụng và những nét chạm khắc thanh thoát cùng với
việc sửa đổi, thêm thắt một số chi tiết vào cấu kiện nhà rường.
Buổi đầu gian khó
Những người thợ Văn Hà ngày ấy - những di dân đến từ các tỉnh Thanh –
Nghệ, đã dựng làng trên một miền quê với gò đồi xen kẽ với các bàu nước xung
quanh. Tuy nhiên, làng quê dân dã ấy không giàu có để có thể nhà nào cũng có
điều kiện cất nhà rường hay đóng các vật dụng trong nhà. Do vậy để có thể duy
trì nghề và nuôi sống gia đình, hàng năm khoảng vào ngày rằm tháng Giêng,
những trai tráng trong làng lại bắt đầu chuẩn bị đồ nghề để đi làm ăn khắp nơi
trong tỉnh từ vùng ven biển, đồng bằng đến miền núi và thậm chí cả các vùng kế
cận thuộc tỉnh Quảng Ngãi nếu được mời...
Hành trang gọn nhẹ, cơ động gồm bộ đồ nghề mộc khoảng độ 20 - 30
chiếc, bao gồm cưa, rìu, đục, chàng, khoan... và vài bộ quần áo được xếp gọn
trong một thùng gỗ nhỏ gọi là thùng đục. Họ chia thành từng tốp thợ và phân
chia nhau đi khắp các vùng quê, tốp lên vùng núi, tốp xuống biển, tốp ở đồng
bằng sao cho khỏi... đụng nhau. Theo yêu cầu của những chủ nhân, những tộc,
họ..., những người thợ miệt mài cùng nhau dựng lên những ngôi đình, ngôi từ
đường hay những ngôi nhà gỗ, đóng những chiếc bàn, chiếc ghế, bàn thờ, tủ
thờ… vừa đẹp mắt, vừa chạm khắc tinh xảo theo đúng kiểu dáng và yêu cầu của
chủ nhân. Họ có tài khắc chạm trên những tránh (trính), xà, trỏng quả, gia thu…
bằng gỗ của những ngôi đình, nhà thờ, nhà ở với những hoa văn trang trí, những
kiểu dáng cầu kỳ, sắc sảo nhưng vẫn mang nét dân dã, đậm chất chân quê... nên
rất được ưa chuộng. Do đó, quanh năm suốt tháng những người thợ Văn Hà
luôn có việc để làm và thường xuyên phải sống xa nhà.
Danh tiếng vang xa
Khoảng từ ngày 20 đến 25 tháng 12 âm lịch hằng năm, không hẹn nhưng
những người thợ Văn Hà làm việc ở các vùng khác nhau tạm ngưng công việc,
rủ nhau về quê, sắm sửa, giỗ chạp tổ nghề, tiền nhân và cùng gia đình vui xuân
đón tết đến hết rằm tháng Giêng thì lại khăn gói chuẩn bị đi làm lại. Cứ thế, hết
năm này đến năm khác, những chuyến làm ăn xa nhà của họ cứ lặng lẽ diễn ra
như một phần tất yếu trong cuộc mưu sinh. Tài nghệ và danh tiếng của họ nhờ
thế mà được biết đến nhiều hơn và dĩ nhiên càng ngày càng có nhiều người giàu
có đặt họ dựng nhà rường hay đóng những đồ gỗ gia dụng. Đã có nhiều thế hệ
nối tiếp nhau theo kiểu cha truyền con nối, người lớn tuổi nhiều kinh nghiệm,
tay nghề cao truyền thụ cho lớp hậu sinh mới vào nghề trong những chuyến làm
ăn xa nhà như thế...
Thợ Văn Hà xưa kia đa số là những người thợ mộc đi làm xa, tay nghề
điêu khắc, chạm trổ thuộc loại điêu luyện, tinh xảo thêm vào tiền bạc lúc nào
cũng dư dả, có đồng ra đồng vào hơn so với làm nông do công xá được chủ nhà
trả hậu hĩnh có khi còn được thưởng thêm, nên trước đây trai tráng thợ mộc làng
Văn Hà rất “có giá”, là niềm mơ ước muốn được lấy làm chồng của các cô gái
trong vùng...
Hiện nay, ở Tam Kỳ, Phú Ninh, Tiên Phước… vẫn còn khá nhiều những
công trình nhà gỗ do thợ làng Văn Hà xưa kia tham gia xây dựng hay sửa chữa
như Khổng Miếu, đình Chiên Đàn (2 di tích được xếp hạng cấp quốc gia) đình
Phương Hòa, đình Mỹ Thạnh (2 di tích xếp hạng cấp tỉnh) ở Tam Kỳ; nhà cổ
của ông Nguyễn Huỳnh Anh (di tích xếp hạng cấp tỉnh), Đồng Viết Mão, Trần
Khiêm, Nguyễn Đình Mẫn... ở xã Tiên Cảnh, Tiên Phước. Những công trình
này là minh chứng cho sự tài hoa khéo léo của người thợ Văn Hà xưa kia.
AN TRƢỜNG
AN TRƢỜNG.Ngƣời Văn Hà xƣa làm nghề/AnTrƣờng//Quảng Nam cuối
tuần.-2018.-Ngày 8-9 tháng 9.-Tr.6.
Đội nghĩa binh nông dân ở vùng Tý, Sé
Những năm đầu thế kỷ 20, tại vùng Tý, Sé (xã Quế Lâm, huyện Nông Sơn
ngày nay) đã từng hình thành một đội quân đặc biệt tham gia cuộc khởi
nghĩa do Thái Phiên, Trần Cao Vân khởi xƣớng. Họ gồm những ngƣời
nông dân với trang phục áo rằn trang bị vũ khí thô sơ nhƣ dao phay, giáo
mác, gậy gộc nhƣng có tinh thần yêu nƣớc sục sôi, muốn góp một phần
công sức của mình để bảo vệ quê hƣơng, đất nƣớc...
Địa thế núi non hiểm trở của vùng Tý, Sé. Ảnh: AN TRƢỜNG
1. Tháng 5.1912, tại Quảng Đông (Trung Quốc), nhà chí sĩ Phan Bội
Châu đã quyết định đổi tên Duy Tân hội thành Việt Nam Quang phục hội, cử
Lâm Quảng Trung về nước tìm cách bắt liên lạc với Thái Phiên và một số chí sĩ
yêu nước khác để xây dựng hội ở Nam Trung kỳ. Kể từ thời gian này trở đi, các
chí sĩ, sĩ phu yêu nước tại Quảng Nam đã tập trung xung quanh Thái Phiên để
vận động khởi nghĩa nhằm đánh đổ thực dân Pháp và lật đổ chế độ quân chủ
chuyên chế, lập ra An Nam cộng hòa dân quốc. Ở Quảng Nam, phong trào này
phát triển rất mạnh ở hầu hết các tổng trong tỉnh, đặc biệt là ở tổng Trung Lộc
(huyện Nông Sơn ngày nay) và ông Đặng Văn Bí là người tham gia tích cực
nhất cho cuộc vận động tại tổng này.
Ông Đặng Văn Bí (hay còn gọi là Đặng Lãm), bí danh là Bạch Linh, là
một thầy thuốc bắc có tiếng ở trong vùng Trung Lộc. Năm 1908, hưởng ứng
phong trào chống xâu, sưu thuế ở Trung kỳ, ông cùng với các ông Đặng Tiễn,
Lương Khanh, Bá Hội, Nguyễn Đình Duân... đã đứng lên tập hợp quần chúng,
vận động bà con, nhân dân trong tổng Trung Lộc ngày đêm chuẩn bị mã tấu,
gậy gộc tổ chức kéo về huyện hợp sức với các tổng khác trong toàn tỉnh kéo ra
tòa Công sứ Hội An để đấu tranh đòi giảm sưu thuế. Trước tình hình đó, để bảo
vệ tòa Công sứ ở Hội An, thực dân Pháp đã điều động lính khố đỏ và lính triều
đình đóng ở tỉnh kéo tới ngăn chặn cả hai đầu từ Vĩnh Điện đi Hội An để đàn áp
nhân dân. Không may, ông Đặng Văn Bí và Nguyễn Đình Duân bị bắt đưa về
tỉnh tra tấn rất dã man nhưng hai ông vẫn một mực không khai báo những người
cầm đầu khác ở tổng Trung Lộc. Sau đó, Đặng Văn Bí và Nguyễn Đình Duân bị
xử án mỗi người 9 năm tù...
2. Ngay sau khi ra tù, hưởng ứng lời kêu gọi của Thái Phiên, Đặng Văn
Bí đã đứng ra tổ chức cuộc vận động nhân dân trong tổng đứng lên khởi nghĩa.
Với uy tín của mình, ông đứng ra chiêu mộ và lập một đội nghĩa binh gồm
những người nông dân chân lấm tay bùn nhưng có tinh thần yêu nước với gần
300 người ở vùng Tý, Sé (xã Quế Lâm, Nông Sơn) và giao cho Nguyễn Hữu Ân
(người xã Quế Phước) làm chỉ huy, chọn vùng Tý, Sé để quy tụ và đốc thúc
nghĩa binh luyện tập, chuẩn bị khởi nghĩa. Sở dĩ vùng Tý, Sé được chọn làm căn
cứ khởi binh vì nơi đây lúc bấy giờ vẫn còn là chốn rừng thiêng, nước độc có
địa thế hiểm trở, dễ phòng thủ, khó tấn công. Từ nơi đây có thể tiến quân đánh
địch từ mọi phía, đồng thời tổ chức phòng thủ để có thể chống trả được các cuộc
tấn công từ mọi hướng của giặc Pháp. Hơn nữa, vùng này lại giàu có về lâm
khoáng sản, có thể khai thác mỏ để rèn đúc vũ khí. Thêm vào đó, nơi đây lại có
đủ nguồn lương thực để duy trì việc nuôi quân chiến đấu lâu dài vì đất đai rộng
lớn, phì nhiêu, màu mỡ... Trong trường hợp bị bao vây có thể tự sản xuất lương
thực tại chỗ để phục vụ cho nghĩa quân.
Từ vùng Tý, Sé, các đội nghĩa binh nông dân ở các tổng lân cận trong
huyện Quế Sơn bắt đầu được nhen nhóm thành lập. Đặc biệt ở làng Phước Ninh
có ông Nguyễn Đình Hòe bí mật đến các làng vận động nhân dân tham gia
nghĩa binh và vận động các nhân sĩ góp của, các thợ rèn góp công tổ chức rèn
đúc dao phay, vũ khí cung cấp cho nghĩa binh tại các lò rèn ở Hòn Giang, Vườn
Cò, Xóm Trên, Dốc Hoàng... Công việc chuẩn bị khởi nghĩa diễn ra rất khẩn
trương và đầy khí thế, các làng xã, thôn xóm náo nức lập các đội nghĩa binh,
quyên góp tiền bạc, lương thực, bí mật rèn sắm vũ khí, may áo rằn để trang bị
cho nghĩa quân. Sau một thời gian ngắn, đạo nghĩa binh ở Trung Lộc có hàng
nghìn người tham gia. Tất cả nghĩa binh các nơi đều mặc áo rằn, trang bị vũ khí
thô sơ là dao phay, mã tấu nên cuộc khởi nghĩa này về sau được gọi là cuộc
khởi nghĩa của đội quân dao phay áo rằn. Đây có thể nói là một đội quân rất đặc
biệt bao gồm những người nông dân chỉ biết gắn bó với công việc nhà nông,
chưa hề biết đến binh đao, chiến trận nhưng vẫn luôn sẵn sàng ra trận khi có
giặc xâm lăng, vẫn một lòng vì sự tồn vong của đất nước, vì sự thanh bình của
quê hương.
3. Ở tổng Trung Lộc lúc bấy giờ, mọi công việc chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa
ngày càng sôi nổi và khẩn trương dưới sự chỉ huy của các ông Đặng Văn Bí,
Đặng Tiễn, Nguyễn Hoan... Tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ chờ giờ G. khi ám
hiệu khởi nghĩa được phát đi là đồng loạt nổi dậy. Tuy nhiên đến giờ G. đã định
là giờ Tý ngày 2 tháng 4 năm Bính Thìn (tức 1 giờ sáng ngày 3 tháng 5 năm
1916) vẫn chưa có hiệu lệnh khởi nghĩa. Cuộc vận động khởi nghĩa do Thái
Phiên, Trần Cao Vân khởi xướng chưa nổ ra thì đã bị bại lộ, thực dân Pháp tiến
hành đàn áp, bắt bớ, thu giữ toàn bộ vũ khí và ra lệnh giới nghiêm toàn Trung
kỳ. Vua Duy Tân cùng với Thái Phiên, Trần Cao Vân trốn khỏi kinh thành Huế
nhưng mấy ngày sau đã bị thực dân Pháp bắt được.
Riêng khu vực tổng Trung Lộc, quân Pháp và lính Nam triều kéo đến vây
ráp, khủng bố bắt ông Nguyễn Hoan đày đi biệt xứ ở Côn Đảo, kết án ông Đặng
Văn Bí mười hai năm tù và đưa đi giam cầm ở nhà lao Phú Yên. Đội nghĩa binh
nông dân dao phay áo rằn do Đặng Văn Bí thành lập tan rã do vũ khí thô sơ
không thể chống lại với súng đạn của thực dân Pháp, phong trào từ đây bị lắng
xuống. Ở trong tù, ông Đặng Văn Bí chịu nhiều nhục hình tra tấn nhưng vẫn giữ
khí tiết trung kiên của một người yêu nước, dám xả thân vì dân, vì non sông xã
tắc. Một năm sau khi bị bắt giam (năm 1917), ông Đặng Văn Bí đã mất tại nhà
lao Phú Yên...
Mặc dầu cuộc khởi nghĩa của đội quân nông dân do Đặng Văn Bí chỉ huy
thất bại, nhưng tiếng vang của nó vẫn còn lưu truyền về tinh thần yêu nước,
quật khởi của những người nông dân chân lấm tay bùn với vũ khí thô sơ nhưng
dám đứng lên chống lại sự cai trị, bóc lột của thực dân Pháp. Với đội nghĩa binh
nông dân do Đặng Văn Bí chiêu mộ và Nguyễn Hữu Ân chỉ huy đã cho thấy
được được khí phách, tinh thần yêu nước mãnh liệt, ý chí kiên cường bất khuất
của nhân dân Quảng Nam nói chung và nhân dân Trung Lộc, Nông Sơn nói
riêng trong những năm đầu thế kỷ 20...
AN TRƢỜNG
AN TRƢỜNG.Đội nghĩa binh nông dân ở vùng Tý, Sé/An Trƣờng//Quảng
Nam cuối tuần.-2018.-Ngày 29-30 tháng 9.-Tr.2.
Quảng Nam tự hào là một trong 4 tỉnh đầu tiên
giành chính quyền
Mặc dù là một Đảng bộ còn non trẻ, số lƣợng đảng viên ít, nhƣng với sự
nhạy bén, linh hoạt, Đảng bộ Quảng Nam đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa
giành chính quyền thắng lợi trong mùa Thu cách mạng năm 1945. Với
thắng lợi lịch sử này, Quảng Nam tự hào là một trong 4 tỉnh đầu tiên trong
cả nƣớc giành đƣợc chính quyền, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung
của dân tộc...
Bia di tích nơi Tỉnh ủy Quảng Nam tiến hành hội nghị bàn kế hoạch hoạt
động nhằm thúc đẩy cao trào chuẩn bị khởi nghĩa (thôn Khƣơng Mỹ, xã Tam
Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam). Ảnh: L.N.Đ
Những ngày sôi động
Trước tình hình phát triển nhanh của phong trào cách mạng, cuối tháng 4-
1945, Cơ quan Tỉnh ủy Quảng Nam chuyển từ Tam Kỳ ra Bà Rén, huyện Quế
Sơn. Tại đây, Tỉnh ủy Quảng Nam đã nhận được một số tài liệu của Trung ương
đưa vào, quan trọng nhất là bản Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra ngày 12-3-1945.
Tháng 5-1945, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị tại bến đò Ông Đốc (Đại Lộc),
kịp thời đưa ra những biện pháp thích hợp đối với âm mưu của phái Tân lập
hiến để tập trung lực lượng hướng vào mục tiêu khởi nghĩa giành chính quyền.
Được đường lối của Trung ương soi sáng, phong trào cách mạng của địa
phương phát triển nhanh hơn một bước, chủ động hơn trong việc chuẩn bị lực
lượng khởi nghĩa khi có thời cơ. Cũng tại hội nghị, Ủy ban Mặt trận Việt Minh
tỉnh được kiện toàn, lấy mật danh là Việt Minh Vụ Quang, củng cố hệ thống tổ
chức Việt Minh từ xã, tổng lên phủ, huyện; đẩy mạnh xây dựng khu căn cứ cách
mạng ở Duy Xuyên - Quế Sơn - Giằng; tổ chức đón tiếp, bố trí công tác cho các
tù chính trị từ các nhà lao đế quốc trở về.
Các đảng viên Đảng Cộng sản năm 1930 tại cuộc tọa đàm nhân kỷ niệm 50
năm Ngày thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Nam-
Đà Nẵng (28-3-1930 – 28-3-1980). (Ảnh tƣ liệu)
Để nhanh chóng phát triển lực lượng và các hoạt động chuẩn bị khởi
nghĩa, tháng 6-1945, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị mở rộng tại Thọ Khương (Tam
Kỳ), chủ trương đẩy mạnh sử dụng hình thức mít-tinh, tuyên truyền xung phong
để thu hút mọi tầng lớp nhân dân dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh; nhanh
chóng phát triển Đội du kích Vũ Hùng thành lực lượng vũ trang nòng cốt của
tỉnh, đáp ứng yêu cầu trấn áp của cách mạng; phân công các Tỉnh ủy viên và Ủy
viên Mặt trận Việt Minh tỉnh về phụ trách các phủ, huyện tích cực tham gia vận
động quần chúng, chuẩn bị khởi nghĩa khi thời cơ đến.
Công cuộc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa ở Quảng Nam phát triển với nhịp độ
khẩn trương hơn bao giờ hết. Hơn 400 tù chính trị từ các nhà lao đế quốc thoát
về đã tham gia vào các Ủy ban Mặt trận Việt Minh, các cấp ủy Đảng và hoạt
động rất tích cực. Đội du kích Vũ Hùng phát triển lên đến 200 đội viên, ngày
đêm tập luyện. Lực lượng tự vệ phát triển nhanh về số lượng, đội tự vệ vũ trang
của các huyện được thành lập và tập luyện sôi nổi.
Trong mùa Thu lịch sử
Những ngày đầu tháng 8-1945, bộ máy thống trị tay sai của Nhật từ phủ,
huyện, đến cơ sở bị tê liệt, quần chúng được tập hợp dưới ngọn cờ hiệu triệu của
Mặt trận Việt Minh, sẵn sàng hưởng ứng khởi nghĩa. Trước tình thế đó, Tỉnh ủy
triệu tập cuộc họp khẩn cấp tại nhà ông Ung Tòng (Ung Bá Tòng), nay thuộc
thôn Bích Sơn, xã Tam Xuân 2, huyện Núi Thành vào ngày 12 và 13-8-1945
bàn kế hoạch chớp thời cơ khởi nghĩa.
Cuộc họp đang tiến hành thì chiều ngày 13-8-1945, từ Đà Nẵng, đồng chí
Huỳnh Ngọc Huệ vào cấp báo “Nhật Hoàng đã đầu hàng Đồng minh”. Nhờ
quán triệt Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của Trung
ương về các khả năng cuộc khởi nghĩa của ta có thể nổ ra giành thắng lợi, ngay
trong đêm 13-8, cuộc họp chuyển xuống nhà ông Nguyễn Chiến (Nguyễn Đình
Chiến), nay ở thôn Khương Mỹ, xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành.
Hội nghị Tỉnh ủy liền chuyển trọng tâm sang bàn chủ trương khởi nghĩa
và quyết định: Phát động toàn dân trong tỉnh nổi dậy giành chính quyền; chuyển
tất cả các cấp ủy Đảng và Ủy ban Việt Minh các cấp thành Ủy ban bạo động
khởi nghĩa giành chính quyền ở địa phương. Hội nghị quyết định thành lập Ủy
ban bạo động giành chính quyền tỉnh Quảng Nam gồm 17 đồng chí.
Bộ phận thường trực Ủy ban bạo động giành chính quyền gồm 5 đồng
chí: Trần Văn Quế, Bí thư Tỉnh ủy làm Trưởng ban; đồng thời phân công các
đồng chí trong ủy ban bạo động phụ trách các địa phương: đồng chí Trần Văn
Quế, Nguyễn Thúy, phụ trách tại cơ quan Thường trực tại Bà Rén (Quế Sơn);
đồng chí Lê Thanh Hải, phụ trách Tam Kỳ; đồng chí Võ Toàn, phụ trách Hội
An; đồng chí Nguyễn Xuân Nhĩ, phụ trách Hòa Vang.
Sau đó, các thành viên trong Ủy ban bạo động tỉnh phụ trách địa phương
nào về lãnh đạo khởi nghĩa tại địa phương đó. Hội nghị nhanh chóng kết thúc
vào chiều ngày 14-8-1945, các đồng chí dự hội nghị tỏa về địa phương triển
khai cấp tốc kế hoạch.
Trong khi đó, từ đêm 13-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa Trung ương ra mệnh
lệnh Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, Quảng Nam chưa nhận được lệnh, nhưng
nhờ sự chủ động, chủ trương khởi nghĩa của Tỉnh ủy Quảng Nam kịp thời và
phù hợp với mệnh lệnh khởi nghĩa của Trung ương. Một cao trào quần chúng
toàn tỉnh sửa soạn khởi nghĩa sôi nổi chưa từng có.
Tất cả các cấp ủy Đảng và Ủy ban Việt Minh các cấp trong toàn tỉnh đã
họp cấp tốc và chuyển thành Ủy ban bạo động. Hầu hết các lò rèn trong tỉnh
được trưng dụng ngày đêm rèn sắm vũ khí, tự vệ được tập trung túc trực ngày
đêm canh gác cùng với Ủy ban bạo động. Nhân dân được lệnh may sắm băng
cờ, chuẩn bị giáo mác sẵn sàng chờ lệnh.
Tối 14-8-1945, cơ quan Thường trực Tỉnh ủy chuyển từ Bà Rén, Quế Sơn
ra làng Bích Trâm (nay thuộc xã Điện Hòa, thị xã Điện Bàn) để kịp thời chỉ đạo
phong trào cách mạng. Hàng loạt các chỉ thị hỏa tốc của Thường trực Ủy ban
bạo động gửi đi các phủ, huyện hướng dẫn và đôn đốc chuẩn bị hành động.
Theo kế hoạch dự kiến của tỉnh, sẽ tiến hành giành chính quyền phủ, huyện
trước, sau đó tập trung lực lượng giành chính quyền ở tỉnh lỵ Hội An.
Tuy nhiên, tại tỉnh lỵ Hội An, trước tình thế cách mạng có lợi cho ta có
thể khởi nghĩa giành chính quyền sớm hơn dự kiến, sáng 17-8-1945, Ủy ban bạo
động Hội An họp tại xóm Ngọc Thành, làng Kim Bồng, có đồng chí Võ Toàn
(Võ Chí Công) và Phan Thị Nễ tham dự. Hội nghị tiếp tục bàn kế hoạch khởi
nghĩa và cử đồng chí Nguyễn Văn Ưng lên báo cáo cơ quan Ủy ban bạo động
tỉnh tại làng Bích Trâm, xin cho Hội An khởi nghĩa giành chính quyền trong
đêm 17-8-1945.
Nhân dân Quảng Nam xuống đƣờng đấu tranh năm 1945 (Tranh vẽ).
Được sự thống nhất của Thường trực Ban bạo động tỉnh, trong đêm 17
rạng sáng ngày 18-8-1945, cuộc khởi nghĩa tại Hội An diễn ra và nhanh chóng
giành thắng lợi. Tin tỉnh lỵ Hội An giành chính quyền thắng lợi khích lệ mạnh
mẽ lực lượng khởi nghĩa các phủ, huyện tiến lên.
Tại phủ Tam Kỳ, trong ngày 18-8-1945, theo kế hoạch của Ủy ban bạo
động phủ, lực lượng tự vệ vũ trang chiếm đồn Thương Chánh Hiệp Hòa (nay
thuộc thôn An Hải Đông, xã Tam Quang, huyện Núi Thành), tịch thu 4 khẩu
súng. Lực lượng quần chúng và tự vệ các xã tập trung vào các địa điểm quy
định chuẩn bị cướp đồn Đại Lý (nay là Trung tâm Văn hóa thành phố Tam Kỳ,
số 56 Trần Cao Vân) và giành chính quyền phủ lỵ.
Chiều 18-8, đoàn xe lực lượng vũ trang tỉnh từ Hội An do đồng chí Võ
Toàn dẫn đầu đã vào đến Tam Kỳ, phối hợp với lực lượng tự vệ vũ trang của
phủ chiếm đồn Đại Lý, bắt tên đồn trưởng gian ác, thu toàn bộ súng đạn, sau đó
chuyển lên chiếm phủ lỵ.
Quần chúng các mũi kéo vào tràn ngập phủ đường. Đồng chí Khưu Thúc
Cự thay mặt Ủy ban bạo động thu nhận giấy tờ, con dấu do phủ trưởng Trần
Kim Lý giao nộp. Tối 18-8-1945, chính quyền ở phủ Tam Kỳ đã về tay nhân
dân.
Trong ngày 18-8-1945, các phủ, huyện Duy Xuyên, Điện Bàn, Quế Sơn,
Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước, Đại Lộc giành được chính quyền ở phủ,
huyện lỵ. Ngày 22-8-1945, tại Hòa Vang, Ban bạo động huyện đột nhập vào
huyện đường bắt tên huyện trưởng đầu hàng, giao nộp tài liệu.
Ở thành phố Đà Nẵng, sáng 26-8, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Lê Văn
Hiến, Chủ tịch UBND cách mạng lâm thời thành phố, lực lượng tự vệ, cơ sở
cách mạng và cán bộ phụ trách các mục tiêu đã định đồng loạt nổi dậy, tiếng còi
tàu rú lên inh ỏi báo hiệu mệnh lệnh khởi nghĩa.
Từng đoàn người đủ mọi tầng lớp: công nhân, nông dân, cán bộ tiến về
các công sở, nhà máy, tuyên bố xóa bỏ bộ máy cai trị của chế độ cũ, thành lập
Ban điều hành mới của cách mạng. Đồng chí Lê Văn Hiến thay mặt chính
quyền cách mạng tuyên bố chính quyền thuộc về tay nhân dân.
Lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc Tòa thị chính Đà Nẵng. Cuộc mít-
tinh lớn với sự tham gia của hàng nghìn người được tổ chức tại sân vận động
Chi Lăng vào sáng 28-8-1945, đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của cuộc tổng
khởi nghĩa ở Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng.
Như vậy, nhờ quá trình xây dựng lực lượng cách mạng và nhạy bén chớp
thời cơ, nên chỉ trong thời gian ngắn, từ 18-8 đến 26-8-1945, khởi nghĩa giành
chính quyền ở Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng đã hoàn toàn thắng lợi.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Quảng Nam thành công rực rỡ. Cuộc
khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh đã giành thắng lợi nhanh chóng,
trọn vẹn. Thắng lợi khởi nghĩa ngày 18-8-1945 của Quảng Nam là một trong
những tỉnh khởi nghĩa sớm nhất thắng lợi trọn vẹn góp phần hỗ trợ, thúc đẩy
Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trên toàn quốc đi đến thắng
lợi.
Lê Năng Đông
LÊ NĂNG ĐÔNG.Quảng Nam tự hào là một trong 4 tỉnh đầu tiên giành
chính quyền/Lê Năng Đông//Đà Nẵng chủ nhật.-2018.-Ngày 2 tháng 9.-Tr.7.
Ngƣời Quảng Nam với mặt trận Đà Nẵng
Thắng lợi to lớn tại mặt trận Đà Nẵng trong cuộc chiến tranh vệ quốc
(1858-1860), có sự đóng góp lớn của quân dân địa phƣơng và tinh thần
trách nhiệm trƣớc vận mệnh lịch sử của kẻ sĩ xứ Quảng.
Nghĩa trủng Hòa Vang, nơi an nghỉ của 1.056 nghĩa sỹ hy sinh trong
cuộc chiến tranh vệ quốc tại mặt trận Đà Nẵng (1858-1860).Ảnh:
N.V.M
Sát cánh cùng quân đội triều đình
Khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công tại cửa biển Đà
Nẵng vào ngày 1.9.1858, người dân nơi đây lập tức truyền tin cho nhau về sự
biến: “Tai nghe súng nổ cái đùng/ Tàu Tây đã lại Vũng Thùng anh ơi!” và họ đã
sát cánh cùng quân đội triều đình chống giặc ngay từ những ngày đầu của cuộc
chiến.
Bấy giờ, bên cạnh quân triều đình là một lực lượng đông đảo quân
thường trực của Quảng Nam được điều ra mặt trận Đà Nẵng. Số biền binh mãn
hạn của tỉnh gồm 2.070 người cũng được gọi tái ngũ ngay. Không những thế,
liền ngay khi vua Tự Đức có chỉ dụ kêu gọi hiến kế hoặc chiêu mộ dân binh
đánh giặc thì số lượng dân đinh Quảng Nam gia nhập vào các đội quân nghĩa
dũng ngày càng đông.
Theo tài liệu của ông Trần Ngọc Chương,
hưu quan Phạm Gia Vĩnh là người có vai
trò quan trọng trong việc mộ quân. Ông
này quê làng Mỹ Thị, huyện Hòa Vang
(nay thuộc phường Khuê Mỹ, quận Ngũ
Hành Sơn), từng giữ chức Đề đốc ở huyện
Hà Đông, nhiều lần dâng sớ lên triều đình
đề nghị sửa đổi cách cai trị, bị giáng chức
bèn lui về tư thất ở làng Thạnh Mỹ mộ
dân nghèo lập đồn điền ở Tú Chàng (nay
thuộc huyện Phú Ninh). Tại đây ông đứng
ra tổ chức cho khoảng 400 dân đinh hình
thành cơ ngũ, phiên chế theo 5 thôn, mỗi
thôn có một cai thôn quản lĩnh 80 lính.
Toàn bộ đội quân này do ông làm Quản
cơ kéo ra mặt trận Đà Nẵng chiến đấu.
Quân nghĩa dũng Quảng Nam tham chiến đông đến mức viên tổng chỉ huy liên
quân Pháp – Tây Ban Nha là Rigault de Genouilly cho rằng, “dân quân gồm
toàn những người lành mạnh trong dân chúng”.
Dâng sớ, hiến kế đánh giặc
Trong nội dung văn bia Phạm Phú Thứ, tiến sĩ Nguyễn Tư Giản cho biết,
năm Tự Đức thứ 11 Phạm Phú Thứ được về Kinh nhậm chức Thự Hàn lâm viện
Thị độc học sĩ, tham biện Nội các sự vụ, “Thế rồi binh thuyền Pháp xâm phạm
cửa biển Đà Nẵng, ông dâng sớ xin cho các vị quan là người Quảng Nam làm
quan tại Kinh đều trở về quê chiêu mộ binh dũng chống giặc”, nhưng không
được vua Tự Đức chấp thuận. Năm sau (1859), sau chuyến về quê cải táng mộ
cha, Phạm Phú Thứ lại dâng tấu “tâu xin các việc: đắp đê khơi sông và tuần
phòng huấn luyện ở Quảng Nam” nhằm an dân và phòng thủ bảo vệ vùng hậu
phương để dồn sức cho chiến trường ở Đà Nẵng.
Lại có một người Quảng Nam là cử nhân Phan Văn Xưởng, tuy đang bị
an trí ở Thái Nguyên nhưng đã có mặt và giữ vai trò quan trọng trong đoàn quân
nghĩa dũng do Đốc học tỉnh Nam Định là Hoàng giáp Phạm Văn Nghị chiêu
mộ. Đoàn quân này có 365 người gồm văn thân, nho sĩ, dân đinh, trong đó có 5
cử nhân, 8 tú tài, phiên thành 7 đội ghép thành 3 đạo do Phan Văn Xưởng coi
tiền đạo, Đặng Ngọc Cầu coi hậu đạo, Phạm Văn Nghị coi trung đạo và chỉ huy
chung. Qua tìm hiểu các nguồn sử liệu chúng tôi biết được Phan Văn Xưởng
người làng Khánh Thọ Đông (nay thuộc xã Tam Thái, huyện Phú Ninh), làm
quan trải các chức Ngự sử, Chưởng ấn Cấp sự trung ở Lễ khoa, rồi được thăng
chức Án sát tỉnh Biên Hòa. Trong thời gian giữ chức Ngự sử ông nhiều lần đàn
hặc một số quan có việc làm sai trái, cũng nhiều lần dâng sớ tâu bày ý kiến,
nhưng không ít lần không được lòng nhà vua, đến khi làm Án sát thì bị quy tội
phải sung quân rồi bị đưa đi an trí. Khi đoàn quân nghĩa dũng của các ông đến
Huế thì quân Pháp đã rút khỏi Đà Nẵng. Các ông lại xin đưa đoàn quân này vào
Khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha
nổ súng xâm lược Việt Nam tại Đà
Nẵng thì lập tức quân dân Quảng
Nam là những người trực tiếp có
mặt sớm nhất bên cạnh quân đội
triều đình đánh giặc và đã đóng
góp trong suốt cuộc chiến. Suốt 18
tháng 22 ngày vẫn bị cầm chân tại
chỗ, không thể tiến đánh tỉnh thành
Quảng Nam, càng không vượt
được đèo Hải Vân để đánh ra Huế,
địch buộc phải rút toàn bộ quân
khỏi mặt trận này.
thẳng Gia Định đánh giặc, nhưng vua Tự Đức không cho đi tiếp. Mặc dù vậy,
nhà vua cũng ban dụ khen ngợi: “Nay nghĩ trong lúc bờ biển có giặc, bọn họ
mới nghe có chiếu chỉ đã hăm hở làm theo việc nghĩa, hăng hái diệt thù. Tuy số
quân không nhiều, lại chưa có công đánh giặc, nhưng có lòng diệt địch, thật
đáng khen”.
Tư liệu lịch sử địa phương còn cho biết bấy giờ ở Hòa Vang có tú tài
Lâm Hữu Chánh, người làng Cẩm Toại (nay thuộc xã Hòa Phong) làm quan đến
chức Tri huyện huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, khi chiến đấu ở mặt trận Đà
Nẵng ông chỉ huy một đội quân và được giao giữ đồn Cẩm Khê, sau đó ông lại
tiếp tục vào Nam đánh Pháp, và ông Ông Ích Khiêm cũng có mặt tại mặt trận
này, có công trong việc củng cố các đồn lũy, cùng với những giai thoại về mưu
kế đánh giặc của ông.
Nghĩa cử với tƣớng sĩ trận vong
Cuộc chiến đi qua, quan dân Quảng Nam lại lo nơi yên nghĩ lâu dài cho
những người vì nước hy sinh bằng việc quy tập hài cốt của họ ở các nơi từng là
sa trường chiến địa về các nghĩa trủng được lập nên ở các làng Phước Ninh,
Nam Ô, Nghi An (nghĩa trủng này về sau dời đến phường Khuê Trung, quận
Cẩm Lệ hiện nay).
Văn bia nghĩa trủng Phước Ninh mở đầu bằng việc đặt vấn đề giữa nghĩa
và lợi: “Phàm mọi việc trên đời, chỉ có nghĩa và lợi mà thôi! Người quân tử chỉ
nghĩ đến nghĩa và hăng hái làm việc thiện, dù cho việc ấy nhỏ đến mấy cũng
không bỏ qua. Kẻ tiểu nhân chỉ nghĩ đến lợi mà nhát làm việc thiện, hễ thấy gì
có lợi cho mình thì dù lợi ấy nhỏ đến mức độ nào cũng đem lòng ham muốn và
quyết tâm làm cho kỳ được”. Cũng theo nội dung văn bia này thì “Nơi này
trước đây là sa trường chiến địa, thành đổ quách xiêu. Ngày vắng quạnh hiu, gò
hoang mả loạn; gió hú thê lương, đêm thâm não ruột; nào đâu hương thơm, ai
người cúng giỗ. Hoặc giả không người thân thuộc, biết lấy ai vùi dập nắm
xương tàn nơi chín suối, hoặc giả quê hương xa cách, biết lấy ai vẫy gọi hồn
thiêng ngoài vạn dặm. Lúc đóm lân tinh, thâu đêm buồn khóc; hồn hoang phách
lạc, gào thét năm canh. Thảm thiết dường nào! Đau thương biết mấy!” (nhà giáo
Nguyễn Đình Thảng dịch). Đồng thời văn bia cho biết công việc quy tập đã bàn
định từ sớm, đến khi ông Chánh thương biện hải phòng tỉnh Quảng Nam là
Nguyễn Đạo Trai và ông Phó lãnh binh Trương Công Hậu đứng ra xuất tiền
của, chọn địa điểm và tiếp tục vận động thì tướng sĩ dưới trướng đều vâng mệnh
và “các bậc thân hào, các nhà phú thương cùng nhau góp của tiền giúp vào việc
nghĩa” xây dựng nên khu nghĩa trủng này. Hai vị Phó Quản cơ Nguyễn Lân và
Hiệp quản Nguyễn Đề được phái đến cùng với quân lính đi tìm khắp các nơi
từng xảy ra chiến trận để thu nhặt hài cốt tản mát đó đây, rồi dùng giấy, vải gói
lại đặt vào quan quách đưa về chung một khu vực, chôn cất thành nhiều lớp, có
hơn 1.500 nấm mộ theo hướng Đông Nam - Tây Bắc, chung quanh xây thành
đất bao bọc. Công việc tiến hành trong 3 tháng thì hoàn tất. Nghĩa trủng Phước
Ninh tọa lạc tại một vị trí đẹp, được văn bia ghi nhận là có thế “tả thanh long,
hữu bạch hổ”: ở phía trái có sóng nước biển khơi, lại có núi Sơn Trà mường
tượng như dáng rồng xanh; ở phía phải có rừng cây lớn nhấp nhô và núi Phước
Tường tựa như hình hổ trắng. Sau khi công việc hoàn thành, ông Nguyễn Đạo
Trai lại tâu xin triều đình mua hai mẫu ruộng giao cho xã Phước Ninh canh
quản để chi dùng vào việc tế tự hằng năm, được triều đình chấp nhận và ban
khen. Về sau này, khi xây dựng Nhà thi đấu Nguyễn Tri Phương, thành phố Đà
Nẵng có chủ trương chuyển toàn bộ mộ các nghĩa sĩ đến Gò Cao ở xã Hòa
Khương, riêng 2 ngôi mộ của 2 vị tướng vẫn còn lại trước sân Nhà thi đấu. Đến
khi làm đường Nguyễn Văn Linh nối dài đến Cầu Rồng, Nhà thi đấu bị dỡ bỏ, 2
ngôi mộ của 2 vị tướng chuyển đến Nghĩa trủng Hòa Vang. Hiện tại khu vực
này chỉ còn lại một nhà bia tưởng niệm ở góc đường Nguyễn Văn Linh - Huỳnh
Thúc Kháng.
Nghĩa trủng Hòa Vang được lập lần đầu tiên ở xứ Trủng Bò làng Nghi An
(nay thuộc phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ). Khoảng năm 1920, Pháp mở sân
bay Đà Nẵng, phải dời nghĩa trủng này đến xứ Trảng Dài làng Khuê Trung. Đến
khi quân đội Mỹ mở rộng sân bay về phía nam lại phải dời một lần nữa đến chỗ
hiện nay, tại khu đất vuông giới hạn bởi các đường Bình Hòa 9, Trần Thủ Độ,
Nguyễn Phong Sắc, Bình Hòa 8, thuộc phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ.
NGÔ VĂN MINH
NGÔ VĂN MINH.Ngƣời Quảng Nam với mặt trận Đà Nẵng/Ngô Văn
Minh//Quảng Nam cuối tuần.-2018.-Ngày 1-2 tháng 9.-Tr.3.
Tiếng bƣớc chân trên đƣờng 18/8
Tấm bia cũ vẫn còn nằm ở đó, góc đƣờng ngày xƣa chỉ nhƣ một con
hẻm qua cồn An Hội, mà nay đã thênh thang phố xá. Nắng rớt vàng bên
tấm bia di tích nơi bảy mƣơi ba năm trƣớc, sóng sông Hoài hóa thành làn
sóng ngƣời trong phố, làm nên một thời khắc lịch sử, mà nay đã in trên tên
đƣờng: 18/8.
Di tích nhà lao Hội An.Ảnh: T.C
1. Tấm bia vẫn nằm đó, khiêm cung bên một góc đường không xa bờ
sông Hoài. Chỉ khác, là xóm nhỏ bên An Hội, giờ đã là phố xá thênh thang với
hàng dài nhà và xe. Những dòng chữ trên tấm bia đã chút nào đó nhòe mờ theo
sương gió, vài dòng, nhưng đủ để cho những người ghé lại đọc phần nào hiểu
được gốc tích của tên đường: “Đêm 17 rạng ngày 18.8.1945, Hội An trở thành
một trong bốn tỉnh lỵ giành chính quyền về tay nhân dân sớm nhất trong cả
nước, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ
đại”.
Những chứng nhân lịch sử không còn nữa. Nhưng những người viết sử
cùng những dòng hồi ký về một thuở hào hùng may mắn vẫn được lưu giữ.
Từng giây, từng phút của ngày lịch sử ấy như sống lại qua những dòng hồi ký
của ông Nguyễn Văn Tấn (tên thường gọi là Nguyễn Văn Ưng, Nguyễn Phe,
thành viên của Ủy ban bạo động, đã mất). Theo hồi ký của ông Nguyễn Văn
Tấn - “Những năm tháng không quên” (NXB Đà Nẵng, xuất bản năm 2009),
nhà ông Huỳnh Đủ ở xóm Ngọc Thành là nơi diễn ra cuộc họp của ủy ban bạo
động với sự tham gia của hai đồng chí cách mạng kiên trung là Võ Toàn (Võ
Chí Công) và Phan Thị Nể, nằm ngay sát nách nội thị để kịp theo dõi diễn biến
tình hình. “Đồng chí Thao (Phan Thao), Kỳ (Lưu Quý Kỳ) chuẩn bị truyền đơn,
biểu ngữ, in chương trình của Việt Minh… Anh Toàn (Võ Toàn), chị Nể (Phan
Thị Nể) cùng với ban bạo động thị xã tiếp tục chuẩn bị kế hoạch điều lực lượng
quần chúng và tự vệ, đội ngũ chỉnh tề qua ém sẵn ở xóm Ngọc Thành, đội ngũ
các xã, phường nội ô sẵn sàng chờ lệnh”. “Lệnh đồng ý khởi nghĩa về đến Ngọc
Thành lúc 10 giờ đêm”. “Đội quân khởi nghĩa xuất phát từ xóm Ngọc Thành,
Kim Bồng kéo ra đường cái. Đội quân khởi nghĩa của làng Thanh Hà nhập vào,
rầm rầm tiến vào nội ô. Quân khởi nghĩa hô vang khẩu hiệu, phất cờ kêu gọi
mọi người nổi dậy khởi nghĩa giành lại chính quyền về tay nhân dân. Quần
chúng nội ô đã sẵn sàng đội ngũ gia nhập đoàn quân khởi nghĩa, các đoàn quân
vũ trang khởi nghĩa ở các xã phía đông giáp Cửa Đại và phía bắc kéo về trung
tâm. Ở nội ô cửa nhà, phố xá mở toang, đèn sáng chói, nhân dân vỗ tay hoan hô
đoàn quân khởi nghĩa. Đoàn quân với hàng vạn bước chân nện trên đường phố,
cây gậy, vũ khí va đập vào nhau rầm rập, cả đô thị Hội An như rung chuyển, khí
thế cách mạng trời long đất lở” (Trích hồi ký “Những năm tháng không
quên”)…
Di tích nhà ông Huỳnh Đủ, nơi diễn ra cuộc họp của Ủy ban khởi
nghĩa Hội An.Ảnh: T.C
Chúng tôi ghé bảo tàng Hội An, nơi vẫn còn lưu giữ những hiện vật, hình
ảnh của phố trong suốt hai cuộc kháng chiến. Khoảnh khắc của cuộc tổng khởi
nghĩa, như ngưng đọng trong tấm ảnh đen trắng “cuộc tuần hành thị uy của
nhân dân Hội An sau khi giành chính quyền 1945”, nằm trang trọng một góc
trưng bày. Đoàn quân khởi nghĩa với vũ khí, hàng ngũ chỉnh tề, đi giữa đám
đông những người dân phố cổ, dù đã nhòe mờ theo quá nhiều năm tháng, vẫn
thấy những chóp nón hân hoan, và rất nhiều bàn tay xòe ra vẫy hai bên hàng
quân khởi nghĩa. Khoảnh khắc thiêng liêng của phố Hội, khi ghi tên mình vào
bản đồ cách mạng cả nước trong tháng Tám lịch sử…
2. “Có một Hội An, riêng với những di tích lịch sử cách mạng ghi dấu giá
trị văn hóa, nhân văn, phản ánh một lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và
dân phố Hội. Trong số đó, có các nhà lao của đế quốc và thực dân” - ông
Trương Hoàng Vinh (Trung tâm Bảo tồn và quản lý di sản Hội An) nói về một
phần ký ức không thể tách rời của mảnh đất này. Lặng lẽ nằm trong phố, có cái
đã mất dấu, có cái chỉ còn là vết tích, hoặc đang được phục dựng, những nhà tù
ghi dấu nhiều hào khí của một thế hệ cha anh đã kiên cường theo Đảng và cách
mạng, vượt qua những thống khổ và áp bức của địch. Nhiều cái tên được điểm.
Nhà lao ở Trường Lệ nằm trong khu vực trường quân chính ngày nay; Nhà lao
Thông Đăng; Nhà lao Hội An. Những “địa ngục trần gian” từng giam giữ biết
bao chí sĩ, chiến sĩ cách mạng như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…
Ông Vinh cho biết: “Nhà tù của thực dân, đế quốc ở Hội An được những người
cách mạng biến thành trường học, thành nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản,
vực dậy tinh thần đấu tranh cách mạng, giữ vững ý chí của những người cộng
sản. Ở đó, còn bao câu chuyện, bao hồi ức, và một phần lịch sử của chính mảnh
đất, con người Hội An”…
Tấm ảnh “Cuộc tuần hành thị uy của nhân dân Hội An sau khi
giành chính quyền 1945” tại Bảo tàng Hội An.
Nhà lao Hội An ở địa chỉ số 240/12 Lý Thường Kiệt vẫn còn giữ lại một
khu khá nguyên trạng, với những phòng giam đóng kín, ẩm thấp. Chòi gác được
dựng lại, nằm giữa ngổn ngang không gian nhà lao đang được phục dựng từ
chứng tích. Tôi ngồi nói chuyện với ông Huỳnh Đức - Chủ tịch Hội Tù yêu
nước TP.Hội An, ngay trong trụ sở làm việc của hội ở khu nhà lao này. Ông kể
về nơi này, và cả những khu nhà lao ở Hội An, như chính là một phần hồi ức
của cuộc đời mình. Trong câu chuyện của ông, đòn thù tra tấn đối với những
người tù yêu nước, vừa bi thống những gian khổ, nhưng cũng không thiếu hào
hùng của một thời quyết chí theo Đảng, nhen nhóm ngọn lửa cách mạng ngay
trong những nhà ngục. Nơi này, nhiều năm nay, trở thành địa chỉ trở về của
những người lớp cũ, đã đổ máu xương cho hòa bình, độc lập ngày hôm nay. Thế
hệ trẻ cũng ít nhiều được nhắc nhớ về những nhà lao, nơi ngọn lửa cách mạng
không bao giờ tắt ngay giữa ác liệt của cuộc đấu tranh, trong những tháng ngày
gian khổ nhất… Nhìn lên chòi gác cao sừng sững giữa khu nhà lao, bên dãy
phòng giam xám lạnh đầy ám ảnh, là bầu trời trong xanh của những ngày tháng
Tám. Nắng đổ xuống, trải vàng trên ngổn ngang tàn tích nhà giam...
Đường 18/8. An Hội của Hội An, đã hóa thân từ một dải cồn cát nghèo
khó bên kia kênh nước sông Hoài, hòa chung với những nhộn nhịp của du lịch
và dịch vụ. Nhưng, không quá rộn ràng như trong phố cổ, con đường và cả
những nếp nhà mới tinh, dường như vẫn còn đủ lặng im để nghe gió reo phía
sông, nghe tiếng bước chân đi về trên lối. Những bàn chân dừng lại đôi chút bên
tấm bia, đọc vài dòng chữ sờn mòn, gọi về ký ức của bước chân rầm rập tiến
vào phố giành chính quyền về tay nhân dân ngày 18.8.1945. Ba giờ sáng ngày
18.8 của bảy mươi ba năm về trước ấy, đoàn quân đã bước đi, từ nơi này, xóm
Ngọc Thành bên bờ sông…
Ghi chép của THÀNH CÔNG
THÀNH CÔNG.Tiếng bƣớc chân trên đƣờng 18/8/Thành Công//Quảng Nam
cuối tuần.-2018.-Ngày 1-2 tháng 9.-Tr.5.
Hai cha con là anh hùng
„Về xã Tam Hải (Núi Thành), hỏi gia đình liệt sĩ Hồ Truyền rất nhiều
ngƣời biết bởi đây là một gia đình có truyền thống cách mạng. Đặc biệt hơn
nữa khi cả cha và con gái đều là Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân
(LLVTND).
Anh hùng LLVTND Hồ Thị Kim Thanh bên các bằng khen do bà
Nguyễn Thị Định ký thời chiến tranh. Ảnh: H.V
Theo bƣớc chân cha
Ở tuổi 75, bà Hồ Thị Kim Thanh, người vừa được Nhà nước phong tặng
danh hiệu Anh hùng LLVTND trong năm 2018 vẫn sống khỏe với cái dạ dày
chỉ còn 1/4. Vốn can trường từ những ngày ấu thơ nên dù bị ung thư, bà luôn lạc
quan, giọng nói cứ hừng hực như thuở nào. Từng làm Hội trưởng phụ nữ tỉnh
Quảng Nam, bí thư Thị ủy Tam Kỳ rồi Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy
Quảng Nam - Đà Nẵng nhưng cuộc sống của bà ở số nhà 58 Lê Duẩn, Đà Nẵng
thật giản dị. Theo lời nữ anh hùng thì tài sản lớn nhất của bà hiện nay là niềm tự
hào về gia đình. Khẽ khàng tìm trong album tấm ảnh đã ố vàng chụp hơn 50
trước, giọng bà nghèn nghẹn: “Đây là ba, hai em Lâm, Sơn và tôi. Kỷ niệm bốn
cha con ngày đoàn tụ trên núi trước khi ba hy sinh”. Là chị cả của 4 em nhỏ, bà
là người gắn bó với cha mình nhiều nhất. Ông Bảy Truyền sau Cách mạng
tháng Tám đã là Chủ nhiệm Việt Minh xã rồi Đoàn trưởng đoàn dân công hỏa
tuyến của tỉnh Quảng Nam.
Bà Hồ Thị Kim Thanh (ngoài cùng bên trái) và
hai em chụp ảnh cùng cha năm 1963. (Ảnh chụp
lại).
Trước hiệp định Giơ-ne-vơ, ông được cử ra Bắc học tập nhưng rồi bí mật
vào hoạt động ở Bình Định, bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam ở nhà lao
Hội An. Không tìm được tang chứng, địch thả ông ra và sau đó khi điều tra,
chúng tức tối khi biết rằng đã thả nhầm một Việt Cộng gộc. Hàng ngày cô bé
Thanh là người tiếp tế cơm nước cha mình trong căn buồng tối, cho đến khi ông
bắt liên lạc và lên chiến khu. Làm Bí thư Huyện ủy Nam Tam Kỳ rồi Chính ủy
Mặt trận Chu Lai, chỉ huy vành đai diệt Mỹ nơi này, ông Truyền đã hy sinh
oanh liệt năm 1967, được nhân dân kính phục, chôn cất hài cốt. Một năm sau,
người vợ hiền của ông từng vào tù ra tội, được thả về và tiếp tục làm cán bộ phụ
nữ xã Tiên Thọ cũng đã hy sinh. Lúc này cô con gái đầu đang ở Quế Sơn chỉ
đạo phong trào phụ nữ đấu tranh. Nhận tin cha và mẹ ngã xuống, Kim Thanh
chỉ biết khóc rưng rức trong hầm mà không thể nào về ngay thắp hương cho
đấng sinh thành. Thương 4 em ra Bắc học tập, ngày về không được thấy cha mẹ,
vậy mà bà cũng suýt nữa không thoát khỏi nanh vuốt kẻ thù.
Trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy xuân 1968, khi là Thường trực Hội
phụ nữ giải phóng tỉnh Quảng Nam, bà được phân công trực tiếp chỉ huy lực
lượng chính trị và binh vận hỗ trợ cho lực lượng vũ trang tấn công vào quận lỵ
Lý Tín. Cải trang thành dân thường, bà cùng các đồng chí của mình dẫn đầu
hơn 3.000 người đấu tranh trực diện với kẻ thù. Lực lượng bị bao vây, chúng
bắt bà cùng 200 người biểu tình. Vào tù bà nhanh trí bồng bế con một quần
chúng làm con mình, giấu kín tung tích. Được nhân dân che chở, Hồ Thị Kim
Thanh bí mật lập chi bộ lãnh đạo cuộc đấu tranh trong tù buộc địch không được
giam giữ tù nhân. Khi bà thoát, địch mới biết đã thả nhầm nữ Việt Cộng nguy
hiểm, ráo riết truy lùng, đuổi theo nhưng thất bại. Sau thắng lợi này, Tỉnh ủy
đánh giá cao ở bà sự nhạy bén, sáng tạo, bình tĩnh, kiên cường trước kẻ thù. Bà
được tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp tỉnh trong năm này.
Hai lần đƣợc nữ tƣớng tặng bằng khen
Nhiều đồng đội khi kể về Anh hùng LLVTND Hồ Thị Kim Thanh đều
cho rằng, điều họ quý nhất ở bà đó là trong bất cứ tình huống nào, dù nguy hiểm
đến đâu cũng không bỏ rơi đồng chí của mình. Từ quê hương địch tạm chiếm,
bà thoát ly làm nhiệm vụ chăm sóc thương binh. Theo đội công tác bà tham gia
chiến dịch “Vượt sông Tiên” về giải phóng 3 xã Sơn - Cẩm - Hà. Năm 1963, lúc
này bà đang ở cơ quan Huyện ủy Tiên Phước thì địch tràn vào khu vực đóng
quân. Lực lượng không cân sức buộc ta phải rút khỏi căn cứ. Cùng chạy hướng
với bà có 4 anh ở Huyện ủy, phụ trách trại giam tỉnh và cán bộ xã Phước Cẩm,
đều bị thương nặng. Bà cũng cũng đạn găm ở cánh tay, tuy nhiên còn chạy được
nên nén đau lần lượt cõng, dìu đồng đội băng đồi ra khỏi vùng phục kích. Khi
đến nơi tập trung, bà vừa băng rừng vừa làm dấu về báo du kích và sau đó tất
cả đồng chí bị thương đã được cứu sống. Tháng 10.1969, khi là Hội trưởng phụ
nữ tỉnh đi truyền đạt nghị quyết cho huyện Quế Sơn, bà vượt qua đường 105 thì
bị địch phục. Nữ hội trưởng bình tĩnh cùng du kích đánh trực diện gây cho
chúng nhiều tổn thất. Chúng rút lui và dùng pháo bắn xối xả. Đồng chí Cao
Châu (Chuối) du kích xã Phú Thọ bị thương. Bà Thanh đã cố bò ra đường 105
tìm bằng được và cõng vào vùng ven, sau đó được sự tiếp sức của đồng đội đưa
thương binh lên trạm phẫu.
Lục tìm những kỷ vật kháng chiến, bà Hồ Thị Kim Thanh nâng niu từng
tấm bằng khen, giấy chứng nhận năm xưa. Ấn tượng nhất là hai bằng khen của
nữ tướng Nguyễn Thị Định lúc này là Chủ tịch Hội Liên hiệp giải phóng miền
Nam Việt Nam tặng bà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Lần đầu
khi bà làm Thường vụ phụ nữ tỉnh và lần thứ hai là Hội trưởng. Ra Hà Nội năm
1975, khi gặp người mình ngưỡng mộ, bà Thanh nhắc lại niềm vinh dự được
tặng bằng khen trong chiến tranh, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị
Định đã ôm bà thật chặt và trìu mến nói: “Đây là anh hùng chứ đâu xa!”. Có
một kỷ niệm không bao giờ quên nữa là năm 1973, tại Hội nghị thi đua Quân
khu 5, bà được các đồng chí lãnh đạo tặng một khẩu súng K59. Phụ nữ mà tặng
súng lục có lẽ hiếm lúc đó. Chính khẩu súng này đã đồng hành với bà trong các
chuyến công tác về cơ sở, nhiều lần phải chiến đấu để thoát vòng vây.
Cha mẹ tù đày rồi thoát ly, những đứa em do chị Hai Truyền (Kim
Thanh) chăm ẵm ngày nào được ra miền Bắc học tập đều trưởng thành, giỏi
giang. Người làm Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, hai người là Giám đốc
Công ty Cấp nước; Giám đốc Bưu điện Đà Nẵng và hiện đã về hưu. Chồng bà,
anh bộ đội chủ lực năm xưa yêu và thử thách qua chiến tranh nay lại sát cánh
cùng bà tích cực tham gia công tác ở địa phương, giữ mãi tiếng cười như thời
tuổi trẻ. Với bà như thế đã là hạnh phúc.
HỒNG VÂN
HỒNG VÂN.Hai cha con là anh hùng/Hồng Vân//Quảng Nam cuối tuần.-
2018.-Ngày 1-2 tháng 9.-Tr.9.
Chuyện ông Phan Văn Xƣởng
Làng Khánh Thọ, huyện Hà Đông, phủ Thăng Bình xƣa (nay thuộc xã Tam
Thái, huyện Phú Ninh) có một nhân vật nổi tiếng - đó là ông Phan Văn
Xƣởng, sinh năm 1816, đỗ cử nhân lúc 18 tuổi (1834), đƣợc ghi nhận là một
trong những nho sĩ Quảng Nam đỗ đạt sớm nhất.
Bia dựng trƣớc mộ ông Phan Văn Xƣởng ở Khánh Thọ,
Tam Thái, Phú Ninh.
Sách Đại Nam thực lục của triều Nguyễn đã có 18 lần ghi những chi tiết
liên quan đến hành trạng của ông Phan Văn Xưởng - đó là điều hiếm thấy đối
với một viên quan chưa được dự vào hàng tứ phẩm.
Hoạn lộ của ông cử nhân 18 tuổi
Sau khi đỗ cử nhân, chẳng rõ những năm đầu ông Phan Văn Xưởng tiến
thân trên đường làm quan như thế nào? Chỉ biết 7 năm sau khi thi đỗ (1841),
vào thời vua Thiệu Trị, lúc mới 25 tuổi, ông Xưởng đã làm đến chức Ngự sử ở
Tôn Nhân phủ - một cơ quan chuyên việc quản lý các hoạt động của thân tộc
nhà vua. Điều đó cho thấy triều đình vua Thiệu Trị khá tín nhiệm viên quan trẻ
có năng lực này. Sách Đại Nam thực lục ghi lại: vào tháng 2 năm 1841, triều
đình đã giao cho ông Xưởng vào Nam lĩnh chức Ngự sử đạo Định Tường - Biên
Hòa. Ở đây, ông được giao xem xét về việc viên tri phủ Ba Xuyên có âm mưu
tiếp tay với dân gốc Miên cùng dân gốc Hoa gây rối. Theo lời tâu của ông
Xưởng, triều đình đã bãi chức viên quan này và đày y làm lính ở An Giang.
Trước đó, cũng trong tháng 2 năm ấy, căn cứ vào lời đàn hặc của ông Xưởng về
việc tiến cử không đúng phép, nhà vua đã quở trách các quan đứng đầu bộ Hình
về việc “trái lời và khinh nhờn”, đồng thời thưởng cho ông Xưởng một tấm lụa.
Sau đó, ông Xưởng được giao nhiều việc có liên quan đến việc trị an ở nhiều
vùng thuộc Lục tỉnh Nam kỳ. Đến tháng 7 năm 1841, được gọi về Huế nhận
chức Chưởng ấn Cấp sự trung ở bộ Lễ.
Vinh dự nhất đối với ông Xưởng là việc được tháp tùng Thiệu Trị trong
chuyến tuần du ra Bắc vào mùa xuân năm 1842. Trong chuyến “hỗ giá” này,
cùng với việc đàn hặc việc làm sai của một số viên quan trên đất Bắc, ông
Xưởng đã được tham gia một công việc đặc biệt: đó là giúp cho ông Vũ Xuân
Cẩn - Thượng thư bộ Hình xử lý 4.000 lá đơn khiếu kiện tồn đọng từ nhiều năm
trước của dân chúng từ Quảng Bình đến Cao Bằng vừa bị nhà vua phát hiện.
Sách Đại Nam thực lục đã ghi nhận ông Xưởng đã từng dâng tấu sớ can gián và
tham mưu nhiều việc với vua Thiệu Trị, nhưng không phải việc gì nhà vua cũng
nghe; thậm chí còn bị quở trách khi dám dâng sớ bàn về việc quân sự - dù trong
thời gian làm Ngự sử ở Nam kỳ, ông Xưởng từng đóng góp những ý kiến xác
đáng cho các vị tổng đốc địa phương về việc quân. Nguyên văn lời vua Thiệu
Trị như sau: “Xưởng là một thư sinh nhỏ mọn, công việc binh cơ đã thành thuộc
gì mà dám dâng tấu tập. Một mình xin phái thêm quân thì để các đại thần, kinh
lược, tướng quân, tham tán vào chỗ nào? Truyền chỉ cho biết từ nay về sau
không được nói năng khinh suất như thế, sẽ bị lỗi không nhỏ!” (Đại Nam thực
lục).
Bài văn tƣởng nhớ mẹ hiền
Tại quê ông Phan Văn Xưởng hiện còn lưu một tấm bia đá lớn trên đó
khắc bài văn “tưởng nhớ mẹ hiền” do chính ông cử nhân trẻ nói trên chấp bút và
được “đồng duyệt” bởi hai ông quan cùng thời với tác giả: đó là các ông
Nguyễn Chương Phủ, lúc ấy đang giữ chức Đề hình Án sát sứ tỉnh Quảng Nam
và ông Nguyễn Tường Phổ (1807 - 1856) - một tiến sĩ nổi tiếng hay chữ người
vùng Hội An, Quảng Nam. Việc nhờ người có khoa bảng, “hay chữ” cùng đọc
và duyệt đó là một truyền thống trong việc sáng tác Nho học xưa - đó là một sự
bảo chứng cho tài văn chương cũng như sự chính xác trong nội dung bài văn
của ông Xưởng.
Bài văn ấy được viết trong hoàn cảnh sau: Tháng 3 năm 1842, trong khi
đang theo vua Thiệu Trị kinh lý trên đất Bắc, được tin thân mẫu tạ thế ở quê
nhà, ông Xưởng xin phép nghỉ “đinh gian” (theo lệ của triều đình, cha mẹ ruột
mất, con đang làm quan được cho phép nghỉ có thời hạn để lo việc tang). Sau
khi an táng mẫu thân, ông Xưởng viết bài văn tưởng niệm thân mẫu. Việc khắc
và dựng trên mộ mẹ ông Xưởng hẳn tiến hành vào thời điểm này. Đây là một
văn bản rất giá trị đối với các nhà nghiên cứu văn hóa địa phương đời sau; bởi
trong đó đã ghi lại được nhiều nét sinh hoạt đặc trưng của một gia đình quan lại
người Quảng Nam thời xưa - mà trong đó, chuyện mẹ dạy con làm quan là đáng
được nhắc lại. Trong bài văn khóc mẹ, ông Phan văn Xưởng đã nhắc đến tích
“Phong trả” đời xưa (Phong: niêm phong, khằn kín lại; Trả: hũ cá muối mà
người phương Bắc thường dùng để dành ăn trong mùa lạnh) đại ý như sau: “Bà
mẹ khuyên người con đang làm quan phải phong kín hũ cá muối trở lại (hũ cá
ấy được tặng cho người con làm quan với ý hối lộ và người con đã lỡ mở ra) và
bà mẹ bảo con sai lính đem trả ngay cho người tặng”. Điển tích này thường
dùng để chỉ việc các bà mẹ khuyên con giữ gìn sự thanh liêm khi làm quan.
Cũng trong bài văn nói trên, ông Xưởng cho biết mẹ ông là bà Hoàng Thị đã
thường xuyên cho ông thêm tiền để mong cho ông sống đầy đủ; để khỏi phải
dính vào chuyện tham tang (nhận của đút lót).
Hành trạng cuối đời
Đoạn cuối đời làm việc của ông Phan Văn Xưởng có nhiều sử liệu, tư liệu
ghi khác nhau, cần được nghiên cứu để làm sáng tỏ.
Theo sách Đại Nam thực lục, 8 tháng sau khi hết tang mẹ, trở lại kinh đô, được
giao chức Án sát tỉnh Biên Hòa (tháng 9 năm 1843), ông Xưởng lại bị dính vào
một vụ án, bị kết tội, bị bãi chức rồi bị sung làm lính. Chi tiết nói trên cũng
được sách Quốc triều hương khoa lục ghi rõ.
Trên bia mộ ông Phan Văn Xưởng được dựng khi cải táng ngày
10.4.2002 ở làng Khánh Thọ, Tam Thái, Phú Ninh thì gia tộc ghi là: ông Xưởng
đã từng giữ chức Án sát tỉnh Quảng Nam và từng tham gia chống Pháp tại Đà
Nẵng vào năm 1858 và tạ thế vào năm 1882. Ở vùng Tam Kỳ, hiện còn một tấm
bia gỗ lập năm Minh Mạng thứ 21 (1840) của Văn hội Nho học huyện Hà Đông,
phủ Thăng Bình có khắc dòng chữ “Ngự sử Phan Văn Xưởng”; tấm bia này
đang treo trang trọng ở Văn thánh Khổng miếu Tam Kỳ.
Gần đây, tiến sĩ Ngô Văn Minh ở Đà Nẵng, trên một bài báo cũng nhắc
đến chi tiết ông Phan Văn Xưởng tham gia đội quân do Đốc học Nam Định là
Phạm Văn Nghị tổ chức - từ Bắc và Huế xin tham gia chống Pháp.
PHÚ BÌNH
PHÚ BÌNH.Chuyện ông Phan Văn Xƣởng/Phú Bình//Quảng Nam cuối
tuần.-2018.-Ngày 22-23 tháng 9.-Tr.2.
Cuốn địa bạ hơn 200 năm tuổi Ở làng Tứ chánh An Hà xƣa - nay thuộc khối phố An Hà Trung, phƣờng
An Phú, thành phố Tam Kỳ - một trong những ngôi làng cổ nhất của vùng
Nam Quảng Nam, có một gia đình còn giữ đƣợc tập tƣ liệu quý: đó là cuốn
sổ bộ ruộng đất của làng này đƣợc lập và đƣợc triều Nguyễn công nhận
cách nay hơn 200 năm.
Trang đầu cuốn địa bạ làng Tứ chánh An Hà.
Cuốn địa bạ viết trên 80 trang hai mặt chữ Nho này là sổ bộ ruộng đất
chính thức của làng Tứ chánh An Hà được hoàn thành vào năm Gia Long thứ
13 (1814) và được lưu vào kho lưu trữ địa bạ cả nước tại triều đình Huế, về sau
một số bản chính (gọi là bản Giáp) còn được tìm thấy tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia tại TP. Hồ Chí Minh.
Các bản chính địa bạ cả nước nói trên đã được một nhóm nghiên cứu -
chủ trì là nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu - tra cứu, dịch, chú thích, hệ thống
trong khoảng từ năm 1978 và giới thiệu cùng xuất bản các bản “Nghiên cứu Địa
bạ triều Nguyễn” từng phần trong thập niên từ 2000-2010.
Phần nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn phạm vi tỉnh Quảng Nam - được
xuất bản thành hai tập dưới tên “Dinh Quảng Nam I” và “Dinh Quảng Nam II”
do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh xuất bản tháng 11 năm
2010, nhà nghiên cứu nói trên đã giới thiệu:
Xã (xưa còn gọi là làng) Tứ chánh An Hà được phân tháp vào địa giới tổng
Hưng Thịnh hạ, huyện Lễ Dương, phủ Thăng Hoa, tỉnh Quảng Nam thời đầu
triều Nguyễn.
Xã/làng này có tổng diện tích là 135 mẫu, 2 sào, 7 thước, 8 tấc với tứ cận
như sau: “Đông giáp xã Quảng Phú (tổng Hưng Thịnh hạ huyện Lễ Dương), xã
Ngọc Sơn (thuộc Liêm hộ, huyện Hà Đông) lấy bờ gò làm giới. Tây giáp xã An
Thái (tổng An Thái trung, huyện Lễ Dương) lấy thủy đạo làm giới. Nam giáp xã
Quảng Phú, xã An Thái lấy bờ ruộng làm giới. Bắc giáp xã An Thái lấy bờ
ruộng làm giới” (sđd trang 283).
Các chi tiết trên hoàn toàn có thể tìm thấy trong phó bản (gọi là bản Bính)
lưu trên 200 năm (1814-2018) ở làng Tứ chánh An Hà. Điều hay là qua các thời
kỳ chiến tranh từ 1947-1954 rồi 1960-1975, cuốn sổ này vẫn được bảo quản
nguyên vẹn.
Mãi đến khi cụ Ngô Duy Trí (1925-2015), gốc người làng này, tập kết ra
Bắc năm 1955, hồi hương sau ngày thống nhất năm 1975, bắt tay vào việc
nghiên cứu gia phả các tộc họ trong làng thì bản địa bạ lâu đời này mới được
tìm thấy. Sau khi cụ Trí qua đời, con trai cụ là thầy giáo hưu trí Ngô Tấn Dũng
tiếp tục bảo quản địa bạ tại ngôi nhà thờ thân phụ của mình.
Do không phải là người nghiên cứu chuyên nghiệp trên lĩnh vực ruộng
đất - nhất là trong bối cảnh phong trào hợp tác hóa nông nghiệp từ sau năm
1975 đến khoảng năm 1990 - cụ Ngô Duy Trí không để tâm nghiên cứu cuốn
địa bạ này.
Mãi đến năm 2013, khi chúng tôi (NV) tìm đến thì cụ chỉ mới vừa đọc
xong và hệ thống tên cùng diện tích tổng quát của từng xứ đất được kê trong
cuốn địa bạ nói trên chứ chưa đối chiếu được với bản chính thức được lưu ở
Trung tâm Lưu trữ quốc gia TP. Hồ Chí Minh (sau được biết là đã chuyển về
lưu trữ ở Hà Nội).
Sau khi cụ Trí qua đời, chúng tôi được người bảo quản cho phép tiếp cận
cuốn sổ bộ ruộng đất nói trên để tiếp tục tìm hiểu - trên cơ sở một số điểm cụ
Trí đã ghi chú từ trước. Có thể tóm tắt diện mạo bản Bính - địa bạ làng Tứ
chánh An Hà như sau:
Cuốn địa bạ này được ký duyệt vào ngày 27 tháng 2 âm lịch niên hiệu
Gia Long thứ 13 (1814) gồm 80 tờ viết hai mặt giấy. Cuối cuốn địa bạ có ba văn
bản của hào lý các xã Quảng Phú ký ngày 15-9-1812, xã Ngọc Sơn ký ngày 12-
1-1812 và xã An Thái ký ngày 16-10-2012 xác nhận giới hạn tiếp giáp địa lý
giữa ba làng này với làng Tứ chánh An Hà. Đó là cơ sở pháp lý - còn gọi là xác
nhận tứ cận - rất quan trọng mà bất cứ giấy tờ ruộng đất nào, tư cũng như công,
cần phải có.
Tất cả 80 trang địa bạ và ba văn bản đính kèm trên đều được đóng dấu
kiềm giáp lai của một ty phụ trách việc lập bộ. Dấu kiềm này có bốn chữ triện
“Lệnh ty chi kiềm”. Đây là con dấu của Ty Lệnh sử thuộc Bộ Hộ thời vua Gia
Long.
Trên trang gần cuối của bản địa bạ này có ghi mấy chữ “Phó chấp bằng”
tức là bản phó được giao về địa phương lưu giữ. Bản này cũng được đóng ấn
của Bộ Hộ; trong ấn có ghi năm chữ “Hộ Bộ đường chi ấn” (ấn triện của Bộ
Hộ). Bộ này là cơ quan chuyên trách cao nhất của triều đình lo về nhân khẩu,
ruộng đất, thuế khóa, kho tàng, định giá lương thực và điều hòa nguồn của cải
nhà nước….
Qua kết cấu hình thức văn bản địa bạ được trình bày trên, những người
muốn tìm hiểu – khi chưa có điều kiện tiếp cận ở cơ quan lưu trữ trung ương -
có thể biết được diện mạo một cuốn sổ bộ ruộng đất xưa được thực hiện kỹ như
thế nào.
Cũng qua nội dung cuốn địa bạ nói trên, có thể biết xã Tứ chánh An Hà
xưa có 6 xứ đất là: Xuân Đăng, Thao Lao, Cây Chay, Đồng Lanh, Đông Núi
Trọc và Cọp Voi. Mỗi xứ đất đều ghi cụ thể diện tích ruộng đất các hạng và tên
các chủ ruộng - bao gồm người trong làng (xưa còn được gọi là “chính canh”
hoặc “phân canh”) và ngoài làng (xưa còn được gọi là “phụ canh”).
Có thể kê tên các làng, thôn, phường có dân sở hữu ruộng ở An Hà như
sau: Tú Tràng, Chiên Đàn, Phú Quý hạ, Quảng Phú, Vĩnh Phước, An Mỹ tây,
Thạnh Mỹ, Vĩnh An, Phước Lâm, Đức Phú, Hòa Mỹ tây, Tỉnh Thủy, Ngọc Sơn,
An Thái, Tây An, Yên Đàn, Phước An, Mỹ Cang, Tam Kỳ (nay là các xã/thôn ở
vùng Phú Ninh, Tam Kỳ, Núi Thành).
Đặc biệt có dân ở địa phương khá xa như Tuân Dưỡng, Vân Đóa (nay là
vùng Thăng Bình) cũng có ruộng được ghi trong địa bạ này. Không có dân
chính và dân phụ canh nào sở hữu nhiều ruộngđất - có nghĩa là không có tình
hình ruộng đất tập trung nhiều vào tay một số người trong hoặc ngoài làng.
Từ đó, có thể biết được - trên cơ sở tra cứu thêm tập “Nghiên cứu địa bạ
dinh Quảng Nam I và II” - tình hình phân bổ ruộng đất vùng Tam Kỳ nói riêng
và Quảng Nam nói chung vào đầu thời Nguyễn (đầu thế kỷ XIX).
Phú Bình
PHÚ BÌNH.Cuốn địa bạ hơn 200 năm tuổi/Phú Bình//Đà Nẵng cuối tuần.-
2018.-Ngày 30 tháng 9.-Tr.7.
Lại về với gốm Thanh Hà
Ở ngôi làng nhỏ xinh xắn này, đâu đâu cũng thấy gốm. Gốm nhƣ ngƣời
bạn đƣợc truyền nối qua bao thế hệ nghệ nhân Thanh Hà (TP.Hội An).
Khách du lịch bị thu hút bởi kỹ thuật làm gốm thủ công Thanh Hà.
Ảnh: LÊ HUY PHƢỚC
Khách Tây khoái nặn gốm
Hàng ngày, dọc những con đường làng Thanh Hà khách du lịch luôn dập
dìu kéo đến. Du khách đến đây tham quan và tỏ ra thích thú khi được tự tay trải
nghiệm các công đoạn làm món đồ gốm thủ công. Sau một vòng tham quan,
chụp ảnh, cầm nắm những con tò he xinh xinh, hai cô gái trẻ người Anh kéo vào
cơ sở gốm của nghệ nhân Lê Quốc Tuấn ở giữa làng để trải nghiệm các công
đoạn làm gốm. Cả hai không giấu được vẻ háo hức và thích thú khi nghe hướng
dẫn qua một lượt. Trên chiếc bàn xoay, cục đất sét nhão qua tay Natalia dần tròn
lại, vuốt cao như chiếc cốc. Chị Sáu, vợ nghệ nhân Lê Quốc Tuấn, đưa dấu tay
cho Natalia ấn ngón trỏ vào giữa khối đất và loe rộng ra. Cái ly dần biến hình
thành cái bát cơm. Hai vị khách cười ồ lên thích thú. Họ say sưa bên chiếc bàn
quay, không ngại ngần đôi tay lấm lem bùn đất. “Đến với nơi này tôi có những
cảm xúc vô cùng đặc biệt. Tôi được trải nghiệm cách làm gốm và tận mắt thấy
quy trình sản xuất thủ công ở làng gốm này, thật là thú vị. Như tôi thấy thì ngôi
làng này thật là thanh bình và tươi đẹp” – Natalia chia sẻ.
Loay hoay với mẻ gốm mới bên chiếc lò nung, nghệ nhân Lê Quốc Tuấn
cho biết, để một sản phẩm gốm ra đời phải trải qua hàng chục công đoạn. Từ
làm đất, tạo dáng, trang trí, phơi khô đến lò nung đều cần sự tỉ mẩn và tốn nhiều
thời gian. Thứ đất sét tốt phải được lấy từ vùng hạ lưu sông Thu Bồn. Khi nung
xong gốm không bị thô, nứt nẻ. Việc nung gốm cũng phải từ tốn, không được
vội lửa để gốm chín đều, lên màu đỏ đẹp và có độ bóng bề mặt. “Ngày xưa ông
bà ta chỉ làm lu, lọ, những vật gia dụng thôi. Còn bây giờ, chúng tôi là thế hệ trẻ
phải cách chuyển hướng qua làm gốm mỹ nghệ, phục vụ du lịch để tồn tại và
phát triển” – nghệ nhân Lê Quốc Tuấn cho biết.
Mở rộng làng gốm
Gốm Thanh Hà từng trải mấy trăm năm hoàng kim nhưng cũng từng thất
thế trước sự phát triển của các vật liệu hiện đại. Tưởng chừng gốm Thanh Hà đã
trở thành quá vãng nhưng với sự chuyển hướng nhanh nhạy sang phục vụ du
lịch, một lần nữa những bếp lò Thanh Hà lại cháy lên. Ông Nguyễn Hào - Phó
ban quản lý Làng gốm Thanh Hà cho biết, điều may mắn là làng gốm nằm
chung trong quần thể phố cổ Hội An. Do đó, TP.Hội An sớm có quyết định đưa
làng gốm thành một trong các tuyến tham quan du lịch.
Phát triển theo xu hướng mới, định hướng sản phẩm gốm cũng thay đổi.
“Xuất phát từ nhu cầu phát triển du lịch kết hợp thương mại sản xuất theo
hướng hàng hóa, làng gốm đi theo 3 dòng sản phẩm chính, trong đó dòng gốm
truyền thống vẫn giữ nguyên chất liệu và quy trình sản xuất. Ngoài ra, chúng tôi
mở thêm hướng làm gốm lưu niệm phục vụ cho du khách đến tham quan làng
nghề và một dòng gốm mới là gốm thủ công mỹ nghệ phục vụ cho các nhà hàng
khách sạn, các cơ sở trang trí nội thất. Qua chuyển đổi, hiện nay làng nghề đã có
bước đi cơ bản đúng hướng” – ông Hào chia sẻ. Hiện làng gốm có 33 cơ sở với
hơn 80 lao động. Lượng khách du lịch đến tham quan ngày càng đông, riêng 7
tháng đầu năm nay có hơn 350.000 lượt khách. Tổng doanh thu từ du lịch xấp xỉ
hơn 10 tỷ đồng. Người dân Thanh Hà đã có thể sống dựa vào du lịch.
Ông Nguyễn Hào cho biết UBND phường Thanh Hà có tờ trình UBND
TP.Hội An xin phép mở rộng thêm quy mô hoạt động của làng gốm và đã được
đồng ý. Theo đó, làng gốm có lợi thế nằm bên dòng sông Thu Bồn, phía đối
diện có những cánh đồng nông dân đang sản xuất. Khu du lịch làng gốm sẽ tiếp
tục mở rộng khớp nối với khu du lịch sinh thái cộng đồng ở khu vực này. Đây
sẽ là một đột phá để làng gốm giữ du khách lâu hơn.
TRẦN THẮNG
TRẦN THẮNG.Lại về với gốm Thanh Hà/Trần Thắng//Quảng Nam cuối
tuần.-2018.-Ngày 29-30 tháng 9.-Tr.13.
Lão nghệ nhân Bh'ling Argƣnl
Năm nay đã bƣớc sang ngƣỡng 62 tuổi nhƣng ông Bh‟ling Argƣnl (ngƣời
dân tộc Cơ Tu, ở thôn Tà Vàng, xã A Tiêng, huyện Tây Giang) vẫn còn
nhiệt huyết lắm. Những nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình ông đều
sành sỏi, biết sử dụng để biểu diễn, chịu khó tìm tòi, chế tác và truyền lại
cho lớp trẻ.
Ông Argƣnl chế tác cây đàn tâm bét alui.
Giữ hồn âm nhạc truyền thống
Ông Bh’ling Argưnl cũng không còn nhớ rõ đã học và biết chơi các loại
nhạc cụ của người Cơ Tu từ khi nào. Chỉ nhớ rằng, từ nhỏ ông đã làm quen với
các loại nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình. Từ những buổi cùng cha ra suối
bắt cá, hay những lần đi rẫy, cha ông luôn mang theo chiếc đàn tâm bét alui và
cây sáo ahen bên cạnh. Và Argưnl được thưởng thức những thanh âm trong trẻo
phát ra từ những nhạc cụ mà cha mình chơi rồi đem lòng yêu mến nó. Và cứ
thế, mỗi khi ngồi nghe người lớn đánh chiêng, đàn, thổi sáo thì ông cũng xin
vào đánh theo, đánh nhiều thành quen, được các già trong làng chỉ bảo thêm, thế
rồi rành rẽ.
Ở cái tuổi đã không còn trẻ nữa, nhưng ông vẫn dành hết tâm can của
mình cho nhạc cụ truyền thống. Theo ông, mỗi ngày nếu không đem nhạc cụ ra
chơi, ngày đó thấy trống vắng, và nhớ nó lắm. Chỉ hôm nào bận đi rừng hoặc
đau ốm mới đem chúng treo góc nhà. Ông Argưnl có thể chơi thành thạo các
loại nhạc cụ như: đàn tâm bét alui, đàn abel, sáo ahen, đàn gơrưna (hay còn gọi
là nhạc cụ đuổi chim), khèn bơ rét, sáo a lướt… Ông bảo: “Mỗi một loại nhạc
cụ đều phát ra những âm thanh kỳ diệu, rất lạ, độc đáo. Nó cũng hội đủ vui,
buồn, thương, ghét, giận, hờn và nó như tiếng lòng của người Cơ Tu. Bởi vậy,
nếu ai hiểu về nó thì khi nghe người ta đánh có thể biết tâm trạng thế nào”. Nói
rồi, ông Argưnl cầm con dao bắt đầu chế tác một cây đàn tâm bét alui cho khách
xem. Đàn được làm từ quả bầu khô khoét rỗng ruột, một ống lồ ô dài hơn sải tay
và dùng dây rừng làm dây đàn…
Theo ông Argưnl, cây đàn tâm bét alui có cấu tạo đơn giản. Thân đàn là
loại cây nứa, khi chọn phải là cây thẳng đem về để cho khô đều rồi gác lên giàn
bếp để lấy khói thêm màu vàng giúp khỏi mối mọt. Hộp đàn phải chọn những
quả bầu tròn, già, vỏ mỏng, không to quá cũng không nhỏ quá. Miệng bầu phải
rộng mới phát ra âm thanh vang. Đối với cây đàn tâm bét alui, quan trọng nhất
là hộp đàn. Tuy nhiên, ấn tượng nhất đối với chúng tôi đó là kỹ thuật tạo tiếng
âm, bởi đó là một trong những yếu tố quyết định tạo nên âm thanh chuẩn của
cây đàn tâm bét alui.
Truyền “lửa” cho đời sau
Ông Bh’ling Argưnl còn được biết đến là người gìn giữ và hát lý hay nhất
vùng A Tiêng. Ông cũng thuộc lòng hàng chục câu chuyện cổ tích, mỗi tối vẫn
hay kể cho lớp trẻ trong làng Tà Vàng nghe.
Ông Argƣnl truyền dạy nhạc cụ truyền thống cho lớp trẻ Cơ Tu.
Nhưng ông Bh’ling Argưnl cũng nặng lòng lo lắng, bởi lớp trẻ bây giờ
không mấy người chịu học lấy cái vốn âm nhạc mà ông trao truyền. “Nếu cứ thế
này thì mai kia lớp người già Cơ Tu về với tổ tiên, các loại nhạc cụ truyền thống
sẽ trôi vào quên lãng. Mong ước lớn nhất của tôi là được truyền dạy cho con
cháu như chính cha tôi và những bậc cao niên trong làng đã từng truyền dạy.
Bởi những làn điệu dân ca, đến những giai điệu của nhạc cụ, là cả cái hồn của
người Cơ Tu” – ông Argưnl tâm sự.
Vậy là ông Bh’ling Argưnl đứng ra vận động các cháu đến gươl để bày
cho chúng cách đánh cồng chiêng, múa tâng tung da dá, cách đánh đàn, thổi
sáo. Nhiều em nhỏ trong làng Tà Vàng từ khoảng 9 - 14 tuổi đã trở thành những
người đánh cồng chiêng, đàn hay như: Bh’ling Akich, Bh’ling Hiền, Alăng
Nhân… Dưới sự dìu dắt của ông Argưnl và một vài người lớn tuổi khác, làng
Tà Vàng đã có một đội cồng chiêng nhí.
Sự ghi nhận lớn nhất là niềm tin của dân làng, của địa phương, và của
huyện Tây Giang dành cho ông Argưnl. Mỗi khi có phong trào văn nghệ ở xã,
hay sự kiện văn hóa ở huyện, tỉnh… ông Argưnl luôn là hạt nhân đại diện được
lựa chọn tham gia. Ở đó, có một Argưnl đã dành cả cuộc đời cho việc tìm tòi,
chế tác các loại nhạc và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của
người Cơ Tu.
SƠN GIA PHÚC
SƠN GIA PHÚC.Lão nghệ nhân Bh'ling Argƣnl/Sơn Gia Phúc// Quảng Nam
cuối tuần.-2018.-Ngày 29-30 tháng 9.-Tr.8.
Những cổ vật Chăm độc đáo ở làng Hạ Nông
Ở thôn Hạ Nông Trung thuộc xã Điện Phƣớc, thị xã Điện Bàn, tại di
tích Miếu Bà (trong khuôn viên chùa Hồng Phúc) còn lƣu giữ một số tác
phẩm nghệ thuật Chăm, trong đó có hai bức phù điêu độc đáo.
Phù điêu Shiva-Gauri và phù điêu Vishnou- Garudasama ở di tích
Miếu Bà.
Từ Hà Khúc đến Hạ Nông
Làng Hạ Nông (Hạ: mùa hạ, Nông: nghề nông, người làm ruộng) nay
gồm các thôn Hạ Nông Đông, Hạ Nông Trung và Hạ Nông Tây của xã Điện
Phước, thị xã Điện Bàn. Đây là một trong những làng cổ của Quảng Nam.
Trong tác phẩm Công cuộc khai khẩn và phát triển làng xã ở bắc Quảng Nam từ
giữa thế kỷ 15 đến giữa thế kỷ 18, TS.Huỳnh Công Bá cho rằng “Khá nhiều tộc
họ ở các làng đã đến khai phá vùng bắc Quảng Nam vào cuối thế kỷ 15… cũng
như 24 vị thuộc các họ Phan, Hà, Trần, Dương, Thân, Nguyễn, Huỳnh, Tào,
Ngô, Đỗ, Đoàn, Đinh, Trịnh, Mai, Đề, Hồ, Mạc, Tống, Lê đến khai phá vùng
trung tâm Điện Bàn…”. Dù không khẳng định trực tiếp nhưng qua đoạn trên tác
giả đã cho biết Hạ Nông được 24 tộc họ thuộc lớp lưu dân “Bắc địa tùng
vương” đến khai phá và lập làng vào cuối thế kỷ thứ 15 sau cuộc nam chinh của
vua Lê Thánh Tông năm 1471.
Tài liệu cổ đề cập tên làng sớm nhất là Ô châu cận lục của Dương Văn
An viết năm 1555 với tên gọi là làng Hà Khúc, một trong 66 làng của huyện
Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa và được tóm tắt bằng một câu
đầy hình tượng “sông Hà Khúc chảy ra khuất khúc, đường Lại Bằng đi lại thẳng
băng”.
Dưới thời các chúa Nguyễn (1558 - 1776) trong Phủ biên tạp lục, Hà
Khúc là một trong 24 xã của tổng Hà Khúc thuộc huyện Hòa Vang, phủ Điện
Bàn. Sang thời nhà Nguyễn, dựa theo Địa bạ Quảng Nam soạn năm 1814, Hà
Khúc được đổi tên thành Hạ Nông thuộc tổng Hạ Nông Trung, huyện Diên
Khánh (sau đổi thành Diên Phước vào năm 1822, dưới thời Minh Mạng), phủ
Điện Bàn. Sang cuối thời nhà Nguyễn, năm 1919, năm Khải Định thứ 3, theo
Tạp chí BAVH (Bulletin des Amis du Vieux Hué - Tập san của Hội Đô thành
hiếu cổ), làng Hạ Nông thuộc tổng Hạ Nông của phủ Điện Bàn.
Sau Cách mạng Tháng Tám, vào năm 1946, làng Hạ Nông thuộc xã Quý
Cáp (tên danh nhân Trần Quý Cáp - lúc này Điện Bàn có 5/36 xã mang tên danh
nhân). Lần hợp xã năm 1948, làng thuộc xã Điện Phước (Điện Bàn từ 36 xã hợp
lại thành 10 xã và bắt đầu bằng chữ Điện). Sau năm 1954, dưới thời Việt Nam
Cộng hòa, Hạ Nông thuộc xã Kỳ Ngọc, quận Điện Bàn. Sau 1975, Hạ Nông trở
lại thuộc xã Điện Phước như giai đoạn 1948 - 1954 và cho mãi đến nay.
Di tích Chăm độc đáo
Trên cánh đồng ở làng Hạ Nông nay thuộc địa phận thôn Hạ Nông Trung,
có khu đất rộng độ 1500m2 địa thế khá cao so với chung quanh, vốn là một khu
di tích Chăm đã đổ nát chỉ còn lại một số gạch ngói và tượng Chăm. Dân làng
đã xây một ngôi miếu rồi gom các tượng còn lại để thờ. Trong ngôi miếu có một
bức phù điêu với hình một phụ nữ nên dân làng gọi là tượng Bà. Miếu thờ tượng
Bà nên gọi là Miếu Bà. Sau này Miếu Bà bị tàn phá, người ta xây lên đó một
ngôi chùa mang tên Hồng Phúc. Gần đây, trong khuôn viên ngôi chùa, một
miếu nhỏ được phục dựng để thờ mấy pho tượng Chăm còn lại. Năm 2001 các
nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh, Nguyễn Chiều đã đến đây và phát hiện tại đây
có hai bức phù điêu độc đáo. Đó là phù điêu Shiva - Gauri và phù điêu Vishnu -
Garudasama.
Bức phù điêu Shiva - Gauri còn khá nguyên vẹn, đặt cao nhất giữa miếu,
được tạc thẳng vào một phiến đá và có kích thước khá lớn, rộng 1,27m cao
1,45m dày 0,3m. Bức phù điêu gồm 2 phần, phần bệ là phần phụ nhỏ hơn chỉ
cao 0,35m có khắc hình 6 người chia làm 2 nhóm 2 bên, ở giữa là 3 tháp hình
trụ. Sáu người ở tư thế quỳ chắp tay cầu nguyện hướng vào 3 tháp hình trụ ở
giữa. Phần chính ở trên khắc hình thần Shiva cùng vợ (Gauri) ngồi trên bò thần
Nandin.
Theo nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh trong sách Nghệ thuật Chămpa -
Câu chuyện của những pho tượng cổ (Nxb Mỹ thuật, 2016) thì đây là bức phù
điêu vô cùng độc đáo vì “khó có thể tìm được trong điêu khắc cổ Chămpa hình
một con bò nào được thể hiện vừa thực, vừa tự nhiên và sống động như trong
tác phẩm điêu khắc ở Miếu Bà” (trang 237) và “lần đầu tiên trong nghệ thuật cổ
Chămpa thần Shiva và vợ thần được thể hiện cùng ngồi trên lưng con bò thần
Nandin nằm” (trang 240). Cũng theo nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh: “Cùng
với bia ký ở Tháp Bà Nha Trang, tác phẩm điêu khắc Miếu Bà góp thêm một tư
liệu quý về việc thờ phụng hình tượng kết hợp Shiva - Gauri trong đời sống tôn
giáo của vương quốc Chămpa xưa” (trang 241). Hơn thế nữa “cách thể hiện
Shiva - Gauri của Miếu Bà gần với những truyền thống nghệ thuật cổ Ấn Độ
hơn là với các nền nghệ thuật cổ của Đông Nam Á” (trang 241)…
Về bức phù điêu Vishnu - Garudasama lại có cái độc đáo khác. Bức này
được đặt bên trái của miếu, bị bể mất phần ở trên và có kích thước nhỏ hơn,
rộng 0,8m và bề cao chỉ còn lại 0,65m. Phần còn lại của bức này có đầy đủ hình
chim thần Garuda nhưng thông qua một số dấu tích trên hình chim thần (2 tay
và 2 chân) có thể đoán ra phần bị mất ở trên là hình khắc thần Vishnu. Kết hợp
2 phần là tượng thần Vishnu đang cưỡi chim thần Garuda, một kiểu nghệ thuật
truyền thống của Chămpa cổ, một trong 2 truyền thống của khu vực Đông Nam
Á (truyền thống kia là của Hindu giáo trên đảo Java thuộc Indonesia).
Vishnu là một trong 3 vị thần tối thượng của Hindu giáo, chỉ sau thần Brahma
(thần sáng tạo), đứng trên thần Shiva. Vishnu luôn là vị thần nhân bản nhất, bất
kỳ ở nơi nào mà những thế lực độc ác bắt đầu thống trị thì Vishnu xuất hiện để
cứu con người. Còn chim thần Garuda là hình ảnh mặt trời biểu hiện cho cái
tinh thần bao trùm lên tất cả mọi vật do tạo hóa sinh ra.
Phù điêu Vishnu - Garudasama rất đặc biệt vì đây là bức độc nhất được
phát hiện còn lại của nước ta, nó thể hiện sự tiếp nối có kế thừa của truyền
thống nghệ thuật Vishnu - Garudasama của Chămpa cổ. Nói là độc nhất còn lại
vì có hai bức khác cũng đã được phát hiện, một ở Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng (có
niên đại thế kỷ thứ 8, theo phong cách cổ Mỹ Sơn E1) và một ở Quy Nhơn (có
niên đại cuối thế kỷ thứ 9, theo phong cách Khương Mỹ). Nhưng cả hai bức này
hiện nay được lưu giữ và trưng bày tại Viện Bảo tàng châu Á Guimet ở Paris
(Pháp). Cả 3 bức phù điêu cho thấy tuy ít ỏi nhưng cả ba đã “kết thành một
truyền thống khá liên tục và lâu dài của loại hình điêu khắc Vishnu -
Garudasama của Chămpa” - theo nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh.
Bức phù điêu Vishnu – Garudasama Miếu Bà tuy ra đời sau nhưng được
các nhà nghiên cứu đánh giá: “là tác phẩm điêu khắc thể hiện Garuda trong tư
thế chuyển động thành công nhất và đẹp nhất không chỉ của nghệ thuật Chămpa
mà còn của cả nền nghệ thuật Hindu trong khu vực Đông Nam Á”.
LÊ THÍ
LÊ THÍ.Những cổ vật Chăm độc đáo ở làng Hạ Nông/Lê Thí//Quảng Nam
cuối tuần.-2018.-Ngày 29-30 tháng 9.-Tr.6.
Ở Cấm Dơi...
Tôi theo ông Nguyễn Sơn Quang, Bí thư chi bộ thôn Thuận An lên Đài
Chiến thắng Quế Sơn. Ông bận lắm, xong việc là ù chạy xem người ta khoan lỗ
dựng cờ cho lễ 2.9 ra sao. Với tôi, những người sát sườn cơ sở như ông, là miệt
mài một đời dân nắng cháy, chỉ khác là ông làm công hai việc, cầu nối chính
quyền và dân, với trăm thứ bà rằn phủ lên. Nên khi hỏi chuyện Cấm Dơi, địa
danh khốc liệt một thời, ông nghiêng đầu nói ngay: “Đó là cái cấm ngày xưa
đầy dơi, nay là ấp Tân An nằm trong thôn Thuận An, nói thì phải nói hết
thôn…”.
Chuyện chiến thắng Cấm Dơi vào sáng ngày 18.8.1972, sử sách ghi đủ,
với kết luận từ phía đối phương, là bộ đội Việt Cộng đánh được Cấm Dơi, thì có
nghĩa phòng ngự nào cũng sẽ bị đè bẹp, bởi được phòng thủ cực kỳ kiên cố. Đã
quá nhiều lời bàn từ kỹ thuật tiềm nhập và tấn công, phương án nghi binh, quyết
định đột phá lẫn tài dụng binh của người chỉ huy trực tiếp lúc đó là tướng
Nguyễn Chơn, góp phần làm nên chiến thắng. Địa hình đá núi, những đồi bát
úp, ở trên đó nhìn xuống, tất cả phơi lưng… Những câu chữ ghi dấu sự kiện
loáng qua. Đứng trên đồi ngó xuống sau lưng, những ngôi nhà ẩn hiện sau tán
cây xanh um. “Đó là ấp Tân An, sau những năm 80, bà con mới về ở, chứ hồi
trước 1975, nó bị cày trắng”.
Cuộc cách mạng xóa nghèo Hơn 43 năm rồi, câu chuyện cũ còn đọng lại trong ký ức người già,
những cựu binh đã sinh tử chốn này, cả những ai thời đó kịp thấy cờ quân Giải
phóng phất cao trên đồi. Còn ông Quang, hỏi chuyện trước năm 2000, ông thở
ra, khiến anh Phúc - Phó Chủ tịch UBND xã gật đầu theo, rằng “Tôi nói anh
nghe, Thuận An lúc đó nợ nần trầm kha, nợ nhất xã, nợ nửa thôn luôn”. “Làm
chi mà nhiều dữ?”. “Sáu mươi phần trăm dân ở đây làm nông, còn lại thương
mại dịch vụ. Hồi đó, ông đội trưởng đội sản xuất thu tiền thuế của dân mà trốn
biệt, không thanh toán cho hợp tác xã; do cái chợ cũ bị dời đi, dân bán buôn
không được, lâm nợ, rồi cực quá mà nợ thuế nông nghiệp. Nợ nối nợ, tiền thì
làm không ra để trả, kiếm miếng ăn càng cơ cực. Thôi nói chi cho hết, năm
1996 tôi làm trưởng thôn, cùng mấy ông thuế vụ, đi đòi nợ. Đi miết. Dân trốn,
rồi họ chửi. Đi đốn củi ở Đèo Le về, bán được mấy đồng mua rau cá, bị truy
thuế, biểu răng họ không chửi? Buồn lắm”. Không thể kéo dài kiếp khổ, trước
giải phóng đã chạy bom đạn rồi, không lẽ hòa bình về lại chạy trốn thuế bởi cái
cực không buông tha? Chuyện đến phải đến. Năm 2004, nghị quyết về chuyển
đổi cơ cấu cây trồng từ 3 vụ lúa chuyển qua 2 vụ, rồi chăn nuôi, ra đời. “Không
phải xuôi hết đâu, bà con phản ứng, chúng tôi vừa làm vừa vận động vừa rút
kinh nghiệm, dần dà hiệu quả cũng phải đến”.
Trƣờng tiểu học Đông Phú (thôn Thuận An), vừa đƣợc đƣa vào sử
dụng, với giá trị đầu tƣ 30 tỷ đồng.Ảnh: MỘC MIÊN
Xóa đói nghèo là một cuộc cách mạng. Chuyện đó không cần bàn cãi.
Không dễ dàng chi dịch chuyển con số nghèo từ cao xuống thấp, dịch thực chất
chứ không phải… thành tích để đạt chuẩn này mức nọ. Làm riết rồi cũng dần dà
được. “Thì đó, từ 50% đói nghèo trước đó, nay gần 600 hộ của thôn Thuận An
chỉ còn 8%, hầu hết rơi vào các hộ nhận bảo trợ xã hội. Đời sống vật chất tinh
thần của bà con chừ khá nhiều lắm. Thôn này có 4 ấp, năm 2010, thôn ra mắt
thôn văn hóa, cũng là “khai sinh” thêm ấp Tân An sau lưng Đài Chiến Thắng”,
ông Quang nói nhẹ bẫng, khi mọi thứ như gánh nặng đã được trút bỏ đầu non.
Tôi hiểu thêm rằng, câu chuyện chuyển mình này, có một lợi thế nữa, là Thuận
An là thôn trung tâm của thị trấn Đông Phú, nằm ngay trung tâm huyện. Chuyện
bán buôn, làm lúa, chăn nuôi đổi đời, xem ra không lạ khi cửa ngõ giao thương
từ Hương An lên, Nông Sơn xuống. Nhưng tôi đồ rằng, sau cái danh Cấm Dơi
đi vào sử sách về chiến thuật quân sự kinh điển đánh cứ điểm, thì Thuận An
được một lần nữa xướng danh lên báo đài, được thiên hạ biết đến, là nhờ… phở
sắn! Tôi nhớ một đồng nghiệp kể một chuyện buồn đã xa, rằng trong làng đó có
một ông thường xuyên say rượu. Chiều đó, khi ông ngất ngưởng say thì một
thanh niên nói rằng, ông già mà say miết, mất nết hư thân. Ông bèn cả cười,
rằng tau say rượu không bằng ông nội mi chết vì say… sắn! Cười ra nước mắt,
bởi một thời như thế, cả sắn cũng không có mà ăn, có ăn nhiều quá thì say, bởi
trong sắn có độc tố…
Đất không phụ ngƣời Phở sắn Thuận An bây giờ có danh rồi. Ông Quang gật đầu với tôi rằng,
cái củ chống đói một thời, giờ lên ngôi thương hiệu món ngon, như lần nữa
chứng minh một điều rằng, anh cứ đi xa đi miết đi, điểm cuối cùng anh gặp
chính là làng anh, như Rasul Gamzatov từng nói. Vợ chồng ông Dương Ngọc
Xinh đón khách bèn bộ mặt… lấm lem bột sắn. Máy đánh bột nằm im, xung
quanh là mấy chục bao sắn. “Trời không nắng, không dám xay làm, vì làm răng
mà phơi…”. Trong số 12 hộ làm phở sắn ở làng này, ông Xinh đang nổi lên,
một phần là nhờ cậu con trai Dương Ngọc Ảnh vừa đạt giải nhì tại hội nghị và
triển lãm khởi nghiệp Đà Nẵng 2018, phần thưởng là chuyến tu nghiệp tại
Israel. Từng học công nghệ thông tin, làm cho Pháp, Đức, thu nhập khá cao,
mở công ty làm riêng, nhưng đùng một phát, Ảnh bỏ Sài Gòn về quê khởi
nghiệp trong sự ngỡ ngàng và… nổi điên của ông bà già lẫn nghi kỵ của hàng
xóm. Với Ảnh, làm phở sắn như ông già và bà con làm, chưa đạt. Món quà quê
này phải được nâng thành món ăn công nghiệp, phân phối cả nước và đưa thị
trường nước ngoài. Theo anh, phở sắn phải tươi mới ngon, không dùng sắn khô
hoặc bột sắn, thì phải xay, ngâm tách chua, hấp chín, kéo thành sợi, phơi khô,
đóng gói, giải trừ độc tố. “Trước đây tôi chỉ làm 1 loại, không bao bì nhãn mác
chi hết, làm đại, chở ra chợ bán, cứ một cục 5kg rứa, sau chuyển qua 1kg - ông
nói - thiệt lòng thấy cũng mất vệ sinh, chừ thì bao bì hẳn hoi, chia làm 4 loại, từ
0,2kg đến 5kg. Chất lượng nó như nhau, nhưng giá thì khác bởi nặng tiền bao bì
và ngày công. Tuy nhiên, còn có loại khác, giá dịch chuyển từ 35.000 đến
80.000, bởi có 2 loại sắn, loại 1 và 2, tùy vào độ sáng và bột”. “Nguồn sắn anh
lấy từ đâu?”. “Chủ yếu ở Gia Lai, chất lượng tốt lắm, hơn hẳn sắn ở mình”.
Ông nói rồi bỏ lửng: “Bà Nà Hill muốn tôi cung cấp phở sắn, nhưng…”.
“Nhưng sao?”. “Họ đòi 100kg/ngày, làm răng đáp ứng nổi!”. “Đầu tư máy…”.
“Thì vốn đó, kẹt lắm, nếu có máy 100kg/ngày/máy, tôi cần 2 cái nữa mới đáp
ứng đủ, vì đâu chỉ cung cấp cho họ”. “Một máy cần mấy người ?”. “Hai người
thôi. Tôi cần nhà nước đầu tư hỗ trợ máy sấy. Có nhà đầu tư muốn tôi làm, cung
cấp suốt 12 tháng cho họ - ông cười vẻ buồn bã - thời tiết mình mưa nắng thất
thường, phơi phở thì phải có nắng, không có máy sấy lấy đâu ra mà giao cho họ,
nên tôi lắc đầu”. Bùng lên lần nữa trong tôi, rằng đây, giải quyết lao động, dịch
chuyển thị trường, cú hích động lực, là đây, nông dân cần hỗ trợ, đầu ra có,
nhưng bó tay. Những làng nghề chết yểu, xơ xác, “phồn hoa giả tạo” khi hội hè
đến hẹn lại lên vì không có trợ giúp, thiếu thị trường… “Nhưng tôi sẽ cố, có
thằng con trai quyết tâm mà. Phở sắn không chỉ là ròng sắn, mà mình bỏ thêm
nghệ, gấc vô trong đó, thị trường chuộng lắm”. Tôi ngó cơ sở sản xuất của ông
tre pheo và mấy tấm tôn, như quán cóc, bèn chê: “Anh làm ăn kiểu ni, ai có nhu
cầu đều lo đó…”. “Không, sắp tới đây sẽ là công ty Caromi của thằng con…”.
Tôi nghe nói, ông sẽ được hỗ trợ máy sấy.
Ông Xinh nói rằng, một ngày làm 3 tiếng thôi, không cần người nhiều, vì
máy làm là chính… Công nghệ đã thâu tóm sản xuất thay người rồi, nhưng nó
chỉ là con đẻ của những cái đầu quyết chí làm ăn và sáng tạo như cha con ông.
Nhìn những vỉ phở nối dài y như chiếc võng, thấy những người như ông, hình
như đã bắt đầu sống…nhã, như kẻ rảnh đong đưa võng chơi. Cấm Dơi, mẹ của
địa danh là làng Thuận An, với những nông dân quyết giữ đất giữ làng giữ nghề
và sống được nhờ làng. Cái câu một thuở ghi trong địa chí Quế Sơn: “Đông
Quế cự châu thiên sinh thuận; Phú Sơn lâm sản địa dưỡng an”, còn đó. Đất đâu
có phụ người, miễn là người đừng làm trái, làm khác ý trời nết đất…
Ghi chép của MỘC MIÊN
MỘC MIÊN.Ở Cấm Dơi.../Mộc Miên//Quảng Nam cuối tuần.-2018.-Ngày 1-
2 tháng 9.-Tr.7.
Giũ "nhịp thở" của làng
Bao bọc bởi hai con sông Thu Bồn và Lai Nghi, làng gốm Thanh Hà
(phƣờng Thanh Hà, TP.Hội An) “chảy” qua trầm mặc của thời gian và lƣu
giữ những giá trị tinh hoa từ thuở mở ấp, lập làng.
Thợ gốm ở làng nghề hƣớng dẫn cách làm gốm. Ảnh: Q.TUẤN
Lƣu truyền chuyện làng
Qua năm tháng, các thế hệ người dân Thanh Hà vẫn truyền tai nhau về 3
giai thoại tổ nghề khai sinh làng gốm của mình. Nhiều người dân cho rằng 8 vị
thủy tổ của 8 tộc tiền hiền là ông tổ của nghề gốm, có giai thoại lại nói ông
Nguyễn Huấn – một người chăn trâu trong làng, chuyên lấy đất sét trên ruộng
nặn thành chim rồi đốt bằng rơm sau đó đem thổi (con tò he ngày nay). Rồi có
cả tích về hai chị em tên Phước và Tích đã dạy cho người làng Thanh Hà làm
gốm. sau đó bà Tích ra bắc lập làng gốm mới, còn bà Phước ở lại gây dựng nên
làng. Ba giai thoại hư hư thực thực nhưng là chứng tích cho thuở khai sinh lập
làng, miệt mài lao động, kết tinh sáng tạo mới có được làng gốm Thanh Hà tồn
tại và vang bóng mấy trăm năm qua.
Đều đặn hàng năm, cứ vào mùng 10 tháng Giêng và mùng 10 tháng Bảy
âm lịch, người dân trong làng lại chung tay tổ chức lễ tế tổ nghề gốm tại khu
miếu nghề Nam Diêu. Hoạt động này vẫn được các thế hệ đi trước duy trì, bảo
tồn cho dù trong những năm tháng khốn khó nhất vào khoảng nửa cuối thế kỷ
20 tưởng như “ngọn lửa nghề” đã ở bờ vực tàn lụi. Đến bây giờ, đây đã là một
nét đẹp thu hút đông đảo khách du lịch tham quan, khám phá. Theo các cụ cao
niên, trong lễ tế xuân ngày mùng 10 tháng Giêng, có tục tống Long Chu, đưa ra
sông Thu Bồn để cầu an, cầu những điều tốt đẹp cho cộng đồng và tống tiễn
những điềm xấu. Còn vào mùng 10 tháng Bảy, diễn ra nghi thức rước kiệu thỉnh
từ miếu ấp Thanh Chiếm – Thanh Hà và các hoạt động vui chơi sôi nổi chủ yếu
liên quan đến gốm như: chuốt gốm, thi nấu cơm, nặn con thổi…
Theo nhiều chuyên gia, nghệ nhân, để một người thợ trẻ trở nên lành
nghề cần ít nhất 5 năm trau chuốt, miệt mài với gốm. Vì vậy, đội ngũ những
nghệ nhân cao tuổi đã một đời gắn bó với nghề thực sự là tài sản quý giá để làng
Thanh Hà tìm cách khai thác, học hỏi những kỹ năng điêu luyện từ họ. Hiện ở
làng còn hơn chục cụ cao niên am tường việc chuốt gốm, làm đất, đốt lò, làm
ngói âm dương. Ông Nguyễn Văn An – Chủ tịch UBND phường Thanh An chia
sẻ: “Vài năm gần đây chính quyền địa phương đã tích cực tổ chức để các cụ
truyền lại nghề gốm cho thế hệ trẻ. Điều đáng mừng là tất cả nghệ nhân lớn tuổi
đều tâm huyết, sẵn sàng truyền đạt mọi kỹ năng, kiến thức, những mong làng
gốm tiếp tục “đỏ lửa” đến mai sau”. Được biết, ngoài “truyền lửa” nghề gốm,
các cụ trong tộc Lê từng tham gia đội hát bội của làng trước năm 1975 đã chung
tay phục hồi các trích đoạn tuồng để đưa vào lễ tế tổ và hướng dẫn lại cho lớp
thiếu niên có đam mê.
Độc đáo những di tích
Bên cạnh các giá trị phi vật thể, tại làng gốm Thanh Hà vẫn còn quần thể
di tích độc đáo gồm: đình, bia đá, giếng, phế tích lò gạch… Đình làng Xuân Mỹ
(xây dựng cuối thế kỷ 18), miếu Tổ nghề (xây dựng năm 1866), miếu Âm linh
(xây dựng 1868)… được xem là hồn cốt của làng gốm Thanh Hà ngày nay. Tuy
không có niên đại lâu đời như hệ thống các nhà cổ trong phố cổ Hội An nhưng
các nhà vườn, nhà ba gian với kết cấu truyền thống, lợp ngói âm dương từ chính
làng nghề sản xuất, được xây dựng cách đây từ khoảng 50 đến 100 năm cũng là
các di tích quý giá mà nơi này còn bảo tồn được. Theo ông Trương Hoàng Vinh
– Trung tâm Quản lý bảo tồn di sản văn hóa Hội An, ở làng Thanh Hà còn có di
tích nhà ông Lê Bàn (di tích cấp tỉnh) được xây dựng khoảng cuối thế kỷ 19.
Đây là nhà ba gian - loại hình nhà ở nông thôn tiêu biểu thời kỳ đó.
Tài liệu của Trung tâm Quản lý bảo tồn di sản văn hóa Hội An cho thấy,
hiện ở Thanh Hà còn 5 lò gốm truyền thống hình bầu đang sử dụng và một phế
tích lò gốm. Ngoài ra, còn có khoảng 20 lò nung gốm mỹ nghệ, nung con thổi.
Những di sản vật thể ở làng gốm Thanh Hà còn lưu giữ đến ngày nay đều có
quy mô nhỏ nhưng lại phản ánh khá đầy đủ đời sống sinh hoạt, lao động của
một làng quê đậm bản sắc ở ven đô Hội An hàng mấy trăm năm qua. Các quần
thể di tích này được bảo tồn và là một điểm nhấn quan trọng trong việc vực dậy
làng gốm Thanh Hà trong thời gian gần đây. Phát biểu tại lễ bế mạc Festival
Gốm Thanh Hà 2018, ông Nguyễn Văn Lanh – Trưởng phòng VH-TT Hội An
cho rằng: “Sản phẩm gốm Thanh Hà không chỉ được chuốt từ nước, lửa, đất mà
có cả nước mắt, tâm hồn của các nghệ nhân”. Những giá trị vật thể lẫn phi vật
thể ấy vẫn đang chậm rãi lưu giữ nét xưa của làng, đang từng ngày đưa Thanh
Hà đến với bạn bè muôn phương.
QUỐC TUẤN
QUỐC TUẤN.Giũ "nhịp thở" của làng/Quốc Tuấn//Quảng Nam cuối tuần.-
2018.-Ngày 1-2 tháng 9.-Tr.10.
"Viết" lại văn tự xƣa Họ là những ngƣời hƣu trí, có niềm đam mê chữ Nho, chữ Nôm nên
đã cùng nhau học hỏi, tìm kiếm những nơi có văn tự, gia phả, bia đá cổ để
nghiên cứu giá trị văn hóa của di vật.
Các thành viên CLB đang dịch bia đá cổ ở xã Duy Phƣớc, huyện Duy
Xuyên. Ảnh: P.VINH
Ban đầu, Câu lạc bộ (CLB) Hán Nôm Quế Sơn - Duy Xuyên chỉ là nơi
gặp gỡ, giao lưu giữa những người hưu trí đam mê chữ Nho, sau niềm đam mê
đó đã được thực tế hóa bằng những việc làm ý nghĩa.
Khơi dậy giá trị di vật
Được tiếp xúc với chữ Nho từ nhỏ, nhưng mãi đến khi đi dạy, có điều
kiện học đại học theo hệ tại chức ngành Ngữ văn ở Huế, ông Trần Văn Hảo (62
tuổi, thôn Xuyên Tây 1, thị trấn Nam Phước, Duy Xuyên) mới có cơ hội tìm
hiểu sâu về loại chữ viết này. Càng học, ông càng mê mẩn những đường nét
tung hoành, khuôn chữ vuông vức mà hàm nghĩa thì rộng mở. Đến khi về hưu,
ông Hảo lại nghiên cứu chuyên sâu hơn và cùng với một số người chung niềm
đam mê chữ Nho trong vùng thành lập CLB. Thành viên thường xuyên của
CLB hiện có 4 người, họ đều là những người hưu trí. Thỉnh thoảng, các thành
viên cùng ngồi lại bàn tròn bên tách trà để dịch và bình những văn bản vừa sưu
tầm được.
Nhờ “bàn tròn” đó mà nhiều di vật có giá trị văn hóa được khẳng định lại.
Năm 2015, người làng Mỹ Xuyên Tây khi đào trong khuôn viên đình làng thì
phát hiện một bia đá cổ. Sau đó, CLB liền tìm đến và tổ chức dịch văn tự trên
bia. Bia đá xưa, trải qua nhiều thời kỳ nên một số chữ bị vỡ nét, giữa bia còn có
dấu đạn của thời chiến tranh nên rất khó khăn cho công tác dịch thuật. CLB phải
nhờ nhiều chuyên gia, nhà khoa học giúp đỡ và cuối cùng, tất cả văn tự trên bia
đá được dịch lại sát nghĩa. Bia đá có nội dung ca ngợi công đức của các bậc tiền
hiền khai khẩn, lập làng Mỹ Xuyên Tây và nhắc việc trong làng có 2 người quả
phụ đóng góp 100 quan tiền để xây nhà Hội hương.
“Điều đáng quý nhất sau khi chúng tôi tổ chức phiên âm và phục chế tấm
bia này đã tìm ra được thời gian dựng bia vào năm Tự Đức thứ 2, tức năm 1869
thông qua câu “Tự Đức nhị, thập nhị niên”. Điều này làm sáng tỏ những cứ liệu
lâu nay về thời gian thành lập đình làng Mỹ Xuyên Tây, ai cũng bảo làng thành
lập lâu rồi, nhưng không có gì chứng minh. Hiện người làng Mỹ Xuyên Tây đã
làm hồ sơ xin được công nhận đình làng là di tích cấp tỉnh và đang chờ xét
duyệt” - ông Hảo nói.
Ngoài ra, cuối năm 2016, CLB tiến hành dịch bia đá của một mộ vôi hơn
200 năm tuổi trong khu vực thôn Xuyên Tây (Nam Phước). Đây là mộ của một
phú ông, người giàu có nhất vùng thời xưa, bài minh bia nói về công đức của
ông, cho biết ông có 3 người con đỗ tú tài, đây là một vinh dự cho làng lúc bấy
giờ.
Tiếp lửa đam mê
Ông giáo về hưu Lê Văn Phúc (xã Quế Xuân 1, huyện Quế Sơn) cũng là
thành viên CLB. Sự tò mò về các văn bản chữ Nho, gia phả và bia đá, câu liễn
xưa… thôi thúc ông tìm hiểu ngôn ngữ này và cảm thấy yêu thích nó. Nghỉ hưu,
ông Phúc tìm ra Trung tâm Hán Nôm Đà Nẵng (thuộc Hội Khuyến học Đà
Nẵng) để giao lưu, học hỏi thêm kiến thức. Sau đó, ông bàn bạc với các thành
viên khác của CLB về việc mở lớp dạy chữ Nho cho những người cùng đam mê
mà không có điều kiện đi học ở xa. Bởi trong khu vực, nhiều người hưu trí cũng
rất thích chữ Nho nhưng không có căn bản nên rất khó tìm hiểu sâu. Ngày
19.3.2017, lớp học chữ Nho của CLB khai giảng khóa đầu tiên với 25 học viên
là những người hưu trí, cán bộ đương chức, những người lớn tuổi đam mê chữ
Nho. Các thành viên của CLB phụ trách công tác giảng dạy dựa theo giáo trình
là cuốn Hán văn Giáo khoa thư của tác giả Võ Như Nguyên và Nguyễn Hồng
Giao. Lớp chủ yếu dạy Hán Nôm cổ để phục vụ cho việc phiên âm, phiên dịch
các văn bia, gia phả, sắc bằng…
Lớp học chữ Nho của CLB được tổ chức theo phương thức vừa học vừa
thực hành với những văn bản, gia phả, bia đá mà các học viên muốn phiên âm,
phiên dịch. Như học viên Trần Đình Viên (xã Quế Phú, huyện Quế Sơn), vì thắc
mắc sắc bằng ghi nhận công danh của một người trong tộc nhưng không ai biết
nội dung, ông đã mang đến lớp học để mọi người cùng nhau phiên dịch. Mới
hay, sắc bằng ghi nhận cụ Trần Hữu Chiếm, đời thứ 11 của tộc, là Ngũ trưởng
đội 8 của vệ binh Dinh trấn Quảng Nam, đã có công trong cuộc kháng chiến
chống quân Pháp xâm lược vào năm 1858. Sắc bằng ghi công vào niên hiệu Tự
Đức thứ 12, tức khoảng năm 1859. “Lâu nay cứ thấy sắc bằng như vậy nhưng
không ai hiểu nội dung, đến nay đã tỏ tường rồi, người trong tộc chúng tôi rất tự
hào vì thế hệ ông bà đã có người góp công và được vua ghi nhận. Đây là nguồn
động viên lớn lao để lớp con cháu đời sau thêm tự hào. Và qua đây, cũng thấy ý
nghĩa thiết thực trong việc mở lớp dạy chữ Nho của CLB” - ông Viên nói.
Ông Hảo cho biết, sắp tới, CLB sẽ còn nhiều phần việc để làm, như dịch các bia
đá, sắc phong mà các đơn vị, địa phương nhờ giúp đỡ. “Ông bà ngày xưa kiệm
lời, dựng bia đá, viết sắc bằng, văn tự cũng rất ít chữ nhưng hàm nghĩa thì rộng
vô biên. Người dịch như chúng tôi cũng chỉ là đưa ra nhiều lớp nghĩa và so sánh
với hoàn cảnh đương thời để tạm dịch chứ không dám nhận là biết hết được ý
của người xưa. Trong mỗi văn tự, đều có ý nghĩa cũng như bài học kinh nghiệm
riêng mà chúng tôi nghĩ người đời sau nên trân quý và tìm hiểu cặn kẽ. Bởi văn
hóa của dân tộc, vùng đất ta đang sống đã từng có một thời rất huy hoàng, đáng
để tự hào” - ông Hảo nói.
PHAN VINH
PHAN VINH."Viết" lại văn tự xƣa/Phan Vinh//Quảng Nam cuối tuần.-
2018.-Ngày 22-23 tháng 9.-Tr.8.
Về Quảng ăn mì
Mỗi lần đón bạn bè, đồng nghiệp là dân Quảng Nam xa quê về, câu đầu
tiên sau cái bắt tay chào hỏi là “đi mô tìm tô mì Quảng ăn hè”. Dƣờng nhƣ
với những ngƣời Quảng xa quê, nỗi nhớ quê và những hồi ức tuổi thơ đọng
lại rất cụ thể qua tô mì Quảng.
Mì Quảng. Ảnh: Nguyễn Thiện
Mì Quảng là tên gọi của một món ăn đã quá quen thuộc trong đời sống
hằng ngày của cư dân xứ Quảng Nam-Đà Nẵng. Dân Quảng gốc chỉ gọi một từ
là mì. Danh xưng mì Quảng chỉ xuất hiện khi dân Quảng trên đường vào Nam
làm ăn, đem theo món ăn truyền thống của quê mình - và gọi tên mì Quảng để
phân biệt với các loại mì xíu, mì hoành thánh, mì xào giòn... của người Hoa.
Sài Gòn là vùng đất mở, đã hào phóng tiếp nhận những con dân xứ Quảng và
không phân biệt gốc gác, xuất thân, mì Quảng cũng ngang hàng với các món ăn
của bốn phương hội tụ về. Ở đâu có người Quảng Nam cư ngụ ở đó có mì
Quảng và ngược lại. Và hễ nhớ quê thì bà con lại í ới nhau đi ăn mì.
Ở Sài Gòn, hay bất cứ thành phố nào ở phía Nam đều có mì Quảng. Các
quán mì Quảng khác mở nhan nhản trên khắp phố phường Sài Gòn với đủ các
nguyên liệu làm mì như ở chính quê nhà của mình. Cũng mì, cũng nước nhưn
nấu bằng tôm; cua; thịt heo; thịt gà; cá lóc. . . cũng rau húng, cải con, bắp chuối
sứ, cũng ớt xanh, đậu phụng rang, bánh tráng nướng đưa từ Đà Nẵng vào nhưng
tô mì không ngon như mì mẹ nấu.
Nhiều anh, chị ở Sài Gòn lâu năm cũng nhận xét như vậy khi ăn mì
Quảng. Tôi chợt nhận ra, tô mì Quảng trong hoài niệm ngon hơn, hấp dẫn hơn
và thôi thúc mình trở về quê nhà. Về chỉ để ăn ngấu nghiến một tô mì, để hít hà
vị cay của ớt xanh và uống một hơi bát nước chè xanh mẹ nấu trong ấm đất, rồi
nằm trên bộ phản gỗ giữa nhà nghe làn gió mát rượi từ sông Thu Bồn thổi qua,
nghe tiếng gà gáy trưa xao xác ngoài bờ rào để thấy mình hạnh phúc vì còn một
nơi chốn để trở về.
Quê ngoại tôi ở làng Phú Chiêm - vốn được gọi là xứ mì Quảng vì hầu
hết đàn bà con gái ở đây đều nấu mì rất ngon và lấy gánh mì làm kế sinh nhai.
Cứ sáng sớm, hàng chục gánh mì theo chân các bà, các chị kẽo kẹt ra khỏi lũy
tre làng, tỏa về các hướng Hội An, Tam Kỳ, Đà Nẵng… đem cái ngon của sợi
mì tráng bằng gạo quê được thoa một lớp dầu phụng khử với củ nén thơm lừng,
cái ngọt đậm đà của nồi nước nhưn nấu bằng tôm tươi với thịt heo ba chỉ, mùi
thơm của mớ rau sống quyện với vị ngọt của bắp chuối sứ mới hái từ vườn đến
với phố phường nhộn nhịp.
Tất cả cái ngon của sản vật đất đai, sông hồ như gom hết vào một tô mì
làm ấm lòng người ăn ở phố vào buổi đầu ngày. Ngồi bên gánh mì, nhìn bàn tay
cô hàng mì thoăn thoắt cho rau, cho mì vào tô, chan nhưn, rắc mớ đậu phụng
rang giòn rồi tươi cười đưa cho khách mới thấy cái thú của ăn mì gánh. Nồi
nước nhưn bốc khói trên bếp củi lẫn vào trong gió như gợi ta nhớ đến những
ngày mùa, theo chân mẹ gánh mì ra ruộng cho thợ ăn bữa lỡ.
Ăn mì gánh phải uống nước chè xanh. Hai thứ này gắn bó như trầu với
cau, như chồng với vợ. Vì vậy mà các cô hàng mì gánh ở quê ngoại tôi đều
thuộc lòng câu hát: “Thương nhau rót bát chè xanh/Làm tô mì Quảng để anh ăn
cùng”.
Mì Quảng xuất hiện ở khắp phố cùng quê. Muốn ăn lúc nào cũng có.
Nhưng muốn ăn ngon phải biết chọn quán. Ở Đà Nẵng thì không biết cơ man
nào là quán mì Quảng – và cũng không biết quán nào ngon hơn – vì mùi vị cũng
na ná như nhau.
Mì Quảng ở Đà Nẵng phong phú về nguyên liệu chế biến từ bò, gà, tôm
thịt đến lươn, cá lóc, sứa, thậm chí còn có cả mì hến... nhưng tôi chỉ thích ăn mì
Quảng quê. Đó là những quán mì chỉ bán mì tôm thịt hoặc mì gà. Ăn mì Quảng
không nhỏ nhẻ như ăn các món khác. Lùa một đũa mì cắn kèm một miếng ớt
xanh, nhai ngấu nghiến và khoan khoái nuốt, nghe như mọi giác quan trong
người căng ra để cảm nhận vị ngon riêng không thể lẫn vào đâu được của món
ăn dân dã này.
Có một loại cá sống ở đầu nguồn sông Thu Bồn mà dân chài quen gọi là
cá leo. Cá này nấu mì Quảng thì ai được ăn một lần sẽ nhớ suốt đời. Cá leo thân
như cá trê nhưng đầu nhỏ hơn, da trơn. Cá đánh từ dưới sông lên còn tươi cho
vào nồi luộc chín. Dẽ thịt cá ra một bát, ướp bột nghệ, hành củ, tiêu, ớt bột,
nước mắm chừng mười phút. Bắc chảo dầu nóng, khử củ nén cho thơm xong
cho cá vào đảo đều, rồi chế nước luộc cá vào.
Để sôi chừng 5 phút cho ngấm, nêm nếm vừa miệng thì tắt bếp. Cho rau
sống xuống dưới đáy tô , rải mì lên trên rồi chan nước nhưn cá leo cho ngập mì,
trộn đều lên rồi ăn kèm với mớ ớt hiểm hái trên rừng. Miếng thịt cá leo mềm,
thơm như tan trên đầu lưỡi quyện với vị cay như xé của trái ớt hiểm. Ngồi chồm
hỗm trên ghe, vừa hít hà vừa quệt mồ hôi trên trán, nghe như bao của ngon vật
lạ của đất trời dồn hết vào tô mì đang bưng trên tay.
Những năm còn đi học, cứ mùa hè tôi theo ghe của chị ngược lên núi
kiếm củi về bán lấy tiền mua sách vở đi học. Mỗi lần ghe của gia đình tôi cập
bến Bãi Hoa (thôn Hội Khách, xã Đại Sơn, huyện Đại Lộc) kiểu gì cũng phải ăn
mì cá rồi mới thả xuôi.
Quán mì lợp tranh lụp xụp trên bãi cạn, bàn ăn ghép bằng cây rừng, ghế
cũng bằng cây rừng cột dây mây, khách sơn tràng ngồi ăn chen chúc bỏ cả hai
chân lên ghế bên cạnh là lò tráng mì nghi ngút khói. Bà chủ quán vừa tráng mì,
vừa nấu nước nhưn bằng cá leo, rau sống chỉ có thân chuối rừng, nhưng vị ngon
của tô mì ăn ở trên bãi cát giữa sông nước như theo tôi suốt mấy chục năm qua.
Kim Em
KIM EM.Về Quảng ăn mì/Kim Anh// Quảng Nam cuối tuần.-2018.-Ngày 1-2
tháng 9.-Tr.13.
Lễ hội Trung thu làng Diêm Trƣờng
Dƣới thời phong kiến, những sắc phong vua ban cho làng Diêm Trƣờng
đƣợc đặt trong chiếc hòm màu đỏ và giao cho một ngƣời lớn tuổi, có học
trong làng gọi là ông Thủ sắc (ngƣời này đƣợc Hội đồng hƣơng chức trong
làng bầu ra) cất giữ bảo vệ. Nhận thức đƣợc ý nghĩa, giá trị của sắc phong
nên theo hƣơng ƣớc và thông lệ của làng, vào dịp Trung thu hằng năm dân
làng tổ chức Lễ hội Đệ sắc - một trong những lễ hội lớn nhất của làng Diêm
Trƣờng xƣa...
MInh họa: HIỂN TRÍ
Làng Diêm Trường xưa thuộc xã Diêm Trường, tổng An Hòa, phủ Tam
Kỳ; thời thuộc Pháp có tên là xã Nguyễn Chỉ; trước 1975 tên là Kỳ Xuân; sau
1975 đổi tên thành xã Tam Giang (nay thuộc huyện Núi Thành). Làng Diêm
Trường xưa nằm bên bờ sông Trường Giang thơ mộng, nhân dân trong làng gắn
bó với ruộng đồng, sông nước, với nghề đi biển và làm muối cung cấp cho khắp
nơi (xã có tên Diêm Trường là vậy). Về sau, do chất lượng muối không được tốt
nên thực dân Pháp cho ngừng việc làm muối của làng.
Lễ hội Đệ sắc
Hằng năm, đúng vào dịp Trung thu - rằm tháng Tám âm lịch, làng Diêm
Trường lại rộn ràng chuẩn bị cho lễ hội Đệ sắc của làng. Lễ hội diễn ra trong hai
ngày 14 và 15 tháng Tám âm lịch. Người đứng ra tổ chức lễ Đệ sắc là người
đứng đầu của làng Diêm Trường, gọi là Chánh bá. Mọi người dân trong làng từ
chức sắc, các vị bô lão và trẻ em đều nô nức tham gia lễ hội. Đa số người tham
gia đám rước của lễ hội Đệ sắc là đàn ông (đàn bà không được tham gia lễ
rước).
Đúng vào đầu giờ Thân (khoảng 3 giờ chiều) của ngày đầu tiên, các chức
sắc, hào cựu và nhân dân 9 ấp trong xã trống chiêng, cờ xí ngợp trời tụ tập về
nhà ông Thủ sắc để tiến hành làm lễ Đệ sắc ra đình làng Diêm Trường. Lúc này
ông Thủ sắc mặc áo lễ màu trầm, tiến lên bàn hương án - nơi đặt sắc phong -
làm lễ cẩn cáo rồi sau đó mang hòm đỏ đựng Sắc phong ra Long đình (Long
đình là một chiếc kiệu có mái được chạm trổ rồng phượng rất uy nghi, bên trong
có bày hương án, hoa quả và nơi đặt Sắc phong). Sau phần lễ tại nhà ông Thủ
sắc là lễ rước sắc ra đình làng và để lại ở đó, cắt người trông giữ, bảo vệ để sáng
hôm sau làm lễ chính thức.
Các cụ cao niên từng chứng kiến hoặc tham gia lễ hội kể lại rằng, hồi đó
con đường từ nhà ông Thủ sắc đến đình làng chật cứng người đứng đón đoàn
rước sắc, họ chờ đón để tham gia theo đám rước, để chiêm ngưỡng, hò reo cổ
vũ... Những người tham gia lễ hội Đệ sắc phải ăn mặc chỉnh tề, cờ kiệu được
xếp tôn nghiêm với một thái độ kính cẩn. Các vị bô lão thì trong trang phục
khăn đóng áo dài, các vị chức sắc, hào cựu thì trong trang phục áo rộng, những
người khiêng Long Đình, cầm cờ xí, cầm vũ khí thì trong trang phục áp quần
kẹp nẹp, đầu đội nón chóp như binh lính ngày xưa.
Đi đầu đám rước là những người cầm cờ xéo và cờ vuông, tiếp đến là cờ
ngũ hành với năm màu tượng trưng cho Kim (màu trắng), Mộc (màu xanh),
Thủy (màu đen), Hỏa (màu đỏ), Thổ (màu vàng). Sau những người cầm cờ là
một đội khoảng 10 - 12 người cầm những vũ khí của thời trước để thể hiện sự
uy nghi đối với sắc phong như: gươm, giáo, xà mâu, đao dài, búa, khiên, chùy...
Tiếp theo sau là đội trống chiêng và ban nhạc của 9 ấp. Sau ban nhạc là Long
đình với lọng che rất trang trọng. Đi sau Long đình là ông Thủ sắc cùng các vị
bô lão, các chức sắc, hào cựu và nhân dân trong làng. Xã lúc đó có 9 ấp, mỗi ấp
có bộ trống chiêng, bộ nhạc riêng và mỗi khi đến lễ Đệ sắc thì nhân dân 9 ấp
đều đem về cùng tham gia lễ rước sắc. Hai bên đám rước cờ xí ngợp trời, trống
chiêng trước sau vang lên rộn rã, nhạc kèn nổi lên rất vui tai. Đoàn người đi
theo đám rước có khi dài cả cây số.
Nghi lễ chính thức vào sáng ngày rằm tháng Tám (15 âm lịch). Bắt đầu
buổi lễ ông Thủ sắc bê hòm đựng sắc trong Long Đình đặt ở gian chính của
đình, nơi có bàn thờ thần và chuẩn bị cho chánh bá làm lễ cúng. Ba hồi trống
gọi gióng lên. Ông chánh bá cung kính đọc văn sớ nói về việc thành lập làng
Diêm Trường, tri ân Thành hoàng, các vị tiền hiền, bậc tiền nhân đã có công
khai hoang, khẩn hóa lập nên làng Diêm Trường; kể lại những thời điểm và
công trạng của làng khi được vua sắc phong, đồng thời vinh danh những người
trong làng được vua ban sắc phong, ấn tín... Hai bên bàn thờ là các chức sắc,
hào cựu và các vị bô lão trong làng đứng chắp tay nghiêm trang cung kính... Sau
phần lễ tại đình làng là lễ rước sắc từ đình về lại nhà ông Thủ sắc, giao cho ông
quản lý, cất giữ. Nếu năm đó làng bầu lại ông Thủ sắc mới thì sau khi cúng ở
đình xong thì ông Thủ sắc cũ làm lễ bàn giao các sắc phong của làng cho ông
Thủ sắc mới.
Giữ lại nét văn hóa
Thỉnh thoảng trong lễ hội Đệ sắc, những năm nào nhân dân trong xã
Diêm Trường làm ăn khá giả thì Hội đồng chức sắc trong làng đứng ra tổ chức
hội đua ghe rất quy mô ngay trên đoạn sông Trường Giang chảy qua làng Diêm
Trường với sự tham gia của 9 đội ghe đến từ 9 ấp. Ngoài ra, nhân dân trong xã
còn góp tiền, góp của mời các gánh hát tuồng, gánh hát chèo có tiếng về hát
phục vụ bà con tại sân đình làng...
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, lễ hội Đệ sắc không còn được duy
trì như trước nữa. Một phần vì đình làng Diêm Trường đã bị bom đạn của Pháp
làm hư hỏng đành phải phá dỡ để phục vụ cho việc “tiêu thổ kháng chiến”; bên
cạnh đó những sắc phong của làng cũng bị thất lạc do thiên tai, bão lũ, hỏa
hoạn; lại thêm bom đạn, chiến tranh trong những năm kháng chiến chống Pháp
ác liệt...
Ngày nay, tuy lễ hội Đệ sắc không còn được duy trì nhưng hàng năm vào
dịp rằm tháng Tám (ngày 16.8 âm lịch) nhân dân làng Diêm Trường xưa (nay là
thôn Đông Bình, xã Tam Giang) lại tập trung về tại Lăng Ông ở vạn chài Đông
Tân để làm lễ Lệ Thu cúng tạ Cá Ông, thần Nam Hải, Thủy thần, Hải thần...;
cúng tế Thành hoàng, các bậc tiền hiền, ông bà, tổ tiên, những bậc tiền nhân đi
trước đã phù hộ cho một năm mưa thuận gió hòa, trời yên biển lặng, mùa màng
tốt tươi, tôm cá dồi dào...
AN TRƢỜNG
AN TRƢỜNG.Lễ hội Trung thu làng Diêm Trƣờng/An Trƣờng//Quảng Nam
cuối tuần.-2018.-Ngày 22-23 tháng 9.-Tr.8.
Ấm cúng ngôi nhà Cơ Tu Màu xanh của cây trái bản địa, của cánh rừng nguyên sinh bao bọc
các khu dân cƣ đem lại cho làng Pache Palanh và Cut Chrun (xã Ma
Cooih, Đông Giang) tràn trề nhựa sống. Ngôi nhà đồng bào Cơ Tu đƣợc
“giữ ấm” nhờ sự kiên cố và nét đẹp văn hóa của tục tặng củi bất biến với
thời gian.
Một góc làng Cut Chrun.Ảnh: HỮU PHÚC
1. Gần 10 năm trở lại Ma Cooih, nếu không có người dẫn đường dễ
chừng bị lạc lối. Mọi thứ gần như thay đổi, vượt khỏi hình dung ban đầu. Trong
ký ức của tôi, Ma Cooih hiện lên là tầng lớp dãy nhà “chuồng cu” bố trí giống
ruộng bậc thang giữa thung sâu; là hình ảnh của đàn ông Cơ Tu vô tư ngồi chén
rượu, để vợ vừa địu con vừa vất vả với công việc nương rẫy, bếp núc; là con
đường độc đạo dẫn vào làng quạnh quẽ bóng người…
Sáng sớm, nắng thu nhàn nhạt xuyên qua tàu lá chuối, từng tia sáng lan
rộng trên con đường bê tông dẫn vào làng Cut Chrun (thôn A Đền, xã Ma
Cooih). Những dãy nhà liền kề khá tươm tất và khang trang. Người Cơ Tu hầu
như tự sửa chữa, nâng cấp cho ngôi nhà của mình. Ông Zơ Rum Cân (thôn A
Đền, xã Ma Cooih) cùng người vợ phụ giúp đang quét lại màu sơn mới cho cây
đòn tay gỗ và cánh cửa ngôi nhà. Ông bảo, có số tiền Nhà nước hỗ trợ 16 triệu
đồng nên gia đình quyết định nâng cấp, cơi nới thêm mái che trong ngôi nhà tái
định cư mà dự án thủy điện xây dựng năm 2006. Nhà ở, công trình phụ xuống
cấp đều tự tay người dân chủ động khắc phục - thói quen tự lực đã bắt đầu
“thấm” vào lối sống của người Cơ Tu nơi đây.
Tận dụng khoảng đất trống dưới nền nhà sàn, đồng bào Cơ Tu làng Pache
Palanh hay Cut Chrun chất đầy củi khô để dự trữ phục vụ nấu nướng hàng ngày
và dư dả góp tặng cho hàng xóm, người thân. Điều này thể hiện ý thức biết
phòng xa của người dân bản địa. Tục “tặng củi” trở thành nét đẹp văn hóa được
kế thừa từ bao đời nay. Nhà nào tổ chức lễ lạt, ma chay, cưới hỏi, dân làng
thường mang củi khô đến, như là cách thể hiện tấm lòng với gia chủ; gia đình
nào khá giả ngoài củi còn có gà, vịt, trứng… kèm theo giống như phong tục
dưới đồng bằng. Chỉ vào đống củi trong gian nhà bếp, ông Alăng Niêm (thôn
Azal, xã Ma Cooih) bảo, số củi trên dự trữ để chuẩn bị cho mấy cái tiệc mừng
về nhà mới, đám cưới con của người hàng xóm sắp tới.
2. Theo Trưởng thôn A Đền - ông Alăng A Rứp, việc chất đầy củi khô
trong nhà ngoài mục đích “giữ ấm” cho mùa đông lạnh lẽo ở vùng cao, đồng
bào còn xem như “món quà” chia sẻ với dân làng khi có hiếu hỷ, ma chay, lễ
mừng lúa nước, tổ chức lễ đâm trâu. Vào mùa hạ, người Cơ Tu ở Đông Giang,
Tây Giang có tục pa ngoách (lễ kết nghĩa), mùa xuân có tục rơ dáo (nghĩa là tục
đem cơm thăm viếng nhau đầu năm). Còn trong mùa đông, đồng bào dân tộc
thiểu số này có thêm tục dáo oói (tục thăm và tặng những gùi củi cho nhau).
“Phụ nữ Cơ Tu khi mang thai, ốm đau không có thời gian đi lấy củi nên hầu hết
con gái bị bắt về nhà chồng, người mẹ thường gùi củi đến tặng phía nhà chồng.
Trong làng tổ chức lễ hội như đâm trâu, mổ heo ăn mừng thì phải có nhiều củi
để đun nấu nên mọi người có trách nhiệm đi tìm củi để đóng góp” - ông Alăng
A Rứp nói.
Ngƣời Cơ Tu luôn biết giữ ấm cho ngôi nhà của mình.
Thời xa xưa, tục tặng củi chỉ dành cho nhà gái tặng nhà trai. Khi nhà gái
mang củi đến, bao giờ cũng được nhà trai đón tiếp niềm nở. Nhà trai tiếp nhận
và xếp gọn củi trên giàn bếp của nhà mình. Tuy nhiên, ngày nay, tục tặng củi
của đồng bào Cơ Tu trở nên thông thoáng và đa dạng hơn. Để bảo vệ rừng,
người dân chỉ khai thác củi khô, cành gãy trong rừng, hay củi keo trồng làm củi
tặng. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa miền núi, tục tặng củi khô là nét đẹp văn
hóa độc đáo của người Cơ Tu, thể hiện tính nhân văn, đoàn kết, giúp đỡ nhau
khi khó khăn, hoạn nạn. Kết cấu làng Pache Palanh, Cut Chrun trở nên bền bỉ
hơn bởi ngoài các công trình xây dựng kiên cố còn có bề dày văn hóa tinh thần
bất biến với thời gian của người dân bản địa. Hạ tầng các khu tái định cư thủy
điện ở Ma Cooih được đánh giá tốt hơn rất nhiều so với chỗ ở cũ trước đây.
Trước mùa đông, ở các ngôi nhà sàn truyền thống hay nhà xây tái định cư
thủy điện đều dễ dàng bắt gặp khối lượng lớn củi khô cùng bồ thóc được bảo
quản cẩn thận. Với người Cơ Tu, ngôi nhà đỏ lửa mới ấm no, vui vẻ, sum vầy
và đẩy đuổi được tà ma, dịch bệnh. Bởi vậy làng Pache Palanh và Cut Chrun với
227 hộ tái định cư tập trung vẫn luôn bảo tồn được giá trị tốt đẹp của văn hóa
tục làng.
HỮU PHÚC
HỮU PHÚC.Ấm cúng ngôi nhà Cơ Tu/Hữu Phúc//Quảng Nam cuối tuần.-
2018.-Ngày 22-23 tháng 9.-Tr.6.
"Cây x'nur" của làng
Tôi ngồi với ông, giữa không gian Ngày hội Văn hóa các dân tộc miền
Trung tại TP.Tam Kỳ, vừa đƣợc tổ chức ít ngày trƣớc. Câu chuyện đang
dở, ông cáo bận. Ngoài kia, trống chiêng đã vang vọng, trong lễ cúng đất
lập làng…
Ông Bh'ling Hạnh Ảnh: ALĂNG NGƢỚC
Ông chuẩn bị tất tần tật mọi thứ, từ việc chọn người tham gia, các đạo cụ
phục dựng nghi lễ, cho đến thực hiện nghi thức cúng tế thần linh theo phong tục
truyền thống của đồng bào Cơ Tu cho ngày lễ cúng đất lập làng mới. Như "cây
x'nur" (cây nêu) của làng, ông hiện diện ở tất cả sự kiện lớn nhỏ, réo rắt theo
nhịp khèn, cùng sắc phục truyền thống. Ông là Bh'ling Hạnh (68 tuổi, ở làng
Công Dồn, xã Zuôih, huyện Nam Giang) - một "di sản sống" của văn hóa Cơ
Tu.
Ngƣời truyền lửa
Ông đã hoàn thành nhiệm vụ của một "người cúng" trong nghi thức xin
đất lập làng của đồng bào vùng cao. Nghi thức dù chỉ tái hiện trong không gian
ngày hội văn hóa, nhưng ông nói, phải làm đúng theo nguyên bản, chớ không
thể trình diễn tùy tiện. Như thế, sẽ có lỗi với tổ tiên, ông bà - những bậc tiền
nhân đã sáng lập nền văn hóa truyền thống độc đáo này. Vì thế, lần nào có dịp
tái hiện nghi thức, ông cùng các nghệ nhân trong làng đều cố gắng giữ nguyên
vẹn từng chi tiết trong nghi lễ, trừ phần nào không thực sự cần thiết, hoặc không
còn phù hợp nữa. Ông nói, đó cũng là cách mà ông muốn truyền lửa cho lớp trẻ
về văn hóa cha ông, sau nhiều năm dài… "thất lạc".
Tôi chứng kiến toàn bộ nghi thức cúng diễn ra. Ông Hạnh lúc đó đảm
nhận vai trò là một già làng, thay mặt cộng đồng đứng ra thực hiện nghi thức
cúng đất lập làng. Các thành viên trong đoàn được ông cắt cử từng công việc,
sau khi đã đốt cây đót chọn vị trí phù hợp. Ông bắt đầu nghi thức cúng. Những
chiếc áo làm bằng vỏ cây, được các nghệ nhân mặc trên người, thể hiện sự gần
gũi với núi rừng, với trời đất, với thần linh theo một vòng tròn lớn. Rồi ông vẽ
xuống đất hình chữ U - nghi thức biểu thị sự đối lập giữa đất trời và con người
của làng, rồi cùng các thành viên bắt đầu đốt đuốc và hơ cây đót trên ngọn lửa.
Tiếng nổ lách tách vang về phía "lãnh địa của ma quỷ", trước sự hò reo của dân
làng. Ông đứng dậy, trịnh trọng tuyên bố: "Hôm nay theo già làng, việc cúng
đất lập làng đã thành công - nướng cây đót ma rừng thua, người dân làng mình
thắng rồi. Mỗi nhà, mỗi gia đình được quyền tự do về đem vật liệu dựng nhà và
dựng gươl của làng"…
Ông "nhập tâm", đến độ không một ai nghĩ đó chỉ là hoạt cảnh trình diễn
trong dịp lễ hội. Bởi tất cả đều thật, từ cách thức cúng bái, trang phục cho đến
các lễ vật để tế Giàng (thần linh). Du khách như đứng giẫm chân, khi chứng
kiến ông thực hiện nghi thức. Xong xuôi, ông cúi chào những vị khách của
mình, trở về chuẩn bị cho một chương trình khác sắp sửa diễn ra - liên hoan
nghệ thuật quần chúng và trình diễn trang phục truyền thống.
Ông cười, bảo đã quá quen với công việc của mình. Hàng chục năm nay,
hễ có sự kiện gì của xã, của huyện và thậm chí là của tỉnh, ông đều có mặt, như
một "tổng đạo diễn" cùng dân làng thực hiện các hoạt động trình diễn văn hóa,
ẩm thực độc đáo của đồng bào Cơ Tu đến với du khách. Công cán, với ông là
lần được chứng kiến ánh mắt nể phục và những hành động tán thưởng, trầm trồ
của người xem cho đợt trình diễn của mình. Và hơn hết, niềm vui lớn nhất, với
ông có lẽ chính là sự truyền nối của lớp trẻ cho văn hóa truyền thống của cộng
đồng, theo bước ông gìn giữ bản sắc. Ông đang thành công bước đầu…
Chuyện dƣới bóng gƣơl
Làng Công Dồn nằm phía bên kia sườn núi, đẹp như một bình nguyên
xanh giữa rừng. Đợt tôi đến cách đây vài năm, ông Hạnh lúc đó cũng vừa "cáo
quan" trở về cuộc sống đời thường cùng với lũ làng. Nhưng ông không thường
xuyên ở nhà. Lúc thì vào tận trong rừng sâu để tìm khúc gỗ đẹp về làm tượng,
khi thì bứt mây về đan gùi, tìm ống tre làm sáo, làm khèn, phục vụ trong các dịp
hội làng truyền thống. Không lâu sau đó, ông tập hợp dân làng, họp bàn tìm
cách khôi phục bản sắc, giữ hồn cha ông. Một đội cồng chiêng nhí được thành
lập, ông Hạnh trực tiếp làm người hướng dẫn, cần mẫn tập luyện. Bây giờ, đội
cồng chiêng nhí ngày nào đã có thể cùng ông đi trình diễn ở các sự kiện lớn nhỏ
được tổ chức, trở thành niềm tự hào của dân làng vùng cao. Khi lứa đầu tiên
được ông "đào tạo" đã dần cứng cáp, ông Hạnh nói đang lên kế hoạch với thế hệ
tiếp theo, tạo nên sự truyền nối, không để gián đoạn. Bắt đầu từ Công Dồn, ông
ấp ủ mở rộng mô hình sang các làng, xã lân cận, giúp văn hóa đồng bào Cơ Tu
có cơ hội vực dậy và phát triển. "Đây, đội cồng chiêng nhí hồi mấy năm trước,
chừ đã có thể đứng đây trình diễn cho mọi người xem. Nhiều đứa trong số này,
còn biết làm sáo, làm đàn h'jưl và rất tự hào về bản sắc văn hóa của đồng bào
mình" - ông Hạnh vỗ vai những thiếu niên Cơ Tu đứng cạnh mình, giới thiệu
với tôi sau tiết mục trình diễn trống chiêng tại ngày hội. Rồi ông cười, bảo câu
chuyện họp bàn dưới mái gươl ngày ấy, giờ đã thành hiện thực, đồng bào đã
cùng ông ra sức bảo tồn và phát huy bản sắc truyền thống trước sự "giao thoa"
theo nhịp sống hiện đại, từ bên ngoài.
Ông Bh'ling Hạnh (bên phải) cùng các nghệ nhân trình diễn nghi
thức
Tôi còn nhớ như in, hồi vài năm trước khi đến Công Dồn, cũng đúng vào
dịp người làng phục vụ lễ cưới truyền thống của đồng bào Cơ Tu. Giữa điệu
trống, nhịp chiêng, người làng trong sắc phục truyền thống cùng thực hiện các
nghi thức rước đâu, đón khách nhà gái. Ông Hạnh trên tay cầm chiếc tù và, dẫn
đầu đoàn đến không gian của lễ cưới, cùng vui say theo khúc nhạc truyền thống
và vị ngọt của rượu tà vạt, cùng các món ẩm thực lạ mắt. Lần khác, cũng chính
ông Hạnh chỉ huy một đội cồng chiêng, cùng hòa nhịp theo vũ điệu tâng tung da
dá đầy quyến rũ trong hội làng ăn mừng lúa mới. Họ tạo thành một vòng tròn
lớn, nhảy múa quanh cột x'nur được đặt ở giữa sân gươl của làng, dặt dìu theo
câu hát lý của già làng. Và cũng sau lần hội làng ấy, ông Hạnh quyết tâm thành
lập đội trống chiêng nhí. Dưới bóng gươl, hình ảnh về một "nhạc trưởng" hăng
say truyền dạy lớp trẻ cách đánh chiêng, gõ trống; cách đưa tay dâng lên trời
của người phụ nữ, cách sải bước chân thể hiện sự kiêu hãnh của đàn ông… đã
trở nên quen thuộc với người làng ở Công Dồn. Ai cũng bảo, nhờ có ông, mà
nhiều nét văn hóa dần được khôi phục và phát triển, nên biết ơn ông nhiều lắm.
…Ngày cuối cùng ở lại TP.Tam Kỳ sau Ngày hội Văn hóa các dân tộc
miền Trung, ông Hạnh chụp ảnh lưu niệm với đoàn và người con dâu Bh'ling
Thị Nhớ. Chị Nhớ là giáo viên dạy môn tiếng Anh tại địa phương, rất yêu văn
hóa truyền thống của đồng bào mình. Vì thế, chị tham gia vào đội trống chiêng
của làng, cùng mang bản sắc Cơ Tu đi giới thiệu, quảng bá ở nhiều lễ hội lớn
nhỏ được tổ chức. Chị nói, rất tự hào và ngưỡng mộ người bố chồng, sau những
việc làm cho cộng đồng, cho quá trình khôi phục và phát huy vốn văn hóa
truyền thống. Đó cũng là động lực, là niềm động viên và lời hứa mà chị cùng
các thành viên đội trống chiêng Công Dồn muốn gửi gắm, như một sự tri ân đến
ông - người đã truyền lửa để thế hệ trẻ Cơ Tu ở làng hôm nay biết trân quý, biết
yêu hơn văn hóa của mình và chung tay gìn giữ.
ALĂNG NGƢỚC
ALĂNG NGƢỚC."Cây x'nur" của làng/Alăng Ngƣớc//Quảng Nam cuối
tuần.-2018.-Ngày 1-2 tháng 9.-Tr.16.