Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Lời mở đầu
Thư viện tỉnh Quảng Nam trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc tập thư
mục tháng11 năm 2018, gồm có các bài viết được sưu tầm, trích từ các báo, tạp
chí của Trung ương và địa phương, về các lĩnh vực:
- Kinh tế;
- Xã hội;
- Văn hóa;
- Giáo dục;
Trong quá trình sưu tầm, tập hợp và sắp xếp các bài viết trong thư mục
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp xây dựng
của bạn đọc. Xin trân trọng cảm ơn./.
THƯ VIỆN TỈNH QUẢNG NAM
Nguyễn Bá Trác "đi chơi phiếm"
Trong số trước tác của Nguyễn Bá Trác, được nhiều người biết đến nhất là
tập Hạn mạn du ký, có nghĩa là Lời ký của một người đi chơi phiếm. Thiên
ký sự nguyên văn bằng chữ Hán này gồm 14 chương, sau ông đem dịch ra
quốc ngữ và cho đăng trên Nam Phong tạp chí từ số 38 đến số 43 năm 1920.
Chân dung Nguyễn Bá Trác (ảnh trái) và bộ sách 3 tập Du ký Việt Nam do
Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, giới thiệu (NXB Trẻ, 2007), trong đó có Hạn mạn
du ký.
Nguyễn Bá Trác (1881 – 1945) người làng Bảo An, nay là xã Điện
Quang, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ ông học chữ Nho ở quê
nhà, đến năm 1906 thi đỗ cử nhân ở trường thi Huế. Hưởng ứng lời kêu gọi của
các nhà ái quốc trong phong trào Đông Du, ông ra Hà Nội học tiếng Pháp, tiếp
thu Tân học. Khi phong trào bị đàn áp, ông trốn vào Nam Bộ.
Năm 1908, ông du học sang Nhật, nhưng dưới sức ép của Pháp, chính phủ
Nhật đã giải tán phong trào Đông Du. Ông đành sang Trung Hoa rồi trở về Hà
Nội năm 1914, làm ở Phòng báo chí Phủ Toàn quyền Đông Dương và chủ bút
phần bài chữ Hán tờ Cộng thị cho đến năm 1916.
Năm 1917, ông nhận làm chủ bút phần Hán văn của Nam Phong tạp chí.
Năm 1919, sau khi rời Nam Phong tạp chí, ông vào Huế làm Tá lý Bộ Học và
lần lượt trải qua các chức vụ: Tuần vũ Quảng Ngãi, Thị lang Bộ Binh, Tổng đốc
Thanh Hóa, Tổng đốc Bình Định.
Nguyễn Bá Trác để lại số lượng tác phẩm lớn, gồm cả chữ Hán và quốc
ngữ, văn khảo cứu và sáng tác, kể cả phần tự dịch tác phẩm chữ Hán sang chữ
quốc ngữ. Trong đó, được nhiều người biết đến hơn cả là tập Hạn mạn du ký.
Thiên bút ký ghi lại cuộc hành trình kéo dài 6 năm, từ 1908 đến 1914 của ông
qua các nước Thái Lan (ông gọi là Siam), Trung Hoa, Nhật Bản. Đó là một cuộc
“xuất ngoại” vô cùng vất vả mà ông phải “nhập vai” để vượt qua nhiều tình
huống éo le: lúc phải chui nhủi trong rừng rậm miền Trung, lúc phải giả làm tu
sĩ Phật giáo ở Phú Yên, lúc phải nằm trong hầm tối chật hẹp dưới tàu thủy sang
Thái Lan, lúc lang thang bị trinh thám Nhật theo dõi sát, lúc đối diện với cái
sống cái chết trong chiến tranh ở đất nước Trung Hoa,…
Tuy nhiên, ông cũng gặp không ít quý nhân tận tình giúp đỡ, yêu thương,
như câu chuyện về một người Việt bị theo dõi tại Nhật Bản, được ông chép lại
trong Hạn mạn du ký đăng trên Nam Phong tạp chí số 38, năm 1920.
Theo đó, nghe theo lời hiệu triệu của Phan Bội Châu, người khởi xướng phong
trào Đông Du, chí sĩ Nguyễn Bá Trác liền tìm đường sang Nhật. Nhưng khi ông
đến xứ sở Hoa anh đào cũng là lúc Chính phủ Nhật đang trục xuất những du học
sinh Việt Nam. Trước đó, trên đường từ Thượng Hải đi Hoành Tân (tức
Yokohama, thủ phủ tỉnh Kanagawa, Nhật Bản) ông gặp một người Trung Quốc
có cảm tình với những người cách mạng bôn tẩu, được người này giúp đỡ nên
ông vẫn quyết định đến Nhật để “chơi”.
Người Trung Quốc này đưa ông về ở tạm trong nhà trọ của mình. Đúng
lúc ấy xảy ra vụ một người cách mạng Triều Tiên ám sát một quan chức Nhật
Bản nên cảnh sát Nhật theo dõi sát sao những người Triều Tiên trên đất Nhật.
Ông vừa đến nhà trọ hôm trước thì hôm sau đã có người đến hỏi.
Người bạn Trung Quốc bảo ông là một người Quảng Đông. Viên cảnh sát
nói mấy câu bằng tiếng Quảng Đông để thử. Ông mới chỉ biết bập bẹ đôi tiếng
Hồ Bắc do người bạn Trung Quốc vừa dạy nên ngớ người ra. Thế là bị lộ. Sợ
liên lụy đến bạn, một đêm, ông viết cho bạn một bức thư rồi trốn đi. Tha thẩn
vào các công viên, ông phát hiện ra mình bị mật vụ Nhật theo dõi không rời nửa
bước. Ông sợ quá, liền gặp thẳng một viên mật vụ Nhật, dùng bút để nói chuyện
(các viên chức Nhật Bản thời ấy đều biết chữ Hán).
Viên mật vụ này vốn có cảm tình với cách mạng Triều Tiên, sẵn sàng giấu
ông, nếu ông quả là người Triều Tiên. Nhưng ông trước sau vẫn nói chắc bắp
rằng mình không phải người Triều Tiên mà là người Trung Hoa. Người mật vụ
liền mách nước: sắp tới có một phái đoàn Trung Quốc đến Nhật, nếu ông tìm
cách gặp vị trưởng đoàn thì chắc sẽ được giúp đỡ.
Ông cũng chẳng dám mạo hiểm theo cách này, bèn bảo viên mật vụ hãy
đưa mình đến gặp cảnh sát trưởng với hy vọng sẽ “được” bắt và dẫn độ về Bắc
Kinh, là nơi ông cũng muốn đến và là cách đi không mất tiền!
Gặp cảnh sát trưởng, ông bút đàm để trình bày, đại khái: “Tôi là một
người Trung Hoa, đọc sử, thấy quý quốc là một nước văn minh, liền đến để tận
mắt nhìn thấy. Chẳng ngờ vừa đến đây, chưa phạm điều gì, thế mà cứ bị mật
thám theo dõi, bạn cũ gặp chẳng dám chào, nhà trọ không dám chứa, chẳng thà
các ngài trục xuất thì tôi sẽ đi ngay, chứ sao lại đãi người theo cách đó”.
Người cảnh sát trưởng trả lời: “Quý khách nhận nhầm đó thôi. Bản chức
phái người đi theo dõi chẳng qua là để bảo vệ bình an cho quý khách”.
Nhưng rồi cảnh sát trưởng cũng hứa là từ mai “quý khách tùy ý đi chơi
các nơi, ở trọ các nơi, bản chức sẽ sức cho các phái viên không nhiễu quý khách
nữa”. Và quả nhiên sau đó mật thám Nhật không theo dõi nữa. Ông ở chơi Nhật
Bản một tháng rồi mới đi Trung Quốc...
Ông, một người Quảng Nam thực thụ nhưng được bạn nói tránh thành
người Quảng Đông để tìm đường vào nước Nhật. Khi về lại quê nhà Việt Nam,
ông “đem đường lối phong cảnh mà mình đã trải qua nơi đất khách, chép nhặt
một vài” (lời mở đầu sách Hạn mạn du ký), trong đó dành hơn 40 trang sách cho
Nhật Bản với những ghi nhận rất sâu sắc về lịch sử, văn hóa, phong tục, chính
trị, giáo dục của đất nước này. Xem thế, tuy nói là “lời ký của một người đi chơi
phiếm” nhưng những gì ông để lại qua thiên ký sự này chẳng phiếm chút nào!
LÊ HOÀNG
LÊ HOÀNG.Nguyễn Bá Trác "đi chơi phiếm"/Lê Hoàng//Đà Nẵng cuối
tuần.-2018.-Ngày 2 tháng 12.-Tr.7.
MỘT TÌNH BẠN VONG NIÊN
Mặc dù kém Phan Thanh Giản đến 25 tuổi, song tình cảm của Phạm Phú
Thứ - vị danh nhân quê Điện Bàn dành cho cụ Phan rất thắm thiết.
Chân dung lãnh đạo Sứ đoàn Việt Nam tại Paris (Pháp)
trên tờ THE ILLUSTRATED LONDON NEWS số ra
ngày Thứ Bảy 10-10-1863. Hàng ngồi, từ trái sang phải:
Phó sứ Phạm Phú Thứ, Chánh sứ Phan Thanh Giản,
Bồi sứ Ngụy Khắc Đản.
Những ghi chép, bài trường thi, lời bạt của cụ Phạm còn để lại là chứng
cứ quan trọng, cho phép khẳng định nhân cách và tài năng của cụ Phan.
1. Phan Thanh Giản tự là Đạm Bá, Đạm Như, hiệu là Lương Khê, biệt hiệu là
Mai Xuyên, sinh ngày 12 tháng 10, năm Bính Thìn (1796) tại làng Tân Thạnh,
huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Bảo Thạnh, huyện
Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Nhà nghèo, mẹ mất sớm, việc học tập của Phan Thanh
Giản gặp nhiều khó khăn, nhưng vốn thông minh, hiếu học nên đến năm 30 tuổi,
ông thi Hương, đậu cử nhân tại trường thi Gia Định (1825). Sang năm sau
(1826), thi Hội ở kinh đô Huế, Phan Thanh Giản đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ.
Quốc triều đăng khoa lục nhận xét: “Ông là người đỗ đại khoa trước nhất của
Nam kỳ. Lực học tinh thuần, tính hạnh chính trực”. Phan Thanh Giản làm quan
trải ba triều: Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Cuối thế kỷ 19, trước sức tấn công như vũ bão của liên quân Pháp và Tây
Ban Nha, các tỉnh Nam kỳ lần lượt bị thất thủ. Triều đình buộc phải ký với
Pháp và Tây Ban Nha bản Hòa ước Giáp Tuất (ngày 5.6.1862) bất bình đẳng.
Nhận ra sự thua thiệt của mình và trước sự bất bình của sĩ dân Nam kỳ, triều
đình lên kế hoạch khẩn trương tổ chức đoàn đi Tây để chuộc đất, với sứ đoàn
gồm: Chánh sứ Phan Thanh Giản, Phó sứ Phạm Phú Thứ, Bồi sứ Ngụy Khắc
Đản. Phó sứ Phạm Phú Thứ được Chánh sứ Phan Thanh Giản giao công việc ghi
chép hoạt động hằng ngày của sứ đoàn suốt 9 tháng đi Tây và khi kết thúc sứ
mệnh, ông đã hoàn thành Tây hành nhật ký để dâng lên vua vào ngày 24 tháng 2
năm Tự Đức thứ 17 (31.3.1864).
Tác giả cuốn Tây hành nhật ký cho hay: Mặc dù mang sứ mệnh hết sức
quan trọng và khó khăn mà nhà vua và triều đình tin tưởng giao cho, song
Chánh sứ Phan Thanh Giản vẫn rất chú ý đến việc giữ gìn quốc thể mỗi khi giao
tiếp với quan chức các nước liên quan trong suốt chuyến Tây hành. Đơn cử,
ngày 8.11.1863, viên quan Aubaret mang đến sứ đoàn một thùng đồ vật và nói:
“Đây là sản phẩm bằng sứ, chế tạo ở xưởng làm đồ sứ của Pháp; Quốc trưởng
chúng tôi ủy tôi mang đến để kính tặng Đại sứ Phan Thanh Giản làm kỷ niệm”.
Sở dĩ có sự việc này là do trước đó sứ đoàn được đi thăm một xưởng làm đồ sứ
thì nhận thấy trong những bộ đồ sứ mà xưởng này mua ở nước ngoài về để trưng
bày có cả vài bình vôi của nước ta trông rất thô kệch và xấu xí.
Về đến công quán, Chánh sứ Phan Thanh Giản cho rằng bộ ấm chén Bát
Tràng mà mình mang theo có vẻ đẹp hơn những chiếc bình vôi kia. Bộ ấm chén
này gồm 4 cái chén, 2 cái đĩa, toàn bằng đất trắng có hàng chữ đề màu lam vịnh
mầm trúc non: “Vị xuất thổ thời tiên hữu tiết”, nghĩa là: “Chưa ra khỏi đất đã có
đốt (lóng) rồi!”. Sứ đoàn nhờ Aubaret mang tặng cho viên quan đốc xưởng để
làm kỷ niệm và cũng ngầm để cho ông ta biết là các đồ gốm, sứ của Đại Nam
không phải đều xấu xí, thô kệch như những chiếc bình vôi đang trưng bày.
Chuyện đến tai Quốc trưởng Pháp và vị nguyên thủ quốc gia này lập tức lệnh
cấp dưới mang ngay thùng đồ vật đến sứ đoàn để đáp lễ. Là người có tầm nhìn
và học thức sâu rộng, cụ Phạm đã ghi lại câu chuyện này rất kỹ lưỡng. Hành
động của Chánh sứ Phan Thanh Giản hơn 150 năm trước, qua lời thuật của
Phạm Phú Thứ, là mẫu mực về ý thức giữ gìn quốc thể và bản sắc văn hóa dân
tộc.
2. Năm Tự Đức thứ 20 (1867), được tin cụ Phan tuẫn tiết vì tự cho mình
bất tài để mất đất 6 tỉnh Nam kỳ, cụ Phạm vô cùng tiếc thương, đã làm một bài
trường thi điếu tang với nhan đề “Ký vãn nguyên Nam kỳ Kinh lược Đại thần
Phan Lương Khê công” (Gửi viếng tang ngài Phan Lương Khê, nguyên Đại thần
Kinh lược sứ Nam kỳ) dài hơn 700 chữ. Bài trường thi ca ngợi cụ Phan là vị
quan: “Bình sinh đức nghiệp vang triều dã/ Phát ra văn chương tuyệt cổ nhã/ Ba
triều, bốn kỷ bảy chục xuân/ Cẩn thận một lòng kể túc dạ/ Huống chi lịch duyệt
đã từng qua/ Kính tín di hành khắp thiên hạ/ Thực người đọc sách trên thế gian”.
Sau khi cụ Phan mất thì triều đình đổ hết tội lỗi cho cụ về việc để mất Nam kỳ
lục tỉnh, kết tội ông “xét phải tội chết, chưa đủ che được tội” và nghị án “truy
đoạt lại chức hàm và đẽo bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi cái án trảm giam hậu”. Thế
nhưng, là người hiểu rõ thế thời, hiểu rõ tài năng, đức độ của Đại thần Phan
Thanh Giản, lúc bấy giờ cụ Phạm Phú Thứ lại có cái nhìn khác. Cụ còn lên tiếng
chất vấn người đời: “Lâm sự có đâu nhầm lẫn hả?/ Luận bàn được mất mặc cho
người/ Đừng thêm thắt chuyện sinh ngờ vực/ Phong hội bằng nay đã đổi dời”.
Một năm sau (1868), cụ Phạm Phú Thứ có lời bạt cuốn “Phan Lương Khê thi
tập”. Sách này do Thượng Sơn Tùng Thiện Vương (chú vua Tự Đức) tập hợp lại
các bài thơ của Phan Thanh Giản lúc bình sinh. Theo cụ Phạm, ngài Thương
Sơn vì “xót thương cho bậc thanh cao bèn thu nhặt tàn khuyết được bao nhiêu
quyển thơ do ngài sáng tác đều cho khắc in”. Viết lời bạt về tập thơ của cụ Phan,
cụ Phạm khiêm nhường nhận mình so với cụ Phan chỉ là: “Kẻ hậu học ở rặng
núi Đông”. Lời bạt không quên khẳng định lại tài năng, đạo đức và nhân cách
cao quý của cụ Phan: “Tiên sinh khởi đầu khoa giáp ở cõi Nam, làm quan ba
triều, vào ra hơn bốn chục năm. Đức tính thận trọng, trong sạch, siêng năng,
không một ngày nào nhàn hạ, bụng gồm thâu cả tứ khố mà chẳng tự cho mình là
nhiều; dấu chân khắp thiên hạ mà chưa từng tự cho là rộng, phát ra thành văn cổ
nhã không sánh được. Thứ tôi, chưa đủ để nói là biết tiên sinh, nhưng gần đây
thường ghi lời nói của tiên sinh, có thể coi là biết một chuyện trong vạn chuyện,
một vật trong vạn vật vậy. Bởi vậy, mới nói rằng, cái chuyển động của thiên hạ,
bói ra từ một vậy. Khi cưỡi bè đi Pháp, lúc lên đường đã có lời nói hòa thân
không phải là kế hay. Đề vào Tây phù tiểu thảo của Thứ cũng nói rằng, cái đạo
lớn nhất là vô bờ, cốt yếu là ở ta, phải giữ cái sở tồn để ngắm nhìn, xem xét”.
VÂN TRÌNH
VÂN TRÌNH.MỘT TÌNH BẠN VONG NIÊN/Vân Trình//Quảng Nam cuối
tuần.-2018.-Ngày 24-25 tháng 11.-Tr.2.
Tộc Phạm Quế Sơn với cuộc mở cõi
Trong các đợt “mang gươm đi mở cõi” về phương Nam, tộc Phạm ở
Quế Sơn có nhiều vị tướng tài giỏi, những nhà cai trị lỗi lạc đã giúp các
vương triều hoàn thành sứ mạng lịch sử vĩ đại này.
Mộ của Phạm Nhữ Dực ở Đồng Tràm.
1. Thủy tổ của họ Phạm ở Đồng Tràm - Hương Quế là Phạm Nhữ Dực,
con trai thứ năm của danh tướng Phạm Ngũ Lão, người làng Phù Ủng, huyện
Mỹ Hào thừa tuyên Hải Dương. Sau đó tổ tiên chuyển vào sống ở xã Lỗ Huyền,
huyện Lôi Dương, thừa tuyên Thanh Hoa. Đến đời Phạm Nhữ Dực lại vào sinh
sống ở làng Đồng Tràm, lộ Thăng Hoa (nay là xã Hương An, huyện Quế Sơn).
Phạm Nhữ Dực làm quan dưới thời Trần và Hồ, ông đã nhiều lần dẫn binh đánh
tan quân Chiêm Thành sang xâm lấn nước ta. Năm Canh Thân (1380), quân
Chiêm tấn công Nghệ An, vua Trần Nghệ Tông cử Lê Quý Ly (Hồ Quý Ly), Đỗ
Tử Bình và Phạm Nhữ Dực đem binh chống giữ, quân Chiêm đại bại ở sông
Ngu (tức sông Lạch Trường ngày nay) phải rút về. Năm Nhâm Tuất (1382),
quân Chiêm lại tấn công Thanh Hóa, Lê Quý Ly và Phạm Nhữ Dực vây đánh,
quân Chiêm phải tháo chạy. Năm Tân Mùi (1391) quân Chiêm xâm phạm Hóa
Châu, vua Trần Nghệ Tông cử Lê Quý Ly và Phạm Nhữ Dực chặn đánh quân
Chiêm.
Thời vua Trần Thuận Tông (1388 - 1398), Phạm Nhữ Dực được phong
chức Hậu quân Trung đô Dực Nghĩa hầu.
Năm Nhâm Ngọ (1402) dưới triều Hồ Hán Thương, Phạm Nhữ Dực cùng
Đỗ Mãn và Nguyễn Cảnh Chơn đem quân đi đánh Chiêm Thành. Vua Chiêm
phải dâng đất Chiêm Động (nam Quảng Nam) và Cổ Lũy (Quảng Ngãi) để cầu
hòa. Họ Hồ chia đất mới chiếm thành 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Năm Quý
Mùi (1403), Hồ Hán Thương phong Phạm Nhữ Dực làm Chánh Đô Án vũ sứ và
Nguyễn Cảnh Chơn làm Phó Đô Tổng binh ở lại cai quản châu Thăng Hoa đưa
di dân các tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh vào khai khẩn đất hoang, sinh cơ lập nghiệp
và vỗ an người Chiêm. Năm Đinh Hợi (1407) quân Minh xâm chiếm nước ta bắt
cha con Hồ Quý Ly đem về Tàu, người Chiêm nhân cơ hội đó lấy lại phần đất đã
mất, Phạm Nhữ Dực cùng con là Phạm Đức Đề chống lại quân Chiêm.
Hai năm sau, Phạm Nhữ Dực qua đời vào ngày mùng 4 tháng 10 năm Kỷ
Sửu (1409), ông được an táng tại làng Đồng Tràm, phủ Thăng Hoa (nay là xã
Hương An, Quế Sơn). Thời Hồ Hán Thương ông được phong chức Hậu quân
Trung Đô Nam Dinh vũ trấn, Dực Nghĩa hầu. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, sau
khi chiếm Ninh Thuận, thành lập Dinh Thái Khang, nhớ ơn những người tiên
phong khai phá phương Nam, đã truy phong Phạm Nhữ Dực là Thượng đẳng
thần.
2. Con cả của Phạm Nhữ Dực là Phạm Đức Đề, làm quan triều Hồ Hán
Thương, được phong tước Đinh Thượng hầu. Ông có công giúp thân phụ bình
Chiêm, di dân khai phá vùng đất mới và xây dựng cơ chỉ tộc Phạm tại làng
Đồng Tràm. Khi Chiêm Thành chiếm lại đất, Phạm Đức Đề cùng Nguyễn Cảnh
Chơn đánh quân Chiêm, nhưng quân ít thế cô không chống nổi. Nguyễn Cảnh
Chơn rút quân về Nghệ An gia nhập lực lượng kháng Minh của Giản Định Đế,
còn Phạm Đức Đề bị quân Chiêm truy lùng ráo riết phải đổi tên họ, chạy ra vùng
An Trường (bắc Quảng Nam) để ẩn náu.
Con trai lớn của Phạm Đức Đề là Phạm Nhữ Dự. Khi Lê Lợi khởi nghĩa
chống quân Minh, ông từ An Trường đem quân ra giúp Lê Lợi. Ông được phong
Cao Thọ Tập Phước hầu, được lưu trấn quản lãnh phủ Thăng Hoa. Hai năm sau
thì ông bị bệnh mất ngày 19 tháng 12 năm Canh Dần (1410), an táng tại làng
Hiền Lương (nay là xã Bình Giang, huyện Thăng Bình). Bình Định Vương Lê
Lợi thương tiếc tặng ông 2 câu đối: “Thiên địa thử gian hoàn cựu vật. Giang sơn
chung cổ biểu tiền công” (Trời đất khoản này hoàn vật cũ. Nước non muôn thuở
rạng công xưa). Đến đời Cảnh Hưng năm thứ 2 (1741), khâm phong là “Cao
Thọ Tập Phước Hầu, Phạm Phủ quân”, Thụy phong “Đại khai tiên chỉ thần”.
3. Sau khi Phạm Nhữ Dự mất, trưởng nam là Phạm Nhữ Tăng dời cơ chỉ tộc
Phạm Nhữ lên làng Hương Ly (nay là làng Hương Quế, xã Quế Phú, Quế Sơn)
định cư và làm tiền hiền tộc Phạm gốc tại Hương Quế. Phạm Nhữ Tăng là một
nhân vật lịch sử lỗi lạc của họ Phạm dưới thời vua Lê Thánh Tông. Ông đã có
nhiều đóng góp lớn lao trong chiến dịch bình Chiêm và di dân, mở mang bờ cõi
phía Nam.
Phạm Nhữ Tăng sinh năm Tân Sửu (1421), thời Minh thuộc. Năm Đại
Hòa thứ ba (Ất Sửu 1445) thời Lê Nhân Tông, ông thi đỗ Đệ nhị Điện Hoằng Từ
khoa được phong làm Thái Bảo kiêm Tri quân Dân chính sự vụ. Năm Quang
Thuận thứ bảy (Đinh Hợi 1467) được ban sắc Phụ chánh Tham tướng phủ,
Quảng Dương hầu Bình Chương quân quốc trọng sự.
Lăng mộ của Phạm Nhữ Tăng ở Hương Quế.
Tháng 8 năm Canh Dần (1470) vua Chiêm là Bàn La Trà Toàn đem quân
tấn công châu Hóa. Thủ ngữ Kinh lược sứ Thuận Hóa là Phạm Văn Hiển chống
không nổi bèn dồn hết dân vào thành để cố thủ và cấp báo về triều đình. Ngày
mùng 6 tháng 11 vua Lê Thánh Tông xuống chiếu thân chinh đi đánh Chiêm
Thành. Phạm Nhữ Tăng được sắc phong làm Trung quân Đô thống lãnh ấn Tiên
phong thượng đại kỳ thêu bốn chữ “Bình Chiêm hưng quốc”.
Vua Lê Thánh Tông ngự giá thân chinh theo sau. Ngày mùng 2 tháng
Giêng năm Tân Mão (1471) vua vào tới Thuận Hóa cho quân ra biển tập thủy
chiến rồi sai thổ tù ở Thuận Hóa là Nguyễn Vũ vẽ bản đồ của Chiêm dâng lên.
Ngày mùng 6, đội quân của tướng Cang Viễn vượt qua đèo Hải Vân tấn công
phòng tuyến Cu Đê, bắt sống tướng Chiêm là Bồng Nga Sa. Ngày mùng 7 tháng
2, Phạm Nhữ Tăng chỉ huy đại quân bao vây Chiêm Động và Cổ Lũy, tướng chỉ
huy là Bàn La Trà Toại đại bại, phải chạy trốn. Ngày 27 tháng 2 vua thân đem
đại quân đánh phá thành Thị Nại, ngày 28 tháng 2, quân ta vây thành Trà Bàn
(kinh đô của Chiêm Thành). Ngày 1 tháng 3 năm Tân Mão (1471), hạ thành Trà
Bàn, bắt sống vua Chiêm là Bàn La Trà Toàn đưa về nước cùng 30.000 quân sĩ
và 50 người trong hoàng tộc bị bắt làm tù binh.
Tháng 6 năm 1471, vua Lê Thánh Tông lấy 3 phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa
và Hoài Nhơn lập thành đạo thứ mười ba là Quảng Nam Thừa tuyên đạo, sáp
nhập vào lãnh thổ Đại Việt, đúng như mục đích xuất chinh mà nhà vua đã nói
trong bài thơ Hải Vân hải môn lữ thứ: “Hỗn nhất thư xa cộng bức quyên” (Gộp
một mối thư xa về một bức dư đồ). Danh xưng Quảng Nam ra đời từ lúc ấy.
Phạm Nhữ Tăng được chỉ dụ ở lại cai quản Thừa tuyên Quảng Nam để
giữ vững an ninh và thực hiện cuộc di dân Nam tiến. Năm 1472, Phạm Nhữ
Tăng được trao chức Đô Ty Quảng Nam kiêm Trấn phủ Hoài Nhơn. Ông cai trị
dân chúng bằng chính sách khoan dung, vỗ an người Chiêm ở lại, giúp họ nhanh
chóng hòa nhập vào cộng đồng người Việt, phát triển kinh tế, áp dụng hình luật
nghiêm minh nhờ thế mà vùng đất mới này sớm ổn định và phát triển. Ông chiêu
mộ dân khai thác phủ Thăng Hoa, tổ chức khai địa bạ, cùng với các bậc tiền bối
các tộc Nguyễn, Trần, Lê tạo lập Ngũ hương gồm năm làng: Hương Quế, Hương
Lộc, Hương An, Hương Yên và Hương Lư.
Năm Hồng Đức thứ 8 (1478) Phạm Nhữ Tăng lâm bệnh nặng và qua đời
ngày 21 tháng 2 năm Mậu Tuất (1478) thọ 57 tuổi. Di hài của ông được an táng
tại Trường Xà Thành nay thuộc quận An Nhơn cách thành Bình Định 6km về
phía tây, sau đó vua Lê Thánh Tông đã cho đưa di hài của ông từ Bình Định về
an táng tại xứ Bàu Sanh làng Hương Quế, xã Quế Phú, huyện Quế Sơn. Vua ngự
bút tặng một tấm trướng: “Nghĩa sĩ uẩn mưu cơ, hiệp lực, nhất tâm bình Chiêm
quốc. Miếu đài khai tráng lệ, hương hồn thiên cổ, hiển Nam bang” (Nghĩa sĩ lắm
mưu cơ, góp sức một lòng bình Chiêm quốc. Miếu đài thêm rạng rỡ, hương hồn
ngàn thuở rạng trời Nam). Vua ban sắc gia phong Hoằng túc trợ võ Đặc tấn, Phụ
quốc Quảng Dương hầu, Phạm Quý công đại phu, cho xây lăng mộ và cấp tự
điền để phụng thờ.
Vua Lê Thần Tông, sắc phong ông là Chánh ngự Nam phương, Phạm phủ
quân, Phò Hựu thượng đẳng thần. Xã dân tôn ông làm Tiền hiền tộc Phạm làng
Hương Quế.
Từ thủy tổ Phạm Nhữ Dực đến Phạm Nhữ Dự, Phạm Nhữ Tăng, gần một
thế kỷ, mấy đời nối tiếp nhau cai quản, xây dựng đất Thăng Hoa. Dân chúng tôn
vinh Phạm Nhữ Dực là “Thượng Tướng Bình Chiêm” và Phạm Nhữ Tăng là
“Tiền hiền làng Hương Quế”, điều đó đã nói lên lòng biết ơn của người dân địa
phương đối với công đức lớn lao mà các danh tướng tộc Phạm đã đóng góp vào
công cuộc mở cõi đầy gian khó buổi đầu.
CHÂU YẾN LOAN
CHÂU YẾN LOAN.Tộc Phạm Quế Sơn với cuộc mở cõi/Châu Yến
Loan//Quảng Nam cuối tuần.-2018.-Ngày 17-18 tháng 11.-Tr.6.
Vùng đất lễ hội
Điện Bàn (Quảng Nam) - vùng đất được thiên nhiên ưu đãi cho những lợi
thế địa hình, có sông, hồ, bãi biền, đồng ruộng, đồi, biển... Từ đó đã định hình
và cấu trúc nên các yếu tố văn hóa vùng rất đặc trưng. Nơi đây còn là vùng đất
hội tụ nhiều giá trị văn hóa, lịch sử, các nền văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa
Chămpa, văn hóa người Việt cùng tiếp nối, giao thoa, phát triển trên mảnh đất
này đã góp phần hun đúc truyền thống yêu nước, tinh thần chống ngoại xâm và
sinh thành nhiều danh nhân, nhiều nhà chí sĩ yêu nước với tên tuổi đã đi vào lịch
sử. Với ý thức tôn tạo và giữ gìn các di tích, lễ hội đặc trưng, Điện Bàn luôn
chăm lo bảo vệ các di tích, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Theo đó, thị
xã Điện Bàn đã xây dựng Đề án về bảo tồn, phát huy các giá trị lễ hội trên địa
bàn thị xã đến năm 2020 định hướng năm 2025 và trình HĐND thông qua nhằm
bảo tồn, phát huy các giá trị lễ hội gắn với phát triển du lịch.
Lễ hội Tịch điền làng Diệm Sơn (Điện Tiến).
Theo thống kê, hiện nay thị xã Điện Bàn có gần 20 lễ hội truyền thống và
hiện đại, gồm các lễ hội ngành nghề; lễ hội suy tôn, thờ phụng thần linh, nhân
vật gắn với quá trình thành lập làng xã; lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng và lễ hội
trong các dịp tết cổ truyền. Như lễ hội cầu ngư (Điện Dương), giỗ tổ nghề đúc
đồng Phước Kiều (Điện Phương), lễ hội Thanh minh (Điện Quang), giỗ tổ Hùng
Vương (Điện Trung), ngày hội Dinh Trấn Thanh Chiêm (Điện Phương), lễ hội
Tịch điền làng Diệm Sơn (Điện Tiến)... Trong đó, không ít lễ hội đã trở thành
nét đẹp văn hóa truyền thống của một vùng miền, được người dân địa phương
duy trì qua nhiều thế hệ. Với sự đa dạng, phong phú trong đời sống tâm linh,
môi trường tự nhiên, văn hóa, xã hội đã tác động tới mọi mặt của đời sống vật
chất cũng như sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người dân thông qua di tích và
lễ hội. Tuy nhiên, do tác động của nhiều yếu tố trong bối cảnh hội nhập, toàn
cầu hóa nên việc bảo tồn và tổ chức các lễ hội trên địa bàn thị xã còn gặp nhiều
khó khăn, công tác quản lý lễ hội chưa có sự phân cấp rõ ràng; các lễ hội chỉ tổ
chức được trên quy mô nhỏ; công tác tuyên truyền, quảng bá, bảo tồn các giá trị
văn hóa truyền thống còn theo thời vụ...
Theo Phòng VH-TT thị xã Điện Bàn, việc tổ chức các lễ hội ở Điện Bàn
được người dân và chính quyền các cấp luôn quan tâm, hỗ trợ, tạo mọi điều kiện
tốt nhất để thực hiện. Nhờ đó, một số lễ hội truyền thống đã được khôi phục,
phát huy, đáp ứng nhu cầu phát triển của đời sống xã hội. Tuy nhiên, do tác
động của nhiều yếu tố đã dẫn đến những thay đổi về bối cảnh, không gian tồn tại
và tính chất của lễ hội, khiến công tác bảo tồn và tổ chức lễ hội trên địa bàn thị
xã gặp nhiều thách thức. Việc phục hồi, tổ chức các lễ hội thời gian tới cần được
định hình quy củ nhằm đảm bảo được bản sắc truyền thống nhưng không bị lạc
hậu với đời sống văn hóa hiện nay, vì vậy Đề án bảo tồn, phát huy các giá trị lễ
hội trên địa bàn thị xã đã ra đời.
Lễ rước kiệu trong Lễ hội Thanh Minh, xã Điện Quang.
Lễ hội ở Điện Bàn mang những giá trị văn hóa đã được hun đúc và trải
qua quá trình tồn tại lâu dài, mang đậm bản sắc vùng đất và con người nơi đây
nên có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng dân
cư, được chính người dân duy trì và phát huy, như Lễ hội Tịch điền làng Diệm
Sơn, được tổ chức ngày 1-10 âm lịch hàng năm, để tưởng nhớ vị tiền hiền đã có
công khai phá, xây dựng làng Diệm Sơn và cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa
màng tốt tươi, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Lễ hội Thanh minh (Điện Quang)
diễn ra vào tiết Thanh minh tại các nhà thờ tộc trên địa bàn Gò Nổi nhằm tưởng
nhớ công đức tiền nhân có công khai khẩn vùng đất; đây còn là ngày giỗ tổ
chung của các dòng tộc trong làng. Hơn 10 năm qua, lễ hội Thanh minh đã mở
rộng ra các tộc họ khác, trở thành hoạt động thu hút sự tham gia của con cháu
vùng đất Gò Nổi khắp nơi cũng như chính quyền địa phương nhằm nâng tầm lễ
hội lên mức quy mô, thiết thực. Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống,
tiếp nhận các giá trị, tinh hoa văn hóa các vùng miền là hướng đi bền vững để
Điện Bàn tiếp tục thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
T.HOA
T.HOA.Vùng đất lễ hội/T.Hoa//Công an Đà Nẵng.-2018.-Ngày 20 tháng 11.-
Tr.6.
NHÂN KỶ NIỆM CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI
NGA (7.11.1917):
Nước Nga mãi trong tim Ông Đinh Xuân Thảo - nguyên Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Quảng Nam chia sẻ câu chuyện, kỷ niệm của mình gắn liền với xứ sở
bạch dương và những người bạn Nga.
Ông Đinh Xuân Thảo (thứ hai, bên trái) chụp hình lưu niệm cùng
những người bạn Nga nhân kỷ niệm 20 năm ngày thượng cờ Nga tại
lãnh sự quán ở Đà Nẵng (10.2018). Ảnh: HỒNG VÂN
Quê xã Hương An, Quế Sơn, ông Đinh Xuân Thảo biết cầm vũ khí đánh
địch khi cao chỉ nhích hơn cây súng trường. Cuối năm 1969, lúc này 17 tuổi,
ông được đưa ra Bắc học tập. Bố ông từng nuôi giấu các đồng chí lãnh đạo Tỉnh
ủy (nhà ở quê được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh) sau đó tập kết ra Bắc
nên ngày cha con đoàn tụ cũng là ngày ông Thảo nhận mệnh lệnh của bố “phải
học cho giỏi”. Từ cố gắng của mình trong học tập, mùa hè năm 1975, lúc này
miền Nam đã giải phóng, ông Thảo được cử đi học ngành luật ở Azerbaijan,
thuộc Liên bang Xô-viết.
Kỷ niệm về 3 cô giáo
Ông Thảo theo học tại Trường Đại học tổng hợp quốc gia Baku - nơi có
hàng nghìn du học sinh Việt Nam trưởng thành. Trong một năm học dự bị tiếng
Nga, ông và các bạn được sống trong tình thương của cô giáo Tamara hiền dịu.
Yêu quý cô, ngày 20.11, cả lớp mang hoa cẩm chướng, bánh ga tô đến chúc
mừng. Cô rất ngạc nhiên và khen ở Việt Nam có một ngày thật tuyệt vời mà
không phải nơi nào cũng có. Rồi cô mang nhiều thức ăn ngon chiêu đãi học trò
một bữa thỏa thích. Kỷ niệm nhớ mãi là vào ngày 1.5, nhà trường có chương
trình dạ hội. Theo phong tục ở đây, phụ nữ có quyền mời bất cứ nam giới nào
cùng nhảy. Cô Tamara lần lượt nhảy với từng học sinh trong lớp, nhưng có một
anh có lẽ tự ti về khả năng của mình nên đã từ chối. Thật bất ngờ, cô khóc và nói
rằng, Việt Nam đã thoát ra khỏi chiến tranh, sinh viên qua đây phải trở thành
người mạnh mẽ để trở về xây dựng đất nước, vậy mà vẫn có thanh niên chưa
dám khẳng định mình. Câu nói của cô đã làm động lực mạnh mẽ cho cả lớp sau
đó trong học tập, rèn luyện.
Ngoài cô giáo Tamara, ông Thảo và các bạn vẫn luôn giữ ký ức tốt đẹp về
tiến sĩ Melicova dạy môn Lý luận nhà nước và pháp luật (sau này là Viện sĩ
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Liên bang Xô-viết) - người cực kỳ thông tuệ.
Nghe cô giảng bài, những cậu học sinh lớn lên trong chiến tranh chỉ biết há hốc
mồm trước chân trời tri thức rộng lớn. Nói về sự ra đời của pháp luật, cô lấy ví
dụ về bộ luật Hồng Đức thời nhà Lê của Việt Nam để các trò có sự liên tưởng
gần gũi. Điều đó cho thấy cô sâu sắc biết chừng nào. Hay cô Suster Khanum dạy
môn Luật Tố tụng hình sự - một giáo viên nghiêm khắc đến khó tính. Bà luôn
nói rằng bộ môn này không khác y khoa, bởi đều liên quan đến số phận con
người; một sự chủ quan, sơ sẩy do kém hiểu biết phải trả giá đắt. Ngày thi bộ
môn vấn đáp để tốt nghiệp, bà không biết mệt mỏi, ngồi vặn vẹo các trò từ sáng
đến tối. Có anh suýt ngất xỉu vì bị truy vấn, bắt bài... Bật cười khi nhớ kỷ niệm
xưa, ông Thảo chia sẻ: “Những năm đó, miền Bắc chưa có trường luật, nước ta
cũng chưa có Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy, những tri thức cô dạy vô cùng
quý giá cho nghề nghiệp chúng tôi sau này. Càng hiểu vì sao cô đòi hỏi khắt khe
đến vậy”.
Ông Đinh Xuân Thảo tâm sự, khó có thể nói hết sự ưu ái của bạn dành
cho du học sinh Việt Nam. Sinh viên thường xuyên có các chuyến tham quan
hoặc thực tập trong tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, viện nghiên cứu tại
thành phố Baku. Hàng năm mỗi dịp hè, trường tạo điều kiện để học viên đi nghỉ
dưỡng tại Azerbaijan hoặc các nước lân cận.
Giữ ấm một tình yêu
Sau 6 năm miệt mài trên giảng đường với sự phấn đấu không ngừng, ông
Đinh Xuân Thảo tốt nghiệp loại ưu. Về nước, làm việc tại Viện Kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, ông Thảo tìm đọc, dịch các tài liệu về con
người và luật pháp của nước Nga sang tiếng Việt gửi đăng trên tạp chí Kiểm sát
với mục đích giúp cán bộ trẻ có thêm kiến thức chuyên ngành. Nhờ đó, vốn
tiếng Nga sau khi về nước không bị mai một mà còn được ông Thảo phát huy.
Cũng chính vì thế, ông Thảo được chọn làm phiên dịch các lớp bồi dưỡng cho
cán bộ ngành Kiểm sát Việt Nam do bạn tổ chức tại Moscow và Leningrat suốt
8 năm.
Cuối những năm 1980, trong điều kiện đối mặt nhiều khó khăn, Nga vẫn
cử chuyên gia sang lắp đặt các phương tiện phục vụ hoạt động cho ngành Kiểm
sát Việt Nam. Được cử làm người phiên dịch trong những lần này, ông Thảo
càng thêm trân trọng tình nghĩa trước sau như một của con người và đất nước
Nga vĩ đại... Năm 2010 ông Thảo có dịp trở lại thăm Trường Nâng cao cán bộ
ngành Kiểm sát Liên Xô ở Moscow khi cùng đoàn công tác của Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao Việt Nam sang Nga. Điều day dứt với ông là vẫn chưa có dịp
thăm lại trường Đại học Tổng hợp quốc gia Baku, nơi lưu giữ kỷ niệm thời sinh
viên sôi nổi của một thế hệ trẻ Việt Nam ngày ấy.
Điều đáng quý là khi còn đương chức hay đã nghỉ hưu, ông Đinh Xuân
Thảo luôn giữ ấm tình yêu với đất nước Cách mạng tháng Mười bằng những
việc làm giản dị. Hàng năm vào các ngày Quốc khánh Nga, Ngày Chiến thắng
phát xít…, ông đều đến thăm, tặng hoa Lãnh sự quán Nga tại Đà Nẵng. Ngôi
nhà của ông cũng là nơi những người bạn ở Lãnh sự quán Nga thi thoảng đến
hàn huyên, ăn những bữa cơm đầu năm hay dịp có sự kiện lớn của hai đất nước.
“Chúng tôi biết ơn nước Nga đã cho lớp sinh viên trường luật ngày ấy các nền
tảng cơ bản để áp dụng thiết thực trong công việc của mình. Nước Nga thủy
chung và nhân hậu sẽ mãi trong trái tim tôi” - ông Thảo thổ lộ.
HỒNG VÂN
HỒNG VÂN.Nước Nga mãi trong tim/Hồng Vân//Quảng Nam.-2018.-Ngày 7
tháng 11.-Tr.6.
Chuyện dũng sĩ Điện Ngọc cuối cùng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Tám (bí danh Rìu),
dũng sĩ cuối cùng trong trận giếng cạn Điện Ngọc (Điện Bàn) lịch sử đã qua
đời ngày 23.10.2018 ở tuổi 81 khiến nhiều người thương tiếc.
Anh hùng LLVTND Nguyễn Tám (thứ hai trái sang) với đoàn công
tác Thành ủy Đà Nẵng (4.2018). Ảnh: H.V
Người bắt quả lựu đạn xoay vòng
Chưa kịp hưởng hết niềm vui khi căn nhà ở số 61 Hà Huy Giáp, Đà Nẵng
sẽ được sửa sang “thay áo” mới thì người anh hùng đã ra đi sau một cú ngã chấn
thương. Về hưu trên cương vị Phó Chánh tòa Hình sự Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam - Đà Nẵng, ông Nguyễn Tám loay hoay mấy mươi năm với bệnh
tật. Trí nhớ không còn tốt, nhưng lần gặp ông hôm tháng 3 thì những gì diễn ra ở
trận giếng cạn Điện Ngọc 56 năm về trước ông lại kể khá rành mạch.
Quê Duy Phú, Duy Xuyên, hành trình của chàng thanh niên Nguyễn Tám
đến với cách mạng đầy cam go. Vượt qua tất cả, ông về đội công tác H29 tung
hoành ngang dọc trên đất Quảng. Cái tên Rìu ông làm bí danh cũng từ một
người anh Bảy Búa rất thân thiết trong đội (sau này trong giấy tờ là Riều). Đêm
25.4.1962, Đại đội đặc công Quảng Nam - Đà Nẵng được giao nhiệm vụ tổ chức
một trung đội thọc sâu về vùng cát Điện Nam - Điện Ngọc phá thế kìm kẹp của
địch. Đội có 7 người, trong đó có ông, vượt sông Tứ Câu về Điện Ngọc nhưng
cơ sở đã bị lộ. Địch tập trung lực lượng lớn gồm biệt kích, tổng đoàn, dân vệ
ước khoảng 2.000 tên với đầy đủ vũ khí đạn dược. Cuộc chiến đấu không cân
sức quanh giếng cạn đã diễn ra suốt 4 tiếng đồng hồ. Hết đạn, từ sáng kiến của
Nguyễn Tám, các anh chụp lựu đạn của kẻ thù ném lại chúng, tiêu diệt và làm bị
thương hàng trăm tên. Lần lượt các chiến sĩ hy sinh chỉ còn lại 4 người đều bị
thương. Nguyễn Tám bị thương nặng nhất. Dẫu cả thân mình đầy vết đạn, nhưng
đội phó Võ Như Hưng vẫn lấy hết sức lực dìu Tám vượt qua vòng vây, bó chõng
tre làm bè đẩy bạn qua sông, nhiều lần bè trôi dạt vẫn cố bám cho đến khi vào
được bờ an toàn. Chiến công to lớn của đội công tác đã được Mặt trận Dân tộc
giải phóng Khu Trung Trung Bộ phong tặng danh hiệu Bảy dũng sĩ Điện Ngọc
và tặng Huân chương Giải phóng hạng Nhất.
Ra Bắc điều trị vết thương, ai cũng nghĩ Nguyễn Tám bình phục đã là
điều may mắn. Nhưng ông còn có thể làm nhiều hơn thế. Sức trẻ cùng với khao
khát vào Nam luôn thúc giục ông trui rèn ý chí. Ông khai chỉ bị thương 21% để
cấp trên dễ cho vào lại chiến trường. Học lớp tình báo ở Học viện Quân sự rồi
về làm giáo viên huấn luyện trường bổ túc bộ đội Đặc công ở Hà Nội, ông đã
góp phần đào tạo nhiều lớp đặc công thời đó. Ông xin về Bắc Giang để tuyển,
huấn luyện và đưa một tiểu đoàn đặc công vào Nam. Khi lực lượng đã tập trung
ở Gia Lâm, Hà Nội chuẩn bị lên đường thì một biến cố xảy ra. Vết thương tái
phát dữ dội. Không chịu đến bệnh viện, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Tám bảo đơn
vị đưa về Thường Tín, Hà Tây, nơi người vợ hiền đang sơ tán cùng con trai nhỏ.
Vào sân nhà, ông chỉ kịp gọi “Tiến!” rồi hôn mê. Cuộc đời ông những tháng
ngày sau đó gắn liền với bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Nỗi nhọc nhằn
của bà Trịnh Thị Hồng Tiến cũng bắt đầu cho đến tận bây giờ.
Có một tình yêu đẹp
Xinh đẹp, nhiều vệ tinh vây quanh lúc trẻ, bà Tiến, vợ ông nói rằng tình
vợ chồng bắt đầu từ tình đồng hương. Tám tuổi, cô bé Tiến quê Bình Sa, Thăng
Bình đã được các cô chú đưa ra Bắc trước khi cả cha mình tập kết. Học trường
miền Nam rồi sau đó học ngành hóa thực phẩm, lúc này trường đang sơ tán ở
Bắc Giang thì bà gặp Tám Rìu xuống thăm người bạn. Khi ông hỏi: “Có ai
Quảng Nam đồng hương không?”. Bà giật thót. Đã nghe kể về cả ngàn tên lính
phải thua Bảy dũng sĩ Điện Ngọc nay lại được mọi người giới thiệu người thật
việc thật, trong bà trào dâng niềm kính phục người con trai từ cõi chết trở về.
Vậy là dần dà họ nên duyên. Cũng giận hờn, dông bão, đôi lúc tưởng chừng
không thể đến được, nhưng bà chấp nhận hết. Đi học bồi dưỡng ở Ba Lan rồi về
Viện Công nghệ thực phẩm, có thể thăng tiến nắm các chức vụ tốt nhưng rồi làm
vợ ông, bà chịu nhiều hy sinh.
Khi bà đang sơ tán ở Hà Tây cùng con trai Tấn Anh thì người ta đưa ông
về vừa lúc mê man. Không có phương tiện gì khác, bà dìu ông lên chiếc xích lô
đi đến nửa ngày mới đến Bệnh viện 108. Suốt 5 tháng ở đây, bà gửi con cho các
gia đình mình ở nhờ để tập trung chăm chồng, có về thăm con thì đôi ngày lại
lên. Hai lần ông Tám đã ăn chế độ tự do - thực đơn cao nhất dành cho người khó
có cơ hội sống. Vậy mà sức sống diệu kỳ, ông trở về từ cõi chết.
Giải phóng miền Nam, đang công tác ở Bộ Tư lệnh Đặc công, Nguyễn
Tám xin về lại quê hương, mong muốn chuyển sang làm dân chính. Tỉnh bố trí
ông về tòa án. Chưa có chút kiến thức nào chuyên ngành, ông ôm sách vở đi học
ở TP.Hồ Chí Minh đến 3 đợt. Tính trung thực, thẳng thắn, không dung tha
những ai trục lợi trên xương máu của những người đã hy sinh và thương tật, ông
đã xử nhiều vụ có tiếng ngày ấy. Năm 1989, thủng dạ dày phải mổ, điều trị chưa
lành, ông vẫn đi xử ở huyện Phước Sơn. Bà Tiến lúc này đang làm ở Sở Lương
thực của tỉnh xin nghỉ hưu sớm để đi theo chăm lo sức khỏe cho ông. Niềm hạnh
phúc của ông bà là người con trai Nguyễn Tấn Anh nối nghiệp cha làm ở Tòa án
nhân dân TP.Đà Nẵng. Tiếng cháu nội ríu ran mỗi chiều làm căn nhà vui tươi,
trẻ trung hơn.
Căn nhà cấp 4 của vợ chồng chỉ chừng 60m2 đã xuống cấp vậy mà bao
nhiêu năm nay vẫn chưa có điều kiện sửa chữa. Với mức lương hưu 6 triệu đồng
mỗi tháng của ông bây giờ, của bà còn ít hơn, chỉ vừa đủ thuốc men và duy trì
sinh hoạt. Nghĩ rằng khó có thể làm gì khác thì niềm vui đến với gia đình ông.
Thông qua các kênh thông tin, sự vận động của địa phương, có doanh nghiệp
quyết định hỗ trợ 60 triệu đồng, UBND quận Hải Châu hỗ trợ thêm 30 triệu
đồng để ông Nguyễn Tám sửa nhà, rồi cựu chiến binh TP.Đà Nẵng tổ chức
thăm, tặng quà...
Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Tám đã ra đi thanh thản trong tình
đồng đội, đồng chí ấm áp, thủy chung.
HỒNG VÂN
HỒNG VÂN.Chuyện dũng sĩ Điện Ngọc cuối cùng/Hồng Vân// Quảng Nam.-
Ngày 30 tháng 10.-Tr.6.
Đất Quảng qua du ký của người Đài Loan xưa
Trong lịch sử, có nhiều người nước ngoài đi thuyền bị trôi dạt vào đất
Quảng, chủ yếu là người Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản. Sau đó, họ đã
viết lại những điều tai nghe mắt thấy về vùng đất này, tạo thành một thể tài
du ký “phiêu dạt”.
Trang bìa bản sao chép tay Hải
Nam tạp trứ. Hiện lưu trữ tại Thư
viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm
(kí hiệu VHv.80/2)
Ban đầu, những tác phẩm du ký này chỉ thuần túy là sự ghi chép của
những người phiêu dạt, nhưng về sau nó lại trở thành nguồn tư liệu của nước
ngoài có giá trị về Việt Nam nói chung và đất Quảng nói riêng. Hải nam tạp trứ
của Thái Đình Lan là một ví dụ.
Từ câu chuyện thuyền buôn
Sách Đại Nam thực lục của triều Nguyễn có chép một sự kiện: “Có chiếc
thuyền buôn của người Phúc Kiến nước Thanh đi sang đảo Đài Loan, bị gió bão
trôi dạt (…). Trên thuyền có lẫm sinh Thái Đình Hương được đặc cách gia ơn
cấp thêm cho tiền 50 quan, gạo 20 phương, đợi khi thuận tiện sẽ cho đưa về
nước”. Theo nhà nghiên cứu Trần Ích Nguyên (Đại học Thành Công - Đài
Loan), Thái Đình Hương trong sử tịch trên chính là Thái Đình Lan, do triều
Minh Mạng kiêng húy, quy định đổi chữ Lan thành chữ Hương.
Thái Đình Lan (1801 - 1859) “húy Sùng Văn, tự Trọng Chương, húy
Hương Tổ”, là một người “Thất tuế năng văn, Bành vị hữu; Thập tam nhập
phán, Đài hy văn” (Bảy tuổi làm văn, đất Bành Hồ chưa từng có; Mười ba nhập
học, Đài Loan cũng hiếm nghe”). Qua mấy lần khảo hạch ông đều đứng đầu (…)
Năm Đạo Quang thứ 24 (1844) dự thi Hội, đỗ tiến sĩ” (những trích dẫn ở đây do
Ngô Đức Thọ dịch). Hải nam tạp trứ gồm 2 quyển. Quyển Thượng chia làm 3
thiên là Thương minh kỷ hiểm (Biển khơi gặp nạn), Viêm hoang kỷ trình (Đi
đường trên đất phương Nam), Việt Nam kỷ lược (Lược ghi về Việt Nam).
Quyển Hạ đều là thơ xướng họa dọc đường bộ từ Quảng Ngãi ra đến Lạng Sơn,
song chưa được khắc in phát hành. Văn bản Hải nam tạp trứ có tương đối nhiều,
lưu trữ ở nhiều quốc gia bao gồm bản khắc in đời Thanh, bản sao ở Việt Nam,
bản in xếp chữ, bản dịch (Nga văn, Pháp văn, Nhật văn, Việt văn).
Lâu nay những thư tịch sử - địa như Phủ biên tạp lục, Quảng Thuận đạo
sử tập, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí hay Đại Nam nhất thống chí thường
mô tả đường đi ở đất Quảng theo chiều Bắc - Nam, nhưng Thái Đình Lan đã
“vẽ” lại theo chiều từ Nam ra Bắc, đi từ Quảng Ngãi ngược ra đến tỉnh thành
Quảng Nam. Tác phẩm du ký Hải nam tạp trứ chép: “Từ tỉnh thành Quảng Ngãi
đi 40 dặm đến bến Đò Ván (…). Ngày hôm sau đi bốn mươi dặm nữa đến Bàn
Khẩn (từ Bản Khẩn nếu ngồi thuyền một ngày đêm đến Quảng Nam). Qua sông
đi 20 dặm đến Chợ Ván (Đường Âm gọi là Zuo Wan). Lại đi 160 dặm nữa đến
tỉnh thành Quảng Nam (tục gọi là Huệ An (tức Hội An - NV); thành tỉnh ấy tục
gọi là Thành Quỳ). Cách thành tỉnh 20 dặm là phố Huệ An (người Trung Quốc ở
đây rất đông)”.
Tác phẩm Hải nam tạp trứ in trong bộ Đài Loan
văn hiến sử liệu tùng san (xuất bản ở Đài
Loan).
Thái Đình Lan bắt gặp một loại thuyền đặc trưng của đất Quảng, đã ghi
chép chi tiết và khảo cứu tỉ mỉ: “Có loại thuyền gọi là thuyền Nha Tử (loại lớn
chứa được 200 tạ). Đài Loan quận chí ghi: Năm Khang Hy thứ 56 (1717), có
chiếc thuyền đinh nhỏ, gặp bão dạt đến Bành Hồ, tức loại thuyền này. Đáy
thuyền dùng phên tre đan thành, phía ngoài phết dầu dừa, chỉ trên thuyền thì
dùng phiến gỗ. Những thuyền nhỏ khác đều thế cả. Cũng có thuyền đáy gỗ,
dùng mây buộc kín chỗ phiến gỗ ghép nhau. Khi nước rỉ vào thì dùng gáo gỗ
múc nước ra (ở đây không sản xuất thép, nên thuyền nhỏ không dùng đinh sắt).
Sách Hải quốc văn kiến lục nói có loại thuyền cán không có đầu không có đuôi,
chìm trong nước, đóng đinh dày, buộc dây nhiều ở ván dưới đáy thuyền, từ xa,
dùng vài trăm chiếc thuyền khua mái chèo mà kéo cho thuyền mắc trên cạn.
Thuyền phương Tây rất sợ khi thấy loại thuyền cán Quảng Nam, có thể là loại
thuyền Nha Tử đã thấy”.
Đến nhận định có thể tham khảo
Thái Đình Lan nhận định Hội An là thương cảng quan trọng đứng thứ 2
trong cả nước: “Nơi tụ tập thuyền Trung Quốc, phần nhiều ở Gia Định, thứ đến
Quảng Nam (tức Huệ An)… Phố chợ đông vui hay tiêu điều, thuế thu nhiều hay
ít, lễ vật hậu hay bạc đều phải xem buôn to hay nhỏ, nhiều hay ít. Thuyền buôn
mùa đông thì tới, mùa hạ thì quay về” và khẳng định: “Đại thể thì vùng biển
mừng nhất là thuyền bè tấp nập, hàng hóa lưu thông”.
Hệ thống canh giữ, phòng thủ trên đường đi rất nghiêm cẩn, nhất là đèo
Hải Vân. Dưới chân đèo bố trí “đồn binh”, qua một đèo nhỏ thì “đến mé ngoài
một thôn nhỏ có đồn canh của quan thủ tấn, xét hỏi rất nghiêm ngặt”, trên đỉnh
đèo thì “đặt một viên đồn thủ và mấy chục tên lính cứng mạnh, khí giới súng
ống bày la liệt, đúng là con chim cũng không bay qua nổi”. Tiếp tục “xuống
khỏi ba đèo nhỏ” thì “có một thị tứ nhỏ có đặt đồn xét hỏi”. Thái Đình Lan rất
ấn tượng với Tuần phủ Nam Ngãi: “Quan tuần phủ họ Phan tên Thanh Giản hiệu
Mai Xuyên, là tiến sĩ xuất thân, từng sang sứ Trung Quốc. Trước quan nhậm
chức Đông các Đại học sĩ, vì việc gì đó bị giáng đi giữ chức ở ngoài, điều bổ giữ
chức hiện nay. Phan công là người tài học uyên bác, tính tình khiêm tốn, nhã
nhặn, một ngày hôm ấy mời tôi ngồi nói chuyện hai lần, tặng tôi 5 quan tiền
cùng mấy thứ trà, bánh. Tôi có làm thơ xướng họa cùng Phan công”.
Bóng dáng Ngũ Hành Sơn được miêu tả: “Núi Tam Thai sừng sững mọc
lên giữa biển (Giữa biển có ba ngọn núi đá gọi là núi Tam Thai, trong núi có
hang động rộng lớn, vòm vách do thiên nhiên tạo thành). Núi cao nhô lên mặt
biển chừng hai trượng, trông xa thấy sừng sững”. Với tài năng “xuất thân văn
học” như lời khen của vua Minh Mạng, Thái Đình Lan đã khắc họa Hải Vân trở
thành một hình ảnh đậm chất văn chương: “Tiếp đó theo chân núi mà đi lên,
quanh co theo đường bậc đá hơn 10 dặm, hai bên gai góc um tùm, lau lách tua
tủa như lông nhím. Từng bầy chim nhỏ kêu ríu rít trong các lùm cây, tiếng kêu
trăm điệu biến hóa. Hoa dại nở tung khắp nơi, cánh rụng lả tả đầy núi, phong
cảnh thật không bút nào tả xiết. Lên được quá nửa thấy thế núi cao lưng trời, bậc
đá chồng nhau như vảy cá, trông như chiếc thang mây nghìn trượng”. Hoặc cảnh
làng quê yên bình, trù phú: “Đi đường trên đất Quảng Nam, thấy lúa má tươi tốt,
những chân ruộng mạ mới gieo xanh mượt như nhung, cò trắng đậu giữa đồng
im phắc không cử động, những rặng cây mờ xa tít tắp”.
Học giả Đài Loan nhận định tác phẩm du ký Hải nam tạp trứ hay còn gọi
Việt Nam kỷ lược “đáng được coi là một công trình bước đầu môn dân tộc chí,
có những hiểu biết ở một mức độ nào đó về Việt Nam. Trước thuật của người
Đài Loan viết về lịch sử, văn hóa dân tộc của nước ngoài, có thể sách này là
cuốn đầu tiên”. Hải nam tạp trứ của Thái Đình Lan là một thư tịch cổ quan trọng
để tìm hiểu về đất Quảng.
NGUYỄN DỊ CỔ
NGUYỄN DỊ CỔ.Đất Quảng qua du ký của người Đài Loan xưa/Nguyễn Dị
Cổ//Quảng Nam cuối tuần.-2018.-Ngày 10-11 tháng 11.-Tr.11.
Cân bằng phát triển di sản
Thương tổn bởi áp lực phát triển gây ra cho bản thân di sản mỗi ngày
một nhiều hơn. Không phải câu chuyện mới, nhưng đã đến lúc các địa
phương phải cân nhắc đến việc cân bằng giữa tận dụng lợi thế di sản và đầu
tư trở lại để bảo tồn di sản...
Hội An đang sụt giảm dòng khách Âu, Mỹ vì rất nhiều vấn đề trong
câu chuyện chọn lọc phát triển của mình.
Bổ trợ cho di sản
Ông Phan Hộ - Giám đốc Ban Quản lý Khu đền tháp Mỹ Sơn (Duy
Xuyên) thông tin, hiện bản quy hoạch dành cho Mỹ Sơn đã có, với diện tích hơn
1.158 hecta, trong đó có 32 hecta là vùng lõi di sản. Với các nhóm giải pháp
nhằm vừa thực hiện bảo tồn di sản vừa có thể tận dụng lợi thế di sản để phát
triển kinh tế địa phương, ông Phan Hộ cho biết, ban quản lý đang tính toán đến
câu chuyện kết hợp với chính quyền huyện Duy Xuyên và cộng đồng người dân
sống ở các vùng đệm xung quanh để xây dựng những sản phẩm du lịch văn hóa
bổ trợ cho di sản. Hiện nay du lịch cộng đồng ở Mỹ Sơn tuy không mạnh mẽ
như tại Hội An, nhưng so với nhiều năm trước đây, người dân sở tại đã ý thức
được về phát triển du lịch và quan tâm hơn đến việc đầu tư cảnh quan, không
gian.
Ông Nguyễn Phước Hùng - Trưởng ban quản lý Làng du lịch cộng đồng
Mỹ Sơn cho biết, có 21 hộ trong tổng số 280 hộ của thôn Mỹ Sơn (xã Duy Phú)
tham gia làng du lịch cộng đồng. “Các dịch vụ lưu trú, nấu ăn, hướng dẫn trải
nghiệm bằng du thuyền tại đập Thạch Bàn và sông Thu Bồn đang hoàn thiện
dần mỗi ngày” - ông Nguyễn Phước Hùng nói. Việc củng cố lại Làng du lịch
cộng đồng Mỹ Sơn sau nhiều năm ILO kết thúc dự án của mình, theo ông Phan
Hộ, chính là hoạt động để bổ trợ thêm cho du lịch di sản Mỹ Sơn. “Chúng tôi sẽ
tính đến việc đưa các sản phẩm truyền thống của người dân quảng bá và giới
thiệu tại các điểm dừng chân ở khu đền tháp, như dầu chổi, đồ mỹ nghệ từ đá,
đồng thời sẽ tổ chức để nghệ nhân trình nghề. Ngoài ra, ban quản lý sẽ đưa kinh
phí in toàn bộ tập gấp giới thiệu về Làng du lịch cộng đồng Mỹ Sơn đến với du
khách” - ông Phan Hộ nói.
Tại Hội An, những vùng ven
đang bị cày xới và bê tông hóa. Chưa kể
những áp lực về dân số và sự phát triển
ồ ạt của nhiều loại hình dịch vụ du lịch
đưa vùng đất này rơi vào tình trạng quá
tải. Cùng với đó, theo ông Nguyễn Văn
Sơn - Phó Chủ tịch UBND TP.Hội An,
cơ sở hạ tầng và các tuyến giao thông
chính phục vụ du lịch đang quá tải và
xuống cấp nghiêm trọng; nguồn lực lao
động có đào tạo và chất lượng trong lĩnh
vực du lịch tại Hội An vẫn thiếu hụt rất
lớn. Đó chính là các thách thức đặt ra để
Hội An buộc phải tổ chức quy hoạch
bảo tồn, tu bổ và phát huy giá trị di sản
dựa vào việc giải quyết các mâu thuẫn
từ những sự biến động của đời sống.
Tuy nhiên, ở một góc độ khác, Hội An
ngày càng xuất hiện nhiều nhà đầu tư
cho di sản. “Xét về mặt tổng thể, việc
thu hút nguồn lực đầu tư vào di sản là
chuyện tốt, nhà đầu tư đóng góp cho
ngân sách nhà nước, thì nguồn kinh phí
đầu tư trở lại cho bảo tồn, trùng tu di
tích sẽ tốt hơn” - ông Nguyễn Chí Trung
- Giám đốc Trung tâm Quản lý và bảo tồn di sản văn hóa Hội An nói.
Lo ngại “bóc lột” di sản
Việc tận dụng lợi thế di sản vì các lợi ích kinh tế đang diễn ra ngày một
đáng lo ngại. Một số doanh nghiệp đầu tư vào di sản chỉ khai thác du lịch dựa
trên tài nguyên sẵn có mà không quay lại bảo tồn, không đối thoại khi lập kế
hoạch khai thác, tăng trưởng quá nóng, có quy định mà thực hiện không
nghiêm... Nỗi lo về sự “bóc lột” di sản, đặc biệt tại đô thị cổ Hội An là điều đã
được nhìn thấy. Ông Nguyễn Chí Trung nói thêm, vấn đề cần làm rõ là di sản
văn hóa không chỉ có yếu tố phát huy mà cần đặt lên bàn cân cả câu chuyện bảo
tồn. “Đối với Hội An, các nhà đầu tư lớn đã xuất hiện và không thể phủ nhận sự
đóng góp của họ trong việc tạo thêm nhiều sản phẩm du lịch văn hóa mới hấp
dẫn và giữ chân du khách. Tuy nhiên, vấn đề là di sản rất nhạy cảm, chính quyền
cần phải tính toán kỹ lưỡng những vị trí dành cho nhà đầu tư để phù hợp với
cảnh quan chung của di sản, không nhất thiết phải áp sát khu phố cổ” - ông
Trung nói. Vấn đề của Hội An được nhìn nhận là do thiếu một bản quy hoạch
Hỗ trợ người dân kể chuyện di sản
Du lịch di sản phải làm như thế nào
để đi đến việc dung hòa giữa bảo tồn
và đầu tư phát triển những sản phẩm
du lịch mới? Theo các chuyên gia
UNESCO, du lịch di sản cũng cần
đặt trên những nguyên tắc của phát
triển bền vững. Ở đó, liên kết giữa
cộng đồng giữ gìn di sản với di sản
và khách du lịch vô cùng quan trọng.
Đồng thời việc quản lý di sản cũng
đã bắt đầu được nhìn nhận với các
điều luật hợp thời hơn. Bộ VH-
TT&DL đã có kiến nghị lên Chính
phủ cần sửa đổi, bổ sung Luật Di sản
văn hóa. Theo đó, cần mở rộng chính
sách đãi ngộ đối với nghệ nhân; hoàn
thiện các quy định thuộc lĩnh vực bảo
quản tu bổ phục hồi di tích nói
chung, di sản thế giới nói riêng; bổ
sung di sản tư liệu vào Luật Di sản
văn hóa để có thể nhận diện giá trị và
lập danh mục di sản tốt hơn.
tổng thể và nhất quán từ vùng lõi di sản đến vùng đệm, dẫn đến những nhập
nhằng và mâu thuẫn.
Khu đền tháp Mỹ Sơn đang nỗ lực để bảo tồn, trùng tu đồng thời
phát triển du lịch di sản...
Những hoạt động xây dựng tại Hội An hay câu chuyện về cấp phép đầu tư
các công trình dân sinh... cho thấy những vấn đề bất cập về quản lý tại các khu
di sản. Ông Michael Croft - Trưởng Đại diện Văn phòng UNESCO Việt Nam
cho biết, có nhiều “điểm đen” cản trở hiệu quả quản lý di sản. “Chúng ta có quy
định cụ thể về nguyên tắc, về quá trình phê duyệt, nhưng vẫn thấy có công trình
được xây. Một số trong đó bị cơ quan quản lý dừng, nhưng một số vẫn không
dừng. Xung đột trong thẩm quyền của các cơ quan phê duyệt, việc quản lý vùng
đệm vẫn còn rất lỏng lẻo vì thế gây áp lực ngày càng tăng lên vùng lõi” - ông
Michael Croft nói. Một vấn đề khác được UNESCO khuyến cáo là cần thiết lập
cơ chế đối thoại ở địa phương khi xây dựng đề án. Theo một khảo sát từ
UNESCO, người dân Hội An cho biết, việc xây dựng dự án đầu tư thường cộng
đồng địa phương không có cơ hội tác động. “Mặc dù có chủ trương về “bảo tồn
vì phát triển và phát triển để bảo tồn”, nhưng hầu hết di sản văn hóa thế giới tại
Việt Nam đều chia sẻ tình hình du lịch còn nhiều bất cập và áp lực phát triển
đáng kể lên bảo tồn di sản. Trong khi đó, các mục tiêu du lịch đầy tham vọng
vượt qua các yêu cầu nghiêm ngặt về ưu tiên bảo vệ của khu di sản” - ông
Michael Croft nói thêm.
Theo khảo sát từ UNESCO, hiện nay Hội An dù được nhìn nhận như một
điển hình về việc thu hút cộng đồng địa phương trong việc bảo vệ và quảng bá
di sản, nhưng cũng chính di sản này lại gặp nhiều thách thức từ cả chủ thể di sản
lẫn yếu tố khách quan. Theo đó, từ việc nằm ở vị trí dễ bị tổn thương nhất ở hạ
lưu sông, không kiểm soát được các đập thủy điện ở thượng lưu sông, sự gia
tăng các công trình bê tông và xây dựng trong vùng đệm rất gần đô thị cổ, sự gia
tăng nhanh chóng của khách sạn và cơ sở hạ tầng du lịch xung quanh vùng lõi,
giao thông quá tải... khiến di sản này đối diện với rất nhiều vấn đề cần giải
quyết. Đối với Khu đền tháp Mỹ Sơn, thông tin từ UNESCO đưa ra, một trong
những mối quan tâm đáng kể với di sản này là khả năng đảm bảo quy trình phục
hồi di tích Chăm phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về bảo tồn và luật pháp.
Một khung pháp lý cao hơn cho di sản để địa phương tự định đoạt việc chọn lọc
đầu tư cũng như cân bằng giữa phát triển và bảo tồn là điều cần phải hướng tới
trong tương lai vì một sự phát triển bền vững.
XUÂN HIỀN
XUÂN HIỂN.Cân bằng phát triển di sản/Xuân Hiển//Quảng Nam cuối tuần.-
2018.-Ngày 24-25 tháng 11.-Tr.11.
Bia trùng tu Lai Viễn Kiều ký
Chùa Cầu ở Hội An (được chúa Nguyễn Phúc Chu ban tên Lai Viễn
Kiều vào năm 1719) là một di tích độc đáo, là chứng tích cho thời kỳ phát
triển thịnh vượng của cảng thị Hội An cũng như mối giao lưu văn hóa giữa
nước ta và các nước Trung Hoa, Nhật Bản và phương Tây một thời. Chùa
Cầu đã được công nhận là Di tích Lịch sử - văn hóa quốc gia và Di sản văn
hóa thế giới..
Văn khắc bia Trùng tu Lai Viễn Kiều ký.
Cho đến nay chùa Cầu đã trải qua khoảng 400 năm và có ít nhất là 7 lần
trùng tu vào các năm 1763, 1817, 1875, 1917, 1962, 1986, 1996... Trước đây,
mỗi lần trùng tu đều để lại “dấu tích” cho đời sau được rõ. Trong 7 lần trùng tu
thì lần diễn ra năm 1817 có lẽ là lần để lại dấu ấn đậm nhất với một xà gồ trên
nóc và một tấm bia dựng phía đông cầu mà hiện nay vẫn còn.
Bia Chùa Cầu (bia trùng tu Lai Viễn Kiều)
Cây xà gồ trên nóc nói về lần trùng tu này có ghi: “Gia Long thập lục niên
tuế thứ Đinh Sửu Ất Tỵ nguyệt Mậu Tý nhật Bính Thìn thời Minh Hương xã
hương quan hương lão hương trưởng toàn xã đẳng đồng trùng tu” (Dịch: Năm
Ất Sửu, Gia Long năm thứ 16, tháng Mậu Tý, ngày Bính Thìn, hương trưởng,
hương lão và toàn dân xã Minh Hương cùng trùng tu).
Còn tấm bia có tên Trùng tu Lai Viễn Kiều ký (bài ký trùng tu cầu Lai
Viễn), được dựng năm 1817, ở phía đông của cầu phía làng Minh Hương. Tác
giả của bài ký được ghi ở dưới là Khê Đình Bá Đinh Tường, Chánh đốc học
dinh Quảng Nam.
Bài ký đã được hai người phiên âm lại là Dương Đức Nhự và Hồ Ngận.
Bản phiên âm của Dương Đức Nhự được đăng lần đầu tiên trên Đặc san của
trường Trần Quý Cáp năm 1999, được in lại trong sách Hội An, thị xã anh hùng
(Nxb Trẻ, năm 2002). Bản của Hồ Ngận in trong Quảng Nam Xưa và Nay (Nxb
Thanh Niên, năm 2004). Bản của hai ông có khác một chữ ở dòng thứ hai. Bản
của Dương Đức Nhự ghi là “tiểu khê” (Minh Hương Hội An phố giới ư Cẩm
Phô hữu tiểu khê…), bản của Hồ Ngận lại ghi là “nhứt khê”. Khi kiểm tra lại để
xem ai đã nhầm chỗ này thì người ta phát hiện chỗ chữ đó đã bị xóa bởi một vết
đạn nên được trám lại bằng… xi măng!
Tác giả Nguyễn Sinh Duy trong tác phẩm Quảng Nam và những vấn đề
sử học (Nxb VHTT, năm 2006) đã có ý kiến: “Chúng tôi phân vân và bắt buộc
phải tiếp cận văn khắc bia ký. Cứ như sự quan sát thực trạng văn bia qua khoảng
cách phân bố các dòng cũng như các chữ, thì chỗ đạn được trám xi măng ấy phải
là diện tích của hai chữ, chứ không phải là một chữ như nhà giáo Dương Đức
Nhự đã chép và nếu là hai chữ thì hai chữ “nhứt khê” của cụ Hồ Ngận có thể là
thích đáng…” (trang 182,183).
Gần đây vào năm 1989, Ngô Trí Long dựa vào tập thủ bút của cụ cử nhân
Trương Đồng Hiệp (1857 - 1926, đỗ cử nhân khoa Giáp Ngọ, 1894, vốn là hậu
duệ của tiền hiền làng Minh Hương; hiện còn lưu trữ tại Viện Hán Nôm) thì cho
biết đó là chữ “khê yên” chứ không phải là “nhứt khê” hay “tiểu khê”. Đây là
một thông tin thú vị và khả tín nhất.
Bia Trùng tu Lai Viễn Kiều ký được Nguyễn Sinh Duy đánh giá: “Nếu
Chùa Cầu là biểu trưng phố cổ Hội An thì, có thể nói, Trùng tu Lai Viễn Kiều
ký là văn vật khảo cổ học sáng giá trong số các di tích hiện còn tại chùa Cầu vì
nó hội đủ ba yếu tố văn sử địa…” (sđd trang 181).
Về tác giả của văn bia
Lâu nay người ta chỉ biết tác giả của văn bia là Chánh đốc học dinh
Quảng Nam tên Đinh Tường nhưng ít người biết rõ hành trạng của ông. Thực ra
các tài liệu chính thống gọi ông là Đinh Phiên. Trên văn bia ghi Đinh Tường là
tên tự của ông.
Đinh Phiên làm Đốc học Quảng Nam từ tháng 6 năm 1815 đến tháng 4
năm 1819. Sách Đại Nam thực lục viết: “Lấy Hương cống đời Lê là Đinh Phiên
làm Đốc học Quảng Nam”… “Lấy Ký lục Quảng Nam là Nguyễn Xuân Tình
làm Cần chánh đại học sĩ sung Chánh sứ đi cống nước Thanh. Đốc học Quảng
Nam là Đinh Phiên làm Đông các học sĩ; tri phủ Nam Sách là Nguyễn Hữu Bình
làm Hàn lâm thị độc sung Giáp, Ất phó sứ” (Quốc sử quán triều Nguyễn, bản
dịch của Viện Sử học, Nxb Giáo Dục, 2004, các trang 901, 986).
Đinh Phiên (Đinh Tường), Chánh đốc học dinh Quảng Nam, tác giả
Trùng tu Lai Viễn Kiều ký là một người tài hoa nhưng lận đận. Ông sinh năm
1764 tại làng La Giáp, tổng Kim Nguyên, huyện Chân Lộc, phủ Đức Quang,
trấn Nghệ An (nay là xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Lúc đầu
ông có tên là Giáp, sau đổi là Nguyễn Phiên, sau nữa đổi là Hồng Phiên, tự là
Trọng Tường, hiệu là Chỉ Hiên, bút hiệu Tường Phủ. Khoa thi năm Quý Mão,
1783 ông đậu Hương cống (cử nhân) tại trường thi Nghệ An (khoa này Nguyễn
Du đậu Sinh đồ tức tú tài). Năm 1787, ông đi thi Hội chỉ đỗ Tam trường. Sau
ông được bổ Toản tu Quốc sử quán triều Lê. Thời Tây Sơn, ông không ra làm
quan mà về quê mở trường dạy học.
Khi Gia Long lên ngôi ông được mời ra làm quan. Tháng 6 năm 1815 ông
được bổ Đốc học Quảng Nam. Tháng 4 năm 1819 ông được rút về kinh cử làm
Phó sứ sang nhà Thanh.
Sang thời Minh Mạng ông làm việc ở kinh tại bộ Lại rồi bộ Lễ. Ông cũng
trải qua chức Toản tu ở Quốc sử quán, tiếp sứ thần nhà Thanh, làm giám thí và
Tri cống cử các khoa thi Hương ở trường thi Nghệ An, Quảng Đức, Gia Định,
Hà Nội và khoa thi Hội đầu tiên năm 1822. Thời kỳ làm việc ở kinh đô, Đinh
Phiên được xem là đồng tác giả của bài Đế hệ thi và mười bài Phiên hệ thi, mà
lâu nay vẫn cứ tưởng của chỉ một mình vua Minh Mạng!
Năm 1823, vì cấp dưới phạm lỗi, ông bị bãi chức sai đi phát chẩn cứu đói
ở Quảng Nam sau đó phát phối đi Hà Tiên. Năm 1828, ông được phục chức
được cử làm Huấn đạo Bình Dương.
Năm 1833 ông tham gia cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi - con nuôi của
Tả quân Lê Văn Duyệt chống lại triều đình, được phong làm Lễ bộ Thái khanh.
Ông thay Lê Văn Khôi thảo hịch kêu gọi dân chúng nổi dậy, đánh đổ nhà
Nguyễn, khôi phục nhà Lê được nhiều người hưởng ứng. Quân triều đình phản
công, cuộc khởi nghĩa thất bại, giữa tháng 8 năm 1833, Đinh Phiên ra đầu thú.
Ông bị chết trên đường áp giải về kinh đô, bị phanh thây, bêu đầu ở Gia Định và
Nghệ An rồi vứt xuống sông. Vợ và bốn con trai của ông trong đó có tiến sĩ
Đinh Văn Phác (đỗ khoa 1822) cũng bị hành hình tại chợ Nghệ An. Nhiều học
trò của ông cũng bị bãi chức.
Đinh Phiên cũng là sui gia với Nguyễn Du (con trai ông là tiến sĩ Đinh
Văn Phát cưới bà Nguyễn Thị Tiềm là con gái Nguyễn Du). Cháu nội ông (cũng
là cháu ngoại Nguyễn Du) là Đinh Văn Chất, sinh 1847, đỗ tiến sĩ năm 1875,
tham gia phong trào Cần vương bị Pháp giết năm 1887.
Điều lý thú là chắt nội của Đinh Phiên là Đinh văn Chấp (1893 - 1953)
cũng đỗ tiến sĩ (1913) và cũng là Đốc học cuối cùng của đất học Quảng Nam,
đúng 100 năm sau, từ 1915 đến 1919!
LÊ THÍ
LÊ THÍ.Bia trùng tu Lai Viễn Kiều ký/Lê Thí//Quảng Nam cuối tuần.-2018.-
Ngày 17-18 tháng 11.-Tr.2.
Hy hữu ngôi mộ có hai bia
Khi ngôi mộ cổ tại một cồn cát ở Hội An bất ngờ được phát hiện, lúc
đầu có nhiều điều bàn tán, rồi sau đó các nhà nghiên cứu cũng như cơ quan
bảo tồn di sản văn hóa căn cứ vào một số tài liệu thu thập được đã khẳng
định đây là mộ của một vị tướng triều Tây Sơn.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có ai, ngay cả các nhà nghiên cứu bảo tồn di
sản, biết một cách tỏ tường về cuộc đời binh nghiệp và quá trình phò nhà Tây
Sơn của vị tướng này.
Bia di tích do Trung tâm Quản lý Bảo tồn di sản văn hóa Hội An dựng tạm
(ảnh trái) và ngôi mộ hoang phế của Đại đô đốc Nguyễn Đức Lễ. Ảnh:
T.M
Tháng 4-2009, UBND thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam quyết định di
dời mồ mả tại trảng cát cồn Ông Đô, khối An Bang, phường Thanh Hà để lấy
mặt bằng xây dựng cụm công nghiệp, dịch vụ và chuyển các cơ sở sản xuất ở
trung tâm thành phố về đây hoạt động nhằm giảm thiểu sự tác động làm ảnh
hưởng phố cổ.
Trong lúc di dời, con cháu tộc Nguyễn Đức phường Thanh Hà phát hiện
một ngôi mộ bị cát trắng vùi lấp hoàn toàn, chỉ lòi ra phần trên của tấm bia đá.
Một số người của tộc Nguyễn Đức nhờ người giỏi chữ Hán đọc văn bia thì mới
biết đây là mộ của một “ông lớn” thuở xưa.
Theo mô tả của Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản văn hóa Hội An, ngôi
mộ bị thời gian tàn phá hư hỏng rất nặng nề, có hai tấm bia được dựng chồng lên
nhau rồi tô vôi vữa làm áo bia nên nhìn vào khó phát hiện bên trong còn một
tấm bia khác.
Tấm bia bên ngoài bằng đá cẩm thạch, khắc chữ Hán, hàng trên cùng có
hai chữ “Đại Nam”, hàng bên phải có các chữ “Tuế thứ Mậu Ngọ niên mạnh thu
nguyệt cốc đán”. Dòng chính giữa “Hiển tổ thụy hoằng cương trực lượng
Nguyễn bá phủ chi mộ”. Hàng bên trái “Đích tôn Đức Hóa, thứ tôn Đức Thường
phụng lập”.
Bên trong tấm bia đá cẩm thạch có một tấm bia khác bằng sa thạch màu
xám, bị sứt mẻ phần trên, nứt thành 4 mảnh nhưng vẫn nguyên khuôn mẫu, chữ
Hán khắc sâu, rõ nét nên ai biết chữ Hán thì đọc rất dễ dàng. Hàng bên phải ghi
“Tuế thứ Mậu Ngọ mạnh thu nguyệt cốc đán”.
Hàng ở giữa “Ngự đạo Thị lân vệ Đại đô đốc tặng phong đặc tấn Phụ
quốc Thượng tướng quân Phó Thống lãnh Nguyễn Quý Công mộ”. Hàng bên
trái “Hiếu nam Đức Hiên phụng lập”.
Cả hai tấm bia đều được lập năm Mậu Ngọ nhưng không ghi danh người
nằm trong nấm mộ là ai. Riêng tấm bia bên trong bằng đá sa thạch thì ghi tên
thụy và chức vụ. Những người lập bia chỉ ghi tên lót, tên thật (Đức Hiên, Đức
Hóa, Đức Thường) chứ không ghi họ.
Để làm rõ lai lịch người nằm trong nấm mộ cổ này, con cháu tộc Nguyễn
Đức và cơ quan chức năng của thành phố Hội An đã đối chiếu 3 bộ gia phả đang
được lưu giữ tại nhà thờ Nguyễn Đức ở làng Thanh Hà. Cả 3 bộ gia phả này còn
nguyên vẹn, được lập vào các năm Cảnh Thịnh thứ 4, Gia Long thứ 16 và Tự
Đức thứ 34.
Qua đó đã phát hiện ông Đức Hiên, tức Nguyễn Đức Hiên, là thân phụ
của các ông Đức Hóa và Đức Thường. Ông Đức Hiên là con trai của ông
Nguyễn Đức Lễ. Cũng qua tra cứu gia phả, được biết ông Nguyễn Đức Lễ thuộc
chi thứ nhất của tộc Nguyễn Đức ở tại đây, là con thứ ba của ông Nguyễn Đức
Tường. Cuốn gia phả do ông Nguyễn Đức Thường lập vào năm Gia Long thứ 16
có ghi chức vụ của ông Nguyễn Đức Lễ là “Đại đô đốc, Đại tướng quân”.
Còn theo lời truyền khẩu từ nhiều đời ở làng Thanh Hà thì tộc Nguyễn
Đức có người làm tướng to của triều Tây Sơn, đó chính là ông Nguyễn Đức Lễ.
Ông qua đời ở Huế, được con cháu đưa về an táng tại quê nhà. Ngày xưa, khuôn
viên mộ của ông được xây dựng khá hoành tráng và rộng lớn.
Sau khi Nguyễn Ánh lật đổ nhà Tây Sơn và lên ngai vàng vào năm 1802,
vì sợ sự trả thù tàn bạo của Gia Long, con cháu tộc Nguyễn Đức đã phá dỡ một
phần kiến trúc khuôn viên mộ để lấy vật liệu xây dựng nhà thờ, đồng thời ngụy
trang thêm tấm bia mới áp bên ngoài, không ghi tên tuổi, chức tước gì để che
mắt sự phát hiện của triều đình nhà Nguyễn.
Căn cứ vào nội dung các văn bia cũng như việc đối chiếu của các nhà
nghiên cứu cho thấy chức “Đô đốc” và “Thống lãnh” là các chức quan võ của
một số triều đại phong kiến Việt Nam, song dưới thời Tây Sơn được dùng khá
phổ biến.
Cũng qua khảo cứu, chức “Đại đô đốc” chỉ thấy dùng trong quân binh Tây
Sơn. Binh lính nhà Tây Sơn được tổ chức thành 5 đạo, gồm: Tiền, Hậu, Trung,
Tả, Hữu. Ngoài ra còn có một số đạo quân đặc biệt như Tả bật, Hữu bật, Ngũ
chế, Càn thanh, Thiên cán, Thiên trường, Hổ đôn, Hổ hầu, Thị lân và Thị loan.
Như vậy, Thị lân là tên gọi đội quân đặc biệt nhà Tây Sơn. Ông Nguyễn Đức Lễ
là tướng của đạo quân đặc biệt Thị lân, bởi tấm bia bằng sa thạch đã khẳng định
điều đó.
Chắc có lẽ sinh thời làm quan có nhiều công trạng nên khi qua đời, ông
được gia phong “Phụ quốc Thượng tướng quân Phó Thống lãnh”. Việc phong
chức tước cho những vị quan có công trạng sau khi từ biệt dương trần rất phổ
biến ở các triều đại phong kiến.
Từ những căn cứ trên, tháng 7-2009, ngôi mộ Đại đô đốc triều Tây Sơn
Nguyễn Đức Lễ được UBND thành phố Hội An bổ sung ngay vào danh mục di
tích lịch sử văn hóa. Gần một thập niên trôi qua kể từ ngày được phát hiện, ngôi
mộ hai bia này vẫn trong tình trạng hoang phế, mục nát, rêu phong, tàn tạ.
Có chăng thì ai đó chạnh lòng đã chêm thêm, kê lại một số viên gạch vỡ
vụn mà thôi. Nhìn ngôi mộ không khỏi chạnh lòng, xót xa, thương cảm cuộc đời
của vị tướng Tây Sơn. Ông Nguyễn Văn Nhật, Phó Chủ tịch UBND phường
Thanh Hà cho biết, ông nghe nói sắp tới thành phố sẽ đầu tư, tu bổ lại ngôi mộ
nhưng không rõ thời gian.
Mong sao ngôi mộ này sớm được tôn tạo để giữ gìn lâu dài di tích lịch sử
và nét đẹp văn hóa của xứ sở, quê hương!
Thái Mỹ
THÁI MỸ.Hy hữu ngôi mộ có hai bia/Thái Mỹ//Đà Nẵng cuối tuần.-2018.-
Ngày 18 tháng 11.-Tr.7.
Ký sự phục dịch ở An Nam
An Nam cung dịch kỷ sự (Ký sự phục dịch ở An Nam) là một tác
phẩm du ký nổi tiếng của Chu Thuấn Thủy ghi chép về vùng Thuận -
Quảng nói riêng và Đàng Trong nói chung vào thế kỷ 17, ra đời trước tác
phẩm du ký Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán. Tác phẩm này là một tư
liệu nước ngoài có giá trị về An Nam, Thuận - Quảng.
Sách Chu Thuấn Thủy tập.
Tác phẩm này đã được GS-TS. Vĩnh Sính (Đại học Alberta, Canada) biên
dịch, công bố từ năm 2001, in gộp trong sách Việt Nam và Nhật Bản giao lưu
văn hóa. Sách được tái bản năm 2016. Đến tháng 9.2018, tác phẩm này lại được
tách ra in riêng thành một đầu sách.
Tác phẩm của Chu Thuấn Thủy được in nhiều lần ở Trung Quốc (Chu
Thuấn Thủy tập), Đài Loan (Chu Thuấn Thủy toàn tập), Hồng Kông (Chu
Thuấn Thủy “An Nam cung dịch kỷ sự” tiên chú), và nghiên cứu bổ sung mới
Tân đính Chu Thuấn Thủy tập. Công trình nghiên cứu mối quan hệ giữa Chu
Thuấn Thủy với Nhật Bản hay Đông Á cũng được công bố thường xuyên, gần
đây có: Chu Thuấn Thủy với sự phát triển nho học Nhật Bản cận thế, Chu Thuấn
Thủy với văn hóa Đông Á…
Chu Thuấn Thủy (1600 - 1682), tên Du, là di thần, trưng sĩ của nhà Minh,
nhưng vì Trung Quốc “đang bị suy vong, rợ ngoài vào chiếm quyền” nên “trốn
sang nước ngoài, lưu ly đã có mười ba năm, vượt biển từ nước này sang nước
nọ” (những trích dẫn ở đây do Vĩnh Sính dịch), sang Nhật Bản, đến Việt Nam,
tới các nước Đông Nam Á khác. Ông đến Việt Nam 5 lần vào các năm 1646,
1651, 1652, 1653, 1654. Lần cuối cùng là ở lại lâu nhất, 1654 - 1658. Thời gian
ở Quảng Nam, ông trú tại phố Nhật, thuê nhà chung với 3 người Nhật, chứ
không phải phố Khách mặc dù ông là người Hoa. Mộ ông hiện ở Nhật Bản, bia
mộ có ghi “Minh trưng quân tử Chu Tử mộ” (mộ của Chu Tử, người quân tử
được nhà Minh vời ra giúp nước). An Nam cung dịch kỷ sự viết về những sự
việc xảy ra khi Chu Thuấn Thủy bị quản thúc ở Hội An, rồi bị chuyển ra Dinh
Cát chúa Nguyễn, rồi được cho về lại Hội An trong khoảng thời gian hơn hai
tháng rưỡi vào năm 1657. Tác phẩm du ký An Nam cung dịch kỷ sự là một tư
liệu nước ngoài có giá trị về An Nam, Thuận - Quảng.
Trước hết là những thông tin về chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, Chu Thuấn
Thủy nhận xét: “Quốc vương là người có kiến thức và kinh nghiệm phiến diện
và nông cạn, nhưng tài khí lại gần như cao minh” và “Đại vương tư chất siêu
phàm, hành động hợp với đạo nghĩa, những năm trước đây đã từng cư xử sự việc
có đức có lễ, ngay cả những hiền vương ngày xưa hà tất đã hơn! (…) Đại vương
làm việc ngay cả ban đêm, ngày đêm quên ăn quên ngủ, làm đơn giản và rõ ràng
những việc cơ yếu, huấn luyện binh lính tinh nhuệ và cần mẫn, qua đó biết rằng
ngày thắng lợi trong việc thảo trừ quân đại ác sẽ chẳng còn lâu”.
Chúa Nguyễn Đàng Trong đã chú trọng chiêu vời người hiền, An Nam
cung dịch kỷ sự chép: “Viên Cai phủ vào ngày 29 tháng Giêng năm Đinh Dậu
(1657) nhận được lệnh của Quốc vương ra hịch chiêu mộ người biết chữ”. Bản
thân Chu Thuấn Thủy cũng “đột nhiên có hịch của An Nam Quốc vương chiêu
vời”. Ông cũng được chúa Nguyễn dùng một số việc, cho nên trong tác phẩm,
ông có nói đến việc “giấu đi một số chuyện cơ mật nhằm bảo vệ bí mật” mà
không tiện viết vào/kể lại trong tác phẩm.
An Nam cung dịch kỷ sự cho biết chúa Nguyễn đặt chức Cai Tàu “là
người cai quản những người Hoa và coi xem những việc tàu bè”. Hình thức xử
tội của chúa Nguyễn được mô tả: “Ở đây cách chém người rất tàn khốc”, “trong
khoảng 10 ngày, ngày nào cũng có người bị chém ở phía tây chỗ Du cư ngụ...
Máu nhuộm bùn, cát; thịt người hóa thành mồi cho súc vật. Quang cảnh dã man
tàn khốc chỉ nhằm hư trương uy vũ”.
Câu chuyện đối đáp của Chu Thuấn Thủy với viên quan họ Lê cho thấy
viên quan này có đầy đủ các sách mà Chu Thuấn Thủy hỏi: “Thông giám cương
mục, Tiền Hậu Hán thư, Nhị thập sử, Sử ký, Văn hiếu thông khảo, Kỷ sự bổn
mạt, Tiềm xác loại thư, Phạn thư, Tạng thư và Cổ văn kỳ thưởng,…” và Chu
Thuấn Thủy có ý định “xin mượn” “xem cho đỡ buồn”. Trong đoạn khác của An
Nam cung dịch kỷ sự, Chu Thuấn Thủy cũng nhận định: “sau đó biết rằng nước
này cũng có nhiều sách”. Điều này cho thấy thư tịch Hán văn cũng rất phổ biến
ở vùng Thuận - Quảng, một vùng đất học đang phát triển dưới thời chúa
Nguyễn.
An Nam cung dịch kỷ sự còn giá trị về mặt ngôn ngữ. Trong vương phủ,
cách xưng hô giữa chúa và quần thần cũng hết sức “bình dân”, theo Chu Thuấn
Thủy, chúa Nguyễn tự xưng là “tau” (tức là “tao”) khi nói chuyện với quần thần;
hoặc giả chữ “mi” (tức là “mày”) cũng là cách gọi phổ biến của người trên với
người dưới, không những trong dân gian mà cả trong phủ chúa. Cách xưng gọi
“tau” “mi” này cũng là một trong những mục từ ghi chép của Alexandre de
Rhodes cùng thời. Chu Thuấn Thủy nhận xét khi đọc bức thư của Quốc vương
lệnh ông ra làm quan: “chữ nghĩa (tự nghĩa) và câu văn (cú ngữ) có nhiều chỗ là
chữ An Nam, so với chữ Trung Hoa không giống nhau”. Vĩnh Sính chú thích
“chắc hẳn lá thư này dùng nhiều chữ Nôm và nhiều nơi viết theo cú pháp tiếng
Việt”. Đây là những dữ liệu để nghiên cứu về chữ Quốc ngữ, tiếng Việt vào giai
đoạn sớm từ thế kỷ 17. Phương thức giao tiếp giữa Chu Thuấn Thủy với Quốc
vương hay nhiều người liên quan là sử dụng phiên dịch, song vì phiên dịch
không truyền đạt hết ý, nên mọi người thường sử dụng phương thức bút đàm
chữ Hán. Đây là một phương thức giao tiếp quốc tế phổ biến của người đất
Quảng trong lịch sử.
An Nam cung dịch kỷ sự cũng phản ánh những mặt hạn chế trong đời
sống xã hội đương thời: Tình hình trộm cắp: “Du về đến Hội An, đồ đạc trong
nhà bị kẻ trộm vào lấy sạch trơn (…). Đồ quý không còn gì cả (…). Cảnh sắc
trông quá ư thảm đạm”. Hiện tượng viên Cai phủ “dập đi không công bố” hịch
chiêu mộ người biết chữ của Quốc vương và còn “bắt giam tạm thời những
người biết chữ và đối đãi với những người này như giặc nước ngoài”, thậm chí
còn ngăn cản người biết chữ “không được phép đến trình với bề trên trực tiếp”.
Tình trạng phân biệt, sính bằng cấp, “xem trọng tiến sĩ” và sự “làm nhục” nhau
của những người có học thức, hay sự ngạo mạn như “có một thiếu niên, chức
cấp nhỏ, trông có vẻ dương dương tự đắc dẫn một số người” đi đánh đố kiến
thức với Chu Thuấn Thủy.
Chu Thuấn Thủy, một người có sở học, 5 lần đến Việt Nam, thời gian kéo
dài 12 năm nhưng vẫn không có đất dụng võ, phải bỏ sang Nhật và giúp Nhật
phát triển. Đó là một sự tiếc nuối của nhiều học giả Việt Nam về sau khi nghiên
cứu về Chu Thuấn Thủy. Song, cũng may ông đã để lại cho Việt Nam một sử
liệu thế kỷ 17 giá trị thông qua tác phẩm An Nam cung dịch kỷ sự.
NGUYỄN DỊ CỔ
NGUYỄN DỊ CỔ.Ký sự phục dịch ở An Nam/Nguyễn Dị Cổ//Quảng Nam
cuối tuần.-2018.-Ngày 3-4 tháng 11.-Tr.2.
Làng nghề Mã Châu cần có nghệ nhân
Trải qua hơn 500 năm hình thành, gặp bao thăng trầm, đến nay lại
phải đối mặt với những cạnh tranh khốc liệt của các mặt hàng lụa khác
nhau, làng lụa Mã Châu (H.Duy Xuyên, Quảng Nam) đang rơi vào nguy cơ
mai một.
Ông Trần Hữu Phương người duy nhất còn dệt lụa theo phương thức truyền
thống bao nhiêu năm qua chỉ dừng lại ở danh hiệu thợ giỏi.
Chị Trần Thị Yến (con gái ông Phương) cho biết, cha chị là hậu duệ đời
thứ 18 của nghề dệt Mã Châu và hiện nay cũng là người duy nhất còn làm lụa
truyền thống tại đây. Tuy nhiên nhiều năm qua chị làm hồ sơ thủ tục để công
nhận nghệ nhân cho ông Phương nhưng không được. "Gia đình tôi muốn cha tôi
được công nhận nghệ nhân không phải vì ham danh tiếng nhưng thực sự nếu cả
một làng nghề 500 năm tuổi mà không có nổi một nghệ nhân thì làm sao có chỗ
đứng trên thị trường? Việc cha tôi được công nhận nghệ nhân không chỉ mang
lại hiệu quả kinh doanh cho lụa Mã Châu, cho các cô chú đang học và theo nghề
nơi đây mà còn là sự công nhận của xã hội đối với người dân cả làng nghề và
nâng tầm cho thương hiệu lụa nơi đây. Cha tôi nay đã già và cũng chỉ biết cặm
cụi làm nghề nhưng nếu bây giờ không được công nhận, chẳng nhẽ nghề dệt
cũng chìm vào quên lãng". Chị Yến cho biết vừa qua trong chuyến đi tham quan
một số làng nghề các địa phương khác tại Hà Nội, chị rất chạnh lòng vì các làng
nghề khác đều có hàng chục nghệ nhân trong khi làng nghề Mã Châu chỉ dừng
lại ở danh hiệu thợ giỏi. Thậm chí ngay tại Quảng Nam cũng có nhiều làng nghề
khác đã được công nhận nghệ nhân nhưng làng lụa Mã Châu lại không được.
"Tôi nghe nói sắp tới sẽ có đợt xét danh hiệu nghệ nhân trong năm nay nhưng
hiện giờ tôi không biết cách liên hệ ai, làm hồ sơ như thế nào. Cha tôi theo nghề
hơn 40 năm và hiện đang nắm giữ rất nhiều bí quyết trong nghề nên không có lý
do gì ông không đủ tiêu chuẩn. Tôi mong các ngành chức năng quan tâm xem
xét vì sắp tới làng nghề Mã Châu sẽ theo hướng phát triển du lịch, kết nối Hội
An - Mỹ Sơn nếu vẫn không có "danh phận" gì thì rất khó duy trì làng nghề", chị
Yến chia sẻ.
Để làng lụa Mã Châu sống được, theo ông Phương phải xây dựng làng
nghề trở thành nơi trình diễn từng công đoạn của nghề ươm tơ dệt lụa để du
khách cùng trải nghiệm. Đồng thời, làng nghề cũng là nơi trưng bày và bán sản
phẩm phục vụ du khách. Nếu các công đoạn này đưa vào vận hành mà làng nghề
lại không có ai là nghệ nhân nghề lụa thì lấy gì thuyết phục du khách? Trước
thực tế này, Nghệ nhân nhân dân Nguyễn Văn Tiếp - Chủ nhiệm Hiệp hội thủ
công mỹ nghệ Quảng Nam cho biết theo tiêu chí do UBND tỉnh ban hành năm
2013, người được phong tặng danh hiệu nghệ nhân phải có sản phẩm, tác phẩm
đoạt giải thưởng hoặc được cấp chứng nhận thành tích của các tổ chức nhà nước,
hoặc ít nhất có 2 tác phẩm đạt trình độ nghệ thuật cao được chọn trưng bày trong
các bảo tàng, công trình văn hóa, phục chế di tích lịch sử hoặc được chọn làm
mẫu phục vụ công tác giảng dạy tại các trường mỹ thuật, dạy nghề. Chính vì
những tiêu chuẩn này nên có nhiều người rất giỏi nghề nhưng lại không đủ điều
kiện đưa sản phẩm tham gia dự thi hoặc làm hồ sơ, thủ tục để được công nhận.
Hay như quy định, người được phong danh hiệu nghệ nhân phải có thành tích
trong việc khôi phục, duy trì và phát triển ngành nghề; đã truyền nghề, dạy nghề
cho tối thiểu 50 người hoặc được chính quyền địa phương, tổ chức xã hội nghề
nghiệp công nhận đã truyền nghề, dạy nghề được nhiều thợ giỏi tại địa phương.
Theo quy chế này thì những người làm nghề hiện nay rất khó đáp ứng. Đối với
trường hợp ông Trần Hữu Phương, ông Tiếp cho biết Hiệp hội thủ công mỹ
nghệ sẽ là đầu mối về hồ sơ thủ tục, sau khi có xác nhận của địa phương thì sẽ
nộp lên tỉnh sẽ xét duyệt.
Thiết nghĩ, nhắc đến Quảng Nam là nhắc đến quê hương bên dòng sông
Thu êm đềm nơi nổi danh một thời với cái tên xứ lụa vậy mà bao nhiêu năm qua
xứ lụa vẫn chỉ là danh xưng do chính người dân đặt còn việc công nhận, nâng
tầm vẫn chưa thực sự được các cấp, các ngành quan tâm đúng mức. Việc công
nhận nghệ nhân cho làng nghề Mã Châu không chỉ là câu chuyện của cá nhân
ông Phương mà còn liên quan đến sự sống còn của làng nghề bởi nếu người duy
nhất còn giữ nghề lụa vẫn bị thờ ơ thì lấy đâu động lực cho những người dân
khác trong làng trở lại với nghề ươm tơ dệt lụa?
Hà Dung
HÀ DUNG.Làng nghề Mã Châu cần có nghệ nhân/Hà Dung//Công an Đà
Nẵng.-2018.-Ngày 19 tháng 11.-Tr.7.
Quà xứ Tiên... Năm nay thời tiết thiệt lạ. Đã cuối thu đầu đông mà nơi khúc ruột miền
Trung này, mọi năm mưa xối xả, nước lũ dâng khắp lối biển bãi quê nhà. Thế
mà năm nay, sang tháng 11 mà nắng cứ ươm vàng. Trong sự thay đổi ấy của
thiên nhiên, đất trời là mùa bòn bon nơi vùng đất trung du H. Tiên Phước của xứ
Quảng. Tôi nhận được niềm hạnh phúc bình dị ấy từ món quà của một người
bạn. Chợt nhớ mình đã từng lên quê bạn trong những chuyến công tác. Huyện
trung du Tiên Phước nổi tiếng với con sông Tiên chảy ngược, những bờ ngõ đá,
vườn rào chè tàu mướt mát, những nhà cổ trầm mặc hay những danh lam thắng
cảnh tuyệt mỹ như thác Ồ Ồ, thác Lò Thung... Tiên Phước còn là vùng quê ngan
ngát xanh um tỏa bóng có những sản vật nổi tiếng như tiêu, chè, bòn bon, thanh
trà, quýt, mít...
Bạn alo ví von rằng, Quảng Nam xứ mình thì bòn bon có nhiều ở các
huyện Đại Lộc, Nam Giang, Nông Sơn, Tiên Phước... nhưng xứ Tiên quê bạn là
"số một". Với bòn bon Tiên Phước, cái vị ngọt thanh lẫn chút chua nhẹ, thấm
vào lưỡi ngọt ngào đến không ngờ. Thứ sản vật của quê hương vùng bán sơn địa
này bây giờ là "đặc sản", là loại trái cây "sạch" đang lên ngôi giữa thị trường trái
cây phong phú. Anh bạn làm ngành văn hóa, dân thổ địa cùng sinh ra, lớn lên và
trải nghiệm quá nhiều với... cây bòn bon kể rằng: tương truyền, lúc Nguyễn
Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi trốn lên thượng nguồn Ô Gia, lương thực dần
cạn kiệt, may mà có loại trái cây ăn rất ngon ngọt đã cứu giúp qua cơn đói kém
lúc ấy. Vì vậy sau này, khi lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long, Nguyễn Ánh
ban cho loại trái cây rừng này đã cứu mình thuở khó khăn cái tên là "Nam trân"-
nghĩa là trái quý ở đất phương Nam...
Nhìn món quà trung du bạn gửi, tôi lại nhớ những mùa bòn bon chín rộ
níu kéo bước chân người xa quê lâu ngày trở về, hoặc du khách ngược ngàn háo
hức tìm đến xứ Tiên cho thỏa lòng. Rồi sẽ thích thú ngỡ ngàng trước vẻ đẹp
vàng ươm của trái chín, của những chùm bòn bon đong đưa trĩu nặng, mọng
nước căng tròn từ thân cây đến ngọn. Trái xúm xít trên cành, vàng ươm lẫn
trong lá xanh mướt mát. Quà quê đậm đà hương vị riêng có khi bạn tôi cam
đoan rằng đó không chỉ đơn thuần là một món ăn mà còn là... nỗi nhớ! Lúc đầu
tôi bất ngờ, sau đó là cảm động và cả sự biết ơn. Tôi cảm nhận được mùi hương
ngọt thanh dịu như thầm thì nhắc nhớ những kỷ niệm ngọt lành về tình bạn, tình
đất, tình người chắc chắn sẽ vĩnh viễn còn lại trong ký ức khó phai mờ. Bất chợt
lúc này như hiển hiện ra trong tôi có dòng sông Tiên chảy ngược, những ngôi
nhà cổ, bờ ngõ đá, vườn bòn bon trĩu quả...
Thảo Nguyên
THẢO NGUYÊN.Qùa xứ Tiên…/Thảo Nguyên// Công An Đà Nẵng.-2018.-
Ngày 9 tháng 11.-Tr.6.
Hương sen Trà Lý
Phát huy lợi thế về điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, nhiều hộ dân ở xã Duy
Sơn (Duy Xuyên) tập trung cải tạo đất canh tác để trồng sen chuyên canh,
đồng thời mua sắm máy móc chế biến sản phẩm, bước đầu mang lại hiệu
quả kinh tế cao và đang nỗ lực hướng đến tạo dựng thương hiệu tham gia
Chương trình mỗi xã một sản phẩm - OCOP.
Những cánh đồng sen ở vùng Trà Lý của xã Duy Sơn mang lại nguồn
thu nhập cao cho nhiều hộ dân. Ảnh: H.N
Khai thác thế mạnh
Ông Đinh Chín - hộ trồng sen đầu tiên và lớn nhất ở thôn Chánh Lộc (xã
Duy Sơn) cho biết, cách đây 17 năm, tận dụng diện tích ao nhỏ của gia đình và
cải tạo thêm một số chân ruộng bỏ hoang, ông trồng thử nghiệm sen. Ban đầu,
ông chỉ nghĩ trồng sen để đất đai khỏi hoang hóa, phục vụ ăn uống trong gia
đình là chính. Tuy nhiên, qua thời gian, ông thấy cây sen phát triển tốt, thích hợp
với thổ nhưỡng địa phương, ra nhiều hoa, đài rất nhiều hạt và đều. Nhận thấy
tiềm năng giá trị kinh tế từ cây sen, 5 năm gần đây ông Chín mở rộng diện tích
trồng sen lên gần 1ha. Riêng năm 2018 này, ông thu hoạch hơn 3,5 tấn hạt tươi,
bán sản phẩm với giá 28 - 30 nghìn đồng/kg, lãi 85 triệu đồng, cao gấp 4 - 5 lần
so với trồng lúa. Không chỉ vậy, tận dụng diện tích mặt nước trồng sen, ông kết
hợp nuôi cá, ốc và mỗi năm thu nhập
thêm gần 20 triệu đồng.
Ông Nguyễn Trường Tải - Trưởng thôn
Chánh Lộc cho biết, toàn thôn hiện có
hơn 40ha trồng sen chuyên canh ở Đồng
Lớn - Trà Lý với khoảng 50 hộ dân tham
gia. So với một số loại sen trên thị trường,
hạt sen Trà Lý được các thương lái và
người tiêu dùng đánh giá rất cao. Bởi,
không chỉ hạt đều, ít bị lép mà sản phẩm
chế biến từ hạt sen của vùng này có mùi
thơm tự nhiên rất đặc trưng. Ông Tải nói:
“Những năm qua, giá bán sản phẩm tương
đối ổn định, mỗi vụ sen người dân thôn
Chánh Lộc thu về không dưới 4,5 tỷ
đồng”.
Hướng đến OCOP
Thực hiện Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” - OCOP, ngoài cây bưởi,
chính quyền xã Duy Sơn chọn xây dựng sen Trà Lý trở thành sản phẩm OCOP.
Trước mắt, địa phương chọn hộ ông Phạm Đắc Thành làm điểm trước khi triển
khai nhân rộng. Theo tìm hiểu, năm nay ông Thành đã bỏ ra hơn 300 triệu đồng
mua sắm máy lột hạt sen, máy sấy cùng một số trang thiết bị khác. Đồng thời
đầu tư bao bì, quảng bá sản phẩm, thực hiện khâu vệ sinh an toàn thực phẩm.
Riêng vụ sen năm 2018, cơ sở của ông Thành tiến hành thu mua 10 tấn hạt sen
tươi của người dân trong vùng về chế biến, cung cấp ra thị trường đủ các loại
sản phẩm như hạt sen khô, tim sen… Sau khi trừ các khoản chi phí, ông Thành
thu lãi ít nhất 70 triệu đồng. Dự kiến, thời gian tới, khi được ngành chức năng hỗ
trợ kinh phí theo đề án thực hiện chương trình OCOP, gia đình ông Thành sẽ
tiếp tục đầu tư mở rộng cơ sở sản xuất, mua sắm máy móc để tiến tới đảm nhận
thu mua toàn bộ nguyên liệu sen tươi ở vùng Đồng Lớn - Trà Lý, đồng thời tìm
kiếm nguồn nguyên liệu bền vững ở các nơi khác để đảm bảo cơ sở hoạt động
quanh năm. “Sắp tới, tôi sẽ chủ động liên hệ với các cửa hàng, siêu thị để giới
thiệu sản phẩm từ hạt sen, tiến đến ký kết hợp đồng cung ứng sản phẩm. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi, việc phát triển thương hiệu sen Trà Lý gặp
không ít khó khăn, nhất là về nguồn vốn. Vì vậy, tôi mong Nhà nước có cơ chế
hỗ trợ vốn vay ưu đãi để có điều kiện đầu tư, phát triển sản phẩm. Mục tiêu cuối
cùng là đưa sen Trà Lý đến nhiều thị trường tiềm năng hơn nữa” - ông Thành
chia sẻ.
Để xây dựng thành công sản phẩm OCOP từ sen, chính quyền xã Duy
Sơn đã thành lập tổ hợp tác gồm 11 thành viên với vốn góp 50 triệu đồng/người.
Ông Trần Ba - Phó Chủ tịch UBND xã Duy Sơn cho biết, thời gian đến địa
phương sẽ tập trung hỗ trợ người dân đa dạng hóa sản phẩm, thiết kế mẫu mã
một cách tinh tế. Đặc biệt, đẩy mạnh việc xây dựng thương hiệu, hướng dẫn
đăng ký nhãn hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý, liên kết sản xuất theo chuỗi và chú
Những năm qua, vùng trồng sen Trà Lý của
xã Duy Sơn không chỉ mang lại thu nhập cao
cho nhà nông mà đang trở thành địa điểm du
lịch khá lý tưởng cho du khách gần xa. Bởi,
cánh đồng sen nơi đây hấp dẫn hơn nhiều các
đầm sen khác là do tựa lưng vào núi, khung
cảnh đẹp thơ mộng, thanh bình. Cạnh đó,
việc đi lại dạo chơi với hoa sen rất dễ dàng vì
được trồng tập trung trên ruộng cạn, có nhiều
lối đi ngang dọc khắp cánh đồng. Thiết nghĩ,
nếu có sự đầu tư mạnh mẽ từ phía chính
quyền các cấp và người dân, cánh đồng sen
Trà Lý sẽ ngày càng thu hút khách đến tham
quan, trải nghiệm, thưởng thức các sản phẩm
từ sen. Đây cũng là một trong những kênh
quảng bá sản phẩm OCOP rất hiệu quả.
trọng khâu xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, hỗ trợ xây dựng thêm nhiều
kênh phân phối để sản phẩm được nhiều người tiêu dùng biết đến. Mặt khác,
phối hợp với ngành chuyên môn hướng dẫn cụ thể cho các hộ dân cách bảo quản
sản phẩm thuận lợi, thời gian lâu hơn gắn liền với đảm bảo về chất lượng.
HOÀI NHI
HOÀI NHI.Hương sen Trà Lý/Hoài Nhi//Quảng Nam.-2018.-Ngày 26 tháng
11.-Tr.7.
Ngược đến "cổng trời"
Núi đá sừng sững trước mặt, sau hành trình dài leo núi. Chúng tôi
biết “cổng trời” Đông Giang đã được… mở, với những cảnh vật hoang sơ,
kỳ thú, đầy nét độc lạ giữa thiên nhiên hùng vĩ.
Cửa vào “cổng trời” đẹp lạ với những khối đá xếp theo hình cánh
cung rất độc đáo. Ảnh: Đ.N
Trải nghiệm
Phải mất gần nửa giờ đồng hồ leo núi, rồi băng qua những dòng suối nước
trong mát theo cánh rừng già, chúng tôi mới đặt chân đến “cổng trời”. Thật lạ,
giữa thung lũng núi, một “cánh cổng” thiên nhiên hoàn toàn bằng đá đứng sừng
sững, đầy mê hoặc. Một người dân địa phương cho hay, kể từ khi “cổng trời”
này được phát hiện đã trở thành điểm du lịch
sinh thái cho du khách trải nghiệm.
Ngồi trên một tảng đá lớn bên trong “cổng
trời” nhìn về dòng suối phía dưới, nước trong
veo đến lạ. Những tia nắng rọi chiếu lấp lánh
trên mặt nước khiến chúng tôi thích thú.
“Phải tranh thủ đi thôi. Bên trong còn nhiều
cảnh đẹp lắm. Chậm trễ, mưa xuống không
vào được!”. Người dẫn đường giục chúng tôi
tiếp tục cuộc hành trình, khi đã nghe rõ từng
tiếng sấm rền vang. Mùa này, về chiều
thường có mưa dông. Thác sẽ đục, có khi
nước mưa chảy tràn hang động khiến việc
tham quan không dễ dàng. Chỉ sau vài phút men theo dòng suối, trước mặt hiện
“Cổng trời” là tên gọi mà người dân địa
phương đặt cho quần thể khu di tích lịch
sử Dốc Gợp, thuộc địa phận giáp ranh xã
Ma Cooih và Kà Dăng (huyện Đông
Giang). Những năm tháng kháng chiến
chống Mỹ, Dốc Gợp (hay còn gọi là
Hang Gợp, Gợp Ter) là nơi trú ẩn của của
bộ đội và người dân địa phương các xã
Ma Cooih, Kà Dăng, cùng một số vùng
lân cận. Vì thế, nhiều năm trước, quần
thể này đã được công nhận Di tích lịch sử
cấp tỉnh, trở thành điểm đến lý tưởng của
nhiều du khách trong và ngoài tỉnh.
ra ngọn thác cao, nước tung trắng xóa, đổ xuống ầm ào về phía lòng hồ dưới
chân thác. Chỉ vừa kịp đặt hành lý xuống, chúng tôi kéo nhau nhảy ùm xuống,
nô đùa giữa dòng nước trong mát. Chừng vài phút, chúng tôi phải ngoi lên bờ vì
lạnh. Nằm trên tảng đá lớn, ngửa mặt nhìn lên trời, cây xanh bao quanh hệt chốn
thiên đường, bồng bềnh mây núi.
Tiếp tục vào sâu bên trong hang động, để giữ an toàn, chúng tôi đi sát vào
nhau và dùng đèn pin để rọi sáng. Chừng vài phút, đã nghe mọi người kháo nhau
khi nhìn thấy thạch nhũ trong động. Đứng ngắm những chùm “hoa đá” với hình
thù lạ mắt, đầy màu sắc, càng thôi thúc sự hứng thú với cuộc trải nghiệm Hang
Gợp.
Điểm đến lý tưởng
Nhiều bạn trẻ đến với Hang Gợp đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp và ý
nghĩa nhất của đời mình - thực hiện những album ảnh cưới đầy độc đáo, lãng
mạn với không gian núi đá kỳ thú phía “cổng trời”. Theo ông Đinh Văn Hươm -
Chủ tịch UBND huyện Đông Giang, những năm gần đây, nhận thấy được tiềm
năng rất lớn trong phát triển du lịch sinh thái từ Hang Gợp, địa phương đã nỗ lực
kêu gọi đầu tư, đồng thời kết nối với các doanh nghiệp đến khảo sát, nhằm sớm
đưa Hang Gợp trở thành điểm du lịch độc đáo, mang tính đặc trưng của vùng.
Với khối đá lớn, cùng hệ thống hang động, thạch nhũ, không gian “giếng trời”
và các khu thác nước tắm mát quanh khu vực, Hang Gợp được kỳ vọng sẽ ra mở
ra cơ hội mới, thu hút đầu tư, giúp huyện Đông Giang phát triển theo hướng du
lịch miền núi. “Từ nhiều năm trước, chúng tôi đã có đề án quy hoạch và kêu gọi
các nhà đầu tư đến khảo sát, tạo mọi điều kiện tốt nhất để Hang Gợp sớm trở
thành điểm đến hấp dẫn tại miền núi tây Quảng Nam” - ông Hươm nói.
Bà Nguyễn Thị Phương Nhung - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn FVG cho
hay, với địa hình rừng núi, đa dạng hệ sinh thái, khí hậu mát mẻ, “cổng trời”
Đông Giang phù hợp để hình thành sản phẩm du lịch độc đáo. Điều này vừa
giúp Đông Giang phát huy thế mạnh du lịch sinh thái rừng, vừa là cơ hội kết nối
với các vùng lân cận dọc theo trục đường Trường Sơn, hình thành quần thể du
lịch sinh thái đa màu sắc. Bà Nhung kỳ vọng, sau khi được đầu tư, “cổng trời”
Đông Giang sẽ thu hút du khách tìm đến trải nghiệm không gian thiên nhiên và
những nét văn hóa đặc trưng của đồng bào Cơ Tu trên hành trình khám phá vùng
cao xứ Quảng.
Mới đây nhất, UBND tỉnh cũng đã có quyết định chấp thuận Công ty CP
Khu du lịch Hang Gợp (thuộc Tập đoàn FVG) đầu tư khu du lịch sinh thái “cổng
trời” Đông Giang theo các khối kiến trúc công trình chính như: nhà làng cổ Cơ
Tu, đài vọng cảnh, khu nghỉ dưỡng, suối tự nhiên, hồ nước nhân tạo... trên tổng
diện tích hơn 145ha. Vốn đầu tư cho dự án này khoảng hơn 400 tỷ đồng, hoạt
động trong vòng 50 năm, kể từ năm 2018. Dự kiến, khu du lịch sinh thái Hang
Gợp sẽ được khởi công, đưa vào hoạt động giai đoạn 1 vào giữa năm 2019.
ALĂNG NGƯỚC
ALANG NGƯỚC.Ngược đến "cổng trời"/Alăng Ngước//Quảng Nam cuối
tuần.-2018.-Ngày 3-4 tháng 11.-Tr.6.
Chiều chiều lại nhớ khoai ngào Quảng Nam
Quê tôi ở Quảng Nam, một dải đất miền Trung nhỏ hẹp, phía đông toàn
cát trắng mênh mông, phía tây “đất cày lên sỏi đá”, đồi núi nối tiếp nhau. Trên
cát sỏi phải “bòn ra sự sống” (Nguyên Ngọc) do đó người dân quê tôi trồng
nhiều khoai lang vì nó là loài cây thích hợp với cả hai loại đất đó.
Ngày ấy, cách đây hơn nửa thế kỷ, nghề nông hoàn toàn phụ thuộc vào
thời tiết, mưa thuận gió hòa, được mùa thì lúa chất đầy bồ cuộc sống của người
dân no đủ, còn nắng hạn, bão lụt thì mất mùa đói khổ vì thế ở quê tôi nhà nào
cũng trồng nhiều khoai lang và sắn để phơi khô cất dành ăn qua bữa hoặc có dư
thì bán bớt mua thêm mắm muối. Những nương sắn, nương khoai xứ Quảng
nhìn thì cằn cỗi nhưng đào lên nhung nhúc những củ no tròn. Theo kinh nghiệm
của cha ông truyền lại, khi thu hoạch khoai lang phải bới nhanh tay trong mấy
ngày cho hết, nếu kéo dài lâu, quá ngày khoai sẽ bị sùng. Khoai bới về ngoài
việc ăn tươi như luộc, hấp còn được chế biến thành nhiều thứ như làm khoai
dẻo, khoai chà nhưng phổ biến nhất là xắt lát phơi khô để làm bánh, ghế cơm
hay nấu chín ăn lót lòng đỡ bữa.
Khoai khô là khoai củ tươi được xắt nhỏ phơi khô. Người ta thường lựa
những củ khoai lớn, đem rửa sạch rồi xắt thành lát mỏng tròn theo hình dạng củ
khoai hoặc xắt dài (khoai măng).
Muốn có được lát khoai thơm ngon người ta phải chọn giống khoai ngon
và phơi được nắng, lại phải thường xuyên trở đều cả hai mặt thì lát khoai mới
trắng và thơm. Ở miền Trung mùa hè đổ lửa, khoai phơi 3 đến 4 nắng là đã khô
giòn, chỉ cần chuẩn bị mấy cái lu to để đổ khoai vào, lấy lá chuối tiêu phơi khô
lót trên miệng lu, đậy kín lại là có thể để dành khoai lâu mà không sợ mốc hoặc
mọt ăn. Những ngày mưa gió hoặc mùa giáp hạt đem ghế cơm hay nấu chín để
ăn thay cơm. Khoai lang khô nấu với đường gọi là khoai ngào.
Khoai ngào là món ăn đặc trưng của người Quảng, một món ăn dân gian,
bình dị, mộc mạc nhưng khá hấp dẫn với nhiều người. Khoai ngào được chế
biến từ khoai lang khô nấu với đường bát (sản phẩm của Quảng Nam). Khoai
khô được đem rửa sạch cho vào nồi nấu chín, dằm cho nát nhừ ra xong cạo
đường bỏ vào, trộn đều. Đậy nắp kỹ và để lửa nhỏ (tốt nhất là vần với tro nóng,
bên bếp lửa) cho đường “tới”. Giã nhỏ củ gừng tươi bỏ vào, trộn đều để có thêm
mùi thơm. Người ăn sẽ thấm vị ngọt của đường và hương thơm của gừng, tạo
thành một hỗn hợp mềm mịn, dẻo quánh lại, tỏa hương thơm ngào ngạt. Có
người còn nấu khoai lang khô với đậu đỏ để vừa có vị béo bùi, ngon bổ hơn lại
có màu sắc “bắt mắt”.
Nấu khoai ngào dễ, nhưng không phải ai nấu cũng ngon. Muốn ngào
khoai cho ngon, người nấu phải cẩn thận và chăm chút từng li từng tí, phải canh
nước và lửa cho vừa để nồi khoai không khô cũng không nhão lại phải cho
đường vừa ăn không ngọt quá cũng không lạt và rim đường cho tới thì khoai
mới ngon.
Xa quê lâu ngày, giữa chốn Sài Gòn đô hội tìm đâu cho thấy món khoai
ngào! Chiều chiều, vào những lúc chuyển trời đổ mưa tôi lại nhớ da diết chén
khoai ngào mẹ nấu thuở còn thơ.
CHÂU YẾN LOAN
CHÂU YẾN LOAN.Chiều chiều lại nhớ khoai ngào Quảng Nam/Châu Yến
Loan.-2018.-Ngày 24-25 tháng 11.-Tr.6.
Giữ mình đầy những âm vui
Thoắt ở vuông sân, ông đã ở ngay giữa nhà, bộ điệu của người trên
sân khấu, ứng ngay mấy câu theo mấy điệu của bài chòi. Rồi cứ vậy, một
mạch lớp lang ca từ bung ra. Hồn nhiên. Chân chất.
Ông lão Nguyễn Tấn Hòa “hát vo” một điệu bài chòi. Ảnh: L.Q
Ông lão Nguyễn Tấn Hòa, tuổi đã vừa thất thập. Ở cái ngưỡng mà người
ta vốn dĩ ưa mình đạo mạo, sắm cho mình cái vóc dáng khuôn thước của người
trải nhiều chuyện đời, thì lão ông Nguyễn Tấn Hòa lại cứ kiểu say sưa vui vầy
của một tâm hồn rất trẻ.
1. Vùng đất cát Bình Triều (huyện Thăng Bình), ai từng ngang qua đây
nhiều năm về trước, hẳn sẽ thấy sự cằn cỗi, sự khó nghèo. Nhưng ẩn sâu trong
đó, ngay từ rất lâu về trước, đã có những nhóm thanh niên, người già yêu say
đắm văn nghệ, dân ca bài chòi. Ngay từ những năm 1964 - 1965, ở Bình Triều
đã thành lập một Đội Văn nghệ lấy dân ca bài chòi làm chủ đạo. Thuở ấy,
Nguyễn Tấn Hòa là một thanh niên lòng đầy nhiệt huyết và say sưa. Nhóm
người này sau đó được triệu về Đoàn văn công Giải phóng Quảng Nam - Đà
Nẵng, riêng Nguyễn Tấn Hòa thì vẫn ở lại với vùng đất cát cằn cỗi này. Bom
đạn. Chiến tranh. Cuộc mưu sinh đầy khắc nghiệt. Tưởng rằng những cơn bão
quét qua cuộc đời sẽ khiến người đàn ông này thôi say sưa với chuyện hát ca.
Nhưng một mạch, từ tuổi 27, Nguyễn Tấn Hòa bấu víu vào văn nghệ quê mình,
để giữ gìn, để phát triển, để đưa dân ca bài chòi thành một mạch sống ngầm
chảy dọc theo ký ức của đời người. Ông nói, phải làm sao để cái phong trào văn
nghệ ở quê mình không bị vùi dập bởi bao chuyện, làm sao để cái giai điệu sâu
lắng bao đời không bị lãng quên. Nghĩ... thì nghĩ vậy thôi! Nhưng đến khi ở
trong cuộc, nhất là làm những chuyện theo kiểu “vác tù và hàng tổng”, mới thấy
hết trăm thứ cực nhọc. Chỉ bằng bản năng máu thịt tình yêu với bài chòi mới
giúp ông đủ sức vượt qua, bền bỉ theo đến cuối cùng ý định của mình.
Tôi ngang qua Bình Triều một ngày giữa tháng mười. Để tìm gặp ông,
người duy nhất của huyện Thăng Binh được vinh danh là “người biên kịch bài
chòi” có nhiều đóng góp trong việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản bài chòi của
Quảng Nam hồi tháng 8 năm nay, trong dịp đón nhận Bằng UNESCO công nhận
Bài chòi là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Ngạc nhiên vì sự ồn ào,
nhộn nhịp của vùng đất đã từng rất khó nghèo. Một con đường lộ nối các địa
phương mở ra, thì hẳn nhiên vùng quê cũng theo đó mà đổi thay diện mạo.
Và may thay, khi đời sống ngày mỗi cải thiện theo hướng tốt dần lên, thì
dân quê mình vẫn vẹn nguyên ở đó lòng say mê những giá trị nghệ thuật dân
gian. Những sân khấu vội vàng được dựng lên đơn giản, diễn viên là ông hàng
xóm của mình, là chị buôn hàng xén ở chợ, là đứa cháu vẫn thường đi học ngang
nhà... Vở kịch cũng là mấy chuyện hàng ngày ở xóm ở làng mình, vậy mà khi
mang lên sân khấu, người ta vẫn cứ say sưa. Họa sĩ Phan Cẩm Thượng nói, cái
đời thường của cuộc sống cũng là vốn nghệ thuật thuần túy, là mảnh đất màu mỡ
mà không người nghệ sĩ nào dám cả quyết mình đã biết đến tận cùng. Vậy nên,
người như ông lão Nguyễn Tấn Hòa này, tôi hình dung việc ông làm cho văn
hóa truyền thống của vùng đất này, như đang đơn lẻ gieo hạt mầm, rồi từ đây
những thế hệ sau có thể sẽ gieo cấy nên cả một cánh đồng nghệ thuật.
2. Trong suốt cuộc chuyện trò, xen lẫn về sự hồ hởi của quê mình nay đã
khác, là những câu hát mà ông lão Nguyễn Tấn Hòa không dưng bật ra vì nhiều
nỗi niềm. Cả một vùng đất xôn xao vì chuyện nếp nhà nếp cửa, tình thân, khi
đâu đó có những người lạ từ nơi khác đến - trở thành chủ sở hữu những không
gian rộng. Hay chỉ một thoáng qua cái vết hằn nơi đuôi mắt người già vì chạnh
lòng nghĩ cho một thế hệ tiếp sau của nghệ thuật truyền thống, của một sân khấu
dân gian dựng ngay giữ làng mình. Bình Triều hằng năm rộn ràng với hội Cộ Bà
Chợ Được, thì lão nông Nguyễn Tấn Hòa cũng ngay từ ngày đầu xuân đã kêu
gọi người này người khác tập luyện cho những trích đoạn ca kịch bài chòi phục
vụ hội lễ lớn nhất vùng này.
Vì đâu người ta biết đến một ông già ưa ca kịch bài chòi, biết diễn hò
khoan đối đáp, biết cách viết cho ra những phân cảnh trích đoạn để luyện tập
cho một nhóm người? Ông Nguyễn Tấn Hòa nói, phong trào văn nghệ truyền
thống đã gần như là máu thịt của mỗi người dân. Riêng với ông chỉ học chữ từ
chương trình bình dân học vụ thuở xưa, cơn cớ của niềm say mê, của năng khiếu
ca kịch, còn truyền từ người mẹ là một nghệ nhân hát hò khoan đối đáp nức
tiếng trên vùng cát trắng. Nhiều năm liền, ông theo những lớp đàn anh để học
một cách bài bản về thể điệu bài chòi, về cách dựng nên một vở kịch bài chòi,
cách truyền tải thông tin sao cho vừa ngọt vừa sâu. “Tôi vẫn nhớ anh Trần
Thanh Việt - Nguyên Trưởng đoàn Ca kịch Quảng Nam - Đà Nẵng cũ, cứ mỗi
lần đoàn về Thăng Bình diễn là đi tìm tôi bảo theo đoàn mà học. Rồi những
người bạn như nhạc sĩ Nguyễn Hoàng Bích, Nguyễn Quang Toản... không ngại
gì chỉ cho tôi từng cung bậc, âm điệu nhỏ nhất” - ông Nguyễn Tấn Hòa nói.
Gắn bó với văn hóa cơ sở từ khi vùng quê mới giải phóng, cho đến tận bây giờ,
ông Chủ tịch Hội người Cao tuổi xã Bình Triều vẫn cứ gom góp cái “vốn liếng”
văn nghệ để dành cho vùng đất. Bây giờ ông nói, đã có 3 học trò người Bình
Triều cũng theo ông để đi xã này xã khác, dựng kịch bản sân khấu, luyện tập ca
kịch bài chòi cho một nhóm người phục vụ các sự kiện của địa phương. Vậy thôi
mà chân đi không nghỉ. Dù thù lao chưa bao giờ hơn những ly nước uống bồi
dưỡng cho đường xa. Rồi những câu lạc bộ bài chòi ở mỗi thôn của xã Bình
Triều, một đội bài chòi của những người cao tuổi, vẫn cứ vậy hằng tháng đôi ba
lần gặp nhau luyện tập.
Đã từng đại diện cho Quảng Nam đưa Đội ca kịch bài chòi Bình Triều đi
thi tại Huế, chưa kể mỗi một cuộc hội làng người ta lại thấy ông lão này không
ngơi tập luyện cho những “nghệ sĩ chân đất” chuẩn bị lên sân khấu. Như thể ông
gom tất vào mình những toan lo mỗi khi có hội làng. Vậy cũng hay. Để cái vốn
cốt lõi truyền thống không phải chỉ nương náu trên những văn bản, giấy tờ hay
trong những cuộc trình diễn mang tính chất “sân khấu hóa” để bảo tồn, phục hồi.
Chút ý tưởng ấp ủ của mình về câu chuyện phục hồi bài chòi rộng khắp các địa
phương, như được chắp thêm sức khi loại hình di sản này càng ngày càng nhận
được nhiều sự quan tâm hơn bằng các chính sách lẫn kinh phí. Nhưng không chỉ
riêng bài chòi, văn hóa cơ sở còn cần nhiều thứ hơn, như hình thành một đội
hình làm công tác văn hóa văn nghệ địa phương từ người già đến trẻ cùng chung
tay. “Cơ bản hiện nay với văn hóa cơ sở cần phải có nhân lực. Người dân nông
thôn không được hưởng thụ nhiều chương trình văn hóa, giải trí như thành thị,
chưa kể rằng với các chính sách, điều luật do Nhà nước ban hành, một đội ngũ
những người được đào tạo chuyên sâu về làm văn hóa sẽ giúp người dân dễ tiếp
cận hơn” - ông Hòa nói.
Mấy mươi năm gắn bó với văn hóa cơ sở, điều lớn nhất ông lão này gom
nhặt được, không phải là danh xưng hay bằng khen từ cấp này cấp nọ. Điều vui
nhất là mỗi người dân vùng biển Thăng Bình thấy ông, thì họ lại reo lên: “Gió
xuân phảng phất nhành tre/ Mời bà con cô bác lắng nghe bài chòi” - theo kiểu
thấy ông Hòa là nghe ra cái âm vui của điệu bài chòi.
LÊ QUÂN
LÊ QUÂN.Giữ mình đầy những âm vui/Lê Quân//Quảng Nam cuối tuần.-
2018.-Ngày 24-25 tháng 11.-Tr.12.
ĐỖ DUY HOÀNG. Một thoáng đập Làng/ Đỗ Duy Hoàng// Tạp chí Du lịch.-
2018.- Tháng 11.- Số 11.- Tr.43.
Lai rai chữ nghĩa: "khuất tất"
Ngôn ngữ và văn tự cũng có quy luật “sinh, trụ, dị, diệt” của nó, có nghĩa
là chúng được sinh ra, tồn tại trong sinh hoạt đời thường hoặc trong tác phẩm
văn học, rồi dần biến đổi theo thời gian. Sau đó, đôi khi chúng biến mất hẳn.
Minh họa: HIỂN TRÍ
Thế hệ chúng ta đọc thơ văn các cụ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du... cũng khó
lòng mà hiểu được, nếu không có các nhà chú giải. Có phải riêng ta đâu. Thế hệ
sinh viên Anh hiện đại cũng khó mà đọc hiểu được Shakespeare, cũng như sinh
viên Pháp hiện nay không dễ gì mà đọc được Racine, Molière. Còn sinh viên
Trung Quốc thì hầu như “mù tịt” trước kho tàng Đường thi viết bằng chữ phồn
thể truyền thống.
Nhưng chưa bao giờ tiếng Việt lại bị tác động mạnh đến thế như hiện nay.
Những từ mới xuất hiện đã đành, nhưng cấu trúc chắp vá kỳ lạ theo kiểu “đầu
Ngô mình Sở” như “game thủ”, “cần thủ”, “cát tặc”... lạ lẫm với tiếng Việt. Đó
là chưa kể đến loại ngôn ngữ và lối viết tắt khó hiểu của lứa tuổi teen.
Có một từ lạ lẫm nhưng lại phổ biến trên báo chí, thậm chí bị lạm dụng
quá mức, mà chúng ta hầu như cứ mặc nhiên chấp nhận ý nghĩa của nó mà
không thắc mắc nguồn gốc từ đâu. Đó là từ “khuất tất”, mà cách sử dụng nhiều
khi rất tùy tiện.
Hiện nay, từ “khuất tất” bị lạm dụng trên báo chí, với ý nghĩa là “khúc
mắc” hoặc “uẩn khúc”, để biến thành nghĩa là “mờ ám”, “đáng nghi ngờ”. Mà
cái này thì từ Hán Việt thường dùng là “ẩn tình”, dùng để chỉ tình trạng bí mật
còn ẩn giấu.
Trong thời gian gần đây, do chiếm ưu thế trong việc truyền đạt thông tin, báo chí
đã “góp phần” làm rối rắm và tối nghĩa tiếng Việt bằng cách sử dụng quá đỗi tùy
tiện những từ mới mà không truy cứu từ nguyên, vô tình biến tiếng Việt thành
con chữ vô hồn, xa lạ với cả người Việt. Đó là chưa kể đến những nhà “ngôn
ngữ học” nổi tiếng hiện nay đang cố sức đem những kiến thức lai tạp hổ lốn biến
nồi canh hẹ tiếng Việt thành một cái lẩu thập cẩm không còn hình dạng!
Khuất là “bẻ gập lại; bẻ cong”, tất là “đầu gối”. Ta thử tìm hiểu nghĩa của từ
“khuất tất” trong tự điển.
Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị (NXB Thời Thế, Sài Gòn, 1952)
định nghĩa: “Khuất tất: (động từ) uốn gối; (nghĩa bóng) lòn cúi, luồn lụy”. Còn
Từ điển Tiếng Việt của Văn Tân và Nguyễn Văn Đạm (NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1977, in lần thứ hai) định nghĩa “Khuất tất: luồn lọt, quỳ lụy: người có
tiết tháo không bao giờ chịu khuất tất”.
Đó là tự điển ta, còn tự điển Tàu, cũng định nghĩa không khác.
Tân biên cổ kim Hán ngữ đại tự điển định nghĩa “khuất tất” là “hạ quỵ”:
nghĩa là “quỳ gối”, hàm ý là “chịu khuất, chịu lòn cúi theo người”. Tự điển Văn
Lâm (Wenlin) cũng định nghĩa “khuất tất” như thế, và còn nêu các ví dụ như:
“Khuất tất cầu sủng” (quỳ gối xin ân sủng), “Khuất tất cầu hòa” (quỳ gối xin
hòa), “Khuất tất cầu hàng” (quỳ gối xin hàng).
Vậy rõ ràng từ “khuất tất” (gập gối) đều có nghĩa là “quỵ lụy” hay “quỳ
gối” cả. “Khuất tất” còn có nghĩa là “bắt người khác phải chịu khuất, chịu thiệt
thòi”.
Ta thử đọc chơi vài đoạn trong truyện kiếm hiệp, liên quan đến “khuất
tất”.
“Nhân Yêu Kim Linh Quan thủng thẳng cười nói:
– Xin La bằng hữu tạm thời hãy trở gót. Kim mỗ ước hẹn một vị bằng hữu
tới đây rồi hãy đi. Hai đầu đường lại chẳng phải chỉ có một mình La bằng hữu.
Muốn được công bằng, Kim mỗ đành khuất tất bằng hữu một chút, xin bằng hữu
rộng lượng cho”. (https://truyenfull.vn/hoang-nhan-doat-phach/chuong-14/).
“Trường Mi đại sư đáp:
- Bao thí chủ quy ẩn đã lâu, cách biệt giang hồ đã lâu mà bảo đi kiếm
hành tung bọn họ thì quả là việc khó khăn. Lão tăng đã trù liệu giúp Bao thí chủ,
có điều khuất tất thí chủ một chút.
Bao Nhất Thiên nói :
- Tại hạ đã ưng lời thì còn nề hà gì chuyện khuất tất với chẳng khuất tất”.
(http://truyenkiemhiep.com.vn/Truy%E1%BB%87n:%C4%90%C3%A0n_ch%
E1%BB%89_th%E1%BA%A7n_c%C3%B4ng_-_H%E1%BB%93i_116).
“Vương Ngọc Yến lại nói:
- Công tử vừa bảo chưa hiểu công chúa đẹp hay xấu, tử tế hay lăng loàn,
thế mà vì ta công tử lại đi thành thân cùng nàng, chẳng hóa ra... ta khuất tất công
tử nhiều quá ư?
Đoàn Dự không ngần ngừ gì đáp ngay:
- Miễn sao được việc cho cô nương, còn đối với tại hạ, khuất tất hay
không khuất tất phỏng có chi đáng kể? ... Không phải tại hạ vì cô nương mà chịu
khuất tất đâu. Tại hạ đã vâng mệnh gia gia phải tìm cách lấy cho bằng được
công chúa nước Tây Hạ, đạo làm con phải tận hiếu với song thân. Việc này
không can dự gì đến cô nương”. (https://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-
van/luc-mach-than-kiem-hoi-132-2752997.html).
Có người còn giải thích “khuất tất” nghĩa là “che khuất tất cả”. Cách hiểu
đó thực sự người viết không dám hiểu theo!
Những ai còn thiết tha với tiếng Việt không khỏi cảm thấy lo lắng, khi mà
trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay, tiếng Việt đang ngày càng
mất đi sự trong sáng mà ta đã gặp trong các tác phẩm của các thế hệ đi trước,
đặc biệt trong các tác phẩm của Tự Lực văn đoàn.
Hiện tượng khúc xạ ý nghĩa của từ Hán Việt vẫn thường xảy ra trong quá
trình tiến hóa của ngôn ngữ. Chẳng hạn như từ “tử tế” trong tiếng Hán Việt có
nghĩa là “tỉ mỉ, cẩn thận”, nhưng trong tiếng Việt lại có nghĩa là “tốt bụng”! Có
lẽ “khuất tất” cũng nằm trong trường hợp đó chăng?
Tạm thời, những người còn yêu tiếng Việt hãy chịu khó “khuất tất” để bớt
thấy khó chịu khi đọc những trang sách tiếng Việt!
LIÊU HÂN
LIÊU HÂN.Lai rai chữ nghĩa: "khuất tất"/Liêu Hân// Quảng Nam cuối
tuần.-2018.-Ngày 3-4 tháng 11.-Tr.10.
Thêm đôi ba cách giữ tuồng
Vẫn còn đó những người yêu mê tiếng trống chiến, trống chầu. Vẫn ở đó
những lớp nghệ sĩ khởi từ những nhà hát chuyên nghiệp, hay họ - chỉ là
nông dân chân lấm tay bùn, nhưng vẫn trọn một lòng với từng chi tiết của
tuồng. Hẳn, tuồng vẫn là một bộ môn nghệ thuật ăn sâu vào đời sống của
người xứ Quảng…
Nghệ thuật tuồng chứa đựng các giá trị văn hóa truyền thống
cũng như là các giá trị nghệ thuật đỉnh cao...
Một cuộc hội thảo để khẳng định những giá trị tốt đẹp của nghệ thuật
tuồng vừa được ngành văn hóa tổ chức hồi tuần qua, ngõ hầu góp thêm những
tiếng nói nhằm tìm phương cách bảo tồn và phát huy bộ môn nghệ thuật truyền
thống này…
Niềm tin
Cụ ông Nguyễn Quỳnh – Chủ tịch Hội Bảo trợ tuồng Duy Xuyên, kể câu
chuyện về một đêm diễn của Đoàn Tuồng Sông Thu và một số em năng khiếu
trong chương trình “Sân khấu học đường” của huyện Duy Xuyên. Ông nói, mình
vẫn còn nhớ mãi một khán giả ở thôn Mậu Hòa (xã Duy Trung), ngồi xem
tuồng, thấy diễn viên diễn hay quá, muốn vãi tiền lên sân khấu để thưởng nhưng
trong túi lại không có, vậy là họ lập tức chạy về nhà bắt ngay cặp vịt chạy lên
sân khấu tặng cho diễn viên. “Có rất nhiều trường hợp cảm động như vậy, bởi
tuồng thật sự như là cơm ăn, nước uống đối với người dân mình” - cụ ông
Nguyễn Quỳnh bồi hồi.
Lần gặp lại NSND Trần Đình Sanh –
Nguyên Giám đốc Nhà hát Tuồng
Nguyễn Hiển Dĩnh, ông vẫn giữ cho
mình tình yêu nguyên vẹn với tuồng cổ:
“Tuồng kỳ lạ lắm, là sân khấu đấy, nhưng
cũng là không gian của cuộc đời. Nó phô
bày mọi thứ. Hay, dở, xấu, tốt… được
phân định rõ ràng. Người đi xem tuồng là
xem những chuyện đã xảy ra rồi, đã
thuộc rành rẽ cả rồi, nhưng phải xem, để
coi cái anh kép, ả đào kia diễn như thế
nào. Nên người diễn tuồng, tưởng đơn
giản, hóa ra lại vô cùng khó. Phải phơi
bày những nếm trải, phải đủ sắc sảo và
kiêu hãnh, phải vừa vặn với tâm thức thời
đại mình, phải đau, phải bi đến độ quỵ
ngã, nhưng khi cần thì phải oai, phải
bừng bừng uy lực trước vận mệnh của đất
nước…”.
“Cái đẹp, cái trữ tình trong văn chương
của tuồng làm tỉnh lại những ai đó có
phút xao lòng về sự tồn vong của tuồng.
Tôi tin rằng, một điều bất di bất dịch, hát
bội là bản sắc văn hóa dân tộc, là hồn cốt
văn hóa truyền thống của vùng đất xứ
Quảng này, nó là thứ đặc sản, vừa là vật
thể, vừa phi vật thể, như mỳ Quảng vậy, gần nó mà không thưởng thức nó, thì
lại nhớ, lại mong, lại thiết tha. Nên sẽ vẫn còn đó lâu dài nghệ thuật tuồng xứ
Quảng” - nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Hoàng Hương Việt chia sẻ thêm.
Giữ tuồng
Bằng niềm mê đắm những trích tuồng cổ, những hồi trống chầu, những
giai điệu xưa, họ - bằng nhiều cách, đã để tuồng không bị chìm vào quên lãng.
Dẫu chỉ đôi ba lần gióng lên tiếng trống trong cả năm dài, nhưng một khi người
dân quê còn yêu tuồng, còn muốn nghe tuồng, thì tuồng sẽ không lụi tàn. Cụ
Nguyễn Quỳnh nói tuồng từ xưa đã gắn với những ngôi làng nên nó sống trong
làng. Chỉ ở hai vùng Duy Xuyên, Quế Sơn, đã có đến hơn 20 câu lạc bộ, đội,
nhóm diễn và hát tuồng. Hội bảo trợ Tuồng Duy Xuyên ra đời đầu tiên ở Quảng
Nam, đã ngót nghét 30 năm. Chừng ấy năm, nhiều lớp người trẻ trưởng thành,
có em là diễn viên chuyên nghiệp, có em không theo tuồng, nhưng ở đó, điều
quý giá nhất được lan truyền. “Chỉ cần các em biết yêu quý tuồng, biết trọng cái
vốn văn hóa truyền thống của mình, biết cách giữ tư thế ngồi xem một đêm diễn
tuồng thì đã là một sự thành công. Nên tôi nghĩ, nhất thiết phải có hướng đi đưa
tuồng vào trường học, chương trình “sân khấu học đường” cần phải được phát
“Chúng ta cần kêu gọi các nhà khoa
học, các nghệ nhân, nghệ sĩ tâm
huyết và cả sự quan tâm của lãnh
đạo ban, ngành liên quan chung sức
bảo tồn và phát triển nghệ thuật
tuồng. Cần tiếp tục đưa nghệ thuật
tuồng vào các cơ sở đào tạo phổ
thông, duy trì và gây dựng lớp khán
giả cho tuồng, phát triển hoạt động
nghệ thuật tuồng không chuyên; có
chính sách đãi ngộ, đối với nghệ sĩ,
diễn viên tuồng; đưa nghệ thuật
tuồng cùng các nghệ thuật sân khấu
truyền thống khác thành sản phẩm
du lịch để tuồng lan tỏa trong đời
sống văn hóa của người dân và bạn
bè quốc tế. Chúng tôi đang xúc tiến
cùng với tỉnh Quảng Nam lập hồ sơ
kiến nghị UNESCO công nhận nghệ
thuật tuồng là Di sản văn hóa phi
vật thể của nhân loại. Hy vọng đây
sẽ là cơ hội để bảo tồn và phát huy
bộ môn này”. (GS-TS. Trương
Quốc Bình)
triển mạnh hơn nữa. Bởi hiện nay, trong nhân dân, lực lượng nghệ nhân đã phần
lớn có tuổi, sức khỏe có hạn, dù họ có hát hay chừng nào đi nữa thì vẫn không
thể đảm bảo vai diễn thành công được” - cụ Nguyễn Quỳnh nói thêm.
NSND Nguyễn Xuân Hợi cho biết, để nghệ thuật tuồng đến gần hơn với
thế hệ trẻ, cần phải giúp họ hiểu hơn về đặc trưng của loại hình nghệ thuật này,
bằng cách phải tăng cường tuyên truyền giới thiệu, quảng bá. “Tôi nghĩ cần
quan tâm hơn tới các hội thi, hội diễn, liên hoan. Đây sẽ điểm mốc để tuồng
không chuyên chú trọng vào đầu tư chất lượng, nâng cao sự hiểu biết cũng như
sẽ làm người dân yêu hơn bộ môn này. Quảng Nam cần phải xây dựng một đội
ngũ những người biểu diễn để hình thành một đoàn tuồng chuyên nghiệp” -
NSND Nguyễn Xuân Hợi nói.
Năm 2015, Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đã thực hiện chương trình
đưa tuồng xuống phố, với các buổi biểu diễn vào cuối tuần ở bờ đông sông Hàn.
Ngay sau đó, năm 2016, Hội An cũng bắt đầu khơi mở các chiếu tuồng tại một
số tuyến phố, cũng như thành lập lớp truyền vai tuồng cổ cho các em lứa tuổi
thiếu niên. Thế nhưng các chiếu tuồng do 2 nghệ nhân Lê Phú Hải và chị Hồ Thị
Ánh Hoa vắng dần do số lượng khán giả tham dự ít ỏi. Cũng như vậy, các CLB
tuồng đang hoạt động ở các huyện thị luôn kêu khó vì thiếu kinh phí sắm phục
trang, đạo cụ cũng như tổ chức biểu diễn.
Hẳn con đường giữ tuồng, không phải chỉ cần có tình yêu quý…
SONG ANH
SONG ANH.Thêm đôi ba cách giữ tuồng/Song Anh//Quảng Nam cuối tuần.-
2018.-Ngày 3-4 tháng 11.-Tr.11.