296
LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM - TẬP HAI: VĂN HỌC VIẾT LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM TẬP HAI VĂN HỌC VIẾT Thời kỳ I: Các giai đoạn I, II và III (In lần thứ năm, có sửa chữa) (Sách dùng trong các trường Đại học và Cao đẳng sư phạm) Tác giả: BÙI VĂN NGUYÊN Chương mở đầu: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA NỀN VĂN HỌC VIẾT DƯỚI THỜI PHONG KIẾN Dân tộc Việt nam vốn từ nghìn xưa đã có một nền văn học dân gian truyền miệng muôn màu muôn vẻ và đến khi có chữ viết (chữ viết được truyền lại đến nay, trước khi có chữ quốc ngữ là chữ Hán và chữ Nôm) lại có thêm nền văn học viết chữ Hán và chữ Nôm. Nền văn học viết chữ Hán và chữ Nôm đó hình thành dưới thời phong kiến và chủ yếu phát triển ở thời đó, kéo dài cho đến mãi về sau. Như vậy, nền Văn học viết của dân tộc ta thời đó có những tính chất chung nhất định, trong khuôn khổ của chế độ xã hội thời bấy giờ, nó mang nhiều nhân tố phức tạp, tích cực có, tiêu cực có, tất nhiên đối với bộ phận văn học viết tiến bộ lúc đó, thì nhân tố tích cực là chủ yếu. Sau

LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM - TẬP HAI: VĂN HỌC VIẾTLỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM

TẬP HAIVĂN HỌC VIẾT

Thời kỳ I: Các giai đoạn I, II và III

(In lần thứ năm, có sửa chữa)

(Sách dùng trong các trường Đại học và Cao đẳng sư phạm)

Tác giả: BÙI VĂN NGUYÊN

Chương mở đầu: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA NỀN VĂN HỌC VIẾT DƯỚI THỜI PHONG KIẾN

Dân tộc Việt nam vốn từ nghìn xưa đã có một nền văn học dân gian

truyền miệng muôn màu muôn vẻ và đến khi có chữ viết (chữ viết được

truyền lại đến nay, trước khi có chữ quốc ngữ là chữ Hán và chữ Nôm) lại có

thêm nền văn học viết chữ Hán và chữ Nôm. Nền văn học viết chữ Hán và

chữ Nôm đó hình thành dưới thời phong kiến và chủ yếu phát triển ở thời đó,

kéo dài cho đến mãi về sau. Như vậy, nền Văn học viết của dân tộc ta thời đó

có những tính chất chung nhất định, trong khuôn khổ của chế độ xã hội thời

bấy giờ, nó mang nhiều nhân tố phức tạp, tích cực có, tiêu cực có, tất nhiên

đối với bộ phận văn học viết tiến bộ lúc đó, thì nhân tố tích cực là chủ yếu.

Sau đây, lần lượt, chúng ta đề cập đến một số vấn đề trong tính chất chung

của nền văn học viết đó.

1. Cùng với nền văn học dân gian muôn màu muôn vẻ của các dân tộc anh em trong đại gia đình Việt nam, nền văn học viết, tức nền văn học viết tiến bộ, dưới thời phong kiến, thấm đượm chủ nghĩa yêu nước nồng nàn và chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.

Theo những thành tựu của các công trình khoa học trong nước và

ngoài nước được xác định thì nước ta có một vị trí đặc biệt. Tổ quốc ta nằm

Page 2: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

vào nơi giao lưu đông, tây nam, bắc, nơi tiền đồn Đông Nam Á và trở thành

một cái mốc cho kẻ thù nhòm ngó từ nhiều hướng. Đó là một trong nhiều

nhân tố phức tạp khác khiến cho tổ tiên ta sớm có ý thức về “độc lập, tự do”,

sớm tự giác về việc xây dựng một địa bàn dân tộc, trong hoàn cảnh vừa phải

chống thù trong, giặc ngoài, mà giặc ngoài có khi thuộc vào loại hung hãn bậc

nhất thế giới. Ngay từ thời còn trứng nước, nước ta đất không rộng, người

không đông và có nhiều dân tộc anh em chung sống hòa hợp với nhau. Chính

nhân tố đoàn kết nội bộ của dân tộc ta là một truyền thống hết sức tốt đẹp để

tạo thành một sức mạnh vô địch chống xâm lăng.

Xưa kia, tổ tiên ta đã trải qua bao chặng đường sóng gió để bảo vệ nền

độc lập, tự do của dân tộc. Đất nước của Hùng vương, quê hương của trống

đồng Đông sơn nổi tiếng, có lúc chỉ vì An Dương Vương mất cảnh giác chính

trị, nên đã để mất về tay Triệu Đà, và tiếp sau đó là hàng nghìn năm Bắc

thuộc. Tuy cũng có nhiều cuộc khởi nghĩa như Bà Trưng, Bà Triệu, Mai Thúc

Loan, Phùng Hưng… nhưng vẫn không cứu văn được nền độc lập, và phải

đến năm 938, bởi trận Bạch đằng thứ nhất, Ngô Quyền lãnh đạo nhân dân ta

đánh tan bọn Hoàng Thao, mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên nước Đại

Việt độc lập, tự do ra đời. Cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta

chưa dừng lại ở đó. Còn có trận Bạch đằng thứ hai năm 981 do Lê Hoàn chỉ

huy, đồng thời với trận Chi lăng thứ nhất với sự kiện chặt đầu Hầu Nhân Bảo.

Rồi đến trận Bạch đằng thứ ba năm 1288 do Trần Quốc Tuấn chỉ huy, trận

Chi lăng thứ hai năm 1427 với sự kiện chặt đầu Liễu Thăng, tiến tới trận Đống

đa nổi tiếng năm 1789 do Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải chỉ huy… Oái

oăm thay: Nguyễn Ánh theo vết chân Chiêu Thống, “rước voi về giầy mả tổ”,

khiến cho non sông gấm vóc Đại Việt bị thực dân Pháp đô hộ, để rồi phải mất

117 năm, thì đài xuân dân tộc mới trở lại tươi vui và sáng chói dưới “cờ đỏ

sao vàng”: nước Văn Lang cổ kính thời Hùng vương đã tái sinh dưới ánh

sáng của Đảng quang vinh thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam,

nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở Đông Nam Á. Chủ nghĩa yêu nước của

nhân dân ta nảy sinh và lớn mạnh trong tiến trình lịch sử như vậy. Từ thưở

Gióng phi ngựa sắt đuổi giặc Ân trên địa bàn đất tổ Hùng vương đến nay, qua

Page 3: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, bao nhiêu thế hệ con em đất Việt nối tiếp

nhau đốt sáng ngọn lửa thần thiêng liêng của dân tộc, ngọn lửa thiêng đó

chính là tinh thần tự cường, bất khuất của nhân dân ta.

Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt nam lần thứ II

thời kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Dân tộc

ta có một lòng yêu nước nồng nàn. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ

xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi. Nó kết

thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ to lớn, nó vượt qua mọi sự nguy hiểm

khó khăn. Nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước”. Trong Báo

cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IV vừa qua, đồng chí Tổng bí thư Lê

Duẩn cũng nêu lên chủ nghĩa yêu nước truyền thống đó: Nước Việt nam là

một, dân tộc Việt Nam là một. Lịch sử Việt Nam mấy nghìn năm nay là lịch sử

của một nước thống nhất, một đại gia đình dân tộc thống nhất, là lịch sử

không ngừng đấu tranh đánh bại mọi thế lực xâm lược và chia cắt.

Không phải ngẫu nhiên mà từ sau lời truyền của Hùng vương cho sứ

giả đi rao để tìm người tài giỏi ra đánh giặc cứu nước, thì có biết bao nhiêu

văn kiện xuất hiện như hịch, tuyên ngôn, thí dụ bài thơ thần của Lý Thường

Kiệt, bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, bài Bình Ngô đại cáo do Nguyễn

Trãi viết thay cho Lê Lợi, lời tuyên bố của Nguyễn Huệ ở Thọ hạc (Thanh

hóa) trước khi tiễn ra Bắc, đại phá quân Thanh… Một dòng văn học viết thấm

đượm chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo hình thành và phát triển,

bao gồm nhiều áng thơ phú khác nhau, nhưng cũng có khi bao gồm cả một

hệ thống văn học, thí dụ văn học cứu nước thời Lý, Trần, văn học yêu nước

thời khởi nghĩa Lam sơn, văn học yêu nước thời khởi nghĩa Tây Sơn, v.v. hệ

thống thơ văn này chính là tiền đề cho hệ thống thơ văn yêu nước và cách

mạng thời chống Pháp cũng như thời chống Mỹ cứu nước.

Nhân dân ta rất anh hùng, nhưng cũng rất nhân đạo đối với con người,

cho dù con người đó có lúc là kẻ thù, nhưng đã biết hối cái và phục tùng

chính nghĩa thì cũng được ta khoan hồng.

Page 4: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Nếu như chủ nghĩa yêu nước là một truyền thống tốt đẹp, thì chủ nghĩa

nhân đạo lại là một truyền thống tốt đẹp khác của dân lộc ta.

Trong tôn giáo nguyên thủy với tính chất bản địa của dân tộc ta, có đạo

thờ bà phủ, hoặc ba tòa đức mẹ (gọi theo lối chữ Hán là: Tam phủ thánh mẫu,

hoặc Tam tòa thánh mẫu). Đó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời

nguyên thủy, của nhân dân ta vì rằng ba phủ hay ba tòa đức mẹ đó là: Đức

mẹ trên trời (Thượng thiên phủ), đức mẹ trên rừng (Thượng ngàn phụ), đức

mẹ dưới nước (Thủy phủ, có nơi gọi chệch là Thoải, đức mẫu Thoải). Ba đức

mẹ đó được coi như ba vị chủ tể sáng tạo ra ba vùng của địa bàn hoàn chỉnh

của dân tộc ta: vùng trời, vùng đất, (bao gồm cả rừng núi), vùng biển (bao

gồm cả sông ngòi). Ở đây, chúng ta không bàn rộng về ý nghĩa duy vật thô sơ

trong đạo Tam phủ hay Tam tòa đó, mà chỉ đề cập đến một mặt của vấn đề.

Sáng tạo ra con người của các bà mẹ, tức vấn đề con người “tự tái sản xuất”

như Mác và Ăng-ghen đã nói rõ trong quyển Hệ tư tưởng Đức (phần Phơ-

bách), và từ đó đó cập đến ý nghĩa đồng bào, đồng chủng trong quan hệ giai

cấp xã hội. Từ viễn cảnh của ba đức mẹ mang màu sắc thiên nhiên thời hồng

hoang nói trên, cho đến đức tổ mẫu Âu Cơ và cái bọc trăm trứng là cả một

chặng đường quá dài, và từ đức tổ mẫu Âu Cơ cho đến bà mẹ Gióng, rồi bà

Man Thiên mẹ Hai Bà Trưng, v.v… lại là một chặng đường quá dài nữa. Đối

với thời đại có lịch sử, thì hàng nghìn năm đã là dài, còn đối vời thời đại trước

khi có lịch sử, thì phải nói hàng tỉ và hàng tỉ năm, hay hơn nữa. Lịch sử của

dân lộc ta tương ứng với lịch sử của tạo hóa và tuy dài như vậy, nhưng vẫn

nhất quán từ xưa đến nay, chủ nghĩa nhân đạo hiện nay vừa thể hiện tình

thương yêu đồng bào, đồng chủng, tình thương yêu giai cấp, vừa thể hiện

tình quốc tế cao cả, vốn có nguồn gốc lâu đời từ thời ba đức mẹ thiên nhiên

qua đức tổ mẫu Âu Cơ đến bà mẹ Gióng, bà mạ của Hai Bà Trưng, và biết

bao bà mẹ trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, chống phong kiến đã

nuôi lớn biết bao anh hùng dân tộc. Cho đến nay, giữa thời đại Hồ Chí Minh

vĩ đại, thời đại bước ra ngõ là gặp anh hùng, có biết bao nhiêu bà mẹ của anh

hùng, chiến sĩ và bản thân các bà mẹ cũng có người là anh hùng, chiến sĩ.

Page 5: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Quả vậy, cái đích cao cả của chủ nghĩa nhân đạo là giải phóng cho con

người, không riêng gì một dân tộc mà cho tất cả các dân tộc, thoát khỏi mọi

áp bức, bốc lột và được sống một cuộc sống hạnh phúc lâu dài. Từ nghìn

xưa, chủ nghĩa nhân đạo của ta đã thấm đượm tình dân tộc và tình thương

yêu giai cấp. Ca dao ta có câu:

“Con một mẹ, hoa một chùm.

Yêu nhau nên phải bọc đùm lấy nhau”

và tục ngữ có câu:

“Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”.

Văn học viết của ta (chữ Hán cũng như chữ Nôm) phản ánh nhiều khía

cạnh, nhiều mặt của chủ nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa yêu nước. Tất nhiên,

chủ nghĩa nhân đạo qua các áng văn của các nhân sĩ thời xưa, vốn xuất thân

từ cửa Khổng, sân Trình, nhìn chung, có nhiều chỗ mờ nhạt, kém nồng nàn,

sâu sẳc do hạn chế bởi hệ ý thức giai cấp của tác giả, nếu như chúng ta so

sánh với tính chất đậm đà của chủ nghĩa nhân đạo thể biện trong văn học dân

gian hay văn học tiếp cận với văn học dân gian, thí dụ Thạch Sanh. Tống

Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa. Nói chung là như vậy, chứ thật ra, hình

ảnh “dân đen con đỏ”, hình ảnh những người “dưới đáy xã hội” vẫn thấp

thoáng, và có khi cũng nổi bật trong nhiều áng văn xuất sắc, thí dụ Bình Ngô

đại cáo, Hịch Tây Sơn đánh Trịnh, hay trong nhiều thơ văn, nhiều truyện thơ

nổi tiếng như Kiểu, Nhị độ mai. Mặt khác, chủ nghĩa nhân đạo trong văn học

viết còn thể hiện ở khía cạnh đấu tranh giai cấp, tố cáo bộ mặt xấu xa, gian ác

của giai cấp phong kiến. Có thể nói ở bình diện này, các nhân sĩ thời đó, nhất

là những nhân sĩ chân chính, thông cảm với nỗi đau khổ của quần chúng lao

động, đã có nhiều đóng góp trong thơ văn với chức năng phê phán hiện thực

thời phong kiến. Dường như những nhân sĩ chân chính đó, thí dụ như Chu

An, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, LÝ Tử Tấn, Nguyễn

Mộng Tuân, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Phan Huy Ích, Ngô Thì

Nhậm, Cao Bá Quát…, khi cầm ngòi búi đã có lúc đứng về phía nhân dân để

Page 6: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

ít nhiều nói lên sự thật cuộc đời qua nhiều luồng giao thoa của tâm tư mình

cũng như qua những thể nghiệm của bản thân.

Trong mây mù dày đặc của những thế kỷ phong kiến đè nặng lên bao

thế hệ con người, bên cạnh những tác phẩm văn học bốc lên chủ nghĩa yêu

nước sáng ngời mà có được những tác phẩm văn học khác ánh lên chủ

nghĩa nhân đạo sâu sắc thì còn gì quý bằng? Trong quyển Chủ nghĩa Mác và

văn hóa Việt nam, đồng chí Trường Chinh đã chỉ rõ:

“Cố nhiên, trong văn học cổ nước ta, có nhiều hạt ngọc bị che phủ bởi

một lớp bụi thời gian, mà bổn phận chúng ta là phải tiếp tục sự nghiệp của

nhà khảo cổ, đáng thương tiếc, cụ Nguyễn Văn Tố, đặng tìm tòi, lượm lặt,

nghiên cứu, không đươc bỏ sót một hạt”. Chúng ta phải có thái độ “đãi cát tìm

vàng”. Có điều, cách suy nghĩ, cách viết của các bậc tiền bối thường là sâu

sắc, kín đáo qua phong cách ngụ ý, ngụ tình, nên chúng ta phải công phu

lắm, kiên tri lắm, may ra mới hiểu được cha ông chúng ta, mà vẫn ý thức rằng

có thể chưa hiểu được thật là thãu đáo.

2. Sự xâm nhập của các hệ ý thức nước ngoài, sự tiếp thu những yếu tố tích cực và chống đối những yếu tố tiêu cực, phản động của các hệ ý thức đó.

Từ xưa tới nay, nhất là giờ đây, lúc mà các phương tiện giao thông và

liên lạc hết sức hiện đại, vấn đề giao lưu quốc tế, trong đó có giao lưu văn

hóa trở thành một vấn đề có tính chất quy luật khá bình thường. Dân tộc này,

nước này có thể học tập cái hay, cái đẹp, cái tốt của dân tộc khác, của nước

khác. Quan niệm dân tộc hẹp hòi, xa lạ với chủ nghĩa nhân đạo chân chính,

với chủ nghĩa vô sản quốc tế, là quan niệm bị mọi người, mọi nước trên thế

giới phê phán. Ý nghĩa quốc tế trong các luồng giao lưu và trao đổi văn hóa

thật là rộng lớn.

Ấy thế, nhưng xưa kia ở ta, vấn đề giao lưu văn hóa bị hạn chế do

nhiều nguyên nhân phức tạp, trong đó có nguyên nhân về giao thông, liên lạc

khó khăn. Cũng do giao lưu văn hóa bị hạn chế nên mới có chuyện phương

Đông cách biệt phương Tây, để có người như Hê-ghen chẳng hạn, trong

Page 7: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

chuyên đề Mỹ học của mình, đã có thiên hướng đề cao văn học, nghệ thuật

phương Tây, mà coi khinh văn học, nghệ thuật phương Đông. Thật ra, nền

văn học, nghệ thuật nào cũng có những mặt xuất sắc và mặt hạn chế của nó.

Nói như vậy để thấy rằng từ xưa, ở nước ta và các nước phụ cận đã có

các luồng giao lưu văn hóa, nhưng biên độ rất hẹp, chỉ loanh quanh từ Ấn độ

hoặc từ Trung quốc sang, cho nên bọn thực dân phương Tây mới đặt cho

nước ta và hai nước láng giềng anh em là Lào và Cam-pu-chia cái tên Ấn độ

– Trung hoa (tiếng Pháp: Inđochine) nghĩa là dải đất ở giữa Ấn độ và Trung

hoa. Đặt cái tên như vậy, bọn chúng có ý đồ phủ nhận bản sắc và bản lĩnh

của mỗi dân tộc. Sự thật là theo quy luật hỗ tương của sự giao lưu văn hóa,

thì bất cứ nước nào, dân tộc nào mà có sự tiếp xúc lâu đời đều có thể chịu

ảnh hưởng lẫn nhau ở mặt này hay mặt khác, chỉ khác nhau ở mức độ nhiều

hay ít, đậm hay nhạt, thoảng qua hay dai dẳng mà thôi. Tất nhiên, khi nước

này đi xâm chiếm nước khác, thì lợi thế bành trướng lực lượng, kể cả lực

lượng văn hóa vẫn nghiêng về phía kẻ thống trị. Dưới hàng nghìn năm Bắc

thuộc, dân lộc ta không tránh khỏi ảnh hưởng của sự bành trướng lực lượng

văn hóa đó, nhưng rõ ràng dân tộc ta, với lương tri biết học hỏi cái hay, cái

đẹp, cái tốt của người khác, cũng như với truyền thống tự cường và bất khuất

của mình, đã khôn ngoan, tinh tế biết tiếp thu những yếu tố tích cực và chống

đối những yếu tố tiêu cực, phản động của những tôn giáo và học thuyết xâm

nhập từ bên ngoài.

Như ở phần trên đã nói, ngay từ thời xa xưa, nhân dân ta đã có tục thờ

ba phủ (hoặc tòa) Đức mẹ. Tục thờ đó với tính chất duy vật thô sơ ban đầu,

dần dần đã trở thành một thứ tôn giáo có một màng mê tín dị đoan bao phủ.

Thật ra, yếu tố thần linh thời nguyên thủy, tức cái mà ta gọi là “thần” qua

màng “mê tín dị đoan” đó thực chất chỉ là ý thức con người bị “tha hóa” như

Mác đã chỉ rõ, hay nói theo thuật ngữ của Mác, Ăng-ghen thì những ảo tưởng

đó chỉ là hiện tượng “thăng hoa”, tức như những vật chuyển trạng thái mà

thôi, tất nhiên đó là những hiện tượng nảy sinh từ quá trình lao động sản xuất

trong lịch sử loài người. Thông thường, các hoạt động tôn giáo xưa kia đó

Page 8: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

được tiến hành dưới dạng lễ nghi có kèm theo phương thuật. Theo sách Việt

sử lược, một tác phẩm khuyết danh đời Trần, khoảng thời Trang vương nhà

Chu (thế kỷ thứ 7, trước Công nguyên) ở đất Phong châu của ta, Hùng vương

đã biết dùng phương thuật khuất phục được các bộ lạc kế cận trong vùng để

lập nên nước Văn Lang, có thể phương thuật lúc đầu được sử dụng như một

công cụ bỗ trợ cho việc sản xuất và chiến đấu, rồi về sau bị giai cấp thống trị

“thần bí hóa” và chúng biến công cụ đó thành một thứ công cụ phục vụ riêng

cho giai cấp chúng để mê hoặc và đàn áp nhân dân lao động.

Chắc rẳng khi những tôn giáo bên ngoài truyền vào nước ta, như kiểu

Phật giáo và Đạo giáo, thì gặp được miếng đất tốt để cắm rễ, đó là cái mớ

phương thuật từ thời xa xưa của nhân dân ta và đã bị “thần bí hóa” mà trở

thành loại mê tín dị đoan. Theo một số thư tịch của ta và của Trung quốc thì

có khả năng đạo Phật từ Ấn độ, Tích lan truyền sang ta theo đường phía

Nam, trước cả việc đạo Phật truyền sang phía Nam Trung quốc. Nhưng về

sau, đạo Phật bành trướng ở Trung quốc rồi truyền sang ta theo đường phía

Bắc, và tất nhiên, những nhà sư lớp sau lúc này được giai cấp phong kiến

che chở, nên có điều kiện lấn át các nhà sư bản địa lớp trước. Dần dà, những

nhà sư cùng với những kinh kệ dịch bằng chữ Hán truyền sang ở lớp sau từ

phương Bắc, xóa mờ đi, tất cả những gì của đạo Phật truyền sang ở lớp

trước từ phương Nam. Có điều, những sự kiện trước hay sau đó đối với

chúng ta ngày nay không có gì quan hệ lắm, mà quan hệ ở chỗ xem đạo Phật

một khi xâm nhập nước ta đã có tác dụng xấu hay tốt như thế nào.

Nói cho đúng thì đạo Phật thời nguyên thủy chứa đựng một số nhân tố

tích cực, thí dụ như tinh chất vô thần của nó, vì rằng đạo Phật chấp nhận

thuyết tứ đại (bốn yếu tố lớn cãu thành vũ trụ là: đất, nước, khí, và lửa), một

thuyết rút từ tôn giáo nguyên thủy của nước cổ Ấn độ, hoặc nữa như thuyết

bình đẳng và thuyết từ bi bác ái của nó về quan niệm nhân sinh, quan niệm

xã hội. Tất-đạt-ta, tức là Phật, gọi cho gần đúng với tên Ấn độ là Bụt, đã tự

giác từ bỏ hạnh phúc cá nhân để đi thuyết pháp nhằm “cứu dân độ thế” bằng

con đường “giác tha”, tức giác ngộ người khác phải biết thương yêu người

Page 9: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

cùng khổ. Bụt có chú ý đến kẻ nô bộc, người nô lệ. Trong kinh Sa môn, có

đoạn Bụt thuyết pháp về vấn đề bình đẳng giữa con người với nhau. Bụt nhắc

lại lời ta thán của một nô bộc như sau: “Đức vua An-ja-ta-sat-tu, con của bà

Vi-de-hi nước Ma-ga-đa là người, thì tôi đây (kẻ nô bộc) cũng là người. Vị vua

đó sống tận hưởng đầy đủ năm món khoái lạc, không khác gì vị thiên thần,

còn tôi đây, người nô bộc thì phải làm mọi công việc, dậy sớm, thức khuya,

thi hành mọi mệnh lệnh của chủ, làm đẹp lòng mọi người, lời nói kính ái, chú

ý từng nét mặt (của vua)”. Dần dà về sau, đạo Phật chia ra các Tông phái

Bắc, Nam rồi bị tô vẽ thành một thứ tôn giáo có kèm theo lễ nghi cúng bái,

thêm cả màu sắc mê tín dị đoan. Đạo Phật truyền sang ta, chủ yếu là phái

Thiền Tông, là kiểu đạo Phật hình thành về sau đó, đạo Phật đó sang ta, gặp

được các hình thức thờ cúng kiểu tôn giáo nguyên thủy của ta thì dần dà

nhập cục với nhau, thí dụ như ở chùa Dâu (Hà bắc), một ngôi chùa có rất lâu

đời cạnh thành cổ Liên lâu, tổ tiên ta vừa thờ các vị thần thiên nhiên như Mây,

Mưa, Sấm, Chớp, lại vừa thờ cả Bụt. Nhân dân ta, vốn sẵn tinh thần nhân

đạo, nên dễ tiếp thu thuyết bình đẳng và từ bi bác ái của đạo Phật trong quá

trình đấu tranh chống phong kiến. Nhân dân ta lại vốn sẵn tinh thần yêu nước,

nên ít theo phương pháp tiêu cực của đạo Phật về mặt diệt dục và chịu đựng

đau khổ, hoặc chủ nghĩa “vô vi” của đạo Lão, mà lại xông xáo đấu tranh cho

độc lập của Tổ quốc và hạnh phúc của toàn dân. Trong các cuộc kháng chiến

chống ngoại xâm thời Lý, Trần, những nhà sư yêu nước, yêu đời như Ngô

Chân Lưu, Vạn Hạnh đã góp phần tích cực xứng đáng của mình trong việc

giữ nước. Những tấm gương sáng đó về sau được nhân lên qua các thời đại,

cho mãi đến các giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc

Mỹ vừa qua. Còn “Bụt Việt Nam” nhiều truyện dân gian của ta đã đứng hẳn về

phía dân nghèo, góp phần xây dựng hạnh phúc trần gian của họ, thí dụ như

trong các truyện Chử Đồng Tử, Cây nêu ngày Tết, Tấm Cám…

So với đạo Phật, thì Đạo giáo, một hiến tướng của học thuyết Lão tử,

có nhiều yếu tố tiêu cực hơn. Lão tử, mà tên thật không rõ là Lão Đam hay Lý

Nhĩ (?), có thể sống từ thời Xuân Thu ở Trung quốc, đồng thời hoặc trước

Khổng tử một ít, tức khoảng thế kỷ thứ 5 hoặc thứ 6 trước Công nguyên. Tuy

Page 10: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

nhiên, học thuyết của ông chỉ do người đời sau, có thể là học trò của ông, ghi

lại trong quyển Đạo đức kinh khoảng thời Chiến quốc. Đó là một học thuyết

được xây dựng có hệ thống, đầy đủ cả vũ tạu quan và nhân sinh quan. Đứng

về mặt triết học, thì đây là một học thuyết vô thần, có ý nghĩa duy vật và biện

chứng thô sơ, như nói vũ trụ là từ một nhân tố cấu thành có tính chất cơ bản

vốn không có tên, tạm gọi là “Đạo”, hay như nói muôn vật đều luôn luôn

chuyển hóa từ không thành có, hoặc ngược lại, từ có thành không, v.v.

Nhưng từ quan niêm biện chứng về vũ trụ đó, Lão tử đi đến một quan niệm

tiêu cực về nhân sinh là “vô vi”, không làm gì cả, với lý luận không thành có,

mà có thành không. Lão tử phủ nhận tác động tích cực và sáng tạo của con

người đối với tự nhiện và xã hội: chắc rằng Lão tử không thể hiểu được rằng

chính con người với sức lao động sáng tạo và chiến đấu không ngừng, đã tự

tạo ra bản thân nó, đồng thời cái tạo thiên nhiên và xây dựng xã hội loài

người ngày một tốt đẹp hơn lên. Chính môn đồ Đạo giáo đã phát triển khía

cạnh “vô vi” trong học thuyết Lão tử, rồi tô vẽ thành một thứ đạo tu tiên có xu

hướng thoát ly cuộc sống, để mưu đồ hưởng lạc cá nhân, theo hướng “độc

thiện kỷ thân” (hạnh phúc riêng mình). Rõ ràng, Bụt còn khuyên người ta “vị

tha” (ẹống vì người khác), chử Thái thượng Lão quân (tức vị thần linh mang

danh Lão tử do môn đồ Đạo giáo đặt ra) lại ru ngủ quần chúng bằng lối vị kỷ

như cầu phúc, tu tiên, mạnh ai nấy làm. Đó là một khe hở cho bọn cô đồng

thầy cúng “chộp được”, rồi nhào nặn với các bùa phép từ hình thức phương

thuật cổ truyền của ta, như đã nói ở trên, để dựng lên một thứ đạo phù thủy,

nhằm mê hoặc quần chúng, nhất là qua các khâu cầu yên, cầu phúc, trừ tà

bắt ma để chữa bệnh, chữa tật, kề cả tật hiếm con, v.v. Trong lịch sử đấu

tranh chống ngoại xâm của ta, các nhà sư tiến bộ ta xưa như Ngô Chân Lưu,

Vạn Hạnh, thường kiêm cả đạo sĩ, những tư tưởng tích cực của họ chủ yếu

có nguồn gốc ở những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, như truyền thống

yêu nước và yêu người, và có một phần chịu ảnh hưởng thuyết “vị tha”,

thuyết “từ bi bác ái” của đạo Phật. Riêng ông Tiên, bà Tiên đặc biệt Việt nam

trong các truyện dân gian của ta, như ông Tiên trong truyện Ai mua hành tôi

Page 11: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

giống như Bụt luôn luôn có ý thức xuất hiện để giúp đỡ những kẻ nghèo khổ,

oan ức bị vùi dập dưới chế độ phong kiến.

So với Phật giáo và Đạo giáo, thì Nho giáo có một vị trí đặc biệt về mặt

giao lưu văn hóa trong lịch sử dân tộc ta. Thông thường, bọn đi xâm lược

trước kia, trước khi chúng tiến quân vào một địa bàn nước ngoài nào đó, đều

tìm cách do thám nước đó bằng cách tung gián điệp dưới cái lốt của nhiều

loại người, như nhà tu hành, người truyền đạo, thầy đồ dạy học, thầy tướng,

thầy số, thầy thuốc, thầy địa lý (tức phong thủy), v.v., thí dụ, tên cáo già

Hoàng Phúc, mang hàm Thượng thư, đã có lúc giả làm thầy địa lý đi xem các

kiểu đất ở ta, trước khi quân Minh chính thức sang chiếm nước ta. Bọn gián

điệp đội các lốt trên và bọn quan lại do phong kiến phương Bẳc sai sang ta,

có thể khá nhiều, ngay từ thời Tần Hán, nói chung, bọn họ biết chữ Hán và có

kiến thức về Nho giáo, thỉnh thoảng có người khá am hiểu sử sách như kiểu

Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp… Có thể, xưa kia dân tộc ta đã có một thứ

chữ viết theo lối “con nòng nọc” như kiểu chữ Thái, chữ Lào hiện nay, nhưng

thứ chữ này, đã bị chữ Hán, một lối chữ bình vuông, dễ ký hiệu hơn, lấn át

dần, và tiến tới từng bước bị xóa bỏ. Thật ra, chữ viết cũng chỉ là một thứ tín

hiệu mà con người quy ước với nhau, cho nên nhân dân ta vốn cầu tiến, sẵn

sàng tiếp nhận những lối chữ nào có cấu trúc tiện lợi nhất để ghi âm tiếng

Việt. Như vậy, việc nhân dân ta dùng chữ Hán rồi sau dựa vào chữ Hán mà

sáng tạo ra chữ Nôm, chỉ là một việc bình thường. Cũng như đến khoảng thế

kỷ 16, 17, nhân dân ta lại dễ dàng công nhận chữ tộc ta. Có điều, xưa kia, sở

dĩ chữ Hán trở thành được chữ viết có tính chất “quan phương”, cũng như

Nho giáo mau chóng trở thành “độc tôn”, lấn át các tôn giáo khác, như tôn

giáo cổ truyền của dân tộc ta, hay như Phật giáo, Đạo giáo, là nhờ có bàn tay

che chở đắc lực của quan lại phong kiến phương Bắc.

Nho giáo là một thuật ngữ chỉ chung những người có học thức, rất cần

cho xã hội. Có thể thuật ngữ này đã có từ thời Chu Công Đán đời Tây Chu,

trước khi Khổng tử ra đời. Về sau, người ta chỉ biết đến học thuyết Khổng tử

đời Xuân Thu, được Mạnh tử kế thừa và phát triển đời Chiến quốc, mà ít ai

Page 12: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

chú ý tới học thuyết Chu Công Đán trước đó, có thể coi như tiền thân của học

thuyết Khổng Mạnh. Cái đó cũng có lý của nó, vì rằng nếu như học thuyết của

Chu Công nặng về đạo trời, nặng về thần linh chủ nghĩa (chúng ta hiểu trời và

thần ở đây chẳng qua chỉ là quyền thống trị của vua nhà Chu, được ngụy

trang dưới dạng mê tín dị đoan), thì học thuyết Khổng Mạnh đã nghiêng về

đạo người. Nếu như ở thời Tây Chu, Chu Công chỉ nói về lễ, và lễ không

xuống đến thứ dân, thì ở thời Xuân Thu, Khổng tử, tuy vẫn không quên lễ,

nhưng đã nói đến nhân, tức mối quan hệ giữa con người với nhau, tuy rằng

nguyên lý về chữ “nhân” của ông chưa phải đã thấu triệt đến từng lớp nô lệ,

hay nô tì, tầng lớp “dưới đáy” của xã hội. Trước sau, Nho giáo thời Tây Chu

hay Đông Chu, học thuyết về chữ lễ, chữ nhân hay nhân nghĩa cũng đều là

học thuyết của giai cấp chiếm nô hoặc giai cấp phong kiến. Như vậy, chúng ta

không lấy làm ngạc nhiên thấy giai cấp phong kiến Trung Quốc sang ta, hay

giai cấp phong kiến Việt nam, đều đón lấy Nho giáo, – tất nhiên là thông qua

các sách vở do các hạng Hán nho, Đường nho, Tống nho v.v.. ghi chép, chú

thích, giới thiệu, – như một “bửu bối”, một công cụ sắc bén, nhằm mê hoặc

nhân dân ta bằng nhiều đường, như đường khoa cử, đường làm quan, v.v.

để dễ bề thống trị và bóc lột họ một cách tinh vi. Như trên đã nói, nội dung về

nhân nghĩa của Khổng Mạnh có chứa đựng yếu tố tích cực đối với đời sống

nhân dân, thí dụ như, Mạnh tử đã nói đến lòng trắc ẩn, tức lòng thương

người, tất nhiên khái niệm này cũng còn chung chung. Thật ra, quan niệm về

nhân nghĩa cũng chẳng riêng gì Khổng Mạnh nói tới, mà những nhân vật đời

Xuân Thu như Tôn Vũ, Phạm Lãi, Kế Nhiên… cũng đã nói tới. Quan niệm

nhân nghĩa đó một khi du nhập Việt nam, lại bị Việt nam hóa cho thích hợp

với hoàn cảnh cụ thể của dân tộc ta, thí dụ Nguyễn Trãi giải thích chữ nhân

nghĩa cho bọn tướng lĩnh nhà Minh qua các thư từ địch vận, là giải thích theo

cách suy nghĩ của ông, qua thực tế chiến đấu chống ngoại xâm của ta, chứ

không phải giải thích theo Khổng, Mạnh. Trong một lá thư gửi Phương Chính,

Nguyễn Trãi viết: “Nước mày, nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng thương dân

đánh kẻ có tội, kỳ thực làm việc bạo tàn, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân

dân ta, thuế nặng, hình phiền, vơ vét của quý, dân chúng xóm làng không thể

Page 13: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

sống yên. Nhân nghĩa mà lại ư?”. Như vậy, nhân nghĩa là Khổng xâm lược,

chống áp bức bóc lột nhân dân vô tội. Đó là một quan niệm hết sức mới mẻ

không thấy trong các sách xưa như Luận ngữ, Mạnh tử… Các nhân sĩ tiến bộ

của ta nói chung đều quan niệm nhân nghĩa như Nguyễn Trãi, tức quan niệm

nhân nghĩa là lẽ phải thông thường, hoặc có thể nói một cách khác là chính

nghĩa, là đại nghĩa mà bất cứ người nào có lương tri trên thế giới, chứ không

riêng gì ở nước ta, cũng đều có thể hiễu như nhau: lẽ phải đó, chính nghị đó

(và có chính nghĩa mới là đại nghĩa) yêu cầu tất cả mọi người, cũng như tất

cả mọi dân tộc đều “có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu

hạnh phúc” và như vậy, người này, dân tộc này không được áp bức, bóc lột

người khác, dân tộc khác.

Nho giáo là một học thuyết chính trị, chứ không phải một tôn giáo thuần

túy. Nhưng học thuyết chính trị đó được Chu Công hệ thống hóa từ thời Tây

Chu và được Khổng Mạnh thừa kế và hoàn chỉnh hóa thời Đông Chu, nên

vẫn mang nặng tinh chất thần linh, tính chất Tông tộc và tính chất giai cấp quý

tộc. Do đó, về sau, nó được tô vẽ để thành như kiểu một tôn giáo thì cũng

không có gì là lạ. Chính học thuyết chính trị đượm màu sắc tôn giáo đó mà

chứa những nọc độc mới lại càng tai hại! Hai thứ nọc độc nổi bật của Nho

giáo là thuyết Thiên mệnh (mệnh trời) và thuyết Quân tử, tiểu nhân. Thuyết

Thiên mệnh nhằm dìm quần chúng lao động xuống dưới chế độ khắc nghiệt

về mọi mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của giai cấp thống trị, để thủ tiêu

mọi quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của họ. Trời là

ai? Trời là vua, vì vua thay trời, vậy trời là giai cấp thống trị phong kiến.

Thuyết thiên mệnh đó là cơ sở về vũ trụ quan để chỉ đạo thuyết Quân tử, tiểu

nhân về nhân sinh quan. Theo thuyết này, xã hội ta thời phong kiến nói chung

có hai loại người: bậc quân tử tức giai cấp thống trị và tay chân của chúng, kẻ

tiểu nhân, tức là đa số quần chúng lao động, phải nai lưng ra lao động để

phục vụ bậc quân tử nói trên. Nói chung về mặt chính trị là như vậy, nhưng

những nhân sĩ tiến bộ như Chu An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô

Thì Nhậm, Cao Bá Quát… lại tỉnh táo theo sát đời sống của nhân dân ta với

những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chứ không mù quáng theo các loại

Page 14: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

kinh, truyện của Nho giáo. Những nhân sĩ tiến bộ đó đã có phát huy những

yếu tố tích cực trong kinh, truyện cho phù hợp với lẽ phải trong cuộc sống và

không chãp nhận những nguyên lý cực đoan, khắc nghiệt của Nho giáo. Thí

dụ: Họ lưu ý đề cao những mệnh đề rút ra từ kinh, truyện như “dân vi quý,

quân vi khinh” (dân mới đáng quý trọng, còn vua thì nhẹ hơn), “quân chu, dân

thủy” (vua chỉ là thuyền, dân mới là nước), ý nói tiếp: nước tuy chở thuyền,

nhưng vẫn có thể lật thuyền. Hoặc nữa: Như khi bàn về phẩm chất kẻ sĩ,

phẩm chất bậc quân tử thế nào cho xứng đáng với lòng mong đợi của kẻ tiểu

nhân, thì họ lưu ý những tính chất nhằm khắc họa phẩm chất kẻ sĩ (kẻ sĩ phải

có phẩm chất cứng rắn như “tùng bách rung sau” hay đức tính tốt đẹp như

“hoa mai nở sớm”, v.v…). Những nguyên lý về đạo đức như vậy khá phù hợp

với lẽ phải theo quan niệm dân gian trong khuôn khổ của phương thức sản

xuất phong kiến.

Cách làm để tự tạo cho mình một lối thoát của các nhân sĩ tiến bộ trên

là gạn lọc những yếu tố tích cực trong Nho giáo để có thể dung hòa với lẽ

phải, trong dân gian; cách làm đó cũng chỉ phần nào điều hòa những mâu

thuẫn giữa giai cấp phong kiến với nhân dân lao động, chứ chưa có thái độ

chống đối tính chất tiêu cực và phản động của các thuyết và tôn giáo nói trên.

Chúng ta có thể tìm hiểu cách chống đối khá quyết liệt đó trong kho tàng văn

học dân gian của ta. Nhân dân ta có thể chấp nhận được các nguyên lý về

bình đẳng, về từ bi bác ái của đạo Phật, hay nguyên lý về nhân nghĩa chân

chính, tức chính nghĩa của đạo Nho ở bình diện phù hợp với lẽ phải thông

thường, nhưng nhân dân ta chống đối kích liệt các nguyên lý phản động khác

bắt người ta phải chịu đựng đau khổ, phải phục tùng mệnh trời, tức không

dám nổi đậy làm cách mạng đánh đổ giai cấp thống trị phong kiến, cứ đành

chịu cho:

“Con vua thì lại làm vua,

Con đứa sãi chùa thì quét lá đa!”

Nhân dân ta không có điều kiện đi vào lý giải phần nguyên lý của từng

học thuyết hay tôn giáo, mà chỉ vạch mặt trái từng hiện tượng, từng đối

Page 15: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

tượng, cụ thể. Biẽt bao nhiêu câu ca, bài về, bao nhiêu truyện dân gian chế

giễu những người đội lốt thầy chùa, đội lốt thầy đồ, hay các loại cô đồng, thầy

cúng v.v… Chắc hẳn không ai quên được các truyện cười như: Nhà sư mắc

lỡm, Phù thủy sợ ma, Thầy đồ ăn bánh rán… Trong văn học viết, cũng có

những truyện có sắc thái dân gian với ý nghĩa phê phán đó, như truyện Hai

ông Phật cãi nhau (Thánh Tông di thảo), Nghiệp oan của Đào thị, Ngôi chùa

hoang ở Đông triều (Truyền kỳ mạn lục). Riêng một vài nhà nho như Trương

Hán Siêu trong bài Linh tế tháp ký (bài ký tháp chùa Linh tế), Lê Thánh Tông

trong bài Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, hay Cao Bá Quát trong bài thơ Trào

chiết lý Phật (Chế tượng Phật gẫy tay) đã phần nào phê phán các giới thầy

chùa, thầy cúng, thầy địa lý. Ngoài ra, trong một số bài thờ, một số nhân sĩ đã

tỏ mối thông cảm với nhân dân lao động, chống trật tự phong kiến, chống giai

cấp thống trị, thí dụ như Nguyễn Bỉnh Khiêm với những bài như Tăng thử

(Ghét chuột) hay Trung tân quán bi kỷ (Bia quán Trung tân), Cao Bá Quát với

những bài như Phu tương tử (Người vác hòm), Phúc lâm lão (Ông già Phúc

Lâm)…

Nói như vậy, không có nghĩa nói rằng những yếu tố tiêu cực trong các

học thuyết hay tôn giáo Phật, Lão, Nho lại không ảnh hưởng đến tư tưởng

của nhiều sĩ phu nước ta xưa kia. Các yếu tố tiêu cực đó hoặc ở mặt này hay

mặt khác, thông thường quy tụ vào một triết lý chung, gọi là triết lý “xuất thế”,

tức chủ trương thoát ly cuộc sống lao động và chiến đấu để rút lui đi ẩn, “ẩn”

nơi núi rừng, nơi chùa chiền, đạo quan (tức tiểu ẩn) hay có thể có “ẩn” ngay

giữa thị thành, làng xóm nhưng quay lưng với đời (tức đại ẩn). Thái độ “quay

lưng với đời” đó chính là thái độ của Lý Tử Cấu, bạn đồng khoa với Nguyễn

Trãi, Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân thời khởi nghĩa Lam sơn.

Ngoài ba học thuyết và tôn giáo nói trên, khoảng thế kỷ XVI, XVII, đã có

đạo Cơ đốc truyền sang nước ta. Trong nguyên lý đạo này thời nguyên thủy

cũng có yếu tố tích cực, như tư tưởng bác ái. Theo truyền thuyết dân gian

vùng Lưỡng hà (Trung đông), chúa Cơ đốc vốn là con người thợ mộc, đã hy

sinh cứu đời, đấu tranh cho kẻ cùng khổ, nên mới bị giai cấp thống trị địa

Page 16: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

phương đóng đinh lên cây Thập tự (cây cột hình chữ thập: +). Chính cái tên

Cơ đốc mang ý nghĩa đó, và đạo Cơ đốc vốn là đạo của kẻ cùng khổ. Nhưng

đạo Cơ đốc về sau đã biến tướng, bị giai cấp tư bản phương Tây nhào nặn,

thần bí hóa, trở thành một công cụ để chúng đi xâm chiếm thuộc địa và áp

bức, bóc lột nhân dân lao động trên thế giới. Nó đã trở thành “một thứ thuốc

phiện ru ngủ quần chúng” (nói theo thuật ngữ của Các Mác) và bọn tư bản đã

thành công với quỷ kế dùng “gậy ông đập lưng ông”. Đạo Cơ đốc khi truyền

sang ta đã mang tính chất phản động như vậy và những giáo sĩ phương Tây

buổi đầu đó thực chất là những kẻ do thám, đội lốt thầy tu, đi trước dẫn

đường cho bọn tư bản mà thôi.

Trong thực tế dân tộc ta, ở các thế kỷ từ XVII cho đến XVIII, ảnh hưởng

đạo Cơ đốc chưa có gì sâu sắc, trước phản ứng mạnh mẽ của đạo Nho với

cả một hệ thống chính quyền và chế độ xã hội hàng nghìn năm của giai cấp

phong kiến. Do đó, cũng chưa có gì tác động đến nền văn học viết của ta.

Nhưng từ khoảng giữa thế kỷ XIX về sau, khi giai cấp phong kiến nhà Nguyễn

đầu hàng thực dân Pháp, để mất nước về tay chúng, thì dần dần ảnh hưởng

đạo Cơ đốc mới phát triển, và một số sách báo làm ô danh Chúa, phản dân

hại nước được bọn thực dân và đế quốc cho lưu hành, nhằm chia rẽ quần

chúng, chia rẽ dân tộc ta. Mãi đến gần đây, sau khi miền Nam được hoàn

toàn giải phóng thì toàn bộ loại sách báo rác rưởi đó mới bị quét sạch.

3. Mấy vấn đề về sự cấu thành các giai đoạn văn học và các xu hướng văn học qua các giaỉ đoạn tương ứng với lịch sử dưới thời phong kiến, cùng với một số biện pháp thích ứng để phát triển giáo dục và nghệ thuật thơ ca.

Nước ta vốn có cơ sở một chính quyền độc lập từ thời Hùng vương và

sau khi An Dương vương để mất nước về tay Triệu Đà, cho đến năm 939.

Ngô quyền mới chính thức khôi phục được Nhà nước độc lập và nền độc lập

kéo dài được ngót một nghìn năm cho đến khi nước ta bị thực dân Pháp đô

hộ hoàn toàn. Trong khoảng thời gian ngót một nghìn năm đó, một nền văn

học viết có tính chất dân tộc hình thành, trong khuôn khổ chế độ xã hội thời

Page 17: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

đó, theo một số biện pháp thích ứng có liên quan mà chúng ta đề cập đến sau

đây:

a. Sự cấu thành các giai đoạn văn học và các xu hướng văn học tương ứng với lịch sử dưới thời phong kiến

Nền văn học viết của ta là nền văn bọc được cấu thành trong khuôn

khổ chế độ phong kiến, nên chịu ảnh hưởng khá sâu sắc hệ ý thức của chế

độ đó. Tuy nhiên, trừ một số thơ văn của bọn Việt gian thí dụ như Trần Ích

Tắc, Lê Tắc, Lê Quýnh…, nói chung nền văn học này đậm đà tính chất dân

tộc, có khá nhiều yếu tố tích cực đối với công cuộc dựng nước và giữ nước.

Nền văn học này theo sát tình cảnh lịch sử thời bấy giờ, gồm một thời kỳ dài,

tức thời kỳ từ thế kỷ XI qua thế kỷ XV, thế kỷ XVI, thế kỷ XVII, thế kỷ XVIII,

đến giữa thế kỷ XIX, gồm có năm giai đoạn là: giai đoạn Lý, Trần (từ thế kỷ XI

đến thế kỷ XIV); giai đoạn đầu Lê, cũng gọi là giai đoạn Lê thịnh (thế kỷ XV);

giai đoạn giữa Lê (từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ VIII); đây là giai đoạn Lê,

Mạc xung đột và Trịnh, Nguyễn phân tranh; giai đoạn cuối Lê, cũng gọi là giai

đoạn Lê suy (từ giữa thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX) và giai đoạn đầu

Nguyễn (từ đầu thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XIX).

Nền văn học viết của ta dưới thời phong kiến nhìn chung có ý nghĩa

phục vụ giai cấp thống trị, nội dung vừa thể hiện những truyền thống tốt đẹp

của dân tộc ta, lại vừa chịu ảnh hưởng các luồng tư tưởng như Phật, Lão,

nhất là tư tưởng Khổng Mạnh, là tư tưởng được giai cấp phong kiến coi như

tư tưởng chính thống. Do đó, hầu hết các tác phẩm thời bấy giờ đều đề cao

nguyên lý cơ bản của Nho giáo là “trung, hiếu, tiết, nghĩa” thể hiện qua các

công thức như tam cương (ba mối giềng tức là ba mối quan hệ của xã hội là:

vua tôi, cha con, vợ chồng). Tuy nhiên, nền văn học đó vẫn có những xu

hướng khác nhau, có khi chống đối nhau, có điều là ít khi trực tiếp tuyên bố.

Hai xu hướng tiến bộ nổi bật nhất là xu hướng có tinh thần yêu nước và xu

hướng có tinh thần nhân đạo. Riêng xu hướng nhân đạo bao gồm nhiều loại

thơ văn khác nhau, hoặc nói lên đời sống khổ cực của quần chúng lao động,

đặc biệt là số kiếp người phụ nữ, hoặc tố cáo hiện thực xấu xa thời phong

Page 18: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

kiến và vạch mặt gian hiểm bọn vua quan, tổng lại, địa chủ, gian thương cùng

các bọn ác tăng, ác ôn khác, v.v. Ở các giai đoạn như Lê Mạc xung đột, Trịnh

Nguyên phân tranh, và về sau, từ khởi nghĩa Tây Sơn đến Gia Long lên ngôi,

các xu hướng văn học tương ứng với các xu hướng chính trị chống đối nhau,

như ở thế kỷ XVI có thơ văn ca ngợi Lê, có thơ văn ca ngợi Mạc, sang thế kỷ

XVII, có thơ văn ca ngợi chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, có thơ văn ca ngợi chúa

Nguyễn ở Đảng Trong. Đến thời Tây Sơn, có thơ văn ca ngợi Quang Trung,

Cảnh Thịnh, lại có thơ văn đả kích lại, có thể bài phú Nôm ca ngợi Tây Sơn

của Nguyễn Huy Lượng và bài phú Nôm đả kích lại theo đúng nguyên văn

của Phạm Thái làm thí dụ. Đó là cuộc bút chiến không tuyên bố. Tất nhiên,

bài phú của Phạm Thái, do có thiên kiến và tư tưởng không trong sáng, nên

giá trị về nội dung và nghệ thuật kém xa bài phú của Nguyễn Huy Lượng, chứ

không phải vì Phạm Thái không giỏi làm phú! Cần chú ý là theo tài liệu còn lại,

từ đời Trần Nhân Tông về sau, văn học viết bằng chữ Hán phát triển song

song với văn học viết bằng chữ Nôm. Riêng văn học Nôm, thể lục bát và song

thất lục bát dược dùng nhiều ở loại sử ca như Thiên nam ngữ lục, Thiên nam

minh giám, Đại nam quốc sử diễn ca hoặc loại truyện thơ như Đoạn trường

tân thanh (truyện Kiều), Song tinh bất dạ, hoặc nữa, loại ngâm khúc như

Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc, Bần nữ thán, v.v. Càng về sau,

chữ Nôm được chú ý, có lúc được coi như chữ viết có tính “quan phương”

như ở thời Tây Sơn và văn Nôm được mọi tầng lớp trong nước hâm mộ, cho

nên lấn át dần văn chữ Hán.

Bên cạnh loại văn học sáng tác, còn có loại văn học dịch từ văn học

Trung quốc, thí dụ như Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, Thu hứng của Đỗ Phủ và

loại văn học ghi chép truyện dân gian, hoặc ít nhiều có sắc thái dân gian như

Thánh Tông di thảo. Truyền kỳ mạn lục, Tục truyền kỳ, Thoải thực kỳ văn và

các loại văn học áp dụng vào việc nghiên cứu, phê bình, trích tuyển thơ ca,

hay ghi chép lặt vặt khác.

Nhìn một cách khái quát, nền văn học viết của ta dưới chế độ phong

kiến, tuy còn bị hạn chế ở lối sáng tác và ghi chép bằng chữ Hán, nhưng cũng

Page 19: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

khá phong phú và đa diện, nổi bật lên tinh thần dân tộc sáng ngời và tinh thần

nhân đạo sâu sắc.

b. Một số biện pháp thích ứng trong sự phát triển giáo dục và nghệ thuật thơ ca.

Như trên đã nói, một vấn đề hạn chế trong sáng tác, nghiên cứu, phê

bình, cũng như trong việc phổ biến các tác phẩm đó, chính là vấn đề sử dụng

chữ Hán làm phương tiện ghi chép. Việc sáng tạo ra chữ Nôm chỉ mới về

sau; và do đầu óc giáo điều, thiển cận của giai cấp phong kiến, nên chữ Nôm

khá phổ biến từ đời Trần, mà vẫn không được Nhà nước công nhận như thứ

chữ có tính chất “quan phương” để đến nỗi nảy sinh một thái độ phản dân tộc,

coi văn quốc âm là loại “Nôm na mách qué!”.

Vì giai cấp phong kiến tôn sùng chữ Hán, tôn sùng Khổng Mạnh, tôn

sùng Ngũ kinh, Tứ thư, nên các biện pháp thích ứng để phát triển giáo dục và

nghệ thuật thơ ca thời bấy giờ đều dựa theo cách tổ chức, cách áp dụng đời

Tùy, Đường Tống và các đời sau.

Về giáo dục và thi cử, cũng chỉ mới phát triển từ đời Lý, vì rằng, sau

một thời gian dài bị Bắc thuộc, nhà nước độc lập mới được phục hồi từ đời

Ngô Quyền, qua Đinh, Tiền Lê, những triều đại ngắn ngủi, nên chưa có điều

kiện xây dựng nền học thuật dân tộc. Có thể, ở đời Hùng vương mới chỉ có

biện pháp bổ dụng từ trên xuống hay tiến cử từ dưới lên để lấy Lạc hầu là

chức quan văn bên cạnh Lạc tướng, chức quan võ. Phép bổ dụng và tiến cử

này còn được áp dựng dưới thời Bắc thuộc để lấy các học vị Tú tài và Hiếu

liêm. Cho đến đời Lý, việc giáo dục và thi cử của ta mới được tổ chức. Năm

1075, Lý Nhân Tông mở khoa thi Tam trường (ngang trình độ tú tài đầu tiên)

và đến đời Trần Thái Tông mới mở khoa Thái học sinh (tức tiến sĩ) chọn ba

người đỗ đầu là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Thật ra các kỳ thi

Hương ở các khu vực hàng tỉnh, hoặc liên tỉnh để chọn sinh đồ (tức tú tài) ở

kỳ thứ ba (Tam trường) và Hương cống (tức cử nhân) ở kỳ thứ tư (Tứ

trường), và các kỳ thi Hội ở kinh đô mở cho các Hương cống thi để chọn Thái

học sinh phải đến đời Lê Thánh Tông về sau mới thật ổn định, có nề nếp

Page 20: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

chính quy. Nhưng đến thời giữa Lê và cuối Lê, việc giáo dục và thi cử trở nên

lộn xộn, phần thì do chiến tranh dai dẳng, phần thì do đất nước bị chia cắt,

nên các nhân sĩ, trí thức hoặc bị thu hút vào các cuộc chinh phạt, hoặc bị trôi

dạt đi các nơi, đồng thời sách vở, tài liệu giáo khoa cũng bị mất mát, tiêu hủy.

Đó là chưa nói việc thi cử thời Trịnh, thí dụ thời Trịnh Doanh đã không nghiêm

minh, nên biến trường thi thành “chợ thi” để thu tiền vào cửa, gọi là tiền

“thông kinh”. Nhà Nguyễn lên nắm chính quyền, cố gắng khôi phục và ổn định

các hình thức thi cử, dời trường Quốc tử giám vào Thuận hóa (Huế), để tạo

thành một trung tâm văn hóa mới. Nhưng rồi thực dân Pháp đặt ách đô hộ lên

nước ta, tất cả hệ thống giáo dục, thi cử nhà Nguyễn dựng lên, dần dà đều

ruỗng nát như ngai vàng của chúng, để nhường chỗ cho nền giáo dục, thi cử

thực dân.

Về mặt giáo dục, thi cử, trong các triều đại xưa, cũng có người sáng

suốt, biết chú ý đến những vấn đề hoặc thiết thực đối với đời sống, hoặc thích

hợp với dân tộc, như Hồ Quý Ly chủ trương đưa môn toán vào các kỳ thi

Hương. Hồ Quý Ly đã ra dụ Khuyến học và ra lệnh tổ chức trường học từ

phủ, huyện trở lên. Mặt khác, Hồ Quý Ly tự dịch một số bài trong Kinh thi và

Thiên Vô dật trong Kinh thi để dạy cung phi và cung nữ. Thiên Vô dật có nội

dung khuyến khích công việc lao động và phê phán thói chây lười, ăn không

ngồi rồi. Về sau Lê Thái Tổ tổ chức những kỳ thi, đặc biệt Minh kinh và Hoành

tử để chọn nhân tài ra xây dựng đất nước. Trong số thí sinh đó, có nhiều thái

học sinh đời Trần ra thi, thí dụ Triệu Thái; Trình Thuấn Dụ, Phan Phu Tiên. Lê

Thánh Tông tiếp tục công việc của Thái Tổ và bắt chước Hồ Quý Ly, ra dụ

Khuyến học và khích lệ các quan phải tranh thủ thời gian tự học để nâng trình

độ học vấn của mình. Tiến lên một bước nữa, Thánh Tông quy định việc sát

hạch lại trình độ các quan. Nếu ai quá sút kém, sẽ tùy tình hình cụ thể mà bị

quở trách hoặc bị hạ cấp bậc và lương bổng. Trạng nguyên Lương Thế Vinh

đã bị vua quở trách một lần về tội học lực cầm chừng, không tấn tới, hoặc

như Vũ Nguyên Tiềm và Tạ Bưu được cử hầu dạy Thái tử, tức về sau là Hiến

Tông, bị Thánh Tông kiểm tra bất chợt, không làm nổi về ba đầu đề: chế,

chiếu, biểu do chính vua ra, nên vua phê: “Đáng tởm". Sau vụ này, Thánh

Page 21: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Tông đã triệu các quan phụ trách việc này, đứng đầu là Nguyễn Như Đổ để

khiển trách về việc cử bậy giảng viên kém cỏi. Thỉnh thoảng, Thánh Tông mở

khoa thi hoành từ, mà chính vua ra đề để khảo hạch các quan xem có tiến bộ

không. Thời Tây Sơn, Quang Trung, tuy còn bận nhiều về việc chống thù

trong giặc ngoài, nhưng rất chú ý đến giáo dục, thi cử. Đồng thời với việc

chuẩn bị xây dựng Phượng hoàng trung đô ở khu vực Vinh – Bến thủy hiện

nay, Quang Trung đã ra lệnh cho nhóm Nguyễn Thiếp, Bùi Dương Lịch thành

lập một trung tâm biên dịch Ngũ kinh, Tứ thư ra quốc âm để tiện cho việc giáo

dục, thi cử, vì Quang Trung rất chú ý đến chữ Nôm, có ý định dần dà dùng

chữ Nôm thay chữ Hán về mặt quan phương. Mọi công việc đang triển khai

thì Quang Trung chết bất ngờ, nội bộ nhà Tây Sơn lục đục, rồi bị Nguyễn Ánh

dựa vào thế lực phương Tây mà đánh đổ. Cuối cùng, tất cả chủ trương tiến

bộ nói trên của Quang Trung bị nhà Nguyễn xóa sạch, để trở lại lối giáo dục,

thi cử cổ hủ bằng chữ Hán xưa.

Trong khoa cử của ta, thí sinh phải am hiểu đủ các thể văn sáng tác

cũng như nghị luận, văn sáng tác dùng trong thơ, phú, văn nghị luận dùng

trong các loại kinh nghĩa, văn sách, chế, chiếu, v.v… Lại có một thể văn nửa

sáng tác, nửa nghị luận là văn tứ lục, hoặc tứ lục biến thể có thể dùng trong

các loại như biểu, trướng, hịch, cáo, v.v… là loại ít dùng trong trường thi,

nhưng lại thường dùng ngoài xã hội.

Như vậy, chẳng những thí sinh phải nắm vững phương pháp nghị luận

qua sử, sách quy định như Ngũ kinh, Tứ thứ, Bắc sử, Nam sử, mà còn phải

nắm được các khâu quan trọng của nghệ thuật thơ ca, như cách bố cục bài

văn, bài thơ, cách dùng từ ngữ, dùng điển cố, ngụ ý, ngụ tình, cách đổi ý, đối

thanh trong biển văn, cách gieo vần, móc niêm trong thơ phú và tứ lục nói

chung, tóm lại, tất cả những thủ thuật về thi pháp, văn pháp. Riêng phép dùng

điển là một khâu hết sức quan trọng, vì rằng một bài văn hay, theo quan niệm

phong kiến, phải là một bài văn nói được nhiều điển cố rút trong sử, sách.

Như vậy, chúng ta không lấy làm lạ rằng thơ phủ xưa kia đọc rất khó hiểu, vì

có khi dày đặc điển cố. Tất nhiên, phép dùng điển cũng có cái hay là làm cho

Page 22: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

ý văn kín đáo, tinh tế, dưới dạng ngụ ý, ngụ tình, nhưng nếu dùng điển thái

quá để “khoe chữ, khoe văn” thì lại là khuyết điểm.

Người xưa thường rút điển cố ở sử sách Trung quốc, thí dụ, trong Hịch

tướng sĩ văn, khi Trần Quốc Tuấn nói: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội

cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa”, là ông lấy câu nói của Mã Viễn, chép

trong Hán thư, hay như trong Bình Ngô đại cáo, khi Nguyễn Trãi viết: “Nhân

dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới”, là ông muốn nói điển

Trần Thắng, Ngô Quảng khởi nghĩa, cũng chép trong Hán thư. Tuy nhiên,

trong văn học cổ, người xưa cũng dùng điển lấy trong thực tế của dân tộc ta,

thí dụ khi Trương Hán Siêu trong Bạch đằng giang phú, nói “Bởi đại vương

coi thế giặc nhân”, là ông muốn nhắc đến câu Trần Quốc Tuấn trả lời Trần

Nhân Tông: “Kim thiên, tặc nhân” (Năm nay, đánh giặc nhân). Hoặc như

Nguyễn Trãi viết hai câu thơ quốc âm:

“Chĩnh vàng chẳng tiếc danh thì tiếc,

Bia đá hay mòn, nghĩa chẳng mòn”.

là ông tổng hợp các ý chính trong các câu ca có tính chất ngụ ý của ta:

“Tham vàng bỏ nghĩa ai ôi,

Vàng ăn hay hết nghĩa tôi đang còn”

và:

“Trăm năm bia đá thì mòn,

Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ”.

Chúng ta có thể đọc vô số các loại điển cố như trên trong văn học cổ

của ta, văn học chữ Hán cũng như văn học Nôm.

Đương nhiên, trong khuôn khổ của hệ ý thức phong kiến, phương

hướng lựa chọn đề tài, xây dựng nhân vật trung tâm cũng như các thủ thuật

khắc họa hình tượng, sử dụng bút pháp v.v… không thể thoát ra ngoài quỹ

đạo của lý tưởng phong kiến, khuôn định ở nguyên lý “Trung, hiếu, tiết, nghĩa”

qua các công thức tam cương, ngũ thường như chúng ta đã biết. Con người

Page 23: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

lý tưởng ngày xưa như trai phải làm nên quan khanh (về văn), quan tướng

(về võ), còn gái chỉ phải trau dồi tứ đức (bốn tiêu chuẩn: công, dung, ngôn,

hạnh) để làm “bà quan”. Như vậy, lối đi học ngày xưa là qua thi cử để “làm

quan”, làm kẻ quân tử, mà khinh lao động, khinh kẻ tiểu nhân. Lý tưởng của

thanh niên ngày xưa, như Lê Quý Đôn đã nói rõ trong một bài kinh nghĩa

bằng quốc âm, là lý tưởng phải học thế nào cho đỗ đạt cao để “ngựa anh đi

trước, võng nàng theo sau”. Với quan niệm đó, mẫu người “lý tưởng” trong

văn học cổ thông thường thì trai là phải “trung hiếu”, gái là phải “tiết nghĩa”

như Lương Sinh, Lưu Ngọc Khanh trong truyện Hoa Tiên, hay Mai Sinh, Hạnh

Nguyên trong truyện Nhị độ mai, v.v… Đó là những chàng trai “nho nhã” và

những cô gái “phòng khuê”, xa rời lao động, chỉ không may “sa cơ lỡ bước”

mới phải nếm mùi khổ ải. Những mẫu người “lý tưởng” như vậy rõ ràng ngày

nay không thích hợp nữa, chúng ta chỉ có thể tỏ niềm cảm thông với họ theo

quan niệm lịch đại, trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật mà thôi.

Mẫu người lý tưởng hiện nay là “con người mới xã hội chủ nghĩa Việt

nam”, như Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của chúng ta đã nêu rõ: “Con người

mới là con người có tư tưởng đúng và tình cảm đẹp, có tri thức, có thể lực để

làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân.

Con người mới là con người lao động với tinh thần tự giác cao, với đầy

đủ nhiệt tình cách mạng, trung thực, thật thà, quý trọng và bảo vệ của công,

lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có sáng tạo và đạt năng suất cao.

Con người mới là con người có lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa nồng

nàn, kết hợp nhuần nhuyễn với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng.

Con người mới là con người có tình thương yêu sâu sắc đối với nhân

dân lao động, biết đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động, chiến

đấu và xây dựng cuộc sống mới…”.

4. Kết luận.

Nội dung cũng như hình thức văn học cổ Việt nam dưới thời phong kiến

chứa đựng nhiều nhân tố và chi tiết khá phức tạp, diễn biến trong tiến trình

Page 24: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

lịch sử dân tộc lâu đời, với nhiều luồng giao lưu văn hóa chồng chéo lên

nhau, vừa bài trừ, vừa xâm nhập lẫn nhau. Tất nhiên, những “rác rưởi” nảy

sinh từ nội bộ nước ta, hay trần vào từ bên ngoài, trước sau, đều bị sức mạnh

quật khởi và tự cường của nhân dân ta tẩy sạch trong thực tế lao động và

chiến đấu của mình, nhưng những “rác rưởi” đó được ghi lại trong văn học thì

lại có thể truyền đến đời sau lâu dài hơn. Cho nên, ngày nay, học tập, nghiên

cứu vốn cổ dân tộc, chúng ta vừa phải khó nhọc vận dụng nhiều loại kiến

thức bổ trợ để tìm hiểu, lại vừa phải biết nhận định với thái độ “đãi cát tìm

vàng” để chất lọc cái hay, cái đẹp, cái tốt ở trong đó, đồng thời gạt bỏ những

cái dở, cái xấu, cái nguy hại, tức là phải nâng niu những yếu tố tích cực và

phê phán những yếu tố tiêu cực.

Từ năm 1943, bản Đề cương văn hóa của Đảng Cộng sản Đông dương

đã nêu ra ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chủng. Ba tính chất đó có ý

nghĩa bao trùm, nhưng cũng rất cơ bản cho đường lối văn hóa, văn nghệ sau

này. Trong bản báo cáo nổi tiếng Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt nam ở hội

nghị văn hóa toàn quốc thứ II năm 1948, đồng chí Trường Chinh đã giới thiệu

kỹ ba tính chất cơ bản đó. Đồng thời, đồng chí Trường Chinh đã chỉ rõ

phương hướng học tập, nghiên cứu văn học cổ của ta: “Chúng ta tìm tòi, học

hỏi những tác phẩm văn học, nghệ thuật của cha ông ta để lại, nhưng chúng

ta phải phê bình, nhận xét những tác phẩm đó và phát huy những truyền

thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc”.

Chúng ta “học xưa” là “vì nay”, học tập, nghiên cứu vốn cổ của dân tộc,

mục đích là để xây dựng nền văn hóa mới hiện nay, như bản Báo cáo chính

trị và Nghị quyết Đại hội Đảng ta lần thứ IV đã chỉ rõ: Nền văn hóa mới đó là

một “nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc…”. “Nó vừa

hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người, những thành

tựu văn hóa, văn học hiện đại, vừa là sự kết tinh và nâng cao lên một tầm cao

mới những gì đẹp nhất trong truyền thống bốn nghìn năm của tâm hồn Việt

nam, của văn hóa Việt nam…”. Mặt khác, bản Báo cáo chính trị và bản Nghị

quyết cũng nhấn mạnh việc “xây dựng nền văn hóa mới đó là quá trình xây

Page 25: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

dựng, vun đắp những tư tưởng đúng, những tình cảm lành mạnh, những

phong tục, tập quán tốt đẹp, đồng thời là quá trình đấu tranh không khoan

nhượng chống tư tưởng tư sản, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, quét sạch ảnh

hưởng của văn hóa thực dân phong kiến, những nhân tố lạc hậu trong đời

sống văn hóa của xã hội ta…”.

Như vậy, dưới ánh sáng của đường lối văn hóa, văn nghệ của Đại hội

Đảng Cộng sản Việt nam lần thứ IV, chúng ta tìm hiểu nền văn học viết của

cha ông ta dưới thời phong kiến với một thái độ trân trọng, thấu đáo, vừa để

học tập những cái hay, cái đẹp, cái tốt theo quan điểm Mác – Lênin, đồng thời

cũng phân tích thật kỹ lưỡng những yếu tố tiêu cực, những tàn dư của chế độ

cũ, nhất thiết không được hữu khuynh lơi lông về mặt giáo dục tư tưởng, tình

cảm hay bồi dưỡng quan điểm thẩm mỹ cho các thế hệ trẻ trong nhà trường.

THỜI KỲ THỨ NHẤT

Giai đoạn 1: TỪ THẾ KỶ XI ĐẾN THẾ KỶ XIV VĂN HỌC VIẾT TỪ THẾ KỶ XI ĐẾN THẾ KỶ XIV

Suốt hơn một nghìn năm, nước ta bị giai cấp phong kiến phương Bắc

đô hộ, nhưng nhân dân ta đã nhiều lần vùng dậy đấu tranh để bảo vệ nền độc

lập của Tổ quốc. Trong quá trình tiến triển của lịch sử cũng như trong quá

trình đấu tranh chống ngoại xâm, nền văn hóa dân lộc nước ta được hình

thành. Song song với nền văn học dân gian truyền miệng có từ lâu đời, nền

văn học viết nước ta phôi thai khoảng thời Bắc thuộc và hình thành từ khi nền

tự chủ được xác lập. Căn cứ vào tài liệu còn lại, chúng ta có thể nói nước ta

đã có hẳn một nền văn học viết từ thế kỷ XI về sau; nền văn học đó ban đầu

là nền văn học chữ Hán, sau thêm nền văn học chữ Nôm và mãi sau này lại

có nền văn học quốc ngữ.

I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ TỪ THẾ KỶ XI ĐẾN THẾ KỶ XIVSuốt thời kỳ Bắc thuộc, mặc đầu giai cấp phong kiến nước ngoài tìm

cách duy trì lâu dài nền thống trị của chúng, nhiều cuộc khởi nghĩa anh dũng

của ta đã liên tiếp nổ ra, như các cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, khởi nghĩa

Bà Triệu, khởi nghĩa Lý Bôn v.v… Năm 905, nhân lúc nhà Đường suy yếu, họ

Page 26: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Khúc đã bắt đầu xây dựng cơ sở tự cường cho dân tộc ta. Nhưng, nước ta

thực sự được tự chủ phải nói là từ Ngô Quyền trở đi, năm 939 được coi như

một cái mốc lịch sử trên bước đường tự chủ của nước nhà. Từ Đinh, Lê, Lý,

Trần về sau, quốc gia phong kiến Việt nam càng ngày càng được củng cố

vững chắc. Tinh thần yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc ta đã thể

hiện trong nhiều cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Cuộc hành quân của Lý

Thường Kiệt ở châu Ung, châu Khâm thuộc Trung quốc, cuộc chiến thắng

của Lý Thường Kiệt ở khúc sông Như Nguyệt, cuộc chiến thắng của Trần

Hưng Đạo ở sông Bạch đằng… đều được ghi lại trong những trang lịch sử

huy hoàng, đều được mô tả trong những thơ văn bất hủ của thời đó, cũng

như thời sau.

Chế độ kinh tế thời Lý Trần là chế độ đại điền trang. Nó phát triển trên

cơ sở xâm lấn đất đai các làng xã và biến nông dân các làng xã thành nông

nô, nô tì. Đương nhiên, mâu thuẫn bộc lộ từ nền kinh tế đó là mâu thuẫn giữa

quyền sở hữu ruộng đất công xã với sự chiếm hữu ruộng đất của nhà nước

phong kiển. Tuy vậy, trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, nền kinh tế đó phần

nào thể hiện tính chất tiến bộ của nó và thúc đẩy sức sản xuất tiến lên một

bước, đồng thời cũng tạo cơ sở cho sự thành công trong các cuộc kháng

Tống, kháng Nguyên.

Trong các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, nhà nước phong kiến tập quyền

chưa được củng cố vững chắc. Giai cấp phong kiến phát triển thế lực ở các

địa phương và có khuynh hướng cát cứ từng vùng. Lúc này, đời sống xã hội

chưa thật ổn định, tổ chức nhà nước còn đơn giản, chính sách thống trị nặng

nề biện pháp vũ lực để đàn áp nhân dân. Nho giáo chưa thịnh đạt, Phật giáo

chiếm đia vị độc tôn. Giai cấp phong kiến dựa vào đại quý tộc và tăng lữ yể

cai trị dân, nhưng bộ máy quan liêu vẫn chưa chặt chẽ. Từ các triều Lý, Trần

về sau, tính chất trung ương tập quyền cao hơn, một mặt do bước tiến triển

của sức sản xuăt, một mặt do yêu cầu cấp thiết của việc chống ngoại xâm.

Cuối thời Lý, bên cạnh nền kinh tế điền trang, nền kinh tế tư hữu ruộng đất,

được pháp luật triều đình bảo vệ, cũng chiếm một địa vị quan trọng. Nền kinh

Page 27: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

tế này phát triển trên cơ sở lấn chiếm ruộng đất công của làng xã, đẻ ra quan

hệ mới là quan hệ địa chủ tá điền. Nền kinh tế này bước đầu phát triển thời

Lý Trần, phá vỡ dần nền kinh tế điền trang làm suy yếu sự phân tán cát cử và

tạo điều kiện cho chính quyền phong kiến tập trung được củng cố hơn nữa.

Trong quá trình đó, Nho giáo thịnh hành dần, vai trò tăng lữ không đáp ứng

kịp yêu cầu của thời đại. Năm 1070, nhà Lý lập Văn miếu, năm 1075 mở khoa

Tam trường đầu tiên, năm 1076, dựng nhà Quốc tử giám ở kinh đô. Một lớp

sĩ phu mới xuất hiện, chen vai trong hệ thống quan liêu do triều đình nắm giữ.

Cuối đời Trần, giai cấp địa chủ, thông qua những đại biểu của họ là tầng lớp

sĩ phu, đã nắm được một số chức vụ quan trọng trong chính quyền, trong khi

đó, lãnh chúa quý tộc dần dần sa đọa và bất lực. Về cơ sở ý thức hệ, thì Phật

giáo dần dần nhường bước cho Nho giáo. Thật sự, ngay khi Phật giáo còn

thịnh trong đời nhà Lý, Nho giáo đã bước đầu được trọng dụng, dần dần lấn

át Phật giáo và chiếm địa vị chính thống, về phương diện hình thái ý thức

cuộc đấu tranh giữa địa chủ và lãnh chúa quý tộc thể hiện trong cuộc đấu

tranh giữa Nho giáo và Phật giáo. Năm 1198, nho sĩ Đàm Sĩ Mông đã lên

tiếng phản đối tăng lữ. Sau đó, Lê Văn Hưu, Trương Hán Siêu cũng lên tiếng

đả kích Phật giáo. Đạo giáo cũng bị Trương Hán Siêu đả kích.

Cuối đời Trần, nền kinh tế điền trang bắt đầu tan rã, quý tộc đi vào con

đường trụy lạc. Quan hệ lãnh chúa nô tì đã trở thành lạc hậu trước sự phát

triển của chế độ sỡ hữu ruộng đất. Đấu tranh giai cấp giữa nông nô, nô tì và

quý tộc trở nên gay gắt. (Cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ năm 1344 –1360 là

cuộc khởi nghĩa tiêu biểu). Một số sĩ phu đại biểu cho giai cấp địa chủ yêu

cầu cái cách để củng cố xã hội, nhưng bị bọn lãnh chúa quý tộc lạc hậu cự

tuyệt. Hồ Quý Ly thừa dịp đoạt lấy chính quyền, đã cố gắng, nhưng vẫn

không giải quyết được mâu thuẫn xã hội nói trên, cuối cùng bị thất bại trước

sự xâm lăng của phong kiến nhà Minh. Vai trò lãnh đạo nông dân chống ngoại

xâm đã chuyển sang tay giai cấp địa chủ với sự cộng tác đắc lực của sĩ phu.

Do tình hình phát triển của nước ta như vậy, nền văn học viết của dân

tộc đã có sắc thái đặc biệt; một mặt, do chịu ảnh hưởng của nền văn hóa

Page 28: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Trung quốc, nhưng mặt khác nó phản ánh tinh thần anh dũng, bất khuất trong

công cuộc chống phong kiến phương Bắc. Nhìn chung, cơ sở hệ ý thức Nho,

Phật, Lão vẫn thấm sâu vào văn học viết của ta; văn học đời Lý mang nặng

mùi thiền hơn văn học đời Trần; yếu tố đề cao Nho giáo, đả kích Phật, Lão

khả rõ rệt ở văn học đời Trần. Nhưng nổi bật lên trên toàn bộ nền văn học Lý,

Trần, Hồ là những áng thơ văn yêu nước: bài thơ “thần” của Lý Thường Kiệt,

bài Hịch tướng sĩ, bài phú Bạch đằng, bức Vạn ngôn thư… Đó là chưa nói

những thơ văn yêu nước ở khía cạnh khác như những bài ca tặng cảnh non

sông đất nước, ca tụng những nỗi vui mừng khi chiến thắng v.v…

Để hiểu rõ hơn nền văn học viết thời bấy giờ, chúng ta cần biết qua tình

hình giáo dục nghệ thuật lúc ấy. Đời Lý trở về trước, vì đạo Phật được chú

trọng, nên các việc xây chùa, tháp, đúc chuông phát triển. Những nơi đất tốt

cảnh đẹp dành cho nhà chùa; chùa là những nơi danh lam thắng cảnh, có

trang ấp, điền nô (đời Lý: chùa có ba hạng: đại, trung và tiểu danh lam). Chùa

lại có tổ chức những ngày hội Phật lớn như hội đèn Quảng chiếu, hội Nhân

vương v.v… quang cảnh những ngày hội này rất tấp nập, khách thập phương

dập dìu xe ngựa. Cuộc “Lãm sơn dạ yến” năm 1086 là một ngày hội lớn khá

tiêu biểu. Dần dần về sau, Nho giáo chiếm ưu thế, vấn đề giáo dục thi cử

được đề cao. Phật, Lão tuy vẫn được các vua đời Trần tôn sùng nhưng cũng

chỉ được coi như cái thú phiêu diêu thoát tục. Thiền sư lúc này không được

tham dự chính quyền nữa. Vua Trần Nhân Tông tự ý cho lập phái Thiền Tông

kiểu mới, để thích nghi với hoàn cảnh riêng (phái Yên tử). Những phương tiện

trước dùng để phục vụ nhà chùa, nay lại dùng để phục tụ việc học. Nghề in

mộc bản ở nước ta đã có sớm: sư Tín Hộc đời Lý đã biết khắc ván in, ban

đầu chỉ dùng vào việc in kinh bản như kinh Đại Tụng hay sách Phật, sau dần

dần chuyển sang in cả Ngũ kinh, Tứ thư. Năm 1384 đời Phế đế, một thư viện

được lập trên núi Lạn Kha, ngay cạnh chùa, (nay là Phật Tích, ở huyện Tiên

sơn, Hà bắc); danh nho Trần Tôn được cử làm viện trưởng thư viện và dạy

học trò. Năm 1253 đời Trần Thái Tông đã có viện Quốc học ở kinh đô, mà ở

bậc đại học đã có đầy đủ giáo sư. Đồng thời với quốc học, nền tư học cũng

phát triển Với hai trường: một của Trần Ích Tắc, một của Chu An. Việc học

Page 29: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

phát đạt và lan trần đến cả tầng lớp phụ nữ và lính tráng. Năm 1323, có

người lính tại ngũ đậu Thái học sinh, sau vua phải cấm lính không được thi.

Phụ nữ như Nguyễn Thị Bích Châu nổi tiếng hay chữ. Dần dần việc học được

phổ cập đến các địa phương. Chiếu chỉ sức về ban cấp ruộng học cho các

châu lộ và bắt các Đốc học phải ra sức dạy học trò. Tờ chiếu khuyến học của

Hồ Quý Ly năm 1397 có nhấn mạnh sự cần thiết phải chấn hưng giáo dục,

nhất là ở các nơi châu lộ: “… Viên đốc học các lộ phải giáo dục học sinh cho

thành tài, thành nghề. Cứ đến cuối năm, chọn người ưu tú tiến cử lên triều

đình, ta sẽ thân hành xét duyệt để bổ dụng”.

Về nghệ thuật, từ Đông Hán trở đi, những di tích của nghệ thuật Đông

sơn vẫn còn được duy trì, thí dụ như một số hoa văn trên mâm bằng đất

nung. Trong chừng mực nào đó, nghệ thuật ta có thể ít nhiều chịu ảnh hưởng

nghệ thuật Trung quốc, sau chịu ảnh hương cả nghệ thuật Chiêm thành, tuy

vậy nghệ thuật của ta vẫn giữ được bản sắc dân tộc. Người ta thường ca

tụng bốn công trình lớn đời Lý gọi là An nam tứ đại khí: Tháp Bảo Tiên, Phật

Quỳnh Lâm, đỉnh Phổ Minh, chuông Qui điền. Ngoài ra, còn có chùa Diên

Hữu (Một cột) đời Lý, thành nhà Hồ v.v… Đặc biệt, đến Hai Bà Trưng ở xã

Hát môn (Hà sơn bình) được xây dựng từ đời Tiền Lê (891 – 1009). Qua

những bức chạm trổ ở các đình chùa miếu mạo, chúng ta thấy nghệ thuật từ

đời Lý cũng đã khá tinh vi.

Về ca vũ nhạc, có các hình thức dân gian từ đời Lý, như lối hát đào

nương cũng khá phát triển. Năm 1041, triều đình nhà Lý đã tuyển một đội ca

vũ đến hàng trăm người. Âm nhạc cung đình cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều

hai luồng âm nhạc Trung và Chiêm, như ở đời Lý, có các khúc bát kiểu

Chiêm: khúc Tây Thiên, khúc Chiêm thành âm; thời Trần, có những khúc hát

chịu ảnh hưởng Trung quốc: Trang Chu mộng điệp, Nhập hoàng đô, Yến dao

trì… Những điệu hát dân tộc lúc đó vẫn được duy trì như hát Cởi trần, hát

Nam ưu nữ xướng, hát Giấu mặt. Về sân khấu, chúng ta chưa thể khẳng định

được hình thức đầu tiên là chèo hay tuồng; cố nhiên, cũng có vở tuồng rút nội

dung ở sự tích Trung quốc như “Tây vương mẫu dâng quả bàn đàơ”, nhung

Page 30: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

căn cứ ở nghệ thuật tuồng chèo cổ ngày nay, thì nghệ thuật sân khấu của ta

vẫn giữ được cốt cách dân tộc của mình. Sự hài hòa giữa hai luồng nghệ

thuật Trung và Chiêm chỉ bồi dưỡng chứ không thủ tiêu tính độc đáo của nền

nghệ thuật dân tộc Việt nam. Đặc điểm đó của nghệ thuật cũng có chỗ giống

với đặc điểm của nền văn học viết ta dưới thời phong kiến mà chúng ta đã có

dịp nói trong chương mở đầu.

II. TÌNH HÌNH CHUNG CỦA NỀN VĂN HỌC VIẾT TỪ THẾ KỶ XI ĐẾN XIV

Nền Hán học xâm nhập nước ta từ thời Bắc thuộc. Một số quan lại

Trung quốc dạy người nước ta học chữ Hán, có thể là vì mục đích đồng hóa,

nhưng có một điều chắc chắn là cần đào tạo một bọn thừa hành trong việc cai

trị. Người Việt ta nhân đấy dùng chữ Hán làm phương tiện để thâu lượm một

số kiến thức qua sách Trung quốc (thời Tam quốc, thời Lục Triều…) một số

học giả Trung quốc sang ta mở trường dạy học, có ít nhiều tác dụng đối với

nền Hán học ở ta. Đặc biệt thời Sĩ Nhiếp, có vài trăm nho sĩ Trung quốc sang

ta, trong số đó có những người nổi tiếng như Lưu Hi, Hứa Tĩnh. Thời nhà Ngô

(Tam quốc), Ngu Phiên bị đầy sang Giao châu mở trường dạy học, có đến vài

trăm học sinh. Nền Hán học nước ta như vậy đã dần dần có cơ sở trong thời

Bắc thuộc. Một số người nước ta đã có trình độ sang học ở Trung quốc và

được bổ nhiệm làm quan bên ấy như Trương Trọng, Lý Tiến, Lý Cầm, Đỗ

Anh v.v… Từ thời Tùy Đường, đã xuất hiện một lớp cao tăng người Việt, tinh

thông Nho giáo, Đạo giáo, giỏi Hán, giỏi Phạn, đã dịch nhiều Kinh Phật từ

Phạn ra Hán. Các nho sĩ, cao tăng chắc cũng có làm thơ văn, nhưng rất tiếc

là không còn tác phẩm đáng kể lưu lại. Một vài quyển sách Trung quốc có

nhẳc đến một số văn gia người Việt như anh em Khương Công Phu, Khương

Công Phục, hay Lục Hữu Phương đời Đường. Xem vậy thì biết nền văn học

viết ta phôi thai từ thời Bắc thuộc và hình thành trong điều kiện nước nhà

được tự chủ. Từ Đinh, Tiền Lê, Lý, chỉ mới có những nhà sư thông Hán học;

nhưng từ khi nhà Lý mở mang việc học, mở khoa thi, thì một lớp sĩ phu đã ra

đời.

Page 31: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Nền văn học viết nước ta tuy bằng chữ Hán ở thời kỳ đầu và chịu ảnh

hưởng nhiều của nền văn học và tư tưởng Trung quốc, nhưng vẫn có tính

chất riêng biệt của nó. Nền văn học của ta phản ánh tình hình xã hội ta và đặc

biệt phản ảnh sức sống của dân tộc ta.

Đó là nền văn học của người Việt viết bằng chữ Hán, ta thường gọi là

nền văn học chữ Hán. Nước ta từ xưa không thấy có chữ viết dân tộc truyền

lại, chữ Nôm chỉ hình thành khi chữ Hán đã phát triển đến một mức độ nào

đó. Theo sử sách còn ghi, đời Trần đã có những thơ phú Nôm, nhưng chủ

yếu các tác phẩm đều viết bằng chữ Hán. Từ những chiếu biểu, công văn,

những bộ sử ký đầu tiên, những thơ phú yêu nước, những thơ văn thù tạc,

những kinh kệ nhà chùa, cho đến những truyện cổ như Báo cực truyện, Việt

điện u linh v.v… đều ghi bằng chữ Hán. Thời này chữ Hán có một địa vị quan

trọng trong việc ghi chép cuộc sống, ghi chép tâm tư của sĩ phu quan lại và

phần nào của các tầng lớp nhân dân. Dần dần, do nhu cầu thực tế của xã hội,

nền văn học chữ Hán hình thành và truyền lan. Tác dụng khách quan của chữ

Hán thật ra ở ngoài ý muốn chủ quan của giai cấp thống trị; đương nhiên, việc

sử dụng chữ Hán đối với nhân dân ta chưa thể là một việc phô biến được;

cho nên, thơ văn chữ Hán ban đầu chủ yếu chỉ được lưa hành trong hàng

ngũ quý tộc và tăng lữ. Riêng những thơ văn yêu nước và chống xâm lăng có

ít nhiều ảnh hưởng trong các tầng lớp nhân dân, nhất là tầng lớp tướng sĩ.

Cho đến đầu đời Trần, Phật giáo có một địa vị quan trọng, do đó hầu

hết thơ văn đời Lý và một phần thơ văn đời Trần đều mang nặng màu sắc

Phật giáo thuộc phái Thiền Tông. Thơ đời Lý còn lại ngày nay chép trong

sách Thiền uyển tập anh đều là của tăng lữ. Đạo giáo thời này tất nhiên cũng

ảnh hưởng khả nhiều trong thơ văn nhất là từ năm 1195 trở đi, khi đã có một

số khoa thi Tam giáo. Trong thực tế, tư tưởng, Đạo giáo được lồng vào tư

tưởng Phật giáo; chính các nhà sư như Nguyễn Minh Không, Từ Đạo Hạnh

đồng thời kiêm làm nghề đạo sĩ. Tư tưởng Đạo giáo khá rõ rệt trong một số

truyện ở Việt điện u linh, hay Lĩnh nam chích quái. So với tư tưởng Phật giáo,

thì tư tưởng Nho giáo thời Lý, Trần, Hồ cũng ảnh hưởng lớn đối với tăng lữ

Page 32: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

và sĩ phu. Đấy là lẽ dĩ nhiên, vì rằng kinh truyện, sử sách của Nho giáo vẫn là

cơ sở học thuật của các tầng lớp này. Hơn nữa; tư tưởng Nho giáo lại nhằm

đề cao trung hiếu tiết nghĩa có lợi cho giai cấp thống trị trong việc giữ vững và

củng cố chính quyền do đó rất được nhiều nhân sĩ nhắc tới và coi như là

phần chủ đạo trong việc sáng tác của mình, tất cả các khía cạnh trong tư

tưởng Phật Lão và Nho nói chung như ca tụng lòng trung hiếu, ca tụng cảnh

nhàn tản, ca tụng cuộc sống phiêu diêu thoát tục v.v… đều được phản ánh rõ

rệt trong văn học thời này.

Có điều, như ta đã biết ởmục hoàn cảnh lịch sử, từ thời Bắc thuộc cho

đến thời kỳ độc lập, nhân dân ta không sống yên ổn, mà đã nhiều lần vùng

đậy chống nạn ngoại xâm. Biết bao nhiêu cuộc chiến thắng oanh liệt, chẳng

những được ghi lại trong sử sách, mà còn được mô tả qua thơ văn. Quả vậy,

tinh thần yêu nước và ý chí chống xâm lăng được biểu hiện một cách khá rõ

rệt trong một số tác phẩm thời Lý, Trần, Hồ.

Loại thơ văn yêu nước còn lại không nhiều lắm, nhưng đây là phần quý

báu và cốt yếu trong nền văn học chữ Hán của ta. Qua một số tác phẩm như

Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ, bài thơ “thần” của Lý Thường Kiệt, thơ của Trần

Quang Khải, hịch của Trần Quốc Tuấn, phú của Trương Hán Siêu v.v…,

chúng ta thấy toát lên tinh thần anh dũng và bất khuất của dân tộc ta trong

những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Ngoài ra, phần lớn các nhân sĩ đời

Lý, Trần, Hồ khi làm thơ văn, thường ca tụng cảnh trí tươi đẹp của đất nước,

hay ca tụng nền văn hiến của nước nhà. Chúng ta sẽ đọc được những khía

cạnh khác của lòng yêu nước, của lòng tự hào dân tộc nói trên trong nhiều

bài thơ của Trần Thánh Tông, Trần Minh Tông, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Bá

Thông, Hồ Quý Ly v.v…

III. VĂN HỌC ĐỜI LÝPhần văn học viết đời Lý còn lại hầu hết là của các tăng lữ. Theo sách

“Thiền uyển tập anh”, có khoảng trên 40 nhà sư làm thơ và tất cả theo phái

Thiền Tông. Có hai nữ sĩ là bà Ngọc Kiều (Diệu nhân ni sư) và bà Ỷ Lan (vợ

vua Lý Thánh Tông). Ngoài ra các vua Lý Thái Tông, Thượng thư Đoàn Văn

Page 33: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Khâm v.v… còn để lại một số bài thơ. Rất tiếc là thơ văn thời này mất nhiều,

thí dụ như nhà thơ Nguyễn Nguyên Ức (tức sư Viên thông), vốn đỗ đầu khoa

Tam giáo, đã làm đến hàng nghìn bài thơ, lại soạn nhiều văn bia và sách như

Chư Phật tích duyên sự, Tăng già tạp lục, nhưng nay không còn nữa. Một số

thiền sư khác cũng soạn nhiều sách Phật, như sư Huệ Sinh (tức Làm Khu)

soạn cuốn Pháp sự trai nghi và cuốn Chư đạo trầng khánh tân văn, sư Phạm

Thường Chiểu soạn cuốn Nam Tông tư pháp đồ. Theo sách Kiến văn tiểu lục

của Lê Quý Đôn, hiện còn 7 bài văn bia tán dương đạo lý nhà Phật.

Về loại văn chép sử, không thấy còn lại gì. Lý Thái Tổ sai người soạn

Ngọc điệp và Hình thư; Lý Thái Tông sai soạn ba tập Bí thư định rõ ngạch

quan lại. Tương truyền thời này có quyền sử của Đỗ Thiên. Hiện còn lại ba

bài chiếu: Chiếu dời đô, Chiếu kiệm ước và Chiếu Lý Chiêu Hoàng nhường

ngôi.

Xét về tư tưởng nói chung thì hầu hết văn học đời Lý mang nặng hệ ý

thức Phật giáo (phái Thiền Tông).

Phái Thiền Tông (như Nam Phương, Quan Bích, Thảo Đường) khá

phát triển ở nước ta. Đạo Thiền (chữ Phạn Dhyâna, còn gọi là “Định”, lấy việc

tâm định tư duy làm phép tu luyện. Do đó, Thiền Tông cũng gọi là Tâm Tông.

Những người tu đạo Thiền tìm chân lý ngay ở lòng mình. Thiền sư

Nguyện Học đời Lý đã phát triển nguyên lý đó như sau: “Đạo không có hình

ảnh, ở ngay trước mắt, không phải ở xa. Mình phải suy cầu đạo ấy ở mình,

chứ đừng cầu ở người”. Sau này đến đời Trần, Thượng sĩ Trần Quốc Tảng

đã nói ý đó trong bài Phật tâm ca và khẳng định: “Tâm tức phật, phật tức

tâm”. Như vậy, giáo lý của phái Thiền Tông phủ định sự tồn tại của ngoại giới,

mà chỉ lấy “tâm tự tại” làm cơ sở; có người đã so sánh tư tưởng phải Thiền

Tông với tư tưởng phái duy tâm chủ quan ngày nay. Tư tưởng Thiền Tông

thường được thể hiện trong các bài kệ của các thiền sư. Sư Vạn Hạnh nói với

đệ tử rằng “việc thịnh suy ở đời giống như giọt sương đọng trên ngọn cỏ”

(Thịnh suy như lộ thảo đầu phô). Sư Cứu Chỉ trong bài thơ Trối trăng (Thị

tịch) cũng nói rõ với người đời sau rằng “thân tâm của người đã giác ngộ về

Page 34: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

đạo Phật chỉ là nơi tịch diệt kết đọng” (giác liễu thân tâm bản ngưng tịch); vì

rẳng mọi sự nghiệm ra không có hình trạng gì cả. Trả lời Lý Thái Tông về ý

nghĩa đạo Thiền, sư Huệ Sinh đã nói rằng “chỗ cùng tột của đạo Thiền im

lặng như bóng trăng trên núi Lăng già, hư không như chiếc thuyền vượt biển

khơi” (Tịch tịch Lang già nguyệt, không không độ hải chu). Những lời của Lý

Thái Tông khen Tỳ- ni-đa-lưu-chi, của Lý Nhân Tông khen Vạn Hạnh, hay của

Đoàn Văn Khâm viết Văn Trí, truy điệu Chân Không v.v. đều xoay quanh

nguyên lý phủ định thực tại đó của đạo Thiền. Về phương diện thực tiễn,

nguyên lý này thường được thể hiện trong những bài kệ với mục đích chỉ dạy

các đệ tử về việc tu hành. Lời lẽ trong các bài kệ phần lớn cô đọng, do đó ý

nghĩa mập mờ khó hiểu.

Triết lý đạo Thiền như vậy, nhưng các Thiền sư nước, ta phải thích

nghi với hoàn cành, không thể quay lưng với thực tế, mà phải ra giúp đời lo

nước. Đáng lẽ chỉ khuyên đệ tử đi vào đạo Thiền bằng con đường “tự giác”,

thì các nhà sư lại đứng ra thuyết pháp, và hơn thể nữa, các nhà sư lại đứng

ra làm chính trị, đứng ra giúp triều đình làm cả công việc ngoại giao, hành

chính. Như vậy là các thiền sư đã công nhận thực tại, công nhận khách thể

trái với triết lý đạo Thiền. Rõ ràng là nội dung đạo Thiền ở ta đã biến thiên cho

hợp với thực tiễn địa phương. Chính nhờ vậy mà các nhà sư ở ta đã có tác

dụng tích cực trong việc xây dựng nền độc lập của nước ta buổi đầu. Lý Nhân

Tông có lần nói với sư Mãn Giác: “Bậc chính nhân tất phải tế độ chúng sinh.

Làm việc gì cũng phải đầy đủ, không việc gì không làm, chẳng những đắc lực

về thiên định và trí tuệ, mà cũng có công giúp đỡ nhà nước”. Sư Hiện Quang

tu ở chùa Từ sơn đã nói rõ ý định của mình với sứ giả của Lý Huệ Tông: “Bần

đạo sinh ở đất của vua, ăn cơm gạo của vua, ở núi thờ Phật, đã trải nhiều

năm mà công đức chưa thành, rất là hổ thẹn”.

Như vậy một số tác phẩm của các nhà sư chứa đựng tư tưởng và tình

cảm ít nhiều vượt ra ngoài khuôn khổ đạo Thiền.

Muốn làm một thiền sư đúng với ý nghĩa của nó, tất nhiên không thể

đồng thời là một nhà hoạt động chính trị và hơn nữa, không thể là một nhà

Page 35: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

thơ, một nghệ sĩ, sống với cuộc sống thông thường của con người. Nhưng có

một điểm rất thú vị là các nhà sư của ta thường trở thành các nhà thơ và có

tâm hồn rung động trước cảnh vật và lòng người. Làm thơ tức là xuyên qua

cảnh vật, xuyên qua cuộc sống để nói lên lòng mình mà cũng là để nói lên

lòng người. Các nhà sư đời Lý đã say sưa với thiên nhiên, chứ không phủ

nhận thực tại. Sư Viên Chiếu (tức là Mai Trực), khi giải thích cho đệ tử về

diệu lý củavđạo Thiền, thì thực ra là đã tả cảnh thiên nhiên với những hình

tượng nghệ thuật khá bóng bẩy:

– “Xuân dệt hoa như gấm, Thu thêu lá đốm vàng”

(Xuân chức hoa như cẩm, Thu lai diệp tự hoàng).

– “Theo gió, tiếng tù luôn trúc đến,

Cõng trăng, bóng núi vượt tường qua”

(Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo,

Sơn nham đái nguyệt quá tường lai)

Khó có thể tưởng tượng được đây là lời kệ một thiền sư, vì đây chính là

lòng thơ lai láng của một thi nhân trước cảnh tri thiên nhiên.

Sư Không Lộ thường biểu lộ một tư tưởng tự do phóng khoáng. Có lúc,

nhà sư trèo lên một đỉnh núi cao ngất trơ trụi “kêu một tiếng to cho lạnh cả

bầu trời” (Trường khiếu nhất thanh hàn đại hư). Quả là một tiếng “thét hả hê”

của một nhà thơ, hơn nữa một con người thèm khát một cuộc sống khoáng

đạt. Trong bài “Ngư nhân”, nhà sư ca tụng cảnh làng chài say ngủ giữa một

cảnh trời nước bao la giữa một “vùng dâu biếc một vùng khơi”

“Say ngủ ông chài không kẻ gọi

Quá trưa tỉnh dậy tuyết đầy thuyền”.

(Ngư òrg thụy trứ vô nhân hoán,

Quá ngọ tỉnh lai tuyết man thuyền)

Page 36: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Sư Mãn Giác (tức Nguyễn Trường) nhân nói về lẽ hóa sinh ở đời trong

bài “Cáo tật thị chúng”, đã đề cập đến một niềm tin ở ngày mai, ở một mùa

xuân đang tới trong quy luật tuần hoàn tất yếu của tự nhiên;

«Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,

Đêm qua xuân trước nở cành mai”.

(Mạc vị xuân tồn hoa lạc tận,

Đinh tiền tạc dạ nhất chi mai)

Sự Quang Nghiêm lại có tư tưởng mạnh bạo hơn nữa, là dám hoài nghi

đường lối tu hành của đạo Phật:

“Tài trai có chí xông trời thẳm,

Giẫm vết Như lai uổng nhọc mình”.

(Nam nhi tự hữu xung thiên chi.

Hưu hướng Như lai hành xứ hành!)

(Thị tật)

Chỉ một vài nét rải rác trong một số bài thơ trên cũng đã nói lên tình

cảm yêu tạo vật, tính thích phóng khoáng của một số nhà sư muốn vượt ra

ngoài khuôn khổ của triết lý Thiền Tông.

Đáng chú ý hơn cả là một số thơ văn đời Lý biểu hiện tinh thần yêu

nước và ý chí chống xâm lăng của dân tộc ta.

Như đoạn trên đã nói, các nhà sư đời Đinh, Lê, Lý đã vượt ra ngoài

khuôn khổ đạo Thiền mà tham gia hoạt động chính trị, tích cực góp phần vào

việc xây dựng quốc gia. Quả vậy một số thiền sư thời đó đều có cương vị

trong triều đình, thường là cương vị ngoại giao. Các sư Đỗ Thuận, Ngô Chân

Lưu đều giúp các triều Đinh và Tiền Lê trong việc tiếp sứ Trung quốc. Tương

truyền một số giai thoại về việc đối đáp giữa sư Thuận, sư Chân Lưu với sứ

Trung quốc và Lý Giác. Lý Giác nhận thấy hai con ngỗng bơi trên mặt nước,

liền ngâm:

Page 37: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

“Nga nga lưỡng nga nga, ngưỡng diện hướng thiên nha” (Ngỗng ngỗng

hai con ngỗng, nghểnh cổ nhìn chân trời). Sư Thuận liền ngâm tiếp:

“Bạch mao phô lục thủy, hồng trạo bãi thanh ba”.

(Nước xanh phô lông trắng, sóng biếc chân hồng bơi)

Việc ứng khẩu tài tình của sư Thuận đã làm cho Lý Giác phải khâm

phục trí thông minh của người Việt, đồng thời phải mặc nhận nước Việt vốn

có một nền văn hiến đáng chú ý. Việc Ngô Chân Lưu làm thơ tiễn Lý Giác

cũng vậy: ngoài ý nghĩa thù tạc thường tình của nó, việc này còn gợi lên cho

Lý Giác biết rằng ở nước Việt “xa xăm và nhỏ bé kia” cũng có người đủ tài

năng văn học. Thâm ý của các nhà sư trong việc đề cao lòng tự hào dân tộc

là ở đó.

Ý thức tự cường dân tộc còn được biểu hiện trong bài Chiếu đời đô (do

Lý Thái Tổ sai soạn năm 1010) trong đó, có một đoạn ca tụng thế đất hùng vĩ

của Thủ đô Thăng long:

“…Ở đây địa thế vừa rộng vừa phẳng, đất đai vừa cao vừa sáng, dân

cư không lo tối tăm ẩm thấp, muôn vật lại được phong phú tốt tươi. Ngắm

khắp nước Việt ta, thì đây là chỗ đất đẹp nhất, thật là nơi hội họp, then chốt

của bốn phương châu lại và cũng là nơi đô thành bậc nhất của đế vương

muôn đời…” Việc dời đô và ban chiếu có một ý nghĩa chính trị lớn. Ý chí xây

dựng một quốc gia phong kiến vững chắc để chống chọi với phong kiến

phương Bắc, sẽ được các triều đại sau kế tục. Ý chí đó trải qua lịch sử đấu

tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta, đã biến thành sự thật ghi chép bằng

xương bằng máu của nhân dân ta. Bài thơ “thần” của Lý Thường Kiệt đọc

trong trận Như nguyệt đã nói lên quyết tâm đó: cương giới giữa hai nước đã

rõ ràng, kẻ nào xâm lăng sẽ thất bại. Lời thơ thật là đanh thép:

Lũ giặc cớ sao xâm phạm tới.

Rồi bay sẽ chuốc lấy phần thua!

(Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Page 38: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư).

Uy danh của Lý Thường Kiệt còn được sư Hải Chiếu tán đương trong

bài minh chùa Linh xứng (ở Thanh hóa): “Việt có lý công, theo dấu người cổ,

coi quận yên dân, đành đâu được đó, tiếng động Chiêm thành, danh lừng

Trung thổ…”.

Về mặt nghệ thuật, thơ văn đời Lý nói chung khô khan, vì phần lớn

nhằm mục đích thuyết minh đạo lý Phật giáo. Tuy vậy cũng có những bài hay

như các tác phẩm của Đoàn Văn Khâm, của sư Mãn Giác. Sư Giác Hải lấy

hình tượng “bướm hoa đắp đổi” để lý giải lẽ biến dịch của cuộc sống. Đoàn

Văn Khâm trong bài thơ viếng sư Quảng Trí và bài thơ truy điệu sư Chân

Không cũng đều diễn tả ý nghĩ của mình bằng hình tượng nghệ thuật:

“… Phần mộ ai người để tháp mới?

Sân trai chim vắng hót trăng suông”.

(Trai đình u điếu không đề nguyệt,

Mộ tháp thùy phân vị tác minh).

(Văn Quảng tri thiền sư)

Theo Lê Quý Đôn trong sách Kiến văn tiểu lục thì lờ văn biền ngẫu thời

này cũng khá duyên dáng đậm đà, Sư Hải Chiếu tả chùa Linh xứng với một

bút pháp uyển chuyển vừa nói lên được sự phồn vinh của đạo Phật thời bấy

giờ, vừa nói lên được cảnh trí tươi đẹp của đất nước: “… Bốn mặt mở cửa,

xung quanh có bao lơn, Chiêng vàng gió khua động, kêu vang cùng tiếng

chim rừng. Biểu dựng ánh dương soi, rực rỡ cùng màu vàng ánh. Hiện dựng

lan can, thêm bày hoa cỏ. Trước có cửa kính, trong treo chuông đồng, chày

kình gõ một tiếng, âm thanh dậy khắp trời, thức tỉnh lòng mê, phá tan niềm

tục, khuyên điều lành, răn điều ác…”. Cũng tả cảnh chùa, sư Tĩnh Giới đã có

những câu văn đầy hình tượng: “Trỏ chén thơm bay, ồ ạt sóng xô mười

phương tín chủ; khua gậy tích động, trập trùng mây họp bốn bộ học đồ” (Hoa

Bằng dịch).

Page 39: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Tóm lại, tuy đang ở bước đầu xây dựng, văn học đời Lý đã có những

nét đặc sắc của nó. Các tác phẩm thời này tuy nói nhiều về đạo Phật, nhưng

qua một số bài sâu sắc, người ta đọc được lòng tự hào của dân tộc. Riêng

loại thơ văn yêu nước thời này tuy còn ít, nhưng đặc biệt phản ánh được tinh

thần đấu tranh bất khuất của nhân dân ta lúc đó.

IV. VĂN HỌC ĐỜI TRẦN, HỒTrong quá trình đoàn kết đấu tranh chống ngoại xâm, ý thức tự cường

dân tộc của nhân dân ta thời này càng ngày càng lớn mạnh. Cùng với đà tiến

của lịch sử, cùng với sự ổn định tương đối của cơ sở kinh tế điền trang ở giai

đoạn đầu Trần, nền văn hóa dân tộc phát triển theo một hướng độc đáo của

thời đại. Nghiên cứu về văn học đời Trần, nhà bác học Lê Quý Đôn đã có dịp

viết trong Kiến văn tiểu lục: “Các nhân sĩ ấy (đời Trần), phần hạnh thanh cao,

có phong thái người sĩ quân tử đời Tây Hán bên Trung quốc, kẻ tầm thường

không thể sánh được. Bởi vì nhà Trần đãi kẻ sĩ một cách chu đáo không hẹp

hòi, chan hòa nhưng có lễ độ; cho nên nhân sĩ đương thời khá biết tự lập,

anh hoa tuấn sĩ vượt ra ngoài thói thường, làm cho rạng rỡ sử sách, không

thẹn với trời đất, há đời sau sánh kịp được chăng!” Đương nhiên, Lê Quý

Đôn, đứng trên quan điểm giai cấp phong kiến mà nhìn vấn đề, do đó không

tránh được những thiếu sót. Có điều, ông đã thấy được sự phồn vinh và tính

tự lập của văn học đời Trần, nhưng không phải như ông tưởng là do chính

sách đãi kẻ sĩ của nhà Trần tạo nên, mà chính là do sự hun đúc của ý thức tự

cường dân tộc trải qua nhiều cuộc chiến tranh ái quốc của nhân dân ta. Chính

vì vậy cho nên phú đời Trần mới có những vẻ “kỳ lạ, hùng vĩ, trôi chảy, tốt

đẹp” nhưng ông đã nhận định. So với văn học đời Lý, chất lượng loại văn học

này cũng phong phú hơn. Mặt khác cơ sở hệ ý thức thời này đã biến đổi ít

nhiều và do đó có khác với đời Lý: Phật giáo không độc tôn nữa và bị đẩy lùi

xuống bậc dưới Nho giáo. Đặc biệt Phật giáo ở ta ít nhiều có màu sắc dân tộc

khác với Phật giáo Trung quốc. Nhìn chung phái Thiền Tông ở ta đã có chỗ

khác với căn nguyên chính phái như ta đã nói ở phần văn học đời Lý; riêng

phái Trung lâm (Yên tử) có xu hướng một phái độc lập và khai sáng. Nho giáo

Page 40: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

nói chung không khác lắm, nhưng riêng Hồ Quý Ly đã có tư tưởng chống đối

Tống Nho và hoài nghi uy tín tuyệt đối của Khổng tử. Văn học đời Trần, Hồ

phản ánh khá trung thành những diễn biến lịch sử của thời đại, do đó nội

dung văn học đầu Trần và cuối Trần có khác nhau. Có nhiều sự kiện văn hóa

quan trọng: sự xuất hiện những bộ sử ký qui mô, sự khởi phát một nền văn

học viết bằng Nôm. Để ứng đáp kịp thời nhu cầu lúc đó, nhiều loại hình văn

học được sử dụng: loại nghiên cứu về binh học, về Phật học, về Kho học, về

văn học, loại thơ phú, tản văn v.v… đều phát triển với nhiều khía cạnh khác

nhau. Đồng thời cũng chớm nở những cuộc đấu tranh về tư tưởng và học

thuật: đã có những áng văn bài xích Phật giáo, đã có cuộc bút chiến giữa Hồ

Quý Ly và phái Đoàn Xuân Lôi. Văn học đời Trần, Hồ tuy bước đầu phát triển,

nhưng phần nào có tính chất đa diện và phần nào đã làm “rạng rỡ” sử sách

như Lê Quý Đôn nhận xét.

A. NHỮNG SỰ KIỆN VĂN HÓA QUAN TRỌNG

1. Các bộ Sử ký đầu tiên của nước nhà

Chúng ta thấy ở thời Lý mới chỉ có những bộ Ngọc điệp chép tiểu

truyện vua chúa. Tương truyền Đỗ Thiện có soạn một cuốn sử ký, nhưng thất

truyền, chi còn những đoạn trích dẫn trong Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên.

Đến đời Trần đã có những bộ sử ký tương đối qui mô. Quyển xưa nhất có thể

là quyển Việt chí của Trần Tấn (hay Phổ?) (một chức Hàn trưởng đời Trần

Thái Tông). Chắc rằng Lê Văn Hưu có dựa vào quyển này để soạn bộ Đại

Việt sử ký.

Bộ sách của Lê Văn Hưu hoàn thành năm 1272, gồm 30 quyển, viết

theo lối biên niên từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng (_207 + 123). Bộ này

hiện nay cũng mất, chúng ta chỉ biết được -ít nhiều qua lời trích dẫn của Ngô

Sĩ Liên trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư và của Phan Phu Tiên trong bộ Đại

Việt sử ký tục biên.

Cuối đời Trần, một tác giả khuyết danh viết bộ Việt sử lược (hay Đại

Việt sử ký) vào khoảng 1377 (đời Trần Đế Nghiên). Cũng vào khoảng này Hồ

Tôn Thốc viết Việt sử cương mục và Nam Việt thế chí. Hai bộ này cũng mất;

Page 41: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

ta chỉ biết Ngô Sĩ Liên khen tác giả Việt sử cương mục viết “thận trọng, vừa

có phương pháp, bàn bạc các việc đều rất thích đáng”.

Về loại thực lục, có các bộ Trung hưng thực lục của Trần Nhân Tông

chép những chiến thắng của ta trong hai trận binh Nguyên (1284 – 1288) và

trong đó có vẽ hình ảnh các tướng sĩ; hay bộ Thực lục của Nguyễn Trung

Ngạn chép việc Trần Minh Tông thân chinh xâm lược nước Lào năm 1329.

Ở thời này, còn có những bộ sử chép ở ngoài nước như bộ An nam chí

lược gồm 20 cuốn của Lê Tắc (hay Trắc). Tắc, người Thanh Hóa, là môn

khách của Trần Kiện. Năm 1285, Kiện đầu hàng Toa Đô, thì Tắc cũng chạy

theo sang Trung quốc làm một chức quan nhỏ với giặc. Lập trường viết sử

của Tắc là lập trường của một tên bán nước, do đó đã tâng bốc kẻ thù và

miệt thị xứ sở. Quyển “Nam ông mộng lục” của Hồ Nguyên Trừng có phán

ánh phần nào yếu tố yêu nước. Trừng là con đầu Hồ Quý Ly, bị giặc bắt sang

Trung quốc năm 1406. Khác với Lê Tắc, Hồ Nguyên Trừng vẫn canh cánh

một lòng nhớ nước thương nhà. Có thể nói “Nam ông mộng lục” là một tập

truyện viết khá hấp dẫn.

Về phía nhà chùa, cũng có những sách ghi chép tiểu sử và thế hệ các

tăng đồ Phật giáo. Hai quyển có giá trị là Thiền uyển tập anh ngữ lục và Tam

tổ thực lục: Quyển trên chép các sư ni dòng Thiền Tông truyền sang Việt nam

từ đời Đường cho đến đời Trần, quyền dưới chép về ba vị tổ Trúc làm: Trần

Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang.

Bước đầu, các bộ sử đời Trần hoặc chép về các thời kỳ dài của lịch sử

dân tộc, hoặc chép về tiểu sử vua chúa, tướng tá một cách có hệ thống, thay

thế các loại Ngọc điệp, Bí thư, Hình luật đời Lý và gây cơ sở cho những bộ

sử qui mô thời Lê và Nguyễn sau này.

2. Khởi phát một phong trào dùng Nôm vào thư từ công văn, dùng Nôm vào văn nghệ và khởi phát một nền văn học Nôm giữa hai dòng văn học chữ Hán và văn học dân gian.

Page 42: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Việc dùng chữ Nôm vào văn học là một sự kiện quan trọng. Nó đánh

dấu sự trưởng thành tiếng nói của dân tộc trong quá trình đấu tranh bảo vệ

Tổ quốc và bảo vệ văn hóa dân tộc. Nó cũng đánh dấu sự chiến thắng của

nền văn học “nôm na” đối với nền văn học chữ Hán. Đó là kết quả lâu dài của

quá trình phạt triển lịch sử, của quá trình phát triển tiếng nói của dân tộc ta.

Văn để chữ nôm:

Chữ Nôm là một thứ chữ mượn chữ Hán để phiên âm Việt. Tiếng ta và

tiếng Trung quốc khác nhau nhiều về âm thanh, do đó khi tạo ra chữ Nôm

cũng có khó khăn. Trong quá trình cấu tạo ra nó, một số nguyên tắc cũng

được xác định, đành rằng những nguyên tắc đó có những chỗ chưa nhất trí

từ nơi này đến nơi khác, từ người này đến người khác và lại cũng thay đổi từ

thời này đến thời khác. Tuy vậy, cũng có một số nguyên tắc chung về cách

viết chữ nôm, thí dụ như mượn chữ Hán có sẵn, đồng âm đồng nghĩa với

tiếng Hán như: quốc gia, tài mệnh, hoặc mượn những chữ đồng nghĩa những

âm na ná như: qua, lại, một. Nói chung, đối với những tiếng đặc biệt Việt

nam, người ta thường ghép hai chữ Hán, hoặc hai vế chữ Hán với nhau bằng

mấy phương pháp hội ý, chuyển chú, giả tá, hài thanh v.v… hoặc bằng

phương pháp hỗn hợp mấy lối đó và nâng cách đặt lên một mức độ phức tạp

hơn. Xem như vậy, thì cách viết chữ Nôm là một sáng kiến tập thể của quần

chúng. Đương nhiên, ban đầu chắc có một cá nhân hay một tập thể nhỏ nào

đó vốn thông thạo chữ Hán, đã sáng tác, nhưng dần dần cách viết đó được

quần chủng hóa và do quần chúng, bổ sung, phát triển cho tiện việc sử dụng

theo yêu cầu của mình.

Nhưng, ai sáng tác chữ Nôm và chữ Nôm có từ bao giờ? Lâu nay, có

nhiều người phát biểu về vấn đề này nhưng chung qui cũng chỉ đưa ra những

ức thuyết. Nhà nho Nguyễn Văn San đời Tự Đức cho rằng chữ Nôm có từ đời

Sĩ Nhiếp vì sử có chép rằng: “Sĩ vương bắt đầu lấy tiếng Trung quốc dịch ra

tiếng ta đến chữ “thư cưa” không biết gọi là chim gì, đến chữ “dương đào”

không biết gọi là quả gì”. Lê Dư sau này cũng nhắc lại ý đó và có nhấn mạnh

là Sĩ Nhiếp người Thương Ngô (dân tộc Choang ở Trung quốc), nói cũng có

Page 43: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

lối chữ mượn chữ Hán, phiên âm tiếng địa phương. Nhưng nếu như chữ nôm

được dùng từ đời Sĩ Nhiẽp, thì cũng chưa có chứng cớ gì xác đáng để đoán

định rằng chính Sĩ Nhiếp sáng tác ra chữ nôm. Nguyễn Sĩ Đạo trong “Đại Việt

văn học lịch sử” cho rằng chữ Nôm có từ khi Ngô Quyền đánh đuổi được

quân Nam Hán và dựng cờ tự chủ. Nhưng chữ Nôm xuất hiện không phải

đơn thuần do tinh thần quật khởi của dân tộc mà còn do nhiều nhân tố phức

tạp khác. Có người nhận thấy Nguyễn Thuyên làm thơ Nôm mà khẳng định

rằng chữ Nôm xuất hiện từ thời Trần. Thật ra khi Nguyễn Thuyên dùng nôm

lúc đó mới được đặt ra, mà tất yếu phải trải qua một thời kỳ hình thành và

biến chuyển khá lâu. Liên Giang trong Tri Tân số 40 (tháng ba 1942) bác

những giả thuyết cho rằng chữ Nôm xuất hiện từ đời Sĩ Nhiếp hay Hàn

Thuyên. Ông nhấn mạnh về nhu cầu chính trị bắt buộc phải dùng nôm trong

đơn, từ, thư khế, tấu sớ, văn phát nguyện, hay về nhu cầu tôn giáo như việc

truyền kinh, thuyết pháp. Nhận định của ông có nhiều điểm xác đáng, nhưng

cũng chưa đầy đủ.

Đương nhiên về nhu cầu sinh hoạt chính trị và xã hội, giai cấp thống trị

cần phải ghi những tên đất, tên người, hay có khi tên vật, tên đồ dùng của

nước ta vào các bản báo cáo sổ sách, tường thuật, ký sự, sử ký, thư từ công

văn v.v… sử Trung quốc đã có lần chép: “Dân An nam gọi vua là “bì liên” (bề

trên). Cái tên đất, tên người của ta thường vốn là tên Nôm như làng Chèm,

làng Sét, kẻ Trù, kẻ Mơ, cô Xoan xóm Giếng, anh Vui xóm Chùa… Không

phải chỉ bọn thống trị phong kiến mới cần ghi những tên Nôm đó, mà chính

quần chúng lao động cũng cần ghi tên họ, làng xóm của mình vào những đơn

từ, thư khế, văn cúng, văn tế, v.v… Ngoài các mặt về chính trị và tôn giáo,

chữ Nôm còn dùng vào việc giáo dục thi cử, văn học, nghệ thuật… Ngay từ

thời Trần, tương truyền đã có dụng phú Nôm trong kỳ thi Hội đời Trần Anh

Tông, hay theo An nam chí lược, thì chữ Nôm cũng được dùng để soạn các

bài hát. Sau này, chữ Nôm được dùng khá phổ biến để sáng tác văn nghệ,

hoặc để phiên dịch Kinh truyện v.v…

Page 44: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Như vậy, vì nhu cầu xã hội, chữ Nôm được sáng tác khá sớm, có thể

vào thời Bắc thuộc, sau khi chữ Hán đã tương đối phát triển. Tuy nhiên việc

sử dụng ban đầu còn ở mức độ thấp; một số chữ lẻ lẻ được dùng để ghi

những tên hiệu cần thiết; dần dần từ thời Lý, Trần về sau chữ Nôm mới đươc

khuôn định. Trần Nhân Tông đã dùng Nôm nhiều để diễn tích Phật và tuyên

truyền cho phái Trúc lâm. Như vậy, việc dùng chữ Nôm vào văn học có thể là

trước cả Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố. Từ Nguyễn Thuyên trở đi, chữ Nôm

được chính thức dùng để sáng tác thơ Đường luật, chứ không phải thơ phú

nói chung. Rõ ràng, đầu đời Trần chữ Nôm đã được dùng vào thơ văn. Có

thể, việc dùng nôm vào thơ văn có ngay từ đời Lý, nhưng tiếc rằng hiện nay

không còn bằng chứng gì. Chữ Nôm được sáng tạo do nhu cầu chính trị, xã

hội, văn hóa nói chung chứ không riêng, của một giai cấp nào, vì mọi giai cấp

đều tìm thấy ở đấy một tiện lợi của mình trong sinh hoạt hằng ngày.

Tóm lại chữ Nôm được hình thành và phát triển trong quá trình tiến

triển lịch sử và quá trình tiến triển nền văn hóa dân tộc, thông qua nhiều cuộc

chiến tranh ái quốc và đấu tranh giai cấp. Sự xuất hiện chữ Nôm được quần

chúng ủng hộ đã chứng minh tinh thần quật cường dân tộc, trong đó có tinh

thần đấu tranh cho một nền văn hóa dân tộc, cho sự độc lập ngôn ngữ văn tự

dân tộc. Sự áp dụng chữ Nôm vào văn nghệ đồng thời cũng chứng minh sự

thắng lợi của tiếng nói “bình dân” mang “tâm tư quần chúng lao động” đối với

tiếng nói “bác học” mang “tâm tư quý tộc”. Lịch sử cho hay rằng mỗi lần vươn

lên đấu tranh chống ngoại xâm, nhân dân ta không những đã lớn mạnh về

quân sự và xã hội, mà còn lớn mạnh cả về văn hóa. Những giai đoạn mà

nhân dân ta chống quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh kịch liệt chinh cũng

là những giai đoạn mà chữ Nôm được đẩy lên một mức cao hơn, cho đến khi

được chữ quốc ngữ thay thế. Đành rằng, chữ Nôm còn nhiều nhược điểm

của nó, như cách viết không thống nhất, cách đọc không thống nhất, cách

phiên âm không hoàn chỉnh cần phải đến cái “nháy nháy” ở một số từ, nhưng

nó ra đời là đã đẩy mạnh nền văn nghệ dân tộc tiến lên một bước quan trọng.

Bản chữ nôm cũ còn lại hiện nay, như tấm bia đề năm 1343 trên Hồ Thành

Sơn ở Ninh bình; ở bia đó có khắc hai mươi tên làng bằng Nôm. Hăng-ri Mát-

Page 45: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

pê-rô (Henri Maspero), một học giả Pháp, nghiên cứu những chữ Nôm đó,

cho rằng chữ Nôm thời Trần so với chữ nôm đầu thế kỷ 20 không khác nhau

nhiều lắm.

Vấn đề văn nôm:

Như trên chúng ta đã nói, chữ Nôm ra đời là do nhu cầu xã hội bức

thiết. Năm 1288, Trần Nhân Tông có dụ rằng khi tuyên đọc bài chiếu, Hành

khiển ty phải giảng cả âm nghĩa khiến cho thứ dân cũng hiểu. Ở một mức độ

nào đó, chữ Nôm có thể được dùng vào công văn, rất tiếc là tài liệu đời Lý,

Trần, Hồ không còn gì để lại; ta chỉ biết sau đó Trịnh Kiểm dùng Nôm viết thư,

viết công văn cho gia tướng, Nguyễn Huệ dùng Nôm viết thư, ban chiếu chỉ,

Nguyễn Quang Toản dùng Nôm thảo sắc dụ Gia Long khi mới lên ngôi cũng

tiếp tục công việc triều Tây Sơn, dùng Nôm vào công văn thư từ, kể cả những

thư từ giao thiệp với ngoại quốc. Những đơn kiện thư từ đời Gia Long trong

nhân dân cũng viểt bằng nôm. Về ca nhạc, chữ nôm cũng được áp dụng để

soạn bài hát, không hiểu những khúc hát đời Lý như Tây thiên khúc, Chiêm

thành âm sọan bằng tiếng gì, lời Chiêm nhạc Chiêm, hay lời Việt nhạc Chiêm;

riêng ở đời Trần, chắc đã có những bài ca tiếng Việt; cho đến đời Lê, thì bài

ca tiếng Việt được phát triển hơn. Ở cung đình, các nho sĩ như Lê Quý Đôn,

Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Huy Quýnh, Nguyễn Hoàn v.v… đã phụ trách soạn

bài hát bằng tiếng Việt.

Về thơ văn, theo Toàn thư, nước ta bắt đầu “dùng nhiều thơ phú bằng

quốc âm” từ Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố về sau (nguyên văn về Nguyễn

Thuyên: “ngã quốc phú thi, đa đụng quốc ngữ, thực sự thử thỉ”). Chúng ta chú

ý chữ “dùng nhiều”, vì trước Nguyễn Thuyên, chắc đã có thơ phú quốc âm,

nhưng chưa rõ thể loại gì. Cũng theo Toàn thư, năm 1282 đời Trần Nhân

Tông, nhân có cá sấu đến sông Lô, vua sai Nguyễn Thuyên làm văn thả

xuống sông và cá sấu bỏ đi; vua thấy giống với việc Hàn Dũ làm thời xưa bèn

ban cho Thuyên họ Hàn. Sự thật, bài văn đó không chắc viết bằng nôm

(nguyên văn: “vi văn đầu chi giang trung”). Thơ văn nôm đời Trần hiện nay

thất truyền hầu hết, chỉ còn bài phú Cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông với

Page 46: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

những câu rất cổ kính. Bài này gồm 10 hội với chủ đề ca tụng cảnh tu hành

đạo Phật ở nơi núi non:

“Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý;

Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mộ chủ tri âm…

… Núi hoang rừng quạnh ấy là nơi dật sĩ tiêu dao.

Chiều vắng am thanh, chính thực cảnh đạo nhân du hi…”. Về thơ chỉ

còn bốn câu của nàng Điểm Bích làm để thử tính phóng khoáng của sư

Huyền Quang Lý Đạo Tài:

Vằng vặc trăng mai ánh nước

Hiu hiu gió trúc ngân sênh

Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ

Mâu Thích ca nào thuở hữu tình.

Đây là một thơ thất ngôn chen lục ngôn mà sau này chúng ta sẽ gặp ở

thế kỷ 15 và 16. Ngoài ra khá nhiều thơ Nôm của Trần Nhân Tông, của

Nguyễn Thuyên (trong Phi sa tập), của Nguyễn Sĩ Cố, của Chu An (trong

Quốc ngữ thi tập) của Trần Ngạc, của Hồ Quý Ly… đều mất hết cả. Những

bài phú Nôm thi Hội đời Trần Anh Tông cũng không còn nữa. Đặc biệt đời Hồ,

việc dùng Nôm được chú trọng hơn. Trần Ngạc làm thơ Nôm theo thể yết hậu

để chê Trần Nguyên Đán mưu thông gia với họ Hồ. Quý Ly lúc được thượng

hoàng Nghệ Tông ban cho gươm và cờ cũng làm thơ Nôm tạ ơn. Theo

Dương Bá Cung trong Ức Trai di tập, thì Nguyễn Trãi đã thu thập được 20 bài

văn quốc âm của Hồ Quý Ly dâng lên Lê Thái Tông. Quý Ly còn dùng Nôm

để dịch Kinh Thi và thiên Vô dật trong Kinh Thư.

Ở đời Trần quả đã khởi phát một phong trào văn học viết bằng Nôm,

phong trào đó đánh dấu một bưóc trưởng thành một cái mốc trong toàn bộ

văn học dân tộc Việt nam.

B. TÌNH HÌNH VĂN HỌC ĐỜI TRẦN, HỒ

Page 47: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Văn học đời Trần, Hồ phong phú đủ các loại như văn chính trị, văn

khảo cứu, văn sáng tác. Văn chính trị như các bài Hịch tướng sĩ văn của Trần

Quốc Tuấn, Thất trảm sớ của Chu An, sớ của Lê Tích, của Trương Đỗ, Vạn

ngôn thư của Lê Cảnh Tuân. Văn khảo cứu về binh học như Vạn kiếp Tông bí

truyền thư của Trần Quốc Tuấn, về nho học như Tứ thư thuyết ước của Chu

An, Minh đạo của Hồ Quý Ly, về Phật học như Khóa hư lục và Thiền Tông chỉ

nam của Trần Thái Tông, Tăng già toái sự của Trần Nhân Tông. Đoạn sách

lục của Pháp Loa v.v… về thần tích và truyện cổ như Việt điện u linh, Lĩnh

nam chích quái. Văn sáng tác lúc này cũng đủ các khía cạnh chiến đấu, nhàn

tản phiêu diêu hay cảm thán thời thế. Ngoài một số bài biểu, bài minh, bài ký,

thơ đời Trần, Hồ hiện còn chép trong quyển Việt âm thi tập của Phan Phu

Tiên (một tuyển tập tương đối xưa nhất). Về phú, hiện nay còn mười ba bài

chép trong Quần hiền phú tập của Hoàng Sằn Phu, mà Lê Quý Đôn có nhắc

lại trong Kiến văn tiểu lục. Những bài phú nổi tiếng như những bài Ngọc tỉnh

liên phú của Mạc Đĩnh Chi, Bạch đằng giang phú cửa Trương Hán Siêu, Trảm

xà kiếm phú của Sử Hi Nhân, Thiên hưng trấn phú của Nguyễn Bá Thông,

Diệp mã nhi phú của Nguyễn Phi Khanh. Đặc biệt quyển “Thiền uyển tập anh

ngữ lục” là một quyển có giá trị. Dụng ý của tác giả là chép thế hệ các tăng ni

dòng Thiền. Nhưng chính nhờ đó, mà chúng ta biết được một phần tình hình

thơ ca đời Lý. Cuối đời Trần, giặc Minh, nhân sang đô hộ nước ta đã hủy hoại

một số sách của ta, thí dụ như những quyển Phi sa tập của Nguyễn Thuyên,

Tử thư thuyết ước của Chu An, Minh đạo của Hồ Quý Ly v.v… Một số tác

phẩm đời Trần, Hồ đã phản ánh tinh thần yêu nước và tinh thần quật khởi của

dân tộc ta, và chính vì vậy mà có tính tư tưởng cao trong nền văn học viết của

ta lúc bấy giờ, chứ không phải “kém hơn văn đời Lý” như ông Nguyễn Hữu

Tiến đã nhận định.

1. Những tiến triển về tư tưởng và học thuật trong văn học đời Trần: mở đầu loại văn bút chiến và phê bình.

Tư tưởng và học thuật đời Trần, Hồ có điểm độc đáo. Về mặt binh thư

binh pháp, Trần Quốc Tuấn không theo sách cũ mà căn cứ vào tình hình thực

Page 48: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

tế để soạn ra sách mới dạy binh sĩ. Hai cuốn Vạn kiếp Tông bí truyền thư do

Trần Khánh Dư đề tựa và Binh gia diệu lý yếu lược thư tự ông đề tựa đều thất

truyền. Bài Hịch tướng sĩ văn nổi tiếng soạn sau Binh gia diệu lý yếu lược

thư.

Về mặt nho học, “Tứ thư thuyết ước” và “Minh đạo” tuy đã mất, nhưng

chúng ta cũng biết được tinh thần những sách đó qua lời bình luận của sử

sách thời bấy giờ. Chu An (tên thụy là Văn Trinh), vốn là một nhà nho có khi

tiết, thấy triều đình Dụ Tông (1341 – 1368) thối nát, dâng sớ xin chém bảy

nịnh thần; vua không nghe, ông từ quan về quê nhà. Trái với Trần ích Tắc dạy

học trò chỉ chú trọng nhiều đến hư văn, Chu An lại rèn luyện học trò về mặt

thực tiễn. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Phạm Sư Mạnh, Lê

Bá Quát. Ông Nguyễn Trọng Thuật trong bài “Điều đình cái án quốc học”

khẳng định rằng Chu An có chủ nghĩa thực hành chứ không nói suông như

Tống nho, vì xem học trò ông lấy “minh đạo hóa dân” làm chủ nghĩa, lấy “xấu

hổ không bằng người” làm tinh thần. Xem vậy chúng ta cũng đoán được rằng

nội dung “Tứ thư thuyết ước” có chỗ chống đối với học thuyết suông của nhà

nho. Tác giả Toàn thư khi phê bình Chu An cũng đã khen: “Sau muôn năm

nghe cái phong của tiên sinh, người ngoan ngạnh cũng hóa ra liêm, kẻ ươn

bèn cũng tự lập được”.

Đặc biệt, Hồ Quý Lý lại có tư tưởng chống học thuyết suông của nhà

nho cao hơn. Năm 1392, ông dâng lên Trần Nghệ Tông quyền Minh đạo gồm

14 thiên. Trong quyển này, ông khen Chu công hơn Khổng tử và bắt đầu phê

phán đạo đức Khổng tử, nghi ngờ sách Luận ngữ, như chỗ Khổng tử yết kiến

nàng Nam tử ở nước Vệ, vốn là người dâm có tiếng, hay chỗ Khổng tử bị

tuyệt lương ở nước Trần mà trở về vô sự v.v… Ông lên án bọn Đường nho

như Hàn Dũ, Tống nho như Trình Di, Trinh Hạo là “nhà nho ăn cắp văn”, tức

là chỉ biết lặp lại những điều trong sách vở nhà nho một cách mù quáng hay

chỉ biết trau dồi hư văn, mà không chú trọng thực tế. Đến năm 1396, khi dịch

xong Kinh Thi để dạy hậu phi và nữ quan, ông đã tước bỏ bài tựa của Chu Hy

mà thay bài tựa riêng của mình. Khi Minh đạo ra đời, giáo sư Trạng nguyên

Page 49: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Quốc tử giám là Đoàn Xuân Lôi lập tức viết một bài bút chiến bác hết cả

những lời bình luận của Hồ Quý Ly. Một cuộc tranh luận giữa phái cũ và phái

mới chớm nở. Phái Boàn Xuân Lôi, Đào Sư Tích… cuối cùng bị Quý Ly đầy đi

nơi khác vì có thái độ phản ứng.

Phản học thời Trần ở nước ta cũng có tư tưởng độc đáo, không rập

khuôn theo phong kiến phương Bắc: Trần Thái Tông, trong “Khóa hư lục”,

bình luận về Thiền Tông đã có ý kiến riêng của mình. Sách này hiện còn

truyền, gồm có hai phần, phần thứ nhất có hai mươi bài bàn về lý thuyết nhà

Phật, phần thứ hai gồm sáu bài bàn lễ sám hối qua sáu giờ qui định trong một

ngày một đêm. Khóa hư lục viết bằng thể biền ngẫu có pha vận văn, trong đó

có hai luận văn quan trọng là bài Kệ bốn núi và bài Phổ khuyến sắc thân.

Trước hết, tác giả bàn về những điểm tương quan giữa Nho và Phật; ông bác

bỏ lời của Lục tổ (sư Trung quốc) cho rằng Khổng tử với Thích ca không khác

gì nhau. Theo ông, Khổng chủ trì hiện thế, Phật chủ trì xuất thế, như vậy căn

bản có khác nhau, nhưng vẫn hỗ trợ cho nhau như đạo Phật nhờ có nho sĩ

mới truyền được ở đời. Do đó hai đạo vẫn điều hòa mà có phân biệt. Đối với

tinh thần đạo Thiền, tác giả nhấn mạnh cái tâm, phân tích lẽ sinh hóa của

cuộc đời, về bốn giai đoạn cuộc đời (sinh, lão, bệnh, tử,) như bốn quả núi với

sinh tướng, lão tướng, bệnh tướng, tử tướng. Tác giả cho rằng trong cái

không vẫn có cái có, trong cái vô thường, vẫn có cái thường nhiên, sinh lão

bệnh tử là lẽ thống khổ chung, người thường không thoát khỏi được. Mục

đích tác giả là kêu gọi mọi người đi vào đường chính, giữ cho cái tâm được

thanh thoát và tác giả đề nghị những cách thức cụ thể về lễ sám hối cầu

nguyện. Cái mới trong Khóa hư lục là ý nghĩa thực tiễn của các nhà sư. Quả

vậy, các thiền sư không quá bo bo với cái đạo của mình mà không ra sức làm

việc thiện và hoạt động ở đời. Điều đó chứng tỏ rằng trước sự bành chướng

của Nho giáo với tính chất thực tiễn của nó, Phật giáo (phái Thiền Tông) đã

thay đổi phần nào về nội dung cho thích hợp. Tác giả đã khẳng định: nếu

muốn thoát tục rồi, vất bỏ sự sinh hoạt hàng ngày để mong cầu đạo Phật là

sai lầm.

Page 50: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Ngoài nội dung tư tưởng tôn giáo, Khóa hư lục còn có một giá trị văn

học. Văn Khóa hư lục khá hấp dẫn. Ở đây tác giả rất chú ý diễn đạt bằng hình

tượng:

– Hạc oán nghẹn ngào bên trướng huệ

Vượn kêu rầu rĩ trước hàng thông

(Oản hạc thôn thanh ư huệ trướng,

Ai viên trường khiếu ư tùng quân)

– Trăng lên chẳng biết dậy xem

Còn đương quấn quýt đắm chìm bên hoa

Dặm nghìn xa lạc quê nhà,

Còn tham một giấc ngủ thừa cho say.

(Bất năng khan nguyệt khởi

Duy ái luyến hoa cư,

Nê thất gia thiên lý

Do tham thụy nhất dư).

Thuyết minh về giáo lý, tác giả vẫn dùng bút pháp của nhà thơ. Chúng

ta hãy đọc vài đoạn về sinh tướng và lão tướng:

Mùa xuân với sinh tướng:

“Vận ba dương” đương độ hanh thông, cảnh muôn vật chung màu tươi

tốt. Một trời sáng sủa, khắp mọi làng hoa thắm liễu xanh; muôn dặm phong

quang, thảy các xứ oanh kêu bướm múa…

Mùa hè với lão tướng:

Tiết trời nực đá bền cũng chảy muôn vật đều khô, ánh nắng hun vàng

rắn phải tan, trăm sông sắp cạn. Hoa tàn liễu úa, trong vườn bờ suối ở khôn

lâu, bướm rạt ong gày, dưới lá đầu cành già sắp tới…”

Page 51: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Đạo Phật đời Trần tuy chưa suy hẳn, nhưng đã bắt đầu bị nho sĩ bài

xích, sử gia Lê Văn Hưu phê bình việc lập chùa của Lý Thái Tổ. Về việc Lý

Thần Tông tạ Phật sau khi thắng Chân lạp năm 1128, ông chỉ trích gắt gao:

“Ôi trù mưu trong màn trướng, quyết thắng ở ngoài nghìn dặm đều là công

của tướng giỏi nơi chiến trường… Nay lại quy công cho đạo Phật mà đến

chùa bái tạ, không có gì để úy lạo kẻ có công, cổ động tinh thần quân lính”.

Lê Quát (hoặc Lê Bá Quát), cũng đã lên tiếng bài Phật trong bài văn bia

chùa Thiên phúc ở Bái thôn, Hà bắc. Những người phê bình kịch liệt và sâu

sắc hơn cả là Trương Hán Siêu. Trong bài văn Bia chùa Khai Nghiêm, ông

viết: “… Một bọn giảo hoạt gian ngoan, mất hết cả bản y khổ hạnh không hư,

chỉ ham chiếm đoạt được vườn xinh cảnh đẹp, để nhà cửa lộng lẫy như vàng

ngọc, tay chân đông đúc như rồng voi. Lũ giàu có lưu tục đời nay lại đi theo

hưởng ứng cho nên phàm tất cả danh thổ khắp nơi thì một nửa đã là chùa

chiền, lũ lượt đi ở chùa, không cày mà có ăn, không dệt mà có mặc… “Ông

đả kích nhà chùa khá mạnh trong bài Tháp linh tế ở núi Dục thúy: “Đức Thích

ca lấy tam không để chứng đạo chân tu, khi tịch rồi, đến thời sau này, người

ta sùng phụng đạo Phật, mê hoặc chúng sinh. Năm phần đất thiên hạ, chùa

chiền chiếm mất một phần; bỏ cả luân thường, hao phí tiền của; bọn sư sãi

dông dài, người khờ dại tin theo. Như thế không biến thành yêu quỷ gian tà

cũng thật là chuyện hiếm có! Những việc làm như vậy, không thể được,

không thể được!”.

Qua vài nét về loại văn phê bình này, chúng ta thấy rõ những điểm độc

đáo trong học thuật nói chung, đồng thời cũng thấy rõ Nho giáo được suy tôn

dần trước sự lui bước của Phật giáo và Đạo giáo.

2. Lối văn sử truyện đời Trần, Hồ đã có yếu tố sáng tạo

Lối chép sử đời này dần dần không phụ thuộc nhiều vào lối biên niên

khô khan của Ngọc điệp, Hình thư đời Lý, mà trở nên có tính chất tự sự và

miêu tả. Tác giả đã chú ý trình bày sự kiện qua hình tượng văn học, như

nhiều đoạn trong Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, hay kể cả trong Đại Việt sử

lược (khuyết danh). Các sử gia nêu cao tinh thần tự tôn dân tộc và có khi nêu

Page 52: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

cao cả tinh thần phê phán bọn vua-chúa độc đoán, dâm dật, thí dụ đoạn nói

về vua Thần Tông của Lê Văn Hưu: “Trời sinh ra dân mà đặt cho họ một ông

vua để chăn dắt, chẳng phải để sung sướng một mình. Lòng cha mẹ ai lại

không muốn cho con cái có thẵt gia. Bậc thánh nhân cũng thể theo lòng ấy,

chỉ sự kẻ thất phu thất phụ không được yên chốn ở. Cho nên Kinh Thi có

chép các bài “Đào yêu”, bài “Phiếu hữu mai” khen sự lấy nhau phải thời và

chê cảnh muộn vợ muộn chồng. Vua Thần Tông xuống chiếu bắt con gái các

quan để cho vua chọn xong rồi mới gả chồng, đó là mình tự dâng riêng cái

sung sướng cho mình, chẳng phải bụng kẻ làm cha mẹ dân nữa”.

Đặc biệt, lối chép sử của Hồ Nguyên Trừng trong “Nam Ông mộng lục”

là một lối bút ký khá sinh động, thường dùng nhiều thể văn đối thoại, thí dụ

đoạn nói về ông ngoại tác giả là Phạm Bân đi chữa thuốc: “… Một hôm, có

người gọi cửa mời gấp, nói rẳng nhà có đàn bà thốt nhiên bệnh kịch liệt,

huyết bằng như rót, sắc mặt tái xanh. Ông nghe, vội ra đi, đến cửa vừa gặp

người của vua sai đến nói rằng trong cung có bà quý nhân phát chứng sốt rét,

mời ông vào xem bệnh. Ông bảo: “Bệnh ấy không gấp. Nay có người mà tính

mệnh chỉ nguy trong chốc lát, ta phải đi cứu họ một chốc rồi sẽ vào chầu”.

Giống như sử, loại văn truyện dần dần được viết có sáng tạo hơn. Văn

của “Việt điện u linh” nói chung khô khan, phần lớn chép lại các thần tích,

thỉnh thoảng mới được vài đoạn bớt khô khan, như đoạn tả Bố Cái đại vương

hiển thánh: “… Bố Cái đại vương, sau khi mất, rất hiển linh. Dân các làng

thường nghe có tiếng xe ngựa đi ầm ầm trên các nóc nhà hoặc trên các cây

cổ thụ, trông lên thường thấy trong đám mây năm sắc có cờ, kiệu rực rỡ, lại

có tiếng đàn sáo văng vẳng trên không…”. Cũng chép về thần thoại và truyền

thuyết nhưng tác giả Lĩnh nam chích quái ít thiên về thần tích và mê tin dị

đoan như tác giả Việt điện u linh, mà đã chú ý đến lối tả cảnh tả tình, thí dụ

một đoạn trong truyện họ Hồng bàng: “Đế Lai bèn để ái nữ là Âu Cơ và các

thị tì ở lại nơi hành tại rồi đi chu du thiên hạ, ngắm các noi danh lam thắng

cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, ngọc ngà vàng bạc… các thứ đá

quý, các cây tràm, đàn, cùng các sơn hào hải vật không thiếu thứ gì, khí hậu

Page 53: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

bốn mùa không lạnh không nóng. Đế Lai rất ái mộ, vui quên trở về. Dân

phương Nam khổ vì bị người phương Bắc quấy nhiễu, không được yên sống

như xưa mới gọi Long Quân rằng: “Bố ơi, bố ở đâu mà để cho dân phương

Bắc quấy nhiễu dân thế này”. Long Quân đột nhiên trở về, thấy Âu Cơ có

dung mạo đẹp để kỳ lạ, trong lòng vui mừng, bèn hóa thành một trang thiếu

niên phong tư tú lệ, tả hữu kẻ hầu người hạ đông đúc vừa đi vừa ca hát đánh

trống. Cung điện tự nhiên dựng lên. Âu Cơ vui lòng theo Long Quân”… Lối tả

cảnh trong Lĩnh nam chích quái nhiều chỗ sinh động như vậy.

Cách kết cấu truyện Hà Ô Lôi chẳng hạn là một cách kết cấu khá hoàn

chỉnh, khá lôi cuốn được người đọc. “Lĩnh nam chích quái”, trừ những chỗ

vướng mắc tư tưởng duy tâm thần bí, đã mở đầu cho một lối viết truyện có

sáng tạo, mà sau này các tác giả “Thánh Tông di thảo” và “Truyền kỳ mạn lục”

sẽ kế tục và phát triển lên một mức cao hơn.

3. Các xu hướng tư tưởng và tình cảm qua các tác phẩm của nhân sĩ đời Trần, Hồ.

Thơ văn đời Trần, Hồ, so với đời Lý có tính chất đa diện hơn. Thời này,

có nhiều biến cố trong triều đình cũng như ở xã hội, cho nên tâm lý phức tạp

hơn; đương nhiên thơ văn bác học cũng chỉ phản ánh được tâm lý hàng ngũ

quý tộc là chủ yếu. Nhưng thấp thoáng đã thấy có bóng nhà dân, có bông lúa

vàng ở phía ngoài bệ ngọc; người ta đã nói đến mồ mả, đến chăn gối vợ

chồng những tướng sĩ bình thường khi đề cập đến trang ấp, đến cung điện

của quý tộc. Tùy theo hoàn cảnh lịch sử, tùy theo địa vị từng người, giai cấp

quý tộc phong kiến có khi cùng nhân dân vùng lên kháng chiến dũng cảm,

nhưng có khi cảm thấy bất lực, gục đầu xuống viết những dòng thơ cảm thán

thời thế.

Hình thức thơ văn thời này đã phong phú hơn. Đã xuất hiện các loại

thơ khác nhau: thơ vịnh sử Trung quốc như thơ của Trần Anh Tông, thơ sứ

trình như thơ của Nguyễn Trung Ngạn, thơ trào phúng như thơ của Nguyên

Sĩ Cố, thơ hùng tráng như thơ của Trần Quang Khải v.v… ở đây, chúng ta

không kể đến thơ của bọn việt gian như thơ của Trần Ích Tắc.

Page 54: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Hình thức và kỹ thuật thơ cũng thay đổi, lối thơ cổ thể ít hơn so với thơ

Đường; phú thì có phú lưu thủy, hoặc lưu thủy pha Sở từ và phú Đường luật.

Lối đối thoại trong phú kiểu như bài Tiền Xích bích của Tô Đông Pha, cũng

được chú trọng, thí dụ như bài Bạch đằng giang phú của Trương Hán Siêu,

bài Bàn khê điễu hoàng phú của Trần Công Cẩn. Ngoài ra, những thể chiếu,

biểu, hịch, minh ký, có từ đời Lý, nay vẫn được áp dụng.

Về nội dung, một điểm nổi bật trong thơ văn đời Trần, Hồ là cảnh trí

thiên nhiên muôn hình vạn trạng: có thể nói thiên nhiên hiện hình dưới ngòi

bút của hầu hết các thi sĩ. Thi sĩ yêu thiên nhiên, mô tả thiên nhiên, và có khi

cũng ký thác ở dó một ít tâm sự của mình hoặc vui, hoặc buồn tùy lúc, tùy

nơi. Đầu đời Trần, đạo Phật vẫn còn thịnh, nhưng đã biến chất cho hợp với

thời đại. Các vua Trần khi về già hoặc khi bất mãn việc gì đó, thường khoác

áo cà sa. Phải chăng đi tu là một vấn đề thời thượng? Cái đó, không chắc.

Nhưng chắc chắn đi tu đối với vua chúa là một cái thú, cái thú có dịp xa lánh

nơi phồn hoa để thưởng thức thiên nhiên, để sáng tác thơ ca… Quả vậy, các

vua chúa đời Trần thường là thi nhân hơn là thiền sư. Cảnh chùa Yên tử,

cảnh chùa Quỳnh lâm nơi cac vua Trần tu đều là những danh lam thắng cảnh

trong các trang ấp riêng của họ ở hạt Đông triều, Hải dương, Thái Tông,

Thánh Tông ca tụng cảnh “thú vị suốt ngày” đó, cảnh:

Sớm chơi núi mây nổi.

Tối ngả bến trăng thanh

Thình lình thấy cảnh thú

Ngòi bút hiện muôn hình”

“Triêu du phù vân kiểu,

Mộ túc minh nguyệt loan

Hốt nhiên đắc giai thú

Vạn tượng sinh hào đoan”

(Hạnh An bang phủ – Thánh Tông)

Page 55: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Một chiếc lá đỏ thưa, một con cò liệng, một tiếng “chuông vẳng trong

mây trời, một tiếng sáo thuyền câu ngoài bến sông, một cảnh vườn hồng

chen tía… tất cả đều là nguồn thi hứng của các “vua thi sĩ”. Thánh Tông say

trăng, Quang Khải cảm xuân, Minh Tông buồn đêm mưa. Và Nhân Tông say

cảnh trời thanh bình của một mùa xuân, rồi nói lên một tình thơ lai láng:

“Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân sự

Tựa bức lan can chỉ ngắm trời”

(Khách lai bất vấn nhân gian sự,

Chỉ bạng lan can khán thúy vi)

Nhà sư Huyền Quang say đắm cảnh trí thiên nhiên mà làm ra những

vần thơ phảng phất hơi thơ Đường:

“Cưỡi thuyền lướt gió sóng mênh mông

Non nước trời thu một sắc trong,

Tiếng sáo thuyền câu ngoài bến sậy,

Trăng rơi đáy nước móc đầy sông”

(Thủy đỉnh thừa phong phiếm điểu mang

Sơn thanh thủy lục hựu thu quang,

Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,

Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương

(Phiếm Châu)

Huyền Quang mơ mộng quá đến nỗi có lời dị nghị về ông và Lê Quý

Đôn cũng nhận định lời thơ ông: “Tựa hồ chẳng phải lời nói của nhà tu hành”.

Dù buồn vui có lúc khác, nhà thơ nào khi ca tụng cảnh trí thiên nhiên cũng nói

lên được cảnh tươi đẹp của đất nước, Nguyễn Bá Thông, cuối đời Trần làm

bài Thiên hưng trấn phú; ca tụng miền núi vùng Phú thọ hiện nay, nơi mà sau

này nhà văn Nguyễn Hãng đến ẩn cư. Đương nhiên, Bá Thông dụng ý tả nơi

lánh nạn của Trần Nghệ Tông, nhưng cũng nói lên được những cảnh: “…núi

Page 56: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

non cao vút, xanh thẳm vây quanh, suối nước mônh mông, bạc phau chảy

tới…” những cảnh: “… lúa bắp bát ngát chừ liền đội, dâu gai mơn mởn chừ

từng hàng. Lông ngà da thú, ngập tràn chừ nơi làn giới, vàng bạc châu báu

đầy rẫy chừ chốn biên cương…”; rồi tác giả nhận định về sự giàu đẹp của

trấn Thiên hưng:

Thật là:

“Tiền của triều đình, phủ ngoài có sẵn

Kho trời vô tận, báu vật tiềm tàng…”

Tả cảnh đất nước giàu đẹp với những lời thơ trong sáng, yêu đời, phải

nói đến Nguyễn Trung Ngạn vời “Giới hiên thi tập” và Phạm Sư Mạnh với

“Hiệp thạch lập”. Trung Ngạn mô tả nhiều cảnh đẹp trong nước như cảnh

chiều hôm gợn sóng ở cửa Thần đầu, cảnh rừng tỏa sương mờ ở biên thành

và trên đường đi sứ, ông tả những cảnh lầu Nhạc dương, hồ Động đình, chợ

Vĩnh bình, nhưng tả cảnh đẹp nước ngoài mà lòng vẫn hướng về Tổ quốc,

vẫn nghĩ đến con cua béo lúc lúa mùa đang trổ; nghĩ đến vợ nuôi tằm, đến

người lính già nơi quan ải… Sư Mạnh cũng tả nhiều cảnh đẹp đất nước như

cảnh đường đi Lạng sơn, cảnh lên Bão phúc, cảnh động Chi lăng, cảnh

Thạch môn sơn. “Động Chi lăng hiểm hóc như đường lên trời. Thúc ngựa

lướt gió lên cao quay lại, trông về kinh đô, chỉ thấy bóng mây nghi ngút

phương tây”

(Chi lăng quan hiểm dữ thiên tề

Lâm phong bạt mã cao hồi thủ

Cấm khuyết thiều nghiêu vân khí tê)

Cảnh Thạch môn sơn là một cảnh hùng tráng dưới ngòi bút của Sư

Mạnh. “Nhân việc quan trèo lên núi nhà, ngẩng đầu nhìn ra xa muôn dặm,

ông thấy nào hòn Đông nhạc, nào núi Tượng đầu, nào hòn An phu, nào sông

Bạch đằng, ông liền tưởng đến cảnh nhà Trần đánh quân Nguyên… Tình cảm

Sư Mạnh đối với cảnh đẹp đất nước thật là chứa chan. Đặc biệt, có thi sĩ như

Bùi Tông Quán, khi ngắm cảnh bên sông, đã chú ý đến sinh hoạt của nhân

Page 57: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

dân, chú ý đến “khóm nhà dân khói nhạt nồng bên rặng trúc” (Trúc ngoại nhân

gia cách đạm yên)

Ca tụng thiên nhiên, các thi sĩ bay giờ thường ca tụng nhàn tản, cái

nhàn tản của nhà nho “đại ẩn”, tuy rằng ở mỗi người mỗi lúc tâm sự có khác

nhau. Có người vì bất mãn với triều đại làm bài phú để phơi bày lòng son sắt

của mình như Mạc Đĩnh Chi trong bài “Ngọc tỉnh liên phú”; có người như Chu

An, Phạm Mại tỏ rõ thái độ một cách khẳng khái hơn. Tấm lòng của Chu An là

tấm lòng sáng như “cảnh sen không nhiễm tục”, như “giếng cổ không nảy

sóng”. Trong bài phú Thiên thu giám, Phạm Mại đã bộc bạch “lời như gương

sáng”, “lòng như máu đỏ”, mục đích mong làm cho “người ngay lòng vui, chí

thỏa” và “bọn gian lông dựng, mặt tan”. Nhưng sự đời đầu có giản đơn, hai sĩ

phu có khí tiết là Tiểu ẩn và Kinh khê đó, buộc phải rút lui cuộc thế, tìm đến

thú nhàn tản, để giữ được giả sạch tiết trong. Trần Thái Tông xa lánh nơi

cung đình vì có riêng một tâm sự. Trần Quốc Tảng cũng có một tâm sự, khi

làm bài “Phóng Cuồng ca” với những câu chán ngán cuộc đời phảng phất tư

tưởng Lão Trang:

“Chà chà! giàu sang chừ, đám mây nổi,

Than ôi! ngày tháng chừ, ngựa qua song

Làm gì chừ, hoạn đồ hiểm trở,

Biết sao chừ, thói đời viêm lương…”

“… Đốt đốt phù văn hề phú quý,

Hu hu, quá khích hề niên quang

Hồ vi hề, hoạn đồ hiểm trở,

Phả nại hề, thế thái viêm lương…”

Cũng như Chu An và Phạm Mại, Trần Quốc Tảng vốn là một người

hoạt động, hai lần có công lớn trong việc chống Nguyên, nhưng vì có tư

tưởng phóng khoáng, nên bất mãn với triều đình. Con ông là Trần Quang

Triều, chịu ảnh hưởng của ông, nên thích sống nhàn tản chống lại thói đời

Page 58: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

cầu cạnh địa vị. Quang Triều cùng với một số bạn bè như Nguyễn Sưởng,

Nguyễn Ức… lập ra nhóm thi sĩ am Bích động ở vùng Quỳnh lâm (Quảng

ninh). Tư tưởng bất mẫn với thời cuộc của Trần Quốc Tảng cũng như của

nhóm thi sĩ am Bích động thể hiện mâu thuẫn nội tại của chế độ phong kiến

đời Trần sau cuộc chống Nguyên thắng lợi. Đó chính là “tâm sự ngỗn ngang”

của Trần Quang Triều trong bài “Châu trung độc chước”; đó chinh là cái nhìn

mỉa mai đối với “hai chữ công danh khéo đổi đời” của Nguyễn Sưởng trong

bài “Châu trung tức sự”. So với loại thơ văn này, loại thơ văn nổi bật nhất vẫn

là loại thơ văn yêu nước, phản ánh ý chí tự cường chống ngoại xâm của nhân

dân ta. Nếu đầu đời Trần nước ta mấy lần bị quân phong kiến Mông cổ xâm

lăng thì cuối đời Trần, nước ta lại bị giặc Minh đô hộ.

Quân Nguyên nổi tiếng là hung ác, đi đến đâu tàn phá đến đó, đúng

như lời Trần Nhân Tông đã tố cáo trong bức thư gửi vua Nguyên: “… Đại

quân thủy bộ tiến sang, đốt cháy chùa miếu trong nước, khai quật phần mộ tổ

tiên, cướp bóc dân gian, già trẻ phá phách sản nghiệp trăm họ, mọi tàn ác

không việc nào không làm”. Nhưng giặc dù tàn ác đến đâu cũng không ngăn

được sức quật khởi của nhân dân ta, với một khí thế căm thù sôi sục, cái khí

thế “ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” như Phạm Ngũ Lão đã mô tả trong bài

Thuật hoài. Để hiểu rõ khi thế đó, chúng ta phải kể đến bài Hịch tướng sĩ của

Trần Quốc Tuấn, viết năm 1285, trong một tình thế hết sức nghiêm trọng, tình

thế mà thủ đô Thăng long đã mấy lần bị giặc chiếm đóng.

Lúc này, lập trường của người viết Hịch là lập trường của quý tộc và

đối tượng của bài Hịch truyền đi, là tướng sĩ và môn hạ của ông; do đó cách

xưng hô cố giọng “bề trên kẻ cả”, vừa thân mật, vừa mệnh lệnh. Gạt bỏ

những chỗ hạn chế đó của tác phẩm, toàn bài Hịch vẫn toát lên một tinh thần

yêu nước căm thù giặc sâu sẳc.

Trước hết, tác giả lấy những gương hy sinh trong sử sách để kích thích

lòng dũng cảm của tướng sĩ, đó là những hình ảnh Kỷ Tín, Do Vu, Dự

Nhượng, Thân Khoái. Tiếp đó, tác giả gợi lên nỗi nhục nhã, đau đớn của

cảnh nước mất nhà tan, trước sự tàn bạo của giặc.

Page 59: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

“Huống chi ta cùng các người sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp

buổi gian nan, liếc thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú

diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phu, lại thác mệnh

Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để thỏa lòng tham không cùng, lại giả hiệu Văn

nam vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem

thịt mà nuôi hổ báo sao cho khỏi gây vạ về sau?”. Tác giả phân biệt quan

niệm địch và ta khá rõ rệt. Ở phần cuối, tác giả lại nhắc thêm ý đó và nhấn

mạnh: “Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung”.

Trước tình hình Tổ quốc lâm nguy như vậy, mọi người phải làm gì? Tác

giả nêu lên quyền lợi của quý tộc, của tướng sĩ và kêu gọi đoàn kết để chiến

đấu. Đương nhiên, quyền lợi quý tộc nhà Trần lúc này phù hợp và gắn chặt

với quyền lợi của quốc gia, của tướng sĩ, của nhân dân nói chung. Tổ quốc ở

đây được cụ thể hóa bằng hình tượng thái ấp bồng lộc, hình tượng phần mộ,

hình tượng vợ con. Bảo vệ Tổ quốc, tức là bảo vệ thái ấp, đồng điền, phần

mộ tổ tiên, gia quyến mọi người. Trung với vua, tức là trước hết trung với chủ

thái ấp. Đạo “thần chủ” mà tác giả hô hào ở đây là như vậy. Tác giả nêu rõ

hai hình ảnh, một hình ảnh nhà tan nước mất nếu không biết đoàn kết đấu

tranh, một hình ảnh nước nhà độc lập, gia đình yên ấm nếu cùng nhau một

lòng chống giặc. Tác giả nhấn mạnh nếu thua giặc thì “chẳng những thái ấp

của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất, chẳng những gia quyến

của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những xã tắc tổ Tông ta

bị giày xẻo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên…”; ngược lại,

nếu thắng giặc, thì “thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc các ngươi

cũng đời đời hưởng thụ, chẳng những gia quyến của ta được yên ấm gối

chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão, chẳng những Tông

miếu của ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ Tông các ngươi cũng được thờ

cúng quanh năm…”

Hai hình ánh, hai con đường sống chết. Tác giả dùng lời lẽ đanh thép,

thấm thía khi hùng hồn, khi tha thiết, đi sâu vào lý trí và tình cảm tướng sĩ,

nhắc nhở mọi người phải chịu đựng gian khổ quyết tâm kháng chiến, chống

Page 60: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

tư tưởng thái bình hưởng lạc, như say mê săn bắn, say mê gà chọi, đắm

chìm trong rượu chè ca hát, quanh quẩn bên ruộng vườn vợ con. Ý văn sắc

bén, thấu tình đạt lý lời văn uyển chuyển như một bùi thuyết pháp, đập từng

chữ, dằn từng câu, có một tác dụng truyền cảm mãnh liệt, vì chính bản thân

Trần Quốc Tuấn cũng một lòng chịu gian khổ, nuôi cối căm thù: “Ta thường

tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ

căm tức rằng, chưa xả thịt lột da nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho trăm

thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam

lòng…” đồng thời, bản thân ông thường cũng đồng cam cộng khổ với tướng

sĩ, đã từng “lúc trận mạc thì cùng nhau sống chết, lúc nhân hạ thì cùng nhau

vui cười…”

Bài Hịch của Quốc Tuấn là một tiếng gọi chiến đấu thiêng liêng đã có

sức mạnh tập hợp được lực lượng tướng sĩ và quần chúng đánh tan quân đội

nhà Nguyên, bảo vệ toàn vẹn nền độc lập của Tổ quốc ta. Cái khí thế đó mấy

chục năm sau còn bốc lên trong bài thơ đề sông Bạch đằng của Trần Minn

Tông, và đặc biệt là trong bài phú sông Bạch đằng của Trương Hán Siêu:

“Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới,

Hùng hổ ba quân, giáo gươm sáng chói.

Trận đánh thư hùng chửa phân

Chiến lũy bắc nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ

Bầu trời đất chừ sắp đổi…

… Đến nay, nước sông tuy chảy hoài

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi

Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi…:

Và, cho đến hơn một trăm năm sau, còn vọng lên trong bài thơ “Qua

cửa Hàm tử” của Trần Lâu:

“Trống chiêng rung động sông dồn sóng,

Page 61: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Cờ quạt tung bay, trúc rẽ hàng”

(Cố chinh hùng dũng trào thanh cấp,

Kỳ bái sâm si trúc ảnh tà)

Căm thù xâm lăng phải đi đôi với yêu chuộng hòa bình. Nước mình

không muốn bị người ta xâm lăng, thì người mình cũng không được đi xâm

lăng nước khác. Chính vì vậy, cho nên khi Trần Duệ Tông đề ra việc, xâm

lược Chiêm thành, thì trong hàng ngũ quần thần có nhiều người phản đối. Lê

Tích dâng sớ can vua, có đoạn viết: “Việc binh vốn là một hung khí. Không

nên tự mình dày việc can qua”. Sử Hi Nhan trong bài phú Trảm xà kiếm cũng

biểu lộ một ý tương tự.

Dần dần, giai cấp quý tộc đời Trần đi đến chỗ thoái hóa. Quả vậy, khi

giặc Minh xâm lăng nước ta, thì họ đã không làm tròn nhiệm vụ lịch sử của

mình. Lời thơ của Trần Nguyên Đán, của Nguyễn Phi Khanh hay cả của Lê

Cảnh Tuân v.v… đều đây một giọng cảm thán thời thế, tỏ rõ sự bất lực của

giai cấp mình trước thời cuộc. Trần Nguyên Đán có nhiều đêm “không ngủ”,

có “bệnh mà không muốn lành bệnh” cứ muốn mê đi cho khỏi thấy cảnh hỗn

loạn xung quanh mình. Tập thơ Băng hồ ngọc hác của ông là tiếng khóc bi

thảm giai cấp ông buổi suy tàn. Nguyễn Phi Khanh, người con rể yêu quý của

ông, đã thay ông nói rõ hơn mối tâm sự đau buồn đó trong những “mùa xuân

lạnh”, hay trong những “ngày thu ngủ muộn” rồi chán ngán kêu lên:

“Than ôi!Thế sự nên sao vậy?

Thơ cũ ba lần đọc Đại đông!”

(Ô hô! Thế đạo hà như đã,

Tam phủ di biên phú Đại đông!)

Trong thơ văn thời thế lúc này, nổi tiếng là bài Thuật hoài của Đặng

Dung và bài Vạn ngôn thư của Lê Cảnh Tuân, Bài thuật hoài của Đặng Dung

tuy có nội dung khí khái, nhưng cũng không khỏi vương những nét đau buồn

của người chiến bại:

Page 62: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

“Bạc đầu chửa báo xong thù nước

Mấy độ mài gươm bóng nguyệt tà!”.

(Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma!)

Lê Cảnh Tuân đã viết cả một vạn chữ để phản đối bạn là Bùi Bá Kỳ vì

nhẹ dạ đã đi theo giặc; ông cố phân tích lẽ nên chăng, nhưng chung qui vẫn

là chủ trương khôi phục nhà Trần. Đương nhiên, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ,

Cảnh Tuân cũng chỉ biết là muốn yêu nước thì phải trung với vua. Nhưng,

người ta ca tụng Cảnh Tuân chính là ở tinh thần chống giặc cứu nước của

ông. Cảnh Tuân bị giặc bắt đưa về Trung quốc; trong những ngày bị giam

cầm, ông làm nhiều thơ nói về nỗi thương nhà nhớ nước. Nếu Cảnh Tuân và

các tầng lớp quý tộc nhà Trần và nhà Hồ đã chiến bại, thì Lê Lợi với tầng lớp

địa chủ mới tiếp tục đứng lên lãnh đạo nhân dân, đánh đuổi giặc Minh và bảo

vệ nền độc lập của Tổ quốc. Tinh thần quật khởi của dân tộc ta với một khí

thế mới đó sẽ được thể hiện đậm nét trong thơ văn yêu nước của thế kỷ thứ

XV.

3. Kết luận về văn học Trần, Hồ.

So với văn học đời Lý, văn học đời Trần, Hồ đã có một bước tiến rõ rệt,

khá phong phú về nội dung cũng như hình thức. Phần nổi bật trong văn học

lúc này là phần văn học yêu nước thời thịnh Trần. Tinh thần quật khởi kháng

Nguyên của dân tộc ta được thể hiện khá đậm đà trong những bài thơ của

Trần Quang Khải, của Phạm Ngũ Lão, trong bài hịch của Trần Quốc Tuấn hay

trong bài phú của Trương Hán Siêu v.v… Quý tộc nhà Trần đã tỏ rõ vai trò

tích cực của mình trong giai đoạn lịch sử này: có thể nói, nếu thơ văn thời này

biểu hiện được truyền thống anh dũng của dân tộc, thì đồng thời cũng biểu

biện được cái hào khí Đông A. Ngoài ra, thơ văn thời này còn có các khía

cạnh khác như ca tụng cảnh trí thiên nhiên, ca tụng tư tưởng nhàn tản hay nói

lên nỗi niềm cảm thán thời thế (thí dụ: thơ văn cuối đời Trần): Đặc biệt đã

xuất hiện loại văn bút chiến và phê bình như chỉ trích tinh thần sùng bái đạo

Page 63: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Nho một cách mù quáng hay là bài xích đạo Phật, bài xích nhà chùa… Nhìn

chung văn học thời này đã phát triển tương ứng với sự trưởng thành của dân

tộc: nội dung tỏa ra nhiều khía cạnh, lời văn cũng có nhiều hình tượng. Ta tự

hào đã có một nền văn học viết thích đáng, khiến cho sứ giả nhà Nguyên

sang nước ta thời bấy giờ là Trương Hiển Khanh cũng phải xác nhận như

vậy:

“An nam tuy tiểu văn chương lại,

Vị khả khinh đàm tỉnh đế oa”.

(An nam tuy nhỏ nhưng vẫn có văn hiến

Không thể coi khinh là ếch ở đáy giếng được!).

Giai đoạn 2: THẾ KỶ XV

Chương I. VĂN HỌC VIẾT THẾ KỶ XVNhà nước phong kiến Việt nam được xây dựng có bề thế từ thế kỷ XIV

trở về trước, nhưng đến thế kỷ XV mới đạt đến giai đoạn cực thịnh của nó.

Tính chất nhà nước phong kiến đời Hậu Lê so với đời Lý, Trần có khác; nhà

nước đó dựa trên cơ sở sức sản xuãt và quan hệ sản xuất đã ít nhiều đổi

mới, tuy rằng vẫn nằm trong khuôn khổ chế độ phong kiến. Nền kinh tế thời

Lý, Trần nói chung vẫn là kinh tế đại điền trang, nhưng sang thời Lê, nền kinh

tế tư hữu ruộng đất đã phát triển mạnh; do đó, khái niệm về tinh thần yêu

nước thời này cũng có thay đổi so với thời Lý, Trần. Giai cấp thống trị đã có

điều kiện để thực hiện chính sách quân chủ tập trung cao độ; ngoài vấn đề

kinh tế và chính trị, còn chú trọng cả về văn hóa để làm phương tiện phục vụ

triều đình. Hoàn cảnh lịch sử nửa đầu và nửa cuối thế kỷ XV có khác nhau,

cho nên tính chất văn học cũng khác nhau. Văn học nửa đầu thế kỷ có thể nói

là văn học kháng chiến với một chủ đề chung; là chống Minh cứu nước; văn

học nửa sau thế kỷ có thể nói là văn học xây dựng chế độ phong kiến quân

chủ tập trung với một chủ đề chung là ca tụng sự phồn vinh của triều đại Lê

Thánh Tông. Văn học viết nước ta ở thế kỷ XV vừa phong phú cả về Hán và

Nôm, vừa có tính chất đa diện hơn văn học Lý, Trần về mọi thể loại, phù hợp

Page 64: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

với cuộc sống và ý thức của giai cấp phong kiến cũng như của toàn thể dân

tộc trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ.

I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

Chế độ phong kiến Việt nam đến cuối thế kỷ XIV làm vào một thế khủng

hoảng với sự phá vỡ của chế độ đại điền trang và chế độ nô tì. Các cuộc khởi

nghĩa của dân nghèo và nô tì bùng nổ không ngớt. Hồ Quý Ly định tiến hành

cuộc cái cách sau khi lật đổ nhà Trần; nhưng Hồ Quý Ly đương lúng túng, thì

quân Minh đã tràn tới với sự nội ứng của bọn cựu quý tộc Mạc Thúy, Lương

Nhữ Hốt v.v…

Nhà Minh cướp được nước ta, năm 1407, đổi An nam làm Giao chỉ, đặt

một bộ máy thống trị toàn quan lại xâm lược với một hệ thống pháp luật rất hà

khắc và dã man. Về kinh tế, chúng bóc lột nhân dân la bằng nhiều cách: hệ

thống thuế khóa với những Ty thuế khóa, Ty tuần kiểm, sở hà bạc, hệ thống

khai thác với những kim trừng cục (khai mỏ vàng), châu trường cục (mỏ châu

báu). Đặc biệt, về tinh thần, chúng dùng chính sách đồng hóa và ngu dân như

bắt nhân dân ta theo phong tục phương Bắc, tịch thu sách vở của ta, bãi bỏ

những cái cách giáo dục của Hồ Quý Ly bằng cách hạn chế mở trường học,

truyền bá mê tín dị đoan bằng cách lập các Ty chuyên trách về Phật giáo, Lão

giáo. Những cơ quan tôn giáo chiếm đến 37% tổng số nha môn của chúng.

Trước mối thù không đội trời chung như vậy, phong trào đấu tranh giải

phóng của nhân dân ta bùng nổ khắp nơi, từ Lạng sơn, Thái nguyên, Đông

triều cho đến Thanh hóa, Nghệ an; nhưng tựu trung, nổ ra trước cuộc khởi

nghĩa Lam sơn, thì có các cuộc khởi nghĩa của Trần Quỹ và của Trần Quý

Khoách là lớn hơn cả. Điều kiện kháng chiến lúc bấy giờ có khác đời Lý,

Trần: nhân dân ta không có một bộ máy nhà nước mạnh mẽ như thời Trần

Quốc Tuấn, mà phải vừa đánh du kích, vừa xây dựng chính quyền. Quá trình

kháng chiến đòi hỏi một tinh thần trường kỳ gian khổ. Người anh hùng Lê Lợi,

xuất thân từ tầng lớp địa chủ bình dân, biết dựa vào thời cơ, dựa vào nhân

dân, đã tập hợp được quần chúng và nhân tài từ Bắc cho đến Thanh Nghệ

v.v… từ những sĩ phu yêu nước dòng dõi quý tộc như Trần Nguyên Hãn, nhà

Page 65: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

nho như Nguyễn Trãi, đến những người dân nghèo như Nguyễn Chích,

Nguyễn Xí, đến cả những người dân tộc miền núi như Lê Lai, Lê Lan… Lê

Lợi đã biết dùng chiến luợc, chiến thuật tài tình, đi từ đu kích chiến đến trận

địa chiến, biết đánh từ nông thôn lan đến thành thị, đoàn kết và lôi kéo mọi

người tham gia cuộc khởi nghĩa. Quân Minh bị đánh bại một cách nhục nhã ra

khỏi bờ cõi nước ta. Công cuộc kháng Minh thắng lợi quyết định sự trưởng

thành của dân tộc, nó chứng minh một cách hùng hồn sự thất bại hoàn toàn

của chính sách đồng hóa phản động nhà Minh, đồng thời cũng chứng minh

một cách hùng hồn sức sống của dân tộc ta, một dân tộc có kỷ cương, có nền

văn hóa lâu đời vững chắc, có truyền thống đấu tranh và tinh thần tự cường

cao cả.

Hòa bình lập lại, Lê Thái Tổ lo xây dựng một nhà nước phong kiến tập

quyền, trên một cơ sở xã hội khác cơ sở đời Trần. Sự nghiệp đó được Lê

Thánh Tông kế tục và hoàn thành. Về kinh tế có sự thay đổi, đó là sự thủ tiêu

chế độ đại điền trang vốn lung lay từ cuối đời Trần sau khi giành độc lập được

hơn một năm. Thái Tổ định ra phép quân điền. Chế độ tư điền manh nha từ

thời Lý, Trần nay phát triển mạnh bên cạnh chế độ công điền, tuy rằng tư điền

thời này vẫn còn ít so với công điền. Phương thức sản xuất tư nhân canh tác

thời này đánh dấu một bước tiến bộ, nó làm nổi bật vai trò và địa vị xã hội của

các tầng lớp bình dân. Quan hệ mới về ruộng đất lúc này là quan hệ địa chủ

và tá điền; chế độ nô tì xưa được thay thế bằng chế độ lĩnh canh nạp tô thuế.

Đành rằng chủ trương triều đình lúc bấy giờ vẫn là trọng nông, nhưng do tinh

hình kinh tế phát triển, yếu tố kinh tế hàng hóa giản đơn cùng với tiền tệ, vốn

có từ xưa đời Lý, Trần, nay cũng được phát triển. Luật Hồng đức qui định tiền

công nhật (30 đồng một ngày) và qui định việc thống nhất cân, thước, đấu ở

chợ và ở các cửa hàng. Chế độ phường cục được tổ chức chu đáo: các nghề

in, thuộc da, tơ lụa, vàng ngọc, khai mỏ khá phát đạt và ngay ở triều đình đã

có cục bách công. Cùng vời điều kiện kinh tế phát triển, thị trường dân tộc mở

rộng, nên nảy ra yêu cầu thống nhất quốc gia: bộ máy phong kiến tập quyền

cần được thiết lập. Triều đình thời Lê Thánh Tông là một triều đình quân chủ

tập trung cao độ. Hoàng đế nắm toàn quyền bộ máy quan liêu, một bộ máy

Page 66: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

được tổ chức có hệ thống từ trung ương đến xã. Thời Lê Thánh Tông, một

quan chế được đặt ra với sự phân chia ngôi thứ rõ rệt, với sự phân công phụ

trách tỉ mỉ, với sự qui định trách nhiệm liên đới và hỗ tương kiềm soát chặt

chẽ v.v… Thế lực đại quý tộc bị hạn chế, chỉ được coi như quan liêu đại thần,

chứ không có đặc quyền về trang ấp, không có quân đội riêng, trong khi đó,

sự tham gia các tầng lớp sĩ phu do khoa cử xuất thân càng ngày càng được

chú trọng.

Chính sách cai trị của nhà Lê thể hiện rõ rệt trong bộ luật Hồng đức,

một bộ luật có nhiều điểm tiến bộ hơn bộ luật Gia long sau này. Nhìn chung,

bộ luật đó, tuy có chiếu cố đến thân phận của quần chúng, thân phân bình

dân, thân phận phụ nữ, là những tầng lớp đã ủng hộ kháng chiến, nhưng căn

bản vẫn bảo đảm quyền lợi và địa vị cho quý tộc quan liêu. Ba điểm nổi bật

trong bộ luật đó là: bảo đảm chế độ đại gia đình, vì đó là nền móng của chế

độ phong kiến quan liêu, bảo đảm chế độ tư hữu, nhất là tư hữu ruộng đất

bảo đảm trật tự xã hội và quyền lợi công cộng, vì đó là cơ sở kinh tế, cơ sở

xã hội để xây dựng một bộ máy trung ương tập quyền cao độ. Các vua buổi

đầu nhà Lê, nhất là vua Lê Thánh Tông đã biết điều hòa mâu thuẫn nội tại

của chế độ, như vừa bão đảm quyền cho quý tộc, nhưng lại hạn chế địa vị

của chúng, vừa ra sức trọng nông ức thương, nhưng vừa tìm cách ổn định thị

trường, làm cho quan hệ chính trị và kinh tế có điều kiện tương đối ổn định;

nông nghiệp và công thương nghiệp so với thời Lý, Trần có dược phát triển

cao hơn. Chính sách “thân dân” thời Lê phù hợp với quyền lợi giai cấp phong

kiến nước ta đã lên tới đỉnh cao của nó và do đó mức sống của nhân dân

cũng tương đối dễ chịu.

Trên cơ sở một nền kinh tế tương đối thịnh vượng của một chế độ

chính tri tương đối ổn định, nền văn hóa dân tộc thời này cũng được phát

triển ở mọi phương diện và có tác dụng hỗ trợ cho chế độ tập quyền lúc này.

Ngay từ khi mới dựng nước, Thái Tổ đã chú ý đến “thuần phong mỹ

tục”, nghiêm cấm cờ bạc, rượu chè xa xỉ. Thánh Tông lại cấm ăn uống linh

đình trong ma chay hay trong dịp Tết Trung nguyên và đặt ra 24 huấn điều về

Page 67: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

phong tục cho nhân dân dễ nhớ mà noi theo. Nho giáo, một công cụ đắc lực

của chính quyền phong kiến, được đề cao trong khi Phật giáo, Đạo giáo, tuy

trong chiến tranh có phát triển, nhưng nay bị hạn chế. Thái Tổ kế tục những

cái cách của Hồ Quý Ly, qui định thể lệ sát hạch tăng nhân, cấm in sách Phật

hay tự tiện làm chùa, tô tượng, đúc chuông, cấm bọn cô đồng bà cốt hoạt

động. Đặc biệt, việc học rất được khuyến khích. Ngay từ khi còn tác chiến,

như năm 1427, Lê Lợi vẫn cho mở khoa thi ở Bồ đề để chọn nhân tài, chuẩn

bị cho việc xây dựng hòa bình. Kháng chiến thành công, nhiều khoa thi đặc

biệt như Hoành từ, Minh kinh được tổ chức, trước khi chỉnh đốn những khoa

thi Tiến sĩ định kỳ. Số thí sinh thi Hội thời Lê lên rất cao, thí dụ khoa Đại bảo

thứ 3 đời Thái Tông mới có 450 thí sinh mà khoa thứ 6 đời, Nhân Tông đã

tăng lên 720; đến khoa Hồng đức thứ 6 đời Thánh Tông lại tăng lên 3000

người. Tỉ lệ thí sinh trúng tuyển cao hơn cả những đời cuối Lê và Nguyễn sau

này. Các tiến sĩ, trạng nguyên có thể nói hầu hết còn ít tuổi, có người mới 15

tuổi như Nguyễn Nhân Thiếp. Ngoài khoa cử, triều đình còn cho tuyển những

người tài giỏi bằng cách tiến cử, đồng thời phát triển quốc học, cũng chú ý

đến tư học. Chính sách giáo dục đối với bình dân rộng rãi hơn đời Trần rất

nhiều. Để phát triển bậc đại học ở kinh đô, vua cho mở rộng nhà Thái học, lập

Bí thư khố, xây giảng đường và ký túc xá cho sinh viên và để khuyến khích

việc học, và cho đặt ra các nghi thức như gọi loa, yết bảng, ban yến, ban áo

mũ, khắc bia Tiến sĩ. Nối tiếp chủ trương của Hồ Quý Ly, Lê Thánh Tông ra

Dụ khuyến học, trong đó có đoạn nêu lên tôn chỉ việc học: “Ngồi cho ngay,

đứng cho thắng, cần phải luyện tập, chính lấy lòng, thực lấy ý, cốt ở ngày

mới. Tràn đầy tìm cái gì chưa biết, gắng gỏi với cái gì chưa đến…”. Việc học

thời này tuy phát triển và đánh dấu một thời kỳ thịnh vượng của Nho giáo ở

ta, nhưng mặt khác đã chính thức tạo ra một tầng lớp cử tử đi vào con đường

tầm chương trích cú, theo lối học giáo điều như Phạm Đình Hồ đã có dịp xác

nhận trong “Vũ trung tùy bút”: “… Còn như lối thơ trường óc của các cử tử, thì

từ đời Tiền Lê trở về trước, tuy chưa bằng được cổ nhân, nhưng cái ý ra đề

bài còn phảng phất cổ nhân. Đến đời Lê Trung hưng, thi cử chuyên dùng lối

thơ thất ngôn luật, có các câu phá đề, nhập đề, thượng trạng, hạ trạng,

Page 68: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

thượng luận, hạ luận rồi đến hai câu thượng kết hạ kết; gieo văn phải áp vận

vào câu nhập đề thứ hai, câu nệ cục súc quá, xưa nay không thế bao giờ.

Vậy nên những bài thơ cử tử cẩu thả, xu thời, toàn là thô kệch cả…” (thể

thơ).

Về nghệ thuật, đời Lê có những điểm không giống với đời Lý Trần, thí

dụ nghệ thuật kiến trúc thời này không phát triển vì việc xây chùa chiền bị hạn

chế. Công trình kiến trúc đời Lê có một tầm quan trọng đặc biệt, đó là việc xây

dựng cung điện ở Thăng long hay ở Lam kinh (Thanh hóa). Di tích còn lại

ngày nay là bia Vĩnh lăng, dựng năm 1433. Riêng về âm nhạc lại khá phát

triển với một chiều hướng độc đáo. Năm 1437, Thái Tông sai Nguyễn Trãi và

hoạn quan Lương Đăng định lại nhã nhạc, nhưng vì có sự bất đồng ý kiến

giữa hai người, nên sau chỉ có Lương Đăng phụ trách công việc. Tháng 10

năm đó, Lương Đăng đã dâng được các bài nhạc mới trong đó có bài “Bình

Ngô phá trận”, mà đến đầu xuân 1149, vua ban yến, sai cử nhạc, các công

thần cảm xúc mà rơi lệ. Về sau Lê Thánh Tông lại sai Thân Nhân Trung, Đỗ

Nhuận, Lương Thế Vinh tham khảo âm nhạc Trung quốc soạn ra hai bộ: bộ

Đồng văn chuyên hòa nhạc bằng nhạc khí, bộ Nhã nhạc chuyên hợp xướng.

Âm nhạc dân gian thì đặt bộ Giáo phường để coi sóc. Xem như vậy, âm nhạc

khá được chú ý thời này và triều đình cũng chú ý đến hướng sáng tác độc

đáo của dân tộc, chú ý nâng cao tinh thần yêu nước. Riêng nghệ thuật sân

khấu thời này hình như ít được dùng ở cung đình, mà chỉ phát triển ở dân

gian.

Nói chung, nền văn hóa buổi đầu nhà Lê phát đạt gần được toàn diện,

khá tiến bộ và phù hợp với sức sản xuất đương thời.

II. TÌNH HÌNH CHUNG VỀ VĂN HỌC Ở THẾ KỶ XV

Nếu chỉ tính thời gian một thế kỷ, đem so với từ thế kỷ XIV về trước,

hay thế kỷ XVI cho đến nửa đầu thế kỷ XVIII, thì rõ ràng văn học thế kỷ XV

phong phú hơn về mọi phương diện, nội dung cũng như hình thức, Nôm cũng

như Hán. Đương nhiên, đây chỉ nói chung theo tỉ lệ thời gian, chứ thật ra, văn

học thời kỳ nào cũng có đặc điểm riêng của nó, cũng có cái hay, cái dở của

Page 69: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

nó. Có một điểm nổi bật so với văn học viết thế kỷ XIV về trước là văn học

viết về cuộc chống ngoại xâm phong phú hơn nhiều; riêng đối với Phật giáo,

phần lớn chỉ có những bài thiên về bài xích, chứ không ca tụng; việc đó

chứng tỏ địa vị độc tôn của Nho giáo đã lấn át Phật giáo một cách rõ rệt.

A. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH

1. Do tình hình lịch sử quyết định, văn học trong suốt thế kỷ này đều ca

tụng chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong cuộc kháng Minh, đồng thời

cũng ca tụng trật tự phong kiến trong giai đoạn thịnh trị của nó. Thơ văn viết

về chủ đề kháng Minh lúc này khá phong phú: chiếu biếu, văn bia, thực lục,

cáo, phú v.v… Ngoài bài cáo của Nguyễn Trãi là một bài văn tổng kết hoàn

chỉnh, còn có nhiều thơ và phú. Rất nhiều bài phú với đầu đề khác nhau,

nhưng vẫn xoay quanh một chủ đề thống nhất: cuộc chiến thắng chống Minh

của dân tộc Đại Việt bất khuất. Nguyễn Mộng Tuân và Lý Tử Tấn làm nhiều

phú nhất, những bài nổi tiếng như Xương giang phú của Lý Tử Tấn, Lam sơn

giai khi phú. Nghĩa Kỳ phú của Nguyễn Mộng Tuân. Có khi nhiều người làm

một đề tài với nhiều ý giống nhau, tuy câu văn có khác như các bài Chi linh

sơn phú của Nguyễn Trãi, của Trình Thuấn Du, của Lý Tử Tấn, của Nguyễn

Mộng Tuân. Đó là chưa nói lòng yêu nước còn thể hiện trong một số thơ rải

rác của Nguyễn Trãi, của Lê Thánh Tông và đặc biệt lòng căm thù cháy rực

trong suốt các bài tập Quân trung từ mệnh của Nguyễn Trãi.

Thời này giai cấp địa chủ phong kiến đứng ra lãnh đạo kháng chiến, do

đó những thơ văn ca tụng chiến công oanh liệt của nhân dân ta, thường ca

tụng giai cấp thống trị, ca tụng trật tự phong kiến, là lẽ tất yếu. Tính chất thù

phụng đó rõ rệt nhất trong thơ văn ở nửa sau thế kỷ tức là thơ văn của Hội

Tao đàn. Trong những bài như Quỳnh uyển cửu ca của Lê Thánh Tông, một

số bài ở Thiên nam dư hạ tập và Hồng đức quốc âm thi tập của hội Tao đàn

hay trong Bát giáp thưởng đào văn của Lê Đức Mao, lòng tự hào dân tộc

được thể hiện rõ nét, nhưng lòng tự hào dân tộc ở đây gắn liền với lòng tự

hào của vai trò vua chúa, và có khi bị che khuất sau bóng dáng quá đồ sộ của

Page 70: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

vua chúa. Đó là một điểm hạn chế quan trọng trong văn học nửa sau so với

văn học nửa đầu thế kỷ XV.

2. Mặt khác, trong văn học thời kỳ này đã có ý thức quốc gia và hình

ảnh quần chúng – Thời này không còn có đạo “thần chủ” giữa nô tì, nông nô

và chủ thái ấp nữa, mà đã nổi bật đạo “quân thần”. Người ta không còn quan

niệm tổ quốc chỉ là thái ấp, bổng lộc, ruộng vườn, vợ con, mà đã có ý thức

một quốc gia trừu tượng với kỷ cương, phong tục của nó, với cả một nền văn

hiến lâu đời của nó. Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi nói rõ ý này trong những thư

gửi tướng nhà Minh, trong bia Vĩnh lăng và đặc biệt trong bài Bình Ngô đại

cáo. Cũng với ý thức một quốc gia trừu tượng, lần đầu tiên, quần chúng lao

động được nhắc đến trong những trang văn học viết. Ở nhiều thơ văn và

càng rõ rệt nhất ở bài cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi khi bàn về nhân nghĩa, đều

có nhắc tới nhân dân. Lê Thánh Tông và một số hội viên Tao đàn hay Nguyễn

Bảo v.v… cũng đã mô tả đôi nét về đời sống nhân dân qua thơ văn của mình.

Việc này cũng dễ hiểu, vì chính quần chúng lao động đã ủng hộ cuộc Lam

sơn khởi nghĩa, ủng hộ chính quyền buổi đầu nhà Lê và một phân số trong

hàng ngũ bình dân xuất thân từ khoa cử, rồi trở thành bề tôi đắc lực cho vua

chúa thời này. Có một điều cũng cần phải nêu lên ở đây là do ảnh hưởng của

nhân dân qua cuộc kháng chiến thần kỳ chống Minh, mà quan điểm “nhân

nghĩa” của nhà nho thời này có khác với quan điểm nhân nghĩa của Mạnh tử.

Trong chế độ Tông pháp ở Trung quốc thời Khổng, Mạnh, nguyên lý đạo đức

về nhân nghĩa chỉ áp dụng cho người “quân tử” (giai cấp thống trị), còn kẻ

“tiểu nhân” (giai cấp bị trị) không thể có đức đó. Mạnh tử nhiều lần khẳng định

điều đó: “Điều nghĩa là con đường, điều lễ là cái cửa, chỉ có người quân tử

mới biết đi con đường ấy, ra vào cái cửa ấy…” (Vạn chương, hạ). “Những

người bất nhân, bất trí, vô lễ, vô nghĩa, chính là những kẻ nô lệ cho người

quân tử mà thôi”. (Công Tôn Sửu, thượng). Nhưng quan điểm nhân nghĩa của

Nguyễn Trãi đã mang yếu tố nhân dân, đã phản ánh đời sống những người

dân “đen đầu”, những đứa “con đỏ”. Đó là một điểm sáng tạo và tiến bộ trong

ý thức hệ giai cấp thống trị lúc bấy giờ, do sự tác động của vai trò quần chúng

đẩy tới. Chẳng những hình ảnh của quần chúng mà tiếng nói của quần chúng

Page 71: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

cũng được chú ý trong văn học viết. Rải rác, chúng ta đã thấy tục ngữ, ca dao

được vận dụng trong thơ nôm của Nguyễn Trãi:

Dễ hay ruột biển sâu cạn,

Khôn biết lòng người ngắn dài.

hay trong Thập giới cô hồn quốc ngữ văn của Lê Thánh Tông:

Những nơi dữ lành rằng bởi đất,

Đất nào hay cãi được người ta.

3. Đặc biệt văn học thời này đã phản ánh ý thức cá nhân và phần nào

khuynh hướng trữ tình. Sự thật, đã gọi là thơ, thì ngay thơ của những tác giả

đời Lý, Trần cũng không phải là không có khía cạnh trữ tình, nhưng trong

hoàn cảnh lúc bấy giờ, tâm sự tác giả chưa được bộc lộ rõ ràng. Cuối thế kỷ

XIV, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Lê Cảnh Tuân… mỗi người cũng

đã khóc với bầu tâm sự của mình. Đến đầu thế kỷ XV, Nguyễn Húc còn đi xa

hơn nữa: Nguyễn Húc làm thơ kể tâm sự của mình trong đau thương của

“bệnh tật” của “mưa gió”. Lời thơ của Nguyễn Húc thường đẫm lệ. Nguyễn

Trãi, con người nghĩa khí, người quân sư của Lê Lợi, không phải không có

những dòng thơ tâm sự thầm kín! Đương nhiên, thơ văn thế kỷ XV, tuy chưa

biểu hiện được cá tính một cách sâu sắc, nhưnsg cũng đã bàng bạc có bóng

dáng cá nhân. Mặt khác, trong thơ văn lúc này, phần nào đã có màu sắc thị

dân. Cái đó cũng không có gì lạ, vì lúc này, cùng với chế độ tư hữu ruộng đăt,

nền kinh tế hàng hóa giản đơn đã phát triển hơn trước. Truyện thơ Hương

miết hành đã nói đến tình yêu trai gái, đã có khía cạnh đấu tranh cho hạnh

phúc lứa đôi và chống lại – cố nhiên, còn yếu ớt – khuôn khổ chật hẹp của lễ

giáo phong kiến. Truyện ấy báo hiệu cho nhiều truyện tình trong Truyền kỳ

mạn lục của Nguyễn Dữ, như truyện Nàng Túy Tiêu, truyện Cây gạo, Nghiệp

oan của Đào thị v.v… và báo hiệu cho Phan Trần, Hoa tiên, truyện Kiều mãi

về sau này.

B. NHỮNG SỰ KIỆN VĂN HÓA

Page 72: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

1. Song song với công việc tiếp tục chép sử, công việc sưu tầm, họp

tuyển, bổ chính những thơ phú cũ, hay những truyện: thần thoại, truyền

thuyết, cổ tích, thần tích v.v… đều được đẩy mạnh.

Việc chép sử có qui mô lớn từ thời Lê Văn Hưu vẫn được tiếp tục. Năm

1445, Lê Nhân Tông sai Phan Phu Tiên chép tiếp Lê Văn Hưu, gọi là Đại Việt

sử ký tục biên (10 cuốn, mất). Năm 1479, Thánh Tông sai Ngô Sĩ Liên dựa

vào những bộ sử cũ và bổ sung thêm để soạn bộ Toàn thư gồm 15 quyển,

chia làm ngoại kỷ và bản kỷ. Ngoại kỷ tức là phần lịch sử họ Hồng bàng đến

hết thời Bẳc thuộc (958) gồm 5 quyển. Ở phần này, tác giả biết dựa vào dã

sử, thần thoại và truyền thuyết để viết. Bản kỷ tức là phần lịch sử từ đời Ngô

Quyền đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi (1428) gồm 10 quyên, Ngô Sĩ Liên sáng

tạo nhiều ở phần ngoại kỷ, còn ở phần bản kỷ thì phần chủ yếu là dựa vào Lê

Văn Hưu và Phan Phu Tiên. Việc xây dựng “Quốc sử” này biểu hiện một ý

thức tự cường dân tộc của giai cấp phong kiến lúc đó, mà chính Ngô Sĩ Liên

đã trình bày trong bài tựa của ông: “Sử để chép việc mà việc được hay hông

có thể làm cái gương cho đời sau soi đấy làm răn. Các nước đời xưa đều có

sử, như sách Xuân Thu của nước Lỗ, sách Đào Ngột của nước Tấn, sách

Thăng của nước Sở. Nước Đại Việt ta ở phía Nam núi Ngũ lĩnh: thế là trời đã

chia ra Nam với Bắc vậy. Đấng thủy tổ là người dòng dõi họ Thần nông, thế là

trời đã đặt ra vị chân chủ vậy. Bởi thế mới có thể cùng với Bẳc triều cùng làm

vua một phương…”. Rõ ràng Ngô Sĩ Liên đã phát triển ý tự cường dân tộc ở

đoạn đầu trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi? Bộ Đại Việt sử ký toàn

thư này rất có giá trị, chẳng những nó là cơ sở cho các bộ sử sau này của ta,

mà còn là tài liệu tham khảo điển phạm cho các nhà sử học ngoại quốc.

Sau bộ Đại Việt sử ký toàn thư, còn nhiều bộ sử khác xuất hiện, nhưng

ở khía cạnh tổng luận: năm 1486, Vũ Công Dực viết Đại Việt thông giám tổng

luận; năm 1511, Vũ Quỳnh viết Việt giám thông khảo, Hình thức “thực lục” có

từ đời Trần nay cũng được phát triển: tập Lam sơn thực lục là một tập văn có

giá trị.

Page 73: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Bên cạnh công việc chép sử, công việc sưu tầm, bổ chính các thơ phú,

truyện được chú trọng đặc biệt. Trước hết, phải nói Nguyễn Trãi đã có công

sưu tầm thơ văn của Hồ Quý Ly, đến cuối thế kỷ XV, Trần Khắc Kiệm lại sưu

tập thơ của Nguyễn Trãi, về thơ Hán đời Trần, Lê, có nhiều bộ tuyển tập như

Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên và Chu Xa, Tinh tuyển chư gia thi tập của

Dương Đức Nhan và Lương Như Hộc, Trích diễm thi tập của Hoàng Đức

Lương, về loại văn biền ngẫu, có Cổ kim chế từ tập của Lương Như Hộc,

Quần hiền phú tập của Hoàng Sằn Phu và Nguyễn Trù; về tản văn, có hai

quyển đáng chú ý là quyển Việt điện u linh do Nguyễn Văn Chất (đời Lê Nhân

Tông) sưu tập, nhuận sắc, chép thêm. Ý thức sưu tầm vốn cũ dân tộc đó

cũng một phần do tinh thần tự cường dân tộc thúc đẩy. Mở đầu bài tựa Lĩnh

nam chích quái, Vũ Quỳnh viết: “Quế hải tuy ở cõi Lĩnh nam, nhưng núi non

kỳ lạ, đất đai linh thiêng, nhân dân anh hào, truyện tích thần kỳ, thường

thường vẫn có”. Rõ ràng, Vũ Quỳnh đã nêu lên ý nghĩa của việc sưu tập

truyện cổ nước ta.

2. Sự thành lập hội Tao đàn ở thế kỷ XV là một sự kiện văn học quan

trọng. Đó là một hội sáng tác và bình thơ nhưng rất tiếc là nó tồn tại quá ngắn

ngủi; hội được lập năm 1495, đến năm 1497 khi Lê Thánh Tông mất, thì

không nghe nói đến nữa. Thánh Tông tự xưng là Tao đàn nguyên súy, phong

cho Thân Nhân Trang và Đỗ Nhuận làm Phó nguyên súy cùng các người sau

đây làm hội viên: Ngô Luân, Ngô Hoán, Nguyễn Xung Xác, Lưu Hưng Hiến,

Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Đức Huấn, Võ Dương, Ngô Thầm, Ngô Văn

Cảnh, Phạm Tri Kiêm, Lưu Thư Mậu, Nguyễn Nhân Bị, Nguyễn Tôn Miệt, Ngô

Quyền, Nguyễn Bảo Khuê, Bùi Phổ, Dương Trực Nguyên, Chu Hoãn, Phạm

Cẩn Trực, Nguyễn Ích Tốn, Đỗ Thuần Thứ, Phạm Nhu Huệ, Lưu Dịch, Đàm

Thận Huy, Phạm Đạo Phú và Chu Huân, gồm 28 người gọi là Tao đàn nhị

thập bát tú (theo Việt sử thông giám cương mục). Theo “Thoái thực ký văn”

của Trương Quốc Dung, thì ngoài 28 người trên còn hai ngưòi sái phu là

Lương Thế Vinh và Thái Thuận.

Page 74: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Phong trào xướng họa trong cung đình có tổ chức, nên có điểm được

phát triển; tuy vậy tính sáng tạo của hội viên Tao đàn bị hạn chế nhiều, vì

“phụng họa”, “phụng bình” thường theo lệnh, theo ý quyết đoán của Lê Thánh

Tông. Hội Tao đàn thành lập, một mặt nói lên ý thức tự hào của giai cấp thống

trị ở giai đoạn cực thịnh của nó, nhưng đồng thời cũng biển hiện được ý thức

tự hào dân tộc về nền văn hiến của nước ta.

3. Ở thế kỷ XV, có một số thể thơ bằng quốc âm mới được phát triển,

hoặc mới xuất hiện. Yếu tố dân tộc của ta trong thơ văn còn thể hiện ở các

loại hình văn học. Điểm nổi bật là có một số nhà thơ không chịu nô lệ lối làm

thơ của nho sĩ Trung quốc nên đã tìm ra hướng dung hòa điệu thơ dân tộc

với điệu thơ Trung quốc. Trước hết chúng ta hãy nói đến thế thất ngôn chen

lục ngôn của Việt nam. Có người đã tìm nguồn gốc thể này ở thơ Tào Phi

(Ngụy văn đế). Nhưng trong thơ Tào Phi, thí dụ ở bài Lâm cao đài, hay bài

Thượng lưu điền hành, thỉnh thoảng mới có vài câu 6 từ chen vào câu 3 từ,

chứ không phải là một bài thơ 6 từ chen lẫn với thơ 7 từ một cách phổ biến

như thơ của ta. Trong văn học đời Trần, có những bài lục ngôn chữ Hán như

bài thơ tặng Trần Nguyên Đán của Trần Ngạc (con Nghệ Tông) hay bài thơ

đề trướng thủy mặc của Phạm Mại. Thí dụ bài của Phạm Mại:

Hồng thụ nhất khê lưu thủy

Thanh sơn thiên lý tà dương

Dục hoán biên chu qui khứ

Thử sinh ai bốc hành tàngg

(Cày đó một khe nước chảy,

Non xanh nghìn dặm bóng chênh).

Muốn gọi thuyền con trở lại

Thân này xuất xử chưa đành.

Nguyễn Trãi tiếp tục dùng thể lục ngôn ấy bằng Nôm, thí dụ bài sau

này:

Page 75: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

“Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay,

Trông thế giới phút chim bay

Non cao, non thấp, mây thuộc,

Cây cứng, cây mềm, gió hay.

Nước mấy trăm thu còn vậy,

Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn nay”

(Mạn thuật, 4)

Nhưng sau này Nguyễn Trãi dùng nhiều ở thể thất ngôn chen lục ngôn.

Chính thể này sau này được các nhà thơ hội Tao đàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm

tiếp tục dùng một cách phổ biến. Đầu thế kỷ XVIII về sau thì thể này không

còn nữa.

Một thể thơ dân tộc khác đã xuất hiện ở thời này, đó là thể hát nói. Đây

là một thể thơ tổng hợp giữa các thể lục bát, song thất của ta và thất ngôn

của Trung quốc. Sự thật, thể này là thể nói sử của ta thường dùng trong

tuồng và chèo, chỉ có khác là ở đây có dặm thêm một số câu thất ngôn

Đường luật. Trần Nhân Tông đã có lần áp dụng điệu song thất của ta vào

điệu thất ngôn của Trung quốc, như ở bài Hạnh Thiên trường hành cung với

bốn câu cuối như sau:

… Nguyệt vô sự/chiếu nhân vô sự

Thủy hữu thu: hàm thiên hữu thu.

Tứ hải dĩ thanh: trần dĩ tĩnh

Kim niên đu thắng/tích niên du.

(Trăng vô sự–chiếu người vô sự,

Nước có thu–lồng trời có thu,

Vừa bốn bể trong–vừa bụi lặng

Độ xưa so với độ này thua).

Page 76: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Ở đây chúng ta thấy tiết tấu trong điệu thơ của ta là “lẻ chẵn” đi với tiết

tấu trong điệu thơ Trung quốc là “chẵn lẻ”. Loại thơ bằng Nôm theo thể này

thỉnh thoảng có thấy trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, trong Hồng đức

quốc âm thi tập của hội Tao đàn và trong bài Bát giáp thưởng đào văn của Lê

Đức Mao. Về tản văn, Đỗ Cận khi đi sứ Trung quốc có làm bài Kim lăng ký,

hiện chưa tìm thấy. (Thể ký bằng tản văn đời Trần đã có như bài Linh tế tháp

ký của Trương Hán Siêu, Thanh hư động ký của Nguyễn Phi Khanh. Tưong

truyền Đỗ Cận là tác giả truyện Nôm Phan Trần).

Ngoài ra, ở thời này, các loại văn tế, văn khấn, văn cầu đảo cũng đã

được dùng nhiều. Tóm lại, nhiều loại hình văn học phát triển ở thế kỷ XV,

mang tính độc đáo của dân tộc rõ rệt, đánh dấu một bước trưởng thành của

nền văn học viết nước ta.

C. ĐẠI CƯƠNG VỀ CÁC XU HƯỚNG VĂN HỌC

Ở phần “Những sự kiện văn hóa”, chúng ta đã nói nhiều đến thể văn

chép sử, thế văn nghiên cứu bên cạnh thể văn sáng tác. Đó là chúng ta chưa

nói đến các khoa học khác trong toàn bộ văn hóa nói chung của thế kỷ này.

Ngoài những tác phẩm văn nghệ, những công trình nghiên cứu về địa lý,

pháp lý, y học, toán pháp đều xuất hiện. Về địa lý, có quyển An nam vũ cống

(tức Dư địa chí) của Nguyễn Trãi soạn năm 1435, tập An nam binh thắng đó

của Đàm Văn Lễ; về pháp lý, bộ luật Hồng đức nổi tiếng làm kim chỉ nam cho

đường lối cai trị lúc bấy giờ; về toán pháp, Vũ Qùynh và Lương Thế Vinh đều

có biên soạn Toán pháp đại thành. Vũ Quỳnh lại còn viết cả Văn thành bút

pháp (theo Phan Huy Chú, trong mục Văn tịch chí) và Lương Thế Vinh viết Hý

phường phả lục. Về Phật học, thời này hầu như không ai chú ý nữa, nhà thơ

Vương Sư Bá có nói đến ít nhiều; Lương Thế Vinh cũng soạn một số khoa

giáo về kinh Phật. (Đặc biệt, lần đầu tiên, nhà văn Phan Phu Tiên đã soạn

cuốn “Bản thảo thực vật toản yếu” bằng Nôm, trong đó có chú ý đến vấn đề

phòng bệnh).

Mặt phồn vinh nhất trong nền văn hóa đó vẫn là mặt văn học, trong đó

có nhiều khía cạnh khác nhau. Nhưng nếu chia văn học ra các xu hướng

Page 77: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

khác nhau có tính chất đối lập thì không thể được và cũng không thật hợp lý.

Đành rằng tính chất xã hội nửa đầu và nửa sau thế kỷ có chỗ khác nhau về

mức độ, do đó văn học cũng phát triển không đồng đều về sồ lượng cũng như

về chất lượng, nhưng căn bản về nội dung vẫn không có gì khác nhau lắm.

Mặt khác, tính chất riêng biệt từng tác giả nói chung ở thời này cũng chưa

thật rõ ràng trong thơ văn của họ. Đương nhiên, thơ văn nửa đầu thế kỷ thiên

về ca tụng cuộc chiến thắng chống Minh, ca tụng lòng yêu nước, ca tụng Lê

Lợi, còn thơ văn nửa sau thế kỷ thiên về thù tạc, ca tụng chính quyền của giai

cấp phong kiến, nhất là ca tụng tài đức của Lê Thánh Tông. Như vậy phải

chăng tình cảm và tư tưởng trong thơ văn hai loại đó chỉ vang lên một cách

độc điệu, mà không có âm ba ngược chiều? Không phải như thế. Ngay trong

một số thơ văn của những thi hào yêu nước như Nguyễn Trãi, Lệ Thiếu Dĩnh

v.v… cũng đã có yếu tố chống đối lẽ bất công của thời thế; ngược lại, thơ văn

của Lê Thánh Tông và hội Tao đàn cũng không phải không có những nét biểu

hiện lòng yêu nước và lòng tự hào dân tộc. Vấn đề này cũng dễ hiểu: chế độ

phong kiến, ngay ở thời đại cực thịnh của nó, vẫn bao hàm những mâu thuẫn

nội tại của nó. Những thiên tài như Nguyễn Trãi, Lê Thiếu Dĩnh đối với giai

cấp thõng trị khi cần thì được coi như “hòn ngọc đợi giá” và khi thấy không lợi

cho chúng thì lại chỉ là “Cái đinh trong mắt” của chúng. Xu hướng chống đối

thời thế trong thơ văn bộc lộ mâu thuẫn đó. Ở đây, chúng tôi chỉ căn cứ vào

những nét chủ yếu của thời kỳ và tính chất khác biệt tương đối của các tác

giả mà chia ra ba xu hướng cho tiện việc nghiên cứu.

1. Xu hướng yêu nước, ca tụng tinh thần kháng chiến anh dũng và cổ võ ý chí xây dựng quốc gia..

Có thể nói xu hướng này bao gồm hầu hết các tác giả của nửa đầu thế

kỷ, trong đó, có những người đã từng tham gia kháng chiến như Nguyễn Trãi.

Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Đào Công Soạn, hay những người xuất thân

khoa cử từ khi hòa bình lập lại như Nguyễn Thiên Túng, Chu Tam Tỉnh,

Nguyễn Khắc Hiếu. Những người nổi tiếng trong xu hướng này có thể nói là

bộ ba Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, bộ ba đỗ đồng khoa, bộ

Page 78: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

ba cùng tham gia kháng chiến và bộ ba cùng sáng tác thơ phú với những ý tứ

giống nhau, có khi với đề tài giống nhau và đặc biệt cả ba có văn tài trác lạc

tương đương. Cuộc kháng Minh thần kỳ của dân tộc ta thời này thật là vĩ đại,

đã tác động đến toàn bộ cuộc sống của nhân dân ta, do đó những đề tài

kháng chiến như cảnh gian khổ chiến đấu, gương hy sinh sáng ngời, những

chiến thắng vẻ vang v.v… và khi hòa bình lập lại thì những đề tài xây dựng

hòa bình như kêu gọi hiền tài, cổ võ lòng tin tưởng ở ngày mai v.v…, tất cả

những việc đó là nguồn cảm hứng cho thi sĩ văn chân lúc bấy giờ. Cái khí thế

đó được biểu lộ trong nhiều thơ phú, ngay cả trong bài thơ của Lê Thái Tổ

làm ra nhân khi dẹp yên vụ Đèo Cát Hãn, một tù trưởng ở vùng Lâm thao

(Vĩnh phú) trước đã từng đầu hàng giặc Minh, sau được Lê Lợi tha tội chết,

nhưng rồi lại làm phản:

“Nghĩa khí dẹp tan mù mấy lớp,

Tráng lâm san phẳng núi muôn trùng”

(Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ,

Tráng tâm di tận vạn trùng san).

Về thơ văn Nguyễn Trãi, chúng ta sẽ nói riêng ở một mục; ở đây nói về

hai người trong bộ ba nói trên: Nguyễn Mộng Tuân và Lý Tử Tấn.

Nguyển Mộng Tuân: ông tự là Văn nhược, hiệu là Cúc pha, người làng

Viên khê, huyện Đông sơn, tỉnh Thanh hóa. Ông đậu Thái học sinh năm 1400,

một lần với Nguyễn Trãi. Ông có lần làm quan đời Hồ, sau theo Lê Lợi tham

gia khởi nghĩa. Ông còn để lại tập thơ Cúc pha. Theo Thiên nam thi tập

(khuyết danh), thơ phú của ông còn chép trong Việt âm quần hiền tinh tuyển

(tức Việt âm thi tập) của Phan Phu Tiên và Hoàng hoa chương biểu thi phú.

Ông làm đến hơn 40 bài phú còn chép trong Quần hiền phú tập do Hoàng

Sằn Phu và Nguyễn Trù sưu tập. Quả là một kiện tướng về phú. Có nhiều bài

phú ca ngợi kháng chiến như Chí linh sơn phú, Lam sơn phú, Lam sơn giai

khí phú, Nghĩa kỳ phú, Tây giáp binh phú v.v… Cũng như văn Nguyễn Trãi,

văn của ông nói chung chan chứa lòng yêu nước, căm thù:

Page 79: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

“Ra tay nơi Khôi huyện, phá Kỳ, giết Quý,

Đường hoàng từ Trà lân đưa quân xuất phát có danh,

Tuyên bố tại Bồ đằng được trận thắng to khoái chí.

Chói lọi nhật nguyệt giữa trời,

Khua ầm sấm sét khắp chín cõi…”

(Phú Cờ nghĩa)

Cũng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân ca tụng vị lãnh tụ Lam sơn

khởi nghĩa, nhưng chính là ca tụng “Chính đạo”, ca tụng tinh thần “nhân

nghĩa” theo quan điểm tiến bộ lúc bấy giờ:

“Vì một giận mà yên dân, quét mây mờ cho đỡ nạn,

Vì không thích giết người, mù ưng cho mấy thành ra thú hẳn hoi.

Vì theo lòng hiếu sinh mà phóng xá mười vạn quân hàng khốn quẫn

Đưa gió hòa mưa thuận gột rửa vết nhơ xưa

Đem sao lành mây đẹp điểm tô vẻ đời mới

Đêm dài rét mựởt, đem lại sáng êm,

Của cái non sông, nhờ thêm rõ rệt.

Không dùng gấm vóc học núi rừng mà lấy đạo đức làm đẹp.

Không đem ơn riêng cho lòng mình mà cần chí công vô tư…”

(Phú Lam sơn giai khí)

Những khái niệm trừu tượng về ý nghĩa “chính đạo” được biểu hiện ở

đây qua những hình tượng văn học sinh động và hấp dẫn. Hòa bình lập lại.

Mộng Tuân đã tích cực làm nhiều bài phú cổ võ tinh thần xây dựng quốc gia.

Giấc mơ về một chế độ lý tưởng của ông được mô tả trong bài phú Đài xuàn

“Cái đài này tích lũy thực bởi tự nhiên”, nhưng “thân cày khỏe” và “gốc rễ bền”

là cốt “hình thắng biết lấy đạo đức làm đẹp” và “then khóa biết lấy nhân nghĩa

làm gốc”. Hình ảnh “Đài xuân” tượng trưng cho cảnh đất nước thanh bình

Page 80: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

cũng được Nguyễn Trực. Nguyễn Duy Tắc dùng làm chủ đề ở các bài phú

của họ. Hưởng ứng tờ “Chiếu khuyên dụ các hào kiệt” của Lê Thái Tổ (do

Nguyễn Trãi viết thay) Mộng Tuân đã lấy văn chương phục vụ chính trị, cổ võ

tinh thần giúp nước. Lúc đó, không phải không có hạng người máy móc đến

gàn như Lý Tử Cấu. Lý Tử Cấu đậu Thái học sinh đời Hồ, không làm quan

với nhà Hồ, không làm quan với nhà Minh, nhưng đến khi Thái Tổ cầu hiền,

Mộng Tuân tiến cử ông, ông cũng không chịu ra giúp nước. Nguyễn Phu Tiên

làm phú: “Ngọc lành đợi giá”, dụng ý khuyên một số sĩ phu, hoặc máy mốc,

hoặc dè dặt, không chịu ra giúp nước, hoặc cũng quá tự cao tự đại, rồi đâm

ra bị quan, thiếu tin tưởng ở hiện thực mà “buông suông than phượng” và

“Rơi lệ hão thương dân”. Trong bài phú “Gà gáy”, Nguyễn Thiên Túng phê

bình mạnh hơn tính cố chấp lạc hậu đó của nhà nho lúc bấy giờ”

“Chó sủa gà gáy vang lừng bốn bên,

Chín cá bảy đức truyền tụng khắp nơi

Liền vách mà mọi nhà đều tục tốt đáng khen,

Khắp xóm tuyệt không nghe tiếng kêu bất bình thắc mắc.

Kẻ sĩ sinh ra đời này, cần phải phấn chấn bay nhảy,

Bắt chước chim phượng hoàng kêu to: chớ rỗi đâu còn bàn đến

những điều bã giã của cố nhân?”

(Phú gà gáy)

Mộng Tuân chẳng những là một nhà chính trị mà còn là một nhà thơ.

Ông không quên ca ngọi tinh thần tự hào dân tộc của nhân dân ta ở nhiều bài

thơ như những bài “Đọc Lam sơn thực lục”, “đề Động Hoa lư”. Tâm hồn của

ông rung động nhiều khi tả cảnh thiên nhiên. Có lúc ông say mê “nửa vành

trăng” sau cây mai và tưởng tượng như thấy “Hằng nga mới ngủ dậy phong

tình và đẹp đẽ làm sao”. Ông đã nhiều lần ngồi “xem hoa mai rụng”, “câu dưới

trăng”, “Nghe tiếng ve kêu” hay đón một làn “hương rau cần bên sông”, để

cho tâm hồn thanh thoát. Mộng Tuân đã chú ý đến “mỹ nhân”, như trong bài

Page 81: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

“Ca ngợi Ngu Cơ”, trong bài “Đề tranh Minh Phi”, cố nhiên mới chú ý đến “mỹ

nhân” trong Bắc sử.

Lý Tử Tấn (1378 – 1455) (húy là Tấn, Tử Tấn là tên tự) người làng

Triều đông, huyện Thường tín, Hà sơn bình, sau ông đổi là Nguyễn Tử Tấn.

Năm 1400, ông đỗ Thái học sinh một lần với Nguyễn Trãi và Nguyễn Mộng

Tuân, ông lại theo giúp Lê Lợi, giữ chức Văn cáo, còn để lại Chuyết am tập

gồm thơ và phú.

Thơ của Tử Tấn có khí vị “thanh bình” yêu đời vui đạo:

“Đọc sách biết mùi đạo tốt

Vỗ gươm vui đời thanh bình

Ngửng cúi trong khoảng trời đất

Lẳng lặng mối tình nghìn xưa…”

Độc thư vị đạo du – Phủ kiếm lạc thi thánh

– Phủ ngưỡng thiên địa gian - Liêu liêu vạn cổ tinh

(Tạp hứng)

Ông thường ước ao như “chim bằng, chim yến”, “con nga, con rùa”

được “rong chơi trong khoảng trời đất, mừng được gặp cảnh thích nghi” (Tạp

hứng). Khí vị “thanh bình” đó được mô tả trong nhiều bài thơ khác của ông

như những bài Hạ nhật, Sơ thu:

“Giấc mơ cửa sổ chim ca hót

Ngày vắng lò hương khói dạt dào”

(Mộng hồi song lạc sổ thanh điểu,

Trư vĩnh yên tiêu nhất triện hương – Hạ nhật).

“Bình sẵn rượu ngon vui cứ nhắp,

Đợi gì giậu cúc nhi vàng phơi?”

(Tôn tiền hữu tửu tu hành lạc,

Page 82: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Mạc đãi đông ly cúc nhị hoàng - Sơ thu).

Đặc biệt thơ Tử Tấn đã có những nét tả thực khá hấp dẫn. Cảnh

mùa hè là cảnh “hoa lựu trước sân”, “hòe buông mành lá”; cảnh

mùa thu là cảnh “cua vàng gạch óng”, “phật thủ da xanh”. Đôi khi,

rút ý từ một câu văn cổ “nước trời một sắc”, nhưng Tử Tấn đã

sáng tạo thành những câu độc đáo, đọc lên thấy ý thơ quyện lấy

nhạc thơ thật là thú vị:

“Nhất phần thu sắc quân thiên sắc,

Tứ cố sơn quang tiếp thủy quang

(Một phần sắc thu lẫn với sắc trời,

Bốn bề ánh núi tiếp với ánh nước)

Nhưng phần chủ yếu trong sáng tác của Tử Tấn là những bài phú ca

ngợi tinh thần yêu nước chống xâm lăng. Trong hơn hai chục bài phú của

ông, có những bài như bài Chí linh sơn phú, Xương giang phú đều là những

bài vừa mô tả tinh thần kháng chiến anh dũng của quân dân ta vừa vạch tội

ác đã man của giặc. Bọn cuồng Minh “quân đông như kiến, khoe bộ hùng

cường, lẫn cướp phá phách, dông dỡ ngang tàng”, nhưng cuối cùng, trước

sức mạnh của quân dân ta, nên “toán này xô nhau trở giáo, toán kia bỏ chạy

cùng đàng, xương chất thành núi, máu chảy đầy hang!” (Phú Xương giang).

Cũng như Nguyễn Trãi và Mộng Tuân, Tử Tấn ca ngợi Lê Lợi, vị lãnh

tụ Lam sơn khởi nghĩa, nhưng chính là ca ngợi “đức sáng” của nhà vua biết

lấy nhân nghĩa làm đầu.

“Có đức, công mới lớn, có người, đất mới linh…

Dân mến người chí đức, trời giúp bậc chí thành…”

(Phú Xương giang)

Thấm nhuần được “đức sáng” đó, Lê Lợi đã từng “thả mười vạn hàng

binh, làm sống lại ức triệu sinh dân, hòa chỗ bùn than thành nệm chiếu, biến

nơi tối tăm thành xán lạn…”.

Page 83: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

(Phú Ngôi sao đằng trước)

Tử Tấn đã dùng ngòi bút sinh động của mình mô tả được cảnh đất

nước thanh bình sau cuộc kháng chiến gian khổ:

“Bốn cõi mây mờ quét sạch

Giữa trời ánh sáng huy hoàng…”

Xưa kia Trương Hán Siêu trong bài phú sông Bạch đằng mới chỉ so

sánh trận chống Nguyên của ta có giá trị như trận Hợp phì, trận Xích bích;

nhưng nay, Tử Tấn lại cho rằng trận chống Minh của ta trên sông Xương

giang còn hơn hẳn các trận Hợp phì, Xích bích. Quả vậy ở thời này, lòng tự

hào dân tộc của nhân dân ta được biểu hiện một cách sâu sắc. Phải có

những ý mạnh dạn như vậy, mới lay tỉnh được những “sĩ phu gàn” kiểu Lý Tử

Cấu, cứ khư khư ôm một mối “cô trung không tưởng”, chưa nhận rõ cái khí

thế quật cường của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo tài tình của người anh hùng

đất Lam sơn.

2. Xa hướng thù tạc, ca tụng chế độ phong kiến, ca tụng Lê Thánh Tông.

Như ở phần nhận định chung chúng ta đã nói rõ, những nhà thơ, nhất

là nhà thơ đó lại là quan của triều đình, tất nhiên ít nhiều đều ca tụng chế độ

đương thời. Chỉ có một điều là những nhà thơ xếp vào xu hướng thù phụng,

thường ca tụng chế độ đương thời đó một cách thụ động, đôi khi mù quáng;

đó là những nhà thơ ở nửa đầu thế kỷ như Trình Thanh, Nguyễn Trực hay

những nhà thơ ở nửa sau thế kỷ như Nguyễn Bảo hay Thân Nhân Trung, Đỗ

Nhuận v.v… trong hội Tao đàn. Về thơ văn của Lê Thánh Tông và hội Tao

đàn, chúng ta sẽ nói ở mục riêng. Ở đây, chúng ta chỉ điểm qua vài nét về các

tác giả và tác phẩm tiêu biểu khác mà thôi.

Trình Thanh (1413 – 1463), nguyên họ Hoàng, hiệu là Trúc khê, người

làng Lương xá, huyện Chương đức (Chương mỹ, Hà sơn bình), thuở hàn vi

thường dạy học ở xã Cổ chi (nay là Tân chi) thuộc Hà bắc. Ông đỗ đầu khoa

Hoành từ năm 1431 đời Lê Thái Tổ, làm đến Tham tri Hải tây. Có đi sứ Trung

Page 84: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

quốc hai lần (1443 và 1459). ÔNg còn để lại lập thơ Trúc khê, như những bài

“Ngày đầu năm chúc thọ Úy trai tiên sinh”, bài đề tại “Hiên Dung tất của quan

Trực học sĩ họ Chu” mà lời lẽ khô khan, trong khuôn khổ lễ giáo phong kiến,

ca tụng “thủ tiêu dao” thuở bình thời.

Nguyễn Trực (1417 – 1473), tự là Công dĩnh người xã Bối khê, huyện

Thanh oai, (tỉnh Hà sơn bình) đậu Trạng nguyên năm 1442 thời Thái Tông,

ông là người đứng đầu trong các bia Tiến sĩ dựng ở Văn miếu Hà nội. Khi

Nhân Tông bị giết, ông cáo quan về sau lại được Thánh Tông vời ra giao cho

chức Hàn làm viện thừa chỉ kiêm Quốc tử giám Tế tửu. Ông có đi sứ Trung

quốc và được sĩ phu Trung quốc công nhận là hay chữ; ông còn để lại hai tập

thơ văn Sư liêu tập và Bói khê tập. Cũng như thơ của Trình Thanh, thơ

Nguyễn Trực thuộc vào loại thơ “mực thước” trong khuôn khổ phong kiến, do

đó khô khan. Qua thơ văn của ông, cũng thấy được đôi nét tự phụ của ông

Trạng trẻ tuổi nổi tiếng trong hai nước Trung Việt:

“Ba ngàn chữ đối trên sân lớn,

Năm chục năm qua trải cuộc đời…

(Đại đình tằng đối tam thiên tự,

Phù thế hư kinh ngũ thập niên)

(Bính tuất ngẫu thành)

Nguyễn Bảo, hiệu là Châu khê, người xà Phương lai, huyện Võ tiêm

(nay thuộc tỉnh Thái hình), đậu Tiến sĩ năm 1472 đời Hồng đức, được đặc

cách vào tòa Đông các, thăng chức Tả tư giảng dạy thái tử (tức là Hiến

Tông). Đời Hiến Tông, ông làm đến Lễ bộ thượng thư, kiêm coi viện Hàn lâm.

Thơ văn của ông do học trò là Trân Củng Uyên sưu tập và đề tựa, đại ý nói

ông thường chủ trọng về nội dung thơ mà ít chủ trọng hình thức thơ: ý là chủ,

lời là phương tiện, khí là vai phò tá mà lý thông qua tất cả… nó như món canh

rau thanh đạm, ít kể biết vị… Sự thật, thơ của ông chẳng qua cũng chỉ có cái

khí vị của lễ giáo phong kiến, luôn luôn tỏ một lòng trung với vua, “nguyện

đem cái chất đã thuần để báo đáp ơn lớn” (Tạ được ban tiền Thông nguyên).

Page 85: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Tuy vậy Nguyễn Bảo có phần nào chán cảnh vinh hoa, muốn rút lui về vui thú

điền viên, nhà thơ “thường mộng góc trời xa” nơi quê nhà, nơi có “mía cạnh

giậu tre”, có “khoai trong đám cỏ”:

“Điền viên nghĩ thật nguồn vui thú,

Dẫu chẳng “hành môn” đói cũng khuây”

(Tưởng đắc điền viên chân lạc thú,

Tuy phi hành bi diệc vong ky).

(Trừng mại thôn Xuân vọng)

Thái Thuận: Tự là Nghĩa hòa, người làng Liễu lân, huyện Siêu loại, nay

là Thuận thành tỉnh Hà bắc, đậu Tiến sĩ năm 1475 đời Hồng đức, giữ chức

Sử quán và Nội các hai mươi năm, được Thánh Tông cho là làm thơ hay và

cử làm Tao đàn sái phu, Tập Lã đường di cảo do con là Thái Khác và học trò

là Đỗ Chính Mô biên chép lại.

Thơ Thái Thuận so với thơ Nguyễn Bảo, có chỗ đặc sắc hơn nhiều, đặc

sắc vì ít theo khuôn sáo thù phụng của hội Tao đàn. Trong Toàn Việt thi lục,

Lê Quý Đôn nhận đinh thơ ông “như được cổ nhân mớm lời cho, rất là mới

lạ…”. Thái Thuận yêu đời, thuần thục, nhưng cũng ưa tự do phóng khoáng,

không bận tâm nhiều về công danh mà ước ao như “con cá lội trong dòng

nước xuân, con chim làm tổ trên rừng” (Cảm hứng). Thân tuy còn nơi hoạn lộ,

mà lòng hướng về thú điền viên; nhưng không phải ông có tư tưởng xuất thế,

ông yêu đời lắm. Ông chỉ muốn có dịp sống nơi đồng ruộng để lòng chan hòa

với thiên nhiên, rung động trước cảnh thú thiên nhiên. Thái Thuận là một thi

nhân có tâm hồn nghệ sĩ, chứ không muốn “làm văn vần” để tán dương Lê

Thánh Tông một cách nhạt nhẽo, khô khan. Cảnh “cửa động tỏa màu thu” của

núi Bão phúc, cảnh “Chuông tối vang sóng, phản chiếu ánh trăng thu” của

chùa Phả lại v.v… đều là những cảnh hấp dẫn tầm hồn nhà nghệ sĩ. Thơ Thái

Thuận có yếu tố hiện thực rõ rệt, ông tả cảnh bằng vài nét đơn sơ, nhưng có

chất lượng. Đây là cảnh “Bến Hoàng giang”:

“Nhà cỏ tuôn làn khói,

Page 86: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Thuyền con ghé mái bồng

Trẻ em ba bốn tốp,

Bắt cây dọc ven sông”.

Và đây là cảnh “Bên dòng Muộn giang”:

“Bãi phẳng triều lên ngập,

Nhà nông sớm vội cày

Vắt trâu nghe mấy tiếng

Cờ trắng giật mình bay”.

Đành rằng phần lớn thơ Thái Thuận cũng có tính chất thù tạc hay ca

tụng chế độ, nhưng rõ ràng có những bài độc đáo, có những nét tươi tắn như

những bài tả tâm sự Hạng Vũ biệt Ngu Cơ, Chiêu quân xuất tái, núi Vọng

phu, Chinh phụ ngâm. Có thể tác giả mượn chuyện xưa để nói chuyện đương

thời, vì thời Thánh Tông nếu nhân dân ta không phải chống nạn ngoại xâm thì

lại bị điều động đi xâm lược Chiêm thành, Lão qua, Bồn man. Tình cảm của

đôi lứa do đó có nhiều chỗ rạn nứt đau thương.

“Tương tư mấy độ đành trong mộng,

Mộng đến bên chàng, chàng biết không?”

(Tạc lai kỷ độ tương tư mộng

Tằng đáo quân biên tri bất tri?)

(Chinh phụ ngâm)

Thái Thuận đã thông cảm mối tình đau đớn của người chinh phụ. Thơ

Thái Thuận quả đã có chỗ vượt ra ngoài khuôn khổ hội Tao đàn, vượt ra

ngoài tính chất thù tạc tầm thường.

Lê Đức Mao (1462 – 1529), người làng Đông ngạc, huyện Từ liêm (nay

thuộc ngoại thành Hà nội). Ông học giỏi, nhưng vì hay làm thơ châm biếm

hào lý nên bị chúng thù, phải dời đến xã Dưỡng hối, huyện Yên lãng, tỉnh

Vĩnh phú. Từ đó, ông có chí học hành, đậu tiến sĩ năm 1505 đời Lê Uy Mục.

Page 87: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Bài “Bát giáp thưởng đào văn” bằng quốc âm do ông sáng tác lúc còn ở quê

cũ vào khoảng cuối thế kỷ XV. Bài này ông làm để cho ả đáo hát vào dịp đầu

xuân để chúc làng; đó là một lối hát nói thời xưa, điệu thơ pha lối nói sử và

pha thể lục bát. Nội dung có tính chất chúc tụng hương thôn bằng nhiều sáo

ngữ, nhưng cũng nói lên được một phần cảnh thanh bình của thời đại Lê

thịnh:

“… Hữu kỳ, thiên tải hạ,

Nguyệt lệnh tứ đương xuân

Lễ nhạc bách niên tu miếu điển

Thăng bình nhất khúc tụng Thần công

Ngự tiền ngào ngạt hương xông

Phượng quanh tịch múa, hoa lồng chén bay

Miếu Chu văng vẳng tàu bày

Thiều xưa chín khúc, tung rày tiếng ba

Mừng xuân xuân yến xuân ca

Bốn dân mưa huệ, trăm nhà gió huân…

Tóm lại, nhìn chung các tác giả ở xu hướng thù tạc, ca tụng chế độ, tuy

có một điểm giống nhau là thỏa mãn với hiện thực, nhưng mức độ từng người

có khác nhau, do đó chất lượng nội dung tư tưởng trong thơ cũng có khác

nhau.

3. Xu hướng bất mãn thời thế.

Ngoài hai xu hướng trên, có một số tác giả, hoặc tác phẩm có xu

hướng bất mãn thời thế. Tuy không phải là một văn phái riêng biệt, mà đây

chỉ là một chiều hướng tư tưởng, tình cảm ngược chiều ngay trong hàng ngũ

công thần, quan lại của nhà Lê. Ngay như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn v.v…

những người có công lao với kháng chiến, những tác giả của những áng văn

hùng tráng như đại cáo Bình Ngô, phú Xương giang, cũng không phải không

Page 88: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

có một tâm tư ưu uất trong cuộc đời của mình. Cái mâu thuẫn trong một con

người đó phản ánh phần nào tính mâu thuẫn nội tại của chế độ phong kiến

mà chúng ta đã nói ở trên. Nguyễn Húc, Lê Thiếu Dĩnh, Nguyễn Phu Tiên,

Nguyễn Thiên Tích đều làm thơ nói lên tư tưởng bất mãn thời thế của mình.

Tư tưởng địa vị, nghi kỵ lẫn nhau đã nẩy nở ngay trong thời kỳ thịnh trị của

Thái Tổ, Thái Tông. Các công thần Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo đã bỏ

mình dưới lưỡi gươm oan nghiệt, chắc hẳn vì những lẽ “vẽ rắn thêm chân”

như Lý Tử Tấn đã nói. Đạo lý phong kiến có nói: làm tôi phải trung thực,

nhưng có ai dũng cảm can gián vua, vạch ra sai trái, thì kẻ đó có khi dù không

bị vua ghét, cũng bi bọn xu nịnh ám hại và may ra nếu không mất đầu, thì

cũng bị mất chức.

Nguyễn Thiên Tích (tự là Huyền khê, người làng Nội duệ, huyện Tiên

sơn, Hà bắc (đỗ thứ 2 khoa Hoành từ một lần với Trình Thanh, ông vốn là

một người tiết tháo, nhưng bị vùi dập nhiều lần, có lúc chán đời, nghĩ mình

như “cánh hoa rơi”, rồi than thở:

“Nực cười công danh như đàn bà xếp giấy

Sợ thay con lạo như trẻ đùa với cát!”

(Công danh tự tiếu phụ toàn chỉ,

Tạo vật kham khinh nhi hí sa!)

(Mạn cảm)

Lê Thiếu Dĩnh, hiệu là Tiết trai, người làng Mộ trạch, huyện Đường an,

con Lê Cảnh Tuân đời Trần, ông còn để lại tập thơ Tiết trai. Bất mẫn với thời

thế, ông đã thầm kín gửi tâm sự qua người cung nhân trong bài “Cung từ”:

“Hoa mới được nâng niu, vì hoa cũ tàn

Người này được yêu dấu, thì người kia bị ruồng bỏ

Nhưng nửa chừng chưa muốn ơn vua dứt,

Son phấn hãy còn gắng điểm trang!”

(Tân hoa hoàn hướng lạc hoa khai,

Page 89: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Đắc sủng nguyên Tông thất sủng lai

Vị hứa quân ân trung đạo tuyệt

Thả tương chỉ phấn cưỡng ai bài!)

Ông lại làm bài thơ vịnh “Cây tùng cao” để tỏ dạ son sắt của mình, mà

Nguyễn Phu Tiên họa lại, có đoạn tỏ ra rất thông cảm với tác giả bài xướng:

“Bình sinh phong tư như băng tuyết

Rắn chắc như cột đá

Cành phát ánh sáng mặt trời mặt trăng

Gốc xuyên mặt nước của rừng suối…

…May được tinh thần vẹn toàn

Không bị rìu búa đụng chạm

Còn lại hình thể cằn cỗi

Gầy nát không còn nguyên như xưa

Nhưng vẫn giữ được tấm lòng chịu rét

Nằm trơ trên núi vắng lúc ban chiều…”

(Bình sinh băng tuyết tư – Lỗi khả hợp trụ thạch

Chi phất nhật nguyệt quang – Căn nguyên sơn toàn mạch…

Sở quý giả thần toàn–Bát vu cân phủ bách

Duy dư yên kiển hình–Tồi đồi phi phục tích

Độc bão tuế hàn tâm–Yển ngọa không sơn tịch…)

Lê Thiếu Dĩnh đã ít nhiều có mối tâm sự như Nguyễn Gia Thiều qua tập

cung oán hay Nguyên Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ ở những thế kỷ sau qua

những bài thơ vịnh tùng của họ.

Nhưng muốn thấy rõ một con người đau đớn, một tâm hồn ưu uất đã

bộc lộ bằng những lời thơ cảm thán và bi thương, thì phải tìm đến Nguyễn

Húc.

Page 90: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Nguyễn Húc: ông tự là Di Tân, hiệu là Cúc trang, quê ở Kệ sơn, huyện

Đông triều. Thân thế ông hiện nay chưa rõ, chỉ biết ông không đậu đạt gì,

nhưng vì hay chữ được cử làm chức Tri phủ khoảng đầu Lê. Ông còn để lại

tập thơ Cưu đài với bài tựa viết vào năm Thuận thiên thứ hai (1429) đời Thái

tổ. Trong tập thơ này, có thể có những bài làm trong thời Minh thuộc như bài

Thương loạn, nói đến cảnh giặc tàn phá đã hai mươi năm. Nhưng có một

điều là tâm sự Nguyễn Húc buồn, cô đơn lắm, cô đơn cho đến lúc chết. Trong

bài thơ tuyệt bút, ông nói rõ lòng mình cô đơn, đau khổ sau khi gấp cuốn Ly

Tao, im lặng, mong chỉ có thể gặp hồn Khuất Nguyên mà ngỏ niềm tâm sự.

Nhưng “biết hồn Khuất Nguyên ở đâu mà làm lễ chiêu hồn?” Phải chăng ông

không xuất thân khoa cử, mặc dù có tài đức mà vẫn không được bạn đồng

liêu kính phục, vẫn không được vua cất nhắc? Phải chăng ông là người luôn

luôn bị bệnh tật, không có điều kiện thi thố tài năng? Chúng ta chỉ biết được là

ông hay nói đến bệnh tật, đến lòng sầu, đến mưa gió, đến mùa thu, đến hoa

tàn lá rụng. Ông làm thơ Trong mưa gió và u sầu. Mưa gió và u sầu lai láng

trong thơ ông, nào là “gió mưa mù mịt”, nào là “than cảnh gió mưa”, nào là

“Khuê nữ buồn đêm mưa”.

“Đêm qua mưa gió dập dìu

Bèm châu nhẹ cuốn hắt hiu bên lầu

Tần ngần khóc tủi than sầu

Sáng ngày lệ ngấn đượm màu áo xiêm…”

(Tạc dạ nam lâu phong vũ cấp

Ngọc câu tà quải lang can khấp

Hiển lai thấp thúy mãn triêm y…)

(Phong vũ khuê tư)

Có lúc, nhà thơ cảm thấy trong cảnh “mưa dầm”, “từng giọt, từng giọt

mưa rơi chảy ở trong lòng mình”. Trong nhiều bài thơ khác như Biệt ly lúc qua

đò, Thu Khuê oán, Từ lúc chàng ra đi, Ngâm lúc có bệnh, Buồn nhớ trên

Page 91: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

sông…, chúng ta đều đọc thấy một điệu tình cảm đau thương ấy, đau thương

có lúc buồn không nói. Một buổi chiều lạnh, ông đứng trước cây thơm, lòng

im không nói, vì “ai mà cắt nghĩa được tình sầu?” (Khôngnói). Đặc biệt,

Nguyễn Húc đã chú ý nhiều đến tình người chinh phu, tình kẻ khuê phòng,

ông trân trọng những “mối tình đẹp” của người phụ nữ. Ông đi trước Thái

Thuận và có nhiều nét trữ tình hơn Thái Thuận nhiều. Tả lòng khuê nữ ngủ

dậy một sáng mùa thu, có lá rụng trước cửa sổ, có hơi sương thấm lạnh vào

đài gương, ông viết:

“Tỉnh mộng đem lụa lượt ra cắt tay áo

Tưởng cắt “tiếng thu” đem gửi cho người phương xa…”

(Mộng hồi kinh khỉ tài la tụ,

Tế tiễn thu thanh ký viễn phương)

Thơ Nguyễn Húc có nét độc đáo nhưng tình cảm ủy mị và tư tưởng tiêu

cực. Ông ít dùng thể Đường luật, mà dùng nhiều lối ca khúc, do đó không bị

hình thức gò bó, để diễn tả tâm sự của mình. Đọc thơ ông, chúng ta thấy một

nỗi cô đơn toát lên rõ rệt; ông oán trách thời cuộc, thèm khát một cuộc sống

biệt lập, có thể lạc lõng, giữa khung cảnh tưng bừng của đất nước sau thắng

lợi của cuộc kháng chiến oanh liệt.

Chương II. NGUYỄN TRÃI (1380-1442)I. THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP NGUYỄN TRÃI

Ông hiệu là Ức Trai, chánh quán làng Chi ngại, huyện Chí linh (Hải

hưng). Mấy đời trước tổ tiên ông mới dời sang ngụ cư làng Ngọc ổi, tức làng

Nhụy khê, huyện Thượng phúc (nay là xã Quốc Tuấn, huyện Thường tín, tỉnh

Hà sơn bình). Thân phụ Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long, xuất thân bình

dân, đậu Thái học sinh năm 1374 đời Trần Duệ Tông và mẹ là Trần Thị Thái,

con quan tư đồ Trần Nguyên Đán mà lúc đó quyền ngang Tể tướng tại triều.

Theo lệ nhà Trần, con bình dân mà lấy con gái hoàng tộc, thì dù đậu cao cũng

không được làm quan, Ứng Long buộc phải ở nhà dạy học cho qua thời. Kịp

khi Hồ Quý Ly lên làm vua, ông đổi tên là Phi Khanh và ra làm quan, các con

Page 92: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

ông phần nhiều cũng lĩnh quan chức nhà Hồ. Cũng khoảng đó, Nguyễn Trãi

đậu Thái học sinh và làm chức Ngự sử đài chính chưởng.

Nguyễn Trãi sinh và lớn lên trong khi nước nhà làm vào tình trạng rối

ren, nhà Trần đổ nát, giặc Minh tràn sang. Phi Khanh bị giặc bắt giải sang

Trung quốc. Nguyễn Trãi và em là Phi Hùng lẽo đẽo theo cha. Nhưng rồi

Nguyễn Trãi nghe lời cha trở về quyết tâm rửa hận. Không may ông bị sa vào

tay giặc, xuýt bị Trương Phu giết; Hoàng Phúc khá thâm hiểm định giam lỏng

ông, để rồi dần dà hòng thuyết phục mà dùng ông sau này. Sống những ngày

tù túng đó, ông đã tự vịnh bằng những câu:

“Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải.

Góc thành Nam lều một căn”.

Trải bao năm, Nguyễn Trãi vẫn giữ được lòng sắt son và cũng trong

những năm đó, ông nung nấu chí căm thù. Chắc hẳn phong trào yêu nước

chống xâm lăng như những cuộc khởi nghĩa của Phạm Trấn ở Hải dương,

của Trần Giản Định và Trần Quý Khoáng ở hạt Thanh Nghệ, đều có ảnh

hưởng đến tâm hồn Nguyễn Trãi. Khi tìm ra được hướng đi, ông quyết tâm

thoát khỏi nanh vuốt giặc, kết bạn với Trần Nguyên Hãn, đến Lỗi giang yết

kiến Lê Lợi, dâng bài sách Bình Ngô, được Lê Lợi trọng dụng, đãi vào hàng

quân sư chuyên coi việc quân trung từ mệnh suốt thời gian kháng chiến, luôn

luôn ở cạnh Lê Lợi để tham gia vào việc bàn tính mưu lược. Lúc này ông đã

ngoài 40 tuổi. Khi kháng chiến thành công, ông thừa mệnh Thái Tổ soạn bài

Đại cáo Bình Ngô và từ chức Hàn lâm thừa chỉ, ông được thăng chức Nhập

nội hành khiển kiêm Thượng thư bộ Lại, kiêm chức Khu mật viện. Các thư từ

giao thiệp với nhà Minh hay chiếu dụ trong nước đều do ông soạn. Mùa xuân

năm 1428, triều đình định công ban thưởng, ông được phong Quan phục hầu

và theo quốc tính. Trong thời kỳ kiến thiết quốc gia, ông góp phần rất lớn

trong việc xây dựng kỷ cương, định pháp chế, đặt ra điển lễ cho triều đại mới.

Năm 1429, ông trong ban giám khảo khoa thi Hoành từ. Sau khi Thái Tổ mất

mùa xuân năm 1433, ông vâng soạn bài văn bia nổi tiếng Vĩnh lăng, nay còn

ở Lam sơn.

Page 93: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Sang đời Thái Tông, Ngmễn Trãi vẫn được trọng dụng. Tính ông cương

trực nên bị bọn quyền thần Lê Sát, Lê Văn ghen ghét. Lê Sát lúc này làm tể

tướng lại tham ô, hống hách, mà vua hãy còn trẻ tuổi, ham chơi bời. Năm

1434, các quan đại thần quan tâm đến thời cuộc bèn cử một đoàn sáu người

trong đó có Nguyễn Trãi, Trình Thuấn Du thay nhau vào tòa Kính diên dạy

vua học tập, nhưng vua không nghe. Trong thời kỳ này, những khi nhàn rỗi,

ông soạn ra quyển Dư địa chí và năm 1435 dâng lên vua xem. Năm 1437,

Thái Tông sai Nguyễn Trãi cùng hoạn quan Lương Đăng chế định nghi

trượng của vua và âm nhạc triều miếu; Nguyễn Trãi không đồng ý với Lương

Đăng ở nhiều điểm, nên cáo từ; khi Đăng làm xong, ông cùng một số đại thần

làm sớ can ngăn. Vì việc này mà quan tham nghị Nguyễn Liễu bị thích chữ

vào mặt và bị đầy đi xa. Nguyễn Trãi thấy những người cương trực vắng vẻ ở

triều đình, trong khi lũ quyền thần đầy rẫy, nên không chung sống với chúng

được, bèn xin từ quan về ẩn ở Côn sơn. Trong thời gian này, ông làm nhiều

thơ ca bằng Hán và Nôm một số bài còn truyền tới ngày nay.

Thái Tông lớn tuổi, nhận thấy cần có Nguyễn Trãi giúp việc, lại vời ông

về triều, ban cho chức tước quan trọng. Ông trở lại làm việc tích cực phò vua

giúp nước. Năm 1442, ông ở trong ban giám khảo kỳ thi Tiến sĩ đầu tiên.

Đang lúc ông được nhà vua trọng dụng như vậy, thì bọn quyền gian đã tìm

cách ám hại ông. Việc biến Lệ chi viên (Thái Tông chết) là một cái cớ để

chúng buộc tội ông giết vua và kết án tru di tam tộc (16 tháng 8 năm Nhâm

tuất). Sự thật, ngay khi còn ngồi trong tù chờ án, ông đã thấy được sự đời

đen bạc, nhưng biết nói cùng ai – Sau khi ông bi tội, thơ ca của ông thất lạc

nhiều. Lê Thánh Tông lên ngôi đã minh oan cho ông, cho gia đình ông, ban

lệnh đi tìm con cháu ông cũng như di cảo thơ văn của ông (1467).

Nhìn lại cuộc đời Nguyễn Trãi, chúng ta thấy ông là một bậc sĩ phu

chân chính, đã từng chịu đựng gian khổ, cùng Lê Lợi và bộ tham mưu Lam

sơn khởi nghĩa quyết tâm lãnh đạo kháng chiến thành công. Hòa bình lập lại,

ông lại dốc lòng dốc sức vào việc kiến thiết quốc gia, bất chấp cả uy lực bọn

quyền thần, bất chấp cả tuổi già, sức yếu. Ông biết dùng văn chương phục vụ

Page 94: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

kháng chiến, quả là tấm gương nhân sĩ yêu nước vào bậc nhất thời bây giờ,

là ngôi sao Khuê của thế kỷ XV, đúng như lời Lê Thánh Tông đã nhận định:

“Ức Trai lòng sáng rực sao Khuê” (Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo). Lời

chua thèm của nhà vua đã soi sáng cho tâm sự của bậc anh tài đất Nhụy khê:

“Ức Trai tiên sinh đương lúc Thái Tổ mới sáng nghiệp theo về Lỗi giang, trong

thi bàn kế hoạch ở nơi màn trướng, ngoài thì thảo văn thư dụ các thành khấu,

văn chương tiên sinh làm vẻ vang cho nước, rất được yêu tin quý trọng”.

Nguyễn Trãi đã dùng tài văn học của mình đế phục vụ kháng chiến và

phục vụ xây dựng hòa bình. Tác phẩm văn học và chính trị của ông có nhiều,

nhưng, ngày nay chỉ còn lại một số.

Quân trung từ mệnh do Trần Khắc Kiệm đời Hồng đức sưu tập. Đó là

những thư từ gửi tướng tá nhà Minh hoặc những chiếu dụ gửi quan lại trong

nước, soạn trong thời gian kháng chiến, khoảng 1423–1427.

Văn loại gồm các bài chiẽu, biểu làm thay cho Lê Lợi, Băng hồ di sự lục

soạn năm 1428, văn bia Vĩnh lăng soạn năm 1435.

Ức Trai thi lập bằng Hán văn cũng do Trần Khắc Kiệm sưu tập, gồm

105 bài, trong đó có bài Côn sơn ca nổi tiếng.

Dư địa chí (1415) viết theo lối Vũ cống trong Kinh thư, cho nên cũng gọi

là An nam Vũ cống. Sách này lược khảo về địa dư chính trị các triều đại đời

Lê, nhưng có kê cứu gốc tích từ xưa, nói rõ các đạo trong nước, núi sông,

sản vật, các phủ, huyện, châu, xã, thôn trong mỗi đạo.

Bài Bình Ngô đại cáo ghi trong quyển Lam sơn thực lục

Quốc âm thi tập tức quyển 7 trong Ức Trai di tập. Đây là tập thơ quốc

âm độc nhất của ông còn lại. Tập này gồm 254 bài, chia làm 4 mục: Vô đề (có

14 chủ đề gồm 192 bài). Thời lệnh môn (9 chủ đề gồm 21 bài). Hoa mộc môn

(23 chủ đề gồm 34 bài). Cầm thú môn (7 mục gồm 7 bài).

Ngoài ra, còn một số tác phẩm hiện nay chưa tìm thấy: Gia từ đại lễ,

Luật thư v.v…

Page 95: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Cuốn Nguyễn tướng công Gia huấn ca lâu nay cũng lưu truyền là của

ông, nhưng xét lời văn mới quá, giống như văn thế kỷ 18,19 về sau, do đó

không phải là của ông.

II. NGUYỄN TRÃI QUA THƠ VĂN CỦA ÔNG

A. NGUYỄN TRÃI, MỘT NGƯỜI YÊU NƯỚC, YÊU NHÂN NGHĨA

Thông thường mà nói thì lòng yêu nước bắt nguồn từ lòng yêu những

người thân thích, yêu làng mạc, yêu quê hương vài cảnh tình quen thuộc, với

non sông gấm vóc v.v… Nguyễn Trãi cũng có những tình cảm chung như vậy.

Hơn nữa, từ năm lên sáu, Nguyễn Trãi có dịp sống với ông ngoại ở động

Thanh hư thuộc Côn sơn, một nơi cảnh trí xinh tươi và chính cũng là vùng

quê hương của tổ tiên ông ở làng Chi ngại. Đương nhiên, những nhân tố nói

trên không phải không có tác dụng đến tâm tư của ông, nhưng nét nổi bật

trong tư tưởng của ông là chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa nhân

đạo chân chính. Ở ông, lòng yêu nước căm thù và lòng yêu nhân nghĩa quyện

lấy nhau, cái này thâm nhập thúc đẩy cái kia thật khó lòng mà đi diễn tả. Có

điều rõ ràng là Nguyễn Trãi sinh ra trong hoàn cảnh nước nhà rối ren, trong

hoàn cảnh chế độ quý tộc nhà Trần đương tan vỡ. Nguyễn Trãi lớn lên trong

lúc giặc Minh đã xâm chiếm nước nhà, vơ vét của cái, giết hại nhân dân, giết

hại sĩ phu yêu nước. Lưỡi gươm tàn bạo của giặc đang kề cổ cha của ông, kề

cổ bản thân ông, kề cổ biết bao nhiêu “sinh linh” vô tội. Thù nước và thù nhà

là một, giải phóng cho nước tức là tự giải phóng cho mình. Cùng với nhân

dân sống trong áp bức và đau thương, Nguyễn Trãi đã tiếp thu được truyền

thống anh dũng bất khuất của dân tộc, do đó đã cùng nhân dân vùng lên

chống giặc cứu nước. Muốn “yên dân” thì trước phải lo “trừ bạo”. Thế cứu

nước như cứu lửa. Lời dặn cuối cùng của thân phụ ông còn văng vẳng bên

tai: Ta già rồi chết cũng không hối hận gi nữa… Còn con, ta khuyên con nên

trở về. Con là người có học có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù

cho cha, như thế mới chính là đại hiếu. Lẽ phải như vậy nhưng việc làm thế

nào? Nguyễn Trãi là một bậc thâm nho, thận trọng, tất nhiên phải trù tính, suy

nghĩ chín chắn, trong khi đó, bọn giặc, con cáo già Hoàng Phúc và bè lũ tay

Page 96: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

sai, không phải không biết tìm hết phương kế để thuyết phục, dụ dỗ con

người anh tuấn đó. Nhưng cũng trong khi đó, nhiều cuộc khởi nghĩa liên tiếp

từ Hải dương, Sơn nam, Thanh hóa, Nghệ an v.v… đều vang dội đến tâm

hồn trong sáng của ông. Cái mà ông phải suy nghĩ nhất, cái đập vào tâm trí

ông một cách mạnh mẽ nhất, cụ thể nhất, đó là tội ác của giặc. Chế độ cai tri

của nhà Minh ở nước ta là một chế độ tàn khốc chưa từng thấy từ trước đến

bây giờ. Để đạt mục đích đồng hóa dân tộc ta, chúng đã áp dụng một chính

sách thu thuế nặng, nặng hơn đời Hồ về trước ở ta và cũng nặng hơn cả ở

Trung quốc, chúng còn áp dụng một chính sách văn hóa nô dịch, một chế độ

hình phạt dã man như rút ruột người treo trên cày, nấu thịt người lấy dầu thắp

đèn, nướng sống người làm trò chơi cho quân lính xâm lược v.v… Sau này,

ông đã phản ánh những thực tế ấy vào trong công văn, chiếu biểu mà ông

vâng mệnh làm thay cho Lê Lợi, thí dụ trong bài “Chiếu răn các quan lại

không được tham ô và lười biếng”, ông có nhắc lại tội ác của giặc trong thời

Minh thuộc: “… Chuyên việc giết chóc để thị uy, coi mạng người như có rác,

bắt tù vợ con của dân ta, đào lăng tẩm của nước ta, cấm cá mắm để làm khổ

dân ta về việc ăn, đòi lụa là để cướp áo của dân ta. Vàng ngọc vét cho kỳ hết,

tê voi bắt cống hiến gian lao. Chính thì hà khắc, hình thì thảm thê. Dân không

đường sống, kẻ vô tội kêu trời, người trung nghĩa nghiến răng, đều nguyện

một chết để diệt thù…”, ý đó được diễn tả cô đọng hơn dưới những hình

tượng nghệ thuật trong bài Bình Ngô đại cáo:

“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Ngưòi bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập

thuồng luồng

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước

độc…

Nặng nề những nỗi phu phen

Tan tác cả nghề canh cửi…” (!)

Page 97: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Nguyễn Trãi viết thay cho Lê Lợi để biểu hiện mối căm thù sâu sắc.

“Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống…”

nhưng chính cũng để tự biểu hiện mối căm thù của mình và hơn nữa để biểu

hiện mối căm thù của toàn dân tộc. Tất cả thực tế đau xót do giặc Minh gây ra

cho dân tộc ta không phải Nguyễn Trãi mới được mục kích trong thời gian

giúp Lê Lợi, mà ông được mục kích từ lâu, nhất là từ khi còn bị giam lỏng ở

thành Đông quan. Đứng trước thực tế đau xót đó, một người nghĩa khí như

Nguyễn Trãi không thể không cùng dân tộc vùng lên quyết tâm rửa hận cho

nhà, cho nước. Trong khuôn khổ chế độ phong kiến, lòng yêu nước phải gắn

với lòng trung quân, cho nên để biểu hiện lòng yêu nước căm thù của mình,

việc đau tiên là Nguyễn Trãi phải tìm minh chúa, phải phò một minh chúa. Yêu

nước là phò minh chúa, nhưng chính cũng là phò “đạo thánh nhân”. Giai cấp

phong kiến Việt Nam quả đã trưởng thành: nói đến quốc gia, không phải chỉ

nói đến đất nước, càng không phải chỉ nói đến quyền lợi riêng của một nhà,

hay chỉ nói đến bổng lộc, thái ấp của riêng ai, mà chính phải nói đến kỷ cương

một xã hội có văn hiến, có phép tắc, có tổ chức. Quan niệm này ăn sâu vào

tâm lý tầng lớp sĩ phu phong kiến mãi mãi và non năm trăm năm sau, Phan

Đình Phùng vẫn nhắc lại ý đó trong bức thư trả lời Hoàng Cao Khải: “Nước ta

nghìn năm nay đất không rộng, quân không mạnh, của không giàu, cái trông

cậy để lập quốc chỉ là năm đạo cương thường như đạo vua tôi, đạo cha con

mà thôi…”.

Lòng yêu nước của kẻ sĩ gắn liền với lý tưởng của họ về chế độ.

Nguyễn Trãi có ý thức rõ rệt về trách nhiệm của một bậc sĩ, đại phu. Phải giúp

nước, phò vua “đương lúc nghĩa binh mới nổi, thế giặc đang cương làm trai

phải có chí anh hùng.

“Chí nuốt giặc Ngô, ai là Văn Chủng, Phạm Lãi?

Muốn đẩy nghiệp Hán, ai là Trần Bình, Trương Lương?”

(Phú núi Chí linh)

Page 98: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Hơn lúc nào hết, nợ nước thù nhà, quyền lợi của giai cấp, quyền lợi của quốc

gia gắn liền với nhau, nhất trí với nhau. Cái nợ “quân thân” đó là điều mà

Nguyễn Trãi luôn luôn canh cánh bên lòng:

…”Bui có một niềm chăng nỡ trễ

Đạo làm con mấy đạo làm tôi – Ngôn chí 1”.

… “Quân thân chưa báo lòng canh cánh

Tình phụ cơm trời áo cha…–Ngôn chí 7”.

Nguyễn Trãi thường nhắc đến hai chữ “quân thân” trong nhiều bài thơ

quốc âm và Hán sáng tác trong nhiều chặng khác nhau của cuộc đời ông. Bài

Huy Bích trong “Lã trung tạp thuyết” đã phải khen: “Lời thanh ý mạnh không

quên quân thân”. Yếu tố dân tộc trong tư tưởng Nguyễn Trãi khá rõ rệt: yếu tố

dân tộc đó được khơi lên, vun xới từ trong thực tế đau xót của nước ta, của

dân ta thời Minh thuộc. Chính nhờ vậy mà chủ nghĩa yêu nước của Nguyễn

Trãi đã chứa đựng yếu tố nhân dân. Nói một cách chính xác hơn, quan điểm

“thân dân” thể hiện khá rõ rệt trong chủ nghĩa yêu nước của ông.

Qua thơ văn, Nguyễn Trãi thường nói đến quan điểm của mình về chủ

nghĩa nhân đạo, về nhân nghĩa. Quan điểm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi có

yếu tố thân dân rõ rệt. Như chúng ta đã nói ở phần “đặc điểm”, vì hoàn cảnh

xã hội nước ta lúc bấy giờ khác hơn với xã hội thời Khổng, Mạnh, cho nên

không phải ngẫu nhiên mà quan điểm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi có nhiều

yếu tố dân tộc và dân chủ. Thay lời Lê Lợi, trong nhiều công văn chiếu biểu,

Nguyễn Trãi thường nhắc đến ý “khuông phù vạn dân”, “vì dân cứu nạn”. Dân

đây không phải để chỉ một tầng lớp thống trị mới trên vũ đài chính trị thời

Xuân Thu Chiến quốc mà chính để chỉ tầng lớp nông dân và nông nô nước ta

thời Lam sơn khởi nghĩa; như Nguyễn Trãi nói về Lê Lợi:

“Nhớ xưa ở Lam sơn đọc binh thư,

Đương lúc đó chí nhà vua đã ở nơi dân xanh đầu”.

(Ức tích Lam sơn ngoạn vũ kinh,

Page 99: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Đương niên chí dĩ tại thương sinh)

(Hạ qui Lam sơn)

Rải rác trong nhiều bài thữ quốc âm, Nguyễn Trãi thường cũng nói đến ý đó:

“ý thân dân”, đối với bản thân mình:

“Ăn lộc đều ơn kẻ cấy cày”

(Bảo kính cảnh giới 19)

Nguyễn Trãi cùng Lê Lợi có dịp sống gần nhân dân, nên đã ít nhiều thấy

được công lao của nhân dân và đã thấy rõ sức mạnh của nhân dân:

“Làm lật thuyền mới biết dân (mạnh) như nước”

(Phúc chu thủy tín dân do thủy) (Quan hải)

Dân có thể “lật thuyền” nhưng nếu thuyền biết phục vụ dân, thì dân lại “chở

thuyền” (Tải chu, phúc chu giả, dân dã).

Nắm được phần nào qui luật biện chứng đó, Nguyễn Trãi đã cùng Lê

Lợi dựa vào quan điểm “thân dân” mà tổ chức và bồi dưỡng nghĩa quân,

đồng thời cũng dựa vào quan điểm “thân dân” mà giáo dục nghĩa quân. Quả

vậy, Lê Lợi đã tranh thủ được sức mạnh vô địch của quần chúng. “Đại Việt sử

ký” của Ngô Sĩ Liên chép: “Nhà vua tới Nghệ an ra lệnh cho các tướng rằng

dân ta khổ với quân giặc đã lâu. Phàm đến châu huyện nào, tơ hào không

được xâm phạm. Nếu không phải là trâu thóc của bọn ngụy quân thì dầu có

đói thế nào đi nữa, cũng không được động đến. Lúc đó quân sĩ ba ngày chưa

được ăn, mà không ai dám sai phạm. Dân thấy pháp lệnh nghiêm như thế,

bèn đem hết trâu thóc của người Minh ra cấp cho quân sĩ…”. Phần nào chính

sách đó đã thắt chặt ý “tình quân dân”, đồng thời gây ý thức yêu nước căm

thù cao độ cho mọi tầng lớp. Phàm những dân ở gần thành giặc, tơ hào ta

không xâm phạm. Từ đó dân cả một lộ Thanh Hóa cùng thân thuộc, bạn cũ

của nhà vua, đều tranh nhau tới cửa trại quân, xin liều mình hết sức để mưu

việc báo đến (Lam sơn thực lục). Nhân tố quyết định cuộc chiến thắng chống

Minh là ở đó.

Page 100: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi không mơ hồ, mà có một nội

dung thiết thực, tương đối cụ thể, đó là yêu nhà, yêu nước, yêu dân, chống

cướp bóc, chống xâm lăng, ghét vũ lực, ghét quyền mưu; tư tưởng nhân

nghĩa đó rõ ràng xuất phát từ cơ sở thực tế chống giặc cứu nước của nhân

dân ta. Chính Nguyễn Trãi đã nắm được vũ khí đó để đập mạnh vào miệng

lưỡi giả nhân, giả nghĩa của kẻ thù xảo quyệt khi chúng đưa ra luận điệu: phù

Trần diệt Hồ. Trong bức thư số 8 trả lời tướng giặc là Phương Chinh, ông đã

vạch mặt hắn như sau:

“Phàm mưu đồ việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, làm nên công lớn

phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Chỉ có nhân nghĩa kiêm toàn thì công việc mới

trôi chảy được. Nước mày nhân việc nhà Hồ lỗi đạo, mượn cái tiếng “thương

dân đánh tội”, để thỏa cái thực “cướp của giết người”, xâm đoạt bờ cõi ta, săn

bắt dân sinh ta, nặng thuế nghiêm hình, tìm tòi vật lạ, dầu kẻ tiểu dân ở trong

thôn xóm cũng không thể sống yên, nhân nghĩa mà như thế ư?…”.

Trong nhiều thư từ địch vận gửi Vương Thông, Phương Chính ông đều

nhắc lại ý đó và nhiều lần ông đã đập mạnh vào tư tưởng xảo trá của Phương

Chính: “Bảo mày thằng giặc dữ Phương Chính: ta nghe bực danh tướng quý

nhân nghĩa mà khinh quyền mưu. Chúng mày quyền mưu còn chưa đủ, há

nói gì nhân nghĩa?”.

Nguyễn Trãi đã góp phần cùng Lê Lợi về đường lối kháng chiến, và

một khi nghĩa quân biết: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để

thay cường bạo, thì đã tạo ra được một quang cảnh tưng bừng quân dân nhất

trí:

“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”.

“Sĩ khí” như vậy, “quân thanh” như vậy, tất nhiên phải có những: “Trận

Bồ đằng sấm vang chớp giật”, những “Miền Trà lân trúc chẻ tro bay”, phải có

chuyện “Đánh một trận sạch không kình ngạc”, phải có chuyện “Đánh hai trận

tan tác chim muông”. Còn bọn giặc làm việc phi nghĩa thì sao? Chúng chỉ gây

Page 101: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

ra cảnh “máu chảy thành sông”, “thây chất đầy nội”, để rồi chuốc lấy bại vong

một cách thảm hại:

“Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân”.

và cuối cùng, để rồi toàn bộ đầu hàng nhục nhã, vì tham sống sợ chết:

“Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội

Thượng thư Hoàng Phúc giơ đầu tự trói ra hàng…”

(Binh Ngô đại cáo)

Yêu nước, yêu nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã suốt đời đấu tranh cho

hạnh phúc và hòa bình của dân tộc. Đương nhiên, đối với giặc, không thể nói

hòa bình suông với chúng được, mà phải có thực lực chiến đấu. Nhưng trong

cuộc chiến đấu tàn khốc quân dân hai nước, Nguyễn Trãi cố gắng dùng “ngòi

bút” để thuyết phục quân thù, đánh vào cân não chúng, làm cho chúng phải

đầu hàng từng bộ phận, do đó quân dân hai nước cũng đỡ một phần máu đổ

xương rơi. Thí dụ: tướng Thái Phúc nhà Minh đã nghe theo tiếng nói của

nhân nghĩa ngả về phía ta, làm cho mấy căn cứ của giặc bị tan vỡ, trong đó

có thành Xương giang là một thành trọng yếu. Trong một bức thư gửi Thái

Phúc, có đoạn Nguyễn Trãi viết:… “Từ nay giải binh, khiến cho nước Nam

khỏi cái vạ can qua còn hạnh phúc nào bằng. Thế mới gọi là bậc quân tử trí

cơ. Tình giao hiểu của chúng ta chí thiết, trăm nám không thể nào quên

được… Nguyễn Trãi không phải chỉ biết có hạnh phúc của nhân dân ta,

không phải chỉ muốn hòa bình cho dân tộc ta. Lòng yêu nhân nghĩa của

Nguyễn Trãi rất bao la. Nhân nghĩa không phải chỉ riêng cho một nước, ông

ước mơ “muốn đưa nước hoa tan chia cho bốn biển” (Nguyên bả lan thang

phân tứ hải) – (Đoạn ngọ nhật). Khi còn tác chiến, nhiều lần ông viết cho

Vương Thông kêu gọi thương thuyết hòa hình, cũng chính vì không muốn

sinh linh vô tội chết oan: “Từ nay trở đi, nếu dứt hết mối nghi ngờ, dốc lòng

theo nghĩa hòa hão, thì dưới đã thoát khỏi lầm than cho nước Nam, mà trên

Page 102: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

cũng đỡ gian nan cho Trung quốc. Ấy là điều rất mong cho cả thiên hạ…” (Lại

thư trả lời Vương Thông).

Khi quân ta đại thắng, tướng sĩ nhiều người quả căm thù, muốn giết hết

bọn giặc, thì Nguyễn Trãi đã tâu Lê Lợi đại ý như sau: Giặc Minh hung bạo,

lòng người chứa oán đã sâu, nay muốn giết bọn chúng để trà thù xưa, không

phải là không có lẽ. Song nghĩ mình là nước nhỏ, tranh chọi với nước lớn hơn

mình gấp mấy mưoi lần, chỉ là một việc bất đắc dĩ. Vậy nếu có cách nào có

thể dập mối binh trang, gỡ nạn can qua cho trăm họ, lẽ nào mình nên bỏ

qua… Chi bằng ta nên thừa dịp này, lúc giặc lâm vào thế bí bèn cùng họ hòa

hiếu để đưa lại hạnh phúc cho sinh linh hai nước”. Kế của ông được Lê Lợi

nghe theo và cho viết thành lời công bố trong bài Bình Ngô đại cáo:

“Tướng giặc bị cầm tù, như hỗ đói, vẫy đuôi xin cứu mệnh

Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời, ta mở đường hiếu sinh”.

Nguyễn Trãi đã làm nhiều thơ quốc âm cũng như Hán, ca tụng cảnh

thái bình, sung sướng được “rửa áo giáp”, được “treo cung”, sung sướng thấy

nước ta và Trung quốc sống hòa hảo:

“Hồ Việt mừng nay về một cõi

Biển khơi kình ngạc bặt im lỳ”.

Hồ Việt nhất gia kim hạnh đổ,

Tứ minh tùng thử tức kình ba).

(Quá Thần phú hải khẩu)

Thời chiến, Nguyễn Trãi đi từ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo để

chống giặc, thời bình ông lại cũng lấy những tư tưởng đó để xây dựng nước

nhà. Có thể nói Nguyễn Trãi suốt đời băn khoăn về lẽ “chăn dân” thế nào cho

xứng với cương vị kẻ sĩ, đại phu. Lòng “ưu ái” của ông thể hiện trong nhiều

bài thơ, nhất là thơ quốc âm:

“Đọc sách thời thông đòi nghĩa sách,

Chăn dân mựa để mất lòng dân.”

Page 103: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

(Bảo kính cảnh giới 57)

“Quốc phú binh cường chăng có chước,

Bằng tôi nào thuở ích chăng dân”.

(Trần tình, I)

Quả vậy, tư tưởng nhân nghĩa của ông thể hiện trong chính sách cai trị

lúc bấy giờ, thí dụ ở hai trường hợp, một trường hợp trong việc sử dụng pháp

luật, một trường họp ở việc sử dụng âm nhạc.

Năm Thiệu bình thứ 2 (1435), có trường hợp xử án 7 tên tướng cướp

tái phạm đều là thiếu niên, bộ hình xử chém, Thái Tông hỏi ý kiến ông, ông

tâu: “Xưa nay pháp luật không bằng nhân nghĩa, lẽ ấy đã rõ ràng. Nay một

chốc giết đến 7 người, tưởng không phải là việc thịnh đức… Thỉnh thoảng

cũng có khi dùng đến uy pháp, nhưng không nên lân la, phải trở về nhân

nghĩa”. Đến năm Thiệu bình thứ 4 (1437), Thái Tông sai ông cùng Lương

Đăng soạn nhạc, ông trình bày quan điểm của mình: “Thời loạn dựng võ, thời

bình dụng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc, chính phải thời lắm. Song cây

không có gốc không thể đứng vững, không có văn không thể lưu hành. Hòa

bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần phụng chiếu định ra

âm nhạc, không dám không gắng hết tâm lực. Song học vấn sơ sài nông cạn,

sợ trong áng thanh luật, khó làm cho được hài hòa. Dám mong bệ hạ rủ lòng

yêu thương và chăn nuôi muôn dân, khiến cho trong chỗ thôn cùng xóm vắng,

không có một tiếng hờn giận oán sâu, đó tức là giữ được cái gốc của nhạc”.

Từ thuở niên thiếu, Nguyễn Trãi đã nung nấu một chí căm thú và chứa

chan một lòng yêu nước. Ông đã dốc tâm huyết chiến đấu cho độc lập và tự

do của dân tộc. Nhưng cuộc đời Nguyễn Trãi cũng lắm nỗi éo le! Hòa bình lập

lại, mân thuẫn nội bộ của giai cấp phong kiến nảy nở. Lê Thái Tổ mất, bọn

quyền gian thừa dịp lộng hành, có khi gây áp lực đối với cả Nguyễn Trãi,

nhưng trước sau như một, Ức Trai tiên sinh vẫn giữ được chí khí thanh cao

và tâm hồn trong sáng.

Page 104: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

B. NGUYỄN TRÃI, MỘT “CHÍ KHÍ” THANH CAO VÀ MỘT “TÂM HỒN” TRONG SÁNG

Theo dõi cuộc đời Nguyễn Trãi, một cuộc đời chiến đấu không mệt mỏi,

chúng ta sẽ thấy một người đã từng viết những câu văn “sấm sét”, viết những

lời văn “trúc chẻ ngói tan” trong bài Bình Ngô đại cáo, trong thư phúc đáp

Vương Thông, trong thư đả kích Phương Chính, thì chính người đó lại viết

những bài thơ đượm một vị chua cay, có khi lại nhuộm màu phiêu diêu thoát

tục. Học bài thơ “Sau loạn cảm tác” của ông, chúng ta thấy ông cũng muốn

làm như một “Tử Mỹ lo Đường” hay một “Bá nhân thương Tấn”, nhưng rồi

thấy ông kết thúc bài thơ:

“Hai chục năm trời danh tiếng hão,

Ngảnh đâu muôn việc tựa chiêm bao!”

(Trấp tải hư danh an dụng xứ,

Hồi đầu vạn sự phó Nam kha)

Tại sao lại “hư danh”? Công ơn của Nguyễn Trãi chẳng phải là muôn

đời không quên? Chúng ta đọc thêm bài ông “họa bài thơ Cúc pha” lại thấy

hai cầu:

“Khen cho bạn làm chim phượng chầu vua

Thẹn cho tôi giống đám mây hang núi”.

(Tiễn quân dĩ tác nghi đinh phụng,

Quý ngã ưng đồng xuất tu vân!)

Tại sao lại “thẹn”? Nguyễn Trãi sao lại không bằng Nguyễn Mộng

Tuân? Nhưng xét kỹ, chúng ta thấy không có gì khó hiểu. Cái luẩn quẩn trong

tâm tư Nguyễn Trãi chính là cái luẩn quẩn của chế độ phong kiến. Trong xã

hội phong kiến xưa, chữ “tài” thường liền với chữ “tai”. Trước thời Nguyễn

Trãi, bên Trung quốc Việt Câu Tiễn đã giết Văn Chủng sau khi thành công và

cũng sau khi thành công, Hán Cao đã giết Tiêu Hà, Hàn Tín. Gần thời Nguyễn

Trãi, Hồ Quý Ly, tuy chưa thành công, đã giết người con của thầy học và là

Page 105: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

người bạn và người quân sư của mình là Nguyễn Đa Phương! Trước lúc

chết, Đa Phương than: “Ta nhờ tài mà sang, cũng vì tài mà chết, chỉ giận

không chết ở chiến trường mà thôi” (Toàn thư). Ngay trước mắt Nguyễn Trãi,

năm 1428 là năm “Bình Ngô đại cáo” được tuyên đọc. nhưng cũng là năm Tư

mã Lê Lai bị giết và bị tịch thu gia sản; tiếp đó, năm 1429, Trần Nguyên Hãn

bị bức tử và năm 1430, Phạm Văn Xảo bị giết. Nguyễn Trãi đã thốt ra những

lời chua cay trong nhiều bài thơ quốc âm:

“Ở thế nhiều phen thấy khóc cười”.

(Tự thuật 9)

“Ngoài chung mọi chốn đều thông hết,

Bui một lòng người cực hiểm thay”.

(Mạn thuật 4)

“Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc,

Cho hay đường lợi cực quanh co!”.

(Ngôn chí, 19)

Ức Trai quả có một tâm sự u uất. Thơ Ức Trai thường có ngụ ý tâm sự. Một

nhà thơ lớn, thường là ngôi sao sáng của thời đại. Tâm hồn Ức Trai thanh

cao quá, trong sáng quá. Bọn quyền thần Lê Sát, Lê Vấn sợ bị lu mờ trước

Ức Trai, nên muốn đẩy lùi Ức Trai vào bóng tối, nhưng cuộc đời Ức Trai vẫn

là “sao Khuê tỏa sáng”. Không khuất phục được con người nghĩa khí đó. Có

lần chúng đã bắt giam Nguyễn Trãi. Bài thơ “Oán thán” của ông có nhắc đến

việc này:

“Cuộc thế thăng trầm năm chục niên,

Non xưa suối đá phụ tình duyên.

Danh suông vạ mắc vòng oan uổng

Dạ thắng đời bao kẻ ghét ghen”

(Phù tục thăng trầm ngũ thập niên,

Page 106: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên

Hư danh thực họa thù kham tiêu.

Chúng báng cô trung tuyệt khả liên)

Bao quãng đời đau thương của Nguyễn Trãi đã chứng minh bao tan nát của

những thiên tài trong chế độ phong kiến. Trước sau, ông vẫn là một người

trung hiếu.

Nhưng Nguyễn Trãi không ham công danh mà đến quỵ lụy bọn Lê Sát,

ông có sự gì: “chớ cậy sang mà ép nề, lời chẳng phải vẫn không nghe”. Ông

không sợ uy vũ, có lần ông đã chửi vào mặt bọn tay chân Lê Sát là bọn

Nguyễn Thúc Huệ và Lê Cảnh Xước, mắng bọn này học hành thì dốt nát, vơ

vét của dân thì nhiều; lại cũng có lần Nguyễn Trãi đã chống lệnh Thái Tông

mà không cộng tác với viên hoạn quan Lương Đăng trong việc soạn lại điển

lệ cho triều đình. Ông cũng không sợ nghèo, ông thường nói muốn về quê

nhà tự đào giếng, cày ruộng mà ăn, sống cuộc đói thanh nhàn (Tạc tĩnh, canh

điền, tự tại nhân). Dù cho cơm đói “hẩm với khê”, dù cho chỉ có “muối với

dưa”, ông vẫn vui cái vui của “kẻ trượng phu”, vẫn tỏ chí khí thanh cao của

mình:

“Khi bão mới hay là cỏ cứng,

Thuở nghèo thì biết có tôi lành”

(Bảo kính cảnh giới, 4)

Do dưỡng được tính tình trong sạch, Nguyễn Trãi vượt lên trên thực tế đau

thương; nhưng như vậy, không có nghĩa là ông không đau thương; tuy ông có

chí khí, nhưng ông vẫn là người. Có lúc thân tuy ở công đường, mà lòng như

ở ngục thất. Nhìn lại mấy phục người bạn đồng khoa năm Thành nguyên thứ

nhất (1400), hình như không còn mấy người; hồi tưởng nhớ lại cái cảnh “trà

mai đêm nguyệt dậy xem bông” hay cái cảnh “Phiến sách ngày xuân ngồi

chấm câu”, mà càng nhớ lại những “người ngày nọ”, nhớ lại cả một thời niên

thiếu huy hoàng. Không hiểu tính tình Nguyễn Trãi như thế nào, nhưng qua

nhiều trang thơ của ông, nhất là thơ quốc âm, chúng ta thấy ông là người

Page 107: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

sống về nội tâm nhiều. Mười ba thiên tứ tuyệt trong bài Tích cảnh đã nói rõ

điều đó. Sống trong cảnh già ở Côn sơn, trong động Thanh hư, có lúc ông

thấy cô độc, nhưng rồi tâm hồn ông lại bừng sáng; cả một mùa xuân của đời

ông rực cháy ánh lửa huy hoàng, bao nhiêu kỷ niệm ngày xanh hiện lên trong

trí nhớ. Nhưng đâu còn mùa xuân, cảnh trời chuyển sang thu, có tiếng “chày

đâu đâm cối nguyệt? Có liễu mềm rủ, nhặt đưa hương”. Bâng khuâng sờ mái

tóc bạc, mà lòng tiếc thuở xuân xanh:

“Xuân xanh chưa dễ hai phen lại

Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”.

“Tiếc thiếu niên qua lật hạn lành

Hoa hon nguyệt nguyệt luống vô tình”.

“Thấy cảnh lòng thơ càng vấn vít,

Một phen tiếc cảnh một phen thương…”.

(Tích cảnh)

Nguyễn Trãi lo đời nhiều, đầu bạc sớm. Trong nhiều bài thơ, ông hay

nói đến bạc đầu:

“Tuổi đã năm mươi đầu đã bạc”…

(Tự thán 5)

“Sầu nặng Thiếu lăng biên đã bạc”...

(Thuật hứng 5)

“Lòng một tấc son còn nhớ chúa,

Tóc hai phần bạc bởi thương thu…”

(Trần tình 7)

Đọc bài Tích cảnh cũng như đọc nhiều bài thơ khác của ông, chúng ta

thấy tâm sự Nguyễn Trãi thật là đau đớn. Hình như có khi ông trách Thái

Tông một cách thầm kín:

Page 108: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

“Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng

Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng

Ngoài ấy dù còn áo lẻ

Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng”.

(Tích cảnh)

Những hình tượng văn học bình dị ấy đã biểu hiện cả một tâm tình đau

thương của ông. Thái Tông, vị vua trẻ tuổi, ham chơi ấy, khó mà thông cảm

hết nỗi lòng của một vị lão thân đầu bạc, đã từng trải bao con bão táp mưa

sa. Thật ra, ông không thể sống trong cảnh “Công danh đeo khổ nhục”, và

hơn thế nữa, có thể đeo họa. Cái gương “được chim bẻ ná, được cá quăng

nơm” ông đã thấy sờ sờ trước mắt. Phải trở về với cỏ cây đồng ruộng, cho

chí cao, cho hồn sáng. Trong hoàn cảnh ấy, các nhà nho chỉ có hai con

đường: chịu quỵ lụy bọn quyền gian để ôm lấy bả vinh hoa phú quý, hoặc là

bỏ đi ẩn dật, có khi đi tu tiên như Phạm Lãi, Trương Lương. Những nhà nho

khí tiết không theo đường thứ nhất, nhưng con đường thứ hai lại có nhiều

cách đi. Có nhà nho đi ẩn không phải mơ được lấy vợ tiên như Phạm Viên,

Từ Thức, mà chỉ vì bất mãn triều đình, đi ẩn là biểu lộ một thái độ phủ định

quan trường – đương nhiên chưa phải là tích cực. Đó là thái độ của Đào

Tiềm. Nguyễn Trãi đã có lần mơ một cuộc sống thanh thoát:

“ Đêm qua trăng sáng trời như nước,

Mộng cưỡi hạc vàng lên đàn tiên…”

(Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thủy,

Mộng kỵ hoàng hạc thượng tiên đàn)

(Mộng sơn trung)

Nguyễn Trãi cung ca tụng cảnh chùa chiền, ca tụng thú đi tu:

“Rừng thiền ắt thấy nên đầm ấm

Đường thế nào nơi chẳng thấp cao”.

Page 109: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

(Thuật hứng, 2)

Ông đã đi thăm nhiều chùa chiền như chùa Đông sơn, chùa Hoa yên ở

núi Yên tử, cái cảnh “niết bàn” của phái Trúc lâm, nơi đã in vết chân nhiều

vua chúa và nho sĩ của thế kỷ trước: Trần Nhân Tông, Huyền Quang, Trần

Quốc Tảng, Trần Quang Triều, Nguyễn Sưởng… Nhưng suốt đời, ông chưa

hề mặc áo vàng đạo sĩ,cũng chưa hề mặc áo nâu tu hành, mà chỉ mặc áo

thâm của nhà “đại ẩn”, sống cuộc đời trầm mặc: “Khăn đen gậy trúc dạo trời

chiều”. Ông tán thành thái độ của Chu An. Ông cũng đọc sách và cũng làm

thơ. Ông có nhiều điểm giống Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này, nhưng cũng có

điểm khác. Lòng ưu ái của Nguyễn Trãi có yếu tố tích cực hơn, cố nhiên hoàn

cảnh hai người có khác. Khổ não cô đơn như vậy, cô đơn như “mảnh trăng

trong treo giữa trời biếc” (Văn hứng), Nguyễn Trãi vẫn không bi quan, tuyệt

vọng. Thấy “kiếp thiếu niên đi thương đến tuổi”, nhưng Nguyễn Trãi vẫn tin

rằng “Tiếng chiêng chửa đóng ắt còn xuân” (Cuối xuân). Tâm hồn Nguyễn

Trãi vẫn luôn luôn trong sáng, dòng thơ có khi lai láng nhựa sống của tuổi trẻ,

cuồn cuộn như nước triều tuôn về bể:

“Bui một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.

(Thuật hứng, 5)

Nguyễn Trãi vẫn tin tường ở sức mình, mặc dầu “hoa, trúc cũ”, nhưng “chồi

thức tốt lạ mười phần”, tin tưởng một mùa xuân lại nở hoa trên mái tóc già.

Và mùa xuân đó đã đến với đời ông. Năm 1440, Thái Tông đã lớn sau khi giết

Lê Sát và Lê Ngân, sai mời ông về triều trao cho chức Tả gián nghị đại phu

kiêm coi việc Tam quán. Lúc này ông đã sáu mươi tuổi; ông tin rằng Thái

Tông đã trưởng thàch và chín chắn biết điều hơn, nên có thể đưa chút hơi tàn

giúp dân giúp nước. Trong bài Biểu tạ ơn, ông viết cho Thái Tông với cả một

tấm chân tình rất cảm động:

Trộm nghĩ:

Sáu chục niên tàn, chức phận đã đành giữ phận,

Page 110: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Chín trùng ban xuống, mong ơn lại được ban ơn

Ngẫm lòng biết vinh,

Nghĩ mình thêm thẹn…

Ví tiên đế không thấu rõ ngọn nguồn,

E tiểu thần đã ngậm cười chín suối!

Qua rồi việc trước,

Không thẹn lòng nay.

Kim mã ngọc đường, vật cũ nay còn nguyên vẹn,

Thanh thiên bạch nhật, gan trung được tỏ sáng ngời…

Thương thần như con ngựa già, đường xà kham ruổi,

Coi thần như cây tùng bách, sương tuyết chịu quen.

Mặc gièm pha chẳng bụng nghi ngờ,

Tự phán đoán riêng lòng tin cậy,

Khiến cho già cổi,

Trở lại vui tươi…

Có thể nói Nguyễn Trãi đã tỏ hết quãng đời đau khổ của mình, đồng

thời cũng bộc bạch hết tâm sự uẩn khúc, nhưng luôn luôn trong sáng của

mình.

C. NGUYỄN TRÃI, MỘT NHÀ HÙNG BIỆN VÀ MỘT NHÀ THƠ

Chiến thắng giặc không phải chỉ bằng vũ thí, mà còn bằng nhiều

phương tiện khác, trong đó chính trị chiếm một địa vị quan trọng. Nguyễn Trãi

không phải chỉ làm quân sư cho Lê Lợi về mưu lược, mà chính Nguyễn Trãi

đã đối đáp với giặc bằng cây bút chiến đấu của mình. Nguyễn Trãi là một nhà

hùng biện. Ông đã đem văn chương phục vụ chính trị, phục vụ cuộc chiến

đấu một mất một còn của dân tộc ta lúc bấy giờ. Ông thường nhắc đến cái chí

Page 111: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

“uốn lưỡi dao” (Mạn thuật, 10) đã từng tự so sánh việc mình với “nghiệp Tiêu

Hà”, nhà từ bàn và nhà chép sử nổi tiếng của Hán Cao tổ, rồi tự hào:

“Đao bút phải dùng tài đã vẹn,

Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên”.

(Bảo kính cảnh giới, 56)

Chúng ta đọc bài “Bình Ngô đại cáo” mà Vũ Khâm Lân đã phê là “thiên

cổ hùng văn”, ceũng đủ biết văn tài của Nguyễn Trãi. Lời văn ở đây theo sát

chú ý từng đoạn, biểu hiện thật sâu sắc tình cảm và tư tưởng của Lê Lợi cũng

như của quân và dân ta lúc bấy giờ. Khi nói đến tội ác tầy trời của giặc, khí

văn biểu hiện một căm thù sâu sắc:

“Cuồng Minh từ khích, nhân dĩ độc ngã nhân,

Đãng ác hoài gian, cảnh dĩ mại ngã quốc

Hân thương sinh ư ngược diễm, hàm xích tử ư họa khanh

Khi thiên vọng dân, quỉ kế cái thiên vạn trạng, liên binh kiết hấn,

nẫm ác đãi nhị thập niên.

Bại nghĩa thương nhân, càn khôn cơ hồ dục tức, trọng khóa hậu

liễm, sơn trạch mỵ hữu kiết di…”

(Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa, bọn gian tà còn bán nước

cầu vinh.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới

hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế, gây binh kết oán trải hai mươi

năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời, nặng thuế khóa sạch không đầm

núi…)

Khi nói đến cảnh chiến tranh gian khổ, lời văn của tác giả lại trở nên tha

thiết, gợi sâu lòng xúc cảm mọi người, nhớ lại cảnh vị lãnh tụ phong trào đã

Page 112: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

cùng quân dân, trải mười mấy năm trời “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm

gai”, chỉ “băn khoăn” chưa làm tròn nhiệm vụ. Đặc biệt, khi tả cuộc phản công

thắng lợi, ngòi bút của tác giả vùng vẫy như lưỡi gươm múa giữa chiến

trường; tác giả đã ghi lại bằng hình tượng nghệ thuật những chiến thắng oanh

liệt của ta trên thất bại nhục nhã của giặc – những đoạn văn đó, chúng ta đọc

mãi mà không biết chán:

“… Tốt năng, dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn; dĩ chí nhân nhi dịch

cường bạo. Bồ đằng chi đình khu điện xiết. Trà lân chi trúc phá khôi phi. Sĩ

khí dĩ chi ích tăng, quân thanh dĩ chi đại chấn. Trần Trí, Sơn Thọ văn phong

nhi trĩ phách; Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh…

… Trọn tuyển ti hưu chi sĩ, thân mệnh trảo nha chi thần, ẩm tượng nhi

hà thủy can, ma dao nhi sơn thạch khuyết. Nhất cổ nhi kinh khoa ngạc đoạn;

tái cổ nhi điểu tán khuân kinh.

Quyết hội nghị ư bằng đề, chấn cường phong ư cảo diệp. Đô đốc Thôi

Tụ tất hành nhi tống khoản, Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu

cầm…”.

(Cho hay, đem đại nghĩa để thắng hung tàn; lấy chí nhận để thay

cường bạo. Trận Bồ đằng sấm vang chớp giật, miền Trà lân trúc chẻ tro bay.

Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ, nghe hơi mà mất

vía, Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân…

… Sĩ tốt kén người hùng hổ, bề tôi chọn kẻ vuốt nanh. Gươm mài đá,

đá núi cũng mòn, voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim

muông.

Cơn gió to trút sạch lá khô. Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Đô đốc Thôi

Tụ lê gối dâng tờ tạ tội, Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng…).

Mỗi người chúng ta khi đọc “Bình Ngô đại cáo” chắc cũng khó giấu

được bao nỗi sảng khoái của mình. Như vậy, tài hùng biện của Nguyễn Trãi

chưa phải là ở đấy, mà chính là ở những thư từ địch vận gửi tướng giặc như

Page 113: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Phương Chính, Vương Thông hay bọn ngụy quân, ngụy quyền ở các thành

giặc chiếm đóng… như Điêu diên, Bắc giang, Tam giang... Lối lập luận của

Nguyễn Trãi có hai đặc điểm nổi bật: sinh động và chủ động. Khi tấn công

giặc, Nguyễn Trãi đã khéo dựa vào thực tế chiến đấu mà thay đổi luận điểm

cho sát đúng, hoặc kích thích tính kiêu căng của giặc, dụ chúng vào chỗ hiểm

mà tiêu diệt, hoặc vạch nhược điểm của chúng, đồng thời phô trương thanh

thế của ta, làm cho giặc phải dao động mà cầu hòa.

Đối vởi Phương Chính, một tên ác tướng, ông đã dùng lời văn khiêu

khích, hoặc để dụ nó vào nơi hiểm yếu:

“Khéo cầm quân thì không có chỗ nào hiểm, chỗ nào không hiểm,

không có chỗ nào dễ, chỗ nào không dễ. Vào chỗ hiểm mà đánh nhau cũng

như hai con hổ đánh nhau trong cái hang trống, dùng khéo là thắng, dùng sai

là thua. Bởi thế, đất không có một hình nhất định, chiến không có thế nhất

định, sao lại có sự phân biệt chỗ hiểm chỗ dễ? Nếu mày không muốn rút lui

thì hãy dẫn quân vào mà quyết thắng đi thôi”.

Hoặc để dụ nó ra khỏi thành mà đánh:

… “Trước kia mày gửi thư cho ta, thường cười ta lén lút như chuột núp

trong rừng núi, không dám ra đánh nhau ở đồng bằng. Nay ta đã đến đây.

Ngoài thành Nghệ an, chỗ nào cũng là chiến trường cả, mày bảo đó là núi

rừng, hay là đồng bằng? Thế mà mày vẫn đóng cửa thành, cố giữ như một

mụ già lụ khụ là cớ sao vậy? Ta sở bọn mày chẳng tránh khỏi cái nhục “khăn

yếm đó thôi!”.

Đối với Vương Thông, một tay có nhiều quyền hành và cũng ít nhiều có

học thức, Nguyễn Trãi thường viện dẫn nhiều sử sách, đập vào tính chất lật

lọng của nó bằng cách đề cao “chữ tín” bởi lời lẽ mềm dẻo nhưng sâu cay:

“Tôi nghe trời có bốn mùa, tất phải nhờ có đất mới thịnh vượng; người

ta có bốn đức, tất phải nhờ có điều tín mới tiến hành được…

Page 114: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Sách truyện có nói: “Không có điều “tín” thì chẳng làm nên được việc

gì”. Vì lẽ đó, bậc vương giả không lừa dối thiên hạ, bậc bá giả không lừa dối

các nước láng giềng, vì cho rằng điều tín là cần hơn hết…”.

…“Tôi nghe có người đem chim ưng, chó săn và lưới lên núi hay xuống

đầm mà lại nói với người ta rằng mình không săn, không chài, thì dầu miệng

dài ba thước cũng không thể giải thích được. Chi bằng bỏ chim ưng, chó săn

và vất lưới đi thì tự khắc người ta phải tin… Ngài nói rằng ngài không làm

điều săn chim và bắt cá, song ngài chưa chịu bỏ chim ưng chó săn, chưa vứt

bỏ lưới chài để làm cho mọi người tin tưởng…”

Qua vài đoạn văn trên, chúng ta thấy Nguyễn Trãi thường lấy những

dẫn chứng cụ thể, những luận điệu của địch để đập lại chúng, như lấy hình

tượng “lén lút như chuột núp trong núi rừng” để chửi bọn Phương Chính núp

trong xó thành Nghệ an, hay lấy lại lời nói của Vương Thông là “săn chim”,

“bắt cá” để lật mặt nạ giả dối của chúng.

Đặc biệt, để làm cho giặc dáo động, Nguyễn Trãi phân tích rất kỹ ưa

thế của ta và khó khăn của giặc và cuối cùng để ra cho giặc một lối thoát

bằng phương pháp hòa giải. Các bức thư gửi Vương Thông, Nguyễn Trãi đều

theo phương pháp đó:

“Nếu ngài bảo rằng thành trì vững chắc có thể nhờ cậy được, thì tôi e

nước xa không cứu được lửa gần. Còn như bảo trong thành còn có nhiều

quân lính dũng cảm, muốn quyết đánh một trận cho rõ trống mái, thì hãy xem

trước kia, khi tôi còn ở Khả lam và Trà long, bọn Phương Chính có những

mấy vạn quân tinh nhuệ quyết chiến, tôi thì chỉ có vài trăm quân tâm phúc mà

còn đánh tan, biến thành cái thế chẻ tre. Huống chi ngày nay, tôi có thể tuyển

lấy hơn mười vạn lính tinh nhuệ ở Diễn châu, Nghệ an, Thanh hóa, Tân bình,

Thuận hóa cùng các lộ ở Đông đô, thì cái thế trống mái có thể ngồi mà tính

được?

Tuy nhiên, nước thịnh hay suy là quan hệ ở trời, quân mạnh hay yếu

không phải ở con số nhiều. Ngài thường lấy việc họ Hồ ngày trước mà so

sánh. Theo tôi, việc ngày nay với việc ngày trước khác hẳn nhau. Họ Hồ dối

Page 115: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

trời hại dân, còn tôi thì kính trời thuận dân, đó là một lẽ thuận và nghịch khác

nhau. Quân của họ Hồ trăm vạn người thì trăm vạn lòng; quân của tôi không

quá vài chục vạn, nhưng tất cả đều chỉ có một lòng, đó là hai điều khác

nhau…”.

Trong một bức thư khác gửi Vương Thông, Nguyễn Trãi vạch ra 6 nhân

tố thất bại của quân xâm lược như Trung quốc còn bị lụt, lương thực thiếu

thốn, viện binh đưa sang ta sẽ có kế đánh bại, quân lính Trung quốc đại bộ

phận còn phải đối phó với kẻ địch ở phía Bắc, nhân dân Trung quốc đang

phản chiến rầm rộ, vua còn trẻ, quyền gian còn giành nhau địa vị, quân đội

của ta đồng tâm nhất trí, đánh giặc lâu ngày đã dồi dào kinh nghiệm. Quả thật

Nguyễn Trãi nắm vững tình hình địch và ta, do đó viết ra những lời lẽ vững

chắc, đanh thép, khiển Vương Thông cuối cùng phải đầu hàng thật sự.

Đối với một số ngụy quan, có khi Nguyễn Trãi thuyết phục bằng cách đi

sâu vào tình cảm, thí dụ như dụ thổ quan thành Điêu diêu:

“Người xưa có nói: Quạ đi xa trở về chốn cũ, cáo lúc chết quay đầu vào

gò. Giống chim muông mà còn như thế, huống hồ là người”.

Đặc biệt, đối với Thái Phúc, một người có thể lôi kéo và sử dụng được,

thì dùng lý lẽ và tình cảm rất ôn tồn: “Nay Chúa thượng nước tôi, vốn nghe

tiếng lão huynh là bậc hiền tài, muốn đặt lão huynh vào hàng đại thần để

được nghe lời chỉ giáo, không biết huynh có sẵn lòng làm như Hàn Tín bỏ Sở

mà về với Hán không? Được như thế, thì Chúa Thượng chúng tôi sẽ nhường

áo sẻ cơm không kém Hán Cao tổ. Nhược bằng lão huynh làm như Cơ Tử

không chịu làm tôi nhà Chu, thì Chúa Thượng chúng tôi sẽ xuống xe hỏi đạo

không kém Chu Võ vương. Trong hai cách ấy, lão huynh chọn cách nào?”.

Trong bức thư gửi ngụy quân thành Điêu diêu, Nguyễn Trãi đập mạnh

và khêu gợi tinh thần yêu nước. Trong bức thư gửi Thái Phúc, Nguyễn Trãi

nhấn mạnh vào tài đức của Thái Phúc và quyền sống của ông. Đồng thời đề

cao lòng dân tộc của ta, bằng cách gián tiếp giới thiệu nước là ngang với

Trung quốc, Lê Lợi ngang với Hán Cao tổ và Chu Võ vương là những vị vua

được lòng thiên hạ. Tài hùng biện của Nguyễn Trãi tỏa ra bằng nhiều khía

Page 116: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

cạnh, nhưng vẫn dựa trên một luồng tư tưởng chủ đạo là lòng yêu nước, yêu

nhân nghĩa.

Một người có một bàu nhiệt huyết như vậy, có một cây bút chiến đấu

không mệt mỏi như vậy, không phải chỉ là một nhà lý luận khô khan. Nguyễn

Trãi không phải chỉ là nhà hùng biện, mà còn là một nhà thơ.

Một tâm hồn nghệ sĩ thường rung cảm trước cái đẹp của cảnh vật,

trong đó có cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp của con người. Trong thơ

Nguyễn Trãi, có cái hùng, cái đẹp của con người, thì cũng có cái hùng, cái

đẹp của cảnh vật, của thiên nhiên. Nguyễn Trãi mang theo cả “túi thơ” đi

kháng chiến; trong những lúc “phong sương” của những ngày trường kỳ gian

khổ, ông vẫn bình thản dùng “văn chương chép lấy đôi câu thánh”. Năm

1418, lúc ông làm chức Thừa chỉ, là lúc kháng chiến còn gay go mà lòng ông

vẫn tràn đầy một tình thơ lai láng, bao la:

“Thừa chỉ, ai rằng thời khó ngặt,

Túi thơ chứa hết mọi giang san…”

(Tự thán 2)

Rồi, “Xem tập thủy trận”, ông làm thơ, “mừng vua về Lam sơn”, ông làm

thơ; “nghe tin chiến thắng” ông làm thơ. Nào là cảnh “bóng cờ phấp phới,

tiếng trống rập rình”, nào là cảnh “muôn giáp sáng chói”, “nghìn thuyền oai

nghiêm”. Một tiếng còi vang trong khe lúc trăng soi muôn dặm, một lả cờ cắm

trước gió thổi cỏ cây nghìn ngọn núi, tất cả đều lọt vào “túi thơ” Nguyễn Trãi

(Hạ tiệp). Qua sông Bạch đằng, ông nhớ lại những chiến công oanh liệt thời

xưa:

“Ngạc đứt kình phanh non lởm chởm,

Gươm chìm giáo gẫy bãi tầng tầng…”

(Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,

Qua trần kích chiết ngạn tầng tầng)

(Bạch đằng hải khẩu)

Page 117: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Qua đảo Vân đồn, ông rung cảm trước cảnh đẹp của đất nước:

“Một mâm, lam biếc, lắng gương trong

Muôn hộc, đen xanh, mái tóc rủ.”

(Nhất bàn lam bích trừng minh kính,

Vạn hộc nha thanh đọa thúy hoàn –Vân đồn)

Cảnh sóng gió thật là “oai hùng” nhưng “cũng không lay chuyển được

lòng gang thép”. Trong một số bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi tả về di tích

lịch sử, chúng ta thấy ông thường nâng “khí thế con người” lên trên cái “hùng

vĩ” của tạo vật và đồng thời cũng “phác ra một cảnh thanh bình” bao trùm lấy

trời bể mênh mang. Hồn thơ Nguyễn Trãi rộng lắm bao la lắm; mới nghe tin

thắng trận, mà ông đã chuẩn bị treo cái “cung trời” trên cây “phù tang” khổng

lồ tận ngoài bể đông!

Trong thời gian kháng chiến, Nguyễn Trãi đi đến đầu thường làm thơ tả

cảnh đến đấy, như qua cửa Thần phù, qua núi Long đại v.v… Rất tiếc là loại

thơ này hiện nay còn lại rất ít, nhất là không có một bài thơ quốc âm nào. Thơ

Nguyễn Trãi không phải chỉ có những nét hùng tráng kiểu sử thi, mà còn có

những nét trữ tình. Phải đọc những bài thơ quốc âm của ông về khía cạnh

này, mới hiểu đôi phần về tâm hồn sâu kín của ông. Nguyễn Trãi chắc hẳn có

một lối sống độc đáo của mình, của con người nghĩa khí nhưng có nhiều tình

cảm. Lòng yêu nhân nghĩa của ông dường như lan ra đến cỏ cây cảnh vật và

tiếp cận với lòng yêu vạn vật. Lòng Nguyễn Trãi chan hòa với thiên nhiên. Tuy

vậy, Nguyễn Trãi không phải làm thơ để tả thiên nhiên, nếu chỉ có thế thì thật

là đơn giản! Nguyễn Trãi đi vào thiên nhiên để khám phá và bộc lộ lòng

người. Hai nhà thơ Huy Cận và Xuân Diệu quả đã thấu được tâm hồn Ức

Trai: “Cảnh vật của Nguyễn Trãi là cảnh vật đầy tư tưởng, cảnh vật có tư

tưởng, cảnh vật ở trong tư tưởng mà ra; cho nên thơ tạo vật của Nguyễn Trãi

rất cao; Nguyễn Trãi thở bằng phong cảnh, tỏ tình cảm của mình bằng phong

cảnh, không bắt nó biến thành non bộ của mình. Nhà thơ và cảnh vật tự

Page 118: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

nguyện hòa lẫn với nhau như bầu bạn, như anh em, “tình trong cảnh ấy, cảnh

trong tình này”.

Cảnh vật trong thơ Nguyễn Trãi hiện lên như người, tình tứ như người:

Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá,

Rừng tiếc chim về ngại phát cây

Nguyễn Trãi yêu cảnh vật như yêu người;

“Núi láng giềng, chim bầu bạn,.

Mây khách khứa, nguyệt anh tam”.

“Cò nằm hạc lặn vầy bầu bạn

Ủ ấp cùng ta làm cái con…”.

(Ngôn chí 17)

Ông kết bạn với vượn, với chim, quét am đón mây, đón trăng, “mời núi vào

nhà”, “gối đầu lên mây”, “ngày xem hoa động”, “tối rước chim về”. Có lúc, ông

thưởng thức tạo vật trong những giờ phút rất thanh thoát:

“Đêm thanh hớp nguuệt nghiêng chén,

Ngày vắng xem hoa bợ cây…”.

Nguyễn Trãi làm thơ nhiều về cảnh đêm trăng, hình như ông cần cái vắng

lặng của đêm trăng để lòng hòa với cảnh vật và những câu thơ đêm trăng của

ông cũng là những câu thơ thần bất hủ, chứa chan tình người, tình vật:

“Hương cách gác vân thu lạnh lạnh,

Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh”…

(Tự thuật 31)

Và chiếc “thuyền thơ” của Nguyễn Trãi, trong đêm chưa biết đỗ về đâu:

“… Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ

Trời ban tối, ước về đâu?”.

Page 119: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

(Ngôn chí 13)

Lòng Nguyễn Trãi lo nhiều việc nước, việc dân, nhớ người, nhớ bạn cho nên

thường “đêm đêm thức nhãn nẻo sơ chung”. Nhưng nào ta có biết ông nhớ

người nào, bạn nào? Nguyễn Trãi nhớ ai? Có một lần qua núi Long đại, ông

nhớ Lê Quát và Phạm Sư Mạnh thời Trần, hai học trò của Chu An. Đương

nhiên với một tâm hồn nghệ sĩ, Nguyễn Trãi cũng cần có cái “thế thanh thoát”,

“cái nhìn bay bổng” vươn lên cao hơn hiện thực của đời ông. Trong những

bài Tự thán hay Ngôn chí, ông cũng có thốt ra tư tưởng “ít nhiều tiêu sái”.

Nhưng phải chăng vì thế mà chúng ta đã vội quy cho ông tư tưởng thoát ly

tiêu cực? Sơ lược chủ nghĩa không có thể soi sáng được chí khí thanh cao và

tâm hồn trong sáng của một người như Nguyễn Trãi. Vốn riêng có “thú mầu”

của mình, bản lĩnh của “một khách văn chương”, Nguyễn Trãi có cái tự hào

của ông, bất chấp con “mắt tục” của người đời:

“Ai hay, ai chẳng hay, thì chớ

Bui một ta khen ta hữu tình”

(Tự thán 13)

“Sự thế đã hay thời vậy,

Có ai cộc được mỗ cười cười?”

(Tự thán 34)

Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà thơ Nguyễn Trãi đã có ý thức về giá trị con

người của mình, quyền sống, quyền tư duy của mình – tất nhiên chưa vươn

tới được ý thức cá nhân kiểu tư bản chủ nghĩa. Cái “ta” của Nguyễn Trãi chan

hòa với thiên nhiên, Nguyễn Trãi mê say tình đẹp thiên nhiên lắm, nhất là tình

đẹp của hoa cỏ: một đóa mẫu đơn, một khóm hoàng tinh, hoa bông bụt, cây

mía, cây đa già, hoa cúc, hoa mộc, hoa nhài, hoa sen, cây hòe, cây dương,

tiết thanh của cây trúc, tàu lá còn trinh của cây chuối, mùi hương thoang

thoảng của hoa đào… Trong mỗi cây hoa, Nguyễn Trãi cũng có gửi gắm một

chút tâm tình của mình như ở cây dương:

Page 120: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

“Đông phong có ý bù trì nữa

Một phút xuân là một động người”.

ở cây chuối:

“Tình thư một bức còn phong kín,

Gió nơi đâu, gượng mở xem”.

ở hoa đào:

“Đông phong ắt có tình hay nữa

Kín tiễn mùi hương dễ động người…”

Qua cây hoa, Nguyễn Trãi đã kín đáo nói đến sắc đẹp mỹ nhân. Khi xem hoa

mai in đáy nước, ông đã ngờ là mặt Thái Chân (Dương Quý Phi), hay thoảng

bóng mai đã tưởng mặt Thọ Dương (con gái Tống Vũ đế). Trong bài Đào hoa

hay trong bài Thái cầu, nhà thơ Nguyễn Trãi cũng kín đáo đưa vào đôi nét

bóng dáng của người đẹp:

“Kịp xuân mựa để má đào phai…”.

(Đào hoa)

Và tình thơ của Nguyễn Trãi đối với người đẹp chỉ có thế thôi, trong kho tàng

văn học còn sót lại của ông.

Hồn thơ Nguyễn Trãi chan hòa với hồn tạo vật vì Nguyễn Trãi có một tư

tưởng thanh cao, một tình cảm trong sáng. Đó là lẽ dĩ nhiên, vì nội dung quyết

định hình thức, nhưng cũng phải nhận rằng Nguyễn Trãi có một trí tưởng

tượng kỳ diệu; nằm trong thuyền, mà ông đã tưởng hồn trong mây, nhìn bức

tranh Bá Nha gảy đàn, mà ông đã nghe được tiếng nhạc văng vẳng nơi chín

đầm lạnh ngắt… Tư tưởng ông phóng túng, mà kỹ thuật làm thơ của ông

cũng phóng túng. Làm thơ chữ Hán, ông còn chịu khuôn phép Đường luật,

còn quốc âm thì gần như tự do, thường ông cũng chú ý đối chữ đối câu,

nhưng nhịp điệu và tiết tấu không nhất định, khi thì năm từ:

“Già mặc số trời đất,

Page 121: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Dầu ai qua vợ con”.

(Bảo kính cảnh giới 55)

Và cũng có khi sáu từ, bảy từ. Đặc biệt trong câu bảy từ, có khi không dùng

thất ngôn của Trung quốc, mà lại dùng song thất của ta chen vào:

Thơ đái tục: hiềm câu đái tục,

Chủ vô tâm: ý khách vô tâm…

(Ngôn chí 4)

“Cõi phàm tục: khởi lòng phàm tục,

Học thánh nhân / chuyên thói thánh nhân”

(Bảo kính cảnh giới 60)

“Khách lạ đến / ngàn hoa chưa rụng

Câu mầu ngâm / dạ nguyệt ràng cao”

(Thuật hứng 7)

Nguyen Trãi đã thừa kế lối làm thơ dân tộc của Trần Nhân Tông đời Trần.

Chúng ta có thể đếm được hàng chục câu như vậy trong “Quốc âm thi tập”

của ông. Trong thơ Nguyễn Trãi, đã có bóng dáng ca dao tục ngữ; có khi là

một câu cổ ngữ:

“Cỏ xạ tự nhiên mùi ngát bay”

Có khi làm một câu tục ngữ:

“Ở bầu thì dành ắt nên tròn”

Có khi cũng từ tục ngữ, nhưng lại tạo thành một câu thơ bóng bẩy hơn:

“Thương cá thác vì câu uốn lưỡi,

Ngâm trai nào chiết bát màu hòn!”

(Bảo kính cảnh giới 55)

hoặc dưới dạng câu ca ngụ ý:

Page 122: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

“Chĩnh vàng chẳng tiếc danh thì tiếc,

Bia đá hay mòn, nghĩa chẳng mòn”.

(Tự thán 17)

Sống trong hoàn cảnh thế kỷ XV, lúc mà ngôn ngữ và kỹ thuật thơ dân tộc

còn ở thời kỳ xây dựng, Nguyễn Trãi có những câu thơ sáng tạo không đều.

Có những bài hay, câu hay bên cạnh những câu chưa thật nhuần nhuyễn.

Thơ quốc âm Nguyễn Trãi nói chung cổ kính là lẽ dĩ nhiên. Nhưng thật cũng

thú vị lại có những câu cho đến nay, giữa thế kỷ XX, mà vẫn hay vẫn sát với

chúng ta, vẫn có cái vẻ hình như còn mới, hay về ý mà cũng mới về lời. Hồn

dân tộc theo dòng thơ Ức Trai chảy vào lòng chúng ta:

“… Lao xao chợ cá làng ngư phú.

Đặng dõi cầm ve lầu tịch dương…”

(Bảo kính cảnh giới 43)

“…Nắng quáng thưa thưa bóng trúc che,

Cây in thưa thớt sáng bằng the…”

(Tự thán 9)

“… Hái cúc, ương lan, hương bén áo,

Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn”.

(Thuật hứng 15)

“…Chẳng thấy ngoài hiên tơ liễu rủ,

Một phen liễu rủ một phen mềm!…”

(Tích cảnh)

Nhìn lại cuộc đời Nguyễn Trãi, đọc lại thơ văn Nguyễn Trãi, với bài cáo

Bình Ngô hùng tráng và tuyệt diệu, với tập thơ Quốc âm, một tập thơ tả cảnh

ngụ tình sâu sắc, chúng ta thấy ngôi sao Khuê Nguyễn Trãi, chẳng những

chói lọi trong lịch sử kháng Minh oai liệt, mà còn chói lọi trong lịch sử văn học

nước nhà.

Page 123: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Nguyễn Trãi là một người nghĩa khí, có một tâm hồn thanh cao, Nguyễn

Trãi là một người yêu nước, căm thù sâu sắc, đồng thời có một lòng yêu nhân

nghĩa đậm đà. Chính vì vậy mà Nguyễn Trãi đã trở thành một nhà chính trị

thiên tài và cũng nhờ vậy mà trở thành một trong những văn hào xuất sắc của

ta. Khi viết bài tựa cuốn Ức Trai thi văn tập, Ngô Thế Vinh đã phải khen: “Sự

học của tiên sinh xuất tuẩn tự gia đình, nhưng sâu xa rộng rãi, ngay, lớn,

cứng, vuông thì một mình đi tới. Vốn không để tâm ở văn chương mà phát ra

lời thì sáng đẹp rắn rỏi. Sự trước tác theo lối văn đời Ngu Hạ. Bình sinh ngâm

vịnh, lúc cùng lại càng kiên, lúc già lại càng dẻo. Câu khen của tiền bối:

“Không quên quân thân” rất dễ dàng tìm thấy trong tập thơ”. Suốt đời, Nguyễn

Trãi dốc một lòng lo đời giúp nước. Nhưng cuộc đời của ông cũng có khi chìm

khi nổi, tâm sự của ông có lúc đau đớn cô đơn. Cho đến ngày nay, tất cả

chúng ta ai mà chẳng ca ngợi chí khí thanh cao và tâm hồn trong sáng của

ông, của con người nghĩa khí núi Côn sơn. Ức Trai tiên sinh không còn lo nỗi:

“Đèn khách mười thu lạnh hết mười!”

Chương III. LÊ THÁNH TÔNG (1442 – 1497) VÀ HỘI TAO ĐÀNThánh Tông tên là Tư thành, con thứ tư và con út của Lê Thái Tông,

em của Nghị Dân, Khắc xương và Bang Cơ (Lê Nhân Tông). Thánh Tông lên

ngôi năm 1459, lúc đó đã 18 tuổi, làm vua được 38 năm, 10 năm đầu niên

hiệu là Quang thuận; 28 năm sau, niên hiệu là Hồng đức. Lúc nhỏ, Tư thành

đã trải qua một thời kỳ gian truân. Mẹ ông là Ngô Thị Ngọc Dao bị bà phi họ

Nguyễn ghen ghét và ám hại xuýt bị tội lưu, may được Nguyễn Trãi cứu, nên

chỉ phải ra ở chùa Huy văn và đẻ ông ở đấy. Từ lúc đẻ đến năm lên 4 tuổi

(Thái hòa thứ 3 đời Nhân Tông), Tư thành với mẹ vẫn sống ở ngoài cung

khuyết; từ 5 đến 17 tuổi, ông mới được phong là Bình nguyên vương và được

vào nhà Phiên theo học ở tòa Kinh diên. Khi có cuộc loạn Nghi dân vào năm

1458, chắc Tư thành cũng lại phải một phen lưu lạc nữa (dã sử Trạng Lợn có

ghi truyện này).

Page 124: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Thời niên thiếu, Tư thành có dịp sống gần tầng lớp bình dân. Khi lên

ngôi, nhà vua vẫn không quên điều đó, vì vậy, chính sách của Lê Thánh Tông

về mọi mặt (kinh tế và chính trị), tuy vẫn bảo vệ đặc quyền đặc lợi của giai

cấp quý tộc nhà Lê, nhưng cũng có chiếu cổ đến các tầng lớp bình dân khác

(như đã nói ở phần “Hoàn cảnh lich sử”) mở đường rộng rãi cho họ tham dự

vào chính quyền và phần nào dựa vào họ mà chế ngự bọn đại quý tộc.

Trước khi lên ngôi vua, Tư thành đã chứng kiến hai cuộc nội loạn trong

cung cấm (1458, Nhân Tông bị Nghi dân giết, năm 1459, Nghi dân lại bị phe

Nguyễn Xí giết) và cũng đã hiểu mâu thuẫn nội bộ trong hàng ngũ quý tộc nhà

Lê; do đó, khi lên ngôi, Tư thành đã biết dựa vào chính sách “thân dân” để

củng cố chế độ phong kiến quan liêu bằng cách tập trung quyền hành vào tay

mình. Về mặt đối ngoại, Thánh Tông cũng có một chính sách tự cường dân

tộc. Muốn vậy, Thánh Tông chủ trương hòa hoãn với nhà Minh ở phía Bắc để

rảnh tay tìm cách hàng phục Chiêm thành, Bồn man và Lão qua ở phía Nam

và phía Tây. Cuộc thắng trận của Thánh Tông đối với Chiêm thành và việc

chiếm lĩnh dải đất từ Hải vân đến Qui nhơn là một bước quyết định trong lịch

sử Nam tiến của nước ta. Tất cả những thắng lợi của nhà vua về văn trị cũng

như về vũ công đều ảnh hưởng đến sự nghiệp văn học của nhà vua cũng

như của các hội viên Tao đàn.

Thánh Tông là một người hiếu học, nổi tiếng hay chữ từ thuở nhỏ. Vì

chuộng Nho học cho nên nhà vua đã phát triển việc học đến một mức độ

chưa từng có dưới chế độ phong kiến ở nước ta. Ông ham đọc sách, thích

thơ ca. Trong bài tựa, Quỳnh uyển cửu ca, ông viết: “Trong khi việc nước bề

bộn, hễ rảnh được nửa ngày, ta thân đọc rừng sách cho lòng dạo chơi vườn

văn nghệ”. Từ khi còn học ở nhà Kinh diên, ông hay xướng họa với Lê Hoằng

Dục, khi làm vua, lại cũng tiếp tục ngâm vịnh với nhiều người khác như Thân

Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lê Niệm…

“Trống dời canh còn đọc sách

Chiêng xế bóng chửa thôi chầu”.

(Tự thuật)

Page 125: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Thánh Tông lấy hiệu là Thiên nam động chủ, thường say mê dạo xem phong

cảnh đất nước, kiếm đề tài làm thơ và hễ đi đâu, kể cả lúc đi đánh giặc, cũng

cho văn thần đi theo để cùng nhau ngâm vịnh, thí dụ cuộc ngự yết Lam kinh

năm 1468 hay cuộc thân chinh Chiêm thành năm 1470. Thường thường,

Thánh Tông nhân danh Tao đàn nguyên súy xướng trước, rồi các hội viên

Tao đàn họa mỗi người một bài. Các thơ văn của Thánh Tông thường được

các hội viên Tao đàn bình luận và chú thích (đôi khi tác giả tự chú thích lấy).

Trừ những chỗ xác đáng, lời bình luận của hội viên Tao đàn hay thiên về tâng

bốc nhà vua, làm cho Thánh Tông đã tự phụ lại càng tự phụ thêm.

Tác phẩm của Lê Thánh Tông và hội Tao đàn có rất nhiêu, có thể nói

chiếm một phần lớn trong toàn bộ nền văn học viết của nửa sau thế kỷ XV.

Tất cả thơ văn đó có được ghi chép trong bộ Thiên nam dư hạ tập mà theo

Phan Huy Chú thì gồm 100 quyển, ngày nay chỉ còn lại chưa đầy một phần

mười. Đây là một bộ tùng thư vĩ đại của đời Hồng đức gồm đủ các mục như

thơ ca, sớ, phú, bình luận, địa chí, pháp chế v.v… Về thơ ghi ở đây, chúng ta

sẽ chú ý những tập như Minh Lương cẩm tú, Chinh tây kỷ hành: về phú, thì

có bài Lam sơn Lương thủy dài đến khoảng 400 câu; về ca thì có bài Quỳnh

uyển cửu ca. Cũng trong bộ này, có ghi bài Thập giới cô hồn quốc ngữ văn

bằng quốc âm của Lê Thánh Tông. Ngoài ra, có một số tác phẩm không chép

gộp vào Thiên nam dư hạ tập như Thánh Tông di thảo, Hồng đức quốc âm thi

tập, và một số bài thơ lẻ tẻ v.v….

Chúng ta sẽ nói qua về một số tác phẩm chính và chủ yếu nói về tác

phẩm của Lê Thánh Tông.

Thơ văn chữ Hán:

Quỳnh uyển cửu ca: (Chín khúc ca vườn Quỳnh dao) sáng tác năm

1494; bài xướng là của Lê Thánh tông gồm 9 khúc là Phong niên (được mùa),

Quân đạo (đạo làm vua), Thần tiết (tiết của bề tôi), Minh (quân) Lương (thần)

(vua sáng tôi hiền), Anh hiền (bậc anh tuấn hiền tài), Kỳ khí (khí lạ), Thư thảo

(vui đùa thanh thơ), Văn nhân (người văn học), Mai hoa (hoa mai). Chín khúc

ca này có một chủ đề chung là ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị đời Thánh Tông

Page 126: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

vào những năm 1493 – 1494 là những năm được mùa, nhà vua cho đó là

“điềm lành” trời cho.

Minh lương cẩm tú: dùng 13 cửa biển nước nhà làm đề tài với mục đích

vừa ca tụng lòng tự hào dân tộc vừa làm cho khuây khỏa nỗi các tướng sĩ

nhớ nhà. Tập thơ này ra đời năm 1470 trong cuộc đi đánh Chiêm thành.

Trong quyển Toàn Việt thi lục, Lê Quý Đôn có đặt vấn đề nghi ngờ một số bài

thơ ở đây không phải giọng của Lê Thánh tông.

Chinh tây kỷ hành; là một tập thơ và một số ký sự sáng tác vào năm

1471, cũng trong dịp đi đánh Chiêm thành.

Ngoài ra có các tập thơ khác như Anh hoa hiếu trị, soạn năm 1468

nhân dịp vua về thăm Lam kinh. Châu cơ thắng thưởng hầu hết gồm thơ của

Thánh tông, ca tụng nhiều cảnh đất nước tươi đẹp. Văn minh cổ xúy tập soạn

năm 1491, nhân dịp vua đi bái yết Sơn lăng, Xuân vân thi tập soạn năm 1496

sau khi làm lễ cầu đảo ở miếu Hoằng hựu. Cổ kim cung từ soạn năm 1497.

Thơ văn quốc âm:

Hồng đức quốc âm thi tập: một tập thơ bát cú gồm hơn 300 bài của Hội

Tao đàn. Tập này gồm có 5 mục chính:

1. Thiên địa môn: gồm những bài vịnh về năm tháng ngày, giờ, thời

gian…

2. Nhân đạo môn, gồm những bài tự thuật, hay những bài vịnh nhân vật

lịch sử phần lớn là lịch sử Trung quốc.

3. Phong cảnh môn: gồm những mục như Tiêu tương bát cảnh, Đào

nguyên bát cảnh, tứ thú (ngư tiều canh mục), vịnh chùa, vịnh quán v.v….

4. Phẩm vật môn: gồm những bài vịnh tuyết nguyệt phong hoa, cầm kỳ

thi tửu, các loài cây, các loài vật v.v…

5. Nhân ngâm chư phẩm: gồm những bài vịnh linh tinh như vịnh cổ

thành, vịnh cung tần, vịnh Trưng vương, Triệu Âu, vịnh Vương Tường v.v….

Page 127: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Thập giới cô hồn quốc ngữ văn: do Lê Thánh Tông soạn về 10 hạng

người lúc bấy giờ (giới: thiền tăng, đạo sĩ, quan lại, nho sĩ, thầy thiên văn địa

lý, thầy lang, võ tướng, hoa nương, nhà buôn, lưu manh). Bài này chép trong

bộ Thiên nam dư hạ tập.

Khối lượng thơ văn của Lê Thánh Tông và hội Tao đàn khá lớn, nhưng

ngày nay còn lại không đầy đủ.

Thơ văn của Lê Thánh Tông và hội Tao đàn thể hiện ý thức của giai

cấp phong kiến về vai trò lịch sử của mình, đồng thời cũng thể hiện lòng tự

hào dân tộc.

Như ở phần hoàn cảnh lịch sử chúng ta đã nói, giai cấp phong kiến thời

này đóng vai trò tích cực trong lịch sử dân tộc ta. Họ có ý thức về nhiệm vụ

lịch sử của mình. Điều đó thể hiện trong thơ văn của Lê Thánh Tông và hội

Tao đàn. Bất kỳ chúng ta giở một tập thơ nào viết bằng chữ Hán hay chữ

nóm, thí dụ Quỳnh uyển cửu ca, Văn minh cổ xúy, Hồng đức quốc âm thi

v.v…, chúng ta cũng thấy khi Lê Thánh Tông nói đến cảnh vật, là đều tỏ ý tự

phụ về vai trò lịch sử của mình:

“Lòng vì thiên hạ những sơ âu

Thay việc trời dám trễ đâu?…”

(Tự thuật, Hồng đức quốc âm thi tập)

Khi nói về “Được mùa”, hay khi nói về “Đạo làm vua” trong Quỳnh uyển cửu

ca, Lê Thánh Tông thường tự hào cho rằng trời ban phúc cho mình:

“Đạo lớn đế vương đã nghiên cứu rất tinh tường

Dưới nuôi dưỡng trăm họ, trên kính trời

Trị dân, giữ nước thường nghĩ sự noi theo người trước

Chay lòng ít ham muốn, bỏ hẳn thói chơi săn bắn”.

(Quân dạo)

Page 128: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Ông thường nói rằng “mình tuổi trẻ trị vì, nên phải chú ý đến ba việc

quan trọng là nghi lễ, pháp độ và văn học và ông thường tự hào là “sóng kình

im bặt, khói lang không còn nữa” đi đến đâu cũng thấy nhiều việc tốt lành”.

(Họa: Giang hành ngẫu thành).

Dưới thời Lê Thánh Tông, xã hội nước ta quả cũng có đạt đến mức độ

tương đối ổn định trong khuôn khổ chế độ phong kiến, cho nên “cá muối như

bùn đất, thóc lúa tràn trề không còn ruộng cấy, thuế má lại nhẹ nhàng” (An

bang phong thổ) cảnh nhân dân sầm uất “nấp dưới bóng cây xanh, với những

guồng quay tơ, những nồi nấu kén, những nong tằm nhung nhúc súm sít liền

nhau” (Tang châu) đúng như ông nói trong bài Vịnh làng Chế:

Chợ họp bên sông gẫm có chiều

Thuyền bày trên đất xem nhiều thể

Cảnh vật bằng đây họa có hai

Vì dân khoan giản bên tô thuế….

Đương nhiên giai cấp của Lê Thánh Tông sống trên sự bóc lột của quần

chúng lao động. Có điều, phần nào, Lê Thánh Tông cũng như các nhân sĩ

thời bấy giờ đã chú ý đến đời sống nhân dân trong chừng mực nhất định.

Qua những tập thơ chữ Hán cũng như Hồng đức quốc âm thi tập, chúng ta

thấy các nhân sĩ lúc đó đã chú ý đến “con trâu, đụn củi”, đến cảnh thức khuya

dậy sớm của những kẻ “mồ hôi dồn dõi thuở đầu mom” hay những “kẻ hải rau

tần nước bọt se”.

Qua bài Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, chúng ta thấy lúc bấy giờ, bên

cạnh tầng lớp ngư, tiền, canh, mục cũng còn có các giới lái buôn, hoa nương

và đãng tử là những giới mà Lê Thánh Tông đã mạt sát không tiếc lời. Theo

ông thì bọn đi buôn chỉ là những kẻ bất nhân “lòng mối”, “lưỡi lằn” sống vì

“của phi nghĩa”:

Đặt điều nói thuận nhân tình,

Mạt rẻ bán đời thời giá…

Page 129: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Đối với hoa nương và đãng tử, ông không thể biết được họ chỉ là những nạn

nhân của xã hội phong kiến, kể cả cái xã hội tương đối phồn thinh của đời

ông, nên ông chỉ thấy hoa nương là lớp người “làm bạn gửi, lấy chồng

quyền”:

Ân ái vờ, nhân nghĩa cây vối, châu đã đầm đầm

Nước mắt gừng, tâm sự xôi chiêm, suối đà lã chã…

Còn đãng tử chỉ là cái bọn “sống bởi chưng ở nết ỡm ờ”, suốt đời cứ lo “sắm

của ăn, lo của mặc, săn mớ thuốc, sắp mớ cau”, “Khoét móng chân, nhổ lông

mũi…” để rồi “chạy bởi đám hè sang đám hội, dạo chưng làng liễu tới làng

hoa…”.

Riêng đối với các giới nho sĩ, quan lại và võ tướng thì Lê Thánh Tông

lại đặc biệt ca tụng, coi họ là “rường cột ải thành” của quốc gia. Thế của họ là

thế:

“Chĩnh chện áo dài đai rộng,

Nghênh ngang đòng cả mác dài”.

và đi đâu thì “tàn rợp bóng hoa, hương tàn dặm liễu”. Riêng nho sĩ thì Lê

Thánh Tông khen không tiếc lời, trong khi đó thì lại có ý châm biếm các nhà

sư. Từ giữa đời Trần, đạo Phật đã bị một số nhà nho như Lê Quát, Trương

Hán Siêu chỉ trích. Nho giáo đã dần dần trở thành độc tôn.

Nhưng điểm mà chúng ta chú trọng trong thơ văn của Lê Thánh Tông

và hội Tao đàn là lòng tự hào dân tộc.

Trước hết lòng tự hào dân tộc đó thể hiện ở những bài thơ miêu tả

phong cảnh đất nước, rải rác trong nhiều tập thơ như Cồ tâm bách vịnh,

Chinh tây kỷ hành, nhất là Minh lương cẩm tú…

Thi nhân đi qua bao nhiêu là cửa biển đầy thơ mộng của đất nước như

cửa Thần phù, cửa Cờn, cửa Nam giới, cửa Hà hoa, cửa Bố chính, cửa Tư

dung, cửa Hải Tân… Cửa nào cũng có vẻ đẹp riêng của nó, như cảnh Tư

dung là một cảnh hùng tráng:

Page 130: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

“Giáp bãi đá treo xanh ngắt ngắt,

Tiếp trời sóng võ biếc trùng trùng…”.

(Liệt chướng huyền giai thanh sực sực,

Kế thiên bạc lãng bích trùng trùng)

(Tư dung hải môn lữ thứ)

Rồi đến những cảnh như cảnh đêm đỗ thuyền ở xã Liên trì (?), xem trăng non

sắp lặn bên vách đá núi trong khi nước thủy triều tràn dâng trong làn gió mát

hay cảnh đêm cắm thuyền ở làng Thu bồn có khách mang đàn cầm gẩy dưới

trăng sáng, bỗng ước có ai cầm bầu rượu cùng nâng chén tiệc hoa,..

Trong bài phú Lam sơn Lương thủy, Lê Thánh Tông mô tà cảnh hùng

vĩ của đất Lam sơn là để nói lên khi thế hào hùng của dân tộc:

“Ta từng thấu suốt được cái lẽ mở đóng của trời đất vậy! Lam sơn cao

vời vợi, người giỏi đất thiêng, Lương thủy cuồn cuộn, nguồn sạch dòng trong;

rực vẻ thần của trời đất, sáng cả núi sông, nơi đế nghiệp thành công là nơi có

cái vẻ giàu đẹp, nơi cái đạo dấy lên là nơi có thú vật rừng rậm…”.

Lòng tự hào dân tộc còn thể hiện ở những bài thơ vịnh sử. Lối thơ vịnh

sử đã có từ đời Trần, nhưng đấy mới chỉ là những bài vịnh nhân vật lịch sử

Trung quốc, mà lại viết bằng Hán văn. Ở thế kỷ XV, xuất hiện loại thơ quốc

âm vịnh những nhân vật trong lịch sử nước nhà như vịnh Bà Trưng, Bà Triệu,

vịnh Lê Khôi. Cố nhiên, thơ vịnh nhân vật thời này có nhiều khía cạnh như

vịnh nhân vật lịch sử Trung quốc (Hán Cao Tổ, Hán Tam Kiệt, Hạng vũ, Chiêu

quân v.v…), hay vịnh các văn nhân liệt nữ của ta (Nguyễn Trực, Vũ Thị Thiết

v.v…). Riêng trong thơ vịnh nhân vật lịch sử của ta, tinh thần tự hào dân tộc

được gợi tả một cách khá thấm thía:

Nếu Trưng Trắc có cái thế làm cho:

“Tô Định bay hồn vang một trận,

Lĩnh nam mở cõi vững trăm thành…”.

thì Bà Triệu cũng có cái thế:

Page 131: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

“Hợp chủng rừng xanh, oai náo nức,

Cỡi đầu voi trắng, tiếng vang lừng…”.

Tóm lại, khi nói về lòng tự hào của giai cấp mình trong giai đoạn lịch sử, hay

lòng tự hào dân tộc, Lê Thánh Tông và hội Tao đàn đã làm được những câu

thơ hay trong những bài thơ hay. Tuy vậy, nhìn chung, phần lớn thơ giai đoạn

này khô khan, vì rập theo một khuôn sáo nhất định. Thơ của hội viên Tao đàn

lại có thiên hướng ca tụng Lê Thánh Tông một cách khiên cưỡng, có khi mù

quáng, đúng như lời nhận xét của tác giả cuốn Việt sử tổng binh:

“… Thói xiềm nịnh ngày càng thịnh,

Điển nhã ngày càng mất đi…

Nhà vua đã kiêu căng,

Các quan lại a dua theo…”.

Tình yêu thiên nhiên và tình yêu lứa đôi trong thơ văn của Lê Thánh

Tông và hội Tao đàn.

Ngoài mục “Thiên địa môn” và “Phong cảnh môn” trong Hồng đức quốc

âm thi tập, còn có rất nhiều bài thơ Hán hay nôm khác nói về tình yêu thiên

nhiên đất nước, như những bài vịnh sông núi trong Thiên nam dư hạ tập,

những bài vịnh các cửa bể trong Minh lương cẩm tú v.v… Thường thường

các nhà thơ trong hội Tao đàn vịnh thiên nhiên theo những đề tài nhất định,

như vịnh bốn mùa, vịnh 12 tháng, vịnh 5 canh, vịnh đào nguyên bát cảnh, vịnh

ngư tiều canh mục v.v…, hoặc vịnh một hệ thống cửa bể, một hệ thống chùa

chiền v.v… Khi mô tả sự vật, họ đã chú ý đến hình tượng và lời văn. Đây là

một nụ hoa chớm nở còn trinh tiết:

“Má hồng mới mọc tô phấn,

Nhi ngọc chưa hề bên sương”.

(Vịnh hoa)

Đây là một mùa xuân đang về, mang một chút tình xao động:

Page 132: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

“Đường hoa chấp chới tin ong dạo,

Dặm liễu thung thăng sứ điệp truyền”.

(Xuân 2)

Và đây là tình người buổi “tàn xuân 5” nơi “Lữ xá”:

“Hồ điệp mơ màng nhà mấy dặm,

Tử qui khắc khoải nguyệt ba canh”.

(Tàn xuân lữ xá)

Các nhà thơ hội Tao đàn vịnh chùa không phải để ca tụng đạo Phật,

mà để ca tụng cảnh trí thiên nhiên, cảnh chùa nước ta thường cung cấp cho

các nghệ sĩ một nguồn cảm hứng vô biên. Những chùa lớn đều được các tác

giả mô tả như chùa Phả lại, chùa Thiên phúc, chùa Sùng nghiêm, chùa

Quỳnh lâm, chùa Yên tử, chùa Phật tích v.v… Chẳng những là chùa, mà

những cảnh đền đài, sông núi, nói chung là những “phong cảnh hữu tình” đều

được các tác giả đề thơ: từ núi Dục Thúy cho đến sông Bạch đằng, từ cửa Tư

dung cho đến bến Phù thạch, từ động Hồ công cho đến xứ An bang v.v…

Phong cảnh ở đây cũng ẩn hiện muôn hình dưới ngòi bút của thi nhân: tiếng

chuông Phả lại, cảnh nguyệt Bình than, những tua mây, những ráng đỏ long

lanh dưới đáy nước bến Phù thạch, những ngọn núi đứng chon von ở xứ An

bang… tất cả đều gợi lên lòng tự hào về đất nước tươi đẹp của ta. Qua đến

Kiếp bạc hay qua sông Bạch đằng, nhìn thấy cảnh vật, các nhà thơ nhớ lại

những cuốc chiến đấu oanh liệt thời xưa, nhớ công ơn Hưng Đạo, nghĩ đến

cái chết đáng kiếp của Toa Đô, của Ô Mã Nhi;

“Nọ đỉnh Thúi sơn rành rạch đó;

Nào hồn Ô Mã lạc loài đâu?…”.

(Bạch đằng giang)

Các nhà thơ Hội Tao đàn có ưu điểm là khi nói đến cảnh thiên nhiên,

thường liên hệ đến tình yêu đất nước. Lê Thánh Tông và hội Tao đàn chẳng

những chú ý mô tả tình yêu thiên nhiên, mà còn chú ý ghi lại những khía cạnh

Page 133: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

tình yêu lứa đôi. Đây là một vấn đề mới trong văn học viết của ta. Ở thế kỷ

XIV, chúng ta chưa thấy bóng dáng người đẹp trong thơ văn của nhân sĩ thời

bấy giờ. Đến đầu thế kỷ XV, Nguyễn Húc, Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân…

đã phần nào nói đến người đẹp trong thơ, nhưng cũng chỉ là đôi vẻ “đẹp

thoảng qua” mà lời thơ thiếu đậm đà khi biểu hiện… Ở nửa sau thế kỷ XV,

các nhà thơ hội Tao đàn đã nói nhiều đến phụ nữ cố nhiên còn nặng về phụ

nữ trong sử sách hay trong truyện cổ dân gian: tình người cung oán, tình

người chinh phụ, tình Chiêu quân đối với Hán chúa, tình tiên nữ đối với Lưu

Nguyễn, tình Tiên Dung đối với Chử Đồng Tử, tình Chức nữ đối với Ngưu

lang… Các tác giả phần nào đã thấm thía tình ly biệt nỗi lạnh lùng của lứa

đôi, của “kẻ trông chồng”, của người trong cảnh “Lạnh lùng ngoài cửa ải”

(Chiêu quân), hay trong cảnh “gió thổi đèn tàn thêm lạnh lẽo” (Tiên tử nhớ

Lưu Nguyễn). Tình Chức nữ nhớ Ngưu lang cũng là mối tình thông thường

của những cặp vợ chồng xa nhau:

“Đêm thanh lần tưởng hai phương nguyệt,

Ngày vắng buồn xem một dải sông…”.

(Chức nữ nhớ Ngưu lang)

Tình đau đớn của Chiêu quân cũng là mối tình thông thường của

những phụ nữ bị hy sinh. Để che chở cho ngai vàng nhà Hán, Vương Tường

bị bọn quyền thần buộc phải cắt đứt tình vợ chồng, cắt đứt tình mẹ con và

đau đớn hơn nữa là cắt đứt tình Tổ quốc! Và khúc tì bà ai oán của nàng đã

đượm máu và nước mắt:

Sầu tuôn đòi đoạn khúc tì bà

Bâng khuâng đền Hán ba cung nguyệt,

Vò võ thành Hồ một đóa hoa!

(Chiêu quân, bài 19)

Tất cả những lời nhắn gửi xót xa của nàng về cho triều đình là tất cả

những nhục nhã cho vua tôi nhà Hán;

Page 134: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Ai về nhắn nhủ cung phi Hán

Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng…

(Chiêu quân xuất tái)

Một thiếp lạnh lùng ngoài cửa ải,

Chín trùng đầm ấm thuở đền xuân!

(Chiêu quân tự thú)

Như trên chúng ta đã nói, Lê Thánh Tông thường hay đi xem xét tình

hình trong nước, cho nên cũng ít nhiều biết được bao nỗi oái oăm trong mối

tình lứa đôi của quần chúng. Làm hai bài thơ để miếu vợ chàng Trương, Lê

Thánh Tông đã thông cảm phần nào nỗi đau sót của Vũ Thị Thiết:

“…Cách trở bấy lâu hằng giữ phận,

Hiềm nghi một phút bỗng vô tình…”.

Thời này tình yêu trai gái đã được ít nhiều nói đến trong văn học viết.

Mối tình thơ mộng của Lý Quốc Hoa và Trương Thị trong bài thơ Hương miết

hành (bài thơ Chiếc giày thơm) quả là một mối tình có thể so sánh với một

mối tình nào đó thời cận đại: chàng Lý Quốc Hoa mới gặp cô Trương có một

lần, tình tự đôi lần và chỉ mởi nhỡ hẹn một lần mà đã chết ngất bên cầu, lòng

ôm chiếc “giày ngát hương duyên” để cho hồn bay tới “lầu tương tư”:

… “Cột ngoài giày ngát hương duyên

Bốn bề cảnh vắng, một thiên tình sầu,

Băng khuâng Vu giáp mịt mù,

Mây bay kín lối vượn kêu đứt lòng.

Giang nam đã hết xuân hồng,

Tiếng quyên khắc khoải theo dòng máu khô.

Máu khô ruột đứt tình sầu,

Ôm giày chết ngất những đau đớn nhiều.

Page 135: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Chàng từ nằm thiếp trên cầu,

Hương hồn bay tới bên lầu tương tư…”.

Tình yêu lứa đôi ở đây tuy tha thiết, nhưng cũng có tính chất ủy mị. Đến

thế kỷ XVI, tình yêu lứa đôi lại còn được Nguyễn Dữ tô đậm nét trong nhiều

truyện của tập “Truyền kỳ mạn lục”.

Về hình thức nghệ thuật, các tác giả trong hội Tao đàn đã chú ý đến

hình tượng và lời văn. Nói đến hình thức nghệ thuật là phải nói đến bút nháp

tác giả. Nhìn chung, bút pháp các tác giả trong hội Tao đàn là bút pháp tượng

trưng, giống như bút pháp phần lớn các nhà thơ cổ ở Trung quốc và ở ta.

Nhưng trong khuôn khổ tượng trưng, qua những nét chấm phá, vẫn có yếu tố

tả thực. Các thi sĩ Tao đàn đã nói lên được phần nào cái hiện thực của thời

đại Hồng đức với không khí thanh bình trong giai đoạn lịch sử đó: từ một cảnh

Cung đình cho đến một cảnh nông thôn, từ một cảnh thiên nhiên cho đến một

vật tầm thường như cái ấm đất, cái cối xay… Cũng còn nhiều hình ảnh vay

mượn trong sử sách Trung quốc, nhiều từ và lời khuôn sáo, nhưng cũng đã

có những hình ảnh rút từ thực tế dân tộc, có khí vị dân tộc: nếu có tượng

“Khổng thánh, thì cũng có tượng Bà Banh, nếu có hình ảnh Lưu Nguyễn ở

nguồn đào, thì cũng có hình ảnh Chử đồng tử ở bãi Tự nhiên… Có thể cội

nguồn và cảnh của dân tộc Việt nam ẩn hiện trong Hồng đức quốc âm thi tập:

Hai ba ngọn, một điểm mưa,

Một chiếc thuyên chài diễn nước đưa.

Khuất cụm câu buông cần nhẹ nhẹ,

Kề hoa mái ngỏ cửa thưa thưa…

(Sổ hành hồng liễu nhất ngư châu)

hay là:

Lầu treo cung nguyệt người êm giấc,

Đường quạnh nhà thôn cửa chặt cài

Cảnh vật trồm trồm bay lửa đốm,

Page 136: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Cỏ hoa gốc gốc đượm hương trời.

(Canh hai)

Cũng như Nguyễn Trãi xưa say với thiên nhiên, các thi sĩ Tao đàn

nhưng để tâm hồn chan hòa trong cảnh vật và nói cảnh vật chính là để nói

lòng người. Cái lối tả cảnh ngụ tình của thi sĩ Tao đàn khá tế nhị. Hãy xem cái

nhí nhảnh của nàng trăng trước sự cấm đoán của thượng đế:

Thượng đế tuy hay nghiêm cấm đoán,

Có đêm lởm thởm đến phòng ta…

(Hằng nga nguyệt)

Phải chăng qua nàng trăng, nhà thơ đã kín đáo chen vào một chút tính

phản kháng lễ giáo phong kiến của cả nhân mình? Cái đó còn tùy, có điều

chắc chắn là qua tập thơ này, bút pháp trào lộng đã được thể hiện ở nhiều

chỗ.

Tả “nhà giột” tác giả viết:

Đêm có ả trăng làm bạn cũ,

Ngày thì dì gió quét bên giường…

(Lậu ốc).

Tả Kênh Trầm, tác giả viết:

Gò nổi đít trâu rêu lún nhún

Bãi lè lưỡi bạng bọt lăn tăn

Đây là hình ảnh thiếu nữ qua bài “Cái quạt”

Lưng mềm uyển điệu mười lăm tuổi

Má điểm yên chi bảy tám khuyên…

qua bài “Cây đánh đu”:

Tế hậu thổ khom khom cật,

Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng

Page 137: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Tám bức quần hồng bay phấp phới

Hai hàng chân ngọc đứng song song…

Ở nửa đầu thế kỷ XV, trong tập thơ Quốc âm, đôi chỗ Nguyễn Trãi đã

dùng đến bút pháp trào lộng, thí dụ các bài tả mèo, tả lợn… Hội Tao đàn phát

triển lên một mức cao hơn, đến thế kỷ XVIII, XIX về sau, thì lối thơ đó được

sử dụng nhiều hơn, nhất là trong những bài thơ mà hiện nay tương truyền là

của Hồ Xuân Hương.

Trong bút pháp của các thi sĩ Tao đàn, có một điểm không thể bỏ qua

được, đó là lối dùng từ, lối gieo vần, cắt nhịp, lối kết thúc bài thơ.

Đương nhiên, đa số thơ trong tập này chưa được điêu luyện, nhưng

thỉnh thoảng cũng có những câu hay, từ chọn lọc, lời chải chuốt:

Thí dụ như tả nàng Mỵ Ê với một chút tình luyến tiếc:

Dòng bạc thề cùng thu có nguyệt,

Sử xanh chép để bút còn hương…

hay tả Hán Cao Tổ với cái khí thế hào hùng

Cuồn cuộn rồng bay ngàn Bái ấp

Đùng đùng hươu chạy đất Hàm dương…

Đặc biệt, các tác giả trong tập thơ này hay dùng lối từ sóng đôi, thí dụ:

Sông lồng lộng nước mênh mênh

Lườn lượn chèo qua, nép nép mình

Gió hiu hiu, thuyền bé bé

Mưa phún phún, nón kềnh kềnh,..

(Ngư giang biển vộng).

Có khi tác giả áp dụng lối dùng từ ghép đôi đó để họa thơ làm cho bài

thơ có một sắc thái đặc biệt, thí dụ:

… Tròn tròn méo méo in đòi thuở,

Page 138: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Xuống xuống lên lên suốt mấy canh

Tháng tháng liếc qua lầu đỏ đỏ,

Đêm đêm liền tới trướng xanh xanh…

(Nguyệt)

Cũng như ở một số bài thơ quốc âm của Nguyễn Trãi, các thi sĩ Tao

đàn thỉnh thoảng áp dụng lối cắt nhịp song thất Việt nam thay cho lối cắt nhịp

thất ngôn của Trung quốc, thí dụ:

Người nhớ vua / nhìn sa đũa ngọc,

Kẻ trông chồng / ngắm ruổi mây xanh.

(Nguyệt)

Thế Hán Sở / xem đà mấy chốc,

Cuộc Tùy Tần / đối những bao giờ…

(Kỳ)

Chúng ta thấy thơ ca đời Hồng đức tuy chưa được chải chuốt, uyển

chuyển, vì bị hạn chế trong nhiều mặt của thời đại, nhưng cũng đã có những

nét đặc biệt, làm cho chúng ta có thể tự hào về nền thơ văn cổ của dân tộc ta.

Lê Thánh Tông và hội Tao đàn vốn tự hào về sự nghiệp văn chương

của mình như biết “xét rộng, tìm xưa”, biết truy cứu việc trước mà làm việc

nay (Tựa Quỳnh uyển cửu ca). Văn học thời Hồng đức quả đã phản ánh

được thực trạng xã hội nước ta thời phong kiến cực thịnh. Nếu chúng ta đọc

được ở đây tâm lý thỏa mãn và tâm lý hưởng thụ của giai cấp thống trị ở thời

kỳ thịnh trị của nó, thì chúng ta cũng đọc được ở đây lòng tự hào dân tộc và

lòng yêu thiên nhiên đất nước và đặc biệt, chúng ta còn đọc được ở đây một

tình cảm mới, đó là tình yêu lứa đôi, trong đó có tình đau đớn của số kiếp

người phụ nữ. Về hình thức, ngoài xu hướng cầu kỳ, tầm chương trích cú làm

cho câu văn gò bó nặng nề, hội Tao đàn đã chú ý trau dồi câu văn quốc âm

và cũng đã cố gắng sáng tạo mấy thể thơ độc đáo như lối thơ vịnh sử với đề

tài dân tộc, lối thơ dùng nhiều từ “lấp láy”, v.v… Ngoài sự nghiệp chính trị, Lê

Page 139: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Thánh Tông đã đóng góp nhiều vào sự nghiệp văn học. Tự mình làm Tao đàn

nguyên súy tự mình là một thi nhân, một văn sĩ và hơn nữa một thi nhân, một

văn sĩ xuất sắc, Lê Thánh Tông đã lôi kéo được văn thần vào phong trào

sáng tác văn nghệ. Để ca tụng Lê Thánh Tông, Thân Nhân Trung viết: “Đức

thịnh công lớn siêu việt hơn hết đời trước. Huống hồ “Thánh học” uyên thâm,

rừng sách bể truyện không đâu là không kê cứu. “Thánh văn” rực rỡ cùng ánh

sao Khuê, vẻ mây đua sức sáng ngời. Tinh thần tâm thuật đã hiện rõ, đạo

đức sự nghiệp được phát huy, còn cả ở trong Thiên nam liền hậu tập cùng

mọi sách ngự chế. Mọi lời anh quân chế tác, hồng nho trứ thuật, chưa thấy lời

ai uyên bác và điêu luyện đến như thế”. (Bài bia Chiêu lăng). Tất nhiên lời của

Thân Nhân Trung có chỗ tâng bốc nhà vua, nhưng xét ra không phải Lê

Thánh Tông không có thực chất về mọi phương diện vũ công cũng như văn

trị. Chỉ non một chục năm sau thời Hồng đức, nhà nước phong kiến đã bắt

đầu suy vi, do đó nền văn học viết cũng đã có những biến chuyển về nội dung

cũng như về hình thức so với thế kỷ XV.

Giai đoạn 3: TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XVIII

Chương I. VĂN HỌC VIẾT THẾ KỶ XVI, XVII VÀ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XVIII

Từ sau cuộc kháng Minh và suốt thế kỷ XV cho đến đầu thế kỷ XVI,

nước ta ở vào thời kỳ tương đối ổn định. Tình hình kinh tế có phát triển hơn

trước. Văn học nghệ thuật tương đối phong phú. Các loại nghiên cứu hoặc

sưu tầm về văn, sử v.v…, các loại thơ phú sáng tác bằng chữ Hán, chữ Nôm,

các bài nhạc mới v.v… đều xuất hiện trong trào lưu văn nghệ của thế kỷ XV,

nhất là trong thời kỳ Hồng đức. Chế độ tư hữu ruộng đất thời này phát triển

mạnh, cùng với chế độ quân chủ tập trung đã làm cơ sở cho sự hưng thịnh

của nền văn hóa dân tộc.

Sau Lê Thánh Tông, nhất là sau Lê Hiến Tông, chế độ phong kiến quan

liêu bước vào thế suy yếu. Mâu thuẫn giữa địa chủ phong kiến với nông dân

càng ngày càng gay gắt. Nội bộ giai cấp thống trị có nhiều mâu thuẫn vì sự

Page 140: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

tranh giành địa vị lẫn nhau. Nước ta lâm vào một thế nội chiến liên miên trong

ba thế kỷ XVI, XVII, XVIII. Bên cạnh những cuộc Lê Mạc xung đột, Trịnh

Nguyễn phân tranh, lại có nhiều cuộc khởi nghĩa nhân dân liên tiếp. Cuộc

khởi nghĩa Tây Sơn ở cuối thế kỷ XVIII đã chấm dứt tình trạng rối ren trên và

đưa lại nền thống nhất cho Tổ quốc. Do hoàn cảnh lịch sử như vậy, văn học

trong mấy thế kỷ này có một màu sắc riêng biệt. Lực lượng nghiên cứu và

sáng tác văn học không phải chỉ có sĩ phu đương lĩnh quan chức như ở thế

kỷ XV, mà còn là những nho sĩ ẩn dật, nho sĩ bình dân không đỗ đạt gì, nho sĩ

Trung quốc di cư sang ta và cả những nhà sư. So sánh với thế kỷ XV, thì khối

lượng tác phẩm của hai thế kỷ rưỡi này sụt hẳn vì tình trạng chiến tranh. Trừ

một số thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Dữ, chất lượng các tác

phẩm nói chung kém hơn vì sĩ phu ít có điều kiện để nghiền ngẫm. Từ Trịnh

Nguyễn phân chia đất nước về sau (1672), việc học hành thi cử tương đối ổn

định từng vùng, lớp sĩ phu của thế kỷ XVIII hình thành và chất lượng kiến

thức tương đối được nâng lên một mức. Riêng về văn học quốc âm, từ thế kỷ

XVI về sau, khối lượng cao hơn ở thế kỷ XV. Có một sự nghịch biến giữa tình

hình phát triển văn nôm với tình hình suy sụp của chế độ phong kiến. Sự

nghịch biến đó chứng minh sự thắng lợi của tiếng nói dân tộc trong lãnh vực

văn học cùng với cao trào đấu tranh của nông dân trong quá trình phát triển

của lịch sử. Cao trào văn Nôm này đã dọn đường cho nhiều khúc ngâm,

nhiều truyện thơ xuất hỉện như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Hoa tiên,

Đoạn trường tân thanh, nhất là Đoạn trường tân thanh, một tác phẩm đạt đến

đỉnh cao của văn học quốc âm trong thời kỳ phong kiến.

I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XVIII

Từ thế kỷ XVI, mâu thuẫn nội tại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ

sản xuất trong chế độ phong kiến đã bộc lộ bước đầu khá sâu sắc. Thời đại

“hoàng kim” của chế độ phong kiến ở nước ta cáo chung. Các vua Lê lúc này

đã đi vào con đường xa hoa, dâm dật, bọn địa chủ quan liêu thì tham ô,

nhũng lạm, đục khoét nhân dân. Chính sách “quân cấp ruộng đất” tạm ổn định

thời trước, nay đã biến thành một thủ đoạn ăn cướp trắng trợn ruộng đất của

Page 141: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

nông dân; đó là chưa nói còn biết bao lực dịch, thuế má nặng nề, hình phạt

hà khắc. Không còn những “vua sáng tôi hiền” của thời đại Hồng đức, mà chỉ

có những hôn quân bạo chúa, tranh nhau lên ngai vàng vì ích lợi dòng họ,

hưởng lạc cá nhân. Uy mục là một tên vua chỉ ngày đêm rượu chè, cờ bạc,

đàn hát, thích chém giết. Tương dực kế tiếp Uy mục, lại còn xa xỉ và dâm dạc

gấp bội. Hắn dùng đô đốc giám Vũ Như Tô để huy động nhân dân, nào xây

Cửu trùng đài, nào dựng điện trăm nóc, suốt năm năm không xong, lời ca

thán của quần chúng thấu đến mây xanh. Hắn giết hàng loạt mười lăm hoàng

thân, tư thông với cung nhân đời trước, bắt đàn bà cởi trần chèo thuyền rong

chơi hồ Tây. Năm 1513, sứ Minh là Trạm Nhược Thủy và Phan Hy Tăng khi

sang phong vương, có nhận định hắn có “tính hiếu dâm như tướng lợn”. Từ

Uy mục, Tương dực về sau, trong triều xảy ra nhiều cuộc chém giết hỗn loạn.

Nhân tình hình như vậy, Mạc Đăng Dung, một võ quan, nhảy lên vũ đài chính

trị, giết Chiêu Tông, giết bù nhìn Cung hoàng đế, tự xưng vua năm 1527. Bọn

Nguyễn Hoằng Dụ, Trịnh Tuy, quan lại cũ nhà Lê, chống lại họ Mạc. Cuộc

xung đột Lê Mạc kéo dài từ 1527 đến 1592 làm cho nhân dân xiết bao khổ sở.

Sau loạn Nam Bắc triều là cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài gần một thế

kỷ XVII, trong đó có bảy trận đánh nhau to (trận đầu: 1627, trận cuối: 1672) và

kết quả tai hại đưa đến sự chia cắt nước nhà trong một thời gian dài.

Qua tình hình xã hội rối ren đó, chúng ta thấy mâu thuẫn nội bộ giai cấp

phong biến lúc này khá sâu sắc: mâu thuẫn giữa ngoại thích và hoàng phái,

giữa tập đoàn Mạc Đăng Dung và phe cựu thần nhà Lê, mâu thuẫn giữa tập

đoàn phong kiến Đàng Ngoài và tập đoàn phong kiến Đàng Trong. Nhưng

mâu thuẫn chính vẫn là mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ phong kiến với giai

cấp nông dân và các tầng lớp bị áp bức khác. Quả vậy, trong suốt mấy thế kỷ

đó, bên cạnh những rối loạn trong triều, những cuộc xung đột giữa các tập

đoàn phong kiến, vẫn có những cuộc khởi nghĩa nông dân. Ở thế kỷ XVI,

nhiều cuộc khởi nghĩa mở đầu như những cuộc khởi nghĩa của Thân Duy

Nhạc, của Ngô Văn Tổng, của Trần Tuân dẫn đến cuộc khởi nghĩa lớn của

Trần Cao khoảng từ 1515 đến 1521. Tiếp đó, nhiều cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ

khác dẫn đến những cuộc khởi nghĩa khá quan trọng ở nửa đầu thế kỷ VXIII

Page 142: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

như cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Duy Hưng (1737), Nguyễn Danh Phương,

Nguyễn Hữu Cầu, khoảng từ 1740 đến 1751. Từ đó về sau, có thể nói là một

cao trào nông dân khởi nghĩa. Việc đó chứng tỏ rằng khi các tập đoàn phong

kiến hòa hoãn với nhau để chia sẻ quyền lợi, thì nông dân bị áp bức vẫn lôi

kéo các tầng lớp khác nổi dậy chống phong kiến và cuộc khởi nghĩa này bị

đàn áp ngã xuống thì cuộc khởi nghĩa khác lại nổi lên. Sở dĩ như vậy là do

đời sống nhân dân lâm vào thế cùng: nông nghiệp bị phá sản, công nghiệp,

thương nghiệp bị bế tắc. Suốt mấy thế kỷ đoạn ly đó, ngoài những nạn đói do

lụt, bão, hạn hán, sâu keo gây ra, còn biết bao tai vạ do giai cấp thống trị gây

nên như nạn kiêm tính ruộng đất, thuế má nặng nề, lực dịch khe khắt…

Nguyễn Dực trong “Hồng thuận trung hưng ký” đã nói rõ đời sống nhân dân

trước sự xa hoa của Lê Uy Mục: “… Xây nhà cửa thì các xứ Thái nguyên,

Tuyên quang núi không đủ gỗ để che lấp lòng tham; đòi mắm muối thì các

miền Nghệ an, An bang, biển không đủ vẩy để che miệng đói”. Năm đầu Hồng

thuận (1510), Lương Đắc Bằng dâng bài sách trị bình 14 chước, tựu trung có

nhắc đến sự “tiêu dùng phải dè dặt, để giữ thói kiệm ước” và “việc cấm hối lộ

để bỏ thói gian tham”. Đến năm 1581, Trần Văn Bảo dâng sớ lên cho Mạc

Mậu Hợp nói rõ tình trạng thối nát của xã hội và trách vua chỉ hứa suông mà

không làm gì cả. Bùi Bỉnh Uyên, Nguyễn Duy Thì, Lưu Đinh Chất, Ngô Trí

Hòa đều dâng sớ hoặc điều trần với một nội dung tương tự. Ngô Trí Hòa đề

nghị 6 điều trong đó 5 điều nhấn mạnh phải bảo vệ đời sống cho dân không

được đè nén, phiền hà dân. Trong bài khải của Lưu Đình Chất năm 1611, có

câu: “… mệnh lệnh ban ra các tướng không thể theo lòng khoan hòa thương

xót của người trên, chỉ chăm làm việc cay nghiệt, vét hết của cái của dân.

Tiếng kêu sầu khổ cũng đủ cảm động đến trời…”. Tình trạng nông dân bị áp

bức, nhất là bị cướp đoạt ruộng đất lại càng trầm trọng ở khoảng đầu thế kỷ

XVIII. Năm 1711, khi ra lệnh cấm thành lập các trang trại, Trịnh Cương đã

phải công nhận: “… Các nhà quyền quý thế gia, các viên nha và các nhà hào

phú không được thừa khi xã dân nghèo khổ phiêu bạt, thác cớ mua ruộng đất

để chiếm lĩnh làm của riêng, tự lập làm trang trại…”. Ngô Thì Sĩ cũng nhận xét

tình trạng nguy ngập đó của nông dân trong một bản điều trần: “Những dân

Page 143: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

phiêu lưu, ruộng phải bỏ hoang, phần nhiều bị bọn thế gia các làng lân cận

chiếm đoạt, lập văn khế giả để làm bằng cử. Thậm chí có khi ruộng đã cày

cấy hết mà vẫn khai là hoang phế. Dân lưu vong dù muốn trở về cũng không

có ruộng cày cấy, mà kiện cáo thì khổ nỗi không đủ sức…”.

Đời sống nông dân khổ sở như vậy, đời sống các tầng lớp bị áp bức

như thợ thủ công, buôn bán nhỏ cũng chẳng kém. Mặc dầu chính sách của

giai cấp phong kiến là “trọng nông ức thương”, nền kinh tế hàng hóa vẫn phát

triển từ đời Trần, bị đình trệ thời Minh thuộc, trở lại phát triển từ thời Lê. Bọn

quan lại, hoàng thân thấy lợi cũng chạy đua buôn bán, đến nỗi vua Lê Thánh

Tông đã phải than thở. Tình hình đó làm cho việc ngoại thương ít nhiều phát

triển; từ đời Lý, Trần, việc buôn bán với Trung quốc đã phồn vinh, chợ Vĩnh

bình, chợ Nghi hòa ở biên giới Trung Việt, Vân đồn ở vịnh Hạ long đều là

những nơi buôn bán lớn. Đến thế kỷ XVIII, do sự tiếp xúc với tư bản phương

Tây, nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ của ta tiến lên một bước. Kinh kỳ, Phố

Hiến ở Đàng ngoài, Hội an, Thanh hà ờ Đàng trong là những nơi buôn bán

sầm uất. Tình hình công thương nghiệp ở Đàng ngoài cũng như ở Đàng trong

lúc đó đã tạo điều kiện khách quan khá thuận lợi cho nhân tố tư bản chủ

nghĩa trong cơ cấu kinh tế có thể phát triển hơn. Nhưng chính sách ức

thương vẫn được duy trì, việc giao thông vẫn khó khăn, sự sách nhiễu của

quan lại vẫn phổ biến, nhất là việc thu thuế nặng nề và phức tạp, tất cả cái đó

làm cản trở bước tiến của công thương nghiệp. Năm 1743, do sự đấu tranh

của quần chúng, Trịnh Doanh đã phải bãi bỏ thuế tuần ty trong một thời gian

và nhận thấy “tài lực của dân thiếu hẳn đi, chỉ còn trông vào bọn phú thương

chuyên chế lưu thông từ chỗ có đến chỗ không, thì mới tạm đủ…” (Lịch triều

hiến chương).

Trong tình hình kinh tế và chính trị đình đốn và rối loạn đó, cơ sở ý thức

hệ Nho giáo, bấy lâu chiếm địa vị độc tôn, nay cũng trở nên suy đồi. Việc này

thể hiện trong quan hệ vua tôi, thầy trò… Nói chung tam cương, ngũ thường

vẫn không được coi trọng, chỉ có sự phản bội và cấu xé lẫn nhau. Tình hình

này được mô tả rõ trong quyển Hoàng Lê nhất thống chí. Việc học hành thi cử

Page 144: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

vẫn được tiếp tục, nhưng số lượng và chất lượng kém hẳn so với thời Hồng

đức. Ở Đàng ngoài, việc sát hạch cẩu thả, việc dùng tiền tài gian lận bài vở,

mua danh bán tước rất phổ biến, bài vở chỉ chuộng những câu sáo rỗng.

Phạm Đình Hổ trong “Vũ trung tùy bút” và Lê Quý Đôn trong “Kiến văn tiểu

lục” đã phải than thở về việc này. Theo Lê Quý Đôn thì học lực các thí sinh

lúc bấy giờ rất kém: “Các bậc tiền bối đã soạn thành bài, lời lẽ kinh điển

nhuần nhã, bọn hậu sinh đua nhau làm theo, khi vào trường chỉ xén bớt

những chỗ quá dài dòng đi mà thôi”. Chưa cần đi sâu vào thực chất, chỉ dựa

trên con số, chúng ta cũng thấy sự suy đốn về giáo dục và thi cử từ nhà Mạc

đến Lê Trung Hưng so với thời Hồng đức:

Thời Hồng đức có 26 khoa thi Hội, lấy đậu 989 Tiến sĩ (trong đó 18

Trạng nguyên).

Thời Mạc chỉ có 22 khoa thi Hội, lấy đậu 385 Tiến sĩ (trong đó 12 Trạng

nguyên).

Thời Lê Trung Hưng chỉ có 64 khoa thi Hội, lấy đậu 717 Tiến sĩ (trong

đó 6 Trọng nguyên và một Bảng nhãn).

Ở Đàng trong, từ 1660, chúa Nguyễn Phúc Tần đã mở các khoa thi

Chính đồ và Hoa văn và việc thi cử tương đối được tổ chức chặt chẽ hơn,

nhưng nhân tài ở Đàng trong vẫn còn hiếm hoi, do đó trình độ thi cử đơn giản

và thấp, thí dụ ở kỳ thi Đình, có khi chỉ phải làm một bài thơ để tiện việc định

cao thấp.

Do tình hình Nho giáo như vậy, Phật giáo và Đạo giáo thừa dịp phát

triển hơn trước. Thời Mạc Phúc Hải và Mạc Mậu Hợp, các hoàng thái hậu đua

nhau làm chùa cầu phúc. Trịnh Cương, Trịnh Giang, Trịnh Sâm cũng bỏ công

quĩ ra tu bổ chùa cũ, dựng chùa mới. Ở Đàng trong, từ 1701, Nguyễn Hoàng

đã cho dựng chùa Thiên mụ, đến 1710, Phúc Chu cho đúc chuông Thiên mụ

nặng 3285 cân; ngoài ra các chùa Hòa vang, Mỹ an, Hoàng giác đều được

xây dựng. Phái Lâm tế (cũng dòng Thiền Tông) khá phát triển ở Đàng ngoài,

lan tràn vào Đàng trong. Đạo giáo cũng cổ chen vai thích cánh. Năm 1567,

nhà Mạc cho lập Chân thành quán ở Dương kinh đến 1680, Trịnh Tạc lại cho

Page 145: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

sửa lại Trấn vũ quán và cho đúc tượng Trấn Vũ cao 3 thước 2, nặng 6000

cân ta. Phạm Viên, con tiến sĩ Phạm Chất, đi tu tiên, Lại bộ thượng thư

Nguyễn Hoãn say mê việc luyện đan. Ở Đàng trong, chúa Phúc Chu rất tin

hai thuật sĩ Nguyễn Hữu Thừa và Đặng Văn Minh. Hương Hải thiền sư có dịp

ca tụng xu thế “tam giáo đồng nguyên”:

“Nguyên lai tam giáo đồng nhất thế,

Nhiệm vận hà tằng ý hữu thiên”.

(Cho hay nhất thể đồng tam giáo

Vận dụng chưa từng lệch một bên)

Bọn vua chúa quan lại phong kiến thích Phật, Lão không phải muốn tìm cái

hay ở lòng từ bi bác ái, nhưng thực chất một mặt để thưởng thức cảnh trí

thiên nhiên nơi chùa chiền, quán miếu hay có khi đội lốt tu hành để làm việc

bất chính, một mặt khác lợi dụng tôn giáo để mê hoặc lòng người cho dễ bề

cai trị. Nhà nho Phạm Đình Hổ đã phải kêu lên: “Ôi! cái lễ giáo của đấng tiên

vương khi xưa đã mất đi rồi, thế tục sinh ra lắm điều mê tín”. Trong tình hình

khủng hoảng của cơ sở xã hội và cơ sở ý thức hệ như vậy, bọn tư bản

phương Tây tìm cách đưa đạo Gia tô du nhập nước ta. Từ 1533, đã có ngưòi

Pháp là I-nê-khu lẻn vào truyền giáo ở các làng Quần anh, Ninh cường và từ

1615 đến 1625, Dòng Tên đã phái 21 nhà truyền giáo vào hoạt động ở Đàng

trong. Khi chúa Trịnh và chúa Nguyễn nhận thấy nguy cơ của đạo Gia tô và ra

lệnh cấm, thì tư tưởng Thiên Chúa đã ăn sâu vào một số đô thị và làng mạc

của ta. Con tiến sĩ Đỗ Biểu ở Đàng ngoài hay vợ Sãi vương ở Đàng trong đều

theo đạo. Thiên chúa giáo theo sát con đường phát triển của kinh tế hàng hóa

và tiền tệ mà lan tràn ra các nơi, khiến nhà nho Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phải

than thở:

“Đạo nọ, nghĩa này trăm tiếng

Nghe bui, thinh thỉnh lại đồng tiền!”.

Tuy vậy đạo Gia tô vẫn chưa thể trở thành một tôn giáo dân tộc.

Page 146: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Trong ba tôn giáo: Phật, Đạo và Gia tô, thì Phật giáo vẫn chiếm ưu thế.

Do đó, nghệ thuật kiến trúc chùa chiền thời này so với thế kỷ XV lại phát triển

hơn nhiều. Về đền miếu, ngày nay chỉ còn đền Đinh Tiên Hoàng dựng năm

1610 là có giá trị, còn về chùa chiền thì rất nhiều, như chùa Tây phương ở Hà

sơn bình từ đời Mạc Mậu Hợp, chùa Ninh phúc ở Bút tháp (Hà bắc) xây năm

1647, chùa Hương tích ở Hà sơn bình, xây từ thế kỷ XVII, chùa Mía ở Hà sơn

bình do cung nữ Nguyễn Thị Dong xây thời Trịnh, v.v… Nghệ thuật thời này

khá cổ kính và tế nhị: đốc nhà chùa Tây phương xây kiểu sắc không, ngói

xanh vàng trắng đó kiểu áo cà sa, các tượng Quan âm, tượng Tuyết sơn,

tượng tổ sư đều có những đường nét tinh vi, cái cầu lưng lừa ở lối vào và

tháp Bảo nghiêm ở chùa Bút tháp, đều là hai công trình quý giá.

So với kiến trúc và điêu khắc, thì âm nhạc, sân khấu thời này lại đi vào

con đường suy vi. Cái đó cũng dễ hiểu, vì văn học không được đặc biệt chú ý

như đời Hồng đức, nên âm nhạc cung suy đốn theo. Nhạc triều miếu coi như

tàn lụi từ Lê Trung hưng đến Lê mạt, còn lại nhạc giáo phường, nhưng lại

không được hướng dẫn giúp đỡ, nên cũng phát triển cầm chừng. Cho đến

cuối thế kỷ XVIII, một số nho sĩ như Lê Quý Đôn, Nguyễn Nghiễm, mới được

đề cử soạn lại điển nhạc triều miếu và dùng quốc âm soạn nhạc chương. Ở

Đàng ngoài hình như nghệ thuật chèo phát triển, ở Đàng trong, lối ca Huế

thịnh hành và Đào Duy Từ đem nghệ thuật tuồng vào phổ biển ở Hoài nhơn

(Nghĩa bình), nhưng cũng có sửa đổi ít nhiều cho hợp với địa phương.

Do tình hình xã hội phức tạp, nền văn học trong mấy thế kỷ này nhất

định có những xu hướng khác biệt rõ rệt, phản ánh trung thực bộ mặt của giai

cấp phong kiến trên bước đường suy yếu của nó ở Đàng ngoài hay trên bước

đường xây dựng của nó ở Đàng trong, đồng thời cũng phản ánh được đời

sống cơ cực của nhân dân ta thời bấy giờ ở trong cả nước.

II. TÌNH HÌNH VĂN HỌC TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XVIII

Trong những thế kỷ này, các vua chúa Lê, Mạc, Trịnh Nguyễn không

đưa ra chính sách gì đặc biệt để phát triển văn học. Nhà Mạc thay nhà Lê,

vẫn áp dụng chính sách văn hóa đời Lê và khi tình hình tương đối ổn định, lo

Page 147: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

cấp tốc mở các khoa thi, đào tạo sĩ phu mới để bổ sung cho bộ máy quan

liêu, vì đa số nho sĩ nhà Lê cương quyết chống Mạc. Đến đời Trịnh, Nguyễn,

việc thi cử ở Đàng ngoài cũng như ở Đàng trong mới được quy định rõ rệt;

tuy vậy, đến thế kỷ XVIII thì việc thi cử ở Đàng ngoài biến thành một việc

buôn bán đồi bại. Do tình hình xã hội rối loạn và chế độ phong kiến suy vi,

nên văn học thời này cũng có những tính chất riêng biệt của nó, hoặc có xu

hướng bất mãn và tố táo hiện thực xã hội, hoặc có xu hướng trữ tình, nói đến

đời sống tình cảm con người. Phần văn học tiêu biểu của thế kỷ XVI có thể

nói là văn học cả nhóm Am Bạch Vân. Văn học từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII

đã phân ra thành văn học Bắc và Nam sông Gianh. Văn học Đàng ngoài kế

tục và phát triển nền văn học viết từ xưa của dân tộc nên phong phú, và có

chất lượng hơn nền văn học Đàng trong, là nền văn học xây dựng trên một

cơ sở mới khai thác.

A. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA VĂN HỌC NHỮNG THẾ KỶ NÀY

1. Do tình trạng xã hội phức tạp, các xu hướng văn học thời này có tinh

chất chống đối nhau: một loại văn học có xu hướng thù phụng nhà Mạc một

cách mù quáng vì danh lợi, trái lại, một loại văn học khác có xu hướng tố cáo

hiện thực xã bội. Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đã không được lòng sĩ

phu, lại có tư tưởng đầu hàng nhà Minh một cách hèn nhát, càng làm cho sĩ

phu nhà Lê khinh bỉ. Những người không khởi nghĩa chống lại được, thì cũng

đã anh dũng biển lộ thái độ chống đối của minh, thí dụ như Nguyễn Thiệu Tri,

Lê Tuấn Mậu, Nguyễn Thái Bạt; Nguyễn Thiệu Tri tự vẫn chết khi Mạc Đăng

Dung lên ngai vàng, Lê Tuấn Mậu ném đá vào mặt Đăng Dung không trúng,

Nguyên Thái Bạt nhổ nước bọt vào mặt Đăng Dung, tất cả đều bị Đăng Dung

giết chết. Có thể nói hàng trăm sĩ phu nhà Lê đã vọng về Lam sơn, thà chịu

chết mà không theo Mạc, đúng như lời trạng nguyên Võ Nghĩa Chi nói:

“Thăng long tự cổ đất hung vương.

Một trận thư hùng sao chẳng quyết?”.

(Thăng long tự cổ hưng vương địa,

Page 148: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Hà bất thư hùng quyết nhất trường?)

Loại văn tố cáo hiện thực này có nhiều khía cạnh, hoặc chống đối

mạnh, hoặc ca tụng nhàn tản, ẩn dật để phủ định triều đại mà mình không

tham gia như Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhìn chung, xu hướng này nhằm đả kích

thái độ xu thời chạy theo tiền tài danh lợi và nhằm bảo vệ đạo lý Khổng Mạnh

với ý nghĩa tốt của nó trong giai đoạn. Đó là tính chất chống đối trong văn

học.

2. Do tình hình nước nhà tạm thời bị chia cắt, nên văn học phân giới

Bắc Nam sông Gianh: Nói là văn học Đàng ngoài, Đàng trong có đối lập với

nhau có ý nghĩa tranh giành địa vị, chứ căn bản vẫn cùng một hệ ý thức

phong kiến. Cố nhiên, cũng có ít nhiều sự khác biệt về nội dung cũng như về

hình thức. Văn học Đàng ngoài thừa kế được truyền thống văn học cũ với

một lực lượng sáng tác trong đó có nhiều nho sĩ tiền bối, nên tương đối có lời

văn điêu luyện; trái lại văn học Đàng trong mới được xây dựng nên hình thức

nói chung còn thô sơ. Về nội dung tư tưởng, văn học Đàng ngoài ở thế kỷ

XVII, XVIII trừ những tác phẩm có ít nhiều yếu tố chân thực, phần lớn đầy tính

chất thù phụng. Trịnh Căn thông qua cảnh trí thiên nhiên để nói lên sự phồn

vinh giả tạo của thế kỷ XVII; Hoàng Sĩ Khải cũng mô tả cảnh đẹp Thăng long,

nhưng mục đích thù phụng triều đại mới; Nguyễn Hãng cũng nói đến thiên

nhiên, nhưng gửi vào đấy tư tưởng tiêu cực của mình. Trái lại khi chúng ta

đọc những đoạn thơ của Đào Duy Từ ca tụng cảnh Tư dung ở Thuận hóa,

những đoạn thơ của Mạc Thiên Tích ca tụng cảnh Hà tiên, chúng ta thấy cả

một niềm vui, một sự tin tưởng ở tương lai, chúng ta không thấy ở đây tư

tưởng bi lụy chán đời. Những tác phẩm văn học này cũng phản ánh phần nào

tính chất giai cấp thống trị Đàng trong trên con đường củng cố thế lực của

mình, có hơi khác với tính chất giai cấp thống trị Đàng ngoài đang làm vào

tình trạng rối ren, suy yếu.

3. So với văn học thế kỷ XV, yếu tố cá nhân và yếu tố thị dân trong văn

học những thế kỷ này có khía cạnh đậm đà hơn. Với sự phát triển của kinh tế

hàng hóa, ý thức cá nhân và yếu tố thị dân chớm nở từ thế kỷ XV, nay lại có

Page 149: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

dịp phát triển cao hơn. Cái “ta” của Nguyễn Trãi còn trong tình trạng ấm ức,

cái “ta” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiến đến tình trạng phản kháng. Tình yêu

trai gái, tình vợ chồng, cuộc sống phóng khoáng từ “Truyền kỳ mạn lục”, đến

“Lâm tuyền kỳ ngộ” đã mang màu sắc mới mẻ. Ở đây, tình yêu được diễn đạt

một cách đậm đà và thi vị. Những tác phẩm đó đã dọn đường cho sự ra đời

của Phan Trần, Hoa Tiên, Sơ kính tân trang, Đoạn trường tân thanh. Đặc biệt

trong Truyền kỳ mạn lục, yếu tố thị dân thể hiện ở nhiều truyện và bóng dáng

bọn lái buôn xuất hiện trong văn học viết.

4. Ưu thế của những tác phẩm quốc âm đối với những tác phẩm chữ

Hán: Từ thế kỷ thứ XV, những tác phẩm quốc âm phát triển song song với

những tác phẩm Hán; nhưng nhờ ưa thế của ngôn ngữ dân tộc, những tác

phẩm quốc âm được truyền bá rộng rãi trong quân chúng hơn. Nhiều tác giả

như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Cư Trinh, v.v… vừa sáng tác bằng Hán,

vừa sáng tác bằng quốc âm, và các tác phẩm quốc âm của họ được truyền

tụng nhiều hơn. Nói như vậy không có nghĩa những tác phẩm Hán không có

giá trị, thí dụ: “Truyền kỳ mạn lục” là một truyện có giá trị của thế kỷ XVI.

Nhưng vì quốc âm có một thế tuyệt đối về truyền tụng, nên chúng ta sẽ không

lấy làm lạ rằng ở thế kỷ XVIII, bản dịch Chinh phụ ngâm đã làm phai mờ bản

chính viết bằng Hán của Đặng Trần Côn.

B. NHỮNG SỰ KIỆN VĂN HÓA

Trong các thế kỷ này, không có sự kiện văn học nào quan trọng. Về sử,

thế kỷ XVI là thế kỷ rối loạn, nhà Mạc lại chưa được toàn thể nhân dâu công

nhận, nên không có những bộ chính sử tục biên: chỉ có những loại “thực lục”

chép truyện những người trung liệt hay tiết nghĩa, như Thiên nam trung nghĩa

liệt của Phạm Phi Hiển, Tiền Lê tiết nghĩa lục của Nguyễn Dật Sang, v.v…

Đầu thế kỷ XVII, có quyển Quốc sử thực lục của Nguyễn Quý Đức. Đến cuối

thế kỷ XVII, gặp khi tình hình tương đối ổn định, chúa Trịnh mới sai Phạm

Công Trứ soạn Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên (1676), và sau đó Lê Hy lại

chép tiếp. Trong khoảng ấy, Hồ Sĩ Dương viết bộ thực lục “Lê triều đế vương

trung hưng công nghiệp” và bổ chính bản “Lam sơn thực lục” (tựa viết năm

Page 150: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

1670). Về văn, những sự kiện quan trọng là sự phát triển văn quốc âm và sự

xuất hiện các loại văn học mới.

1. Tình hình sáng tác thơ văn quốc âm.

Qua từng giai đoạn đấu tranh chống ngoại xâm và đấu tranh chống

phong kiến, chữ Nôm dần dần được áp dụng vào các lãnh vực chính trị và

văn học do nhu cầu xã hội thúc bách. Chúng ta đã biết từ thế XV, ngay ở lãnh

vực khoa học tự nhiên, chữ Nôm đã được dùng để soạn sách thuốc; lúc này,

Tuệ Tĩnh (người huyện Cẩm giàng, Hải hưng) cũng dùng chữ Nôm soạn Nam

dược thần hiệu. Chữ Nôm được dùng nhiều nhất trong việc soạn các sách về

tôn giáo, soạn hoặc dịch các sách về văn học, sử học. Hương hải Thiền sư,

người Chân phúc (nay là Nghi lộc, Nghệ tĩnh) soạn nhiều sách Phật bằng

quốc âm. Năm 1750, Hối tích Thiền sư cũng soạn “Phật quốc ký truyện” bằng

quốc âm. Đặng Thái Phương và Vũ Đức Mận (người Nghi xuân, Nghệ tĩnh)

đã diễn ca “Kinh Dịch” ra lục bát lấy tên là “Chu dịch quốc âm giải nghĩa”.

Ngoài ra, sau này, giữa thế kỷ XVIII, Nguyễn Bá Lân diễn ca Kinh Thi, Nguyễn

Thị Du làm gia ký tự truyện bằng quốc âm, Trương Ngọc Trong diễn tích “Ỷ

lan phu nhân” ra lục bát. Công việc soạn và dịch sách này đã được nhóm

Nguyễn Thiếp, Nguyễn Công, Nguyễn Thiệu, Phan Tố Định, Bùi Dương Lịch

v.v… tiếp tục và phát triển. Chữ Nôm ở thời này còn được áp dụng vào công

văn và đặc biệt là có lần được áp dụng vào kỳ thi Hội. (Hiện còn bài phú

“Phụng thành xuân sắc” của Nguyễn Giản Thanh năm 1508).

Xem vậy thì từ thế kỷ XV về sau có cả một cao trào sáng tác thơ văn

Nôm. Nhưng tại sao suốt từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII, tác phẩm quốc

âm còn lại không là bao, thí dụ cả thế kỷ XVII, chỉ còn một tập thơ của Trịnh

Căn, hai tập diễn ca lịch sử ở Đàng ngoài mấy bài văn của Đào Duy Từ ở

Đàng trong, có thể có nhiều nguyên nhân: hoặc giả do tình hình nội chiến liên

miên các nho sĩ không có điều kiện sáng tác, hoặc giả do phong trào “phỉ

báng” và

“bài xích” triều đình và quan lại, nên chúa Trịnh cấm không cho xuất bản.

Năm 1663 Trịnh Tạc ban hành 47 điều giáo hóa, trong đó có điều 35: “Thần

Page 151: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

liêu ở vương phú thông truyền cho quan dân toàn quốc biết rằng: Phàm sách

có quyển nào quan hệ đến sự giáo hóa trong đời mới được xuất bản. Lâu

nay, nhũng người hiểu sự, hay lượm lặt các sách vở bằng Nôm, không phân

biệt gì nên xem hay không, cứ xuất bản để lấy lợi. Điều đó nên nghiêm cấm.

Từ nay về sau, nhà nào có tàng trữ các sách ấy hay là bản in, phủ chúa đều

thu đốt hết”. Năm 1718, Trịnh Cương ra lệnh tịch thu sách đã in và không cho

in bản mời; năm 1751, Trịnh Doanh lại nhẳc lại 47 điều giáo hóa nói trên và

năm 1760, Doanh sai Nhữ Đình Tản diễn nôm điều 35 (có thêm bớt ý cho rõ

nghĩa):

“… Ngũ kinh, chư sử xưa nay

Với chư tử ấy cùng rày văn chương

Dạy bàn có ích đạo thường,

Mới nên san bản bốn phương thông hành

Kỳ như Thích, Đạo phi kinh

Lời tà mối lạ, tập tành truyện ngoa.

Cùng là truyện cũ nôm na

Hết thơ tập ấy lại ca khúc này,

Tiếng dân dễ khiến người say

Chớ cho in bản, hại thay thói thuần!”.

Sự thật, lệnh cấm in sách Nôm phải nhắc đi nhắc lại, rồi phải diễn ca

như vậy, chắc là không được mọi người thi hành. Sách Nôm vẫn được sáng

tác, vẫn được in bán, nhưng phần lớn là loại khuyết danh; tác giả không ghi

tên của mình chắc cũng để tránh những sự rắc rối về chính trị.

2. Sự thành lập Bạch vân am ở Bắc và Chiêu anh các ở Nam.

Thời Trần, chúng ta đã thấy hình thành nhóm thơ am Bích động; thời

Hồng đức, có hội thơ Tao đàn. Sang thế kỷ XVI, năm 1541, Nguyễn Bỉnh

Khiêm, khi về ẩn ở làng Trung am lập am Bạch vân, đồng thời ông sai Trương

Page 152: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Thời Cử quyên tiền dựng hai cái cầu Nghinh phong và Trường Xuân, ở các

làng bên cạnh, qua sông Tuyết giang có ý nghĩa làm phúc. Bạch vân am là

một biệt trang, một trường học nhưng phần nào cũng là một thị xã, nơi trung

tâm văn học của nước ta ở thế kỷ XVI. Các nhà thơ, nhà văn như Lương Hữu

Khánh, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ đều xuất thân ở đây. Thơ văn của

nhóm am Bạch vân không phải chỉ ca tụng nhàn tản, mà đã có khía cạnh tố

cáo xã hội.

Ở Đàng Trong, hồi thế kỷ XVII, một nhóm người Trung quốc không chịu

khuất phục Mãn Thanh, đã vượt biên đến đất Mang khảm (Hà tiên, nay thuộc

Kiến giang) xin chúa Nguyễn khai thác đất này và nhập tịch dân Việt nam.

Dòng họ Mạc được chúa Nguyễn coi như phiên thần ở đây. Đến đời Mạc

Thiên Tích (tức là Mặc Tứ), vùng Hà tiên đã trở thành nơi dân cư đông đúc,

đồng ruộng phì nhiêu. Mạc Thiên Tích chiêu tập những người hay văn thơ

người Việt và người Minh hương, tất cả 18 người, thành lập một hội thơ vào

khoảng đầu thế kỷ XVIII gọi là Chiêu anh các. Chiêu anh các là nơi tế Khổng

tử, nhưng đồng thời cũng là một thị xã. Có thi sĩ từ Phú xuân như Nguyễn Cư

Trinh cũng vào đây tham gia xướng họa. Tác phẩm của Chiêu anh các gồm

tập Hà tiên thập vịnh với 320 bài thơ của 32 tác giả xoáy vào 10 đề tài, tức là

10 cảnh đẹp ở Hà tiên: Đông hồ ấn nguyệt (bóng trăng in xuống Đông hồ),

Nam phố trừng ba (sông gợn Nam phố), Giang thàch dạ cổ (tiếng trống đêm

Giang thành), Tiêu tự thần chung (chuông sớm chùa Tiêu), Lư khê nhàn điếu

(ngồi nhàn câu cá ở khe Lư), Lộc trĩ thôn cư (làng mạc Lộc trĩ), Bình sơn điệp

thủy (Bình sơn màu xanh lông chim sả), Thạch động thôn vân (động Thạch

nuốt mây), Kim dữ lan đào (sóng tràn Kim dữ), Châu nham lạc lộ (cò sa ở

Châu nham). Ngoài ra còn có tập phú 10 bài gọi là Lư khê nhàn điếu. Lối vịnh

cảnh phỏng theo lối Tiêu tương bát cảnh của Trung quốc hay Tây hồ thập

cảnh ở ta. Trường thơ của Đông hồ Lâm Tấn Phác sau này cũng nối tiếp lối

vịnh cảnh đó, nhưng cố nhiên với nội dung khác.

3. Các hình thức và thể loại văn học thời này.

Page 153: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Tình hình xã hội phức tạp, mâu thuẫn xã hội sâu sắc, khuôn khổ một

bài thơ, một bài phú không đủ diễn tả tâm tư muôn vẻ của con người. Các tác

giả đã tìm đến các loại truyền kỳ, loại truyện thơ. Trước đã có người tìm đến

thể hành để viết truyện (Hương miết hành), hay Lê Thánh Tông đã viết truyện

pha lối bút ký (Thánh Tông di thảo). Thời kỳ này, Nguyễn Dữ đã viết hẳn một

tập truyền kỳ qui mô (Truyền kỳ mạn lục).

Đặc biệt về quốc âm, các loại truyện và ký phát triển. Về loại ký, ở thế

kỷ XV, Lê Thánh Tông và Đỗ Cận đã viết lẻ tẻ vài bài, nay Vũ Duy Đoán viết

hẳn một tập “Dị văn ký”. Giống loại truyện phát triển qui mô lớn hơn. Cuốn

Phật quốc ký truyện của Hối tích thiền sư dọn đường cho những tập như Nam

hải quan thế âm hay Quan Âm Thị Kính sau này. Đào Nguyên Hành của

Phùng Khắc Khoan dọn đường cho Ngư tiều vấn đáp của Nguyễn Đình

Chiểu, Ngọa long cương vãn của Đào Duy Từ dọn đường cho Bất phong lưu

truyện của Lý Văn Phức. Nói chung, đó chỉ là một hình thức ít nhiều có tính

chất tự truyện trong đó tác giả gửi gắm tâm sự thầm kín của mình. Loại truyện

hấp dẫn là loại truyện tình duyên như truyện Lâm tuyền kỳ ngộ, truyện Huê

tình, truyện Song Tinh bất dạ. Loại truyện thơ ban đầu viết bằng thất ngôn

Đường luật như truyện Vương Tường, Lâm tuyền kỳ ngộ, dần dần chuyển

sang loại truyện lục bát như Song Tinh bất dạ.

Loại thơ sứ trình và thơ vịnh sử thời này cũng phát triển. Sự thật, các

loại thơ này đã có từ đời Trần cho đến đầu đời Hậu Lê; nhưng ở thời Trần,

chỉ là thơ chữ Hán, đến đời Hồng đức thì đã có một số bài thơ quốc âm vịnh

sử như vịnh Trưng nữ vương, Triệu Thị Trinh… Đến những thế kỷ này, đã có

hẳn những tập thơ sứ trình và vịnh sử có hệ thống, thí dụ Mai lĩnh sứ hoa tập

của Phùng Khắc Khoan, Việt giám vịnh sử thi tập của Đặng Minh Khiêm. Đặc

biệt, khoảng thế kỷ XVII, hai tập diễn ca lịch sử dài hơi ra đời đó là tập Thiên

nam minh giám và tập Thiên nam ngữ lục.

C. ĐẠI CƯƠNG VỀ CÁC XU HƯỚNG VĂN HỌC

Như ở trên đã nói, văn học thời kỳ này quá phức tạp, có phái phù Mạc,

có phái phù Lê, sau lại có phái phù Trịnh, có phái phù Nguyễn. Nhưng ngay

Page 154: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

trong từng phái, tư tưởng các tác giả không đồng đều và có những điểm khác

nhau; có người thiên về thù phụng, thỏa mãn với xã hội, ca tụng triều đại

đương thời một cách mù quáng, lại có người bất mãn với xã hội, tìm con

đường ẩn dật, ca tụng nhàn tản, hoặc tỏ thái độ không hợp tác hay hợp tác

một cách lưng chừng với triều đại mà bản thân mình còn lệ thuộc. Các tác

phẩm như thơ, phú, truyện, một mặt phản ánh mặt chủ quan của tác giả,

đồng thời cũng phản ánh mặt khách quan của thời đại. Tính chất phức tạp

của thơ văn rõ ràng biểu hiện tính chất phức tạp của xã hội ở những thế kỷ

này. Để tiện việc nghiên cứu, chúng tôi chia làm hai xu hướng chính: xu

hướng thiên về thù phụng, thỏa mãn với hiện thực và xu hướng ca tụng tiết

tháo, ca tụng nhàn tản, hay ca tụng tình yêu lứa đôi và nói chung có tính chất

tố cáo hiện thực xã hội. Nhóm văn học Đàng trong, vì có đặc điểm của nó;

nên sẽ được trình bày thành một mục riêng.

1. Xu hướng thù phụng và thỏa mãn với hiện thực

Loại thơ văn này hầu hết là thơ văn của chúa Trịnh như Trịnh Căn ở

thế kỷ XVII, Trịnh Sâm ở thế kỷ XVIII hay thơ văn của quan lại trong triều đình

nhà Mạc và trong phủ chúa.

Trịnh Căn (1682–1709) còn để lại tập Ngự đề Thiên hòa doanh bách

vịnh, tức là một trăm bài thơ làm ở điện Thiên hòa nhân lúc nhàn rỗi. Trịnh

Căn bắt chước Lê Thánh Tông làm thơ ca tụng triều đại của mình, đồng thời

ca tụng công đức của mình. Ý đó biểu lộ trong bài tựa tập thơ: “Nam Bắc bụi

sạch, bờ cõi rộng rãi, kinh theo phép thịnh, trông mong ơn lớn, tôn ngôi trời

để dạy dân, đem văn minh để bảo kẻ dưới…”. Sự thật, thời đại Trịnh Căn

không phải thời đại Lê Thánh Tông, do đó, thư Trịnh Căn có nói lên vẻ thịnh

trị của triều mình cũng chỉ là những lời gắng gượng:

“Thế phương trọng đích trơ trơ vững,

Hình ẩn chân cùng phắc phắc yên”. (Vịnh đất).

“…Nhờ phúc trùng trùng so địa hậu

Tưởng ơn dằng dặc sánh thiên trường”.

Page 155: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

(Vịnh Văn miếu)

Tuy vậy, thỉnh thoảng cũng có những câu khá chải chuốt, có dáng dấp

thơ đời Hồng đức:

“Lá tuôn doành quế màu lai láng.

Gấm trải đường hoa khách dập dìu”.

(Quán Trấn Võ)

Cùng một lời lẽ thù phụng như vậy, chúng ta sẽ đọc được khá phổ biến

trong nhiều bài thơ, bài phú của Nguyễn Giản Thanh, Bùi Vịnh, Hoàng Sĩ Khải

v.v…

Nguyễn Giản Thanh, người xã Ông mặc, sau đổi là Hương mặc (Từ

sơn, Hà bắc), trước làm quan với nhà Lê, sau theo Mạc, làm thượng thư bộ

Lễ, tức Trung phụ bá. Trong bài phú nôm kỳ thi “hội” năm 1508, ông đã ca

tụng và tô hồng triều đại Lê Uy Mục là một triều đại đã thối nát: “Ngao từ chia

cực, phụng đã xây thành. Sum một chốn y quan lễ nhạc, vầy một nơi văn vật

thanh danh. Trời đượm khí xuân, sắc tươi tốt khắp hòa thế giới, nước mừng

thịnh Trị, thế vững vàng chống cột thần kinh… Nẻo họp châu sa ngọc bạch,

dân mến về chầu, tộ mừng Bàn thạch Thái sơn, thể liền khôn động. Nước yên

đặt vững âu vàng, đất thịnh vốn chưng thành Phụng…” (Phụng thành xuân

sắc phú).

Bùi Vịnh (1508 – 1545), người huyện Thanh trì (nay thuộc ngoại thành

Hà nội), đậu bảng nhãn đời Mạc Đăng Doanh. Ông làm bài phú Cung trung

bảo huấn để dạy cung phi cách thù phụng vua Mạc, đồng thời chính là dạy

cháu ông, vì ông có hai người cháu gái (gọi bằng chú) lấy Đăng Dung và

Đăng Doanh. Đoạn đầu bài phú ca tụng nhà Mạc và nói lên vinh dự của cung

phi được “khuya sớm đền loan gác phượng”; đoạn sau bài phú nói rõ phận sự

của cung phi:

“Dù nhẫn: Ghín nơi hợp ghín, răn thửa khá răn. Niềm trung hiếu, ái ưu

hằng dốc. Thói xa hoa tật đố càng ngăn. Đức nhu, đức thục, đức uyển, đức

Page 156: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

hòa, ở chức tua gìn đạo chính. Nết tĩnh, nết trang, nết càn, nết kiệm, hết lòng

cùng chấp giáo văn…”.

Vũ Cán – Cũng như Nguyễn Giản Thanh và Bùi Vịnh, Vũ Cán cũng làm

thơ ca tụng nhà Mạc. Vũ Cán là cháu Vũ Quỳnh, đỗ Tiến sĩ năm 1502 đời Lê

Tương Dực, làm quan với nhà Lê, sau lại theo nhà Mạc làm đến Thượng thư,

tước bả. Ông làm nhiều thơ văn nhưng nay chỉ còn tập thơ Tùng hiên làm từ

nằm 1530. Đành rằng vẫn có tính chất thù phụng, nhưng thơ ông còn có vẻ tự

nhiên hơn, và hình như ông cũng có một chút băn khoăn khi làm quan với

nhà Mạc. Tuy vậy, ông cũng tỏ ra tích cực góp ý kiến với đương triều. Ông đã

dùng hình tượng quả mướp đắng để nối lên tấm lòng cương trực của mình,

“tấm lòng son luôn luôn hướng về vầng dương”, cho nên, hình như cũng có

khi ông hơi bực tức về thế sự, chỉ muốn quay về quê nhà, ngồi dưới bóng

“cây đa ở khe Đông cách” một cây đa “sừng sững cao ngất trời”. (Đĩnh sinh

dung thụ hán thiên tề).

Hoàng Sĩ Khải (giữa và cuối thế kỷ XVI) cũng có một tâm sự gần như

Vũ Cán. Sĩ Khải người sã Lai xá, huyện Lang tài (Hà bắc), đậu Tiến sĩ năm

1544 đời Mạc Phúc Hải, làm đến Hộ bộ thượng thư, kiêm chức Quốc tử giám

tế tửu, tước Vĩnh kiều bá, được cử đi sứ Minh một lần, có bài Sứ trình khúc

bằng quốc âm. Năm 1592, nhà Mạc bị họ Trịnh đuổi lên Cao bằng, ông đi ẩn

dật, có lẽ lúc này ông làm bài phú quốc âm Tiểu độc lạc để tỏ mối tâm sự của

mình. Nhưng khoảng 1600, Trịnh Tùng nắm chính quyền, mến tài của ông,

nên chẳng những không truy tố, mà còn mời ông về Thăng long giúp nước.

Ông làm bài thơ trường thiên Tứ thời khúc bằng song thất lục bát (gồm 340

vế) để tỏ lòng biết ơn của một cựu thần nhà Mạc đối với triều đại mới. Tả

cảnh bốn mùa thay đổi từ mùa đông buồn bã, trở lại mùa xuân xinh tươi,

muôn vật trở lại đầm ấm, ông muốn nói lên cuộc đời thanh bình sau những

năm nội chiến liên miên:

“Vườn hồng thấm thoát thoi vàng

Đào đào, mận mận, rõ ràng tranh xuân…”.

Qua cảnh trời, tác giả muốn nói lên lòng người đã theo về Lê, Trịnh.

Page 157: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

“Khắp trong triều, biểu dâng chinh đán,

Chúc tuổi vua vạn vạn niên xuân

Tung hô ba tiếng kêu ran,

Áo xiêm Nghiêu, Thuấn, đai cân Cao, Quỳ”.

Ông cho rằng, triều đình Lê Trịnh là mùa xuân có “gió nhân hây hẩy, khí

hòa hây hây”. Sau những cuộc xung đột Lê Mạc, nước ta lúc này cũng tương

đối được ổn định, chứ thật ra chưa phải là thời thịnh trị. Sau sự tranh chấp

giữa Lê, Mạc tiếp đến chiến tranh Trịnh Nguyễn sự ổn định mà Sĩ Khải ca

tụng có tính chất tạm thời, nhưng chính Sĩ Khải đã nói lên được lòng khao

khát hòa bình của nhân dân ta lúc bấy giờ. Chính như vậy, cho nên lòng tác

giả cũng rung cảm ít nhiều. Khi tả cảnh Thăng long trở lại tấp nập, rộn ràng

sau những ngày loạn lạc.

“…Trường an xe ngựa rân rân,

Đâu đâu mừng thấy tiết xuân đã về,

Năm cũ đi thì năm mới lại,

Bĩ đã thôi thì thái lại ra,

Thiều quang phủ khắp gần xa

Gió nhân hây hẩy, khí hòa hây hây…

… Trường an phong cảnh hữu tình,

Có đường giong ngựa, có thành xem hoa

Một khắc là nghìn vàng khôn chuộc,

Hèn chi mà cầm đuốc chơi đêm…”.

Nét bút của Sĩ Khải đôi chỗ khá thanh thoát, sinh động biểu lộ một tâm

hồn sảng khoái. Sĩ Khải tả cảnh rất khéo và lời thơ so với Lê Đức Mao đời Lê

thì đã chải chuốt và giàu hình tượng nghệ thuật hơn nhiều.

Trước khi sang xu hướng thứ hai, chúng ta bây phân tích sơ qua vài

nét tập diễn ca lịch sử quan trọng của thế kỷ XVIII: Thiên nam ngữ lục.

Page 158: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Thiên nam ngữ lục – Sau tập Thiên nam minh giám, thì đây là tập diễn

ca dài hơi chép từ thời Hồng Bàng đến nhà Trịnh (Trịnh Tùng lấy được Thăng

long năm 1593). Tác giả (khuyết danh) nói mình là người “lập ấm” chịu ân huệ

của triều đinh. Tác giả sống vào thời Trịnh Căn (những năm cuối của thế kỷ

XVII), và được chúa Trịnh sai soạn sách, như tác giả đã nói ở đoạn mở đầu.

“Trải xem sử ký nước Nam

Kính vâng tay mới chép làm nôm na…”.

và ở đoạn cuối:

Kính dâng tự ý làm điều…

Lập trường của tác giả là chống Mạc, phò Lê, Trịnh. Đối với nhà Mạc,

tác giả đả kích không tiếc lời, thí dụ đoạn tả việc nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê:

“Hùm beo còn chẳng ăn ai,

Nọ là cáo thỏ đưa hơi cùng rồng

Cha con họ Mạc thành Long

Như ruồi đỗ má, như ong tụ cành

Khỉ đòi đội khăn khoe mình,

Gánh nặng lên ghềnh mang nặng trong hang…”.

Đối với nhà Lê, tác giả cũng hơi xem nhẹ, thí dụ, những cuộc chiến đấu anh

dũng chống Minh, những trận trời long đất lở v.v… chỉ được tác giả nhắc qua

loa và tuyệt nhiên không nhắc đến Nguyễn Kim, trái lại đối với họ Trịnh, thì tác

giả ca tụng đến cực độ, coi họ Trịnh như Y Doãn, Chu Công, coi thời Trịnh

như đời, Nghiêu Thuấn:

“Ấy mới thánh quân hiền thần,

Ấy đời Nghiêu, Thuấn, ấy dân Ngu Đường…”.

Chính vì đứng trên quan điểm phò Trịnh một cách hẹp hòi như vậy, tác giả

Thiên nam ngữ lục đã có chỗ chép thiên vị, làm cho tác phẩm giảm mất một

phần chất lượng: chỉ riêng đoạn từ Hồng Bàng đến Hậu Trần là có giá trị.

Page 159: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Tác giả là một nhà nho, do đó, tư tưởng chủ đạo xuyên qua toàn tập

vẫn là tư tưởng Khổng học. Tác giả luôn luôn nhắc đến “thiên đạo” trong khi

nhận định sự diễn biến lịch sử: “Ai công cho bằng đạo trời?”. Bao nhiêu biến

cố lịch sử, bao nhiêu hưng vong của triều đại, bao nhiêu thành bại của anh

hùng, hào kiệt, đều không thoát khỏi lưới trời. Non sông có được thái bình

thịnh trị cũng là nhờ có “vua sáng tôi hiền”, biết theo đường “lễ nghĩa kính tin”.

Các bậc vua chúa như Kinh dương vương, Lạc long quân, An dương vương,

Vương Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lý Thái Tổ… đều được tác giả mô tả như

những người nhà trời sai xuống trị dân.

Trừ những điểm hạn chế có tính chất thù phụng đó, tác phẩm Thiên

nam ngữ lục có một ưu điểm nổi bật: đó là tinh thần dân tộc. Hình như tác giả

có phần nào bất đắc chí trong việc học hành, nên khi về già muốn sa lánh thị

thành, trở về nông thôn sống một cuộc đời thanh bạch, để thỏa chí ngao du

sơn thủy, chứ bản thân cũng không mê say danh lợi. Đọc Thiên nam ngữ lục,

chúng ta thấy tác giả có tham khảo nhiều truyện cổ dân gian như thần thoại,

truyền thuyết… do đó cũng thông cảm phần nào nguyện vọng nhân dân, tinh

thần bất khuất của nhân dân trong những cuộc chống ngoại xâm. Những

đoạn tả về tội ác của giặc hay những đoạn tả chiến công oanh liệt của ta là

những đoạn thành công nhất của tác phẩm. Tác giả đã cùng với nhân dân rất

căm thù bọn quan lại giặc, coi như “bọn sài lang”. Đâu đâu cũng thấy những

cảnh:

“Cướp người của chất bằng non

Dân tựa gỗ tròn đều mặc nẻo lăn!”.

Giặc đi đến đâu là “cỏ chẳng cho mọc, đường nên tuyệt người”. Nhưng, các

vị anh hùng dân tộc ta đã anh dũng đứng lên huy động quần chúng chống

giặc cứu nước. Những anh hùng hào kiệt đó thường được tác giả nâng lên

ngang hàng với thần linh. Chị em Bà Trưng sau khi dẹp xong giặc thì “nửa

đèm bỏ đất ruổi ra lên trời”, đã để lại đời sau một tấm gương sáng:

“Tiết cao sáng tựa trăng thu

Page 160: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Trong như nước lọc, sạch như gương mà”.

Thế của Phù đồng thiên vương là cái thế của một thiên thần:

“Uy ra vẫy cát ầm ầm,

Mình trên cật ngựa, tay cầm kim tiên

Lạ thay ngựa sắt tự nhiên

Giẫm lên động đất, thét lên dậy trời…”

Triệu Quang Phục khi được vút rồng của Chử Đồng Tử tưởng như lòng trung

nghĩa của mình được thần linh ủng hộ:

“Triệu Quang dậy chí anh hùng

Đầu đội vút rồng giữa trận xông ra

Trong tay cầm cái kim qua,

Chỉ trời trời tuyệt, chỉ tà tà tan…”.

Ngoài ra, những bậc anh tài khác, có khi những người xuất thân từ địa vị tầm

thường như Yết Kiêu, Dã Tượng v.v… cũng đều vạch mặt kẻ gian, bất khuất

trước giặc, hết lòng với vua với nước và nói chung, thành bại tuy khác nhau,

nhưng mọi người đều để lại một truyền thống tốt đẹp của dân tộc anh hùng.

Tướng giặc dù có hung hăng đến mấy, hoặc như Tô Định, hoặc như Lưu

Cang v.v… cũng đều gục xuống một cách nhục nhã trước lưỡi gươm thần

của các anh hùng dân tộc nước ta. Khi tả những chiến thắng của ta, ngòi bút

của tác giả vung lên một cách sảng khoái, lời thơ có chỗ hùng tráng, đạt đến

sắc thái anh hùng ca. Thế dụng binh của Phù đổng thiên vương đã rung động

cả vòm trời:

“Cầm con thiết bổng múa chơi

Cán dời đẩu bính, đuôi dời nam minh

Tiếng ran quỉ khóc thần kinh…”.

Trận Bạch đằng của Hưng đạo vương cũng là một trận long trời lở đất:

“Trời xanh nước biếc bàng hoàng

Page 161: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Súng dường sấm động, đạn dường mưa xa

Lửa ngoài tựa chớp sáng lòa…”.

Thiên nam ngữ lục là một tập diễn ca lịch sử, nhưng cũng là một tác

phẩm văn học. Tác giả chịu ảnh hưởng của văn học dân gian, và ở nhiều chỗ

chép sự việc dưới hình thức kể truyện, có dáng dấp kiểu truyện thơ. Tác giả

không phải chỉ ghi lại những sử sự khô khan mà chú ý cả đến sắc thái từng

nhân vật để xây dựng thành những hình tượng nghệ thuật. Tác giả không

phải chỉ ghi lại gốc tích đơn sơ về Mỵ Châu Trọng Thủy, về Trương Hống,

Trương Hát, về Đinh Tiên Hoàng, về Trần Bình Trọng v.v… mà đã mô tả cuộc

đời của họ, tâm tình của họ trong quá trình diễn biến lịch sử. Đó chính là điểm

đặc sắc của Thiên nam ngữ lục và do đó, Thiên nam ngữ lục có một địa vị

xứng đáng trong văn học sử Việt nam.

2. Xu hướng tố cáo xã hội thể hiện ở khía cạnh ca tụng tiết tháo, ca tụng nhàn tản, hoặc ca tụng tình yêu tự do.

Đặng Minh Khiêm (1456 – 1526?) dòng dõi Đăng Dung, hiệu là Thoái

hiên, người Thiên lộc (nay là Can lộc, Nghệ tĩnh) sau dời ra ở huyện Sơn vi.

Minh Khiêm đỗ tiến sĩ năm 1487 làm quan đến Thượng thư bộ Lễ, kiêm Phó

đô tổng tài ở Sử quán, ông mất ở Hóa châu trong khi đưa vua Lê Chiêu Tông

đi lánh nạn, Minh Khiêm đã từng sống dưới thời thịnh trị của triều Lê Thánh

Tông, lại cũng được chứng kiến bước đầu suy vi của chế độ phong kiến.

Trong buổi giao thời, kỷ cương đổ nát, sĩ phu có người sa đọa, nhưng Minh

Khiêm vẫn giữ được lòng tiết tháo của mình, không a dua, bè phái. Ông dùng

lối bình phẩm nhân vật lịch sử để gián tiếp phê phán người đời. Đó là một lối

“thanh nghị” của các nhà nho thời xưa. Năm 1520, ông được vua Lê Chiêu

Tông sai soạn bộ Đại Việt lịch sử ký (thất truyền). Tác phẩm của ông nay chỉ

còn lại tập thơ Việt giám vịnh sử (cũng gọi là Thoát hiên vịnh sử), gồm 125

bài thất ngôn tứ tuyệt vịnh các nhân vật lịch sử từ xưa cho đến nhà Hồ. Tập

thơ chia làm ba phần: phần đầu vịnh các đế vương, phần thứ hai vịnh các tôn

thất, danh thần và phần thứ ba vịnh các danh nho, tiết nghĩa, hậu phi, công

chúa v.v… Lối vịnh sử này đời Trần đã có lẻ tẻ vài bài, nhưng vịnh Bắc sử,

Page 162: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

đến đời Lê Thánh Tông, đã có một số bài vịnh Nam sử, nhưng chưa có một

tập vịnh sử có hệ thống ngoài tập Cổ tâm bách vịnh là tập vịnh nhân vật Bắc

sử. Do đó, có thể nói tập Việt giám vịnh sử của Minh Khiêm là tập thơ vịnh sử

đầu tiên, chứa đựng tinh thần yêu nước thương nòi. Lập trường của Minh

Khiêm là lập trường của nho sĩ phong kiến, cho nên những nhân vật lịch sử ở

đây đều thuộc tầng lớp trên. Tuy vậy, khi nói đến các vị anh hùng dân tộc như

Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Minh Khiêm cũng nói lên được khí thế

quật cường của dân tộc. Một điểm rõ nhất qua tập thơ là tác giả luôn luôn đề

cao lòng tiết tháo và tinh thần tích cực lo đời. Tác giả khen Chu An vì Chu An

tiết tháo dâng sớ hạch tội quyền thần, tuy bỏ về, nhưng rồi lại ra lo đời; trái lại,

tác giả chê Trần Nguyên Đán vì Nguyên Đán tỏ ra ủy mị, than vãn trước cuộc

đời, mà lại thờ ơ đối với sự hưng vong của nước nhà (du du bất quản quốc

hưng vong). Sau Minh Khiêm, có Đỗ Yên, Hà Nhiệm Đại tiếp tục làm thơ vịnh

sử. Hà Nhiệm Đại là tác giả Khiếu vịnh thi tập.

Nhiều tác giả khác làm thơ hoặc truyện tỏ ý chống đối giai cấp phong

kiến phương Bắc để tỏ lòng tiết tháo của mình, nhưng đồng thời cũng để nêu

cao tinh thần dân tộc. Truyện thơ Tô công phụng sứ gồm 24 bài Đường luật

nói lên lòng tiết tháo của Tô Vũ đời Hán, nhưng chính là nói lên lòng tiết tháo

của Lê Quang Bí chống lại nhà Minh. Nếu nhà Mạc đầu hàng nhà Minh, thì Lê

Quang Bí khẳng khái giữ được tấm lòng son sắt, không chịu khuất phục nhà

Minh. Nỗi lòng Tô Vũ cũng là nỗi lòng Quang Bí.

Thường thường, các sĩ phu ta đi sứ khi xúc cảm sinh tình hay làm thơ

phú. Từ đời Trần, đã có một số thơ thuộc loại này, nhưng còn lẻ tẻ; đến nay;

đã có nhiều tập thơ hoàn chỉnh. Trong văn học viết bằng Hán văn của nước

ta, loại thơ sứ trình cũng chiếm một phần quan trọng: Phùng Khắc Khoan có

Mai lĩnh sử hoa tập, Nguyễn Giản Thanh có Thương côn châu ngọc tập, Lê

Hữu Kiều có Bắc sứ hiệu tần thi, Nguyễn Đăng Đạo có Phụng sứ tập, Đặng

Thúy có Trúc ông phụng sứ tập. Nguyễn Đăng, người làng Đại toán, huyện

Quế võ (Hà bắc), đi sứ Minh năm 1673, cũng hay xướng họa với các sĩ phu

Trung quốc và sứ giả Triều tiên. Khi qua chùa Phi lai, ông có làm bài phú tám

Page 163: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

vần, gọi là Phi lai tự phú. Những người đi sứ thường đưa hết tài năng của

mình ra ứng phó với bọn phong kiến Trung quốc, để nâng cao lòng tự hào

dân tộc của mình. Ngoài tính chất thù phụng, các tập thơ sứ trình có một ý

nghĩa cao quý là ở chỗ đó. Khoảng thế kỷ XVI, XVII, Phùng Khắc Khoan là

một người nổi tiếng ở trong nước cũng như ở Trung quốc. Ông có tài ứng đối,

vua quan nhà Minh phải thán phục. Thường xướng họa với sứ Triều tiên là Lý

Toái (hoặc Tối) Quang, ông cầm bút là viết ngay. Toái Quang phải phục tài.

Phùng Khắc Khoan (1528 – 1613) tự là Hoằng Phu, hiệu là Nghị Trai,

quán làng Phùng xá tức làng Bùng, huyện Thạch thất (Hà sơn bình). Lúc nhỏ,

ông học với Nguyễn Bỉnh Khiêm và sau nghe lời thầy vào Thanh hóa theo

nhà Lê (1550). Năm 1557, ông đỗ đầu khoa thi Hương ở Thanh hóa, được

Trịnh Kiểm giao cho chức ký lục ở chỗ ngự dinh, sau thăng cấp sự trung bộ

Lễ. Tính ông cương trực, có lần làm trái ý vua, phải giáng chức ra thành Nam

thuộc huyện Tương dương (Nghệ tĩnh). Phẫn uất vì lòng trung trực mà vua

không biết tới, ông làm bài ca Đào nguyên hành để biểu lộ tâm sự của mình ở

nơi cô quạnh. Năm 1580, ông lấy chân cấp sự Lễ khoa, xin đi thi Hội, đỗ

Hoàng giáp, làm quan hai năm, xin về nghỉ ở nhà riêng, sau lại được vời ra

làm Thừa chính sứ Thanh hóa. Năm 1597 và 1599, ông được cử đứng đầu

sứ bộ sang nhà Minh. Người trong nước phục tài đức của ông mới gọi tôn

ông là Trạng Bùng. Khi đi sứ về, ông được thăng Tả thị lang bộ Lại, tước Mai

Lĩnh hầu, sau thăng Thượng thư bộ Hộ, tước Mai quận công; lúc chết ông

được tặng Thái phó. Ông còn để lại nhiều tập thơ với nhiều tên khác nhau,

nhưng người sau gộp lại một tập gọi là Phùng công thi tập hoặc Nghị trai thi

tập; ngoài ra, ông còn có tập Mai lĩnh sứ hoa (thơ đi sứ), sáng tác năm 1597,

trong đó có cả thơ xướng họa và thơ tặng của sứ Triều tiên là Lý Toái Quang.

Cũng như Nguyễn Trãi, Phùng Khắc Khoan có ý thức lấy văn chương

để phục vụ lý tưởng. Ông đã nói rõ ý đó trong bài tựa tập thơ Ngôn chí của

ông, một tập thơ làm thuở còn niên thiếu: “Tôi đối với thơ thường có chí,

nhưng tự nghĩ tài cao không bằng cổ nhân, lời điêu luyện không bằng cổ

nhân, sáng chưa đủ để bình luận cố nhân, tối chưa đủ làm kinh hãi quỷ thần?

Page 164: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Nếu chỉ khư khư ít học hỏi trau dồi, thì những lời vụng về sao cho đủ tư cách

để dự vào chức Tao đàn nguyên súy?”. Lúc còn hàn vi, ông thường nung nấu

chí hướng, muốn có tài kinh bang tế thế như Đường Huyền Tông, Tống Thái

Tổ, vung tay quét sạch mây mờ trong bốn biển, hoặc cũng muốn có tài văn

chương lỗi lạc như Lê Thánh Tông. Phùng quả là một người có chí, thường

vào những dịp đầu năm hay cuối năm, đều làm thơ tỏ cái chí của mình: “Từ

xưa người nam nhi đều nuôi cái chí của mình” (Tự cổ nam nhi câu hữu chí).

Đọc thơ ông, chúng ta thấy rõ những nét diễn biến tư tưởng của ông từ nhỏ

đến già. Ông là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng ông đã tiếp thu được

khía cạnh tích cực trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Phùng vốn tự phụ, và

ba lần đỗ đầu, văn chương xuất sắc nổi tiếng đương thời. Ý đó bộc lộ trong

nhiều bài thơ, nhất là trong bài “vịnh cây mai non”: ca tụng cái vị trí hàng đầu

giữa mùa xuân của hoa mai, chính là ca tụng cái vị trí tam khôi của mình.

Phùng cũng là người có tiết tháo, tin ở chí khí của mình, tự coi như cây tùng

cây bách, chịu được giá lạnh (Tự thuật), không chịu thua số mệnh: thân mình

có như con trai trên mặt nước, nhưng cũng quyết đưa hết tài cán của mình

mà “nhả mù, nuốt sóng” (thổ vũ thôn ba):

“Cố sức giúp đời áp đảo sóng cuồng

Mà ngửa lòng hướng theo mặt trời mới mọc…”.

(Kỳ đảo cuồng tan xuất lực phù,

Phương thăng hồng nhật khuynh tâm hướng) – Bạn

Trong nhiều bài thơ như bài “Thuốc đoan ngọ”, “Thương thời loạn”, Phùng

Khắc Khoan nói đến nhân nghĩa, nói đến đời sống khổ sở của nhân dân, nhất

là trong buổi loạn ly mà chính bản thân ông đã từng chứng kiến:

“Chiến tranh tàn phá gây tan hoang

Khiến kẻ anh hùng phải ngẫm nghĩ”.

(Can qua lạc lạc khổ lưu ly,

Trường sử anh hùng mạn tự ti (tư) – Thương loạn)

Page 165: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Khi làm thơ chúc thọ vua Minh hay khi xướng họa với sứ Triều tiên, Phùng

Khắc Khoan nhấn mạnh lòng yêu hòa bình, yêu nhân nghĩa. Đưa thơ cho sứ

bộ Triều tiên, ông so sánh sông Áp lục với sông Nhị hà và nhắc lại câu nói

xưa: “Bốn biển đều là anh em”. Qua cửa Nam quan, ông làm thơ nói lên lòng

ước mong cho nhân dân hai nước qua lại thuận hòa. Thơ Phùng cùng một

dòng thơ với Nguyễn Bỉnh Khiêm, thường thiên vê lý trí, bắt người đọc phải

suy nghĩ nhiều. Nói như vậy không có nghĩa nói Phùng không phải là một thi

nhân. Tuy suy nghĩ nhiều về thời cuộc, Phùng cũng rung động trước con

người và thiên nhiên, có những buổi chiều dạo quanh thành Tây đô, có những

buổi hoàng hôn nghe tiếng địch hay có những đêm thu hoài cảm: chính là

những lúc nhà thơ để tâm hồn lâng lâng theo cảnh vật. Giữa cảnh loạn ly của

thế kỷ XVI, sau Nguyễn Bỉnh Khiêm thì Phùng Khắc Khoan là một ngôi sao

sáng.

Quả vậy, như ở phần hoàn cảnh lịch sử chúng ta đã biết, xã hội nước

ta từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVII, đã bước vào thời suy vi của chế độ

phong kiến, thời mà cương thường đạo lý đã bắt đầu bị phá vỡ. Thực trạng

xã hội đó đã bị nhà nho Phạm Công Thế tố cáo, lúc giơ cổ ra chịu chém. Một

viên quan hỏi ông:

– Ông là người Khắc giáp, sao lại theo giặc?

Ông ngang nhiên trả lời:

– Lâu nay danh phận không rõ, lấy gì phân thuận nghịch? Những người

có chút tiết tháo như Vũ Duy Đoán, Nguyễn Công Hãng đều bị ghen ghét và

hãm hại. Duy Đoán đỗ tiến sĩ năm 1664 đời Trịnh Tạc, khi làm quan, học theo

Trương Cửu Linh, một viên ngự sử nổi tiếng đời Đường, viết một quyển sách

dâng lên khuyên chúa Trịnh nên nghe theo lẽ phải mà trị nước. Cuối cùng ông

bị bọn quyền thần ghen ghét và bị cách chức. Về quê ông làm bài phú Phạm

Lãi đi chơi Ngũ Hồ để tỏ chí mình. Ông cũng là tác giả cuốn Dị văn ký bằng

quốc âm. Lúc chết, ông có tự làm bài văn tế trong đó có câu: “Giúp vua mong

được như Nghiêu, Thuấn, nhà Đường, nhà Ngu; tự nghĩ mình cũng như các

Page 166: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

ông Cao, Quỳ, Tắc, Tiế, Đạo bình trị chứa sẵn trong lòng muốn đem thi thố ra

cho rộng lớn; lễ doanh hư rất là huyền diệu khó tỏ rõ cho ai hay”.

Nguyễn Công Hãng (1679 – 1732) là một bề tôi trung của chúa Trịnh

làm chức ngự sử, cảm thấy cái chết treo trước mắt, bèn đã sớm xin từ chức;

nhưng chưa được thì đã bị gièm pha, rồi bị giáng chức và bị bức sát. Đến đời

Cảnh Hưng, ông mới được minh oan. Ông là tác giả Tinh Sà thi tập.

Sống trong hoàn cảnh ấy, một số sĩ phu đi vào con đường ẩn dật, để

bảo vệ tấm lòng son sắt của mình. Nguyễn Bỉnh Khiêm và một số đệ tử của

ông như Nguyễn Dữ đã đi theo con đường ấy (sẽ nói ở mục riêng). Những

nhà nho đồng thời như Nguyễn Lễ, Nguyễn Hãng cũng không chịu ra làm

quan, chỉ ưa sống cuộc đời nhàn tản. Nguyễn Lễ đỗ tiến sĩ đời Mạc; khi Mạc

mất, ông bỏ đi ẩn và còn để lại bài thơ:

Muốn yên thân lánh chốn nghèo

Miễn là ẩn dật há rằng kiêu,

Cõi thanh vân quyết ra tay mở,

Nữa, nữa, con em sẽ bước theo”.

Nguyễn Hãng, người xã Xuân lũng, huyện Sơn vi, nay thuộc huyện

Lâm thao (Vĩnh phú), đậu Hương cống đời Lê Tương Dực, học Quốc tử giám,

soạn sửa thi Hội thì Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê (1527). Ông bỏ đi ẩn

ở làng Đại đồng, xứ Tuyên quang tự xưng là Thảo mao ẩn sĩ, làm bài Tịch cư

ninh thể phú để tỏ chí mình rồi tự ông viết và khắc vào gỗ. Vũ Văn Uyên

chiếm Đại đồng chống Mạc, mời ông giúp, ông cáo từ. Uyên mất, em là Mật

lên thay làm chủ trấn Đại đồng, có nhờ ông làm bài phú Đại đồng phong cảnh

khoảng 1565 – 1569: ông bất đắc dĩ phải làm bài này, ngụ ý ca tụng uy thế họ

Vũ ở đây:

“… Chín lần nhật nguyệt làu làu, cao đường hoàng đạo.

Nghìn dặm sơn hà chễm chễm, khoe thế vương thành.

Hình thể ấy khen nào còn xiết.

Page 167: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Phong cảnh này, thực đã nên danh”.

Cũng như Nguyẽn Bỉnh Khiêm sống trong vùng họ Mạc kiểm sát,

Nguyễn Hãng sống trong đất họ Vũ, cũng thật khó lòng mà khước từ một

cách quyết liệt tất cả mọi việc. Muốn có một cuộc đời toàn vẹn “lánh đục về

trong” như Bá Di, Thúc Tề, hay muốn làm một Tạ An chuẩn bị gặp thời thì

“phù nghiêng chữa lệch”, kể cũng không phải là chuyện dễ, ai cũng làm

được… Đương nhiên, thái độ của Bá Di, Thúc Tề mà Nguyễn Hãng ca tụng,

cũng không phải hoàn toàn đáng khen! Có điều, ông không giúp Mạc thì đã

đành, nhưng cũng không thể giúp Vũ, vì Vũ chỉ là thổ hào của đất Đại đồng,

chứ chưa thể là quốc vương của toàn Đại Việt. Ông đành đi vào con đường

ẩn dật tiêu cực để chờ thời, vì ông tự hào mình đã nắm được lẽ biến dịch của

tạo hóa:

“Nghiệm một phút diều bay, cá nhảy, mới hay lý ngụ huyền vi,

Thấy đôi vừng thỏ lặn ác tà, biết thuở cơ thường biến dịch”…

Không thể cởi mở nỗi lòng với người đời, ông đã tìm tứ thơ trong thú

thiên nhiên và muốn làm một Mạnh Hạo Nhiên hay một Đào Tiềm:

“Cầm một trương, thơ mấy quyển; đủ tháng ngày ngâm ngợi, ấy thú

màu ông Mạnh Hạo Nhiên. Lan chín khóm cúc ba hàng, dõi hôm sớm bù trì,

này của báo gã Đào Bành Trạch”.

Đọc bài phú Tịch cư ninh thể, chúng ta chưa cần phải khen tài tả cảnh

của tác giả: hình như có một sự hài hòa giữa lòng người và cảnh vật, cho nên

cảnh vật theo lòng người ẩn hiện dưới ngòi bút bay bướm của nghệ sĩ. Điều

mà chúng ta chú ý ở đây là sự thông cảm một phần nào giữa đời sống tác giả

với đời sống đồng bào miền trung du. Nguyễn Hãng không tham công danh

phú quý, rút về ở trong một thung lũng nhỏ, nơi “xó xỉnh góc trời mom đất”,

nơi “không ruộng núi vườn đèo”. Sống trong một gian nhà nhỏ, mái “kết

gianh”, phên “cắm sậy”, ông ăn mặc như nông dân địa phương, thấm thía

cảnh nghèo khổ trong thiếu thốn:

“Ta thường: văn khăn gốc đen sì; vặn quần nâu đỏ cạch…

Page 168: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Áo vừa ấm cật… Nằm võng tre… lê guốc gỗ…

Ăn thì: tương hạnh chua lòm; muối vầu lạt thếch. Sớm ba chén chè

xanh mát ruột, nài chi vò đất hẩm hiu; bữa vài lưng cơm lốc no lòng, sá quản

mâm đan sộc sệch, Thuốc phì phào, quản sậy điếu tre; trầu phúm phím vỏ dà

rễ quạch…”.

Không ai cấm Nguyễn Hãng thi vị hóa cuộc đời ẩn dật của mình, nhưng

thật tình mà xét, văn Nguyễn Hãng quả có yếu tố tả thực. Dù có được họ Vũ

thưởng cho chút đỉnh về văn tài, Nguyễn Hãng vẫn phải dựa vào đồng bào

địa phương mà sản xuất để tự nuôi mình và gia đình mình. Văn của Nguyễn

Hãng biểu hiện được trong chừng mực nhất định đời sống cơ cực của đồng

bào địa phương, vì chính bản thân tác giả đã từng lăn lộn với thực tế đó.

Nguyễn Hãng biết tìm cái vui trong nghèo khổ (bần nhi lạc), chứ không tỏ ra

buồn não cô đơn như những nhà nho khác khi lâm vào cảnh thiếu thốn. Đó là

một ưu điểm nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Hãng.

Ngô Thi Ức (1709– 1736). Đến đầu thế kỷ XVIII, nhà thơ Ngô Thi Ức

cũng thừa kế được tư tưởng “bần nhi lạc” này. Thi Ức hiệu là Tuyết Trai,

người làng Tả Thanh oai, huyện Thanh oai (Hà sơn bình), đỗ Hương cống lúc

còn trẻ, thi Hội hỏng, trở về nhà, không may bị chết non. Ông còn để lại Tuyết

trai thi tập và Nam trinh liên vinh tập. Trong bài Tiêu dao ngâm, Thi Ức cũng

tỏ ra yêu đời, không thắc mắc về công danh, tự gây cuộc sống “bên bờ sông

Nhuệ”, gặp các dụ già hỏi chuyện mùa màng, sai trẻ đi “bắt của đang độ béo”

về “rang lên nhắm với rượu mới cất”. Cố nhiên, thái độ Thi Ức là thái độ tiêu

cực, quay lưng với thực tế, nhưng có ưu điểm là tiếp thu được lối sống tương

đối bình dị vui vẻ của nông dân.

Nếu có một số tác giả và tác phẩm nêu lên những mâu thuẫn giữa tâm

tư một tầng lớp sĩ phu với hiện thực xã hội, nêu lên tính tiết tháo và lòng chán

ghét những triều đại thối nát đương thời thì một số tác giả và tác phẩm khác

lại đi vào khía cạnh trữ tình và phóng khoáng. Ở phần hoàn cảnh lịch sử,

chúng ta đã nói đến yếu tố thị dân, nói đến sự xuất hiện “ý thức cá nhân”. Đó

không phải là một vấn đề mới đối với thế kỷ XVI về sau; ở thế kỷ XV, thơ văn

Page 169: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

đã đề cập đến những khía cạnh trữ tình, đến ý thức cá nhân. Không cứ gì giai

cấp phong kiến còn thịnh hay suy, tình yêu con người bao giờ mà chẳng có.

Có điều, khi ý thức hệ phong kiến suy sụp, thì ý thức cá nhân có dịp nảy nở

hơn, nhất là trong chừng mực mà kinh tế hàng hóa phát triển. Đó là chưa nói

đến ảnh hưởng của tiểu thuyết diễm tình Trung quốc như Tây Sương ký, Bình

sơn Lãnh Yến v.v… Chúng ta sẽ đọc được tất cả khát vọng của cuộc sống ở

một số truyện trong “Truyền kỳ mạn lục”, hay đặc biệt ở truyện Lâm tuyền kỳ

ngộ. Nàng Bạch Viên và chàng Tôn Các yêu nhau tha thiết bất chấp lễ giáo

phong kiến, bất chấp luật lệnh Ngọc hoàng và qua bao gay go đấu tranh

chống kỷ cương của triều đại, đôi lứa mới bảo vệ được tình yêu, được hạnh

phúc cá nhân của mình. Trong nền văn học viết gần như khô khan của những

thế kỷ XVI, XVII, chúng ta sẽ tìm được ở đây một tình đẹp của tuổi trẻ trong

những tình đẹp của con người, mà bấy lâu lắng xuống đáy lòng, dưới sức ép

của những xiềng xích phong kiến.

3. Văn học Đàng Trong hay văn học bên kia sông Gianh.

Như ở phần nhận định chung đã nói, văn học viết nước ta từ Trịnh

Nguyễn phân giới cho đến Tây sơn khởi nghĩa, dù phân ra Bắc Nam, cũng

không có nghĩa khác nhau về bản chất. Bên này hay bên kia sông Gianh cũng

chỉ là chế độ phong kiến. Có điều mâu thuẫn nội tại trong xã hội đôi bên có

mức độ khác nhau. Nếu chế độ phong kiến Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII bước

trên con đường suy yếu thì chế độ phong kiến Đàng Trong lại đang trên con

đường củng cố, trên con đường mà bọn phong kiến nhà Nguyễn gọi là “sáng

nghiệp”. Sự nghiệp của chúa Nguyễn mở ra cho các nhà nho Đàng Trong con

đường “trung quân báo quốc”, con đường có thể phát huy tài mẫn cán của

mình. Đào Duy Từ bị chèn ép ở Đàng ngoài, đã thấy con đường tiến thủ ở

Đàng Trong; Mạc Thiên Tích chán ghét chế độ nhà Minh, đã tìm thấy hạnh

phúc ở đất Hà tiên (Kiến giang). Đến thế kỷ XVIII, xã hội Đàng Trong cũng

thối nát không kém xã hội Đàng Ngoài, những nhà nho như Ngô Thế Lân,

Nguyễn Cư Trinh đã tỏ ra bất mãn với chính sách chúa Nguyễn. Văn học

không chỉ đơn thuần ca tụng phong kiến, ca tụng cảnh non nước thanh bình,

Page 170: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

mà đã có xu hướng tố cáo hiện thực thối nát của xã hội. Mặt khác, trong

những truyện thơ, ý thức cá nhân cũng bộc lộ. Nhìn chung sự phát triển văn

học viết Đàng Trong cũng ở trong quá trình phát triển chung của văn học viết

nước ta từ trước đến bây giờ. Để thấy rõ sự tiến triển đó của văn học bên kia

sông Gianh, chúng ta hãy lướt qua một vài tác giả và tác phẩm chính.

Đào Duy Từ (1572 – 1634), quán xã Hoa trai, huyện Ngọc sơn (nay là

Văn trai, huyện Tĩnh gia, Thanh hóa).

Họ Đào vốn làm nghề ca hát từ thời nhà Lý. Nhà ông nghèo, cha làm

chân quản giáp coi đội nữ nhạc trong nội triều Lê Anh Tông. Ông học thông

minh, nhưng vì con nhà “xướng ca”, nên năm 1592, Trịnh Tùng mở khoa thi,

ông không được tham dự. (Theo Việt nam khai quốc chí truyện). Tuy vậy, ông

không nản chí, tiếp tục trau đồi kiến thức, được bạn là Lê Thời Hiến giúp đỡ

về kinh tế và khuyên nên theo chúa Nguyễn. Suy nghĩ chín chắn, ông tán

thành ý bạn mà cho rằng “… chúa Nguyễn hùng cứ Thuận Quảng, làm nhiều

việc ân đức, lại có lòng yêu kẻ sĩ, trọng người hiền… vả lại, nước giàu dân

thịnh, mưa gió điều hòa, có cảnh tượng mỗi ngày một hơn, mai sau tất nên

nghiệp lớn. Nếu ta theo vào giúp chúa, thì chẳng khác Trương Lương về Hán,

Ngũ Viên sang Ngô có thể làm tỏ rạng thanh danh, ta không đến nỗi phải nát

cùng cây cỏ, uổng phí một đời tài trai…” (Theo Tang thương ngẫu lục), ông

vào Nam, đến Bồng sơn (Nghĩa bình), hết tiền phải đi chăn trâu cho một nhà

phú hào. Một viên quan ở gần đấy, biết ông là người có tài, đưa về gả con gái

cho và tiến cử ông lên Sãi vương làm chức nội tán. Tám năm trời, ông giúp

Sãi vương về mọi phương diện quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Ông chỉ huy

việc xây dựng lũy Trường dục và lũy Nhật lệ (lũy Thầy), chỉ huy nhiều trận

đánh, đồng thời đóng vai trò ngoại giao với Đàng Ngoài. Tương truyền ông có

công trong việc phát triển nghệ thuật tuồng ở Đàng Trong, ban đầu là ở Hoài

nhơn (Nghĩa bình), nơi ông trú ngụ. Có lẽ ông đã sáng tác nhiều vở tuồng

trong đó có vở Sơn hậu. Ngoài ra, chúa Nguyễn có sai ông làm nhiều bài văn

tuyên truyền cho chế độ Đàng Trong, để giữ vững tinh thần những người

Đàng Ngoài di cư vào Đàng Trong. Nếu vậy, thì Đào Duy Từ đã đóng một vai

Page 171: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

trò quan trọng trong việc phát triển văn hóa buổi khai nghiệp của chúa

Nguyễn. Tác phẩm của ông ngày nay còn lại rất ít ngoài cuốn Hổ trướng khu

cơ bằng chữ Hán viết về quân sự, có hai bài quốc âm (Ngọa long cương vãn,

Tư dung vãn) và một ít câu vè. Hai bài văn đó đều sáng tác vào khoảng trước

1627, trong khi ông còn ở ẩn, chưa được chúa Nguyễn biết tới. Trong bài

Ngọa long cương văn, ông tự ví mình như Chư Cát Lượng, khi còn ẩn ở núi

Ngọa long; chờ một vị chân chúa, hiểu tài đức mình, mới chịu ra giúp đời. Tác

giả ca ngợi thái độ thanh cao, phóng dật của Ngọa long, chỉ mảng vui “cuốc

nguyệt”, “cày mây”, không thiết lợi danh một cách tầm thường. Sự thật, nói

Ngọa long, chỉ là để tự nói mình, tự cho mình có tài, có chí mà không gặp

thời:

“Gẫm xem thánh nọ hiền kia

Tài rầy nào có khác gì tài xưa

Nẻo mầu mới nhiệm binh cơ

Lược thao đã đọc, thất thư lại bàn…”.

Ý đó khá rõ rệt ở đoạn kết, bằng lời thơ bóng bẩy, ông đã ngỏ tâm sự lo đời

giúp nước của mình cùng chúa Nguyễn:

“Chốn này thiên hạ đời dừng

Ắt là cũng có Ngọa Long ra đời,

Chúa hiền dùng đặng tôi tài,

Mừng xem bốn bể dưới trời đều yên…”.

Tác giả tiếp tục ca ngợi cuộc đời tự do phóng khoáng của mình trong bài Tư

dung vãn. So với bài Ngọa Long cương vãn, thì bài sau có nhiều hình tượng

nghệ thuật hơn. Tư dung vãn là một bài thơ dài ca ngợi phong cảnh mỹ lệ của

đất nước, đồng thời cũng nói lên ước mơ của người nghệ sĩ. Cửa bể Tư dung

ở phía Nam Thuận an, thuộc huyện Phú lộc (Bình trị thiên) là một cảnh đẹp,

thời xưa Lê Thánh Tông và hội Tao đàn đã có dịp dùng làm đề tài ngâm vịnh

Page 172: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

trong tập Minh lương cẩm tú. Ca tụng cửa bể Tư dung là gián tiếp ca tụng

giang sơn Đàng Trong, mà theo Đào Duy Từ là do chúa Nguyễn xây nên:

“Cõi Nam từ định phong cương,

Thành đồng chống vững âu vàng đặt an.

Trải xem mấy chốn hô san,

Hon tươi có tốt đời ngàn gấm phong…”.

Trừ những chỗ ca ngợi với ý nghĩa thù phụng ấy, toàn bài thơ toát lên

một tinh thần yêu đất nước, yêu thiên nhiên và yêu cuộc đời tự do phóng

khoáng. Ý thơ vui, lời thơ đẹp. Dưới ngòi bút của tác giả, cửa bể Tư dung

hiện ra với tất cả vẻ hùng vĩ và huy hoàng của nó:

“Khéo ưa thay cảnh Tư dung.

Cửa thông bốn bể, nước thông trăm ngòi.

Trên trời tinh tú phân ngôi,

Đêm treo thỏ bạc, ngày soi ác vàng.

Dưới thời sơn thủy khác thường,

Động đình ấy nước, Thái hàng kìa non…”.

Tác giả say sưa trước cảnh “đáy nước in mây, trăng kia rọi sóng…”, say sưa

trước cảnh “buồm xuống thuyền lên, cánh hồng lướt gió, khách tiên nghiêng

hồ…”, rồi tác giả nhìn ra xa xăm, tưởng như có chiếc thuyền tiên bập bềnh

chở “khách ly tao”, bơi theo trăng, theo gió, đến một nơi bồng đảo phiêu diêu:

“Buồm ai ràng rạng chân trời,

Phất phơ cờ gió, thẳng vời chèo trăng.

Lửa ngư ánh lộn bông hằng

Nhằm miền hải đảo tưởng chừng thiên thai…”.

Thật là thơ mộng, Đào Duy Từ quả là một nghệ sĩ. Thuyền mơ của Đào có

bóng dáng chiếc thuyền Lã Vọng, vì cũng chở nặng một thú tiêu dao; có điều,

Page 173: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

thú tiêu dao ở đây không đượm sầu mà lại đượm vui. Ưu điểm của Đào là ở

đấy, mặc dù Đào không còn sống trong thời đại “hoàng kim” của chế độ

phong kiến nữa. Chúng ta cũng sẽ tìm thấy tính nhàn tản yêu đời đó trong thơ

của Mạc Thiên Tích và hội viên Chiêu Anh các.

Mạc Thiên Tích (1711 – 1780) tên húy là Tứ, người Trung quốc, vì

không chịu nỗi chế độ hà khắc của nhà Thanh, nên bỏ đi đến đất Hà tiên

(trước gọi là Mang khảm). Ông được chúa Nguyễn ban cho chức tước, cho

đổi tên là Thiên Tích. Ông có công cùng nhân dân địa phương tổ chức khai

hoang đất Mang khảm và biến Mang khảm trở thành đất Hà tiên tươi đẹp của

nước ta. Chúa Nguyễn sau nghe lời gièm pha, nghi ngờ ông, nên ông bức chí

nuốt vàng sống mà chết; con cháu và thân thuộc ông bị hại 53 người. Dòng

họ ông sau sót một ít, nhưng đến nay không còn ai nữa. Rõ ràng, trong hoàn

cảnh đó, dù có chạy đến Hà tiên, Mạc Tứ vẫn không thoát khỏi xiềng xích của

giai cấp phong kiến. Tuy vậy, trong giai đoạn ông xây dựng đất Hà tiên, ông

đã sống những ngày tươi sáng nhất của đời ông, những ngày hoạt động tích

cực với tư thế làm chủ đất nước của mình trong khuôn khổ xã hội Đàng

Trong. Đọc Hà tiên thập vịnh và Lư Khê nhân điếu phú, chúng ta không cần

bàn đến tinh thần yêu thiên nhiên đất nước, tinh thần nhàn tản yêu đời, mà

cần chú ý hơn tinh thần Việt hóa trong tư tưởng, và qua bút pháp của tác giả,

Thiên Tích và bạn của ông là người Minh hương nhưng làm thơ ca tụng đất

nước Việt với tất cả nỗi lòng chân thành của mình. Khi tả mười cảnh đẹp Hà

tiên, không phải tác giả không nhớ tám cảnh đẹp ở Tiêu tương hay ở Thương

ngô, nhưng thực tế, trước mắt tác giả, cảnh trời và lòng người Hà tiên là đẹp

hơn cả: cá khe Lư, sóng Kim dữ, cò Châu nham… Đương nhiên, những kiến

thức, những điển cố trong văn học Trung quốc có phần nào hạn chế tính độc

đáo của tác giả, nhưng các nhà thơ Chiêu Anh các, nhất là Mạc Thiên Tích đã

vươn lên trên khuôn khổ xưa khá nhiều. Trong “Hà tiên thập vịnh” bằng quốc

âm, điển tích đã ít dùng và lời văn đã khá thanh thoát:

Đây là một tiếng chuông:

“Gió đưa mấy tiếng thần chung,

Page 174: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Lóng tai nghe lọt bên lòng vơi vơi…”.

Đây là những bóng mục đồng:

“Dưới rừng mấy trẻ mục đồng,

Lưng trâu thổi địch, gió lồng theo khe…”.

Và đây là những dòng sao mặt hồ:

“Hiu hiu ai phất gió đông,

Trên hồ tinh tú một dòng lung lay…”.

Một điểm khác cũng làm cho chúng ta chú ý ở đây là bóng dáng nhân dân

trong những cảnh đẹp Hà tiên qua thơ Mạc Thiên Tích:

“… Khóm non mấy nước chan chan,

Thú vui mỗi thú, dân nhàn bốn dân…

…Thảnh thơi đất thắng bừa an,

Cứ dân làm lụng, có làng ăn chơi…”.

Mạc Thiên Tích vốn có ý thức dựa vào nhân dân mà xây dựng đất nước.

“Ông đem lòng nhân mà chiên dụ, lấy việc nghĩa mà thâu phục lòng người,

nên danh ông từ ấy đã vang trong ngoài…”. (Theo Hà tiên Mạc thị sử).

Nhật Vĩnh, một hội viên của Chiên Anh các cũng đã nói lên niềm vui

sản xuất cùng với nhân dân: “…Con cháu chỉ tính kế làm giàu bằng ruộng đất,

cày ruộng đào giếng làm khó nhọc chưa ngày nào dừng”. Nhìn chung, từ các

bài thơ phú của Mạc Thiên Tích cũng như của hội viên Chiêu Anh các, chúng

ta thấy bốc lên một không khí thanh bình của đất Hà tiên trong giai đoạn

tương đối ổn định của nó.

Đây là riêng Hà tiên, chứ xã hội Đàng Trong ở giai đoạn đầu thế kỷ

XVIII đã chứa nhiều mâu thuẫn gay gắt. Những mâu thuẫn nội tại giai cấp đó

biểu hiện khá rõ rệt trong tư tưởng và tác phẩm của Nguyễn Cư Trinh.

Nguyễn Cư Trinh (1716– 1767) vốn dòng họ Trịnh ở Can lộc (Nghệ

tĩnh). Năm 1527, Mạc cướp ngôi Lê, Trịnh Cán trốn vào Thuận hóa, ngầm

Page 175: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

hoạt động chống Mạc, nhưng việc không thành. Đăng Đệ là cháu bảy đời

Trịnh Cán được chúa Nguyễn Phúc Chu cho bỏ họ Trịnh lấy họ Nguyễn; Cư

Trinh là con Đăng Đệ, đỗ Hương cống năm 1740 và được bổ tri phú. Năm

1744, Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, ông được giữ chức xem xét và thảo

các công văn, rất được Phúc Khoát kính trọng. Năm 1750, ông giữ chức Tuần

Vũ Quảng ngãi là nơi đang bị người Đá Vách đánh phá dữ dội. Sau khi đưa

hết tài cán ra chinh chiến, chiêu hàng được người Đá Vách, năm 1753, ông

lại được cử đi đánh Thủy chân lạp và tiến đến tận Hà tiên. Về văn học, ông là

tác giả các tập thơ Đạm am (hiệu của ông), mười bài họa Hà tiên thập vịnh và

bài Sãi vãi.

Qua tiểu sử của ông, chúng ta thấy ông là người rất có công với chúa

Nguyễn trong mọi lãnh vực quân sự cũng như chính trị, đến nỗi quyền thần

Trương Phúc Loan cũng phải kiêng nể. Tuy vậy, tâm sự ông vẫn có chỗ ưu

uất. Là một nhà nho có chút tiết tháo, ông không mù quáng vì chúa Nguyễn;

ông đã thấy được tất cả thối nát của xã hội Đàng Trong. Khi làm Tuần Vũ

Quảng ngãi, trước cảnh nhân dân bị tham quan ô lại bắt bớ, bóc lột một cách

trái phép, ông mạnh dạn tâu lên chúa 4 điều tệ, trong đó có chú ý đến điều

trừng trị bọn quan lại tham ô và điều giữ trật tự an ninh để nhân dân có thể

sống mà làm ăn. Cũng như Nguyễn Trãi, ông nhấn mạnh đến cái gốc của

nhân dân: “Dân là gốc của nước, gốc không bền thì nước không yên…”. Tính

trung trực của ông làm cho bọn quyền thần không được hài lòng, nên có lúc

ông cảm thấy bị cô lập, nghĩ mình “như con ngựa mỏi mệt đương chịu rét một

mình nơi cửa ải xa xôi” (bài Ngâm trên cửa ải). Uất ức, ông thốt ra những câu

bất mãn: “gan ruột không phải là chiếu chải ra, cuộn lại và thân thể thật như

cái áo cũ không bằng cái áo mới!” (Ký hoài ngày xuân).

Trong bài hoạt kê Sãi vãi soạn năm 1751, Nguyễn Cư Trinh nhằm hai

mục đích: mục đích trước mắt là dùng nghệ thuật hoạt kê để động viên quân

sĩ tấn công người Đá Vách, tiến vào Nam trấn áp Chân lạp, tuyệt vây cánh

của Trịnh Doanh; mục đích xa là gián tiếp giáo dục vua quan phong kiến

Đàng Trong không nên theo lối tà đạo nhảm nhí hay thói hủ nho càn bậy, mà

Page 176: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

nên tin theo tư tưởng chính thống của đạo Khổng để giúp đời trị dân. Cư

Trinh nhấn mạnh cái tu của người quân tử Nho giáo:

“Lấy nhân mà tu tánh, lấy đức mà tu thân. Tu minh đức để mà răn dân,

tu tề gia để mà trị quốc. Ấy là trang hiền đức, tu cho phải đạo tu. Ngoài thì tu

khoan dũ ôn nhu, trong thi tu hòa bình trung chính. Tu cung tu kính, tu tín tu

hành…”.

Cư Trinh tôn Khổng, Mạnh, đả Dương, Mặc. Ông đặt lại vấn đề chữ “tu”

thế nào cho đúng và lấy ngay chữ “tu” đó để châm biếm một cách sâu cay

những người đội lốt Đạo giáo hay Phật giáo. Hai đạo này ở Đàng Trong thời

đó rất thịnh hành. Nguyễn Phúc Chu tự xưng là Thiên Túng đạo nhân. Theo

Cư Trinh, tu Phật như thế chỉ là một lối sống giả dối, gian phi “miệng bồ tát,

bụng dao găm”.

“Tu những lòng bạc ác gian tham, tu những dạ hung hăng tàn bạo… Tu

lưỡi mềm lấy của cho đầy then, tu mưu độc hại người cho hả giận… Chợ nào

nhiều bạn hàng các ả, xóm nào đông bổn đạo các dì, sãi tu lại tu đi, sãi tu lên

tu xuống…”.

Khác Với Trương Hán Siêu đời Trần chỉ đả kích đạo Phật, Nguyễn Cư

Trinh lại vừa phê phán tà đạo, vừa chỉ trích hủ nho vì rằng đạo Khổng thời

Trần chưa suy đồi như ở thể kỷ XVIII. “Tà đạo” lúc này bao gồm cả Phật, Lão

và Gia tô giáo; nhưng hình như tác giả chĩa mũi dùi nhiều về đạo Phật hơn.

Về nghệ thuật, tác giả đã khéo sử dụng lối hoạt kê của tuồng đồ: thí dụ

đoạn tác giả mượn lời Sãi vãi công kích Thích ca, đấy là chiến thuật dùng

“gậy ông đập lưng ông”. Tác giả khi thì dùng nhiều điển tích với lời văn uyên

bác để nâng cao lý luận, khi thì dựa vào thành ngữ, tục ngữ (như đàn gảy tai

trâu, nước xao đầu vịt) để ý văn sát với lòng người. Đọc toàn bài Sãi vãi,

chúng ta lấy làm thú vị thấy ý nghĩa tố cáo xã hội lại nổi bật hơn là chủ tâm đề

cao Khổng giáo của tác giả. Giá trị bài Sãi sãi chính là ở đó.

Tính chất tố cáo xã hội còn thể hiện trong một số truyện thơ thời bấy

giờ như truyện Huê tình của Nguyễn Phúc Đán (1699 – 1755), truyện Song

Page 177: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

tinh Bất dạ của Nguyễn Hữu Hào (? –1713). Nguyễn Hữu Hào, quán ở Tống

sơn (Thanh hóa), sau dời vào Thừa thiên, làm chức cai cơ, dự những trận

Chân lạp năm 1689, làm Trấn thủ Quảng bình năm 1704. Tuy là võ tướng,

nhưng ông lại sở trường về quốc văn. Song tinh Bất dạ là một trong những

truyện thơ sớm nhất ở Đàng Trong hiện nay còn lại. Ở đây, một mặt Nguyễn

Hữu Hào tố cáo bộ mặt gian ác của bọn quan lại như phò mã họ Đỗ, như

Hách Nhược Sinh, mặt khác cũng nói lên mối tình nồng thắm giữa Song Tinh

và Nhụy Châu, một mối tình vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến. Đó

là một điểm mà tác giả Song Tinh gặp tác giả Phan Trần hay các tác giả Hoa

Tiên và Truyện Kiều sau này.

Tóm lại, văn học Đàng Trong từ đầu thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII,

tuy về số lượng cũng như về chất lượng chưa cao, nhưng đã phát triển được

khá đầy đủ các mặt như tình yêu thiên nhiên đất nước, tính tiết tháo, tính

nhân đạo, tính tố cáo hiện thực xã hội, và do đó đã phản ánh được phần nào

chế độ phong kiến Đàng Trong lúc bấy giờ.

Chương II. NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491 – 1585)Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của thế kỷ XVI. Tiếng thơ của ông

cũng là tiếng nói của thế kỷ XVI, thế kỷ mà chế độ phong kiến nước ta bước

đầu đi vào con đường khủng hoảng, do đó tư tưởng của các tầng lớp sĩ phu

cũng có nhiều xu hướng phức tạp.

I. THÂN THẾ NGUYỄN BỈNH KHIÊM

Ông húy là Văn Đạt, hiệu là Bạch vân cư sĩ, người làng Trung am,

huyện Vĩnh lại, tỉnh Hải dương (nay là huyện Vĩnh bảo thuộc ngoại thành Hải

phòng), Cha của ông là nho sĩ bình dân, được tặng phong tước Thái bảo Anh

quận công, sau khi Bỉnh Khiêm làm quan. Gia đình ông không phải là địa chủ

quý tộc. Cha của ông nhờ học hành thông minh mới được Thượng thư Nhữ

Văn Lan gọi đến gả con gái luống tuổi cho. Qua thơ văn của ông, chúng ta

thấy ông thường nói đến cái nghèo, hậm hực về sự ám ảnh của “con ma

nghèo” như Ngô Thì Sĩ sau này đã mô tả một cách mỉa mai trong một bài văn.

Có lúc, sống trong cảnh thanh bần, ông cố gắng giữ phong thái một “nhà nho

Page 178: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

quân tử” vui với “một ít sách vở và nửa rèm trăng gió” (gia bần), nhưng vẫn

không quên được thực tế chua cay, thực tế vì “khó khăn phải lụy đến thê nhi”.

Do đó, lời thơ có khi cũng bao hàm vị chua chát:

“… Vùng bạc nào ai vốn có phân,

Lạnh thay cơm hủ được no ăn.

Lạnh thuở đông, hằng nhờ bếp,

Nồng vụ hạ, kẻo đắp chăn…”.

Thuở nhỏ, ông học mẹ ông, một bà mẹ nổi tiếng là thông kinh sử, giỏi văn

chương; sau mới theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, một nhà lý học kiểu

Tống nho (Lương Đắc Bằng là cháu Lương Như Hộc, nguyên khi đi sứ Minh,

ông được một người họ hàng xưa ở Trung quốc truyền cho bộ Thái ất thần

kinh, đem về dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm). Bỉnh Khiêm lớn lên giữa lúc giai cấp

phong kiến đang đi vào con đường suy yếu như đã nói ở trên. Thời đại thịnh

trị đời Hồng đức đã qua rồi; ông chỉ được chứng kiến những triều đại thối nát

Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Mạc Đăng Dung v.v… Sĩ phu lúc này có nhiều xu

hướng phức tạp; đa số phù Lê, nhưng có một phần theo Mạc, nhất là những

người chưa từng làm quan hay đỗ đạt với triều Lê. Nguyễn Bỉnh Khiêm thuộc

vào tầng lớp không phải tôi cũ nhà Lê, nhưng trước một phong trào sĩ phu

chống Mạc, ông cũng phải suy nghĩ nhiều: Lê là chính thống, Mạc là ngụy

triều; một sĩ phu kháng khải mà lại theo ngụy triều, trái với đạo lý Khổng giáo

được chăng? Chính băn khoăn như vậy, cho nên mãi đến năm 45 tuổi (1535),

đời Mạc Đăng Doanh, ông mới ra thi đậu Giải nguyên, năm sau đó, đậu Trạng

nguyên. Tại sao ông lại ra thi? Câu hỏi ấy chắc hẳn không phải ngày nay

chúng ta mới đặt ra, mà các sĩ phu đương thời đã bàn bạc nhiều. Có người

cho rằng sở dĩ ông phải ra thi là vì lúc đó nghèo túng quá; tác giả “Bạch Văn

am sự tích” lại cho là vì bạn bè khuyên nhủ. Gia đình có quẫn bách, bạn bè có

thôi thúc, nhưng cũng chưa đến cái thế đẩy ông vào cảnh “cố cùng”. Mặc dầu

còn “chân trắng”, nhưng ông là cháu ngoại một viên Thượng thư; bạn bè,

người nói xuôi, kẻ nói ngược, nhưng qua thơ văn của ông, chúng ta thấy ông

là người có bản lĩnh, chín chắn. Do đó, những lời phán đoán trên có chỗ chưa

Page 179: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

được thỏa đáng. Có điều, cũng phải công nhận rằng Bỉnh Khiêm sống trong

đất nhà Mạc cai trị, nhất là ở Hải dương, cùng một quê hương với họ Mạc,

chắc chắn bị chính quyền nhà Mạc gò ép ra giúp họ. Mặt khác, Bỉnh Khiêm là

một nhà nho, hơn nữa là một nhà “lý học”, tất nhiên phải nghĩ đến “lẽ biến

dịch” và “nghĩa tùy thời”. Bỉnh Khiêm là một người “ưu thời mẫn thế”, muốn

giúp đời trị loạn, tất nhiên không thể cứ chấp kinh mà không tòng quyền. Đấy

là những nhân tố khách quan và chủ quan khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm

quan với nhà Mạc. Qua tám năm làm việc, ông thấy chính quyền họ Mạc càng

ngày càng đi đến chỗ đổ nát; ông khẳng khái dâng sớ đàn hặc và xử chém

mười tám lộng thần nhưng không kết quả. Lúc này, phong trào phù Lê diệt

Mạc lại phát triển mạnh ở Thanh hóa, quê hương của khởi nghĩa Lam Sơn.

Theo gương Chu An ngày xưa, ông trả áo mạo, xin trở về vui thú điền viên.

Lúc này ông đã 52 tuổi. Ông dựng Am Bạch Vân và mở lớp dạy học, lại sai

học trò quyên tiền, lập quán Trung tân ở bên bờ Tuyết giang vừa làm phúc,

vừa tìm bạn. Ngoài ra ông có đi thăm những nơi chùa chiền thắng cảnh. Ông

dạy nhiều học trò có người nổi tiếng như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu

Khánh, Nguyễn Dữ, Trương Tuần; Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung. Học trò

của ông phần lớn là những người học giỏi hay làm quan to với nhà Lê và uy

tín của ông đối với nho sinh thời bấy giờ rất lớn. Đinh Thời Trung thay mặt

môn đệ đọc bài văn tế khi ông mất có nói rõ chỉ hướng của ông.

Năm (1585), Bỉnh Khiêm ốm nặng, biết khó sống, thảo sớ lên vua Mạc

trong có đoạn: “Thần suy tính độ số thấy vận nước nhà đã suy, vận nhà Lê đã

đến hồi tái tạo, ý trời đã định sức người khó theo. Song nhân giả có thể hồi

thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính lấy dân làm gốc, lấy nước làm

trọng, trong sửa sang văn trị, ngoài chuyên võ công, may ra giữ được cơ

nghiệp tổ tiên, thì thần chết cũng được thỏa lòng”. Mạc Mậu Hợp sai sứ về

thăm bệnh, hỏi việc nước, ông chỉ nói: “Cao bằng tuy tiểu khả dung sổ thế”

(Cao bằng tuy nhỏ, cũng được vài đời). Vua lại sai Mạc Kính Điển làm Khâm

sai, cùng với các quan ở triều về dự tế, truy phong Bỉnh Khiêm là Lại bộ

Thượng thư Thái phó Trình quốc công (trước ông chỉ là Lại bộ Tả thị lang).

Vua Mạc lại phát cho sở tại ba nghìn quan tiền để lập đền thờ và cấp một

Page 180: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

trăm mẫu ruộng tư điền. Đến ấy dựng trước cửa dinh ông, vua thân đến đề

mấy chữ: “Mạc triều Trạng nguyên Tể tướng từ”.

Ông còn để lại một số thơ văn chữ Hán và quốc âm, sáng tác vào lúc đi

ở ẩn: “Bạch vân am tập” bằng Hán văn hiện có ngót một nghìn bài thơ thất

ngôn và ngữ ngôn, một bài phú Trung Tân, ba bài ký: Trung Tân, Thạch bích

và Quá Kim hải môn… “Bạch vân quốc ngữ thi tập” gồm khoảng gần vài trăm

bài (ngoài ra, tương truyền có một ít Sấm ký).

II. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG THƠ VĂN NGUYỄN BỈNH KHIÊM

Lâu nay, khi bàn về tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhiều người có ý

kiến khác nhau. Có người cho rằng tư tưởng nhân của ông là “hoàn toàn tiêu

cực bi quan”; có người lại cho rằng ông có “truyền thống nhân đạo chủ nghĩa”

hay có phương pháp triết học “khách quan thực nghiệm, do đó có tính chất

duy vật”. Sự thật, tư tưởng ông cũng phức tạp như thời đại của ông. Từ thuở

nhỏ, ông học được nghĩa lý vua tôi trong sách nên thường “ước một tôi lành

chúa thánh minh”. Nhưng lớn lên lại không thay Nghiêu, Thuấn của thời đại

“hoàng kim”, như Lê Lợi, Lê Thánh Tông; chỉ thấy Lê Tương Dực với “tướng

lợn”, hay Mạc Đăng Dung với dáng điệu bỉ ổi “cổ đeo thừng, chân đi không”

đến tận dinh tên giặc Mao Bá Ôn xin cắt đất! Trung với đạo thánh hiền, mà

không thể trung với hôn quân bạo chúa: tiên nho đã từng nói như vậy. Nhưng

muốn hành đạo, cũng không thể “nghĩa tùy thời”. Mặt khác, qua kinh Thái ất

mà thầy truyền cho, bằng phương pháp tượng số học, ông đã suy ngẫm

được lẽ biến dịch của cuộc đời. Phái tượng số học là phái của Tư Mã Quang

và Thiệu Ung đời Bắc Tống. Trong bài văn tế ông, Đinh Thời Trung có nhắc

đến điều đó: “Suy trước biết sau, học lối Nghiêu phu môn hộ…”. Thiệu Ung

(1010 – 1077) là một nhân vật đặc biệt thời Bắc Tống; tư tưởng ông khá phức

tạp: ông được bạn bè tiến cử, nhưng cáo bệnh không ra làm quan, quanh

quẩn ở đất Lạc dương, thường cũng than vãn cảnh nghèo túng, nhưng thực

tế thì ông có nhiều tì thiếp, lại thường đi lại với các nhà quyền quý. Thiệu Ung

chịu ảnh hưởng học thuyết “thuận lý”, cũng giống như là “thuận thiên mệnh”

trong Nho giáo, một thuyết căn cứ ở vận mệnh trời đất mà suy diễn ra hành

Page 181: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

động con người do trực quan chủ nghĩa. Xã hội Trung quốc đời Tống cũng có

đôi điểm giống với xã hội nước ta ở thế kỷ XVI. Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh

hưởng học thuyết Thiệu Ung khá sâu sắc, nhưng không phải áp dụng học

thuyết đó để suy cứu thời thế nước nhà một cách “thô lậu”; ông vẫn có những

nét độc đáo của nho sĩ Việt nam. Thiệu Ung không làm quan, nhưng thái độ

lại có chỗ quỵ lụy bọn quý tộc. Bỉnh Khiêm có làm quan, nhưng lại có nghĩa

khí hơn. Những điều mách bảo Mạc, Trịnh, Nguyễn đều là những dự đoán

sáng suốt của một người thông minh có suy nghĩ về thời cuộc, có điều, những

lời mách bảo họ Trịnh và họ Nguyễn đều là những lời bóng gió, chắc hẳn là

do thái độ khôn ngoan, dè dặt, giữ mình của một người đương sống dưới uy

quyền họ Mạc. Rõ ràng, thái độ và hành vi tùy thời xuất xử của ông là sự biểu

hiện hai mặt của tư tưởng Khổng, Lão thông qua sự chiêm nghiệm và thích

ứng với thực tế cuộc đời. Trong tư tưởng của ông, nếu có cái phiêu diêu của

Lão Trang, cái thoát tục của Phật giáo, thì chủ yếu vẫn có cái ưu ái tích cực

của người nho sĩ chân chính, đúng như tác giả Đại Việt sử loại tiếp tục đã

nhận định: “Tuy ông ở nhà 44 năm mà lòng không ngày nào quên đời, lòng

ưu thời mẫn tục vẫn lộ trong thơ”. Tư tưởng đó cũng là tư tưởng chung của

một tầng lớp nho sĩ có lòng ưu ái trong xã hội loạn ly của thế kỷ XVI, xã hội

mà Bỉnh Khiêm sống là một xã hội đầy mâu thuẫn. Muốn nhập thế hành đạo,

nhưng không gặp thời, ông lại tìm con đường nhàn tản xuất thế và tuy xuất

thế mà vẫn lo đời. Hai yếu tố tích cực và tiêu cực trong tư tưởng ông thể hiện

khá rõ rệt trong thơ văn ông: ông vừa ca tụng nhàn tản, vừa tố cáo hiện thực

thối nát của xã bội và phê phán cuộc đời. Có thể nói chữ nhàn là một chủ đề

nổi bật trong thơ của ông; chỉ riêng 101 bài thơ quốc âm chép ở sách AB.157

(Viện thông tin khoa học xã hội Hà nội), thì 17 bài đã nói đến chữ nhàn:

“… Thấy đám thanh vân bước ngại chen,

Được nhân ta sá dưỡng thân nhàn… (số 8)

“… Dửng dung mọi sự đà ngoài hết,

Nhàn một ngày là tiên một ngày… (số 10)

“… Cảnh cũ điền viên tìm chốn cũ,

Page 182: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Khách nhân sơn dã, dưỡng thân nhàn…”

(số 44) v.v…

Như trên đã nói, vì “mùi thế gian nhiều mặn nhạt, đường danh lợi lắm

chông gai”, nên Bỉnh Khiêm cũng như Nguyễn Hãng muốn “lánh đục về trong”

và tìm một đời “vô sự tiểu thần tiên”. Đào Tiềm ở Trung quốc xưa mấy lần ra

làm quan, nhưng đã có một thái độ cương nghị: “không vì năm đấu gạo mà

khom lưng uốn gối”. Bạn quan lại đồng triều với Bỉnh Khiêm tồi tàn quá, kể cả

thông gia là Phạm Quỳnh và con rể là Phạm Dao trong khi đó, những người

khoa bảng như Lê Tuấn Mậu, Nguyễn Thái Bạt v.v… đã dũng cảm ném đá

hoặc nhổ nước bọt vào mặt Đăng Dung để rồi bị giết chết. Không kể a dua

theo bọn quyền thần, những “con khướu” “nói ngọt rất đáng sợ”; chỉ lo đục

nước béo cò, cướp bóc nhân dân, ông muốn làm như “người quân tử nọ yêu

danh tiết, chim phượng hoàng kia tiếc vũ mao”. Không thể hợp tác với triều

đại nhà Mạc, mà ông cho là “trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn” (sấm), ông

tìm đến thứ tiêu dao Tiên, Phật. Tiên trong thơ văn của ông có nghĩa là “vô

sự”, “lâng lâng”, không bị ràng buộc bởi vinh hoa phú quý, không bị khuất

phục bởi thế lực gian tà. Ông đã tìm đến con đường “đại ẩn” của Nguyễn Trãi

và xa hơn nữa của Chu An, đương nhiên, thân thế và thời đại của ông so với

hai người xưa đã có nhiều điểm khác nhau. Ông đã từng nói:

“Trong sạch ai là thiên hạ sĩ,

An nhàn ta chính địa trung tiên”.

(Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩ,

An nhàn ngã thị địa trang tiên).

Ông có nghĩ đến việc Nghiêm Tử Lăng đời Hán câu cá ở Đồng giang hay việc

Trương Lương đời Hán bỏ quan đi tu tiên theo Xích Tùng Tử, “Sinh ở đất

Mạc, mà thử ra làm quan ấy là cái lòng muốn đến Công sơn, lòng thường biết

việc đời không thể cưỡng được, đành phải bỏ về, ấy có cái chí theo Xích

Tùng tử” (Đại Việt sử loại tiếp lục). Ông thường ca tụng cái thú “một mai, một

cuốc, một cần câu” nhưng ông không “luyện đan”, không “niệm Phật” mà lại ra

Page 183: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

sức dạy học và sáng tác thơ văn để tố cáo cuộc đời. Mặt tích cực trong chữ

nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là ở đó. Rất thông cảm với nỗi lòng “ái ưu rừng

rực” của ông. La sơn phu tử Nguyễn Thiếp, quân sư của Nguyễn Huệ, khi ra

Bắc hà, có đến viếng quê hương ông tỏ mối cảm phục. Nhưng từ đó mà ta

kết luận rằng “chữ nhàn ấy không hề có nghĩa chán đời” thì cũng chưa được

thỏa đảng. Muốn hành đạo trong xã hội phong kiến, nhất là xã hội phong kiến

thời suy yếu, làm thế nào cho khỏi vướng cái lụy công danh.

“… Nếu có công danh thì có lụy…

“… Vì danh cho phải lụy đôi phen!”

Đối với ông, vướng phải công danh là một việc bất đắc dĩ; dứt khỏi công danh

mà chưa làm thế nào dứt hẳn được, lại cũng là một việc đáng buồn. Tìm thú

nhàn trong ẩn dật để phản kháng triều đình, dù bằng hình thức nào, cũng chỉ

là một lối đấu tranh tiêu cực, do tư tưởng bất mãn thời thế, chán ngán cuộc

đời mà ra. Cái nhàn của ông là cái nhàn tiêu cực của một tầng lớp sĩ phu có

lòng ưu ái, nhưng lại không dám xông xáo hoạt động giữa thời loạn lạc,

không dũng cảm đứng ra dàn xếp những xâu xé trong nội bộ giai cấp mình.

Mức độ tích cực của ông ở chỗ không tham gia vào việc nhơ nhuốc, có thái

độ không tán thành cái xấu, hay đi xa hơn một chút là nói bóng gió để học trò

như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh v.v… ra tích cực hoạt động giúp

đời, còn bản thân mình thì an phận, không mất lòng ai, sống “thoải mái” trong

đất nhà Mạc kiểm sát, mà vẫn làm thầy cho Trịnh, Nguyễn. Ông vin vào cớ

sống “thuận lẽ trời” để có thái độ “lập lờ” mà chủ yếu vẫn là muốn an thân,

bảo mạng. Họ Mạc giết hại công thần nhà Lê, hay những sĩ phu chống lại

chúng không phải là ít. Riêng đối với Bỉnh Khiêm, trước sau, chúng vẫn tôn

trọng như một vị quân sư độc nhất. Và Bỉnh Khiêm đối với chúng, đành rằng

thâm tâm không phục, nhưng không phải vì thế mà không trung thành.

“… Nghĩa cả luống quên tôi chúa cũ… (số 15)

…”Ơn chúa đã nhiều chưa báo đáp

Lòng còn canh cánh ắt khôn nài…” (số 21)

Page 184: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

… “Ba đời chúa được phúc tình cờ

Ơn nặng chưa từng báo tóc tơ…” (27)

Cố nhiên, Mạc, Trịnh hay Nguyễn cũng đều là phong kiến cả trong hoàn

cảnh lúc bấy giờ, nhân dân chỉ ủng hộ dòng họ nào ít tàn bạo hơn. Điều này

chúng ta không bàn ở đây, chúng ta chỉ nhấn mạnh thái độ sống thiếu cương

quyết, không dứt khoát của Bỉnh Khiêm. Trong tư tưởng “nhàn” của ông, phần

chủ yếu vẫn là tiêu cực, hiện tượng và bản chất ở đây cũng nhất trí với nhau.

Bằng tượng số học, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thông minh suy ra cái hướng đi

lên một cách cao khiết, thanh thoát hơn, nhưng bản thân ông lại thiếu dũng

cảm vươn lên hướng đó. Ông đã hội lý được “đạo lớn” (tri đại đạo), đã thấy

được “một vừng hồng nhật” (nhất luân hồng nhật), nhưng lại rụt rè không dám

xông lên nắm lấy chân lý, chỉ ngồi than thân, trách đời, tiếc đạo, rồi “ngâm thơ

cho vang đến đám mây khói” (Tự thán). Ai bảo Bỉnh Khièm không buồn não?

Sự thật, tự mình không thắng được cái “ta” của mình, Bạch Vân cư sĩ cũng

ưu uất nỗi lòng lắm. Ông muốn làm một “cái quạt Vũ, Thang” để quét tan khí

nóng cho bể sạch bụi trong, nhưng rồi chỉ là được “con diều giấy” lâng lâng

trêu không trung hay một “cành hoa ẩn dật”, một “cây u mộc” lặng lẽ trong xó

tối! Ông chỉ là người nói cho người ta làm theo, chứ không phải người làm

cho người ta bắt chước. Có điều, thường thường ông nói đúng và cũng có

tình có lý.

Ngoài tính chất nhàn tản phiêu diêu đó, thơ văn Bỉnh Khiêm còn có một

tính chất khá nổi bật: tính chất tả thực và phê phán cuộc đời. Đương nhiên,

ông làm thơ với mục đích là nói về đạo lý, nói về cái chí của mình như ông đã

trình bày rõ trong bài tựa cuốn Bạch vân am thi tập: “Thơ tất là để nói cái chí.

Có người có chí ở đạo đức, có người có chí ở công danh, có người có chí ở

ẩn dật. Tôi lúc trẻ nhỏ được giáo huấn của gia đình, lớn lên làm quan, lúc về

già chỉ muốn ẩn dật, hoặc tách cái đẹp của sơn thủy, hoặc vui cái mỹ lệ của

hoa, trúc, hoặc mượn sự việc mà tự thuật, đều nói đến hết cái chí”. Nhưng nói

đến mình, không thể không nói đến người, không thể không nói đến tình trạng

xã hội mình đương sống. Khi tố cáo cảnh thối nát của xã hội, Bỉnh Khiêm

Page 185: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

thường nhấn mạnh hai điểm: chán ghét sự chém giết lẫn nhau và sự đục

khoét của quan lại tham ô, khinh bỉ những người chạy theo danh vị và tiền tài.

Nguyễn Bỉnh Khiêm sống gần suốt thế kỷ XVI, phần lớn sống ở nông

thôn, 44 năm trước khi làm quan sống ở quê nhà, 44 năm sau khi thôi quan

lại cũng sống ở quê nhà; đấy cũng là dịp tốt để ông được gần nhân dân, hiểu

thêm đời sống và nguyện vọng của nhân dân. Ông thấy rõ chiến tranh phong

kiến phi nghĩa gây tang tóc cho nhân dân. “Chiến tranh thường tự đi tìm nhau”

và “được thua” chưa biết về ai, nhưng trăm tội đó lên đầu dân: “Nhà ở bẻ làm

củi, trâu cày giết làm thịt; cướp đoạt của cái người khác, hiếp dỗ vợ người

khác, chỉ trông thấy cảnh tro bùn, nơi nào qua là tro bụi…” (Thương loạn).

Thấy rõ “nhân dân mong được chốn an cư”, nên ông chủ trương “dĩ hòa vi

quý”:

... “Ở thế đừng tranh đấng trượng phu,

Làm chi cho có sự đôi co?…

… “Người dữ thì ta miễn có lành,

Làm chi đưa đến nhọc đua tranh…”.

Sự thật, Bỉnh Khiêm cũng chưa phân biệt được chiến tranh nào là chính

nghĩa (khởi nghĩa nông dân) và chiến tranh nào là phi nghĩa (phong kiến xung

đột), ông chỉ biết chiến thanh là trái với tự nhiên, là khổ dân. Cũng như

Nguyễn Trãi, Bỉnh Khiêm đã chú ý đến dân, cho rằng phải “lấy dân làm gốc”,

ông phản đối cảnh “cá lớn nuốt cá bé”, phản đối bọn đục khoét nhân dân, coi

chúng như những “con chuột lớn, bất nhân, gậm khoét thật thảm độc” khiến

cho nông dân phải than khóc vì đói khổ (Ghét chuột). Ông vạch mặt cả bọn

quý tộc đi đâu thì tiền hô, hậu ủng, phủ đệ, ao lầu khắp nơi, tuể thiếp lụa là,

con cái gạo tám cũng không buồn ăn”. Trong bài văn bia để quán Trung tân,

ông cũng nhấn mạnh thói xa hoa của quý tộc bên cạnh sự nghèo khổ của

nhân dân. Giai cấp phong kiến chém giết lẫn nhau, gây ra cảnh “núi xương

sông máu” trong nhân dân, chính là vì danh vị, tiền tài, vì quyền lợi ích kỷ của

chúng. Trong nhiều bài thơ Hán và quốc âm, Bỉnh Khiêm đều vạch thói đời

Page 186: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

xấu xa chạy theo danh lợi, ông thường lấy hai hình tượng đối lập để nêu bật

sự thối nát của thời đại: giàu sang, có tiền gạo rượu chè thì có kẻ dập dìu;

người trọng yếu có đệ tử, có ông tôi, trái lại, đói nghèo, không tiền gạo rượu

chè thì không ai nhìn, không ai hỏi, chào cũng lảng, hết đệ tử, hết ông tôi…

Quả là:

“Thớt có tanh tao ruồi đậu đến,

Gang không mật mỡ kiến bò chi!”.

Nhìn thấy nhân tình thế thái như vậy, ông hạ một câu thật là mỉa mai chua

chát: “Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười!”. Tác dụng đồng tiền ở thế kỷ XVI

kể cũng đã ghê gớm. Sau này Nguyễn Công Trứ nối tiếp ý đó có phân tích giá

trị đồng tiền trong lòng người thế kỷ XIX bằng những câu thơ cũng không kém

mỉa mai và chua chát:

“Đương om sòm chớp giật sấm vang,

Nghe xỏng xảnh lại gió hòa mưa thuận!”.

Tóm lại, những bài thơ, những câu thơ của Bỉnh Khiêm mô tả thực trạng xã

hội thời bấy giờ đều có giá trị như những bức tranh tả chân tuy chưa sâu sắc,

nhưng rất trung thực và cũng có chỗ khá đậm đà.

III. NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà đạo lý, nên thường dùng lối thơ triết

học, một lối thơ rõ ràng, cô đọng như những châm ngôn, những công thức

toán học:

“Cửa vương nhện, nhân vi vắng

Thớt quyến ruồi, ấy bởi tanh…”.

Đấy là một cách khái quát hóa những nhận xét về cuộc đời, một cách đề ra

nguyên lý xử thế. “Văn chương Nguyễn Bỉnh Khiêm rất tự nhiên, buông miệng

là nên lời, không cần gọt giũa, giản dị mà đủ ý, thanh đạm mà có vị” (Phan

Huy Chú, Lịch triều hiến chương). Thơ ông quả có giản dị, nhưng cũng không

khô khan tất cả, nhiều khái niệm được diễn đạt bằng hình tượng nghệ thuật.

Page 187: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Thơ ông không phải là tiếng thét hùng tráng, cũng không phải là tiếng đàn

thánh thót, mà là lời nói chân tình, lời nói đạo lý, lời ngụ ngôn:

“Tiền tài số phận của lưu thông,

Cắp nắp làm chi cho nhọc lòng!...”.

Trong thơ chữ Hán cũng như thơ quốc âm, thỉnh thoảng ông có dùng điển

như Nghiêu, Thuấn, Hán gia tam kiệt, Tái ông thất mã, Thạch Sùng, Sào Phủ,

nhưng phần lớn ông dùng lời nói của ca dao, tục ngữ:

“Người ba đấng, của ba loài…”

“Nuôi con mới biết lòng cha mẹ…”

Lời thơ buông theo ý thơ, do đó nhịp điệu cũng không gò bó theo thể Đường

luật; ông thường dùng đến biệt lệ “nhất tam ngũ bất luận”:

Leo lẻo dòng xanh con mắt mèo…

Phú quý bao nhiêu người thế gian…

Số từ, số câu cũng tùy tiện, từ năm đến bảy từ (năm từ: Có quyền thời có

của). Ông cũng dùng thể thất ngôn chen lục ngôn của thế kỷ XV. Lời và ý thơ

của ông nhiều chỗ giống với lời và ý thơ Nguyễn Trãi. Trong “Quốc âm thi tập”

có khoảng ba mươi bài giống như trong “Bạch vân quốc ngữ thi tập”, mà rồi

đây, chúng ta sẽ khẳng định là thơ của ai? Việc này cũng nói lên sự đồng

cảm trong một chừng mực nào đấy giữa hai nhà thơ trong khi nhận xét về

cuộc đời hoặc thuyết minh đạo lý hoặc bộc bạch tâm tình. Tuy hai nhà tho ở

hai thế kỷ, nhưng căn bản vẫn là nho sĩ phong kiến, chịu ảnh hưởng ý thức

hệ Khổng Mạnh, hơn nữa hai người đều có tâm hồn cao thượng, đều là

những người biết sống, biết suy nghĩ và nhận định về cuộc sống.

Bỉnh Khiêm không phải chỉ là một nhà triết lý khô khan, mà còn là một

nhà thơ, một nghệ sĩ với cuộc sống nội tâm dạt dào. Trong thơ Hán cũng như

thơ quốc âm, Bỉnh Khiêm nhiều chỗ đã sử dụng bút pháp tả cảnh và tả tình

khá hấp dẫn. Cũng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất yêu thiên nhiên.

Tạo vật thường ẩn hiện trong thơ ông: “bến nguyệt thuyền kề… am mây cửa

Page 188: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

khép… nhiều hoa trúc, hoa mai, có cả cây chim đầu non bạc, có cả cánh diều,

trận nhạn…”. Ông tả cảnh thiên nhiên rất tỉ mỉ như tả thạch lựu thì tả hoa

thạch lựu, cây thạch lựu, lửa thạch lựu, hay tả mùa đông thì tả nhiều khía

cạnh như tả lập đông, đông thiên, đông nhật, đông vũ, đông dạ, đông cảnh

v.v… Ông cũng rất khéo về tả tĩnh vật như tả cái quạt, cái bút, cái gươm, cái

chậu rửa mặt v.v… Lời thơ vài chỗ đậm chất thơ, một chất thơ độc đáo của

Tuyết giang phu tử:

… “Mai bạc lạnh quen nhiều tháng tuyết,

Cúc vàng thêm đổi mấy phen hoa…”

… “Bóng hoa lay động am chư Phật

Măng trúc còn tươi bếp mới sôi…”

Xúc cảnh sinh tình: tình của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có chỗ đau buồn.

Đừng tưởng rằng Bạch vân cư sĩ không có những nét thơ cảm khái: dù có

miệt mài với những hào, những quẻ của tượng số học, ông cũng không thể

ức nén được nỗi lòng của một nhà thơ, hơn nữa của một con người. Có

những lúc ông làm thơ gửi bạn cố tri, mà lòng những thương lòng: nghe tiếng

sáo buồn, thấy tấm trăng trong, ông tưởng chỉ có trăng mới hiểu lòng mình

(Cảm cựu). Tâm sự cô đơn của ông có đôi nét giống tâm sự Nguyễn Du sau

này khi ông lánh nạn ở quê vợ ở Quỳnh côi (Thái bình).

Thời gian trôi qua, Bỉnh Khiêm ngẫm cuộc đời, sờ hai mái tóc bạc,

“gắng – nống vài chén rượu” cho đỡ buồn, nhưng có lúc sầu quá “trở mình

bên gối, hai hàng nước mắt chứa chan”, mà lắng nghe “tiếng chày đập vải”

(Sầu). Nghĩ mình, rồi lại nghĩ người: trong buổi can qua, có những mối khuê

tình ảm đạm (Khuê tình), nhiều người vợ lính nghe “tiếng giọt thu tí tách dưới

ánh trăng mà cảm xúc nỗi cô liêu, thao thức không ngủ được” (Thu thanh).

Lời thơ của tác giả trong những lúc này lắng sâu xuống tình cảm, đi sâu vào

lòng người, chứ không phải thuyết minh bằng trí tuệ. Là nhà thơ triết lý,

Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là nhà thơ trữ tình, nhưng là nhà thơ trữ tình kín

đáo.

Page 189: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Bình luận về Khuất Nguyên, nhà sử học Tư Mã Thiên viết: “… Chí ông

sạch nên ông hay nói đến hoa thơm, tính ông liêm, nên dù chết ông cũng

không chịu buông lỏng. Bị ngập trong vũng lầy, ông thoát khỏi chỗ nhơ đục,

băng mình ra ngoài đám bụi trần, không để cho “đời rây bẩn…”. Câu đó có

thể mượn để nói về Nguyễn Bỉnh Khiêm được chăng? Đương nhiên, thân thế

và hoàn cảnh từng người có chỗ khác nhau, đương nhiên tư tưởng và hành

động Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có chỗ tiêu cực, phải phê phán, nhưng cũng

cần thông cảm nỗi lòng của ông có chỗ khó nói.

Ngày xưa Bạch Cư Dị mượn lời chim hạc (Đại hạc) để nói tâm sự của

mình. Giữa thế kỷ XVI ở nước ta, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nhìn ra biển

đông, muốn tung cánh với chim hải âu cho cuộc đời thanh thoát. Sống trong

xã hội thối nát dưới triều Mạc, dù còn những khuyết điểm này nọ, Tuyết giang

phu tử vẫn là:

“Cây thông chót vót cao trăm thước

Ngay thẳng không giống các cây khác…”.

Lời thơ của ông và lời nói của một cuộc đời liêm khiết, của một nỗi lòng

“ái ưu vằng vặc”, đúng như lời trong bài văn tế ông: “Tiếng tiên sinh không

bao giờ mất, tức là bóng thu dương sáng mãi, nước Giang hán chảy tràn…

Đạo tiên sinh muôn thuở vẫn còn, tức là khu rừng lớn tốt tươi, núi Thái sơn

củng cố…”.

Chương III. NGUYỄN DỮ VÀ TRUYỀN KỲ MẠN LỤCNguyễn Dữ, người làng Đỗ tùng, huyện Trường tân (nay là làng Đỗ

lâm, huyện Thanh miện, tỉnh Hải hưng), con ông Thượng thư Nguyễn Tường

Phiếu (tiến sĩ năm 1496 đời Hồng đức). Theo bài tựa đề đầu cuốn truyện in

mộc bản năm Cảnh Hưng thứ 24 (1763), cũng như theo Kiến văn tiểu lục của

Lê Quý Đôn và Hoàng Việt thì tuyển của Bùi Huy Bích thì Nguyễn Dữ có chân

hương tiến (tương đương với cử nhân), thi hội trúng tam trường, có làm tri

huyện huyện Thanh tuyền (nay là huyện Bình xuyên tỉnh Vĩnh phú) được một

Page 190: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

năm rồi từ chức về nuôi mẹ, chân không bước đến chốn thị thành nữa. Theo

Vũ Khâm Lân, tác giả bài Bạch vân am cư sĩ phổ ký và theo An Quang Hầu,

người ghi chép thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thì Nguyễn Dữ không

ra làm quan, chỉ ở ẩn nơi thôn dã.

Nguyễn Dữ là một trong những người học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh

Khiêm, ông sống vào khoảng các triều vua Uy Mạc, Tương Dực, Chiêu Tông,

Cung hoàng tức là thời kỳ suy đời của nhà Lê. Chịu ảnh hưởng của thầy học,

ông chán ghét đời sống quan trường điên đảo, bỏ đi ẩn và ca tụng cảnh nhàn

tản. Cho đến nay, chúng ta chưa có đù tài liệu để hiểu rõ về thân thế của

Nguyên Dữ, nhưng qua tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, chúng ta cũng có thể

hiểu được phần nào tâm trạng của ông, vì thật ra tâm trạng của ông cũng là

tâm trạng chung của sĩ phu thời bấy giờ, tỏ ra chán ghét cảnh thối nát quan

trường thời Mạc. Cái lẽ “xuất xử”, lẽ “đạt cùng” mà tác giả nói đến trong một

số truyện ở đây cũng nằm trong khuôn khổ ý thức hệ Khổng giáo. Nguyễn Dữ

là một người có tài mà lại chủ trương xử thế, tất nhiên phải có lý do? Không

biết trong một số truyện như truyện “Đối đáp của người tiểu phu núi Nưa” hay

truyện “Bữa tiệc đêm ở Đà giang” Nguyễn Dữ có mượn việc đả kích họ Hồ

mà ám chỉ nhà Mạc không? Ngay như trong truyện đầu sách: “Câu truyện ở

đền Hạng Vương”, chúng ta cũng hiểu được là tác giả muốn mượn lời quan

thừa chỉ Hồ Tôn Thốc trong việc phê phán Hạng Vũ để ám chỉ những kẻ dựa

vào bạo lực mà lộng quyền.

Hồ Tôn Thốc trả lời Hạng Vương:

“Phàm xoay cái thế thiên hạ, ở trí chứ không phải ở sức; thu tấm lòng

thiên hạ, ở nhân chứ không phải ở bạo. Nhà vua chỉ lấy quát thét làm oai, lấy

cương cường làm đức… Cứ những việc của nhà vua làm thì được lòng

người chăng? hay mất lòng người chăng?”.

Nguyễn Dữ để cho Hạng vương nói chuyện với Hồ tiên sinh và cuối

cùng thì Hạng vưong đi đến chỗ bí và tác giả miêu tả như sau: “Hạng vương

nghẹn lời không biết nói ra sao, sắc mặt tái như tro nguội”.

Page 191: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Sự việc trên đây làm cho chúng ta nghĩ ngay đến việc Mạc Đăng Dung

đã dùng bạo lực để hãm hại không biết bao nhiêu người hiền tài tỏ ra không

thần phục nhà Mạc.

Đương nhiên trong hoàn cảnh xã hội rối ren ấy, không phải không có

những kẻ “thừa bão bẻ măng” hay “tát nước theo mưa”. Trong truyện “Phạm

Tử Hư lên chơi Thiên tào”, Nguyễn Dữ đã để cho thầy trò Dương Trạm đả

kích những kẻ cơ hội, bọn xu thời “mặc áo nhà nho, đeo đai nhà nho” mà lại

khom lưng uốn gối “đổi họ để đi học”, thay tên để ra thi.

Sống trong xã hội của thế kỷ XVI, dưới bạo lực của họ Mạc, Nguyễn

Dữ đã tìm đến con đường ẩn dật, phải chăng tâm sự của ông là tâm sư của

lão tiều phu trong truyện “Đối đáp của người tiều phu ở núi Nưa”? Lão tiều

thường hát với những câu:

“Nhậm tha triển thị

Nhậm tha xa mã

Chỉ trần bất đáo thử giang san…”.

(Ngựa xe võng lọng thây ai,

Nước non riêng chiếm bụi đời khôn vương).

“Toán vãng cổ lai kim khanh tướng

Thạch triện đài man

Tranh như ngã điệu đầu nhất giác

Hồng nhật tam can…”.

(Từ xưa khanh tướng ngôi cao

Đá mờ rêu phủ đã bao nhiêu rồi

Sao bằng ta được thảnh thơi,

Giấc mai bừng tỉnh mặt trời lưng không)

Lão tiều đã thay tác giả nói với triều đình, nói với các sĩ phu cái chí coi

thường danh lợi của mình, cũng như cái quyết tâm lánh đục về trong của

Page 192: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

mình: “kẻ sĩ ai có chí nấy… Nếu lại còn tham cầu những coi ở ngoài phận

mình, len lỏi vào đường sĩ tiến chẳng những xấu hổ với các tiên hiền, lại còn

phụ bạc với vượn hạc ở trong núi nữa…”.

Không bằng lòng với cuộc sống đương thời, Nguyễn Dữ đã ít nhiều nói

lên được cái thối nát của xã hội thế kỷ XVI qua những câu truyện kể trong tác

phẩm của mình.

Truyền kỳ mạn lục là một tập gồm hai mươi truyện ngắn viết theo lối tản

văn thỉnh thoảng có xen những bài thơ ca, từ khúc. Trừ một truyện đời Lý

(Truyện gã Chử đồng giáng sinh), còn lại là các truyện đời Trần, Lê và phần

lớn là những truyện được lưu hành trong dân gian thời bấy giờ, được tác giả

ghi lại bằng chữ Hán. Có những truyện cổ tích khá quen thuộc như truyện Từ

Thức lấy vợ tiên, truyện người con gái Nam xương, là những truyện mà ngày

nay vẫn còn được nhắc tới.

Đúng như tên sách đã nói, đây là những “truyền kỳ”; hầu hết những

truyện kể ở đây đều mang yếu tố huyền diệu hoặc quái đãn, thí dụ có loại

truyện quan ôn (Tướng Dạ xoa) có loại truyện ma quỉ (truyện cây gạo), có loại

truyện thần kỳ (Người nghĩa phụ Khoái châu) v.v…

Cũng như các truyện trong “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh, các

truyện trong “Truyền kỳ mạn lục”, tuy nói truyện ma quỉ thần tiên, nhưng thật

ra chỉ là mượn việc ma quỉ thần tiên để nói việc người, do đó, trong khuôn

khổ và hạn chế của thời đại, Truyền kỳ mạn lục đã có những yếu tố tả thực

khá sâu sắc. Ý đó đã được người viết lời bình nói rõ sau truyện “Từ Thức lấy

vợ tiên”:

“Than ôi! Nói truyện quái sợ loạn luân thường, cho nên thánh hiền

không nói. Nhưng việc Từ Thức lấy vợ tiên, cho là thực không ư? Chưa hẳn

là không; cho là thực có ư? Chưa hẳn là có. Có không lờ mờ, câu truyện tựa

hồ quái đản. Nhưng có âm đức thì tất có dương báo, cũng là lẽ thường.

Những bậc quân tử sau này khi để mắt đến sẽ liệu mà thêm bớt, bỏ chỗ quái

đản mà để chỗ thường thì phỏng có gì là hại? Ở đây, chúng ta gạt đi cái

thuyết luân hồi, quả báo, cái thuyết “không thị sắc, sắc thị không” của nhà

Page 193: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Phật chúng ta thấy người viết lời bình đã nói đúng ở chỗ: có một nội dung

hiện thực qua một hình thức quái đản.

Theo Vũ Khâm Lân và An Quang Hầu thì Truyền kỳ mạn lục được

Nguyễn Bỉnh Khiêm bổ chính và cũng ở đời Mạc, sách này được Nguyễn Thế

Nghi, tước Đại hưng hầu, người làng Mộ trạch, diễn ra quốc âm. Như vậy,

ngay từ thời xưa, Truyền kỳ mạn lục cũng đã được nhiều người ưa thích.

Người ta đọc được ở đây không phải chỉ cái bóng ma mơ hồ diệu kỳ, mà

chính là bộ mặt thối nát của xã hội đương thời.

Nhân dân lương thiện sống đau khổ dưới ách thống trị của vua quan

bạo tàn và cường hào ác bá. Lão tiều phu trong truyện “Người tiều phu ở núi

Nưa” đã nói thẳng vào mặt vua quan: “Ta tuy chân không bước đến thị thành,

mình không vào đến cung đình, nhưng vẫn thường được nghe tiếng ông vua

bấy giờ là người thế nào. Ông thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết

sức dân để dựng cung Kim âu, dốc cạn của kho để mở phố Hoa nhai, phao

phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn,

hình ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ đáng lời

ngay thì phải giết, kẻ nói điều nịnh thì được thưởng, lòng dân lay động… Vậy

mà kẻ đình thần trên dưới hùa theo, trước sau nối vết”. Trong truyện: “Bữa

tiệc đêm ở Đà giang”, tác giả mượn lời con vượn và con cáo để chỉ trích thói

xa hoa của Trần Phế đế. Con cáo nói rõ ý đồ với Hồ Quý Ly: “Đương mùa hạ

mà giở những công việc khổ dân, không phải thời, giày trên lúa để thỏa cái

ham thích săn bắn không phải chỗ; quanh đầm mà vây, bọc núi mà đốt không

phải lẽ, ngài sao không tâu với thánh minh, tạm quay xa giá, để khiến người

và vật được bình yên?”.

Truyện Lý tướng quân nói lên tội ác của những kẻ lợi dụng thời thế,

dựa vào binh quyền, vũ lực mà hà hiếp nhân dân: “Quyền vị đã cao, Lý bèn

làm những việc trái phép, dựa vào lũ trộm cướp như lòng ruột, coi người nho

sĩ như cừu thù, thích sắc đẹp, ham tiền tài, tham lam không chán, lại tậu

ruộng vườn, dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn đuổi xóm

giềng cho rộng đất, đi kiếm những hoa kỳ đá lạ từ bên huyện khác đem về.

Page 194: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Người trong vùng phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về thì vợ

đổi, ai nấy đều vai sưng tay rách, rất là khổ sở nhưng hắn vẫn điềm nhiên

không chút động tâm”. Ngoài ra, các truyện như truyện Nàng Túy Tiêu hay

truyện Đối tụng ở Long cung đều bóc trần cái dã tâm cướp vợ người khác của

bọn quan lại quyền thế. Nàng Túy Tiêu chỉ vì có chút nhan sắc mà bị viên

quan trụ quốc họ Thân bắt cóc khiến cho nàng phải xa lìa người yêu. Việc này

xảy ra giữa ngôi chùa lớn ở kinh đô nhân ngày đầu năm: “Gặp ngày mồng

một đầu năm, Túy Tiêu rủ mấy người bạn gái đến chùa tháp Báo thiên dâng

hương lễ Phật. Bấy giờ có quan Trụ quốc họ Thân, nhân đi chơi phố, trông

thấy Túy Tiêu đẹp, bắt cướp đem về làm của mình. Sinh làm đơn kiện tận

triều đình, nhưng vì họ Thân uy thế rất lớn, các tòa các sở đều tránh kẻ quyền

hào, gác bút không dám xét xử”. Bộ mặt dâm dục của thần thuồng luồng trong

truyện Đối tụng ở Long cung chính là bộ mặt của bọn quan lại gian ác dưới

chế độ phong kiến. Trong truyện này, Dương thị nhờ được chồng làm Thái

thú có quyền thế, nên kiện đến vua, rồi được giải thoát. Đấy là Dương thị, vợ

một viên quan lớn, chứ biết bao nhiêu cô gái thường dân gặp cảnh éo le như

vậy, thì đời chỉ nát tan như bèo bọt.

Trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ chẳng những vạch bộ mặt thối

nát của triều đình quan lại, mà còn đả kích kịch liệt tính chất giả dối của

những kẻ trốn việc ở chùa, của những tên sư hổ mang. Chúng ta biết rằng

đạo Phật từ đời Trần trở đi đã bị các nho sĩ phê phán. Ý đó cũng được chứng

minh ở đây một cách gián tiếp qua một số truyện như “Nghiệp oan của Đào

thị”, “Ngôi chùa hoang ở Đông triều”… Chúng ta hãy theo dõi hành vi của sư

bác Vô kỷ trong chuyện Nghiệp oan của Đào thị. Người con hát Hàn Than

không may lở bước đến xin trụ trì. Vô kỷ vồn vã; Hãn Than thì nết cũ lả lơi

chưa từ, thường “mỗi lúc ở nhà dưới đi lên, mặc áo lụa, mang quần là, điểm

môi son tô má phấn”. Thế là hai người sống gần nhau: “cõi dục đã gần, máy

thiền dễ chạm, bèn cùng nhau tư thông”. Hai người đã yêu nhau, mê đắm say

sưa, chẳng khác nào con bướm gặp xuân “trận mưa cửu hạn, chẳng còn để ý

gì đến kinh kệ nữa”. Nhân hai bên cũng hay thơ, thường ngày cùng nhau

ngâm họa, nào là tả trăng núi, gió núi, nào là tả chim núi, hoa núi… Được ít

Page 195: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

lâu, Hàn Than có chửa, rồi “quằn quại chết trên giường cữ”. Vô kỷ xót thương

nàng vô hạn, quàn nàng ở dưới mái hành lang phía tây, sớm tối vỗ vào áo

quan mà khóc thảm thiết. Đương nhiên, ở đây chúng ta chưa bàn đến tình

cảm của con người, dù con người đó là nhà sư, chúng ta chỉ muốn nói đến

những người giả dối nấp dưới mái chùa, làm việc không chính đáng, mà

không có gan đi tìm một cuộc sống trung thực. Trong xã hội cũ, hạng người

như vậy không phải là ít. Qua truyện ngôi chùa hoang ở Đông triều là một thí

dụ: ở đây, qua việc đả kích hai pho tượng hộ pháp và tượng miếu thủy thần,

tác giả muốn nói đến một bọn vô lại trốn việc ở chùa, chuyên trộm cắp từ gà

lợn ngỗng, ngan cho đến cá dưới ao, mía trong vườn.

Cử chỉ của chúng thật là đê tiện: “…Khoắng xuống một cái ao, rồi bất

cứ vớ được cá lớn, cả nhỏ, đều bỏ vào mồm mà nhai nuốt hết” hoặc là: “…

dắt nhau lên vào vườn mía nhổ trộm mà tước, mà hít…”. Tất nhiên, nhân dân

không ngần ngại gì mà không phá đổ hai pho tượng hộ pháp xiêu vẹo trong

chùa, trên lưng mỗi tượng đều có một phát tên cắm vào rất sâu, hay tượng

miếu thủy thần mà “mấy cái vẩy cá hãy còn dính lèm nhèm trên mép…”.

Khi tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, Nguyễn Dữ cũng đã ít nhiều nói

lên được đời sống cơ cực của nhân dân, đặc biệt, tác giả đã chú ý đến đời

sống tình cảm của những con người nhỏ bẻ. Sống trong xã hội loạn ly như xã

hội thời Lê Mạc, thân phận con người, nhất là người phụ nữ bình dân quả

thật đến điêu đứng! Trong truyện “Lệ nương”, đôi trẻ đã hứa hôn mà không

lấy được nhau, người vợ chưa cưới bị bắt hiếp đi theo giặc, rồi bị chúng giết.

Trong truyện “Người con gái ở Nam xương”, Vũ Thị Thiết tiễn chồng đi chinh

chiến, đã bộc lộ một tâm tình thành khẩn và tội nghiệp: “Lang quân đi chuyến

này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn hầu trở về quê cũ, chỉ xin ngày về,

mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi, chỉ e việc quân khó liệu, thế

giặc khôn lường - Ngày tháng lữa lần, tin hơi xa cách”.

Thời này, kiếp phụ nữ nếu không bị đày đọa vì cái khổ loạn ly thì cũng

thường bị điêu đứng dưới thế lực cường quyền hay dưới thế lực đồng tiền.

Đồng tiền ở thế kỷ XVI đã lăn tròn trên khắp nẻo đường của kẻ chợ đồng quê

Page 196: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

– Trong truyện “Người nghĩa phụ Khoái châu”, Nhị khanh người vợ xinh đẹp

của Trọng Quỳ bị gạt cho một tên phú thương Đỗ Tam chỉ vì chồng nàng đã

thua một canh tứ sắc! Trong truyện “Yêu quái ở Xương giang”, một gã phú

thương khác bỏ tiền ra mua một em gái nhỏ có sắc đẹp và sau tư thông với

em đó một cách trái phép!

Đọc Truyền kỳ mạn lục, chúng ta cũng có thể đọc được bộ mặt xã hội

thời xưa qua nhiều khía cạnh. Giá trị Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ ở chỗ

đã tố cáo được bề mặt xã hội thời đó mà còn ở chỗ đã bước đầu phê phán

những ràng buộc của xã hội phong kiến đối với người phụ nữ.

Nguyễn Dữ viết Truyền kỳ mạn lục bằng nhiều truyện ngắn khác nhau,

nhưng vẫn dựa vào một chủ đề chung: ca tụng chí khí thanh cao của nhà

nho, đề cao đạo đức phong kiến, vạch ra những cái sai trái, xấu xa của xã

hội, nhằm mục đích cổ võ thuần phong mỹ tục. Ý của tác giả được trình bày

rõ qua việc thưởng phạt trong phần kết thúc từng truyện: những người tốt

theo khuôn khổ đạo đức phong kiến thì được thưởng, trái lại thì bị trừng phạt.

Theo lời dạy của thánh hiền, Nguyễn Dữ không tán thành tự do luyến ái, chỉ

ca tụng những người tiết nghĩa như nàng Túy Tiêu, Người con gái ở Nam

xương, Người nghĩa phụ Khoái châu v.v… Tuy nhiên, tình cảm của tác giả có

khi mâu thuẫn với lý trí của mình, do đó ngay trong một truyện, ngòi bút của

tác giả có khi mâu thuẫn với chủ ý của mình. Thí dụ trong truyện “Nghiệp oan

của Đào thị”, cứ theo người viết lời bình thì “gã Vô kỷ kia, là một kẻ gian dâm,

buông thói tà dục, chẳng những dối người lại còn dối vị Phật của hắn thờ

nữa. Giá đem xử vào cái tội như vua Ngụy giết bọn Sa môn ngàyxưa thì hắn

cũng không oan chút nào. “Nhưng trong truyện thì Nguyễn Dữ miêu tả công

việc của Vô kỷ một cách khá khách quan, không hề kết án một cách khắc

nghiệt. Chẳng những thế, Nguyễn Dữ lại tỏ ra phục tài thơ văn và trí thông

minh của Đào thị, thông cảm với cảnh tình của Đào thị, thông cảm cả với mối

tình giữa Đào thị và Vô kỷ. Những bài thơ mà tác giả làm thay cho lứa đôi khi

vịnh cảnh trong núi đã nói lên mối đồng cảm đó. Tư tưởng trong bài Chùa núi

Page 197: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

là tư tưởng một người tay cầm kinh Phật, nhưng lòng vẫn hướng về mối tình

chân thực của khách trần:

“Âm thanh ẩn dưới bóng tà

Thông cao hát gió, quế già phun hương

Chim rừng ríu rít kêu vang

Khách trần ai có mơ màng chăng ai?”

Với bản chất phóng khoáng của mình, với ý thức khách quan với hiện

thực, Nguyễn Dữ đã để cho các nhân vật bộc lộ tâm tình một cách say sưa.

Ngòi bút của tác giả nhiều chỗ tỏ ra bay bướm, uyển chuyển và hả hê. Quả

vậy, tác giả đã thâm nhập nhân vật, say sưa với nhân vật, sống với nhân vật.

Đó là chỗ mâu thuẫn trong tư tưởng của tác giả và cũng là mâu thuẫn giữa tư

tưởng chủ quan của tác giả với nhân tố khách quan của tác phẩm–Trong xã

hội thế kỷ XVI ở ta, khuôn khổ lễ giáo phong kiến đã bắt đầu rạn vỡ, quan hệ

nam nữ luyến ái đã có phần nào phóng khoáng. Tính chất này thể hiện khá

đậm nét trong Truyền kỳ mạn lục. Có những cặp trai gái giao thiệp với nhau

tự do và công nhiên hẹn hò thề thốt, rồi yêu nhau. Trinh Trung Ngộ trong

truyện Cây gạo, gặp Nhị khanh trên cầu Liễu khê giữa khoảng “đêm khuya

người vắng” có tiếng hồ cầm réo rắt du đương. Hai người cùng nhau bộc

bạch tâm tình, yêu nhau tha thiết, và sau cuộc gặp nhau, Nhị khanh có làm

hai bài thơ để ghi lại cuộc hoan lạc trong đó có câu nói lên tình cảm khá yếu

ớt:

“Mộng tàn gối bướm bâng khuâng lạc,

Xuân hết cành quyên khắc khoải kêu.

Động huyệt chưa tròn nguyền ước ấy,

Vì nhau một thác sẵn xin liều!”.

Đến anh Hà Nhân, học trò của Nguyễn Trãi, trong truyện “Kỳ ngộ ở trại

tây” cũng vậy. Hà lên kinh sư đi học, nhưng lại say mê hai cô Nhu nương và

Hồng nương đến nỗi lơ là với sách vở. Khi gia đình gọi về lo việc hôn nhân,

Page 198: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

thì Hà tìm cách dối trá để kéo dài cuộc tình duyên vụng trộm đó. Trong cuộc

tiếp xúc với Hà, hai cô đã tỏ ra mạnh dạn, không còn e lệ rụt rè như những cô

gái phòng khuê theo khuôn khổ lễ giáo phong kiến. Mối tình trở nên đằm

thẳm, hai cô theo Hà về nhà trọ, và lả lơi cợt ghẹo, hai cô vờ thẹn thò nói

rằng: “Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn phong, chỉ e mưa gió

nặng nề…”. Ba người sống với nhau, cùng nhau xướng họa. Khi tiễn Hà về

quê, hai cô tặng mỗi người một bài ca cho người yêu, lời thơ tuy có ủy mị,

nhưng đã nói lên mối tình thắm thiết trong chế độ cũ, vốn khắc nghiệt vời trai

gái:

…”Bến Nam cỏ áy bóng tà,

Vườn Tây một rặng mai già khóc mưa,

Cỏ cây rầu rĩ tiêu sơ,

Chàng về thiếp luống ngẩn ngơ tâm hồn.

Vì chàng hát khúc nỉ non,

Biệt lỵ để nặng đau buồn vì ai…”

(Bài ca của Nhu nương)

Qua Truyền kỳ mạn lục, chúng ta thấy tác giả đã ghi lại những mối tình

bằng lời văn thơ mộng: trai gái ở đây đã có xu hướng tự do hôn nhân. Trừ

phần yếu đuối của họ về tình cảm mà ngày nay chúng ta vẫn nghiêm khắc

phê phán, những lứa đôi thời đó đã vươn lên chống đối những ràng buộc bất

công của chế độ phong kiến đối với họ về quan hệ hôn nhân.

Truyền kỳ mạn lục là một tập văn hay, cái hay ở đây không riêng về

mặt nội dung phong phú, chi tiết sinh động, nhưng cái hay ở đây còn ở nghệ

thuật xây dựng nhân vật, phân tích tâm lý, phô diễn ngôn ngữ. Rất tiếc là tập

truyện viết bằng chữ Hán, nên khi nói về mặt này, chúng ta gặp những khó

khăn và hạn chỗ không tránh được. Chúng ta hãy lấy một vài thí dụ.

Cũng là những người bắt gặp mối tình thơ mộng, Trình Trung Ngộ

không giấu được bản chất lái buôn của mình trước mặt người yêu, khác hẳn

Page 199: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

với Từ Thức lại tỏ ra là một nhà nho có kiến thức, biết tư duy, làm cho người

yêu phải khâm phục. Sau cuộc tình tự, Nhị Khanh làm thơ lưu niệm, nhưng

khốn nỗi “Trình vốn là lái buôn, biết ít chữ nghĩa, nàng giải nghĩa rõ ràng cho

hiểu”. Sau khi nghe giảng hiểu nghĩa, Trình vừa cất miệng khen cho đỡ

ngượng, Nhị Khanh tạt ngay và chuyển sang cái triết lý hưởng lạc thông tục:

“Người ta sinh ở đời cốt được thỏa chí, chứ văn chương thời có làm gì”. Câu

chuyện ở đây mở đầu thì êm dịu mơ màng, kết thúc thì khủng khiếp rùng rợn:

Nhị Khanh chỉ khai thác ở anh lái buôn họ Trình cái phần thể xác, mà mãi sau

mới biết được tung tích Nhị khanh, một giống yêu tinh cây gạo. Hú vía cho

đời anh! Đây là ấn tượng cuối cùng của câu truyện tình giữa quỷ với lái buôn.

Hình ảnh Từ Thức thì khác hẳn, Từ vốn tính hay rượu, thích đàn, ham thơ,

mến cảnh; chán cảnh làm quan, bị quan trên quở trách, Từ than rằng: “Ta

không thể vì số lượng năm đấu gạo đó mà buộc mình trong áng lợi danh”. Từ

muốn tỏ ra một người có khí tiết như Đào Tiềm. Trong đêm giao hoan, Từ có

đề cập đến quan niệm sống của quần tiên và hỏi người yêu:

“… Sống trong cảnh quạnh quẽ cô liêu, đó là vì lòng dục không nẩy

sinh, hay là cũng có, nhưng phải gượng đè nén?”.

Nàng tiên đổi sắc mặt và phải thanh minh là bàn thân mình bảy tình

chưa sạch, trầm cảnh dễ sinh, hình ở phú tia nhưng lụy vướng duyên trần,

thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi dục…”. Thế rồi đôi lứa tỏ ra thông cảm và

cùng nhau xướng họa văn thơ. Câu chuyện ở đây diễn ra thơ mộng từ đầu

chí cuối và ấn tượng cuối cùng của Từ Thức vẫn là ấn tượng về một nàng

tiên xinh đẹp, chứ không phải con quỉ cây gạo thối tha như ở câu chuyện họ

Trình với Nhị khanh.

Qua hai thí dụ trên, chúng ta thấy rằng Nguyễn Dữ tuy là một nhà văn

phong kiến, lại phải kể những truyện có tính chất dân gian, nhưng cũng đã

chú ý dựa vào tâm lý từng nhân vật để xây dựng hình tượng phô diễn ngôn

ngữ cho thích hợp với cảnh tình từng truyện. Tác giả đã khéo sử dụng những

hình tượng thầnn tiên quái đản để diễn đạt tư tưởng tình cảm của con người

một cách kín đáo và tế nhị. Ma quỉ và thần tiên ở đây chỉ là cái bóng, còn cái

Page 200: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

hình chính là con người bằng xương bằng thịt nói chung dưới chế độ phong

kiến và nói riêng là của thế kỷ XVI. Hình thức hoang đường chỉ là một

phương tiện nghệ thuật dùng để biểu hiện một nội dung tả thực nhằm phê

phán xã hội thời bấy giờ.

Cũng như thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Dữ là một nhà nho

có khí tiết sống giữa thời loạn lạc; ông hiểu rõ lẽ xuất xử, hành tàng và tuy rút

lui đi ở ẩn, nhưng lòng ông vẫn lo nghĩ về cuộc đời. Chán ghét cái thối nát

của quan trường, ông mượn văn chương để vạch trần những xấu xa, những

tội ác của giai cấp thống trị, tố cáo những thói tệ đương thời và đồng thời

cũng nói lên được một phần nỗi đau đớn xót xa của những con người bình

thường, đặc biệt là phụ nữ. Với những quan sát và nhận xét có suy nghĩ, với

lối kết cấu sinh động, với lời văn uyển chuyển, biến đổi theo nhiều thể như thi

ca, từ khúc, biển ngẫu… Nguyễn Dữ đã viết được một tập văn hay, một tập

“thiên cổ kỳ bút” đúng như Vũ Khâm Lân đã nhận định Nguyễn Dữ chỉ để lại

có một tác phẩm, nhưng là một tác phẩm có giá trị, có thể nói là một tác phẩm

xuất sắc, dẫn đầu trong loại văn truyền kỳ trong văn học cổ Việt nam.

TÔNG KẾT PHẦN VĂN HỌC VIẾT TỪ TRƯỚC CHO ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XVIII

Trong văn học dân tộc Việt nam thời xưa, bên cạnh dòng văn học dân

gian, từ khoảng thời Bắc thuộc, khi chữ Hán đã ít nhiều có một cơ sở nào đó,

thì chớm nở một nền văn học viết bằng chữ Hán.

Thời Đinh, Tiền Lê, chúng ta chỉ mới thấy rải rác có đôi bài thơ của tăng

lữ, đến thời Lý, Trần thì thơ văn đã phát triển ở nhiều mặt. Các tác giả đời Lý

hầu hết là những nhà sư, cho nên nội dung thơ ca cũng nặng về tư tưởng

Phật giáo. Đến đời Trần, tương quan giữa Phật giáo và Khổng giáo đã có

chiều thay đổi, nhiều nhà nho đã lên tiếng công kích Phật giáo, do đó trong sử

sách và văn học viết, đã có màu sắc bút chiến, phải chờ đến thời Hồ Quý Ly

mới thật sự có những cuộc bút chiến giữa phái cũ và phái mới.

Nói chung, văn học Lý, Trần phản ánh khá trung thành với từng thời đại

lịch sử của dân tộc, nói lên được những chặng đường hưng vong của triều

Page 201: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

đại. Có những bài thơ, bài văn nói lên tính chiến đấu và chí quật cường của

dân lộc ta như bài thơ của Lý Thường Kiệt, bài hịch của Trần Quốc Tuấn…

nhưng cũng có những bài thơ phản ánh sự bất mãn cuộc đời như bài Phong

cuồng ca của Trần Quốc Tảng hay nói lên nỗi cảm thán thời thế như thơ của

Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh… Trong thơ văn Lý Trần, không phải

chỉ có những tình cảm cao quý có quan hệ đến vận mệnh dân tộc, nhưng

cũng có những tình cảm bình thường của cuộc sống bình thường.

Có thể nói, từ thời Lý Trần, chúng ta thực sự có một nền văn học viết

và nền văn học viết đó không phải chỉ viết bằng chữ Hán mà còn viết bằng

chữ Nôm, là một thứ chữ phiên âm tiếng Việt. Hai dòng Hán, Nôm song song

phát triển, càng ngày càng được nâng cao.

Đến thế kỷ XV, khi mà chế độ phong kiến ở nước ta bước lên đỉnh cao

của nó, thì nền văn học viết của ta cũng bước đầu có nhiều màu sắc. Văn học

nửa đầu thế kỷ XV là văn học có tính chất kháng chiến. Không cần phải nhắc

đến tập “Quân trung từ mệnh” do Nguyễn Trãi thảo trong kháng chiến hay bài

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi làm sau khi hòa bình lập lại là những áng

văn đã quá quen thuộc, chúng ta có thể kể đến những bài phú nổi tiếng của

Nguyên Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du v.v… là những bài đọc lên

tưởng chừng còn sang sảng âm vang của cuộc kháng Minh oanh liệt. Đó là

những bài Chí linh sơn phú, Xương giang phú, Nghĩa kỳ phú, Tay giáp binh

phú.

Tính chất văn học nửa sau thế kỷ XV lại có chỗ khác biệt. Đã khá lâu,

chế độ phong kiến nước ta bước vào thời kì ổn định, nhân dân ta sống trong

khung cảnh tương đối thanh bình; do đó văn học thời này, đặc biệt dưới triều

Hồng đức; thường ca ngợi cảnh thịnh trị của đất nước, gắn liền với việc ca

ngợi nhà vua. Ngoài tính chất thù phụng đó, văn học nửa sau thế kỷ, cũng

như văn học nửa truớc, còn được phát triển ở nhiều mặt dưới nhiều hình thức

tả cảnh, tả tình, tự sự, vịnh sử… Có thể nói ở thế kỷ này đã có những chuyên

đề về thơ, thí dụ như tập thơ Thoát hiên của Đặng Minh Khiêm chuyên vịnh

các nhân vật trong lịch sử nước nhà hay lập thơ Minh lương cẩm tú là một tập

Page 202: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

thơ xướng họa của Lê Thánh Tông và hội Tao đàn, chuyên vịnh các cửa biển

nổi tiếng thời bấy giờ của nước nhà.

Trong thơ ca đời Lý Trần, dù ít nhiều có tính chất tự tình, đương nhiên

màu sắc cá nhân chỉ mới bàng bạc mà thôi. Trong thơ ca thế kỷ XV, các tác

giả bước đầu đã dám nói đến cái ta và cũng chỉ là “cái ta mơ hồ” chứ chưa

phải là “cái tôi đậm nét”. Đặc biệt một số nhà thơ đã dám nói đến tình yêu lứa

đôi nhưng cũng chỉ mới dám nói đến tình yêu lứa đôi qua một số nhân vật

Bắc sử như Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi, Hạng Vũ và Ngu Cơ,

Chiêu quân cống Hồ hay qua một vài mẩu truyện cổ như Ngưu lang Chức nữ,

Lưu Nguyễn nhập thiên thai… Rải rác, một vài người như Nguyễn Húc, Lê

Thánh Tông, Thái Thuận… đã nói đến tình vợ chồng của người bình thường:

vợ một nho sĩ, vợ một người lính. Tuy nhiên, loại thơ này hiếm lắm. Ngày nay,

có được một truyện thơ như truyện Hương miết hành (Chiếc giày thơm) kể

cũng thật là quý.

Khi nói đến tình người, các tác giả thế kỷ XV đã ít nhiều chú ý đến đời

sống dân gian. Nói chung, nền văn học viết của chúng ta chịu ảnh hưởng ý

thức hệ Nho, Phật, Lão khá sâu sắc; hầu hết các tác giả thuộc tầng lớp trên

trong xã hội hoặc gần gũi với tầng lớp trên đó, cho nên tâm tư của họ còn

mang nặng ý thức hệ giai cấp thống trị. Tuy nhiên, một mặt trải qua cuộc

kháng chiến chống ngoại xâm, một mặt khác nhịp với chiều hướng tiến lên

của lịch sử dân tộc, các tác giả không thể không chú ý đếu người nông dân,

một lực lượng quan trọng của nước nhà. Đọc qua từ Bình Ngô đại cáo của

Nguyễn Trãi, đến Chí linh sơn phú của Nguyễn Mộng Tuân, Hồng đức quốc

âm thi tập của hội Tao đàn…, chúng ta sẽ không ngạc nhiên thấy thấp thoáng

đây đó đã có bóng người dân, bóng những kẻ cấy cày.

Văn học thế kỷ XV không những chỉ phát triển ở địa hạt sáng tác, mà

còn tỏa ra ở các mặt sưu tầm, chỉnh lý, bình luận. Các bộ hợp tuyển thơ phú,

các bộ truyện cổ… chẳng những đã góp phần vào việc phát triển văn học, mà

còn góp phần vào việc biên soạn sử ký. Đặc biệt Lê Thánh Tông và hội Tao

đàn có sáng kiến đã gây một phong trào xướng họa thơ ca, khá sôi nổi một

Page 203: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

thời, tiếc rằng phong trào này chỉ mới ở địa hạt cung đình, mà chưa lan rộng

ra dân gian. Riêng thơ văn Nôm ở thế kỷ XV, so với mấy thế kỷ trước, đã có

một bước tiến quan trọng. Trải qua mười lăm thế kỷ, trong văn học ta, còn lại

được hai tập thơ nôm quý giá: Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và Hồng đức

quốc âm thi tập của hội Tao đàn.

MỤC LỤCChương mở đầu: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA NỀN VĂN HỌC

VIẾT DƯỚI THỜI PHONG KIẾN

Thời kỳ thứ nhất:

Giai đoạn 1:Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV. Văn học viết từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV

I. Hoàn cảnh lịch sử từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV

II. Tình hình chung của nền văn học viết thế kỷ XI đến XIV

III. Văn học đời Lý

IV. Văn học đời Trần, Hồ

Giai đoạn 2: Thế kỷ XV

Chương 1. Văn học viết thế kỷ XV

I. Hoàn cảnh lịch sử

II. Tình hình chung về văn học ở thế kỷ XV

Chương 2. Nguyễn Trãi (1380-1442)

I. Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Trãi

II. Nguyễn Trãi qua thơ văn của ông

Chương 3. Lê Thánh Tông (1442-1497) và hội Tao đàn.

Giai đoạn 3:Từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII

Page 204: LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/406.LichSuVanHocVietNam.docx  · Web viewĐó chỉ là di tích của tục thờ thần thiên nhiên thời ... Từ viễn

Chương 1. Văn học viết thế kỷ XVI, XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII

I. Hoàn cảnh lịch sử từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII

II. Tình hình văn học từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII

Chương 2. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585)

I. Thân thế Nguyễn Bỉnh Khiêm

II. Nội dung tư tưởng thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm

III. Nghệ thuật thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm

Chương 3. Nguyễn Dữ và Truyền kỳ mạn lục

---//---

LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM

Tập HaiVĂN HỌC VIẾT

Thời kỳ I: Các giai đoạn I, II và III

(In lần thứ năm, có sửa chữa)

(Sách dùng trong các trường Đại học và Cao đẳng sư phạm)

Tác giả: BÙI VĂN NGUYÊN

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC – NĂM 1978

81. Trần Hưng Đạo – Hà Nội