Upload
others
View
8
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
----------
ĐẶNG THỊ THANH NHÀN
NGHIÊN CỨU ĐIỀU CHẾ
MỘT SỐ VẬT LIỆU MỚI TỪ CHITOSAN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
HUẾ - NĂM 2020
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
----------
ĐẶNG THỊ THANH NHÀN
NGHIÊN CỨU ĐIỀU CHẾ
MỘT SỐ VẬT LIỆU MỚI TỪ CHITOSAN
Ngành : HÓA HỮU CƠ
Mã số : 9 44 01 14
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THANH ĐỊNH
TS. LÊ QUỐC THẮNG
HUẾ - NĂM 2020
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án này, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn
Thanh Định và TS. Lê Quốc Thắng, những người thầy đã tận tình hướng dẫn và hỗ
trợ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án này. Không những về kiến thức chuyên
môn, quý Thầy còn giúp tôi học cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề khoa học
cũng như những vấn đề liên quan khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn:
- Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
- Ban Giám hiệu trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
- Khoa Hóa học, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
- Khoa Hóa học, trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
- Phòng Đào tạo Sau Đại học, trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
đã hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập
và thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Trần Thị Văn Thi, PGS. TS. Nguyễn
Hải Phong, trường Đại học Khoa học, Đại học Huế đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ
tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu cũng như hoàn thành luận án này.
Tôi xin chân thành cám ơn quý thầy cô, bạn bè tại khoa Hóa học, trường Đại
học Sư phạm, Đại học Huế đã tận tình dạy dỗ, giúp đỡ, sát cánh bên tôi trong suốt
quá trình học tập, công tác và trong quá trình hoàn thành luận án này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cha mẹ, chồng và các con
cũng như người thân trong gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo mọi điều kiện
tốt nhất để tôi hoàn thành luận án này.
Tác giả luận án
Đặng Thị Thanh Nhàn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính bản thân tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, chính xác, được các đồng
tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận án
Đặng Thị Thanh Nhàn
i
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC ................................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU ............................................ iv
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ................................................................................. vii
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ ..................................................................................... xii
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................... xiii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. ĐẶT VẤN ĐỀ ..................................................................................................... 1
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ................................................................................ 3
3. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN ............................................................................. 3
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...................................................................... 4
1.1. VẬT LIỆU CHITOSAN, CHITOSAN TAN TRONG NƯỚC ........................ 4
1.1.1. Sơ lược về chitosan .................................................................................... 4
1.1.2. Chitosan tan trong nước ............................................................................. 6
1.2. VẬT LIỆU POLYMER DẪN POLYTHIOPHENE/CHITOSAN ................. 11
1.2.1. Polythiophene ........................................................................................... 11
1.2.2. Polythiophene/chitosan ............................................................................ 15
1.3. SƠ LƯỢC VỀ PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG CHẤT NỀN ĐỊNH HƯỚNG
CẤU TRÚC DỰA TRÊN POLYMER SINH HỌC .............................................. 18
1.4. SƠ LƯỢC VỀ VẬT LIỆU ANOT PIN LITI-ION DỰA TRÊN SPINEL
COBALT FERRITE .............................................................................................. 21
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................................................... 27
2.1. THỰC NGHIỆM ............................................................................................ 27
2.1.1. Hóa chất ................................................................................................... 27
2.1.2. Điều chế chitosan tan trong nước và một số vật liệu từ chitosan tan trong
nước .................................................................................................................... 28
ii
2.1.3. Tổng hợp polythiophene/chitosan và ứng dụng trong phân tích điện hóa32
2.1.4. Tổng hợp COFE2O4/Carbon và ứng dụng trong pin liti-ion .................... 36
2.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐẶC TRƯNG VẬT LIỆU ....................................... 37
2.2.1. Phổ hồng ngoại ......................................................................................... 37
2.2.2. Phương pháp nhiễu xạ tia X ..................................................................... 38
2.2.3. Phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ nitơ .............................. 38
2.2.4. Phương pháp hiển vi điện tử quét ............................................................ 39
2.2.5. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua .................................................. 40
2.2.6. Phân tích nhiệt trọng lượng ...................................................................... 40
2.2.7. Phổ tán xạ năng lượng tia X ..................................................................... 41
2.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH ĐIỆN HÓA ........................................ 41
2.3.1. Phương pháp von – ampe vòng ................................................................ 41
2.3.2. Phương pháp von-ampe hòa tan anot xung vi phân ................................. 42
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................................. 43
3.1. ĐIỀU CHẾ VÀ ĐẶC TRƯNG CÁC VẬT LIỆU TỪ CHITOSAN TAN
TRONG NƯỚC ..................................................................................................... 43
3.1.1. Điều chế, đặc trưng chitosan và chitosan tan trong nước ........................ 43
3.1.2. Điều chế hydrogel chitosan ...................................................................... 52
3.1.3. Điều chế và đặc trưng aerogel WSC-glyoxal ........................................... 52
3.1.4. Điều chế và đặc trưng vi cầu chitosan ..................................................... 59
3.1.5. Điều chế và đặc trưng màng chitosan ...................................................... 61
3.2. TỔNG HỢP POLYTHIOPHENE/CHITOSAN VÀ ỨNG DỤNG TRONG
PHÂN TÍCH ĐIỆN HÓA ...................................................................................... 64
3.2.1. Kết quả khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp vật liệu
polythiophene/chitosan ...................................................................................... 65
3.2.2. Một số đặc trưng vật liệu polythiophene/chitosan ................................... 73
3.2.3. Đánh giá ứng dụng biến tính điện cực than thủy tinh để phát hiện đồng
thời axit uric, xanthin, hypoxanthin và cafein .................................................... 78
3.3. TỔNG HỢP NANOCOMPOSITE CoFe2O4/CARBON VÀ ỨNG DỤNG
LÀM ANOT PIN LITI - ION ................................................................................ 95
iii
3.3.1. Tổng hợp và đặc trưng vật liệu CoFe2O4/chitosan ................................... 95
3.3.2. Tổng hợp và đặc trưng vật liệu CoFe2O4/Carbon .................................... 99
3.3.3. Đánh giá khả năng ứng dụng vật liệu CoFe2O4/Carbon làm anot trong pin
Liti-ion .............................................................................................................. 104
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 112
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .............. 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 117
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
Các chữ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
ASV Anodic Stripping
Voltammetry
Von-ampe hòa tan anot
BET Brunauer-Emmett-Teller
BRB Britton–Robinson buffer Đệm Britton–Robinson
CA Caffeine Cafein
CE Counter Electrode Điện cực phụ trợ
CFO CoFe2O4
CFO/C CoFe2O4/carbon
CFO/CTS CoFe2O4/chitosan
CNT Carbon nanotube Carbon nano ống
CMCS carboxymethyl chitosan
derivatives
Dẫn xuất carboxymethyl của
chitosan
CP Conducting polymer Polymer dẫn
cs cộng sự
CTS Chitosan Chitosan
CV Cyclic Voltammetry Phương pháp von-ampe vòng
DDA Degree of Deacetylation Độ deacetyl hóa
DNA Deoxyribonucleic acid Axit deoxyribonucleic
DP-ASV Differential Pulse Anodic
Stripping Voltammetry
Von-ampe hòa tan anot xung vi
phân
ĐKTN Điều kiện thí nghiệm
EDX Energy Dispersive X-ray
Spectroscopy
Phổ tán xạ năng lượng tia X
Ep Shipping Voltage Thế đỉnh hòa tan
GCE Glassy carbon electrode Điện cực than thủy tinh
v
Các chữ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
HX Hypoxanthine Hypoxanthin
Ip Shipping Current Dòng đỉnh hòa tan
IR Infrared spectroscopy Phổ hồng ngoại
LIB Lithium - ion battery Pin Liti-ion
LOD Limit of Detection Giới hạn phát hiện
LOQ Limit of Quantification Giới hạn định lượng
MQTB Mesoporous Mao quản trung bình
P3HT Poly(3-hexylthiophene) Poly(3-hexylthiophen)
PAn Polyaniline Polyanilin
PPy Polypyrrole Polypyrol
PTh Polythiophene Polythiophen
PAn-CTS Polyaniline - chitosan Polyanilin - chitosan
PPy-CTS Polypyrrole - chitosan Polypyrol - chitosan
PTh/CTS Polythiophene/chitosan Polythiophen - chitosan
PTh-CTS/GCE Điện cực than thủy tinh biến
tính bằng
polythiophene/chitosan
PTh-
CTS(act)/GCE
Điện cực than thủy tinh biến
tính bằng
polythiophene/chitosan được
hoạt hóa bằng điện hóa
RE Reference Electrode Điện cực so sánh
Rev Recovery Độ thu hồi
RSD Relative Standard Deviation Độ lệch chuẩn tương đối
SEI Solid Electrolyte Interphase Lớp điện ly rắn giao pha
SEM Scanning Electron
Microscopy
Phương pháp hiển vi điện tử
quét
TEM Transmission Electron
Microscopy
Phương pháp hiển vi điện tử
truyền qua
vi
Các chữ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
TGA Thermogravimetric analysis Phân tích nhiệt trọng lượng
TLTK Tài liệu tham khảo
UA Uric acid Axit uric
UV-Vis Ultraviolet - visible
spectroscopy
Phổ tử ngoại - khả kiến
VLĐHCT Template Vật liệu định hướng cấu trúc
WE Working Electrode Điện cực làm việc
WSC Water - soluble chitosan Chitosan tan trong nước
XA Xanthine Xanthin
XRD X-ray Diffraction Nhiễu xạ tia X
vii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Trang
Hình 1.1. Cấu trúc của (a) chitin trên lý thuyết (b) CTS trên lý thuyết và
(c) CTS trong thực tế với DDA > 50 % .................................................................. 4
Hình 1.2. Phản ứng N-acetyl hóa chitosan ................................................................................ 10
Hình 1.3. Cấu trúc (a) dạng cis và (b) dạng trans của PTh ........................................................ 12
Hình 1.4. Sơ đồ biểu diễn một số cấu trúc sai lệch của PTh ...................................................... 13
Hình 1.5. Cơ chế phản ứng polymer hóa oxy hóa tạo thành polythiophene
và dẫn xuất ................................................................................................................ 14
Hình 1.6. Cơ chế polymer hóa điện hóa tạo thành polythiophene ............................................. 15
Hình 1.7. Sơ đồ phản ứng điều chế polymer ghép PTh/CTS ..................................................... 16
Hình 1.8. Mô hình cấu tạo của pin LIB thông thường ............................................................... 21
Hình 1.9. Sơ đồ minh họa sự biến đổi hóa học của các hợp chất MaXb
trong phản ứng chuyển đổi ........................................................................................ 22
Hình 2.1. Vỏ cua (nấu chín) sau khi đã làm sạch, phơi và sấy khô 29
Hình 2.2. Vị trí quan sát bề mặt và mặt cắt trong ảnh SEM ..................................................... 39
Hình 3.1. (a) Chitin thu được từ vỏ cua (b) màng CTS điều chế từ chitin
(c) dung dịch WSC điều chế từ màng CTS (d) WSC rắn thu
được từ quá trình sấy đông khô chân không dung dịch WSC ................................... 43
Hình 3.2. Sơ đồ phản ứng điều chế WSC từ CTS bằng phản ứng N-acetyl
hóa ............................................................................................................................... 44
Hình 3.3. Phổ IR của CTS, WSC rắn ......................................................................................... 45
Hình 3.4. Giản đồ XRD của chitin, CTS và WSC rắn ............................................................... 47
Hình 3.5. Giản đồ TGA của CTS và WSC rắn trong không khí ................................................ 49
Hình 3.6. Ảnh SEM (a,b,c) mặt cắt, (d,e) bề mặt của màng CTS và (f)
mô hình biểu diễn cấu trúc lớp xoắn trái kiểu Bouligand của
màng CTS .................................................................................................................... 49
Hình 3.7. Ảnh SEM của tấm WSC rắn ở các độ phân giải khác nhau ....................................... 50
viii
Hình 3.8. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ nitơ của WSC rắn .................................... 51
Hình 3.9. Hydrogel CTS thu được khi kết tủa dung dịch WSC bằng
ethanol ........................................................................................................................ 52
Hình 3.10. (a) Hydrogel WSC-glyoxal (b) aerogel WSC-glyoxal thu được
sau khi sấy đông khô chân không hydrogel WSC-glyoxal và (c)
aerogel WSC-glyoxal sau khi được cắt thành những miếng nhỏ
..................................................................................................................................... 53
Hình 3.11. Phổ IR của WSC-glyoxal và WSC ............................................................................ 54
Hình 3.12. Các liên kết ngang có thể hình thành trong phân tử WSC-
glyoxal (a), (b) dẫn xuất acetal và (c), (d) dẫn xuất imine ........................................ 55
Hình 3.13. Giản đồ (a) XRD và (b) TGA trong không khí của WSC-
glyoxal, WSC và CTS ................................................................................................. 56
Hình 3.14. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ nitơ của aerogel
WSC-glyoxal .............................................................................................................. 56
Hình 3.15. Ảnh SEM của aerogel WSC ở các độ phân giải khác nhau ....................................... 57
Hình 3.16. (a), (b) Ảnh chụp dưới kính hiển vi quang học (c) Ảnh SEM và
(d) Ảnh TEM của vi cầu CTS .................................................................................... 60
Hình 3.17. (a) Màng WSC thu được sau khi sấy khô dung dịch WSC (b)
Màng WSC không tan trở lại ở trong nước (c) Xử lý màng
WSC trong dung dịch NaOH loãng (d) Màng WSC được sấy
khô sau khi xử lý với kiềm loãng ............................................................................... 62
Hình 3.18. Ảnh SEM bề mặt (a) màng CTS ban đầu và (b) màng WSC
điều chế từ dung dịch WSC sau khi được xử lý với dung dịch
kiềm loãng ................................................................................................................... 62
Hình 3.19. (a) Giản đồ XRD của màng WSC sau khi xử lý với kiềm loãng
và (b) Giản đồ TGA của màng WSC trước (WSC(t)) và sau
(WSC(s)) khi xử lý với kiềm loãng ............................................................................ 63
Hình 3.20. Các sản phẩm PTh/CTS ở các thời gian khảo sát khác nhau
(a) PTh/CTS-4h, (b) PTh/CTS-5h, (c) PTh/CTS-6h, (d)
ix
PTh/CTS-7h ............................................................................................................... 65
Hình 3.21. Ảnh SEM bề mặt của các mẫu vật liệu PTh/CTS tổng hợp ở
các thời gian khác nhau (a) PTh/CTS-4h (b) PTh/CTS-5h
(c) PTh/CTS-6h (d) PTh/CTS-7h .............................................................................. 67
Hình 3.22. Các sản phẩm PTh/CTS ở các nhiệt độ khảo sát (a) PTh/CTS-
30 (b) PTh/CTS-40 (c) PTh/CTS-50 (d) PTh/CTS-60
(e) PTh/CTS-70 ........................................................................................................... 67
Hình 3.23. Ảnh SEM bề mặt của PTh/CTS tổng hợp được ở các nhiệt độ
khác nhau (a) PTh/CTS-30 (b) CTS- PTh40 (c) PTh/CTS-50
(d) PTh/CTS-60 ......................................................................................................... 70
Hình 3.24. Các sản phẩm PTh/CTS thu được khi khảo sát ở các tỉ lệ giữa
số mol của thiophene và chất oxy hóa (NH4)2S2O8 khác nhau
(a) PTh/CTS-0,8 (b) PTh/CTS-1,0 (c) PTh/CTS-1,2 (d)
PTh/CTS-1,4 ............................................................................................................... 70
Hình 3.25. Ảnh SEM bề mặt các sản phẩm PTh/CTS tương ứng với các tỉ
lệ số mol (NH4)2S2O8 và thiophene khảo sát (a) PTh/CTS-0,8
(b) PTh/CTS-1,0 (c) PTh/CTS-1,2 và (d) PTh/CTS-1,4 .......................................... 72
Hình 3.26. (a) Màng CTS ban đầu (b) Sản phẩm PTh/CTS tổng hợp được
..................................................................................................................................... 73
Hình 3.27. Phổ IR của PTh/CTS, PTh, CTS ................................................................................. 74
Hình 3.28. Phổ EDX của vật liệu PTh/CTS ................................................................................. 74
Hình 3.29. Giản đồ TGA của PTh/CTS, CTS, PTh và hỗn hợp (CTS: PTh
= 80:20) ...................................................................................................................... 75
Hình 3.30. Giản đồ XRD của CTS, PTh và PTh/CTS ................................................................. 76
Hình 3.31. Ảnh SEM của vật liệu PTh/CTS (a,b) bề mặt và (c,d) mặt cắt ở
các độ phân giải khác nhau ........................................................................................ 77
Hình 3.32. Ảnh TEM của sợi nano PTh/CTS .............................................................................. 78
Hình 3.33. Các đường (a) CV và (b) DP-ASV của UA, XA, HX và CA sử
dụng các loại điện cực khác nhau; hình (b’): cường độ dòng 79
x
đỉnh của UA, XA, HX và CA khi sử dụng các loại điện cực
khác nhau bằng phương pháp DP-ASV ......................................................................
Hình 3.34. (a) Các đường DP-ASV và (b) IP tại các pH khác nhau. ........................................... 81
Hình 3.35. Các đường hồi quy tuyến tính biểu diễn mối tương quan giữa
Ep và pH ...................................................................................................................... 82
Hình 3.36. Các đường CV ở các tốc độ quét khác nhau. ............................................................. 84
Hình 3.37. Các đường hồi quy tuyến tính biểu diễn mối tương quan giữa
(a) Ep và ν (b) Ep và ln(ν) ........................................................................................... 84
Hình 3.38. Sơ đồ phản ứng điện hóa của các chất UA, XA, HX và CA xảy
ra trên bề mặt điện cực PTh-CTS(act)/GCE .............................................................. 86
Hình 3.39. Các đường hồi quy tuyến tính biểu diễn mối tương quan giữa
ln(Ip) và ln(ν). .............................................................................................................. 87
Hình 3.40. Các đường DP-ASV ở ba nồng độ UA, XA và HX với ba thí
nghiệm khác nhau (a) TN 1, (b) TN 2 và (c) TN 3 ..................................................... 89
Hình 3.41. (a) Các đường DP-ASV của UA, XA và HX ở các nồng độ
thêm chuẩn đồng thời khác nhau và (b) các đường hồi quy
tuyến tính biểu diễn mối tương quan giữa IP và nồng độ của
UA, XA và HX ........................................................................................................... 91
Hình 3.42. (a) CTS điều chế từ vỏ cua (b) Màng CTS sau khi xử lý với
hỗn hợp muối FeCl3 và CoCl2 (c) Màng CFO/CTS .................................................. 96
Hình 3.43. Giản đồ XRD của các vật liệu CTS và CFO/CTS ..................................................... 96
Hình 3.44. Giản đồ TGA trong không khí của các vật liệu CTS và
CFO/CTS. .................................................................................................................... 97
Hình 3.45. (a,b,c) Ảnh SEM mặt cắt của màng CFO/CTS ở các độ phân
giải khác nhau (d) Cấu trúc mô phỏng của màng CFO/CTS và
(e,f) Ảnh TEM của màng CFO/CTS chuẩn bị bằng cách
nghiền màng trong ethanol ........................................................................................ 98
Hình 3.46. (a) Màng CFO/CTS và (b) Màng nanocomposite CFO/C ......................................... 99
Hình 3.47. Giản đồ XRD của vật liệu nanocomposite CFO/C .................................................... 100
xi
Hình 3.48. Phổ EDX của vật liệu nanocomposite CFO/C ........................................................... 100
Hình 3.49. Giản đồ TGA trong không khí của vật liệu nanocomposite
CFO/C ........................................................................................................................ 101
Hình 3.50. (a-e) Ảnh SEM của vật liệu nanocomposite CFO/C ở các độ
phân giải khác nhau (f) Hình mô phỏng cấu trúc xoắn lớp của
các tấm CFO/C ........................................................................................................... 102
Hình 3.51. Ảnh TEM của các tấm nanocomposite CFO/C được chuẩn bị
bằng cách nghiền màng CFO/C trong ethanol ........................................................... 103
Hình 3.52. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ nitơ của vật liệu
CFO/C ........................................................................................................................ 104
Hình 3.53. (a) Giản đồ điện hóa của 100 vòng sạc – xả đầu tiên tại mật độ
dòng 100 mA.g1 khi sử dụng vật liệu CFO/C làm vật liệu anot
trong LIB (b) Dung lượng điện trong 75 chu trình sạc – xả đầu
tiên .............................................................................................................................. 105
Hình 3.54. Hiệu suất Coulomb của các chu trình sạc – xả khi tiến hành sạc
pin ở mật độ dòng 100 mA.g1 ................................................................................... 106
Hình 3.55. Giản đồ XRD của vật liệu CFO/C trước và sau khi sạc – xả
100 vòng đầu tiên ....................................................................................................... 108
Hình 3.56. (a) Giản đồ điện hóa của 100 vòng sạc - xả đầu tiên tại mật độ
dòng 250 mA.g1 khi sử dụng CFO/C làm vật liệu anot trong
LIB (b) Dung lượng điện trong 25 chu trình sạc - xả đầu tiên .................................. 109
Hình 3.57. (a) Giản đồ điện hóa của 100 vòng sạc - xả đầu tiên tại mật độ
dòng 500 mA.g1 khi sử dụng CFO/C làm vật liệu anot trong
LIB (b) Dung lượng điện trong 15 chu trình sạc - xả đầu tiên .................................. 110
xii
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 2.1. Quy trình điều chế dung dịch WSC từ vỏ cua ........................................................... 28
Sơ đồ 2.2. Quy trình tổng hợp các vật liệu từ dung dịch WSC .................................................. 31
Sơ đồ 2.3. Quy trình tổng hợp PTh/CTS .................................................................................... 32
Sơ đồ 2.4. Quy trình tổng hợp các vật liệu CoFe2O4/CTS và CoFe2O4/C từ
CTS ........................................................................................................................... 36
Sơ đồ 3.1. Sơ đồ mô tả quá trình chuyển hóa hình thái của CTS ............................................... 59
xiii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Một số phương pháp cắt mạch tạo oligo-chitosan .................................................... 8
Bảng 1.2. Một số nghiên cứu sử dụng polymer sinh học làm VLĐHCT
“mềm” trong điều chế vật liệu nano vô cơ ................................................................ 20
Bảng 1.3. Một số vật liệu CoFe2O4/C ứng dụng làm điện cực anot trong pin
LIB ............................................................................................................................. 24
Bảng 2.1. Các hóa chất chính sử dụng trong nghiên cứu .......................................................... 27
Bảng 2.2. Các thông số trong phương pháp CV hoạt hóa PTh/CTS ......................................... 34
Bảng 2.3. Các thông số trong phương pháp CV nghiên cứu đặc tính điện
hóa ............................................................................................................................. 35
Bảng 2.4. Các thông số trong phương pháp DP-ASV nghiên cứu đặc tính
điện hóa ..................................................................................................................... 35
Bảng 3.1. DDA của các vật liệu CTS và WSC .......................................................................... 46
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến hàm lượng PTh trong
composite .................................................................................................................... 66
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ phản ứng đến hàm lượng PTh trong
composite .................................................................................................................... 69
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của tỉ lệ số mol của thiophene và (NH4)2S2O8 đến
hàm lượng PTh trong composite ............................................................................... 71
Bảng 3.5. Các điều kiện thích hợp để xác định UA, XA, HX và CA bằng
phương pháp DP-ASV sử dụng điện cực biến tính
PTh-CTS(act)/GCE. ................................................................................................... 89
Bảng 3.6. Các giá trị IP,TB, SD, RSD và ½.RSDH khi đo lặp lại ở 3 nồng độ
khác nhau theo phương pháp DP-ASV ..................................................................... 80
Bảng 3.7. Giá trị IP,TB của UA, XA và HX ở các nồng độ thêm chuẩn đồng
thời khác nhau theo phương pháp DP-ASV .............................................................. 90
Bảng 3.8. LOD, LOQ của phương pháp DP-ASV sử dụng điện cực biến
tính PTh-CTS(act)/GCE ............................................................................................ 92
xiv
Bảng 3.9. Kết quả kiểm tra độ lặp lại của phương pháp phân tích ............................................ 93
Bảng 3.10. Kết quả xác định nồng độ của UA và XA và độ đúng trong mẫu
thật ............................................................................................................................. 94
1
MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiên cứu chiết xuất, tổng hợp vật liệu từ các nguồn sinh khối có sẵn trong thiên
nhiên để chế tạo các dạng vật liệu sinh học, đặc biệt là vật liệu có cấu trúc nano là một
trong những hướng nghiên cứu được các nhà khoa học trong nước và trên thế giới thực
hiện nhằm tạo ra các dạng vật liệu mới. Hướng nghiên cứu này vừa giải quyết được
những vấn đề về khoa học vừa đảm bảo chiến lược phát triển công nghệ xanh nhằm
bảo vệ môi trường cũng như hệ sinh thái [48], [117], [125]. Theo xu hướng này,
polymer sinh học và hóa học nano đã kết hợp để tạo ra nhiều vật liệu mới ở các dạng
khác nhau như dạng lỏng, gel, sợi, màng vừa có các đặc tính riêng biệt vừa có khả năng
phân hủy sinh học cao, thân thiện với môi trường [50], [60], [97], [99].
Chitin là polymer sinh học có trữ lượng sinh khối đứng thứ hai trong tự nhiên
sau cellulose, có mặt trong vỏ động vật giáp xác, côn trùng và thành tế bào của một
số loài nấm [28]. Chitosan là dẫn xuất được tạo thành khi deacetyl hóa chitin bằng
phương pháp hóa học hoặc sinh học và chitosan thu được thường có cấu trúc sợi
nano. Chuỗi polymer chitosan chứa nhiều nhóm chức có tính hoạt động hóa học nên
thuận lợi trong việc nghiên cứu biến tính vật lý cũng như hóa học [148]. Mạch
polymer của chitosan có các nhóm chức hydroxyl và amin có khả năng tạo phức với
các ion kim loại, đặc biệt là các ion kim loại chuyển tiếp. Nhờ đó, chitosan là vật
liệu tiềm năng trong ứng dụng điều chế oxit kim loại bằng phương pháp sử dụng
chất nền định hướng cấu trúc. Mặt khác, sợi nano chitosan còn là nguồn cung cấp
carbon để phát triển các dạng vật liệu chứa carbon ứng dụng trong các lĩnh vực lưu
trữ và chuyển hóa năng lượng [39], [119].
Ngoài ra, chitosan còn có nhiều ưu điểm khác như có khả năng tự phân hủy
sinh học, có tính tương thích sinh học cao, ít độc hại và có hoạt tính kháng khuẩn
[27], [105]. Với những ưu điểm này, chitosan là đối tượng được quan tâm nghiên
cứu chế tạo vật liệu ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như kỹ thuật mô, phân phối
thuốc, bảo quản thực phẩm và hấp phụ [133], [148].
2
Tuy nhiên, chitosan tan tốt trong dung dịch có môi trường axit nhưng khó tan
trong các dung dịch có môi trường trung tính như nước cũng như trong các dung
môi hữu cơ thông thường. Đây là một trong những nhược điểm làm hạn chế khả
năng ứng dụng của chitosan. Chính vì vậy, điều chế chitosan tan trong nước (water
- soluble chitosan) cũng như nghiên cứu các đặc tính của chúng là một định hướng
quan trọng trong nghiên cứu vật liệu có nguồn gốc thiên nhiên. Dung dịch chitosan
tan trong nước thích hợp trong các ứng dụng y sinh học và thực phẩm do có môi
trường trung tính và có độ tương thích sinh học cao hơn [9].
Trong các nghiên cứu trước đây, chitosan tan trong nước thường được điều
chế thông qua phản ứng cắt mạch để tạo thành sản phẩm oligo-chitosan hay tạo các
dẫn xuất của chitosan có khả năng tan trong nước thông qua một số phản ứng như
Maillard [20], Michael [54], N - acyl hóa [64], [114]. Hầu hết các công trình này
đều làm giảm độ dài của mạch polymer hoặc giảm số lượng nhóm chức hoạt hóa
trong chuỗi polymer của chitosan do đó làm giảm tính nguyên thể của sợi chitosan
tự nhiên. Vì vậy điều chế chitosan tan trong nước nhưng hạn chế quá trình cắt mạch
polymer, duy trì hoạt tính hóa lý, và đặc biệt có khả năng biến tính thành các dạng
vật liệu khác là một hướng nghiên cứu tiềm năng.
Chitosan còn có một nhược điểm khác là có độ dẫn điện thấp làm hạn chế khả
năng ứng dụng trong một số ngành như lưu biến điện, điện tử… Hướng nghiên cứu
nhằm khắc phục hạn chế này đã được nhiều tác giả tiến hành bằng cách kết hợp các
polymer dẫn điện như polythiophene [12], [32], polyaniline [85], [106], polypyrrole
[112] vào khung của chitosan. Các sản phẩm composite polymer cũng như copolymer
này cải thiện được độ dẫn, có hoạt tính sinh học tốt, khả năng kháng oxy hóa cao và có
tiềm năng trong các lĩnh vực ứng dụng như hấp phụ, điện tử và quang học [12].
Từ những vấn đề phân tích ở trên, chúng tôi đã thực hiện đề tài: "Nghiên cứu
điều chế một số vật liệu mới từ chitosan" với các mục tiêu:
1. Nghiên cứu điều chế chitosan tan trong nước và phát triển một số dạng vật
liệu mới từ dung dịch chitosan tan trong nước.
3
2. Nghiên cứu tổng hợp vật liệu polythiophene/chitosan và đánh giá khả năng
ứng dụng của vật liệu trong phân tích điện hóa.
3. Nghiên cứu sử dụng chitosan làm vật liệu định hướng cấu trúc để tổng hợp
nanocomposite CoFe2O4/carbon và đánh giá khả năng ứng dụng của vật liệu này.
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Từ các mục tiêu nêu trên, luận án đã được tiến hành nghiên cứu theo ba nội
dung chính sau:
1. Nghiên cứu điều chế và đặc trưng vật liệu chitosan tan trong nước. Phát
triển một số dạng vật liệu mới từ dung dịch chitosan tan trong nước là hydrogel,
aerogel, vi cầu và màng chitosan.
2. Nghiên cứu tổng hợp và đặc trưng vật liệu composite polythiophene/chitosan.
Đánh giá khả năng ứng dụng của vật liệu trong biến tính điện cực than thủy tinh để
xác định đồng thời axit uric, xanthin, hypoxanthin và cafein bằng phương pháp phân
tích điện hóa.
3. Nghiên cứu sử dụng màng chitosan có cấu trúc xoắn lớp làm vật liệu định
hướng cấu trúc và nguồn cung cấp carbon trong quá trình tổng hợp vật liệu
nanocomposite CoFe2O4/carbon. Đánh giá khả năng ứng dụng vật liệu
nanocomposite CoFe2O4/carbon làm anot trong pin Liti-ion.
3. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Luận án được bố cục như sau:
- Đặt vấn đề
- Chương 1. Tổng quan tài liệu
- Chương 2. Phương pháp nghiên cứu
- Chương 3. Kết quả và thảo luận
- Kết luận
- Danh mục các công trình liên quan đến luận án
- Tài liệu tham khảo
4
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. VẬT LIỆU CHITOSAN, CHITOSAN TAN TRONG NƯỚC
1.1.1. Sơ lược về chitosan
Chitosan (CTS) là dẫn xuất được điều chế từ chitin, polymer thiên nhiên có
trữ lượng lớn thứ hai sau cellulose. Chitin là thành phần chính cấu tạo nên vỏ của
các loài giáp xác như tôm, cua, cũng như có trong mai mực và thành tế bào của một
số loài nấm [28]. Trong phân tử CTS, các đơn vị monosaccharide (D-glucosamine)
liên kết với nhau bằng liên kết β-(1,4)-glycoside tạo thành mạch phân tử thẳng dài.
Trên lý thuyết, cấu trúc của chitin và CTS chỉ khác nhau về sự có mặt của hai nhóm
chức -NHCOCH3 và -NH2 ở vị trí C2 trong mạch đại phân tử. Tuy nhiên trong thực
tế, hai nhóm chức này luôn có mặt trong cả phân tử chitin và phân tử CTS (Hình
1.1). Chính vì vậy để phân loại chitin và CTS, người ta dựa vào khái niệm mức độ
deacetyl hóa (DDA). DDA được xác định bằng tỉ lệ số nhóm -NH2 trên tổng số
nhóm -NH2 và -NHCOCH3 trong phân tử chitin và CTS. Nếu DDA < 50 % thì phân
tử đó là chitin và nếu DDA > 50 % thì phân tử đó là CTS [66].
Hình 1.1. Cấu trúc của (a) chitin trên lý thuyết (b) CTS trên lý thuyết và (c) CTS
trong thực tế với DDA > 50 %.
5
CTS tan nhiều trong dung dịch của một số axit nhưng ít tan hoặc không tan
trong nước và các dung môi hữu cơ thông thường [28], [66], [111]. Chính điều này
đã làm hạn chế khả năng ứng dụng của CTS, đặc biệt là trong lĩnh vực y dược.
Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để điều chế các dẫn xuất của CTS bằng cách
thay đổi cấu trúc hóa học, thực hiện phản ứng ghép và tương tác ion. Tuy nhiên chỉ
có một vài nghiên cứu trong số đó tìm thấy được dẫn xuất của CTS có khả năng hòa
tan trong các dung môi hữu cơ thông thường [28].
CTS có khả năng hoạt động hóa học cao hơn so với chitin và cellulose, đặc
biệt là khả năng tạo phức, nhờ có sự mặt của nhóm NH2 trong chuỗi polymer của
phân tử. Quá trình tạo phức của CTS đã được nghiên cứu để tổng hợp các loại vật
liệu ứng dụng trong xử lý các kim loại nặng cũng như các phẩm màu hữu cơ trong
nước thải. Ví dụ, nghiên cứu của Rashid và cộng sự (cs) [109] cho thấy có quá trình
tạo phức giữa CTS và Fe3+, CTS và Cu2+ cũng như giữa CTS và cả hai ion kim loại
này khi trộn dung dịch CTS với dung dịch hỗn hợp chứa FeCl3 và CuSO4. Trong
phức chất, một ion Fe3+ liên kết với hai nhóm –NH2 của chuỗi polysaccaride và bốn
nhóm –OH của chuỗi polysaccaride và nước; một ion Cu2+ liên kết với một nhóm –
NH2, hai nhóm –OH của chuỗi polysaccaride và một phân tử nước. Phức CTS-
(Fe3+, Cu2+) có khả năng hấp phụ tốt chất màu C. I. Reactive Black 5.
Khả năng tạo phức của CTS phụ thuộc vào các dạng vật liệu khác nhau của
nó như dạng bột, gel, sợi hay màng. Ngoài ra, CTS có DDA càng cao thì quá trình
tạo phức diễn ra càng thuận lợi. Điều này cho thấy khả năng tạo phức có liên quan
mật thiết đến số lượng cũng như sự phân bố của nhóm –NH2 trong mạch phân tử
CTS. Bản chất của cation kim loại cũng ảnh hưởng đến quá trình tạo phức. Khả
năng hấp phụ các cation kim loại hóa trị hai và hóa trị ba lên màng CTS đã được
Rhazi và cs [110] nghiên cứu. Kết quả ghi nhận sự giảm dần khả năng tạo phức của
CTS với các cation kim loại theo thứ tự sau đây:
6
Kim loại hóa trị II : Cu2+ ≥ Hg2+ > Zn2+ > Cd2+ > Ni2+ > Co2+ ≈ Ca2+
Kim loại hóa trị III: Eu3+ ≥ Nd3+ > Cr3+ ≈ Pr3+
Ngoài ra, bản chất của các anion cũng đã được chứng minh là có ảnh hưởng
đến quá trình tạo phức của CTS với cation kim loại. Anion SO42 và Cl được đánh
giá là đã làm tăng khả năng tạo phức của ion Cu2+ và Ni2+ với hạt CTS [88].
CTS có thể được chuyển thành nhiều dạng vật liệu khác nhau như gel
(hydrogel), màng, sợi nano, hạt (bead), hạt micro/nano (micro/nanoparticle), bọt
xốp (scaffold, sponge) tùy thuộc vào phương pháp điều chế. Các dạng vật liệu của
CTS được đánh giá là có tiềm năng ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như y sinh học,
xử lý nước thải, nông nghiệp, công nghiệp... nhờ có nhiều ưu điểm như có khả năng
phân hủy sinh học, ít độc hại, tương thích sinh học, khả năng kháng khuẩn, kháng
nấm, làm lành vết thương và tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể [18], [23].
1.1.2. Chitosan tan trong nước
1.1.2.1. Đặc tính hòa tan của chitosan trong nước
CTS khó tan trong các dung dịch có môi trường trung tính hay các dung môi
hữu cơ thông thường nhưng lại tan dễ dàng trong các dung dịch có môi trường axit
do tạo thành được dạng cation polymer khi proton hóa nhóm NH2 trong chuỗi
polymer của CTS [111]. Trên thực tế, độ tan của CTS là một thông số khó kiểm
soát. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như DDA, khối lượng phân tử, nồng độ ion
trong dung dịch polymer, pH, bản chất của axit tham gia vào quá trình proton hóa,
sự phân bố của các nhóm acetyl dọc theo mạch polymer của CTS, các điều kiện
tách chiết cũng như quá trình làm khô sản phẩm. Một yếu tố quan trọng khác là liên
kết hydro giữa các chuỗi mạch polymer của CTS cũng ảnh hưởng đến khả năng tan
trong nước của CTS. Mạng lưới liên kết hydro này thường làm giảm khả năng phân
tán chuỗi polymer vào dung dịch và dẫn đến làm giảm độ tan của CTS trong nước
[111].
7
Độ tan kém trong nước của CTS đã làm hạn chế khả năng ứng dụng của nó
trong một số lĩnh vực, đặc biệt là trong y học cũng như các lĩnh vực yêu cầu dung
dịch có môi trường trung tính. Chính vì vậy, các nghiên cứu đã hướng đến việc làm
tăng độ tan của CTS trong nước và điều chế các vật liệu chitosan có thể tan trong
nước. Có 2 hướng nghiên cứu lớn đã được sử dụng là (1) cắt ngắn mạch polymer
của CTS tạo thành chitosan có mạch ngắn (oligo-chitosan) dễ tan trong nước hơn và
(2) tổng hợp một số dẫn xuất có thể tan trong nước như dẫn xuất N,O-
carboxymethyl chitosan, dẫn xuất mono- và disaccharide chitosan...
Nhiều nghiên cứu cho thấy chitosan tan trong nước (water - soluble chitosan,
WSC) là một dạng vật liệu có khả năng ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như làm chất
ổn định, chất bắt gốc tự do, chế tạo hạt nano kim loại (Au, Ag...) [3], chất kháng
bệnh và kích thích tăng trưởng thực vật. Đặc biệt trong lĩnh vực y dược, WSC là vật
liệu tiềm năng do có khả năng kích thích liền da nhanh và ít để lại sẹo trong điều trị
làm lành vết thương và bỏng [53].
1.1.2.2. Phương pháp điều chế chitosan tan trong nước
Có 2 nhóm phương pháp chính trong điều chế WSC, đó là phương pháp cắt
ngắn mạch và phương pháp tạo dẫn xuất.
* Phương pháp cắt ngắn mạch
Để thu được CTS có mạch phân tử ngắn hơn, nhiều phương pháp đã được
nghiên cứu bao gồm phương pháp vật lý, hóa học và sinh hóa. Bảng 1.1 tổng hợp
một số phương pháp điều chế oligo-chitosan. Kết quả các nghiên cứu đều cho thấy
oligo-chitosan thu được có khả năng tan trong nước tốt hơn so với CTS ban đầu.
8
Bảng 1.1. Một số phương pháp cắt mạch tạo oligo-chitosan
Phương pháp Cách tiến hành TLTK
Phương
pháp vật
lý
Thủy phân bởi nhiệt
(H2O, nhiệt độ)
Thủy phân CTS ở nhiệt độ 120-180 °C,
không kèm thêm chất xúc tác.
[116]
Bức xạ vi sóng Thủy phân dung dịch CTS có mặt hoặc
không có mặt một số muối vô cơ như
NaCl hoặc KCl trong lò vi sóng.
[141]
Sóng siêu âm Chiếu sóng siêu âm vào dung dịch
CTS/CH3COOH 1 % ở các nhiệt độ 30, 50
và 80 °C trong 5-60 phút.
[139]
Chiếu xạ gamma từ
nguồn phóng xạ Co-
60
Tiến hành chiếu xạ gamma vào CTS dạng
rắn hoặc dạng dung dịch tan trong axit với
sự có mặt hoặc không có mặt của H2O2,
K2S2O8.
[1],
[25]
Phương
pháp hóa
học
Thủy phân trong
dung dịch axit
Thủy phân trong môi trường axit. Các axit
được lựa chọn có thể là HCl, H2SO4,
H3PO4, axit acetic, hỗn hợp một số axit
hữu cơ như axit ascorbic, axit
hydroxyacetic, axit lactic, axit citric...
[15],
[147]
Oxy hóa cắt mạch Tiến hành cắt mạch CTS bằng các tác
nhân oxy hóa, phổ biến nhất là H2O2, hay
kết hợp H2O2 với dung dịch axit đặc như
H2SO4, HCl, muối FeSO4, hoặc H2O2 kèm
với vi sóng hoặc chiếu xạ gamma. Một số
chất oxy khác cũng đã được nghiên cứu sử
dụng như NaClO/H2O2,
NaClO2/H2O2/HCl...
[22],
[73],
[126],
[127],
[147]
Phương
pháp sinh
hóa
Thủy phân có mặt
một số enzyme
Các enzyme được sử dụng nhiều nhất và
hiệu quả nhất là cellulase, chitinase và
chitosanase. Sử dụng kết hợp hỗn hợp 3
enzyme chitinase, lysozyme và cellulase
cũng đã được nghiên cứu và cho thấy có
hiệu quả thủy phân tốt.
[61],
[76],
[147]
9
* Phương pháp tạo dẫn xuất
Nhiều dẫn xuất của chitosan có khả năng tan trong nước đã được nghiên cứu
điều chế thông qua một số phản ứng như phản ứng tạo các dẫn xuất carboxymethyl
của CTS [31], [113], phản ứng Maillard [102], phản ứng Michael [115], phản ứng
N-acyl hóa [35], [65], [83]… Mục đích của các phản ứng này là làm tăng số lượng
nhóm ưa nước như – COOH, – OH và đồng thời phá vỡ liên kết hydro giữa các
nhóm chức trong chuỗi phân tử polymer của CTS. Do đó, độ tan của dẫn xuất lớn
hơn đáng kể so với CTS ban đầu [83], [102].
Trong phản ứng N-acyl hóa, các tác nhân đã được nghiên cứu sử dụng là các
dẫn xuất của axit carboxylic như clorua axit, anhidrit axit. Hirano và cs [46] đã xử
lý CTS với anhidrit của các axit béo mạch thẳng ngắn như anhidrit acetic,
propionic, butyric, pentanoic và hexanoic trong dung dịch đồng nhất axit acetic 2 %
và methanol thu được sản phẩm là các dẫn xuất CTS có khả năng tan trong nước.
Dẫn xuất clorua axit béo có độ dài mạch khác nhau như palmitoyl clorua, caproyl
clorua, octanoyl clorua và myristoyl clorua cũng đã được Le và cs [131] nghiên cứu
làm tác nhân N-acyl hóa chitosan. Dẫn xuất N-palmitoyl chitosan được đánh giá là
vật liệu tiềm năng ứng dụng trong lĩnh vực giải phóng thuốc.
Anhidrit acetic là tác nhân acyl hóa được nhiều nhóm nghiên cứu sử dụng để
điều chế WSC. Lu và cs [83] đã tiến hành điều chế WSC bằng cách tiến hành phản
ứng N-acetyl hóa CTS với anhidrit acetic trong hỗn hợp dung môi gồm dung dịch
axit acetic 2,8% và ethanol (tỉ lệ 50:50, v/v) có thêm một ít pyridine. Các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình điều chế cũng đã được khảo sát bao gồm khối lượng phân tử
CTS, hàm lượng các chất phản ứng, nồng độ ion H+ trong dung dịch và dung môi có
tỉ lệ thành phần khác nhau. Các kết quả thí nghiệm chỉ ra rằng hàm lượng anhidrit
acetic là yếu tố ảnh hưởng quan trọng nhất tới độ N-acetyl hóa của CTS. Khả năng
tan trong nước của các sản phẩm N-acetylated chitosan khác nhau không đáng kể
khi khối lượng phân tử CTS tăng. Nhóm nghiên cứu Lu và cs cũng đã đánh giá
phương pháp này có nhiều ưu điểm do có cách tiến hành khá đơn giản, thời gian
phản ứng ngắn, sản phẩm N-acetylated chitosan tạo thành không có sự thay đổi lớn
10
về khối lượng phân tử so với CTS ban đầu nhưng khả năng tan trong nước lại tăng
lên đáng kể [83].
Phản ứng N-acetyl hóa cũng đã được nhóm nghiên cứu Feng và cs [35] phát
triển để điều chế các sản phẩm CTS có DDA khác nhau. Như vậy quá trình N-acetyl
hóa có thể được xem như là quá trình tạo CTS có DDA thấp hơn so với CTS ban đầu
và thường không kèm theo sự cắt đứt mạch polymer nên sản phẩm có chuỗi mạch dài
tương tự với sợi nano của CTS ban đầu. Kết quả cho thấy sản phẩm N-acetylated
chitosan thu được có khả năng giữ nước cao hơn, có mức độ kết tinh và độ bền nhiệt
thấp hơn so với CTS ban đầu. Điều này có thể được giải thích là do quá trình N-
acetyl hóa đã làm giảm số liên kết hydro giữa các chuỗi mạch polymer cũng như bên
trong sợi nano polymer của CTS dẫn đến sự tăng mức độ vô định hình của sản phẩm
so với CTS ban đầu, làm giảm sự liên kết giữa các chuỗi mạch polymer và vì vậy đã
làm tăng khả năng tan trong nước của sản phẩm N-acylated chitosan.
Kubota và cs [65] đã tiến hành phản ứng N-acetyl hóa với các mẫu CTS có
khối lượng phân tử nhỏ khác nhau và đánh giá độ tan của các sản phẩm trong nước và
trong một số dung môi hữu cơ. Quá trình N-acetyl hóa được thực hiện trong dung
dịch axit acetic. Kết quả cho thấy độ tan của các sản phẩm N-acetylated chitosan tăng
khi khối lượng phân tử giảm. Mặt khác, kết quả phân tích phổ cộng hưởng từ hạt
nhân proton (1H-NMR) cho thấy các đơn vị N-acetylglucosamine và glucosamine
được phân bố trong chuỗi mạch polymer một cách ngẫu nhiên (Hình 1.2).
Hình 1.2. Phản ứng N-acetyl hóa chitosan [65]
11
Như vậy, các kết quả phân tích ở trên cho thấy trong các nghiên cứu trước
đây WSC thường được điều chế thông qua phản ứng cắt mạch để tạo thành sản
phẩm oligo-chitosan hay tạo các dẫn xuất của CTS có khả năng tan trong nước.
Nhược điểm của các công trình này là hầu hết đều làm giảm độ dài mạch polymer
của CTS hoặc giảm số lượng nhóm chức hoạt hóa trong chuỗi polymer của CTS, do
đó làm giảm tính nguyên thể của sợi CTS tự nhiên. Mặt khác, việc điều chế các
dạng vật liệu từ CTS thường sử dụng dung dịch CTS tan trong axit hoặc oligo-
chitosan làm tiền chất. Có rất ít các công trình sử dụng CTS có mạch polymer dài
dạng “nguyên bản” khi điều chế WSC.
Trong đề tài luận án này, WSC đã được nghiên cứu điều chế từ sợi tinh thể
nano CTS thông qua phản ứng N-acetyl hóa với anhidrit acetic. Quá trình N-acetyl
hóa có thể làm giảm liên kết hydro trong chuỗi sợi nano CTS ban đầu, trong khi
phản ứng thủy phân cắt mạch hầu như không xảy ra. Vì vậy, vật liệu CTS điều chế
được xem như là một dạng CTS ‟nguyên thể”, có khả năng tạo sợi, tạo màng trong
quá trình hóa rắn. Sự chuyển hóa về cấu trúc và hình thái của WSC so với CTS ban
đầu cũng đã được đánh giá. Một số vật liệu mới cũng đã được điều chế từ dung dịch
WSC, đó là hydrogel, aerogel, vi cầu và màng CTS.
1.2. VẬT LIỆU POLYMER DẪN POLYTHIOPHENE/CHITOSAN
1.2.1. Polythiophene
Polymer dẫn (conducting polymer, CP) là các polymer tồn tại hệ liên hợp
- - trong phân tử và vì vậy thường có sự phân bố lại electron (e) trong
mạch carbon. Sự phân bố lại e này đã làm cho các e có thể di chuyển tự do dọc
theo mạch phân tử nên phân tử polymer có thể dẫn điện được [146]. Mặc dù có khả
năng dẫn điện nhưng độ dẫn của các CP thường không cao do các electron đều tham
gia vào các liên kết cộng hóa trị. Vì vậy, CP có năng lượng vùng cấm lớn, độ dẫn
điện tương đương với độ dẫn điện của các chất bán dẫn và không dẫn điện ở trạng
thái không tích điện.
12
Polythiophene (PTh) là một loại CP được tổng hợp từ thiophene. Cấu trúc
mạch PTh bao gồm một chuỗi xen kẽ các liên kết đôi và đơn. Mỗi nguyên tử carbon
thứ nhất và thứ tư được nối bởi một nguyên tử lưu huỳnh tạo thành một vòng
thionyl. Ngoài chức năng xác định cấu trúc, các nguyên tử lưu huỳnh cũng ảnh
hưởng đến tính dẫn điện và quang học của PTh. Sự liên hợp của các nguyên tử
carbon cũng ảnh hưởng các tính chất quang phổ của PTh [7]. Trong số các loại CP
tổng hợp được thì PTh có độ dẫn điện cao và được sử dụng tương đối rộng rãi. Nó
được ứng dụng nhiều trong lĩnh vực điện tử như tế bào quang điện, cảm biến, chíp
điện tử, màn hình bức xạ... Tuy nhiên, PTh vẫn tồn tại những hạn chế như khó nóng
chảy, khó tan trong những dung môi hữu cơ thông thường [57].
PTh có thể tồn tại ở 2 dạng đồng phân là dạng cis và dạng trans. Dạng cis
(Hình 1.3a) là dạng mà các mắt xích thiophene liên kết ở vị trí α – α’ và không quay
180°, cấu trúc hệ liên hợp π tương tự như polyacetylene. Đây là hệ liên kết π đơn
giản nhất, có độ dẫn điện cao nhưng độ bền hóa học kém. Dạng trans (Hình 1.3b) là
dạng trong đó các mắt xích thiophene liên kết ở vị trí α – α’, quay 180° và các
orbital p có khả năng xen phủ lớn hơn so với dạng cis. Đây là dạng cấu trúc thẳng
và phẳng, có độ bền hóa học cao.
(a)
(b)
Hình 1.3. Cấu trúc (a) dạng cis và (b) dạng trans của PTh
Tuy vậy, trong quá trình tổng hợp, ngoài hai dạng cis và trans, một số sai
lệch khác có thể tồn tại trong cấu trúc của chuỗi PTh như dạng xeton, nguyên tử
carbon ở trạng thái lai hóa sp3, sự tạo thành liên kết giữa các monomer thiophene ở
dạng α – β’, liên kết ngang giữa các chuỗi mắt xích (Hình 1.4). Đặc biệt là khi chất
oxy hóa dư thì sẽ có mặt các nhóm cacbonyl trên chuỗi polymer. Những sai lệch
13
này có thể phá vỡ sự liên hợp trong mạch polymer của PTh, làm thay đổi cấu trúc
của mạch từ đó làm giảm khả năng dẫn điện của PTh [57].
Hình 1.4. Sơ đồ biểu diễn một số cấu trúc sai lệch của PTh
PTh và dẫn xuất của PTh có thể được tổng hợp bằng hai phương pháp là
phương pháp hóa học và phương pháp điện hóa.
* Phương pháp hóa học
Phản ứng polymer có mặt chất oxy hóa như FeCl3, (NH4)2S2O8... được sử
dụng để điều chế PTh và các dẫn xuất của PTh. Phản ứng có thể xảy ra theo cơ chế
trùng hợp gốc, cơ chế cation hoặc cơ chế gốc - cation (Hình 1.5). Theo đó, các tiểu
phân trung gian tương ứng tạo thành trong quá trình phản ứng sẽ là gốc tự do,
cation hoặc gốc tự do - cation. Các ưu điểm của phương pháp này là có thể tạo
thành mạch polymer với độ dài khác nhau, có nhiều lựa chọn để biến tính mạch
polymer của PTh và dễ thực hiện quá trình biến tính hóa học đối với sản phẩm PTh
thu được. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có nhược điểm là không thể tổng hợp
PTh ở dạng màng và quá trình tổng hợp khá phức tạp.
14
Cơ chế gốc tự do – cation:
Hình 1.5. Cơ chế phản ứng polymer hóa oxy hóa tạo thành PTh và các dẫn xuất của
PTh [6], [8], [12]
* Phương pháp điện hóa
Phương pháp điện hóa là một phương pháp thông dụng khác được sử dụng
để tổng hợp trực tiếp PTh. Quá trình polymer hóa điện hóa thường được thực hiện
với hệ ba điện cực nhúng vào dung dịch của monomer trong dung môi và chất pha
tạp thích hợp. Khi đưa dòng điện vào mạch, quá trình polymer hóa sẽ diễn ra trên
điện cực dương (điện cực làm việc) thông qua sự hình thành các tiểu phân trung
gian là gốc tự do hoặc cation (Hình 1.6). Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến quá trình
tổng hợp là thời gian phản ứng, nhiệt độ, hệ dung môi, chất điện ly và hệ điện cực.
15
Hình 1.6. Cơ chế phản ứng polymer hóa điện hóa tạo thành PTh [5]
Ưu điểm của phương pháp là có thể tổng hợp PTh dạng màng, quá trình tổng
hợp đơn giản, có thể tiến hành song song cùng quá trình pha tạp. Tuy nhiên, màng
tổng hợp được khó tách ra khỏi điện cực và khó thực hiện quá trình biến tính hóa
học đối với sản phẩm PTh thu được.
1.2.2. Polythiophene/chitosan
Trong vài năm trở lại đây, nhiều nghiên cứu đã hướng tới việc biến tính hóa
học các polymer tự nhiên. Trong những phương pháp biến tính hiện nay, phương
pháp lai ghép là một trong số các phương pháp hữu hiệu để tích hợp tính chất bán
dẫn vào polymer sinh học. Polymer ghép hoặc composite polymer tạo thành đã mở
rộng lĩnh vực ứng dụng polymer tự nhiên bằng cách lựa chọn lai ghép các loại
polymer khác nhau. Một số kỹ thuật lai ghép được sử dụng như hoá học, phóng xạ,
quang hóa và enzyme. Trong quá trình kết hợp này, chất kích thích hóa học được sử
dụng để tạo ra những gốc tự do có thể chuyển vào bề mặt và phản ứng với các
monomer để tạo thành polymer [12].
Polymer ghép polythiophene - chitosan (PTh-CTS) là sản phẩm thu được khi
tiến hành copolymer hóa hai polymer là PTh và CTS. PTh liên kết với mạch
polymer của CTS thông qua sự hình thành liên kết giữa nhóm –NH2 của CTS với
16
nguyên tử carbon trong vòng thơm của PTh [12]. Sơ đồ phản ứng copolymer hóa có
mặt chất oxy hóa tạo thành PTh-CTS được trình bày ở Hình 1.7.
Hình 1.7. Sơ đồ phản ứng điều chế polymer ghép PTh-CTS [12]
* Tình hình nghiên cứu vật liệu composite PTh/CTS và polymer ghép PTh-CTS
Hiện nay, chúng tôi vẫn chưa tìm thấy kết quả nghiên cứu nào về tổng hợp,
đặc trưng và ứng dụng vật liệu polymer ghép PTh-CTS cũng như composite
PTh/CTS được công bố tại Việt Nam. Trên thế giới, một số công trình nghiên cứu
về tổng hợp và ứng dụng của vật liệu PTh-CTS và PTh/CTS đã bước đầu thực hiện
với các kết quả thu được như sau:
- Nhóm nghiên cứu của Eren và cs [29] đã nghiên cứu tổng hợp và đặc trưng
các vật liệu composite PTh/CTS khi có mặt hoặc không có mặt chất hoạt động bề
mặt sodium monohydrate anthraquinone-2-sulfonic. Kết quả cho thấy hàm lượng
CTS trong composite cũng như sự có mặt của chất hoạt động bề mặt đều ảnh hưởng
đến cấu trúc và tính chất của các sản phẩm composite PTh/CTS thu được.
- Các vật liệu copolymer như PTh-CTS, polyaniline - chitosan (PAn-CTS) và
polypyrrole - chitosan (PPy-CTS) đã được Cabuk và cs [12] nghiên cứu tổng hợp
bằng phương pháp copolymer hóa oxy hóa. Các vật liệu copolymer đã được đặc
17
trưng và thử hoạt tính kháng khuẩn. Kết quả cho thấy độ dẫn điện, độ ổn định nhiệt
của các vật liệu copolymer đã được cải thiện hơn so với các homopolymer như CTS,
PTh, PAn và PPy. Đồng thời, hoạt tính kháng khuẩn của các copolymer cũng tương
đối cao hơn so với các homopolymer ban đầu. Vật liệu copolymer PTh-CTS cũng đã
được nhóm tiến hành nghiên cứu về tính chất điện động học, đánh giá thông qua giá
trị thế zeta. Sau quá trình ghép, sản phẩm copolymer PTh-CTS có giá trị thế zeta
trong môi trường nước cao hơn homopolymer PTh ban đầu, tăng từ +25 lên +36 mV
và đồng thời, điểm đẳng điện của PTh tăng từ 6,4 lên 8,3. Mặt khác, thế zeta cũng
dịch chuyển về phía dương hơn cùng với sự gia tăng hóa trị của chất điện ly và nồng
độ của chất hoạt động bề mặt cation. Với giá trị thế zeta bằng +36 mV trong môi
trường nước và +38 mV trong silicone, dung dịch keo PTh-CTS được đánh giá là có
độ ổn định tốt trong cả hai môi trường phân cực và không phân cực [13].
- Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nanocomposite từ tính Fe3O4/PTh/CTS và
ứng dụng vật liệu này vào việc phân lập fluoxetine trong dung dịch nước và mẫu
sinh học, hấp phụ thuốc diệt cỏ triazine trong mẫu nước cũng đã được Feizbakhsh
và cs [32], [33] tiến hành. Kết quả ghi nhận trong thời gian 10 phút, 25 mg vật liệu
có khả năng hấp phụ 0,05 mg fluoxetine trong 50 mL dung dịch mẫu [33] và trong
thời gian 15 phút, 40 mg vật liệu có khả năng hấp phụ 0,05 mg triazine trong 50 mL
dung dịch mẫu [32]. Với ưu điểm thực hiện dễ dàng, phân tách nhanh, giới hạn phát
hiện thấp và có độ tin cậy cao, vật liệu Fe3O4/PTh/CTS có thể được sử dụng để xác
định hàm lượng fluoxetine trong mẫu sinh học như mẫu nước tiểu và huyết tương.
- Hai và cs [41] đã tiến hành biến tính chitin và CTS bằng cách ghép trực tiếp
poly(3-hexylthiophene) (P3HT) lên bề mặt của hai polymer sinh học này thông qua
phản ứng polymer hóa oxy hóa. Sản phẩm copolymer thu được là chitosan - P3HT và
chitin - P3HT có độ bền nhiệt và độ tinh thể tăng lên so với homopolymer P3HT. Mặt
khác, vật liệu sau khi biến tính cũng đã cải thiện được tính dẫn điện, đạt giá trị 10−7
S/cm, tăng lên khoảng 100 lần so với P3HT (10−9 S/cm), đồng thời thay đổi tính chất
ưa nước của bề mặt của chitin và chitosan thành kị nước. Cơ chế của phản ứng ghép
P3HT lên chitin và CTS cũng đã được đề nghị và thảo luận trong nghiên cứu này.
18
- Nhóm nghiên cứu của Morsi và cs [91] đã tiến hành tổng hợp và đặc trưng
vật liệu nanocomposite từ tính Fe3O4/PTh/CTS. Vật liệu được ứng dụng trong việc
loại bỏ thủy ngân (II) ra khỏi dung dịch nước. Kết quả cho thấy vật liệu không những
có khả năng loại bỏ hoàn toàn ion Hg2+ mà còn có thể loại bỏ chọn lọc ion Hg2+ khi
có mặt các ion kim loại khác ra khỏi dung dịch nước trong khoảng pH rộng.
Những nghiên cứu đầu tiên về vật liệu polymer ghép PTh-CTS cũng như
composite PTh/CTS là cơ sở khoa học để chúng tôi tiến hành nghiên cứu tổng hợp
và đặc trưng loại vật liệu này. Những kết quả trên đây cho thấy các nghiên cứu
trước đây chủ yếu thực hiện phản ứng polymer hóa oxy hóa PTh với CTS ở dạng
dung dịch trong axit acetic. Sản phẩm PTh/CTS tạo thành đã cải thiện được độ dẫn,
độ ổn định nhiệt tốt, có hoạt tính sinh học cao, có khả năng hấp phụ ion kim loại
nặng và một số hợp chất hữu cơ. Vì vậy PTh/CTS là vật liệu tiềm năng, có thể ứng
dụng trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, các vật liệu PTh/CTS tổng hợp được trong
các nghiên cứu trước đây không có cấu trúc đặc biệt và chưa được nghiên cứu ứng
dụng trong phân tích điện hóa. Trong luận án này, PTh đã được nghiên cứu kết hợp
với CTS thu được sản phẩm composite polymer có cấu trúc xoắn lớp kiểu
Bouligand. Đây là một trong số những dạng cấu trúc mới của vật liệu composite
PTh/CTS. Sản phẩm cũng bước đầu được đánh giá khả năng ứng dụng trong biến
tính điện cực than thủy tinh để phân tích đồng thời một số hợp chất hữu cơ.
1.3. SƠ LƯỢC VỀ PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG CHẤT NỀN ĐỊNH HƯỚNG
CẤU TRÚC DỰA TRÊN POLYMER SINH HỌC
Phương pháp sử dụng chất nền định hướng cấu trúc (template method) là một
trong số các phương pháp đang được các nhà khoa học quan tâm ứng dụng trong tổng
hợp vật liệu nano. Ưu điểm của phương pháp là dễ thực hiện và không bị ảnh hưởng
bởi các điều kiện của quá trình kết tủa. Ngoài ra, phương pháp còn có khả năng kiểm
soát cấu trúc, hình thái, kích thước hạt và lỗ rỗng mao quản của vật liệu nano thông
qua sự định hướng cấu trúc của vật liệu định hướng cấu trúc (VLĐHCT) ban đầu.
Hình thái cùng với kích thước hạt, diện tích bề mặt, cấu trúc lỗ rỗng sẽ quyết định
tính chất và định hướng ứng dụng cho vật liệu mao quản, trong đó cấu trúc và hình
19
dạng vật liệu là một trong các thông số quan trọng nhất. Phương pháp sử dụng chất
nền định hướng cấu trúc thay đổi hình thái của sản phẩm chủ yếu dựa trên việc kiểm
soát sự hình thành và phát triển tinh thể trong quá trình tổng hợp vật liệu [81].
VLĐHCT thường được chia theo hai hướng chính: các hợp chất thiên nhiên
(vật liệu khoáng nano, các phân tử sinh học, tế bào, mô...) và các vật liệu tổng hợp
(chất hoạt động bề mặt, vật liệu xốp, các hạt nano...). Ngoài ra, dựa trên sự khác
nhau về cấu trúc của vật liệu, VLĐHCT cũng được chia thành hai nhóm là
VLĐHCT “cứng” (hard template) và VLĐHCT “mềm” (soft template) [68], [140].
Việc ứng dụng các polymer sinh học như polysaccharide, peptite, axit nucleic
làm VLĐHCT “mềm” để điều chế các vật liệu vô cơ hoặc vật liệu lai polymer - vô cơ
đang nhận được sự quan tâm phát triển rộng rãi. Polymer sinh học có thể sử dụng từ
nhiều nguồn khác nhau với cấu trúc đa dạng, ít độc, thân thiện với môi trường, dễ
dàng loại bỏ trong quá trình tổng hợp... Mặt khác, các polymer sinh học có thể sắp
xếp để tạo thành các dạng cấu trúc trong đó có các khoảng không gian thích hợp hoặc
tạo thành cấu trúc kiểu giàn giáo để hỗ trợ cho các phản ứng hay quá trình phát triển
các tinh thể vô cơ [103]. Ngoài ra, sự có mặt của các nhóm chức trong các chuỗi
polymer như hydroxyl, amin, axit carboxylic, phosphate... cũng là một ưu điểm của
VLĐHCT polymer sinh học. Các nhóm chức này có khả năng phản ứng với các ion
kim loại, tương tác với các mặt tinh thể đang phát triển, cũng như ảnh hưởng tới quá
trình tạo mầm và phát triển của tinh thể [103]. Nhóm vật liệu này được chia thành 2
loại chính là polymer sinh học có dạng hình học đơn giản (hình cầu như micelles, túi
hoặc dạng giọt ổn định) và polymer sinh học có cấu trúc phức tạp.
Các polymer sinh học thường có cấu trúc phức tạp do nhiều chuỗi polymer
tự sắp xếp theo những cấu trúc bền vững. Ngoài ra, các polymer sinh học còn chứa
các nhóm chức có khả năng tham gia phản ứng cao nên dễ dàng hình thành các loại
liên kết khác nhau với các hợp chất vô cơ tạo thành dạng vật liệu lai polymer – vô
cơ. Các tiểu phân của vật liệu vô cơ có thể tương tác trên bề mặt hoặc bên trong cấu
trúc của VLĐHCT polymer do đó có thể tạo thành các dạng cấu trúc vật liệu khác
nhau với kích thước hạt khá đa dạng. Một số polymer sinh học đã được nghiên cứu
20
sử dụng làm VLĐHCT trong điều chế vật liệu nano vô cơ như CTS, alginate,
gelatin, cellulose... Trong đó, CTS là polymer sinh học được quan tâm nghiên cứu
nhiều nhất do CTS có khả năng phân hủy sinh học, có tính tương thích sinh học và
ít độc. Đặc biệt, chuỗi polymer của CTS chứa các nhóm chức -OH và -NH2 có khả
năng phản ứng cao, đa dạng nên có thể áp dụng trong việc tổng hợp nhiều loại vật
liệu vô cơ cũng như vật liệu composite CTS-vô cơ khác nhau. Một số công trình
nghiên cứu sử dụng CTS và một số polymer sinh học khác làm VLĐHCT trong việc
điều chế các vật liệu nano vô cơ được trình bày ở Bảng 1.2.
Bảng 1.2. Một số nghiên cứu sử dụng polymer sinh học làm VLĐHCT “mềm”
trong điều chế vật liệu nano vô cơ
VLĐHCT Sản phẩm Tiền chất TLTK
CTS cobalt-Prussian
Blue
CoCl2, K3Fe(CN)6, dung dịch
CTS/CH3COOH
[21]
Vi cầu xốp CTS V2O5, WO3 và
Mo2O3
V(acac)3, W(acac)3,
Mo(acac)3
(acac: acetylacetonate)
[56]
CTS Cát phủ Fe2O3 Cát, FeSO4, dung dịch
CTS/CH3COOH, dung dịch
tinh bột/nước
[108]
CTS CeO2 (NH4)2Ce (NO3)6, dung dịch
CTS/CH3COOH
[123]
CTS, tinh bột Fe2O3 FeSO4, dung dịch
CTS/HCOOH, dung dịch tinh
bột/nước
[52]
CTS, alginate,
tinh bột
Fe2O3 FeSO4, dung dịch
CTS/CH3COOH, dung dịch
tinh bột, alginate/nước
[95]
Cellulose CoFe2O4 CoCl2, FeSO4, màng cellulose [37]
Cellulose CoFe2O4 CoCl2, FeCl3, bacterial
cellulose
[86]
Gelatin Ca10(PO4)6(OH)2 CaCl2, Na2HPO4, NaOH,
gelatin, glutaraldehyde
[30]
21
Tóm lại, nhờ có nhiều ưu điểm với hình dạng cấu trúc riêng biệt và trữ lượng
lớn nên polymer sinh học ngày càng được quan tâm phát triển trong việc sử dụng làm
VLĐHCT để tổng hợp các vật liệu nano vô cơ. Cùng với sự đa dạng của cấu trúc trong
tự nhiên, nhiều polymer sinh học có cấu trúc mới cũng đã được tổng hợp thành công
[37], [92], [93], [94]. Đây sẽ là những VLĐHCT “mềm” tiềm năng được sử dụng để
tổng hợp vật liệu nano vô cơ nói chung, nanocomposite oxit kim loại nói riêng.
1.4. SƠ LƯỢC VỀ VẬT LIỆU ANOT PIN LITI-ION DỰA TRÊN SPINEL
COBALT FERRITE
Pin Liti-ion (LIB) là một loại pin sạc, được sử dụng trong các thiết bị di động
như điện thoại, laptop và trong các phương tiện giao thông. Cơ chế hoạt động của
pin là ion Li+ di chuyển qua lại giữa hai điện cực trong quá trình phản ứng. Khi xả,
ion Li+ từ cực âm (anot) di chuyển qua dung dịch điện ly đến cực dương (catot). Tại
đây, vật liệu làm catot sẽ phản ứng với ion Li+. Để cân bằng điện tích giữa 2 điện
cực, cứ mỗi ion Li+ di chuyển từ anot sang catot sẽ có 1 electron di chuyển từ cực
âm sang cực dương ở mạch ngoài. Và do đó hình thành dòng điện từ cực dương
sang cực âm. Khi sạc, quá trình diễn ra ngược lại, electron bị buộc phải di chuyển từ
cực dương của pin (nay trở thành cực âm) về phía cực âm của pin (nay thành cực
dương) do đó ion Li+ tách ra khỏi cực dương, di chuyển về cực âm của pin. Như
vậy, pin đảo chiều trong quá trình sạc và xả. Mô hình cấu tạo của pin LIB thông
thường được trình bày ở Hình 1.8.
Hình 1.8. Mô hình cấu tạo của pin LIB thông thường [82]
22
Điện cực dùng trong pin LIB thường có cấu trúc tinh thể dạng lớp. Trong quá
trình sạc - xả, các ion Li+ sẽ xâm nhập và điền đầy khoảng trống giữa các lớp này
nhờ đó phản ứng hóa học xảy ra. Các nguyên liệu làm điện cực thường cho phép ion
Li+ xâm nhập hoặc rời khỏi mạng tinh thể mà không hoặc ít làm xáo trộn vị trí của
các nguyên tử còn lại. Dựa theo cơ chế dự trữ năng lượng, vật liệu làm anot được
chia thành 3 nhóm [45]:
- Nhóm vật liệu anot dựa trên quá trình xâm nhập của ion Li+ (ITAM)
- Nhóm vật liệu anot dựa trên phản ứng chuyển đổi (CTAM)
- Nhóm vật liệu anot dựa trên phản ứng tạo hợp kim (ATAM)
Nhóm vật liệu anot dựa trên phản ứng chuyển đổi được quan tâm phát triển
nhiều nhất do có thành phần đa dạng và dung lượng riêng lớn. Dung lượng lý thuyết
của loại vật liệu này nằm trong khoảng 350 mA.h.g-1 (Cu2S) đến 1800 mA.h.g-1
(MnP4), cao hơn so với điện cực than chì (372 mA.h.g-1) [11]. Phản ứng chuyển đổi
của vật liệu thường để chỉ phản ứng oxy hóa khử giữa Li+ và hợp chất của kim loại
chuyển tiếp MaXb biểu diễn theo phương trình Faraday sau:
MaXb + (b.n)Li+ + (a.b) e aM + bLinX
Trong đó: - M là kim loại chuyển tiếp (Fe, Co, Ni, Cu, Mn, W, Cr...)
- X là phi kim (O, N, F, S và P)
Sơ đồ minh họa sự biến đổi hóa học của các hợp chất MaXb trong phản ứng
chuyển đổi được trình bày ở Hình 1.9.
Hình 1.9. Sơ đồ minh họa sự biến đổi hóa học của các hợp chất MaXb trong phản
ứng chuyển đổi [82]
23
Các loại vật liệu anot dựa trên phản ứng chuyển đổi khác nhau cũng đã được
tạo ra bằng cách gộp các hợp chất MaXb lại với nhau theo các tỉ lệ khác nhau mà
không làm thay đổi trạng thái oxy hóa của M. Gần đây, nhiều nghiên cứu đã hướng
đến việc phát triển các lưỡng oxit dạng AB2O4 có cấu trúc spinel. Trong đó A và B
là 2 kim loại chuyển tiếp có số oxy hóa tương ứng là +2 và +3. Trong chu trình sạc
đầu tiên, hai kim loại A và B sẽ được tạo thành thông qua quá trình khử và phân tán
vào ma trận Li2O. Sau khi pin xả lần thứ nhất, một hỗn hợp gồm 2 oxit AO và B2O3
được tạo thành và thay thế cho lưỡng oxit AB2O4 ban đầu. Quá trình điện hóa được
biểu diễn thông qua các phản ứng chuyển đổi (1.1), (1.2), (1.3) và (1.4):
- Quá trình sạc đầu tiên:
AB2O4 + 8Li+ + 8e A + 2B + 4Li2O (1.1)
- Quá trình xả đầu tiên
A + Li2O AO + 2Li+ + 2e (1.2)
2B + 3Li2O B2O3 + 6Li+ + 6e (1.3)
- Các quá trình sạc - xả tiếp theo:
AO + B2O3 + 8Li+ + 8e A + 2B + 4Li2O (1.4)
Spinel CoFe2O4 gần đây cũng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
khoa học do tạo được sự tổng hợp và bổ sung năng lượng cho nhau từ hai oxit CoO
và Fe2O3 trong quá trình sạc - xả. Mặt khác, CoFe2O4 có độ dẫn điện và hoạt tính
điện hóa cao hơn so với hai oxit CoO và Fe2O3 riêng biệt nên được chú ý hơn trong
các ứng dụng lưu trữ và chuyển đổi năng lượng [36]. Tuy nhiên, dạng vật liệu này
cũng có các nhược điểm sau:
- Thường có sự mất công suất lớn không thể đảo ngược trong các chu kỳ sạc -
xả đầu tiên. Điều này được giải thích là do phản ứng chuyển đổi không hoàn toàn,
có tính thuận nghịch thấp và do sự hình thành lớp điện ly rắn giao pha (SEI) ở mặt
giao giữa điện cực và dung dịch điện ly [55], [90].
24
- Quá trình xâm nhập và rời đi của ion Li+ khỏi mạng tinh thể thường gây ra
sự thay đổi lớn về thể tích của điện cực và có thể dẫn đến việc nghiền nhỏ điện cực,
gây nên hiện tượng kết tụ mạnh và làm giảm độ dẫn của điện cực [11], [74].
- Điện thế của điện cực thường cao hơn so với điện cực than chì nên hiệu điện
thế của pin nhỏ hơn. Vì vậy mật độ năng lượng của pin cũng thấp hơn.
Để cải thiện các nhược điểm trên, một số định hướng đã được đề xuất và thực
hiện như sau:
- Để giảm sự thay đổi lớn về thể tích, cần chế tạo các dạng vật liệu có diện tích
bề mặt lớn như vật liệu có cấu trúc MQTB nhằm cung cấp đủ không gian cho quá
trình giãn nở/co lại trong quá trình xâm nhập hay rời đi khỏi mạng tinh thể của ion
Li+. Một số phương pháp tổng hợp đã được nghiên cứu, trong đó phương pháp sử
dụng chất nền định hướng cấu trúc được quan tâm nhiều nhất và đánh giá là hiệu
quả hơn cả [74], [77], [80].
- Để tăng khả năng điện hóa của điện cực, nhiều dạng vật liệu có cấu trúc và
hình thái khác nhau đã được nghiên cứu phát triển. Các dạng vật liệu đã được công
bố là hạt nano, sợi nano, dây nano, ống nano, vi cầu rỗng, cấu trúc đa cấp [14].
- Để tăng độ dẫn của điện cực, vật liệu composite giữa CoFe2O4 và một số vật
liệu carbon như graphene, carbon nano ống (CNT), sợi nano carbon đã được nghiên
cứu chế tạo. Trong trường hợp này, vật liệu carbon không những góp phần tạo thêm
dung lượng cho pin mà còn cung cấp thêm không gian đệm trong mạng tinh thể để
hỗ trợ trong quá trình giãn nở/co lại thể tích của vật liệu anot [82].
Kết quả nghiên cứu về phương pháp tổng hợp và ứng dụng làm vật liệu anot pin
LIB của một số vật liệu composite CoFe2O4/C được tóm tắt ở Bảng 1.3.
Bảng 1.3. Một số vật liệu CoFe2O4/C ứng dụng làm điện cực anot trong pin LIB
Vật liệu composite %C Phương pháp
điều chế
Thành phần điện
cực anot DL (MĐD) TLTK
Cụm nano
CoFe2O4/rGO 20
Dung môi
nhiệt
(VL:CB:PVDF:Na
-alginate =
70:20:10:10)/Cu
1040 (100) [67]
25
Vật liệu composite %C Phương pháp
điều chế
Thành phần điện
cực anot DL (MĐD) TLTK
Hạt tinh thể CoFe2O4/
tấm nano graphene 30
Dung môi
nhiệt
(VL:PVDF:ACB=
75:15:10)/Ni
1901 (50)
1174 (200)
735(800)
[79]
Tinh thể nano
CoFe2O4 bám lên tấm
graphene
10 -
20 Thủy nhiệt
(VL:PVDF:ACB=
80:10:10)/Cu
1255 - 842
(100) [104]
Cụm nano
CoFe2O4/graphene
aerogel
32 Dung môi
nhiệt
(VL:PVDF:ACB=
80:10:10)/Ni
1124 (100)
924 (200)
776 (500)
[132]
CoFe2O4/MWCNTs 37,5 Thủy nhiệt (VL:PVDF:CB=
80:10:10)/Cu
809 (180)
765 (450)
539 (900)
[135]
CoFe2O4/rGO 16,7 Oxy hóa khử
tại chỗ
(VL:PVDF:ACB=
80:10:10)/Cu
1347-882
(200) [137]
Sợi CoFe2O4/C 41
Electro-
spinning
Nhiệt phân
(VL:PVDF:CB=
80:5:15)/Li 1004(200) [138]
Nanocubic
CoFe2O4/graphene 21,1
Tự sắp xếp
Thủy nhiệt
(VL:PVDF:ACB=
80:10:10)/Cu 1109 (200) [144]
Màng tạo thành từ
tấm nano CoFe2O4/
sợi carbon pha tạp
Nitơ
50,1 Electro-
spinning
Sử dụng màng
trực tiếp
1336 – 858
(100) [150]
Hạt cầu nano
CoFe2O4/CNT 16,5 Thủy nhiệt
(VL:PVDF:ACB=
80:10:10)/Ni
1138(200)
1003(500)
867(1000)
[152]
Dây nano rỗng
CoFe2O4/màng carbon -
Thủy nhiệt
Nhiệt phân
Sử dụng màng
trực tiếp
1615 (100)
800 (1000)
600 (2000)
[153]
%C: Hàm lượng carbon trong vật liệu
DL (MĐD): Dung lượng sạc – xả vòng đầu tiên (mA.h.g-1) / mật độ dòng (mA.g-1)
VL: vật liệu, PVDF: polyvinyliden fluoride, ACB: acetylene black, CB: carbon black
rGO: graphene oxit dạng khử (reduced graphene oxide)
MWCNTs: carbon nano ống đa tường
26
Từ những tổng quan ở trên, định hướng nghiên cứu của luận án được phát
triển theo các nội dung sau:
27
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. THỰC NGHIỆM
2.1.1. Hóa chất
Các hóa chất chính sử dụng trong nghiên cứu được trình bày ở Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Các hóa chất chính sử dụng trong nghiên cứu
TT Tên hóa chất Công thức Công ty sản xuất Độ tinh khiết
1 Axit clohidric HCl Xilong Scientific1 36 %
2 Natri hidroxit NaOH Xilong Scientific1 PA
3 Glyoxal OCH-CHO Merck2 PA
4 Anhidrit acetic (CH3CO)2O Scharlau3 PA
5 Ethanol C2H5OH Merck2 96o
6 Span 80 C24H44O6 Merck2 PA
7 Paraffine lỏng - Xilong Scientific1 PA
8 n-hexane C6H14 Xilong Scientific1 PA
9 Thiophene C5H5S Merck2 PA
10 Amoni persunfat (NH4)2S2O8 Merck2 PA
11 Coban (II) clorua CoCl2 Merck2 PA
12 Sắt (III) clorua FeCl3 Merck2 PA
13 Kali nitrat KNO3 Xilong Scientific1 PA
14 Axit boric H3BO3 Merck2 PA
15 Axit acetic CH3COOH Merck2 PA
16 Axit photphoric H3PO4 Merck2 PA
17 Natri hydrophotphat Na2HPO4 Xilong Scientific1 PA
28
TT Tên hóa chất Công thức Công ty sản xuất Độ tinh khiết
18 Natri dihydrophotphat NaH2PO4 Xilong Scientific1 PA
19 Axit uric Merck2 PA
20 Xanthin Merck2 PA
21 Hypoxanthin Merck2 PA
22 Cafein Merck2 PA
1: Trung Quốc, 2: Đức, 3: Tây Ban Nha
2.1.2. Điều chế chitosan tan trong nước và một số vật liệu từ chitosan tan trong
nước
2.1.2.1. Điều chế chitosan tan trong nước
CTS được điều chế từ vỏ cua thông qua các quá trình khử protein, khử khoáng
và deacetyl hóa [92]. Dung dịch WSC thu được bằng cách tiến hành phản ứng N-
acetyl hóa CTS với anhidrit acetic rồi hòa tan sản phẩm vào nước [65]. Quá trình
điều chế dung dịch WSC từ vỏ cua được trình bày ở Sơ đồ 2.1.
Sơ đồ 2.1. Quy trình điều chế dung dịch WSC từ vỏ cua
29
* Chuẩn bị nguyên liệu:
Vỏ cua được thu gom tại các nhà hàng hải sản ở thành phố Huế và huyện Phú
Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vỏ cua (đã nấu chín) được rửa sạch, loại bỏ hết phần
thịt và vết bẩn, phơi khô trong 2 ngày và sấy trong không khí ở 40 50 °C trong 24
giờ (Hình 2.1).
Hình 2.1. Vỏ cua (nấu chín) sau khi đã làm sạch, phơi và sấy khô
* Điều chế CTS từ vỏ cua:
Vỏ cua dạng nguyên màng được tiến hành khử protein bằng cách ngâm 200 g
vỏ cua trong 3500 mL dung dịch NaOH 5 % ở 80 90 °C trong 6 giờ và quá trình
này được lặp lại 3 lần. Vỏ cua sau đó được rửa sạch rồi ngâm vào dung dịch HCl
5 % cho đến khi thấy hết sủi bọt khí. Tiến hành khử protein lại lần cuối bằng dung
dịch NaOH 5 % ở 80 90 °C trong 8 giờ thu được 34,3 g chitin màu trắng đục.
Màng chitin được cắt nhỏ thành miếng có kích thước khoảng 3 x 5 (cm) và
tiến hành deacetyl hóa bằng cách ngâm 34,3 g chitin trong 1000 mL dung dịch
NaOH 50 % ở 90 °C trong 8 giờ và lặp lại quá trình này 3 lần. Sau đó, rửa sạch
bằng nước và sấy khô trong không khí ở 40 °C thu được 28,5 g màng CTS màu
trắng ngà và óng ánh như cầu vồng.
* Điều chế WSC từ CTS:
CTS trước tiên được ngâm trong ethanol khan để loại bỏ hết nước hấp phụ.
Sau đó, lấy 5,00 g màng CTS ngâm trong 40 mL anhidrit acetic ở nhiệt độ phòng
trong 4 giờ. Lặp lại quá trình này 2-3 lần. CTS sau khi acetyl hóa được lọc lấy ra,
30
thấm bằng giấy rồi rửa nhanh bằng nước cất để loại bỏ hết lượng anhidrit acetic còn
dư. Sản phẩm được hòa tan vào 100 mL nước cất bằng cách khuấy liên tục trong
48 giờ. Tiến hành lọc, loại bỏ phần không tan thu được dung dịch WSC đồng nhất
trong suốt không màu.
2.1.2.2. Tổng hợp hydrogel chitosan và WSC rắn
* Hydrogel CTS thu được bằng phương pháp kết tủa từ dung dịch WSC bằng
alcohol [120]. Quá trình được thực hiện như sau: Cho 25 mL ethanol vào 50 mL
dung dịch WSC 3 % và tiến hành khuấy ở nhiệt độ phòng. Lọc tách kết tủa và rửa
bằng ethanol thu được dạng hydrogel của WSC.
* WSC rắn được điều chế bằng phương pháp sấy đông khô chân không (freeze
drying) từ dung dịch WSC [43]. Quá trình sấy đông khô chân không được thực hiện
như sau: Cho 20 mL dung dịch WSC 8 % vào cốc đựng và làm lạnh dung dịch ở
30 °C trong 3 giờ để dung dịch đông đá hoàn toàn. Sau đó, tiến hành sấy khô ở
55 °C, áp suất < 5 Pa trong thời gian 24 36 giờ thu được 200 mg WSC rắn màu
trắng đục.
2.1.2.3. Tổng hợp aerogel WSC - glyoxal
Aerogel WSC - glyoxal thu được bằng phương pháp sấy đông khô chân không
hydrogel WSC-glyoxal. Hydrogel được tổng hợp bằng phương pháp tạo liên kết
ngang hóa học giữa WSC và glyoxal [62].
Quy trình tổng hợp được tiến hành như sau: Cho 0,5 mL glyoxal vào 20 mL
dung dịch WSC 3 % và tiến hành khuấy hỗn hợp phản ứng ở 80 °C trong 6 giờ. Quá
trình tạo liên kết ngang diễn ra, thu được một dung dịch gel màu vàng đậm. Tiến
hành sấy đông khô chân không hydrogel ở 55 °C trong 24 36 giờ thu được
aerogel WSC - glyoxal.
2.1.2.4. Tổng hợp vi cầu chitosan
Vi cầu CTS được tổng hợp theo phương pháp tạo liên kết ngang trong hệ vi
nhũ tương nước – dầu có mặt chất nhũ hóa [24]. Quá trình thực hiện như sau:
31
- Chuẩn bị pha nước: Cho 0,10 mL glyoxal vào 1,25 mL dung dịch WSC 3 %
và khuấy đều.
- Chuẩn bị pha dầu: Hòa tan 1,25 g Span 80 vào 30 mL paraffine lỏng.
- Trộn pha nước và pha dầu, tiến hành siêu âm hỗn hợp trong 30 phút. Sau đó,
đậy kín và khuấy nhẹ hỗn hợp phản ứng ở 80 °C trong 48 giờ. Làm nguội hỗn hợp
phản ứng, rồi cho thêm n-hexane vào. Tiến hành ly tâm tách vi cầu CTS và rửa lại
nhiều lần với n-hexane, sau đó với ethanol để loại bỏ Span 80 còn dư. Vi cầu CTS
được phân tán và bảo quản trong ethanol.
2.1.2.5. Tổng hợp màng chitosan
Cho 10 mL dung dịch WSC 3 % vào đĩa Petri có kích thước 60 x 20 (mm).
Tiến hành sấy khô dung dịch WSC trong không khí ở 30 °C trong khoảng 48-72 giờ
thu được màng CTS. Màng được tiếp tục ngâm trong dung dịch NaOH 1 M trong
12 giờ ở nhiệt độ phòng. Sau đó lần lượt rửa sạch màng bằng nước cất và ethanol.
Cuối cùng sấy ở 60 °C trong 2 giờ thu được 30 mg màng CTS dai và trong suốt
[22].
Quy trình tổng hợp các vật liệu hydrogel, aerogel, vi cầu và màng polymer từ
dung dịch WSC được trình bày ở Sơ đồ 2.2.
Sơ đồ 2.2. Quy trình tổng hợp các vật liệu từ dung dịch WSC
32
2.1.3. Tổng hợp polythiophene/chitosan và ứng dụng trong phân tích điện hóa
2.1.3.1. Tổng hợp polythiophene/chitosan
PTh/CTS được tổng hợp bằng phương pháp polymer hóa oxy hóa [12]. Quá
trình tổng hợp được thực hiện như sau: Cho 1,3 mL thiophene và 20 mL nước cất
vào bình cầu 2 cổ, tiến hành siêu âm hỗn hợp trong 30 phút ở nhiệt độ phòng. Tiếp
theo cho 0,25 g CTS, sau đó cho từ từ từng giọt cho đến hết 20 mL dung dịch amoni
persunfat có nồng độ CM vào bình phản ứng. Tiến hành khuấy hỗn hợp phản ứng
liên tục trong thời gian x giờ ở nhiệt độ t °C. Sản phẩm PTh/CTS được rửa sạch
nhiều lần bằng nước cất rồi với ethanol, sau đó sấy khô ở 50 °C trong 48 giờ.
Quy trình tổng hợp PTh/CTS được trình bày ở Sơ đồ 2.3.
Sơ đồ 2.3. Quy trình tổng hợp PTh/CTS
* Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng
- Ảnh hưởng của thời gian:
Tiến hành khảo sát quá trình tổng hợp PTh/CTS ở các thời gian khác nhau: 4,
5, 6 và 7 giờ với tỉ lệ số mol chất oxy hóa (NH4)2S2O8 với thiophene là 1 : 1,2 và
nhiệt độ phản ứng là 60 °C. Các mẫu được ký hiệu lần lượt là PTh/CTS-4h,
PTh/CTS-5h, PTh/CTS-6h và PTh/CTS-7h.
33
- Ảnh hưởng của nhiệt độ:
Tiến hành khảo sát quá trình tổng hợp PTh/CTS ở các nhiệt độ 30, 40, 50, 60
và 70 °C với tỉ lệ số mol thiophene với chất oxy hóa (NH4)2S2O8 là 1:1,2 và thời
gian phản ứng là 6 giờ. Các mẫu được ký hiệu lần lượt là PTh/CTS-30, PTh/CTS-
40, PTh/CTS-50, PTh/CTS-60 và PTh/CTS-70.
- Ảnh hưởng của tỉ lệ số mol thiophene và chất oxy hóa:
Các tỉ lệ số mol thiophene và chất oxy hóa (NH4)2S2O8 ban đầu được lựa
chọn để được khảo sát là 1:0,5; 1:1; 1:1,5 và 1:2 với ký hiệu các mẫu tương ứng là
PTh/CTS-0,5; PTh/CTS-1,0; PTh/CTS-1,5 và PTh/CTS-2,0. Quá trình tổng hợp
các mẫu PTh/CTS ở trên quan sát thấy mẫu PTh/CTS-2,0 bị rã nát, mẫu PTh/CTS-
1,5 cũng bắt đầu có hiện tượng phân hủy màng. Vì vậy khoảng tỉ lệ số mol
thiophene và (NH4)2S2O8 được lựa chọn để khảo sát tiếp theo lần lượt là 1:0,8; 1:1;
1:1,2 và 1:1,4. Quá trình tổng hợp được tiến hành ở nhiệt độ 60 °C trong thời gian 6
giờ. Các mẫu được ký hiệu lần lượt là PTh/CTS-0,8; PTh/CTS-1,0; PTh/CTS-1,2
và PTh/CTS-1,4.
Tỉ lệ %PTh trong composite PTh/CTS được tính theo công thức (2.1)
% PTh = mPTh/CTS − mCTS
mPTh/CTS
×100 (2.1)
Trong đó mPTh/CTS và mCTS lần lượt là khối lượng của sản phẩm PTh/CTS thu
được và khối lượng của CTS ban đầu.
2.1.3.2. Ứng dụng biến tính điện cực than thủy tinh bằng polythiophene/ chitosan
để xác định đồng thời axit uric, xanthin, hypoxanthin và cafein
* Hóa chất và thiết bị
Các dung dịch axit uric (UA), xanthin (XA), hypoxanthin (HX) và cafein
(CA) được pha chế trong đệm Britton–Robinson (BRB) nồng độ 0,04 M.
Các thiết bị được sử dụng bao gồm: Máy phân tích điện hóa CPA-HH5 với
điện cực than thủy tinh và bình điện phân đi kèm, máy đo pH EcoSense pH100A.
34
* Chuẩn bị và biến tính điện cực than thủy tinh
- Chuẩn bị điện cực:
Điện cực nền than thủy tinh (Glassy Carbon Electrode, GCE), có đường kính
2,8 ± 0,1 mm, được mài bóng với bột Al2O3 chuyên dụng có kích thước hạt 0,05
μm. Sau đó, điện cực được ngâm trong dung dịch HNO3 2 M, sau đó rửa bằng
ethanol. Cuối cùng rửa lại với nước cất 2 lần và để khô tự nhiên ở nhiệt độ phòng.
- Biến tính điện cực:
Phân tán 0,2 g bột PTh/CTS vào 100 mL dung dịch CH3COOH 0,1 M bằng
cách siêu âm 30 phút, sau đó khuấy liên tục thêm 30 phút. Lấy 2,5 μL dung dịch
chứa PTh/CTS ở trên nhỏ lên bề mặt điện cực GCE và để khô ở nhiệt độ phòng thu
được điện cực GCE biến tính bởi PTh/CTS (PTh-CTS/GCE). PTh/CTS được hoạt
hóa tạo thành PTh/CTS(act) bằng phương pháp von-ampe vòng (Cyclic
Voltammetry, CV) trong dung dịch đệm BRB 0,04 M (pH 7,0) với các thông số ở
Bảng 2.2 thu được điện cực GCE biến tính bởi PTh/CTS được hoạt hóa bằng điện
hóa (PTh-CTS(act)/GCE).
Bảng 2.2. Các thông số trong phương pháp CV hoạt hóa PTh/CTS
STT Điều kiện thí nghiệm Ký hiệu Giá trị Đơn vị
1 Tốc độ quay điện cực ω 2000 rpm
2 Khoảng quét thế Erange 0 -1700 mV
3 Thời gian làm sạch tcle 0 s
4 Thời gian nghỉ trest 0 s
5 Tốc độ quét v 50 mV/s
35
* Đánh giá đặc tính điện hóa
Trong nghiên cứu này, phương pháp CV và phương pháp von-ampe hòa tan
anot xung vi phân (Differential Pulse Anodic Stripping Voltammetry, DP-ASV)
được sử dụng để nghiên cứu đặc tính điện hóa của các chất phân tích UA, XA, HX
và CA trên bề mặt điện cực. Các thông số ban đầu trong các phép đo CV và DP-
ASV được trình bày ở Bảng 2.3 và Bảng 2.4.
Bảng 2.3. Các thông số trong phương pháp CV nghiên cứu đặc tính điện hóa
STT Điều kiện thí nghiệm Ký hiệu Giá trị Đơn vị
1 Tốc độ quay điện cực ω 2000 rpm
2 Khoảng quét thế Erange 0 +1600 mV
3 Thời gian làm giàu tacc 10 s
4 Thời gian nghỉ trest 5 s
5 Tốc độ quét v 200 mV.s-1
Bảng 2.4. Các thông số trong phương pháp DP-ASV nghiên cứu đặc tính điện hóa
STT Điều kiện thí nghiệm Ký hiệu Giá trị Đơn vị
1 Tốc độ quay điện cực Ω 2000 rpm
2 Khoảng quét thế Erange 0 +1600 mV
3 Bước nhảy thế Ustep 6 mV
4 Thời gian mỗi bước thế tstep 0,3 s
5 Tốc độ quét v 20 mV.s-1
6 Biên độ xung ∆E 60 mV
8 Thời gian làm giàu tacc 10 s
9 Thời gian nghỉ trest 5 s
36
2.1.4. Tổng hợp COFE2O4/Carbon và ứng dụng trong pin liti-ion
2.1.4.1. Tổng hợp vật liệu CoFe2O4/chitosan và CoFe2O4/carbon
Vật liệu CoFe2O4 /C được tổng hợp bằng phương pháp sử dụng chất nền định
hướng cấu trúc với VLĐHCT là màng CTS. Quy trình tổng hợp các vật liệu
CoFe2O4/CTS và CoFe2O4 /C được trình bày ở Sơ đồ 2.4.
Sơ đồ 2.4. Quy trình tổng hợp các vật liệu CoFe2O4/CTS và CoFe2O4/C từ CTS
* Quá trình tổng hợp CoFe2O4/CTS được thực hiện như sau [37]:
Hòa tan 31,94 g FeCl3.6H2O và 14,30 g CoCl2.6H2O (tỉ lệ số mol Fe3+ và Co2+
là 2:1) vào 150 mL ethanol 96° thu được dung dịch A có màu xanh lục. Ngâm 2,00
g màng CTS được điều chế ở mục 2.1.2.1 vào dung dịch A trong 2 giờ, để khô tự
nhiên trong không khí 30 phút sau đó sấy khô trong tủ sấy ở 40 - 50 °C trong 2 đến
3 giờ. Lặp lại quá trình trên 3 lần thu được màng CTS có màu xanh lục, óng ánh.
Ngâm màng CTS-(Fe3+, Co2+) trên vào 300 mL dung dịch NaOH/ethanol nồng độ
1,2 M ở 90 °C trong 6 giờ. Quá trình thủy nhiệt kết thúc, sản phẩm được rửa nhiều
lần với nước cất cho đến khi đạt môi trường trung tính, rồi đem sấy trong không khí
ở 50 °C trong 24 giờ thu được 3,90 gam màng CoFe2O4/CTS có màu đen.
* Vật liệu nanocomposite CoFe2O4/C được tổng hợp bằng cách nung màng
CoFe2O4/CTS trong khí N2 [87], [121]. Chương trình nung được thực hiện như sau:
Đầu tiên, tiến hành nung ở 100 °C trong 2 giờ với tốc độ gia nhiệt 2 °C/phút. Sau đó
37
tiếp tục nung ở 700 °C trong 6 giờ với tốc độ gia nhiệt 2 °C/phút thu được sản phẩm
CoFe2O4/C dạng màng màu đen.
2.1.4.2. Đánh giá khả năng ứng dụng CoFe2O4/Carbon làm anot trong pin Liti-
ion
Thí nghiệm được thực hiện trên hệ bán tế bào, sử dụng vật liệu CoFe2O4/C
dạng màng làm anot mà không cần thêm carbon và chất kết dính. Pin được lắp ráp
trong hộp găng tay chứa đầy khí argon (H2O và O2 < 0,3 ppm), trong đó tấm kim
loại Li được sử dụng làm catot, màng sợi thủy tinh làm màng ngăn và dung dịch
LiPF6 nồng độ 1 M trong hỗn hợp ethylene carbonate/ dimethyl carbonate (tỉ lệ
50/50 (V/V)) làm dung dịch điện ly.
Lấy 4 mg màng vật liệu CFO/C gắn trực tiếp lên bộ phận thu dòng. Tiến
hành đo dung lượng điện của điện cực anot trong khoảng thế từ 0,01 đến 3,0 V
(Li/Li+). Thí nghiệm được thực hiện trên máy Biologic Instrument (BCS series) ở
nhiệt độ phòng.
2.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐẶC TRƯNG VẬT LIỆU
Các mẫu vật liệu tổng hợp trong luận án được đặc trưng bằng một số phương
pháp sau:
2.2.1. Phổ hồng ngoại
Phổ hồng ngoại (Infrared spectroscopy, IR) là đường cong biểu diễn sự phụ
thuộc cường độ hấp thụ bức xạ hồng ngoại của một chất vào số sóng hoặc bước
sóng. Trên phổ IR, trục ngang biểu diễn bước sóng (tính theo μm) hoặc số sóng
(tính theo cm-1), trục thẳng đứng biểu diễn cường độ hấp thụ (độ truyền qua, T(%)).
Sự dao động của các nguyên tử trong phân tử tạo ra phổ dao động. Trong phân tử có
hai dạng dao động: dao động hóa trị (stretching) và dao động biến dạng (bending).
Trong luận án, phổ IR được sử dụng để xác định sự có mặt, sự thay đổi của
các nhóm chức trong các hợp chất hữu cơ thông qua các peak dao động hóa trị và
biến dạng của các liên kết. Phổ IR còn được sử dụng để tính DDA của các mẫu CTS
và WSC thông qua công thức [25]:
38
DDA (%)=100 − (31,92 ×A1320
A1420
− 12,20) (2.2)
Trong đó A1320 và A1420 là độ hấp thụ tương ứng với đỉnh hấp thụ tại số sóng
1320 cm1 (peak dao động của liên kết CH trong nhóm acetyl COCH3, peak đặc
trưng của sự acetyl hóa) và 1420 cm1 (peak dao động của liên kết CH trong nhóm
CH2OH, peak so sánh).
Các mẫu vật liệu nghiên cứu được đo phổ IR trên máy IR-Prestige-21
spectrometer (Shimadzu, Nhật Bản). Mẫu được nghiền bột mịn và trộn với KBr
(rắn) rồi tiến hành đo cường độ hấp thụ bức xạ hồng ngoại trong vùng có bước sóng
từ 400 - 4000 cm1.
2.2.2. Phương pháp nhiễu xạ tia X
Cơ sở của phương pháp nhiễu xạ tia X (X-ray Diffraction, XRD) là dựa vào
hiện tượng nhiễu xạ của chùm tia X trên mạng lưới tinh thể. Khi bức xạ tia X tương
tác với vật chất sẽ tạo hiệu ứng tán xạ đàn hồi với các electron của các nguyên tử
trong vật liệu có cấu trúc tinh thể và dẫn đến hiện tượng nhiễu xạ tia X [2].
Giản đồ XRD được sử dụng để đánh giá thành phần pha và cấu trúc tinh thể
của các mẫu vật liệu trong nghiên cứu. Các mẫu vật liệu trong luận án được ghi phổ
trên máy trên máy nhiễu xạ tia X Advance Bruker D8 X-ray diffractometer (Đức),
sử dụng nguồn bức xạ CuKα với bước sóng λ = 1,5406 Å, công suất 40 kV, góc quét
2θ thay đổi từ 0,5° đến 80°. Mẫu vật liệu được nghiền bột mịn (kích thước hạt
0,01 mm). Ép phẳng mẫu lên khay giữ mẫu rồi gắn khay giữ lên bệ mẫu và ghi
giản đồ.
2.2.3. Phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ nitơ
Trong luận án, phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ nitơ được sử
dụng để đặc trưng vật liệu xốp bao gồm xác định cấu trúc vật liệu, diện tích bề mặt
riêng, thể tích lỗ và phân bố lỗ. Bề mặt riêng xác định theo phương pháp đẳng nhiệt
hấp phụ - khử hấp phụ nitơ là tích số của số phân tử bị hấp phụ với tiết diện ngang
của một phân tử chiếm chỗ trên bề mặt vật rắn. Trường hợp thường gặp nhất là hấp
39
phụ vật lý của N2 ở 77K có tiết diện ngang bằng 0,162 nm2. Nếu lượng khí hấp phụ
Vm được biểu diễn qua đơn vị cm3/g và diện tích bề mặt riêng tính theo phương
pháp Brunauer-Emmett-Teller (BET) SBET là m2/g thì ta có biểu thức [4]:
SBET = 4,35Vm (2.3)
Các mẫu nghiên cứu trong luận án được đo đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ
nitơ trên hệ Micromeritics Tristar 3000 (Mỹ). Mẫu vật liệu được nghiền mịn, tiến
hành khử khí ở 60 °C trong môi trường chân không trong 6 giờ trước khi tiến hành
đo mẫu.
2.2.4. Phương pháp hiển vi điện tử quét
Phương pháp hiển vi điện tử quét (Scanning Electron Microscopy, SEM)
được sử dụng để cung cấp các thông tin về hình thái cấu trúc của vật liệu như quan
sát vi cấu trúc các màng mỏng (màng CTS, màng CFO/CTS, màng CFO/C), đặc
điểm hình dáng bề mặt và mặt cắt của vật liệu, từ đó đánh giá mối liên hệ của các
đặc điểm này với tính chất của vật liệu. Ngoài ra, ảnh SEM còn được dùng để quan
sát kích thước hạt, thành phần pha và sự tương tác giữa các pha trong mẫu vật liệu
[4].
Ảnh SEM các mẫu nghiên cứu trong luận án được ghi trên máy JEOL JSM-
6490LV. Mẫu được cắt thành từng miếng nhỏ (khoảng vài milimet), sau đó phun
phủ lên bề mặt Pt hoặc Au hoặc Au-Pd với độ dày khoảng 5-8 nm. Tiến hành quan
sát ở vị trí mặt cắt và vị trí bề mặt của vật liệu (Hình 2.2) ở các độ phân giải khác
nhau.
Hình 2.2. Vị trí quan sát bề mặt và mặt cắt trong ảnh SEM
40
2.2.5. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua
Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (Transmission Electron Microscopy,
TEM) là phương pháp dùng một thiết bị nghiên cứu vi cấu trúc vật rắn, sử dụng
chùm electron có năng lượng cao chiếu xuyên qua mẫu vật rắn mỏng và sử dụng
các thấu kính từ để tạo ảnh với độ phóng đại lớn (có thể tới hàng triệu lần). Chùm
tia electron được tạo ra từ catot qua hai tụ quang electron sẽ hội tụ lên mẫu nghiên
cứu. Khi chùm electron đập vào mẫu, một phần chùm electron sẽ truyền qua. Các
electron truyền qua này được đi qua điện thế gia tốc vào phần thu và biến đổi thành
một tín hiệu ánh sáng, tín hiệu được khuếch đại, đưa vào mạng lưới điều khiển tạo
độ sáng trên màn ảnh. Độ sáng tối trên màn ảnh phụ thuộc vào lượng electron phát
ra tới bộ thu và phụ thuộc vào hình dạng mẫu nghiên cứu.
Trong nghiên cứu này, ảnh TEM của các mẫu vật liệu được ghi trên máy
JEOL JEM-1400 và JEM-2100F (Nhật Bản). Mẫu được trải lên copper grid chuyên
dụng cho TEM, sau đó được cho vào máy tiến hành chụp ở điện thế 100 kV.
2.2.6. Phân tích nhiệt trọng lượng
Phân tích nhiệt trọng lượng (Thermogravimetric analysis, TGA) là phương
pháp phân tích nhiệt dựa trên nguyên lý kiểm soát quá trình thay đổi khối lượng của
vật liệu khi gia nhiệt theo một chu trình nhiệt độ xác định và trong một môi trường
khí xác định (không khí, N2, O2, He...) [2]. Trong luận án, các thông tin trên giản đồ
TGA được sử dụng để đánh giá các tính chất sau:
- Phân tích thành phần của các vật liệu trong composite.
- Xác định độ ổn định nhiệt của vật liệu.
- Xác định hàm lượng ẩm (H2O) trong vật liệu
Trong nghiên cứu này, các mẫu vật liệu được tiến hành đo TGA trên thiết bị
Labsys TG/DSC-SETARAM thermogravimetric analyser. Chương trình chạy máy
như sau: khoảng 5 - 10 mg mẫu được gia nhiệt trong không khí với tốc độ gia nhiệt
20 oC/phút, từ nhiệt độ phòng đến 900 oC.
41
2.2.7. Phổ tán xạ năng lượng tia X
Phổ tán xạ năng lượng tia X (Energy Dispersive X-ray Spectroscopy, EDX)
là kỹ thuật phân tích thành phần hóa học của vật rắn dựa vào việc ghi lại phổ tia
X phát ra từ vật rắn do tương tác với các bức xạ [4]. Trong luận án, phổ EDX được
sử dụng để xác định thành phần hóa học bề mặt của vật liệu bao gồm sự có mặt của
các nguyên tố hóa học, tỉ lệ khối lượng và tỉ lệ số nguyên tử của các nguyên tố đó.
Phổ EDX của các mẫu nghiên cứu trong luận án được thực hiện trên máy
Jeol JSM-6490LV. Mẫu được cắt thành từng miếng nhỏ (khoảng vài milimet), sau
đó phun phủ lên bề mặt Pt hoặc Au hoặc Au-Pd với độ dày khoảng 5-8 nm. Tiến
hành phân tích thành phần trên bề mặt mẫu.
2.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH ĐIỆN HÓA
2.3.1. Phương pháp von – ampe vòng
Phương pháp von-ampe là một nhóm các phương phân tích điện hóa dựa trên
việc nghiên cứu các đường biểu diễn sự phụ thuộc của cường độ dòng điện (I, A)
vào sự biến thiên của thế (E, V) trên điện cực làm việc trong một tế bào điện hóa
gồm ba điện cực đó là điện cực làm việc (Working Electrode, WE), điện cực so
sánh (Reference Electrode, RE) và điện cực phụ trợ (Counter Electrode, CE) hay
điện cực đối (Auxiliary Electrode, AE).
Phương pháp von – ampe vòng (Cyclic Voltammetry, CV) là một trong các
phương pháp von – ampe phổ biến, đơn giản, nhanh chóng được sử dụng để phân
tích định tính và định lượng các chất có khả năng oxy hóa/khử trong dung dịch. Quá
trình quét CV được thực hiện trên WE ở một tốc độ quét xác định, đầu tiên quét từ
thế âm sang thế dương hơn và sau đó tiến hành quét được lại [134].
Trong khuôn khổ của luận án, phương pháp CV được sử dụng để hoạt hóa
điện cực biến tính PTh-CTS/GCE và nghiên cứu đặc tính điện hóa của các chất
phân tích UA, XA, HX và CA trên bề mặt các điện cực GCE, PTh-CTS/GCE và
PTh-CTS(act)/GCE.
42
2.3.2. Phương pháp von-ampe hòa tan anot xung vi phân
Đối với phương pháp von – ampe, trong quá trình hòa tan, nếu thế được quét
theo chiều dương dần thì được gọi là quét thế anot và phương pháp được đặt tên là
phương pháp von-ampe hòa tan anot (Anodic Stripping Voltammetry, ASV).
Phương pháp ASV bao gồm hai giai đoạn: giai đoạn làm giàu và giai đoạn hòa tan.
Bản chất của giai đoạn làm giàu là tập trung chất cần phân tích trong dung dịch lên
trên bề mặt WE ở một thế và trong một thời gian xác định. Trong giai đoạn hòa tan,
chất phân tích bị hòa tan ra khỏi bề mặt WE khi tiến hành quét thế anot. Trong giai
đoạn này, quá trình xảy ra trên điện cực là ngược với giai đoạn làm giàu. Nếu sử
dụng kỹ thuật xung vi phân thì gọi là phương pháp von-ampe hòa tan anot xung vi
phân (Differential Pulse Anodic Stripping Voltammetry, DP-ASV) [134].
Trong luận án, phương pháp DP-ASV được sử dụng để nghiên cứu nghiên
cứu đặc tính điện hóa của các chất phân tích UA, XA, HX và CA trên bề mặt điện
cực PTh-CTS(act)/GCE. Phương pháp DP-ASV cũng được sử dụng để đánh giá khả
năng ứng dụng điện cực PTh-CTS(act)/GCE để phân tích đồng thời UA, XA, HX
trong mẫu sinh học (mẫu nước tiểu).
43
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. ĐIỀU CHẾ VÀ ĐẶC TRƯNG CÁC VẬT LIỆU TỪ CHITOSAN TAN
TRONG NƯỚC
Trong phần nội dung này, luận án tập trung nghiên cứu điều chế WSC từ
màng CTS thông qua phản ứng N-acetyl hóa và từ dung dịch WSC tiến hành tổng
hợp một số vật liệu khác như WSC rắn, hydrogel, aerogel, vi cầu và màng. Các vật
liệu được nghiên cứu đặc trưng cấu trúc và từ đó nhận thấy có sự chuyển hóa về
hình thái và cấu trúc của CTS trong quá trình tổng hợp các loại vật liệu.
3.1.1. Điều chế, đặc trưng chitosan và chitosan tan trong nước
Trong nghiên cứu này, vỏ cua đã được sử dụng làm nguyên liệu để điều chế
màng CTS và từ màng CTS tiến hành điều chế dung dịch WSC. Tiến hành như quy
trình mục 2.1.2.1 thu được các sản phẩm tương ứng là màng chitin màu trắng ngà,
có hình dạng giống với vỏ cua ban đầu (Hình 3.1.a) và màng CTS (Hình 3.1.b) óng
ánh như cầu vồng. Màng CTS thu được sau khi deacetyl hóa vẫn giữ nguyên hình
dạng của màng chitin ban đầu nhưng trong suốt và mỏng hơn.
Hình 3.1. (a) Chitin thu được từ vỏ cua, (b) màng CTS điều chế từ chitin, (c) dung
dịch WSC điều chế từ màng CTS và (d) WSC rắn thu được từ quá trình sấy đông
khô chân không dung dịch WSC
Tiến hành N-acetyl hóa màng CTS bằng cách cho màng CTS phản ứng với
anhidrit acetic đậm đặc ở nhiệt độ phòng. Sản phẩm sau khi N-acetyl hóa được hòa
tan vào nước. Quan sát hiện tượng cho thấy đầu tiên màng bị trương phồng trong
44
nước tạo thành hydrogel và sau đó hòa tan tạo thành dung dịch WSC. Tiến hành lọc
để loại bỏ phần chất rắn không tan thu được dung dịch WSC trong suốt và đồng
nhất. Dung dịch WSC ổn định trong khoảng nồng độ từ 2 đến 10 % và có độ nhớt
cao (Hình 3.1.c). Dung dịch WSC được sử dụng như tiền chất để nghiên cứu phát
triển một số dạng vật liệu mới. Tiến hành sấy đông khô chân không dung dịch WSC
10 % thu được WSC rắn màu trắng, dạng sợi tấm sắp xếp tạo thành cấu trúc rỗng
xốp giống filament aerogel (Hình 3.1.d). Các dung dịch WSC loãng và đậm đặc đều
duy trì được tính đồng nhất, phản ánh độ hòa tan cao trong nước của các sợi nano
chitosan đã được N-acetyl hóa.
Hình 3.2. Sơ đồ phản ứng điều chế WSC từ CTS bằng phản ứng N-acetyl hóa
Trong nghiên cứu này, phản ứng N-acetyl hóa được lựa chọn để điều chế
WSC từ CTS là do cách tiến hành khá đơn giản, thời gian phản ứng ngắn và có thể
tiến hành ở nhiệt độ phòng. Mặt khác, phản ứng N-acetyl hóa bằng anhidrit acetic
chỉ chuyển hóa nhóm amin (NH2) thành nhóm acetamide (NHCOCH3) mà hầu
như không cắt đứt mạch polymer của CTS (Hình 3.2). Do đó, sản phẩm N-acetyl
hóa có thể có mạch polymer không thay đổi so với mạch phân tử của CTS ban đầu
và cũng như không có sự thay đổi lớn về khối lượng phân tử [83]. Mặc dù vật liệu
45
chitosan tan trong nước đã được nhiều nhà khoa học công bố, nhưng hầu hết các
công trình trước đây đều sử dụng oligo-chitosan làm tiền chất trong quá trình tổng
hợp [20], [64], [114]. Trong luận án này, quá trình N-acetyl hóa đã được tiến hành
với màng CTS nguyên bản điều chế từ vỏ cua để tạo thành sản phẩm có đặc tính
polymer cao và có khả năng tan trong nước tạo thành dung dịch đồng nhất. Đây là
một trong các dạng vật liệu WSC mới, và dung dịch WSC được sử dụng như tiền
chất để điều chế một số dạng vật liệu khác như hydrogel, aerogel, vi cầu và màng.
Các vật liệu chitin, CTS, WSC được đặc trưng bởi một số phương pháp như
XRD, IR, TGA, BET và SEM.
3.1.1.1. Phổ hồng ngoại
4500 4000 3500 3000 2500 2000 1500 1000 500
C-H
C-O-C
C=O
O-H
,N-H
20
%
WSC raén
CTS
Ño
ä tru
ye
àn q
ua (
%)
Soá soùng (cm-1
)
O-H
,N-H
C-H
C=O
C-O-C
Hình 3.3. Phổ IR của CTS và WSC rắn
Phổ IR của CTS và WSC rắn (Hình 3.3) đều xuất hiện các peak đặc trưng
tương ứng với dao động hóa trị của các liên kết OH và NH/amin (chồng lên nhau)
tại số sóng 3200 3550 cm1, dao động hóa trị của liên kết CH tại số sóng 2886
2920 cm1, dao động hóa trị của liên kết C=O/amide tại 1647 1655 cm1 và dao
động hóa trị của liên kết COC/glicozit tại 1072 1078 cm−1 [10], [83], [122].
46
DDA của các vật liệu CTS và WCS được tính toán dựa trên số liệu của phổ IR
tương ứng của CTS và WSC theo công thức (2.2). Kết quả được trình bày ở Bảng 3.1.
Bảng 3.1. DDA của các vật liệu CTS và WSC
Vật liệu A1320 A1420 DDA (%)
CTS 2,73 7,12 99,96
WSC 1,83 1,17 62,27
Kết quả ở Bảng 3.1 cho thấy DDA của WSC nhỏ hơn so với DDA của CTS
với giá trị tương ứng là 62,27 % và 99,96 %. Như vậy, trong điều kiện thí nghiệm
này, phản ứng N-acetyl hóa CTS bằng anhidrit acetic đã chuyển hóa nhóm NH2
thành nhóm NHCOCH3 (Hình 3.2) nên có thể xem đây như là quá trình tạo CTS
có DDA thấp hơn. Do đó, sự có mặt của các nhóm chức và các liên kết đặc trưng
trong hai mẫu CTS và WSC rắn trong phổ IR là tương tự nhau.
Tuy nhiên, peak dao động của các nhóm OH, NH2 trong phổ IR của WSC
và CTS có sự khác nhau. Trong phổ IR của CTS, peak này giãn rộng và có cường
độ mạnh chứng tỏ các nhóm OH và NH2 đã tham gia tạo liên kết hydro liên phân tử.
Nhưng trong phổ IR của WSC, peak này ít giãn rộng hơn và có cường độ thấp hơn
so với peak tương ứng trong phổ IR của CTS. Điều này chứng tỏ quá trình N-acetyl
hóa đã phá vỡ liên kết hydro giữa các nhóm OH và NH2 trong các chuỗi polymer
của CTS ban đầu. Sự phá vỡ các liên kết hydro này cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến sản phẩm N-acetylated chitosan hòa tan được trong nước và
WSC rắn có độ tinh thể thấp hơn so với CTS ban đầu [35], [65].
Như vậy, từ các kết quả phân tích phổ IR ở trên cho thấy, quá trình N-acetyl
hóa không chỉ tạo thành CTS có DDA thấp hơn so với CTS ban đầu, mà còn cắt đứt
các liên kết hydro giữa các chuỗi mạch polymer của CTS làm cho sản phẩm WSC
có khả năng hòa tan trong nước cao hơn. Kết quả này một lần nữa được khẳng định
qua các kết quả phổ XRD và ảnh SEM của các vật liệu thu được.
47
3.1.1.2. Giản đồ nhiễu xạ tia X
0 10 20 30 40 50 60
(130)
(110)
(020)
Cö
ôøn
g ñ
oä (
cp
s)
Goùc nhieãu xaï 2(ñoä)
100 Chitin
CTS
WSC raén
Hình 3.4. Giản đồ XRD của chitin, CTS và WSC rắn
Pha tinh thể và cấu trúc của các mẫu chitin, CTS và WSC rắn được xác định
bằng phương pháp XRD. Giản đồ XRD ở Hình 3.4 cho thấy chitin ban đầu tồn tại ở
dạng α-chitin có độ tinh thể cao thể hiện ở các peak đặc trưng có cường độ lớn và
sắc nét. Đó là các peak tại các góc nhiễu xạ 2θ = 10°, 19° và 23° tương ứng với các
mặt phản xạ (020), (110) và (130) [38]. Giản đồ XRD của CTS đã biến mất các
peak ở góc nhiễu xạ 2θ = 10° và 23°. Peak tại 2θ = 19° có sự giảm mạnh về cường
độ và độ sắc nét. Kết quả này cho thấy CTS thu được ở dạng tinh thể nhưng có độ
tinh thể thấp hơn so với chitin ban đầu. Giản đồ XRD của WSC rắn không xuất hiện
peak tinh thể, chỉ có một đỉnh tù tại góc 2θ ~ 20° chứng tỏ WSC rắn có tính tinh thể
rất thấp, tồn tại ở dạng vô định hình. Như vậy, quá trình N-acetyl hóa đã làm giảm
độ tinh thể của sản phẩm so với CTS ban đầu và đồng thời đã có sự chuyển hóa về
cấu trúc từ trạng thái tinh thể ở CTS sang trạng thái vô định hình của WSC rắn.
48
3.1.1.3. Phân tích nhiệt trọng lượng
Giản đồ TGA của CTS và WSC rắn trong không khí được trình bày ở Hình
3.5. Các kết quả phân tích nhiệt của CTS và WSC rắn cho thấy không có sự khác
biệt nhiều về hình dạng của đường cong TGA. Điều này chứng tỏ các giai đoạn
phân hủy/cháy của CTS và WSC trong không khí là tương tự nhau. Giản đồ TGA
(Hình 3.5) cho thấy CTS và WSC có ba khoảng mất khối lượng. Giai đoạn thứ nhất,
từ khoảng 40 – 300 C đối với CTS và 40 – 178 C đối với WSC, là sự mất khối
lượng do nước hấp phụ lên vật liệu với hàm lượng nước mất đi tương ứng với CTS
và WSC lần lượt là 14,8 và 23,4%. Giai đoạn mất khối lượng thứ hai đối với CTS
và WSC lần lượt nằm trong khoảng 300 – 494 C và 178 – 374 C tương ứng với
quá trình cắt đứt các liên kết 1,4 – glicozit giữa các mắt xích trong chuỗi polymer
của CTS và WSC. Đồng thời các đơn vị mắt xích trong các chuỗi polymer này cũng
bị phân hủy/cháy một phần tạo thành các phân tử dễ bay hơi như H2O. Khoảng mất
khối lượng thứ ba, từ 494 – 768 C đối với CTS và từ 374 – 524 C đối với WSC,
tương ứng với sự phân hủy/cháy của phần còn lại trong phân tử CTS và WSC. Kết
quả phân tích nhiệt TGA cho thấy CTS bắt đầu phân hủy/cháy ở nhiệt độ 300 °C và
bị phân hủy/cháy hoàn toàn ở 768 C. Trong khi đó, WSC bắt đầu phân hủy/cháy ở
nhiệt độ 178 C và bị phân hủy/cháy hoàn toàn ở nhiệt độ 524 °C. Như vậy, CTS có
độ bền nhiệt cao hơn so với WSC. Điều này có thể giải thích là do WSC có độ tinh
thể thấp hơn so với CTS và giữa các chuỗi mạch polymer không có hoặc ít tồn tại
liên kết hydro liên phân tử như giữa các chuỗi mạch trong màng CTS ban đầu. Do
đó nhiệt độ phân hủy/cháy hoàn toàn trong không khí của WSC thấp hơn so với
CTS.
49
100 200 300 400 500 600 700 800 900
0
20
40
60
80
100
Kh
oái l
öô
ïng
(%
)
Nhieät ñoä (o
C)
CTS
WSC
Hình 3.5. Giản đồ TGA của CTS và WSC rắn trong không khí
3.1.1.4. Ảnh kính hiển vi điện tử quét
Ảnh SEM được sử dụng để đánh giá sự biến đổi hình thái của sợi nano
chitosan sau khi tiến hành N-acetyl hóa và hóa rắn.
Hình 3.6. Ảnh SEM (a,b,c) mặt cắt, (d,e) bề mặt của màng CTS và (f) mô hình biểu
diễn cấu trúc lớp xoắn trái kiểu Bouligand của màng CTS
50
Ảnh SEM mặt cắt và bề mặt (Hình 3.6) cho thấy màng CTS được tạo bởi các
lớp có bề dày khoảng 0,5 - 1,0 μm. Mỗi lớp được tạo thành bởi các sợi nano CTS có
đường kính khoảng 50 nm. Các sợi nano này sắp xếp theo trật tự xoắn ngược chiều
kim đồng hồ so với lớp bên dưới. Đây là trật tự xoắn trái đặc trưng cho cấu trúc
Bouligand thường gặp trong thiên nhiên như cấu trúc vỏ của các loài giáp xác [92].
Quá trình xoắn lớp tuần hoàn lặp lại này hình thành một “pitch” có chiều cao đúng
bằng bước sóng của ánh sáng tới. Quá trình phản xạ xảy ra trong vùng ánh sáng khả
kiến nên xuất hiện màu óng ánh như cầu vồng ở màng CTS điều chế được.
Tiến hành sấy đông khô chân không dung dịch WSC thu được sản phẩm WSC
rắn. Ảnh SEM (Hình 3.7) cho thấy WSC rắn tồn tại dạng tấm có bề mặt nhẵn mịn
và không quan sát thấy cấu trúc sợi trên bề mặt tấm. Các tấm này sắp xếp đan xen
nhau không theo một trật tự nào tạo thành cấu trúc xốp giống aerogel.
Hình 3.7. Ảnh SEM của tấm WSC rắn ở các độ phân giải khác nhau
Như vậy, kết quả SEM ở Hình 3.6 và Hình 3.7 cho thấy quá trình N-acetyl hóa
và hóa rắn đã kèm theo sự chuyển hóa về hình thái của các vật liệu từ dạng sợi nano
trong màng CTS xoắn lớp ban đầu chuyển thành dạng tấm nano của WSC rắn trong
khung mạng aerogel.
51
3.1.1.5. Đường đẳng nhiệt hấp phụ và khử hấp phụ nitơ
0,0 0,2 0,4 0,6 0,8 1,0
0
2
4
6
Khöû haáp phuï
Haáp phuï
AÙp suaát töông ñoái (P/Po)
Th
eå t
ích
kh
í h
aáp
ph
uï (
cm
3
/g
, S
TP
)
Hình 3.8. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ nitơ của WSC rắn
Tính chất xốp của vật liệu được đánh giá bằng phương pháp đẳng nhiệt hấp
phụ và khử hấp phụ nitơ. Hình 3.8 trình bày đường đẳng nhiệt hấp phụ và khử hấp
phụ nitơ của vật liệu WSC rắn. Kết quả cho thấy đường đẳng nhiệt thuộc loại II
theo phân loại của IUPAC, chứng tỏ vật liệu có cấu trúc mao quản lớn ở khoảng
trống giữa các tấm WSC. Cấu trúc mao quản lớn trong WSC rắn được tạo thành do
sự tự sắp xếp không trật tự của các tấm WSC rắn đã tạo thành các khoảng không
lớn giữa các tấm WSC.
Tóm lại từ các kết quả đặc trưng của WSC rắn ở trên cho thấy đã có sự chuyển
hóa về cấu trúc và hình thái của CTS trong quá trình điều chế WSC từ màng CTS
xoắn lớp. Đó chính là sự chuyển hóa từ dạng sợi tinh thể nano CTS trong màng
CTS xoắn lớp thành dạng tấm WSC vô định hình trong WSC rắn xốp. Đây là một
trong những phát hiện mới về sự chuyển hóa trong cấu trúc và hình thái của CTS
trong quá trình điều chế chitosan tan trong nước.
52
3.1.2. Điều chế hydrogel chitosan
Hydrogel CTS thu được trong suốt, không màu (Hình 3.9). Từ 50 mL dung
dịch WSC 3 % thu được 12,5 g hydrogel. Kết quả thu được hydrogel với hàm lượng
nước trong gel chiếm 88 %. Hydrogel của CTS và dẫn xuất của CTS đã được một
số nhà khoa học nghiên cứu điều chế, tuy nhiên các hydrogel này hầu như đều được
hình thành trong môi trường axit [42], [120]. Hydrogel CTS trong nghiên cứu này là
một trong những hydrogel CTS mới được tạo thành ở môi trường trung tính và hứa
hẹn sẽ là vật liệu sinh học ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong y học
như phân phối thuốc và công nghệ mô.
Hình 3.9. Hydrogel CTS thu được khi kết tủa dung dịch WSC bằng ethanol
3.1.3. Điều chế và đặc trưng aerogel WSC-glyoxal
3.1.3.1. Điều chế aerogel WSC-glyoxal
Phản ứng giữa WSC ở dạng dung dịch tan trong suốt, không màu với glyoxal
đã tạo thành WSC-glyoxal dạng hydrogel màu vàng đậm (Hình 3.10a). WSC có thể
phản ứng với glyoxal tạo thành hydrogel khi nồng độ của dung dịch nằm trong
khoảng từ 3 đến 10 %. Ở nồng độ thấp hơn, phản ứng có xu hướng tạo thành các tập
hợp sợi nano phân bố trong dung dịch. Tiến hành sấy đông khô chân không 800 mg
hydrogel thu được 200 mg sản phẩm aerogel WSC-glyoxal (Hình 3.10b). Aerogel
thu được giữ nguyên hình dạng của cốc đựng hydrogel và có cấu trúc xốp. So sánh
với aerogel WSC rắn, aerogel WSC-glyoxal có cấu trúc xốp và cứng hơn, có thể cắt
thành những miếng nhỏ hơn mà không bị vỡ vụn (Hình 3.10c).
53
Hình 3.10. (a) Hydrogel WSC-glyoxal, (b) aerogel WSC-glyoxal thu được sau khi
sấy đông khô chân không hydrogel WSC-glyoxal và (c) aerogel WSC-glyoxal sau
khi được cắt thành những miếng nhỏ
3.1.3.2. Một số đặc trưng của vật liệu aerogel WSC-glyoxal
Vật liệu WSC-glyoxal được đặc trưng bởi một số phương pháp như IR, XRD,
TGA, BET và SEM.
Phổ IR của WSC-glyoxal (Hình 3.11) ghi nhận sự có mặt của các dao động
tương tự phổ IR của WSC như dao động tại các số sóng 3300 - 3550 cm1 (dao
động hóa trị của liên kết OH và NH chồng lên nhau), 2865 - 2920 cm1 (dao
động hóa trị của liên kết CH), 1404 cm1 (dao động biến dạng hình kéo của liên
kết NH/NH2). Ngoài ra, phổ IR của WSC-glyoxal còn xuất hiện một số các dao
động tương ứng với các liên kết trong dẫn xuất imine và dẫn xuất acetal. Đó là các
dao động tại số sóng 1067 cm1 (dao động hóa trị không đối xứng của nhóm
COCOC trong acetal), tại 1634 cm1 (dao động hóa trị của nhóm C=N),
và tại 1720 cm1 (dao động hóa trị của nhóm N=CC=O) [10], [122]. Sự có mặt
các dao động của các liên kết trong dẫn xuất imine và dẫn xuất acetal này cũng đã
được ghi nhận trong kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác như Chen và cs
[17], Knaul và cs [62], Yang và cs [142].
54
4500 4000 3500 3000 2500 2000 1500 1000 500
WSC-glyoxal
WSC
Soá soùng (cm-1
)
Ño
ä tru
ye
àn q
ua (
%)
O-H
,N-H
C-H
N=C-C=O
N-H
C=N
,C=O
as (C-O-C-O/acetal)
O-H
,N-H
C-H
N-H
C=N
,C=O
20
%
Hình 3.11. Phổ IR của WSC-glyoxal và WSC
Như vậy, liên kết ngang hóa học (chemical cross-linking) giữa WSC và
glyoxal đã được hình thành trong quá trình điều chế WSC-glyoxal. Phân tử WSC có
chứa các nhóm chức chứa cặp electron tự do như NH2, ÖH. Các nhóm chức này
đóng vai trò như là tác nhân nucleophile tấn công vào liên kết C=O trong phân tử
glyoxal tạo thành các dẫn xuất imine và acetal tương ứng. Các liên kết ngang có thể
hình thành giữa chuỗi polymer của WSC và glyoxal được trình bày trong Hình 3.12.
Vì có sự hình thành liên kết ngang giữa các phân tử glyoxal với các chuỗi polymer
của WSC nên cấu trúc aerogel WSC-glyoxal thu được là khá vững chắc và do đó có
thể cắt thành miếng nhỏ mà không bị vỡ vụn.
55
Hình 3.12. Các liên kết ngang có thể hình thành trong phân tử WSC-glyoxal
(a), (b) dẫn xuất acetal và (c), (d) dẫn xuất imine [142]
Giản đồ XRD của WSC-glyoxal (Hình 3.13a) không thấy xuất hiện peak tinh
thể ở góc nhiễu xạ 2θ ~ 20° đặc trưng cho cấu trúc tinh thể của CTS, mà thay vào
đó là peak tù tương tự như của WSC. Như vậy, aerogel WSC-glyoxal điều chế được
cũng có cấu trúc vô định hình tương tự như WSC ban đầu. Kết quả này một lần nữa
cho thấy đã có sự chuyển pha trong quá trình N-acetyl hóa CTS để điều chế WSC
và WSC-glyoxal.
56
Hình 3.13. Giản đồ (a) XRD và (b) TGA trong không khí của WSC-glyoxal, WSC
và CTS
Giản đồ TGA (hình 3.13b) cho thấy độ bền nhiệt của vật liệu WSC-glyoxal
thấp hơn so với CTS ban đầu nhưng cao hơn so với vật liệu WSC rắn. Điều này có
thể được giải thích là do có cấu trúc vô định hình nên vật liệu aerogel WSC-glyoxal
dễ cháy/phân hủy trong môi trường không khí hơn so với màng CTS có cấu trúc trật
tự ban đầu. Mặt khác, nhờ có sự hình thành các liên kết ngang hóa học giữa các
chuỗi polymer của WSC với glyoxal nên dạng đường cong TGA của WSC-glyoxal
thay đổi so với WSC rắn và nhiệt độ phân hủy/cháy của WSC-glyoxal trong không
khí cũng cao hơn so với WSC.
0,0 0,2 0,4 0,6 0,8 1,0
0
1
2
3
4
5
6
AÙp suaát töông ñoái (P/Po)
Th
eå t
ích
kh
í h
aáp
ph
uï (
cm
3
/g,
ST
P)
Haáp phuï
Khöû haáp phuï
Hình 3.14. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ nitơ của aerogel WSC-glyoxal
0 200 400 600 800
0
20
40
60
80
100
(b)
Kh
oái l
öô
ïng
(%
)
Nhieät ñoä (oC)
CTS
WSC
WSC-glyoxal
57
Đường đẳng nhiệt hấp phụ và khử hấp phụ nitơ của aerogel WSC-glyoxal
(Hình 3.14) thuộc loại II theo phân loại của IUPAC. Đây là dạng đường cong tương
ứng với vật liệu có cấu trúc mao quản lớn. Đường cong này có dạng tương tự như
đường đẳng nhiệt hấp phụ và khử hấp phụ nitơ của vật liệu WSC rắn. Kích thước lỗ
rỗng lớn trong vật liệu aerogel WSC-glyoxal được quan sát rõ hơn trong ảnh SEM
của vật liệu.
Ảnh SEM của aerogel WSC-glyoxal (Hình 3.15) cho thấy aerogel được tạo
thành bởi các tấm có độ dày 10 15 μm, kích thước của các tấm khá lớn, có tấm lên
đến 1 mm2. Các tấm có hình dạng cong, không phẳng và sắp xếp không trật tự.
Khoảng không gian giữa các tấm lớn, kích thước lỗ rỗng có nơi lên đến vài
micromet, lớn hơn rất nhiều so với kích thước lỗ trong aerogel tạo thành từ WSC
rắn.
Hình 3.15. Ảnh SEM của aerogel WSC-glyoxal ở các độ phân giải khác nhau
58
Ảnh SEM cũng cho thấy bề mặt của các tấm aerogel WSC-glyoxal khá mịn
và không quan sát thấy hình dạng sợi trên tấm. Điều này có thể được giải thích là
do các tấm không được tạo thành từ các sợi nano mà từ sự tự sắp xếp của mạng
lưới polymer để tạo thành tấm. Các tấm này có cấu trúc tương tự như các tấm
WSC rắn và khác hoàn toàn so với màng CTS xoắn lớp được tạo thành bởi các sợi
nano ban đầu.
Các kết quả đặc trưng của các vật liệu WSC rắn và aerogel WSC-glyoxal cho
thấy đã có sự chuyển hóa về cấu trúc của CTS ban đầu trong quá trình phân tán và
hóa rắn. Sự chuyển hóa có thể được miêu tả như sau: Quá trình N-acetyl hóa chỉ
chuyển hóa nhóm NH2 trong phân tử CTS thành nhóm NHCOCH3 mà không
gây ảnh hưởng đến chuỗi polymer của CTS. Quá trình này đồng thời đã phá vỡ
liên kết hydro giữa các chuỗi mạch polymer và làm giảm độ tinh thể của CTS ban
đầu. Vì vậy, sản phẩm sau khi N-acetyl hóa có thể hòa tan vào nước và tạo thành
dung dịch chứa các chuỗi polymer có mạch phân tử dài. Hệ thống chuỗi sợi nano
này đã bị phá vỡ trong quá trình hóa rắn. Trong quá trình sấy đông khô chân
không, nước trong dung dịch WSC cũng như trong hydrogel WSC-glyoxal bị đông
đá, sau đó thăng hoa và các chuỗi polymer tự kết hợp với nhau trong điều kiện này
để tạo thành các tấm vô định hình. Các tấm này sắp xếp đan xen với nhau hình
thành cấu trúc đại mao quản aerogel. Quá trình này dẫn đến sự chuyển hóa về cấu
trúc cũng như hình thái so với CTS ban đầu. Sự chuyển hóa này được đề nghị như
trong Sơ đồ 3.1.
59
Sơ đồ 3.1. Sơ đồ mô tả quá trình chuyển hóa hình thái của CTS
Tuy nhiên, điểm đáng chú ý trong nghiên cứu này là độ dài chuỗi polymer của
CTS ban đầu có thể không bị cắt ngắn mà gần như được giữ nguyên trong các vật
liệu aerogel điều chế được. Đồng thời, kết quả các nghiên cứu trước đây cho thấy
quá trình hóa rắn để điều chế aerogel từ dung dịch CTS thường liên quan đến quá
trình bay hơi và loại nước để tạo lỗ rỗng cho các dạng vật liệu xốp và tạo thành các
sợi hơn là có sự thay đổi về hình thái của vật liệu [128], [129]. Những kết quả trong
nghiên cứu này là một trong những báo cáo đầu tiên về sự chuyển hóa cấu trúc từ
các sợi tinh thể nano thành các tấm vô định hình xuất hiện ở trạng thái rắn trong các
dạng vật liệu aerogel WSC rắn và WSC-glyoxal.
3.1.4. Điều chế và đặc trưng vi cầu chitosan
Các vi cầu CTS được điều chế từ dung dịch WSC và glyoxal thông qua phản
ứng tạo liên kết ngang trong hệ vi nhũ tương dầu - nước. Các giọt cầu từ dung dịch
WSC được tạo thành nhờ sự có mặt chất hoạt động bề mặt là Span 80, được làm bền
và cứng bởi tác nhân tạo liên kết ngang là glyoxal. Các vi cầu CTS tạo thành được
lọc, rửa sạch với n-hexane và ethanol sau đó sấy khô. Phương pháp tạo liên kết
ngang trong hệ nhũ tương là một trong số các phương pháp thường được sử dụng để
60
điều chế các vi cầu CTS do có thể kiểm soát được kích thước của các hạt vi cầu
thông qua các yếu tố như tốc độ khuấy, thời gian khuấy, tỉ lệ khối lượng giữa CTS
và tác nhân tạo liên kết ngang. Phương pháp này đã được sử dụng để điều chế các vi
cầu CTS chứa nhiều loại thuốc như 5-fluorouracil, diclofenac sodium,
phenobarbitone, nifedipine, theophyllin, griseofulvin, progesterone… [89]
Ảnh chụp vi cầu CTS dưới kính hiển vi quang học (Hình 3.16a và b) cho
thấy hạt vi cầu CTS điều chế được có đường kính phân bố chủ yếu trong khoảng
từ 10 đến 50 μm. Kích thước hạt vi cầu CTS của Denkbas và cs điều chế được
nằm trong khoảng 10 200 μm [24], của Jameela và cs là 45 300 μm [51],
Ranjan và cs là 75 250 μm [107]. Kích thước của các hạt vi cầu CTS trong
nghiên cứu này phân bố trong khoảng hẹp hơn so với kết quả của một số nghiên
cứu đã nêu trên. Độ đồng đều trong kích thước của các hạt vi cầu là một trong các
yếu tố quan trọng liên quan đến khả năng ứng dụng của nó, đặc biệt là trong lĩnh
vực phân phối thuốc [89].
Hình 3.16. (a), (b) Ảnh chụp dưới kính hiển vi quang học (c) Ảnh SEM và (d) Ảnh
TEM của vi cầu CTS
61
Ảnh SEM và TEM (Hình 3.16c và d) cho thấy các hạt vi cầu đặc, có bề mặt
tương đối nhẵn mịn, được tạo thành từ sự tự sắp xếp của các chuỗi polymer của
CTS. Trên bề mặt các hạt vi cầu này cũng không thấy sự xuất hiện của các sợi nano
CTS, tương tự như các sản phẩm aerogel điều chế được ở trên. Như vậy, trong quá
trình điều chế vi cầu CTS từ dung dịch WSC đã có sự biến mất cấu trúc dạng sợi
của chuỗi polymer CTS ban đầu và thay vào đó là sự kết hợp của các chuỗi sợi
polymer này để tạo thành bề mặt nhẵn mịn trong hạt vi cầu CTS. Vi cầu CTS điều
chế được trong nghiên cứu này có bề mặt mịn giống một số nghiên cứu như
Jameela và cs [51], Shanmuganathan và cs [118]. Trong khi đó, nghiên cứu của
Duan và cs [26] ghi nhận hạt vi cầu CTS giữ nguyên cấu trúc sợi của CTS và dẫn
xuất CTS ban đầu. Hình thái cũng là một trong các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng
giải phóng thuốc trong ứng dụng phân phối thuốc của hạt vi cầu CTS. Jameela và cs
[51] đã điều chế được hạt vi cầu CTS chứa progesterone có bề mặt nhẵn mịn và đã
chứng minh được khả năng giải phóng thuốc của các hạt vi cầu này là chậm và
đồng đều hơn các hạt vi cầu tạo bởi ma trận protein hay lactide/glycolide polymer.
Các hạt vi cầu dạng có bề mặt nhẵn mịn này thường thích hợp trong việc ứng dụng
làm chất mang các loại thuốc cần giải phóng chậm.
Như vậy, trong nghiên cứu này các hạt vi cầu CTS đã được điều chế thành
công từ dung dịch WSC bằng phương pháp tạo liên kết ngang trong hệ nhũ tương
với cấu trúc đặc và bề mặt nhẵn mịn. Quá trình điều chế cũng đã làm biến mất cấu
trúc dạng sợi của CTS trong dung dịch WSC ban đầu.
3.1.5. Điều chế và đặc trưng màng chitosan
Màng WSC thu được bằng cách cho bay hơi từ từ dung dịch WSC (Hình
3.17a). Màng WSC trong suốt, không màu, mềm dẻo, dai và không bị hòa tan trở lại
trong nước (Hình 3.17b). Tuy không bị tan trở lại nhưng màng WSC bị trương
phồng nhẹ khi được ngâm trong nước trong một thời gian dài. Màng WSC đã được
xử lý bằng dung dịch kiềm loãng (Hình 3.17c,d). Mặc dù WSC tan tốt ở trong nước
nhưng màng WSC thu được lại trở nên bền và không tan trở lại ở trong nước. Điều
62
này chứng tỏ đã có sự thay đổi trong cấu trúc của màng WSC so với sợi WSC trong
dung dịch ban đầu.
Hình 3.17. (a) Màng WSC thu được sau khi sấy khô dung dịch WSC
(b) Màng WSC không tan trở lại ở trong nước
(c) Xử lý màng WSC trong dung dịch NaOH loãng
(d) Màng WSC được sấy khô sau khi xử lý với kiềm loãng
Trên hình ảnh SEM của màng WSC (Hình 3.18b) không tìm thấy sự có mặt
của các sợi nano trên bề mặt của màng như màng CTS xoắn lớp ban đầu (Hình
3.18a). Như vậy, cấu trúc sợi của màng CTS ban đầu đã biến mất sau quá trình N-
acetyl hóa, hòa tan và làm bay hơi nước. Quá trình làm bay hơi nước trong dung
dịch WSC đã dẫn đến sự kết hợp các chuỗi sợi WSC để tạo thành các tấm vô định
hình trong quá trình tạo màng.
Hình 3.18. Ảnh SEM bề mặt (a) màng CTS ban đầu và (b) màng WSC điều chế từ
dung dịch WSC sau khi được xử lý với dung dịch kiềm loãng
63
Giản đồ XRD của màng WSC (Hình 3.19a) không xuất hiện peak tinh thể
vào, đặc biệt là peak tinh thể đặc trưng của CTS ở góc nhiễu xạ 2θ ~ 20°. Kết quả
này cho thấy màng WSC có cấu trúc vô định hình. Kết quả phân tích TGA trong
không khí (Hình 3.19b) cho thấy màng WSC trước khi được xử lý với dung dịch
kiềm loãng bắt đầu bị phân hủy ở nhiệt độ 285 °C và phân hủy/cháy hoàn toàn ở
625 °C. Nhưng sau khi được xử lý với dung dịch kiềm, màng WSC bắt đầu bị phân
hủy/cháy ở nhiệt độ cao hơn 320 °C và bị phân hủy hoàn toàn ở nhiệt độ 675 °C.
Như vậy quá trình xử lý với kiềm loãng đã cải thiện độ bền nhiệt của màng WSC
điều chế được. Điều này có thể được giải thích là do kiềm đã phản ứng với nhóm –
NHCOCH3 để giải phóng nhóm –NH2 trong chuỗi polymer của WSC. Quá trình này
đã làm tăng số lượng nhóm –NH2 nên đã tăng cường sự tạo thành liên kết hydro
giữa các chuỗi polymer, dẫn đến cải thiện độ bền cơ học cũng như độ bền nhiệt của
màng WSC.
Hình 3.19. (a) Giản đồ XRD của màng WSC sau khi xử lý với kiềm loãng và
(b) Giản đồ TGA của màng WSC trước (WSC(t)) và sau (WSC(s)) khi xử lý với
kiềm loãng
Những kết quả đặc trưng trên cho thấy sự tạo thành màng WSC từ dung dịch
WSC cũng có kèm theo sự thay đổi về hình thái của vật liệu tương tự như quá trình
tạo WSC rắn. Các chuỗi polymer WSC đã tương tác với nhau và tự kết hợp lại trong
64
quá trình hóa rắn dẫn đến sự biến mất hình dạng sợi nano của chuỗi polymer ban
đầu trong màng WSC.
* Kết luận phần 3.1:
Trong phần nội dung nghiên cứu này, luận án đã thu được các kết quả sau:
- Màng CTS có cấu trúc sợi xoắn lớp kiểu Bouligand đã được điều chế thành
công từ vỏ cua và màng CTS đã được sử dụng để điều chế dung dịch WSC và WSC
rắn. Kết quả phân tích đặc trưng cho thấy quá trình N-acetyl hóa đã chuyển hóa các
sợi tinh thể nano chitosan thành sản phẩm N-acetylated chitosan có cấu trúc vô định
hình và tan tốt trong nước. Đồng thời, quá trình sấy đông khô chân không đã kèm
theo sự tự kết hợp các sợi chitosan tan thành các tấm vô định hình trong sản phẩm
WSC rắn dạng xốp aerogel.
- Dung dịch WSC đã được sử dụng làm tiền chất để điều chế một số dạng vật
liệu khác của CTS. Đó là hydrogel CTS, aerogel WSC-glyoxal, vi cầu WSC-
glyoxal và màng CTS. Các vật liệu điều chế đã được đặc trưng bằng các phương
pháp IR, XRD, TGA, BET, UV-vis, SEM và TEM.
- Những kết quả đặc trưng của các vật liệu điều chế được đã ghi nhận có sự
tạo thành liên kết ngang giữa chitosan và glyoxal trong các vật liệu aerogel và vi
cầu chitosan. Đồng thời, có sự biến mất cấu trúc sợi tinh thể nano của chitosan
trong màng chitosan xoắn lớp ban đầu trong các vật liệu điều chế được. Quá trình
sấy khô đã kèm theo sự tự kết hợp các sợi nano acetylated chitosan thành các tấm
vô định hình trong các vật liệu aerogel và màng. Đây là một trong số những phát
hiện mới về sự chuyển hóa cấu trúc và hình thái của CTS trong quá trình điều chế
các vật liệu WSC.
3.2. TỔNG HỢP POLYTHIOPHENE/CHITOSAN VÀ ỨNG DỤNG TRONG
PHÂN TÍCH ĐIỆN HÓA
Trong phần nội dung này, màng CTS được nghiên cứu sử dụng để tổng hợp
vật liệu polythiophene/chitosan (PTh/CTS) bằng phương pháp polymer hóa oxy
hóa. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp vật liệu PTh/CTS đã được khảo
65
sát, bao gồm thời gian, nhiệt độ và tỉ lệ số mol giữa thiophene và chất oxy hóa. Vật
liệu PTh/CTS cũng đã được nghiên cứu biến tính điện cực than thủy tinh ứng dụng
trong xác định đồng thời axit uric, xanthin, hypoxanthin và cafein.
3.2.1. Kết quả khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp vật liệu
polythiophene/chitosan
3.2.1.1. Ảnh hưởng của thời gian
Hình 3.20. Các sản phẩm PTh/CTS ở các thời gian khảo sát (a) PTh/CTS-4h,
(b) PTh/CTS-5h, (c) PTh/CTS-6h, (d) PTh/CTS-7h
Tiến hành khảo sát quá trình tổng hợp PTh/CTS ở các thời gian 4, 5, 6 và
7 giờ thu được các sản phẩm PTh/CTS được trình bày ở Hình 3.20.
Các sản phẩm PTh/CTS-4h, PTh/CTS-5h, PTh/CTS-6h và PTh/CTS-7h đều
có màu đen và óng ánh. Các sản phẩm PTh/CTS-4h, PTh/CTS-5h và PTh/CTS-6h
vẫn giữ nguyên hình dạng của màng CTS ban đầu. Riêng mẫu PTh/CTS-7h có hiện
tượng màng bắt đầu bị rã nát và không còn giữ hình dạng nguyên vẹn của màng
CTS ban đầu như các mẫu PTh/CTS-4h, PTh/CTS-5h và PTh/CTS-6h. Hàm lượng
PTh trong composite PTh/CTS được tính theo công thức (2.1). Ảnh hưởng của thời
gian phản ứng đến hàm lượng PTh trong composite được trình bày ở Bảng 3.2.
66
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến hàm lượng PTh trong composite
Thời gian
(giờ)
mCTS
(g)
mPTh/CTS
(g)
Hàm lượng
PTh
(%)
Hàm lượng
PTh
trung bình
(%)
4
0,252 0,308 18,2
17,6 0,253 0,305 17,0
0,255 0,310 17,7
5
0,250 0,310 19,4
19,6 0,255 0,318 19,8
0,256 0,318 19,5
6
0,256 0,326 21,5
20,6 0,254 0,320 20,6
0,249 0,310 19,7
7
0,252 0,310 18,7
18,4 0,246 0,298 17,4
0,255 0,315 19,0
Kết quả ở Bảng 3.2 cho thấy hàm lượng PTh trong composite tương ứng với
các sản phẩm PTh/CTS-4h, PTh/CTS-5h, PTh/CTS-6h và PTh/CTS-7h lần lượt là
17,6 %; 19,6 %; 20,6 % và 18,4 %. Như vậy hàm lượng PTh trong composite đạt
giá trị cao nhất ở sản phẩm PTh/CTS-6h tương ứng với thời gian phản ứng là 6 giờ.
Ảnh SEM bề mặt của các mẫu PTh/CTS cho thấy các hạt PTh có dạng hình
cầu, liên kết với màng CTS (Hình 3.21). Kích thước các hạt cầu PTh ở các mẫu
khảo sát là khá đồng đều nhau. Kết quả còn cho thấy khi thời gian phản ứng tăng,
hình dạng hạt cầu của PTh cũng được hoàn thiện hơn, trong đó mẫu PTh/CTS-6h có
sự tạo thành các hạt cầu PTh với kích thước và phân bố đồng đều trên màng CTS
hơn so với các mẫu còn lại.
67
Hình 3.21. Ảnh SEM bề mặt của các mẫu vật liệu PTh/CTS tổng hợp ở các thời
gian khác nhau (a) PTh/CTS-4h; (b) PTh/CTS-5h; (c) PTh/CTS-6h và
(d) PTh/CTS-7h
Kết hợp các kết quả hàm lượng PTh trong composite và ảnh SEM, thời gian
thích hợp cho quá trình tổng hợp PTh/CTS được lựa chọn trong các nghiên cứu tiếp
theo là 6 giờ.
3.2.1.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ
Tiến hành khảo sát quá trình tổng hợp PTh/CTS ở các nhiệt độ 30 °C, 40 °C,
50 °C, 60 °C và 70 °C thu được các sản phẩm PTh/CTS được trình bày ở Hình 3.22.
Hình 3.22. Các sản phẩm PTh/CTS ở các nhiệt độ khảo sát (a) PTh/CTS-30,
(b) PTh/CTS-40, (c) PTh/CTS-50, (d) PTh/CTS-60 và (e) PTh/CTS-70
68
Về mặt cảm quan, các sản phẩm PTh/CTS thu được ở các nhiệt độ khảo sát
khác nhau rõ rệt về màu sắc. Sản phẩm tổng hợp ở 30 °C có màu trắng và gần như
không thay đổi so với màng CTS ban đầu. Khi tăng nhiệt độ phản ứng, sản phẩm
thu được có màu sắc đậm dần từ nâu đến đen. Các mẫu PTh/CTS-30, PTh/CTS-40,
PTh/CTS-50 và PTh/CTS-60 đều giữ nguyên hình dạng của màng CTS ban đầu.
Riêng mẫu tổng hợp ở 70 °C bị phân rã thành bột mịn, không thể thu được sản
phẩm ở dạng màng, rất khó để rửa sạch và phân tách sản phẩm. Vì vậy, hàm lượng
PTh trong composite không thể tính được đối với mẫu PTh/CTS-70. Kết quả hàm
lượng PTh đối với các mẫu PTh/CTS-30, PTh/CTS-40, PTh/CTS-50 và PTh/CTS-
60 được trình bày ở Bảng 3.3.
Kết quả ở Bảng 3.3 cho thấy hàm lượng PTh trong composite của các mẫu
PTh/CTS-30, PTh/CTS-40, PTh/CTS-50 và PTh/CTS-60 tăng dần và có các giá trị
tương ứng là 4,8 %; 10,2 %; 15,6 % và 20,2 %. Như vậy, quá trình tổng hợp đạt
hiệu suất cao nhất tại nhiệt độ 60 °C với hàm lượng PTh trong sản phẩm PTh/CTS
là 20,2%.
69
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ phản ứng đến hàm lượng PTh trong composite
Nhiệt độ
(°C)
mCTS
(g)
mPTh/CTS
(g)
Hàm lượng PTh
(%)
Hàm lượng PTh
trung bình
(%)
30
0,254 0,267 4,9
4,8 0,256 0,271 5,5
0,256 0,267 4,1
40
0,253 0,281 10,0
10,2 0,246 0,276 10,9
0,248 0,275 9,8
50
0,251 0,298 15,8
15,6 0,253 0,297 14,8
0,252 0,301 16,3
60
0,250 0,310 19,4
20,2 0,246 0,310 20,6
0,256 0,322 20,5
Ảnh SEM bề mặt của mẫu PTh/CTS-30 (Hình 3.23a) không quan sát thấy sự
có mặt của các hạt cầu PTh mà chủ yếu là các sợi nano CTS. Khi tăng nhiệt độ phản
ứng từ 40 đến 60 °C, trên bề mặt màng CTS có sự hình thành các hạt cầu PTh với
số lượng tăng dần và hoàn thiện hơn. Mẫu PTh/CTS-40 (Hình 3.23b) có sự hình
thành PTh ở dạng hạt cầu kèm theo các vảy lớn. Số lượng hạt cầu tăng dần và phân
bố đồng đều hơn trong các mẫu PTh/CTS-50 (Hình 3.23c) và PTh/CTS-60 (Hình
3.23d). Trong đó, ảnh SEM của mẫu PTh/CTS-60 cho thấy hạt cầu PTh tạo thành
với số lượng nhiều và kích thước đồng đều nhất.
70
Hình 3.23. Ảnh SEM bề mặt của PTh/CTS tổng hợp được ở các nhiệt độ khác nhau
(a) PTh/CTS-30 (b) CTS- PTh40 (c) PTh/CTS-50 (d) PTh/CTS-60
Kết hợp các kết quả ở trên, nhiệt độ thích hợp được lựa chọn cho quá trình
tổng hợp PTh/CTS là 60 °C.
3.2.1.3. Ảnh hưởng của tỉ lệ số mol thiophene và chất oxy hóa
Hình 3.24. Các sản phẩm PTh/CTS thu được khi khảo sát ở các tỉ lệ giữa số mol
của thiophene và chất oxy hóa (NH4)2S2O8 khác nhau
(a) PTh/CTS-0,8 (b) PTh/CTS-1,0 (c) PTh/CTS-1,2 (d) PTh/CTS-1,4
Các tỉ lệ số mol thiophene và chất oxy hóa (NH4)2S2O8 ban đầu được lựa
chọn để được khảo sát là 1:0,5; 1:1; 1:1,5 và 1:2. Quá trình tổng hợp các mẫu
71
PTh/CTS ở trên quan sát thấy mẫu PTh/CTS-2,0 bị rã nát, mẫu PTh/CTS-1,5 cũng
bắt đầu có hiện tượng phân hủy màng. Vì vậy khoảng tỉ lệ số mol thiophene và
(NH4)2S2O8 được lựa chọn để khảo sát tiếp theo lần lượt là 1:0,8; 1:1; 1:1,2 và 1:1,4.
Các sản phẩm PTh/CTS tương ứng được trình bày ở Hình 3.24.
Về tính chất cảm quan, PTh/CTS-0,8; PTh/CTS-1,0; PTh/CTS-1,2 và
PTh/CTS-1,4 là không khác nhau. Cả 4 mẫu sản phẩm đều có màu đen, óng ánh và
giữ nguyên hình dạng của màng CTS ban đầu. Kết quả hàm lượng PTh trong
composite đối với các mẫu PTh/CTS-0,8; PTh/CTS-1,0; PTh/CTS-1,2 và PTh/CTS-
1,4 được trình bày ở Bảng 3.4.
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của tỉ lệ số mol của thiophene và (NH4)2S2O8 đến hàm lượng
PTh trong composite
Tỉ lệ số mol
Thiophene:
(NH4)2S2O8
mCTS
(g)
mPTh/CTS
(g)
Hàm lượng PTh
(%)
Hàm lượng
PTh trung bình
(%)
1:0,8
0,248 0,293 15,4
15,1 0,254 0,298 14,8
0,258 0,304 15,1
1:1
0,251 0,298 15,8
16,8 0,249 0,299 16,7
0,255 0,311 18,0
1:1,2
0,245 0,3 18,3
19,1 0,252 0,314 19,7
0,253 0,314 19,4
1:1,4
0,255 0,304 16,1
16,3 0,25 0,298 16,1
0,248 0,298 16,8
72
Kết quả ở Bảng 3.4 cho thấy hàm lượng PTh trong composite có giá trị lần
lượt là 15,1 %; 16,8 %; 19,1 % và 16,3 %. Như vậy, hàm lượng PTh trong
composite đạt giá trị cao nhất khi sử dụng tỉ lệ số mol giữa thiophene và
(NH4)2S2O8 là 1:1,2.
Kết quả chụp SEM bề mặt cho thấy mẫu PTh/CTS-1,2 thu được số lượng hạt
cầu PTh lớn và phân bố đồng đều trên bề mặt màng CTS. Các mẫu PTh/CTS-0,8;
PTh/CTS-1,0 và PTh/CTS-1,4 ghi nhận số lượng các hạt cầu PTh ít hơn nhiều và
các hạt cầu PTh phân bố rời rạc trên màng CTS (Hình 3.25). Vì vậy, tỉ lệ số mol
thiophene và (NH4)2S2O8 thích hợp được lựa chọn là 1:1,2.
Hình 3.25. Ảnh SEM bề mặt các sản phẩm PTh/CTS tương ứng với các tỉ lệ số mol
(NH4)2S2O8 và thiophene khảo sát (a) PTh/CTS-0,8 (b) PTh/CTS-1,0
(c) PTh/CTS-1,2 và (d) PTh/CTS-1,4
Từ các kết quả khảo sát ở trên, điều kiện thích hợp được lựa chọn để tổng
hợp PTh/CTS từ Th và CTS là thực hiện phản ứng ở 60 °C trong thời gian 6 giờ với
tỉ lệ số mol thiophene : (NH4)2S2O8 tương ứng là 1:1,2.
73
Hình 3.26. (a) Màng CTS ban đầu (b) Sản phẩm PTh/CTS tổng hợp được
Sản phẩm PTh/CTS tổng hợp được có màu đen, giòn và dễ gãy hơn so với
màng CTS ban đầu. Mặt khác, màng PTh/CTS vẫn giữ nguyên hình dạng của màng
CTS ban đầu và có lấp lánh ánh cầu vồng (Hình 3.26b). Màng PTh/CTS bền, có
trương nhẹ khi ngâm lâu trong nước. Khi tiến hành siêu âm màng trong nước thì
thấy màng có bị trương nhẹ nhưng không có sự phân cắt các hạt cầu PTh trên bề
mặt màng PTh/CTS vào trong nước. Điều này chứng tỏ giữa CTS và thiophene đã
hình thành liên kết rất bền vững, khó bị cắt đứt.
Vật liệu PTh/CTS đã được đặc trưng bằng một số phương pháp bao gồm IR,
XRD, EDX, TGA, SEM và TEM.
3.2.2. Một số đặc trưng vật liệu polythiophene/chitosan
3.2.2.1. Phổ hồng ngoại
Phổ IR của PTh/CTS (Hình 3.27a) xuất hiện các peak dao động đặc trưng
của các nhóm chức có mặt trong phân tử CTS như dao động hóa trị của liên kết
OH và NH (chồng lên nhau) ở số sóng 3451 cm1, dao động hóa trị của liên kết
CH ở số sóng 2994 cm1, dao động hóa trị không đối xứng của liên kết COC
(liên kết 1,4-glicozit) ở số sóng 1105 cm1, dao động hóa trị của liên kết C=O
(nhóm amit) ở số sóng 1645 cm1, dao động hóa trị của liên kết CN tại 1317 cm1.
Đồng thời, phổ IR của PTh/CTS cũng có mặt các peak đặc trưng của các liên kết
trong phân tử PTh như dao động hóa trị của liên kết CC giữa hai vòng thơm ở số
sóng 2932 cm1, dao động hóa trị của các liên kết C=C trong vòng thơm ở số sóng
1645 cm1 và dao động hóa trị của liên kết CS ở số sóng 617 cm1.
74
4500 4000 3500 3000 2500 2000 1500 1000 500
O-H
(H2
O)
C=C
,C=O
O-H
,N-H
O-H
,N-H
CTS
PTh
PTh-CTS
Ño
ä tru
ye
àn q
ua (
%)
Soá soùng (cm-1
)
20
%
C-H
C-C (voøng thôm)
C=O,
C=C
C-N
as (C-O-C)
C-S
C-H
C=O
,C=C
C-N
as (C-O-C)
C-S
C-C (voøng thôm)
Hình 3.27. Phổ IR của PTh/CTS, PTh và CTS
3.2.2.2. Phổ tán xạ năng lượng tia X
Kết quả phân tích EDX (Hình 3.28) cho thấy sự có mặt của các nguyên tố C,
O, S trong mẫu vật liệu. Đây chính là các nguyên tố cấu thành của CTS và
thiophene.
Hình 3.28. Phổ EDX của vật liệu PTh/CTS
75
3.2.2.3. Phân tích nhiệt trọng lượng
Kết quả phân tích nhiệt trọng lượng của CTS, PTh, PTh/CTS và hỗn hợp
gồm CTS và PTh có tỉ lệ khối lượng tương ứng là 80 : 20 được trình bày ở Hình
3.29. Giản đồ TGA cho thấy PTh/CTS có 3 giai đoạn mất khối lượng. Giai đoạn thứ
nhất, từ khoảng 40 – 170 °C là sự mất khối lượng do nước hấp phụ lên vật liệu. Giai
đoạn mất khối lượng thứ hai là nằm trong khoảng nhiệt độ 170 – 300 °C tương ứng
với quá trình cắt đứt các liên kết giữa các mắt xích trong chuỗi polymer của CTS và
chuỗi polymer của PTh. Đồng thời các đơn vị mắt xích trong các chuỗi polymer này
cũng bị phân hủy/cháy một phần tạo thành các phân tử dễ bay hơi như H2O, H2S...
Khoảng mất khối lượng thứ ba, ở nhiệt độ từ 538 – 750 °C, tương ứng với sự phân
hủy/cháy của sản phẩm PTh/CTS, phân cắt các liên kết giữa CTS và PTh để tạo
thành các sản phẩm có khối lượng nhỏ hơn. Ngoài ra, giản đồ TGA của PTh/CTS
còn ghi nhận một khoảng bền nhiệt lớn của vật liệu (từ ~300 °C đến ~550 °C). Và
kết quả này không quan sát thấy trong giản đồ TGA của các mẫu CTS, PTh cũng
như hỗn hợp (CTS:PTh = 80:20).
0 200 400 600 800 1000
0
20
40
60
80
100
Khèi
lîng (
%)
NhiÖt ®é (oC)
CTS
PTh
PTh-CTS
hçn hîp CTS & PTh
Hình 3.29. Giản đồ TGA của PTh/CTS, CTS, PTh và hỗn hợp (CTS: PTh = 80:20)
76
Giản đồ TGA của vật liệu PTh/CTS có sự khác biệt rõ rệt về hình dạng so
với giản đồ TGA của vật liệu PTh, CTS riêng biệt cũng như giản đồ TGA của hỗn
hợp CTS và PTh. Kết quả phân tích TGA cho thấy tính chất nhiệt của vật liệu
PTh/CTS tổng hợp được đã có sự thay đổi so với các chất ban đầu cũng như
homopolymer PTh được tạo thành. Điều này cho thấy có thể đã có sự xuất hiện
tương tác hóa học và vật lý mới giữa các nhóm chức trong chuỗi polymer của CTS
và các nhóm chức trong chuỗi polymer của PTh.
3.2.2.4. Giản đồ nhiễu xạ tia X
Giản đồ XRD của CTS xuất hiện 2 đỉnh peak tinh thể ở góc nhiễu xạ 2θ =
10° và 20° tương ứng với 2 mặt phẳng phản xạ (020) và (110) của CTS (Hình 3.30).
Tuy nhiên hai đỉnh này đã biến mất trong giản đồ XRD của PTh/CTS. Giản đồ
XRD của PTh/CTS không xuất hiện peak tinh thể nào và tương tự với giản đồ XRD
của PTh. Kết quả này chứng tỏ sản phẩm PTh/CTS có độ tinh thể không cao. Điều
này được giải thích là do có thể có sự hình thành liên kết trong quá trình ghép các
polymer CTS và PTh làm cho sản phẩm PTh/CTS có độ phân nhánh cao nên gây
khó khăn cho quá trình sắp xếp vào mạng tinh thể một cách trật tự, mà thay vào đó
là sự sắp xếp một cách ngẫu nhiên. Chính vì vậy, sản phẩm tạo thành không kết tinh
hoặc có độ kết tinh không cao.
10 20 30 40 50 60
0
40
80
120
160
Goùc nhieãu xaï 2(ñoä)
(020)
(110)
Cö
ôøn
g ñ
oä (
cp
s)
CTS
PTh
PTh-CTS
Hình 3.30. Giản đồ XRD của CTS, PTh và PTh/CTS
77
3.2.2.5. Ảnh kính hiển vi điện tử quét
Đặc điểm cấu trúc và hình thái của vật liệu CTS và PTh/CTS được đánh giá
qua ảnh SEM. Màng PTh/CTS thu được quan sát thấy có óng ánh tương tự màng
CTS ban đầu. Điều này dự đoán cấu trúc của màng PTh/CTS và màng CTS ban đầu
là tương tự nhau. Ảnh SEM mặt cắt (Hình 3.31c,d) ghi nhận màng PTh/CTS vẫn
tồn tại cấu trúc các sợi nano xếp thành từng lớp song song với nhau, mỗi lớp có độ
dày khoảng 1,0 – 2,0 μm. Kết quả này cho thấy sản phẩm PTh/CTS vẫn giữ nguyên
cấu trúc xoắn lớp kiểu Bouligand của màng CTS ban đầu. Ảnh SEM bề mặt của
PTh/CTS (Hình 3.31a,b) cho thấy polymer PTh có dạng hình cầu, kích thước khá
đồng đều và phủ kín trên bề mặt của màng CTS. Các hạt cầu có kích thước khoảng
50 – 150 nm liên kết với nhau và bao phủ kín bề mặt màng. Sự phát triển thành hình
dạng hạt cầu của PTh trong điều kiện thí nghiệm này là tương tự với kết quả nghiên
cứu của một số tác giả như Liu và cs [78], Cabuk và cs [12].
Hình 3.31. Ảnh SEM của vật liệu PTh/CTS (a,b) bề mặt và (c,d) mặt cắt ở các độ
phân giải khác nhau
78
3.2.2.6. Ảnh kính hiển vi điện tử truyền qua
Hình 3.32. Ảnh TEM của sợi nano PTh/CTS
Ảnh TEM (Hình 3.32) cho thấy sợi nano của CTS được bao quanh bởi các
hạt cầu nano PTh. Kích thước của các hạt cầu này nhỏ hơn rất nhiều so với các hạt
cầu trên bề mặt của màng PTh/CTS. Sự phát triển của các hạt cầu nano PTh/CTS
trên nền sợi nano CTS phụ thuộc vào khoảng không gian giữa các sợi nano và giữa
các lớp sợi nano. Bề mặt màng CTS có không gian thoáng hơn nên dẫn đến sự hình
thành các hạt cầu có kích thước lớn. Ngược lại, không gian bên trong màng CTS,
giữa các sợi và các lớp sợi nhỏ hơn rất nhiều nên kích thước của các hạt cầu cũng
nhỏ hơn.
Như vậy, từ các kết quả đặc trưng vật liệu, sản phẩm màng polymer
PTh/CTS thu được có cấu trúc lớp xoắn trái kiểu Bouligand. Sự hình thành liên kết
giữa các hạt cầu nano PTh với các sợi nano CTS đã không phá vỡ cấu trúc của
màng CTS ban đầu. Đây là một trong những cấu trúc mới lần đầu tiên được tổng
hợp của polymer PTh/CTS cũng như giữa CTS và các polymer dẫn khác.
3.2.3. Đánh giá ứng dụng biến tính điện cực than thủy tinh để phát hiện đồng
thời axit uric, xanthin, hypoxanthin và cafein
Trong nghiên cứu này, vật liệu PTh/CTS được sử dụng để biến tính GCE.
Các đặc tính điện hóa của UA, XA, HX và CA trên bề mặt điện cực biến tính đã
được đánh giá bằng phương pháp von-ampe vòng (CV) và phương pháp von-ampe
hòa tan anot xung vi phân (DP-ASV). Điện cực biến tính cũng được nghiên cứu khả
79
năng ứng dụng trong việc xác định đồng thời UA, XA và HX trong mẫu thực tế
(mẫu nước tiểu) bằng phương pháp DP-ASV.
3.2.3.1. Lựa chọn điện cực làm việc
Phương pháp CV và DP-ASV được sử dụng để nghiên cứu đối với ba loại
điện cực: GCE; PTh-CTS/GCE và GCE biến tính bởi PTh/CTS được hoạt hóa bằng
điện hóa (PTh-CTS(act)/GCE). Điện cực PTh-CTS/GCE và PTh-CTS(act)/GCE
được chuẩn bị bằng cách sử dụng kỹ thuật phủ vật liệu PTh/CTS (phân tán trong
nước) lên bề mặt điện cực GCE rồi để khô ở nhiệt độ phòng (PTh-CTS/GCE). Sau
đó, PTh/CTS được hoạt hóa thành PTh/CTS(act) bằng phương pháp CV. Quá trình
CV được thực hiện bằng cách quét thế trong khoảng từ 0 đến -1,7 V với tốc độ quét
50 mVs-1 và số vòng quét là 9 vòng thu được điện cực PTh-CTS(act)/GCE.
Thí nghiệm được thực hiện đối với 3 điện cực GCE; PTh-CTS/GCE và PTh-
CTS(act)/GCE như sau: dung dịch nghiên cứu có thể tích 10 mL bao gồm đệm BRB
0,04 M (pH 7,0) và các chất phân tích UA, XA, HX và CA có nồng độ 3.10-4 M.
Tiến hành quét CV và DP-ASV, mỗi lần quét lặp lại 4 lần, với các thông số của
phép đo như Bảng 2.3 và Bảng 2.4. Kết quả được trình bày ở Hình 3.33.
0,0 0,4 0,8 1,2 1,6
0
10
20
30
40(a)
I (
A)
E (V)
GCE
PTh-CTS/GCE
PTh-CTS(act)/GCE
UA
XA HXCA
0,0 0,4 0,8 1,2 1,60
5
10
15
20
25
30
CAHX
XA
UA
(b')
I (
A)
E (V)
GCE
PTh-CTS/GCE
PTh-CTS(act)/GCE
GCE PTH/GCE PTH(act)/GCE0
2
4
6
8
10
12
14 UA
E
G
I
(b)
Hình 3.33. Các đường (a) CV và (b) DP-ASV của UA, XA, HX và CA sử dụng các
loại điện cực khác nhau; hình (b’): cường độ dòng đỉnh của UA, XA, HX và CA khi
sử dụng các loại điện cực khác nhau bằng phương pháp DP-ASV.
ĐKTN như Bảng 2.3 và Bảng 2.4
80
Kết quả ở Hình 3.33 cho thấy cả ba điện cực đều cho tín hiệu dòng đỉnh hòa
tan của bốn chất phân tích UA, XA, HX và CA. Trong đó, điện cực PTh-
CTS(act)/GCE cho tín hiệu dòng đỉnh hòa tan cao hơn hai điện cực GCE và PTh-
CTS/GCE. Điều này được giải thích là do quá trình quét CV điện cực PTh-
CTS/GCE đã khử một số nhóm chức chứa oxy của PTh/CTS. Mặt khác, các quá
trình oxi hóa và khử xảy ra khi tiến hành quét CV điện cực PTh-CTS/GCE đã có
kèm theo sự trao đổi ion trên mạch polymer của PTh. Do đó, vật liệu PTh/CTS dẫn
điện tốt hơn khi được hoạt hóa bằng phương pháp CV [72]. Vì vậy, điện cực PTh-
CTS(act)/GCE cho kết quả tốt hơn so với PTh-CTS/GCE khi ứng dụng phân tích
đồng thời UA, XA, HX và CA nên điện cực PTh-CTS(act)/GCE được lựa chọn
trong các nghiên cứu tiếp theo.
Thông qua các kết quả nghiên cứu các thông số ảnh hưởng đến tín hiệu hòa
tan (IP và EP) của các chất phân tích UA, XA, HX và CA bằng phương pháp DP-
ASV sử dụng điện cực biến tính PTh-CTS(act)/GCE, các điều kiện thí nghiệm thích
hợp được tóm tắt trong Bảng 3.5.
Bảng 3.5. Các điều kiện thích hợp để xác định UA, XA, HX, CA bằng phương pháp
DP-ASV sử dụng điện cực biến tính PTh-CTS(act)/GCE.
STT Thông số Kí hiệu Đơn vị Giá trị
1 Tốc độ quay điện cực ω vòng/ phút 2000
2 Khoảng quét thế Erange V -0,6 ÷ 1,6
3 Thời gian nghỉ trest giây 5
4 Biên độ xung vi phân ∆E V 0,07
5 Thế làm giàu Eacc V -0,6
6 Thời gian làm giàu tacc giây 10
7 Thời gian mỗi bước thế tstep giây 0,3
8 Bước nhảy thế Ustep V 0,006
9 Tốc độ quét thế v mVs-1 20
81
3.2.3.2. Đặc tính điện hóa của các chất phân tích trên điện cực biến tính
Các đặc tính điện hóa của các chất phân tích UA, XA, HX và CA xảy ra trên
bề mặt điện cực PTh-CTS(act)/GCE được nghiên cứu thông qua sự ảnh hưởng của
pH và tốc độ quét thế (ν).
* Ảnh hưởng của pH
Quá trình oxy hóa UA, XA, HX và CA thường phụ thuộc vào pH của dung
dịch [98]. pH ảnh hưởng tới thế đỉnh hòa tan (Ep) và cường độ dòng đỉnh hòa tan
(Ip) của các chất phân tích. Vì vậy, việc khảo sát để chọn giá trị pH thích hợp là cần
thiết [69], [149]. Trong nghiên cứu này, đặc tính điện hóa của UA, XA, HX và CA
trên bề mặt điện cực đã được nghiên cứu ở các giá trị pH khác nhau của dung dịch
đệm BRB bằng phương pháp DP-ASV. Dung dịch nghiên cứu có thể tích 10 mL
chứa các chất UA, XA, HX và CA có nồng độ 3.10-4 M trong đệm BRB 0,04 M với
pH có giá trị thay đổi từ 2,0 đến 9,0. Các thí nghiệm được tiến hành đo lặp lại 4 lần,
ĐKTN như Bảng 3.5.. Kết quả được trình bày ở Hình 3.34.
0,0 0,4 0,8 1,2 1,60
25
50
75
100
125
I (m
A)
E (V)
9
8
7
6
5
4
3
2
(a)
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
0
4
8
12
16
20(b)
UA
XA
HX
CA
I p (
A)
pH
Hình 3.34. (a) Các đường DP-ASV và (b) IP tại các pH khác nhau.
Kết quả ở Hình 3.34 cho thấy tín hiệu hòa tan của bốn chất UA, XA, HX và
CA phụ thuộc vào pH của dung dịch. Tại các giá trị pH từ 2,0 đến 4,0 tín hiệu hòa
tan của hai chất phân tích HX và CA chưa tách ra khỏi nhau. Khi pH của dung
dịch bằng 5,0 đến 9,0 tín hiệu hòa tan của bốn chất UA, XA, HX và CA đã tách
hẵn ra khỏi nhau. Trong khoảng pH này, Ip của các chất phân tích tăng dần khi pH
tăng và đạt cực đại tại pH 7,0 và sau đó lại giảm xuống tại pH 8,0 và 9,0. Như
82
vậy, tại giá trị pH 7,0 tín hiệu hòa tan của bốn chất phân tích tách hẵn ra khỏi nhau
và có giá trị Ip lớn. Vì vậy, pH 7,0 là giá trị thích hợp được lựa chọn cho các
nghiên cứu tiếp theo.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 100,0
0,2
0,4
0,6
0,8
1,0
1,2
1,4 UA
XA
HX
CAE
p (
V)
pH
Hình 3.35. Các đường hồi quy tuyến tính biểu diễn mối tương quan giữa Ep và pH.
Mặt khác, khi tăng pH của dung dịch, Ep của 4 chất phân tích đều dịch
chuyển về phía âm hơn. Điều này chứng tỏ đã có sự tham gia của proton vào các
phản ứng xảy ra trên bề mặt điện cực [69], [136]. Tiến hành xây dựng phương trình
hồi quy tuyến tính biểu diễn mối tương quan giữa Ep (V) của UA, XA, HX và CA
với pH của dung dịch thu được kết quả biểu diễn trên Hình 3.35 và các phương
trình hồi quy tuyến tính (3.1), (3.2), (3.3) và (3.4).
Ep,UA = (0,641 0,013) + (-0,060 0,002)pH ; r = 0,996 (3.1)
Ep,XA = (1,011 0,013) + (-0,057 0,002)pH ; r = 0,996 (3.2)
Ep,HX = (1,400 0,034) + (-0,063 0,005)pH ; r = 0,991 (3.3)
Ep,CA = (1,306 0,028) + (-0,008 0,004)pH ; r = 0,752 (3.4)
Kết quả cho thấy các giá trị Ep của cả 4 chất phân tích đều có mối tương
quan tuyến tính tốt đối với pH. Theo lý thuyết, một bán phản ứng oxy hóa khử có
thể được biểu diễn như sau:
Ox + n.e– + p.H+ Kh (3.5)
83
Từ đó, phương trình Nernst biểu diễn mối liên hệ giữa Ep và pH là:
E = EOx/Kho' -
0,059×p
n × pH (3.6)
Trong đó, EOx/Kho' là thế hình thành của cặp oxy hóa khử liên hợp (hay thế oxy
hóa khử tiêu chuẩn điều kiện).
Từ các phương trình (3.1) đến (3.4), các hệ số góc tương ứng đối với các
chất UA, XA và HX lần lượt là 0,060 ( 0,002); 0,057 ( 0,002) và 0,063 ( 0,005)
gần với giá trị 0,059. Điều này cho thấy số electron và số proton trao đổi trong phản
ứng oxy hóa xảy ra trên bề mặt điện cực của các chất phân tích UA, XA và HX là
bằng nhau. Riêng đối với CA, số electron và số proton trao đổi là không giống
nhau. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả như Nunesa và cs
[96], Wen và cs [136].
* Ảnh hưởng của tốc độ quét
Trong phương pháp von-ampe, tốc độ quét thế (ν) có ảnh hưởng rất lớn đến
tín hiệu hòa tan (Ep và Ip) của chất phân tích. Nếu tốc độ quét thế nhanh thì thu được
tín hiệu hòa tan cao nhưng độ cân đối của tín hiệu hòa tan giảm đi hoặc có thể xảy
ra hiện tượng tách peak không rõ ràng. Ngược lại, khi tốc độ quét thế chậm, độ lặp
lại của phép ghi đo cao, tín hiệu hòa tan thu được có hình dạng cân đối, tuy nhiên
tín hiệu hòa tan lại thấp [34], [149]. Mặt khác, tốc độ quét thế còn liên quan chặt
chẽ đến động học của phản ứng xảy ra trên bề mặt điện cực như hệ số chuyển
electron (αs), hằng số tốc độ chuyển electron (KS) và bản chất của quá trình điện hóa
trên bề mặt điện cực [71].
Để khảo sát tốc độ quét thế, đường CV của đồng thời bốn chất phân tích UA,
XA, HX và CA đã được ghi ở các tốc độ quét khác nhau là 20, 50, 100, 150, 200,
300 và 400 mVs-1. Kết quả khảo sát tốc độ quét được trình bày ở Hình 3.36.
84
Hình 3.36. Các đường CV ở các tốc độ quét khác nhau. ĐKTN như ở Bảng 2.3.
Kết quả trên Hình 3.36 cho thấy khi quét anot từ 0 V đến +1,6 V đều thấy
xuất hiện bốn peak anot của UA, XA, HX và CA. Nhưng khi quét catot ngược lại từ
+1,6 V đến 0 V thì không thấy xuất hiện bất kỳ peak nào. Như vậy, các quá trình
điện hóa của bốn chất phân tích UA, XA, HX và CA đều là các quá trình bất thuận
nghịch. Mặt khác, khi tăng tốc độ quét, cường độ dòng đỉnh hòa tan anot (Ip) cũng
tăng và đồng thời thế đỉnh (Ep) cũng dịch chuyển về phía dương hơn do đó phản
ứng xảy ra trên bề mặt điện cực là một quá trình điện hóa trực tiếp [124].
Hình 3.37. Các đường hồi quy tuyến tính biểu diễn mối tương quan giữa
(a) Ep và ν (b) Ep và ln(ν)
0 100 200 300 4000,2
0,4
0,6
0,8
1,0
1,2
1,4
U
X
HX
C
(a)
Ep
(V
)
(mV/s)3,0 3,5 4,0 4,5 5,0 5,5 6,0
0,2
0,4
0,6
0,8
1,0
1,2
1,4(b)
Ep
(V
)
ln()
C
HX
X
U
85
Khi xem xét ảnh hưởng của ν đến Ep, nhận thấy Ep phụ thuộc và có mối
tương quan tuyến tính tốt với ν (Hình 3.37a), thể hiện qua các phương trình sau:
Ep,UA = (0,272 0,009) + (2,424.10-4 0,424.10-4)ν ; r = 0,931 (3.7)
Ep,XA = (0,650 0,006) + (1,572.10-4 0,284.10-4)ν ; r = 0,927 (3.8)
Ep,HX = (0,982 0,005) + (1,688.10-4 0,249.10-4)ν ; r = 0,950 (3.9)
Ep,CA = (1,291 0,006) + (1,703.10-4 0,289.10-4)ν ; r = 0,935 (3.10)
Dựa vào cơ sở lý thuyết của Laviron [71], hệ số chuyển electron (αs) và hằng
số tốc độ chuyển electron (Ks) có thể xác định qua phương trình (3.11).
Ep = E0 −RT
(1 − α)nFln
RTKs
(1 − α)nF+
RT
(1 − α)nFln𝑣 (3.11)
Trong đó: - n là số electron trao đổi
- R là hằng số khí (R = 8,314 J.mol1.K1)
- T là nhiệt độ Kelvin (T = 298 K)
- F là hằng số Faraday (F = 96500 C.mol1).
Mối quan hệ tuyến tính giữa Ep và ln(ν) với hệ số tương quan lớn được thể
hiện ở Hình 3.37b và các phương trình tuyến tính như sau:
Ep,UA = (0,154 0,014) + (0,033 0,003)lnν ; r = 0,983 (3.12)
Ep,XA = (0,571 0,003) + (0,022 0,001)lnν ; r = 0,998 (3.13)
Ep,HX = (0,901 0,006) + (0,023 0,001)lnν ; r = 0,994 (3.14)
Ep,CA = (1,208 0,005) + (0,024 0,001)lnν ; r = 0,995 (3.15)
Từ phương trình (3.11) suy ra hệ số góc của các phương trình tuyến tính
(3.12), (3.13), (3.14), (3.15) sẽ bằng RT / (1 – α) nF. Nếu quá trình oxy hóa khử trên
bề mặt điện cực là quá trình bất thuận nghịch thì α thường có giá trị gần bằng 0,5
[40]. Thay vào phương trình (3.11) và kết hợp với các phương trình (3.12), (3.13),
(3.14), (3.15) tính toán được giá trị n đối với cả bốn chất phân tích UA, XA, HX và
CA lần lượt là 1,6; 2,3; 2,2 và 2,1. Các giá trị này đều gần bằng 2, do đó số electron
và số proton tham gia vào quá trình điện hóa của bốn chất phân tích trên là bằng 2.
Các phản ứng điện hóa xảy ra trên bề mặt điện cực với sự tham gia của 2 electron
86
và 2 proton đối với của các chất UA, XA và HX được đề nghị như các sơ đồ ở Hình
3.38 [70]. Riêng đối với CA, cơ chế phản ứng xảy ra qua nhiều giai đoạn, mỗi giai
đoạn có sự tham gia của 2 electron [44].
Hình 3.38. Sơ đồ phản ứng điện hóa của các chất UA, XA, HX và CA xảy ra trên
bề mặt điện cực PTh-CTS(act)/GCE [44], [70].
87
Giá trị E của các cặp oxy hóa khử liên hợp của UA, XA, HX và CA được xác
định chính bằng hệ số chắn trong phương trình hồi quy tuyến tính biểu diễn mối
tương quan giữa Ep và ν [143]. Từ các phương trình (3.7), (3.8), (3.9) và (3.10) suy ra
giá trị E° của 4 chất phân tích UA, XA, HX và CA lần lượt bằng +0,272 V; +0,650 V;
+0,982 V; +1,291 V. Từ đó, kết hợp phương trình (3.11) với các phương trình (3.12),
(3.13), (3.14) và (3.15), giá trị Ks được tính toán tương ứng với bốn chất phân tích
UA, XA, HX và CA lần lượt là 1082 s–1, 1649 s–1, 1471 s–1 và 1324 s–1. Các giá trị Ks
tính được đều cao hơn kết quả công bố của một số tác giả khác như Yang và cs (733
s-1) [143], Soleymani và cs (2,02 s-1) [124], Ojani và cs (210 s-1) [98]. Như vậy, tốc độ
trao đổi electron trên bề mặt điện cực PTh-CTS(act)/GCE là tương đối nhanh.
Tính thuận nghịch và đặc tính điện hóa của phản ứng xảy ra trên bề mặt điện
cực được kiểm soát bởi quá trình khuếch tán hay hấp phụ có thể được xác định
thông qua mối tương quan giữa các đại lượng ln(Ip) và ln(ν) [71], [124].
Hình 3.39. Các đường hồi quy tuyến tính biểu diễn mối tương quan giữa
(a) Ip và ν1/2 (b) ln(Ip) và ln(ν).
Hình 3.39 cho thấy ln(Ip) của UA, XA, HX và CA đều phụ thuộc tuyến tính
tốt với ln(ν) với hệ số tương quan lớn (r = 0,962 – 0,998) thể hiện qua các phương
trình sau:
ln(Ip,UA) = (-1,334 0,688) + (1,117 0,141) lnν ; r = 0,962 (3.16)
3,0 3,5 4,0 4,5 5,0 5,5 6,0
1
2
3
4
5
ln(I
p)
ln()
C
HX
X
U
88
ln(Ip,XA) = (0,815 0,092) + (0,698 0,019) lnν ; r = 0,998 (3.17)
ln(Ip,HX) = (0,787 0,096) + (0,633 0,020) lnν ; r = 0,998 (3.18)
ln(Ip,CA) = (-1,403 0,146) + (0,848 0,030) lnν ; r = 0,997 (3.19)
Hệ số góc của các phương trình tuyến tính (3.16), (3.17), (3.18) và (3.19) đối
với UA, XA, HX và CA lần lượt là 1,117 ( 0,141); 0,698 ( 0,019); 0,633 (
0,020) và 0,848 ( 0,030). Nếu hệ số góc này bằng 0,5 thì quá trình điện hóa được
kiểm soát bởi quá trình khuếch tán và nếu bằng 1,0 thì được kiểm soát bởi quá trình
hấp phụ [71], [101], [124]. Như vậy, đối với UA, hệ số góc có giá trị gần bằng 1
nên quá trình oxy hóa UA trên điện cực được kiểm soát bởi quá trình hấp phụ. Đối
với ba chất phân tích XA, HX và CA, hệ số góc có giá trị nằm trong khoảng từ 0,5 –
1,0 nên quá trình điện hóa được kiểm soát bởi cả quá trình hấp phụ và khuếch tán.
Trong phân tử của PTh/CTS chứa các nhóm chức hydroxyl (OH) có khả năng tham
gia tạo liên kết hydro với các nhóm chức C=O, OH và NH trong phân tử của UA,
XA, HX và CA. Do đó quá trình hấp phụ các chất phân tích UA, XA, HX và CA
trên điện cực PTh-CTS(act)/GCE được cho là quá trình hấp phụ hóa học tạo thành
bởi liên kết hydro giữa chất phân tích và vật liệu biến tính điện cực [16].
3.2.3.4. Đánh giá độ tin cậy của phương pháp
Để có thể áp dụng điện cực biến tính PTh-CTS(act)/GCE vào phân tích các
mẫu thực tế, cần tiến hành đánh giá độ tin cậy của phương pháp. Trong nội bộ
phòng thí nghiệm, độ tin cậy của một phương pháp phân tích bất kỳ được đánh giá
qua các đại lượng thống kê bao gồm: độ lặp lại, khoảng tuyến tính, độ nhạy, giới
hạn phát hiện (Limit of Detection, LOD) và giới hạn định lượng (Limit of
Quantification, LOQ).
* Độ lặp lại của dòng đỉnh hòa tan
Độ lặp lại của dòng đỉnh hòa tan (IP) trên điện cực PTh-CTS(act)/GCE được
xác định qua độ lệch chuẩn tương đối (Relative Standard Deviation, RSD). Nếu giả
thiết IP k.C (với C là nồng độ của các chất phân tích), thì RSD của giá trị IP khi
xác định C trong nội bộ phòng thí nghiệm đạt yêu cầu là những giá trị RSD không
89
quá 1/2 đến 2/3 giá trị RSDH. RSDH là độ lệch chuẩn tương đối được tính toán từ
phương trình Horwitz [47]:
RSDH = 2(1 – 0,5lgC)
Để đánh giá độ lặp lại của IP, tiến hành ghi đo lặp lại 8 lần với 3 nồng độ
khác nhau. Kết quả được trình bày trong Hình 3.40 và Bảng 3.6.
-0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.22
3
4
5
6
7
8
9
I /
A
E / V
(a)
UA
XAHX
-0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.22
3
4
5
6
7
8
9
I /
A
E / V
(b)
UA
XA HX
-0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.22
3
4
5
6
7
8
9
I /
A
E / V
(c)
UA
XAHX
Hình 3.40. Các đường DP-ASV ở ba nồng độ UA, XA và HX với ba thí nghiệm
khác nhau (a) TN 1, (b) TN 2 và (c) TN 3.
Bảng 3.6. Các giá trị IP,TB, SD, RSD và ½.RSDH khi đo lặp lại ở 3 nồng độ khác
nhau theo phương pháp DP-ASV
Chất
phân
tích
C (M) IP,TB (µA) b) SD RSD (%) ½.RSDH
(%)
TN 1(a)
UA
5.10-5
1,793 0,036 2,01 5,81
XA 3,906 0,037 0,94 5,90
HX 2,139 0,028 1,30 5,99
TN 2
UA
10-5
1,203 0,020 1,64 7,40
XA 1,523 0,023 1,50 7,51
HX 0,683 0,024 3,46 7,64
TN 3
UA
5.10-6
0,693 0,029 4,25 8,21
XA 0,675 0,012 1,74 8,34
HX 0,270 0,013 4,90 8,48
ĐKTN như Bảng 3.5. (a): Số thí nghiệm; (b) Giá trị IP trung bình sau 8 lần đo lăp lại; đệm
BRB 0,2 M (pH 7).
90
Kết quả trên cho thấy độ lặp lại của IP đối với ba chất UA, XA và HX là rất
tốt, dao động từ 0,94 % đến 4,89 %. Mặt khác, tiến hành so sánh RSD ở các thí
nghiệm với ½RSDH ở các nồng độ tương ứng cho thấy tất cả giá trị RSD đều nhỏ
hơn giá trị ½RSDH. Như vậy, độ lặp lại của IP trong phương pháp DP-ASV sử dụng
điện cực biến tính PTh-CTS(act)/GCE là chấp nhận được.
* Khoảng tuyến tính
Việc xác định khoảng tuyến tính của phương pháp DP-ASV dùng điện cực
biến tính PTh-CTS(act)/GCE đối với UA, XA và HX được thực hiện bằng phương
pháp thêm chuẩn đồng thời cả ba chất phân tích UA, XA và HX. Kết quả được trình
bày ở Bảng 3.7 và Hình 3.41.
Bảng 3.7. Giá trị IP,TB của UA, XA và HX ở các nồng độ thêm chuẩn đồng thời
khác nhau theo phương pháp DP-ASV
C (µM)
UA XA HX
IP,TB
(µA)
RSD
(%)
IP,TB
(µA)
RSD
(%)
IP,TB
(µA)
RSD
(%)
2 0,3008 10,90 0,3348 2,98 0,0767 13,97
4 0,4818 6,55 0,5929 2,29 0,1976 9,46
6 0,6448 5,30 0,8147 1,73 0,3033 1,94
8 0,8113 4,65 0,9937 2,76 0,3726 2,81
10 0,9140 5,03 1,198 2,62 0,4812 7,28
25 1,451 2,17 2,303 1,45 1,217 2,76
50 1,877 1,49 3,582 0,85 2,101 1,17
75 2,177 1,67 4,490 0,92 2,826 0,88
100 2,303 3,56 5,081 1,15 3,240 2,87
ĐKTN như Bảng 3.5. Các giá trị được đo lăp lại 4 lần, trong đệm BRB 0,2 M (pH 7,0).
Các kết quả ở Bảng 3.7 và Hình 3.41 cho thấy đối với mỗi chất phân tích
UA, XA và HX đều có hai khoảng tuyến tính với các hệ số tương quan lớn (0,955 –
91
0,998) tương ứng với hai khoảng nồng độ là (1) từ 10 đến 100 M và (2) từ 2 đến
10 M. Các phương trình hồi quy tuyến tính tương ứng được xác định như sau:
UA: IP1,UA = (0,164 ± 0,027) + (77788 ± 4078)CUA; r = 0,996 (3.20)
IP2,UA = (0,149 ± 0,028) + (106311 ± 4173)CUA; r = 0,998 (3.21)
XA: IP1,XA = (-0,009 ± 0,016) + (49202 ± 2411)CXA; r = 0,996 (3.22)
IP2,XA = (0,971 ± 0,163) + (14881 ± 2653)CXA; r = 0,955 (3.23)
HX: IP1,HX = (1,111 ± 0,294) + (42685 ± 4782)CHX; r = 0,981 (3.24)
IP1,HX = (0,380 ± 0,186) + (30625 ± 3023)CHX; r = 0,986 (3.25)
-0,4 -0,2 0,0 0,2 0,4 0,6 0,8 1,0 1,2 1,40
2
4
6
8
10
12
I (
A)
E (V)
(a)
UA
XA HX
0,0 3,0x10-5
6,0x10-5
9,0x10-5
1,2x10-4
0
1
2
3
4
5
6 UA
XA
HX
I ()
CM
(mol/L)
(b)
Hình 3.41. (a) Các đường DP-ASV của UA, XA và HX ở các nồng độ thêm chuẩn
đồng thời khác nhau và (b) các đường hồi quy tuyến tính biểu diễn mối tương quan
giữa IP và nồng độ của UA, XA và HX.
Như vậy, các kết quả trên cho thấy có thể sử dụng điện cực PTh-
CTS(act)/GCE để xác định đồng thời UA, XA và HX trong mẫu thực tế.
* Giới hạn phát hiện và độ nhạy
Xuất phát từ kết quả khảo sát khoảng tuyến tính, tiến hành xác định LOD và
độ nhạy của phương pháp DP-ASV sử dụng điện cực PTh-CTS(act)/GCE bằng việc
thu hẹp khoảng nồng độ của UA, XA và HX trong trường hợp thêm chuẩn riêng lẻ
từng chất, cụ thể thực hiện thí nghiệm với nồng độ của các chất phân tích có giá trị
92
từ 2 M đến 10 M. Sử dụng các phương trình hồi quy tuyến tính biểu diễn mối
tương quan giữa Ip và nồng độ ba chất phân tích là (3.21), (3.23) và (3.25), kết quả
được trình bày trong Bảng 3.8.
Dựa vào kết quả Bảng 3.8, giá trị LOD của phương pháp DP-ASV sử dụng
điện cực PTh-CTS(act)/GCE để xác định UA, XA và HX là khá nhỏ với các giá trị
tương ứng là 1,01; 1,06 và 0,45 µM. Điều này cho thấy có thể áp dụng phương pháp
DP-ASV sử dụng điện cực biến tính PTh-CTS(act)/GCE để xác định đồng thời UA,
XA và HX trong một số mẫu sinh học như mẫu nước tiểu, mẫu thủy hải sản (tôm,
cá,…).
Bảng 3.8. LOD, LOQ của phương pháp DP-ASV sử dụng điện cực biến tính
PTh-CTS(act)/GCE
Chất
phân tích
Thông số
a ± sa b ± sb r LOD, µM LOQ, µM
UA 0,10 ± 0,03 81514 ± 4358 0,996 1,01 3,03 - 4,04
XA 0,11 ± 0,04 121540 ± 6765 0,995 1,06 3,18 - 4,24
HX -0,07 ± 0,01 69691 ± 1635 0,999 0,45 1,35 -1,80
3.2.3.5. Phân tích mẫu thực tế
* Lý lịch mẫu và tiến trình phân tích
Để khẳng định về khả năng áp dụng của điện cực biến tính PTh-
CTS(act)/GCE vào thực tế, trước hết cần kiểm soát chất lượng của phương pháp
thông qua xác định độ lặp lại và độ đúng của nó. Độ lặp lại được đánh giá qua RSD,
còn độ đúng được đánh giá qua độ thu hồi (Recovery, Rev) khi phân tích mẫu đã
thêm chuẩn (spiked sample).
Mẫu phân tích là mẫu nước tiểu của bốn người khác nhau và được phân tích
trong ngày lấy mẫu. Mẫu nước tiểu được lấy vào buổi sáng. Tiến hành lọc bỏ các
chất cặn không tan trong dung dịch. Sau đó lấy 1 mL dung dịch này cho vào bình
93
điện phân chứa đệm BRB 0,2 M (pH 7,0), thêm nước cất 2 lần vừa đủ 10 mL. Tiến
hành phân tích bằng phương pháp DP-ASV dùng điện cực biến tính PTh-
CTS(act)/GCE và định lượng bằng phương pháp thêm chuẩn.
* Phân tích mẫu thật và đánh giá độ đúng của phương pháp phân tích
Với các điều kiện thí nghiệm như ở Bảng 3.5, tiến hành xác định nồng độ
của UA, XA và HX trong 4 mẫu nước tiểu, kết quả được trình bày ở Bảng 3.9.
Kết quả Bảng 3.9 cho thấy khi sử dụng điện cực PTh-CTS(act)/GCE để phân
tích các mẫu nước tiểu thu được các giá trị RSD tương đối nhỏ, từ 2,6 đến 11,2 %
đối với UA và từ 3,9 đến 9,6 % đối với XA. Như vậy, kết quả lặp lại của phương
pháp là tương đối tốt.
Bảng 3.9. Kết quả kiểm tra độ lặp lại của phương pháp phân tích
Mẫu UA XA HX
CUA (mM) RSD (%) CXA (M) RSD (%) CHX (mM) RSD (%)
1 0,152 11,6 4,561 7,6 < LOD ─
2 0,159 8,8 5,846 9,6 < LOD ─
3 0,167 7,7 5,761 3,9 < LOD ─
4 0,217 2,6 8,023 5,7 < LOD ─
ĐKTN như Bảng 3.5. Các giá trị được đo lăp lại 3 lần, trong đệm BRB 0,2 M (pH 7,0).
Để đánh giá độ đúng của phương pháp DP-ASV sử dụng điện cực biến tính
PTh-CTS(act)/GCE tiến hành phân tích nồng độ của UA, XA và HX đối với mẫu
thực tế (mẫu nước tiểu) được thêm chuẩn. Độ thu hồi được tính theo công thức:
Rev = C2 – C1
C0
× 100
Trong đó: C0 là nồng độ chất phân tích thêm chuẩn;
C1 là nồng độ chất phân tích trong mẫu thật;
C2 là nồng độ của mẫu thật đã thêm chuẩn.
94
Bảng 3.10. Kết quả xác định nồng độ của UA và XA và độ đúng trong mẫu thật
Mẫu
Nồng độ chất
phân tích trong
mẫu thật (C1)
Nồng độ chất
phân tích thêm
chuẩn (C0)
Nồng độ chất phân
tích trong mẫu thật
đã thêm chuẩn (C2)
Độ thu hồi
(Rev), %
CUA
(mM)
CXA
(µM)
CUA
(mM)
CXA
(µM)
CUA
(mM)
CXA
(µM) UA XA
M1 0,152 4,561 0,040 10 0,191 13,151 97,5 85,9
M2 0,159 5,846 0,040 10 0,204 15,910 112,5 100,6
M3 0,167 5,761 0,040 20 0,210 31,740 107,5 129,9
M4 0,217 8,023 0,040 20 0,260 31,698 107,5 118,4
Từ các kết quả trên cho thấy tiến hành phân tích mẫu nước tiểu bằng
phương pháp DP-ASV sử dụng điện cực PTh-CTS(act)/GCE đạt được độ đúng tốt
với độ thu hồi từ 98 đến 113 % đối với UA và từ 86 đến 130 % đối với XA. Như
vậy, với độ lặp lại và độ đúng thu được ở trên, điện cực PTh-CTS(act)/GCE có thể
được áp dụng để phân tích đồng thời UA và XA trong các mẫu nước tiểu. Mặc dù
trong phương pháp này, LOD của HX (4,5.107 M) thấp hơn so với UA (1,01.106
M) và XA (1,06.106 M) nhưng do nồng độ HX trong bốn mẫu nước tiểu khảo sát
đều nhỏ hơn LOD của HX, nên phương pháp chưa xác định được HX trong những
mẫu thực này.
* Kết luận phần 3.2:
Tóm lại, trong phần nội dung nghiên cứu này, luận án đã thu được một số kết
quả như sau:
- Màng CTS có cấu trúc sợi xoắn lớp đã được sử dụng để tổng hợp thành công
vật liệu polymer PTh/CTS thông qua quá trình polymer hóa có mặt chất oxy hóa là
(NH4)2S2O8. Quá trình tổng hợp được thực hiện trong thời gian 6 giờ ở nhiệt độ
60 °C với tỉ lệ số mol thiophene và chất oxy hóa (NH4)2S2O8 là 1:1,2.
- Kết quả đặc trưng mẫu vật liệu bằng các phương pháp IR, XRD, TGA, EDX,
SEM, TEM cho thấy sản phẩm composite polymer thu được vẫn giữ nguyên cấu
95
trúc kiểu Bouligand của màng CTS ban đầu. Các hạt cầu polythiophene liên kết trên
bề mặt màng CTS và quanh sợi nano chitosan.
- Điện cực than thủy tinh biến tính bằng vật liệu PTh/CTS đã được khảo sát
tính chất điện hóa đối với bốn chất phân tích UA, XA, HX và CA và xác định được
đồng thời ba chất phân tích UA, XA và HX. Quá trình điện hóa xảy ra trên bề mặt
điện cực đối với bốn chất phân tích đều là quá trình bất thuận nghịch. Quá trình oxy
hóa trên điện cực được kiểm soát bởi quá trình hấp phụ đối với HX và bởi cả quá
trình hấp phụ và khuếch tán đối với UA, XA và CA. Phương pháp có thể ứng dụng
phân tích UA và XA trong mẫu thực tế với giới hạn phát hiện thấp (4,5.107 M đối
với HX, 1,01.106 M đối với UA và 1,06.106 M đối với XA), độ lặp lại tốt (RSDUA
= 2,6 – 11,2 % và RSDXA = 3,9 – 9,6 %) và độ đúng tương đối tốt (RevUA = 98 –
113 % và RevXA = 86 – 130 %).
3.3. TỔNG HỢP NANOCOMPOSITE CoFe2O4/CARBON VÀ ỨNG DỤNG
LÀM ANOT PIN LITI - ION
Trong phần nội dung nghiên cứu này, màng CTS có cấu trúc sợi xoắn lớp
được sử dụng làm chất định hướng cấu trúc và nguồn cung cấp carbon để tổng hợp
vật liệu nanocomposite CoFe2O4/carbon (CFO/C). Trước tiên, vật liệu
CoFe2O4/chitosan (CFO/CTS) được tổng hợp từ CTS và hỗn hợp muối Fe3+ và Co2+
bằng phương pháp thủy nhiệt. Sau đó, màng CTS trong CFO/CTS được phân hủy
và đồng thời chuyển hóa thành carbon để thu được sản phẩm CFO/C thông qua quá
trình nhiệt phân CFO/CTS trong môi trường khí nitơ.
3.3.1. Tổng hợp và đặc trưng vật liệu CoFe2O4/chitosan
Tiến hành tổng hợp theo quy trình mục 2.1.4.1, từ màng CTS điều chế từ vỏ
cua (Hình 3.42a) thu được màng CTS/(Co2+, Fe3+) có màu xanh lục (Hình 3.42b) và
màng composite CFO/CTS có màu đen và óng ánh (Hình 3.42c). Màng CFO/CTS
không bị trương hay phân rã khi ngâm trong nước và ngay cả khi có siêu âm. Điều
này chứng tỏ có thể giữa CTS và CFO có hình thành liên kết bền vững. Sự hình
thành phức giữa các nhóm chức NH2 và OH trong chuỗi polymer của CTS với
các ion Fe3+ và Co2+ đã được nhiều nhóm nghiên cứu đề xuất [109], [110]. Quá
96
trình tạo phức bền giữa các ion Fe3+ và Co2+ với CTS này đã làm tăng khả năng hấp
phụ các ion kim loại Fe3+ và Co2+ lên màng CTS.
Hình 3.42. (a) CTS điều chế từ vỏ cua (b) Màng CTS sau khi xử lý với hỗn hợp
muối FeCl3 và CoCl2 (c) Màng CFO/CTS
Thành phần pha và cấu trúc của vật liệu được xác định dựa vào giản đồ
XRD. Giản đồ XRD của CFO/CTS (Hình 3.43) xuất hiện các peak tinh thể ở các
góc nhiễu xạ 2θ = 32°, 37°, 45°, 60°, 65° tương ứng với các mặt phản xạ (220),
(311), (400), (511), (440) của tinh thể CoFe2O4 (CFO). Các peak này đều đặc trưng
cho cấu trúc spinel của CoFe2O4 với hằng số mạng lưới phù hợp với số liệu của
Cassiterite JCPDS No. 22-1086 có a = b = 5,93660 nm và c = 14,54300 nm [135].
Ngoài ra, giản đồ XRD của CFO/CTS còn có sự xuất hiện của các peak tinh thể tại
góc nhiễu xạ 2θ bằng 10° và 20° tương ứng với mặt phản xạ (020) và (110) của
CTS. Tuy nhiên, cường độ các peak nhiễu xạ này không lớn chứng tỏ mức độ kết
tinh của CTS và CFO trong vật liệu composite CFO/CTS là không cao.
Hình 3.43. Giản đồ XRD của các vật liệu CTS và CFO/CTS.
97
Giản đồ TGA trong không khí của CTS và CFO/CTS (Hình 3.44) có sự khác
biệt rõ rệt. Kết quả cho thấy màng CTS bắt đầu phân hủy ở 300 °C và phân
hủy/cháy hoàn toàn ở 750 °C. Trong khi đó, màng CFO/CTS bắt đầu phân hủy ở
245 °C và phân hủy/cháy hoàn toàn nền CTS trong vật liệu ở 600 °C. Phần còn lại
không bị phân hủy chính là CFO, chiếm 49 % khối lượng của CFO/CTS. Sự thay
đổi tính chất nhiệt của vật liệu CFO/CTS so với CTS có thể được giải thích là do có
sự hình thành liên kết phối trí bền giữa các nhóm chức OH và NH2 trong chuỗi
polymer CTS với các ion Co2+ và Fe3+ nên liên kết tạo thành giữa CFO và CTS là
khá bền vững. Mặt khác, CFO có thể đóng vai trò là chất xúc tác nên quá trình phân
hủy/cháy chất nền CTS diễn ra ở nhiệt độ thấp hơn và nhanh hơn [59].
Hình 3.44. Giản đồ TGA trong không khí của các vật liệu CTS và CFO/CTS.
Ảnh SEM mặt cắt (Hình 3.45 a,b và c) cho thấy màng CFO/CTS giữ nguyên
cấu trúc sợi xoắn lớp trái trật tự của màng CTS ban đầu. Các lớp có chiều dày từ 0,5
μm đến 1,0 μm được tạo thành từ các sợi nano CTS liên kết với các hạt nano CFO.
Hình 3.45d mô phỏng sự liên kết của các hạt nano CFO trên sợi nano CTS và sự sắp
xếp của các sợi trong màng CFO/CTS.
Các hạt nano CFO phân bố đồng đều và không quan sát thấy sự kết tụ của
các hạt nano CFO trên bề mặt sợi nano CTS cũng như ở mặt giao và giữa các sợi.
Các hạt nano CFO có xu hướng liên kết chặt chẽ bao quanh sợi nano CTS. Sự hình
thành các liên kết phối trí giữa các ion Fe3+ và Co2+ với CTS trong quá trình tổng
98
hợp có thể đã khống chế sự lắng đọng và kết tụ của các oxit lên trên màng cũng như
trên sợi nano CTS do đó đã tạo thành các hạt nano phân bố đồng đều trên các sợi
nano CTS tạo thành màng có cấu trúc xoắn lớp.
Ảnh TEM (Hình 3.45e và f) một lần nữa cho thấy sự phân bố của các hạt
nano CFO trên bề mặt sợi nano CTS.
Hình 3.45. (a,b,c) Ảnh SEM mặt cắt của màng CFO/CTS ở các độ phân giải khác
nhau (d) Cấu trúc mô phỏng của màng CFO/CTS và (e,f) Ảnh TEM của màng
CFO/CTS chuẩn bị bằng cách nghiền màng trong ethanol
99
Các dạng vật liệu CFO/CTS đã được một số nhà khoa học nghiên cứu và
công bố. Vật liệu composite CFO/CTS có độ bền cơ học cao, khả năng chống thấm
nước tốt nên được ứng dụng trong các lĩnh vực như thiết bị truyền động điện tử,
thiết bị vi lỏng, che chắn nhiễu điện từ và xử lý nước [130], [145], [151]. Trong
luận án này, màng CTS có cấu trúc xoắn lớp lần đầu tiên được sử dụng để điều chế
các vật liệu lai hoặc vật liệu composite vô cơ – hữu cơ có cấu trúc quang học, giữ
nguyên cấu trúc kiểu Bouligand của vật liệu nền CTS ban đầu. Mặt khác, màng
CTS có cấu trúc xoắn lớp còn được sử dụng làm chất nền định hướng cấu trúc và
đồng thời làm tiền chất cung cấp nguồn carbon để tổng hợp nanocomposite CFO/C.
3.3.2. Tổng hợp và đặc trưng vật liệu CoFe2O4/Carbon
Màng CFO/CTS (Hình 3.46a) được nhiệt phân theo quy trình ở mục 2.1.4.2
thu được nanocomposite CFO/C có màu đen (Hình 3.46b). Sản phẩm CFO/C tồn tại
ở dạng màng, có hình dạng giống với màng CFO/CTS ban đầu nhưng kích thước
nhỏ hơn. Như vậy, quá trình nhiệt phân trong khí N2 đã giữ lại cấu trúc dạng màng
nhưng có hiện tượng co rút làm giảm kích thước của sản phẩm so với màng
CFO/CTS ban đầu. Màng CFO/C giòn, dễ vỡ thành những miếng nhỏ hơn.
Hình 3.46. (a) Màng CFO/CTS và (b) Màng nanocomposite CFO/C
Vật liệu nanocomposite CFO/C được đặc trưng bằng các phương pháp XRD,
EDX, TGA, SEM và TEM. Giản đồ XRD (Hình 3.47) xuất hiện các peak tinh thể
đặc trưng cho cấu trúc spinel của CFO ở các góc nhiễu xạ 2θ 32°, 37°, 45°, 60°, 65°
tương ứng với các mặt phản xạ (220), (311), (400), (511) và (440) với hằng số
mạng lưới phù hợp với số liệu của Cassiterite JCPDS (22-1086) có a = b = 5,93660
nm và c = 14,54300 nm [135]. Các peak nhiễu xạ này đều sắc nhọn và có cường độ
nhiễu xạ lớn hơn so với các peak tương ứng của CFO trong vật liệu composite
100
CFO/CTS ban đầu. Mặt khác, peak tinh thể của CTS đã biến mất và không tìm thấy
peak tinh thể của carbon tạo thành chứng tỏ trong nanocomposite CFO/C, carbon
tồn tại ở trạng thái vô định hình. Như vậy, quá trình nhiệt phân CFO/CTS trong khí
N2 đã giữ lại và làm tăng độ tinh thể của CFO trong nanocomposite nhưng đồng thời
chuyển hóa CTS tinh thể thành C vô định hình.
Hình 3.47. Giản đồ XRD của vật liệu nanocomposite CFO/C
Phổ EDX (Hình 3.48) xác nhận sự có mặt của các nguyên tố Co, Fe, C và O
trong sản phẩm nanocomposite thu được. Thành phần % nguyên tử của các nguyên
tố Co và Fe xác định thông qua phổ EDX lần lượt là 14,90 và 27,62 % tương ứng
với tỉ lệ 1:2 trong phân tử CoFe2O4 một lần nữa ghi nhận sự tạo thành CFO trong
nanocomposite CFO/C.
Hình 3.48. Phổ EDX của vật liệu nanocomposite CFO/C
101
Giản đồ TGA trong không khí (Hình 3.49) ghi nhận nanocomposite CFO/C
có độ bền nhiệt cao, bắt đầu phân hủy ở nhiệt độ 300 °C và phân hủy/cháy hoàn
toàn ở 650 °C. Hàm lượng carbon trong nanocoposite chiếm 20,1 %.
0 100 200 300 400 500 600 700 800 90075
80
85
90
95
100K
ho
ái l
öô
ïng
(%
)
Nhieät ñoä (oC)
Hình 3.49. Giản đồ TGA trong không khí của vật liệu nanocomposite CFO/C
Các kết quả đặc trưng ở trên đều chứng minh sản phẩm của quá trình nhiệt
phân CFO/CTS trong N2 là CFO/C. Mặc dù quá trình carbon hóa dẫn đến sự chuyển
hóa cấu trúc ở cấp độ nano nhưng lại sao chép cấu trúc xoắn lớp của màng CTS ban
đầu. Kết quả này được thể hiện rõ trong ảnh SEM của mẫu vật liệu CFO/C.
Ảnh SEM (Hình 3.50) cho thấy màng nanocomposite CFO/C được tạo thành
từ các tấm nano xếp thành từng lớp song song với nhau và đồng thời sắp xếp xoắn
lớp với tấm bên dưới thành dạng như sợi xoắn. Đặc điểm cấu trúc này tương tự với
cấu trúc của màng CTS xoắn lớp ban đầu. Ảnh SEM cũng cho thấy các tấm nano
sắp xếp thứ bậc thành mô hình giống như các vòng cung lồng vào nhau, đặc trưng
cho cấu trúc kiểu Bouligand. Như vậy, màng CFO/C có cấu trúc đa cấp xoắn ở 2
cấp độ. Hình 3.50(f) mô phỏng cấu trúc xoắn trật tự của các tấm nano trong màng
nanocomposite CFO/C.
102
Hình 3.50. (a-e) Ảnh SEM của vật liệu nanocomposite CFO/C ở các độ phân giải
khác nhau (f) Hình mô phỏng cấu trúc xoắn lớp của các tấm nanocomposite CFO/C
Sự tương đồng về cấu trúc giữa màng CTS ban đầu và sản phẩm
nanocomposite CFO/C này phản ánh sự sao chép cấu trúc xoắn lớp của các sợi nano
trong màng CTS ban đầu và đồng thời có kèm theo sự hình thành các tấm nano mới.
Các sợi nano trong màng CFO/CTS sau khi bị carbon hóa vẫn giữ lại được mạng
lưới xoắn lớp kiểu Bouligand của chất nền CTS trong sản phẩm CFO/C.
Ảnh SEM kết hợp với ảnh TEM (Hình 3.51) cho thấy các tấm nano được tạo
thành từ sự kết tụ của các hạt nano và đặc tính sợi nano của màng CTS ban đầu đã
hoàn toàn biến mất. Như vậy, các hạt nano kết tụ với nhau thành từng tấm. Các tấm
103
này xếp thành từng lớp và xếp chồng lên nhau theo định hướng của đường xoắn
trong cấu trúc lớp sợi xoắn của màng CTS ban đầu. Điều này chứng tỏ màng CTS
đã định hướng cấu trúc cho quá trình tổng hợp CFO/C từ màng CFO/CTS.
Hình 3.51. Ảnh TEM của các tấm nanocomposite CFO/C được chuẩn bị bằng cách
nghiền màng CFO/C trong ethanol
Quá trình tạo thành và sự tự sắp xếp các tấm nanocomposite CFO/C theo cấu
trúc xoắn lớp đã tạo cấu trúc rỗng cho vật liệu. Tính chất xốp của vật liệu được đánh
giá bằng phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ nitơ. Hình 3.52 biểu diễn
đường đẳng nhiệt hấp phụ và khử hấp phụ nitơ của vật liệu CFO/C. Kết quả cho
thấy đường đẳng nhiệt thuộc loại IV theo phân loại của IUPAC. Sự xuất hiện vòng
trễ ở vùng áp suất tương đối (P/Po) cao cho thấy có sự hình thành cấu trúc MQTB ở
khoảng trống giữa các hạt. Các lỗ rỗng có kích thước trung bình phân bố từ 2 đến
85 nm, trong đó kích thước lỗ rỗng trung bình chủ yếu phân bố trong vùng 30 - 40
nm. Diện tích bề mặt riêng tính theo phương pháp Brunauer – Emmett – Teller
(SBET) của mẫu vật liệu là 150 m2/g. Diện tích bề mặt riêng trong vật liệu CFO/C
tổng hợp được nhỏ hơn SBET của vật liệu sợi CFO/C của nhóm Wu và cs (814,2
m2/g) [138] nhưng cao hơn nhiều so với một số vật liệu CFO trong nghiên cứu của
một số tác giả khác như Li và cs (66,7 m2/g) [75], Zhang và cs (66,3 – 96,4 m2/g)
[152], Qi và cs (85,7 m2/g) [104]. Với SBET khá lớn, vật liệu CFO/C tổng hợp được
trong luận án này được lựa chọn nghiên cứu khả năng ứng dụng làm vật liệu anot
trong pin LIB.
104
0,0 0,2 0,4 0,6 0,8 1,0
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
0 20 40 60 80 1000
1
2
3
4
5
6
Th
eå t
ích
kh
í h
aáp
ph
uï t
öô
ng
ño
ái (
cm
3
/g,
ST
P)
AÙp suaát töông ñoái (P/Po)
Haáp phuï
Khöû haáp phuï
Th
eå t
ích
kh
í h
aáp
ph
uï (
cm
3
)
Kích thöôùc loã roãng trung bình (nm)
Hình 3.52. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ nitơ của vật liệu CFO/C
Tóm lại, quá trình carbon hóa CFO/CTS đã tạo thành sản phẩm CFO/C có
cấu trúc MQTB mới. Sản phẩm vừa sao chép cấu trúc xoắn lớp, vừa có sự hình
thành cấu trúc tấm nano mới từ các sợi nano của chất nền CTS. Đây là một trong
những kết quả mới trong tổng hợp các nanocomposite CFO/C bằng phương pháp sử
dụng chất nền định hướng cấu trúc, đặc biệt là có kèm theo sự sao chép cấu trúc của
polymer sinh học ban đầu.
3.3.3. Đánh giá khả năng ứng dụng vật liệu CoFe2O4/Carbon làm anot trong
pin Liti-ion
Vật liệu CFO đã và đang được quan tâm phát triển trong ứng dụng làm vật
liệu anot của pin LIB do có độ dẫn điện và hoạt tính điện hóa cao nhờ tạo được sự
tổng hợp và bổ sung năng lượng cho nhau từ hai oxit CoO và Fe2O3 trong quá trình
sạc - xả [49]. Màng nanocomposite CFO/C tổng hợp được trong nghiên cứu này có
cấu trúc MQTB xoắn lớp tạo thành từ các tấm nano với diện tích bề mặt lớn (150
m2/g) nên có thể cung cấp đủ không gian cho quá trình giãn nở/co lại trong quá
trình xâm nhập hay rời đi khỏi mạng tinh thể của ion Li+ [77], [80]. Mặt khác trong
thành phần của vật liệu CFO/C đã có mặt của carbon nên không cần thêm carbon
105
vào để tạo hỗn hợp cho vật liệu làm anot. Sự có mặt của carbon sẽ làm tăng độ dẫn
điện của điện cực, tạo thêm dung lượng cho pin và cung cấp thêm không gian đệm
trong mạng tinh thể để hỗ trợ quá trình giãn nở/co lại thể tích của vật liệu anot [82].
Một ưu điểm khác của vật liệu nanocomposite CFO/C tổng hợp được trong nghiên
cứu này là có thể tồn tại ở dạng màng với kích cỡ lớn hơn 1 cm2 nên có thể sử dụng
trực tiếp để làm anot trong pin LIB mà không cần sự hỗ trợ của chất kết dính.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, khả năng ứng dụng vật liệu CFO/C
làm anot trong pin Liti-ion được đánh giá thông qua dung lượng của pin trong các
chu trình sạc – xả ở các mật độ dòng điện 100, 250 và 500 mA.g1. Sự chuyển hóa
trong thành phần và cấu trúc của vật liệu anot cũng như cơ chế của các phản ứng
điện hóa xảy ra trên điện cực CFO/C cũng được nghiên cứu và đề nghị.
Hình 3.53. (a) Giản đồ điện hóa của 100 vòng sạc – xả đầu tiên tại mật độ dòng 100
mAg1 khi sử dụng vật liệu CFO/C làm vật liệu anot trong LIB
(b) Dung lượng điện trong 75 chu trình sạc – xả đầu tiên
Hình 3.53a biểu diễn đường cong phóng điện – tích điện của 100 chu trình
sạc – xả đầu tiên tại mật độ dòng 100 mA.g1. Kết quả cho thấy vật liệu CFO/C có
dung lượng sạc và xả đầu tiên lần lượt là 1054 và 863 mA.h.g1. Dung lượng sạc
trong lần đầu tiên này cao hơn so với vật liệu CFO (916 mA.h.g1) và vật liệu
CFO/C lý thuyết (916.0,8 + 372.0,2 = 807 mA.h.g1) [67]. Dung lượng lớn trong lần
sạc – xả đầu tiên này được giải thích là do hiệu ứng cộng hưởng giữa CFO và C
106
trong vật liệu composite [152]. Giá trị này tương đương với kết quả của Kumar và
cs [67] khi sử dụng vật liệu anot là composite CFO-graphene oxit dạng khử. Tuy
nhiên, kết quả nghiên cứu trong công trình này thấp hơn so với nghiên cứu của
Zhang [150] và Zhao [153] khi sử dụng màng tạo thành từ tấm nano CFO/sợi
carbon pha tạp nitơ và dây nano rỗng CFO/màng carbon làm vật liệu anot. Hiệu
suất Coulomb (Coulombic efficiency) tương ứng với chu trình sạc – xả đầu tiên là
81,9 %. Hiệu suất Coulomb của điện cực CFO/C trong chu trình đầu tiên này tương
đương hoặc cao hơn so với kết quả nghiên cứu của một số vật liệu CFO/C khác như
dây nano rỗng CFO/màng carbon (86%) [153], CFO/CNT (74%) [152], màng tạo
thành từ tấm nano CFO/sợi carbon pha tạp nitơ (64,2%) [150]. Sự giảm mạnh dung
lượng điện trong chu trình sạc – xả đầu tiên là hiện tượng thường gặp trong vật liệu
CFO khi sử dụng làm anot của pin LIB. Hiện tượng này chủ yếu được giải thích là
do có sự hình thành lớp điện ly rắn giao pha (SEI) trên bề mặt điện cực và quá trình
xâm nhập bất thuận nghịch của ion Li+ vào bên trong hệ thống mạng lưới của vật
liệu anot [55], [84], [104].
0 10 20 30 40 50 60 70 8070
75
80
85
90
95
100
Hie
äu s
uaát C
ou
lom
b (
%)
Soá voøng
Hình 3.54. Hiệu suất Coulomb của các chu trình sạc – xả khi tiến hành sạc pin ở
mật độ dòng 100 mA.g1
107
Trong chu trình sạc – xả thứ hai, dung lượng sạc và xả đạt giá trị lần lượt là
543 và 537 mA.h.g1, tương ứng với hiệu suất Coulomb là 98,9 %. Hiệu suất
Coulomb đạt giá trị 99,4% tại vòng sạc – xả thứ ba và gần như đạt 100% tại các
vòng sạc xả tiếp theo (Hình 3.54). Như vậy đến chu trình thứ hai thì quá trình oxy
hóa và khử trên điện cực anot đã gần như đạt được trạng thái cân bằng. Dung lượng
sạc và xả trong năm chu trình đầu tiên này đều cao hơn so với công suất của điện
cực than chì thương mại (372 mA.h.g1) [45] nên vật liệu CFO/C được đánh giá là
vật liệu anot tiềm năng cho pin LIB.
Hình 3.53b trình bày dung lượng sạc/xả của pin LIB sử dụng CFO/C làm vật
liệu anot khi tiến hành sạc ở mật độ dòng 100 mA.g1. Kết quả cho thấy dung lượng
xả giảm nhanh trong 20 vòng sạc xả đầu tiên, từ 863 mA.h.g1 giảm xuống còn
284 mA.h.g1, giảm 67,1 % so với dung lượng điện xả vòng đầu tiên. Sự giảm
nhanh về dung lượng điện trong pin LIB này là thường gặp khi sử dụng anot là vật
liệu CFO. Nguyên nhân của sự giảm mạnh này được quy cho sự tổng hợp của hai
hiệu ứng: thứ nhất là sự hình thành rộng rãi của lớp SEI trong vật liệu anot làm
giảm độ dẫn của điện cực và thứ hai là sự phá vỡ điện cực anot do sự giãn nở/co rút
thể tích của CFO thường gây ra bởi quá trình xâm nhập và rời khỏi anot của ion Li+
[90].
Tuy nhiên, trong các vòng sạc – xả sau, dung lượng sạc/xả giảm chậm hơn.
Dung lượng xả đạt 227 mA.h.g1 sau 50 vòng và 183 mA.h.g1 sau 75 vòng, giảm
tương ứng 20,1 % và 35,6 % so với dung lượng xả sau 20 vòng. Do lúc này, cấu
trúc xốp của vật liệu đã thay đổi, giàn carbon đã hỗ trợ cho các hạt nano CFO trong
nanocomposite nên có khả năng chịu đựng được sự thay đổi về thể tích trong quá
trình xâm nhập và rời khỏi điện cực anot của ion Li+ [63]. Chính vì vậy sự thay đổi
về dung lượng điện trong các chu trình sạc - xả những chu trình sau này là không
đáng kể.
Phương pháp Ex-situ XRD được sử dụng để đánh giá cấu trúc và thành phần
pha của vật liệu anot trong quá trình sạc – xả. Giản đồ XRD của vật liệu CFO/C
trước khi sạc – xả (đường màu đen trong Hình 3.55) xuất hiện các peak tinh thể ở
108
góc nhiễu xạ 2θ = 30°, 36°, 43°, 53°, 57° và 63° tương ứng với các mặt phản xạ
(220), (311), (400), (422), (511) và (440) của spinel CFO (JCPDS No.22-1086).
Giản đồ XRD của vật liệu CFO/C sau 100 vòng sạc – xả đầu tiên (đường màu đỏ
trong Hình 3.55) thấy sự có mặt của peak tinh thể ở góc nhiễu xạ 2θ = 45°. Đây là
peak nhiễu xạ tương ứng với mặt phản xạ (110) đặc trưng cho cấu trúc tinh thể
cubic của hợp kim Co-Fe phù hợp với dữ liệu JCPDS No. 49-1568 [49]. Kết quả
này chứng tỏ thành phần của vật liệu anot bao gồm CFO/C và Co-Fe/C trong các
quá trình sạc – xả của pin LIB. Đồng thời, quá trình sạc – xả đã có kèm theo sự
chuyển hóa cấu trúc tinh thể của vật liệu, từ dạng tinh thể spinel của CFO sang dạng
tinh thể cubic của hợp kim Co - Fe.
Hình 3.55. Giản đồ XRD của vật liệu CFO/C trước và sau khi sạc – xả 100 vòng
đầu tiên
Mặt khác, từ đường cong tích điện – phóng điện đầu tiên (Hình 3.53a) cũng
cho thấy có một đỉnh tù dài và phẳng ở điện thế khoảng 0,8 V trong quá trình sạc và
không có đỉnh tù ở điện thế 1,7 V trong quá trình xả. Đây là những đặc điểm đặc
trưng cho quá trình khử các ion Co2+ và Fe3+ thành các kim loại Co và Fe dạng tinh
thể tương ứng trong quá trình xả của pin. Và trong quá trình sạc, các kim loại Co và
109
Fe sẽ bị oxy hóa tạo thành các ion Co2+ và Fe3+ tương ứng. Kết quả này là tương
đồng với kết quả của các nghiên cứu khác khi sử dụng vật liệu CFO làm vật liệu
anot trong pin LIB [19], [75], [100].
Kết hợp các kết quả phân tích ở trên, cơ chế của các phản ứng điện hóa xảy
ra trên điện cực CFO/C được đề nghị xảy ra theo hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất
là quá trình không thuận nghịch xảy ra ở quá trình sạc – xả đầu tiên. Phản ứng giữa
ion Li+ với CFO được mô tả theo phương trình (3.36), (3.37) và (3.38) [19], [75].
Quá trình sạc đầu tiên:
CoFe2O4 + 8Li+ + 8e Co + 2Fe + 4Li2O (3.36)
Quá trình xả đầu tiên
Co + Li2O CoO + 2Li+ + 2e (3.37)
2Fe + 3Li2O Fe2O3 + 6Li+ + 6e (3.38)
Giai đoạn thứ hai là quá trình thuận nghịch xảy ra ở các chu trình sạc - xả
tiếp theo. Các phản ứng oxy hóa – khử xảy ra trên điện cực trong các chu trình sạc -
xả lần thứ hai trở đi được mô tả theo phương trình (3.39).
CoO + Fe2O3 + 8Li+ + 8e Co + 2Fe + 4Li2O (3.39)
Hình 3.56. (a) Giản đồ điện hóa của 100 vòng sạc - xả đầu tiên tại mật độ dòng
250 mAg-1 khi sử dụng CFO/C làm vật liệu anot trong LIB (b) Dung lượng điện
trong 25 chu trình sạc - xả đầu tiên
110
Điện cực CFO/C cũng được tiến hành đánh giá khả năng sạc nhanh tại hai
mật độ dòng 250 mA.g1 và 500 mA.g1. Kết quả được trình bày ở Hình 3.56 và
Hình 3.57. Các đường cong phóng điện – tích điện của 100 chu trình sạc – xả đầu
tiên tại mật độ dòng 250 mA.g1 (Hình 3.56a) và 500 mA.g1 (Hình 3.57a) có hình
dạng giống nhau và giống với các đường cong phóng điện – tích điện tại mật độ
dòng 100 mA.g1 (Hình 3.54a). Điều này cho thấy cơ chế phản ứng xảy ra trên các
điện cực anot tại các mật độ dòng điện cao 250 và 500 mA.g1 là giống với tại mật
độ dòng thấp 100 mA.g1, đó là có sự chuyển hóa từ spinel CFO trong composite
CFO/C sang cubic Co-Fe trong composite Co-Fe/C và ngược lại trong các chu trình
sạc – xả.
Hình 3.57. (a) Giản đồ điện hóa của 100 vòng sạc - xả đầu tiên tại mật độ dòng
500 mAg-1 khi sử dụng CFO/C làm vật liệu anot trong LIB (b) Dung lượng điện
trong 15 chu trình sạc - xả đầu tiên
Tuy nhiên, khi tăng mật độ dòng điện, dung lượng điện giảm nhanh rõ rệt
trong các chu trình sạc – xả đầu tiên. Dung lượng sạc và xả trong chu trình đầu tiên
tại các mật độ dòng 250 mA.g1 là 1107 và 805 mA.h.g1 tương ứng với hiệu suất
Coulomb là 72,7 % và tại mật độ dòng 500 mA.g1 là 804 và 397 mA.h.g1 tương
ứng với hiệu suất Coulomb là 49,4 %. Các dung lượng sạc/xả và hiệu suất Coulomb
trong chu trình đầu tiên khi tiến hành sạc pin ở các mật độ dòng 250 và 500 mA.g1
đều nhỏ hơn so với dung lượng sạc/xả vòng đầu tiên tại mật độ dòng 100 mA.g1.
111
Sau 15 chu kỳ, dung lượng xả giảm còn 224 mA.h.g1 khi tiến hành sạc ở mật độ
dòng 250 mA.g1 và 151 mA.h.g1 khi tiến hành sạc ở mật độ dòng 500 mA.g1. Các
dung lượng này cũng đều nhỏ hơn so với dung lượng xả khi sạc ở 100 mA.g1 là
320 mA.g1. Như vậy quá trình sạc/xả ở mật độ dòng cao không được hỗ trợ tốt bởi
vật liệu CFO/C tổng hợp được. Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu của
một số tác giả về vật liệu CFO khi tiến hành sạc/xả ở mật độ dòng điện cao [19],
[150], [152], [153].
* Kết luận phần 3.3:
Trong phần nội dung nghiên cứu này, màng CTS xoắn lớp lần đầu tiên đã
được sử dụng trong việc làm chất nền định hướng cấu trúc và nguồn cung cấp
carbon để tổng hợp màng nanocomposite CFO/C.
- Vật liệu CFO/CTS được đặc trưng bằng các phương pháp XRD, TGA, SEM,
TEM. Kết quả cho thấy các hạt tinh thể nano CFO phân bố quanh sợi nano CTS.
Màng CFO/CTS vẫn giữ được cấu trúc xoắn lớp của màng CTS ban đầu.
- Sản phẩm CFO/C đã được tổng hợp thành công từ màng CFO/CTS. Vật liệu
CFO/C được đặc trưng bằng các phương pháp XRD, TGA, SEM, TEM, BET, EDX.
Kết quả ghi nhận sản phẩm CFO/C vừa sao chép cấu trúc xoắn lớp của màng CTS
ban đầu vừa tạo thành cấu trúc tấm nano mới với diện tích bề mặt riêng lớn
(150 m2/g).
- Sản phẩm CFO/C thể hiện là vật liệu anot pin LIB tương đối tốt với dung
lượng điện cao (đạt 1054 và 863 mA.h.g1 trong chu kỳ sạc – xả đầu tiên tại
100 mA.g1), hiệu suất sử dụng khá cao và sự đảo ngược quá trình oxy hóa và khử
trong pin đạt được trạng thái cân bằng sau hai chu trình sạc – xả. Tuy nhiên, vật liệu
CFO/C không hỗ trợ tốt cho quá trình sạc – xả ở mật độ dòng điện cao. Quá trình
sạc – xả đã kèm theo sự chuyển hóa cấu trúc từ dạng tinh thể spinel của CFO sang
dạng tinh thể cubic của hợp kim Co-Fe.
112
KẾT LUẬN
Từ những kết quả nghiên cứu đạt được, chúng tôi rút ra những kết luận chính sau
đây:
1. Màng chitosan có cấu trúc sợi xoắn lớp kiểu Bouligand đã được điều chế thành
công từ vỏ cua và được sử dụng để tổng hợp dung dịch WSC và WSC rắn. Kết
quả phân tích đặc trưng cho thấy quá trình N-acetyl hóa đã chuyển hóa các sợi
tinh thể nano chitosan thành sản phẩm N-acetylated chitosan có cấu trúc vô định
hình và tan tốt trong nước. Đồng thời, quá trình sấy đông khô chân không đã
kèm theo sự tự sắp xếp các sợi chitosan tan thành các tấm vô định hình trong
vật liệu WSC rắn.
2. Dung dịch WSC đã được sử dụng làm tiền chất để điều chế một số dạng vật liệu
khác của chitosan. Đó là hydrogel, aerogel, vi cầu và màng chitosan. Những kết
quả đặc trưng của các vật liệu điều chế được đã ghi nhận có sự tạo liên kết
ngang giữa chitosan và glyoxal trong các vật liệu aerogel và vi cầu chitosan.
Đồng thời, có sự biến mất cấu trúc sợi tinh thể nano của chitosan trong màng
chitosan xoắn lớp ban đầu. Quá trình sấy khô đã kèm theo sự tự kết hợp các sợi
nano N-acetylated chitosan thành các tấm vô định hình trong các vật liệu aerogel
và màng. Đây là một trong số những phát hiện mới về sự chuyển hóa cấu trúc và
hình thái của chitosan trong quá trình điều chế các vật liệu chitosan tan trong
nước.
3. Màng chitosan có cấu trúc xoắn lớp đã được sử dụng để tổng hợp thành công vật
liệu composite polythiophene/chitosan thông qua quá trình polymer hóa có mặt
chất oxy hóa (NH4)2S2O8. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp đã được
khảo sát và điều kiện thích hợp là thực hiện phản ứng trong thời gian 6 giờ ở
nhiệt độ 60 °C với tỉ lệ số mol thiophene và chất oxy hóa (NH4)2S2O8 là 1:1,2.
4. Kết quả đặc trưng mẫu polythiophene/chitosan cho thấy sản phẩm composite
polymer thu được vẫn giữ nguyên cấu trúc kiểu Bouligand của màng chitosan
ban đầu. Các hạt cầu polythiophene liên kết trên bề mặt màng và quanh sợi nano
113
chitosan. Đây là một trong những cấu trúc mới của vật liệu
polythiophene/chitosan.
5. Vật liệu polythiophene/chitosan lần đầu tiên được sử dụng để biến tính điện cực
than thủy tinh ứng dụng trong phân tích axit uric, xanthin, hypoxanthin và
cafein. Tính chất điện hóa của bốn chất phân tích trên điện cực biến tính đã được
khảo sát. Quá trình điện hóa xảy ra trên bề mặt điện cực đối với bốn chất phân
tích đều là quá trình bất thuận nghịch. Quá trình oxy hóa trên điện cực được
kiểm soát bởi quá trình hấp phụ đối với axit uric và bởi cả quá trình hấp phụ và
khuếch tán đối với xanthin, hypoxanthin và cafein. Phương pháp có thể ứng
dụng phân tích đồng thời axit uric, xanthin và hypoxanthin trong mẫu thực tế với
giới hạn phát hiện thấp (4,5.107 M đối với hypoxanthin, 1,01.106 M đối với
axit uric và 1,06.106 M đối với xanthin), độ lặp lại tốt (RSDUA = 2,6 – 11,2 %
và RSDXA = 3,9 – 9,6 %) và độ đúng tương đối tốt (RevUA = 98 – 113 % và
RevXA = 86 – 130 %).
6. Vật liệu CoFe2O4/chitosan đã được tổng hợp từ màng chitosan xoắn lớp và hỗn
hợp muối FeCl3, CoCl2. Kết quả đặc trưng vật liệu cho thấy các hạt nano
CoFe2O4 phân bố quanh sợi nano chitosan. Màng CoFe2O4/chitosan vẫn giữ
được cấu trúc xoắn lớp của màng chitosan ban đầu. Màng chitosan có cấu trúc
xoắn lớp lần đầu tiên được sử dụng để điều chế các vật liệu lai hoặc vật liệu
composite vô cơ – hữu cơ có cấu trúc quang học, giữ nguyên cấu trúc kiểu
Bouligand của vật liệu nền chitosan ban đầu
7. Sản phẩm CoFe2O4/carbon dạng màng đã được tổng hợp thành công từ màng
CoFe2O4/chitosan. Kết quả đặc trưng vật liệu ghi nhận màng CoFe2O4/carbon
vừa sao chép cấu trúc xoắn lớp của màng chitosan ban đầu vừa tạo thành cấu
trúc tấm nano. Đây là một trong những cấu trúc mới của vật liệu nanocompite
CoFe2O4/carbon. Sản phẩm có cấu trúc mao quản trung bình với diện tích bề
mặt riêng lớn (150 m2/g).
8. Sản phẩm CoFe2O4/carbon thể hiện là vật liệu anot pin Liti-ion tương đối tốt với
dung lượng điện cao (đạt 1054 và 863 mA.h.g1 trong chu kỳ sạc – xả đầu tiên
tại 100 mA.g1), hiệu suất sử dụng khá cao và sự đảo ngược quá trình oxy hóa
114
và khử trong pin đạt được sau hai vòng sạc – xả. Quá trình sạc – xả đã kèm theo
sự chuyển hóa cấu trúc từ dạng tinh thể spinel của CoFe2O4 sang dạng tinh thể
cubic của hợp kim Co-Fe.
115
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
* Tạp chí quốc tế
1. Nhan Thi Thanh Dang, Trang The Lieu Chau, Hau Van Duong, Hoa Thi
Le, Thi Thi Van Tran,Thang Quoc Le, Tuyen Phi Vu, Cuong Duc Nguyen,
Long Viet Nguyen, Thanh-Dinh Nguyen (2017), Water-Soluble Chitosan-
derived Sustainable Materials: Towards Filaments, Aerogels, Microspheres,
and Plastics, Soft Matter, 13, pp. 7292-7299 (IF = 3.330, Q1, H Index: 155).
2. Nhan Thi Thanh Dang, Thanh-Dinh Nguyen, Erlantz Lizundia, Thang
Quoc Le, Mark J. MacLachlan (2020), Biomimetic Mesoporous Cobalt
Ferrite/Carbon Nanoflake Helices for Freestanding Lithium-Ion Battery
Anodes, ChemistrySelect, 5, pp. 8207 – 8217 (IF = 1.811, Q2, H Index: 25).
* Tạp chí trong nước
3. Dang Thi Thanh Nhan, Tran Thi Van Thi, Le Quoc Thang, Nguyen Thanh
Dinh (2017), Structural transformation of crystalline nanofibrils into
amorphous sheets of water-soluble chitosan, Tạp chí Hoá học, 55(5E34), pp.
526-530.
4. Đặng Thị Thanh Nhàn, Lê Lâm Sơn, Lê Quốc Thắng (2018), Nghiên cứu
tổng hợp, đặc trưng và ứng dụng màng chitosan - ferrit từ tính có cấu trúc
quang học, Tạp chí Hoá học, 56(3), pp. 384-388.
5. Huỳnh Thị Linh Phương, Đặng Thị Thanh Nhàn, Trần Thanh Tâm Toàn,
Nguyễn Hải Phong (2018), Nghiên cứu biến tính điện cực glassy carbon
bằng chitosan polithiophen để xác định uric acid, xanthine, hypoxanthine,
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế,
13(2), pp. 39-50.
6. Đặng Thị Thanh Nhàn, Lê Thị Thu Hương, Nguyễn Thị Tú Trinh, Phan
Mỹ Linh, Lê Quốc Thắng (2019), Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quá
116
trình điều chế chitosan-polythiophene, Tạp chí Hóa học và Ứng dụng, 2(46),
pp. 8-10.
7. Đặng Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Hải Phong, Huỳnh Thị Linh Phương, Lê
Quốc Thắng (2019), Nghiên cứu đặc tính điện hóa của acid uric, xanthine và
hypoxanthine trên bề mặt điện cực than thủy tinh biến tính bằng
polythiophene-chitosan, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, Khoa học Tự nhiên,
128(1C), pp. 95-101.
117
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bùi Duy Du, Đặng Văn Phú, Bùi Duy Cam, Nguyễn Quốc Hiến (2008).
Nghiên cứu hiệu ứng cắt mạch chitosan tan trong nước bằng bức xạ gamma
Co-60. Tạp chí Hóa học, 46(1), 57–61.
2. Đinh Quang Khiếu (2015), Một số phương pháp phân tích hóa lý, Nhà xuất
bản Đại học Huế, Huế.
3. Lê Thị Lành, Nguyễn Thị Thanh Hải, Trần Thái Hòa (2012). Tổng hợp nano
vàng sử dụng chitosan tan trong nước làm chất khử và chất ổn định. Tạp chí
khoa học Đại học Huế, 5(74A), 65–75.
4. Trần Đại Lâm, Nguyễn Tuấn Dung, Nguyễn Lê Huy, Lê Viết Hải (2017), Các
phương pháp phân tích hóa lý vật liệu, Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và
Công nghệ, Hà Nội.
Tiếng Anh
5. Ambade R.B., Ambade S.B., Shrestha N.K., et al. (2017). Controlled growth
of polythiophene nanofibers in TiO2 nanotube arrays for supercapacitor
applications. J. Mater. Chem. A, 5, pp. 172–180.
6. Andersson M.R., Selse D., Berggren M., et al. (1994). Regioselective
Polymerization of 3-(4-octylphenyl)thiophene with FeCl3. Macromolecules,
27, pp. 6503–6506.
7. Ansari M.O., Khan M.M., Ansari S.A., et al. (2015). Polythiophene
nanocomposites for photodegradation applications: Past, present and future. J.
Saudi Chem. Soc., 19(5), pp. 494–504.
8. Barbarella G., Zambianchi M., Toro R. Di, et al. (1996). Regioselective
oligomerization of 3-(alkylsulfanyl)thiophenes with ferric chloride. J. Org.
Chem., 61, pp. 8285–8292.
9. Basu A., Kunduru K.R., Abtew E., et al. (2015). Polysaccharide-based
118
conjugates for biomedical applications. Bioconjug. Chem., 26(7), pp. 1396–
1412.
10. Bellamy L.J. (1980), The infrared spectra of complex molecules, Chapman
and Hall, New York, USA.
11. Cabana J., Monconduit L., Larcher D., et al. (2010). Beyond intercalation-
based li-ion batteries: the state of the art and challenges of electrode materials
reacting through conversion reactions. Adv. Energy Mater., 22, pp. 170–192.
12. Cabuk M., Yavuz M., Unal H.I., et al. (2015). Synthesis, characterization, and
enhanced antibacterial activity of chitosan-based biodegradable conducting
graft copolymers. Polym. Compos., 36(3), pp. 497–509.
13. Cabuk M., Yavuz M., and Unal H.I. (2016). Electrokinetic, electrorheological
and viscoelastic properties of polythiophene-graft-chitosan copolymer
particles. Colloids Surfaces A Physicochem. Eng. Asp., 510, pp. 231–238.
14. Cao K., Jin T., Li Y., et al. (2017). Recent progress on conversion reaction
metal oxide anodes for Li ion batteries. Mater. Chem. Front., 1, pp. 2213–
2242.
15. Chandrasekharan A., Hwang Y.J., Seong K., et al. (2019). Acid-treated
water-soluble chitosan suitable for microneedle-assisted intracutaneous drug
delivery. Pharmaceutics, 11, pp. 209–313.
16. Chang J., Chang K., Hu C., et al. (2010). Improved voltammetric peak
separation and sensitivity of uric acid and ascorbic acid at nanoplatelets of
graphitic oxide. Electrochem. commun., 12, pp. 596–599.
17. Chen Z., Zhang H., Song Z., et al. (2013). Combination of glyoxal and
chitosan as the crosslinking system to improve paper wet strength.
Bioresources, 8(4), pp. 6087–6096.
18. Cheung R.C.F., Ng T.B., Wong J.H., et al. (2015), Chitosan: An update on
potential biomedical and pharmaceutical applications, Mar. Drugs, 13(8), pp.
5156-5186.
19. Chu Y., Fu Z., and Qin Q. (2004). Cobalt ferrite thin films as anode material
for lithium ion batteries. Electrochim. Acta, 49, pp. 4915–4921.
119
20. Chung Y.C., Tsai C.F., and Li C.F. (2006). Preparation and characterization
of water-soluble chitosan produced by Maillard reaction. Fish. Sci., 72, pp.
1096–1103.
21. Collins A.M., Mann S., and Hall S.R. (2010). Formation of cobalt-prussian
blue nanoparticles in a biopolymer matrix. Nanoscale, 2, pp. 2370–2372.
22. Cui L., Gao S., Song X., et al. (2018). Preparation and characterization of
chitosan membranes. RSC Adv., 8, pp. 28433–28439.
23. Dai T., Tanaka M., Huang Y.-Y., et al. (2011). Chitosan preparations for
wounds and burns: antimicrobial and wound-healing effects. Expert Rev. Anti
Infect. Ther., 9(7), pp. 857–879.
24. Denkbas E.B., Seyyal M., and Piskin E. (1999). 5-Fluorouracil loaded
chitosan microspheres for chemoembolization. J. Microencapsul., 16(6), pp.
741–749.
25. Du D.X. and Vuong B.X. (2019). Study on preparation of water-soluble
chitosan with varying molecular weights and its antioxidant activity. Adv.
Mater. Sci. Eng., 2019, pp. 1–8.
26. Duan B., Zheng X., Xia Z., et al. (2015). Highly biocompatible nanofibrous
microspheres self-assembled from chitin in naoh/ urea aqueous solution as
cell carriers. Angew Chemie Int Ed, 54, 1–6.
27. Duan J., Liang X., Cao Y., et al. (2015). High strength chitosan hydrogels
with biocompatibility via new avenue based on constructing nanofibrous
architecture. Macromolecules, 48(8), pp. 2706–2714.
28. Dutta P.K., Dutta J., and Tripathi V.S. (2004). Chitin and chitosan:
Chemistry, properties and applications. J. Sci. Ind. Res., 63, pp. 20–31.
29. Eren E., Aslan E., and Oksuz A.U. (2014). The effect of anionic surfactant on
the properties of polythiophene/ chitosan composites. Polym. Eng. Sci.,
54(11), pp. 2632–2640.
30. Ethirajan A., Ziener U., Chuvilin A., et al. (2008). Biomimetic hydroxyapatite
crystallization in gelatin nanoparticles synthesized using a miniemulsion
process. Adv. Funct. Mater., 18, pp. 2221–2227.
120
31. Farag R.K. and Mohamed R.R. (2013). Synthesis and characterization of
carboxymethyl chitosan nanogels for swelling studies and antimicrobial
activity. Molecules, 18, pp. 190–203.
32. Feizbakhsh A. and Ehteshami S. (2016). Polythiophene – chitosan magnetic
nanocomposite as a novel sorbent for disperse magnetic solid phase extraction
of triazine herbicides in aquatic media. Chromatographia, 79(17), pp. 1177–
1185.
33. Feizbakhsh A., Hossein A., Sarrafi M., et al. (2016). Polythiophene-chitosan
magnetic nanocomposite as a highly efficient medium for isolation of
fluoxetine from aqueous and biological samples. J. Anal. Methods. Chem., 9,
pp. 1–11.
34. Felix F.S., Ferreira L.M.C., Vieira F., et al. (2015). Amperometric
determination of promethazine in tablets using an electrochemically reduced
graphene oxide modified electrode. New J. Chem., 39, pp. 696–702.
35. Feng F., Liu Y., Zhao B., et al. (2012). Characterization of half N-acetylated
chitosan powders and films. Procedia Eng., 27, pp. 718–732.
36. Gao H., Liu S., Li Y., et al. (2017). A critical review of spinel structured iron
cobalt oxides based materials for electrochemical energy. Energies, 10, pp.
1787–1807.
37. Giese M., Blusch L.K., Schlesinger M., et al. (2016). Magnetic mesoporous
photonic cellulose films. Langmuir, 32, pp. 9329–9334.
38. Goodrich J.D. and Winter W.T. (2007). α-Chitin nanocrystals prepared from
shrimp shells and their specific surface area measurement.
Biomacromolecules, 8, pp. 252–257.
39. Grunenfelder L.K., Herrera S., and Kisailus D. (2014). Crustacean-derived
biomimetic components and nanostructured composites. Small, 10(16), pp.
3207–3232.
40. Guidelli R., Compton R.G., Feliu J.M., et al. (2014). Defining the transfer
coefficient in electrochemistry: An assessment (IUPAC Technical Report).
Pure Appl. Chem., 86(2), pp. 245–258.
121
41. Hai T.A.P. and Sugimoto R. (2018). Applied surface science surface
modification of chitin and chitosan with poly( 3-hexylthiophene ) via
oxidative polymerization. Appl. Surf. Sci., 434, pp. 188–197.
42. Hamedi H., Moradi S., Hudson S.M., et al. (2018). Chitosan based hydrogels
and their applications for drug delivery in wound dressings: A review.
Carbohydr. Polym., 199, pp. 445–460.
43. Han J., Zhou C., Wu Y., et al. (2013). Self-assembling behavior of cellulose
nanoparticles during freeze-drying: effect of suspension concentration,
particle size, crystal structure, and surface charge. Biomacromolecules, 14(5),
pp. 1529–1540.
44. Hansen B.H. and Dryhurst G. (1971). Electrochemical oxidation of
theobromine and caffeine at the pyrolytic graphite electrode. Electroanal.
Chem. Interfacial Electrochem., 30, pp. 407–416.
45. Heidari E.K., Kamyabi-gol A., Sohi M.H., et al. (2018). Electrode materials
for lithium ion batteries : A review. J. Ultrafine Grained Nanostructured
Mater., 51(1), pp. 1–12.
48. Hirano S., Yamaguchi Y., and Kamiya M. (2003). Water-soluble N-(N-fatty
acyl)chitosans. Macromol. Biosci., 3, pp. 629–631.
46. Hood M.A., Mari M., and Muñ R. (2014). Synthetic strategies in the
preparation of polymer/inorganic hybrid nanoparticles. Materials (Basel), 7,
pp. 4057–4087.
47. Horwitz W. and Albert R. (1997). The concept of uncertainty as applied to
chemical measurements. Analyst., 122, pp. 615–617.
48. Hyeon T., Manna L., and Wong S.S. (2015). Sustainable nanotechnology.
Chem. Soc. Rev., 44, pp. 5755–5757.
49. Hyie K.M., Normimi W., Abdullah R., et al. (2013). The physical and
magnetic properties of electrodeposited co-fe nanocoating with different
deposition times. J. Nanomater., 2013, pp. 1-6.
50. Irimia-Vladu M. (2014). ‘“Green”’ electronics: biodegradable and
biocompatible materials and devices for sustainable future. Chem. Soc. Rev.,
122
43, pp. 588–610.
51. Jameela S.R., Kumary T. V, Lal A. V, et al. (1998). Progesterone-loaded
chitosan microspheres: a long acting biodegradable controlled delivery
system. J. Control Release, 52, pp. 17–24.
52. Janardhanan S.K., Ramasamy I., and Nair B.U. (2008). Synthesis of iron
oxide nanoparticles using chitosan and starch templates. Transit. Met. Chem.,
33, pp. 127–131.
53. Jayakumar R., Prabaharan M., Sudheesh Kumar P.T., et al. (2011).
Biomaterials based on chitin and chitosan in wound dressing applications.
Biotechnol. Adv., 29(3), pp. 322–337.
54. Jiang M., Wang K., Kennedy J.F., et al. (2010). Preparation and
characterization of water-soluble chitosan derivative by Michael addition
reaction. Int. J. Biol. Macromol., 47, pp. 696–699.
55. Jing B., Li X., Liu G., et al. (2014). Unusual formation of znco2o4 3d
hierarchical twin microspheres as a high‐rate and ultralong‐life lithium‐ion
battery anode material. Adv. Funct. Mater., 24, pp. 3012–3020.
56. Kadib A. El, Primo A., Molvinger K., et al. (2011). Nanosized vanadium,
tungsten and molybdenum oxide clusters grown in porous chitosan
microspheres as promising hybrid materials for selective alcohol oxidation.
Chem. a Eur. J., 17, pp. 7940–7946.
57. Kaloni T.P., Giesbrecht P.K., Schreckenbach G., et al. (2017). Polythiophene:
from fundamental perspectives to applications. Chem. Mater., 29, pp.
10248−10283.
58. Kamala K., Sivaperumal P., and Rajaram R. (2013). Extraction and
characterization of water soluble chitosan from parapeneopsis stylifera shrimp
shell waste and its antibacterial activity. Int. J. Sci. Res. Publ., 3(4), pp. 1–8.
59. Kazemi M., Ghobadi M., and Mirzaie A. (2018). Cobalt ferrite nanoparticles
(CoFe2O4 MNPs ) as catalyst and support: magnetically recoverable
nanocatalysts in organic synthesis. Nanotechnol. Rev., 7(1), pp. 43–68.
60. Khan F., Tanakab M., and Ahmad S.R. (2015). Fabrication of polymeric
123
biomaterials: a strategy for tissue engineering and medical devices. J. Mater.
Chem. B, 3, pp. 8224–8249.
61. Kim S. and Rajapakse N. (2005). Enzymatic production and biological
activities of chitosan oligosaccharides (COS ): A review. Carbohydr. Polym.,
62, pp. 357–368.
62. Knaul J.Z., Hudson S.M., and Creber K.A.M. (1999). Crosslinking of
chitosan fibers with dialdehydes: proposal of a new reaction mechanism. J.
Polym. Sci. Part B Polym. Phys., 37, pp. 1079–1094.
63. Ko M., Chae S., and Cho J. (2015). Challenges in accommodating volume
change of si anodes for li-ion batteries. ChemElectroChem, 2, pp. 1645–1651.
64. Kubota N. and Eguchi Y. (1997). Facile preparation of water-soluble N-
acetylated chitosan and molecular weight dependence of its water-solubility.
Polym. J., 29(2), pp. 123–127.
65. Kubota N., Tatsumoto N., Sano T., et al. (2000). A simple preparation of half
N-acetylated chitosan highly soluble in water and aqueous organic solvents.
Carbohydr. Res., 324, pp. 268–274.
66. Kumar M.N.V.R., Muzzarelli R.A.A., Muzzarelli C., et al. (2004). Chitosan
chemistry and pharmaceutical perspectives. Chem. Rev., 104(12), pp. 6017–
6084.
67. Kumar P.R., Kollu P., Santhosh C., et al. (2014). Enhanced properties of
porous CoFe2O4 – reduced graphene oxide composites with alginate binders
for Li-ion battery applications. New J. Chem., 38, pp. 3654–3661.
68. Kuroda Y. and Kuroda K. (2017). Templated Synthesis for Nanostructured
Materials. Handbook of Solid State Chemistry. First Edit., Wiley-VCH
Verlag GmbH & Co. KGaA, pp. 201–231.
69. Lan D. and Zhang L. (2015). Electrochemical synthesis of a novel purine-
based polymer and its use for the simultaneous determination of dopamine,
uric acid, xanthine and hypoxanthine. J. Electroanal. Chem., 757, pp. 107–
115.
70. Lavanya N., Sekar C., Murugan R., et al. (2016). An ultrasensitive
124
electrochemical sensor for simultaneous determination of xanthine,
hypoxanthine and uric acid based on Co doped CeO2 nanoparticles. Mater.
Sci. Eng. C, 65, 278–286.
71. Laviron E. (1979). General expression of the linear potential sweep
voltammogram in the case of diffusion less electrochemical systems. J.
Electroanal. Chem., 101, pp. 19–28.
72. Le T.-H., Kim Y., and Yoon H. (2017). Electrical and electrochemical
properties of conducting polymers. Polymers (Basel), 9(4), pp. 150–181.
73. Lee Y.H., Park S.Y., Park J.E., et al. (2019). Anti-oxidant activity and dust-
proof effect of chitosan with different molecular weights. Int. J. Mol. Sci., 20,
pp. 3085–3095.
74. Li S., Li A., Zhang R., et al. (2014). Hierarchical porous metal ferrite ball-in-
ball hollow spheres : General synthesis, formation mechanism, and high
performance as anode materials for Li-ion batteries. Nano Res., 7(8), pp.
1116–1127.
75. Li Z.H., Zhao T.P., Zhan X.Y., et al. (2010). High capacity three-dimensional
ordered macroporous CoFe2O4 as anode material for lithium ion batteries.
Electrochim. Acta, 55, pp. 4594–4598.
76. Lin S., Lin Y., and Chen H. (2009). Low molecular weight chitosan prepared
with the aid of cellulase, lysozyme and chitinase: Characterisation and
antibacterial activity. Food Chem., 116, pp. 47–53.
77. Liu J. and Liu X. (2012). Two-dimensional nanoarchitectures for lithium
storage. Adv. Mater., 24(30), pp. 4097–4111.
78. Liu R. and Liu Z. (2009). Polythiophene: Synthesis in aqueous medium and
controllable morphology. Chinese Sci. Bull., 54, pp. 2028–2032.
79. Liu S., Xie J., Fang C., et al. (2012). Self-assembly of a CoFe2O4/graphene
sandwich by a controllable and general route: towards a high-performance
anode for Li-ion batteries. J. Mater. Chem., 22, pp. 19738–19743.
80. Liu X., Wang K., and Chen J. (2016). Template-directed metal oxide for
electrochemical energy storage. Energy Storage Mater., 3, pp. 1–17.
125
81. Liu Y., Goebla J., and Yin Y. (2013). Templated synthesis of nanostructured
materials. Chem. Soc. Rev., 42, pp. 2610–2653.
82. Lu J., Chen Z., Pan F., et al. (2018). High ‐ performance anode materials for
rechargeable lithium ‐ ion batteries. Electrochem Energy Rev., 1, pp. 35–53.
83. Lu S., Song X., Cao D., et al. (2004). Preparation of water-soluble chitosan. J.
Appl. Polym. Sci., 91, pp. 3497–3503.
84. Lu Y., Yu L., and Lou X.W. (2018). Nanostructured conversion-type anode
materials for advanced lithium-ion batteries. Chem., 4, pp. 972–996.
85. Marcasuzaa P., Reynaud S., Ehrenfeld F., et al. (2010). Chitosan-graft-
polyaniline-based hydrogels: Elaboration and properties. Biomacromolecules,
11, pp. 1684–1691.
86. Menchaca-Nal S., Londono-Calderon C., Cerrutti P., et al. (2015). Facile
synthesis of cobalt ferrite nanotubes using bacterial nanocellulose as template.
Carbohydr. Polym., 137, pp. 726–731.
87. Meseck G.R., Terpstra A.S., Marenco A.J., et al. (2016). Chiral nematic
mesoporous magnetic ferrites. J. Mater. Chem. C, 4, pp. 11382–11386.
88. Mitani T. and Fukumuro N. (1991). Effects of counter ions (SO42- and Cl-) on
the adsorption of copper and nickel ions by swollen chitosan beads. Agric.
Biol. Chem., 55(9), pp. 2419.
89. Mitra A. and Dey B. (2011). Chitosan microspheres in novel drug delivery
systems. Indian J. Pharm. Sci., 73(4), pp. 355–66.
90. Mitra S., Veluri P.S., Chakraborthy A., et al. (2014). Electrochemical
properties of spinel cobalt ferrite nanoparticles with sodium alginate as
interactive binder. ChemElectroChem, 1, pp. 1068–1074.
91. Morsi R.E., Al-sabagh A.M., Moustafa Y.M., et al. (2018). Polythiophene
modified chitosan/magnetite nanocomposites for heavy metals and selective
mercury removal. Egypt J. Pet., 27, pp. 1077–1085..
92. Nguyen T.-D., Peres B.U., Carvalho R.M., et al. (2016). Photonic hydrogels
from chiral nematic mesoporous chitosan nanofibril assemblies. Adv. Funct.
Mater., 26, pp. 2875–2881.
126
93. Nguyen T. and Maclachlan M.J. (2014). Biomimetic chiral nematic
mesoporous materials from crab cuticles. Adv. Opt. Mater., 2(11), pp. 1031–
1037.
94. Nguyen T. and Maclachlan M.J. (2019). Double twisted photonic honeycomb
frameworks with mesoporous structures. Adv. Opt. Mater., 7(6), pp.
1801275–1801283.
95. Nidhin M., Indumathy R., Sreeram K.J., et al. (2008). Synthesis of iron oxide
nanoparticles of narrow size distribution on polysaccharide templates. Bull.
Mater. Sci., 31(1), pp. 93–96.
96. Nunesa R.S. and Cavalheiro É.T.G. (2012). Caffeine determination at a
carbon fiber ultramicroelectrodes by fast-scan cyclic voltammetry. J. Braz.
Chem. Soc., 23(4), pp. 670–677.
97. Ohkawa K., Minato K.-I., Kumagai G., et al. (2006). Chitosan nanofiber.
Biomacromolecules, 7, pp. 3291–3294.
98. Ojani R., Alinezhad A., and Abedi Z. (2013). A highly sensitive
electrochemical sensor for simultaneous detection of uric acid, xanthine and
hypoxanthine based on poly(L - methionine) modified glassy carbon
electrode. Sensors Actuators B Chem., 188, pp. 621–630.
99. Perez-Madrigal M.M., Armelin E., Puiggalı J., et al. (2015). Insulating and
semiconducting polymeric free-standing nanomembranes with biomedical
applications. J. Mater. Chem. B, 3, pp. 5904–5932.
100. Permien S., Indris S., Schurmann U., et al. (2016). What happens structurally
and electronically during the li conversion reaction of cofe2o4 nanoparticles:
An operando XAS and XRD investigation. Chem. Mater., 28, pp. 434–444.
101. Pierini G.D., Robledo S.N., Zon M.A., et al. (2018). Development of an
electroanalytical method to control quality in fish samples based on an edge
plane pyrolytic graphite electrode. Simultaneous determination of
hypoxanthine, xanthine and uric acid. Microchem. J., 138, pp. 58–64.
102. Pillai C.K.S., Paul W., and Sharma C.P. (2009). Chitin and chitosan
polymers: Chemistry, solubility and fiber formation. Prog. Polym. Sci., 34,
127
pp. 641–678.
103. Preiss L.C., Landfester K., and Muñoz-Espí R. (2014). Biopolymer colloids
for controlling and templating inorganic synthesis. Beilstein J. Nanotechnol.,
5, pp. 2129–2138.
104. Qi W., Li P., Wu Y., et al. (2016). Facile synthesis of CoFe2O4 nanoparticles
anchored on graphene sheets for enhanced performance of lithium ion battery.
Prog. Nat. Sci. Mater. Int., 26(5), pp. 498–502.
105. Rabea E.I., Badawy M.E.-T., Stevens C. V, et al. (2003). Chitosan as
antimicrobial agent: Applications and mode of action. Biomacromolecules,
4(6), pp. 1457–1465.
106. Ramaprasad A.T., Rao V., Sanjeev G., et al. (2009). Grafting of polyaniline
onto the radiation crosslinked chitosan. Synth. Met., 159, pp. 1983–1990.
107. Ranjan O.P., Shavi G.V., Nayak U.Y., et al. (2011). Controlled release
chitosan microspheres of mirtazapine: In vitro and in vivo evaluation. Arch.
Pharm. Res., 34(11), pp. 1919–1929.
108. Rasheed R. and Meera V. (2016). Synthesis of iron oxide nanoparticles
coated sand by biological method and chemical method. Procedia Technol.,
24, pp. 210–216.
109. Rashid S., Shen C., Chen X., et al. (2015). Enhanced catalytic ability of
chitosan-Cu-Fe bimetal complex for the removal of dyes in aqueous solution.
RSC Adv., 5, pp. 90731–90741.
110. Rhazi M., Desbri J., Tolaimate A., et al. (2002). Influence of the nature of the
metal ions on the complexation with chitosan . Application to the treatment of
liquid waste. Eur. Polym. J., 38, pp. 1523–1530.
111. Rinaudo M. (2006). Chitin and chitosan: Properties and applications. Prog.
Polym. Sci., 31(7), pp. 603–632.
112. Salahi S., Soleimani M., and Abbaszadeh M. (2014). Synthesis and
representation of a new structure for polypyrrole – chitosan nanocomposite
and investigation of effect of intermolecular interaction. Synth. Met., 197, pp.
154–158.
128
113. Sang W., Tang Z., He M.Y., et al. (2015). Synthesis and preservative
application of quaternized carboxymethyl chitosan containing guanidine
groups. Int. J. Biol. Macromol., 75, pp. 489–494.
114. Sashiwa H., Kawasaki N., Nakayama A., et al. (2002). Chemical modification
of chitosan. Synthesis of water-soluble chitosan derivatives by simple
acetylation. Biomacromolecules, 3, pp. 1126–1128.
115. Sashiwa H., Yamamori N., Ichinose Y., et al. (2003). Michael reaction of
chitosan with various acryl reagents in water. Biomacromolecules, 4, pp.
1250–1254.
116. Sato K., Kishimoto T., and Morimoto M. (2003). Hydrolysis of acetals in
water under hydrothermal conditions. Tetrahedron Lett., 44, pp. 8623–8625.
117. Schneiderman D.K. and Hillmyer M.A. (2017). 50th anniversary perspective:
There is a great future in sustainable polymers. Macromolecules, 50, pp.
3733–3749.
118. Shanmuganathan S., Shanumugasundaram N., Adhirajan N., et al. (2008).
Preparation and characterization of chitosan microspheres for doxycycline
delivery. Carbohydr. Polym., 73, pp. 201–211.
119. Shao H., Ai F., Wang W., et al. (2017). Crab shell-derived nitrogen-doped
micro-/mesopores carbon as an effective separator coating for high energy
lithium-sulfur batteries. J. Mater. Chem. A, 5(37), pp. 19892–19900.
120. Shariatinia Z. and Jalali A.M. (2018). Chitosan-based hydrogels: Preparation,
properties and applications. Int. J. Biol. Macromol., 115, pp. 194–220.
121. Shi W., Chang B., Yina H., et al. (2019). Crab shell-derived honeycomb-like
graphitized hierarchically porous carbons for satisfactory rate performance in
all-solid-state supercapacitors. Sustain. Energy. Fuels, 3(5), pp. 1201–1214.
122. Shimanouchi T. (1972), Tables of molecular vibrational frequencies
consolidated Volume I, National Standard Reference Data Standard,
Washington D.C., USA.
123. Sifontes A.B., Gonzalez G., Ochoa J.L., et al. (2011). Chitosan as template
for the synthesis of ceria nanoparticles. Mater. Res. Bull., 46, pp. 1794–1799.
129
124. Soleymani J., Hasanzadeh M., Shadjou N., et al. (2016). A new kinetic–
mechanistic approach to elucidate electrooxidation of doxorubicin
hydrochloride in unprocessed human fluids using magnetic graphene based
nanocomposite modified glassy carbon electrode. Mater. Sci. Eng. C, 61, pp.
638–650.
125. Sturzel M., Mihan S., and Mulhaupt R. (2016). From multisite polymerization
catalysis to sustainable materials and all-polyolefin composites. Chem. Rev.,
116, pp. 1398–1433.
126. Sugiyanti D., Darmadji P., Santoso U., et al. (2018). Biological activity of
native and low molecular weight chitosan obtained by steam explosion
process. Pakistan J. Biol. Sci., 21(9), pp. 41–447.
127. Sun T., Zhou D., Xie J., et al. (2007). Preparation of chitosan oligomers and
their antioxidant activity. Eur. Food Res. Technol., 225, pp. 451–456.
128. Takeshita S., Konishi A., Takebayashi Y., et al. (2017). Aldehyde approach
to hydrophobic modification of chitosan aerogels. Biomacromolecules, 18(7),
pp. 2172–2178.
129. Takeshita S. and Yoda S. (2015). Chitosan aerogels: Transparent, flexible
thermal insulators. Chem. Mater., 27(22), pp. 7569–7572.
130. Terekhova O.G., Radishevskaya N.I., and Magaeva A.A. (2016). Mechanism
of interaction of chitosan with cobalt ferrite during synthesis by
mechanochemical activation. Nanotechnologies Russ., 11, pp. 625–632.
131. Tien C. Le, Lacroix M., Ispas-Szabo P., et al. (2003). N -acylated chitosan:
hydrophobic matrices for controlled drug release. J. Control Release, 93, pp.
1–13.
132. Wang B., Wang G., Lv Z., et al. (2015). In situ synthesis of hierarchical
CoFe2O4 nanoclusters/graphene aerogels and their high performance for
lithium-ion batteries. Phys. Chem. Chem. Phys., 17, pp. 27109–27117.
133. Wang H., Qian J., and Ding F. (2017). Recent advances in engineered
chitosan based nanogels for biomedical application. J. Mater. Chem. B, 5, pp.
6986–7007.
130
134. Wang J. (2006), Analytical Electrochemistry, Wiley-VCH, John Wiley &
Sons, USA.
135. Wang Y., Park J., Sun B., et al. (2012). Wintersweet‐flower‐like
CoFe2O4/MWCNTs hybrid material for high‐capacity reversible lithium
storage. Chem. Asian J., 7(8), pp. 1940–1946.
136. Wen Y., Chang J., Xu L., et al. (2017). Simultaneous voltammetric analysis
of uric acid, xanthine and hypoxanthine using nanocomposite sensor based on
carboxymethyl cellulose decorated both palygorskite and nitrogen doped
graphene. J. Electroanal. Chem., 805, pp. 159–170.
137. Wu K., Liu D., and Tang Y. (2018). In-situ single step chemical synthesis of
graphene-decorated CoFe2O4 composite with enhanced Li ion storage
behaviors. Electrochim. Acta, 263, pp. 515–523.
138. Wu L., Xiao Q., Li Z., et al. (2012). CoFe2O4/C composite fibers as anode
materials for lithium-ion batteries with stable and high electrochemical
performance. Solid State Ionics, 215, pp. 24–28.
139. Wu T., Zivanovic S., Hayes D.G., et al. (2008). Efficient reduction of
chitosan molecular weight by high-intensity ultrasound : Underlying
mechanism. J. Agric. Food Chem., 56, pp. 5112–5119.
140. Xie Y., Kocaefe D., Chen C., et al. (2016). Review of research on template
methods in preparation of nanomaterials. J. Nanomater., 8, pp. 1-10.
141. Xing R., Liu S., Yu H., et al. (2005). Salt-assisted acid hydrolysis of chitosan
to oligomers under microwave irradiation. Carbohydr. Res., 340, pp. 2150–
2153.
142. Yang Q., Dou F., Liang B., et al. (2005). Studies of cross-linking reaction on
chitosan fiber with glyoxal. Carbohydr. Polym., 59, pp. 205–210.
143. Yang S., Qu L., Yang R., et al. (2010). Modified glassy carbon electrode with
Nafion/MWNTs as a sensitive voltammetric sensor for the determination of
paeonol in pharmaceutical and biological samples. J. Appl. Electrochem., 40,
pp. 1371–1378.
144. Yang Z., Huang Y., Hu J., et al. (2018). Nanocubic CoFe2O4 graphene
131
composite for superior lithium-ion battery anodes. Synth. Met., 242, pp. 92–
98.
145. Yardimci F.S., Mehmet Ş., and Baykal A. (2012). Amperometric hydrogen
peroxide biosensor based on cobalt ferrite – chitosan nanocomposite. Mater.
Sci. Eng. C, 32, pp. 269–275.
146. Yi N. and Abidian M.R. (2016). Conducting polymers and their biomedical
applications. Biosynthetic Polymers for Medical Applications. 1st Edition,
Woodhead Publishing, pp. 243–276.
147. Yin H., Du Y., and Zhang J. (2009). Low molecular weight and oligomeric
chitosans and their bioactivities. Curr. Top. Med. Chem., 9, pp. 1546–1559.
148. Zargar V., Asghari M., and Dashti A. (2015). A review on chitin and chitosan
polymers: Structure, chemistry, solubility, derivatives, and applications.
ChemBioEng Rev., 3, pp. 204–226.
149. Zhang F., Wang Z., Zhang Y., et al. (2012). Simultaneous electrochemical
determination of uric acid, xanthine and hypoxanthine based on poly(L-
arginine)/graphene composite film modified electrode. Talanta, 93, pp. 320–
325.
150. Zhang L., Wei T., Jiang Z., et al. (2018). Electrostatic interaction in
electrospun nanofibers: Double-layer carbon protection of cofe2o4 nanosheets
enabling ultralong-life and ultrahigh- rate lithium ion storage. Nano Energy,
48, pp. 238–247.
151. Zhang Y., Yan T., Yan L., et al. (2014). Preparation of novel cobalt
ferrite/chitosan grafted with graphene composite as effective adsorbents for
mercury ions. J. Mol. Liq., 198, pp. 381–387.
152. Zhang Z., Wang Y., Zhang M., et al. (2013). Mesoporous CoFe2O4
nanospheres cross-linked by carbon nanotubes as high-performance anodes
for Lithium-ion batteries. J. Mater. Chem. A, 1, pp. 7444–7450.
153. Zhao S., Guo J., Jiang F., et al. (2016). Porous CoFe2O4 nanowire arrays on
carbon cloth as binder-free anodes for flexible lithium-ion batteries. Mater.
Res. Bull., 79, pp. 22–28.