67
NGUYN HU THÔNG S chuyn bin phong cch to hnh trong tranh tnh vt ca Vicent Van Gogh LUN VĂN THẠC SĨ MỸ THUT Chuyên ngnh: M thut to hnh (Hi ha) M s: 60210102 Kha: 2015 - 2017 GING VIÊN HƯNG DN PGS.TS ĐON TH M HƯƠNG HÀ NI - 2017 BGIÁO DỤC V ĐO TẠO BVĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LCH TRƯỜNG ĐẠI HC MTHUT VIT NAM

LUẬN VĂNTHẠC SĨ MỸ THU T - mythuatvietnam.edu.vnmythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/NGUYENHUUTHONG.pdf · của hai họa sĩ Cézanne và Vangogh để làm nổi bật những

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

NGUYÊN HƯU THÔNG

Sư chuyên biên phong cach tao hinh

trong tranh tinh vât cua Vicent Van Gogh

LUÂN VĂN THẠC SĨ MỸ THUÂT

Chuyên nganh: My thuât tao hinh (Hôi hoa)

Ma sô: 60210102

Khoa: 2015 - 2017

GIANG VIÊN HƯƠNG DÂN

PGS.TS ĐOAN THI MY HƯƠNG

HÀ NỘI - 2017

BỘ GIÁO DỤC VA ĐAO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LICH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUÂT VIỆT NAM

1

BẢNG CHƯ CÁI VIẾT TẮT

GS

PGS

TS

NXB

Tr

Tk

Giáo sư

Pho giáo sư

Tiến sĩ

Nhà xuất bản

Trang

Thế kỉ

2

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Bảng chữ cái viết tắt

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4

1. Lý do chon đề tài ........................................................................................... 4

2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 6

3. Mục đích của luân văn .................................................................................. 8

4. Đôi tượng và pham vi nghiên cứu ................................................................. 9

4.1.Đôi tượng nghiên cứu.................................................................................. 9

4.2. Pham vi nghiên cứu .................................................................................... 9

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 9

6. Đong gop của luân văn ................................................................................ 10

7. Kết cấu của luân văn ................................................................................... 10

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ MANG TÍNH LÝ LUÂN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ... 11

1.1. Khái niệm sự chuyển biến phong cách tao hình trong tranh ................... 11

1.1.1 Khái niệm về sự chuyển biến ................................................................. 11

1.1.2 Sự chuyển biến phong cách tao hình ..................................................... 12

1.1.3. Sự chuyển biến về phong cách tao hình ................................................ 14

1.1. Khái niệm về tranh tĩnh vât ...................................................................... 15

1.2 Khái quát về cuôc đơi va quá trinh sáng tác của hoa sĩ Vicent Van

Gogh ................................................................................................................ 17

CHƯƠNG 2: TRANH TINH VÂT CUA VAN GOGH SỰ CHUYỂN BIẾN

TỪ PHONG CÁCH HỘI HỌA CỔ ĐIỂN ĐẾN ẤN TƯỢNG VÀ HÂU ẤN

TƯỢNG ........................................................................................................... 23

2.1 Phong cách cổ điển giai đoan từ 1880 đến 1885 ...................................... 23

2.3 Phong cách hâu ấn tượng giai đoan từ 1888 đến 1890 ............................. 36

3

CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ NGHIÊN CỨU PHONG CÁCH

TẠO HÌNH TRANH TINH VÂT CUA VAN GOGH QUA CÁC THỜI KỲ

CHU ĐỀ LUÂN VĂN .................................................................................... 45

3.1 Nhân xét về sự biến chuyển phong cách tao hinh của Van Gogh qua các

tác phâm tranh tĩnh vât .................................................................................... 45

3.2 Bài hoc về giá trị nghệ thuât của sự chuyển biến phong cách tao hinh sáng

tác tranh tĩnh vât của Vicent Van Gogh .......................................................... 49

KẾT LUÂN ..................................................................................................... 55

TAI LIÊU THAM KHAO ............................................................................... 56

PHỤ LỤC ........................................................................................................ 58

4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Vicent Van Gogh là môt hoa sĩ vĩ đai của nền hôi hoa Ha Lan. Ông được

coi là ngươi tiên phong của trương phái Biểu hiện và có phong cách nghệ

thuât ảnh hưởng rất lớn đến trương phái Dã thú. Van Gogh đa để lai cho nền

nghệ thuât thế giới những tác phâm hôi hoa bất tử bởi phong cách tao hinh va

thủ pháp nghệ thuât trong việc thể hiện cảm xúc cá nhân của minh. Sinh ra và

lớn lên trong môt gia đinh co truyền thông buôn bán tranh va lam việc liên

quan đến nghệ thuât, trải qua những thất bai thơi trẻ, những đau khổ của hai

cuôc tinh chong vánh ở thơi niên thiếu, Van Gogh đến với con đương hôi hoa

như môt sự cứu rôi tâm hôn, thể xác của bản thân. Trong 10 năm cuôi đơi,

ông để lai hơn 2100 tác phâm, bao gôm 860 bức tranh sơn dầu va hơn 1300

bức vẽ, phác thảo. Đề tai các tác phâm của ông thương la chân dung tự hoa,

phong cảnh, tĩnh vât va sinh hoat. Chúng mang vẻ đẹp thô sơ, chân thât về

cảm xúc ham chứa những nôi tâm dữ dôi sâu kín bên trong, từng gam mau

đều mang đến ấn tượng manh, như chứa đựng nôi đau khổ của môt nghệ sĩ tai

hoa nhưng lai phải sông nghèo túng, cô đôc va bệnh tât cả đơi.

La môt trong những hoa sĩ tiêu biểu của trương phái Hâu ấn tượng cùng

với Seurat, Paul Cézanne va Paul Gauguin...Van Gogh cho thấy môt con

đương nghệ thuât riêng, dấu ấn phong cách ma ông để lai qua các tác phâm có

sự biến chuyển phong cách rõ rệt theo thơi gian và dần định hinh vào những

năm cuôi đơi. Ông đa khẳng định phong cách cá nhân qua bút pháp tao hinh

riêng biệt la những sự trăn trở qua các nét bút cuôn xoáy biểu hiện sức manh

cảm xúc va nôi tâm bên trong.

Ông thương mô tả những khung cảnh sinh hoat con ngươi, tĩnh vât và

phong cảnh xung quanh mình. Thơi ki đầu sáng tác khi ở Nuenen, gam màu

chủ yếu của ông là tông nâu tôi ảm đam, buôn bã, ảnh hưởng của phong cách

5

cổ điển của ngươi thầy Willem Roelofs. Đến thơi kì sau khi ông chuyển đến

Antwep và nghiên cứu thêm ly thuyết về mau sắc va các bức tranh của Peter

Paul Ruben, bảng màu của ông đa co sự biến đổi cách kết hợp những màu bổ

túc giữa cam nâu và xanh cobant với nhau tao ra sự tương phản manh trong

môt các tác phâm ảnh hưởng của chủ nghĩa Ấn tượng và Baroque. Cùng thơi

gian đo, ông thu thâp rất nhiều các tác phâm tranh khắc gô Nhât Bản và sử

dụng phong cách, đương nét trong tranh khắc gô Nhât Bản để tao nền cho

tranh của minh. Đo la môt trong những bước ngoặt quan trong để làm nên

phong cách tao hình riêng của Vangogh sau này. Thơi điểm khi ông bệnh

nặng, đa co không ít những cao trào sáng tác với nhiều đề tài nổi bât như: Hoa

diênvĩ (1887), hoa hướng dương (1888), đêm đầy sao(1889) hay bác sĩ

Gachet(1890), cánh đông lúa mì(1890)… Những tác phâm đỉnh cao của ông

được sáng tác vao những năm cuôi đơi từ 1886 đến 1890 đa khẳng định

phong cách sáng tao mới mang tính cá nhân và có sự đôt phá so với Hâu ấn

tượng lúc bấy giơ.

Đặc biệt gây ấn tượng manh là các tác phâm tĩnh vât mang đâm dấu ấn

cá nhân của Vangogh thông qua việc miêu tả trang thái đông của các vât thể

tĩnh xung quanh ông. Các đô vât gắn với cuôc sông tưởng trừng vô tri vô giác,

nhưng qua bút pháp tai năng của ông mà chúng trở thành những hinh tượng

bất tử trong lịch sử hôi hoa thế giới. Các tĩnh vât được ông xem xét tỉ mỉ, lât

đi lât lai và vẽ từ nhiều hướng nhìn, vẽ goc đô khác nhau và vẽ rất nhiều lần.

Từ những chuôi seri đôi giay sáng tác từ năm 1886 đến năm 1889, hay các

tĩnh vât về hoa quả… đa cho thấy sự chuyển biến về biểu hiện nôi tâm qua

những yếu tô tao hình và phong cách tao hình qua môi thơi kì. Khi bắt đầu vẽ

đến cuôi đơi, môi giai đoan sáng tác lai có những tác phâm tĩnh vât đánh dấu

nét mới thể hiện những bứt phá mới trong phong cách tao hình của Vangogh.

Bên canh đo, những biến chuyển trong phong cách tao hinh được thể hiện

qua các tác phâm tĩnh vât chính là sự những đông thái của tình hình hôi hoa

6

thế giới đương đai từ chủ nghĩa cổ điển đến Ấn tượng và Hâu Ấn tượng đa tác

đông đến tư duy tao hình và hình thành nên phong cách các giai đoan sáng tác

của ông. Thông qua các tác phâm tĩnh vât của Vangogh có thể đoc được tình

cảm tâm hôn, cá tính luôn ân chứa những suy nghĩ bên trong ngươi hoa sĩ tai

năng nay.

Qua những tác phâm ở môi thơi kì về phong cách tao hinh như thủ pháp

kĩ thuât, màu sắc, chất cảm cho thấy rõ sự biến chuyển trong tranh tĩnh vât

của Vicent Van Gogh. Hiện nay đa co rất nhiều tài liệu nghiên cứu về tác giả

Vangogh va tranh tĩnh vât nhưng sự chuyển biến phong cách tao hình trong

tranh tĩnh vât của Vicent Van Gogh thi chưa co tai liệu nào. Vì vây tôi chon

đo lam đề tài.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong lĩnh vực nghiên cứu về lịch sử my thuât thế giới, phong cách nghệ

thuât của V. Van Gogh luôn được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, do vây, các

công trình viết về cuôc đơi, sự nghiệp cũng như các tác phâm của ông dương

như chưa bao giơ can, bởi nhiều lý do khác nhau, môt trong những lý do có

thể kể đến, có lẽ bởi các sáng tác của Van Gogh đong môt vài trò lớn trong

trương phái Hâu Ấn tượng va cũng la đi đầu cho trương phái Biểu hiện sau

nay. Từ đo, Các công trình nghiên cứu hầu hết đều hướng tới việc xác định

rằng: những quan điểm sáng tác va quan điểm thâm my luôn song hành với

nhau làm nên sự đa dang trong nghiên cứu ngôn ngữ của nghệ thuât hôi hoa.

Công trình nghiên cứu về Van Gogh cũng được nhiều nhà nghiên cứu

trong nước quan tâm đến, bắt đầu từ cuôn “Lịch sử mỹ thuật thế giới” của

Nguyễn Phi Hoanh (1990), Nxb my thuât có viết chung về các giai đoan nghệ

thuât ở phương tây. Trong sách đa đề câp sơ qua về tiểu sử và những tác

phâm tiêu biểu của Vicent Vangogh.

Cuôn “ 70 danh họa bậc thầy thế giới” của Pham Khải – Pham Cao

Hoàn, (2010) Nxb my thuât có nói về phong cách và bút pháp của Van Gogh.

7

Cuôn “ Câu chuyện nghệ thuật hội họa – Từ tiền sử đến Hiện đại”, của

Sister Wendy Beckett trình bày chuyên sâu về tư tưởng thâm my, lịch sử tao

hinh phương tây, co nghiên cứu sơ ham về môt sô tác phâm nổi tiếng của

Vicent Vangogh.

Tiêu biểu có cuôn sách “ Vicent Van Gogh” của Victoria Charles (1999),

Nxb my thuât, là cuôn nói rất nhiều về cuôc đơi, sự nghiệp và những tác

phâm tiêu biểu của Vangogh.

Luân văn: “Trạng thái tình cảm trong hội họa Van Gogh” của Trần

Tuyến (2011), thuôc trương Đai hoc my thuât Việt Nam có phân tích khá rõ

về trang thái tâm trang của Van gogh qua những yếu tô tao hinh la đương nét

cuôn xoáy và màu sắc trong các tác phâm tiêu biểu ở giai đoan cuôi đơi của

ông.

Luân văn: “Nghệ thuật tạo hình trong tranh tĩnh vật của Cézanne và

Vangogh” của Đặng Nhât Tân (2010) tai Đai hoc my thuât Việt Nam, trình

bày những yếu tô tao hinh như đương nét, màu sắc, ánh sáng trong tranh

của hai hoa sĩ Cézanne va Vangogh để làm nổi bât những đặc điểm tao

hình, phong cách tao hình khác nhau của hai tác giả này.

Luân văn: “Vangogh với hội họa Hậu ấn tượng” của Pham Tông

(2013), có nêu rõ những nét về cuôc đơi của Vangogh và những đong gop của

ông đôi với hôi hoa Hâu ấn tượng.

Khóa luân: “Mối liên hệ giữa số phận và nghệ thuật của Vangogh” của

Nguyễn Thế Long (2014) có tâp trung khai thác về cuôc đơi và yếu tô nôi tâm

trong tranh của hoa sĩ Van Gogh.

Báo Đai Biểu Nhân Dân: “ Van Gogh và chân dung tự họa” của Trang

Thanh Hiền nói về những bức chân dung tự hoa của Vangogh những năm

cuôi đơi. Trong bài viết có nhắc đến phong cách nghệ thuât của ở những giai

đoan cuôi của sự nghiệp.

8

Bài đăng trong tap chí Thông tin My thuât sô 11-12, của Trương Đai

hoc my thuât TPHCM: “Nét, nhịp điệu trong tranh Van Gogh” nêu nên

những ý kiến tổng quát về cuôc đơi, phong cách va phân tích đánh giá những

tác phâm tiêu biểu của ông trong Cuôc triển lam ”Vincent Van Gogh: The

Drawing” do Viện Bảo tàng Van Gogh ở Amsterdam và Viện bảo tàng Nghệ

thuât Metropolitan ở New York tổ chức.

Ngoài ra nghiên cứu về đề tài này ở Việt Nam hiện nay tuy rất nhiều

nhưng nghiên cứu chuyên biệt về phong cách tao hình trong tranh tĩnh vât ở

các giai đoan thi chưa co. Do đo việc chon đề tài này tôi hy vong có thể tổng

kết, hệ thông lai các tác phâm có chung chủ đề để thấy được sự chuyển biến

trong phong cách sáng tao nghệ thuât qua các giai đoan sáng tác các tác phâm

tĩnh vât của ông.

3. Mục đích cua luân văn

- Nghiên cứu các tác phâm tranh tĩnh vât qua từng thơi ki của Vangogh

để thấy được sự chuyển biến từ tư tưởng thâm my, ngôn ngữ tao hinh đến kĩ

thuât qua các giai đoan sáng tác của ông.

- Đánh giá về sự chuyển biến phong cách tao hinh tĩnh vât của Vicent

Vangogh

- Nghiên cứu tư tưởng va ly tưởng thâm my của các giai đoan nghệ thuât

Vicent Van Gogh sáng tác.

- Thông qua hình thức biểu đat, ngôn ngữ tao hình, nghệ thuât bô cục

qua các tranh tĩnh vât để thấy được giá trị thâm my riêng trong môi tác phâm

của Vicent Van Gogh.

- Đánh giá về những đong gop của các tác phâm tranh tĩnh vât Vangogh

đôi với nền hôi hoa Ha Lan và nền nghệ thuât hôi hoa thế giới.

9

4. Đối tượng và pham vi nghiên cứu

4.1.Đối tượng nghiên cứu

- Sự chuyển biến phong cách tao hinh của Van Gogh qua các tác phâm

tĩnh vât

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Pham vi không gian nghiên cứu: Các tác phâm tranh tĩnh vât của

Van Gogh

- Pham vi thơi gian nghiên cứu: môt sô tác phâm tĩnh vât tiêu biểu giai

đoan 1880-1890

- Phân tích đặc điểm phong cách môt sô tác phâm tĩnh vât của Vicent

Van Gogh qua môi thơi ki sáng tác.

-Trương phái ấn tượng

- Cuôc đơi và sự nghiệp của hoa sĩ Vicent Van Gogh.

- Các ấn phâm sách, tư liệu dịch trong nước viết về những vấn đề liên

quan đến Van gogh.

5. Phương phap nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài này cần sử dụng những phương pháp nghiên cứu

sau:

- Phương pháp văn bản văn hoc: nghiên cứu, thu thâp tư liệu từ sách,

luân văn viết về các tác phâm của Van Gogh để tim ra sự chuyển biến.

- Phương pháp my thuât hoc phân tích so sánh để làm nổi bât đặc điểm

đặc trưng, phong cách trong tranh của các tác giả Van Gogh ở từng giai đoan

sáng tác.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghệ thuât hoc, my hoc, tâm lý

hoc, lịch sử để tìm hiểu bôi cảnh lịch sử xã hôi xung quanh cuôc đơi Vangogh

và lịch sử hôi hoa thế giới để tim ra đặc điểm riêng trong phong cách sáng tác

của Van Gogh.

10

- Phương pháp quy nap: từ thông tin thu thâp được, phân tích và hệ

thông lai để tìm ra sự chuyển biến phong cách tao hinh trong các tác phâm

tĩnh vât của Van Gogh.

6. Đóng góp cua luân văn

Luân văn nghiên cứu chuyên sâu về chủ đề tranh tĩnh vât của Van

Gogh.Vì vây, luân văn co những đong gop mới như sau:

Bước đầu thông kê, phân loai, xác định phong cách qua từng giai đoan,

căn cứ vào thơi điểm ra đơi các tranh tĩnh vât của hoa sĩ Van Gogh.

Qua đo thấy được giá trị biểu đat trong ngôn ngữ tao hình: màu sắc,

đương nét, bút pháp, bô cục… của phong cách tao hinh về: tao hình, nghệ

thuât bô cục trong các tác phâm tĩnh vât Vangogh.

Tao tiền đề cho việc nghiên cứu về tranh Van Gogh va tranh Hâu Ấn

tượng sau nay.

Là tài liệu nghiên cứu môt cách có hệ thông, chuyên sâu, đong gop thêm

cho nghiên cứu về nghệ thuât hôi hoa Ha Lan nói chung, tao tiền đề cho

những việc nghiên cứu về tranh Van Gogh va tranh Hâu Ấn tượng sau nay.

Đông thơi, đong gop vao nguôn tài liệu tham khảo có giá trị đôi với các nhà

nghiên cứu, hoc viên, sinh viên quan tâm đến lĩnh vực này.

7. Kêt cấu cua luân văn

Kết cấu của đề tài ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luân (01 trang) và

Phụ lục ( trang), Tài liệu tham khảo (02 trang), nôi dung chính được chia làm

3 chương:

Chương 1: Cơ sở mang tính ly luân để nghiên cứu đề tài(11 trang)

Chương 2 : Tranh tĩnh vât Van Gogh : Sự chuyển biến từ phong cách

hôi hoa cổ điển đến ấn tượng và hâu ấn tượng (21 trang)

Chương 3: Những điều rút ra từ nghiên cứu đề tài luân văn(10 trang)

11

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ MANG TÍNH LÝ LUÂN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Nhằm làm rõ những vấn đề nghiên cứu trong chương 1, luân văn nghiên

cứu các khái niệm và khái quát tác giả liên quan đến nôi dung nghiên cứu để

lam cơ sở lý luân nghiên cứu các vấn đề của đề tài

1.1. Khái niệm sư chuyên biên phong cach tao hình trong tranh

1.1.1 Khái niệm về sự chuyển biến

Theo “Từ điên tiếng Việt thông dung” của Hoang Phê, chuyển biến la:

“Biến đổi sang trang thái khác trước” [18; tr 144].

Theo “Từ điên tiếng Việt 1994” – Nxb Khoa hoc xa hôi, giải thích

đơn giản chuyển biến la: “Bắt đầu thay đổi tích cực” [26; tr. 191]. Tuy

nhiên, trong hôi hoa, sự chuyển biến co thể la tích cực hoặc tiêu cực va

thương la tích cực.

Sách “Từ điên tiếng Việt phô thông” – Nxb Khoa hoc xa hôi giải thích

chuyển biến la: “Biến đổi sang trang thái khác với trước, thương noi về

lĩnh vực tư tưởng, hoat đông của con ngươi va thương theo hướng tích cực”

[27; tr 252]

Sách “Đại từ điên Tiếng Việt (1999”) của tác giả Nguyễn Như Ý, theo

sách nay: “Chuyển biến la những biến đổi theo chiều hướng tích cực của tư

tưởng va hoat đông của con ngươi: những chuyển biến đáng mừng, tao ra sự

chuyển biến căn bản” [32; tr 407]

Trong sách “Từ điên tiếng Việt”(26; tr 134) co nêu nên định nghĩa ngắn

gon: “chuyển biến la biến chuyển, đổi sang trang thái khác”

Qua các định nghĩa ở các từ điển trên xác định ngắn gon về khái niệm

của “ Sự chuyển biến la biến chuyển từ trang thái nay sang trang thái khác

thương sẽ chuyển sang trang thái tích cực”.

12

1.1.2 Sự chuyển biến phong cách tạo hình

Theo “Từ điên tiếng Việt” – Nxb Từ điển Bách Khoa, tao hinh la: “Tao

ra các hinh thể bằng đương nét, mau sắc, hinh khôi.” [25 ; tr.860].

Trong “Từ điên tiếng Việt 1994” – Nxb Khoa hoc xa hôi co ghi: “ Noi

nghệ thuât biểu hiện bằng cách ghi lai, tao nên những hinh thể với những bức

hoa, pho tượng” [ 26; tr.716]

Về cơ bản, các từ điển trên giải thích khái niệm tao hinh la nghệ thuât

được biểu hiện bằng hinh thể thông qua các yếu tô tao hinh cơ bản.

Trong đo các yếu tô tao hinh được định nghĩa như sau:

Ở cuôn: “ Từ điên thuật ngữ mỹ thuật phô thông”, định nghĩa mảng la

môt lượng mau nao đo chiếm diện tích nhất định trên mặt tranh, tao thanh môt

mảng riêng, phân biệt rõ rệt với các mảng mau xung quanh no… thi đo được

goi la mảng màu. Sự phân biệt nay co thể do đô đâm nhat, nong lanh của mau

sắc hoặc về nôi dung hinh thể trong tranh. Khi noi đến mảng mau, ngươi ta

thương chỉ các mảng mau lớn. Tuy nhiên, trong các mảng mau lớn, co chứa

đựng các mảng mau nhỏ hơn. Trong tranh đen trắng thi đo la những mảng

mau mang các sắc đô khác nhau của đen va trắng. Các nét, hinh va điểm, khi

được tổ chức, sắp xếp môt cách co y thức, sẽ tao nên môt hinh hoặc môt khôi.

Như vây, trong môt mảng co thể co môt hoặc nhiều hinh, tâp hợp của các nét

va điểm va ngược lai, hinh hoặc khôi co thể la tâp hợp của môt hoặc nhiều

mảng. [16; tr 129]

Theo cuôn “Những nền tảng mỹ thuật” co xác định về “Hinh dang la

môt vung nổi bât từ không gian kề cân hoặc không gian bao quanh no do no

được xác định hoặc co liên quan đến môt đương biên hoặc do những khác

biệt về sắc đô, mau sắc, cấu trúc cơ bản.” [22; tr 115]

Trong “Những nền tảng của mỹ thuật” thi: “Đương nét la con đương

của môt điểm chuyển đông được tao ra bởi công cụ, khi no chuyển đông

ngang qua môt vung. Môt đương nét thương co vẻ rõ rang vi no tương phản

13

với những sắc đô quanh no. Các đương nét ba chiều co thể được thực hiện

bằng môt sợi dây, những cái ông, các que cứng, dây kim loai va nhiều thứ

tương tự”. [22; tr96]

Không gian theo “Từ điên thuật ngữ mĩ thuật phô thông” la khoảng

cách giữa các vât thể trong tranh theo chiều ngang, doc va sâu. Trên mặt

phẳng của tranh, ngươi xem dễ dang thấy khoảng cách giữa các vât thể

theo chiều ngang va doc, con để nhân biết được vị trí trước sau của các vât

thể, ngươi xem chỉ co thể thấy rõ ở tranh vân dụng luât xa gần hoặc đô đâm

nhat rõ rang. [16; tr.96]

Theo cuôn “Những nền tảng mỹ thuật”, không gian la khoảng cách

hoặc tầm xa co thể đo được giữa các điểm hoặc những hinh ảnh. [22; tr 217]

Trong “Từ điên thuật ngữ mỹ thuật phô thông” mau sắc la các mau

khác nhau trong thiên nhiên hay mau bản thân của từng vât thể. Mau sắc nhơ

ánh sáng roi vao nên chúng co nhiều sắc đô phong phú ma ngươi hoa sĩ phải

quan sát va khám phá. Mau sắc phôi hợp với nhau trên tranh tao thanh hoa

sắc. Ngay nay, khoa hoc phân tích mau sắc vân đang được nghiên cứu. Nhiều

nha bác hoc đa thấy được bản chất của môt sô mau. Tuy thế, khái niệm mau

sắc chưa được xác định rõ về nôi dung va ranh giới của no. Vi vây, thuât ngữ

mau sắc chỉ được mang y nghĩa tương đôi [16; tr.104]

Mau sắc theo cuôn “Những nền tảng mỹ thuật” la đáp ứng của thị

giác đôi với những bước song của ánh sáng mặt trơi được xác định như đỏ,

lục, lam…, những phâm chất co tính vât ly của cương đô, sắc đô va sự

chuyển mau. [22;tr.175]

Chất cảm theo “Từ điên thuật ngữ mĩ thuật phô thông” la cảm xúc được

tao nên thông qua các phương tiện tao hinh (hay ngôn ngữ nghệ thuât) hoặc

cấu tao vât chất của môt bức tranh, tượng... Chất cảm của phương tiện tao

hinh đa tác đông trực tiếp lên mắt (cơ quan của thị giác). Ngươi ta nhân biết

môt vât thể không chỉ ở kích thước, tỉ lệ, mau sắc ma con ở cảm nhân cấu tao

14

vât chất của no nữa. Từ cấu tao vât chất ấy ma nghệ thuât cần truyền đat được

đến ngươi xem cái cảm xúc về chất hay con goi la chất cảm. Cảm giác về vât

chất hay chất cảm la yếu tô không thể thiếu trong môt bức tranh du vẽ theo

trương phái nao. [16; tr.40]

Từ các định nghĩa trên cho thấy, tao hình là nghệ thuât biểu hiện bằng

hinh thể trong nghệ thuât tao hinh thông qua các yếu tô tao hinh cơ bản. Nghệ

thuât tao hinh gôm co hôi hoa, đô hoa, điêu khắc va kiến trúc. Những yếu tô

tao hinh nghệ thuât ở các thể loai tao hinh nghệ thuât la đương nét, mau sắc,

không gian, ánh sáng...

Theo “Từ điên tiếng Việt”- Hoang Phê thi phong cách được chia ra làm

ba nghĩa chính. Theo nghĩa 1, phong cách la: “những lôi, những cung cách

sinh hoat, làm việc, hoat đông, xử sự tao nên cái tiêng của môt ngươi nao đo

(nói tổng quát). Theo nghĩa 2, phong cách la “những đặc điểm có tính chất hệ

thông về tư tưởng và nghệ thuât, biểu hiện trong sáng tác của môt nghệ sĩ hay

trong sáng tác nói chung thuôc cùng môt thể loai như phong cách văn hoc,

phong cách nghệ thuât… Theo nghĩa 3, phong cách la dang của ngôn ngữ sử

dụng trong những yêu cầu chức năng điển hinh nao đo, khác với những dang

văn khác về đặc điểm từ vựng, ngữ pháp, ngữ ấm… [ ;tr 782]

Vây phong cách tao hình là những đặc điểm riêng của nghệ sĩ mang tư

tưởng nghệ thuât được biểu hiện trong sáng tác của môt nghệ sĩ thông qua các

yếu tô tao hinh cơ bản như đương nét, màu sắc, không gian ánh sáng.

Qua các lâp luân trên về sự biến chuyển và phong cách tao hình, có thể

rút ra khái niệm về sự biến chuyển phong cách tao hình là những biến đổi về

tư tưởng nghệ thuât, yếu tô tao hình của môt ngươi nghệ sĩ trong sáng tác, tao

nên đặc điểm riêng cho các tác phâm của ho.

1.1.3. Sự chuyển biến về phong cách tạo hình

Định nghĩa về sự chuyển biến về phong cách tao hình căn cứ từ 3 khái

niệm đa nêu trên, luân văn nay tâp trung hướng tới sự chuyển biến phong

15

cách tao hình là nghiên cứu sự thay đổi trong hình thức biểu đat thông qua các

yếu tô ngôn ngữ tao hinh như: đương nét, màu sắc, bút pháp, chất cảm…

Sự chuyển biến phong cách tao hình là là những biến đổi về

tư tưởng nghệ thuât và biến đổi các yếu tô tao hình của môt ngươi nghệ

sĩ trong sáng tác, từ đo tao nên đặc điểm riêng cho các tác phâm của ho.

1.1 Khai niệm về tranh tinh vât

Theo cuôn “Từ điên tiếng Việt”- Hoang Phê thi tĩnh vât là vât không có

khả năng tự chuyển đông và tự dịch chuyển trong không gian, về mặt la đôi

tượng thể hiện trong tác phâm hôi hoa như vẽ tĩnh vât, tranh tĩnh vât [ ; tr

998]

Cuôn “Từ điên Bách khoa tập 4” có nếu tĩnh vât là loai hình hôi hoa

đôc lâp chuyên vẽ các vât bất đông: Hoa quả, đô dung gia đinh(lo, đĩa, binh,

dao, côc chén…) [ tr 426]

Qua các định nghĩa trên co thể thấy, các tác giả đa khái lược rằng tĩnh

vât thuôc môt loai hình hôi hoa, vẽ những vât không dịch chuyển được. Tuy

vây, định nghĩa nay vân chưa khái quát được hết những tính chất va y nghĩa

của thể loai tranh tĩnh vât.

Trong sách “Giáo trình mỹ thuật học” của Trần Tiểu Lâm – Pham Thị

Chỉnh thi tĩnh vât là cuôc sông, thiên nhiên tĩnh lặng. Tranh tĩnh vât là môt

thể loai tranh vẽ về môt góc, môt phần nhỏ của tự nhiên như hoa quả, cây cỏ,

hoa lá, đô vât,.. con vât đa chết hoặc thú nhôi bông… Tất cả những thức kể

trên đều trong trang thái tĩnh hoặc đa tách ra khỏi sự sông được hoa sĩ chon

loc và sắp xếp trong môt bô cục nhất định va la đôi tượng diễn tả của môt thể

loai tranh. Tĩnh vât được diễn tả trong tranh có thể là môt mâu vât được bày

sẵn hoặc được vẽ theo sắp xếp, tưởng tượng, phục vụ cho y tưởng của hoa sĩ.

Thông qua đo hoa sĩ gửi gắm tình cảm, tư tưởng va thái đô của minh đôi với

cuôc sông. [ ; tr73]

16

Định nghĩa trên đa khái quát khá đầy đủ về định nghĩa của thể loai

tranh tĩnh vât. Từ đo cho thấy, tranh tĩnh vât không đơn thuần chỉ là môt thể

loai tranh giải trí, vô hôn ma trong đo chứa đựng tinh thần của ngươi hoa sĩ

gửi gắm.

Ngoài ra, trong sách “Con mắt nhìn cái đẹp” của Nguyễn Quân có nêu

ra môt sô nét sơ lược về lịch sử phát triển của dong tranh tĩnh vât va y nghĩa

của thể loai nay như sau: “Trong các tranh thơ thơi Trung cổ, Phục Hưng

ngươi ta đa thấy những bức tranh nhỏ trong những bức tranh lớn. Thí dụ như

cảnh báo tin mừng cho Đức mẹ đông trinh, hay sự tích thánh Hieronymus ta

thấy những bình hoa, những cuôn sách, các vât dụng trong nha được mô tả

thành từng nhom đôc lâp rất hoàn chỉnh. Song phải đến thế kỉ 16 ở Hà Lan

tranh tĩnh vât mới ra đơi. Tranh mô tả những sản vât tự nhiên va các đô vât

thương nhât. Có lẽ do nhu cầu thị dân muôn tôn vinh cuôc sông gia đinh, tôn

vinh ngôi nhà của ho, nơi đa sông xa với nghề nghiệp nông nghiệp và có cuôc

sông khá sung túc. Tính vât chất được đề cao. Và giới thị dân đa thắng thế

trong xã hôi. Ngươi ta goi đo la cuôc sông thầm lặng – môt cuôc sông thông

qua chiếm hữu của các sản vât va đô vât ma cũng thể hiện những thiên hướng

tinh thần của chủ nhân. Có loai tĩnh vât hoa trái, loai tĩnh vât nhac cụ, loai

tĩnh vât chai lo, bình gôm đô sứ dùng cho việc âm thực, có loai vẽ thực phâm

như thịt các, gia cầm… Ngươi Ha Lan ưa chi tiêt va thích mô tả chi tiết nên

giỏi thể loai này. Khuôn khổ tranh cũng nhỏ nhắn phù hợp với sự ấm cúng

trong các gia đinh. Co hang loat các hoa sĩ chuyên vẽ tĩnh vât ở Hà Lan thơi

đo. Ho thuôc các bâc thầy chuyên vẽ tranh khổ nhỏ cho tầng lớp trung lưu đô

thị. Từ thơi đo đến nay tĩnh vât tôn tai và phát triển manh ở châu Âu. Nó trở

thành môt phương tiện để bôc lô quan điểm, tình cảm va thiên hướng thâm

my của hoa sĩ môt cách khá thuần khiết vì hoàn toàn tách khỏi côt truyện,

tích chuyện co tính văn hoc. Hoa sĩ vĩ đai Cézanne từng cho rằng tĩnh vât là

mới thử thách tai năng rõ rệt nhất. Ông cũng la tác giả của những bức tĩnh vât

17

hoa trái nổi tiếng nhất của Pháp. Ở các tranh này quan niệm không gian, cách

tao hình, biểu chất, sử dụng ánh sáng và nguyên lý bô cục của ông rõ hơn bao

giơ hết. Van gogh cũng cực nổi tiếng với các tĩnh vât hoa hướng dương va

mầu vàng u buôn khắc khoải của minh. Ngươi ta cũng co thể coi những tượng

hiện đai với các đô vât, không co ngươi là những tượng tĩnh vât.” [, tr101]

Vây tranh tĩnh vât là môt trong những thể loai sáng tao của hôi hoa.

Trong đo thương đặc tả về những đô vât trong trang thái tĩnh hoặc đa

tách ra khỏi sự sông như hoa quả, cây cỏ, hoa lá, đô vât,.. con vât đa chết

hoặc thú nhôi bông… được hoa sĩ chon loc và sắp xếp thành bô cục theo

y tưởng của hoa sĩ. Thông qua đo hoa sĩ gửi gắm tình cảm, tư tưởng và

thái đô của minh đôi với cuôc sông

1.2 Khai quat về cuôc đơi và quá trình sáng tác cua họa si Vicent Van Gogh

Vicen Van Gogh sinh ngay 30/3/1853 tai lang Zundert – Ha Lan. Thơi

gian thanh niên lam rất nhiều nghề từ buôn tranh, giáo viên va nha truyền giáo

đến năm 1880 (27 tuổi) ông mới trở thanh hoa sĩ. Ông đa để lai cho hâu thế

những thanh tựu lớn trong phong cách tao hình và môt sô lượng lớn với hơn

2100 tác phâm co 860 bức sơn dầu va 1300 bức kí hoa va phác thảo.

Trong những năm 1874 đến 1880, Van Gogh trở thành nhà truyền giáo

va đến với những ngươi nông nhân, công nhân mỏ than ở nhiều địa điểm

thuôc Anh, Bỉ, Ha Lan, Pháp… Những chuyến đi đa để lai ấn tượng và sự

cảm thông sâu sắc về cuôc sông của ngươi lao đông nghèo khổ. Điều nay đa

làm nên những đề tai trăn trở trong tranh của ông sau này.

Từ 1881 – 1882, sau môt cơn khủng hoảng về sự bất đông về hôi giáo,

tiếp đo la loat những chuôi thất bai tinh yêu với ngươi chị ho, gái điếm Sien

và sự giay vo bởi bệnh tât khiến ông muôn xa rơi cuôc sông thực tai bằng hôi

hoa. Năm 1880, Ông đến Bruxelles theo hoc hoa sĩ Ha Lan nổi tiếng Willem

Roelofs va được ngươi thầy đầu tiên của ông hướng vao hoc ở trương nghệ

thuât hoang gia.

18

Hoa sĩ Willem Roelofs (1822 – 1897) - la môt trong những tiền nhân

của nghệ thuât Ha Lan. Ông con la hoa sĩ mau nước va khắc in thach bản.

Trong thơi gian theo hoc Willem Roelofs, Van Gogh đa đa được hoc nghiên

cứu giải phâu va hoc quy tắc dựng hinh, phôi cảnh. Bên canh đo ông con bị

ảnh hưởng bởi lôi vẽ của ngươi thầy theo của chủ nghĩa hiện thực, tác phâm

thương vẽ về phong cảnh, mau sắc tương đôi ảm đam.

Năm 1883 - 1885, ông ở Nuenen, năm 1885 cha Van Gogh qua đơi,

Cũng trong thơi gian này ông hoan thanh tác phâm : “Những ngươi ăn khoai”,

tông mau ưa thích của ông la tông mau nâu đất mang phong cách của chủ

nghĩa cổ điển.

Năm 1885 - 1886, ông chuyển đến Antwep. Ở đây Van Gogh nghiên

cứu thêm ly thuyết về mau sắc va các bức tranh của Peter Paul Ruben. Ông đa

tiếp thu và mở rông bảng mau thêm mau đỏ son, xanh cobat va xanh lục ngoc

bảo. Bên canh đo, ông co sự yêu thích và giành thơi gian nghiên cứu với tranh

khắc gô Nhât Bản. Điều đo đa ảnh hưởng phần nao đến việc Van Gogh sử

dụng những đương nét trong tranh khắc gô Nhât Bản để tao nên phong cách

đặc biệt cho tranh của minh sau này. Giai đoan này, ông bắt đầu đi theo các

hoa sĩ Ấn tượng trong việc hoc tâp các bảng màu bổ túc.

Vào tháng 3 – 1886, Van Gogh chuyển đến Paris và theo hoc tai xưởng

vẽ của hoa sĩ Fernand Cormon (1845 -1924). Fernand Cormon la hoa sĩ vẽ

tranh lịch sử khổ lớn ngươi Pháp. Thương sử dụng tông mau đất xám. Tai

xưởng vẽ của Fernand Cormon, Vangogh được gặp gơ: Henri de Touse –

Lautree (1864 – 1901) , John Peter Pussell.. la những hoa sĩ thuôc trương phái

ấn tượng. Ở xưởng hoa này, Van Gogh được hoc hỏi va chiêm ngương cách

lam việc va các tác phâm của hoa sĩ ấn tượng và dần tiếp thu những kiến thức

hôi hoa vào trong các tác phâm của mình.

Năm 1887, Ông đến Asnieres gặp va trao đổi nghệ thuât với hoa sĩ

Paul Signac (1863 – 1935) thuôc trương phái Tân Ấn tượng Pháp, ngươi phát

19

triển ra nghệ thuât chấm mau. Đây la phương pháp không pha mau trực tiếp

ma đem các nét điểm mau đặt canh nhau tao nên hiệu quả tổng hợp mau. Sau

đo Van Gogh đa cung ban la hoa sĩ Emile Bermard thử nghiệm vẽ theo trương

phái điểm hoa.

Vào tháng 11 – 1887, ông gặp va kết ban với Paul Gauguin ( 1848 –

1903). Sự kiện nay đa đánh dấu môt bước phát triển mới trong phong cách

nghệ thuât của Van Gogh. Bởi sự ảnh hưởng tư tưởng mau đơn sắc bổ túc va

thử vẽ lai từ trí tưởng tượng của Gauguin.

Paul Gauguin la môt hoa sĩ ấn tượng ngươi Pháp co phong cách nghệ

thuât đặc biệt bởi những tác phâm nổi tiếng với mảng mau đơn sắc đôi lâp

trong tranh. Những cuôc bàn cãi nghệ thuât với Gauguin đa lam khơi dây

trong Van Gogh cái ước mơ thanh lâp môt hiệp hôi hoa sĩ để trong tinh

thần tương trợ, các hôi viên sẽ có thể cùng chia sẻ với nhau những vât chất

va tư tưởng. Thơi ki này Vangogh đa bị ảnh hưởng bởi các hoa sĩ Tân Ấn

tượng, ông thay đổi kĩ thuât truyền thông va thay vao đo sử dụng các gach

mau tương phản để làm nổi bât hinh tượng trong tác phâm.

Cuôi năm 1887, Van Gogh đa tổ chức môt buổi triển lam chung với

Bernard, Anquetin và Toulouse-Lautrec ở nha hang Restaurant du Chalet trên

đôi Montmartre. Tai buổi triển lam nay, Bernard va Anquetin đa bán được các

tác phâm đầu tiên, con Vincent thi trao đổi được tác phâm với Gauguin, ngươi

ngay sau đo đa rơi đi Pont-Aven. Triển lam thất bai.

Vao tháng 2 năm 1888, Van Gogh rơi Paris sau khi đa hoan thanh hơn

200 bức hoa trong 2 năm ở đây. Trong thơi gian ở Paris, Van Gogh đa co

những bước tiến triển về bút pháp va mau sắc, ông đa ảnh hưởng môt phần

bởi hoa sĩ Serat, Van Gogh đa dung tới bút pháp với các nét kế cân mang các

màu sắc của quang phổ thuần chất . Lúc nay ông đa bắt đầu định hinh phong

cách của minh.

20

Ngày 21 tháng 2 năm 1888, Van Gogh đến Arles. Trong hai tháng ở

đây, ông lam việc cung hoa sĩ ngươi Đan Mach Christian Mourier-Petersen.

Ngày 1 tháng 5, hoa sĩ ky hợp đông thuê môt căn hô bôn buông với giá

15 franc môt tháng nằm bên phải của Nhà Vàng tai sô 2 Quảng trương

Lamartine. Tháng 6, Van Gogh đi thăm thị trấn ven biển Saintes-Maries-de-

la-Mer. Tai đây ông nhân day vẽ cho môt sĩ quan tên la Paul-Eugène Milliet,

ngươi sau đo cũng trở thanh ban của hoa sĩ.

Từ tháng 8 - 1888, ông bắt đầu sáng tác về các đề tai tĩnh vât như hoa

hướng dương, hoa diên vĩ, ....

Ngày 23 tháng 10 - 1888, Gauguin đến Arles theo lơi mơi của Van

Gogh. Trong suôt tháng 11 hai hoa sĩ lam việc cung nhau, cũng trong tháng

nay Van Gogh đa sáng tác bức tranh nổi tiếng Cánh đông nho đỏ. Tháng 12

cả hai hoa sĩ đi thăm Montpellier va chiêm ngương các tác phâm

của Courbet và Delacroix trong bảo tang Museé Fabre.

Tuy nhiên sau đo tinh ban của hai ngươi trở nên xấu đi vi những

xung đôt, tranh cãi về những quan điểm nghệ thuât trái ngược. Vào ngày 23

tháng 12 năm 1888 khi Vincent đuổi theo Gauguin với môt lươi dao cao

trong tay va sau đo lai tự cắt phần dưới tai trái của chính mình, gói nó vào

môt tơ báo, đưa cho cô gái điếm Rachel ở nhà thổ trong vùng và yêu cầu cô

này giữ cân thân. Cuôi cùng thì Gauguin vân rơi Arles và không bao giơ

gặp lai Van Gogh.

Tháng 1 năm 1889, Van Gogh trở lai ngôi nhà vàng ở Arles nhưng liên

tục phải đến bệnh viện vì gặp ảo giác, ông còn mắc chứng hoang tưởng khi

nghĩ minh bị đầu đôc.

Ngày 8 tháng 5 năm 1889 Van Gogh phải nhâp viện tai bệnh viện tâm

thần Saint-Paul-de-Mausole nằm trong môt tu viện cũ ở Saint Rémy de

Provence không xa Arles. Tu viện nằm cách biệt với thị trấn và ở giữa

những cánh đông ngô, nho và ô liu. Trong thơi gian chữa trị tai đây, phong

21

khám va khu vươn của bệnh viện đa trở thành những đề tài chính của hoa sĩ.

Các tác phâm của Van Gogh trong thơi kỳ nay co đặc trưng la các đương

chay xoáy ôc, tiêu biểu là bức tranh nổi tiếng đêm đầy sao, hoa diên vy, hoa

hướng dương...

Tháng 5 năm 1890, Van Gogh rơi bệnh viện va đến trị liệu với bác

sĩ Paul Gachet ở Auvers-sur-Oise, nằm gần Paris. Bác sĩ Gachet được Camille

Pissarro giới thiệu cho anh em Van Gogh vi trước đo ông nay đa từng chữa

cho môt sô hoa sĩ va bản thân cũng la môt hoa sĩ nghiệp dư.Sau đo Van Gogh

đa vẽbức chân dung bác sĩ bằng màu dầu miêu tả Gachet trong môt tư thế u

sầu. Tác phâm này sau này trở thành môt tuyệt tác ghi lai ấn tượng phong

cách đỉnh cao của Vicent Van Gogh giai đoan này.

Tình trang bệnh lý của Van Gogh ngày càng trầm trong, ngày 27 tháng

7 năm 1890, ở tuổi 37, ngươi hoa sĩ đa bước ra cánh đông và tự bắn vào ngực

bằng môt khâu súng lục. Không nhân ra rằng minh đa bị thương nặng,

Vincent quay trở lai hoàn thành bức tranh Chân dung Adeline Ravoux.

Vicent Van Gogh Được xem là danh hoa kiệt xuất của thế kỷ 19, song

Van Gogh có môt cuôc đơi ngắn ngủi và bi thảm. Ông chỉ bán được vẻn vẹn

môt bức tranh trong suôt đơi. Ông được tôn vinh la ngươi hoa sĩ tiêu biểu

nhất của trương phái Hâu Ấn tượng (Post Impressionnisme) mở đầu cho

trương phái Dã thú (Fauvisme) và Biểu hiện (Expressionnisme). Van Gogh là

ngươi tiên phong cho nền hôi hoa hiện đai đầu thế kỷ XX.

Qua các giai đoan sáng tác, có thể thấy rõ những tác đông gây nên các

chuyển biến phong cách sáng tác của ông từ cổ điển, ấn tượng và hâu ấn

tượng

22

Tiêu kêt

Nôi dung chương 1 nghiên cứu va nêu nên khái niệm về “Sự chuyển

biến phong cách tao hinh trong tranh”, “khái niệm về tranh tĩnh vât” va

“Khái quát về cuôc đơi của hoa sĩ Vangogh. Qua những nét khái lược về

cuôc đơi va quá trinh sáng tác của ông co thể thấy được những điều tâm

điểm của từng tác phâm tĩnh vât. Trong đo la sự thấu hiểu cũng như chia

sẻ của ông với tầng lớp lao đông nhân dân, tầng lớp tân cung của xa hôi tư

bản. Với ông, hôi hoa chính la nơi ông bôc lô tất cả những nôi tâm sâu kín

bên trong con ngươi minh sau những thất bai, những dằn vặt trong quá

khứ.

Thể loai tranh tĩnh vât trong tranh Van Gogh là môt chủ đề lớn

xuyên suôt trong quá trình sáng tác của ông. Ở môi quá trình hoc tâp và

thực hanh, tư duy va nhân thức của Vangogh ngay cang được phát triển

được phản ánh rất rõ qua các tác phâm tĩnh vât. Vì vây, sự thay đổi các

yếu tô tao hinh trong tranh tĩnh vât và cho thấy những biến chuyển trong

phong cách tao hình của ông qua môi thơi kì. Từ đo cũng lam rõ những

đặc điểm của phong cách tao hình của ông thông qua các tác phâm..

23

CHƯƠNG 2

TRANH TĨNH VÂT CUA VAN GOGH :

SỰ CHUYỂN BIẾN TỪ PHONG CÁCH HỘI HỌA CỔ ĐIỂN

ĐẾN ẤN TƯỢNG VÀ HÂU ẤN TƯỢNG

Trong môt tác phâm hôi hoa, phong cách tao hinh được quyết định bởi

nhiều yếu tô tác đông trong đơi sông hoa sĩ. Ở môi thơi kì sáng tác, việc nhân

thức phát triển định hình và khẳng định phong cách cá nhân la điều môi hoa sĩ

hướng tới. Điều đo môt phần được thể hiện qua những yếu tô tao hinh bao

gôm hinh mảng, đương nét, ánh sáng, không gian, chất cảm và màu sắc la

những yếu tô không thể thiếu lam sáng rõ chủ đề va thanh công cho môt bức

tranh. Bên canh đo, ở môi tác giả đều có những biểu hiện và duy my nghệ

thuât khác nhau tao nên phong cách nghệ thuât cho riêng mình. Để hiểu rõ

hơn về những chuyển biến phong cách tao hinh trong tranh tĩnh vât Van

Gogh, chương 2 sẽ tâp trung nghiên cứu về những chuyển biến phong cách và

các biểu hiện qua yếu tô tao hinh trong các tác phâm tĩnh vât của ông qua các

thơi kì sáng tác.

2.1 Phong cách cổ điên giai đoan từ 1880 đên 1885

Sau khi xoay vần với nghề môi giới tranh, day hoc và giảng đao, Vicent

Van Gogh đến với hôi hoa vao năm 1880, khi ông 27 tuổi. Năm đầu vẽ tranh

ở quê nhà, ông đến Bruxelles theo hoc hoa sĩ Ha Lan nổi tiếng Hoa sĩ Willem

Roelofs (1822 – 1897) - la môt trong những hoa sĩ cổ điển của nghệ thuât Ha

Lan. Nổi tiếng với các tác phâm tranh phong cảnh về biển Hà Lan. Willem

Roelofs la ngươi đa thuyết phục Van Gogh theo hoc tai trương My thuât

hoàng gia. Trong thơi gian theo hoc tai trương my thuât, Van Gogh đa được

hoc nghiên cứu giải phâu, quy tắc dựng hinh, phôi cảnh và những quan điểm

về nghệ thuât cổ điển.

24

Sau đo, ông đi hoc và tự thực hành môt thơi gian ngắn năm 1883 ở

Hagne và Nuenen, tai nơi nay, Van Gogh bắt đầu vẽ môt vài nhóm tĩnh

vât vao năm 1885. Trong thơi gian hai năm nghỉ của mình ở Nuenen, ông

hoàn thành môt sô lượng lớn các tác phâm gôm bản vẽ va mau nước, và gần

200 bức tranh sơn dầu. Con đương nghệ thuât cổ điển đa dân dắt ông đến với

lôi tao hình hàn lâm vững chắc. Bảng màu của ông giai đoan này chủ yếu sử

dụng các tông màu nâu - vàng đất ảm đam quen thuôc của lôi vẽ cổ điển.

Không gian trong tranh tuân theo luât phôi cảnh xa gần, và việc nghiên cứu

thể hiện nguôn ánh sáng chiếu vao tĩnh vât theo luât sáng tôi để làm nổi rõ

hiện vât trên nền không gian u tôi bằng thứ ánh sáng trắng, vàng mở ảo. Hình

khôi trong tranh được vơn sáng để tao nên các sắc đô chuyển. Bề mặt tranh

thương được miết trơn láng, mịn màng. Giai đoan đầu, khi chịu ảnh hưởng rất

manh của các bâc thầy cổ điển và các hoa sĩ hiện thực Hà Lan đa khiến phong

cách cổ điển của Van Gogh chỉ dùng môt tông màu, môt kiểu cách cổ điển đa

cũ so với hôi hoa Ấn tượng đương thơi.

Trong loat chuôi các tranh tĩnh vât về thiên nhiên, chai lo, rau củ vào

năm 1884 của ông, có thể thấy những bước đi đầu tiên trong phong cách tao

hình cổ điển Van Gogh, ở đo các tĩnh vât được đặt giữa không gian nền tôi

đen đặc, ánh sáng thương hắt về môt phía tao nên sự trầm lắng đến u tịch của

màu ánh sáng vàng được đặc tả trên nền tôi. Các mâu tĩnh vât hàng ngày được

thể hiện trong tranh với những mau sắc ảm đam, u tôi, tĩnh lặng.

Trong seri tĩnh vât “Những chiếc lọ”sáng tác năm 1884, lấy chủ đề

chính la những chiếc lo ở hinh dang, mâu ma khác nhau được đặt bên canh

nhau. Với các mâu vât nay, Van Gogh đa nghiên cứu và vẽ đi vẽ lai nhiều lần

với nhiều bô cục, sắp xếp mâu vât khác nhau ở nhiều goc nhin. Ánh sáng

trong tranh hầu như chỉ được le loi đủ để nhân thấy hinh dang va vị trí của

những mâu vât tĩnh lặng. Lúc này, với ông, việc khám phá mau nâu trầm

trong tranh tĩnh vât la môt nguôn cảm hứng sáng tao, du thơi gian đo, việc sử

25

dụng những tông mau ảm đam la quá lôi thơi so với kiểu cách của trương phái

Ấn tượng.

Trong bức thư của mình gửi em trai Theo cho thấy thái đô của ông về

những sự khuyến khích sử dụng tông sáng mau của Theo, Van Gogh cho rằng

“Anh viết cho em một bức thư dài - mặc dù có lẽ em không thê tin những gì

anh nói về màu sắc, và mặc dù em có thê thấy anh bi quan khi anh nói rằng

nhiều thứ được gọi là màu xám tinh tế là màu xám rất xấu xí, mặc dù em có

thê thấy tôi bi quan hoặc tồi tệ hơn khi anh cũng không chấp nhận đánh bóng

mịn khuôn mặt, đôi tay và mắt, bởi vì các bậc thầy vĩ đại đều làm việc theo

một cách khác. Có lẽ bởi và bằng cách nghiên cứu của riêng anh về nghệ

thuật, anh mong em sẽ hiêu và thay đôi.”

Việc nghiên cứu ban đầu của Van Gogh về những tĩnh vât sử dụng

không gian va ánh sáng bằng việc sử dụng tông màu nâu của nghệ thuât cổ

điển đa cho thấy thế giới quan ân chứa, những môi quan tâm đầu tiên của ông

là những vât dụng thương ngay, quen thuôc, gần gũi trong cuôc sông cá nhân

của Van Gogh.

Trong tác phâm “ Những chiếc chai gốm, bình và chiếc cốc trắng”

sáng tác năm 1884, hiện thuôc bảo tang Bảo tang Kröller-Müller, Otterlo,

Hà Lan. La môt ví dụ khác trong việc thực hanh phong cách cổ điển trong

tranh tĩnh vât của Van Gogh giai đoan đầu. Ở đây, các mâu vât được xếp

theo bô cục hinh tam giác vững chai. Những binh va chai được xếp doc canh

nhau theo môt hang, môt chiếc binh được đặt nằm canh chiếc côc trắng. Co

thể thấy được sự nghiên cứu kĩ cang của Van Gogh trong việc thể hiện các

chất liệu của mâu vât như đô bong, trong suôt của chai thủy tinh, đô trơn li

của bề mặt những chiếc lo sứ, va chiếc chén. Đặc biệt la việc Van Gogh diễn

tả tinh tế chất trên những đô vât tuy cung chất liệu nhưng vị trí, đặt khác

nhau, đô chiếu ánh sáng khác nhau cũng lam biến đổi bề mặt chất liệu.

Không gian, ánh sáng chi phôi lên sự vât trong tranh được tuân theo luât xa

26

gần. Việc sử dụng những nét co vơn tao nên chất cảm trên bề mặt tranh. Chỉ

với tông mau nâu va vang, Van Gogh đa diễn tả ra những biến đổi của bề

mặt chất liệu. Môt sô các tác phâm tương tự sáng tác năm 1884 như “Chậu

cây và bui đất”, “Đồ gốm và chai”, “Năm cái chai”, “Chậu chai và

chai”đa cho thấy việc nghiên cứu tao chất trên các vât dụng của ông ở nhiều

chiều hướng va mức đô khác nhau. Điều nay đa đánh dấu môt nét tiêu biểu

trong phong cách cổ điển giai đoan đầu sáng tác của ông và lam nền tảng

cho việc khám phá những thâm my hôi hoa vao giai đoan sau nay.

Vào tháng 11 năm 1884, Van Gogh day vẽ cho môt nhom ngươi ở

gần Eindhoven – môt thanh phô phía Nam nước Ha Lan. Ông đa thử nghiệm

sử dụng các mau tương phản để tăng cương, đây cao tác đông thị giác trong

tranh của minh. Trong đo, Van Gogh kết hợp thêm màu xanh lá cây với màu

đỏ vao mau tông vang nâu ban đầu để tao nên hiệu quả mới trong tác phâm:

“Tĩnh vật hai bao tải và một cái chai”, “Hai cái lọ và trái bí ngô”… Tuy

vây, mau xanh lá cây va đỏ trong tranh Van Gogh lúc nay vân bị ảnh hưởng

môt phần nao đo bởi mau vang nâu, tao nên mới chỉ tao hiệu quả hai hoa, nổi

rõ hinh thể sự vât trong bức tranh nhiều hơn la việc tác đông manh đến thị

giác, nhưng việc thay đổi mau sắc trong bảng mau du la ít ỏi của ông đa cho

thấy những suy nghĩ về hôi hoa của ông ở thơi điểm đo. Đặc biệt tác phâm

“Bút vẽ và những cái lọ”-1884, la tác phâm cho thấy hiệu quả tương phản

nhất trong thử nghiệm của ông. Bức tranh vân tiếp tục vẽ theo lôi bô cục tam

giác cổ điển thương nhât, môt chiếc châu mau đỏ nâu cắm đầy những bút vẽ,

bên canh la chiếc côc sứ trước kia từ mau trắng đa được thay đổi thanh mau

xanh lá cây. Điều nay đa cho thấy sự tương phản giữa hai mau sắc bổ túc

trong tranh. Không gian ở đây được đặc tả theo xa gần trước sau. Tuy Van

Gogh vân sử dụng tông màu vàng nâu ảm đam, những việc đặt hai mau nâu

đỏ của chiếc châu bút va chiếc côc xanh cây đa cho thấy hiệu quả gây nên nổi

27

bât sự vât trong không gian môt cách nhất định. Các nét co to vơn được sử

dụng để tao nên khôi và miêu tả ánh sáng phản chiếu lên vât thể.

Môt tác phâm khác năm 1885,“ Gừng và hành tây”- thuôc phòng

trưng bay Haminton, Otario, đa cho thấy thử nghiệm của ông với mau xanh

cobat và màu vàng nâu đa lam nên môt hiệu quả vừa hai hoa vừa hút mắt.

Trong tranh môt củ hanh tây va củ gừng được đặt trước chiếc lo xanh

coban theo bô cục hinh tam giác. Ánh sáng được hắt từ phía bên phải tao

nên hiệu quả chất của lớp vỏ hanh tây mỏng, lớp gừng cứng va chất gôm.

Ở đo, Van Gogh đa cho thấy thử nghiệm mở rông bảng mau bổ túc trong

việc sử dụng mau bổ túc bởi chiếc binh gôm xanh cobat nổi bât trong gam

vang nâu. Từ đo lam tương phản các mâu vât, tao nên hiệu quả thị giác mới

tuy không cao cho lắm. Nhưng điều nay đa cho thấy sự biến chuyển trong

việc sử dụng va khám phá ra gam mau bổ túc nhen nhom trong tranh Van

Gogh giai đoan nay.

Vao tháng 11, 1885 ông đa chuyển đến Antwerp, va thuê môt phong

trên cửa hang phân phôi sơn dầu. Ông sông trong cảnh đoi nghèo va ăn

uông kém, va lấy tiền của em trai Theo gửi về để mua các vât liệu sơn dầu

va đô hoa phâm. Ở đây, ông đa tự minh nghiên cứu về ly thuyết mau

sắc va danh thơi gian trong các viện bảo tang, đặc biệt la nghiên cứu về tác

phâm của hoa sĩ Barocque Peter Paul Rubens và dần mở rông bảng mau

của ông nhiều thêm nữa như mau đỏ son, xanh coban, xanh ngoc lục bảo.

Bên canh đo, Van Gogh đa mua rất nhiều các bản tranh khắc gô Nhât Bản,

ông chép lai chúng va sau đo nghiên cứu kết hợp các yếu tô của phong cách

của ho vao nền của môt sô bức tranh của ông.

Trong tác phâm “Hai chiếc lọ và hai quả bí ngô”sáng tác năm 1885,

cũng cho thấy việc khám phá va thử nghiệm đưa mau xanh lá cây vao trong

tranh va việc manh mún sử dụng những đương nét của tranh khắc gô vào

trong tranh. Hinh ảnh hai chiếc lo, hai quả bí ngô được đặt canh nhau theo

28

bô cục hinh vuông cổ điển. Hai chiếc lo được mô tả với đô bong, trơn mướt

của bề mặt men sứ đôi lâp với hai trái bí ngô la vẻ ngoai sần sui được đặt

giữa không gian đen đặc, tôi. Ánh sáng xanh vang được phản chiếu trên các

vât thể theo môt hướng từ trái sang tao nên chất cảm cho vât. Màu vàng,

vang nâu của trái bí ngô, bề mặt gô ghề đôi lâp tương phản với hai chiếc lo

trơn bong nổi bât giữa không gian tôi. Trong đo, co thể thấy Van Gogh đa

để lai đương nét vanh của nét co để mô tả sự mềm mai của lớp vải, va khôi

quả sử dụng việc vơn ánh sáng kết hợp với các nét để tách chuyển sắc đô

ma không vơn khôi hoan toan theo lôi cổ điển trước đo .

Giai đoan này có thể thấy trong các tác phâm tĩnh vât của Van Gogh,

việc để lai nét co và sử dụng những đương nét ngắn trong tranh khắc gô, để

mô tả vât va không gian được ông sử dụng tác phâm của minh đa tao nên

bước đi xa dần với hôi hoa cổ điển. Môt tác phâm khác cho thấy việc thể

hiện sự đôi lâp giữa hình thức và nôi tinh bên trong cũng la môt nét đặc

biệt trong giai đoan mới sơ khởi hôi hoa của Van Gogh. Trong “Cuốn Kinh

Thánh”sáng tác năm 1885. Tác phâm được vẽ sau cái chết bất ngơ của cha

Van Gogh. Ngươi ta cho rằng cuôn Kinh Thánh tượng trưng cho niềm tin

của cha ông, còn Van Gogh cảm thấy chúng quá binh thương va ông đa

làm nên môt cái nhìn nghiêm khắc về cuôc sông qua tác phâm này. Trong

cuôn kinh thánh, mở ra trang Isaial 53 la đoan văn được vẽ, trang này tiên

báo sự xuất hiện của đấng Messia sẽ không được công nhân. Bên canh là

cuôn tiểu thuyết “La Joie de Vivre” của Emile Zola được lấy làm đai diện

cho chính mình, Van Gogh coi cuôn sách của Emile Zola như “Kinh thánh

cho cuôc sông hiện đai” va đặt nó bên canh cuôn Kinh thánh của cha mình

trong bức tranh. Ngon nến bị đôt cháy và tắt lửa tượng trưng cho cái chết

của cha Van Gogh hoặc có thể đai diện cho sự chán nản của Vincent với

đức tin truyền thông. Từ đo có thể thấy sự phản kháng, đôi lâp về duy niệm

của ông trong đo.

29

Tuy nhiên trong tác phâm nay, Van Gogh đa xử lý không gian và bề

mặt tranh bằng những đương nét gach ngắn, mới mât đô dầy cho thấy sự

nhân thức mới về thế giới quan của Van Gogh, trong việc kết hợp sử dụng

yếu tô nét của khắc gô Nhât Bản vào tranh. Trong tác phâm, việc sử dụng

những đương nét ngắn để tao nên những nếp gấp của việc khăn trải bàn,

lớp bề mặt vải, những câu chữ kinh thánh không con được ông tả thực láng

mịn vẽ theo chất liệu cổ điển vôn có nữa mà tao nên bề mặt thô, khắc in

hằn làm nên môt tinh thần mới cho tác phâm. Điều nay cũng cho thấy,

những khám phá mới của ông về việc diễn tả cái đông trong tranh tĩnh vât.

Hay trong“Cốc bia”sáng tác năm 1885 thuôc bảo tàng Amsterdam,

tác phâm nay đa cho thấy thêm môt hiệu quả mới thể hiện cái hôn, sự rung

đông của Van Gogh trước các tĩnh vât bằng việc thể hiện bằng việc để lai

các nét co ngắn, xước trên mặt tranh. Chỉ với tông màu nâu vàng ảm đam

ba côc bia được đặt giữa không gian với ba cách sắp xếp khác nhau. Trong

đo hai chiếc được đặt đứng thì môt chiếc côc bị đong nắp, môt chiếc lai mở

tung ra phía dưới môt chiếc được nằm ngả hẳn ra. Điều này thể hiện sự chú

ý biểu hiện, tiết tấu, đông thái theo cấp đô khác theo chiều hướng xoay vần,

trong cùng môt mâu vât tao nên môt y nghĩa ngầm ân bên trong đo. Dương

như ân chứa trong đo la hinh ảnh của môt con ngươi ở những trang thái

khác nhau có thể chính là hoa sĩ chính minh khi say. Các đương nét trong

các mâu vât cũng cho thấy những chiều hướng cong di chuyển từ chiếc côc

nay đến chiếc côc kia, cuôi cùng dừng lai ở chiếc côc nằm hẳn xuông tao

hướng tâm vào sâu bên trong chiếc côc nằm bât nắp. Như muôn cho thấy

những nôi tâm sâu thẳm bên trong, không thấy được của tác giả.

Điều nay đa đánh dấu môt bước định hình mới trong phong cách

sáng tác của Van Gogh sau này. Ở đo, những tĩnh vât không còn nguyên

vẹn với chủ nghĩa cổ điển ban đầu nữa mà ở chính các yếu tô đương nét,

bảng bổ túc ông mới khám phá nhằm thể hiện đông thái in hằn, chất chứa

30

nôi tâm của chính Van Gogh vao bên trong tĩnh vât. Qua việc vẽ hàng loat

các tác phâm trong môt thơi gian ngắn đa cho thấy sự nghiêm túc và say

mê. Lôi vẽ màu sắc và bô cục, ánh sáng, không gian, đương nét các bâc

thầy cổ điển trong thơi gian đầu tao nên các tác phâm tĩnh vât ảm đam

mang vẻ đẹp hài hòa, trầm lắng. Bôc lô nôi tâm u ám, lê thê của Van Gogh

sau những thất bai trong cuôc sông. Càng về sau, khi ông tìm tòi và thử

nghiệm phôi màu các cặp bổ túc vào tông vàng nâu trong các tác phâm, và

hoc tâp tranh khắc gô Nhât Bản tao nên những biến đổi về đương nét đa

làm nên hiệu quả mới cho tác phâm. Tuy vây, Van Gogh vân chưa thực sự

bứt phá ra khỏi việc ảnh hưởng bởi lôi kể tả tĩnh vât giữa không gian đen

đặc, ánh sáng nhảy nhót trên nền các mâu vât của nghệ thuât cổ điển, hiệu

quả màu sắc bổ túc trong tranh tuy tương phản nhưng những cặp bổ túc

thương pha lân mau nâu đen, vang tao nên cảm giác ảm đam, hòa vào

không gian, đương nét ngắn mảnh mới chỉ manh mún chưa định hinh được

phong cách riêng.

2.2 Phong cách ấn tượng giai đoan từ 1886 đên 1887

Van Gogh chuyển đến Montmartre Paris vao tháng 3 năm 1886, va bắt

đầu theo hoc tai studio của Fernand Cormon. Ở Paris, Vincent Van Gogh

vẽ chân dung của ban bè va ngươi quen va tĩnh vât về cuôc sông ở

Montmartre. Van Gogh đa hoc những cách vẽ cổ điển của của Fernand

Cormon. Fernand Cormon la hoa sĩ vẽ tranh lịch sử khổ lớn ngươi Pháp va

thương sử dụng tông mau đất xám. Ở đây Van Gogh tiếp tục sáng tác tĩnh

vât của minh theo tông mau nâu va phát triển sự kết hợp đương nét trong

tranh khắc gô vao trong tranh, những mâu vât được ông lấy từ những thứ

gần gũi quen thuôc nơi ông sông, qua đo thể hiện những cảm thông của ông

với những con ngươi nghèo khổ trong xa hôi tư sản. Đặc biệt la tác phâm

“Ba đôi giày” vẽ năm 1886, nằm trong chuôi seri những tác phâm về những

chiếc giay ma ông mua ở chợ trơi, nhặt được từ bai rác hay của chính minh.

31

Đôi giay không con la đô vât gắn với hoat đông của con ngươi thương ngay,

qua bút pháp của Vicent Vangogh – ông lam cho “những đôi giay cũ” trở

thành hinh tượng đai diện chính những con ngươi sử dụng no . Trong tranh,

những đôi giay được miêu tả theo goc nghiêng nhin thẳng, những chiếc giay

được xếp canh nhau va được đặt chông chênh trong không gian nền nâu thâm.

Những nếp gấp bám bun, nhàu nát chứng tỏ cho việc được sử dụng rất nhiều

lần với công việc đông ruông, nặng nhoc. Những chiếc giay được đặc tả với

nhiều trang thái khác nhau, co chiếc bị thít dây chặt, chiếc cổ giay dựng đứng,

ngược lai co chiếc thi úp ngược dựa vao môt chiếc giay khác dây được nới

lỏng va bẻ gâp mở rông phần cổ như thể sẵn sang cho việc được sử dụng thêm

lần nữa tao nên cảm giác vừa xung đôt vừa bổ sung giữa các thái cực trong

cung các chiếc giay. Phần ánh sáng phía sau những đôi giay đôi lâp với phần

mau nâu đen tôi nhất phải chăng biểu thị sự lac quan về cuôc sông của những

ngươi nông dân sau những ngay lao đông vất vả.

Nha my hoc ngươi Đức nổi tiếng Martin Heideger từng nhân xét về tác

phâm nay:”… Đôi giày tràn ngập sự xao xuyến ko thở than, niềm tin của

ngươi nông dân vào thực phâm vào cuộc sống”

Lớp nền của tác phâm nay được ông dung nhiều vết quệt bút ngắn tao

ra những đương nét không gian chay khắp nền. Sự chuyển đông của các hinh

khôi của dong chảy các nét bút, các nét co ngắn chất chông lên nhau tao

không gian sông đông đa chiều. Ánh sáng luôn hướng về phía không gian

đằng sau chiếc giày, cuôn ngươi xem theo nôi trăn trở vào nền đen sâu thẳm.

Đây la bước tiến manh mẽ khi ông sử dụng nét gach ngắn ứng dụng từ đương

nét khắc gô trong tranh ngày càng rõ rệt.

Co thể thấy với việc miêu tả đôi giay đầy sự mệt mỏi, nặng nề qua bức

tranh tĩnh vât bằng những nét bút đứt, vach in hằn trên toan đem lai cho ngươi

xem cái nhin mới. Môt câu chuyện ông kể về tầng lớp nông dân không lơi.

Nếu trước đây ở những tác phâm “Những ngươi ăn khoai” (1885) hay

32

“Những cánh đồng lúa mì” (1885) ngươi nông dân được miêu tả qua cảnh

sinh hoat thi ở đôi giay lai chính la vât dụng mang theo thương ngay ho sử

dụng để lao đông gợi nên sự mon moi trông chơ, nôi tuyệt vong cung cực của

ngươi nông dân Paris lúc bấy giơ về xa hôi đầy biến cô.. Qua tinh thái của

đương nét tranh khắc gô kết hợp với tông mau nâu đất yêu thích của Van

Gogh ở các tác phâm, ông đa cho thấy sự thành công mới trong việc thể hiện

môt hinh tượng của riêng mình bằng phong cách lâp trương ông đa theo đuổi.

Tai xưởng vẽ của Fernand Cormon, Vangogh được gặp gơ: Émile

Bernard, Louis Anquetin, Henri de Touse – Lautree (1864 – 1901) , John

Peter Pussell.. la những hoa sĩ thuôc trương phái ấn tượng. Bên canh đo, ông

thương lui tới phòng triển lãm các tác phâm của Paul Cézanne để nghiên cứu,

từ đây Vangogh được hoc hỏi va chiêm ngương cách lam việc va các tác

phâm của hoa sĩ Ấn tượng. Và thực sự ảnh hưởng màu sắc bổ túc tươi sáng

của các hoa sĩ Ấn tượng vào tác phâm của mình.

Thơi kì này, phong cách hôi hoa của Vicent Van Gogh nhấn manh yếu

tô màu sắc tương phản - bao gôm cả màu xanh và màu da cam và việc thể

hiện các mảng khôi bằng các đương nét ngắn, thô ngày càng rõ ràng trong

các tác phâm tĩnh vât. Đa co môt sự thay đổi dần dần từ tâm trang u sầu

của tác phâm của ông ở Ha Lan đến môt cách tiếp cân sâu sắc hơn va biểu

cảm hơn khi ông bắt đầu khám phá màu sắc tươi sáng hơn vao các tác

phâm của mình. Ông đa vẽ rất nhiều bức tranh tĩnh vât và thử nghiệm màu

sắc, ánh sáng và ky thuât ma ông đa hoc được từ nhiều nghệ sĩ Ấn tượng và

Tân Ấn tượng.

Trong thư tín của Van Gogh với Theo, ông cho rằng:“Thê hiện tình yêu

của đôi tình nhân bằng sự hòa hợp của hai yếu tố bô sung, bằng sự hỗn hợp

và đối nghịch của chúng, bằng sự rung động bí ân của những sắc độ gần

nhau. Thê hiện tư tưởng rạng rỡ của một sắc độ sáng trên nền sẫm.. đó không

33

phải là bề ngoài lừa bịp có tính hiện thực, nhưng đó không phải một điều có

thật hay sao?” [ 2]

Tác phâm tĩnh vât “Táo, thịt và ô bánh mì” – 1886 thuôc bảo tàng

Rijksmuseum Kröller-Müller, Otterlo đa cho thấy bước đôt phá qua việc ứng

dụng bảng màu bổ túc giữa vàng cam, nâu và xanh lá cây của hôi hoa Ấn

tượng kết hợp với chiều hướng nét bút ngắn, dầy trên toan vào tranh của Van

Gogh. Trong không gian nền đen đặc, nổi bât lên hình ảnh những thực phâm

được đặt trên ban được sắp xếp không theo trât tự, bô cục nhất định của hàn

lâm cổ điển nữa. Ánh sáng cổ điển vân được sử dụng chiếu hắt từ phía trên

chếch xuông tao nên những bong đổ ngắn. Màu sắc giữa xanh lá của cây cần

tây được đặt giữa miếng thịt, chiếc bánh mì và rổ táo tao nên tương phản làm

nổi bât các tĩnh vât. Chỉ bằng những đương nét co ngắn, dầy thô, Van Gogh

đa diễn tả được những tính chất sự héo úa của cây hành tây, bề mặt khô cứng

của chiếc bánh mì, các chuyển sắc của thớ thịt theo ánh sáng theo cách của

riêng mình. Ở đo, các tĩnh vât như đang được chuyển đông từ chính sâu bên

trong. Tuy đa cải thiện được bảng màu và thể hiện kĩ thuât sơn dầu theo

hướng mới, những tông màu chủ đao vân mang hơi hướng nặng nề, trầm sắc

so với hôi hoa Ấn tượng, vì vây Van Gogh vân không được giới hôi hoa bấy

giơ đánh giá cao.

Trong môt thư tín, Van Gogh từng nói: “Đôi khi vì nhầm lẫn mà

ngươi ta tìm ra lối đi. Nào, hãy trả thù việc đó bằng cách vẽ khu vươn của

bạn y như bạn thấy hay cái gì bạn thích. Trong bất cứ trương hợp nào, tìm

kiếm cái đặc biệt cái thanh tao trong cái hình diện cũng là điều tốt, và các

khảo họa của bạn tượng trưng sự cố gắng, tức là cái gì, khác hơn thơi gian

uông phí. Biết cách chia một bức tranh như vậy thành những bình diện

chằng chịt, tìm ra các đương, các hình thê tương phản, đó là kĩ thuật, là

mánh khóe nếu bạn muốn, nhưng tóm lại đó là dấu hiệu(chứng tỏ rằng)

bạn đi sâu vào nghề nghiệp và như vậy là điều tốt. Dù hội họa đáng ghét

34

và làm bận lòng thế nào đi nữa ở thơi đại của chúng ta, ngươi nào đã chọn

nghề này cũng là ngươi biết nghĩa vu, vững vàng và trung thành, nếu anh

ta cũng cứ hành nghề một cách nhiệt thành. Đôi khi xã hội làm cho cuộc

sống chúng ta thật cực lòng, và cũng vì thế mà chúng ta bất lực và công

việc của chúng ta không hoàn hảo.”[ 2;tr 280]. Điều này thể hiện sự phản

kháng của chính Van Gogh đôi với những quan điểm hôi hoa đương thơi,

ông cho rằng, nghệ thuât chính là ở chô ông cảm nhân được bằng cái ông

thấy, và thể hiện nó theo cách của riêng mình mà không cần theo quy tắc

nhất định. Với ông, việc chinh phục trong việc thử nghiệm vẽ các mâu tĩnh

vât bằng nhiều cách chính là thử thách của riêng mình.

Vao năm 1887, Ông đến Asnieres gặp Paul Signac (1863 – 1935) thuôc

trương phái Tân ấn tượng Pháp, phát triển nghệ thuât chấm mau - phương

pháp không pha mau trực tiếp ma đem các nét điểm mau đặt canh nhau tao

nên hiệu quả tổng hợp mau. Cũng trong thơi gian nay, ông đa hiểu ra nhiều

vấn đề trong bảng màu của mình và sáng tác môt sô bức tĩnh vât ở đây cung

với hoa sĩ Emile Bernard. Tiêu biểu là tác phâm “Hoa hướng dương và lọ”-

1887 được ông sáng tác trong thơi gian nay đa cho thấy môt thử nghiệm của

ông về nghệ thuât chấm màu của Paul Signac. Trong tranh Van Gogh vân sử

dụng bảng màu bổ túc giữa vàng, xanh cô ban và xanh lục tao. Nét vẽ của bút

lau sây gây hiệu quả tinh tế với những nét co vach ngắn biểu hiện bút pháp

manh mẽ gây ấn tượng manh cho tác phâm. Khoảng không gian nền trông

dương như chẳng co đông thái gi đáng noi, nhưng vi dung đương nét ngắn

thô từ bút lau sây tao thanh sắc điệu tôi lam tăng thêm sức sông manh liệt

cho tác phâm.Việc sử dụng những đương nét khắc vach được ông tân dụng

triệt để tao nên chiều hướng không gian hút sâu vào lo hoa hướng dương.

Phía sau nền, Van Gogh sử dụng những điểm chấm vàng nổi để tao nên

không gian phía sau thoát hẳn lôi kể tả tĩnh vât trên không gian trầm tôi,

35

đen u ám của thơi kì cổ điển trước đo. Điều nay đa đặt nền móng mới cho

việc định hinh phong cách đỉnh cao của ông sau này.

Từ đây đa cho thấy những biến đổi về thế giới quan của Van Gogh đôi

với nghệ thuât, trong môt thư tín khác Van Gogh gửi cho ngươi ban Paul

Signac: “ Hãy nói với Seurat rằng tôi sẽ thất vọng nếu hình vẽ của tôi đẹp,

nói với anh ta rằng tôi không muốn chúng đúng theo kiêu kinh viện, rằng tôi

muốn nói là nếu ngươi ta chup hình của một ngươi xới đất, chắc chắn anh ta

không xới đất. Nói với anh ra rằng tôi thấy hình vẽ của Michel Ange là tuyệt

vơi, dầu rằng cẳng chân nhất định là quá dàu, hông và đùi quá lớn. Nói với

anh ta rằng, theo tôi thấy, về điêm đó, Millet và Lhermite là những họa sĩ

đích thực, bởi vì họ không vẽ sự vật y như chúng có mặt, theo một sự phân

tích tỉ mỉ và khô khan, mà theo như họ cảm thấy. Nói với anh ta rằng, ý định

của tôi là học cách tạp ra những cái không chính xác như vậy, những cái bất

thương như vậy, những cái tu chỉnh và thay đôi thực tế như vậy, đê từ đó

thoát ra những điều dối tra, nếu ngươi ta muốn gọi như vậy, nhưng thật hơn

là thực tế. Màu tự nó biêu lộ một cái gì đó, ta không thê làm ngơ và phải lợi

dung điều đó; cái gì đẹp, thật sự đẹp, thì cũng thật” [2; tr283].

Điều nay đa khẳng định những quan điểm nghê thuât của Van Gogh

đa gần hơn với nghệ thuât Ấn tượng. Ông bác bỏ, sự mô tả thực tế theo

đúng lôi kinh viện khô cứng. Từ đây đa cho thấy phong cách Ấn tượng của

ông trong giai đoan này với việc sử dụng tông màu bổ túc đỏ cam, xanh cô

ban và xanh lục ngoc kết hợp tao nên tương phản chói gắt, cho thấy nôi

tâm dữ dôi bên trong hoa sĩ. Bên canh đo, qua hoc hỏi từ tranh khắc gô

Nhât Bản, Van Gogh đa sáng tao những nét bút khắc vach, ngắn dầy có

hướng mang sức manh ân chứa nôi lực của riêng mình tao nên phong cách

riêng biệt trong tranh Van Gogh.

36

2.3 Phong cách hâu ấn tượng giai đoan từ 1888 đên 1890

Tháng 2 năm 1888, không ưa cuôc sông hôi hả ở Paris, ông rơi đến thị

trấn nhỏ Arles, ở Provence. Ngược lai với các tác phâm đa dang va thử

nghiệm của Paris năm, bức tranh Van Gogh tao ra ở Arles thể hiện tính

nhất quán phong cách rõ rang hơn. Van Gogh cho thấy việc đổi mới trong

cách lam việc nghệ thuât với thiên nhiên, ông thương xuyên vẽ ngoai trơi,

ghi lai cảnh quan nở hoa ánh sáng đầy nắng mua xuân ở Provence. Môt loat

các sắc mau vang va đô sáng va mât đô mau sắc trong suôt bức tranh gợi

lên ánh mặt trơi rực lửa của mua hè trên vung đất mau mơ kết hợp với

những đương nét khắc vach cuôn xoáy đa lam nên phong cách đỉnh cao của

ông. Điều nay đa cho thấy những nô lực của Van Gogh trong nghiên cứu

va chinh phục hinh khôi van vât trong thiên nhiên bằng hôi hoa. Từ đây

ông đa khẳng định phong cách cá nhân của minh trong các hoa sĩ ấn tượng,

tim ra con đương thể hiện thiên nhiên, ánh sáng cảnh vât bằng đương nét

khắc gô cuôn trao, kết hợp với sử ly mau bổ túc.

Với ông “ Lúc đầu, thiên nhiên luôn luôn chóng lại ngươi vẽ,

nhưng ngươi nào thật sự coi trọng công việc sẽ không đê mình lạc hướng,

bởi vì, ngược lại, sự đối kháng đó là một chất kích thích đê chiến thắng

vinh quang hơn, và thật ra thiên nhiên và họa sĩ chân thành đồng ý với

nhau. Nhưng thiên nhiên quả là “không thê xâm phạm” được tuy rằng ta

phải tấn công một cách kiên quyết. Sau một thơi gian, cuối cùng thiên

nhiên sẽ nhượng bộ và trở lên ngoan ngoãn. Không phải là tôi thấy mình

đã đạt tới chuyện đó tôi ít tin tưởng chuyện đó hơn ai hết, nhưng chuyện

đó đã bắt đầu chuyên động” [2]

Giai đoan nay, bên canh việc sử dụng những đương nét, mau sắc

trong tranh tĩnh vât, thi đề tai tĩnh vât méo mo không theo quy tắc của Van

Gogh cũng cho thấy những giá trị nghệ thuât biểu hiện cảm xúc nôi lực

37

được đây đến trang thái cực đoan bên trong của tác giả từ chính những mâu

vât vô tri.

Đặc biệt phải kể đến các tĩnh vât “Hoa hướng dương” sáng tác năm

1888 của Van Gogh. Tác phâm đa lam nên tên tuổi của Van Gogh trong

nền nghệ thuât hôi hoa Hâu Ấn tượng. Đề tai hoa hướng dương được Van

Gogh vẽ rất nhiều ở các trang thái khác nhau với các cách thể hiện riêng,

đôi khi các phiên bản khác nhau chỉ thay đổi môt chi tiết nhỏ dù vân giữ

nguyên bô cục ban đầu. Tác phâm này được thiết kế để trang trí cho căn

phong được dành riêng cho Gauguin tai "Nha mau vang", studio va căn hô

của ông ở Arles. Những bông hoa hướng dương vang héo úa được mô tả

với nhiều hình dáng trong cùng môt bô cục nổi bât trên nền xanh lục bảo.

Van Gogh đa sử dụng sắc đô của mau vang để thể hiện toàn bô quá trình lụi

tàn của hoa hướng dương, từ khi nở màu vàng nhat đến hoa héo và chết đi

trong màu u sầu, buôn bã. Trong đo, việc sử dụng đương chân trơi làm dải

phân cách giữa hai lớp nền phẳng là môt điều đáng chú y trong việc thể

hiện không gian ý niệm trong tranh của ông tao nên sự sông đông mới mẻ

trong tác phâm của ông.

Van Gogh đa viết cho em trai mình Theo Tháng Tám năm 1888,

“Anh sẽ rất khó khăn khi phải vẽ tranh với việc không được chào đón ở

đây, điều đó sẽ không làm em ngạc nhiên khi bạn biết rằng anh vẫn đang

vẽ một số bức tranh hoa hướng dương. Và anh sẽ thực hiện ý tưởng này

bằng nhiều phiên bản liên tuc. Vì vậy, toàn bộ các tác phâm điều sẽ là một

bản giao hưởng màu xanh và màu vàng. Anh đang làm việc đó mỗi sáng từ

lúc mặt trơi mọc, vì những bông hoa héo tàn dần. Bây giơ anh đang vẽ lại

bức hoa hướng dương thứ tư. Con thứ tư này là một bó hoa 14 hoa hồng ...

nó mang lại một hiệu ứng kỳ lạ.” Dương như, việc thể hiện quá trình từ khi

còn tươi đến khi héo úa, tàn lui của hoa hướng dương cho thấy nôi tâm

khắc khoải chơ đợi của Van Gogh với ngươi ban Paul Gauguin.

38

Môt tác phâm tĩnh vât khác, cho thấy sự khám phá hôi hoa mới la

bức: “Phòng ngủ ở Arles” - 1888 của Van Gogh mô tả căn phong đon tiếp

Paul Gauguin của ông tai sô 2 Place Lamartine, Arles, hay còn goi la

“Nha vang”. Tác phâm nay được vẽ khi ông đang ở nha thương điên St.

Remy. Trong tranh, những tĩnh vât được ông mô tả môt cách tỉ mỉ, chi

tiết. Nhìn vào căn phòng, có môt giương bên phải. Doc theo bức tương

bên phải là môt chiếc ghế, bên canh là môt chiếc bàn có những bình nước

và căn phòng có cửa sổ nhìn ra đương phô. Bức tương bên trái có môt

chiếc ghế và cửa vào phòng ngủ. Các bức tranh được treo hầu khắp trên

các bức tương của căn phòng. Phòng ngủ ở Arles cho thấy kiến thức của

Van Gogh về lý thuyết màu sắc với cam với màu xanh dương, và màu đỏ

và xanh lá cây. Lấy cảm hứng từ những bản in của Nhât Bản mà Van

Gogh nghiên cứu, ông đa bỏ qua bóng tôi từ hình ảnh.Sự thiếu bóng, cùng

với quan điểm méo mó, làm cho môt sô vât thể dương như rơi xuông hoặc

không ổn định. Đây không phải là kết quả của việc làm việc nhanh hoặc

thiếu ky năng. Kết quả của góc nhìn theo trí tưởng tượng của Van Gogh

khiến cho những đô nôi thất không thẳng hàng thẳng đứng mà có chiều

hướng nghiêng ngả tao nên môt thế giới quan hoàn toàn mới cho nghệ

thuât hôi hoa sau này.

Việc sử dụng những màu sắc đâm tươi sáng và sông đông để miêu

tả các tĩnh vât trong tranh theo môt góc cảnh rông của ông đa chứng tỏ sự

giải phóng khỏi bảng màu và các bức tranh hiện thực của truyền thông

nghệ thuât Hà Lan. Ông đa vẽ về chủ đề, màu sắc, và sự sắp xếp của tác

phâm này, viết nhiều lá thư cho Theo về nó, “Lần này chỉ đơn giản là

phòng ngủ của anh, chỉ ở đây màu sắc là làm tất cả mọi thứ, và bằng

cách đơn giản hoá nó một phong cách sang trọng hơn. Gợi ý với em đây

là một góc của phòng ngủ chung của anh và ngươi bạn thân. Nhưng nó

được vẽ theo góc từ trên cao nhìn xuống, hoặc đúng hơn là trí tưởng

39

tượng của anh.” Trong khi những màu vàng nhat và màu xanh có thể

dương như tao nên môt cảm giác lo lắng thì màu sắc tươi sáng cho thấy

suy tư về môt ngày hè nắng, gợi lên như cảm giác ấm áp va binh tĩnh, như

Van Gogh dự định. Sự diễn giải cá nhân về các tĩnh vât trong khung cảnh

thể hiện những cảm xúc và ký ức đặc biệt thúc đây sáng tác và tao nên

bảng màu mới là môt đong gop lớn cho hôi hoa hiện đai.

Tác phâm “Hoa diên vĩ” ra đơi năm 1889, la môt trong những tác

phâm được biết đến nhiều nhất của Van Gogh. Tác phâm ghi đâm dấu ấn

nghệ thuât của môt tinh thần sáng tao manh mẽ ma chính ông khi điều trị

tai nha thương Saint Paul - de – Mausole, miền Nam nước Pháp trong 2

năm cuôi đơi.

Co lẽ việc ra đơi trong hoan cảnh đặc biệt khiến tác phâm tĩnh vât “Hoa

diên vĩ” khác hẳn với đa sô tác phâm đương thơi. Trong tranh, những bông

hoa diên vĩ được vẽ bằng những nét co day ngắn, thô tao nên vẻ manh mẽ

hoang da. Co thể thấy rằng, bô cục của hoa diên vĩ tương tự tác phâm “Hoa

hướng dương” trước đo. Bằng cách kết hợp tương phản giữa sắc mau tím của

hoa diên vĩ nổi bât trên tông mau vang chanh tao nên hiệu quả bổ sung tương

phản manh mẽ. Những đương nét méo mó, căng thẳng của hoa diên vĩ đôi lâp

với sự tĩnh lặng của mặt phẳng nền. Việc sử dụng đương chân trơi để phân

tách nền đa mở ra không gian tưởng tượng rông lớn trong bức tranh.

Lúc đang vẽ, Vicent Van Gogh viết thư cho Theo, noi rằng ông muôn

vẽ những bức tranh tỏa sinh khí sông đông như kiệt tác của Delacroix “bằng

cách kết hợp những cặp mau tương phản, khi đan xen, khi đôi choi” va ông đa

lam được bằng những vết bút tách bach, môi nét la môt nguyên sắc nằm canh

nhau, không pha trôn, tự tao cương lực của cả nét bút lân mau.

Những nét co phong khoáng đa trở thanh phong cách tao hinh riêng

biệt của Van Gogh. Không còn chau chuôt như nghệ thuât cổ điển, các nét

40

phác manh mẽ như giải phong ông khỏi sự kiềm tỏa, ma bôc lô ra sự tự do, để

biểu thị các cung bâc thăng trầm của cảm xúc.

Van Gogh tiếp tục thay đổi khả năng biểu cảm của sự tương

phản bổ sung khi ông chuyển từ chủ đề hoa diên vĩ sang đến chủ đề

hoa hông nhẹ nhàng hơn. Môt lần nữa sự kết hợp tuyệt vơi giữa đương

nét trong tranh khắc gô Nhât Bản va mau sắc của chủ nghĩa Ấn tượng đã

làm nên thành công cho tác phâm này.

Từ sự muôn bứt phá ra khỏi không gian ngôt ngat của khuôn viên tai

nhà thương điên, Van Gogh đa nhân ra vẻ đẹp của những bông hông đặc

trưng cho vùng Nam nước Pháp. Trong tác phâm tĩnh vât “Hoa hồng và lọ”

sáng tác năm 1890, đây cũng là môt trong những tác phâm tĩnh vât cuôi đơi

của ông, Van Gogh khám phá và mở rông bảng màu bổ túc của mình, màu sắc

tương phản giữa hông và xanh lá cây.

Trong bức tranh tranh này, ông thể hiện việc sử dụng lý thuyết màu sắc,

bằng những sắc đô sáng nhẹ bổ túc không còn gay gắt như những thơi kì

trước đo và không làm mất đi sự sông đông của tĩnh vât bằng cách cương điệu

đương nét bút mềm mai nhất cho mâu vât hoa màu hông trên nền xanh. Đặc

biệt hơn, ở đây, khi ông mở rông bảng màu của mình khi pha thêm các màu

bổ túc với màu trắng, với mục đích tao ra sự tinh tế hơn, đa tao nên hiệu quả

mãn nhãn giữa sự tương phản nhẹ nhàng giữa màu hông nhat và màu xanh lục

nhat gợi nên sự thanh thoát la thương trong tác phâm này.

Van Gogh đa khám phá các phương án khác nhau để làm nền cho bức

tranh này. Để đảm bảo sự hòa hợp giữa không gian nền và tĩnh vât, ông đưa

môt cành hoa đặt vào đương chân trơi, điều này ông khá giông với việc sử lý

không gian bô cục trong tác phâm tĩnh vât hoa diên vĩ sáng tác trước đo.

Vào ngày 13 tháng 5 năm 1890, Van Gogh đa viết về tác phâm này trong

bức thư cuôi cùng của ông gửi cho Theo từ Provence - với sự tự mãn của

mình: “Anh vừa hoàn thành bức tranh hoa hông màu hông này với nền xanh lá

41

cây trong môt bình hoa màu xanh lá cây và anh cảm thấy thât thanh thản, bởi

những nét co gon gàng và hòa quyện trong tranh theo cách rất hợp lý.”

Qua đo co thể thấy bảng mau tương phản của Van Gogh khá phong

phú va biến thiên nhiều lần, nhưng căn bản vân gôm mau đỏ son, mau

cánh sen, xanh dương đâm, ngoc bích va mau xanh lá cây để biểu đat cảm

xúc đầy kịch tính trong tranh của ông. Việc kết hợp các nét mau quay

cuông tương phản dữ dôi tương phản với không gian nền tao nên liên kết

giữa nôi lực tinh thần của ông với tĩnh vât. Bằng các yếu tô tao hinh trong

tranh không theo quy luât hay công thức nhất định, Van Gogh đa lam nên

tinh thần duy my cho các tĩnh vât tưởng chừng vô tri vô giác. Điều nay, la

môt trong những điều đa khẳng định phong cách đỉnh cao nghệ thuât Hâu

Ấn tượng của ông.

Qua sự trinh bay các vấn đề ở chương hai, co thể hệ thông sự

chuyển biến về phong cách tao hinh trong tranh tĩnh vât của Vicent Van

Gogh như sau:

STT Sư biên

chuyên

phong

cách sáng

tac cua

Van Gogh

Đặc điêm Nhân xét

1 Phong cách

cổ điển

(từ 1880

đến 1885)

- Thơi gian đầu hoc tâp

lôi vẽ mau sắc va bô

cục, ánh sáng, không

gian, đương nét các bâc

thầy cổ điển trong thơi

gian.

- Về sau, khi ông tim toi

va thử nghiệm phôi mau

các cặp bổ túc đỏ - xanh

Giai đoan tuy co những thử

nghiệm nhưng Van Gogh bứt

phá ra khỏi việc ảnh hưởng

bởi lôi kể tả tĩnh vât giữa

không gian đen đặc, ánh sáng

nhảy nhot trên nền các mâu

vât của nghệ thuât cổ điển.

Hiệu quả mau sắc bổ túc

trong tranh không cao do ông

42

vào các tác phâm va hoc

tâp tranh khắc gô Nhât

Bản tao nên những biến

đổi về đương nét, bô cục

đa lam nên hiệu quả mới

cho tác phâm.

chỉ thử nghiệm pha thêm các

mau bổ túc với tông nâu vang

nên ko gây bât được tương

phản manh mẽ. Tuy vây điều

nay lam nên nền tảng cho

thơi ki nghệ thuât của Van

Gogh sau đo.

2 Phong cách

Ấn tượng

(từ 1886

đến 1887)

- Sử dụng tông mau bổ

túc đỏ cam, xanh cô ban

va xanh lục ngoc kết hợp

tao nên tương phản choi

gắt.

- Qua hoc hỏi từ tranh

khắc gô Nhât Bản, Van

Gogh đa sáng tao những

nét bút khắc vach, ngắn

dầy co hướng mang sức

manh ân chứa nôi lực của

riêng mình.

Giai đoan nay ông đa bác bỏ

lôi kinh viện của nghệ thuât cổ

điển. va định hinh phong cách

riêng mình.

3 Phong cách

Hâu Ấn

tượng

(từ 1888 đến

1889)

- Giai đoan nay cho thấy

việc mở rông trong bảng

màu thêm tím - vàng,

mau hông - xanh pha

trắng tao nên hiệu quả

vừa bổ túc vừa hai hoa.

-Những hiệu quả mới của

những đương nét cuôn

xoáy tao nên kịch tính

Qua đo co thể thấy bảng mau

tương phản của Van Gogh

khá phong phú va biến thiên

nhiều lần, nhưng căn bản vân

gôm mau đỏ son, mau cánh

sen, xanh dương đâm, ngoc

bích va mau xanh lá cây để

biểu đat cảm xúc đầy kịch

tính trong tranh của ông.

43

trong tranh.

-Dong kẻ phân chia

không gian hoc tâp từ

tranh khắc gô Nhât Bản.

Tao nên không gian rông

hơn.

Tiêu kêt

Chương 2 nghiên cứu về sự chuyển biến về chất cảm, màu sắc, không

gian, ánh sáng, đương nét… đo la những yếu tô quyết định phong cách tao

hình trong tranh của Vangogh. Thông qua đo, tác giả đa thể hiện được những

quan điểm của mình về sự vât hiện tượng. Có thể thấy được sự chuyển biến rõ

nét về phong cách tao hinh trong tranh tĩnh vât của Vangogh qua các thơi kì

sáng tác trong cuôc đơi ông. Từ thơi ki đầu khi ông ở..

Các tác phâm tĩnh vât của ông được vẽ theo môt chủ đề ở các thơi

kì thương được Van Gogh nghiên cứu và vẽ lặp đi lặp lai nhiều lần ở môi

goc đô, thế dáng hoặc chăng chỉ chi tiết nhỏ khác nhau tao thành những se

ri tranh trong quá trình sáng tác từ 1885 đến 1890 như tĩnh vât giày, hoa

hướng dương, hoa hông ... qua chuôi các seri trong tranh cũng cho thấy

những nét biến chuyển được hinh thanh, được hoàn thiện tao nên phong

cách tao hình của ông.

Ở thơi ki đầu sáng tác, các tác phâm tĩnh vât của Van Gogh được vẽ

theo lôi hàn lâm cổ điển, mô tả những sự vât bằng tông màu vàng nâu,

ánh sáng chiếu roi vào sự vât từ môt hướng trên không gian nâu tôi, ảm

đam. Sau đo cung với sự thử nghiệm của cặp màu bổ túc, và nghiên cứu

các tác phâm tranh khắc gô đa dần chuyển biến từ phong cách cổ điển

sang phong cách Ấn tượng. Cùng với việc hoc tâp hoa phái điểm chấm đa

khiến Van Gogh hoàn toàn bứt ra khỏi tông màu ảm đam, lôi tả thông

44

thương của chủ nghĩa cổ điển lam định hinh phong cách đỉnh cao. Ở thơi

kì tiếp theo, Vicent Van Gogh dần định hinh phong cách đỉnh cao của

mình khi ông mở rông bảng màu bổ túc, kết hợp với những nét bút cuôn

xoáy tao nên những tâm điểm trong suy niệm của ông qua các tác phâm

tĩnh vât. Và việc biểu hiện yếu tô nôi tâm qua yếu tô tao hình là môt điều

trước đo chưa hoa sĩ nao lam được. Điều này chính là nền tảng cho chủ

nghĩa nghệ thuât Biểu hiện sau này.

Qua các tác phâm tĩnh vât ở các thơi ki đa cho thấy những biến

chuyển trong phong cách tao hình của Van Gogh kể từ khi ông mới bước

chân vào hôi hoa rôi định hình tao nên phong cách đỉnh cao nhất của ông.

Từ đo cũng cho thấy những quan điểm, những tác đông của cuôc sông,

những ngươi ban xung quanh Van Gogh đa ảnh hưởng đến phong cách

sáng tác của ông qua môi thơi kì.

Sự chuyển biến trong phong cách tao hình của Van Gogh qua các

tác phâm tĩnh vât đa cho thấy những những bước chân tìm tòi và những

nô lực không ngừng nghỉ của Van Gogh trong việc khám phá thiên nhiên

qua lăng kính nghệ thuât hôi hoa.

Sự kết hợp giữa hai bút pháp nghệ thuât phương Tây va nghệ thuât

phương Đông đa cho thấy cái “thần”, cái “hôn” của tự nhiên, của cuôc

sông qua những mâu tĩnh vât vô hôn. Thông qua đo thể hiện những sắc

thái tâm trang đi từ ảm đam đến dữ dôi rôi giải thoát ra khỏi cuôc sông bế

tắc của Van Gogh.

45

CHƯƠNG 3

NHƯNG ĐIỀU RÚT RA TỪ NGHIÊN CỨU PHONG CÁCH TẠO

HÌNH TRANH TĨNH VÂT CUA VAN GOGH

QUA CÁC THỜI KỲ CHU ĐỀ LUÂN VĂN

3.1 Nhân xét về sư biên chuyên phong cach tao hinh cua Van Gogh qua

cac tac phâm tranh tinh vât

Trong những giai đoan đầu sáng tác, Van Gogh chịu ảnh hưởng rất

manh của các bâc thầy cổ điển và các hoa sĩ hiện thực Hà Lan. Các tác

phâm tĩnh vât được thể hiện theo không gian xa gần của lôi vẽ hàn lâm,

màu sắc chỉ sử dụng bảng màu vàng nâu ảm đảm, các khôi được đặc tả

bằng cách vơn bóng, vơn mau để tao ánh sáng trong không gian. Đến giai

đoan sau đo, vao những năm 1885, Van Gogh đa thử nghiệm khám phá

việc sử dụng màu sắc bổ túc va đương nét trong tranh khắc gô Nhât Bản

vào trong tranh, mặc dù vây việc pha trôn thêm màu bổ túc với màu nâu

vàng vôn có không gây hiệu quả manh và nổi bât tương phản giữa các tĩnh

vât mà tao nên sự hài hòa trong tranh. Tuy việc sử dụng gam màu bổ túc

mới là thử nghiệm, chưa tách bach với màu sắc vàng nâu ảm đam, đương

nét khắc gô mới chỉ được sử dụng áp dụng để tao nên nét co mảnh ngắn

để vơn nhưng đây cũng la môt bước đánh dấu cho bước khởi đầu tiến gần

hơn đến với phong cách nghệ thuât Ấn tượng ngay sau đo.

Sang đến giai đoan sau đo, Van Gogh đa gặp gơ rất nhiều các hoa sĩ Ấn

tượng và hoc tâp ở ho trong việc thực sự mở rông bảng màu rực rơ trong

tranh. Ông dần bác bỏ, sự mô tả thực tế theo đúng lôi kinh viện khô cứng.

Trong giai đoan này, Vangogh sử dụng tông màu bổ túc đơn sắc đỏ cam,

xanh cô ban và xanh lục ngoc kết hợp tao nên tương phản chói gắt, để thể

hiện nôi tâm dữ dôi bên trong hoa sĩ. Bên canh đo, đương nét bút sử dụng từ

tranh khắc gô Nhât Bản, được ông sáng tao và ứng dụng vào hình và nền của

46

bức tranh. Các nét bút khắc vach, ngắn dầy co hướng mang sức manh ân chứa

nôi lực của riêng mình đa tao nên phong cách khác biệt của Van Gogh với các

hoa sĩ Ấn tượng khác.

Sang đến thơi ki đỉnh cao, bảng màu của Van Gogh ngày càng mở

rông và khá phong phú, biến thiên nhiều lần mà không theo những quy tắc

nhất định, nhưng căn bản vân gôm mau đỏ son, màu cánh sen, xanh

dương đâm, ngoc bích và màu xanh lá cây, tím , vàng chanh để biểu đat

những đôi lâp, kịch tính trong tranh của ông. Đặc biệt là gam màu bổ túc

hông và xanh lục lá được ông pha thêm màu trắng được thể hiện trong tác

phâm tĩnh vât về Hoa hông của ông ở cuôi đơi, trước khi ông tự kết liễu

cuôc sông của mình. Gam màu này đa cho thấy những hi vong và sự thỏa

mái, vượt thoát hiếm thấy trong tranh Van Gogh. Cùng với đo, các đương

nét khắc vach ngắn dần hướng tâm cuôn xoáy và quay cuông dữ dôi đa

đây lên cao trào cho những bế tắc và tương phản với không gian nền

phẳng tao nên liên kết giữa nôi lực tinh thần của ông với tĩnh vât. Bằng

các yếu tô tao hình trong tranh không theo quy luât hay công thức nhất

định, Van Gogh đa lam nên tinh thần duy my cho các tĩnh vât tưởng

chừng vô tri vô giác.

Qua các tác phâm tĩnh vât của Vicen Van Gogh đa nghiên cứu cho

thấy sự biến chuyển phong cách tao hình của Van Gogh mang tính tất yếu

theo xu hướng xã hôi và theo sự tim toi, chăm chỉ nghiên cứu của Van

Gogh. Trong giai đoan đầu khi mới bắt đầu thực hành nghệ thuât với

trương nghệ thuât và hoc tâp lôi vẽ của các bâc thầy cổ điển, hiện thực nổi

tiếng của Hà Lan bấy giơ đa ảnh hưởng rất nhiều đến lôi vẽ của Vicen

Van Gogh. Điều nay đa định hình cho Van Gogh những kiến thức căn bản

về nghệ thuât hôi hoa, về những tư tưởng thâm my cổ điển từ đo tao nên

nền tảng cho việc nghiên cứu nghệ thuât sau này của Van Gogh. Sang đến

thơi kì Ấn tượng, tuy đa sử dụng những gam mau tương phản nhưng việc

47

ảnh hưởng gam màu vàng nâu của cổ điển vân ảnh hưởng phần nao đến

phong cách tao hình về không gian, bô cuc, ánh sáng. Phải đến thơi kì khi

phong cách hoàn thiện thì ông mới hoàn toàn từ bỏ lôi vẽ cổ điển và phát

triển phong cách riêng mình theo môt hướng mới.

Tuy giai đoan sáng tác hôi hoa thực sự của Van Gogh chỉ vào 10

năm cuôi đơi, nhưng để làm nên nét chuyển biến phong cách của Van

Gogh đa cho thấy những hoc hỏi và sáng tao không ngừng nghỉ, môi giai

đoan ngắn ngủi trong cuôc đơi ông là môt sự nô lực của những bước đi do

dâm đến với chủ nghĩa Hâu Ấn tượng.

Qua sự chuyển biến phong cách tao hình trong tranh tĩnh vât Van

Gogh đa phản ánh môt phần nao đo về nghệ thuât đương đai trong xã hôi

Pháp – Hà Lan nói riêng và thế giới nói chung. Từ đo thấy được các bước

chuyển mình của hôi hoa phương Tây.

Về những biến chuyển yếu tô bô cục trong tranh tĩnh vât Van Gogh,

có thể thấy từ khi mới bắt đầu đến với hôi hoa, bị ảnh hưởng bởi chủ

nghĩa cổ điển, bô cục trong tranh thương sử dụng theo bô cục hình tam

giác, hình vuông vững trãi của cổ điển, đến những giai đoan sau khi Van

Gogh tiếp nhân nghệ thuât Ấn tượng, thì yếu tô bô cục không con được

coi trong nữa, các mâu vât đặt tuy y, đôi khi ông chỉ vẽ môt góc của tĩnh

vât, đôi khi ông cắt đi môt phần mâu, chủ yếu ông chú ý mô tả đến trang

thái của các mâu vât.

Về những biến chuyển yếu tô không gian trong tranh tĩnh vât Van

Gogh, ta nhân thấy rằng, lớp nền đen đặc, u tôi, tĩnh lặng của nghệ thuât cổ

điển đa theo sát hầu như đến cả khi ông đa nhâp cuôc với trương phái Ấn

tượng. Chỉ khi ông nghiên cứu nhiều hơn ở hoa phái chấm điểm của Paul

Signac đa khiến ông nhân ra và biến đổi lớp không gian nền thành những

mau tương sáng va tương phản với mâu vât. Không gian được lược giản,

48

đến thơi ki đỉnh cao, không gian trong tranh được ông vẽ chỉ bằng môt

đương chân trơi phân cách, mở ra môt không gian mang tầng ý rông lớn.

Ánh sáng chuyển biến qua các tác phâm tranh tĩnh vât Van Gogh

khi ông mới bắt đầu thực hành hôi hoa cổ điển, ánh sáng trong tranh tuân

theo xa gần, sáng tôi của nghệ thuât hàn lâm và biểu hiện ánh sáng bằng

màu sắc vàng hoặc trắng. Đến những thơi kì sau, sau những khám phá về

nghệ thuât ấn tượng, ánh sáng trong tranh Van Gogh không chỉ đơn điệu,

tẻ nhat nữa. Cùng với bảng mau tươi sáng hơn, ông đa sử dụng những

màu bổ túc để tao nên bong đổ, hay tao nên ánh sáng toát ra từ mâu vât.

Đương nét của tranh khắc gô Nhât Bản là môt trong những yếu tô

quan trong biến đổi theo phong cách tao hình tranh của Van Gogh, qua đo

cũng cho thấy giá trị về mặt tao hình bởi sự kết hợp giữa hai luông nghệ

thuât Đông – Tây để cho ra đơi những tuyệt tác nổi tiếng nhất thế giới.

Màu sắc bổ túc trong tranh tĩnh vât của Van Gogh cũng được biến

đổi, và dần mở rông không giới han trong tranh Van Gogh đa tao nên các

sắc thái, bôc lô tâm trang hoa sĩ ở các thơi điểm sáng tác.

Chất cảm trong tranh tĩnh vât của Van Gogh trong giai đoan phong

cách cổ điển, bề mặt tranh trơn nhẵn, mượt ma, đến những giai đoan sau

đo, việc sử dụng những nét bút thô dày từ cây sây ở Ales, bề mặt tranh

được đặc tả theo lôi tranh khắc gô, tao chất gô ghề, thô cứng.

Sự biến chuyển phong cách tao hinh tranh tĩnh vât Van Gogh chính

là nét chuyển biến trong tâm cho tất cả các đề tài từ chân dung, thiên

nhiên, sinh hoat… của Van Gogh. Ở moi đề tai đều đi theo hướng biến

chuyển từ đương nét, màu sắc, không gian, ánh sáng trong tranh tĩnh vât.

Điều này cho thấy sự nhất quán va đông nhất trong phong cách sáng tác

nghệ thuât của Van Gogh.

Từ những yếu tô đương nét, màu sắc, không gian… cho thấy những

chuyển biến, thay đổi không ngừng trong thể thức quan niệm thâm my của

49

Van Gogh, qua đo cũng nhằm báo hiệu môt phần nao đo về hướng đi mới

quan niệm thâm my giai đoan tiếp theo.

Những mâu tĩnh vât tưởng chừng vô hôn, vô tri được Van Gogh

thổi hôn vao trong đo những câu chuyện, những bài hoc về cuôc đơi hoa

sĩ. Để từ đo, môi mâu vât đều gắn liền với hoa sĩ như những ngươi ban

đông hành, chia sẻ với Van Gogh trên con đương hôi hoa đơn đôc.

3.2 Bài học về giá trị nghệ thuât cua sư chuyên biên phong cach tao hinh

sang tac tranh tinh vât cua Vicent Van Gogh

Từ những điều vừa trinh bay về việc nhin nhân về sự chuyển biến trong

phong cách tao hinh trong tranh tĩnh vât Vicent Van Gogh, ta co thể rút ra

môt sô bai hoc sau:

Ở thế kỷ thứ 19, danh hoa Vincent Van Gogh la ngươi Hà Lan, thuôc

trương phái Hâu Ấn Tượng cũng la môt ngươi có sô phân đầy sóng gió.

Ông từng làm rất nhiều nghề và kiếm được rất nhiều tiền thơi trẻ, đặc biệt

với nghề bán tranh. Sau biến cô và thất bai trong cuôc sông, ông đến với

hôi hoa như sự cứu rôi tâm hôn minh. Năm 27 tuổi, Van Gogh bắt đầu theo

hoc hoa sĩ Ha Lan nổi tiếng Willem Roelofs rôi tới Trương my thuât Hoàng

gia, từ đo ông mới bắt đầu theo nghiệp hôi hoa. Côt môc sự nghiệp của Van

Gogh bắt đầu khi ông nghĩ rằng: Cách duy nhất để đat tới nghệ thuât hôi

hoa chính là thể hiện cái tôi tuyệt đôi vào tác phâm, nên ông đa tâp hợp

môt sô hoa sĩ tai danh khác để lâp ra nhóm các hoa sĩ ấn tượng miền Nam,

sông và sáng tác tai căn nha mau vang huyền thoai. Trong 10 năm đo, sự

chuyển biến trong các tác phâm của Vicen Van Gogh đều được phát huy

đến mức tôi đa. Tuy nhiên, hầu hết những tác phâm của ông vào thơi kỳ

này vôn không thể bán được, từ đo ông lai rơi vao tinh cảnh kho khăn, sông

vất vả hơn rất nhiều. Nhơ sự đông viên về mặt tinh thần, cũng như ủng hô

về tài chính của ngươi em trai Theo Van Gogh, Van Gogh hoàn toàn chú

50

tâm vào sáng tác và trau dôi thêm kiến thức hôi hoa. Đầu tiên ông chỉ vẽ

những bức tranh sử dụng các gam màu tôi va no không được đánh giá cao.

Do vây, ông đi tới gặp những danh hoa nổi tiếng lúc đo để xin những ý

kiến về ky thuât vẽ và tới Paris trao dôi, về bảng màu của hôi hoa Ấn tượng

và nghiên cứu thêm những đương nét trong các tác phâm tranh khắc gô

Nhât Bản và biến đương khắc thành các nét bút hằn sâu. Sau những thử

nghiệm và quan sát cách làm việc của các hoa sĩ Ấn tượng nổi tiếng bấy

giơ đa lam thay đổi bảng màu và dân tới việc sử dụng màu sắc bổ túc trong

tranh Van Gogh. Từ những nền tảng đo, ông đa va mở rông bảng màu bổ

túc không giới han, và phát triển các đương nét bút theo chiều hướng xoáy

cuôn tao nên sắc thái dữ dôi trong tranh. Các yếu tô tao hình biểu hiện

trong phong cách tranh Van Gogh đa lam nền tảng cho trương phái Biểu

hiện sau. Môi tác phâm đều được ông vẽ đi, vẽ lai nhiều lần ở các đông

dáng, chuyển góc, hay chỉ 1 chỉ tiết nhỏ. Qua đây, ta rút ra bai hoc về sự

nghiên cứu, tim toi, đây cao sự sáng tao trong tranh Van Gogh. Bởi, chính

do sự chăm chỉ hoc tâp đa thúc đây những chuyển biến trong tranh tĩnh vât

Van Gogh. Mặc dù chỉ bán được môt bức tranh trong suôt cuôc đơi, nhưng

Van Gogh đa trở thành môt trong những hoa sĩ nổi tiếng nhất moi thơi đai.

Những bức tranh sơn dầu của ông với những nét co được lai trên

mặt tranh nhằm tao chất cho mâu vât, có thể nhìn thấy được trong môt

bảng màu sáng, giàu có nhấn manh nét phong cách cá nhân của Van Gogh

đa mang lai cho nhân loai môt hướng nhìn mới về những giá trị nghệ

thuât. Môi bức tranh cho thấy môt cảm giác trực tiếp về cách nghệ sĩ

trong mâu vât, được giải thích thông qua đôi mắt, tâm trí và trái tim của

mình. Phong cách gây xúc đông tinh vi, nhay cảm nay đa tiếp tục ảnh

hưởng đến các nghệ sy và phong trào trong suôt thế kỷ hai mươi va cho

tới ngày nay, và khẳng định tầm quan trong của Van Gogh trong hôi hoa

thế giới.

51

Qua quan sát nghiên cứu va so sánh giữa các tác phâm tranh tĩnh vât

của Van Gogh thấy được những giá trị nghệ thuât tao hinh đặc sắc qua sự

chuyển biến trong cách biểu hiện các yếu tô tao hinh trong các giai đoan sáng

sáng tác của ông, từ đo đúc rút được kinh nghiệm cho nghiên cứu va sáng tác

của bản thân. Từ cách thể hiện chủ đề các tác phâm tĩnh vât của tác giả Van

Gogh cũng củng cô thêm cho y tưởng, bô cục, cách thể hiện tâm trang nôi

tâm, tư thế sự vât áp dụng hoan thiện vao sáng tác của bản thân.

Nghiên cứu sự chuyển biến phong cách tao hinh các tác phâm tĩnh

vât trong tranh Van Gogh đa củng cô thêm kĩ năng về các yếu tô tao hinh.

Hiểu thêm về vai tro của các yếu tô đương nét, mau sắc, hinh mảng, không

gian. Hiểu thêm về kĩ năng đặc tả chuyên sâu về tranh tĩnh vât. Thấy hiểu

thêm về sự liên kết chuyển đông trong tranh qua đo hiểu va tích lũy kiến

thức đo cho bản thân sau nay áp dụng trong nghiên cứu va sáng tác.

Sự hiểu biết về các tác phâm tĩnh vât trong tranh Van Gogh không

thể chỉ thuần túy thuôc pham tru tao hinh ma con la sự xen cai của các

thanh phần triết hoc, my hoc, cá tính nghệ thuât, ảnh hưởng của chính trị xa

hôi va tư duy của môt giai đoan nghệ thuât thế giới. Các tĩnh vât tưởng

chừng vô tri, cô giác qua tự nhao nặn của tác giả đa mang các quan niệm về

nhân sinh, thâm my của Van Gogh. Từ đo cho thấy những sáng tao mới,

những điểm riêng trong phong cách nghệ sĩ va những chuyển biến phong

cách tao hinh va tim ra từ sự thông nhất giữa nôi dung va hinh thức.

Qua các tác phâm tĩnh vât, co thể thấy sự phản ánh về thân phân con

ngươi trong xa hôi, bởi việc lựa chon những mâu vât thương ngay, quen

thuôc với những ngươi nông dân, những ngươi giai cấp thấp trong xa hôi

vào trong tranh tĩnh vât, tao nên cái hôn mang tính nhân đao trong tác

phâm Van Gogh. Từ đây, hoc tâp việc khai thác các chủ đề quen thuôc của

cuôc sông xung quanh đưa vao tranh để phản ánh những vấn đề trong xa

hôi đương đai.

52

Trong các giai đoan chuyển biến phong cách tao hinh trong tranh

tĩnh vât của Van Gogh bắt đầu từ nghệ thuât cổ điển đến Ấn tượng va Hâu

Ấn tượng đa rút ra bai hoc đắt giá về phong cách nghệ thuât qua những so

sánh các tác phâm các thơi ki sáng tác của Van Gogh. Đầu tiên la những

yếu tô tao hinh của nghệ thuât cổ điển la sự cân đôi, hai hoa của các phần

tử được hoan thanh theo những quy tắc co cơ sở vững chắc va co kết quả,

đo la sự thông nhất cao đến nôi không co gi co thể thêm hay bớt đi hoặc cải

tao lai. Đo la sự thông nhất từ bô cục, sắp xếp các mau sắc, đương nét,

hinh khôi, đâm nhat va sự hai hoa, sử dụng đúng ly thuyết sáng tôi, đặc biệt

la sự miêu tả khung cảnh của tranh phải khớp với sự vât va phu hợp với

thiên nhiên.Bề mặt tranh trơn nhẵn. Thứ hai la những yếu tô tao hinh của

nghệ thuât Ấn tượng với mục tiêu nghệ thuât chính la ghi nhân môt phần

thiên nhiên hay cuôc sông với tinh thần khách quan va khoa hoc bởi cách

nhìn riêng của hoa sĩ. Mô tả hiện thực để thu bắt ấn tượng thị giác đôi với

cảnh vât. Không vẽ bong bằng mau xám hay mau đen ma dung mau bổ túc.

Vân dụng mau trực tiếp hoặc phản chiếu để tao ra ánh sáng va bầu khí

quyển xung quanh. Bề mặt tranh gô ghề. Thứ ba la những yếu tô tao hinh

của nghệ thuât Hâu Ấn tượng, từ chôi râp khuôn theo những quy định của

trương phái Ấn tượng, hoa sĩ sẽ phải co những phong cách định hinh va

phải khẳng định tính cá nhân qua các tác phâm của minh. Từ đo rút ra rất

nhiều những quy tắc từ han lâm đến hiện đai trong tranh, gop phần thúc

đây sáng tao mới mẻ của cá nhân ngươi viết.

Môt trong các yếu tô tao hinh lam nên phong cách cá nhân trong

tranh tĩnh vât của Van Gogh, la việc ứng dụng sáng tao đương nét khắc gô

đô hoa Nhât Bản vao trong hôi hoa phương Tây, ta rút ra được những hoc

tâp về sự thực hanh kết hợp giữa hai luông nghệ thuât để lam nên phong

cách của riêng minh.

53

Nhân thấy vai tro quan trong của yếu tô tao hinh la đương nét, mau

sắc trong việc thể hiện các trang thái, ngôn ngữ nôi tâm của tác giả Van

Gogh. Đặc biệt la nét bút cuôn xoáy va bảng mau bổ trợ.

Từ những sắc mau, đương nét của riêng minh, Van Gogh đa thay đổi

cả môt thế giới quan nghệ thuât lúc bấy giơ, khiến toan giới my thuât phải

sững sơ nhin lai. Bởi trong nghệ thuât của ông, đo chính la cái tôi riêng

cũng chính la cái tôi chung của toan ngươi dân nghèo khổ trong xa hôi tư

sản đương thơi. Ở đo, những tác phâm tĩnh vât vượt xa y nghĩa về biểu lô

sắc thái, quan điểm của ngươi hoa sĩ, nâng lên thanh những hinh tượng,

biểu tượng lớn của môt thế giới con ngươi. Trong đo, Van Gogh tha thiết

truyền tới ho sự giải thoát, va những dằn vặt của chính ông khi không được

moi ngươi công nhân. Tuy vây, ông đa hoan thanh tâm nguyện của minh

sau khi ông mất đi, cả thế giới đều biết đến các tác phâm của ông như môt

sự cứu rôi chính ông va chính trong môi ngươi thưởng thức hôi hoa.

Trong cuôn nghệ thuât hôi hoa, Jacques Charpier cho rằng: “ Ta có

thê nói rằng, bài học mà một ngươi đương đầu với hoàn cảnh không chịu

đựng nôi và tìm cách vượt qua sự khủng khiếp của hoàn cảnh đó bằng cách

trui rèn khí cu sáng tạo của mình ngay trên ngọn lửa hồng thiêu cháy sự

sống của mình. Với Van Gogh, chúng ta chứng kiến cuộc đọ sức giáp lá cà

giữa nghệ sĩ và thiên nhiên, một cuộc chiến đấu hào hùng mà ngươi đồng

thơi đã dửng dưng quay lưng lại, nhưng có lẽ, trong lãnh vực hội họa, là

những bi kịch hiếm họi tương đương với bi kịch Hy Lạp, mà tình tiết bi

thương được kê lại trong thư từ của ông trao đôi với ngươi em trai, Théo,

và bạn của ông, Emile Bernard.”[ 2 ;tr280]

54

Tiêu kêt

Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu sự chuyển biến về phong cách

tao hinh trong tranh tĩnh vât của Vangogh, ta thấy được các bước hình

thành phong cách sáng tác, sự sáng tao và những chuyển mới về ngôn ngữ

tao hinh va tư tưởng của hoa sĩ Vangogh qua các giai đoan trong cuôc đơi.

Môi giai đoan sáng tác của ông đều được phản ánh thông qua chính các tác

phâm của mình.

Tranh tĩnh vât là môt trong những chủ đề lớn trong quá trình sáng tác

của Vangogh. Nó góp phần không nhỏ cho thấy trong việc định hình và

những chuyển biến phong cách sáng tác và tao hình của ông. Trong cùng môt

chủ đề tĩnh vât, ông luôn luôn khai thác các góc nhìn khác nhau của tĩnh vât

cho thấy sự say mê nghiên cứu va tim toi. Qua đo lôt tả được thần thái đông

trong những vât tĩnh lam nên những tuyệt tác nghệ thuât của ông. Đo la sự đôt

phá và chuyển biến trong phong cách tao hình biểu hiện qua các tác phâm tĩnh

vât của Vangogh.

55

KẾT LUÂN

Những nét tao hình chuyển biến trong các tác phâm tĩnh vât của Van

Gogh cho thấy việc định phong cách của Van Gogh là rất nhiều. Qua những

tác phâm tĩnh vât cho thấy những khai thác, biến đổi trong biểu đat các hình

thức khác nhau trong các giai đoan sáng tác của VanGogh. Đo la sự thay đổi

cái nhìn của chính tác giả đôi với sự vât xung quanh mình.

Chuyển biến phong cách tao hình từ màu sắc, đương nét, chất cảm…

trong các tác phâm tĩnh vât của Van Gogh cho thấy nét đặc trưng tiêu biểu ở

môi thơi kì sáng tác của ông được thể hiện rõ trong việc thể nghiệm những

yếu tô tao hinh theo cách đặc biệt và sáng tao. Qua sự chuyển biến về phong

cách tao hinh trong tranh tĩnh vât của Vangogh, ta thấy được những nhân thức

mới về sự thay đổi của đương nét xúc cảm tao hình lôt tả những nôi tâm sâu

kín, mãnh liệt ngày môt manh mẽ của ông.

Qua những tĩnh vât tưởng chừng vô hôn, tĩnh tai gắn liền với cuôc sông

thương ngày của những ngươi nông dân xung quanh hay của chính ông, lai lôt

tả nên những điều bất định ân sâu. Đo chính la sự hy sinh tron vẹn cho nghệ

thuât, những trăn trở của ông trong cuôc sông. Môi môt chủ đề tĩnh vât đều có

những nôi dung phản ánh khác nhau về các hinh thái, hinh tượng của con

ngươi ân sâu bên trong của tĩnh vât. Mang đâm tinh thần nhân văn, biểu hiện

tấm lòng nhân ái của ông đôi với cuôc sông xung quanh mình.

Tóm lai, sự chuyển biến về phong cách tao hinh trong tranh tĩnh vât của

Vangogh kế thừa của nền hôi hoa đương đai bây giơ và đánh dấu những bước

phát triển định hình quan trong trong quá trình sáng tao của Van Gogh.

56

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Beckett (W) . Lịch sử hôi hoa, NXB Hà Nôi – 1996

2. Charpier (J) , Nghệ thuât hôi hoa, NXB Tp Hô Chí Minh – 1996

3. Diper (D) , Thưởng ngoan Hôi Hoa, NXB Hà Nôi - 1997

4. Cubalire. Le petit livre du grand art. Grund – 2004

5. Đặng Thị Bích Ngân. Nghệ thuât là gì ? (Biên soan theo Maria Carla

Prette – Alfonso De Giorgis). NXB Văn hoa Thông tin – 2005

6. Đặng Thị Bích Ngân (1991) từ điển thuât ngữ my thuât phổ thông…

7. (bổ sung môt sô từ điển đa sử dụng ở phần khái niệm)

8. Đinh Ninh. Lịch sử nghệ thuât phương Tây. NXB ĐH Bắc Kinh – 2004

9. Đô Văn Khang, Nghệ thuât hoc, NXB Quôc Gia Hà Nôi – 1985

10. H.W. Junson. A History of art. New York – 1965

11. Khải Pham - Pham Cao Hoàn, 70 Danh hoa bâc thầy thế giới. NXB Hà

Nôi – 1999

12. Lê Phụng Hoàng. Lịch sử văn minh thế giới. NXB Giáo dục – 1999

13. Nguyễn Văn Hổ, Tìm hiểu phong cách nghệ thuât – Luân văn - 2008

14. Lê Thanh Lôc dịch, Nghệ thuât hôi hoa, NXB Trẻ - 1996

15. Nguyễn Trân, Giáo trình Lịch sử my thuât thế giới, NXB My thuât -

1994

16. Nguyễn Quân. Ngôn ngữ của hình và màu sắc. NXB Văn hoa thông tin

– 2006

17. Nguyễn Phi Hoanh, Lịch sử my thuât thế giới – NXB Tp HCM - 2012

18. Nguyễn Phi Hoanh. My thuât và nghệ sĩ - NXB tp HCM – 2013

19. Ocvirk Simson – Wigg – Bone – Cayton. Những nền tảng của my

thuât. NXB My thuât – 2006

20. Pham Thị Chỉnh. Lịch sử My thuât thế giới, NXB Đai hoc sư pham - 2012

21. Sister Wendy Beckett, Câu Chuyện Nghệ Thuât Hôi Hoa - Từ Tiền Sử

Đến Hiện Đai, NXB My Thuât – 1996

57

22. Tương Quyên, Lịch sử my thuât phương Tây, NXB My thuât Hô Nam

– 2004

23. Từ điển biểu tượng văn hoa, NXB Đa Nẵng – 1996

24. Thái Tuấn, Câu chuyện Hôi hoa, NXB Văn nghệ - 2002

25. Xavier Barral I Altet. Lịch sử nghệ thuât, NXB Thế giới – 2003

BỘ GIÁO DỤC VA ĐAO TẠO BỘ VĂN HÓA, THÊ THAO VA DU LICH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUÂT VIỆT NAM

NGUYỄN HỮU THÔNG

SỰ CHUYỂN BIẾN PHONG CÁCH TẠO HÌNH

TRONG TRANH TĨNH VÂT CUA VICENT VAN GOGH

LUÂN VĂN THẠC SY MY THUÂT

Chuyên nganh: My thuât tao hinh (Hôi hoa)

Ma sô: 60210102

Khoa: 2015 - 2017

PHẦN PHỤ LỤC

NGƯỜI HƯƠNG DÂN:

PGS. TS. Đoan Thị My Hương

Ha Nôi, 2017

58

PHỤ LỤC

Những sang tac năm 1884

(H1)Những chiếc lọ,1884

Kích thước: 46.5 × 56 cm. Phong trưng bay Österreichische Belvedere, Ý

Nguôn: Internet

(H2) Những chiếc chai gốm, bình và chiếc cốc trắng,1884

Kích thước: 33 x 41 cm. Bảo tàng Bảo tàng Kröller-Müller, Otterlo, Hà Lan.

Nguôn: Internet

59

(H3) Tĩnh vật hai bao tải và một cái chai, 1884

Kích thước: 31,7 x 42 cm, thuôc tư nhân

Nguôn: Internet

(H4) Bút vẽ và những cái lọ,1884

Kích thước: 31,5x 41,5 cm

Nguôn: internet

60

Những sang tac năm 1885

(H5) Gừng và hành tây,1885

Kích thước: 39,3 x 49,6 cm. Phong trưng bay Haminton, Otario

Nguôn: internet

(H6) Hai chiếc lọ và hai quả bí ngô, 1885

Kích thước: 58 x 85 cm.

Nguôn: internet

61

(H7) Cuốn Kinh Thánh, 1885

Bảo tàng Van Gogh , Amsterdam, Hà Lan

Nguôn: internet

(H8) Cốc bia, 1885

Kích thước: 32 x 43 cm. Bảo tàng Amsterdam

Nguôn: internet

62

Những sang tac năm 1886

(H9)“Ba đôi giày” vẽ năm 1886

Nguôn: internet

(H10) Táo, thịt và ô bánh mì, 1886

Bảo tàng Rijksmuseum Kröller-Müller, Otterlo

Nguôn internet

63

Những sang tac năm 1887

(H11) Hoa hướng dương và lọ,1887

Kích thước: 73,5 x 60,5 cm. Viện Bảo tàng Musée d'Orsay

Nguôn: internet

64

Những sang tac năm 1888

(H12) Hoa hướng dương, 1888

(H13) Phòng ngủ ở Arles, 1888

65

Những sang tac năm 1890

(H14) Hoa diên vĩ, 1889

(H15)“Hoa hồng và lọ” sáng tác năm 1890