27
BÀI GIẢNG KIỂM TOÁN VÀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP (Dành cho SV Cao đẳng chuyên ngành Tài chính-ngân hàng) Số ĐVHT: 04 (3.1) Phần 1: Lý thuyết kiểm toán 1.1 Khái niệm kiểm toán - Ở nước ta, thuật ngữ kiểm toán (KT) mới xuất hiện và sử dụng từ hơn một chục năm cuối thế kỷ 20. - Nhưng rất có cơ sở để phóng đoán rằng từ Kiểm toán đã xuất hiện rất sớm cùng với nền văn minh Ai Cập La Mã cổ đại. (Kiểm toán có gốc từ la tinh “Audit”), nguyên bản “Auditing” gắn với văn minh Ai Cập, La Mã cổ đại. “Audit” có nguồn gốc từ là “Audrie” nghĩa là “nghe” gợi lên một hình ảnh cổ điển về kiểm toán là: Các tài khoản về tài sản phần lớn được kiểm tra bằng cách người soạn thảo đọc to lên cho một bên độc lập nghe và chấp nhận. * Ngày nay có rất nhiều định nghĩa về kiểm toán. - Theo định nghĩa của Liên đoàn kế toán quốc tế (International Federation of Accountants - IFAC) thì “Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”. - Tiến sỹ RobertN. Anthor, Giáo sư trường đại học Harvatr cho rằng: “Kiểm toán là việc xem xét, kiểm tra các việc ghi chép kế toán bởi các kế toán viên công cộng, được thừa nhận bởi các tổ chức bên ngoài tổ chức kiểm tra”. Điều này cũng phù hợp với định nghĩa được ghi ytong lời mở đầu giải thích về chuẩn mực kế toán của Vương quốc Anh: 1

Ly thuyet kiem toan

  • Upload
    leehaxu

  • View
    51.434

  • Download
    1

Embed Size (px)

DESCRIPTION

 

Citation preview

Page 1: Ly thuyet kiem toan

BÀI GIẢNG

KIỂM TOÁN VÀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

(Dành cho SV Cao đẳng chuyên ngành Tài chính-ngân hàng)

Số ĐVHT: 04 (3.1)

Phần 1: Lý thuyết kiểm toán

1.1 Khái niệm kiểm toán- Ở nước ta, thuật ngữ kiểm toán (KT) mới xuất hiện và sử dụng từ hơn một chục

năm cuối thế kỷ 20.

- Nhưng rất có cơ sở để phóng đoán rằng từ Kiểm toán đã xuất hiện rất sớm cùng

với nền văn minh Ai Cập La Mã cổ đại.

(Kiểm toán có gốc từ la tinh “Audit”), nguyên bản “Auditing” gắn với văn minh Ai

Cập, La Mã cổ đại. “Audit” có nguồn gốc từ là “Audrie” nghĩa là “nghe” gợi lên một hình

ảnh cổ điển về kiểm toán là: Các tài khoản về tài sản phần lớn được kiểm tra bằng cách

người soạn thảo đọc to lên cho một bên độc lập nghe và chấp nhận.

* Ngày nay có rất nhiều định nghĩa về kiểm toán.

- Theo định nghĩa của Liên đoàn kế toán quốc tế (International Federation of

Accountants - IFAC) thì “Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình

bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”.

- Tiến sỹ RobertN. Anthor, Giáo sư trường đại học Harvatr cho rằng:

“Kiểm toán là việc xem xét, kiểm tra các việc ghi chép kế toán bởi các kế toán viên

công cộng, được thừa nhận bởi các tổ chức bên ngoài tổ chức kiểm tra”.

Điều này cũng phù hợp với định nghĩa được ghi ytong lời mở đầu giải thích về

chuẩn mực kế toán của Vương quốc Anh: “Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập, và là sự bày

tỏ ý kiến về những bản khia tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ

nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên

quan”.

Ở Pháp: “Kiểm toán là việc nghiên cứu kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ

chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là kiểm toán viên tiến hành để khẳng định

rằng những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tình hình thực tế, không che giấu sự gian lận

và chúng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định”.

Ở nước ta: Quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân Ban hành theo

nghị định số 07/CP ngày 29/1/1994 của CHính phủ đã ghi rõ: “Kiểm toán độc lập là việc

kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc các tổ chức kiểm toán độc

lập về tính đúng đắn hợp lý của các tài liệu, số liệu kê stoán và báo cáo quyết toán của các

1

Page 2: Ly thuyet kiem toan

doanh nghiệp, các cơ quan, các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội (gọi tắt là đơn vị kế toán)

khi có yêu cầu của các đơn vị này”.

Các định nghĩa trên tuy khác nhau về từ ngữ, với ý nghĩa cụ thể xác định, song

chung quy đều bao hàm khái niệm kiểm toán đều bao hàm 7 yếu tố sau:

- Mục đích của kiểm toán: Xác nhận mức độ tin cậy của thông tin trình bày trong

báo cáo tài chính và các hồ sơ về tài chính kế toán.

- Chủ thể kiểm toán: Là những người kiểm toán viên (KTV) độc lập, có nghiệp vụ,

có thẩm quyền.

Độc lập: Độc lập về quan hệ tình cảm, kinh tế với lãnh đạo đơn vị được kiểm toán,

khi tham gia vào hoạt động kiểm toán, KTV có thái độ độc lập hay tính độc lập về nghiệp

vụ. Kiểm toán viên phải là người vô tư, khách quan trong công việc Kiểm toán (Tuy

nhiên độc lập của Kiểm toán viên không phải là một khái niệm tuyệt đối nhưng nó là mục

tiêu hướng tới và phải đạt được một mức độ nhất định nào đó).

- Khách thể của kiểm toán:

Là đơn vị được kiểm toán, có thể là một tổ chức kinh tế hay một đơn vị hành chính

sự nghiệp… có tư cách pháp nhân (1 DNNN, 1 công ty cổ phần, 1 công ty TNHH… hoặc

1 bộ phận, 1 đơn vị thành viên của DN không đủ tư cách pháp nhân, hay một cá nhân,

hộ kinh doanh).

- Đối tượng trực tiếp của kiểm toán:

Là các báo cáo tài chính (hay tài khoản niên độ) của tổ chức, thực thể kinh tế.

Thường các báo cáo này là Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh,

thuyết minh báo cáo tài chính, báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Sẽ được nhắc đến trong các

chương sau).

- Chức năng của Kiểm toán:

Là xác minh, bày tỏ ý kiến. Đây là yếu tố cơ bản chi phối cả quá trình kiểm toán và

bộ máy Kiểm toán.

- Để xác minh, các KTV phải thu nhập và đánh giá các bằng chứng.

- Người Kiểm toán viên phải sử dụng các phương pháp và kỹ thuật kiểm toán để thu

thập bằng chứng và xét đoán bằng chứng. Xác định mức độ tương quan phù hợp giữa các

thông tin có để định lượng của đơn vị được kiểm toán với các chuẩn mực đã được xây

dựng, thiết lập, sö dông (các thông tin có thể định lượng và có dưới nhiều hình thức khác.

Những thông tin này có thể là thông tin tài chính và không tài chính, chẳng hạn thông tin

trong báo cáo tài chính của một doanh nghiệp, một đơn vị, thông tin về lượng thời gian

một công nhân hao phí để hoàn thành một nhiệm vụ được giao, thông tin về giá cả vật tư,

về giá quyết toán một công trình xây dựng cơ bản…, về bản kê khai thuế của một đơn vị).

2

Page 3: Ly thuyet kiem toan

- Cơ sở thực hiện kiểm toán.

Là những luật định, tiêu chuẩn hay chuẩn mực. Các chuẩn mực cũng rất đa dạng và

phong phú tuỳ thuộc từng loại kiểm toán và mục đích kiểm toán.

Thông thường các chuẩn mực này được quy định trong các văn bản pháp quy về các

lĩnh vực khác, có thể là một văn bản quy định của một ngành, một số ngành, một địa

phương.

Ví dụ:

- Thông tin quy định giá đền bù đất đai ở một địa phương.

- Quy định tính doanh thu, chi phí trong Nghị định của Chính phủ, các Thông tư của

Bộ Tài chính, chuẩn mực kế toán…

- Định mức trong đầu tư XDCB (do Bộ xây dựng, ban hành) đơn giá rtong XDCB

(UBND tỉnh ban hành).

- Khung giá, giá tính thuế, mức thuế, thuế suất (do Bộ Tài chính ban hành để tính

thuế).

- Báo cáo kết quả:

Giai đoạn cuối cùng của kiểm toán là báo cáo kết quả kiểm toán.

Tuỳ thuộc vào từng loại hình kiểm toán mà báo cáo có thể khác nhau về bản chất, về

nội dung. Nhưng trong mọi trường hợp báo cáo phải thông tin được cho người nghe mức

độ tương phản phù hợp giữa các thông tin đã được kiểm toán và các chuẩn mực chung đã

được xây dựng.

Với các nội dung trên, các định nghĩa đã nêu khá đây đủ các mặt đặc trưng cơ bản

của Kiểm toán. Tuy nhiên các quan điểm này chủ yếu phù với Kiểm toán tài chính với đối

tượng là báo cáo tài chính do các kiểm toán viên độc lập (được bổ nhiệm) tiến hành trên

cơ sở các chuẩn mực chung.

* Quan điểm khác.

Ngoài các quan điểm trên còn có quan điểm thứ hai, kiểm toán được đồng nghĩa với

Kiểm toán kế toán (Kiểm toán = Kiểm tra kế toán). Nội dung của hoạt động này là rà soát

các thông tin từ chứng từ kế toán đến tổng hợp cân đối kế toán.

- Đây là quan điểm truyền thống trong điều kiện kiểm toán chưa phát triển và trong

cơ chế kế hoạch hoá tập trung.

- Trong cơ chế kế hoạch tập tập trung, Nhà nước vừa là chủ sở hữu, vừa thực hiện

lãnh đạo nền kinh tế do đó chức năng kiểm tra của Nhà nước được thực hiện trực tiếp với

mọi thực tế kinh tế - xã hội, thông qua nhiều khâu kể cả việc xét duyệt hoàn thành kế

hoạch, xét duyệt quyết toán, kiểm tra tài chính thường xuyên, thanh tra vụ việc…

3

Page 4: Ly thuyet kiem toan

- Nhưng khi chuyển đổi cơ chế với chủ trương đa phương hoá trong đầu tư đa dạng

hoá các thành phần kinh tế, Nhà nước không còn là chủ sở hữu duy nhất. Việc can thiệp

của Nhà nước bằng kế hoạch, bằng kiểm tra trực tiếp không thể thực hiện thường xuyên

với các thành phần kinh tế ngoài nhà nước… và sự can thiệp của Nhà nước không thể như

cũ.

- Nhiều nhà đầu tư, khách hàng, thậm chí người lao động trong doanh nghiệp cũng

muốn có thông tin kế toán nhưng họ không có đội ngũ kế toán trong tay… Vì vậy cần có

một tổ chức đứng ra độc lập thực hiện công tác kiểm toán kế toán một cách khách quan,

trung thực đủ sức thuyết phục và tạo niềm tin cho tất cả mọi người quan tâm đến tình hình

tài chính và số liệu kế toán của đơn vị.

* Ngoài ra cũng thấy rằng: Trong quá trình phát triển, kiểm toán không chỉ giới hạn

ở kiểm toán báo cáo tài chính hay tài liệu kế toán mà còn thâm nhập vào nhiều lĩnh vực

khác nhau như hiệu quả của hoạt động kinh tế, hiệu năng của quản lý xã hội, hiệu lực của

hệ thống pháp lý trong từng hoạt động … vì vậy theo quan điểm hiện địa phạm vi của Kiểm

toán rất rộng gồm rất nhiều lĩnh vực sau:

- Kiểm toán về thông tin: Hướng vào việc đánh giá tính trung thực, hợp pháp của các

tài liệu (thông tin), làm cơ sở cho việc giải quyết các mối quan hệ về kinh tế và tạo niềm

tin cho những người quan tâm đến tài liệu kế toán.

- Kiểm toán tính quy tắc: Hướng vào việc đánh giá tình hình thực hiện các chế độ,

thể lệ, luật pháp của đơn vị kiểm tra trong quá trình hoạt động (trước hết với hoạt động tài

chính).

- Kiểm toán tính hiệu quả: Có đối tượng trực tiếp là các yếu tố các nguồn lực trong

từng loại nghiệp vụ kinh doanh: mua bán, sản xuất hay dịch vụ…

Kiểm toán này giúp ích trực tiếp cho việc hoạt động chính sách và phương hướng,

giải pháp cho việc hoàn thiện hoặc cải tổ hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm

toán.

- Kiểm toán hiệu năng: Được quan tâm ở khu vực nhà nước chủ yếu ở các khu vực

công ích và chương trình đầu tư từ NSNN nơi mà lợi ích và hiệu quả của nó không giữ

nguyên vẹn ý nghĩa của nó như trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh (ví dụ: Dịch vụ

tươi tiêu phục vụ NN, chương trình giống cây trồng, chương trình nước sạch…)

* Tất cả các quan điểm khác nhau kể trên về Kiểm toán không hoàn toàn đối lập

nhau, mà nó phản ánh quá trình phát triển (cả thực tế, cả lý luận) của kiểm toán.

Từ các quan niệm trên ta rút ra kết luận như sau:

“Kiểm toán là việc các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền có kỹ năng nghiệp vụ

tiến hành thu thập, đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng của

4

Page 5: Ly thuyet kiem toan

một đơn vị được kiểm toán nhằm mục đích xác nhận và bày tỏ ý kiến về mức độ phù

hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được xây dựng”.

1.2 Chức năng kiểm toán1.2.1 Chức năng xác minh:

Nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu, tính pháp lý của việc thực hiện các

nghiệp vụ hay việc lập các báo cáo tài chính.

Đây là chức năng cơ bản gắn với việc ra đời, tồn tại và phát triển của Kiểm toán.

- Đối với các báo cáo tài chính việc thực hiện các chức năng xác minh này trước hết

được thực hiện ở sự xác nhận của người kiểm tra độc lập ở bên ngoài.

Việc xác minh báo cáo tài chính ngày nay có hai mặt:

+ Tính trung thực của các con số.

+ Tính hợp thức của các biểu mẫy phản ánh tình hình tài chính. Theo chuẩn mực của

kiểm toán tài chính chức năng xác minh được thực hiện ở “báo cáo kiểm toán”.

- Đối với các thông tin khác đã được lượng hoá, việc xác minh được thực hiện trước hết

qua hệ thống kiểm soát nội bộ. Kết quả cuối cùng khi đã xác minh được điều chỉnh trực tiếp để

có hệ thống thông tin tin cậy và lập các báo cáo tài chính.

- Đối với kiểm toán các nghiệp vụ (hoạt động).

Chức năng xác minh được thực hiện bởi hệ thống ngoại kiểm hay nội kiểm. Sản

phẩm của hoạt động xác minh này là những biên bản (biên bản kiểm tra, biên bản quản lý

sai phạm, bên bản thanh tra các nghiệp vụ cụ thể, biên bản kiểm kê…)

Hiện nay lĩnh vực này kiểm toán hướng vào việc bày tỏ ý kiến.

- Trong chức năng xác minh của kiểm toán, vấn đề đặt ra sôi động hiện nay là phát

hiện những gian lận và vi phạm trong tài chính. Trong kiểm toán vấn đề này đặt ra như

những “khác biệt kỳ vọng” giữa kiểm toán và quản lý.

Sự khác biệt này mang tính tất yếu do thường xuyên có khoảng cách giữa mong

muốn (phát hiện gian lận và vi phạm) với khả năng thực tế của tổ chức kiểm toán, cũng

như quan hệ giữa chi phí và hiệu quả của kiểm toán.

Hiện nay nhận thức còn có điều chưa thống nhất.

Quan điểm 1: Kiểm toán cần tạo niềm tin cho những người quan tâm, nói chung

không cho phép sai sót trọng yếu trong đó có gian lận và sai sót lớn.

Quan điểm 2: Kiểm toán viên không có nghĩa vụ phát hiện tất cả các gian lận và sai

sót. Thậm chí cũng có quan niệm cho rằng KTV không có trách nhiệm phát hiện gian lận

và sai sót coi đây là trách nhiệm của nhà quản lý.

5

Page 6: Ly thuyet kiem toan

Phương hướng chung là xóa bỏ sự cách biệt trên. Để đạt được mục têu này, người ta

hướng tới việc hoàn thiện các chuẩn mực, và vấn đề quan trọng hơn cả chính là chất lượng

toàn diện của kiểm toán viên (cả đạo đức và chuyên môn).

1.2.2. Chức năng bày tỏ ý kiến.

Được hiểu rộng với ý nghĩa cả kết luận về chất lượng thông tin và cả kết luận về

pháp lý, tư vấn qua xác minh.

Việc kết luận về chất lượng thông tin và kết luận về pháp lý hoặc tư vấn đều được

thể hiện trên “báo cáo kiểm toán” hoặc “Thư quản lý ”.

+ Ở khu vực công cộng (gồm các DNNN công ích và sản xuất kinh doanh, các đơn

vị sự nghiệp, các đơn vị và cá nhân thụ hưởng Ngân sách) đều đặt dưới sự kiểm toán của

Kiểm toán Nhà nước thì chức năng bày tỏ ý kiến được thực hiện qua “báo cáo kiểm

toán”.

+ Ở khu vực kinh doanh, các dự án ngoài ngân sách nhà nước thì chức năng bày tỏ ý

kiến còn được thể hiện qua phương thức tư vấn và sản phẩm của nó là “Thư quản lý”.

1.3 Phân loại kiểm toán1.3.1. Phân loại kiểm toán theo chức năng.

Kiểm toán được phân biệt thành:

Kiểm toán hoạt động

Kiểm toán tuân thủ

Kiểm toán báo cáo tài chính

* Kiểm toán hoạt động:

Là kiểm toán để xem xét và đánh giá tính hiệu lực và tính hiệu quả trong hoạt động

của một đơn vị.

- Tính hiệu lực: Là khả năng hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu của đơn vị.

- Tính hiệu quả: Là việc đạt được hiệu quả cao nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất.

Đối tượng của Kiểm toán này rất phong phú và đa dạng từ việc đánh giá toàn bộ

hoạt động của một đơn vị, một phương án kinh doanh, một quy trình công nghệ, một tài

sản, một thiết bị, mọt công trình xây dựng cơ bản đưa vào sử dụng … đến vệc tổ chức

luân chuyển chứng từ trong một đơn vị.

- Kiểm toán này phả sử dụng nhiều kỹ năng khác nhau: Kế toán, tài chính, kinh tế,

cơ khí, xây dựng, khoa học kỹ thuật…

- Kết thúc kiểm toán là một báo cáo giải trình, có nhận xét, phân tích, đánh giá gửi

cho các đơn vị có liên quan.

6

Page 7: Ly thuyet kiem toan

* Kiểm toán tuân thủ:

Là loại kiểm toán để xem xét bên được kiểm toán có tuân thủ các thủ tục, các

nguyên tắc, quy chế mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc cơ quan chức năng nhà

nước đã đề ra hay không.

* Kiểm toán báo cáo tài chính

Là việc kiểm tra và xác nhận tính trung thực và tính hợp lý của báo cáo tài chính (do

các đơn vị kế toán lập ra) cũng như xem xét các báo cáo tài chính có phù hợp với các

nguyên tắc, chuẩn mực kế toán và các yêu cầu của pháp luật hay không?

Các báo cáo tài chính thường được kiểm toán nhiều nhất là bảng cân đối kế toán;

báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh; báo cáo lưu chuyển tiền tệ kể cả bản ghi

chú, bảng thuyết minh báo cáo tài chính.

Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển do tính phổ biến của Kiểm toán báo

cáo tài chính và do chủ thể Kiểm toán báo cáo tài chính thường là các Kiểm toán viên độc

lập ở các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp thực hiện kiểm toán để phục vụ cho các nhà

quản lý, chính phủ, các ngân hàng, các nhà đầu tư nên đã có sự đồng nhất giữa “Kiểm

toán” với “Kiểm toán báo cáo tài chính”.

Đây là loại Kiểm toán phổ biến sẽ được đề cập trong nội dung của môn học này.

1.3.2. Phân loại kiểm toán theo chủ thể kiếm toán

Được chia thành: Kiểm toán nội bộ

Kiểm toán nhà nước

Kiểm toán độc lập

*Kiểm toán nội bộ

Là việc kiểm toán do doanh nghiệp tự tổ chức và thực hiện do Kiểm toán viên nội

bộ của đơn vị tiến hành.

Phạm vi của Kiểm toán nội bộ xoay quanh một số lĩnh vực sau:

- Trước hết là kiểm tra việc hạch toán, lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp đã

đúng, trung thực chưa.

- Kiểm tra và đánh giá tính thích hợp và tính hiệu quả của hệ thống kế toán và các

quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan, giám sát, hoạt động của hệ thống này và tham gia

hoàn thiện chúng.

- Kiểm tra các thông tin tác nghiệp và thông tin tài chính, bao gồm việc soát xét lại

các phương tiện đã sử dụng để xác định, để tính toán, để phân loại và báo cáo những

thông tin này. Thẩm định cụ thể các khoản mục cá biệt (Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ,

các số liệu tài khoản…)

7

Page 8: Ly thuyet kiem toan

- Kiểm tra tính hiệu lực, tính kinh tế và hiệu quả của các hoạt động trong đơn vị.

Như vậy, lĩnh vực chủ yếu của kiểm toán nội bộ là kiểm toán hoạt động để đánh giá

tính kinh tế, tính hiệu lực, tính hiệu quả của các hoạt động trong đơn vị. Bên cạnh đó,

Kiểm toán nội bộ cũng tiến hành kiểm tra, tuân thủ để xem xét việc chấp hành các quy

chế, chính sách trong một đơn vị .

Kiểm toán nội bộ ra đời ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển như

(1941), pháp (1960) trước hết trong các đơn vị, các tổ chức thị trường chứng khoán, ngân

hàng và các công ty đa quốc gia.

- Hoạt động kinh tế nội bộ phát triển nhanh chóng ở Châu Âu năm 1960.

- Đào tạo và huấn luyện KTV nội ở các nước: ở Châu Âu không có bất kỳ một yêu

cầu nào về tuyển dụng kiểm toán viên nội bộ, Ban giám đốc có toàn quyền đánh giá phẩm

chất của các thí sinh dự tuyển trên cơ sở trình độ chuyên môn và phẩm chất cá nhân của

họ.

- Ở một số nước Châu Á: Hoạt động kiểm toán nội bộ ra đời muộn hơn nhiều so với

Mỹ và Châu Âu nhưng phát trển khá nhanh vào cuối những năm 80 đầu năm 90. Một số

theo mô hình của Mỹ như (Singapo, Thái Lan).

- Ở Việt Nam QĐ832-TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 của BTC ban hành quy chế

kiểm toán nội bộ trong các DNNN.

Về mặt tổ chức, bộ phận Kiểm toán nội bộ thường trực thuộc Giám đốc và báo cáo

trực tiếp giám đốc. Ở những tổng công ty lớn, kiểm toán nộ bộ còn trực thuộc Hội đồng

quản trị để đảm bảo hoạt động được hữu hiệu.

Tuy được tổ chức độc lập với các tổ chức, bộ phận được kiểm tra nhưng kiểm toán

nội bộ là một bộ phận của đơn vị nên không thể độc lập hoàn toàn với đơn vị được. Báo

cáo của Kiểm toán nội bộ được người đứng đầu doanh nghiệp rất tin tưởng nhưng ít có

giá trị pháp lý, chỉ có giá trị trong nội bộ doanh nghiệp. Việc tổ chức đơn vị kiểm toán nội

bộ hay không là do người đứng đầu doanh nghiệp quyết định. Nhà nước khuyến khích các

doanh nghiệp lớn, địa bàn rộng, nhiều loại hình kinh doanh nên tổ chức kiểm toán nội bộ

để tự xử lý các tồn tại về tài chính.

* Kiểm toán Nhà nước:

Là công việc kiểm toán do các cơ quan chức năng của Nhà nước (tài chính, thuế…)

và cơ quan kiểm toán nhà nước chuyên trách tiến hành. Hệ thống kiểm toán nhà nước do

nhà nước thành lập, quản lý, là một công cụ quan trọng nhằm tăng cường chức năng kiểm

tra giám sát việc chi tiêu, sử dụng tài nguyên, công sản quốc gia.

8

Page 9: Ly thuyet kiem toan

- Kiểm toán nhà nước thường tiến hành các cuộc kiểm toán tuân thủ xem xét việc

chấp hành các chính sách, luật lệ và các chế độ của nhà nước tại các đơn vị có sử dụng

kinh phí nhà nước.

- Ngoài ra kiểm toán nhà nước còn kiểm toán hoạt động để đánh giá tính hiệu lực,

hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan đơn vị kiểm toán.

Ở Việt Nam, đây là một tổ chức kiểm toán thuộc Chính phủ làm nhiệm vụ kiểm tra,

xác nhận tính đúng, hợp pháp của tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo tài chính của các cơ

quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước, các đoàn thể xã hội

có sử dụng kinh phí nhà nước.

Đặc điểm hoạt động:

- Kiểm toán theo luật định, theo kế hoạch. Kế hoạch kiểm toán hàng năm do Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt. Có thể kiểm toán đột xuất do Tổng kiểm toán đệ trình Thủ

tương Chính Phủ.

- Kiểm toán theo mệnh lệnh, các đối tượng bị kiểm toán không được quyền từ chối.

- Kiểm toán nhà nước được quyền đề nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử

lý các tổ chức và cá nhân vi phạm các chính sách kinh tế, tài chính được phát hiện qua

kiểm toán.

* Kiểm toán độc lập:

Là hoạt động của kiểm toán viên chuyên nghiệp độc lập hành nghề trong các Công

ty kiểm toán, làm nhiệm vụ kiểm toán và xác nhận sự trung thực, hợp lý của các tài liệu,

số liệu kế toán và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, cơ quan, các tổ chức kinh tế, xã

hội có yêu cầu. Qua đó tạo ra sự tin tưởng của người sử dụng các thông tin tài chính đã

được kiểm toán cũng như giúp các doanh nghiệp, cơ quan sự nghiệp phát hiện các sai sót

rủi ro và đề xuất các biện pháp giải quyết nhằm nâng cao hiệu qua kinh doanh của doanh

nghiệp, hiệu lực, hiệu quả quản lý của đơn vị.

Kiểm toán viên độc lập phải là người có năng lực chuyên môn và đạo đức hành

nghề được nhà nước thừa nhận bằng việc cấp chứng chỉ kiểm toán viên sau khi kỳ thi đạt

kỳ thi quốc gia kiểm toán viên.

Công ty kiểm toán là doanh nghiệp dược thành lập và hoạt động theo luật “Luật

doanh nghiệp Nhà nước” hoặc Luật doanh nghiệp hoặc Luật đầu tư nước ngoài ở Việt

Nam.

Các công ty kiểm toán là một doanh nghiệp dịch vụ theo nguyên tắc tự trang trải chi

phí (được thu phí kiểm toán và hạch toán kinh doanh như một doanh nghiệp).

* Đối tượng kiểm toán: Ở Việt Nam tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần

kinh tế, mọi tổ chức và cá nhân có nhu cầu kiểm toán đều có thể là đối tượng của kiểm

9

Page 10: Ly thuyet kiem toan

toán độc lập, trong đó đối tượng bắt buộc phải kiểm toán là các doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài, các ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường

chứng khoán.

* Đặc điểm hoạt động: Theo cơ chế dịch vụ dựa vào cơ chế tài chính, kế toán.

Những kiểm toán viên là những người làm thuê đặc biệt được quyền phê bình ông

chủ.

1.4 Đối tượng kiểm toán* Đối tượng kiểm toán: là thực trạng tài chính cùng hiệu quả, hiệu năng của

các nghiệp vụ hay dự án cụ thể.

Cả thực trạng tài chính cũng như hiệu năng, hiệu quả phải được thể hiện trong

một đơn vị cụ thể (DN, đơn vị sự nghiệp, cơ quan kinh tế và hành chính) hoặc một

dự án, một công trình cụ thể. Trong quan hệ chủ sở hữu, các đơn vị đó thuộc sở

hữu nhà nước, sở hữu tư nhân hoặc hỗn hợp. Trong phạm vi một quốc gia, các đơn

vị này có thể hình thành từ nguồn đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài hoặc liên

doanh giữa trong và ngoài nước ...tổng hợp các tiêu thức trên có thể phân chia các

đơn vị thành các khách thể kiểm toán trong quan hệ với chủ thể kiểm toán.

* Khách thể của kiểm toán:

-Khách thể của kiểm toán nhà nước: bao gồm tất cả các đơn vị, cá nhân có

sử dụng Ngân sách nhà nước như:

+Các dự án, công trình do Ngân sách nhà nước đầu tư.

+Các DNNN: 100% vốn NSNN

+Các xí nghiệp công cộng thuộc sở hữu nhà nước (100% vốn NSNN)

+Các cơ quan kinh tế, quản lý của Nhà nước và các đoàn thể xã hội ...

-Khách thể của kiểm toán độc lập:

+Các doanh nghiệp và xí nghiệp tư (kể cả công ty TNHH)

+Các DN 100% vốn đầu tư nước ngoài

+Các liên doanh giữa các tổ chức trong và ngoài nước

+Các HTX và DNCP

+Các chương trình, dự án có nguồn kinh phí từ bên ngoài NSNN ...

-Khách thể của kiểm toán nội bộ:

+Các bộ phận cấu thành trong đơn vị

+Các hoạt động, các chương trình, các dự án cụ thể trong đơn vị

10

Page 11: Ly thuyet kiem toan

+Các cá nhân trong đơn vị

1.5 Những khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán1.5.1 Gian lận và sai sót với việc xác định nội dung kiểm toán

* Gian lận:Là những hành vi chủ ý lừa dối, sửa đổi, xuyên tạc các thông tin kinh tế

tài chính do một hay nhiều người trong Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, các nhân viên

hoặc bên thứ ba thực hiện nhằm mục đích tham ô, biển thủ, che giấu tài sản, làm ảnh

hưởng đến báo cáo tài chính.

Gian lận biểu hiện dưới các dạng sau:

+ Ghi chép các nghiệp vụ không đúng sự thật.

+ Xử lý chứng từ theo ý muốn chủ quan, sửa đổi, xuyên tạc, làm giả chứng từ liên

quan đến báo cáo tài chính làm sai lệch báo cáo tài chính.

+ Che giấu, cố ý bỏ sót các thông tin, tài liệu nghiệp vụ kinh tế làm sai lệch báo cáo

tài chính.

+ Cố ý áp dụng sai các chuẩn mực, nguyên tắc, phương pháp và chế độ kế toán,

chính sách tài chính.

+ Biển thủ tài sản.

+ Cố ý tính toán sai về số học.

* Sai sót: Là những nhầm lẫn và sai sót không cố ý có ảnh hưởng tới số liệu kế toán,

báo cáo tài chính như:

- Lỗi về tính toán số học hay ghi chép sai.

- Bỏ sót hay ghi trùng nghiệp vụ kinh tế.

- Áp dụng sai các nguyên tắc, phương pháp và chế độ kiểm toán.

- Hiểu sai, làm sai các khoản mục, các nghiệp vụ kinh tế dẫn đến định khoản vào các

tài khoản sai không cố ý.

* Những nhân tố ảnh hưởng đến mực độ gian lận và sai sót:

- Giám đốc hoặc người đứng đầu đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc ngăn

ngừa, phát hiện và xử lý các gian lận và sai sót trong đơn vị thông qua việc xây dựng và

duy trì thực hiện thường xuyên hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ thích hợp.

(M06/240)

- Do hạn chế vốn có của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ nên khó có

thể loại trừ hoàn toàn khả năng xảy ra gian lận và sai sót.

- Ngoài các hạn chế trong thiết kế và thực hiện hệ thống kế toán, hệ thống kiểm toán

nội bộ còn có những tình huống hoặc sự kiện làm tăng rủi ro do gian lận và sai sót gồm:

+ Những vấn đề liên quan đến tính chính trực hoặc năng lực của Ban Giám đốc.

11

Page 12: Ly thuyet kiem toan

+ Các sức ép bất thường đối với đơn vị.

+ Các nghiệp vụ và sự kiện không bình thường.

+Những khó khăn liên quan đến thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp.

+ Những nhân tố từ môi trường tin học liên quan đến các tình huống và sự kiện trên.

Ví dụ về những tình huống mà các sự kiện này được nêu ở phụ lục số 01-CMKT số

240.

Những vấn đề liên quan đến tính chính trực hoặc năng lực của Ban giám đốc.

Các ví dụ thuộc lĩnh vực này gồm:

- Công tác quản lý bị một hay một nhóm người độc quyền nắm giữ, thiếu sự giám

sát có hiệu lực của Ban giám đốc hoặc Hội đồng Quản trị.

- Cơ cấu tổ chức của đơn vị Kiểm toán phức tạp và có những rắc rối không cần thiết.

- Có sự bất lực trong sửa chữa những yếu kém của hệ thống kế toán và hệ thống

Kiểm toán nội trong trong khi những yếu kém này hoàn toàn có thể sửa chữa được.

- Thay đổi thường xuyên Kế toán trưởng hoặc người có trách nhiệm của bộ phận kế

toán tài chính.

- Thiếu nhiều nhân viên kế toán trong một thời gian dài.

- Bố trí người làm kế toán không đúng chuyên môn hoặc người bị pháp luật nghiêm

cấm.

- Có sự thay đổi thường xuyên chuyên gia tư vấn pháp luật hoặc Kiểm toán viên.

- Cán bộ quản lý, cán bộ tài chính kế toán có thu nhập cao.

Các sức ép bất thường trong đơn vị hoặc từ bên ngoài:

- Ngành nghề kinh doanh gặp khó khăn, số đơn vị phá sản ngày càng tăng.

- Thiếu vốn kinh doanh do lỗ hoặc do mở rộng quy mô doanh nghiệp quá nhanh.

- Mức thu nhập giảm sút.

- Doanh nghiệp cố ý hạch toán tăng lợi nhuận nhằm khuyếch trương hoạt động.

- Đầu tư quá nhanh vào ngành nghề mới hoặc loại sản phẩm mới làm mất cân đối tài

chính.

- Doanh nghiệp bị lệ thuộc quá nhiều vào một số sản phẩm, một số khách hàng.

- Sức ép về tài chính từ những nhà đầu tư hoặc các cấp quản lý đơn vị.

- Sức ép đối với nhân viên kế toán phải hoàn tất báo cáo tài chính trong một thời

gian quá ngắn.

Các nghiệp vụ và sự kiện bất thường:

- Các nghiệp vụ đột xuất, đặc biệt xảy ra vào cuối niên độ kế toán có tác động đến

doanh thu, chi phí và kết quả.

- Các nghiệp vụ hoặc phương pháp xử lý kế toán phức tạp.

12

Page 13: Ly thuyet kiem toan

- Các nghiệp vụ đối với các bên hữu quan (các bên được coi là hữu quan nếu một có

khả năng điều hành kiểm soát bên kia hoặc có ảnh hưởng nhiều đến bên kia trong quá

trình quyết định điều hành hoặc quyết định về tài chính).

- Chi trả cho các dịch vụ quá cao so với những dịch vụ được cung cấp. (Ví dụ: phí

luật sư, tư vấn, đại lý, quảng cáo…)

Các vấn đề liên quan đến thu nhập bằng chứng kiếm toán.

- Tài liệu kế toán không đầy đủ hoặc không được cung cấp kịp thời. Ví dụ không

thu thập đủ chứng từ, phát sinh chênh lệch lớn giữa sổ và báo cáo, những nghiệp vụ ghi

chép sai hoặc để ngoài sổ sách kế toán.

- Lưu trữ tài liệu không đầy đủ về các sự kiện và các nghiệp vụ kinh tế. Ví dụ:

chứng từ không được phê duyệt, thiếu những tài liệu hỗ trợ cho những nghiệp vụ lớn và

bất thường.

- Có chênh lệch lớn giữa sổ kế toán của đơn vị với xác nhận của bên thứ ba, mâu

thuẫn giữa những bằng chứng Kiểm toán không giải thích được sự thay đổi của các chỉ số

hoạt động.

- Ban Giám đốc từ chối cung cấp giải trình hoặc giải trình không thoả mãn yêu cầu

của kiểm toán viên.

Nhân tố từ môi trường tin học:

- Không lấy được thông tin từ máy tính.

- Có thay đổi trong chương trình máy tính nhưng không lưu tài liệu, không được phê

duyệt và không được kiểm tra.

- Thông tin tài liệu in từ máy vi tính không phù hợp với báo cáo tài chính.

- Các thông tin inh ra từ máy vi tính mỗi lần một khác nhau.

1.5.2 Trọng yếu và rủi ro với việc lựa chọn nội dung kiểm toán cụ thể

*Trọng yếu:(Theo CMKT số 320): Trọng yếu là một thuật ngữ dùng để thể hiện

tầm quan trọng của một thông tin hoặc của một số liệu kế toán trong báo cáo tài chính.

Thông tin dược coi là trọng yếu có nghĩa là thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác

của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính.

Mức trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay tâm cỡ và bản

chất của các sai sót trong các thông tin tài chính được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể,

nếu dựa vào các thông tin sai sót này để xét đoán thì sẽ không chính xác hoặc sẽ rút ra

những kết luận sai lầm.

13

Page 14: Ly thuyet kiem toan

Mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung trong

thông tin cần phải có. Tính trọng yếu của thông tin phải xem xét trên cả phương diện định

lượng và định tính.

*Rủi ro: (Quy định tại CM 400- Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ).

- Rủi ro kiểm toán được hiểu là những rủi ro mà Kiểm toán viên và Công ty Kiểm

toán có thể mắc phải khi đưa ra những ý kiến nhận xét không thích hợp về tính hợp lý

trung thực về báo cáo tài chính của đơn vị.

Chẳng hạn: KTV có thể đưa ra ý kiến nhận xét hoàn hảo về một báo cáo tài chính,

rằng báo cáo tài chính là trung thực, là hợp lý trong khi báo cáo tài chính này có những

sai sót nghiêm trọng.

- RRKT bao gồm 3 bộ phận rủi ro.

Rủi ro tiềm tàng

Là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng của từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong

báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có

hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ.

Rủi ro kiểm soát.

Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo

cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát

nội bộ của doanh nghiệp không phát hiện ra được và không ngăn chặn dược những gian

lận và sai sót, không sửa chữa kịp thời.

Rủi ro phát hiện:

Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo

cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, Kiểm toán viên

đã không phát hiện được những gian lận và sai sót nghiêm trọng hiện có trong số dư tài

khoản hoặc các loại nghiệp vụ (Điểm 06-CM 400) (Thể hiện sự yếu kém của Kiểm toán

viên).

*Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro.

Là quan hệ tỷ lệ nghịch: Nếu mức trọng yếu được chấp nhận cao, rủi ro trong Kiểm

toán thấp và ngược lại.

Phân tích: Vì khi giá trị sai sót có thể bỏ qua tăng lên thì khả năng xảy ra sai sót có

thể giảm xuống. Ngược lại, giảm mức trọng yếu có thể chấp nhận được, rủi ro trong Kiểm

toán có thể tăng lên.

Mối quan hệ này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nội dung, phạm vi và

thời gian của các thủ tục Kiểm toán. Chẳng hạn, khi lập xong chương trình kiểm toán chi

tiết, Kiểm toán viên phát hiện ra rằng mức trọng yếu phải thấp hơn, do đó rủi ro kiểm toán

14

Page 15: Ly thuyet kiem toan

sẽ tăng lên. Để bù lại, kiểm toán viên phải tăng cường phạm vi kiểm toán và lựa chọn các

phương pháp kiểm toán hữu hiệu hơn để có thể giảm rủi ro phát hiện xuống mức có thể

chấp nhận được.

CMKT 320 (Điểm 10) ghi rõ: “Khi lập kế hoạch kiểm toán, Kiểm toán viên phải

xem xét đến các nhân tố có thể làm phát sinh những sai sót trọng yếu trong báo cáo tài

chính. Đánh giá của Kiểm toán viên về mức trọng yếu liên quan đến số dư các tài khoản

và các loại giao dịch chủ yếu sẽ giúp kiểm toán viên xác định được những khoản mục cần

được kiểm tra và quyết định nên áp dụng thủ tục chọn mẫu hau thủ tục phân tích”. Việc

đánh giá mức trọng yếu liên quan đến số dư tài khoản và các loại giao dịch chủ yếu sẽ

giúp kiểm toán viên lựa chọn dược những thủ tục kiểm toán thích hợp và việc kết hợp các

thủ tục kiểm toán thích hợp đó với nhau sẽ làm giảm rủi ro kiểm toán tới mức độ có thể

chấp nhận được.

1.5.3 Chứng từ kiểm toán, cơ sở dẫn liệu, bằng chứng kiểm toán và hồ sơ

kiểm toán

*Chứng từ kiểm toán:Chứng từ kiểm toán là nguồn tư liệu sẵn có, cung cấp

cho kiểm toán viên. Cụ thể, chứng từ kiểm toán bao gồm:

(1)Các tài liệu kế toán:

-Chứng từ kế toán

-Các bảng kê, bảng tổng hợp chứng từ gốc

-Các sổ tổng hợp và chi tiết kế toán

-Các bảng cân đối-tổng hợp kế toán

(2)Các tài liệu khác:

-Tài liệu hạch toán ban đầu

-Các biên bản xử lý vi phạm hợp đồng, vi phạm khác

-Các đơn từ khiếu tố ...

*Cơ sở dẫn liệu với việc xác định mục tiêu kiểm toán: (CMKT VN số 500)

Cơ sở dẫn liệu là căn cứ của các khoản mục và thông tin trình bày trong

BCTC do Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị chịu trách nhiệm lập trên cơ sở

các chuẩn mực và chế độ kế toán quy định phải được thể hiện rõ ràng hoặc có cơ sở

đối với tổng chỉ tiêu trong BCTC

*Bằng chứng kiểm toán: (CMKT VN số 500)

Bằng chứng Kiểm toán là tất cả các tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu thập được

liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các thông tin này kiểm toán viên hình thành nên ý

15

Page 16: Ly thuyet kiem toan

kiến của mình. Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải thu thập đầy đủ các bằng chứng

kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến của mình về BCTC của đơn vị được kiểm

toán.

-Bằng chứng kiểm toán phải đảm bảo hai yêu cầu cơ bản: đầy đủ và thích hợp

Yêu cầu về tính đầy đủ: số lượng bằng chứng cần thu thập phải đủ để đưa ra kết luận

kiểm toán. Yêu cầu đầy đủ không đặt ra một số lượng cụ thể mà đòi hỏi sự xét đoán nghề

nghiệp của kiểm toán viên trong mối quan hệ với các nhân tố quyết định số lượng bằng

chứng kiểm toán (tính trọng yếu của đối tượng kiểm toán cụ thể, mức độ rủi ro của đối

tượng kiểm toán, tính thuyết phục của bằng chứng kiểm toán, tính kinh tế)

Yêu cầu về tính thích hợp: chất lượng hay độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán. Đối

với bằng chứng thích hợp thì nó phải đáng tin cậy và có liên quan tới mục tiêu kiểm toán.

1.6 Phương pháp kiểm toánHệ thống phương pháp kiểm toán bao gồm hai phân hệ:

1.6.1 Phân hệ phương pháp kiểm toán chứng từ:

-Kiểm toán các cân đối kế toán: phương pháp dựa trên các cân đối kế toán và

các cân đối khác để kiểm toán các quan hệ nội tại của các yếu tố cấu thành quan hệ

cân đối đó.

VD: Với Bảng CĐKT: TS=Vcsh+Nợ phải trả

-Đối chiếu trực tiếp: là đối chiếu 1 chỉ tiêu trên các nguồn tài liệu khác nhau

VD: Đối chiếu giữa số cuối kỳ với số đầu năm hoặc giữa các kỳ trong Bảng

CĐKT để nghiên cứu động thái của các mặt hoạt động tương ứng với chỉ tiêu đó

(đối chiếu ngang) hoặc giữa các bộ phận tổng thể để xem xét cơ cấu, phân bổ từng

quần thể (đối chiếu dọc)

-Đối chiếu logic: là việc nghiên cứu các mối liên hệ giữa các chỉ tiêu có quan

hệ với nhau.

VD: Vốn bằng tiền giảm có thể dẫn đến hàng hóa vật tư tăng hoặc các khoản

phải trả giảm ...

1.6.1 Phân hệ phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ:

-Kiểm kê: là việc kiểm tra tại chỗ các loại tài sản

-Điều tra: là dùng các cách khác nhau để tiếp cận và đánh giá đối tượng kiểm

toán

VD: Gửi thư xác nhận số dư các khoản phải thu, phải trả của các bên liên quan

16

Page 17: Ly thuyet kiem toan

-Thực nghiệm: là việc tái diễn các hoạt động, hoạt động để xác minh lại kết

quả của một quá trình, một sự việc đã qua

17

Page 18: Ly thuyet kiem toan

18