51
Teaching and Learning for a Sustainable Future © UNESCO 2010 MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU GIỚI THIỆU Tôi thực sự cảm thấy rằng giới trẻ cần phải có cơ hội để tìm hiểu về “biến đổi khí hậu” càng sớm càng tốt. Điều này sẽ giúp các em không chỉ đương đầu với những thử thách hiện tại của chúng ta mà còn đối với các vấn đề dài hạn hơn. Ví dụ, những cơ hội đó sẽ giúp các các em trong việc lựa chọn nghề nghiệp, bới vì một số ngành nghề sẽ mở rộng hơn nữa trong khi đó một số khác sẽ thu hẹp lại. Những cơ hội đó còn hỗ trợ thanh niên đưa ra những lựa chọn tiêu dùng đúng đắn hơn. Bởi vì một khi các em nhận thức rõ hơn về biến đổi khí hậu, mỗi cá nhân trong số các em sẽ có thái độ mới về thế nào là hợp lí và có đạo đức. Giới trẻ có thể sẽ lớn lên trong một thế giới mà mối quan hệ giữa các quốc gia có nhiều chuyển biến. Điều này có khả năng sẽ xảy ra một phần nào đó, bởi vì những khu rừng nhiệt đới có khả năng hấp thụ một lượng lớn cácbon phát thải trong không khí, bởi vậy những người nông dân nghèo khổ nhất trên hành tinh có thể sẽ trở thành những đối tác quan trọng của các nước giàu trong những nỗ lực bình ổn khí hậu của họ. Đây là một trong những cơ hội lí thú nhất và rất phù hợp dành cho những bạn trẻ quan tâm đến các giải pháp công nghệ mới trong sản xuất điện, trong giao thông vận tải không phát thải khí nhà kính. Trong những thập kỉ sắp tới, những công cụ hữu ích giúp chúng ta ổn định khí hậu này sẽ được phát triển và tung ra thị trường bởi chính những em học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường hôm nay. Và những nhà kinh tế trong tương lai sẽ phải đối mặt với các vấn đề mới khác. Một thị trường và hệ thống thương mại toàn cầu hoàn toàn mới sẽ được thiết lập và có những ảnh hưởng lớn đến nhiều khía cạnh cuộc sống của chúng ta. Vì tất cả những lí do đó, tôi tin tưởng rằng việc tìm hiểu về biến đổi khí hậu có liên quan mật thiết tới rất nhiều những môn học mà học sinh đang học, và cùng với việc các em nâng cao nhận thức của mình về vấn đề này, các em một lần nữa sẽ nhận ra được sự đúng đắn và cần thiết của những môn học mà các em đang học. Thực vậy, tôi tin rằng một khi các em hiểu hơn về biến đổi khí hậu, các em sẽ bắt đầu nhìn thế giới theo một cách khác, mới hơn tất cả những cách mà hầu hết những người trong thế hệ chúng ta bây giờ. Điều này dường như là một tuyên bố lớn lao, nhưng cùng với việc chúng ta hành động để ứng phó với biến đổi khí hậu, thì cũng gần giống như một cuộc cách mạng, sẽ có rất nhiều khía cạnh của thế giới cũng sẽ thay đổi theo. (Nguồn: Phỏng theo Flannery, T.(2007) Lời nói đầu, Suy ngẫm về biến đổi khí hậu: Sách hướng dẫn cho giáo viên và sinh viên) Biến đổi khí hậu là một vấn đề quan trọng, là trọng tâm không chỉ đối với các chính trị gia mà còn với cả những nhà sư phạm nữa. Mô -

MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Teaching and Learning for a Sustainable Future© UNESCO 2010

MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

GIỚI THIỆU

Tôi thực sự cảm thấy rằng giới trẻ cần phải có cơ hội để tìm hiểu về “biến đổi khí hậu” càng sớm càng tốt. Điều này sẽ giúp các em không chỉ đương đầu với những thử thách hiện tại của chúng ta mà còn đối với các vấn đề dài hạn hơn. Ví dụ, những cơ hội đó sẽ giúp các các em trong việc lựa chọn nghề nghiệp, bới vì một số ngành nghề sẽ mở rộng hơn nữa trong khi đó một số khác sẽ thu hẹp lại. Những cơ hội đó còn hỗ trợ thanh niên đưa ra những lựa chọn tiêu dùng đúng đắn hơn. Bởi vì một khi các em nhận thức rõ hơn về biến đổi khí hậu, mỗi cá nhân trong số các em sẽ có thái độ mới về thế nào là hợp lí và có đạo đức. Giới trẻ có thể sẽ lớn lên trong một thế giới mà mối quan hệ giữa các quốc gia có nhiều chuyển biến. Điều này có khả năng sẽ xảy ra một phần nào đó, bởi vì những khu rừng nhiệt đới có khả năng hấp thụ một lượng lớn cácbon phát thải trong không khí, bởi vậy những người nông dân nghèo khổ nhất trên hành tinh có thể sẽ trở thành những đối tác quan trọng của các nước giàu trong những nỗ lực bình ổn khí hậu của họ.

Đây là một trong những cơ hội lí thú nhất và rất phù hợp dành cho những bạn trẻ quan tâm đến các giải pháp công nghệ mới trong sản xuất điện, trong giao thông vận tải không phát thải khí nhà kính. Trong những thập kỉ sắp tới, những công cụ hữu ích giúp chúng ta ổn định khí hậu này sẽ được phát triển và tung ra thị trường bởi chính những em học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường hôm nay. Và những nhà kinh tế trong tương lai sẽ phải đối mặt với các vấn đề mới khác. Một thị trường và hệ thống thương mại toàn cầu hoàn toàn mới sẽ được thiết lập và có những ảnh hưởng lớn đến nhiều khía cạnh cuộc sống của chúng ta.

Vì tất cả những lí do đó, tôi tin tưởng rằng việc tìm hiểu về biến đổi khí hậu có liên quan mật thiết tới rất nhiều những môn học mà học sinh đang học, và cùng với việc các em nâng cao nhận thức của mình về vấn đề này, các em một lần nữa sẽ nhận ra được sự đúng đắn và cần thiết của những môn học mà các em đang học. Thực vậy, tôi tin rằng một khi các em hiểu hơn về biến đổi khí hậu, các em sẽ bắt đầu nhìn thế giới theo một cách khác, mới hơn tất cả những cách mà hầu hết những người trong thế hệ chúng ta bây giờ. Điều này dường như là một tuyên bố lớn lao, nhưng cùng với việc chúng ta hành động để ứng phó với biến đổi khí hậu, thì cũng gần giống như một cuộc cách mạng, sẽ có rất nhiều khía cạnh của thế giới cũng sẽ thay đổi theo.

(Nguồn: Phỏng theo Flannery, T.(2007) Lời nói đầu, Suy ngẫm về biến đổi khí hậu: Sách hướng dẫn cho giáo viên và sinh viên)

Biến đổi khí hậu là một vấn đề quan trọng, là trọng tâm không chỉ đối với các chính trị gia mà còn với cả những nhà sư phạm nữa. Mô - đun này cung cấp những nguồn thông tin cần thiết cho giáo viên nhằm giúp giáo viên tự tin vào kiến thức của mình về khoa học biến đổi khí hậu và những tác động của cuộc khủng hoảng khí hậu, để từ đó họ có thể thiết kế những bài học thích hợp và thú vị cho học sinh, sinh viên.

MỤC ĐÍCH

Hiểu những khái niệm cơ bản, những vấn đề và xu thế liên quan đến khoa học biến

Page 2: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

đổi khí hậu;

Hiểu về bản chất có tính bổ sung lẫn nhau giữa giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu, và các những chiến lược chủ đạo được sử dụng liên quan đến từng lĩnh vực;

Đánh giá đúng các khía cạnh đạo đức liên quan đến các quá trình của biến đổi khí hậu và những tác động của nó; và

Xác định ý nghĩa giáo dục của việc giảng dạy về biến đổi khí hậu.

CÁC HOẠT ĐỘNG

1. Tìm hiểu về thực trạng của chủ đề nóng nhất trên thế giới

2. Các câu hỏi thường gặp về biến đổi khí hậu

3. Tác động của biến đổi khí hậu

4. Biến đổi khí hậu - một vấn đề đạo đức

5. Ứng phó với thách thức của biến đổi khí hậu

6. Hành động

7. Hoạt động tổng kết

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Baer, H. and Singer, M. (2009) Global Warming and the Political Ecology of Health, Left Coast Press, Walnut Creek, California.

Doucet, C. (2007) Urban Meltdown: Cities, Climate Change and Politics as Usual, New Society Publishers, Gabriola Island BC.

Dow, K. and Downing, T. (2006) The Atlas of Climate Change: Mapping the World’s Greatest Challenge, University of California Press, Berkeley.

Dressler, A. (2006) The Science and Politics of Global Climate Change: A Guide to the Debate, Cambridge University Press, Cambridge.

Flannery, T. (2005) The Weather Makers: How Man is Changing the Climate and What It Means for Life on Earth, Atlantic Monthly Press NY.

Gore, A. (2006) An Inconvenient Truth: The Planetary Emergency of Global Warming and What We Can Do About It, Rodale Press, Emmaus PA.

Hamilton, C. (2010) Requiem for a Species: Why We Resist the Truth About Climate Change, Earthscan, London.

Hansen, J. (2010) Storms of My Grandchildren: The Truth about the Coming Climate Catastrophe and Our Last Chance to Save Humanity, Bloomsbury, New York.

451

Page 3: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Henson, R. (2008) The Gough Guide to Climate Change: The Symptoms, The Science, The Solutions, Rough Guides, London.

Holper, P. and Torok, S. (2008) Climate Change: What You Can do about It at Work, at Home, at School, Pan Macmillan, Sydney.

Hulme, M. (2009) Why We Disagree About Climate Change: Understanding Controversy, Inaction and Opportunity, Cambridge University Press, Cambridge.

Hopkins, R. (2008) The Transition Handbook: From Oil Dependency to Local Resilience, Green Books, Totnes, Devon.

Johansen, B. (2006) Global Warming in the Twenty-First Century, Praeger Publishers, Westport CT.

Kirby, A. (2008) Climate in Peril: A Popular Guide to the Latest IPCC Reports, GRID-Arendal and SMI Books, Arendal.

Lovelock, J. (2006) The Revenge of Gaia: Earth’s Climate in Crisis and the Fate of Humanity, Basic Books, New York.

Monbiot, G. (2006) Heat: How to Stop the Planet Burning, Allen Lane, London.

Moser, S. and Dilling, L. (eds) (2007) Creating a Climate for Change: Communicating Climate Change and Facilitating Social Change, Cambridge University Press, Cambridge.

Pearce, F. (2007) With Speed and Violence: Why Scientists Fear Tipping Points in Climate Change, Beacon Press, Boston.

Stern, N. (2006) The Stern Review on the Economics of Climate Change, Cambridge University Press, Cambridge.

UNEP/GRID-Arendal (2008) Climate in Peril

United Nations Development Programme (2007) Fighting Climate Change: Human Solidarity in a Divided World: Human Development Report 2007-2008, Palgrave Macmillan, Basingstoke, UK.

Worldwatch Institute (2009) State of the World 2009: Into a Warming World.

CÁC TRANG MẠNG

Tên các tổ chức quốc tế:

Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC)

Trang web về biến đổi khí hậu của OECD

Chương trình môi trường của Liên Hiệp Quốc – trang web về Biến đổi khí hậu

Quyền trẻ em và biến đổi khí hậu

452

Page 4: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Tình trạng dân số thế giới 2009 – Phụ nữ và biến đổi khí hậu

Các tổ chức nghiên cứu:

Chương trình nghiên cứu khí hậu quốc tế;

Tổ chức khí tượng quốc tế (WMO) - Chương trình môi trường và nghiên cứu khí quyển;

Tổ chức y tế thế giới (WHO) - Chương trình sức khỏe và những sự thay đổi toàn cầu;

Trung tâm nghiên cứu môi trường và khí hậu quốc tế (CICERO);

Chương trình nghiên cứu và phát triển khí nhà kính - IEA ;

Đức – Viện nghiên cứu tác động của khí hậu Potsdam;

Trung tâm Tyndall – Trung tâm nghiên cứu hàng đầu của Vương quốc Anh về biến đổi Khí hậu.

Các tổ chức kinh tế

Phòng thương mại quốc tế (ICC) - Trang môi trường và phát triển bền vững;

Liên hiệp khí hậu toàn cầu;

Hội đồng doanh nhân châu Âu vì tương lai năng lượng bền vững;

EuroACE.

Các tổ chức vận động chính sách môi trường

Mạng lưới hành động vì môi trường (CAN);

Trang chủ của Tổ chức hòa bình xanh quốc tế;

Quỹ bảo vệ thiên nhiên quốc tế (WWF) - chiến dịch biến đổi khí hậu;

Khối liên minh môi trường và sức khỏe (HEAL);

Biến đổi khí hậu: các nguồn tài liệu từ trung tâm giáo dục Oxfam;

Sổ tay Sandwatch – thích ứng với biến đổi khí hậu và giáo dục vì sự phát triển bền vững;

CO2nnect – CO2 trên đường tới trường;

Trò chơi Cácbon.

453

Page 5: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Các tổ chức độc lập:

Trung tâm Pew về biến đổi khí hậu toàn cầu;

Những sự thật xanh;

RealClimate – Trang web bình luận về khoa học khí hậu;

ClimateArk – Cổng thông tin về biến đổi khí hậu và sự ấm lên toàn cầu;

Viện tài nguyên thế giới (World ReNguồn Institute) – Trang về biến đổi khí hậu;

Quỹ David Suzuki - Trang về biến đổi khí hậu;

Chẩn đoán Copenhagen – Báo cáo về khoa học khí hậu.

XÂY DỰNG MÔ - ĐUN

Mô - đun này do John Fien viết cho UNESCO.

Quá trình soạn thảo mô - đun này được tài trợ bởi Japanese Funds-in-Trust.

454

Page 6: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

HOẠT ĐỘNG 1: TÌM HIỂU VỀ THỰC TRẠNG CỦA CHỦ ĐỀ NÓNG NHẤT TRÊN THẾ GIỚI

Hãy mở sổ tay học tập của bạn để bắt đầu hoạt động này.

Một buổi triển lãm gần đây về biến đổi khí hậu tại Công viên hải dương Birch của Viện hải dương học Scripps ở San Diego, Hoa Kì, với tên gọi: “Hãy cảm nhận sức nóng: Thách thức về khí hậu – Thực trạng của chủ đề nóng nhất thế giới”1 nhằm thu hút người tham gia quan tâm đến những vấn đề được triển lãm.

Hoạt động này được thiết kế nhằm cung cấp những thông tin chính xác về khoa học biến đổi khí hậu, dựa trên những hiểu biết hiện tại của các nhà khoa học giỏi nhất trên thế giới.

Hãy xem xét tuyên bố sau đây về biến đổi khí hậu của Viện an ninh và bền vững Nautilus (Nautilus Institute on Security and Sustainability):

“Trái đất đang phải đối mặt với một thảm họa khí hậu gây ra bởi chính con người. Xét về mặt khoa học, không còn nghi ngờ gì nữa rằng các chất thải từ quá trình tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch và các hoạt động khác của con người đang tích tụ trong không khí, tăng bức xạ nhiệt và làm tăng nhiệt độ Trái đất. Hiện vẫn còn một số điều chưa chắc chắn về thời gian xảy ra chính xác và mức độ của sự nóng lên, cũng như những tác động của nó trong tương lai. Nhưng điều này là do cả sự không chắc chắn của chúng ta, bản thân con người trong việc nên ứng phó như thế nào với biến đổi khí hậu, cũng như do sự không chắc chắn của khoa học.

Rất nhiều những tác động do biến đổi khí hậu có thể dự báo được, và một số tác động có nhiều khả năng đã xảy ra và vẫn đang tiếp diễn như: sự tăng nhiệt độ, những thay đổi về lượng mưa, sự biến đổi mùa; sự gia tăng phạm vi tác động của các hiện tượng thời tiết cực đoan như: lũ lụt, bão nhiệt đới; mực nước biển dâng, sự tan băng ở hai cực và sự biến mất dần của các dòng sông băng. Những tác động do những thay đổi này gây ra cho hệ sinh thái và con người có thể kể đến như: quá trình sa mạc hóa, sự biến mất của các khu rừng nhiệt đới và các rạn san hô; sự suy giảm năng suất nông nghiệp; sự tuyệt chủng của một số loài, sự thiếu nước, sư gia tăng thương vong do các thảm họa thiên nhiên, và sự lây lan các căn bệnh nhiệt đới.

Phải chăng mức độ ảnh hưởng của những tác động nói trên chỉ đơn thuần làm trầm trọng thêm sự suy thoái chất lượng môi trường và phúc lợi xã hội mà chúng ta đang phải đối mặt hiện nay, hay còn dẫn đến những thảm họa thật sự kéo theo đó là nạn đói, việc di cư ồ ạt, và cả những cuộc chiến tranh về tài nguyên nữa. Điều này phụ thuộc vào hành động của chúng ta trong những thập kỉ tới đây, và vào cả xác suất xảy ra những thay đổi mà chúng ta chưa lường trước được trong hệ thống khí hậu do sự gia tăng nhiệt độ và lượng phát thải khí nhà kính gây ra.

Nguồn: Nautilus Institute for Security and Sustainability

1 Nguyên văn - ‘Feeling the Heat: The Climate Challenge – Get the facts on the world’s hottest topic’

455

Page 7: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Câu hỏi 1: Các nhà nghiên cứu Viện Nautilus đã rất cố gắng để phân biệt giữa những tuyên bố khoa học chắc chắn hoặc chưa chắc chắn trong báo cáo trên về biến đổi khí hậu. Hãy sử dụng số tay học tập của bạn để nêu ra những tuyên bố mà khoa học chắc chắn trong báo cáo trên.

Hãy kiểm tra độ chính xác của câu trả lời mà bạn đưa ra bằng cách tham khảo danh mục những điều chắc chắn và chưa chắc chắn về biến đổi khí hậu trong báo cáo năm 2007 của Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (Intergovernmental Panel on Climate Change), Cơ quan khoa học về biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc.

GIẢNG DẠY VỀ NHỮNG ĐIỀU CHẮC CHẮN VÀ CHƯA CHẮC CHẮN

Một mối băn khoăn của rất nhiều giáo viên về vấn đề biến đổi khí hậu là sự thiếu tự tin – thiếu tự tin cả về những kiến thức mà họ cần có để thiết kế một bài học phù hợp cho học sinh của mình và thiếu tự tin về khả năng phân biệt giữa những thông tin khoa học chắc chắn và những thông tin chưa được chứng minh. Điều này đặc biệt đúng vì khoa học khí hậu là bộ môn khoa học dựa trên rất nhiều sự diễn giải các xu hướng của khí hậu và các mô hình khí hậu phức tạp. Một số giáo viên cho rằng sự tôn trọng của học sinh phụ thuộc vào việc giáo viên phải xây dựng hình tượng là người “biết hết mọi thứ”. Khi phải đối mặt với nhiệm vụ giảng dạy một chủ đề quan trọng nhưng cũng không kém phần phức tạp như biến đổi khí hậu, những cảm nhận kiểu như vậy có thể là những rào cản thật sự.

Bí quyết để vượt qua vấn đề này đó là cần nhận thức rõ rằng bất kì chủ đề nào đều có rất nhiều thông tin mà một giáo viên không thể nắm bắt hết được. Biến đổi khí hậu là một chủ đề phức tạp đến mức thậm chí cả các chuyên gia cũng còn phải tìm hiểu thêm rất nhiều điều. Tuy nhiên, đây cũng là một chủ đề mà đã có sẵn rất nhiều thông tin mà chúng ta có thể tìm thấy trong rất nhiều cuốn sách và các trang mạng được nêu trong phần tài liệu tham khảo của mô - đun này.

Biến đổi khí hậu cũng là một chủ đề mà tất cả mọi người đều đã có những kiến thức nhất định và có thể đóng góp vào một kiến thức chung. Chúng ta có thể giúp học sinh và bản thân giáo viên xây dựng sự tôn trọng lẫn nhau và tạo ra không khí học hỏi, để cùng thảo luận một cách cởi mở về tính chắc chắn và chưa chắc chắn trong khoa học. Môi trường học tập như thế này cũng là một nơi lí tưởng để đánh giá tầm quan trọng của việc có những hành động đề phòng trong những trường hợp không chắc chắn.

Hoạt động 4 của mô - đun 4 tập trung vào những mục tiêu của giáo dục vì sự PTBV. Trong hoạt động này đã phân tích bảy mục tiêu, đặc biệt là mục tiêu thứ bảy: “Đánh giá đúng sự không chắc chắn và nguyên tắc đề phòng trong hành động”. Bạn có thể phân tích những thuận lợi về mặt sư phạm khi làm việc với học sinh, sinh viên theo mục đích này ở dạng bài tập kiểu sắp xếp thứ tự theo hình thoi này.

Câu hỏi 2: Tìm ra 5 chủ đề khác mà bạn có thể dạy giáo dục vì sự PTBV mà giúp bạn đạt được những lợi ích giáo dục cho học sinh, sinh viên về “sự không chắc chắn và nguyên tắc đề phòng”. Một lời khuyên rằng bạn nên xem qua các mô - đun khác trong phần Các vấn đề đương đại của Chương trình dạy và học vì một tương lai bền vững.

456

Page 8: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

HOẠT ĐỘNG 2: CÁC CÂU HỎI THƯỜNG GẶP VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Hãy mở sổ tay học tập của bạn để bắt đầu hoạt động này.

Rất nhiều những thuật ngữ được sử dụng trong các thảo luận về biến đổi khí hậu. Ví dụ:

Sự nóng lên toàn cầu;

Hiệu ứng nhà kính;

Hiệu ứng nhà kính tự nhiên;

Hiệu ứng nhà kính tăng cường.

Thực tế, trong cuốn sách và bộ phim “Một sự thật mất lòng (An Inconvenient Truth)”, cựu phó tổng thống Mĩ Al Gore đã cho rằng tình hình đã quá nghiêm trọng mà các thuật ngữ trên và kể cả thuật ngữ biến đổi khí hậu là quá trung lập đến nỗi chúng không bao hàm được “tình trạng khẩn cấp của hành tinh” mà chúng ta đang phải đối mặt. Ngài Gore đề nghị chúng ta nên sử dụng thuật ngữ “khủng hoảng khí hậu”.

TỔNG QUAN CƠ BẢN VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Cho dù bạn thích sử dụng thuật ngữ nào đi nữa, thì có một sự thật mà tất cả những thuật

ngữ này đều đề cập đến đó là khí cacbonic và những khí khác trong bầu khí quyển Trái đất đóng vai trò như một ngôi nhà kính điều hòa nhiệt độ Trái đất. Những khí này làm bề mặt Trái đất ấm lên một cách tự nhiên thông qua việc thu giữ lại bức xạ nhiệt của mặt trời trong bầu khí quyển. Điều này mà tốt vì giúp cho hành tinh của chúng ta duy trì được sự sống. Tuy nhiên, thông qua việc đốt cháy những nhiên liệu hóa thạch như than đá, xăng dầu và việc phá rừng, chúng ta đã và đang làm gia tăng lượng khí cacbonic trong khí quyển lên một cách đột ngột và nhiệt độ đang tăng lên. Hiện tượng này được gọi là hiện tượng “hiệu ứng nhà kính tăng cường”.

Nguồn: Biến đổi khí hậu là gì?

457

Page 9: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Là một chất khí không màu không mùi được cấu tạo từ một nguyên tử cacbon và hai nguyên tử ôxi, CO2 chiếm khoảng 3‰ (hoặc 0.03% xem lại 2 con số) khí quyển Trái đất. Dù chỉ chiếm một lượng rất nhỏ nhưng CO2 lại đóng một vai trò cực kì quan trọng trong việc đảm bảo sự cân bằng khí quyển cần thiết cho sự sống. Ngược lại, bầu khí quyển của “những hành tinh chết” như sao Kim và sao Hỏa có thành phần chính là CO2.

CO2 sinh ra trong quá trình hô hấp của thực vật có vai trò trọng tâm trong việc duy trì nhiệt độ bề mặt Trái đất vào khoảng 14°C trong suốt 10,000 năm qua, một nhiệt độ thích hợp cho sự sinh sống của các loài động, thực vật và con người. Đây chính là “hiệu ứng nhà kính tự nhiên”.

Phần lớn các dạng sống trong đất đá, nước và các loài động vật, thực vật trên Trái đất đều được tạo thành từ cacbon, và một phần lớn lượng cacbon đã được lưu giữ qua hàng triệu năm nay trong lòng đất hoặc dưới đáy đại dương dưới dạng hóa thạch của xác các loài động, thực vật phân hủy. Khi được khai thác và đốt cháy, các loại nhiên liệu hóa thạch này (như dầu mỏ, khí ga, than đá) thải cacbon trở lại vào không khí, và những nguyên tử cacbon này lại kết hợp với ôxi trong không khí để tạo thành CO2. Điều này đồng nghĩa với việc mỗi khi chúng ta đốt cháy nhiên liệu hóa thạch để sười ấm, chiếu sáng hoặc nấu nướng hoặc sử dụng xăng để lái xe, chúng ta thải ra một chất thải (hay chất ô nhiễm) là CO2, và một khi đã được thải vào bầu khí quyển, lượng khí CO2 đó sẽ lưu lại trong không khí khoảng 100 năm.

Nguồn: Kirby, A. (2008) Khí hậu trong hoàn cảnh nguy hiểm (Climate in Peril), UNEP/GRID – Arendal and SMI Books, trang 8-9.

Do đó, nồng độ khí CO2 trong không khí đang tăng lên nhanh chóng khiến cho Trái đất nóng dần lên. Điều này khiến cho nhiệt độ trung bình tăng, kéo theo đó là sự xuất hiện thường xuyên hơn của các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt, hạn hán kéo dài, sự tan băng ở hai cực và ở các dòng sông băng làm mực nước biển dâng cao. Thông qua biểu đồ trên, chúng ta có thể thấy được mối quan hệ giữa mức tăng nhiệt độ và mực nước biển trong hơn 100 năm qua:

Nhiệt độ bề mặt Trái đất đã tăng khoảng 0,6°C trong thế kỉ 20. Dự báo gần đây nhất của Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu cho rằng nhiệt độ trung bình của bề mặt Trái đất sẽ tiếp tục tăng – và có thể tăng thêm đến 6,4°C vào năm 2100 so với mức năm 1990, trừ khi chúng ta có những hành động ngay lập tức. Ở mức nhiệt độ đó, xã hội loài người như chúng ta thường biết đến sẽ không còn tổn tại nữa.

458

Page 10: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Từ thời kì tiền công nghiệp hóa 1750 tới nay, nồng độ khí CO2 trong khí quyển đã tăng từ chỉ khoảng 0,028% lên đến 0,043%. Cho đến tận gần đây, người ta vẫn tin tưởng rằng việc ổn định mức CO2 trong không khí ở khoảng 0,055% vào năm 2035 có thể hạn chế được sự nóng lên trong khoảng 2°C. Tuy nhiên, theo hiểu biết của chúng ta hiện nay với mức CO2

như vậy, nhiều khả năng mức tăng nhiệt độ sẽ vào khoảng 3°C. Điều này sẽ gây ra rất nhiều những ảnh hưởng nghiêm trọng đến các khu vực cư trú của con người, đến các rạn san hô, các khu rừng nhiệt đới và các vùng băng giá ở hai cực. Cần phải có những hành động khẩn cấp mang tính quốc tế để hạn chế mức tăng nhiệt độ trong khoảng 2°C, tương đương với việc kiểm soát nồng độ khí CO2 ở mức khoảng 0,045%. Điều này có khả năng sẽ trở thành hiện thực vào năm 2020, nếu như các chính phủ có thể đồng thuận về những hành động hợp tác mang tính quốc gia và quốc tế.

NHỮNG CÂU HỎI PHỨC TẠP HƠN

Ngoài tổng quan về những câu hỏi đơn giản, có rất nhiều những câu hỏi phức tạp về biến đổi khí hậu mà có thể bạn muốn có câu trả lời. Danh sách dưới đây là một số những câu hỏi thường được gửi đến cho các nhà nghiên cứu khí hậu. Những câu trả lời này được cung cấp bởi Nhóm làm việc thứ nhất, của Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (2007).

1. Yếu tố nào quyết định khí hậu của Trái đất?

2. Mối quan hệ giữa biến đổi khí hậu và thời tiết là gì?

3. Hiệu ứng nhà kính là gì?

4. Các hoạt động của con người đã góp phần vào việc gây ra biến đổi khí hậu như thế nào? Và chúng ở mức nào nếu so sánh với những biến đổi tự nhiên?

5. Nhiệt độ Trái đất đang thay đổi như thế nào?

6. Lượng mưa đang thay đổi thế nào?

7. Phải chăng đã có những sự thay đổi liên quan đến những hiện tượng cực đoan như nắng nóng, hạn hán, lũ lụt và bão?

8. Phải chăng lượng băng tuyết trên Trái đất đang giảm dần?

9. Mực nước biển đang tăng lên có phải không?

10. Điều gì đã gây ra những thời kì băng hà và những biết đổi khí hậu quan trọng khác trên Trái đất trước thời kì công nghiệp?

11. Có phải biến đổi khí hậu hiện nay là bất thường so với những thay đổi trước đây trong lịch sử Trái đất?

12. Có phải những hoạt động của con người trong thời kì công nghiệp đã là nguyên nhân của sự gia tăng nồng độ khí CO2 và các khí nhà kính trong khí quyển không?

13. Các mô hình được sử dụng để đưa ra những phỏng đoán về biến đổi khí hậu trong tương lai đáng tin cậy đến mức nào?

459

Page 11: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

14. Chúng ta có thể lí giải những hiện tượng cực đoan cụ thể là do hiện tượng nóng lên do hiệu ứng nhà kính không?

15. Sự nóng lên trong thế kỉ 20 có phải là do những biến đổi tự nhiên không?

16. Cùng với việc khí hậu Trái đất có những biến đổi, những hiện tượng cực đoan như nắng nóng, hạn hán hay lũ lụt cũng sẽ có những thay đổi phải không?

17. Khả năng xảy ra của những hiện tượng biến đổi khí hậu lớn hay đột ngột (ví dụ như là sự biến mất của các dải băng hoặc những sự thay đổi của các dòng hải lưu) là ở mức độ nào?

18. Nếu lượng phát thải khí nhà kính giảm, thì sẽ mất khoảng bao nhiêu lâu để nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển giảm theo?

19. Những phỏng đoán về biến đổi khí hậu của khu vực khác nhau trên thế giới có sự sai khác có phải không?

Nguồn: IPCC (2007) Biến đổi khí hậu 2007: Cơ sở khoa học tự nhiên. Đóng góp của Nhóm làm việc thứ nhất cho Bản Báo cáo lần thứ tư của Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu, Cambridge University Press, Cambridge, Anh.

Câu trả lời của IPCC cho những câu hỏi này là rất chi tiết – có thể là quá chi tiết cho hầu hết các em học sinh. Bạn hãy chọn ra 5 câu hỏi mà các em học sinh đã (hoặc có thể sẽ) hỏi bạn và ghi lại các ý chính của câu trả lời mà bạn sẽ đưa ra trước lớp.

Hãy đọc những thông tin khoa học cập nhật nhất về những nguyên nhân, tác động và giải pháp cho biến đổi khí hậu được xuất bản bởi Hiệp hội của các nhà khoa học có liên quan (The Union for Concerned Scientists).

460

Page 12: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

HOẠT ĐỘNG 3: NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Hãy mở sổ tay học tập của bạn để bắt đầu hoạt động này.

Bản báo cáo năm 2007 của Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) đã chỉ rõ rằng hiện tượng nóng lên toàn cầu đang diễn ra và biến đổi khí hậu là do con người gây ra. IPCC đã kết luận rằng “sự nóng lên của hệ thống khí hậu là không còn gì phải bàn cãi” và, lần đầu tiên, IPCC đã khẳng định với mức độ tin cậy khoảng 90% rằng nguyên nhân của sự nóng lên này là do ảnh hưởng của các hoạt động của con người trên Trái đất tính từ thời kỳ đầu của cuộc Cách mạng công nghiệp vào những năm 1700 ở Châu Âu (và sau đó là ở Bắc Mĩ). Và càng ngày càng trở nên rõ ràng đó là sự gia tăng nhiệt độ này đã và đang gây ra những tác động nghiêm trọng cho thế giới và trong thời gian tới có thể sẽ ở mức độ trầm trọng hơn.

Hãy đọc về những tác động hiển hiện của biến đổi khí hậu ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới.

Nguồn: Kirby, A. (2008) Khí hậu trong Hoàn cảnh nguy hiểm (Climate in Peril), UNEP/GRID – Arendal and SMI Books, pp. 32-38.

Bảo tàng khoa học ở Luân Đôn đã xây dựng nên một bản đồ sử dụng những thông tin khoa học được đánh giá độc lập (peer-reviewed) mới nhất từ Cơ quan khí tượng Vương quốc Anh và một số nhà khoa học hàng đầu có ảnh hưởng khác. Bản đồ này cho thấy những vùng lục địa sẽ nóng lên nhanh hơn các vùng đại dương, và các vùng vĩ độ cao, đặc biệt là vùng Bắc cực, nhiệt độ sẽ tăng nhiều hơn.

Hãy xem xét những tác động của biến đổi khí hậu đã được dự đoán cho những châu lục khác nhau trên thế giới:

Châu Phi

Châu Á

Châu Âu

Bắc Mĩ

Latinh và Nam Mỹ

Australia và Niu Di-lân.

Câu hỏi 3: Biến đổi khí hậu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mức nào tới đất nước hay khu vực của bạn?

Những ví dụ sau đây cho thấy có 2 mức độ ảnh hưởng của biến đổi khí hậu:

Mức độ thứ nhất bao gồm những ảnh hưởng của việc tăng nhiệt độ trong môi trường tư nhiên, ví dụ:

Các sông băng tan chảy nhanh hơn dự đoán;

461

Page 13: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Lưu lượng dòng chảy băng đá từ các sông băng ở Greenland đã tăng hơn gấp đôi trong thập kỷ vừa qua;

Các chỏm băng Bắc cực đang tan chảy nhanh đến nỗi trong mùa hè vừa rồi suýt chút nữa thì đường biển giữa Bắc Mĩ và Nga đã được nối liền;

Mực nước biển toàn cầu đang tăng lên, đặc biệt là ở các vùng đồng bằng châu thổ thấp và các quốc đảo nhỏ;

Số lượng các siêu bão cấp 4 và 5 tăng gần gấp đôi trong 30 năm qua;

Gần 300 loài động, thực vật đang di cư dần tới gần hai cực;

Các đợt nắng nóng diễn ra thường xuyên hơn và với cường độ lớn hơn;

Hạn hán và cháy rừng xảy ra thường xuyên hơn.

Tuy nhiên, bởi vì tất cả những gì chúng ta cần đều phụ thuộc vào môi trường tự nhiên như nước, thức ăn, quần áo, nơi ăn chốn ở, hàng hóa, giao thông, năng lượng, công ăn việc làm, giải trí, v.v… Những tác động sơ cấp kể trên trở nên trầm trọng hơn và tạo ra những tác động thứ cấp (mức độ thứ hai) ảnh hưởng đến những nguồn tài nguyên mà chúng ta cần như:

Nước – hạn hán, và tác động liên quan đến chất lượng nước và nguồn cung cấp nước;

Thức ăn – mùa màng và vật nuôi;

Hệ sinh thái – các bảo khu bảo tồn quốc gia, bảo tồn đa dạng loài, rừng tự nhiên và rừng trồng;

Vùng bờ biển – ngành thuỷ sản, các loài động vật thủy sinh đại dương và cơ sở hạ tầng vùng bờ;

Sức khỏe – sang chấn nhiệt, các bệnh truyền nhiễm (vector-borne);

Sự định cư - cơ sở hạ tầng, chính quyền địa phương, kế hoạch đô thị, giao thông, năng lượng, và các dịch vụ khẩn cấp.

Báo cáo của IPCC 2007 tóm tắt những mức độ ảnh hưởng của việc tăng nhiệt độ ở mức 1, 2, 3, 4 và 5°C.

462

Page 14: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Nguồn: Kirby, A. (2008) Khí hậu trong Hoàn cảnh Nguy hiểm (Climate in Peril), UNEP/GRID-Arendal and SMI Books, trang 32-38.

NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI KHU VỰC AMAZON

Những tác động lâu dài của biến đổi khí hậu (ví dụ như những điều liệt kê trong bảng trên) dường như là khá trừu tượng trừ khi chúng được đặt trong những tình huống người thật việc thật. Chúng ta hãy xem xét ví dụ về khu vực Amazon dưới đây.

Rừng rậm nhiệt đới Amazon có ảnh hưởng sống còn đến khí hậu của vùng Nam Mỹ và là một trong số những ngân hàng cacbon quan trọng nhất thế giới. Nó bao phủ một vùng đất có diện tích tương đương với Trung Quốc (hoặc Châu Úc hay Hoa Kỳ), và là ngôi nhà của gần 20% các loài động thực vật trên thế giới. Khu rừng nhiệt đới này cũng đóng một vai trò chủ yếu trong chu trình tuần hoàn nước của cả vùng Nam Mĩ và được mệnh danh là “là phổi của thế giới” vì lượng oxi khổng lồ sản sinh hàng ngày được bơm vào bầu khí quyển.

Các nhà khoa học dự đoán rằng đến 2050 rừng rậm Amazon sẽ bị suy kiệt tới mức đáng báo động, và rằng đến cuối thế kỉ 21, lượng dự trữ cacbon trong đất và thực vật bị mất đi ở khu vực này sẽ lớn hơn bất kì nơi nào khác trên thế giới. Sư thu hẹp của rừng rậm Amazon là một trong những lí do chính khiến các nhà khoa học dự đoán rằng đến 2050, khu rừng này sẽ chuyển đổi từ một “bể chứa cacbon” thành một nguồn phát thải cacbon lớn vào khí quyển.

Hãy tìm hiểu về những tác động được dự đoán sẽ ảnh hưởng đến vùng rừng rậm Amazon nếu nhiệt độ tăng nhẹ.

Hãy tìm hiểu về những tác động của biến đổi khí hậu đến những phương pháp phòng chống lũ lụt truyền thống của những người Shipibo, thổ dân của vùng Amazon thuộc Peru.

463

Page 15: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Câu hỏi 4: Bạn sẽ đưa ra lời khuyên nào cho chính phủ của các quốc gia thuộc khu vực Amazon nhằm làm giảm tối đa những tác động của việc tăng nhiệt độ đến vùng rừng nhiệt đới này?

Câu hỏi 5: Bạn sẽ khuyên người dân Shipibo như thế nào nhằm giúp họ thích nghi với những điều kiện khí hậu đang dần thay đổi bên bờ con sông Amazon này.

NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN CỘNG ĐỒNG CỦA BẠN

Câu hỏi 6: Theo bạn, cộng đồng địa phương bạn đang bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu như thế nào?

Câu hỏi 7: Trong số 9 tác động nói trên, tác động nào có khả năng ảnh hưởng nhiều nhất đến cộng đồng địa phương nơi bạn sống? Tại sao?

Câu hỏi 8: Trong 9 tác động đó, tác động nào ít ảnh hưởng đến cộng đồng của bạn nhất? Tại sao?

Câu hỏi 9: Theo bạn, ai là những người [trong cộng đồng của bạn] bị ảnh hưởng nhiều nhất do tác động trên? Tại sao?

Câu hỏi 10: Cộng đồng nơi bạn sống đang thử nghiệm những giải pháp nào để cố gắng thích nghi với những biến đổi môi trường đó?

464

Page 16: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

HOẠT ĐỘNG 4: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU LÀ MỘT VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC

Hãy mở sổ tay học tập của bạn để bắt đầu hoạt động này.

Khi chúng ta nhìn vào những tác động của biến đổi khí hậu được nêu trong hoạt động 3, chúng ta đều thấy rằng những tác động dài hạn của biến đổi khí hậu có vẻ như là rất mơ hồ trừ khi chúng ta đặt nó vào một trường hợp người thực việc thực nào đó. Bởi vậy, chúng tôi đã đưa ra tình huống về những tác động của biến đổi khí hậu ở khu vực Amazon như là một ví dụ. Điều đó giúp chúng ta thấy được chi tiết của vấn đề, đặc biệt khi chúng ta kiểm chứng những tác động của biến đổi khí hậu ở cộng đồng địa phương của chúng ta.

Điều này còn giúp chúng ta nhận thấy rằng biến đổi khí hậu không chỉ là một vấn đề khoa học – hay là một vấn đề thời sự mà chính phủ cần phải giải quyết. Biến đổi khí hậu còn là một vấn đề đạo đức nữa bởi vì những thảm họa khí hậu sẽ ảnh hưởng nhiều nhất đến những người nghèo nhất thế giới. Hoạt động này xem xét những quan điểm tranh luận về vấn đề này của ba tổ chức quốc tế: Quỹ thịnh vượng chung, Ngân hàng Thế giới và Liên minh các quốc đảo nhỏ.

QUỸ THỊNH VƯỢNG CHUNG (COMMONWEALTH FOUNDATION - CF)

Trong một bài phát biểu năm 2007 tại Diễn đàn thịnh vượng chung của giới trẻ (Commonwealth Youth Forum) ở Kampala, giám đốc quỹ CF, Mark Collins đã tuyên bố rằng biến đổi khí hậu là vấn đề quan trọng nhất mà thế giới đang phải đối mặt. Trên thực tế, ông ta cho rằng “nếu chúng ta đưa ra những mục tiêu phát triển thiên niên kỉ trong ngày hôm nay, thì việc giải quyết những vấn đề biến đổi khí hậu phải là mục tiêu hàng đầu.”

Chúng ta giờ đây đã đi qua một nửa chặng đường tiến tới thời hạn cam kết của các mục tiêu phát triển thiên niên kỉ (MDGs) vào 2015, nhưng những kết quả đạt được vẫn còn rất khiêm tốn, một phần là vì những vấn đề liên quan đến môi trường bền vững chưa được giải quyết một cách thỏa đáng. Trừ khi chúng ta có thể kiểm soát được nạn phá rừng, bảo vệ được đa dạng sinh học, đảm bảo nguồn cung cấp nước và giải quyết được vấn đề ô nhiễm [cacbon] là nguyên nhân gây biến đổi khí hậu, nghèo đói sẽ luôn luôn cắm rễ trên thế giới này.Chúng ta không nên chỉ xem vấn đề này như một vấn đề môi trường đơn thuần. Biến đổi khí hậu, đặc biệt, còn là một vấn đề kinh tế và nhân đạo.

Nguồn: Collins, M. (2008) Biến đổi khí hậu: Vấn đề ưu tiên của thịnh vượng chung (Climate Change: A Priority Issue for the Commonwealth)

Câu hỏi 11: Quỹ thịnh vượng chung đã xác định hai luận điểm đạo đức về biến đổi khí hậu:

Biến đổi khí hậu là một nguyên nhân chủ đạo gây ra đói nghèo

Chi phí để giải quyết biến đổi khí hậu sẽ làm chậm tiến độ thực hiện các mục tiêu thiên niên kỉ ở rất nhiều nước nghèo.

465

Page 17: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Câu hỏi 12: Hãy xác định những đoạn văn trong bài viết trên có liên quan đến những mối quan tâm này.

NGÂN HÀNG THẾ GIỚI

Ngân hàng Thế giới cho rằng tác động của biến đổi khí hậu đến những quốc gia nghèo nhất trên thế giới là rất lớn. Đó là bởi vì những nước đang phát triển là những nước dễ tổn thương hơn trước những ảnh hưởng ngày càng tăng của những hiện tượng thời tiết cực đoan (như lũ lụt, hạn hán và bão) và những biến đổi khí hậu khác so với các nước giàu. Ví dụ, người ta cho rằng biến đổi khí hậu sẽ:

Làm gia tăng sự dao động của khí hậu và làm tổn hại đến năng suất nông nghiệp trên toàn bộ vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới (đe dọa an ninh lương thực)

Làm suy giảm thêm lưu lượng và chất lượng nước ở các vùng khô hạn nhất và bán khô hạn (những nơi mà các cộng đồng nghèo phụ thuộc vào lượng mưa cho cây trồng và nước uống)

Làm tăng tỉ lệ mắc bệnh sốt rét, sốt xuất huyết và các bệnh truyền nhiễm khác trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới (ở những nơi mà dịch vụ y tế nghèo nàn, tỉ lệ tử vong sẽ gia tăng)

Làm tổn hại hệ sinh thái và đa dạng sinh học (cung cấp ít hơn các dịch vụ, sinh kế và thu nhập cho cộng đồng và xã hội)

Mực nước biển dâng cao và sự mất nơi cư trú của hàng chục triệu người sống ở những khu vực trũng, như những vùng đồng bằng châu thổ sông Ganges, sông Mekong, sông Nile và sông Hồng, (đe dọa chính sự tồn tại của rất nhiều thành phố và thậm chí cả quốc gia là các đảo nhỏ).

Ứng phó với biến đổi khí hậu ở những nước phát triển cũng có khả năng làm gia tăng giá năng lượng, thực phẩm, và những hàng hóa khác, khiến những hàng hóa này trở nên đắt hơn ở các nước đang phát triển. Trong một số trường hợp, việc áp dụng những công nghệ không phát thải cacbon cần được đẩy mạnh hơn dù có những rủi ro và chi phí thương mại cao.

Ước tính kinh phí đang tăng nhanh dù chưa đầy đủ về những khoản đầu tư cần thiết cho các nước đang phát triển có nhiều khả năng sẽ lên đến hàng trăm tỉ đô la mỗi năm trong vài thập kỉ. Việc tìm ra được nguồn tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu này có thể khiến cho việc đạt được những mục tiêu phát triển thiên niên kỉ đối với những nước đang phát triển càng trở nên khó khăn hơn nhiều.

Chính vì vậy, nhiều thành quả phát triển mà phải rất khó khăn mới đạt được, có thể sẽ bị mất đi do biến đổi khí hậu, khiến cho nhiều người không thể thoát khỏi trình trạng nghèo đói và thậm chí còn đẩy thêm rất nhiều người khác lâm vào tình trạng này. Những cộng đồng và các quốc gia nghèo là những nước đóng góp ít nhất cho biến đổi khí hậu nhưng sẽ lại phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất.

Nguồn: Ngân hàng Thế giới.

466

Page 18: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Câu hỏi 12: Hãy xác định năm vấn đề đạo đức được nêu ra trong trao đổi trên của Ngân hàng Thế giới về biến đổi khí hậu và phát triển. Sử dụng các trích đoạn trong bài viết này để minh họa cho những vấn đề quan tâm này.

LIÊN MINH CÁC QUỐC ĐẢO NHỎ

Nền tảng đạo đức của vấn đề biến đổi khí hậu là trọng tâm của những hoạt động vận động quốc tế của Liên minh các quốc đảo nhỏ (Alliance of the Small Island States - AOSIS). AOSIS là một liên minh các quốc đảo nhỏ và các quốc gia ven biển ở vị trí thấp, các quốc gia này có chung những thách thức phát triển và mối quan tâm về môi trường, và đặc biệt trong đó là mức độ dễ bị tổn thương của các quốc gia này trước biến đổi khí hậu. AOSIS có 43 nước thành viên và quan sát viên từ tất cả các đại dương và khu vực trên thế giới như Châu Phi, vùng Caribê, Ấn Độ Dương, Địa Trung Hải, Thái Bình Dương và Biển Đông. Trong đó có ba mươi bảy quốc gia là thành viên của Liên Hiệp Quốc (chiếm khoảng 20% tổng số thành viên LHQ). Tất cả hợp lại, họ chiếm gần 28% tổng số các quốc gia đang phát triển và khoảng 5% dân số thế giới.

Khi xét tôn chỉ của Liên minh này về nguyên nhân của biến đổi khí hậu, về sự thật cũng như sự công bằng, AOSIS muốn được nhìn nhận như là đại diện của lương tâm của cộng đồng thế giới về chính sách khí hậu. AOSIS tin rằng các quốc đảo cần đóng vai trò trung tâm trong các cuộc đàm phán quốc tế về khí hậu vì họ là những quốc gia sẽ phải đối mặt với những rủi ro nghiêm trọng nhất từ biến đổi khí hậu. Nếu không thì, Liên minh này tuyên bố, các quốc gia thành viên của AOSIS sẽ phải đối mặt "sự hủy diệt đến mức không còn đại diện nào2". Nguyên tắc đại diện tương xứng với rủi ro là một trong những nguyên tắc của AOSIS.

Theo ngài Đại sứ của St. Lucia, vùng Ca ri bê,

Nếu chỉ cần một thập kỉ trôi qua trước khi quá trình giảm phát thải khí nhà kính được bắt đầu, thế giới sẽ buộc phải cắt giảm một cách quyết liệt hơn nữa về sau này, hoặc sẽ phải hứng chịu những thiệt hại không thể chấp nhận được cho hệ thống khí hậu toàn cầu. Nếu chúng ta chờ đợi đến lúc có bằng chứng, thì chính những bằng chứng đó sẽ giết chúng ta.

Nguồn: AOSIS (2000) Climate Change and Small Island States.

Câu hỏi 13: Hãy xác định 3 vấn đề đạo đức thuộc phạm vi quan tâm của AOSIS về các vấn đề phát triển và biến đổi khí hậu. Sử dụng những trích đoạn trong bài viết trên để minh họa những quan tâm đó.

Câu hỏi 14: Giải thích về vấn đề đạo đức liên quan đến biến đổi khí hậu trong biểu đồ sau:

2 Nguyên văn: destruction without representation

467

Page 19: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Nguồn: New internationalist, No.419,2009

Câu hỏi 15: So sánh những ví dụ về các vấn đề đạo đức nói trên với ba điểm bất công của biến đổi khí hậu do tạp chí New International xác định?

Câu hỏi 16: Những vấn đề đạo đức lớn liên quan đến biến đổi khí hậu ở đất nước của bạn là gì? Những vấn đề đó tương tự hay khác so với những vấn đề được xác định trong hoạt động này? Tại sao?

468

Page 20: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

HOẠT ĐỘNG 5: ỨNG PHÓ VỚI NHỮNG THÁCH THỨC CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Hãy mở sổ tay học tập của bạn để bắt đầu hoạt động này.

Những mối đe dọa của biến đổi khí hậu khiến cho vấn đề này trở nên thực sự khẩn cấp và chúng ta cần có những hành động ngay lập tức để hạn chế tác động, đồng thời có những hành động dài hạn để thích nghi với những thay đổi chắc chắn sẽ xảy ra. Đây có lẽ là thách thức lớn nhất của thế hệ của chúng ta, nhưng chính lòng quyết tâm, quyết định và hành động của con người – với tư cách cá nhân, doanh nghiệp, các thành phố và chính phủ – sẽ quyết định xem vấn đề này sẽ trở nên nghiêm trọng đến mức nào.

Chương trình Môi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP) đã chuẩn bị một cuốn sách hướng dẫn ứng phó với những thách thức của biến đổi khí hậu với tên gọi: “Xóa bỏ những thói quen – Hướng dẫn của Liên Hiệp Quốc về một thế giới không cacbon (Kick the Habit – A UN Guide to Climate Neutrality). Bạn có thể tải cuốn sách đó ở định dạng PDF từ internet hoặc đọc nội dung có tính tương tác trên mạng. Ngoài ra còn có một bài thuyết trình Powerpoint được chuẩn bị trước. Cùng hợp lại, những tư liệu này là những hướng dẫn phong phú cho việc lên kế hoạch thúc đẩy sự chuyển đổi sang một thế giới không cacbon.

Có hai chiến lược chính để ứng phó với những thách thức của biến đổi khí hậu, đó là giảm nhẹ và thích ứng. Đây là những biện pháp tuy khác biệt nhưng lại bổ sung cho nhau, và cả hai đều cần thiết cho việc ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.

GIẢM NHẸ

Giảm nhẹ khí hậu bao gồm những hành động nhằm loại bỏ vĩnh viễn hoặc giảm thiểu những hiểm họa và rủi ro lâu dài do biến đổi khí hậu mang đến cho cuộc sống con người, hệ sinh thái hay tài sản. Theo Ban Liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) giảm nhẹ có nghĩa là:

Sự can thiệp của con người nhằm làm giảm nguồn phát thải khí nhà kính, hoặc cải thiện các bể chứa khí nhà kính.

Giảm nhẹ khắc phục những nguyên nhân của biến đổi khí hậu thông qua việc giảm lượng CO2 phát thải vào khí quyển. Có nghĩa rằng, biện pháp này bao gồm tất cả các hành động mà chúng ta có thể làm để làm giảm việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch – trong đó bao gồm cả các biện pháp giảm thiểu sử dụng năng lượng, tăng hiệu suất sử dụng năng lượng, sử dụng năng lượng thay thế, và thu giữ CO2 và các khí nhà kính khác dưới lòng đất, trong đất hoặc trong thực vật.

Bảng dưới đây liệt kê một số những biện pháp nhằm đạt được những mục tiêu được đặt ra trong hiện tại và cho đến năm 2030.

469

Page 21: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Hãy xem trang thông tin của IPCC về giảm nhẹ khí hậu để biết thêm chi tiết.

THÍCH ỨNG

Thích ứng đề cập đến khả năng tự điều chỉnh của một hệ thống để thích nghi với những biến đổi của khí hậu nhằm giảm nhẹ những nguy cơ thiệt hại, để đối phó với những hậu quả (có thể xảy ra) hoặc tận dụng những cơ hội. IPCC định nghĩa sự thích ứng như sau:

…là sự điều chỉnh trong một hệ thống tự nhiên hoặc nhân tạo nhằm thích nghi với một môi trường mới hoặc một môi trường đang thay đổi. Sự thích ứng với biến đổi khí hậu bao gồm những điều chỉnh trong hệ thống tự nhiên hoặc nhân tạo nhằm ứng phó với những tác nhân kích thích của hệ thống khí hậu, hoặc những tác động do biến đổi khí hậu gây ra, đang xảy ra (hoặc có thể sẽ xảy ra) nhằm giảm nhẹ những tác hại hoặc tận dụng những cơ hội có lợi.

Thích ứng với khí hậu khắc phục những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu bằng cách làm giảm đến mức tối thiểu những tác động do biến đổi khí hậu gây ra. Có nghĩa rằng, các biện pháp bao gồm tất cả những hành động chúng ta có thể tiến hành nhằm ngăn chặn hoặc bù đắp những thiệt hại cho hệ sinh thái, nông nghiệp, các khu vực duyên hải, hạ tầng cơ sở của vùng đô thị, và sức khỏe con người.

Một vài ví dụ về các biện pháp thích ứng gồm:

Nước: tăng cường sử dụng và tích trữ nước mưa, dự trữ và bảo vệ nguồn nước, tái sử dụng nước, khử mặn và nâng cao hiệu quả trong sử dụng nước cũng như trong thủy lợi.

Nông nghiệp: thay thế lịch trồng trọt và các giống cây trồng, chuyển đổi khu vực cây trồng, quản lí đất đai hiệu quả hơn (ví dụ trồng cây để kiểm soát xói mòn và bảo vệ đất)

Cơ sở hạ tầng: phân bố lại dân cư, xây dựng đê biển và các đập chắn sóng dâng do bão, gia cố các cồn cát, tái phục hồi và tạo ra những đầm lầy và vùng đất ngập nước làm vùng đệm chống mực nước biển dâng và lũ lụt

Sức khỏe con người: kế hoạch hành động ứng phó với những mối đe dọa từ những

470

Page 22: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

đợt nắng nóng khắc nghiệt, dịch vụ cấp cứu y tế, cải thiện tốt hơn khả năng giám sát và kiểm soát những bệnh dịch nhạy cảm với khí hậu, cung cấp nước sạch và cải thiện vệ sinh môi trường

Du lịch: đa dạng hóa các điểm tham quan và các khu vực kinh doanh du lịch, dịch chuyển những địa điểm trượt tuyết đến những nơi cao hơn, làm tuyết nhân tạo

Giao thông vận tải: tổ chức và phân bổ lại các tuyến đường, thiết kế đường bộ, đường sắt, và các thiết bị vận tải khác để ứng phó với những thay đổi do tăng nhiệt độ và đảm bảo thoát nước

Năng lượng: củng cố mạng lưới truyền tải và hệ thống phân phối, hạ ngầm một số hệ thống cáp, sử dụng năng lượng hiệu quả và năng lượng tái tạo, giảm sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng đơn lẻ.

Hãy xem trang thông tin của IPCC về thích ứng biến đổi khí hậu.

Câu hỏi 17: Giảm nhẹ nhằm giảm lượng cácbon trong bầu khí quyển còn thích ứng nhằm giúp chúng ta giảm những tác động của tình trạng có cácbon trong khí quyển. Bạn nghĩ biện pháp nào là quan trọng nhất? Tại sao?

CÁC PHƯƠNG PHÁP HỖ TRỢ CHO NHAU

Cả giảm nhẹ (làm giảm bớt những tác động tiềm tàng bằng cách làm chậm lại quá trình biến đổi khí hậu) và thích ứng với biến đổi khí hậu (giảm thiểu tác động bằng cách điều chỉnh các tình huống để làm giảm tác động) nếu được sử dụng riêng lẻ đều không thể giúp ta phòng tránh được tất cả các tác động của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, khi kết hợp chúng với nhau chúng ta sẽ giảm thiểu được những rủi ro mà biến đổi khí hậu có thể mang lại một cách đáng kể.

Xét về mặt tổng thể, thực hiện giảm nhẹ càng nhiều, chúng ta sẽ có càng ít các biến đổi cần phải thích ứng, và có càng ít các rủi ro mà chúng ta phải đương đầu và chủ động phòng ngừa. Ngược lại, chúng ta càng có sự chuẩn bị cho thích ứng bao nhiêu, sẽ càng ít có khả năng xảy ra những tác động liên quan đến mọi cấp độ của biến đổi khí hậu. Bởi vậy, giảm nhẹ và thích ứng biến đổi khí hậu không nên được xem như những phương thức thay thế lẫn nhau vì chúng không phải là các hành động rời rạc mà là một tổ hợp hành động của một chiến lược chung nhằm giảm nhẹ sự phát thải khí nhà kính.

TÍNH CẤP THIẾT CỦA HÀNH ĐỘNG

Năm 2006, chính phủ Vương quốc Anh xuất bản bản Báo cáo Stern về ảnh hưởng kinh tế của biến đổi khí hâu. Bản báo cáo này lấy tên của tác giả chính, Huân tước Nicolas Stern, người đã từng làm việc tại Kho bạc Hoàng gia, bản báo cáo này là sự đánh giá quy mô lớn nhất trên thế giới về khía cạnh kinh tế của biến đổi khí hậu.

Báo cáo Stern cho rằng sự nóng lên toàn cầu và những ảnh hưởng của nó có thể gây tổn thất tới 9 nghìn tỉ đô la (lớn hơn cả những tổn thất do 2 cuộc chiến tranh thế giới và đại suy thoái cộng lại) nếu như chúng ta không có những hành động ngay lập tức. Ngay cả trong trường hợp thế giới ngừng toàn bộ những phát thải cácbon bây giờ, phần lớn những tổn thất

471

Page 23: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

trên vẫn là không thể tránh khỏi, bởi vì khí hậu sẽ vẫn tiếp tục biến đổi trong 30 năm nữa do những ảnh hưởng lâu dài của lượng cácbon đã có trong bầu khí quyển, và mực nước biển sẽ tiếp tục dâng lên trong một thế kỉ tới.

Những hành động được khuyến nghị bao gồm:

1. Mức phát thải toàn cầu phải giảm đi ít nhất là 50% vào năm 2050 so với mức năm 1990, nhằm hạn chế những nguy cơ nghiêm trọng của biến đổi khí hậu khốc liệt. Điều này đòi hỏi phải có các hành động có sự phối hợp và đồng thuận của tất cả các các bên về mục tiêu này.

2. Các nước phát triển, những nước thải ra [phần lớn] các khí nhà kính đang tồn tại trong bầu khí quyển trong suốt một thế kỉ qua, cần có những cam kết ngay lập tức về mục tiêu cắt giảm phát thải từ 20% - 40% vào năm 2020 và cam kết giảm ít nhất 80% vào năm 2050.

3. Sự thành công trong việc đạt được mục tiêu giảm phát thải cho đến 2020 của các nước phát triển - mà không đe doạ tới sự tăng trưởng của quốc gia - sẽ là cơ sở để thúc đẩy việc thiết kế các thể chế và cơ chế để chuyển giao vốn và công nghệ cho các nước đang phát triển.

4. Gắn với đó, các nước đang phát triển cũng được kì vọng sẽ có các mục tiêu quốc gia về cắt giảm 20% khí thải vào năm 2020.

5. Các nước đang phát triển có thu nhập trung bình và tốc độ phát triển nhanh, nằm trong nhóm các nước đang phát triển có thu nhập cao hơn cần phải có những hành động tức thời nhằm ổn định và đảo ngược mức gia tăng lượng phát thải.

6. Cần có một cam kết chung của tất cả các nước, bất kể các mục tiêu quốc gia riêng lẻ, nhằm phát triển các năng lực thể chế, dữ liệu và khả năng giám sát, cũng như các chính sách nhằm hạn chế và ngăn ngừa sự phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng có mức phát thải khí nhà kính cao.

Stern, N. (2008) Những yếu tố mấu chốt của một thỏa thuận toàn cầu về biến đổi khí hậu (Key Elements of a Global Deal on Climate Change, London School of Economics), trang 5-6

Câu hỏi 18: Hãy tóm tắt những hành động mà Huân tước Stern cho rằng cần phải được thực hiện bởi:

Các nước phát triển

Các nước đang phát triển

Các nước có thu nhập trung bình

Tất cả các nước.

Đáng nói là, báo cáo Stern dự đoán rằng thế giới chỉ cần bỏ ra 1% GDP toàn cầu, là khoảng 500 tỉ đô la Mĩ, để đạt được mục tiêu này. Số tiền này tương đương với số tiền mà thế giới tiêu tốn cho quảng cáo hàng năm, hay bằng một nửa chi phí tổn thất do một dịch cúm toàn cầu gây nên (theo ước tính của Ngân hàng Thế giới).

Câu hỏi 19: Hãy so sánh chi phí của một hành động hiệu quả của quốc tế để ứng phó với biến đổi khí hậu so với chi phí để giải quyết các vấn đề toàn cầu khác.

472

Page 24: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

HOẠT ĐỘNG 6: HÀNH ĐỘNG

Hãy mở sổ tay học tập của bạn để bắt đầu hoạt động này.

Sự cần thiết phải có những hành động khẩn cấp để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu là điều không còn gì phải tranh cãi. Các chính phủ, doanh nghiệp và ngành công nghiệp, cộng đồng, các hộ gia đình, các cá nhân đều có vai trò rất quan trọng.

Có một số lượng khổng lồ những tài liệu, sách, các trang mạng của chính phủ và các tổ chức môi trường hướng dẫn về những gì chúng ta có thể làm để tránh biến đổi khí hậu. Ví dụ, trong phần cuối bộ phim (cũng như cuốn sách) “Một sự thật mất lòng” của Al Gore có cung cấp một danh sách những hành động mà chúng ta có thể làm:

1. Thay bóng đèn [tiết kiệm điện]

2. Lái xe ít hơn

3. Tái chế

4. Kiểm tra lốp xe của bạn

5. Sử dụng ít nước nóng hơn

6. Tránh dùng những sản phẩm đóng gói nhiều

7. Điều chỉnh nhiệt độ [của điều hòa không khí]

8. Trồng cây

9. Tắt bớt các thiết bị điện

10. Truyền tải những thông điệp này đến với những người khác.

Câu hỏi 20: Trong số những hành động trên, hành động nào bạn thấy là (i) tương đối dễ thực hiện và (ii) khó thực hiện hơn? Tại sao?

Câu hỏi 21: Đã từng có những tranh luận rằng danh sách những hành động được đưa ra trong “Một sự thật mất lòng” là quá cá nhân chủ nghĩa và chỉ phù hợp với những công dân của những nước giàu phát triển hơn. Bạn có đồng ý với luận điểm này không? Tại sao?

Câu hỏi 22: Nếu thực sự những hành động đó quá cá nhân và chỉ hợp nhất với những người sống ở những nước giàu phát triển, vậy tại sao Al Gore vẫn đưa ra danh sách đó?

Kết quả của một phép tìm kiếm trên internet với những thuật ngữ <“Biến đổi khí hậu” + “bạn có thể làm gì”> vào ngày 22 tháng 3 năm 2009 đã cho thấy có 16.100 trang của riêng nước

473

Page 25: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Australia và 261.000 trang trên toàn thế giới. Khi thay câu hỏi “bạn có thể làm gì” bằng câu “chính phủ có thể làm gì”, Google chỉ xác định được 146 và 2.340 trang tương ứng. Thay thế "các công ti có thể làm gì" và "các tập đoàn có thể làm gì" xác định tổng cộng chỉ có 12 trang ở Australia và 1.405 trang web trên toàn thế giới.

Câu hỏi 23: Bạn hãy tiến hành một tìm kiếm internet tương tự cho đất nước của bạn và xác định bao nhiêu trang web được tìm thấy.

Câu hỏi 24: So sánh các kết quả từ các tìm kiếm ở nước bạn với kết quả tìm kiếm tại Australia. Tại sao lại có sự giống hoặc khác nhau đó?

Câu hỏi 25: Theo bạn, tại sao có nhiều trang web về những gì cá nhân có thể làm được về biến đổi khí hậu hơn là các công ti, chính phủ có thể làm?

Ghi nhận tầm quan trọng của những việc mà mọi người - các cá nhân, gia đình, cộng đồng, các chính phủ và doanh nghiệp - có thể làm về biến đổi khí hậu, Viện Worldwatch đã xác định được mười biện pháp then chốt nhằm giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu. Biện pháp đầu tiên là thay đổi lối sống cá nhân, nhưng chín biện pháp còn lại đều nhấn mạnh vai trò của mọi thành phần trong xã hội. Mười biện pháp đó là:

Thay đổi phong cách sống:

Lí luận về "chất lượng đời sống tốt (good life)" đòi hỏi các cá nhân phải tiêu dùng nhiều hơn bao giờ hết, ăn thịt nhiều hơn, có nhà cửa và xe cộ lớn hơn bao giờ hết, và vứt bỏ tất cả những đồ dùng cũ. Đây là một lối sống cần phải loại bỏ. Thay thế vào đó là lối sống với một tinh thần chia sẻ và hi sinh một cách công bằng những nguồn vật chất – mà sẽ không đánh mất những điều thực sự quan trọng đối với chúng ta nữa, như có một sức khỏe tốt và lối sống tích cực, có một cộng đồng vững mạnh, và có thời gian dành cho gia đình. Hãy xem thêm mô - đun Cộng đồng bền vững.

Tư duy dài hạn

Cốt lõi của vấn đề khí hậu là đó là các thế hệ tương lai rất có khả năng sẽ phải hứng chịu một môi trường toàn cầu đang ngày càng xấu đi bởi sự khước từ của các thế hệ hiện tại với lối sống hài hòa với bầu khí quyển. Những nhà lãnh đạo có tầm nhìn cần dẫn dắt công chúng để nhận trách nhiệm về những tác động từ hành vi hiện tại của chúng ta đến cuộc sống tương lai, và có những hành động phù hợp. Sự bền vững có nghĩa là học cách tư duy dài hạn.

Đổi mới

Sự thay đổi [nhằm giảm] lượng phát thải các khí nhà kính đòi hỏi chúng ta phải có những công nghệ mang tính đột phá để phá vỡ mối liên hệ giữa cacbon và tiêu thụ năng lượng, nhưng phải hi sinh càng ít càng tốt về chi phí và sự thoải mái. Một loạt các công nghệ tái tạo có thể sản xuất điện đáp ứng nhu cầu sưởi ấm và làm mát. Những công nghệ như vậy phải kể đến việc xây dựng các tòa nhà sản sinh ra năng lượng nhiều hơn là tiêu thụ, và xây dựng "những lưới điện thông minh" sử dụng công

474

Page 26: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

nghệ thông tin nhằm cân đối chính xác nguồn cung điện tái tạo so với nhu cầu tiêu dùng.

Dân số

Đây là vấn đề hiếm khi được đề cập đến trong các tranh luận về biến đổi khí hậu, xu thế biến đổi dân số trong tương lai có thể tạo ra sự khác biệt giữa thành công và thất bại trong những nỗ lực tạo dựng sự cân bằng lâu dài giữa những hoạt động của con người với bầu khí quyển và khí hậu. Dân số thế giới có thể sẽ ngừng phát triển và sau đó giảm dần khi phụ nữ có đủ năng lực để quyết định có nên có con hay không và nếu có thì khi nào. Hãy xem mô - đun Dân số và Phát triển.

Phục hồi đất đai

Nếu thực hiện được nhiệm vụ này, phần đất đai và thực vật trên Trái đất có thể giúp thu giữ hàng tỉ tấn cácbon trong khí quyển. Nông nghiệp có thể thực hiện điều này trong khi phát triển thực vật và tạo chất xơ thực phẩm và giảm thiểu nhu cầu dùng phân bón nhân tạo và sản xuất từ nhiên liệu hóa thạch, đồng thời nâng cao thu nhập của người nông dân. Hãy xem mô - đun Nông nghiệp Bền vững.

Các thể chế mạnh

Tính chất toàn cầu của biến đổi khí hậu đòi hỏi phải tăng cường hợp tác quốc tế và đẩy mạnh quản trị tốt. Cần thiết phải có sự mạnh mẽ và sự hiệu quả của tổ chức Liên Hiệp Quốc, các ngân hàng đa phương, và chính phủ của các quốc gia lớn để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu. Những tổ chức này cần có sự ủng hộ mạnh mẽ của công chúng cho công việc quan trọng của họ.

Sự đòi hỏi của công bằng

Không có thỏa thuận khí hậu nào được gọi là thành công nếu không có sự ủng hộ từ những quốc gia mà tính đến nay góp phần rất nhỏ vào việc biến đổi khí hậu do con người gây ra. Đây là những quốc gia có mức phát thải theo đầu người thấp, nhưng lại là những nước phải đối mặt với những thách thức lớn nhất trong việc thích ứng với các tác động sắp tới. Cần thiết phải có những thỏa thuận và biện pháp ứng phó công bằng cho cả các nước đang phát triển và các nước phát triển.

Sự ổn định về kinh tế

Giải quyết biến đổi khí hậu sẽ cần chú ý đến những chi phí và cam kết cải thiện chứ không phải phá bỏ viễn cảnh phát triển kinh tế dài hạn. Một thỏa thuận khí hậu sẽ phải hoạt động hiệu quả trong thời kì kinh tế khó khăn cũng như trong khi kinh tế bùng nổ, thoả thuận khí hậu phải đối mặt với những thách thức của nghèo đói và thất nghiệp trong khi liên tục giảm phát thải khí cácbonic và các khí nhà kính khác.

Sự ổn định về chính trị

Khi một thế giới bị bao vây bởi xung đột và khủng bố, thì khả năng ngăn chặn biến đổi khí hậu nguy hiểm sẽ khó khăn hơn rất nhiều khi diễn ra trong một thế giới hòa bình. An ninh và khí hậu phải cùng được giải quyết một cách đồng thời. Quá trình đàm phán về một thỏa thuận khí hậu có hiệu quả và công bằng sẽ tạo cơ hội cần

475

Page 27: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

thiết cho các nước để củng cố hòa bình và tái thiết quan hệ quốc tế theo hướng cùng hợp tác thay vì cạnh tranh.

Huy động nguồn lực cho sự thay đổi

Để đối phó với biến đổi khí hậu do con người đang gây ra, chúng ta cần thấy được cơ hội chuyển đổi sang một nền kinh tế toàn cầu mới, và những lối sống mới trong nỗ lực nhằm chấm dứt hoàn toàn phát thải khí nhà kính. Không có bất kì bảo đảm nào cho thấy sự chuyển đổi này sẽ dễ dàng - hay thậm chí là khả thi. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đang cần những phong trào địa phương và toàn cầu để thực hiện những nỗ lực này, và thông qua đó có thể mang lại công ăn việc làm mới, những cơ hội mới cho hòa bình, hợp tác toàn cầu và vượt xa tất cả những gì nhân loại đã từng đạt được.

Nguồn: Worldwatch Institute (2009) State of the World 2009: Into a Warming World.

Câu hỏi 26: Hãy phân loại xem 10 biện pháp nói trên biện pháp nào là của cá nhân, gia đình, cộng đồng, chính phủ và các doanh nghiệp.

Câu hỏi 27: Xác định 3 biện pháp có thể được bạn tích hợp vào công việc giảng dạy về biến đổi khí hậu và những chủ đề PTBV khác. Hãy giải thích ngắn gọn cách tích hợp.

476

Page 28: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

HOẠT ĐỘNG 7: HOẠT ĐỘNG TỔNG KẾT

Hãy mở sổ tay học tập của bạn để bắt đầu hoạt động này.

Hoạt động tổng kết mô - đun: Hãy nhìn lại các hoạt động và bài tập của mô - đun để kiểm tra xem bạn đã làm xong chưa. Bổ sung và hoàn tất các phần để kết thúc mô - đun.

Hãy đọc phần Đối thoại chính sách của UNESCO về biến đổi khí hậu và Giáo dục vì sự PTBV. Sử dụng những tài liệu này để đối chiếu với những vấn đề giáo dục và biến đổi khí hậu mà bạn đã nghiên cứu tronng mô - đun này

Câu hỏi 28: Theo UNESCO, 4 ý nghĩa của việc giáo dục về biến đổi khí hậu là gì?

Câu hỏi 29: Bạn có cảm giác như thế nào nếu nói về khả năng giảng dạy về 8 chủ đề đã được đưa ra bởi UNESCO dưới đây?

Phân biệt 1 cách rõ ràng giữa các khái niệm khoa học và các quá trình liên quan đến biến đổi khí hậu khác nhau;

Có hiểu biết, và có khả năng phân biệt giữa những điều chắc chắn (certainties), điều không chắc chắn (uncertainties), những phỏng đoán (projections) và rủi ro (risks) liên quan đến biến đổi khí hậu;

Có hiểu biết về lịch sử và các nguyên nhân liên quan đến biến đổi khí hậu (bao gồm các khía cạnh công nghệ, khoa học, sinh thái, xã hội, kinh tế và chính trị);

Có hiểu biết về các hoạt động giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu, là những hoạt động có thể đóng góp cho sự chuyển đổi xã hội hướng tới sự bền vững một cách rộng lớn hơn;

Có hiểu biết về các hậu quả của biến đổi khí hậu và những kiến thức cần dạy về giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu;

Có nhận thức tốt về tính động lực học của biến đổi khí hậu, cả về mặt không gian và thời gian, mà các tác động tiềm tàng từ các khí nhà kính có thể gây nên cho chất lượng cuộc sống, sự an toàn và cơ hội phát triển cho các thế hệ tương lai;

Ý thức về những mối quan tâm khác nhau đang chi phối những hành động ứng phó với biến đổi khí hậu (ví dụ mối quan tâm của doanh nghiệp, của khách hàng, của những người nông dân, hay mối quan tâm về chính trị, hay về các thế hệ tương lai), và phải có khả năng nhận xét sâu sắc về tính chính đáng của những mối quan tâm này trong mối quan hệ với công ích; và

Có khả năng nhận thức thông tin truyền thông để xử lí nguyên nhân của việc tiêu dùng lãng phí và thông qua đó, xây dựng năng lực cho con người biết lựa chọn lối sống lành mạnh hơn và tham gia tích cực vào các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.

477

Page 29: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Câu hỏi 30: UNESCO cho rằng việc giáo dục về biến đổi khí hậu cần phải (i) mang lại sự thay đổi và (ii) thực tế và tập trung vào các giải pháp. Hãy tìm những mô - đun trong tài liệu Dạy và học vì một tương lai bền vững này mà trong đó bạn có thể tìm được những lời khuyên về cả 2 khía cạnh nói trên trong quá trình dạy và học.

UNESCO khuyến nghị rằng các trường học nên tổ chức đối thoại chính sách với các bên liên quan khác nhau với các chủ đề liên quan đến giáo dục và biến đổi khí hậu. Các buổi đối thoại này có thể ở cấp độ trung ương hoặc địa phương về một chính sách giáo dục và/hoặc chính sách biến đổi khí hậu nào đó, hoặc thậm chí nó có thể được tổ chức ở cấp độ trường học

Câu hỏi 31: Xác định các bên liên quan mà bạn định mời tham dự buổi đối thoại về biến đổi khí hậu và giáo dục ở trường của bạn. Bạn mong muốn đạt được mục đích hay kết quả nào từ cuộc đối thoại này?

478

Page 30: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Những phát hiện đột phá

Những kết quả quan sát về thay đổi trong hệ thống khí hậu, những nguyên nhân và tác động

Trái đất ấm lên là hiện tượng rõ ràng, được minh chứng qua các kết quả quan sát như:

o Hiện tượng tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khí quyển và đại dương, và sự gia tăng của mực nước biển trung bình;

o Hiện tượng tan chảy trên diện rộng của băng và tuyết.

Những kết quả quan sát từ các hệ thống sinh học và vật lí liên quan với hiện tượng nóng lên toàn cầu:

o Rất nhiều hệ sinh thái tự nhiên ở tất cả các châu lục và đại dương đ.ang bị ảnh hưởng.

70% lượng phát thải các khí nhà kính có khả năng gây ra nóng lên toàn cầu là trong khoảng thời gian từ 1970-2004.

Nồng độ của các khí mêtan (CH4), cácbonic(CO2), ôxit nitric (N2O) trong khí quyển hiện nay đang ở mức cao hơn nhiều so với nồng độ tự nhiên của các khí này trong suốt hàng nghìn năm trước cách mạng công nghiệp (1750).

Phần lớn sự nóng lên trong suốt 50 năm qua có rất nhiều khả năng là do sự gia tăng nồng độ của các khí gây hiệu ứng nhà kính trong bầu khí quyển từ hoạt động của con người.

Những nguyên nhân và phỏng đoán về biến đổi khí hậu trong tương lai và những ảnh hưởng của chúng

Nếu không có những chính sách mới để giảm biến đổi khí hậu và để thúc đẩy phát triển bền vững, các lượng phát thải khí nhà kính sẽ còn tiếp tục tăng trong các thập kỉ tiếp theo.

Mức tăng nhiệt độ khoảng 0.2oC/thập kỉ được phỏng đoán cho 2 thập kỉ tới (theo một số kịch bản của IPCC).

Sự thay đổi trong thế kỉ này rất có thể sẽ lớn hơn trong thế kỉ 20.

Các vùng đất liền sẽ ấm lên nhiều hơn các vùng đại dương, và các vùng vĩ độ cao ở bắc bán cầu cũng sẽ ấm lên nhanh.

Trái đất càng nóng lên, khả năng hấp thụ CO2 tự nhiên càng giảm đi.

Sự ấm lên và việc mực nước biển dâng cao sẽ tiếp diễn trong nhiều thế kỉ nữa, ngay cả khi mức phát thải các khí nhà kính đã giảm và nồng độ các khí nhà kính trong khí

479

Page 31: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

quyển được ổn định. Hiện tượng này là do những cơ chế phản hồi và độ trễ thời gian giữa nguyên nhân và tác động của hệ thống khí hậu.

Nếu mức các khí nhà kính trong không khí gấp đôi so với mức trước cách mạng công nghiệp, thì rất có thể nhiệt độ trung bình của Trái đất sẽ tăng lên hơn 1,50C so với thời kì đó.

Ứng phó với biến đổi khí hậu

Một vài kế hoạch thích ứng với biến đổi khí hậu đã và đang được thực hiện nhưng chúng ta cần phải làm nhiều hơn nữa để giảm thiểu mức độ dễ bị tổn thương.

Biến đổi khí hậu mà không có sự giảm nhẹ trong dài hạn có thể sẽ vượt quá khả năng thích ứng của con người và tự nhiên.

Hiện nay đã có một số giải pháp công nghệ để giảm nhẹ biến đổi khí hậu, và sẽ có thêm nhiều giải pháp nữa từ giờ đến năm 2030. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần những nghiên cứu và thúc đẩy hành động hơn nữa để cải thiện hiệu quả và giảm chi phí.

Tiềm năng kinh tế của việc giảm nhẹ, với chi phí dao động trong khoảng từ dưới 0 đô la cho đến khoảng 100 đô la cho mỗi tấn CO2 tương đương, sẽ là đủ cho việc bù đắp cho mức tăng phát thải toàn cầu theo dự kiến, hoặc là đủ để giảm chúng xuống dưới mức hiện tại vào năm 2030.

Các hoạt động giảm nhẹ ngay lập tức có thể cho chúng ta thêm thời gian để ổn định mức phát thải và làm giảm, làm chậm đi hoặc tránh được những tác động của biến đổi khí hậu.

PTBV và hoạch định các chính sách thích hợp trong những lĩnh vực không liên quan trực tiếp đến khí hậu cũng giúp cho việc ổn định phát thải.

Trì hoãn giảm phát thải sẽ làm tăng rủi ro xảy ra những tác động nghiêm trọng hơn từ biến đổi khí hậu.

Nguồn: Kirby, A. (2008) Climate in Peril, UNEP/GRID-Arendal and SMI Books, p.

Những điểm không chắc chắn chính

Những kết quả quan sát về thay đổi trong hệ thống khí hậu, những nguyên nhân và tác động

Dữ liệu về khí hậu hạn chế ở một vài khu vực.

Việc phân tích và giám sát những thay đổi của các hiện tượng thời tiết cực đoan, như hạn hán, bão nhiệt đới, các nhiệt độ khắc nghiệt và mưa lớn với cường độ cao (mưa, mưa đá, tuyết), là khó hơn rất nhiều so với việc xác định các thông số trung bình của khí hậu do cần nhiều số liệu chi tiết hơn và qua thời gian dài hơn.

Rất khó để xác định những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến con người và các hệ thống tự nhiên, bởi vì những hệ thống này có thể thích nghi với thay đổi này, và cũng

480

Page 32: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

có thể bởi vì một ảnh hưởng có thể gây ra bởi các nguyên nhân không liên quan khác.

Khó có thể chắc chắn rằng, ở những quy mô nhỏ hơn quy mô một lục địa, do tự nhiên hay con người là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến sự thay đổi nhiệt độ. Bởi vì, lấy ví dụ vấn đề ô nhiễm và thay đổi sử dụng đất đều có thể là nguyên nhân chính.

Người ta vẫn chưa chắc chắn về quy mô phát thải khí CO2 gây ra bởi các hoạt động thay đổi sử dụng đất và quy mô phát thải khí metan từ các nguồn riêng lẻ.

Những nguyên nhân và phỏng đoán về biến đổi khí hậu trong tương lai và những ảnh hưởng của chúng

Chúng ta không biết chắc chắn về lâu dài việc Trái đất sẽ nóng lên bao nhiêu tương ứng với các mức nồng độ các khí nhà kính. Chính vì vậy, chúng ta cũng không biết chắc chắn phải giảm mức thải đến mức nào, và với tốc độ như thế nào là đủ để đảm bảo một mức độ ổn định.

Các ước tính có sự khác biệt rất lớn do ảnh hưởng của các khí aerosol, mức độ của các cơ chế phản hồi trong hệ thống khí hậu, đặc biệt là các cơ chế liên quan đến mây, khả năng hấp thụ nhiệt của đại dương và vòng tuần hoàn cácbon.

Những sự thay đổi trong tương lai có thể diễn ra ở Greenland và các vùng băng ở Nam cực là nguyên nhân chính của tính không chắc chắn về mức nước biển dâng.

Phỏng đoán về những tác động của biến đổi khí hậu cho đến 2050 phụ thuộc nhiều vào các kịch bản và mô hình khí hậu.

Ứng phó với biến đổi khí hậu

Hiểu biết hạn chế về việc các nhà lập kế hoạch xem xét đến khí hậu như thế nào trong quá trình ra quyết định của họ.

Mỗi hoàn cảnh chính trị, tài chính và địa lí khác nhau có những bước thích ứng hiệu quả khác nhau, đặc thù cho hoàn cảnh đó. Điều này làm cho việc đánh giá đúng hạn chế và chi phí liên quan trở nên khó khăn hơn.

Ước tính về chi phí và tiềm năng giảm nhẹ phụ thuộc vào những giả định về sự tăng trưởng kinh tế - xã hội, quá trình thay đổi công nghệ và xu hướng tiêu dùng.

Chúng ta vẫn chưa biết nhiều lắm về việc những chính sách không liên quan đến khí hậu có ảnh hưởng đến sự phát thải như thế nào.

Nguồn: Kirby, A. (2008) Climate in Peril, UNEP/GRID-Arendal and SMI Books, trang 7

481

Page 33: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Các lo i khí nhà kính chínhạ

Tên khí

Nồng độ thời kì tiền công

nghiệp (ppmv3*)

Nồng độ vào năm 1998

(ppmv)

Vòng đời (năm) Nguồn gốc GWP4 **

Hơi nước 1 đến 3 1 đến 3 1 vài ngày - -

Khí cacbonic (CO2)

280 365 Tùy thuộc Nhiên liệu hóa thạch, sản xuất xi măng, sự thay đổi sử dụng đất

1

Khí metan (NH4)

0.7 1.75 12Nhiên liệu hóa thạch, đồng lúa, chất thải chăn nuôi

21

Khí nitơ ôxit (N2O) 0.27 0.31 114

Phân bón, sự đốt cháy, quá trình công nghiệp

310

Khí HFC 23 (CHF3)

0 0.000014 250 Điện tử, chất làm lạnh 12 000

HFC 134a (CF3CH2F) 0 0.0000075 13.8 Chất làm lạnh 1 300

HFC 152a (CH3CHF2)

0 0,0000005 1.4 Quá trình công nghiệp 120

Perfluoromethane (CF4)

0.0004 0.00008 >50 000 Sản xuất nhôm 5 700

Perfluoroethane (C2F6)

0 0.000003 10 000 Sản xuất nhôm 11 900

Sulphur hexafluoride (SF6)

0 0.0000042 3 200 Chất lỏng điện môi 22 200

Nguồn: Kirby, A. (2008) Climate in Peril, UNEP/GRID-Arendal and SMI Books, trang 19

3 ppmv: phần triệu thể tích (part per million volume)4 Global Warming Potential: Khả năng gây ra sự ấm lên toàn cầu (xét trên một khoảng thời gian là 100 năm) xem thêm: http://en.wikipedia.org/wiki/Global_warming_potential

482

Page 34: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Tác động của biến đổi khí hậu

Sahel là một vùng khô hạn nghiêm trọng trong suốt nhiều thập kỉ cho đến khi có mưa trở lại vào những năm 1990. Trong nhiều thập kỉ tới, vùng này có thể sẽ có thời tiết ẩm ướt hơn so với trước. Đồng thời cũng đã có những quan sát cho thấy tại vùng Mũi Horn của Châu Phi và Đông Bắc Phi, ở những nơi cực kì khô hạn như ở Ethiopia, Bắc Kenya và Bắc Uganda trong những năm gần đây đã xuất hiện lũ lụt.

Hạn hán ở khu vực Nam Phi, vốn là tai họa của vùng này trong suốt nhiều năm kể từ những năm 1970, được phỏng đoán là sẽ có khả năng tiếp tục gia tăng về cường độ. Một phần nguyên nhân là do nhiệt độ ở Ấn Độ Dương đã tăng thêm hơn 1oC kể từ năm 1950. Vì mưa rào và dông tăng lên ở các vùng khí nóng bốc hơi từ bề mặt đại dương, khiến cho các khối khí khô bị đẩy xuống và gây ra hạn hán ở những vùng xung quanh, trong đó bao gồm cả Nam Phi.

Bức tranh tại các khu vực miền núi Đông Phi có sự lẫn lộn hơn. Sự ấm lên đang làm tan chảy các dòng sông băng trên đỉnh núi Kilimanjaro, gây ảnh hưởng nặng nề đến nguồn nước của các cộng đồng dân cư sống tại những vùng đất thấp hơn phía dưới. Trong khi đó, những khu vực miền núi như ở Lesotho lại đang phải hứng chịu những đợt thời tiết khắc nghiệt bất thường, trong đó có cả tuyết rơi dày.

Tại Bangladesh, nếu mực nước biển dâng thêm 1m (số liệu phỏng đoán vào năm 2100), sẽ làm ngập khoảng 17,5% diện tích đất của cả quốc gia này khiến cho khoảng 10-30 triệu người sẽ phải sơ tán. Nếu mực nước biển tăng 0,5m sẽ làm khoảng 6 triệu người có khả năng bị ảnh hưởng do lũ lụt. Nước biển dâng do bão có khả năng gây ra những tác động tương tự như do nước biển dâng gây ra, nhưng sẽ xảy ra sớm hơn nhiều. Một hậu quả của biến đổi khí hậu nữa là sự suy giảm chất lượng sức khỏe.

Vùng Mumbai, Ấn Độ đã ghi nhận lượng mưa kỉ lục 944mm vào tháng 7 năm 2005, khiến hơn 1000 người thiệt mạng. Biến đổi khí hậu khiến các bệnh truyền nhiễm qua muỗi như sốt rét, sốt vàng da và sốt xuất huyết sẽ mở rộng vùng ảnh hưởng, và làm gia tăng các bệnh truyền nhiễm qua đường nước như bệnh tả vào mùa lũ, đặc biệt ở các khu vực vệ sinh kém.

Cơn bão Nargis quét qua Miến Điện vào tháng 5 năm 2008 đã giết chết khoảng 150.000 người và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến 2.400.000 người.

Ở vùng biển Caribbe, nhiệt độ nước biển tăng lên cùng với El Nino đã khiến cho các rạn san hô bị chết. Điều này sẽ có những tác động nghiêm trọng trước hết là đến đa dạng sinh học và sau đó là du lịch. Tuy nhiên, chính các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt mới là vấn đề đáng lo ngại. Cơn bão Ivan xảy ra vào tháng 9 năm 2004 trên thực tế đã phá hủy nền kinh tế của Grenada, và cũng chính cơn bão này, cùng với cơn bão Dean cũng đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến Jamaica.

Vào tháng 4 năm 2008, cuộc biểu tình và bạo loạn do giá lương thực tăng cao tại Haiti kéo dài 1 tuần lễ đã làm ít nhất 5 người chết và 200 người bị thương.

Những tác động này cũng có thể xảy ra ở vùng biển Ấn Độ Dương. Chẳng hạn, nước biển dâng và những thiệt hại đối với ngành thủy sản có thể là tai họa cho những nền kinh tế quốc

483

Page 35: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

đảo như Seychelles và Maldives, nơi thủy sản và du lịch là nguồn thu nhập lớn nhất. Từ nhiều năm nay, trước tình trạng nguồn cá sụt giảm, những cư dân nơi đây đã sử dụng các đội tàu đánh cá lớn hơn và những con tàu kéo lưới vét lớn hơn, nhưng tình trạng này cũng không thể kéo dài.

Ở Guyana, một hệ thống đê được xây dựng để về mặt lí thuyết nhằm bảo vệ các vùng đất màu mỡ nhất ở ven biển, nhưng trên thực tế lại nằm thấp hơn mực nước biển. Thêm vào đó, cùng với mực nước biển dâng lên, các ngành nông nghiệp ven biển rất dễ bị ảnh hưởng bởi lũ lụt, bởi nước dâng do bão và nước biển dâng. Trong những năm gần đây, ở Guyana đã xảy ra nhiều trận lụt trên diện rộng, và có nhiều khả năng tình hình này sẽ diễn ra nhiều hơn và gây hậu quả nghiêm trọng đến nền kinh tế.

Biến đổi khí hậu rất có thể là nguyên nhân của nhiều sự thay đổi nghiêm trọng tại Australia. Gần một thập kỉ nay, Australia đang phải hứng chịu tình trạng hạn hán khiến cho các trang trại gia súc giống phải dịch chuyển đến các vùng đồng cỏ tại Tasmania. Nạn cháy các đồng cỏ là một mối hiểm họa thường xuyên. Và một số vùng đất canh tác đang đứng trước nguy cơ bị bỏ hoang vĩnh viễn. Tỉ lệ tự sát của nông dân tăng lên.

Tại quần đảo Carteret ngoài khơi Papua New Guinea, sự kết hợp của mực nước biển dâng và sóng dâng do bão khiến con người không thể sinh sống và hiện nay các đảo này đang bị bỏ hoang. Cũng tương tự như vậy ở Ấn Độ Dương nhiều hòn đảo thuộc quần đảo Maldives có khả năng trở thành hoang đảo do nước biển dâng, mặc dù chính phủ nước này đang cố gắng xây dựng hệ thống đê biển bảo vệ xung quanh các đảo chính.

Nhiều quốc đảo Thái Bình Dương cũng đối mặt với vấn đề tương tự của nước biển dâng. Đây cũng là những quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào nghề đánh bắt cá ngừ, ngành nghề đem lại thu nhập chủ đạo của nền kinh tế. Tuy nhiên, những đặc điểm của loài cá di cư này chắc chắn sẽ thay đổi cùng với sự thay đổi của các dòng hải lưu.

Tại Mỹ, cơn bão Katrina đã tàn phá vùng duyên hải vịnh Mexico, gây ra ngập lụt và khiến cho nhiều vùng phải sơ tán mà cho đến nay vẫn chưa được xây dựng lại. Cơn bão Katrina này cũng đã cướp đi mạng sống của 1.836 người.

Đợt nắng nóng ở Châu Âu vào năm 2003 đã cướp đi sinh mạng của khoảng 35.000 người thuộc 9 quốc gia. Vào mùa hè năm 2007, sau một tháng mưa kỉ lục, toàn bộ nước Anh đã bị ngập lụt trên diện rộng, gây thiệt hại 4 tỉ đô la và khiến quốc gia này phải có những nỗ lực ứng cứu lớn nhất trong thời bình.

Nguồn: New Internationalist and Commonwealth Foundation.

Theo các nhà khoa học, 85% diện tích rừng Amazon có thể bị biến mất do biến đổi khí hậu

Các nhà khoa học cho rằng, mức tăng nhiệt độ 4oC có thể sẽ tàn phá 85% diện tích rừng mưa Amazon - và ngay cả khi có mức tăng nhiệt độ khiêm tốn, sẽ có từ 20 đến 40% diện tích rừng có thể bị biến mất trong vòng 100 năm.

Sự nóng lên toàn cầu sẽ phá hủy các nỗ lực để cứu rừng nhiệt đới Amazon, là kết luận của một nghiên cứu mới dự đoán rằng 1/3 số cây của rừng Amazon sẽ bị chết ngay cả khi nhiệt độ tăng vừa phải.

484

Page 36: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Nghiên cứu này cũng cho thấy rằng có đến 85% diện tích rừng có thể biến mất nếu chúng ta không kiểm soát được lượng phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên thậm chí theo các kịch bản biến đổi khí hậu lạc quan nhất, sự mất đi phần lớn diện tích rừng là "không thể thay đổi được".

Vicky Pope từ Trung tâm Hadley của Cơ quan khí tượng Vương quốc Anh cho biết: "Những tác động của biến đổi khí hậu lên rừng Amazon còn tồi tệ hơn chúng ta nghĩ. Cùng với việc nhiệt độ tăng lên nhanh chóng trong thế kỉ tới, những thiệt hại về rừng sẽ không hiển hiện ngay lập tức, nhưng có thể chúng ta đang tích tụ những vấn đề cho tương lai”.

Một nhà khoa học khác nói rằng: "Khi tôi còn trẻ, tôi nghĩ việc chặt phá rừng là nguyên nhân mất rừng chính nhưng bây giờ có vẻ như là biến đổi khí hậu mới là thủ phạm kết liễu chính”.

Nghiên cứu này sử dụng những mô hình trên máy tính để khảo sát những phản ứng của rừng Amazon khi nhiệt độ tăng trong tương lai.

Kết quả của nghiên cứu này chỉ ra rằng với mức tăng 2oC so với nhiệt độ thời kì tiền công nghiệp (một trong những kịch bản ấm lên toàn cầu lạc quan nhất và cũng là mục tiêu quốc tế tham vọng nhằm hạn chế lượng khí thải), sẽ vẫn có khoảng từ 20-40% diện tích rừng Amazon biến mất trong vòng 100 năm. Nhiệt độ tăng 3oC sẽ có 75% diện tích rừng bị tàn phá bởi hạn hán trong thế kỉ sau, tăng 4oC sẽ là 85%.

Các chuyên gia trước đó cũng đã dự đoán rằng sự nóng lên toàn cầu có thể gây ra hiện tượng chết dần của rừng Amazon. Các chuyên gia dự báo rằng mức nhiệt độ cao hơn trên toàn thế giới sẽ làm giảm lượng mưa ở khu vực Amazon, gây ra hạn hán ở cấp độ địa phương trên diện rộng. Nhiệt độ tăng sẽ kéo theo sự suy giảm lượng mưa. Và do lượng nước và sự tăng trưởng của cây giảm, lượng mưa rừng tự sinh của khu vực này cũng sụt giảm theo, bởi vì nó phụ thuộc vào lượng nước bốc hơi từ thực vật trở lại bầu khí quyển. Chu kì này cứ thế tiếp diễn và lượng mưa ngày càng ít đi, gây ra hạn hán ngày càng nhiều. Không có nước, hệ thống rễ sẽ không phát triển và cây sẽ chết. Rừng trở nên khô héo và sẽ dễ bắt lửa, và [một khi bị cháy] sẽ có nguy cơ phá hủy cả những cánh rừng vẫn còn khỏe mạnh. Peter Cox, một giáo sư về động lực học của hệ thống khí hậu làm việc tại Đại học Exeter (Vương quốc Anh) cho biết, những ảnh hưởng này sẽ được cảm nhận ở quy mô toàn thế giới. "Về phương diện sinh thái đó sẽ là một thảm họa, và đó một sự may rủi đối với tình hình khí hậu của chúng ta. Vùng nhiệt đới là trung tâm điều khiển của hệ thống thời tiết toàn cầu và phá hủy vùng Amazon có thể sẽ thay đổi chúng mãi mãi. Chúng ta không biết chính xác những gì sẽ có thể xảy ra, nhưng chắc chắn là sẽ có thêm những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt”. Theo ông, sự biến mất trên quy mô lớn của rừng Amazon cũng sẽ khuếch đại sự nóng lên toàn cầu “một cách đáng kể”.

“Phá hủy rừng Amazon cũng đồng nghĩa với việc chúng ta biến một bể chứa cacbon quan trọng trở thành một nguồn phát thải lớn”

485

Page 37: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Khi những dòng sông gầm rú, là lúc cần chuyển đi – nhưng chuyển đi đâu?

Các cư dân nông thôn và cư dân bản địa đã luôn chung sống với những biến đổi của môi trường. Ngày nay, những biện pháp truyền thống để đối phó với những biến đổi môi trường nói trên có thể là nền tảng cho những nỗ lực thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu. Tuy nhiên trong một số trường hợp, những biện pháp truyền thống vốn đã được minh chứng qua thời gian này có thể bị hạn chế do những yếu tố mới hoặc những yếu tố bên ngoài.

Người Shipibo là những cư dân bản địa của vùng Amazon thuộc Peru (Nam Mỹ) có lãnh thổ truyền thống là vùng đồng bằng châu thổ sông Ucayali. Ngoài nguồn sinh kế chính là việc đánh bắt cá, tập quán nông nghiệp đốt rừng làm rẫy đồng thời cũng là nguồn cung cấp tài nguyên bổ sung quan trọng. Những ngôi làng của họ chủ yếu là những ngôi nhà sàn xây dựng bên bờ sông và hồ trong vùng đồng bằng ngập lũ, theo cách này họ hưởng lợi từ nguồn thủy sản dồi dào và các vùng đất màu mỡ được bồi đắp bởi phù sa từ những mùa lũ.

Để ứng phó với những biến chuyển động lực của sông Ucayali khiến cho các nhánh sông liên tục thay đổi, người dân Shipibo đã chọn cách sống di chuyển. Họ chuyển đến địa điểm mới khi quá trình chuyển dịch của con sông này làm ngập ruộng vườn của họ, khiến cho mùa màng không thể phát triển, và khi bờ sông bị xói mòn đến mức nghiêm trọng và đe dọa nhà cửa của họ. Họ đã tự chuẩn bị cho tương lai bằng cách khảo sát những vị trí của ngôi làng trong tương lai. Một trong những đặc điểm quan trọng đó là khu vực mới phải có địa hình cao để những ngôi nhà của họ ít bị ngập lụt hơn, và ở gần khu vực có thể đánh bắt cá, ví dụ như là ở những con kênh nối giữa các hồ và sông Ucayali.

Để tiện di chuyển, người dân Shipibo xây dựng nhà ở của họ bằng các vật liệu nhẹ, ví dụ như, mái nhà làm bằng vải dệt từ lá của cây cọ kantsin (Scheelea brachyclada), cột và dầm làm từ gỗ nhẹ. Căn nhà được thiết kế thuận tiện cho việc tháo dỡ và lắp ráp lại. Người Shipibo nhận biết được một số những dấu hiệu để dự đoán khi nào những đợt lũ sắp xảy ra. Ví dụ như là khi các vùng nước trở nên tối màu và dòng sông cuốn theo một khối lượng lớn những cành và thân cây gẫy. Người dân Shipibo cũng nhận thấy rằng mỗi khi các vùng nước sông cuộn sóng và gầm rú, thường là sự báo hiệu một đợt lũ lớn sắp xảy ra, và chẳng mấy chốc sẽ xói mòn bờ hai bên bờ sông và đe dọa đến ngôi làng.

Những biện pháp truyền thống đã giúp người Shipibo chuẩn bị và ứng phó với những biến đổi môi trường tại địa phương cũng có thể sẽ giúp được họ ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo người dân Shipibo, mùa mưa đã trở nên dài hơn và mưa lớn hơn. Điều này khiến lưu lượng dòng chảy mạnh hơn, làm gia tăng hiện tượng xói mòn hai bờ sông và khiến cho các nhánh sông dịch chuyển nhanh chóng hơn. Tăng cường tính dịch chuyển cũng có thể là một biện pháp ứng phó.

Tuy nhiên, ngày nay những vị trí thích hợp và chưa có người cư ngụ để thiết lập làng mới ngày càng trở nên khó tìm hơn. Những người từ nơi khác đến đã và đang xâm lấn vùng lãnh thổ và gây ra sự cạnh tranh về đất đai và tài nguyên ở đây. Những khu vực rộng lớn đang dần bị chuyển đổi sang sử dụng cho nông nghiệp thâm canh để cung cấp thực phẩm cho thị trường địa phương và quốc gia. Những phần khác của vùng lãnh thổ của người Shipibo cũng đã bị nhà nước lấy lại để khai thác gỗ hoặc dầu khí.

486

Page 38: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Do đó, những chiến lược thích nghi truyền thống của người Shipibo, khả năng di chuyển ngôi làng của họ nhằm ứng phó với những thay đổi của môi trường hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Những sự lựa chọn để ứng phó và thích nghi với biến đổi khí hậu đang bị suy giảm dần. Quả thật, trước một loạt các thay đổi môi trường và xã hội, ngày càng nhiều người dân Shipibo dời quê hương truyền thống của họ và chuyển đến các thành phố như Pucallpa hoặc thậm chí Lima, mà ở đây họ trở thành nhóm thứ yếu.

487

Page 39: MÔ - ĐUN 19: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Ba sự bất công của Biến đổi khí hậu

Bất công thứ nhất: Biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng nhiều nhất và trước tiên là đến những người nghèo

Hàng trăm nghìn người đã chết vì những trận lũ lụt, hạn hán, những đợt nắng nóng, bão nhiệt đới và bệnh dịch mà hiện tượng nóng lên toàn cầu gây ra. Số người thiệt mạng được dự đoán là sẽ tăng lên đến hàng triệu chỉ trong một vài thập kỉ tới. Gần như tất cả những thương vong do biến đổi khí hậu này - và những người chịu rủi ro nhiều nhất - là những người nghèo sống chủ yếu ở các nước thuộc thế giới thứ ba.

Bất công thứ 2: Những người bị ảnh hưởng nhiều nhất không phải là người gây ra biến đổi khí hậu và cũng không có khả năng để ngăn chặn nó

Biến đổi khí hậu xảy ra phần lớn là do việc đốt nhiên liệu hóa thạch ở nước công nghiệp, và những nước giàu có nhất là những nước phải chịu trách nhiệm nhiều nhất cho việc làm nóng hành tinh. Như Panapase Nelisoni, một người Tuvalu (một trong những quốc đảo ở Thái Bình Dương đang dần bị biến mất do mực nước biển dâng) đã nhận xét một cách rất đúng đắn: “Các nước công nghiệp gây ra vấn đề này, nhưng chúng tôi lại là những người phải gánh chịu hậu quả… chỉ thật sự có công bằng nếu những nước công nghiệp và các ngành công nghiệp phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Đó là nguyên tắc người gây ô nhiễm phải bồi thường: Bạn gây ô nhiễm, bạn phải bồi thường”.

Bất công thứ 3: Những người gây ô nhiễm không bồi thường

Trên thực tế, lượng phát thải khí nhà kính - trong đó khí cacbonic chịu trách nhiệm cho 80% sự nóng lên, những khí nhà kính khác bao gồm là mê tan, ni tơ oxit và một số loại khí thải công nghiệp – vẫn tiếp tục tăng ở các nước phát triển, mặc dù những nước này đã kí Nghị định thư Kyoto với cam kết là giảm phát thải khí nhà kính. Nghị định thư Kyoto được cho là sẽ dẫn đến những hỗ trợ tài chính cho các nước nghèo như Tuvalu, vốn đang phải vật lộn với cuộc chiến chống khủng hoảng khí hậu, nhưng cộng đồng quốc tế đã cho thấy họ không quan tâm lắm đến điều đó. Các quốc gia thuộc nhóm G8 cho đến nay đã cam kết một số tiền quá ít ỏi vào khoảng gần 6 tỉ đô la - và được phân phối thông qua các khoản vay của Ngân hàng Thế giới, buộc các quốc gia chịu ảnh hưởng phải chi trả gấp đôi, cộng thêm vào đó là những điều kiện nghiêm ngặt của Ngân hàng Thế giới. Hãy so sánh điều này với hàng trăm tỉ đô la tiền cứu trợ cho các ngân hàng trong khủng hoảng kinh tế, với rất ít những điều kiện kèm theo. Sự bất công trở nên rất khó có thể chấp nhận được.

Hãy đọc thêm về những bất công của biến đổi khí hậu trong New internationalist, số 419, 2009.

488