Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ,
tục ngữ tiếng Hàn
Nguyễn Thùy Dương
Trường Đại học KHXH&NV
Luận văn ThS. Chuyên ngành: Khu vực học; Mã số: 60 31 50
Người hướng dẫn: GS. Mai Ngọc Chừ
Năm bảo vệ: 2013
Abstract: Thống kê và phân loại một cách có hệ thống các tín hiệu thẩm mỹ
trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn. Tìm hiểu về chất liệu và ý nghĩa của các
tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn qua các nhóm: Nhóm
chất liệu là tự nhiên; Nhóm chất liệu là thực vật; Nhóm chất liệu là động vật;
Nhóm chất liệu là vật thể nhân tạo; Nhóm chất liệu là bộ phận cơ thể người.
Phân tích dấu ấn văn hóa – dân tộc thể hiện qua chất liệu của các tín hiệu
thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn, có so sánh, đối chiếu với tục
ngữ, thành ngữ tiếng Việt. Từ đó cho thấy những nét tương đồng và dị biệt
trong phong cách tư duy, lối sinh hoạt, trong đặc trưng văn hóa giữa hai
nước Hàn Quốc và Việt Nam.
Keywords: Châu Á học; Thành ngữ; Tục ngữ; Tiếng Hàn
Content
4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………….. 1
1. Lí do chọn đề tài …………………………………………………... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ………………………………………… 2
3. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………… 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ………………………………… 7
5. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………….. 7
6. Đóng góp của luận văn …………………………………………… 8
7. Cấu trúc của luận văn ……………………………………………... 8
PHẦN NỘI DUNG ………………………………………………….. 9
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 9
1.1. Tín hiệu thẩm mỹ ………………………………………………... 9
1.1.1. Tín hiệu …………………………………………………….. 9
1.1.2. Tín hiệu ngôn ngữ …………………………………………. 10
1.1.3. Tín hiệu thẩm mỹ ………………………………………….. 15
1.2. Thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn …………………………………... 17
1.2.1. Khái niệm thành ngữ, tục ngữ trong tiếng Hàn ……………. 17
1.2.1.1. Khái niệm tục ngữ …………………………………… 17
1.2.1.2. Khái niệm thành ngữ …………………………………. 18
1.2.2. Nguồn gốc và tầm quan trọng của thành ngữ, tục ngữ ……... 19
1.2.2.1. Nguồn gốc của thành ngữ, tục ngữ ……………………. 19
1.2.2.2. Tầm quan trọng của thành ngữ, tục ngữ ………………. 20
1.2.3. Phân loại thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn …………………….. 21
1.2.3.1. Phân loại tục ngữ ……………………………………… 21
1.2.3.1.1. Tục ngữ chứa đựng ý nghĩa giáo huấn ………….. 21
1.2.3.1.2. Tục ngữ chứa đựng ý nghĩa ẩn dụ ………………. 21
1.2.3.1.3. Tục ngữ chứa đựng ý nghĩa cấm kỵ ………………. 22
5
1.2.3.2. Phân loại thành ngữ ……………………………………... 23
1.2.3.2.1. Thành ngữ truyền thống (thành ngữ thuần Hàn) ….. 23
1.2.3.2.2. Thành ngữ vay mượn phương Tây ………………... 24
Tiểu kết ………………………………………………………………. 24
Chương 2: CHẤT LIỆU VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC TÍN HIỆU
THẨM MỸ TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TIẾNG HÀN …….
26
2.1. Nhóm chất liệu tự nhiên ……………………………………… 26
2.1.1 Hình ảnh “nước” ……………………………………………. 27
2.1.2. Hình ảnh “lửa” ……………………………………………... 30
2.1.3. Hình ảnh “đá” ……………………………………………… 31
2.1.4. Hình ảnh “núi” …………………………………………….. 32
2.1.5. Hình ảnh “gió” …………………………………………….. 32
2.2. Nhóm chất liệu thực vật ………………………………………. 34
2.2.1. Hình ảnh “đậu” …………………………………………….. 36
2.2.2 Hình ảnh “cây” (cành, lá, rễ) ………………………………. 39
2.2.3. Hình ảnh “hoa” ……………………………………………. 41
2.2.4. Hình ảnh “bầu, bí” …………………………………………. 43
2.2.5. Hình ảnh “gạo” (thóc, lúa, mạ) …………………………… 44
2.3. Nhóm chất liệu động vật ……………………………………… 45
2.3.1. Hình ảnh “bò” ………………………………………………. 47
2.3.2. Hình ảnh “ngựa” ……………………………………………. 48
2.3.3 Hình ảnh “hổ, báo” ………………………………………….. 50
2.3.4. Hình ảnh “gà” ………………………………………………. 51
2.3.5. Hình ảnh “chuột” …………………………………………… 53
2.4. Nhóm chất liệu vật thể nhân tạo …………………………….... 54
2.4.1. Hình ảnh “quần, áo, váy” …………………………………. 56
2.4.2. Hình ảnh “dao” ……………………………………………. 57
6
2.4.3. Hình ảnh “cửa, cổng” ……………………………………... 58
2.4.4. Hình ảnh “bát, đĩa” ………………………………………... 59
2.4.5. Hình ảnh “cái kim” ………………………………………... 60
2.5. Nhóm chất liệu bộ phận cơ thể người ………………………… 61
2.5.1. Bộ phận “mắt” ……………………………………………... 62
2.5.2. Bộ phận “chân” ……………………………………………. 65
2.5.3. Bộ phận “tay” ……………………………………………… 67
2.5.4. Bộ phận “miệng” …………………………………………... 69
2.5.5. Bộ phận “lòng, bụng, dạ” ………………………………….. 70
Tiểu kết ……………………………………………………………… 71
Chương 3: DẤU ẤN VĂN HÓA – DÂN TỘC THỂ HIỆN QUA
CHẤT LIỆU CỦA CÁC TÍN HIỆU THẨM MỸ TRONG THÀNH
NGỮ, TỤC NGỮ TIẾNG HÀN (CÓ LIÊN HỆ, SO SÁNH VỚI
THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TIẾNG VIỆT) ..........................................
74
3.1. Nhóm chất liệu tự nhiên ……………………………………… 75
3.2. Nhóm chất liệu thực vật ……………………………………… 80
3.3. Nhóm chất liệu động vật ……………………………………… 84
3.4. Nhóm chất liệu vật thể nhân tạo ……………………………… 92
3.5. Nhóm chất liệu bộ phận cơ thể người ………………………… 96
Tiểu kết ………………………………………………………………. 101
PHẦN KẾT LUẬN ………………………………………………….. 105
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Thành ngữ, tục ngữ là biểu hiện đặc trưng trong ngôn ngữ của mỗi một đất nước, do đó người
học ngoại ngữ muốn đạt đến năng lực ngôn ngữ gần như người bản ngữ thì việc hiểu và sử dụng thành ngữ là
một bộ phận không thể bỏ qua. Thành ngữ, tục ngữ ra đời từ rất sớm. Nó là sản phẩm của tư duy, là công cụ
diễn đạt những tri thức, kinh nghiệm quý báu, những triết lý nhân sinh vừa sâu sắc, thâm thúy, vừa không
kém phần nghệ thuật, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Do đó, hiểu về thành ngữ và tục ngữ
chính là con đường ngắn nhất để những người học ngoại ngữ hiểu về văn hóa xã hội của một đất nước và dễ
dàng tìm cách hòa nhập với xã hội đó.
1.2. Trong mấy năm gần đây, số lượng người Việt Nam học tiếng Hàn ngày càng tăng, do đó mối
quan tâm về Hàn Quốc cũng ngày càng tăng mạnh. Mặt khác, Hàn Quốc cũng là một đối tác kinh tế chiến
lược của Việt Nam, đồng thời Hàn Quốc là một quốc gia trọng tâm với những gia đình đa văn hóa đang tiến
tới năm 2014 sẽ lựa chọn tiếng Việt là ngoại ngữ hai trong kỳ thi vào đại học. Những điều đó cho thấy quan
hệ hợp tác giữa hai nước ngày càng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực và điều đó dẫn đến mối quan tâm, tìm
hiểu về ngôn ngữ và văn hóa giữa hai dân tộc cũng không ngừng tăng lên. Mà khi học một ngoại ngữ nào đó,
việc tìm hiểu về mảng thành ngữ, tục ngữ trong ngôn ngữ đó là điều hết sức cần thiết.
1.3. Từ lâu, thành ngữ, tục ngữ đã được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau và góc độ nào cũng
đem đến những điều thú vị. Thế nhưng theo chúng tôi, việc tìm hiểu các loại hình ảnh, các chất liệu làm nên
thành ngữ, tục ngữ; tìm hiểu về ý nghĩa biểu trưng, về tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ, đặc biệt là
trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn từ
phía những người học và nghiên cứu chuyên sâu về Hàn Quốc và Hàn Quốc học.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về tín hiệu thẩm mỹ
Thuật ngữ tín hiệu thẩm mỹ (hay ký hiệu thẩm mỹ) ra đời gắn với khuynh hướng cấu trúc trong
nghiên cứu mỹ học và nghệ thuật những năm giữa thế kỷ XX, được đưa vào sử dụng ở nước ta từ những năm
70 của thế kỷ trước qua các bản dịch công trình của Iu. A. Philipiep [12], M.B. Khrapchenkô [4], các công
trình, bài viết của Hoàng Tuệ [16], Hoàng Trinh [15], Đỗ Hữu Châu [1], Nguyễn Lai [6], Trần Đình Sử
[13] ... Ở nước ta, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các hình thức thẩm mỹ cụ thể của văn học như:
những "mẫu đề" (môtíp), những biểu tượng, biểu trưng, những ẩn dụ, hoán dụ...
2.2. Lịch sử nghiên cứu tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt
Tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ cũng đã được các nhà nghiên cứu ở Việt Nam bàn đến từ
lâu. Ví dụ như trong phần tiểu luận quyển “ Tục ngữ Việt Nam” của nhóm tác giả Chu Xuân Diên, Lương
Văn Đang, Phương Tri; “Tục ngữ Việt Nam – cấu trúc và thi pháp” của Nguyễn Thái Hòa, trong “Tìm hiểu
thi pháp tục ngữ Việt Nam” của Nguyễn Thị Đào; “Khảo luận về tục ngữ người Việt” của Triểu Nguyên;
“Biểu trưng trong tục ngữ người Việt” của Nguyễn Văn Nở và ở khá nhiểu bài viết của Nguyễn Đức Dân
cùng các nhà nghiên cứu khác.
2.3. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn
Bản thân thuật ngữ “thành ngữ” đã được triển khai hết sức đa dạng bởi nhiều nhà nghiên cứu. Đầu
tiên là các nhà nghiên cứu như: Kim Jong Thaek (1971), Kim Sưng Hô (1981), Park Jin Su (1986), Heo Seok
(1989) đã đưa ra thuật ngữ là “quán ngữ”. Thứ hai là Kim Min Su (1964) và Lee Thaek Hoe (1984) với thuật
ngữ “quán dụng ngữ”; Kim Kyu Seon (1978) với thuật ngữ “quán dụng cú”. Thứ ba là Kim Mun Chang
(1974), Sim Jae Gi (1986), An Kyong Hoa (1986) với thuật ngữ “thành ngữ”. Thứ tư là Hwang Hee Yong
4
(1978) đưa ra cách gọi là “những lời nói quen thuộc”; Yang Thae Sik (1984) và Yun So Hee (1986) với thuật
ngữ “lời nói thường xuyên sử dụng”.
Nghiên cứu về thành ngữ trước những năm 70 đơn thuần xuất phát từ nhận thức về những cách biểu
đạt của thành ngữ và dừng lại ở những nghiên cứu mang tính phổ quát nhưng đó có thể coi như là khởi
nguồn của việc tiếp cận thành ngữ mang tính học thuật.
Bước vào những năm 70, nghiên cứu về thành ngữ tập trung vào phê phán nghiên cứu của Hockket
và xu hướng chủ yếu thiên về phân loại thành ngữ. Kim Jong Thaek đã dịch những câu tương ứng trong
thành ngữ tiếng Anh sang thành ngữ tiếng Hàn. Những học giả tiêu biểu cho thời kỳ này là Kim Jong Thaek,
Kim Mun Chang, Kim Kyu Seon, Hwang Hee Yong .v.v...
Tiếp đó đến những năm 1980, lý thuyết về thành ngữ dần được hoàn thiện. Một bộ phận các học giả
giới thiệu lý thuyết nước ngoài vào trong nước và chủ trương nghiên cứu sâu thêm lý thuyết về thành ngữ.
Vào thời kỳ này, những nghiên cứu tổng hợp về ý nghĩa của thành ngữ được tiến hành hết sức sôi nổi. Kim
Min Su (1981) đã giới thiệu về nghiên cứu của Fraser (1970) trong nước.
Bước vào những năm 1990, xu hướng chủ yếu là những nghiên cứu lý thuyết tổng hợp tất cả các kết
quả nghiên cứu trước đây và mang tính hệ thống, tính đa diện. Những học giả tiêu biểu của thời kỳ này là
Kang Uy Kyu, Kim Hyê Suk, Choe Kyong Bông, Kim Kwang Hae, Hwang Su Mi, Park Dông Kưn, Mun
Kưm Hyon .v.v...
Từ giữa những năm 1990 bắt đầu tiến hành những nghiên cứu về việc tái xác định lý thuyết thành
ngữ. Mun Kưm Hyon (1996) trong nghiên cứu về cách biểu đạt quán dụng của tiếng quốc ngữ đã chỉ ra nếu
xét về mặt từ vựng thì cần phải quan sát sự hình thành mang tính chất hệ thống của các từ vựng cấu thành;
xét về mặt ý nghĩa cần phải xét đến đặc tính ngữ nghĩa cơ bản và đặc tính ngữ nghĩa thứ hai và mối tương
quan giữa chúng. Về mặt ngữ dụng, ông đã xem xét phương thức biểu đạt được thực hiện trong giao tiếp và
phương thức ý nghĩa, ông đã chỉ ra được phương thức thay đổi theo tình huống và sự khác nhau của người
nói. Ông cũng đã khảo sát trên phương diện cú pháp và từ điển học để mở rộng phạm vi nghiên cứu. Trong
thời kỳ này, từ điển quán ngữ của Park Yong Jun và Choe Kyong Bông đã được biên soạn, điều này cho thấy
các thành quả nghiên cứu về thành ngữ của các nhà học giả đó.
3.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Qua việc khảo sát, phân tích, tổng hợp các số liệu, mục tiêu của đề tài nhằm thống kê một cách có hệ
thống, chính xác về các chất liệu của các tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn (bao gồm 05
nhóm chất liệu). Qua đó phân tích ý nghĩa của một số tín hiệu thẩm mỹ, có sự so sánh, đối chiếu với thành
ngữ, tục ngữ tiếng Việt để thấy được sự giống và khác nhau trong lối tư duy cũng như đặc trưng văn hóa
giữa hai quốc gia. Tiến thêm một bước nữa, tôi mong rằng kết quả của bài nghiên cứu này có thể được vận
dụng trong giảng dạy ngôn ngữ và văn hóa sau này. Đặc biệt tôi tin là thành ngữ, tục ngữ có thể đóng vai trò
quan trọng và phát huy tính tích cực trong lĩnh vực ngôn ngữ học ứng dụng.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chất liệu của các tín hiệu thẩm mỹ trong 4.577 câu thành
ngữ và 9.603 câu tục ngữ Hàn Quốc được đăng tải trên trang chủ của Viện ngôn ngữ Quốc gia Hàn Quốc
( www.korean.go.kr).
- Các chất liệu cấu thành nên thành ngữ, tục ngữ có phạm vi rất đa dạng và phong phú. Chúng tôi
sắp xếp chúng vào 5 nhóm chất liệu chính:
1. Nhóm chất liệu là tự nhiên
2. Nhóm chất liệu là thực vật
5
3. Nhóm chất liệu là động vật
4. Nhóm chất liệu là vật thể nhân tạo
5. Nhóm chất liệu là bộ phận cơ thể người
Phạm vi nghiên cứu trong đề tài của chúng tôi xoay quanh 5 nhóm chất liệu này.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa, ngữ cảnh
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
6.ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi dự kiến sẽ có những đóng góp sau:
- Thống kê và phân loại một cách có hệ thống các tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng
Hàn.
- Phát hiện những ý nghĩa biểu trưng mới trong cách sử dụng tín hiệu thẩm mỹ của người Hàn Quốc,
có nét gì khác so với quan niệm văn hóa của người Việt Nam. Từ đó cho thấy những nét tương đồng
và dị biệt trong phong cách tư duy, lối sinh hoạt, trong đặc trưng văn hóa giữa hai nước Hàn Quốc và
Việt Nam.
- Luận văn hoàn thành sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những người quan tâm đến tiếng Hàn
và văn hóa Hàn Quốc cũng như các sinh viên chuyên ngành tiếng Hàn Quốc.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn được triển khai
thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài
Chương 2: Chất liệu và ý nghĩa của các tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn
Chương 3: Dấu ấn văn hóa – dân tộc thể hiện qua chất liệu của các tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ,
tục ngữ tiếng Hàn
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tín hiệu thẩm mỹ
1.1.1. Tín hiệu
Trong cuốn “ Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng”, Đỗ Hữu Châu đã nêu ra định nghĩa về tín hiệu của Piar
Guiraud : “ Một tín hiệu là một kích thích mà tác động của nó đến cơ thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích
thích khác”.1 Và Đỗ Hữu Châu cũng đã chỉ ra những điều kiện cần cho một sự vật (hay thuộc tính vật chất,
hiện tượng) trở thành tín hiệu:
1. Nó phải được cảm nhận bằng các giác quan (phải có một hình thức cảm tính – cái biểu hiện).
2. Đại diện cho cái gì đó khác với chính nó ( phải có một “ý nghĩa” – cái được biểu hiện).
3. Nó phải được thừa nhận, lĩnh hội bởi một chủ thể.
4. Nó phải nằm trong một hệ thống nhất định.
1 “ Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng”, Đỗ Hữu Châu, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1987
6
1.1.2. Tín hiệu ngôn ngữ
Theo Ferdinand de Saussure “ Tín hiệu ngôn ngữ kết liền thành một không phải một sự vật với một tên
gọi mà là một khái niệm với một hình ảnh và âm thanh”.2 Nó là một thực thể tâm lý có hai mặt: cái biểu hiện
và cái được biểu hiện. Trong đó khái niệm được gọi là cái được biểu hiện, còn hình ảnh âm thanh được gọi là
cái biểu hiện. Hai mặt đó gắn bó mật thiết trong một ý niệm, không thể có mặt này mà không có mặt kia.
Trong cuốn “ Dẫn luận ngôn ngữ học”, Nguyễn Thiện Giáp đã chỉ ra rằng: Ngôn ngữ là một hệ thống tín
hiệu, nó khác với những hệ thống vật chất khác không phải là tín hiệu, chẳng hạn, kết cấu của một cái cây,
một vật thể nước, đá, kết cấu của một cơ thể sống v.v… Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ thể hiện ở những
điểm sau: 1) Các yếu tố của những hệ thống vật chất không phải là tín hiệu có giá trị đối với hệ thống vì có
những thuộc tính vật thể tự nhiên của chúng. Hệ thống tín hiệu cũng là hệ thống vật chất nhưng các yếu tố
của nó có giá trị đối với hệ thống không phải do những thuộc tính vật thể tự nhiên của chúng mà do những
thuộc tính được người ta trao cho để chỉ ra những khái niệm hay tư tưởng nào đó. 2) Tính hai mặt của tín
hiệu. 3) Tính võ đoán của tín hiệu. 4) Giá trị khu biệt của tín hiệu.
1.1.3. Tín hiệu thẩm mỹ
THTM là yếu tố thuộc hệ thống phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Đó là "những phương tiện nghệ
thuật được tập trung theo một hệ thống tác động thẩm mỹ, được chúng ta tiếp nhận như là những tín hiệu đặc
biệt, có khả năng kích thích mạnh mẽ thế giới tinh thần của chúng ta..."3, là "cái được tác giả lựa chọn từ thế
giới hiện thực mà xây dựng nên, sáng tạo ra"4... Có thể hiểu, THTM là toàn bộ những yếu tố hiện thực,
những chi tiết của sự vật, hiện tượng trong đời sống (các hình ảnh tự nhiên, động - thực vật, vật thể nhân tạo,
bộ phận cơ thể người) được đưa vào thành ngữ, tục ngữ nhằm mục đích tạo cho người tiếp nhận một sự liên
tưởng gần gũi đến các triết lý nhân sinh quan, giá trị quan trong cuộc sống.
Tín hiệu thẩm mỹ bao giờ cũng phải có hình thức vật chất của nó, đó là hình thức ngôn ngữ. Tín hiệu
thẩm mỹ phân biệt với các tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên ở chỗ ý nghĩa của nó không bao giờ chỉ dừng ở phạm
vi tái tạo hiện thực mà phải là một khái quát nghệ thuật về tư tưởng. Trong tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên quan
hệ giữa “cái biểu hiện” và “cái được biểu hiện” có thể là võ đoán. Nhưng trong tín hiệu thẩm mỹ, nó luôn có
lý do. Chính lý do đó khiến cho các hình tượng, sự vật được đề cập đến trong tục ngữ luôn thoát khỏi những
giới hạn ngữ nghĩa thuần ngôn ngữ, trở thành những yếu tố có sức khái quát lớn về mặt nội dung tư tưởng.
1.2. Thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn
1.2.1. Khái niệm thành ngữ, tục ngữ trong tiếng Hàn
1.2.1.1. Khái niệm tục ngữ
Trong tiếng Hàn, khái niệm tục ngữ được định nghĩa như sau: “Tục ngữ có thể được coi là di sản văn
hóa tuyệt vời, trong đó cô đọng, hàm súc những lời giáo huấn, những tri thức, kinh nghiệm trong cuộc sống,
là nghệ thuật ngôn từ của toàn thể dân tộc được truyền khẩu từ đời này sang đời khác”.5
Trong tiếng Việt, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tục ngữ:
2 “ Học thuyết của Ferdinand de Saussure”, Đái Xuân Ninh, Nxb KHXH, 1984.
3 Iu. A. Philipiep (1971), Những tín hiệu của thông tin thẩm mỹ, Nxb Khoa học, M. (Bản dịch và đánh máy Thư viện
Đại học sư phạm Hà Nội).
4 Đỗ Hữu Châu (1990), Những luận điểm về cách tiếp cận ngôn ngữ học các sự kiện văn học, Ngôn ngữ, số 2
5 Im Dong Kwon, “Từ điển tục ngữ”, NXB Dân tộc, 2002.
7
- “ Tục ngữ là sản phẩm của tư duy, là công cụ diễn đạt những tri thức, kinh nghiệm quý báu,
những triết lý nhân sinh vừa sâu sắc, thâm thúy vừa không kém phần nghệ thuật, được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác”.6
- “ Tục ngữ là câu thành ngữ nói đã quen trong thế tục, nhiều câu nghĩa lý thâm thúy, ý tứ cao xa,
câu nào từ đời xưa truyền lại gọi là ngạn ngữ, cũng có khi gọi là tục ngạn; tục ngữ hay tục ngạn
thì nghĩa cũng gần giống nhau”. 7
- “ Tục ngữ là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lí,
một công lí, có khi là một sự phê phán”.8
1.2.1.2. Khái niệm thành ngữ
Khái niệm thành ngữ trong tiếng Hàn không thể định nghĩa một cách dễ dàng. Xét nghĩa hẹp thì thành
ngữ là cụm từ hoặc từ có cấu tạo hoặc mang ý nghĩa đặc biệt khác với phương thức diễn đạt thông thường
của một ngôn ngữ. Xét theo nghĩa rộng thì thành ngữ là tất cả hệ thống đặc trưng mang tính chất tương đối
giữa một ngôn ngữ nào đó với một ngôn ngữ khác. Nếu xét theo nghĩa rộng thì có thể thấy bản thân ngôn
ngữ đã là thành ngữ. Phạm vi của thành ngữ đa dạng và rộng lớn như thế nhưng ngược lại, bản thân thuật
ngữ diễn tả nó còn rất mơ hồ, do đó khái niệm và phạm trù thành ngữ khác nhau theo từng học giả. Những từ
tương đương với từ “thành ngữ” của phương Tây được dịch ra với nhiều hình thái đa dạng và không thống
nhất như: thành ngữ, quán ngữ, quán dụng cú, ngữ quán dụng, cách biểu đạt quán dụng, những lời nói quen
thuộc hay lời nói thường xuyên sử dụng .v.v...
1.2.2. Nguồn gốc và tầm quan trọng của thành ngữ, tục ngữ
1.2.2.1. Nguồn gốc của thành ngữ, tục ngữ
Nhờ vào khảo sát những trường hợp phổ biến, có quy luật về ngữ nghĩa, cấu tạo của thành ngữ, tục
ngữ của các ngôn ngữ khác nhau, người ta cũng phát hiện ra được những nguồn chủ yếu, phổ biến, tạo nên
hệ thống thành ngữ, tục ngữ của một ngôn ngữ. Có thể tổng kết một số con đường hình thành hệ thống thành
ngữ, tục ngữ như sau:
Sử dụng thành ngữ, tục ngữ tiếng nước ngoài dưới các hình thức khác nhau.
Trong tiếng Hàn, thành ngữ được vay mượn nước ngoài chủ yếu là các thành ngữ gốc Hán. Những
thành ngữ này khi mượn vào tiếng Hàn, có thể được giữ nguyên hình thái – ngữ nghĩa. Ví dụ như thành ngữ
“ 세용지마” – “Tái ông chi mã”; “ 독일무이” – “Độc nhất vô nhị”. Hoặc dịch từng chữ (một phần hoặc tất
cả các yếu tố), dịch nghĩa chung của thành ngữ có thay đổi trật tự các yếu tố cấu tạo.
1.2.2.2. Tầm quan trọng của thành ngữ, tục ngữ
Trong đời sống hằng ngày từ xưa đến nay, tục ngữ, thành ngữ luôn đóng một vai trò hết sức quan
trọng, là một nét văn hoá truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc. Tục ngữ, thành ngữ chứa đựng đầy đủ nhân
sinh quan và vũ trụ quan, được đúc rút từ thực tiễn lao động và kinh nghiệm của con người, có tác dụng định
hướng cho việc hình thành nhân cách, hành động và suy nghĩ của con người. Thông qua thành ngữ, tục ngữ,
chúng ta có thể hiểu một cách sâu sắc về văn hóa của một dân tộc, các phong tục, tập quán, lối tư duy, phong
cách sống của con người thuộc quốc gia đó.
Người Hàn đã đặt cho thành ngữ, tục ngữ một biệt danh là “ thể loại văn học ngắn nhất được tổ tiên
truyền lại từ thời xa xưa”. Bởi nó chứa đựng trong đó những lời giáo huấn sâu sắc mà dẫu có trải qua hàng
6 Nguyễn Văn Nở, “Biểu trưng trong tục ngữ người Việt”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.
7 Dẫn theo Chu Xuân Diên – Lương Văn Đang – Phương Tri 1975. Tục ngữ Việt Nam. Hà Nội.
8 Vũ Ngọc Phan, “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, 1998.
8
ngàn năm lịch sử, những lời giáo huấn, răn dạy đó vẫn phát huy giá trị tích cực của nó. Do đó, khi chúng ta
hiểu một cách trọn vẹn một câu thành ngữ, tục ngữ nào đó thì điều đó cũng có nghĩa là chúng ta đã hiểu được
phương thức sống và lối tư duy, hành động của người xưa. Đồng thời, các phong tục và tính cách đặc trưng
của con người từng quốc gia, từng vùng miền cũng được phản ánh một cách hàm súc thông qua thành ngữ,
tục ngữ. Vì vậy, để hiểu rõ văn hóa đặc trưng của từng quốc gia thì việc tìm hiểu thành ngữ, tục ngữ đóng
một vai trò hết sức quan trọng đối với những nhà nghiên cứu về ngôn ngữ và đất nước học.
1.2.3. Phân loại thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn
1.2.3.1. Phân loại tục ngữ
1.2.3.1.1. Tục ngữ chứa đựng ý nghĩa giáo huấn
Những câu tục ngữ như: “콩 심은데 콩 나고 팥 심은데 팥난다” (Trồng đậu đỏ có đậu đỏ, trồng
đậu đen có đậu đen) – hàm ý gieo nhân nào thì gặt quả đấy. Hoặc câu tục ngữ “ 낮말은 새가 듣고 밤말은
쥐가 듣는다” ( Lời nói ban ngày có chim nghe, lời nói ban đêm có chuột nghe) – hàm ý dù ở đâu, khi nào
cũng phải cẩn thận lời nói (Tai vách mạch rừng) là những ví dụ tiêu biểu cho những câu tục ngữ mang tính
chất giáo huấn, răn dạy.
1.2.3.1.2. Tục ngữ chứa đựng ý nghĩa ẩn dụ
Những tục ngữ loại này chủ yếu mang tính chất ẩn dụ, châm biếm, ám chỉ bóng gió hơn là chứa
đựng ý nghĩa giáo huấn. Ví dụ như: “수박 겉핥기/ 중의 빗 / 꿀먹은 벙어리 / 개팔자” (Liếm vỏ dưa hấu /
Lược của nhà sư / Người câm ăn mật ong / Thân phận con chó). Những cụm từ mang tính chất ví von, ẩn dụ
như: “ 두 다리 뻗고 잔다” (Nằm duỗi hai chân mà ngủ) không có cấu tạo dạng tục ngữ nên chỉ được xem
như cách biểu đạt quán dụng mang tính chất ví von đơn thuần.
1.2.3.1.3. Tục ngữ chứa đựng ý nghĩa cấm kỵ
Tục ngữ có nội dung cấm kỵ mang nặng tính chất tín ngưỡng dân gian, là những lời tiên tri về
những điều tốt – xấu, vận may – vận rủi và chủ yếu là những tục ngữ liên quan đến những điều khuyên nhủ,
cấm kỵ, phân biệt tốt – xấu, giải mộng. Những câu tục ngữ này được hình thành nên dựa trên nền tảng
những tri thức, kinh nghiệm của tổ tiên đã sống và đúc kết tại thời điểm đó cho nên chắc chắn sẽ có những
điều không thật sự phù hợp với tri thức khoa học hiện đại, thậm chí có những điều mê tín mang tính chất
phản khoa học.
1.2.3.2. Phân loại thành ngữ
1.2.3.2.1. Thành ngữ truyền thống (thành ngữ thuần Hàn)
Đó là những câu thành ngữ đã được hình thành từ rất lâu trong lịch sử Hàn Quốc. Ví dụ như “뒤를
보다 낯을 붉히다 싸우다 한잔하다 애쓰다 간장을 녹이다 몸부리다 해산 애가 달다 애가 타다
이를 갈다 귀가 먹다” ( Nhìn lại đằng sau / Mặt đỏ bừng bừng / Làm một chén / Quyết tâm / Làm tan chảy
xì dầu / Mệt rã người / Thiếu kiên nhẫn / Lo lắng / Nghiến răng / Ăn mất tai (tai điếc)). Và cũng có những
thành ngữ phản ánh tính chất đặc trưng của thời đại như: “시치미떼다 바지저고리 산통깨지다
국수먹다 깡통차다 시집가다 장가가다 파리날리다 비행기태우다” ( “Lấy cắp, dứt mất Si-chi-mi”9 –
hàm ý giả vờ như không biết / “ Áo Jeo-go-ri10
lẫn với quần” – chỉ những người không có chính kiến hoặc
không có năng lực, một ý khác nữa là ám chỉ những người nhà quê.
9 시치미 (Si-chi-mi) là miếng sừng hình vuông được buộc vào đuôi của con chim ưng, trên đó ghi rõ địa chỉ, tên để
phân biệt chủ nhân của con chim ưng đó. Thời xa xưa, tổ tiên người Hàn Quốc thường nuôi chim ưng để trợ giúp trong
công việc săn bắn. 10
저고리 (Jeo-go-ri) là chiếc áo lửng mặc bên ngoài bộ Hanbok truyền thống của người Hàn Quốc.
9
1.2.3.2.2. Thành ngữ vay mƣợn phƣơng Tây
Là các thành ngữ được dịch từ các thành ngữ phương Tây: “판도라의 상자 뜨거운 감자 황금알
낳는 거위” ( “ Chiếc hộp Pandora” – chiếc hộp của tội ác và tai ương, hàm ý gặp phải chuyện rắc rối /
“Khoai tây nóng” – nuốt cũng không được mà nhổ ra cũng không được, hàm ý gặp phải tình huống khó khăn,
làm cũng không được mà không làm cũng không được / “Ngỗng đẻ trứng vàng”).
Tiểu kết
Những vấn đề lý thuyết mà đề tài sử dụng đều nhằm hướng đến mục đích giải quyết tốt nhất các vấn
đề mà đề tài đặt ra:
- Các lý thuyết về tín hiệu thẩm mỹ sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn đúng đắn, sâu sắc về đối tượng mà
chúng tôi nghiên cứu. Dựa trên những đặc điểm của tín hiệu thẩm mỹ, chúng tôi có cách tiếp cận và tìm hiểu
về tín hiệu thẩm mỹ một cách có định hướng. Nhờ đó, các kết quả nghiên cứu thu được sẽ có tính thuyết
phục hơn.
- Mặc dù khái niệm thành ngữ là một phạm trù hết sức rộng trong tiếng Hàn và có khá nhiều định
nghĩa xoay quanh khái niệm này. Tuy nhiên dựa trên những kết quả nghiên cứu chuyên sâu của các nhà
nghiên cứu Hàn Quốc về thành ngữ, tục ngữ, chúng tôi đã đưa ra định nghĩa chung, cơ bản nhất về thành ngữ,
phân biệt với tục ngữ và đưa ra những đặc trưng, phân loại thành ngữ, tục ngữ.
- Dựa trên nền tảng những vấn đề lý thuyết đó, chúng tôi đi vào giải thích, tìm hiểu một số tín hiệu
thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn.
CHƢƠNG 2:
CHẤT LIỆU VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC TÍN HIỆU THẨM MỸ
TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TIẾNG HÀN
2.1. Nhóm chất liệu là tự nhiên
Khi tiến hành khảo sát, thống kê trên tổng số 9603 câu tục ngữ tiếng Hàn, chúng tôi thấy có 1264
câu tục ngữ có hình ảnh tự nhiên (chiếm 13,2%). Con số này trong thành ngữ tiếng Hàn là 291 câu trên tổng
số 4577 câu thành ngữ (chiếm 6,4%). Tổng số hình ảnh liên quan đến chất liệu tự nhiên trong cả thành ngữ
và tục ngữ tiếng Hàn là 36 hình ảnh. (Xem bảng 1.1 và 2.1)11
. Trong số các chất liệu tự nhiên, hình ảnh
“nước”, “lửa”, “đá”, “núi” và “gió” có tần số xuất hiện nhiều nhất trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn. Còn
trong tục ngữ tiếng Việt, các yếu tố “nước”, “mưa”, “gió”, “sông”, “trời” có tần số xuất hiện nhiều nhất.
Chúng ta có thể nhận thấy rõ điều đó qua bảng thống kê dưới đây.
Tục ngữ, thành ngữ tiếng Hàn
STT Tên loại Số
lƣợng
câu
Tỉ lệ % (so với tục
ngữ có hình ảnh
tự nhiên)
1 Nước 313 20,1%
2 Lửa 180 11,6%
3 Đá 151 9,7%
4 Núi 136 8,7%
5 Gió 117 7,5%
Tục ngữ tiếng Việt12
STT Tên loại Số
lƣợng
câu
Tỉ lệ % (so với tục
ngữ có hình ảnh tự
nhiên)
1 Nước 91 17%
2 Mưa 84 15,7%
3 Gió 56 10,4%
4 Sông 41 7,6%
5 Trời 39 7,2%
11
Xem bảng thống kê tần số xuất hiện của các từ chỉ chất liệu tự nhiên trong tục ngữ, thành ngữ tiếng Hàn ở phần Phụ
lục. 12
“Biểu trưng trong tục ngữ người Việt”, Nguyễn Văn Nở, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010, tr.312.
10
2.1.1. Hình ảnh “nƣớc”
Trong tục ngữ và thành ngữ tiếng Hàn, hình ảnh “nước” xuất hiện trong khoảng 313 câu, chiếm tỷ lệ
20,1% trong tổng số 1555 câu thành ngữ, tục ngữ có hình ảnh tự nhiên. Khi đi vào thành ngữ, tục ngữ, hình
ảnh “nước” được dùng biểu trưng nhiều mặt về con người và đời sống xã hội.
“Nước” trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn là tín hiệu thẩm mỹ mang ý nghĩa biểu trưng cho chính
con người, lòng người. “물방아 무로 서면 언다” (Cối xay nước mà cứ đứng không, không làm việc thì
cũng sẽ bị đóng băng). Hình ảnh “nước” trong tổ hợp từ “cối xay nước” biểu trưng cho con người, hàm ý con
người mà không chịu vận động, không chịu làm việc thì sẽ có hại cho sức khỏe. “물은 건너 보아야 알고
사람은 지내 보아야 안다” (Nước có lội qua mới biết nông sâu, người có sống cùng mới hiểu lòng nhau).
“Nước” được ví như tấm lòng, bụng dạ con người. Nước có chỗ nông, chỗ sâu. Con người cũng có người tốt,
người xấu và muốn đánh giá đúng một người thì phải có thời gian gần gũi, sống với nhau thì mới hiểu được
lòng nhau.
“Nước” trong tục ngữ tiếng Hàn thiên về biểu đạt lí trí, nhận thức về cuộc đời; phản ánh kinh nghiệm
được đúc kết từ những quan hệ ứng xử, nếp nghĩ chung của một cộng đồng.
“Nước” còn biểu trưng cho môi trường sống của con người. “물 밖에 안 고기” (Cá sinh ngoài nước)
– đối với các loài cá, nước chính là môi trường sống của chúng, ra khỏi môi trường này thì cá không thể nào
sống được. Con người chúng ta cũng vậy, sống ở đâu thì quen đó, nếu ra khỏi môi trường quen thuộc, đến
với một môi trường xa lạ thì sẽ rất khó khăn để có thể thích nghi, giống như “cọp ra khỏi rừng” vậy.
“Nước” cần thiết và quan trọng đối với con người, nhưng không phải lúc nào “nước” cũng luôn mang lại
cảm giác mát mẻ, dịu dàng, không phải lúc nào “nước” cũng có vẻ ngoài êm ả. Trong một loạt những thiên
tai do tự nhiên mang lại, lịch sử loài người luôn phải chứng kiến những trận “đại hồng thủy” mà sức lực con
người không thể chống chọi với hiểm họa tự nhiên. Có lẽ vì lí do đó mà từ lâu, “nước” cùng với “lửa” còn
mang ý nghĩa tượng trưng cho những gian nguy, trở ngại trong cuộc đời. “물불을 가리지 않는다” (Không
từ lửa nước) – ý nói không sợ gian nguy.
2.1.2. Hình ảnh “lửa”
Hình ảnh “lửa” xuất hiện trong khoảng 180 câu thành ngữ, tục ngữ, chiếm 11,6% trong tổng số câu
thành ngữ, tục ngữ có hình ảnh tự nhiên. Giống như yếu tố “nước”, “lửa” mang ý nghĩa biểu trưng cho
những tình huống khó khăn, nguy cấp. “불난 강변에서덴 소 날뛰듯 하다” (Giống như bò bị bỏng lửa ở bờ
sông) ngụ ý chỉ những người lúng túng không biết phải xử lý như thế nào trong lúc nguy cấp. Hay như câu:
“불난 데 부채질 한다” (Quạt thêm vào đống lửa đang cháy), câu này mang ý nghĩa tương tự câu “đổ thêm
dầu vào lửa” trong tục ngữ Việt Nam.
“Lửa” biểu trưng cho thiên tai, hỏa hoạn. “ 불난 끝은 있어도 물난 끝은 없다” (Hỏa hoạn thì có lúc
kết thúc nhưng lũ lụt thì không) – Cháy thì có thể cứu được ít nhiều của cải, nhưng lụt thì ngập cả, lũ lụt
nguy hại hơn hỏa hoạn. “Nhất thủy nhì hỏa”.
Hình ảnh “lửa” trong thành ngữ tiếng Hàn còn chủ yếu được dùng để diễn tả sự tức giận trong trạng
thái cảm xúc của con người như trong câu “눈에 불이 나다”- “lửa cháy trong mắt”.
2.1.3. Hình ảnh “đá”
Hình ảnh “đá” xuất hiện trong khoảng 151 câu thành ngữ, tục ngữ, chiếm 9,7% trong tổng số câu
thành ngữ, tục ngữ có hình ảnh tự nhiên trong tiếng Hàn. Đặc tính của đá là được cấu tạo hết sức chắc chắn,
có độ bền cao. Do đó, hình ảnh “đá” thường được dùng với nghĩa biểu trưng cho những việc chắc chắn.
11
“ 돌다리도 두들겨 보고 건너라” (Dù là cây cầu xây bằng đá thì cũng phải gõ thử rồi hãy đi qua) – dù là
việc mình biết rất rõ, có chắc chắn đến mấy thì cũng phải chú ý thật tỉ mỉ.
Trong thành ngữ tiếng Hàn, người Hàn Quốc dùng hình ảnh “돌을 던지다” (Ném đá) để diễn tả ý
phê bình, chỉ trích những sai lầm, khuyết điểm của người khác.
2.1.4. Hình ảnh “núi”
Hình ảnh “núi” xuất hiện trong khoảng 136 câu tục ngữ, thành ngữ tiếng Hàn, chiếm 8,7% trong
tổng số câu tục ngữ, thành ngữ có hình ảnh tự nhiên. Hình ảnh những ngọn núi trùng trùng điệp điệp, hiểm
trở luôn biểu trưng cho những khó khăn, trở ngại, những thế lực ngăn cản công việc mà con người phải
đương đầu. “가면 갈수록 첩첩산중이다” (càng đi, núi càng trùng điệp) có ý chỉ công việc ngày càng khó
khăn.
Hình ảnh “núi” cũng được dùng để biểu trưng cho con người. Ví dụ như trong câu: “산이 높으면
그늘도 길다” (Núi cao thì bóng rộng) – ý nói con người có đạo đức, tài năng lớn thì càng đóng góp được
nhiều cho xã hội. Ở đây, hình ảnh những người có tài cao, đức rộng được ví như hình ảnh những ngọn núi
cao sừng sững.
2.1.5. Hình ảnh “gió”
Hình ảnh “gió” xuất hiện trong khoảng 117 câu, chiếm 7,5% trong tổng số câu tục ngữ, thành ngữ
tiếng Hàn có hình ảnh tự nhiên. Hình ảnh “gió” được sử dụng trong thành ngữ, tục ngữ ngoài ý nghĩa đúc kết
kinh nghiệm về mặt thời tiết, hình ảnh này còn góp phần thể hiện những triết lí nhân sinh sâu sắc. “Gió” là
nguồn năng lượng vô tận và có sức mạnh vô biên. Vì thế mà hình ảnh “gió” được dùng biểu trưng cho những
thử thách, khó khăn mà con người phải đương đầu trong cuộc sống. Khi phải đứng trước những tình huống
khó khăn, nguy cấp, người Hàn dùng hình ảnh “바람받이에 선 촛불” (Như ngọn đèn trước gió) có thể bị
gió thổi tắt bất cứ lúc nào.
Ngoài ý nghĩa biểu trưng cho những khó khăn, thử thách, “gió” còn mang ý nghĩa biểu trưng cho sự
lo lắng, bận tâm. Ví dụ như câu: “가지 많은 나무 바람 잘 날 없다” (Cây có nhiều cành không ngày nào
lặng gió) – gia đình có nhiều con cái thì không ngày nào bố mẹ bớt lo lắng, bận tâm. Đặc tính của gió bên
cạnh sự dữ dội, ồn ào, cũng có những lúc gió thật nhẹ nhàng, dịu êm. “가을 바람에 새털 날듯” (Giống như
lông chim bay trong gió mùa thu) – mô tả những hành động, cử chỉ thật nhẹ nhàng.
Là một hiện tượng thiên nhiên, tồn tại một cách khách quan nên “gió” còn được dùng với ý nghĩa
biểu trưng cho thời thế, cơ hội. “바람 따라 돛을 단다” (Căng buồm theo gió) – chọn đúng lúc, đúng thời
điểm để tiến hành công việc thì sẽ gặt hái được thành công. Còn nếu trường hợp ngược lại “바람 부는 날
가루 팔러 가듯” (Giống như đi bán bột ngày gió thổi) – hàm ý làm việc không tính toán, cân nhắc, không
lựa chọn đúng thời điểm nên gặp thất bại.
Trong thành ngữ tiếng Hàn, “gió” được dùng với nghĩa biểu trưng cho những điều xấu, cái ác.
“바람을 넣다” (đặt gió) – hàm ý nảy sinh ý đồ thực hiện một hành động xúi giục, kích động người khác.
Hoặc dùng với ý nghĩa thay đổi tâm trạng: “바람을 쐬다” (đổi gió, hóng gió) – thay đổi môi trường, đi đến
một nơi khác để thay đổi tâm trạng. Thành ngữ tiếng Hàn cũng mượn hình ảnh “gió” để nói đến những người
có ảnh hưởng lớn đến nhiều người khác trong xã hội. “바람을 일으키다” (gây ra gió/ tạo ra gió).
2.2. Nhóm chất liệu là thực vật
Khi tiến hành khảo sát, thống kê trên tổng số 9603 câu tục ngữ tiếng Hàn, chúng tôi thấy có 667 câu
tục ngữ có hình ảnh thực vật (chiếm 6,9%). Con số này trong thành ngữ tiếng Hàn là 85 câu trên tổng số
4577 câu thành ngữ (chiếm 1,9%). Tổng số hình ảnh liên quan đến chất liệu thực vật trong cả thành ngữ và
tục ngữ tiếng Hàn là 46 hình ảnh. Trong nhóm hình ảnh thực vật, có những loại xuất hiện với tần số cao và
12
được dùng với những nét nghĩa biểu trưng rất phong phú khi xuất hiện trong thành ngữ, tục ngữ. Tiêu biểu là
hình ảnh “cây đậu”, “cây” (bao gồm “lá”, “cành”, “rễ”), “hoa”, “bầu, bí” và “gạo” có tần số xuất hiện nhiều
nhất trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn. Còn trong tục ngữ tiếng Việt, các yếu tố “lúa”, “cây”, “hoa”, “tre,
trúc, măng”, “rau” có tần số xuất hiện nhiều nhất. Chúng ta có thể nhận thấy rõ điều đó qua bảng thống kê
dưới đây.
Tục ngữ, thành ngữ tiếng Hàn
STT Tên loại Số
lƣợng
câu
Tỉ lệ % (so với tục
ngữ có hình ảnh
tự nhiên)
1 Đậu 165 21,9%
2 Cây 88 11,7%
3 Hoa 71 9,4%
4 Bầu, bí 64 8,5%
5 Lúa, gạo 36 4,8%
Tục ngữ tiếng Việt13
STT Tên
loại
Số lƣợng
câu
Tỉ lệ % (so với tục
ngữ có hình ảnh tự
nhiên)
1 Lúa,
gạo
136 21,4%
2 Cây 83 13%
3 Hoa 31 4,88%
4 Tre,
trúc,
măng
26 4,09%
5 Rau 24 3,77%
2.2.1. Hình ảnh “đậu”
Đứng đầu bảng thống kê về tần số xuất hiện của các từ chỉ thực vật trong thành ngữ, tục ngữ tiếng
Hàn là hình ảnh các loài cây họ “đậu”. Chúng xuất hiện trong khoảng 165 câu thành ngữ, tục ngữ, chiếm tỉ lệ
đến 21,9% trong tổng số câu có hình ảnh thực vật. Người Hàn Quốc dùng hình ảnh “đậu” để ví von, miêu tả
diện mạo, tính cách của con người. Khi muốn ám chỉ người nhiều sẹo, người Hàn Quốc dùng hình ảnh “콩
마당에 넘어졌다 / 콩멍석에 되었다” (Ngã vào trong sân đậu / trở thành cái chiếu đậu). Với những kẻ nói
dối như cơm bữa, người Hàn Quốc dùng hình ảnh “콩 가지고 두부 만든다 해도 곧이 안 듣는다” (Mang
đậu đến và nói là để làm đậu phụ cũng chẳng ai nghe cả) – nói dối quá nhiều lần nên dù có nói thật cũng
chẳng ai tin.
Tuy nhiên, hình ảnh “đậu” cũng được dùng trong những câu tục ngữ để diễn tả cảm xúc vui mừng,
thích thú của con người như trong câu: “콩 볶아 재미 낸다” (Rang đậu và thấy mùi hương của sự thú vị bay
ra) – diễn tả cảm xúc hấp dẫn, thú vị khi làm một công việc nào đó. Hay như câu: “콩 본 당나귀같이
흥흥한다” (Hát ngân nga như lừa nhìn thấy đậu) – diễn tả cảm xúc vui mừng khôn xiết khi trước mắt mình
xuất hiện thứ mà mình yêu thích.
Trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn, hình ảnh “đậu” còn được dùng để phản ánh những triết lí nhân
sinh sâu sắc. Ví dụ như trong câu: “콩 심은 데 콩 나고 팥 심은 데 팥 난다” (Trồng đậu đỏ có đậu đỏ, trồng
đậu đen có đậu đen) – hàm ý trồng cây nào thu hoạch quả đó, không lẽ trồng đậu đỏ lại có thể thu hoạch đậu
đen. Đây chính là quy luật nhân quả ở đời “gieo nhân nào thì gặt quả nấy”. Hay như câu: “콩 볶아 먹다가
가마솥 터뜨린다” (Rang đậu ăn làm thủng mất cái nồi rang) – tham cái nhỏ làm thiệt cái lớn, “tham bát bỏ
mâm”.
2.2.2. Hình ảnh “cây” (cành, lá, rễ)
Hình ảnh “cây” (cành, lá, rễ) đứng ở vị trí thứ hai, xuất hiện trong khoảng 88 câu thành ngữ, tục ngữ,
với tỉ lệ 11,7%.“Cây” được người Hàn Quốc ví như một gia đình thu nhỏ: “가지 많은 나무에 바람 잘 날
13
“Biểu trưng trong tục ngữ người Việt”, Nguyễn Văn Nở, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010, tr.313.
13
없다” (Cây có nhiều cành không có ngày nào là không bị gió thổi) hàm ý những gia đình có đông con không
ngày nào mà bố mẹ hết lo lắng. Hình ảnh “cây” gắn liền với hình ảnh con người: “나무도 쓸 말한 것이
먼저 베인다” (Cây dùng được nên bị chặt trước) ý nói những người tài giỏi nhiều khi bị rơi vào cảnh lao
đao, nó có ý nghĩa tương tự với câu “Chữ tài đi với chữ tai một vần” trong tiếng Việt của chúng ta.
Hình ảnh dẻo dai, vững vàng, sừng sững của cây được dùng biểu trưng cho những sức mạnh, chỗ dựa vững
chắc. Ví dụ như trong câu: “나무에도 못 대고 돌에도 못 댄다” (Không dựa vào cây mà cũng chẳng dựa
vào đá) – hàm ý tự lực cánh sinh, không thể dựa dẫm, nhờ cậy vào ai.
Hình ảnh “cây” trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn được dùng nhiều với ý nghĩa biểu trưng cho
những đạo lí, triết lí, những quy luật ở đời. “나무는 큰 나무의 덕을 못 보아도 사람은 큰 사람의 덕을
본다” (Cho dù cây không trông thấy được công ơn của những cây to nhưng con người thì thấy được cái đức
của những người vĩ đại) – nhắn nhủ đã là con người thì phải biết ghi nhớ công ơn của những người đã giúp
đỡ mình để mình có thể đạt được thành công.
2.2.3. Hình ảnh “hoa”
Hình ảnh “hoa” giữ vị trí thứ ba, có mặt trong khoảng 71 câu thành ngữ, tục ngữ, với tỉ lệ 9,4%.
“Hoa” vốn đẹp đẽ, kiêu sa nên nó biểu trưng cho những điều ngọt ngào, hạnh phúc. Trong câu: “꽃밭에 불
지른다” (Châm lửa trên cánh đồng hoa) - ở đây “hoa” tượng trưng cho hạnh phúc, hàm ý đang sống hạnh
phúc thì gặp phải tai ương bất ngờ. Cũng giống như trong tục ngữ tiếng Việt, hình ảnh “bướm” với “hoa”
trong tục ngữ tiếng Hàn biểu trưng cho tình yêu nam nữ. Diễn tả niềm vui bất tận khi gặp được người mình
yêu thương, tiếng Hàn dùng hình ảnh: “꽃 본 나비” (Như bướm thấy hoa). Hay “꽃 없는 나비” (Bướm
không có hoa) chẳng khác nào như phượng hoàng không có cánh.
2.2.4. Hình ảnh “bầu, bí”
Hình ảnh “bầu, bí” giữ vị trí thứ tư trong bảng thống kê tần số xuất hiện của các từ chỉ thực vật trong
thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn. Hình ảnh “bầu, bí” xuất hiện trong khoảng 64 câu, chiếm tỉ lệ 8,5%. Khi nói
đến những người không phòng bị gì, nhảy vào vòng nguy hiểm, tự đẩy mình đến con đường bị tiêu diệt, tục
ngữ tiếng Hàn mượn hình ảnh: “호박을 쓰고 돼지 굴로 들어간다” (Đội quả bầu đi vào hang lợn) – bầu
vốn là món ăn yêu thích của lợn, vậy mà có người bất cẩn đến mức đội quả bầu đi vào hang lợn thì tất yếu
chỉ chuốc vạ vào thân. Ám chỉ những người nổi giận một cách vô ích đối với những việc không đâu, tục ngữ
tiếng Hàn có câu: “호박 나물에 힘쓴다” (Dùng sức để nhổ dây bầu) – dây bầu vốn mảnh mai, dễ đứt vậy
mà phải dùng nhiều sức để nhổ thì đúng là tốn công vô ích.
2.2.5. Hình ảnh “gạo” (thóc, lúa, mạ)
Đứng ở vị trí thứ 5 trong bảng thống kê là hình ảnh “gạo” (thóc, lúa, mạ). Chúng xuất hiện trong
khoảng 36 câu thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn, chiếm tỉ lệ 4,8% trong tổng số câu có hình ảnh thực vật. hình
ảnh “gạo” biểu trưng cho của cải vật chất, cho cuộc sống no đủ. “쌀 독에 앉은 쥐” (Chuột sa hũ gạo) hay
như câu “쌀고리에 닭이라” (Gà trong đống thóc) - nói đến những người may mắn được sống trong cảnh
giàu sang, no đủ. “쌀 독에서 인심 난다” (Lòng thương người từ trong hũ gạo) – mình có dư dật thì mới có
điều kiện giúp đỡ người khác “Có thực mới vực được đạo”.
Hình ảnh cây lúa với đầy đủ thân, cành, lá, rễ cũng được ví von như một con người: “벼는 익을
수록 고개를 숙인다” (Lúa càng chín càng cúi đầu) – người càng tài giỏi thì lại càng khiêm tốn. Thông qua
hình ảnh cây lúa, người Hàn cũng ẩn chứa nhiều triết lí nhân sinh sâu sắc. Ví dụ như trong câu: “보리 주고
오이 안 주랴” (Cho lúa mạch chẳng nhẽ không cho dưa chuột) – hàm ý nhắn nhủ con người ta đã giúp
người thì phải giúp đến cùng; đã thương thì phải thương cho trót.
14
2.3. Nhóm chất liệu là động vật
Khi tiến hành khảo sát, thống kê trên tổng số 9603 câu tục ngữ tiếng Hàn, chúng tôi thấy có 2111
câu tục ngữ có hình ảnh động vật (chiếm 21,98%). Con số này trong thành ngữ tiếng Hàn là 181 câu trên
tổng số 4577 câu thành ngữ (chiếm 3,95%). Tổng số hình ảnh liên quan đến chất liệu động vật trong cả thành
ngữ và tục ngữ tiếng Hàn là 77 loài.
Trong nhóm hình ảnh động vật, có những loại xuất hiện với tần số cao và được dùng với những nét
nghĩa biểu trưng rất phong phú khi xuất hiện trong thành ngữ, tục ngữ. Tiêu biểu là hình ảnh “bò”, “ngựa”,
“hổ, báo”, “gà” và “chuột” có tần số xuất hiện nhiều nhất trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn. Còn trong tục
ngữ tiếng Việt, các yếu tố “cá”, “trâu”, “gà”, “chó”, “bò” có tần số xuất hiện nhiều nhất. Chúng ta có thể
nhận thấy rõ điều đó qua bảng thống kê dưới đây.
Tục ngữ, thành ngữ tiếng Hàn
STT Tên loại Số
lƣợng
câu
Tỉ lệ % (so với tục
ngữ có hình ảnh
tự nhiên)
1 Bò 303 13,2%
2 Ngựa 200 8,7%
3 Hổ,báo 183 7,98%
4 Gà 143 6,2%
5 Chuột 141 6,15%
Tục ngữ tiếng Việt14
STT Tên
loại
Số
lƣợng
câu
Tỉ lệ % (so với tục
ngữ có hình ảnh
động vật)
1 Cá 99 12,4%
2 Trâu 89 11,2%
3 Gà 72 9%
4 Chó 61 7,6%
5 Bò 44 5,5%
2.3.1. Hình ảnh “bò”
Trong số các loài động vật thì hình ảnh “con bò” xuất hiện nhiều nhất trong thành ngữ, tục ngữ tiếng
Hàn. “Bò” xuất hiện trong khoảng 303 câu, chiếm tỉ lệ 13,2% trong tổng số câu thành ngữ, tục ngữ có hình
ảnh động vật trong tiếng Hàn.
Do đặc tính của “bò” là chậm chạp, lề mề, không được nhanh nhẹn như các con vật khác nên hình
ảnh con bò được dùng như là tín hiệu thẩm mĩ biểu trưng cho những người đầu óc không được thông minh,
nhanh nhạy, ngu ngơ, tính tình lề mề. Ví dụ như trong câu: “소가 크다고 왕노릇 할까” (Bò vì to mà làm
tướng được sao?) – ý nói muốn chỉ huy người khác ngoài sức khỏe ra còn phải có đầu óc.
Trong sản xuất nông nghiệp, bò thường được dùng để làm sức kéo, vì thế những đoạn đường nào
gập ghềnh, mấp mô, khó đi thì người ta sẽ phải dùng sức bò, sức ngựa để kéo. Xuất phát từ đặc điểm này,
những nơi mà bò đi đến thường được dùng để chỉ những chỗ khó khăn, nguy hiểm, vất vả. Điều này được
phản ánh rõ qua câu tục ngữ: “소 갈 데 말 갈 데 가리지 않는다” (Không chùn bước dù cho đó là nơi bò
đến hay ngựa đến) – để đạt được mục đích thì nhất quyết phải đi, phải thực hiện cho dù đó là nơi khó khăn
hay việc đó có vất vả đến mức nào.
Thành ngữ tiếng Hàn sử dụng hình ảnh “소가 뜨물 켜듯이” (Giống như bò uống nước gạo) để ví
von với hành động uống nước ừng ực khi một người đang rất khát. Hay như câu “소가 푸주에 들어가듯”
(Sợ như bò vào cửa hàng thịt) để diễn tả nỗi sợ hãi, ghét phải đến một nơi nào đó mà mình không thích. Một
hình ảnh hết sức quen thuộc mà người Hàn thường xuyên sử dụng hàng ngày để chỉ những người ăn quá
nhiều, đó là “소같이 먹다” (Ăn như bò).
2.3.2. Hình ảnh “ngựa”
14
“Biểu trưng trong tục ngữ người Việt”, Nguyễn Văn Nở, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010, tr.316.
15
Xếp ở vị trí thứ hai với tần số xuất hiện khá nhiều (200 câu trên tổng số 2292 câu thành ngữ, tục ngữ
có chứa hình ảnh động vật, chiếm khoảng 8,7%) là những thành ngữ, tục ngữ có chứa hình ảnh “ngựa”. Với
con ngựa thì đặc trưng sống theo bầy, chạy nhanh, hay đá... là cơ sở liên tưởng biểu trưng cho tính cách, thói
quen của con người hoặc được dùng làm chất liệu biểu trưng để phê phán một lối sống, một tính cách, một
quan hệ ứng xử không đúng mực. “말꼬리의 파리가 천리 간다” (Ruồi bám đuôi ngựa bay xa ngàn dặm) –
ám chỉ những người dựa vào sức người khác để mưu lợi cho bản thân. Để diễn tả lòng tham con người vô
đáy, tục ngữ tiếng Hàn mượn hình ảnh: “말 타면 견마 잡히고 싶다” (Khi cưỡi ngựa còn muốn có cả người
giữ ngựa).
2.3.3. Hình ảnh “hổ, báo”
Ngoài những hình ảnh như “chim”, “trâu,bò”, “gà,vịt” là những hình ảnh quen thuộc xuất hiện trong
cả tục ngữ tiếng Hàn và tiếng Việt, thì hình ảnh “con hổ” cũng không thể không kể đến trong tục ngữ, thành
ngữ tiếng Hàn vì nó chiếm số lượng cũng khá lớn (7,98%). Hình ảnh “con hổ” tượng trưng cho uy quyền, là
một loài vật đầy sức mạnh. “호랑이 없는 곳에서 여우가 왕 노릇한다” (Nơi không có hổ thì cáo làm vua)
hoặc “범 없는 골에서 토끼가 스승이라” (Nơi không có báo thì thỏ làm thầy) hàm ý nơi không có kẻ mạnh
thì kẻ yếu có thế lực - “thằng chột làm vua xứ mù”.
Ngoài quyền uy, sức mạnh, “hổ” với đặc tính là loài thú ăn thịt hung dữ còn là hình ảnh biểu trưng
cho cái ác: “호랑이에게 개 꾸어주기” (Cho hổ mượn chó) – giao trứng cho ác.
2.3.4. Hình ảnh “gà”
Loài gia cầm này xuất hiện trong khoảng 143 câu, chiếm 6,2% trong tổng số câu thành ngữ, tục ngữ
tiếng Hàn có hình ảnh động vật. Gà là loại gia cầm nuôi trong nhà với hình dạng nhỏ thó nên khi đi vào tục
ngữ, thành ngữ, hình ảnh “gà” biểu trưng cho những việc nhỏ nhặt, những thứ có giá trị sử dụng không cao,
những người, những vật không được coi trọng. “닭을 잡는 데 도끼를 쓴다” (Dùng rìu bắt gà) – sử dụng
công cụ không phù hợp với thực tế công việc.
Một trong những nét nổi bật của gà trống là tiếng gáy và nó thường được dùng như là tín hiệu thẩm
mĩ chỉ thời gian, báo hiệu ngày mới sắp đến. “닭이 우니 새해의 복이 오고 개가 젖으니 지난 해의 재앙이
살아진다” (Gà gáy báo hiệu phúc năm mới tới, chó sủa báo hiệu họa năm cũ mất đi) – câu này thường được
người Hàn dùng thay cho câu chúc mừng năm mới hạnh phúc.
Trong thành ngữ tiếng Hàn chúng ta cũng bắt gặp rất nhiều hình ảnh con gà với những nét nghĩa
biểu trưng hết sức đa dạng. Để ví những người viết chữ xấu hoặc không có tài vẽ tranh, nét chữ và hình vẽ
còn nguệch ngoạc, thành ngữ tiếng Hàn có câu: “닭 발 그리듯” (Như thể vẽ chân gà). Tiếng Việt chúng ta
có câu tương ứng là “ Chữ như gà bới”.
2.3.5. Hình ảnh “chuột”
Hình ảnh “chuột” xuất hiện trong khoảng 141 câu, chiếm tỉ lệ 6,15% trong tổng số các câu thành ngữ,
tục ngữ tiếng Hàn có hình ảnh động vật. Khi nhắc đến con chuột, thường người ta không dành cho nó nhiều
thiện cảm bởi đó là một con vật bẩn thỉu, hôi hám, gây nỗi kinh sợ cho mọi người. Vì thế hình ảnh “chuột”
thường biểu trưng cho những con người khốn khó, thấp cổ bé họng, yếu thế trong xã hội. “쥐구멍에도 볕들
날이 있다” (Có ngày ánh sáng chiếu vào lỗ chuột) – con người dù khốn khổ nhưng cũng sẽ có ngày gặp vận
may, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời.
Chuột có kích thước nhỏ bé nên con vật này cũng được dùng làm hình ảnh biểu trưng cho những
việc nhỏ nhặt, những vật có khối lượng rất ít, không đáng kể. “쥐 밑살 같다” (Như là thịt mông chuột);
“쥐구멍으로 소 몰려 간다” (Lùa bò vào hang chuột) – Con bò thì to mà hang chuột thì nhỏ, vậy thì làm sao
16
có thể lùa bò vào được? Câu tục ngữ này mượn một hình ảnh phi lí như thế nói đến những người cứ cố tình
thực hiện những việc không thể thành hiện thực được.
Thành ngữ tiếng Hàn mượn hình ảnh con chuột để diễn tả những sắc thái biểu cảm của con người. Ví
dụ như trong câu: “쥐구멍을 찾는다” (Tìm cái lỗ chuột) – ý nói xấu hổ, muốn tìm nơi để trốn, muốn chui
xuống đất. Nói đến những hành động lén lút, muốn che giấu để không ai biết hành vi của mình, thành ngữ
tiếng Hàn có câu: “쥐도 새도 모르게” (Làm cho chuột và chim đều không hay biết).
2.4. Nhóm chất liệu là vật thể nhân tạo
Khi tiến hành khảo sát, thống kê trên tổng số 9603 câu tục ngữ tiếng Hàn, chúng tôi thấy có 1188
câu tục ngữ có hình ảnh các loại đồ dùng, các loại vật thể nhân tạo có trong cuộc sống thường ngày (chiếm
12,4%). Con số này trong thành ngữ tiếng Hàn là 224 câu trên tổng số 4577 câu thành ngữ (chiếm 4,9%).
Tổng số hình ảnh liên quan đến chất liệu vật thể nhân tạo trong cả thành ngữ và tục ngữ tiếng Hàn là 100 loại.
Trong nhóm hình ảnh vật thể nhân tạo, có những loại xuất hiện với tần số cao như hình ảnh: “quần, áo, váy”,
“dao”, “cửa, cổng”, “bát, đĩa” và “cái kim”. Còn trong tục ngữ tiếng Việt, các yếu tố “áo, quần, khố, yếm”,
“chén, bát”, “thuyền, đò, bè”, “nồi, niêu, vung”, “vàng, ngọc” có tần số xuất hiện nhiều nhất. Chúng ta có thể
nhận thấy rõ điều đó qua bảng thống kê dưới đây.
Tục ngữ, thành ngữ tiếng Hàn
STT Tên loại Số
lƣợng
câu
Tỉ lệ % (so với tục
ngữ có hình ảnh
vật thể nhân tạo)
1 Áo, quần 104 7,4%
2 Dao 80 5,7%
3 Cửa 69 4,9%
4 Bát 60 4,2%
5 Kim 59 4,17%
Tục ngữ tiếng Việt15
STT Tên loại Số lƣợng
câu
Tỉ lệ % (so với tục
ngữ có hình ảnh
vật thể nhân tạo)
1 Áo,
quần
56 10%
2 Bát 41 7,3%
3 Thuyền 35 6,2%
4 Nồi 25 4,4%
5 Vàng 22 3,9%
2.4.1. Hình ảnh “quần, áo, váy”
Hình ảnh “quần, áo, váy” xuất hiện trong khoảng 104 câu, chiếm tỉ lệ 7,4% trong tổng số câu thành
ngữ, tục ngữ tiếng Hàn có hình ảnh vật thể nhân tạo. Tục ngữ tiếng Hàn còn mượn hình ảnh chiếc áo để phản
ánh những quan niệm sống sâu sắc. Người Hàn quan niệm rằng: “옷은 새 옷이 좋고 사람은 옛 사람이
좋다” (Áo mới bao giờ cũng tốt hơn còn người thì phải người cũ mới tốt) – ý nói đồ dùng thì bao giờ dùng
đồ mới cũng tốt hơn là dùng đồ cũ nhưng trong quan hệ xã hội giữa người với người thì người cũ bao giờ
cũng tốt hơn vì chúng ta đã phải trải qua một khoảng thời gian dài để hiểu rõ về tính cách của nhau để từ đó
tạo dựng những mối quan hệ tin cậy, thân thiết.
Hình ảnh “váy” trong câu thành ngữ: “치마폭이 넓다” (Gấu váy rộng) được dùng với hàm ý mỉa
mai những người hay can thiệp, tham gia, hay xen vào chuyện của người khác một cách vô ích. Còn tục ngữ
tiếng Hàn thì dùng hình ảnh: “치마 밑에 키운 자식” (Những đứa con được nuôi dưới gấu váy) để nói đến
những đứa con của các bà quả phụ góa chồng, lớn lên không có sự dưỡng dục của cha mà lớn lên dưới bàn
tay chăm sóc của người mẹ.
2.4.2. Hình ảnh “dao”
15
“Biểu trưng trong tục ngữ người Việt”, Nguyễn Văn Nở, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010, tr.319.
17
Hình ảnh “dao” xuất hiện trong 80 câu, chiếm tỉ lệ 5,7% trên tổng số các câu thành ngữ, tục ngữ
tiếng Hàn có hình ảnh vật thể nhân tạo. “Dao” với hình dáng sắc, nhọn luôn được dùng với nghĩa biểu trưng
cho những tình huống khó khăn, nguy hiểm. Ví dụ như trong câu: “칼 날 위에 섰다” (Đứng trên lưỡi dao” –
hàm ý đang ở trong tình huống ngàn cân treo sợi tóc.
“Dao” cũng được dùng với nghĩa biểu trưng cho năng lực, phẩm chất của con người. “칼도 날이
서야 쓴다” (Dao có lưỡi sắc mới dùng được) – muốn làm được việc, phải là người có thực lực.
Một trong những chức năng sử dụng của “dao” là được dùng như một loại vũ khí để tự vệ, để chiến
đấu. Do đó, xuất phát từ chức năng sử dụng này mà hành động “칼을 갈다” (Mài dao) luôn được dùng với ý
nghĩa chuẩn bị cho một trận đánh nhau hoặc trả thù nào đó.
2.4.3. Hình ảnh “cửa, cổng”
Trong một ngôi nhà, “cửa, cổng” là những phần không thể thiếu, có chức năng che chắn, bảo vệ an
toàn cho ngôi nhà đó. Có lẽ vì thế mà hình ảnh này cũng xuất hiện khá nhiều trong thành ngữ, tục ngữ có
hình ảnh vật thể nhân tạo với số lượng câu khoảng 69 câu, chiếm tỉ lệ 4,9% trên tổng số.
Tục ngữ tiếng Hàn sử dụng hình ảnh “cửa, cổng” để biểu thị những quan niệm sống và những triết lí
nhân sinh sâu sắc đã được đúc kết và truyền lại từ đời này sang đời khác. Khi đề cập đến quan niệm chọn vợ,
người Hàn dùng hình ảnh mang tính chất so sánh, đối chiếu: “문 바를 집은 써도 입 빠른 집은 못 쓴다”
(Dùng nhà có cửa lớn nhưng không thể dùng vợ mau miệng). Về mối quan hệ nhân-quả, tục ngữ tiếng Hàn
có câu: “문을 연 사람이 바로 문을 닫은 사람” (Người mở cửa cũng chính là người đóng cửa) – hàm ý có
nguyên nhân thì mới dẫn đến kết quả, nhân thế nào thì quả thế ấy.
Trong đời sống hàng ngày, hình ảnh “cửa” là một bộ phận được dùng với ý nghĩa biểu trưng cho cái
tổng thể, cho một cơ quan, một doanh nghiệp, hay một công ty.
2.4.4. Hình ảnh “bát, đĩa”
Hình ảnh “bát, đĩa” xuất hiện trong khoảng 60 câu, chiếm tỉ lệ 4,2% trong tổng số các câu thành ngữ,
tục ngữ tiếng Hàn có hình ảnh vật thể nhân tạo.
Hình ảnh “bát, đĩa” được dùng để minh họa cho các quy luật, triết lí nhân sinh trong cuộc đời. Ví dụ
như hình ảnh “bát, đĩa” trong câu: “그릇도 차면 넘친다” (Đĩa chén đổ đầy quá sẽ tràn ra ngoài) – minh họa
cho quy luật mọi sự việc trong cuộc đời đều có giới hạn, không nên vượt quá giới hạn đó. “깨진 그릇이
맞추기” (Gắn lại chén đĩa vỡ) – chỉ nỗ lực hàn gắn hay bù đắp những lỗi lầm đã qua. “촌놈은 밥그릇 큰
것만 찾는다” (Kẻ quê chỉ chọn bát cơm to) – hàm ý người tri thức hạn hẹp chỉ tham về số lượng, không biết
đến chất lượng của đồ vật.
2.4.5. Hình ảnh “cái kim”
Hình ảnh “cái kim” xuất hiện trong khoảng 59 câu, chiếm tỉ lệ 4,17% trong tổng số các câu thành
ngữ, tục ngữ có hình ảnh vật thể nhân tạo. Từ lâu, mũi kim, sợ chỉ đã luôn là vật dụng quen thuộc dùng trong
may vá của người phụ nữ trong gia đình. Do đó, “kim”, “chỉ” thường đi liền thành một cặp và được dùng
nhiều trong thành ngữ, tục ngữ để chỉ mối quan hệ mật thiết giữa hai người, hai sự vật. Ví dụ như hình ảnh
“kim, chỉ” trong câu: “바늘 가는데 실 간다” (Kim đi đâu, chỉ đi đó) – nói đến mối quan hệ gắn bó như môi
với răng, như hình với bóng.
Cây kim vốn dĩ đã nhỏ nhưng lỗ kim còn nhỏ hơn, do đó hình ảnh “cây kim” hay “lỗ kim” thường
được dùng với nghĩa biểu trưng cho những vật hoặc nhưng việc quá nhỏ.
Cây kim có mũi nhọn hoắt, chọc vào da thịt dễ gây cảm giác đau nhức. Xuất phát từ đặc điểm này,
tục ngữ tiếng Hàn có câu: “바늘 방석에 앉은 것 같다” (Giống như ngồi trên cái đệm có kim) để diễn tả
lòng dạ lo lắng, bồn chồn như thể kim đâm.
18
2.5. Nhóm chất liệu là bộ phận cơ thể ngƣời
Khi tiến hành khảo sát, thống kê trên tổng số 9603 câu tục ngữ tiếng Hàn, chúng tôi thấy có 1593
câu tục ngữ có chứa từ chỉ bộ phận cơ thể, (chiếm 16,6%). Con số này trong thành ngữ tiếng Hàn là 1202 câu
trên tổng số 4577 câu thành ngữ (chiếm 26,3%). Tổng số hình ảnh liên quan đến các bộ phận cơ thể trong cả
thành ngữ và tục ngữ tiếng Hàn là 50 bộ phận.
Tục ngữ, thành ngữ tiếng Hàn
STT Tên loại Số
lƣợng
câu
Tỉ lệ % (so với tục
ngữ có từ chỉ bộ
phận cơ thể)
1 Mắt 410 14,7%
2 Chân 288 10,3%
3 Tay 283 10,1%
4 Miệng 205 7,3%
5 Lòng,
bụng, dạ
200 7,2%
Tục ngữ tiếng Việt16
STT Tên loại Số
lƣợng
câu
Tỉ lệ % (so với tục
ngữ có từ chỉ bộ
phận cơ thể)
1 Tay 68 13,4%
2 Lòng,
bụng, dạ
59 11,7%
3 Mặt 57 11,3%
4 Miệng 52 10,3%
5 Chân 32 6,3%
2.5.1. Bộ phận “mắt”
Ý nghĩa của từ mắt trong tiếng Hàn là một cơ quan giữ chức năng nhìn, có khả năng phán đoán, phân
biệt các sự vật, thị lực, năng lực của mắt có thể nhận biết hình thái của các vật thể. Và mắt còn được định
nghĩa là bộ phận biểu thị hình hài và thái độ khi nhìn một sự vật. Thành ngữ tiếng Hàn được dùng nhiều với
nghĩa là: thị lực, tầm nhìn, khả năng nhận thức, khả năng phán đoán, sự quan tâm, biểu đạt cảm xúc.
Thành ngữ diễn tả sự “phẫn nộ” có tương đối nhiều các cách diễn tả thông qua sự biến đổi hình dạng
và cử động của đôi mắt, có thể phân tích cụ thể như sau. Thông thường nếu một người tức giận thì sẽ cho đối
phương biết cảm xúc của bản thân, ánh mắt trở lên sắc lạnh, hung dữ để uy hiếp đối phương và cách nói
chuyển sang công kích. Các thành ngữ “눈을 치켜뜨다”, “눈을 부라리다” trong tiếng Hàn và „Tức lòi con
ngươi‟ trong tiếng Việt là những thành ngữ miêu tả con mắt khi tức giận.
2.5.2. Bộ phận “chân”
Hình ảnh “chân” xuất hiện với tần suất đứng thứ 2 trong các câu tục ngữ, thành ngữ tiếng Hàn.
“Chân” có thể mang ý nghĩa biểu trưng cho bản chất con người “발이 바르면 신이 비틀어지지 않는다”
(Chân có ngay thì giày mới không vẹo) ý nói người có bản chất tốt thì không có hành vi sai trái. “Chân” có
thể tượng trưng cho năng lực, khả năng của một người “발을 벗고 따라가도 못 따라겠다” (Đã cởi cả giày
xỏ ở chân mà vẫn không chạy theo kịp) ý nói sự chệnh lệch về năng lực giữa 2 người là quá lớn nên không
thể theo kịp.
Tục ngữ tiếng Hàn còn mượn hình ảnh “chân” để phản ánh những quan niệm về cuộc sống, qua đó
nhắn nhủ con người ta phải học cách sống sao cho tốt hơn. “발이 편하려면 버선을 크게 짓고, 집안이
편하려면 계집을 하나 둬라” (Nếu muốn chân thoải mái thì phải may giầy rộng, nếu muốn trong nhà yên
ấm thì hãy chỉ nên có một vợ) – hàm ý nếu có vợ lẽ thì gia đình sẽ không được yên ấm.
Thành ngữ tiếng Hàn thì dùng hình ảnh “발을 구르다” (Chân xoắn cả vào nhau) để nói lên tâm
trạng tiếc nuối hoặc rơi vào tình huống gấp gáp. Đặc tính của đôi bàn chân là giúp con người di chuyển, đi
16
“Biểu trưng trong tục ngữ người Việt”, Nguyễn Văn Nở, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010, tr.322.
19
lại, gặp gỡ bạn bè và từ đó thiết lập các mối quan hệ xã hội. Do đó, hình ảnh “chân” trong thành ngữ tiếng
Hàn biểu trưng cho các mối quan hệ xã hội. “발이 넓다” (Chân rộng) là nói đến những người quen biết
nhiều, có mối quan hệ xã giao tốt.
2.5.3. Bộ phận “tay”
Theo kết quả thống kê của chúng tôi, từ “tay” xuất hiện trong khoảng 283 câu, chiếm tỉ lệ 10,1%
trong tổng số các câu thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn có từ chỉ bộ phận cơ thể người. Từ “tay” được dùng để
biểu trưng cho sức lao động, hành động, việc làm.
Dựa trên mối quan hệ giữa bộ phận và toàn thể, “tay” còn được dùng để biểu trưng cho con người
nói chung. Ví dụ như trong câu “손이 모자라다” – “thiếu tay” thì từ “tay”ở đây mang ý nghĩa biểu trưng
cho con người, hàm ý là khối lượng công việc quá nhiều mà lại thiếu người làm.
Cũng giống như từ “chân”, từ “tay” mang ý nghĩa biểu trưng cho các mối quan hệ xã hội. Vì thế khi
nói: “손을 끊다” (Cắt đứt tay) – có nghĩa là cắt đứt quan hệ với một người nào đó, không giao du với một
đoàn thể nào hoặc mang ý ngừng công việc kinh doanh, buôn bán.
2.5.4. Bộ phận “miệng”
Bộ phận này xuất hiện trong khoảng 205 câu, chiếm tỉ lệ 7,3% trên tổng số các câu thành ngữ, tục
ngữ tiếng Hàn có chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người. Dựa vào chức năng “nói”, “miệng” được dùng biểu
trưng cho lời nói, việc làm, tính cách con người.
“Miệng” chủ yếu được sử dụng với ý nghĩa nói hoặc lời nói, còn các thành ngữ diễn tả cảm xúc thì
không nhiều. Ví dụ như câu “입에 침이 마르다” – “Khô cả nước bọt ở miệng”, ý nói khen ai nhiều đến mức
khô cả nước bọt ở miệng. Ngoài ra, có thể tìm thấy cách diễn đạt liên quan đến nụ cười trong các thành ngữ
diễn tả “niềm vui” có chứa từ “miệng”. Ví dụ như các thành ngữ “입이 함박만하다” “Miệng như hoa mẫu
đơn”, “입을 다물지 못하다” “Không ngậm được miệng” trong tiếng Hàn.
2.5.5. Bộ phận “lòng, bụng, dạ”
Bộ phận “lòng, bụng, dạ” xuất hiện trong khoảng 200 câu, chiếm tỉ lệ 7,2% trong tổng số các câu
thành ngữ, tục ngữ có chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người. Bộ phận này chủ yếu được dùng làm tín hiệu thẩm
mĩ cho những vấn đề thuộc về nội tâm, tình cảm của con người. “마음씨가 고우면 앞섶이 아문다” (Tốt
bụng thì vạt áo cũng không che được) – trong lòng có đẹp thì bên ngoài cũng hiện ra.
Là bộ phận tiêu hóa, chứa đựng thức ăn nên các từ thuộc nhóm này còn được dùng biểu trưng cho sự
hưởng thụ, những nhu cầu, ham muốn vật chất. Ví dụ như trong câu: “마음은 굴뚝 같다” (Lòng dạ như ống
khói) – trong lòng rất ham muốn điều gì đó.
Tổ hợp từ “배가 아프다” (Đau bụng) được dùng nhiều trong thành ngữ tiếng Hàn để chỉ thói đố kị,
ghen ghét khi thấy người khác sung sướng, hạnh phúc hơn mình. “배를 두드리다” (Vỗ vào bụng) biểu
trưng cho cuộc sống sung túc, dư dả, an lạc. “배를 채우다” (Lấp cho đầy cái bụng) – hình ảnh “bụng” ở đây
biểu trưng cho tính tư hữu, tư lợi, ham muốn cá nhân.
Tiểu kết:
Khảo sát 4 nhóm tự nhiên, thực vật, động vật, vật thể nhân tạo có thể thấy ảnh hưởng bao trùm trong tục
ngữ tiếng Việt là dấu ấn văn hóa của nền nông nghiệp lúa nước với những yếu tố “nước”, “mưa”, “gió” xuất hiện
với tần số cao. Trong khi đó, dấu ấn nông nghiệp không được phản ánh rõ trong tục ngữ tiếng Hàn. Còn trong
nhóm các bộ phận cơ thể người, tần số xuất hiện cao nhất trong tục ngữ tiếng Việt đó là hình ảnh “bàn tay”, biểu
trưng cho sức lao động. Điều này cho thấy quan niệm tích cực của nhân dân ta: “Có làm thì mới có ăn”, phải lao
động thì mới tạo ra của cải vật chất, mới nuôi sống được bản thân, gia đình và xã hội. Trong tục ngữ tiếng Hàn,
hình ảnh “mắt” lại xuất hiện với tần số cao nhất. “Mắt” biểu trưng cho sự nhìn nhận, đánh giá, khả năng phán
20
đoán, tư duy. Và người Hàn Quốc đánh giá cao điều này. Trước khi làm một việc gì đó họ đều phải cân nhắc kỹ
lưỡng, có sự dò trước tính sau sao cho công việc đạt được hiệu quả cao nhất. Khi bắt đầu một mối quan hệ, người
Hàn Quốc luôn phán đoán, đánh giá đối phương từ những lần tiếp xúc, gặp gỡ đầu tiên. Vì vậy ấn tượng ban đầu
được người Hàn Quốc rất coi trọng. Có thể nói tìm hiểu kho tàng tục ngữ của mỗi quốc gia chính là chúng ta đang
tìm hiểu về đặc trưng văn hóa, phong tục tập quán, lối tư duy của người dân nơi đó. Và mảnh đất tục ngữ luôn là
mảnh đất màu mỡ để cho chúng ta tìm tòi, khám phá.
Chƣơng 3:
DẤU ẤN VĂN HÓA – DÂN TỘC THỂ HIỆN QUA CHẤT LIỆU CỦA CÁC TÍN HIỆU THẨM MỸ
TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TIẾNG HÀN
3.1. Nhóm chất liệu là tự nhiên
Hình ảnh của giới tự nhiên là chất liệu biểu trưng thường thấy trong thành ngữ, tục ngữ các nước.
Thế nhưng ở mỗi nơi, hiện tượng này diễn ra không giống nhau. Cái nhìn, quan niệm về thế giới tự nhiên của
mỗi dân tộc cũng khác. Khi mô tả kinh nghiệm về hiện tượng tự nhiên, tục ngữ tiếng Hàn có câu: “가을 무
껍질이 두꺼우면 겨울에 춥다” (Củ cải dày vỏ thì mùa đông sẽ lạnh). Hoặc câu: “가을 물은 소 발자국에
괸 물도 먹는다” (Vào mùa thu, nước đọng trong vết chân bò cũng uống được) – ý nói vào mùa thu nước rất
trong.
Với một đất nước mà 70% diện tích là đồi núi như Hàn Quốc thì thật dễ hiểu khi yếu tố địa lý, địa
hình này được phản ánh rõ ràng qua thành ngữ, tục ngữ với số lượng câu thành ngữ, tục ngữ có chứa hình
ảnh “núi” tương đối nhiều.
Cùng thuộc các quốc gia Châu Á và cùng chịu ảnh hưởng của nền văn hóa văn minh phương Đông
nên chúng ta rất dễ bắt gặp những điểm tương đồng trong văn hóa giữa hai dân tộc và trong tư duy, tư tưởng,
tình càm của người dân hai nước. Do đó, các tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ của hai nước rất gần
gũi nhau, ít có điểm khác biệt. Người Việt Nam hay có câu: “Mưa dầm thấm đất” thể hiện sự kiên trì, sự bền
bỉ và lòng quyết tâm thực hiện một điều gì đó. Thì với lối tư duy tương tự, người Hàn cũng có câu:
“가랑비에 옷 젖는 줄 모른다” (Mưa phùn coi chừng ướt áo) – hàm ý những chuyện nhỏ nếu mình chủ
quan, không để ý thì có thể sẽ trở thành chuyện lớn và gây ra những hậu quả khôn lường.
Trong lối tư duy của cả hai dân tộc đều quan niệm “đá” là một vật rất chắc chắn, biểu trưng cho một
thế lực mạnh. Do đó, khi nói đến những người không phải là đối thủ của nhau, không cân sức, tục ngữ của cả
hai nước đều dùng hình ảnh “Lấy trứng mà chọi với đá” (계란으로 바위를 치다).
3.2. Nhóm chất liệu là thực vật
Đứng ở vị trí thứ nhất trong số các loại thực vật có tần số xuất hiện cao trong thành ngữ, tục ngữ
tiếng Hàn đó là hình ảnh các loại cây họ “đậu”. Các loại cây họ “đậu” là món ăn thường thấy trong các bữa
ăn hàng ngày của người dân xứ sở kim chi. Do đó mà tục ngữ, thành ngữ có chứa hình ảnh này rất nhiều.
Tục ngữ tiếng Hàn có câu: “가마 속의 콩도 삶아야 먹는다” (Đậu trong chảo có luộc mới ăn được) – ý nói
việc tuy dễ nhưng tự mình phải làm thì mới thành công. Tiếng Việt thì có câu: “Muốn ăn phải lăn vào bếp”.
Ám chỉ sự việc, đồ vật hiếm có, người Hàn dùng hình ảnh: “가물에 콩 나듯” (Giống như đậu mọc mùa hạn)
– mùa hạn thì hầu hết các loại thực vật đều khó mọc chứ đừng nói gì đến cây đậu. Tiếng Việt lại dùng hình
ảnh: “Hiếm như lá mùa thu” – mùa thu lá rụng hết nên thật khó để có thể trông thấy lá xanh trên cây.
Nói đến những kẻ lười nhác, không làm mà chỉ mong ngồi một chỗ hưởng thụ, tiếng Hàn dùng hình
ảnh: “감나무 밑에서 입만 벌리고 있다” (Há miệng đứng dưới cây hồng). Ở Việt Nam thì dùng một chất
liệu biểu trưng khác, đó là “Há miệng chờ sung”. “Sung” là loài cây phổ biến ở Việt Nam cũng như “hồng”
21
là loài cây khá phổ biến ở Hàn Quốc. Do đó không có gì là khó hiểu khi nó đi vào tục ngữ, thành ngữ của
mỗi nước một cách hết sức tự nhiên.
Ngoài các loại cây họ “đậu” , “hạt dẻ” cũng là loại thực vật phổ biến ở những nước có khí hậu lạnh
như Hàn Quốc, và đây cũng chính là chất liệu biểu trưng được sử dụng thường xuyên trong thành ngữ, tục
ngữ tiếng Hàn.
Người Hàn Quốc khi chúc nhau sống lâu trăm tuổi thường dùng câu chúc: “검은 머리 파뿌리
되도록” (Sống mãi từ khi tóc còn xanh đến lúc (trắng) thành rễ hành) – vì “rễ hành” có màu trắng nên người
Hàn ví màu trắng của tóc với màu trắng của rễ hành. Trong khi người Việt lại nói: “Tóc bạc trắng như cước”.
Ở Hàn Quốc, biểu đạt ý một người làm xấu gây ảnh hưởng không tốt cho cả tập thể, họ có câu:
“과일 망신은 모과가 시킨다” (Tai tiếng của hoa quả, do mộc qua mà ra) – mộc qua là loại quả có mùi
thơm, phổ biến ở Hàn Quốc. Trong câu tục ngữ này, “mộc qua – hoa quả” biểu trưng cho “cá nhân – tập thể”.
Hình ảnh trái mộc qua có phần hơi xa lạ với người Việt. Để biểu đạt triết lý trên, chúng ta có câu: “Con sâu
làm rầu nồi canh”. Hình ảnh này phản ánh một nét văn hóa trong ăn uống của người Việt mà cơ cấu bữa ăn
bao gồm: Cơm + Rau + Cá. Một lần nữa, điều này cho thấy, tục ngữ phản ảnh tư duy văn hóa của mỗi dân
tộc.
Hàm ý chỉ một câu chuyện rất hay, rất hứng thú đến mức “Con kiến trong hang cũng phải bò ra”,
tiếng Hàn có câu thành ngữ: “깨가 솓아진다” (Vừng bật dậy). Trong văn hóa của người Hàn Quốc, người
Hàn cũng hay dùng thành ngữ này để nói đến cuộc sống hôn nhân đầy thi vị của những cặp vợ chồng mới
cưới.
Trong tiếng Hàn có câu “얼굴이 홍당무가 되다” (Mặt như củ cải đỏ), trong câu này, người Hàn đã
dùng hình ảnh “củ cải đỏ” để diễn tả “các cô gái xấu hổ nên khuôn mặt chuyển sang màu đỏ”. Thành ngữ
tiếng Việt cũng có cách diễn tả tương tự như vậy trong câu “Mặt đỏ như gấc”, trong thành ngữ này đã dùng
hình ảnh “quả gấc” – một loại quả của Việt Nam để làm hình ảnh ví von. Mặc dù đã sử dụng những phương
thức so sánh khác nhau, một bên là hình ảnh “củ cải đỏ” của Hàn Quốc và một bên là “quả gấc” của Việt
Nam nhưng có thể tìm thấy điểm giống nhau đó là cùng dùng màu đỏ để diễn tả sự xấu hổ.
3.3. Nhóm chất liệu là động vật
Nói đến những người tính cách không hợp nhau, không thích nhau, người Việt ví “Như chó với
mèo”, còn người Hàn lại ví “개와 원숭이 사이” (Như chó với khỉ). Minh họa cho triết lý: “Có làm thì mới
có ăn”, tục ngữ tiếng Hàn mượn hình ảnh “con nhện” trong câu: “거미도 줄을 쳐야 벌레를 잡는다” (Nhện
cũng phải giăng tơ thì mới bắt được sâu). Xuất phát từ đặc tính bò ngang chứ không bò thẳng như các loài
động vật khác của con cua, người Hàn liên tưởng đến những việc không có tiến bộ, không có biến đổi gì qua
câu thành ngữ: “게 걸음 친다” (Đi theo kiểu cua bò). Trong khi người Việt lại mượn đặc tính này của loài
cua để nói đến tính cách ngang bướng: “Ngang như cua”.
Với triết lý không nên coi thường những lỗi lầm nhỏ nhặt vì dần dần có thể phát triển và gây hậu quả
lớn hơn, nhất là trong việc giáo dục trẻ nhỏ, người Hàn dùng hình ảnh: “겨 먹던 개 쌀 먹는다” (Chó ăn
vụng cám sẽ ăn vụng gạo). Người Việt cũng có cách diễn đạt tương tự để thể hiện nội dung triết lý trên
nhưng chất liệu dùng là “gà” và “trâu” chứ không phải “cám” và “gạo”: “Bé ăn trộm gà, già ăn trộm trâu”.
Diễn tả một tình huống oái oăm, “Tình ngay lý gian”, một chuyện xảy ra trùng hợp sau khi một người thực
hiện một hành động nào đó khiến họ bị nghi ngờ dính líu hay có liên quan vào sự việc đó, tục ngữ tiếng Hàn
có câu: “까마귀 날자 배 떨어진다” (Quạ vừa bay thì táo rơi). Cũng dùng hình ảnh “con quạ” nhưng mang
ý nghĩa dù tốt hay xấu, những gì của quê hương mình cũng đều đáng quý, tiếng Hàn có câu: “까마귀도 내
땅 까마귀라면 반갑다” (Tuy là quạ nhưng quạ trên đất mình thì mừng). Người Việt cũng có quan niệm
22
tương tự như vậy: “Ta về ta tắm ao ta; Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Thông qua đó chúng ta có thể thấy
được tư duy văn hóa của hai dân tộc Hàn Quốc và Việt Nam có khá nhiều điểm tương đồng. Nói đến việc ai
cũng có quê hương, nguồn cội, người Việt có câu: “Chim có tổ, người có tông”. Người Hàn thì nói: “까막
까치도 집이 있다” (Chích chòe đen cũng có nhà). Hàn Quốc và Việt Nam đều chung cội nguồn văn hóa
phương Đông và cùng chịu ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa nên người dân hai nước rất coi trọng quê
hương, nguồn cội.
Chỉ người trong cảnh cô đơn, tiếng Việt ví “Buồn như chó mất con”, còn tiếng Hàn dùng hình ảnh
đôi ngỗng trời: “짝 잃은 기러기 같다” (Giống như ngỗng trời mất đôi). Sở dĩ mượn hình ảnh “đôi ngỗng
trời” là bởi vì trong văn hóa Hàn Quốc, hình ảnh “đôi ngỗng” tượng trưng cho một cặp vợ chồng. Vì thế
trong lễ kết hôn truyền thống của người Hàn Quốc, trong các lễ vật mà chú rể mang đến nhà cô dâu, chúng ta
luôn bắt gặp hình ảnh một đôi ngỗng đẽo bằng gỗ. Con ngỗng được sơn màu xanh tượng trưng cho chú rể và
con ngỗng màu đỏ tượng trưng cho cô dâu. Ngỗng là loài động vật được đánh giá cao về lòng chung thủy,
một con ngỗng đực khi cặp với một con ngỗng cái và trở thành một đôi, chúng sẽ sống với nhau trọn đời với
tấm lòng chung thủy tuyệt đối. Cặp uyên ương ngỗng bao giờ cũng cặp kè bên nhau, bay chung một đôi và
kiếm ăn cùng một chỗ, không bao giờ người ta thấy chúng tách ra ăn lẻ. Xuất phát từ đặc tính đó của loài
ngỗng mà người Hàn Quốc tin rằng cặp ngỗng gỗ trong ngày cưới sẽ thay cho một lời chúc đôi vợ chồng trẻ
sống hạnh phúc, yêu thương nhau đến trọn đời như loài ngỗng trời vậy.
Với nội dung phê phán kẻ quên ơn, phụ bạc ngay những người đã giúp đỡ mình khi đạt được mục
đích, người Hàn có câu: “날랜 토끼를 잡고 나면 그 사냥개도 잡아먹는다” (Bắt xong con thỏ nhanh nhẹn,
ăn thịt cả con chó săn). Tiếng Việt cũng có cách diễn đạt rất hình tượng tương tự: “Được chim quên ná, được
cá quên nơm”. Câu tục ngữ của cả hai dân tộc không chỉ có tính hình tượng mà còn có sức thuyết phục, phê
phán cao. “Ná”, “nơm” là công cụ quen thuộc dùng để đánh bắt “chim”, “cá” của người dân Việt Nam vốn
quen với đời sống sông nước. Còn với những nước mà ít nhiều chịu ảnh hưởng của nền văn hóa du mục,
quen săn bắn như Hàn Quốc thì “con chó săn” là loài vật không thể thiếu trong mỗi cuộc đi săn. Ấy thế mà
những công cụ phục vụ đắc lực cho con người như thế lại không được đoái hoài, thậm chí bị đối xử tệ bạc
khi đã hoàn thành xong chức năng của mình. Hành động phụ bạc này rồi sẽ trả giá vì khi đến lúc cần, công
cụ đó có thể sẽ không còn nữa. Chất liệu của hai câu tục ngữ còn cho thấy dấu ấn của môi trường tự nhiên và
điều kiện sống của người dân hai nước. Ngoài việc vất vả, lăn lộn trên ruộng đồng, họ còn cần cù lao động
để cải thiện bữa ăn, thay đổi hoàn cảnh sống của mình.
Một đặc điểm nổi bật khác trong thành ngữ, tục ngữ có chứa từ chỉ động vật của Việt Nam và Hàn
Quốc, đó là trong tục ngữ, thành ngữ tiếng Việt, hình ảnh “con trâu” xuất hiện với tần số rất lớn, “con trâu”
đã gắn bó với người nông dân Việt Nam như hình với bóng, còn hình ảnh “con trâu” trong tục ngữ, thành
ngữ tiếng Hàn hoàn toàn không có và thay thế vào đó là những con vật gần gũi với người dân Hàn Quốc hơn
như: con bò, con ngựa.v.v... Điều này là bởi vì “con trâu” là loài động vật chỉ xuất hiện ở những nước có nền
văn minh lúa nước, những nước thuộc vùng Đông Nam Á hoặc phía Nam Trung Hoa. Do đó, trong suy nghĩ
của người nông dân Việt Nam, con trâu được coi như một thành viên trong gia đình. Nhiều câu tục ngữ đã
dùng hình ảnh con trâu để biểu đạt. Trong khi hình ảnh con vật này không xuất hiện trong thành ngữ, tục ngữ
tiếng Hàn. Vì thế trong khi người Việt nói: “Đàn gảy tai trâu” biểu trưng cho những người đần độn, kém hiểu
biết thì tiếng Hàn lại nói: “소귀에 경 읽기” (Đọc kinh tai bò). Trong khi người Việt nói: “Ngưu tầm ngưu,
mã tầm mã” thì người Hàn lại dùng hình ảnh loài vật khác để thay thế, đó là: “묻는 말 있는 데 차는 말
있다” (Nơi ngựa cắn thì có ngựa đá) ý nói phàm những nơi nào kẻ xấu ở thì sẽ có những kẻ xấu khác tụ tập,
giao du, qua lại với nhau.
23
3.4. Nhóm chất liệu biểu trƣng là vật thể nhân tạo
Khi nói đến cái nghèo một cách cùng cực, tục ngữ tiếng Hàn mượn hình ảnh “đũng quần” làm chất
liệu biểu trưng trong câu: “가랑이가 찢어지도록 가난하다” (Nghèo đến nỗi rách cả đũng quần). Còn
người Việt thì dùng hình ảnh: “Nghèo rớt mồng tơi”. "Nghèo rớt mồng tơi" hay "nghèo xác mồng tơi" chỉ cái
nghèo đến cùng cực. Câu thành ngữ này được sử dụng rất nhiều ở người dân Bắc Bộ. Nông thôn ngày xưa ở
các đường ngõ, hàng rào có rất nhiều dây mùng tơi. Đó là thứ rau dùng cho con nhà nghèo. Đi làm đồng về,
bắt được ít cua bò có thể vừa làm cua vừa ra ngõ vơ vội cũng được vài nắm mùng tơi nấu cua được nồi canh
ăn với cà muối xổi là có bữa cơm thường nhật của nhà nông. Rau mùng tơi có nhiều nhớt nên thường hái
thêm một số loại rau khác cho đỡ nhớt. Nhớt (hay rớt) đúng là nhớt rau mùng tơi.
Nói đến chuyện giáo dục con trẻ, cả tục ngữ tiếng Hàn và tiếng Việt đều mượn hình ảnh “cái roi” để
làm chất liệu biểu trưng cho sự nghiêm khắc, kỷ luật trong răn dạy trẻ nhỏ. Tiếng Hàn thì nói: “귀한 자식 매
한 대 더 때리고, 미운 자식 떡 한 개 더 주랬다” (Thương con đánh thêm một roi, ghét con cho thêm cái
bánh). Tiếng Việt có câu tục ngữ tương tự là: “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”.
Ám chỉ cảnh vợ chồng ly hôn, gia đình tan nát, cả tiếng Việt và tiếng Hàn đều dùng hình ảnh “Gương vỡ”
(깨진 거울이다).
Biểu đạt quan niệm nội dung quan trọng hơn hình thức bên ngoài, tiếng Việt có câu: “Tốt gỗ hơn tốt
nước sơn”. Còn với đất nước Hàn Quốc, nơi được biết đến như là xứ sở của kim chi và các loại tương mùi vị
đặc trưng, câu tục ngữ biểu đạt ý nghĩa tương tự đó là: “뚝배기보다 장맛이 좋다” (Tương thì ngon hơn hũ),
trong câu tục ngữ này xuất hiện hình ảnh của “뚝배기” là một loại hũ, một loại bát bằng đất nung, người
Hàn chuyên dùng để đựng tương, muối kim chi hoặc để các loại canh và các món hầm, loại hũ và bát này có
ưu điểm là giữ được nhiệt của các món ăn nên nó mang lại cho món ăn Hàn Quốc những hương vị thơm
ngon đặc trưng.
Với triết lý ăn ở theo thời, tùy theo hoàn cảnh mà có cách ứng xử cho phù hợp, tiếng Hàn có câu:
“손님 봐서 바가지로 대접하고 주인 봐서 손으로 먹는다” (Xem khách mà đãi bằng bát, xem chủ nhà mà
ăn bằng tay). Còn Việt Nam thì có cách nói: “Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mạc áo giấy”. Hình ảnh “áo
cà sa” cho thấy dấu ấn của tín ngưỡng Phật giáo. Hình ảnh “áo giấy” gợi lên tập tục đốt vàng mã trong tang
ma, giỗ chạp của người Việt Nam. Dấu ấn của tín ngưỡng Phật giáo cũng được phản ánh trong văn hóa Hàn
Quốc qua câu tục ngữ: “중이 미우면 가사도 밉다” (Ghét sư nên ghét cả áo cà sa), ý nói ghét ai ghét lây cả
những thứ liên quan, “Ghét nhau ghét cả tông ty họ hàng). Nói đến việc cho dù gia đình có tán gia bại sản thì
cũng còn lại lề lối gia đình, tiếng Hàn có câu: “종가가 망해도 향로 향합은 남는다” (Nhà có bại thì cũng
còn lại lọ hương, hộp đựng hương). Câu chứa đựng hàm ý này trong tiếng Việt là: “Giấy rách phải giữ lấy
lề”. Qua đó có thể thấy rằng, trong tư tưởng, quan niệm của người dân Việt Nam và Hàn Quốc, nề nếp gia
đình, trật tự, thứ bậc và các mối quan hệ trong gia đình rất được coi trọng.
3.5. Nhóm chất liệu biểu trƣng là bộ phận cơ thể ngƣời
Trong số các thành ngữ của tiếng Việt liên quan đến từ mắt, các cách biểu đạt giống như: “Mắt như
nước hồ thu”, “Mắt lá dăm”, “Đôi mắt bồ câu” được sử dụng với ý nghĩa diễn tả ngoại hình của cơ thể, nói
cách khác là vẻ đẹp của đôi mắt và cách diễn tả này không thể tìm thấy trong thành ngữ tiếng Hàn.
Mũi là bộ phận trung tâm trên khuôn mặt, giữ chức năng thở, cảm nhận các mùi và đôi khi giúp bộc lộ cảm
xúc. Thành ngữ liên quan đến từ “mũi” trong tiếng Hàn mang ý nghĩa tiêu cực như: “kiêu căng”, “khinh bỉ”,
“ô nhục” .v.v... hoặc nhiều trường hợp được sử dụng khi muốn diễn tả “sự cảm động” như: “thấy cay nơi
sống mũi” (코끝이 찡하다), “cảm giác nhức nhối nơi cánh mũi” (콧날이 시큰하다).
24
Trong thành ngữ tiếng Hàn, ta có thể thấy những thành ngữ được hình thành bởi từ “miệng” có
khuynh hướng diễn đạt tính cách tổng hợp của con người như: tính cách, khí chất, đạo đức, phẩm hạnh bên
trong. Thỉnh thoảng diễn tả sự oán trách, tham vọng, dã tâm. Và cũng không thể không kể đến tính chất vận
động của miệng theo hành động phát ngôn. Các thành ngữ liên quan đến từ “miệng” đều rất đa dạng ở cả hai
ngôn ngữ. Và đều có một điểm chung là được dùng với ý nghĩa cơ bản là “nói”.
Thành ngữ tiếng Hàn có rất nhiều cách biểu đạt liên quan đến từ “tai” nhưng thành ngữ tiếng Việt thì
không có nhiều cách biểu đạt như vậy. Đại đa số các cách biểu đạt thành ngữ trong tiếng Hàn không có thành
ngữ tiếng Việt tương ứng và thường phải dùng đến thành ngữ 4 chữ hoặc các cụm từ. Thông thường thành
ngữ 4 chữ được sử dụng theo thể văn viết hoặc chỉ mang nghĩa đen nên đặc tính khác hẳn so với thành ngữ.
Trong số các thành ngữ tiếng Việt được sử dụng nhiều trong sinh hoạt hàng ngày, rất ít thành ngữ truyền tải
ý nghĩa lấy chất liệu từ “tai”. Thành ngữ tiếng Hàn chia nhỏ “tai” ra thành các bộ phận như: lỗ tai, vành tai,
màng nhĩ tai, sống tai.v.v... còn thành ngữ tiếng Việt không sử dụng các chất liệu như vậy. Nghĩa là thành
ngữ tiếng Hàn sử dụng rất nhiều những bộ phận liên quan đến “tai” còn thành ngữ tiếng Việt chỉ đơn thuần
sử dụng toàn thể bộ phận “tai”.
Trong tiếng Hàn, từ đầu và từ tóc được sử dụng với ý nghĩa giống nhau nhưng trong tiếng Việt phân
biệt rất rõ từ “đầu” và từ “tóc”. Từ “đầu” có thể kết hợp được với động từ hoặc tính từ. Thông thường, trong
trường hợp từ đầu kết hợp với động từ thì ta có thể thấy nó như một ngôn ngữ chỉ bộ phận cơ thể (hành vi,
động tác). Trường hợp này phương thức và ý nghĩa quán dụng trong thành ngữ tiếng Hàn và tiếng Việt giống
nhau. Ví dụ: “cúi đầu, dùng đầu, lắc đầu” (머리를 숙이다 머리를 쓰다 머리를 흔들다 . Đôi khi từ đầu
kết hợp với tính từ để biểu đạt những hình ảnh trừu tượng nhưng đại bộ phận những trường hợp như vậy ý
nghĩa biểu đạt có sự khác nhau giữa thành ngữ tiếng Hàn và thành ngữ tiếng Việt.
“Mặt” là bộ phận cơ thể rõ ràng nhất để nhận diện ra một người, tạo ra ấn tượng đầu tiên, là toàn thể
bộ phận đằng trước đại diện cho bộ phận đầu trong số các bộ phận của cơ thể. Mặt là nơi đầu tiên bộc lộ tất
cả các cảm xúc, đồng thời là tiêu chuẩn để đánh giá con người. Vì thế các thành ngữ liên quan đến mặt chủ
yếu diễn tả ý thể diện hoặc địa vị, danh dự.
Trong tục ngữ, thành ngữ tiếng Việt và tiếng Hàn, từ “tim” (심장) ít khi được dùng để biểu trưng về
tâm tồn, tính cách, tình cảm của con người. Mà thay vào đó là các hình ảnh “lòng, bụng, dạ, ruột”. “Lòng”
(hay “tâm”) chính là bụng của con người, được coi là biểu trưng của thế giới nội tâm của con người nói
chung, dù đó là tình cảm, ý chí hay tinh thần17
... Và những tín hiệu thẩm mỹ này được dùng khá phổ biến
trong thành ngữ, tục ngữ của cả hai nước.
Tiểu kết
Sự liên hệ, so sánh, đối chiếu thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn và tiếng Việt theo năm nhóm chất liệu
như trên đã phản ánh rõ dấu ấn văn hóa - dân tộc in đậm trong thành ngữ, tục ngữ của mỗi nước. Chúng ta có
thể tìm thấy nhiều mặt của đời sống xã hội, lối suy nghĩ, tư duy ngôn ngữ được phản ánh thông qua thành
ngữ, tục ngữ. Người Đức có câu: “Quốc gia nào, tục ngữ ấy”18
. Cái riêng trong thành ngữ, tục ngữ của mỗi
quốc gia chính là dấu ấn văn hóa – dân tộc. Điểm chung của thành ngữ, tục ngữ là ít chữ nhưng ý nghĩa hay
và hình ảnh đẹp. Thế nhưng giữa thành ngữ, tục ngữ của mỗi nước bên cạnh những điểm tương đồng vẫn tồn
tại những dị biệt. Nét dị biệt thể hiện ở cách tổ chức cấu trúc hình thức và lựa chọn chất liệu để biểu đạt nội
dung triết lý tương đồng.
17
Nguyễn Đức Tồn 2002, Sdd, tr.286. 18
Nguyễn Văn Nở, “Biểu trưng trong tục ngữ người Việt”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008, tr.185.
25
Khi khám phá những dấu ấn văn hóa – dân tộc thể hiện trong thành ngữ, tục ngữ, các nhà nghiên cứu
ngôn ngữ thường lựa chọn một trong ba phuơng pháp: 1) Nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ theo hướng từ
nguyên, áp dụng phương pháp phục nguyên; 2) Nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ theo hướng so sánh tương
phản, áp dụng phương pháp đối chiếu – so sánh; 3) Nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ theo hướng đồng đại,
dùng phương pháp miêu tả.19
Trong chương 3 của luận văn này, chúng tôi đã lựa chọn phương pháp thứ hai để nghiên cứu. Đó là
con đường nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ theo hướng so sánh tương phản và dùng phương pháp so sánh đối
chiếu. Bằng phương pháp này, chúng tôi đã thống kê và tìm ra những cái chung, cái phổ niệm và cái riêng,
cái đặc thù trong tư duy ngôn ngữ, trong chất liệu tạo nên các tín hiệu thẩm mỹ thể hiện qua thành ngữ, tục
ngữ tiếng Hàn và tiếng Việt.
KẾT LUẬN
1. Với đề tài là tìm hiểu một số tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn, chúng tôi đã
vận dụng, kế thừa thành tựu của những công trình nghiên cứu đi trước về tín hiệu thẩm mỹ, chất liệu biểu
trưng. Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành khảo sát, phân lập các tín hiệu thành năm nhóm chất liệu biểu
trưng: tự nhiên, thực vật, động vật, vật thể nhân tạo và bộ phận cơ thể người. Trong mỗi nhóm, dựa vào tần
số xuất hiện, chúng tôi chọn phân tích một số tín hiệu tiêu biểu, có tần số xuất hiện cao.
2. Tìm hiểu giá trị của các tín hiệu thẩm mỹ chính là tìm hiểu ý nghĩa biểu trưng của các tín hiệu.
Nếu các tín hiệu đi một mình, chúng sẽ chỉ đơn thuần mang ý nghĩa trùng với ý nghĩa ghi trong từ điển. Tìm
hiểu các tín hiệu trong từng câu thành ngữ, tục ngữ cụ thể cho chúng ta lớp nghĩa phái sinh của ngôn từ.
3. Thông qua các tín hiệu thẩm mỹ thể hiện trong thành ngữ, tục ngữ, chúng ta hiểu hơn về đặc trưng
văn hóa – dân tộc, đặc trưng về điều kiện tự nhiên, môi trường sống, cách thức sinh hoạt, tư duy.v.v... của
mỗi dân tộc.
Luận văn của chúng tôi đã tập trung phân tích và đối chiếu thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn và tiếng
Việt theo năm nhóm chất liệu. Có thể tóm tắt nội dung nghiên cứu như sau:
Chương 1 tìm hiểu về một số vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài. Khái niệm về tín hiệu, tín hiệu
ngôn ngữ, tín hiệu thẩm mỹ. Tìm hiểu về khái niệm thành ngữ, tục ngữ trong tiếng Hàn và tiếng Việt. Khái
niệm thành ngữ trong tiếng Hàn và tiếng Việt có sự thống nhất với nhau nhưng phạm vi của thành ngữ thì có
phần khác nhau. Các học giả Hàn Quốc giải thích thành ngữ là khái niệm bao hàm tục ngữ và quán ngữ.
Khuynh hướng mới gần đây trong giới nghiên cứu về quốc ngữ của Hàn Quốc cho rằng thành ngữ là
những từ hoặc cụm từ đặc biệt quen thuộc về mặt ý nghĩa và cấu tạo, nếu xuất phát từ quan điểm này thì
ngoài quán ngữ ra, thành ngữ còn bao hàm cả tục ngữ, thành ngữ dân gian, các từ cấm kỵ, câu đố, từ ẩn dụ
(trực dụ, ẩn dụ, tỷ dụ, hoán dụ.v.v...), biệt ngữ. Nghĩa là họ giải thích thành ngữ là khái niệm cao nhất bao
gồm rất nhiều những khái niệm mới thuộc nhánh dưới trong phạm vi thành ngữ truyền thống. Tuy nhiên
khác với cách giải thích trên, giới nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam giải thích thành ngữ là một khái niệm cấp
dưới của tục ngữ. Sự khác biệt về phạm vi giữa thành ngữ tiếng Hàn và tiếng Việt như thế đưa ra một đề tài
mới để tiến hành nghiên cứu sau này.
Chương 2 tìm hiểu về chất liệu và ý nghĩa của các tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng
Hàn. Chất liệu của các tín hiệu thẩm mỹ được xếp vào năm nhóm: Nhóm chất liệu là tự nhiên; Nhóm chất
liệu là thực vật; Nhóm chất liệu là động vật; Nhóm chất liệu là vật thể nhân tạo; Nhóm chất liệu là bộ phận
cơ thể người.
19
Hoàng Văn Hành, “Thành ngữ học tiếng Việt”, NXB Khoa học xã hội, 2003, tr.143.
26
Qua đó thấy được trong tục ngữ tiếng Hàn, nhóm chất liệu là động vật chiếm tỷ lệ nhiều nhất (21,98%)
với 73 loài, tiếp đến là nhóm bộ phận cơ thể người (16,6%) với 42 bộ phận; đứng thứ ba là nhóm chất liệu tự
nhiên (13,2%) với tổng số 30 hình ảnh; đứng thứ tư là nhóm vật thể nhân tạo (chiếm 12,4%) với 83 hình ảnh;
và đứng cuối cùng là nhóm chất liệu thực vật (6,9%) với tổng số 39 loài.
Trong khi đó nhóm chất liệu là bộ phận cơ thể người lại chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong thành ngữ tiếng
Hàn (26,3%) với 38 bộ phận; tiếp đến là nhóm chất liệu tự nhiên (6,4%) với 24 hình ảnh; đứng thứ ba là
nhóm vật thể nhân tạo (4,9%) với tổng số 52 hình ảnh; thứ tư là nhóm chất liệu động vật (3,95%) với 36 loài;
và cuối cùng là nhóm chất liệu thực vật (1,9%) với 19 loài.
Chương 3 phân tích dấu ấn văn hóa – dân tộc thể hiện qua chất liệu của các tín hiệu thẩm mỹ trong
thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn, có so sánh, đối chiếu với tục ngữ, thành ngữ tiếng Việt. So sánh đặc trưng văn
hóa của từ vựng và khía cạnh ý nghĩa của các thành ngữ, tục ngữ dựa trên nền tảng những nội dung đã
nghiên cứu ở chương 1,2 để tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau mang tính chất văn hóa có thể tìm
thấy trong thành ngữ, tục ngữ của hai nước. Thành ngữ, tục ngữ chứa đựng các khía cạnh văn hóa mang tính
lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội của con người sống trên đất nước đó. Cái gọi là văn hóa bao gồm tất cả các
phạm trù giá trị quan, phương thức tư duy mang tính chất vô hình và văn hóa vật chất hữu hình. Do đó luận
văn này trước hết nghiên cứu ý nghĩa về mặt văn hóa chứa đựng trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn và đối
chiếu với thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt, sau đó tìm ra những điểm khác nhau trong phương diện văn hóa
như: cách biểu đạt cảm xúc tâm lý, phương thức tư duy của người dân Hàn Quốc và Việt Nam thể hiện qua
thành ngữ, tục ngữ; đặc trưng về phương diện địa lý, môi trường sống.v.v... Qua nghiên cứu và đối chiếu
thành ngữ, tục ngữ của Hàn Quốc và Việt Nam, chúng ta có thể thấy được dấu ấn văn hóa nông nghiệp, nông
thôn được thể hiện rõ ràng hơn qua tục ngữ, thành ngữ tiếng Việt, còn những yếu tố này có phần được phản
ánh mờ nhạt hơn trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn. Điều này là do yếu tố địa hình quyết định, Việt Nam có
nhiều đồng bằng châu thổ, trồng lúa nước, trong khi Hàn Quốc địa hình chủ yếu là núi đá, chủ yếu trồng lúa
cạn. Hàn Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo, bên cạnh những yếu tố văn hóa hiện đại của một đất nước
công nghiệp phát triển, Hàn Quốc vẫn giữ được những nét văn hóa truyền thống. Người Hàn Quốc coi trọng
nề nếp gia đình, coi trọng tôn ti, thứ bậc trong xã hội; đề cao lòng tự trọng, thể diện của bản thân; đánh giá
con người dựa vào năng lực và phẩm chất.v.v...
Nghiên cứu tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn là một phạm trù tương đối rộng,
với những khả năng và điều kiện còn giới hạn trong một chừng mực của luận văn thạc sỹ, chúng tôi mới xem
xét và nghiên cứu đề tài ở một mức độ nhất định và trong một phạm vi chắc chắn còn nhiều vấn đề chưa
được giải quyết một cách thỏa đáng. Chúng tôi hy vọng đề tài sẽ được tiếp tục nghiên cứu và mở rộng sâu
sắc, đầy đủ hơn nữa. Dù vậy, chúng tôi cũng mong đóng góp được một phần nhỏ bé vào việc vận dụng
những thành tựu của ngôn ngữ học để phát hiện và khẳng định một số giá trị thẩm mỹ có tần số xuất hiện cao
trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn, góp phần tìm hiểu những nét đặc sắc riêng của văn hóa Hàn Quốc.
149
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Nguyễn Phương Châm (1999), “Thành ngữ, tục ngữ trong ca dao”, NXB
Văn hóa dân gian.
2) Đỗ Hữu Châu (1987), “Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng”, NXB Đại học và
Trung học chuyên nghiệp.
3) Đỗ Hữu Châu (1990), Những luận điểm về cách tiếp cận ngôn ngữ học các
sự kiện văn học, Ngôn ngữ, số 2.
4) Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1997), “ Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt”, NXB Giáo dục, trang 20-21.
5) Nguyễn Đức Dân (1986), “Ngữ nghĩa thành ngữ và tục ngữ - sự vận dụng”,
Ngôn ngữ.
6) Nguyễn Đức Dân, “Dấu ấn văn hóa qua tục ngữ”, Kiến thức Ngày nay, 329,
tr.03-06.
7) Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri (1975), “Tục ngữ Việt
Nam”, Hà Nội.
8) Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1995), “Từ điển thành ngữ và tục
ngữ Việt Nam”, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội
9) Lương Duyên (1996), “Hình ảnh loài vật trong từ ngữ dân gian”, Ngôn ngữ
& Đời sống, 5 (13), tr.5.
10) Hoàng Minh Đạo (2006), “Tiếp cận tục ngữ từ góc độ văn hóa học”, Văn
hóa dân gian, 1 (103), tr. 31-35.
11) Nguyễn Xuân Đức (2000), “Về nghĩa của tục ngữ”, Văn hóa dân gian, 4
(72), tr. 48-52.
150
12) Nguyễn Xuân Đức (2002), “Về tính nhiều nghĩa của tục ngữ”, Văn hóa
dân gian, 3 (81), tr.55-58.
13) Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên) (1998), “Dẫn luận ngôn ngữ học”, Nxb
Giáo dục.
14) Hoàng Văn Hành (Chủ biên) (1998), “Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ”, tập
1 và 2, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
15) Hoàng Văn Hành (2003), “Thành ngữ học tiếng Việt”, NXB Khoa học xã
hội.
16) Trịnh Đức Hiển, Lâm Thu Phương (2003), “Cấu trúc hai bậc trong ngữ
nghĩa của thành ngữ có từ chỉ bộ phận cơ thể”, Văn hóa dân gian, 5 (89),
tr.62-65.
17) Vương Trung Hiếu (1996), “Tục ngữ Việt Nam chọn lọc”, NXB Văn
nghệ.
18) Vương Trung Hiếu (1998), “Tục ngữ các nước trên thế giới”, NXb Đồng
Nai.
19) Nguyễn Thị Ngân Hoa (2002), “Biểu tượng nhìn từ cấp độ văn hóa, ngôn
ngữ”, Ngữ học trẻ 2002, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội.
20) Phan Trọng Hòa (2003), “Tính nhiều nghĩa hay đa nghĩa của tục ngữ”,
Văn hóa dân gian, 03 (87), tr. 68-70.
21) Nguyễn Thị Hương (1999), “Đặc trưng ngữ nghĩa của bộ phận tục ngữ có
chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người”, Kỉ yếu Ngữ học trẻ, Hội Ngôn ngữ học
Việt Nam, tr. 64-68.
22) Lê Huy Khoa (2000), “Giải nghĩa và so sánh tục ngữ - thành ngữ tiếng
Hàn”, NXB Trẻ.
23) Đái Xuân Ninh (1984), “ Học thuyết của Ferdinand de Saussure”, NXB
KHXH.
151
24) Nguyễn Văn Nở (2008), “Biểu trưng trong tục ngữ người Việt”, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
25) Triều Nguyên (2006), “Khảo luận về tục ngữ người Việt”, NXB Giáo dục.
26) Vũ Ngọc Phan (1998), “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam”, NXB Khoa
học xã hội.
27) Gerd De Ley (2005), “Từ điển tục ngữ thế giới” (dịch giả: Lê Thành),
NXB Lao động, Hà Nội.
28) Iu. A. Philipiep (1971), Những tín hiệu của thông tin thẩm mỹ, Nxb Khoa
học, M. (Bản dịch và đánh máy Thư viện Đại học sư phạm Hà Nội).
29) Choi Kyong-bong, Park Yong-jun (1996), “관용어 사전” (Từ điển thành
ngữ), NXB Thae Hak-sa.
30) Yu In-chang (1981), “Quan điểm về cuộc sống của người Hàn Quốc phản
ánh qua tục ngữ”.
31) Kim Chung-hyo (1983), “ Nghiên cứu yếu tố ý nghĩa của tục ngữ tiếng
Hàn”.
32) Kim Seon-jeong (2007), “살아 있는 한국어 관용어” (Thành ngữ tiếng
Hàn sống động), NXB Korea Language Plus.
33) Choi Sang-jin (2010), “ Nghiên cứu so sánh tục ngữ có từ chỉ động vật
của Hàn Quốc và Trung Quốc – trọng tâm là những tục ngữ liên quan đến từ
“chó””.
34) Choi Hyo-ju (2012), “Thành ngữ chứa các từ chỉ bộ phận cơ thể trong
tiếng Hàn – trọng tâm là bộ phận đầu, đối chiếu với thành ngữ tiếng Việt”.
35) Im Dong-kwon, “Từ điển tục ngữ”, NXB Dân tộc, 2002.
36) Kim Ji-man (1986), “ Khảo sát về chức năng ý nghĩa của tục ngữ tiếng
Hàn”.
152
37) Kim Seo-yon (2004), “속담, 사자성어, 관용어 사전” (Từ điển tục ngữ,
thành ngữ 4 chữ, thành ngữ), NXB Văn học.
38) Jo Jae-yun (1986), “ Nghiên cứu phân tích cấu tạo của tục ngữ tiếng Hàn”.