62
Chuyên đề 1 MỘT SÓ VẤN ĐÈ CHUNG VÈ CỒNG TÁC NGHIÊN c ứ u D ư LUẬN XÃ HỘI TS. Đỗ Thị Thanh Hà Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội I. Một số vấn đề lý luận về dư luận xã hội và công tác nghiên cứu dư %} o o 1 A mt 1 A • luận xã hội 1. Khái niêm Dư luận xã hội (DLXH) là một hiện tượng đời sống xã hội quen thuộc mà mỗi cá nhân, tổ chức (bao gồm cả quốc gia), trong cuộc sống hàng ngày, thường phải quan tâm và tính toán đến. Phần đông các nhà nghiên cứu định nghĩa DLXH là sự phán xét, đánh giá của các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng xã hội đối với các vấn đề mà họ quan tâm. Có thể liệt kê ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về dư luận xã hội nhưng khái niệm về dư luận xã hội sau đây tương đối phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay: “Dư luận xã hội ỉà tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự, có liên quan đến lợi ích, các mối quan tâm của công chủng". Một số lưu ý: - Dư luận xã hội như là sản phẩm của ý thức xã hội thể hiện trên các mặt nhận thức, cảm xúc, ý chí (đôi khi cả trong hành động). Mỗi luồng ý kiến là một tập hợp các ý kiến cá nhân giống nhau; Dư luận xã hội có thể bao gồm nhiều luồng ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau; Luồng ý kiến có thể rộng (tuyệt đại đa số, đa số, nhiều ý kiến) hoặc hẹp (một số ý kiến). - Khách thể của dư luận xã hội là những sự kiện, hiện tượng khác nhau trong đời sống xã hội và gắn với lợi ích của các nhóm xã hội. Chỉ có những sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội có tính thời sự, liên quan đến lợi ích, các mối quan tâm hiện có của nhiều người mới có khả năng tạo ra dư luận xã hội. - Chủ thể của dư luận xã hội là các tầng lớp nhân dân, những người có liên quan hoặc có mối quan tâm đến các sự kiện hiện tượng nói trên. - Phương thức thể hiện của dư luận xã hội tồn tại dưới nhiều hình thức: công khai hoặc ngấm ngầm không công khai. Xét về khía canh nhận thức, dư luận không tuân theo qui tắc nghiêm ngặt của nhận thức chân lý, trong dư luận luôn có cái đúng và cái sai.

MỘT SÓ VẤN ĐÈ CHUNG VÈ CỒNG TÁC NGHIÊN cứu Dư LUẬN XÃ HỘIthongtintuyengiaogialai.vn/Files/clip/tai lieu tap huan nghiep vu du luan xa hoi.pdf · kiện, hiện

  • Upload
    others

  • View
    8

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Chuyên đề 1

MỘT SÓ VẤN ĐÈ CHUNG VÈ CỒNG TÁC NGHIÊN c ứ u Dư LUẬN XÃ HỘI

TS. Đỗ Thị Thanh Hà Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội

I. Một số vấn đề lý luận về dư luận xã hội và công tác nghiên cứu dư• %} • • • o o1 A m t 1 A •luận xã hội

1. Khái niêm

Dư luận xã hội (DLXH) là một hiện tượng đời sống xã hội quen thuộc mà mỗi cá nhân, tổ chức (bao gồm cả quốc gia), trong cuộc sống hàng ngày, thường phải quan tâm và tính toán đến. Phần đông các nhà nghiên cứu định nghĩa DLXH là sự phán xét, đánh giá của các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng xã hội đối với các vấn đề mà họ quan tâm. Có thể liệt kê ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về dư luận xã hội nhưng khái niệm về dư luận xã hội sau đây tương đối phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay: “Dư luận xã hội ỉà tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự, có liên quan đến lợi ích, các mối quan tâm của công chủng".

Một số lưu ý:

- Dư luận xã hội như là sản phẩm của ý thức xã hội thể hiện trên các mặt nhận thức, cảm xúc, ý chí (đôi khi cả trong hành động). Mỗi luồng ý kiến là một tập hợp các ý kiến cá nhân giống nhau; Dư luận xã hội có thể bao gồm nhiều luồng ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau; Luồng ý kiến có thể rộng (tuyệt đại đa số, đa số, nhiều ý kiến) hoặc hẹp (một số ý kiến).

- Khách thể của dư luận xã hội là những sự kiện, hiện tượng khác nhau trong đời sống xã hội và gắn với lợi ích của các nhóm xã hội. Chỉ có những sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội có tính thời sự, liên quan đến lợi ích, các mối quan tâm hiện có của nhiều người mới có khả năng tạo ra dư luận xã hội.

- Chủ thể của dư luận xã hội là các tầng lớp nhân dân, những người có liên quan hoặc có mối quan tâm đến các sự kiện hiện tượng nói trên.

- Phương thức thể hiện của dư luận xã hội tồn tại dưới nhiều hình thức: công khai hoặc ngấm ngầm không công khai. Xét về khía canh nhận thức, dư luận không tuân theo qui tắc nghiêm ngặt của nhận thức chân lý, trong dư luận luôn có cái đúng và cái sai.

- Dư luận xã hội có các thuộc tính sau:

+ Khuynh hướng: Thái độ của dư luận xã hội đối với mỗi sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội có thể khái quát theo các khuynh hướng nhất định: tán thành, phản đổi hay băn khoăn, lưỡng lự, chưa rõ thái độ. Cũng có thể phân chia dư luận theo các khuynh hướng như tích cực, tiêu cực; tiến bộ, lạc hậu, "cấp tiến”, "bảo thủ"....

+ Cường độ: Thể hiện “sức căng” của mỗi khuynh hướng. Ví dụ, khuyng hướng phản đối có thể biểu hiện ở các sức căng khác nhau: phản đối gay gắt; phản đối, nhưng không gay gắt....

+ Sự thống nhất và xung đột của dư luận xã hội: Theo các nhà xã hội học, đồ thị phân bố dư luận xã hội hình chữ Ư (có hai luồng ý kiến chính, trái ngược nhau, tỷ lệ ủng hộ mỗi luồng ý kiến này ngang bằng hoặc xấp xỉ nhau) biểu thị sự xung đột, hình chữ L (trong số các luồng ý kiến, nổi lên một luồng ý kiến được đa số ủng hộ) biểu thị sự thống nhất cao .

+ Tính bền vững: Một số tác giả thường khẳng định dư luận xã hội có tính dễ biến đổi. Tuy nhiên khẳng định này mới chỉ đúng một phần. Có những dư luận xã hội chỉ qua một đêm là thay đổi, nhưng cũng có những dư luận hàng chục năm không thay đổi.

+ Sự tiềm ẩn: Dư luận xã hội về những vấn đề của cuộc sống xã hội có thể ở trạng thái tiềm ẩn, không bộc lộ bằng lời.

- Cơ sở nhận thức và cơ sở xã hội của dư luận xã hội

+ Cơ sở nhận thức của dư luận xã hội: Nội dung và sắc thái của dư luận xã hội được quy định trước hết bởi trình độ hiểu biết của công chúng, nhóm xã hội. Sự hiểu biết nhiều hay ít, sâu sắc hay không sâu sắc của công chúng, nhóm xã hội đối với vấn đề, hiện tượng, sự kiện quyết định sự đánh giá đúng hay sai của công chúng, nhóm xã hội đối với vấn đề, sự kiện, hiện tượng đó. Một trong những yếu tố nhận thức có ảnh hưởng khá phổ biến đến sự phán xét của dư luận xã hội, đó là khuôn mẫu tư duy xã hội. Khuôn mẫu tư duy xã hội là những quan niệm, suy lý, phán xét khái quát, giản đơn, hữu hạn nhưng có tính phổ biến và tương đối bền vững trong một cộng đồng xã hội.

+ Cơ sở xã hội của dư luận xã hội: Các yếu tố xã hội, trước hết là lợi íchnhóm, tầng lớp, giai cấp, quốc gia, dân tộc có mối liên hệ chặt chẽ với nội dung

5

và sắc thái của dư luận xã hội. Trong một nhà nước mạnh, chính quyên và nhân dân gắn bó với nhau, lợi ích quốc gia, dân tộc thường được coi trọng hơn các lợi ích khác (cá nhân, nhóm, tầng lóp, giai câp); trước các sự kiện, hiện tượng, vân đề xã hội, người ta thường lấy lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đông làm cơ sở để đưa ra sự nhận xét, đánh giá, bày tỏ thái độ của mình. Trong một nhà nước yếu, dân chủ không được coi trọng, pháp luật, kỷ cương bị buông lỏng, chủ nghĩa cá nhân phát triển, người ta thường nhân danh lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng để đưa ra ý kiến này, ý kiến kia, nhưng nếu phân tích kỹ thì không phải như vậy, lợi ích cá nhân, cục bộ mới chính là căn cứ của các ý kiến đó. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có nhiêu lợi ích khác nhau, về bản chất, các lợi ích này là thống nhất với nhau. Tuy nhiên, ngoài các lợi ích cá nhân, đặc thù hợp lý của các cá nhân, tầng lóp, giai cấp, nhóm xã hội (các lợi ích gắn liền với lợi ích quốc gia, dân tộc), các cá nhân, tầng lớp, giai cấp, nhóm xã hội có thể chạy theo các lợi ích cá nhân, đặc thù cực đoan, có lợi cho mình nhưng đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc nói chung, của các cá nhân, tầng lớp, giai cấp, nhóm xã hội khác nói riêng.

2. Vai trò của dư luận xã hội trong công tác lãnh đạo, quản lý

DLXH được xem như là một trong những nhiệm vụ quan trọng thuộc lĩnh vực công tác tuyên huấn của Đảng Cộng sản các nước. Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thập kỷ 70, 80 của thế kỷ 20, nghiên cứu DLXH cho phép hoàn thành một loạt những nhiệm vụ quan trọng về lãnh đạo xã hội: Trong hoạt động kinh tế và xã hội của Đảng và Nhà nước, nó giúp phát hiện kịp thời những vấn đề nảy sinh đang tác động tới những bộ phận nhất định của xã hội và do đó có thể áp dụng những biện pháp đúng lúc để giải quyết vấn đề. Trong lĩnh vực tư tưởng, việc nắm bắt DLXH cho phép hiểu biết sự phát triển của ý thức giác ngộ của quần chúng và rút ra những kết luận về hiệu quả công tác tư tưởng do Đảng tiến hành. Nói về vai trò của DLXH trong hoạt động quản lý, V.I. Lênin chỉ rõ: “chúng ta chỉ có thể lãnh đạo tốt nếu chúng ta biết thể hiện chính xác những gì mà nhân dân lo nghĩ’1 Như vậy, dù muốn hay không muốn, phần lớn các chính trị gia, các nhà nghiên cứu triết học đều nhận thấy vai trò hết sức quan trọng của DLXH trong việc quản lý, điều hành xã hội.

Trong các tài liệu về công tác xây dựng Đảng của các Đảng Cộng sản Liên Xô, Cu Ba... công tác DLXH được xem như là một phương tiện để thu

1 Dân theo “Giáo trình nghiệp vụ công tác chính trị tư tưởng” - tài liệu dịch của Ban Tuyên huấn Trung ương ĐCS Cu Ba

6

thập thông tin và nhận biết chính xác nhất thực trạng của một hiện tượng nhất định đông thời nó cho phép các nhà làm công tác tư tưởng đi sâu tìm hiểu những mặt cụ thể của một vấn đề bất kỳ lúc nào. Công tác nghiên cứu DLXH chủ yếu được thực hiện thông qua việc lấy thông tin định kỳ từ các đảng viên, thông tin viên dư luận... tổng hợp thành các báo cáo DLXH; thông qua các cuộc thăm dò, điều tra, khảo sát lấy ý kiến DLXH các tầng lóp nhân dân.

ở Mỹ và các nước phương Tây, DLXH đã được quan tâm đến từ khá sớm và được xem như một công cụ lãnh đạo của giai cấp tư sản. Cùng với sự phát triển của nền dân chủ tư sản, hiện tượng DLXH được quan tâm nhiều ở các nước châu Âu từ cuối thế kỷ 19 và trở thành trung tâm của sự chú ý vào cuối thế kỷ 20. DLXH được xem như một ngành khoa học liên ngành bao gồm chính trị học, tâm lý học, xã hội học, báo chí học...

Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của DLXH đối với quá trình lãnh đạo, quản lý xã hội:

Những người có quan điểm dựa trên tinh thần của các nhà triết học như Platon, Thomas Hobbes, Walter Lippman... không đồng ý rằng quần chúng có đủ khả năng giúp ích cho chính phủ. Theo các tác giả này, chính phủ không nên giám sát thông tin về các cuộc thăm dò DLXH tiến hành hàng ngày hoặc tham khảo kết quả trưng cầu dân ý để quyết định các chương trình nghị sự của họ. Họ cho rằng đa số dân chúng không nắm được thông tin, do đó dân chúng không thê có khả năng biết được cái gì là tốt cho đất nước mình. Họ cũng cho rằng khi các nhà lãnh đạo mong chờ vào ý kiến dư luận (như qua các cuộc điều tra, lấy ý kiến của các nhóm trong xã hội) thì họ sẽ trở thành những kẻ đi theo gót dư luận chứ không phải là những nhà lãnh đạo. Những người thuộc trường phái này nhìn nhận các cuộc trưng cầu ý kiến của chính phủ là một phương pháp không thích hợp để quyết định các công việc của đất nước.

Những người theo quan điểm của những triết gia đặt nhiều niềm tin vào quần chúng như Aristotle, Locke, Rousseau và Jefferson..., lại chủ trương ủng hộ sự tham gia đầy đủ của công chúng vào mọi công việc của chính phủ, những người theo quan điểm này đều đồng tình với quan điểm: mọi quyết định đưa ra mà thiếu sự hiểu biết về DLXH sẽ chỉ đại diện cho ý kiến của tầng lớp tinh hoa, chịu ảnh hưởng của vận động hành lang hoặc những nhóm lợi ích đặc biệt. Họ tin rằng nghiên cứu DLXH đóng một vai trò quan trọng vì nó đảm bảo sự tham gia đầy đủ của mọi công dân vào công việc chính phủ. Ngày nay, Mỹ và các nước phương Tây sử dụng triệt để các kết quả điều tra DLXH vào mục đích

7

chính trị cũng như quản lý kinh tế. Tại các nước này, có hai hình thức nắm bắt DLXH chủ yếu: một là, thăm dò DLXH (poll) được sử dụng phổ biến trong các chiến dịch vận động tranh cử bởi tính chất nhanh, chính xác của thông tin thu được. Hai là, điều tra DLXH (survey) được sử dụng dưới hình thức phát phiếu điều tra hoặc tiến hành các cuộc phỏng vấn, thảo luận đê thu thập thông tin.

ở Việt Nam, ngay từ đầu những năm 80 (thế kỷ XX), Đảng ta đã thấy được sự cần thiết của công tác nghiên cứu dư luận xã hội. Hoạt động nghiên cứu, điều tra, nắm bắt dư luận xã hội đã chính thức được thực hiện kê từ năm 1982, khi Ban Bí thư có quyết định thành lập Viện Dư luận xã hội trực thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương).

Trong những năm qua, tầm quan trọng của công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội đã được khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII) có nêu nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng thông tin nội bộ và công tác tuyên truyên, coi trọng biện pháp điều tra dư luận xã hội”2; Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII) yêu cầu: “Tổ chức điều tra dư luận xã hội về những vấn đề cần thiết cho công tác lãnh đạo, quản lý nhà nước”3; Nghị quyết Trung ương 5, khoá X về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, tiếp tục nhấn mạnh "Chú trọng công tác nghiên cứu, điều tra xã hội học, nắm bắt dư luận xã hội phục vụ công tác tư tưởng”4...

Gần đây nhất, ngày 18 tháng 8 năm 2014, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá XI) đã ra Kết luận số 100-KL/TW về việc đổi mới và nâng cao chất lượng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội, trong đó nêu rõ: “Điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội là công việc quan trọng và rất cần thiết nhằm nam bắt, tập hợp kịp thời, sát thực tâm tư, tình cảm, ý chí, nguyên vọng của Nhân dân về những vấn đề, sự kiện có tính thời sự trong nước và thế giới, đặc biệt là đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; giúp các cơ quan lãnh đạo, quản lý có thêm thông tin tham khảo trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp ỉuậí của Nhà nước; là một khâu quan trọng, cần thiết trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước

2 Đảng Cộng sàn Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ưcmg (khóa VII). Nxb Sự thật, HàNọi, 1994, tr. 40-41.3 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII). Nxb Sự thật, HàNọi, 1992, tr. 32.4 Nghị quyết Trung ương 5 khoá X về công tác tư tường, lý luận và báo chí

8

Điều tra dư luận xã hội là hình thức nắm thông tin dư luận xã hội bằng phương pháp điều tra xã hội học. Phương pháp này tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu có tính khoa học. Hiện nay, hình thức phổ biến là điều tra thông qua phát phiếu hỏi cho các đối tượng được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hoặc có chủ định. Nắm bắt dư luận xã hội là hình thức tập hợp thông tin dư luận xã hội không thông qua phương pháp điều tra xã hội học. Hình thức nắm bắt dư luận xã hội rất đa dạng, bao gồm: Nắm bắt thông tin qua mạng lưới cộng tác viên; qua các phương tiện thông tin đại chúng; qua việc lấy ý kiến đóng góp của các tầng lóp nhân dân đối với dự thảo các văn kiện, văn bản pháp luật... Nghiên cứu dư luận xã hội là những nghiên cứu lý luận và thực tiễn về dư luận xã hội.

II. Thực trạng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội

1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng

Trong những năm qua, công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội từng bước đi vào nền nếp, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Nhiều báo cáo nhanh của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương và của các phòng (đầu mối) nghiên cứu dư luận xã hội ở các ngành, các địa phương đáp ứng được yêu cầu phản ánh nhanh, kịp thời, trung thực, đầy đủ các luồng dư luận xã hội trước các sự kiện, hiện tượng, vấn đề kinh tế, chính trị..., đặc biệt là những bức xúc của người dân; góp phần quan trọng giúp các cấp uỷ đảng và chính quyền sớm đưa ra được các chủ trương, quyết sách sát thực, phù hợp lòng dân, đặc biệt là trong việc giải quyết, xử lý các "điêm nóng"; là một kênh thông tin quan trọng giúp các cơ quan lãnh đạo đánh giá đúng hơn, sát thực hơn tình hình tâm trạng, tư tưởng của các tầng lớp nhân dân. Trên cơ sở đó, đề ra các giải pháp tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, giải quyết một số vấn đề dư luận xã hội quan tâm, góp phần xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Đất nước phát triển nảy sinh nhiều vấn đề mới, cần nắm bắt, giải quyết. Thực tế đó yêu cầu các cấp, các ngành cần có nhiều thông tin, cần coi trọng việc điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội. Tuy nhiên, khá nhiều chủ trương, quyết định quan trọng của các cấp, các ngành trước khi ban hành không tiến hành điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội hoặc có thực hiện công việc này nhưng không nghiêm túc, khoa học. Từ đó, dẫn đến tình trạng áp đặt, quan liêu, chủ quan, gây nên sự phản ứng gay gắt của nhân dân, không được nhân dân ủng hộ. Không ít đồng chí lãnh đạo chưa quan tâm sử dụng các kết quả điều tra,

nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của mình, thậm chí còn “dị ứng”, không muốn nghe những thông tin “trái chiẹu” qua kênh điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội.

Một số cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, một mặt, do thiếu thông tin, chưa coi trọng công tác điều tra dư luận xã hội đã phôi hợp, ký hợp đông điều tra dư luận xã hội với các tổ chức, các nhà khoa học không đủ năng lực, thẩm quyền, dẫn đến kết quả nhiều cuộc điều tra thiếu bề rộng và chiều sâu cần thiết, độ sai lệch cao, hiệu quả thấp không giúp cơ quan, tổ chức có được phương huớng, giải pháp sát thực, đúng đắn. Bên cạnh đó, do không được quản lý chặt chẽ về kỷ luật, an ninh thông tin nên để cho một số tổ chức nghiên cứu (phi chính phủ hoặc liên kết với tổ chức phi chính phủ) đã đưa các vấn đề chính trị “nhạy cảm” vào bảng hỏi hoặc công khai một số kết quả nghiên cứu mang tính nội bộ, bảo mật trong một số cuộc điều tra, nghiên cứu dư luận xã hội.

2. Thực trạng về tổ chức, cơ chế và kinh phí hoạt động của các thiết chế điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội (trong ban tuyên giáo của các cấp ủy đảng)

- về tổ chức bộ máy và cán bộ

Trong hệ thống tuyên giáo các cấp, chỉ có Ban Tuyên giáo Trung ương và ban tuyên giáo các tỉnh, thành ủy: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Yên Bái, An Giang có cơ quan, bộ phận chuyên trách (phòng hoặc trung tâm) làm công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội. Các tỉnh, thành ủy đã có phòng hoặc trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội, biên chế thường chỉ có từ 2 đến 4 người5, phần lớn số cán bộ này hạn chế, bất cập về chuyên môn, nghiệp vụ điều tra, nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội.

Ban tuyên giáo các ban, bộ, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương và các tỉnh, thành phố còn lại chỉ phân công cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm làm công tác này. Phần lớn số cán bộ này không được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về xã hội học hoặc tâm lý học.

Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương là đơn vị duy nhất trong cả nước chuyên nghiên cứu khoa học về lĩnh vực này, tham mưu giúp lãnh đạo Ban nắm bắt, định hướng dư luận xã hội. Viện có 4 phòng: Văn phòng; Phòng Đào tạo và Nghiên cứu khoa học; Phòng Điều tra Xã

5 Ban Tuyên giáo Thành uỷ Hà Nội: 3 người; Ban Tuyên giáo Thành uỷ Hải Phòng: 1 người; Ban Tuyên giáo Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh: 3 người; Ban Tuyên giáo Thành uỳ Thành phố cần Thơ: 3 người; Ban Tuyên giáo Tinh uỳ Yên Bái: 2 người; Ban Tuyên giáo Tinh uỷ An Giang: 4 người.

10

hội học; Phòng Cộng tác viên và định hướng dư luận xã hội. Biên chế hiện có của Viện hiện có 10 nguời (nhu cầu thực tế của Viện là 24 người)6. Phần lớn cán bộ của Viện được đào tạo đúng chuyên môn (xã hội học hoặc tâm lý học), nhưng năng lực, trình độ còn nhiều hạn chế, bất cập. Mạng lưới cộng tác viên dư luận xã hội là một khâu rất quan trọng, nối dài, “tai mắt” của Viện, nhưng số lượng, cơ cấu, chất lượng con chưa đáp ứng đòi hỏi thực tiễn.

- về cơ chế hoạt động

Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương và các phòng, bộ phận nghiên cứu dư luận xã hội ở các địa phương đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cơ quan chủ quản; được phép tổ chức mạng lưới cộng tác viên. Ngoài kế hoạch được xác định trong năm, Viện, các phòng, đơn vị này còn thực hiện điều tra, nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội với các đối tác bên ngoài (các ban, bộ, sở, ngành...).

Các báo cáo điều tra và báo cáo nhanh dư luận của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội (thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương) và các phòng, bộ phận nghiên cứu dư luận xã hội ở các địa phương được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất tuỳ theo yêu cầu của cơ quan chủ quản. Các báo cáo này mang tính chất báo cáo “mật” và được gửi đến các địa chỉ theo quy định.

Do chưa có quy định bắt buộc các cấp ủy đảng phải tiến hành điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội; chưa có quy định về việc sử dụng thông tin từ các báo cáo điều tra và báo cáo nhanh về dư luận xã hội làm căn cứ khoa học để ban hành chủ trương, chính sách và đánh giá tình hình, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách nên việc thực hiện công tác này ở nhiều cơ quan trung ương và địa phương còn mang tính tự phát, thiếu tính liên tục, khoa học, thiết thực, hiệu quả. Hoạt động của lực lượng nghiên cứu dư luận xã hội còn nhiều khó khăn.

- về kinh phí hoạt động

Kinh phí hoạt động hằng năm của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội nằm trong khoản kinh phí hoạt động thường xuyên hằng năm của Ban Tuyên giáo Trung ương. Những năm gần đây, Viện được cấp kinh phí để duy trì hoạt động của 16 cộng tác viên và tiến hành từ 4 đến 6 cuộc điều tra, nguồn kinh phí này còn ít, không hợp lý. Kinh phí dành cho nghiên cứu chuyên môn, nghiệp vụ hầu

6 Căn cứ Đề án “Tăng cường năng lực điều Ưa xã hội học, nắm bắt dư luận xã hội” cùa Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội, Ban Tuyên giáo Trung ương trình Ban Bí thư tháng 9 năm 2009

11

như không có7. Với khoản kinh phí cấp cho một cuộc điều tra dư luận xã hội như hiện nay8, Viện khó thực hiện đầy đủ các yêu cầu khoa học mà phương pháp điều tra xã hội học cần phải có.

Kinh phí hoạt động của các phòng, bộ phận nghiên cứu dư luận xã hội ở ban tuyên giáo các tỉnh, thành uỷ do từng địa phương quy định, rất khác nhau, nhìn chung là hạn hẹp và bất hợp lý9.

3. Kết quả điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hộỉ

3.1. Ưu điểm

- Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương đã biên soạn được một số tài liệu về lý luận và phương pháp điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội. Những năm trước đây, Viện thường có báo cáo chuyên đề về tình hình tư tưởng, tâm trạng xã hội nói chung, của một số giai tầng xã hội nói riêng (thông qua việc tổng họp, phân tích tình hình dư luận xã hội trong năm). Viện đã tiến hành 4 đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ vê các vấn đề có liên quan đến nghiệp vụ công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội.

Các phòng, trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội và bộ phận làm công tác này tại ban tuyên giáo các địa phương khác, trên cơ sở các tài liệu về nghiệp vụ công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội của Viện Nghiên cứu dư luận xã hội (Ban Tuyên giáo Trung ương), biên soạn một số tài liệu phù hợp với yêu cầu, điều kiện của địa phương về nghiệp vụ công tác này.

Các tỉnh, thành phố chỉ có cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm công tác này, hằng tháng đều có báo cáo tổng hợp về tình hình dư luận xã hội trên địa bàn để gửi đến các đồng chính lãnh đạo tỉnh, thành phố và Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương.

- Nhiều công trình nghiên cứu, báo cáo nhanh, báo cáo điều tra có chất lượng tốt, giúp các cấp uỷ đảng và chính quyền nắm đúng và kịp thời tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của các tầng lớp nhân dân, sớm đưa ra được các chủ trương, quyết sách sát thực, phù hợp lòng dân, đặc biệt là trong việc giải quyết, xử lý các "điểm nóng", những bức xúc của nhân dân.

7 Tổng kinh phí hoạt động hàng năm của Viện vào khoảng 700 triệu đồng.8 Theo quy định của Bộ Tài chính, một cuộc điều tra dư luận xã hội với quy mô điều tra là 2000 người thì kinh phí 200 triệu đồng, nhưng Văn phòng Trung ương chỉ cấp cho Viện 90 đến 120 triệu đồng.9 Ví dụ, kinh phí cấp cho một cuộc điều tra dư luận xã hội của Phòng Nghiên cứu Dư luận xã hội cùa Hà Nội là 100 triệu đồng, trong khi đó, ở các địa phương khác, khoản kinh phí này chi từ 30 đến 60 triệu đồng.

12

3.2. Hạn chế, yếu kém

- Ket quả điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội chưa bảo đảm về số lượng, chất lượng theo yêu cầu mà cấp ủy, chính quyền các cấp đặt ra.

- Một số công trình nghiên cứu khoa học; báo cáo nghiên cứu chuyên đê về dư luận xã hội của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương và của bộ phận làm công tác nghiên cứu dư luận xã hội trong hệ thống tuyên giáo các cấp và một số đoàn thể chính trị - xã hội chất lượng chưa cao; chưa theo kịp trình độ điều tra, nắm bắt dư luận xã hội từ các viện, tổ chức nghiên cứu dư luận xã hội có uy tín trên thế giới.

- Cách tiến hành điều tra dư luận xã hội trong thời gian qua chưa thực sự khoa học, thiếu bề rộng và chiều sâu cần thiết do đó, chất lượng thông tin thu được đôi khi còn thấp.

- Không ít báo cáo nhanh của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương và các phòng, bộ phận làm công tác này trong hệ thống tuyên giáo các cấp và một số đoàn thể chính trị - xã hội chưa kịp thời, phản ánh không đầy đủ các luồng dư luận xã hội; thiếu sự phân tích và đề xuất, kiến nghị nhằm định hướng dư luận xã hội. Báo cáo nhanh dư luận xã hội là tài liệu mật hoặc tối mật, do đó, nhiều lãnh đạo chủ chốt của các bộ, ngành, địa phương không được tiếp cận mặc dù vấn đề dư luận quan tâm có liên quan tới lĩnh vực các đồng chí đó lãnh đạo, quản lý.

4. Những nguyên nhân dẫn đến các hạn chế, yếu kém trong công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội

Một là, các cấp ủy đảng nhận thức chưa sâu sắc, chưa đầy đủ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận các tầng lớp nhân dân trong công tác lãnh đạo, quản lý. Do đó, chưa quan tâm đến việc xây dựng thiết chế và phân công cán bộ làm công tác này. Cho đến nay, chưa có một quy định chung, có tính chỉ đạo, làm cơ sở pháp lý cho toàn hệ thống chính trị về công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội.

Hai là, bộ máy tổ chức, cán bộ, cơ chế, điều kiện, phương thức hoạt động của tổ chức làm công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận chưa hợp lý; thiếu cán bộ khá, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; chưa có cơ chế để đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác này ở trong nước cũng như ở nước ngoài; kinh phí điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội không đủ hoặc không kịp thời; cách thức tổ chức mạng lưới cộng tác

13

viên nắm bẳt dư luận xã hội chưa khoa học, thiếu tính đại diện (chủ yêu là cán bộ hưu trí, ít cộng tác viên đại diện cho các tầng lớp khác trong xã hội).

Ba là, chưa có sự cộng tác, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị có chức năng, nghiệp vụ điều tra dư luận xã hội, tập hợp ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

III. Giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội

Nhằm giúp các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước có thêm thông tin tham khảo có thêm thông tin tham khao trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và thực hiện các chủ trương, chính sách, cần chú trọng đổi mới, nâng cao chât lượng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội. Trong đó, xác định các nhiệm vụ trọng tâm: Tăng cường vai trò, nhận thức, năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong việc đổi mới, nâng cao chất lượng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội; Đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung, quy trình, phương pháp, cách thức tổ chức, lựa chọn nội dung điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội, từ đó nâng cao tính khoa học, tính thiết thực, hiệu quả của công tác này; Kiện toàn, củng cố bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ, năng lực điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội, Ban Tuyên giáo Trung ương và các phòng, bộ phận làm công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội trong hệ thống tuyên giáo, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số đoàn thể chính trị - xã hội ở Trung ương và các tỉnh, thành phố.

1. về nhân thức

- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm các cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp về vai trò, tầm quan trọng của công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội. Xác định đây là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, nhất là của cấp uỷ và người đứng đầu cấp uỷ đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương.

- Quy định điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội là một khâu, một công đoạn trong quy trình xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện, đánh giá kết quả thực hiện chủ trương, chính sách.

2. về đổi mới quy trình, phương pháp, cách thức tổ chức, lựa chọn nội dung điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư ỉuận xã hội

a. Đổi mới, nâng cao chất lượng điều tra dư luận xã hội14

Khẳc phục các hạn chế, khiếm khuyết trong chọn vấn đề điều tra; chọn hình thức điều tra; diện điều tra; xây dựng phiếu câu hỏi điều tra; chọn mẫu (đối tượng) điều tra; tập huấn điều tra viên; triển khai trên thực địa; nhập dữ liệu, xử lý và phân tích số liệu; viết báo cáo. Từ đó, nâng cao chất lượng công tác này. Cụ thể:

+ Chọn vấn đề để điều tra: cần chọn vấn đề trúng, có giá trị đối với công tác lãnh đạo của các cấp ủy đảng.

+ Xây dựng phiếu câu hỏi điều tra: Các câu hỏi phải bảo đảm được các yêu cầu về độ ổn định (câu hỏi phải rõ ý, không bị hiểu khác nhau, người trả lời phải trả lời nhất quán nếu điều tra lặp lại...) và về độ hiệu lực (câu hỏi phải thu được những thông tin cần thu thập).

+ Chọn đối tượng điều tra (mẫu điều tra): Đối tượng điều tra phải được lựa chọn một cách thật khoa học, tuân thủ thật nghiêm ngặt các đòi hỏi khoa học về cách lấy mẫu, chọn đối tượng điều tra... bảo đảm mẫu điều tra phải mang tính đại diện cao.

+ Tập huấn điều tra viên: Các điều tra viên phải được tập huấn một cách bài bản.

+ Triển khai trên thực địa: Các điều tra viên phải tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu phải phỏng vấn đúng đối tượng theo mẫu điều tra đã được chọn.

+ Nhập dữ liệu, xử lý và phân tích số liệu: Các phiếu điều tra khi thu về phải được hiệu chỉnh; người nhập dữ liệu phải thông thạo về cách nhập dữ liệu; các chuyên gia xử lý số liệu phải có năng lực phân tích dữ liệu.

+ Viết báo cáo: Các báo cáo điều tra dư luận xã hội phải có tính tổng hợp, có sự phân tích thấu đáo, phải đưa ra được các dự báo; đề xuất, kiến nghị cho công tác thông tin tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội.

b. Đồi mới, nâng cao chất lượng nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội

- Nâng cao chất lượng nắm bắt, nghiên cứu và phản ánh các thông tin dư luận xã hội trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, chú trọng các luồng dư luận có liên quan đến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Báo cáo nhanh dư luận xã hội phải phản ánh khách quan, trung thực, kịp thời ý kiến của các tầng lớp nhân dân. Chú trọng phân tích các luồng dư luận trong xã hội bằng những phương pháp khoa học, chỉ ra căn cứ thực tế của các

luồng dư luận, trên cơ sở đó, đưa ra dự báo, đề xuất các giải pháp tuyên truyền, định hướng dư luận nhằm góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội.

- Xây dựng, đổi mới cách thức tổ chức và duy trì hoạt động của mạng lưới cộng tác viên nắm bắt dư luận xã hội theo hướng: Mạng lưới cộng tác viên phải có đại diện của nhiều giai tầng xã hội trên địa bàn với số lượng và cơ cấu phù họp; khắc phục tình trạng trong mạng lưới cộng tác viên, thành phần cán bộ nghỉ hưu chiếm tỷ lệ quá cao, các thành phần khác thấp hoặc thiếu. Hằng năm, tiến hành rà soát, củng cố, kiện toàn mạng lưới cộng tác viên, bảo đảm chất lượng và hợp lý về cơ cấu; kịp thời động viên, khen thưởng những cộng tác viên có nhiều nỗ lực và đóng góp trong việc nắm bắt và phản ánh dư luận xã hội. Chú trọng công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cộng tác viên.

c. Đổi mới, nâng cao chất lượng các nghiên cứu khoa học về công tác dư luận xã hội

- Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương là cơ quan chủ trì, kết nối và cung cấp thông tin về những vấn đề lý luận, phương pháp và kinh nghiệm điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội; đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu lý luận, tăng cường hợp tác, trao đồi kinh nghiệm với các viện, tổ chức nghiên cứu dư ỉuận xã hội có uy tín trên thế giới nhằm trao đổi, học hỏi, tìm hiểu những phương pháp, hình thức tổ chức điều tra dư luận xã hội để vận dụng vào thực tế của Việt Nam. Chú trọng nghiên cứu các cơ chế hình thành dư luận xã hội để tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền cách thức định hướng dư luận xã hội có hiệu quả. Đẩy mạnh việc biên soạn, xuất bản các cuốn sách, tài liệu nghiệp vụ chuyên sâu về công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội. Tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, đặc biệt là nghiên cứu các cơ chế hình thành dư luận xã hội để tham mưu cho các cấp ủy đảng cách thức định hướng dư luận xã hội có hiệu quả.

- Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương và các phòng, các bộ phận điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội của các tỉnh, thành phố, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số đoàn thể chính trị - xã hội hằng năm phải có các báo cáo chuyên đề nghiên cứu sâu về tình hình dư luận xã hội trên các lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là những lĩnh vực quan trọng, thường nảy sinh các vấn đề phức tạp, nhạy cảm.

16

3. Nâng cao năng lực của các tổ chức, bộ phận điều tra, nắm băt, nghiên cứu dư luận xã hội trong hệ thống tuyên giáo các cấp, cơ quan tuyên giáo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số đoàn thể chính trị - xã hội.

- Rà soát, củng cố, kiện toàn các tổ chức, bộ phận điều tra, nám bắt, nghiên cứu dư luận xã hội trong hệ thống tuyên giáo các cấp, cơ quan tuyên giáo Mặt trận Tồ quốc Việt Nam và một số đoàn thể chính trị - xã hội; tăng cường cho các tổ chức, bộ phận này những cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ về xã hội học hoặc tâm lý học. Người đứng đầu các tổ chức, đầu mối điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội cần có chuyên môn và năng lực phù hợp.

- Gửi cán bộ điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội ở trung ương và các địa phương đi đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ tại các viện, trung tâm nghiên cứu, thăm dò dư luận xã hội có uy tín ở trong nước và trên thế giới.

- Tăng cường sự cộng tác, phối hợp giữa các tổ chức, đầu mối điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội trong ngành tuyên giáo với các cơ quan nghiên cứu khoa học có chuyên môn, nghiệp vụ nghiên cứu, điều tra dư luận xã hội (Viện Xã hội học và Viện Tâm lý học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; Viện Xã hội học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh...).

- Ban hành quy định về các cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa học có thẩm quyền điều tra dư luận xã hội phục vụ công tác lãnh đạo của các cấp ủy đảng và qui định về việc công bố, sử dụng thông tin từ các cuộc điều tra, thăm dò dư luận xã hội.

- Bảo đảm kinh phí hoạt động hợp lý cho các tổ chức, đầu mối điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội.

17

Chuyên đề 2

PHƯƠNG PHÁP NẮM BẮT VÀ ĐIÈU TRA D ư LUẬN XÃ HỘI

Dư luận xã hội là tập hợp các luồng ý kiến thể hiện thái độ của công chúng trước các vấn đề, sự kiện có tính thời sự, có liên quan đến lợi ích và các mối quan tâm của họ; là một trong những hình thức thể hiện tâm tư, ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Dư luận xã hội thể hiện trên các mặt nhận thức, cảm xúc, ý chí (đôi khi cả trong hành động) trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng nảy sinh trong cuộc sống; nói trên nên có thể nói dư luận xã hội là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì: nó là sự thống nhất của cả ba yếu tố nhận thức, thái độ, hành vi; phương thức thể hiện của dư luận xã hội tồn tại dưới nhiều hình thức: công khai hoặc ngấm ngầm không công khai, do đó cần phải có những phương pháp nắm bắt và điều tra phù hợp mới có thể nắm bắt dư luận xã hội một cách đầy, đủ, thấu đáo.

Nắm bắt dư luận xã hội là hình thức tập hợp thông tin dư luận xã hội dưới dạng định tính. Hình thức nắm bắt dư luận xã hội rất đa dạng, bao gồm: Nắm bắt thông tin qua mạng lưới cộng tác viên; qua các phương tiện thông tin đại chúng; qua việc lấy ý kiến đóng góp của các tàng lóp nhân dân đối với dự thảo các văn kiện, văn bản pháp luật...

Điều tra dư luận xã hội là hình thức nấm thông tin dư luận xã hội bằng phương pháp điều tra xã hội học. Phương pháp này tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu có tính khoa học. Hiện nay, hình thức phổ biến là điều tra thông qua phát phiếu hỏi cho các đối tượng được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hoặc có chủ định.

Nắm bắt và điều tra dư luận xã hội là hai nhóm phương pháp cơ bản đê (1) thu thập dữ liệu định lượng và dữ liệu định tính, (2) xử lý các dữ liệu thu được và (3) báo cáo kết quả phản ánh dư luận xã hội từ đó gợi mở cách tiếp cận, định hướng và điều chỉnh dư luận xã hội nhằm mục tiêu chung là xây dựng đất nước.

1. Phương pháp nắm bắt dư luận xã hội

18

Phương pháp nắm bắt dư luận xã hội là phương pháp truyền thống, quen thuộc, phổ biến bao gồm quan sát, tiếp cận thông tin đại chúng và sử dụng mạng lưới cộng tác viên.

1.1. Quan sát dư luận xã hội

Quan sát dư luận xã hội là cách thức thu thập thông tin sơ cấp thông qua các giác quan mắt thấy, tai nghe. Đây là phương pháp quen thuộc và phổ biến để nắm bắt dư luận xã hội hiện nay. Cụ thể là cần đến tận nơi xảy ra sự kiện xã hội nhất định để xem có nhiều người tham dự không, họ làm gì, nói chuyện gì, có ý kiến gì. Có thể hỏi chuyện một số người đang có mặt trong sự kiện đó hoặc chỉ đơn giản là đến gần nhóm người đang nói chuyện để lắng nghe. Điều quan trọng nhất của phương pháp quan sát là phải quan sát toàn bộ sự kiện, khung cảnh và các nhóm người, các nhân vật trung tâm, đặc biệt cần phát hiện các thông điệp của sự kiện thể hiện ở các băng rôn, biểu ngữ tờ rơi; qua hành vi, ngôn ngữ của những người tham gia. Để có thể nắm bắt thông tin một cách khach quan, người làm công tác nghiên cứu dư luận xã hội tức cần phải nghe được chính xác, đầy đủ tất cả các loại ý kiến cũng như ghi chép lại mọi biểu hiện hành vi của các nhóm xã hội khác nhau mà không vội phán xét, không vội chắt lọc và không vội chọn lựa.

Nghe có phán xét và nghe có chọn lọc có thể làm ta chỉ nghe được những gì ta muốn nghe, ta cần nghe đối với ta và do vậy khó có thể nắm bắt được dư luận xã hội.

Theo phương pháp này, muốn nắm bắt dư luận xã hội của công nhân phải tìm đến người công nhân và quan sát họ và lắng nghe ý kiến của họ. Muốn nắm bắt dư luận xã hội của người nông dân cần phải tìm đến người nông dân, quan sát họ trong các tình huống nhất định như tình huống đang làm việc, đang ở nhà hay đang trong một sự kiện nào đó, lắng nghe ý kiến của họ và nếu cần bắt chuyện, nói chuyện, hỏi chuyện và lắng nghe ý kiến của họ. Tương tự muốn nắm bắt dư luận xã hội của giới trí thức cần phải lắng nghe ý kiến của người trí thức. Lắng nghe bằng cách nào và như thế nào?

Quan sát không tham dự: Là dạng quan sát mà người quan sát hoàn toàn đứng ngoài các hoạt động của đối tượng được quan sát. Họ đứng ngoài quan sát và ghi chép các tình huống và diễn biến xảy ra do đó thường chỉ năm bắt được các thông tin trực tiếp, dễ quan sát, không nắm được nhiều thông tin như phương pháp quan sát tham dự.

19

Đây là kỹ năng quan sát người khác mà không tham dự vào câu chuyện của họ, không hỏi, không ngắt lời, không bày tỏ ý kiến mà chỉ đơn giản quan sát và lắng nghe họ nói, nếu cần thiết có thể ghi chép ngay để ghi nhớ không quên. Cần đóng vai là một khách mời, một khán thính giả hoặc một thành viên của cuộc nói chuyện nhưng không tham gia vào câu chuyện mà chỉ có mặt để quan sát và lắng nghe ý kiến của mọi người. Quan sát bằng cách lắng nghe không tham dự có ưu thế lớn là không định hướng, không điều tiết và không ảnh hưởng tới câu chuyện của người khác và nhờ vậy có thể nghe thấy được nhiều ý kiến thực sự của người khác từ đó có thể nắm bắt được dư luận xã hội. Đe lắng nghe không tham dự có hiệu quả cao càn rèn luyện khả năng tự kiểm soát cảm xúc đê không gây chú ý đối với người khác và khả năng quan sát, ghi nhớ, ghi chép đầy đủ các ý kiến mà không có sự phán xét, đánh giá và chọn lọc. Chỉ sau khi đã quan sát với kỹ năng lắng nghe và ghi nhớ các dữ liệu mới nên phân tích, tông hợp và đánh giá những dữ liệu đó để tìm ra những thông tin về những luồng dư luận xã hội nhất định.

Quan sát tham dự. Trên thực tế rất khó có thể lắng nghe ý kiến của người khác, của nhóm người mà không tham dự bằng cách này hay cách khác vào sự kiện xã hội nhất định. Do vậy, cần áp dụng phương pháp quan sát tham dự một cách có kiểm soát, tự kiểm soát để không can thiệp khiến người khác phải nói những gì ta muốn nghe, muốn biết và không nói những gì thực sự quan tâm của họ, cần đảm bảo thu thập được thông tin khách quan, có thật vê dư luận xã hội.

Là dạng quan sát mà ở đó người quan sát trực tiếp tham gia vào hoạt động của những người được quan sát. Có thể tham dự một phần hoặc tham dự hoàn toàn vào các hoạt động trong nhóm những người được quan sát. Quan sát tham dự cho phép người làm công tác nghiên cứu dư luận xã hội, ngoài các thông tin về các phản ứng bề ngoài của nhóm những người được quan sát, còn là các giao tiếp “ngầm”, khó quan sát trong nhóm, các “hiệu ứng” nhóm, các tác động của nhóm đến mỗi thành viên của nó.

Phương pháp quan sát tham dự đòi hỏi người làm công tác nghiên cứu dư luận xã hội phải có một thời gian dài để làm quen, thích ứng với môi trường. Đôi khi sự tham gia tích cực, lâu dài trong các hoạt động, tiếp xúc lâu dài với nhóm được quan sát sẽ dẫn đến kết quả là người nghiên cứu quen với thái độ, hành vi của các thành viên trong nhóm đến mức coi đó là hiển nhiên và không ghi chép những gì được coi là cần phải ghi chép

20

Cách tham dự đơn giản nhất là tỏ ra chăm chú lắng nghe, coi trọng người nói chuyện và đặt những câu hỏi phù hợp để câu chuyện được diễn ra liên tục. Cách tham dự phức tạp hơn đòi hỏi phải bày tỏ ý kiến, thái độ một cách phù hợp đế người khác nghe và hồi đáp hoặc chia sẻ ý kiến của họ. Khi áp dụng kỹ năng này cần lưu ý không bày tỏ thái độ và ý kiến mang tính áp đặt khiến người nghe cảm thấy bị bắt buộc phải chấp nhận và làm người nghe không dám hoặc không muốn bày tỏ ý kiến của họ nữa. Do vậy, nếu cần phải nói thì nói làm sao cho người khách quan và khơi gợi câu chuyện chứ không phải là làm cho câu chuyện trở nên tẻ nhạt hoặc kết thúc.

Quan sát tham dự không đơn giản là đến tham dự một hội nghị hay một cuộc họp mà còn phải chuẩn bị các tình huống để có thể phát biểu, bày tỏ ý kiến sao cho cởi mở, hợp tác và thân thiện để người khác có thể sẵn sàng chia sẻ ý kiến, bày tỏ thái độ và xu hướng hành động của họ. Nếu như sự tham dự mang ý nghĩa phán xét, kiểm soát, đe dọa, trừng phạt một loại ý kiến nào đó hay một loại thái độ nào đó hoặc một loại cử chỉ nào đó thì sẽ khó có thể lắng nghe được dư luận xã hội thực sự của người khác.

1.2. Phỏng vấn sâu

Là phương pháp thu thập thông tin định tính về dư luận xã hội dưới hình thức cuộc trao đổi ý kiến có mục đích giữa người nghiên cứu và người cung cấp thông tin. Trong phỏng vấn sâu, thông qua sự tác động của ngôn ngữ, hành vi, người nghiên cứu có thể thu thập được những thông tin cụ thể, chi tiết về tâm trạng, tư tưởng, thái độ, quan điểm của người cung cấp thông tin đối với các hiện tượng, sự kiện, vấn đề xã hội cụ thể mà người nghiên cứu quan tâm.

ưu điểm của phương pháp phỏng vấn sâu: Thông tin thu được qua phỏng vấn sâu đầy đủ và sâu sắc hơn so với thông tin thu được từ phương pháp quan sát cũng như từ hình thức phỏng vấn bằng bảng hỏi tự điền; giúp người nghiên cứu phát hiện được các vấn đề mới, quan trọng mà các phương pháp nói trên không phát hiện được. Do tính chất linh hoạt của cuộc phỏng vấn, hầu hết các câu hỏi đều thu được câu trả lời. Tính mâu thuẫn trong các câu trả lời cũng được giảm thiểu ở mức tối đa.

Hạn chế của phương pháp phỏng vắn sâu: Người thực hiện phỏng vấn sâu phải là người có tay nghề cao và nhiều kinh nghiệm. Các câu trả lời không được chuẩn hóa nên rất khó lượng hóa. Việc phân tích thông tin thu được đòi hỏi phải mất nhiều thời gian.

21

Phỏng vấn p h i cấu trúc: Phỏng vấn phi cấu trúc là hình thức phỏng vân không có bảng hỏi chuẩn bị sẵn. Khi sử dụng phương pháp này người nghiên cứu phải nhớ một số chủ đề cần phỏng vấn và có thể sử dụng một danh mục các chủ đề để khỏi bỏ sót trong khi phỏng vấn. Trong quá trình phỏng vấn, người nghiên cứu tự do hoàn toàn trong cách dẫn dắt cuộc phỏng vấn, có thể chủ động thay đổi thứ tự của các chủ đề tuỳ theo hoàn cảnh phỏng vấn và câu trả lời của người được phỏng vấn.

Phỏng vấn phi cấu trúc giống như một cuộc nói chuyện, làm cho người được phỏng vấn cảm thấy thoải mái và cởi mở trả lời theo các chủ đề phỏng vân. Điều cốt yếu quyết định sự thành bại của kiểu phỏng vấn này là khả năng đặt các câu hỏi “khơi gợi” một cách có hiệu quả, tức là khả năng kích thích người trả lời cung cấp thêm thông tin.

ưu điểm của phỏng vấn phỉ cấu trúc: Cho phép người nghiên cứu linh hoạt thay đổi cấu trúc phỏng vấn tùy theo ngữ cảnh và đặc điểm của đôi tượng. Phỏng vấn phi cấu trúc đặc biệt có ích trong những trường hợp khi mà người nghiên cứu cần phỏng vấn đối tượng nhiều lần, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Phỏng vấn phi cấu trúc đặc biệt hữu ích trong nghiên cứu các chủ đề nhạy cảm như lựa chọn nhân sự trước các kỳ bầu cử; vấn đề dân chủ ở cơ sở; vấn đề quan liêu, tham nhũng; mâu thuẫn giữa người dân với chính quyền hoặc các mâu thuẫn có liên quan đến vấn đề tôn giáo, sắc tộc; các vẫn đề xã hội khó tiếp cận.

Hạn chế của phỏng vấn phi cấu trúc: Không có mẫu chuẩn bị sẵn nên mỗi cuộc phỏng vấn là một cuộc trò chuyện không lặp lại vì vậy rất khó hệ thống hoá các thông tin và phân tích số liệu.

Phỏng vấn bán cấu trúc: Là phương pháp phỏng vấn, một phần dựa theo danh mục các câu hỏi được chuẩn bị sẵn, phần còn lại do người phỏng vấn tuỳ ý nêu câu hỏi. Khi sử dụng phương pháp này, người nghiên cứu tập hợp sơ bộ những câu hỏi cần để thu thập thông tin vào bản “hướng dẫn phỏng vấn”. Những câu hỏi này đã được người nghiên cứu soạn ra trên cơ sở những phỏng vấn thăm dò trước đó về chủ đề nghiên cứu để có thể biết được câu hỏi nào là cần thiết. Tuy nhiên thứ tự và cách đặt câu hỏi không nhất thiết phải giống hoàn toàn như trong bản hướng dẫn phỏng vấn mà có thể thay đổi tuỳ thuộc vào ngữ cảnh và đặc điểm của đối tượng phỏng vấn.

ưu điểm của phỏng vẩn bán cấu trúc: Việc sử dụng bản hướng dẫn phỏng vấn sẽ tiết kiệm thời gian phỏng vấn. Danh mục các câu hỏi giúp xác định rõ

22

những vấn đề càn thu thập thông tin nhưng vẫn cho phép độ linh hoạt cần thiết để thảo luận các vấn đề mới nảy sinh. Dễ dàng hệ thống hoá và phân tích các thông tin thu được

Hạn chế của phỏng vẩn bán cấu trúc: cần phải có thời gian để thăm dò trước chủ đề quan tâm để xác định chủ đề nghiên cứu và thiết kế câu hỏi phù hợp. Nếu người đi phỏng vấn không có kinh nghiệm thì cuộc phỏng vấn sâu có thê trở thành cuộc phỏng vấn theo bảng hỏi.

1.3. Thảo luận nhóm tập trung

Là phương pháp thu thập thông tin về một chủ đề từ cuộc thảo luận của một nhóm nhỏ gồm các thành viên có các đặc điểm tương đồng (về độ tuổi, kinh nghiệm, trình độ học vấn, nghề nghiệp...). Cuộc thảo luận được dẫn dắt bởi một người điều hành sao cho các thành viên cùng tham gia vào một cuộc thảo luận tập trung vào một chủ đề đã được lựa chọn. Mục đích chính của thảo luận nhóm tập trung là tìm hiểu các loại ý kiến của các thành viên trong nhóm về vấn đề, hiện tượng, sự kiện mà cán bộ làm công tác nghiên cứu dư luận xã hội quan tâm.

ưu điểm của phương pháp thảo luận nhóm tập trung'. Thảo luận nhóm tập trung được thiết kế như một môi trường thuần nhất, sự có mặt của những người có cùng đặc điểm sẽ giúp cho các thành viên dễ dàng hoà nhập vào cuộc tranh luận và các thành viên có thể cùng nhau đưa cuộc thảo luận theo chiều hướng mà nhà nghiên cứu cũng chưa thể lường trước được. Do thảo luận nhóm tập trung đi sâu vào những chủ đề nhất định nên thông tin thu được có chiều sâu và chi tiết, giúp cho người làm công tác nghiên cứu dư luận xã hội tìm ra được nguyên nhân, động cơ của mỗi loại ý kiến. Phương pháp này còn giúp cho người nghiên cứu thu được nhiều thông tin với một mức chi phí thấp hom so với phỏng vấn sâu.

Hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm tập trung: Phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định như kết quả nghiên cứu không mang tính khái quát cho tổng thể. Các kết quả có thể chỉ ra các quan điểm và chính kiến nhưng không thể cho biết tần suất phân bố của các quan niệm và hành vi trong cộng đồng. Thảo luận nhóm tập trung có ít giá trị trong việc tìm hiểu những quan niệm phức tạp của các cá nhân so với phỏng vấn sâu. số lượng vấn đề đặt ra trong thảo luận nhóm tập trung có thể ít hơn so với phỏng vấn từng cá nhân. Định kiến của xã hội và quan điểm cực đoan của một số thành viên tham gia

23

nhóm có thể hạn chế sự thể hiện hành vi cũng như ý kiến của những người tham gia thảo luận.

1.4. Tiếp cận thông tin đại chúng.

Đây là một cách nắm bắt dư luận xã hội gián tiếp thông qua việc tìm kiếm thông tin từ báo viết, đài phát thanh, truyền hình, internet... Rất nhiêu tin tức được phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng đang rất sẵn có này. Do vậy, hoàn toàn có thể nắm bắt nhanh chóng dư luận xã hội của các nhóm, các giai tàng xã hội và các địa phương bằng cách tìm xem các tin tức và chắt lọc, phân tích, tổng hợp các tin tức từ các phương tiện thông tin đại chúng.

Có thể sử dụng phương pháp phân tích nội dung các bài báo mà chúng ta tập hợp được, ví dụ, có tất cả các số báo của một tờ báo nào trong một khoảng thời gian. Các thao tác cụ thể trong công việc này là: (1) Xác định đơn vị tài liệu với tư cách như là một “lá phiếu” trong bầu cử. (2) Xác định phạm trù, nội dung mà “đơn vị” tài liệu đề cập (giống như tên các ứng cử viên trong lá phiếu bầu cử); (3) Đếm tần xuất được đề cập của nội dung, phạm trù (giống như tần xuất được bầu chọn của ứng cử viên trong lá phiếu bầu cử).

Ví dụ: Chúng ta có trong tay tất cả các số báo của báo “X” của một địa phương nào đó từ năm 2012 đến năm 2015. Điều (nội dung, phạm trù, vấn đề) mà chúng ta quan tâm là việc đấu tranh chống tham nhũng của tờ báo. Chúng ta coi mỗi số báo là một đơn vị tài liệu (lá phiếu), số báo nào có nội dung đề cập đến đấu tranh chống nạn tham nhũng (đề cập một lần hay nhiều lần) thì cột tần xuất của phạm trù tham nhũng đều chỉ được cộng 1 “điểm” (nếu chúng ta lấy đơn vị tài liệu là bài báo thì mỗi bài báo có đề cập đến nạn tham nhũng được tính là một điểm). Bảng dưới đây minh họa sự lượng hóa phạm trù tham nhũng (trong trường hợp mỗi số báo được coi ỉà một đơn vị tài liệu):

Năm Tổng số số báo trong

năm

Tổng số số báo đề cập đến đấu

tranh chống nạn tham nhũng

Năm 2012 365 60

Năm 2013 365 55

Năm 2014 365 45

Năm 2015 365 30

24

Từ các số liệu trên chúng ta có thể kết luận về hai khả năng:

1. Từ năm 2012 đến năm 2015, tình hình tham nhũng ở địa phương của tờ báo “X” có xu hướng càng ngày càng giảm đi.

2. Từ năm 2012 đến năm 2015, báo “X” có xu hướng ngày càng ít quan tâm hơn đến chủ đề đấu tranh chống tham nhũng.

Nếu có nguồn thông tin đáng tin cậy cho biết, nạn tham nhũng ở địa phương của tờ báo “X”, từ năm 2012 đến năm 2015, hầu như ít thay đổi, thì chúng ta hoàn toàn có thể kết luận rằng: Từ năm 2012 đến năm 2015, báo “X” có xu hướng ngày càng ít quan tâm hơn đến chủ đề đấu tranh chống tham nhũng.

Việc “lướt mạng”, tìm đọc, tra cứu tin tức trên Internet là một trong kỹ năng hiện đại trong nắm bất dư luận xã hội hiện nay. Có thể tiếp cận thông tin đại chúng trên Internet thông qua các trang mạng xã hội như facebook, twitter, blog... để nhanh chóng phát hiện và nắm bắt đủ các loại ý kiến, các luồng dư luận xã hội. Sử dụng các công cụ hỗ trợ tìm kiếm có thề giúp theo dõi tin tức một cách hệ thống, đầy đủ, chi tiết về một sự kiện nhất định và các luồng dư luận xã hội khác nhau về sự kiện đó.

Các ý kiến nhận xét, bình luận của bạn đọc từ các trang báo mạng chính thức và các trang báo mạng phi chính thức đều có thể chứa dựng những luồng dư luận xã hội nhất định, cần rèn luyện khả năng phân tích, tống hợp nhanh đê có thể nắm bắt dư luận xã hôi từ các loại ý kiến bình luận rất phong phú, đa dạng trên mạng.

Kỹ năng truy cập, tìm kiếm một cách hệ thống, thường xuyên với đầu óc cởi mở và nghiêm túc là kỹ năng quan trọng, cần thiết và có hiệu quả cao trong nắm bắt dư luận xã hội. Nếu chỉ “lướt mạng” một cách đại khái, qua loa hoặc không thường xuyên, liên tục và hệ thống thì kết quả tìm kiếm được sẽ mang tính vụn vặt, phiến diện, cảm tính, chạy theo đám đông, chạy theo tin giật gân thậm chí là “tin vịt” hoặc cảm thấy hoang mang, nhiễu loạn, quá tải. Một số chuyên gia về thông tin đại chúng ước tính chỉ khoảng 10-20% tin tức trên mạng là chính xác, đáng tin cậy và 80-90% số còn lại cần được tinh lọc, xử lý thì mới có thể giúp nắm bắt được đầy đủ, chính xác dư luận xã hội.

1.5. Nắm bắt dư ỉuận xã hội thông qua các cộng tác viên

Đây là một cách nắm bắt dư luận xã hội rất phổ biến trong hệ thống tuyêngiáo hiện nay. Các cộng tác viên như là “tai mắt” quan sát, nắm bắt dư luận xãhội ở những nhóm, những cơ quan, tổ chức và cộng đồng nhất định. Cộng tác

25

viên dư luận xã hội có thể giúp nắm bắt nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả tình hình tư tưởng, và dư luận xã hội. Tuy nhiên, cộng tác viên cũng có thê cung câp thông tin một cách chủ quan, một cách phiến diện do nhiều lý do khác nhau. Trong đó có lý do về năng lực, kỹ năng và điều kiện, cơ hội có hạn của cộng tác viên.

Để phát huy các thế mạnh và nâng cao hiệu quả nắm bắt dư luận xã hội cần xây dựng và sử dụng mạng lưới cộng tác viên theo 4 bước cơ bản là: (1) Tô chức mạng lưới cộng tác viên; (2) Xây dựng quy chế hoạt động của mạng lưới cộng tác viên; (3) Duy trì hoạt động của mạng lưới cộng tác viên; (4) Tông hợp thông tin, viết báo cáo nhanh về tình hình dư luận xã hội từ phản ánh của mạng lưới cộng tác viên.

Cộng tác viên: Là những cán bộ, đảng viên, hội viên đang làm việc, sinh hoạt tại các địa phương, tổ chức, cơ quan, đơn vị hoặc các cá nhân đại diện cho các giai tầng trong xã hội được ban tuyên giáo lựa chọn và được ký hợp đông làm cộng tác viên dư luận xã hội theo thỏa thuận (về nội dung công việc hoặc theo thời gian)

Cần phát hiện và tuyển dụng những người có đủ một số phẩm chât năng lực nhất định cần thiết đối với một cộng tác viên để đưa vào mạng lưới cộng tác viên dư luận xã hội. Đó là người:

- Gương mẫu chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Am hiểu lĩnh vực, địa bàn; tâm tư, nguyện vọng của giai tầng xã hội hoặc nhóm công chúng mà mình làm đại diện.

- Có năng lực nắm bắt, tổng hợp, phân tích và phản ánh khách quan, kịp thời, trung thực các luồng ý kiến dư luận xã hội.

- Có kỹ năng giao tiếp tốt.

- Có đủ sức khỏe và điều kiện đảm nhiệm nhiệm vụ cộng tác viên; có nguyện vọng và tinh thần tự nguyện đóng góp vì cộng đồng.

Mạng lưới cộng tác viên: mạng lưới cần bao gồm nhiều cộng tác viên đại diện cho các giai tầng xã hội như: (1) Công nhân; (2) Nông dân; (3) Tầng lớp cán bộ, công chức đương chức; (4) Cán bộ hưu trí; (5) Văn nghệ sỹ, trí thức; (6) Doanh nhân; (7) Thanh, thiếu niên; (8) Nhóm lao động tự do....

26

Hình thức hoạt động của cộng tác viên: Cộng tác viên công khai (do các cơ quan, đoàn thể, hiệp hội các cấp cử ra); có ưu điểm phản ánh nhanh, trung thực dư luận của cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn hoạt động của mình trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng. Tuy nhiên, có hạn chế là thường né tránh hoặc không dám phản ánh những dư luận gai góc có liên quan đến ngành, địa phương, đơn vị mình. Cộng tác viên đơn tuyến (do đầu mối làm công tác dư luận của địa phương tuyển chọn, các cơ quan, đoàn thể, chính quyền, nơi quản lý cộng tác viên này không biết đó là cộng tác viên dư luận xã hội của đầu mối nắm bắt dư luận xã hội nêu trên).

Mỗi một hình thức hoạt động của cộng tác viên có ưu điểm và nhược điểm khác nhau do vậy cần xây dựng và sử dụng cả hai hình thức cộng tác viên công khai và cộng tác viên đom tuyến không công khai.

Quy chế hoạt động của cộng tác viên. Việc xây dựng và sử dụng cộng tác viên cần phải tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành để đảm bảo quyền hạn và trách nhiệm của các bên liên quan, đảm bảo phòng tránh các trường hợp lạm dụng gây tổn thương tới cá nhân, tổ chức và cộng đồng. Việc xây dựng và thực hiện quy chế hoạt động của cộng tác viên dư luận xã hội là rất quan trọng và cẩn thiết để nắm bắt và định hướng dư luận xã hội một cách có hiệu quả.

2. Phương pháp điều tra dư luận xã hội

Điều tra dư luận xã hội là một phương pháp khoa học trở nên thông dụng và có hiệu quả cao trong nghiên cứu về dư luận xã hội ở nhiều nước phát triên trên thế giới. Điều tra dư luận xã hội có thể rất phức tạp về mục đích , ví dụ để quyết định xem một quốc gia thanh viên của Cộng đồng châu Âu (EƯ) có tách ra khỏi EU hay vẫn ở lại Eư? Quy mô điều tra dư luận xã hội có thể rất lớn lên đến hàng triệu người tham gia. Nhưng điều tra dư luận xã cũng có thể rất đơn giản về mục đích và nhỏ bé về quy mô.

2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi tự điền (Anket)

Đây là phương pháp truyền thống (được sử dụng phổ biến trong thời gian qua) để nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội. Cách thức điều tra được thực hiện dưới dạng điều tra viên phát phiếu và hướng dẫn để đối tượng điều tra tự điền thông tin vào phiếu điều tra. Trong những trường hợp đặc biệt (đối tượng điều tra là người cao tuổi, người không biết chữ...), điều tra viên phải trực tiếp phỏng vấn và điền nội dung thông tin vào phiếu điều tra.

Phương pháp này được áp dụng khỉ:27

- Cuộc điều tra với cờ mẫu lớn.

- Vấn đề nghiên cứu, điều tra phức tạp, cần phải thu thập nhiều dữ liệu.

- Khi muốn thăm dò ý kiến đối tượng qua các câu hỏi ngắn gọn và có thể trả lời nhanh được.

ưu điểm:

- Do điều tra viên tiếp xúc trực tiếp nên có thể thuyết phục đối tượng trả lời, tỷ lệ tham gia cao.

- Có thể giải thích rõ cho đối tượng được điều tra về các câu hỏi.

- Có thể dùng hình ảnh kết hợp với lời nói để giải thích.

- Có thể kiểm tra dữ liệu tại chỗ trước khi hoàn thiện phiếu điều tra.

- Những người không biết chữ cũng có thể tham gia.

- Có thể thích hợp cho những nghiên cứu có bộ câu hỏi dài, phức tạp.

Nhược điềm:

- Chi phí cao, mất nhiều thời gian và công sức.

- Điều tra viên khác nhau có thể giải thích khác nhau cho cùng một câuhỏi.

- Trong quá trình điều tra, một số người phỏng vấn có thể gợi ý câu trả lời cho người trả lời dẫn đến thông tin không thực sự khách quan.

- Đặc điểm cá nhân của điều tra viên có thể ảnh hưởng đến thái độ của người trả lời, ví dụ, tuổi tác, giới tính, chủng tộc.

- Trong một số trường hợp, điều tra viên có thể đọc những câu hỏi sailệch.

Đây là các nguồn chính của các sai số không do chọn mẫu mà do người phỏng vấn.

2.2. Phương pháp điều tra qua thư

Gửi bảng câu hỏi đã soạn sẵn, kèm phong bì đã dán tem đến người muốn điều tra qua đường bưu điện. Nếu mọi việc trôi chảy, đối tượng điều tra sẽ trả lời và gửi lại bảng câu hỏi cho cơ quan điều tra cũng qua đường bưu điện.

Phương pháp này được áp dụng khỉ:

28

- Đối tượng điều tra rất khó gặp, do họ ở quá xa, sống quá phân tán, sống ở khu dành riêng rất khó vào, hay họ thuộc giới kinh doanh; những người rât bận rộn.

- Vấn đề cần điều tra thuộc loại khó nói, riêng tư.

- Vấn đề cần nghiên cứu rất hấp dẫn đối với đối tượng điều tra

- Vấn đề cần điều tra cần thiết phải có sự tham khảo tra cứu nhất định nàođó.

ưu điếm của phương pháp này ỉà:

- Có thể điều tra với số lượng mẫu lớn.

- Có thể đề cập đến nhiều vấn đề riêng tư tế nhị.

- Có thể dùng hình ảnh minh hoạ kèm với bảng câu hỏi.

- Thuận lợi cho người trả lời vì họ có thời gian để suy nghĩ kỹ câu trả lời,họ có thể trả lời vào lúc rảnh rỗi.

- Chi phí điều tra thấp, chi phí phát sinh thấp vì chỉ tốn thêm tiền gửi thư,mua tem, không tốn kém tiền thù lao cho phỏng vấn viên.

- Không có sai số do người phỏng vấn gây ra.

Nhược đỉêm của phương pháp này là:

- Khó có sự hợp tác từ đối tượng điều tra, tỷ lệ phiếu thu về thường thấp.

- Mất nhiều thời gian chờ đợi thư đi và thư hồi âm.

- Không kiểm soát được người trả lời, người trả lời thư có thể không đúng đối tượng mà ta nhắm tới.

- Nếu là một cuộc khảo sát thái độ, rất khó để xác định xem người trả lời có sự trợ giúp trả lời từ người khác không.

- Phương pháp này chỉ có ích khi các câu hỏi khá đơn giản, không thích hợp cho các cuộc điều tra phức tạp.

Các biện pháp làm tăng tỷ lệ trả lời thư:

- Thông báo trước cho người được phỏng vấn: có thể dùng bưu ảnh, thưbáo ngắn gọn khoảng chừng năm ngày trước khi gởi bảng câu hỏi. Ghi cụ thê: họ tên người nhận và thông báo mục đích.

29

- Chuẩn bị kỹ phong bì: có in tên nơi gửi và họ tên địa chỉ người nhận. Trên đó in đậm dòng chữ: Đây là cuộc nghiên cứu chúng tôi đã thông báo với quý vị.

- Chuẩn bị kỹ bức thư: kích thích người nhận thư điền vào bảng câu hỏi và gởi trả lại. Nêu vắn tắt đến mục đích nghiên cứu, tầm quan trọng của đối tượng được hỏi, lợi ích nếu họ tham gia, tính đơn giản của bảng câu hỏi, và thời gian ngắn để trả lời.

- Hình thức trình bày của bảng câu hỏi: đơn giản, hấp dẫn, dễ đọc, dễ trả lời. Có thể dùng tranh nhỏ để gây sự thích thú và kích thích trả lời.

- Chuẩn bị phong bì có dán tem trả lời với địa chỉ nơi nhận.

- Theo dõi quá trình hồi đáp: sau 3 đến 5 ngày sau nên có bưu thiếp/thư gởi nhắc nhở. Sau 3 đến 4 tuần sau khi gửi bảng câu hỏi lần 1 gửi một bức thư mới để kêu gọi sự trả lời, kèm theo một bảng câu hỏi và phong bì có dán tem thư trả lời (để dự phòng khi đối tượng bận công tác hay đi nghỉ phép..

2.3. Phương pháp điều tra qua thư điện tử (email)

Gửi thư điện tử (email) có kèm theo phiếu điều tra đến đối tượng cần điều tra. Đây là phương pháp được nhiều nước tiên tiến (Mỹ, Châu Âu) thực hiện trong những năm qua.

Ưu đỉêm của phương pháp này:

- Chi phí thấp.

- Có thể tiếp cận cộng đồng quốc tế.

- Có thể thực hiện cuộc điều tra trong thời gian ngắn.

- Những câu hỏi có sử dựng bước nhảy có thể được lập trình sẵn.

- Cỡ mẫu nghiên cứu có thể lớn.

- Giảm các sai số do người phỏng vấn.

- Dữ liệu sẵn có ngay sau khi người trả lời điền phiếu , giảm thiểu hoặc không cần nhập liệu nên giảm sai số do nhập liệu.

Nhược điểm:

- Phụ thuộc vào số hộ gia đình có máy tính và truy cập internet

- Tính đại diện của mẫu kém, không thể tạo ra các mẫu ngẫu nhiên của dân số nói chung.

30

- Sự khác biệt trong khả năng sử dụng máy tính và thư điện tử của mọingười.

- Các nhà cung cấp dịch vụ internet khác nhau/tốc độ đường truyền giới hạn hình ảnh có thể được sử dụng.

Biện pháp làm tăng hiệu quả phỏng van qua thư điện tử:

- Sử dụng phiếu điều tra ngắn, thường dùng dưới hình thức thăm dò nhanh dư luận xã hội về sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội.

- Áp dụng cho các cuộc điều tra, thăm dò dư luận xã hội với các nhóm đối tượng sống ở thành thị, các nhóm nghề nghiệp cán bộ, công chức, học sinh, sinh viên, doanh nhân.

2.4. Phương pháp điều tra qua điện thoại (cố định hoặc di động)

Người điều tra tiến hành phỏng vấn đối tượng được điều tra bằng điện thoại theo một bảng câu hỏi được soạn sẵn. Phương pháp này được áp dụng khi mẫu nghiên cứu gồm nhiều đối tượng là cơ quan, xí nghiệp, hay đối tượng điều tra phân tán trên nhiều địa bàn thì phỏng vấn bàng điện thoại có chi phí thấp hơn phỏng vấn bằng thư.

Ưu điểm:

- Dễ thiết lập quan hệ với đối tượng (vì trao đổi trực tiếp qua điện thoại).

- Có thể kiểm soát được phỏng vấn viên tốt hơn do đó nâng cao được chất lượng phỏng vấn.

- Dễ chọn mẫu (có thể căn cứ trên danh bạ điện thoại, trên danh sách cửtri...).

- Tỷ lệ trả lời cao (có thể lên đến 80%).

- Nhanh và tiết kiệm chi phí.

- Trong quá trình phỏng vấn, có thể giải thích nếu đối tượng điều tra không hiểu câu hỏi.

Nhược điểm:

- Thời gian phỏng vấn bị hạn chế vì người trả lời thường không sẵn lòng nói chuyện lâu qua điện thoại.

- Nhiều khi người cần hỏi từ chối trả lời hay không có ở nhà.

- Không thể trình bày các hình ảnh minh hoạ để thăm dò ý kiến.

- Sai số hệ thống do không tiếp cận được những hộ gia đình không có điện thoại.

- Hạn chế đối với những nghiên cứu có bộ câu hỏi phức tạp.

Biện pháp làm tăng hiệu quả phỏng vấn qua điện thoại:

- Sử dụng phiếu điều tra ngắn, thường dùng dưới hình thức thăm dò nhanh dư luận xã hội về sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội.

- Đào tạo đội ngũ phỏng vấn viên qua điện thoại có kỹ năng thuyết phục đối tượng điều tra và ghi chép thông tin.

- Sử dụng điện thoại có chức năng ghi âm, hoặc nối với máy tính để ghi lại cuộc điện thoại và xử lý thông tin. Người ta còn căn cứ vào ngữ điệu và cường độ âm thanh để đo lường mức độ cảm nhận của đối tượng điều tra.

3. Quy trình thực hiện điều tra dư luận xã hội

3.1. Chuẩn bị điều tra dư luận xã hội

Giai đoạn chuẩn bị luôn đòi hỏi phải thực hiện nhiều việc để sẵn sàng cho giai đoạn tiếp theo, v ề mặt chuyên môn khoa học giai đoạn chuẩn bị điều tra dư luận xã hội đòi hỏi phải chuẩn bị cơ sở lý luận và thiết kế điều tra. Cụ thể cần chuẩn bị những việc như sau:

Chuẩn bị chủ đề: cần trả lời câu hỏi điều tra dư luận xã hội về điều gì, lĩnh vực gì?

Chuẩn bị mục tiêu và nhiệm vụ điều tra: cần trả lời câu hỏi điều tra dư luận xã hội về điều này hay điều kia để làm gì? phải tập trung vào những nội dung gì để đạt được mục tiêu đó?

Chuẩn bị các khái niệm, các chỉ báo đo lường: cần sử dụng những khái niệm nào? cần có những chỉ báo nào để nắm bắt được dư luận xã hội? Những khái niệm phức tạp cần được thao tác hóa thành những khái niệm ít phức tạp từ đó xác định các chỉ báo càn thiết để có thể đo lường, đánh giá nội dung điều tra dư luận xã hội. Ví dụ, muốn điều tra dư luận xã hội về bình đẳng giới ở Việt Nam thì cần phải rõ khái niệm “bình đẳng giới” và làm rõ các chỉ báo đo lường “bình đẳng giới”.

Chuẩn bị công cụ điều tra: về cơ bản công cụ điều tra là câu hỏi hoặc bộ câu hỏi, phiếu câu hỏi được dùng để thu thập dữ liệu từ người được điều tra. Cuộc điều tra dư luận xã hội đơn giản có khi chỉ có một câu hỏi: ví dụ một câu

32

hỏi với ba phương án trả lời để lựa chọn: ông bà đồng ý hay không đông ý việc nước A tách khỏi Cộng đồng châu Ảu? Đồng ý, không đồng ý và khó trả lời. Người được hỏi câu này chỉ cần chọn một trong ba phương án. Cuộc điều tra phức tạp có thể cần phải nhiều câu hỏi khác nhau trong đó có câu hỏi với phương án trả lời và có những câu hỏi bỏ ngỏ mà người được điều tra cân tự đưa ra câu trả lời phù hợp với họ. Ví dụ công cụ điều tra dư luận xã hội về bình đăng giới có thể cần phải bao gồm nhiều câu hỏi về thái độ và sự đánh giá của người trả lời về thực trạng bình đẳng giới trong kinh tế, giáo dục và lãnh đạo quản lý.

Chuẩn bị kích cỡ mẫu điều tra: Rất khó có thể điều tra dư luận xã hội của toàn bộ dân số của một quốc gia. Do vậy cần chuẩn bị mẫu điều tra và do vậy có thể gọi đó là “điều tra chọn mẫu”. Để chuẩn bị kích cỡ mẫu điều tra cần trả lời câu hỏi ví dụ điều tra dư luận xã hội của bao nhiêu người để có thông tin đủ tin cậy với sai số 5% để có thể suy luận cho tổng thể những người khác? Ví dụ trong một cơ quan có 500 người cần điều tra dư luận xã hội từ bao nhiêu người trong số 500 người đó? Hoặc ở một địa phương có 20.000 người dân vậy cân điều tra dư luận xã hội đối với bao nhiêu người là đủ tin cậy? Đây là những câu hỏi về kích cỡ mẫu điều tra dư luận xã hội. Các nhà toán học thống kê có thể giúp trả lời những câu hỏi về kích cỡ mẫu rất nhanh chóng, rồ ràng và chính xác. Do vậy cách đơn giản nhất là sử dụng phụ lục Kích cỡ mẫu để lựa chọn kích cỡ mẫu phù hợp cho cuộc điều tra dư luận xã hội (xem Phụ lục cuối bài): từ 500 người có thể chỉ cần điều tra 222 người và từ 20.000 người có thể chỉ cần điều tra 392 người vẫn đảm bảo độ tin cậy 95%. Tuy nhiên, kích cỡ mẫu đó cân phải được chọn lựa một các khoa học nghiêm túc.

Cần chuẩn bị phương pháp chọn mẫu

Để không bị phức tạp hóa vấn đề, có thể áp dụng phương pháp chọn mẫu kết hợp ngẫu nhiêu phân cụm phân tầng. Đây là phương pháp chọn mẫu phổ biến vì vừa đảm bảo tính đại diện cao vừa đơn giản, thuận tiện. Ví dụ điều tra dư luận xã hội ở một khu công nghiệp lớn có thể bắt đầu chọn mẫu bằng cách xác định các đơn vị hay các doanh nghiệp. Từ đó chọn ngẫu nhiên hoặc chọn có chủ đích một số đơn vị hay một số doanh nghiệp và từ đó chọn ngẫu nhiên số người từ danh sách của đơn vị hay doanh nghiệp. Nếu đơn vị hay doanh nghiệp có quá nhiều người thì có thể tiếp tục chọn một cách có chủ đích một số bộ phận và từ danh sách nhân lực của từng bộ phận có thể chọn ngẫu nhiên một số người nhất định. Tương tự có thể chọn từ một tỉnh ra một số huyện, từ huyện chọn ra một số xã và từ xã chọn ra một số thôn và từ danh sách các hộ gia đình có thê chọn

ngẫu nhiên một số hộ gia đình để đưa vào mẫu điều tra dư luận xã hộ của địa phương đó. Đây là một cách chọn mẫu đảm bảo tính khoa học và độ tin cậy có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, để chọn mẫu thực sự khoa học cần tham khảo thêm các tài liệu chuyên môn về chọn mẫu.

Cùng với việc chuân bị vê chuyên môn khoa học như vậy cân phải chuân bị công tác hậu cần như kinh phí, phương tiện đi lại, phương tiện hỗ trợ điều tra, nhân lực và các giấy tờ, thủ tục cần thiết khác.

3.2. Thực hiện điều tra dư ỉuận xã hội

Đây là giai đoạn thực hiện những gì đã chuân bị ở giai đoạn trước đê thu thập dữ liệu về dư luận xã hội. Nhiều việc cần phải thực hiện ở giai đoạn này trong đó quan trọng nhất là những công việc như sau:

Liên hệ với địa phương hoặc cơ quan, tổ chức để được sự đồng ý, cho phép điều tra dư luận xã hội tại nơi đó.

Tìm gặp những người đã được chọn trong mẫu điều tra để hỏi.

Sử dụng công cụ điều tra, cụ thể là phiếu câu hỏi đã được chuấn bị từ trước để hỏi người được điều tra. Người được điều tra có thể tự điền câu trả lời vào phiếu hoặc người điều tra có thể ghi chép câu trả lời vào phiếu điều tra.

Kiểm tra và làm sạch phiếu điều tra: cần kiểm tra ngay từng phiếu điều tra xem có sai sót, nhầm lẫn gì không để kịp thời điều tra lại hoặc chỉnh sửa một cách thận trọng mà không làm sai lệch dữ liệu thu được.

3.3. Giai đoạn xử lý, phân tích thông tin và báo cáo kết quả nghiêncứu

Đây là giai đoạn gồm ít nhất ba loại việc cần phải làm như sau:

Xử lý phiếu điều tra: Với loại phiếu điều tra đơn giản có thể kiểm phiếu rất nhanh chóng, dễ dàng. Nhưng thường cần phải sử dụng máy ví tính với chương trình xử lý chuyên dụng để nhập dữ liệu từ phiếu điều tra vào máy vi tính để xử lý được dễ dàng, thuận lợi và lưu giữ, truy cập tùy yêu cầu công việc.

Sau khi nhập dữ liệu từ phiếu điều tra vào máy có thể xử lý thống kê đơn giản và xử lý thống kê phức tạp tùy theo yêu cầu để có được thông tin cần thiết. Xử lý thống kê đơn giản nhất là tính tần số, tần suất, số trung bình.v.v. Xử lý phức tạp hơn là tính các hệ số tương quan của hai câu hỏi, hai biến v.v.

34

Phân tích dữ liệu điều tra: đây là việc phát hiện và giải thích kết quả xử lý dữ liệu thu được, kết nối dữ liệu với câu hỏi điều tra và với mục tiêu điều tra. Rất có thể phải viện dẫn các kết quả điều tra đã có để so sánh, đánh giá kết quả xử lý dữ liệu thu được.

Trình bày kết quả xử lý, phân tích phiếu điều tra: tùy theo mục đích, yêu cầu mà việc trình bày kết quả xử lý, phân tích có thể phức tạp hoặc đơn giản. Có thể sử dụng các bảng số liệu, các biểu đồ, các hình vẽ để trình bày các kết quả thống kê. Đồng thời có thể sử dụng cách trích dẫn nguyên văn ý kiến, lời nói hay đoạn văn mô tả, trần thuật để trình kết quả xử lý các dữ liệu định tính. Cũng có thể trình bày hình vẽ, tranh, ảnh, sơ đồ, mô hình. Việc quyết định trình bày kết quả xử lý, phân tích phiếu điều tra cần phải tính đến đối tượng người sử dụng kết quả điều tra.

Viết báo cảo kết quả điều tra dư ỉuận xã hội. Một báo cáo nhanh, một báo cáo tóm tắt kết quả điều tra dư luận xã hội khó có thể và không nên trình bày phức tạp.

Báo cảo kết quả điều tra dư luận xã hội: Điều này phụ thuộc rất nhiều vào hình thức báo cáo. Nếu báo cáo bằng văn bản thì cần chuẩn bị văn bản theo quy định với văn phong phù hợp. Nếu báo cáo bằng cách thuyết trình thì cần đặc biệt quan tâm đến thành phần thính giả, thời lượng và điều kiện, khung cảnh cụ thể của buổi thuyết trình. Trong mọi trường hợp báo cáo kết quả điều tra dư luận xã hội cần phải đảm bảo cung cấp những thông điệp cụ thể, có bằng chứng, thiết thực và phù hợp về thời gian.

Tóm lại, các phương pháp năm băt và điêu tra dư luận xã hội đan xen, bô trợ cho nhau: trong nắm bắt có điều tra và đồng thời trong điều tra có nắm bắt. Tùy từng mục đích, yêu cầu và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể có thể tập trung sử dụng phương pháp nắm bắt và điều tra dư luận xã hội một cách linh hoạt, phù hợp và hiệu quả.

35

Chuyên đề 3

ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI GÓP PHÀN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC T ư TƯỞNG

I. Khái niệm, mục đích, nội dung và cấp độ định hướng dư luận xã hội

1.1. Khái niệm định hướng dư luận xã hội• • O i •

DLXH là một hiện tượng thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Vìvậy, DLXH bị quy định bởi điều kiện xã hội- lịch sử cụ thể, đồng thời DLXH có tính độc lập tương đối trong thực hiện các chức năng cơ bản của mình. DLXH chịu sự điều tiết của chủ thể lịch sử, môi trường xã hội và quản lý xã hội. Có thê nói, DLXH là hiện tượng xã hội có thể định hướng được bằng những tác động có ý thức, tự giác từ phía chủ thể xã hội, chủ thể quản lý xã hội phù hợp với quy luật hình thành và biến đồi của nó.

Như vậy, có thể xem định hướng DLXH là một quá trình tác động hợp quy luật vào diễn biến của nó nhằm xác định phương hướng đúng để hướng dẫn, thúc đẩy sự hình thành DLXH tích cực, có tính tư tưởng cao, khách quan, chân thực, tập trung thống nhất và có tác dụng giáo dục.10

Dư luận xã hội mang tính tích cực là DLXH có tính tư tưởng cao, tínhkhách quan, chân thực, tính tập trung thống nhất và tính giáo dục.

Tính tư tưởng của DLXH thể hiện ở chỗ DLXH phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội. Tính tư tưởng còn thể hiện ở chỗ DLXH phải khẳng định những nhân tố mới, những điển hình tiên tiến, những xu hướng tích cực trong đời sống xã hội, kiên quyết phê phán các tệ nạn và tiêu cực xã hội cản trở sự phát triển tất yếu của đất nước.

DLXH có tính khách quan, chân thực là dư luận phản ánh đúng tiến trình diễn biến của sự kiện, hiện tượng trong một bối cảnh xã hội nhất định, phản ánh toàn diện cả cái đúng và cái sai, tiến bộ và lạc hậu, thành tích và hạn chế, yếu kém, đồng thời hướng con người đến cái đúng, cái thiện, cái đẹp.

10 TS. Nguyễn Đình Gấm: Những vấn đề tâm lý xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003, trló

36

Tính tập trung, thống nhất của DLXH có nghĩa là, trong các luồng ý kiên của DLXH, không có sự đối lập hay phân tán ý kiến, sự phán xét đánh giá của chủ thể DLXH hướng vào một khách thể nhất định và đạt độ tập trung thống nhất tương đối cao. Nó không bị ảnh hưởng bởi các tin đồn thất thiệt, ít hoặc không bị dao động bởi các tác nhân khác và phân hóa thành nhiều luồng ý kiên trái chiều.

DLXH có tính giáo dục là dư luận góp phần hình thành cho con người thế giới quan khoa học, nhân sinh quan đúng đắn, niềm tin vào chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, là dư luận có tác động điều chỉnh thái độ và hành vi của công chúng, khơi dạy, cổ vũ tính tích cực, sáng tạo của con người hướng vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị đặt ra trước xã hội.

1.2. Mục đích của định hướng DLXH

Định hướng DLXH có mục đích là xác định phương hướng đúng cho DLXH. Bởi lẽ, DLXH thường diễn biến phức tạp, có thể theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực, đúng đắn hoặc sai lầm, tiến bộ hoặc lạc hậu, vì vậy nó có thê có tác dụng giáo dục hoặc phản giáo dục. Định hướng DLXH phải đạt tới yêu cầu là sự phán xét đánh giá của dư luận dựa trên các chuẩn mực xã hội đúng đắn, tiến bộ, phù hợp với đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, với các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích trước mắt và lâu dài, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội.

Định hướng DLXH còn là quá trình hướng dẫn, thúc đẩy DLXH diễn ra theo mục đích đã xác định, làm cho sự diễn biến của DLXH là một quá trình tự giác chứ không phải là quá trình tự phát, mò mẫm. Xác định đúng phương hướng cho DLXH đồng thời tác động vào DLXH theo những nội dung và phương thức nhất định sẽ đạt tới mục đích hình thành DLXH tích cực đối với sự kiện, hiện tượng và quá trình xã hội mà dư luận phán xét.

1,3. Nội dung định hướng dư luận xã hội

Định hướng dư luận xã hội là sự tác động của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội, các cơ quan truyền thông đến quá trình hình thành và biến đổi của DLXH nhằm xác lập ở công chúng nhận thức đúng về vấn đề, sự kiện, hiện tượng, có thái độ phù hợp và hành vi phát ngôn hợp lý. Nội dung định hướng DLXH có 3 vấn đề cơ bản sau:

Một lày hình thành ở công chúng nhận thức đúng đắn về sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội.

37

Nhận thức là một hiện tượng tâm lý giúp cho con người hiểu biết hiện thực khách quan, tạo cơ sở cho khả năng định hướng, tự điều khiển thái độ và hành vi ứng xử của con người trong những tình huống nhất định. Trong DLXH, do sự phản ánh các sự kiện, hiện tượng mang tính riêng của từng nhóm xã hội, nhận thức của họ chứa đựng cả chân lý và sai lầm. Vì vậy, hình thành nhận thức đúng đắn về sự kiện, hiện tượng là vấn đề mang tính quy luật, đồng thời phụ thuộc vào nhiều nhân tố chủ quan.

Hình thành nhận thức đúng về sự kiện, hiện tượng là quá trình tác động của chủ thể (Đảng và Nhà nước, các tổ chức xã hội) để đối tượng (cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân) phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan. Nội dung của sự hình thành nhận thức chung về sự kiện, hiện tượng thể hiện ở ba yêu cầu: Thứ nhất, công chúng nhận thức đúng đặc điểm, ý nghĩa, bản chât của sự kiện, hiện tượng đã xảy ra phù họp với lịch sử và logic biểu hiện của nó. Thứ hai, công chúng nhận thức đúng về sự kiện, hiện tượng đã xảy ra bằng thế giới quan duy vật biện chứng, bằng kinh nghiệm và phương pháp tư duy khoa học. Thứ ba, nhận thức của công chúng về sự kiện, hiện tượng phải trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chuấn mực giá trị truyền thống, các yêu cầu phát triển của tập thể và xã hội.

Hai là, hình thành ở công chúng thái độ phù hợp với sự kiện, hiện tượng.

Thái độ là đặc trung tâm lý xã hội có tính chủ thể cao, luôn gắn với nhu cầu, động cơ, mục đích của cá nhân và điều kiện xã hội, lịch sử cụ thể. Thái độ được hình thành trong quá trình con người hoạt động, giao tiếp và dựa trên cơ sở khái quát hóa nhận thức, cảm xúc, tình cảm về đối tượng, về một sự kiện, hiện tượng nhất định. Sự hình thành thái độ diễn ra bởi quá trình tích hợp những động cơ, mục đích cá nhân và sự giao tiếp, trao đổi quan điểm giữa các cá nhân, nhóm xã hội với nhau. Những quan điểm giống nhau được củng cố và trở thành cơ sở cho cách ứng xử chung. Còn nếu trong nhóm, cộng đồng tồn tại những quan điểm khác nhau thì sẽ diễn ra quá trình trao đổi, cọ sát, đấu tranh để loại bỏ quan điểm sai hoặc làm cho quan điểm ưu thế lấn át các quan điểm khác. Trên cơ sở đó diễn ra sự phán xét đánh giá, sự bày tỏ quan điểm, thái độ của nhóm hoặc cộng đồng đối với xã hội.

Ba là, hình thành hành vi phát ngôn hợp lý của công chúng đối với sự kiện, hiện tượng.

38

Hành vi phát ngôn là lời nói, ngôn ngữ, đối thoại diễn ra trong quá trình con người trao đổi với nhau về sự kiện, hiện tượng. Nó là mặt hiện thực của nhận thức, cảm xúc, tình cảm của chủ thể đối với sự kiện, hiện tượng. Hành vi phát ngôn hợp lý phải đảm bảo các yêu cầu sau:

Thứ nhất, thống nhất, thể hiện sự nhất trí cao với đường lối, quan điêm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các giá trị của truyền thống dân tộc, nhiệm vụ của tập thể và cộng đồng phải giải quyết.

Thứ hai, thể hiện sự thống nhất nhận thức, tình cảm, động cơ bên trong của công dân, bộc lộ thái độ đúng đắn, phù hợp với nội dung cần chuyển tải.

Thứ ba, phù hợp với các qui tắc và các chuẩn mực ngôn ngữ đã được thừa nhận trong xã hội và cộng đồng. Ngôn ngữ phải rõ ràng, chính xác, phô thông, dễ hiểu, tạo ra sức thuyết phục và ảnh hưởng, lôi cuốn nhiều nhóm xã hội, nhiều cộng đồng xã hội tham gia vào quá trình ngôn luận vì công lý và tiến bộ.

1.4. Các cấp độ định hướng dư luận xã hội

Định hướng dư luận xã hội sử dụng các nguồn thông tin chính thông tác động đến cá nhân, nhóm và cộng đồng xã hội làm thay đổi nhận thức, thái độ của họ, tạo ra sự nhất trí và đồng thuận trong việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đặt ra trước xã hội. Định hướng dư luận xã hội tác động ở ba cấp độ: cá nhân, nhân xã hội và cộng đồng.

- Định hướng ở cấp độ cả nhân: đó là việc sử dụng các phương pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục để tác động đến từng cá nhân nhằm thay đổi nhận thức, thái độ của cá nhân theo hướng có lợi cho tập thể, cộng đồng. Cá nhân vừa là chủ thể mang ý kiến, vừa là chủ thể nhận thức và phản ánh dư luận xã hội. Quan điểm, thái độ của cá nhân về các sự kiện, hiện tượng đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi ích mà sự kiện, hiện tượng mang đến cho họ. Mỗi cá nhân thường gắn mình với một nhóm xã hội nhất định và mang đặc trưng của nhóm xã hội đó. Xét trong quan hệ với một nhóm xã hội nhất định, một cá nhân vừa có những điểm chung của nhóm đó, vừa có điểm riêng biệt, đặc trưng của nhóm xã hội khác. Đồng thời từng cá nhân cũng có những đặc trưng riêng có của mình. Trong định hướng dư luận xã hội ở cấp độ cá nhân cần đặc biệt lưu ý đến những đặc điểm riêng về tâm lý của từng cá nhân.

39

- Định hướng ở cắp độ nhóm xã hội. trong xã hội, các cá nhân luôn găn với một nhóm xã hội nhất định, chịu sự tác động bởi các qui tắc, chuẩn mực của nhóm và tuân thủ các quyết định của nhóm.

Để xác định một nhóm xã hội, người ta đưa ra hàng loạt các tiêu chí. Mỗi ngành khoa học khác nhau đều dựa trên những đặc trưng cơ bản, tính bền vững và tính tương đối đồng nhất của các cá nhân để xác định những nhóm xã hội khác nhau.

Khi định hướng dư luận xã hội ở cấp độ nhóm thì việc sử dụng vai trò cá nhân của người có uy tín, có địa vị cao trong nhóm là rất quan trọng. Người đứng đầu tổ chức, thủ trưởng cơ quan, thủ lĩnh nhóm xã hội thường có vai trò định hướng rất rõ đối với ý kiến của các thành viên thuộc tổ chức, hay nhóm xã hội của mình. Vì vậy, cung cấp cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị, thủ lĩnh nhóm xã hội thật đầy đủ, kịp thời, chính xác những thông tin chính thức và có định hướng là rất quan trọng khi thực hiện định hướng dư luận xã hội thông qua vai trò của họ.

Những người trong cùng một nhóm thường suy nghĩ và hành động trong sự so sánh, đối chiếu với suy nghĩ và hành động của những người xung quanh, của những người trong cùng một nhóm nhằm đạt được sự “ăn khớp” hay sự đồng thuận, chia sẻ, cảm thông của người xung quanh. Vì vậy, có thê định hướng dư luận nhóm thông qua việc tác động lên các chuẩn mực nhóm, tác động vào ý thức trách nhiệm của cá nhân trong thực hiện, tuân thủ các chuân mực nhóm.

- Định hướng ở cấp độ cộng đồng (xã hội)

Định hướng cộng đồng có phạm vi tác động rộng hơn định hướng nhóm xã hội, là hoạt động định hướng mang tính liên nhóm. Các thông điệp tham gia vào quá trình định hướng dư luận thường phản ánh lợi ích chung của cả cộng đồng. Phương tiện chủ yếu tham gia quá trình định hướng ở cấp độ cộng đông thường là các phương tiện truyền thông đại chúng, trong đó chủ yếu là các loại hình báo chí như báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử. Đây là những phương tiện truyền thông phổ biến, có sức lan tỏa nhanh, tác động trên phạm vi rộng lớn. Sự phát triển nhanh chóng, đa dạng các loại hình phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay đang tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc định hướng dư luận xã hội ở cấp độ cộng đồng. Tuy nhiên, việc bùng nổ các phương tiện truyền thông đại chúng, việc phát triển đa dạng của các mạng xã hội

40

cũng đang tạo ra những khó khăn nhất định trong việc quản lý thông tin, nhât là quản lý, giám sát các hoạt động của quá trình truyên thông. Nêu sản phâm truyền thông mang nội dung định hướng dư luận xã hội tốt sẽ tạo ra sự đồng thuận, nhât trí cao trong cộng đông. Ngược lại, nêu nội dung các sản phâm truyền thông không được định hướng rõ ràng thì chúng có thể phản tác dụng trong định hướng dư luận xã hội, thậm chí chúng có thể tạo nên tâm trạng hoài nghi, hoang mang, lo lắng trong cộng đồng. Vì vậy, quản lý, giám sát chặt chẽ và khoa học hoạt động truyền thông là vấn đề hết sức quan trọng và nhạy cảm trong định hướng dư luận xã hội hiện nay.

II. Một số phương pháp chủ yếu định hướng dư luận xã hội

2.1. Định hưởng dư luận xã hội thông qua uy tín người lãnh đạo, thủ lĩnh nhóm xã hội

Cơ sở tâm lý của việc sử dụng phương pháp này để định hướng dư luận xã hội là qui luật nhân cách hóa quan hệ: người ta chú ý đến ai nói chứ ít chú ý đến người đó nói cái gì. Cùng một nội dung phát ngôn nhưng nếu đó là phát ngôn của một giáo sư, một nhà khoa học hay một chính khách thì người ta tin hơn là phát ngôn của một sinh viên hay của một nhân viên bình thường. Trong một cơ quan, một tập thể, một nhóm xã hội, họ chính là người lãnh đạo, quản lý, nhà hoạt động xã hội có uy tín. Trong các tôn giáo, họ là các chức sắc tôn giáo (cha cố, nhà tu hành). Trong các dân tộc thiểu số miền núi họ là già làng, trưởng bản còn ở nông thôn họ có thể là các trưởng họ tộc, người cao tuổi...

Có thể nói, người lãnh đạo, quản lý, thủ trưởng cơ quan, thủ lĩnh các nhóm xã hội có vai trò to lớn trong việc hình thành và định hướng dư luận xã hội diễn ra tại cơ quan, đơn vị hoặc trong nhóm xã hội, trong tập thê mà họ là người lãnh đạo, quản lý, là thủ lĩnh. Vai trò, tác dụng định hướng dư luận xã hội tỷ lệ thuận với phẩm chất, năng lực và uy tín của họ. Nếu cán bộ lãnh đạo, quản lý có uy tín lớn, có trình độ cao, sự đánh giá của họ sẽ được công chúng tin cậy, noi theo và dư luận xã hội trong trường hợp đó phát triển theo hướng tích cực. Đặc biệt, khi định hướng dư luận xã hội về những vấn đề quan trọng, nhạy cảm cần cử những người có địa vị cao, có uy tín lớn phát ngôn để công chúng nhanh chóng có sự chấp nhận. Tuy nhiên, những người lãnh đạo, quản lý, thủ lĩnh các nhóm xã hội cần thấy rõ trách nhiệm và tác dụng định hướng dư luận xã hội của mình đối với cộng đồng để cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề cần phát ngôn khi thực hiện vai trò định hướng dư luận xã hội. Phương pháp này có tác dụng lớn trong hướng dẫn dư luận tập thể, dư luận nhóm. Để định hướng DLXH trên phạm vi

41

rộng lớn hơn có thê mời người có uy tín phát ngôn trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

2.2. Định hướng dư luận xã hội thông qua sinh hoạt, hội họp của các tochức

Các tô chức bao gồm tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, xã hội, kinh tế... và sinh hoạt, hội họp của chúng là một kênh truyền thông, một phương tiện tác động tư tưởng cho nên, chúng cũng là một kênh, một phương tiện có thể sử dụng để định hướng dư luận xã hội. Định hướng dư luận xã hội qua kênh này có ưu thế nổi trội là có thể định hướng dư luận một cách nhanh chóng và trực tiếp đến từng nhóm đối tượng sinh hoạt trong cùng một tổ chức. Bởi lẽ trong xã hội, nhất là trong xã hội xã hội chủ nghĩa mỗi người đều sinh hoạt trong một tổ chức hoặc đồng thời sinh hoạt trong nhiều tổ chức.

Để định hướng dư luận xã hội kịp thời, trực tiếp, trong sinh hoạt, hội họp của các tổ chức cần thực hiện tốt quá trình mang tính hai chiều sau:

- Truyền đạt, cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, những thông tin chính thức, chính thống, những thông tin đã được chọn lọc kỹ càng.

- Đấu tranh khắc phục những quan điểm, tư tưởng, ý kiến lệch lạc, bác bỏ các tin đồn nhảm, các luận điểm phản tuyên truyền, sai trái, xuyên tạc,...

Vai trò định hướng DLXH thông qua sinh hoạt, hội họp của các tổ chức, các thiết chế xã hội là rất lớn, vì vậy củng cố, tăng cường, thường xuyên xây dựng, kiện toàn các tổ chức trong sạch, vững mạnh và nâng cao chất lượng sinh hoạt, hội họp của các tổ chức, các thiết chế xã hội là cách chủ động, tích cực trong định hướng DLXH.

2.3. Định hưởng DLXH thông qua hoạt động của các phương tiện truyền thông đại chúng, trước hết là báo chí

DLXH hình thành qua các kênh truyền thông, giao tiếp xã hội. Tuy nhiên, nếu thông qua giao tiếp trực tiếp, nhất là cơ chế truyền miệng, DLXH hình thành rất chậm. Ngoài ra, qua kênh trực tiếp, dư luận có trạng thái phân tán cao, cục bộ do thông tin hay bị sai lệch, khó hình thành dư luận nhóm lớn, dư luận rộng rãi trên quy mô toàn xã hội. Giao tiếp qua các phương tiện truyền thông tin đại chúng là giao tiếp của số đông, hướng đến số đông quần chúng. Kênh này có khả năng phát tán thông tin nhanh, trên diện rộng, tức thời, đồng thời cùng lúc tới số đông công chúng.

42

Trong định hướng DLXH, các phương tiện truyền thông đại chúng có những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, góp phần tăng cường dân chủ hóa các mặt của đời sông xã hội, trong đó có dân chủ hóa thông tin, tạo điều kiện để nhân dân được biết, được bàn, dược kiểm tra những vấn đề có liên quan đến lợi ích chính đáng của họ.

Thứ hai, hình thành, tạo lập DLXH tích cực về một vấn đề, sự kiện nào đó nhằm thúc đẩy hay hạn chế sự phát triển của sự kiện, hiện tượng đó.

Thứ ba, thông tin cho nhân dân về tình trạng của DLXH đối với các vấn đề đang tạo nên mối quan tâm chung của toàn xã hội, nhất là những vấn đề có tính cấp

Thứ tư, xây dựng lòng tin, thế giới quan khoa học và các chuấn mực giá trị đúng đắn, tiến bộ, nhân văn.

Thứ năm, điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội, tăng cường tính tích cực chính trị - xã hội của quần chúng.

Với các chức năng và ưu thế vốn có của mình các phương tiện truyền thông đại chúng, chủ yếu là báo chí, tham gia định hướng DLXH với các phương thức sau:

- Báo chí tham gia xã hội hóa sự kiện, hiện tượng để đông đảo mọi tầng lớp xã hội biết và bày tỏ thái độ.

- Báo chí cung cấp thông tin đa dạng, nhiều chiều, sâu sắc giúp quá trình đánh giá của công chúng đối với sự kiện, hiện tượng mang tính khách quan nhiều hơn.

- Thông qua quá trình luận bàn về sự kiện, hiện tượng, báo chí tham gia vào quá trình hình thành quan điểm, cách đánh giá đối với sự kiện hiện tượng.

- Báo chí phân tích, làm sáng tỏ mối liên hệ của sự kiện, hiện tượng với lợi ích của cộng đồng, quốc gia hay nhóm xã hội. Nhờ việc làm sáng tỏ mối quan hệ này mà công chúng bày tỏ thái độ ủng hộ hay phản đối, đồng tình hay không đồng tình đối với sự kiện, hiện tượng diễn ra.

- Bằng việc thông tin về sự kiện, hiện tượng trên quy mô rộng lớn, báo chí góp phần khơi nguồn, tạo lập DLXH. Tuy nhiên, khi tham gia tạo lập DLXH thông qua việc cung cấp thông tin về sự kiện, hiện tượng, báo chí phải lựa chọn thông tin, phải đứng trên lợi ích giai cấp, dân tộc, quốc gia để lựa chọn. Điều đó

43

có nghĩa là ngay từ khi thực hiện chức năng phản ánh, báo chí đã tham gia vào việc định hướng DLXH.

- Việc phản ánh tính đa dạng, phong phú, nhiều chiều của dư luận, báo chí góp phần tạo nên ở công chúng cách đánh giá vừa khách quan, vừa dân chủ, tạo nên tính tự giác cho quá trình tiếp nhận thông tin và hình thành DLXH tích cực, tránh võ đoán, gò ép.

Theo qui luật uy tín như đã nêu trên, khi sử dụng báo chí để định hướng DLXH, phải mời được những nhà báo, những tờ báo có uy tín tham gia, những người lãnh đạo, quản lý, những thủ lĩnh dư luận phát ngôn trên báo chí.

2.4. Định hướng dư luận xã hội bằng dư luận

Trong các đám đông quần chúng, thường xuất hiện một nhóm nhỏ có vai trò tiến tiến, có uy tín cao và có ảnh hưởng nhất định đến nhóm lớn hơn. Trong công tác định hướng DLXH, có thể sử dụng dư luận tích cực, đúng đắn của nhóm nhỏ tiên tiến này để định hướng dư luận của nhóm lớn hơn.

Muốn sử dụng DLXH để định hướng DLXH, trước hết phải huy động các kênh, các phương tiện truyền thông tạo lập dư luận tích cực. Sau đó phản ánh DLXH trên các kênh, các phương tiện truyền thông, đồng thời sử dụng dư luận đó để định hướng dư luận của các nhóm xã hội khác, của toàn xã hội.

2.5. Định hướng DLXH bằng cách tác động vào các yếu tố cỏ ảnh hưởng đến quá trình hình thành, thay đồi quan điểm, thái độ của con người

- Tác động đến yếu tố nhận thức của chủ thể dư luận bằng cách cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời.

Thông tin, sự hiểu biết của các chủ thể quyết định việc đánh giá đúng hay sai, sâu hay nông, khách quan hay chủ quan, thiên lệch hay chính xác về sự kiện, hiện tượng, nói cách khác quyết định tính chính xác, khách quan của DLXH hay của tình hỉnh tư tưởng trong các tầng lớp nhân dân.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đối với sự kiện, hiện tượng đơn giản thì dư luận của đa số thường là tích cực, khách quan. Còn đối với sự kiện, hiện tượng phức tạp, đa diện, đa chiều cạnh, lại mới xuất hiện lần đầu thì dư luận của những người có nhiều thông tin, có hiểu biết thường là tích cực, có tính tư tưởng cao, khách quan, chân thực. Trong trường hợp này ý kiến, những ý kiến, dư luận tích cực không phải là ý kiến, dư luận của đa số. Có thể nói, nội dung, tính chất của DLXH được quyết định bởi trình độ hiểu biết, nền tảng văn hóa, tri thức của chủ

44

thể DLXH. Vì vậy, trong việc nắm bắt và định hướng DLXH cần tham khảo, chú ý sử dụng ý kiến của tầng lớp có trình độ học vấn, trình độ văn hóa cao, có thâm niên công tác và “bề dày” kinh nghiệm, đặc biệt cần tham khảo, sử dụng ý kiến, dư luận của “giới tinh hoa”.

- Đứng trên quan điểm lợi ích, giải thích làm rõ các mối quan hệ về lợi ích để định hướng DLXH.

Thái độ phán xét đánh giá của con người về sự kiện, hiện tượng phụ thuộc vào mối quan hệ về lợi ích của họ đối với sự kiện, hiện tượng đó. Người ta đồng tình với những sự kiện, hiện tượng phù hợp với lợi ích của họ, ủng hộ những người mang lại lợi ích cho họ. Ngược lại, người ta phản đối, lên án những sự kiện, hiện tượng, con người đi ngược lại lợi ích của mình.

Cho nên, trong định hướng DLXH, cần phải làm rõ các lợi ích chính đáng của công chúng và giải thích rõ các quan hệ lợi ích của họ thông qua đó đê kích thích, lôi kéo họ bày tỏ quan điểm, thái độ tích cực.

Cần lưu ý rằng những quan điểm, thái độ cực đoan, phản ánh lợi ích cục bộ, cực đoan thường khó thay đổi hơn các quan điểm, thái độ ít cực đoan. Trong trường hợp ở công chúng xuất hiện quan điểm cực đoan, phải tăng cường tiếp xúc cá nhân, đối thoại trực tiếp, chân tình, tác động bằng tình cảm thì dễ có sự thay đổi quan điểm, thái độ hơn.

2.6. Tăng cường giáo dục tư tưởng cho công chúng là cách chủ động nhất, tích cực nhất để định hưởng dư luận xã hội

Tác động to lớn, ý nghĩa tích cực và chủ động của phương pháp này là ở chỗ, nhờ giáo dục tư tưởng mà ở công chúng hình thành thế giới quan duy vật biện chứng, phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan cách mạng, có các chuẩn mực và định hướng giá trị đúng đắn để làm cơ sở, căn cứ cho việc đánh giá phán xét. Đồng thời, giáo dục tư tưởng cũng góp phần hình thành, nâng cao trình độ tư duy, trình độ nhận thức chính trị sắc bén, chính xác để công chúng vận dụng trong việc xem xét, đưa ra những nhận định, những ý kiến khách quan, khoa học về sự kiện, hiện tượng, vấn đề.

Giáo dục tư tưởng còn hình thành cho công chúng niềm tin khoa học và bản lĩnh giúp họ kiên định lập trường, quan điểm, không hoang mang, giao động trước các tin đồn nhảm, kích động, các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, biết đứng vững trên lập trường, quan điểm của Đảng và lợi ích của nhân dân, dân tộc, giai cấp để thể hiện ý kiến đối với sự kiện, hiện tượng, vấn đề.

45

III. Nâng cao hiệu quả định hướng dư luận xã hội

3.1, Những thuận lợi và khó khăn của việc định hướng dư luận xã hội

3.1.1. Thuận lợi

Công tác định hướng DLXH ở nước ta hiện nay đang có nhiều thuận lợi căn bản, đó là:

- Sự nghiệp đổi mới đã mang lại nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước. Những thành tựu đó tạo ra cho người dân điều kiện, cơ hội tham gia ngày càng nhiều hơn vào đời sống chính trị đất nước, tính tích cực chính trị - xã hội của nhân dân ngày càng cao. Nhân dân ngày càng được biết, được bàn bạc công khai những vấn đề liên quan đến nhu cầu, lợi ích của họ.

- Hệ thống chính trị của đất nước ngày càng phát triển, hoàn thiện. Các tô chức chính trị - xã hội ngày càng phát huy vai trò to lớn trong đời sống xã hội, uy tín của các tổ chức này về cơ bản ngày càng tăng trước nhân dân. Các tô chức chính trị - xã hội thực sự trở thành một kênh quan trọng để nhân dân bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, ý kiến, quan điểm của mình.

- Dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội ngày càng được nâng cao. Nhân dân ngày càng được tham gia rộng rãi hơn vào quá trình hình thành các quyết sách có liên quan đến nhu cầu, lợi ích của họ. Trình độ văn hóa nhất là văn hóa chính trị của nhân dân được nâng cao, các ý kiến, quan điểm, sự đánh giá, phán xét của nhân dân ngày càng sâu và chất lượng hơn.

- Các phương tiện truyền thông, nhất là các phương tiện truyền thông đại chúng ngày càng phát triển và đưa thông tin đến hầu hết các đối tượng công chúng kể cả công chúng ở vùng sâu, vùng xa. Thông tin do các phương tiện truyền thông mang đến cho công chúng ngày càng đa dạng, phong phú, cập nhật và mang tính khách quan.

- Sự quan tâm này càng tăng của Đảng và Nhà nước đối với việc lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý công tác DLXH nói chung và công tác định hướng DLXH nói riêng. Trong nhiều văn bản, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng vai trò của DLXH, coi việc định hướng DLXH là một nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng, nhất là của công tác báo chí - truyền thông.

3.1.2. Khó khăn

46

- Sự phát triển của kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tê, nhiêu hình thức sở hữu làm cho cơ cấu xã hội ngày càng đa dạng. Sự phân hóa vê giai tầng xã hội, về thu nhập và mức sống ngày càng gia tăng, theo đó sự phân hóa vê lợi ích, sự đa dạng về tư tưởng, quan điểm cũng ngày một phát triển hơn. Sự khác biệt trong nhận thức, nhất là trong đánh giá phán xét về các sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội của các giai tầng, các nhóm xã hội, các tổ chức xã hội sẽ có xu hướng gia tăng và phát triển như một xu hướng tất yếu.

- Trong điều kiện bùng nổ thông tin, công chúng tiếp xúc với nhiều luồng thông tin đa dạng, đa chiều. Trong số đó có một số luồng thông tin trái chiều, thất thiệt từ các thế lực thù địch nhưng một bộ phận không nhỏ công chúng chưa được “miễn dịch” trước sự tấn công của chúng, chưa đủ bản lĩnh để chiến thắng sự cám dỗ, chưa có nhãn quan sáng suốt để đánh giá sự đúng - sai, thật - giả vôn có trong các luồng thông tin ấy.

- Do chưa được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin, tuyên truyền chưa đủ năng lực định hướng thông tin. Đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, định hướng DLXH chưa đủ trình độ nghiên cứu, nắm bắt, phân tích, dự báo xu hướng vận động của DLXH, thiếu khả năng, đặc biệt là khả năng phối hợp với những người làm công tác truyền thông trong việc định hướng DLXH.

3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả định hướng dư luận xãhội

3.2.1. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác định hướng dư luận xã hội

Đảng lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội cho nên Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng và công tác định hướng DLXH - một nội dung quan trọng của công tác tư tưởng, công tác lãnh đạo và quản lý xã hội.

Định hướng DLXH trước hết và chủ yếu bằng việc cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời và có định hướng cho DLXH thông qua tất cả các phương tiện truyền thông, phương tiện công tác tư tưởng.

Để đảm bảo cho việc đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác định hướng DLXH cần quan tâm đến các vấn đề sau:

Thứ nhất, ỉãnh đạo, chỉ đạo phải kịp thời.

47

Sự kiện, hiện tượng là khách thể phán xét của DLXH, là đối tượng phản ánh của truyền thông thường xuất hiện, tồn tại trong một khoảng thời gian xác định. Trong khoảng thời gian đó DLXH cũng trải qua nhiều giai đoạn phát triển và không ngừng biến đổi, thậm chí có lúc biến đổi rất nhanh. Vì vậy, thông tin cung cấp để định hướng DLXH phải rất kịp thời. Nếu chậm trễ, các quyết định định hướng DLXH sẽ ít có tác dụng, thậm chí không có tác dụng vì thực trạng DLXH đã biến động khác thời điểm ra quyết định. Để các phương tiện truyền thông, trước hết là báo chí thông tin đầy đủ, chính xác về sự kiện, hiện tượng, các cấp ủy Đảng thông qua các cơ quan chuyên môn, cần sớm đưa ra quan điêm chỉ đạo chính thức để các phương tiện truyền thông có phương hướng thông tin thống nhất, kịp thời. Nếu lãnh đạo, chỉ đạo chậm, quan điểm chính thức, chính thống của cơ quan lãnh đạo thiếu kịp thời thì hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo sẽ hạn chế, theo đó hiệu quả định hướng DLXH cũng bị hạn chế.

Thứ hai, lãnh đạo, chỉ đạo phải rõ ràng, chính xác và có tỉnh thống nhấtcao

Để định hướng DLXH theo mục đích đặt ra, thông tin mà các phương tiện truyên thông cung câp phải rõ ràng, thê hiện công khai, nhât quán quan điêm, chính kiến. Đe có thông tin đạt yêu cầu đó, các cơ quan thông tin, tuyên truyên của Đảng rất cần nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, khoa học, chính xác, đặc biệt là phải có tính thống nhất, nhât quán cao từ phía các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm của Đảng. Nếu sự chỉ đạo thiếu thống nhất, diễn ra theo kiểu “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, các cơ quan truyền thông, nhất là truyền thông đại chúng rất khó khăn trong việc đưa tin và trong một số trường hợp buộc phải dừng việc thông tin, tác động định hướng DLXH sẽ giảm, thậm chí không có.

3.2.2. Tâng cường và nâng cao chắt lượng nghiên cứu, nắm bắt dư luậnxã hội

DLXH là hiện tượng xã hội có thể định hướng được nhưng định hướng DLXH là công việc khó khăn, phức tạp.

Đe có cơ sở cho việc xác định nội dung, lựa chọn phương pháp định hướng DLXH, phải có thông tin đầy đủ về thực trạng và xu hướng vận động của DLXH nghĩa là phải nghiên cứu về nó. Các nghiên cứu làm căn cứ cho việc định hướng DLXH phải hướng vào việc làm rõ bản chất, các tính qui luật và những nhân tố khách quan, chủ quan tác động, ảnh hưởng đến quá trình phát sinh, phát triển của các luồng dư luận khác nhau cũng như cơ sở khoa học để đánh giá,

48

phân tích một luông dư luận nào đó. Việc nghiên cứu, năm băt DLXH cân tuân thủ nghiêm ngặt các công đoạn, các khâu, các yêu cầu kỹ thuật và phương pháp nghiên cứu, đảm bảo kết quả nghiên cứu mang tính khách quan, chân thực.

Các cuộc điều tra phục vụ công tác định hướng DLXH cần được tổ chức theo các định hướng chủ yếu sau:

- Các cuộc điều tra thăm dò dư luận do các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà nước tiến hành định kỳ nhằm giúp các cơ quan truyền thông nắm bắt DLXH về những vấn đề, sự kiện thời sự, nóng bỏng trong từng giai đoạn. Kết quả nghiên cứu, nắm bắt DLXH theo hướng này giúp các cơ quan truyền thông những căn cứ cho việc xây dựng chiến lược, kế hoạch thông tin- truyền thông. Đẻ chủ đề nghiên cứu phục vụ đắc lực công tác định hướng DLXH của cơ quan truyền thông trước khi tiến hành điều tra, cơ quan chức năng có thể trưng cầu, tham khảo ý kiến của cơ quan truyền thông về nội dung nghiên cứu.

- Các cuộc điều tra xuất phát từ yêu cầu của cơ quan truyền thông.Theo hướng nghiên cứu này, một cơ quan truyền thông có thể độc lập nghiên cứu hoặc các cơ quan truyền thông liên kết, phối họp với nhau cùng nghiên cứu hay “đặt hàng” các cơ quan chuyên nghiên cứu DLXH thực hiện.

Ngoài hai hướng nghiên cứu, nắm bắt DLXH nêu trên, tất cả các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cần chủ động, kịp thời nắm bắt DLXH về các sự kiện, hiện tượng mang tính thời sự, liên quan đến lợi ích của cơ quan, tô chức mình và lợi ích của quốc gia- dân tộc. Những thông tin DLXH được nắm bắt qua kênh này là cơ sở rất quan trọng để định hướng DLXH trong nội bộ cơ quan, tồ chức đó và định hướng DLXH trên qui mô toàn xã hội.

Chất lượng nghiên cứu, nắm bắt DLXH là vấn đề rất quan trọng. Nó là căn cứ của việc định hướng DLXH, là yếu tố quyết định chất lượng, hiệu quả định hướng DLXH. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng nghiên cứu, nắm bắt DLXH còn nhiều hạn chế do trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác DLXH cũng như công tác tổ chức, quản lý, chỉ đạo hoạt động nghiên cứu DLXH còn nhiều bất cập. Các phương pháp nghiên cứu, nắm bắt DLXH mà bộ phận nghiên cứu DLXH tại Ban Tuyên giáo các địa phương, nhất là ở cấp huyện và cấp cơ sở sử dụng thường là các phương pháp truyền thống. Các phương pháp hiện đại, phương pháp xã hội học như quan sát, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm tập trung, phương pháp liên tưởng, phương pháp bổ khuyết, phương pháp người thứ ba và các phương pháp phân tích nội dung, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi... ít

49

được sử dụng. Lý do của tình trạng này có nhiều nhưng chủ yếu là ở kinh phí và năng lực cán bộ. Do kinh phí được cấp không có hoặc rất ít ỏi, sự hiểu biết về phương pháp hiện đại không nhiều, cho nên ở cấp cơ sở và cấp trên cơ sở, cán bộ làm công tác DLXH, cộng tác viên DLXH thường sử dụng phương pháp truyền thống đề thu thập thông tin. Mặc dù phương pháp này có ưu điềm là nhanh, ít tốn kém nhưng hạn chế là thông tin thiếu tính khách quan và không được định lượng. Để cán bộ làm công tác DLXH sử dụng đa dạng các phương pháp, biết phối hợp nhiều loại phương pháp trong một cuộc nghiên cứu điều tra cần thiết phải bồi dưỡng các năng lực nghiên cứu, nắm bắt DLXH bằng các phương pháp xã hội học hiện đại.

3.2.3. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng năng ỉực định hướng dư luận xã hội cho cán bộ truyền thông và cán bộ làm công tác dư luận xã hội

Trong việc định hướng DLXH, vấn đề năng lực của cán bộ làm công tác truyền thông, cán bộ làm công tác DLXH, các cộng tác viên DLXH và cán bộ lãnh đạo, quản lý, những thủ lĩnh dư luận đóng vai trò hêt sức quan trọng. Đê mỗi cán bộ truyền thông, cán bộ công tác DLXH nhận thức đúng đắn, sâu sắc trách nhiệm định hướng DLXH của mình, có kiến thức và kỹ năng định hướng DLXH tốt nhất, hợp lý nhất, họ phải thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng trong các nhà trường và trong thực tiễn nghề nghiệp của mình.

Những kiến thức và kỹ năng công tác DLXH nói chung và kỹ năng định hướng DLXH nói riêng cần được đào tạo, bồi dưỡng cho cộng tác viên DLXH và cán bộ truyền thông bao gồm: kiến thức lý luận và nghiệp vụ công tác tư tưởng, kiên thức vê tâm lý học xã hội, xã hội học, khoa học chính trị, những hiêu biết cơ bản và chuyên sâu về quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, họ cần được đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức lý luận về DLXH, các kỹ năng điều tra, nghiên cứu, nắm bắt DLXH, kỹ năng tổng hợp, phân tích, dự báo DLXH. Biết xây dựng kế hoạch và am hiểu sâu sắc các bước tiến hành một cuộc điều tra DLXH...

Hình thức đào tạo, bồi dưỡng có thể là: đào tạo dài hạn các ngành xã hội học, tâm lý học, chính trị học - công tác tư tưởng, hoặc có thể tham gia các khóa bồi dưỡng ngắn hạn, bồi dưỡng chuyên đề, bồi dưỡng nâng cao...

Để các chương trình đào tạo, bồi dưỡng thiết thực, đáp ứng nhu cầu công tác cần tổ chức các cuộc thăm dò về nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng. Tổ chức các buổi tọa đàm, giao lưu, rút kinh nghiệm về nghiệp vụ của các cộng tác viên

50

DLXH là một hình thức bồi dưỡng vì qua đây các cộng tác viên có thê trao đôi, chia sẻ kinh nghiệm công tác của mình. Đông thời cũng là một kênh đê phát hiện, nắm bắt nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng các cộng tác viên DLXH hiện nay.

3.2.4. Phối hợp đồng bộ, chặt chẽ các phương tiện truyền thông trong định hướng DLXH, phát huy vai trò tham rrnm, chỉ đạo, kiểm tra của Ban Tuyên giảo các cấp trong phổi hợp các ỉực lượng, các phương tiện định hướng DLXH

Tham gia định hướng DLXH là tất cả các lực lượng, phương tiện truyền thông bao gồm các phương tiện truyền thông trực tiếp (truyền thông cá nhân, truyền thông nhóm) và truyền thông gián tiếp (truyền thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng). Trong các phương tiện truyền thông trên đây, vai trò to lớn thuộc về các phương tiện truyền thông đại chúng, tuyên truyền miệng và hoạt động của báo cáo viên cũng như vai trò của các thủ lĩnh dư luận (những người lãnh đạo, quản lý, những người có uy tín trong cộng đồng).

Do có nhiều cá nhân, nhiều tổ chức, nhiều lực lượng, nhiều phương tiện cùng tham gia định hướng DLXH nên việc phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, thông suốt là một nguyên tắc bắt buộc và là giải pháp rất quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả định hướng DLXH. Trong quá trình phối hợp, mỗi phương tiện căn cứ tôn chỉ mục đích, chức năng, nhiệm vụ của mình phải kịp thời đưa những thông tin khách quan, chân thực đến công chúng. Tránh việc đưa các thông tin sai phạm về chính trị - tư tưởng, thiếu khách quan hoặc những thông tin chưa được kiểm chứng gây hoang mang trong dư luận.

Đối với các sự kiện, vấn đề nhạy cảm, DLXH lan tỏa nhanh, tác động mạnh mẽ, sâu sắc trong đời sống xã hội, nếu thiếu sự phối hợp, thống nhất, chia sẻ quan điểm vì lợi ích chung sẽ dẫn đến hỗn loạn, mất định hướng, công chúng hoang mang vì không biết tin vào ai, chủ thể, phương tiện truyền thông nào.

Ban Tuyên giáo các cấp có vai trò quan trọng trong việc tham mưu cho cấp ủy cùng cấp chỉ đạo, kiểm tra công tác định hướng DLXH. Trong việc phối hợp các kênh truyền thông để định hướng DLXH, Ban Tuyên giáo các cấp cần phát huy vai trò tham mưu cho cấp ủy chủ động xây dựng chủ trương định hướng DLXH về những sự kiện, hiện tượng phức tạp, nhạy cảm, Đồng thời cần nắm lấy và thể hiện vai trò của mình trong hoạt động chỉ đạo sự phối hợp này.

3.2.5. Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, hạn chế nhận thức sai lệch và loại bỏ các tin đồn nhảm, kích động, chia rẽ

51

Định hướng DLXH là để hình thành DLXH đúng đắn, tích cực, có lợi cho việc ổn định và phát triển xã hội. Điều đó tất yếu đòi hỏi phải đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, khẳng định quan điểm đúng đắn, chính thức của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời cần minh bạch hóa các nguồn thông tin, phân biệt rõ DLXH và tin đồn, loại bỏ tin đồn thất thiệt, các luận điệu kích động, xuyên tạc, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. ủng hộ các luồng DLXH đúng đắn, tích cực.

Trong các ý kiến, quan điểm của DLXH có nhiều ý kiến, quan điêm đúng đắn, khách quan nhưng cũng có nhiều luồng ý kiến, quan điểm sai lầm, chủ quan, thiên lệch mà những ý kiến, quan điểm này có nguyên nhân từ việc thiếu thông tin hoặc có thông tin nhưng bị bóp méo, bị biến dạng bởi lợi ích cá nhân cực đoan hoặc “lợi ích nhóm” cục bộ. Trong điều kiện ấy cần cung cấp thông tin đầy đủ, khách quan và quan trọng hơn là phải phân tích rõ các mối quan hệ về lợi ích để trên cơ sở đó hạn chế, chấn chỉnh các nhận thức sai lệch, tạo môi trường cho DLXH đúng đắn, lành mạnh phát triển và phát huy tác dụng trong đời sống xã hội./.

52

*

Chuyên đề 4

XÂY DựNG QUY CHÉ HOẠT ĐỘNG CỘNG TÁC VIÊN DƯ LUẬN

XÃ HỘI THEO TINH THẰN KÊT LUẬN 100-KL/TW CỦA BAN BÍ THƯ

Kết luận số 100-KL/TW, ngày 18 tháng 8 năm 2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc “đổi mới và nâng cao chất lượng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội” đã chỉ rõ: “Điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội nhằm nắm bắt, tập hợp kịp thời, sát thực tâm tư, tình cảm, ý chí, nguyện vọng của Nhân dân về những vẩn đề, sự kiện có tỉnh thời sự trong nước và thế giới, đặc biệt là đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; giúp các cơ quan lãnh đạo, quản lý có thêm thông tin tham khảo trong quá trình xảy dựng, hoàn thiện và tố chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước Đẻ thực hiện tốt nhiệm vụ nắm bắt kịp thời, sát thực tâm tư, tình cảm, ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, cần phải xây dựng được đội ngũ cộng tác viên dư luận xã hội trong hệ thống tuyên giáo có đủ các phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Một trong những biện pháp để xây dựng và phát huy hiệu quả đội ngũ cộng tác viên cần được quan tâm hiện nay là xây dựng và thực hiện tốt quy chế hoạt động cộng tác viên dư luận xã hội.

Quy chế là hệ thống các điều khoản được quy định thành văn bản về chế độ hoạt động thống nhất của tổ chức, cơ quan, đơn vị; do tổ chức, cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nhằm tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức và chất lượng công tác của tô chức, cơ quan, đơn vị đó. Đây là văn bản mang tính nguyên tắc với những điều khoản quy định thành chế độ để mọi người chấp hành, nhằm hoàn thành những công việc theo chức trách nhiệm vụ được giao.

Quy chế hoạt động cộng tác viên dư luận xã hội là văn bản cụ thê hóa những nguyên tắc, quy định của cơ quan chủ quản cấp trên, thành nguyên tắc, chế độ công tác, các mối quan hệ và cách thức giải quyết các mối quan hệ đó phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ, điều kiện cụ thể của mạng lưới cộng tác viên các cấp. Quy chế bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan chủ quản (như Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương; Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, úy ban Trung ương Mặt

53

trận tổ quốc Việt Nam, Trung ương các tồ chức chính trị - xã hội) và cộng tác viên dư luận xã hội được thống nhất thực hiện trong toàn bộ hoặc một lĩnh vực công tác dư luận xã hội; phát huy được vai trò lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của ban tuyên giáo các cấp.

Thực tế hiện nay, ở nhiều nơi việc xây dựng và thực hiện quy chế hoạt động cộng tác viên dư luận xã hội vẫn còn những điểm làm hạn chế tác dụng của văn bản này như: Chưa thống nhất về nguyên tắc xây dựng quy chế, về tên gọi, cấu trúc nội dung, quy trình, thủ tục ban hành, về hệ thống các yêu câu cân đạt được; việc sử dụng từ ngữ đôi khi chưa chuẩn xác; chưa tính đến đầy đủ các môi quan hệ; có quy chế với nội dung chung chung mô phỏng quy chế cấp trên hoặc xây dựng để có chứ không sử dụng; có nơi, việc xây dựng không đi đôi với thực hiện quy chế, chưa thực sự lấy quy chế làm căn cứ, cơ sở để giải quyết công việc..., nên quy chế mang tính hình thức... Khấc phục những hạn chế trên và để quy chế hoạt động cộng tác viên dư luận xã hội thực sự phát huy tác dụng, một trong những nội dung cần thực hiện, đó là:

- Cần có sự thống nhất và quy định rõ về quy trình, thủ tục, cấu trúc, nội dung, yêu cầu của quy chế để ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc trung ương có cơ sở để rà soát, bổ sung, hoàn thiện.

Việc xây dựng quy chế cần bảo đảm tính khoa học, tính thực tiễn và tính cụ thể và bán sát yêu cầu đổi mới nâng cao chất lượng công tác dư luận xã hội theo tinh thần Kết luận 100 của Ban Bí thư, đây là những yêu cầu rất quan trọng đòi hỏi cấp ủy cơ sở cần nghiên cứu kỹ những căn cứ xây dựng quy chế. Đó là những nguyên tắc, quy định của Trung ương, của cấp ủy cấp trên về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn công tác của ban tuyên giáo; các hướng dẫn của Ban tổ chức Trung ương, Văn phòng Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Tài chính...; kế hoạch, chương trình công tác trong nhiệm kỳ, nhiệm vụ lãnh đạo, đặc điểm của cơ quan, đơn vị, chức trách của cộng tác viên dư luận xã hội , từ đó xây dựng dự thảo quy chế. Các đồng chí lãnh đạo cấp ủy, ban tuyên giáo và các thành viên liên quan nghiên cứu, đóng góp; tập thể cấp ủy lãnh đạo ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc trung ương hoàn thiện, biêu quyết thông qua; cấp ủy cấp trên trực tiếp thẩm định và phê chuẩn, sau đó, cấp ủy quán triệt và tồ chức thực hiện.

Soạn thảo và ban hành quy chế là việc làm khoa học, không được chiếu lệ, hình thức. Các điều khoản trong quy chế phải được nghiên cứu cụ thể, cân nhắc nhiều mặt; phải thảo luận kỹ, dân chủ và cần đạt được tính thống nhất cao

54

trước khi ban hành. Tính cụ thể được thể hiện rõ khi nhìn vào quy chế, những người có trách nhiệm thực hiện có thể hiểu chính xác công việc, chức trách, phương thức tiến hành công tác của mình.

Yêu cầu, nội dung quy chế phải quán triệt được các quy định của cấp trên; khẳng định rõ phạm vi, trách nhiệm, quyền hạn của từng cộng tác viên ở cương vị, chức trách được giao; khẳng định mối quan hệ, phương thức làm việc giữa ban tuyên giáo cấp trên và ban tuyên giáo cấp dưới; giữa ban tuyên giáo và cá nhân; giữa các cộng tác viên với các cơ quan, tổ chức khác. Từ ngữ sử dụng trong quy chế phải chuẩn xác, rõ ràng, dễ hiểu, không dùng từ đa nghĩa để tránh hiểu nhầm, hiểu sai, không thống nhất trong quá trình thực hiện.

Sau khi ban hành quy chế phải tổ chức quán triệt, học tập quy chế, kiên quyết thực hiện nghiêm túc quy chế đã ban hành.

Khi quy chế đã được ban hành, đó là cơ sở pháp lý trực tiếp cho hoạt động lãnh đạo của ban tuyên giáo các cấp đối với coongjt ác viên dư luận xã hội, đồng thời, là căn cứ để đánh giá trách nhiệm, hiệu quả công tác của cộng tác viên dư luận xã hội. Do vậy, mọi hoạt động của cộng tác viên dư luận xã hội phải dựa trên những điều đã được xác định trong quy chế. Đe đạt được điều đó, đòi hỏi từng đồng chí phụ trách công tác dư luận xã hội, cộng tác viên dư luận xã hội phải nắm chắc nội dung quy chế.

Cần làm tốt công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiên quy chế. Kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng thiếu tôn trọng, thiếu trách nhiệm hay tùy tiện, giản đơn trong thực hiện và kiên quyết xử lý các hiện tượng vi phạm quy chế.

Thường xuyên rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế: Việc xây dựng và thực hiện quy chế là vấn đề vừa qen thuộc, vừa luôn luôn mới. Ở những địa phương, đơn vị mà mọi hoạt động luôn luôn diễn ra bính thường, các mối quan hệ trong giữa cơ quan chủ quản và cộng tác viên dư luận xã hội diễn ra cơ bản ổn thỏa, công việc thông suốt, thì ở đó thường không tích cực đặt vấn đề phải bổ sung, hoàn thiên quy chế làm việc. Thực tiễn cho thấy, mọi quy định mang tính lịch sử, có thể phù hợp ở giai đoạn này nhưng có thể không còn phù hợp ở giai đoạn sau. Do vậy, trong quá trình thực hiện quy chế, những điều không phù hợp sẽ bộc lộ cần được phát hiện và điều chỉnh kịp thời; hoặc khi có những văn bản mới liên quan cần được cụ thể hóa, bổ sung. Vì vậy, Ban Tuyên giáo Trung ương cần có quy chế mẫu, hướng dẫn thực hiện thống nhất và định kỳ để Ban

55

Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, Uy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Trung ương các to chức chính trị - xã hội sơ, tổng kết về nội dung này nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng và thực hiện quy chế hoạt động cộng tác viên dư luận xã hội.

Thông thường cấu trúc của quy chế phải đảm bảo thể thức của một văn bản với những quy định mang tính nguyên tắc và các chương, điều cụ thể như sau :

1 - Quyết định ban hành quy chế: nêu rõ những căn cứ xây dựng nội dung quy chế; cơ quan ban hành quy chế; các tập thể, ca nhân chịu trách nhiệm thi hành.

2 - Nội dung qui chế:

- Xác định cộng tác viên dư luận xã hội là ai?

Cộng tác viên dư luận xã hội phải đại diện cho các tầng lớp nhân dân. Do đó, họ có thể là những cán bộ, đảng viên, hội viên đang làm việc, sinh hoạt tại các địa phương, tổ chức, cơ quan, đơn vị hoặc các cá nhân đại diện cho các giai tầng trong xã hội được ban tuyên giáo lựa chọn và được ký hợp đồng làm cộng tác viên dư luận xã hội theo thỏa thuận với cơ quan chủ quản.

- Tiêu chuẩn lựa chọn cộng tác viên dư luận xã hội

Cần phát hiện và tuyển dụng những người có đủ phẩm chất, năng lực cân thiết nhất định để đưa vào mạng lưới cộng tác viên dư luận xã hội. Đó là người: gương mẫu chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; am hiểu lĩnh vực, địa bàn; tâm tư, nguyện vọng của giai tầng xã hội hoặc nhóm công chúng mà mình làm đại diện; có năng lực nắm bắt, tổng hợp, phân tích và phản ánh khách quan, kịp thời, trung thực các luồng ý kiến dư luận xã hội; có kỹ năng giao tiếp tốt; có đủ sức khỏe và điều kiện đảm nhiệm nhiệm vụ cộng tác viên; có nguyện vọng và tinh thần tự nguyện đóng góp vì cộng đồng.

Nhiệm vụ của cộng tác viên

Nêu rõ các nhiệm vụ chủ yếu của cộng tác viên như: kịp thời nắm bắt, tập họp, phản ánh khách quan, trung thực các luồng ý kiến, tâm tư nguyện vọng trong các tầng lớp nhân dân trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự trong nước và thế giới, đặc biệt là đối với các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách

56

đó ở các địa phương, ngành, lĩnh vực nơi các cộng tác viên đang công tác hoặc sinh sống; đề xuất các giải pháp xử lý; tham gia định hướng dư luận xã hội thông qua việc kịp thời cung cấp thông tin chính thống cho nhân dân (nếu phát hiện có ý kiến không đúng do thiếu thông tin); tham gia triển khai các cuộc điều tra dư luận xã hội theo hướng dẫn của cơ quan chủ quản.

- Trách nhiệm và quyền hạn của cộng tác viên dư luận xã hội

Cộng tác viên dư luận xã hội phải có trách nhiệm trao đổi, phản ánh với cơ quan chủ quản những thông tin dư luận mà mình nắm bắt, tổng hợp được; giám sát và báo cáo với cơ quan chủ quản nếu phát hiện có các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tiến hành điều tra, thăm dò dư luận xã hội trái phép;

Được sử dụng thẻ cộng tác viên dư luận xã hội hoặc giấy giới thiệu do cơ quan chủ quản cấp để tiếp xúc, làm việc với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn; thực hiện đầy đủ các quy định, qui trình trong quá trình triển khai điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội theo hướng dẫn của cơ quan chủ quản.

Được quyền cung cấp hoặc không cung cấp cho cơ quan chủ quản tên, địa chỉ người phản ánh thông tin nhưng phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin đó; được giữ bí mật danh tính của mình trong những trường hợp cân thiết.

Được cung cấp tài liệu, thông tin kịp thời về những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, những vấn đề thời sự trong nước và quốc tế phù họp với nhiệm vụ được phân công; không được sử dụng danh nghĩa cộng tác viên dư luận xã hội để thực hiện các hoạt động khác ngoài nhiệm vụ được phân công.

- Phương thức nắm bắt thông tin dư luận xã hội

Cộng tác viên nắm bắt dư luận xã hội theo một hoặc nhiều phương thức như: qua tiếp xúc trực tiếp với các giai tầng xã hội (quan sát, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, trao đổi, tọa đàm trực tiếp với người dân, cán bộ, đảng viên và người có chức trách trong các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể xã hội ...); qua báo cáo tổng hợp tình hình dư luận xã hội của các cơ quan, đơn vị; qua các phương tiện thông tin đại chúng; qua các buổi giao ban dư luận xã hội định kỳ của các tổ chức, cơ quan, đoàn thể thuộc địa bàn được phân công phụ trách.

- Hình thức bảo cáo, phản ánh thông tin dư luận xã hội

57

Sau khi nắm bắt đầy đủ các luồng ý kiến dư luận xã hội, công tác viên cần báo cáo lại với cơ quan chủ quản các thông tin mà mình nắm được. Báo cáo có thể dưới các hình thức như: báo cáo bằng văn bản theo định kỳ (tuần, tháng, quý, năm) và báo cáo đột xuất theo yêu cầu, đề nghị của cơ quan chủ quản; báo cáo tại hội nghị giao ban dư luận xã hội do cơ quan chủ quản tổ chức; báo cáo trực tiếp hoặc qua điện thoại với lãnh đạo; bộ phận phụ trách cộng tác viên của cơ quan chủ quản.

- Quyền lợi của cộng tác viên dư luận xã hội

+ v ề chế độ chi trả: Cộng tác viên dư luận xã hội cấp Trung ương (do Ban Tuyên giáo Trung ương trực tiếp quản lý) hưởng mức thù lao là 0.5 mức lương cơ sở/ tháng; cộng tác viên dư luận xã hội cấp tỉnh (do Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy thuộc Trung ương, ủ y ban Trung ương Mặt trận tố quốc Việt Nam và Trung ương các tổ chức chính trị - xã hội trực tiếp quản lý) hưởng mức thù lao 0.3 mức lương cơ sở/tháng; cộng tác viên dư luận xã hội cấp huyện (do Ban Tuyên giáo huyện trực tiếp quản lý) hưởng mức thù lao 0,2 mức lương cơ sở/tháng (theo Hướng dẫn số 167-HD/BTGTW, ngày 26/12/2015 của Ban Tuyên giáo Trung ương sau khi đã có sự thống nhất với Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Tài chính, Văn phòng Trung ương).

+ về học tập, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ công tác dư luận xã hội: cộng tác viên được tham dự các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ và tham dự các hội nghị giao ban, sơ kết, tổng kết công tác dư luận xã hội.

- Khen thưởng, kỷ luật

Hàng năm, cộng tác viên có thành tích xuất sắc trong hoạt động và chấp hành tốt Quy chế hoạt động cộng tác viên dư luận xã hội được xem xét, biểu dương; trường hợp cộng tác viên có các vi phạm sẽ căn cứ mức độ vi phạm quy chế, áp dụng các hình thức nhắc nhở phê bình; xem xét xóa tên khỏi danh sách cộng tác viên và thu hồi thẻ cộng tác viên dư luận xã hội; các vi phạm khác ngoài phạm vi quy chế này được xử lý theo qui định của pháp luật.

Tham khảo Quy chế Hoạt động Cộng tác viên dư luận xã hội do Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành:

58

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CÔNG SẢN VĨẺT NAMBAN TUYÊN GIÁO , _

* Hà Nội, ngày 14 tháng 06 năm 2016

Số 187 - QĐ/BTGTW

QUYẾT ĐỊNH

về việc ban hành Quy chế hoạt động của cộng tác viên dư luận xã hội

- Căn cứ Quyết định số 113-QĐ/TW, ngày 9 tháng 7 năm 2012 của Bộ Chính trị (khóa XI) về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Tuyên giáo Trung ương;

- Căn cứ Kết luận số 100-KL/TW, ngày 18 tháng 8 năm 2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đổi mới và nâng cao chất lượng công tác điêu tra, năm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội;

- Căn cứ Hướng dẫn số 167-HD/BTGTW, ngày 26 tháng 12 năm 2015 của Ban Tuyên giáo Trung ương về thực hiện Kết luận số 100-KL/TW, ngày 18/8/2014 của Ban Bí thư (kèm theo Công văn số 9419-CV/BTCTW, ngày 28/7/2015 của Ban Tổ chức Trung ương; Công văn số 5082-CV/VPTW/nb, ngày 03/8/2015 của Văn phòng Trung ương; Công văn số 16210-CV/BTC-VI, ngày 03/11/2015 của Bộ Tài chính);

- Xét đề nghị của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội và Vụ Tổ chức Cán bộ.

TRƯỞNG BAN TUYÊN GIÁO TRƯNG ƯƠNG QUYẾT ĐỊNH

Điều 1. Ban hành Quy chế hoạt động cộng tác viên dư luận xã hội của Viện nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương (kèm theo Quyết định này).

Điều 2. Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội, Vụ Tổ chức Cán bộ, Văn phòng Ban Tuyên giáo Trung ương; Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tô chức chính trị - xã hội; cộng tác viên dư luận xã hội và các đơn vị liên quan có trách nhiệm thi hành quyết định này.

Nơi nhắn: K/T TRƯỞNG BAN- Như Điều 2, PHÓ TRƯỞNG BAN- Ván phòng TW Đảng, các ban đảng TW, Lâm Phương Thanh- Ban cán sự đảng các bộ, ngành,

59

- Lưu HC. (đã ký)

QUY CHÉ

Hoạt động cộng tác viên dư luận xã hội của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hộithuộc Ban Tuyên giáo Trung ương

(Ban hành kèm theo Quyết định số 187- QĐ/BTGTW, ngày 14 thảng 6 năm 2016của Ban Tuyên giảo Trung ương) %

*

Điều 1. Công tác viên dư luân xã hôi

Là những cán bộ, đảng viên, hội viên đang làm việc, sinh hoạt tại các địa phương, tổ chức, cơ quan, đơn vị hoặc các cá nhân đại diện cho các giai tâng trong xã hội được Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương (sau đây gọi tắt là Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội) lựa chọn và được ký hợp đồng làm cộng tác viên dư luận xã hội theo thỏa thuận (về nội dung công việc hoặc theo thời gian).

Điều 2. Tiêu chuẩn cộng tác viên dư ỉuận xã hội

- Gương mẫu chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Am hiểu lĩnh vực, địa bàn; tâm tư, nguyện vọng của giai tầng xã hội hoặc nhóm công chúng mà mình làm đại diện.

- Có năng lực nắm bắt, tổng họp, phân tích và phản ánh khách quan, kịp thời, trung thực các luồng ý kiến dư luận xã hội.

- Có kỹ năng giao tiếp tốt.

- Có đủ sức khỏe và điều kiện đảm nhiệm nhiệm vụ cộng tác viên; có nguyện vọng và tinh thần tự nguyện đóng góp vì cộng đồng.

Điều 3. Nhiệm vụ của cộng tác viên dư luận xã hội• • 0 o • •

- Kịp thời nắm bắt, tập hợp, phản ánh khách quan, trung thực các luồng ý kiến, tâm tư, tình cảm, ý chí, nguyện vọng trong các tầng lóp nhân dân trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự ở trong nước và trên thế giới; đặc biệt là đối với các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách đó ở các địa phương, ngành, lĩnh vực nơi các cộng tác viên đang công tác hoặc sinh sống.

60

- Đề xuất các giải pháp xử lý; tham gia định hướng dư luận xã hội thông qua việc kịp thời cung cấp thông tin chính thống cho nhân dân (nếu phát hiện có ý kiến không đúng do thiếu thông tin).

- Tham gia triển khai các cuộc điều tra dư luận xã hội theo hướng dẫn của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội.

Điều 4. Trách nhỉệm, quyền hạn của cộng tác viên dư luận xã hội

- Có trách nhiệm trao đổi, phản ánh với Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội những thông tin dư luận mà mình nắm bắt, tổng hợp được.

- Giám sát và báo cáo với Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội nếu phát hiện có các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tiến hành điều tra, thăm dò dư luận xã hội trái phép.

- Khi thực hiện nhiệm vụ (nghiên cứu, thu thập dư luận xã hội) được sử dụng thẻ cộng tác viên dư luận xã hội hoặc giấy giới thiệu do Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội cấp để tiếp xúc, làm việc với cấp uỷ, chính quyền, đoàn thê, cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn.

* - Thực hiện đầy đủ các quy định, qui trình trong quá trình triển khai điềutra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội theo hướng dẫn của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội.

- Có quyền cung cấp hoặc không cung cấp cho Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội tên, địa chỉ người phản ánh thông tin nhưng phải chịu trách nhiệm vê tính chính xác của thông tin đó. Có quyền được giữ bí mật danh tính của mình trong những trường hợp cần thiết.

- Được cung cấp tài liệu, thông tin kịp thời về những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, những vấn đề thời sự trong nước và quốc tế phù hợp với nhiệm vụ được phân công.

- Không được sử dụng danh nghĩa cộng tác viên dư luận xã hội đê thực hiện các hoạt động khác ngoài nhiệm vụ được phân công.

Điều 5. Phương thức nắm bắt thông tin dư luận xã hội

Cộng tác viên nắm bắt dư luận xã hội theo các phương thức sau:

- Qua tiếp xúc trực tiếp với các giai tầng xã hội (quan sát, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, trao đổi, tọa đàm với người dân, cán bộ, đảng viên và người có chức trách trong các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể xã hội..

61

- Qua báo cáo tổng hợp tình hình dư luận xã hội của các cơ quan, đơn vị.

- Qua các phương tiện thông tin đại chúng.

- Qua các buổi giao ban dư luận xã hội định kỳ của các tô chức, cơ quan, đoàn thể thuộc địa bàn được phân công phụ trách.

Điều 6. Hình thức báo cáo, phản ánh thông tin dư luận xã hội

- Báo cáo bằng văn bản theo định kỳ (tuần, tháng, quý, năm) và báo cáođột xuất theo yêu cầu của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội. *

- Báo cáo tại hội nghị giao ban dư luận xã hội do Viện Nghiên cứu Dư ^luận xã hội tổ chức.

- Báo cáo trực tiếp hoặc qua điện thoại với lãnh đạo; bộ phận phụ trách cộng tác viên của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội.

Điều 7. Quyền lợi của cộng tác viên dư luận xã hội

- Cộng tác viên của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội được hưởng mức thùlao là 0,5 mức lương cơ sở/tháng theo Hướng dẫn số 167-HD/BTGTW, ngày 26/12/2015 của Ban Tuyên giáo Trung ương sau khi đã có sự thống nhât với Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Tài chính, Văn phòng Trung ương. Thù lao được chi trả theo hợp đồng thỏa thuận về nội dung công việc hoặc theo thời gian giữa Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội với cộng tác viên.

- Được tham dự các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ và tham dự các hội nghị giao ban, sơ kết, tổng kết công tác dư luận xã hội do Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội tổ chức.

Điều 8. Khen thưởng, kỷ luật

- Hằng năm, Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội sẽ xem xét biểu dương hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng đối với cộng tác viên có thành tích xuât sắc trong hoạt động và chấp hành tốt Quy chế hoạt động cộng tác viên dư luận xã hội.

- Căn cứ mức độ vi phạm quy chế, Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội sẽ áp dụng các hình thức nhắc nhở phê bình; xem xét xóa tên khỏi danh sách cộng tác viên và thu hồi thẻ cộng tác viên dư luận xã hội.

- Các vi phạm khác ngoài phạm vi quy chế này được xử lý theo quy định của pháp luật.

Điều 9. Tỗ chức thưc hiên• •

62

- Quy chế này có hiệu lực từ ngày ký. Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương, các cơ quan, đơn vị liên quan và cộng tác viên dư luận xã hội của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội chịu trách nhiệm thi hành quy chế này.

- Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội ở Trung ương căn cứ vào quy chế này, cụ thể hoá cho phù hợp với tình hình địa phương, tổ chức để ban hành quy chế hoạt động cộng tác viên dư luận xã hội trong phạm vi địa phương, đơn vị quản lý.

- Trong quá trình thực hiện, nếu nảy sinh những vấn đề mới, vướng mắc, Ban Tuyên giáo Trung ương sẽ xem xét điều chỉnh, bô sung cho phù hợp./.

63