Upload
lehanh
View
261
Download
12
Embed Size (px)
Citation preview
MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG
MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG
LÊ NGỌC TRÀ (Chủ biên)
LÂM VINH - HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Chương 1. MỸ HỌC LÀ GÌ?
So với đạo đức học và lô-gích học, mỹ học hình thành như một khoa
học muộn hơn rất nhiều. Trong Khi các ngành khoa học trên đã được định
danh và xây dựng ngay từ những thế kỷ trước Công nguyên, thì mãi đến đầu
thế kỷ XVIII mỹ học vẫn chưa hoàn toàn tách mình ra khỏi triết học để khẳng
định vị trí độc lập của nó.
Mặc dù vậy, ý niệm về thẩm mỹ và các tư tưởng mỹ học đã xuất hiện
ngay từ buổi bình minh của nền văn minh nhân loại. Bởi vì từ khi đứng được
trên đôi chân của mình, con người đã cảm thấy đòi hỏi về cái đẹp như một
nhu cầu không thể thiếu được, đồng thời với đòi hỏi về sự thật và đạo đức.
Để đáp ứng cho khát vọng về chân lý ở con người, lô-gích học đã hình
thành như một khoa học có mục đích xác định tính đúng đắn hay tính sai lầm
trong những thao tác của trí tuệ. Để đáp ứng cho khát vọng về cái thiện, nhân
loại đã xây dựng đạo đức học như một lý thuyết giúp con người nhận chân
thiện và ác, như một "khoa học về bổn phận" (Kant) của con người ở đời.
Nhữnc câu hỏi đặt ra trước con người về các hiện tượng thẩm mỹ hình
như phức tạp và tế nhị hơn. Vấn đề ở đây đã đụng chạm đến không chỉ trí tuệ
hay lương tâm mà còn có liên quan đến phần tinh tế nhất trong tình cảm, trực
giác, sự rung động, cả bề sâu tiềm thức và vô thức của con người. Nghịch lý
của vấn đề nằm ở chỗ là con người lại muốn trình bày, diễn đạt những hiện
tượng: có tính chất cảm tính, nhiều khi mơ hồ như sương khói, bằng ngôn
ngữ của lý tính, thậm chí bằng những khái niệm mạch lạc gần như sự diễn
đạt trong lô-gích học và đạo đức học. Do vậy mà trong hơn 20 thế kỷ, nhân
loại đá loay hoay đi tìm bản chất và đặc trưng của đời sống thẩm mỹ và các
hiện tượng có liên quan đến đời sống đó.
I. NHỮNG NỀN MÓNG ĐẦU TIÊN
Chúng ta có thể tìm thấy những dẫn chứng về tình hình trên đây ngay
từ sự quan tâm rất nhiều mặt của các triết gia Hy Lạp thời cổ đại mà những
luận điểm nhằm giải thích điều bí ẩn về cái đẹp của họ nhiều khi mang một
dáng dấp nguyên sơ và chất phác đến độ hồn nhiên.
Xuất hiện ở thế kỷ VI trước Công nguyên, trường phái Pythagore là
trường phái cổ xưa nhất của triết học Hy Lạp đã quan tâm nghiên cứu những
khái niệm cơ bản của mỹ học. Theo Pythagore (571 - 497 trước Công
nguyên), chính con số tạo thành bản chất các sự vật; vì thế việc nhận thức
thế giới có thể giản lược vào việc nhận thức các con số điều hành thế giới.
Tư tưởng mỹ học của Pythagore đặt cơ sở trên luận điểm triết học cho rằng
mọi sự tồn tại đều là tập hợp của hàng loạt những mặt đối lập tạo nên sự hài
hòa của nó! Sự hài hòa của các con số là qui luật khách quan tác động đến
tất cả các hiện tượng của đời sống, bao gồm cả nghệ thuật. Mở rộng ra,
Pythagore lưu ý đến sự hài hòa và thống nhất trong trật tự của toàn thể vũ trụ.
Có thể nói lý thuyết về con số và vũ trụ của Pythagore mang rõ tính chất mỹ
học và việc ông nghiên cứu khái niệm hài hòa trên thực tiễn âm nhạc có một ý
nghĩa to lớn.
Các triết gia thuộc trường phái Pythaffore đã xem xét sự hài hòa, sự
hoàn thiện trong mối thống nhất biện chứng với cái đẹp. Họ đã đề xuất việc
vận dụng âm nhạc để chữa bệnh. Đó chẳng qua chính là cách diễn dạt chất
phác ý tưởng về sức tác động của nghệ thuật đối với con người. Điều này
cho thấy trường phái Pythagore đã sớm ý thức về vấn đề giáo dục thẩm mỹ
thông qua con đường của âm nhạc.
Những quan niệm mỹ học biện chứng còn có tính chất ước đoán của
Pythagore đã được Héraclite (khoảng 530 - 470 trước Công nguyên) triển
khai. Héraclite xem "ngọn lửa sống động vĩnh cữu" là nhân tố nguyên thủy
của mọi tồn tại: "Vũ trụ này, đối với ai cũng chỉ là một, không một vị thần nào
cũng không phải một con người nào đã tạo dựng nên nó, nhưng nó đã tồn tại
từ muôn đời, đang tồn tại và sẽ tồn tại mãi mãi nhờ một ngọn lửa sinh động
vĩnh cửu, cháy sáng cũng có điều độ mà dập tắt đi cũng "có điều độ". Theo
Héraclite, trong thế giới ngự trị một qui luật khắc nghiệt là không có cái gì là
trường tồn — tất cả đều vận hành, thay đổi và biến dịch như những dòng
sông. Với cách diễn đạt hàm súc như những lời cách ngôn hay sấm ngữ,
Héraclite đã tuyên ngôn cái nguyên tắc khắc nghiệt của vũ trụ: Pantarei (Tất
cả đều biến dịch, tất cả đều luôn luôn thay đối). Ông nói: "Không ai tắm hai
lần trong cùng một dòng sông" và "Cùng một sự vật vừa có vừa không có
cùng một lúc".
Cũng như Pythagore, Héraclite cho rằng cái đẹp có cơ sở khách quan;
nhưng cơ sở này không phải nằm ở quan hệ của các con số mà ở phẩm chất
của các sự vật được biểu hiện thành biến thể của lửa. "Bất cứ sự vật gì cũng
có thể biến đổi thành lửa và lửa cũng có thể biến đổi thành bất cứ sự vật gì;
cũng như hàng hóa đổi lấy vàng và vàng đổi lấy hàng hóa vậy". Bàn về cái
đẹp, Héraclite nói đến sự hài hòa như là sự thống nhất của các mặt đối lập.
Theo ông, sự hài hòa và cái đẹp lại xuất hiện thông qua sự đấu tranh: "Cái gì
biến dịch lại đồng thời hòa hợp với chính mình. Giữa những tranh chấp đối
lập, phải có một hòa hợp giống như giữa cây cung và dây đàn". Sự tranh
chấp giữa những đối nghịch sẽ tạo ra sự hài hòa. Với tư cách là cơ sở của
cái đẹp, sự hài hòa mang tính chất phổ quát: nó hiển hiện trong vũ trụ, trong
quan hệ giữa người với người và cả trong tác phẩm nghệ thuật.
Héraclite cũng quan tâm nghiên cứu khái niệm mức độ như là một
phạm trù của mỹ học cổ đại. Theo Héraclite, mức độ cũng có tính chất phổ
quát như sự hài hòa. Nó là cơ sở của vũ trụ, nghĩa là quy luật khách quan,
không phụ thuộc vào con người.
Tóm lại, những phạm trù quan trong nhất của mỹ học là cái đẹp, sự hài
hòa và mức độ đã được Héraclite xem xét như là sự phản ánh các bản chất
và các mối quan hệ của thế giới khách quan.
Quan điểm mỹ học của Socrate (469 - 399 trước CN.) đã tạo nên một
bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng mỹ học thời cổ đại. Trong những bài giảng
về triết học mà học trò ông đã ghi lại được, Socrate tỏ ra ít quan tâm đến
những vấn đề của tự nhiên. Theo ông, triết học về cự nhiên là một khoa học
không có mấy lợi ích. Ông coi nhẹ việc nghiên cứu thực nghiệm về tự nhiên,
bởi vì sự nghiên cứu đó dựa trên những chứng liệu của cảm giác vốn không
có mấy giá trị nhận thức.
Trung tâm chú ý của Socrate là con người. Và ông quan tâm đến con
người từ phương diện hoạt động thưc tiễn, hành vi và đạo đức của nó.
Những vấn đề mỹ học cũng được Socrate tiếp cận từ quan điểm có tính chất
nhân loại học đó. Socrate chính là triết gia đầu tiên đã đề cao con người như
là đối tượng chính yếu của nghệ thuật.
Theo Socrate bất cứ một hoạt động nào của con người, cũng đều nhằm
vào một mục đích nhất định. Hoạt động thẩm mỹ cũng là một hoạt động mang
tính mục đích. Vì thế cho nên những sản phẩm của nó phải được đánh giá
trên quan điểm thực tiễn. Từ đó Socrate công khai nói lên quan niệm rằng đời
sống thẩm mỹ gắn chặt chẽ với tính chất công ích. Ông cho rằng không hề có
cái đẹp nào với tư cách là bản thể tuyệt đối của các sự vật và hiện tượng. Cái
đẹp chỉ bộc lộ ra trong mối quan hệ với cái có ích và đồng nhất với cái có ích.
Một sự vật đẹp là sự vật có ích cho một cái gì đó. Để biện giải cho lập luận
của mình, nhà triết học đã dưa ra một ví dụ rất hình ảnh: cái khiên là vật dụng
được trang trí thẩm mỹ, nhưng nó sẽ trở nên xấu nếu nó không che chở được
cho người kỵ sĩ, còn chiếc giỏ đựng phân sẽ là đẹp nếu nó làm tròn chức
năng của nó.
Ý nghĩa của quan niệm trên đây là ở chỗ Socrate đã phát biểu một cách
thô sơ mối quan hệ giữa đời sống thẩm mỹ và thực tiễn. Ông cũng đã nhấn
mạnh mối quan hệ hữu cơ giữa đạo đức và thẩm mỹ, giữa cái Thiện và cái
Đẹp: cái Đẹp thuộc về cái Thiện và cái xấu nằm trong cái Ác. Nhưng Socrate
đã tuyệt đối hóa các mối quan hệ đó đến mức đồng nhất các cặp phạm trù với
nhau và xóa nhòa đặc trưng của chính cái đẹp.
Quan niệm thực dụng của Socrate về cái đẹp đã không được Platon
(427 - 347 trước CN.) chia sẻ. Với tư cách là người sáng tạo hệ thống triết
học duy tâm đầu tiên của nhân loại, Platon đã đưa ra cái nhìn nhị nguyên về
thế giới, Theo ông, có hai thế giới song song tồn tại: thế giới của các ý tưởng
hay thế giới khả niệm và thế giới của các vật thể hay thế giới khả giác. Một
thế giới vĩnh hằng, tiên thiên, bất biến, cao siêu, tinh khiết và một thế giới có
tính chất tạm thời, biến dịch vì chỉ là hình bóng của thế giới kia.
Trong tư tưởng mỹ học của Platon, cái đẹp là vấn đề quan trọng nhất.
Nhưng cái đẹp, theo Platon, lại không nên tìm kiếm ở những phẩm chất khả
giác của các sự vật riêng lẻ hay trong mối quan hệ với hoạt động của con
người. Bởi vì trong thế giới hiện thực mà con người có thể cảm nhận bằng
giác quan, thì tất cả đều thay đổi và biến dịch, không có gì là bền vững và
đích thực cả. Platon muốn tìm kiếm một cái đẹp vĩnh cửu và phổ quát cho tất
cả mọi người. Đó là cái đẹp tuyệt đối. Cái đẹp đích thực này chỉ tồn tại trong
thế giới ý niệm, còn những cái đẹp thường ngày mà chúng ta cảm giác được
chỉ là ánh hào quang, là bản sao, là những mảnh vụn của cái đẹp ý niệm mà
thôi. Nói cách khác, ý niệm Đẹp đối lập với thế giới khả giác, nó ở ngoài
không gian và thời gian, nó thường hằng và bất biến.
Cái đẹp mang tính chất siêu nhiên như vậy nên chỉ có thể nhận thức nó
bằng lý trí chứ không phải bằng cảm giác. Phương thức nhận thức cái đẹp
không phải là bằng con đường sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật, mà là bằng
con đường suy luận trừu tượng. Platon đã miêu tả rất độc đáo trạng thái của
con người, khi mà lý trí từng bước tách ra khỏi những sự vật đẹp riêng lẻ,
vươn tới một vật thể đẹp phổ quát, tới những chuẩn mực đẹp phổ quát và
cuối cùng tới nhận thức cao nhất về ý niệm Đẹp.
Cũng như các triết gia tiền bối, Platon đã xem nghệ thuật như là sự tái
hiện thực tế thông qua con đường mô phỏng những sự vật cảm tính. Tuy
nhiên, những sự vật cảm tính này lại chính là những hình tượng phản ánh tư
tưởng. Trong khi tái hiện các sự vật, người nghệ sĩ không thể nào vươn đến
sự nhận thức, cái đẹp đích thực. Thông qua việc xây dựng tác phẩm nghệ
thuật, người nghệ sĩ chỉ sao chép lại những sự vật khả giác, mà bản thân
những sự vật này thì vốn là bản sao của các ý niệm. Do vậy sư miêu tả nghệ
thuật, xét cho cùng, chẳng qua là bản sao của bản sao, sự mô phỏng của sự
mô phỏng, cái bóng của cái bóng. Với tư cách là sự phản ánh hạng hai, sự
phản ánh cái phản ánh, nghệ thuật không có giá trị nhận thức; hơn nữa nó
đánh lừa con người và ngăn cản người ta vươn tới nhận thức về bản chất
đích thực của thế giới. Nghệ thuật, như vậy, chỉ là một cố gắng của con người
nhằm biểu thị cái đẹp trên thế giới siêu nhiên; nhưng tiếc thay, theo Platon, lại
là một cố gắng không hoàn hảo, một cố gắng tuyệt vọng. Hiệu quả khách
quan của nghệ thuật là đẩy con người xa khỏi sự minh triết, và do vậy mà
Plỉaton kết luận rằng không có chỗ cho các loại hình nghệ thuật trong nước
Cộng hòa lý tưởng của ông.
Tư tưởng mỹ học của Platon đã từng chịu sự phản bác ngay từ thời cổ
đại, đặc biệt với Aristote (384 - 322 trước C.N.), người am hiểu sâu sắc các
loại hình nghệ thuật Hy Lạp. Khác với Platon, Aristote luôn luôn xuất phát từ
những sự kiện cụ thể, từ thực tế phát triển của nghệ thuật, chứ không khảo
sát các vấn đề thẩm mỹ một cách cư biện. Bên cạnh những công trình về siêu
hình học, đạo đức học và lô-gích học, những tư tưởng mỹ học mà Aristote để
lại cho hậu thế được trình bày trong hai tác phẩm quan trọng có thể được
xem là bộ "Khai luận về cái đẹp" - đó là Thi pháp học và Tu từ học, và một
phần nào trong tác phẩm Chính trị. Thi pháp học của Aristoce không chỉ là
một công trình lý thuyết quan trọng mà còn là một chứng liệu đáng tin cậy về
sự phát triển của nghệ thuật Hy Lạp.
Cái đẹp cũng là vấn đề trung tâm trong các công trình nghiên cứu của
Aristote. Bằng con đường ngược lại với Platon, Aristote đã kéo cái đẹp trở về
với mảnh đất trần thế, xem nó như là thuộc tính và phẩm chất có thực của
các sự vật. Theo Aristnte, cái đẹp được thể hiện cao nhất nơi các hữu thể
sống, đặc biệt là nơi con người. Con người, với sự hài hòa trong các bộ phận
của cơ thể mình, là hiện thân của cái đẹp và là đối tượng chính của nghệ
thuật. Dấu hiệu quan trọng nhất của cái đẹp là sự toàn vẹn, được Aristote
quan niệm như là cái gì có đầu, giữa và cuối - những thành phần này liên hệ
với nhau và dựa vào nhau mà tồn tại.
Như vậy, đối với Aristote, cái đẹp có tính chất khách quan. Nó không
hiện hữu trong ý niệm - như quan niệm của Platon - hay trong các quan hệ số
lượng trừu tượng - như quan niệm của Pychagore - mà trong những sự vật
thực tế, trong những mối quan hệ và thuộc tính có thực. Do quan niệm rằng
cái đẹp được thể hiện không chỉ trong hành động, mà còn hiện hữu trong
những sự vật không vận động, Aristote đã xem xét sự biểu hiện của cái đẹp
cả trong những đối tượng đứng yên lẫn trong những đối tượng biến dịch.
Những dấu hiệu trên đây của cái đẹp có tính chất phổ quát, nghĩa là
chúng biểu hiện cả trong thiên nhiên, xã hội và con người. Theo Aristote, cái
đẹp hiện thực của thế giới là cội nguồn của ý thức thẩm mỹ và nghệ thuật.
Tuv nhiên, trong khi khẳng định những dấu hiệu khách quan của cái đẹp.
Aristote cũng đồng thời chú ý đến những điều kiện chủ quan của sự tiếp nhận
cái đẹp.
Bàn về nghệ thuật, Aristote xem đó là sự "bắt chước”; nghĩa là sự mô
phỏng, phản ánh hiện thực. Sự mô phỏng này được thực hiện nhờ nhịp điệu,
ngôn từ và hòa âm. Nguvên tắc mô phỏng được vận dụng không chỉ trong
nghệ thuật tạo hình mà cả trong thơ ca và âm nhạc.
Thuyết "bắt chước" đã tạo ra một khoảng cách rất lớn giữa tư tưởng
Platon và tư tưởng Aristote. Như trên đã nói, với Platon, nghệ thuật chẳng
qua là sự tái hiện những sự vật khả giác vốn là ánh xạ của các ý niệm.
Aristote, trái lại nhận thức đầy đủ sự phong phú của thế giới khả giác, của các
sự vật và hiện tượng thực tồn. Theo ông, nghệ thuật dựa trên một thiên
hướng của con người là thiên hướng về sự phản ánh. Trong Thi pháp học,
Aristote viết: "Con người có khả năng phản ánh ngay từ thuở ấu thơ, và nó
càng phân biệt với các động vật khác thì khả năng này càng phát triển, nhờ
đó mà nó sở đắc được những kiến thức đầu tiên". Do vậy, nghệ thuật có
thuộc tính nhận thức, hay nói đúng hơn, đó là một trong những hình thức hoạt
động nhận thức của con người. Việc nghiên cứu năng lực phản ánh của con
người đã tạo điều kiện cho Aristote đặt ra một cách sâu sắc vấn đề chân lý
nghệ thuật, không phải bằng những suy luận trừu tượng mà dựa trên những
thành tựu của nghệ thuật Hy Lạp.
Aristote cũng dành một vị trí thích đáng trong các công trình của mình
để bàn về vai trò giáo dục của nghệ thuật. Theo ông, nghệ thuật không phải là
lĩnh vực tự trị với những giá - trị - tự nó. Nghệ thuật liên quan mật thiết với đời
sống của con người, nó đem lại cho con người "niềm vui của sự nhận thức"
và góp phần hoàn thiện con người về mặt đạo đức. Tác phẩm nghệ thuật
nâng cao phẩm giá con người, vì thông qua sự "thanh lọc" về tâm hồn, nó đã
giải phóng con người khỏi những dục vọng xấu xa.
Những tư tưởng có tính chất đặt nền tảng cho mỹ học duy vật của
Aristote sau này sẽ được phát triển một cách hệ thống bởi các nhà mỹ học
duy vật thời khai sáng như Voltaire, Diderot; những nhà mỹ học dân chủ cách
mạng Nga như Biélinski, Tchernvchevski, Herzen. Dobrolioubov; và những
nhà lý luận của mỹ học mác-xít.
II. MỸ HỌC - KHOA HỌC VỀ CÁI ĐẸP HAY TRIẾT HỌC VỀ NGHỆ THUẬT?
Trong suốt hơn hai mươi thế kỷ, mỹ học đã nép mình trong triết học.
Cuộc tranh luận giữa thế giới quan duy tâm và thế giới quan duy vật đã chi
phối các quan niệm thẩm mỹ. Mặc dù vậy, càng về sau giữa các triết gia
thuộc các trường phái khác nhau vẫn có những chỗ gặp nhau trong việc xác
định vị trí của đời sống thẩm mỹ trong xã hội. Sự phát triển của chính tư
tưởng triết học đã từng bước thúc đẩy sự hình thành của mỹ học như một bộ
môn độc lập. Ở đây cần ghi nhận công lao của A. Baumgarterv (1714 - 1762),
nhà mỹ học người Đức. Trong tuyển tập các bài báo xuất bản năm 1735 nhan
đề Những suy niệm triết học về các vấn đề có liên quan đến sáng tác thơ ca,
Baumgarten vẫn chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa triết học và mỹ học.
Nhưng 15 năm sau, khi bộ công trình Mỹ học của ông lần lượt ra đời (tập I
năm 1750, tập II năm 1758) thì lần đầu tiên ngành khoa học này mới được
định danh và định nghĩa rành mạch.
Mặc dù bộ Mỹ học được biên soạn dở dang khiến cho nhiều luận điểm
của Baumgarten chưa được luận chứng thấu đáo, nhưng những đóng góp có
ý nghĩa nền tảng của ông cho sự phát triển của mỹ học là không thể chối cãi
dược. Baumgarten đã định nghĩa một cách súc tích: "Mỹ học là khoa học về
cái đẹp".
Thuật ngữ "Mỹ học" (eschétique, aesthetics) có nguồn gốc từ tiếng Hy
Lạp aischetikos - có nghĩa là cảm giác, thuộc về sự tiếp nhận của cảm giác.
Baumgarten đã kế thừa ý nghĩa đó khi ông cho rằng mỹ học là khoa học về
nhận thức cảm tính nhằm vươn tới và sáng tạo ra cái đẹp được diễn đạt trong
những hình tượng nghệ thuật, (Ở một chỗ khác, Baumgurten khẳng định cái
đẹp là sự hoàn thiện của nhận thức cảm tính. Ông hiểu cảm tính không chỉ là
cảm giác mà còn cả cảm xúc, ký ức, trực giác, tưởng tượng. Các công trình lý
luận của Baumgarten có ý nghĩa ở chỗ không chỉ ông đã chính thức khai sinh
ra tên gọi "mỹ học" mà còn tách mỹ học thành một bộ môn độc lập với triết
học và nâng nó lên thành một khoa học.
Baumgarten cũng là người đầu tiên trong lịch sử mỹ học cổ điển Đức
đặt vấn đề nghiên cứu cái cao cả và xác định mối quan hệ giữa thẩm mỹ và
đạo đức. Mặt khác, ông cho rằng mỹ học phải làm rõ những quy luật chung
của sáng tạo nghệ thuật, thể hiện trong những ngành nghệ thuật riêng biệt.
Bên cạnh sự trau chuốt về nghệ thuật, tác phẩm cần phải có sự phong phú về
nội dung, tính chân thực và sinh động về nhận thức, vẻ đẹp, sự hoàn thiện về
thẩm mỹ của tác phẩm nghệ thuật bao hàm trong sự hòa hợp giữa nội dung,
kết cấu và sự biểu hiện. Trong các công trình của mình, Baumgarten cố gắng
vươn tới nhận thức về đặc trưng của nghệ thuật, phân biệt chân lý lô-gích và
chân lý thẩm mỹ, nhấn mạnh tính chất cảm tính của hình tượng, khẳng định
vai trò quan trọng của cá nhân đối với sự phát triển của ý thức nghệ thuật.
Trên thực tế Baumgarten có mở rộng sự quan tâm đến các lĩnh vực
khác của mỹ học như cái cao cả, ý thức nghệ thuật...; nhưng khi định nghĩa
”mỹ học là khoa học về cái đẹp", ông đã tự giới hạn đối tượng nghiên cứu của
mỹ học, ít nhất là trên bình diện lý thuyết. Định nghĩa đó thật ra cũng phản
ánh và thâu tóm được những tìm tòi của nhiều triết gia trước ông. Nhưng sự
phát triển của mỹ học trong thời Baumgarten và sau đó đã chứng minh rằng,
dù cái đẹp là phạm trù trung tâm của mỹ học và thẩm mỹ là bản chất của
nghệ thuật, đối tượng của mỹ học không hề bị thu hẹp như quan niệm của
Baumgarten. Đời sống thẩm mỹ đòi hỏi mỹ học nghiên cứu không chỉ cái đẹp
mà cả cái bi, cái hài...
Hai triết gia cổ điển người Đức là E.Kanc và Hegel đã đẩy mỹ học tiến
thêm một bước khá dài và góp phần quan trọng vào việc nhận chân đối tượng
của mỹ học.
Trong bộ ba công trình của mình, bên cạnh Phê phán lý trí thuần túy và
Phê phản lý trí thực tiễn, Kant (1724 - 1804) đã dành một phần quan trọng
của Phê phán khả năng phán đoán để phác thảo ra một nền mỹ học của
tương lai. Kant là người đầu tiên chú ý một cách thích đáng nhất khía cạnh
tinh tế của các hiện tượng thẩm mỹ để phân biệt với các lĩnh vực khác của
đời sống vật chất. Nhà tư tưởng này đã lưu tâm xem xét hai phạm trù cơ bản
của mỹ học là cái đẹp và cái cao cả. Cái đẹp, trong quan niệm của Kant,
không gắn liền với tính chất thực tiễn, nó đem lại khoái cảm và thỏa mãn
những đòi hòi tinh thần có tính chất chủ quan của cá nhân. Cái đẹp là hình
thức hợp lý của sự vật mà trong khi cảm nhận không cần phải hình dung ra
mục đích của nó. Cái đẹp là cái làm vui thích tất cả mọi người mà không
thông qua một khái niệm nào cả. Một cái đẹp thuần túy như vậy sẽ là biểu
tượng củùa cái Thiện, nó thể hiện những sức mạnh thẩm mỹ sẽ đem lại động
lực cho nhận thức mà không đồng nhất với nhận thức.
Hướng tới cái đẹp trong ta, do ta và chờ ta, mỹ học Kant, một mặt,
không chú ý đầy đủ đến ý nghĩa thực tiễn - xã hội của các hiện tượng thẩm
mỹ: mặt khác rất đề cao vai trò của chủ thể trong sáng tạo nghệ thuật và cảm
thụ thẩm mỹ. Ảnh hưởng của Kant trong sự phát triển tư tưởng mỹ học to lớn
đến mức nhiều nhà nghiên cứu xem trước tác của ông đánh dấu mốc cho cả
một thời kỳ được gọi là thời kỳ phê phán trong mỹ học. B.Croce, chẳng hạn,
chia lịch sử mỹ học thành ba giai đoạn: giai đoạn trước Kant, giai đoạn phê
phán gắn với tên tuổi Kant và giai đoạn sau Kant còn gọi là giai đoạn thực
nghiệm. D. Huisman thì nói đến giai đoạn giao lưu nay trường phái Platon,
giai đoạn phê phán bay trường phái Kant và giai đoạn hiện đại hay trường
phái thực nghiệm.
Từ khi xuất hiện Hegel (1770 - 1831), triết gia duy tâm cổ điển người
Đức, một đỉnh cao của tư tưởng mỹ học nhân loại, quan niệm "mỹ học là khoa
học về cái đẹp" đã phần nào mất ưu thế. Với Hiện tượng học về tinh thần và
Khoa lô-gích học, triết học Hegel dã có đầy đủ cơ sở để trở thành một hệ
thống chặt chẽ mang tính chất lý tính khi nó nhìn lịch sử như là sự vận động
của Tinh thần tuyệt đối, trừu tượng và nhất quán. Các bài giảng về mỹ học
của Hegel đã dành sự quan tâm cho hoạt động thẩm mỹ như một hoạt động
cao nhất, của trí tuệ, bởi vì theo ông, sự thật và điều kiện đã được liên kết
một cách chặt chẽ trong cái đẹp và chỉ trong cái đẹp. Nhưng Hegel lại hạn
chế cái đẹp trong phạm vi nghệ thuật và định nghĩa mỹ học là triết học về
nghệ thuật. Dưới nhãn quan triết học của Hegel, cái đẹp được xem như hình
thức cảm tính của tư tưởng và nghệ thuật là nơi kết tinh của cái dẹp. Với tư
cách là sự miêu tả cảm tính các tư tưởng, nghệ thuật là một bậc thang của
Tinh thần tuyệt đối; là một hình thức đặc biệt giúp con người đạt đến chân lý
tuyệt đối. Tách khỏi cái đẹp sẽ không có và không thể có nghệ thuật, nhưng
điều đó không có nghĩa là người nghệ sĩ giới hạn đối tượng của mình trong
vẻ đẹp của thế giới khách quan.
Khi định nghĩa "mỹ học là triết học về nghệ thuật"; Hegel đã đặt mỹ học
trên cơ sở của ý thức sáng tạo. Lịch sử đã chứng minh rằng tư tưởng mỹ học
đã phát triển song hành dưới sự tác động hỗ tương của các trào lưu và
trường phái nghệ thuật: hiện thực, lãng mạn, tượng trưng, ấn tượng, siêu
thực, lập thể... Quan niệm của Hegel vì vậy, đã được nhiều nhà mỹ học hiện
đại chia sẻ. Hướng về cái đẹp trong nghệ thuật hơn là cái đẹp của thiên
nhiên, nhiều nhà mỹ học thế kỷ XX đã cố gắng tổng hợp những đặc điểm
chung của các khuynh hướng nghệ thuật để rút ra những tinh hoa của các
khuynh hướng ấy. Hơn nữa mỹ học không chỉ đi tìm nghĩa cho cái đẹp, mà từ
mảnh đất phong phú của các loại hình nghệ thuật (văn học, hội họa, điện ảnh,
sân khấu, âm nhạc...), trong đó có sự hiện thân của cả cái đẹp lẫn cái cao cả,
cái bi, cái hài, mỹ học vươn tới những suy tưởng khái quát về nghệ thuật. Ch.
Lalo, trong một công trình mỹ học có tính chất nhập môn, đã viết: "Cũng như
lô-gích học là sự suy tưởng triết học về những qui luật đạt tới chân lý mà
trước hết là về những ngành khoa học đã sáng tạo ra các qui luật đó; cũng
như đạo đức học là suy tưởng triết học về tâm lý của hành vi cá nhân và xã
hội và về khoa học các phong hóa; tương tự như thế, mỹ học được hiểu thấu
đáo trước hết phải là sự suy tưởng triết học về nghệ thuật, về phê bình và lịch
sử nghệ thuật, những ngành đã dọn đường cho mỹ học".
III. ĐI TỚI XÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG CỦA MỸ HỌC
Định nghĩa "mỹ học là triết học về nghệ thuật" tuy đã nêu bật được đối
tượng then chốt nhất của mỹ học là sự sáng tạo nghệ thuật, nhưng vẫn chưa
làm bằng lòng tất cả các nhà nghiên cứu, đặc biệt là những nhà nghiên cứu
mác-xít. Ở đây, bên cạnh sự khác nhau về cách nhìn, về quan niệm, nguyên
do còn ở chỗ nền văn minh nhân loại phát triển mạnh mẽ đã mở rộng phạm vi
nghiên cứu của mỹ học, khiến cho đối tượng của nó là một vấn đề vẫn còn bỏ
ngõ.
Các nhà mỹ học mác-xít cho rằng quan niệm "mỹ học là triết học về
nghệ thuật" vô hình trung đã gạt bỏ một bộ phận hết sức quan trọng làm
nguồn gốc, cội rễ của nghệ thuật, đó là đời sống thẩm mỹ. Mỹ học mác-xít
khước từ cách nhìn nghệ thuật trước hết như sự tự biểu hiện, sự hóa thân
của thế giới tâm linh người nghệ sĩ để kiên trì luận điểm cho rằng nghệ thuật
xét cho cùng là sự phản ánh hiện thực khách quan - một sự phản ánh năng
động và đặc thù. Do vậy, mỹ học, cùng với sự nghiên cứu về nghệ thuật, phải
đặt nhiệm vụ hàng đầu là nghiên cứu đời sống thẩm mỹ với những khách thể
thẩm mỹ tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác, tình cảm, tư tưởng của con
người. Cái đẹp trước hết là cuộc sống, nghĩa là một thực thể khách quan. Ở
đây chúng ta thấy ranh giới giữa các nhà mỹ học mác-xít với những nhà mỹ
học chủ trương cái đẹp trước hết là ở con người; còn thiên nhiên tự nó là phi
thẩm mỹ (anesthétique), nó chỉ có giá trị thẩm mỹ khi được nhìn qua lăng kính
của nghệ thuật, cũng như núi chỉ trở thành đẹp từ khi con người trở thành
lãng mạn.
Nhấn mạnh thuộc tính thẩm mỹ khách quan của thế giới hiện thực, các
nhà mỹ học mác-xít đã cung cấp cho chúng ta những định nghĩa, đôi khi khá
dài dòng, về mỹ học. Trong cơ sở mỹ học Mác-Lênin, J.Lukin và V.
Skatershikov viết: "Mỹ học là khoa học về cái thẩm mỹ” trong hiện thực, về
bản chất và các qui luật của nhận thức thẩm mỹ và hoạt động thẩm mỹ của
con người, là khoa học về các qui luật chung của sự phát triển nghệ thuật với
tư cách là một hình thức đặc thù của sự phán ánh và cải tạo thế giới". Còn
đây là định nghĩa của bộ giáo trình Mỹ học Mác - Lênin do giáo sư
M.Ovsannikov chủ biên: "Mỹ học là khoa học về cái thẩm mỹ trong thiên nhiên
và xã hội, trong nền sản xuất vật chất và tinh thần, về những nguyên tắc
chung trong sự sáng tạo theo qui luật của cái đẹp về nguồn gốc, những qui
luật phát triển và vận động của ý thức thẩm mỹ, trong đó có nghệ thuật với tư
cách là một hình thức đặc thù của sự phản ánh thực tại".
Cơ sở của hai định nghĩa trên chính là lý luận phản ánh của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, theo đó ý thức của con người - trong đó có ý thức thẩm
mỹ - là tính thứ hai so với hiện thực - bao gồm hiện thực tự nhiên và xã hội -
là tính thứ nhất. Dưới ảnh hưởng của phản ánh luận nghệ thuật, trong bình
diện ý thức thẩm mỹ của con người, đã được nhìn nhận ở chức năng phản
ánh, khám phá hơn là chức năng sáng tạo, phát minh.
Phương diện sáng tạo, phát minh ra những giá trị mới, đặc biệt là
những giá trị nhân văn có ý nghĩa toàn thế giới, được J. Borev chú ý khi ông
đưa ra một định nghĩa trong công trình Mỹ học: "Mỹ học là khoa học về bản
chất của những giá trị toàn nhân loại hình thành về mặt lịch sử, về sự khai
sinh, tiếp nhận, đánh giá và khai thác các giá trị đó. Mỹ học là một khoa học
có tính chất triết lý về những nguyên tắc chung nhất của sự khám phá thẩm
mỹ đối với thế giới trong tiến trình hoạt động của con người, trước hết là trong
nghệ thuật, nơi mà qui luật của cái đẹp đã hình thành, kết tinh và đạt đến độ
hoàn thiện”.
Sự khám phá thẩm mỹ trong tiến trình hoạt động của con người có một
phạm vi rộng rãi hơn nghệ thuật rất nhiều. Trong thời đại khoa học kỹ thuật
hiện nay, đời sống thẩm mỹ phát triển hết sức năng động. Những nhân tố
thẩm mỹ đã thấm sâu vào các lĩnh vực hoạt động và ý thức con người đến độ
có thể nói đến "sự thay đổi về vị thế của một nền văn hóa mà trong thời hiện
đại về căn bản, đã mang hình thái của mỹ học”.
Nói cách khác, nền văn hóa và văn minh nhân loại đang được mỹ học
hóa. Điều đó thể hiện qua sự xuất hiện và phát triển của các loại hình hoạt
động thẩm mỹ nằm ngoài phạm vi của sáng tạo nghệ thuật, chẳng hạn design
hay mỹ học ứng dụng, mỹ học kỹ thuật, giáo dục thẩm mỹ, tổ chức thẩm mỹ
môi trường, việc thẩm mỹ hóa các ngành hoạt động có tính xã hội như du lịch,
thể thao...
Trong các loại hình hoạt động đó, sự phát triển của design đã đặt ra
cho các nhà mỹ học nhiệm vụ nghiên cứu mối tương quan giữa cái thẩm mỹ
và cái thực dụng trong sáng tạo khoa học và công nghệ, hiệu quả xã hội của
hình thức thẩm mỹ trong các tác phẩm nghệ thuật ứng dụng. Design có liên
quan đến các phẩm chất hình thức của đồ vật, chẳng hạn như các máy móc
và công cụ lao động, các phương tiện chuyên chở hàng hóa, các sản phẩm
lao động làm ra..., và đây không chỉ là những đặc điểm bên ngoài mà còn là
mối liên hệ cấu trúc tạo nên sự thống nhất về chức năng của các đồ vật đó.
Mục đích của mỹ thuật công nghiệp là đưa cái đẹp vào sản xuất và đời
sống, tạo ra sự hài hòa trong môi trường, phương tiện, điều kiện lao động,
sản phẩm lao động, góp phần tiến tới thẩm mỹ hóa chính bản thân người lao
động. Sự hài hòa của toàn bộ không gian, ánh sáng, màu sắc, âm thanh bao
bọc chung quanh con người là điều kiện cần thiết để hình thành nên một thế
giới được nhân hóa, trong đó con người trở nên đẹp hơn, cũng đồng thời trở
nên nhân đạo hơn.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà những bước tiến của nền
văn minh cũng song hành với sự hình dung của con người về cái đẹp thông
qua những vật dụng hằng ngày, từ bộ ly uống nước, chiếc máy điện thoại, cái
nôi của em bé cho đến một chiếc ô-tô theo kiểu mới nhất. Con người đã tạo
ra nền văn minh bằng cách cải tiến các vật dụng đó không chỉ theo hướng
hiện đại hơn để thuận tiện cho cuộc sống của mình, mà còn theo hướng thẩm
mỹ hơn, đẹp hơn, tinh tế hơn. Sự vận động về phương diện thẩm mỹ trong
nền sản xuất ở các xã hội công nghiệp cũng là một đối tượng nghiên cứu của
mỹ học. Nếu nghệ thuật là những ngày hội thẩm mỹ của nhân loại thì hoạt
động, mỹ thuật công nghiệp là những ngày thường của cuộc sống và mỹ học
lấy nó làm đối tượng nghiên cứu chính là mỹ học của cái thường ngày.
Như vậy là cùng với quá trình mở rộng phạm vi đối tượng nghiên cứu
của mình, mỹ học đã từng bước trở thành một lĩnh vực độc lập với triết học và
nghệ thuật học là hai ngành mà nó phụ thuộc xưa nay.
Với tư cách là một khoa học nhân văn, mỹ học mang tính chất triết lý,
nhưng đồng thời nó cũng có đặc trưng riêng, đối tượng riêng với những quy
luật tồn tại của nó. Nếu triết học nghiên cứu những qui luật chung nhất của
toàn bộ hệ thống các hình thái ý thức và tư tưởng, thì mỹ học tập trung
nghiên cứu ý thức thẩm mỹ chi phối sự khám phá và phát minh của con
người theo qui luật của cái đẹp.
Như một cầu nối giữa triết học và nghệ thuật học, mỹ học đã trở thành
lý thuyết chung nghiên cứu những vấn đề phổ quát của nghệ thuật. Còn nghệ
thuật học lại nghiên cứu nguồn gốc, đặc điểm, chức năng và qui luật phát
triển của các loại hình nghệ thuật cụ thể trong đời sống tinh thần của xã hội.
Mỹ học không thể cung cấp cho chúng ta kiến thức về tất cả các ngành nghệ
thuật như văn học, sân khấu, âm nhạc, hội họa, điện ảnh, kiến trúc...; nhưng
lại là cơ sở lý luận và định hướng triết lý cho các ngành nghệ thuật chuyên
biệt – những bộ phận hợp thành hệ thống tri thức chung về sáng tạo nghệ
thuật. Mỹ học củng cố mối quan hệ mật thiết với tâm lý học sáng tạo và cảm
thụ nghệ thuật, với xã hội học nghệ thuật.
Nghệ thuật học - và tương ứng với nó là những ngành nghệ thuật,
chuyên biệt - bao gồm ba bộ môn: lý luận nghệ thuật, lịch sử nghệ thuật và
phê bình nghệ thuật. Không thể hình dung những nhà nghiên cứu hoạt động
trong các bộ môn này lại thiếu tri thức về mỹ học. Mặt khác, cần phải nhấn
mạnh rằng: những tư tưởng mỹ học sâu sắc nhất bao giờ cũng được gieo
trồng và thu hoạch trên mảnh đất màu mỡ của các thành tựu nghệ thuật. Qui
luật của sự khai thác và phát minh thẩm mỹ biểu hiện tập trung nhất, đầy đủ
nhất và trực tiếp nhất trong nghệ thuật. Vì vậy, nghệ thuật là lĩnh vực sáng tạo
những giá trị thẩm mỹ có ảnh hưởng quyết định đối với sự phát triển của mỹ
học. Nếu việc giới hạn đối tượng của mỹ học trong phạm vi nghệ thuật là một
phiến diện, thì việc đặt nghệ thuật ngang hàng với những lĩnh vực khác của
đời sống thẩm mỹ cũng là một điều phiến diện không kém. Trong đời sống
tinh thần của xã hội ta hiện nay, các tư tưởng mỹ học còn nghèo nàn. Một
trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng đó là do chưa có những
đỉnh cao về sáng tạo nghệ thuật có tầm cỡ thế giới và chưa có một công
chúng nghệ thuật đạt trình độ cao.
Ngày nay mỹ học bao gồm các lĩnh vực lý luận về bản chất và qui luật
của sáng tạo nghệ thuật, lý luận về design và sự khám phá môi trường đồ vật,
lý luận về giáo dục thẩm mỹ. Sự khám phá thẩm mỹ của con người không chỉ
hướng tới thế giới mà còn hướng vào chính mình, bởi vì cái đẹp không chỉ là
"quà tặng của hiện thực” mà còn là hoa trái từ cõi tâm linh sâu thẳm của con
người. Cái đẹp trong tác phẩm nghệ thuật, theo F. Nietzsche, là biểu hiện
hoàn tất nhất của nhân cách tác giả một tấm danh thiếp đặc biệt tinh vi. Với tư
cách là chủ thể thẩm mỹ, con người không dừng lại ở sự khám phá thẩm mỹ
mà còn tiến đến sự phát minh, sáng tạo ra những giá trị mới theo qui luật của
cái đẹp. Sự phát minh đó sẽ để lại dấu ấn trên đời sống tinh thần và làm cho
thế giới trở thành thế giới của con người, do con người.
Từ những nhận xét trên, chúng ta có thể đi tới kết luận: Mỹ học là khoa
học về bản chất của ý thức thẩm mỹ và hoạt động thẩm mỹ nơi con người
nhằm khám phá và phát minh ra những giá trị trên cơ sở qui luật của cái đẹp,
trong đó nghệ thuật là giá trị cao nhất.
Một quan niệm như vậy về mỹ học bao gồm các tiền đề lý luận sau đây:
1. Mỹ học là một khoa học, nghĩa là nó được xây dựng trên cơ sở của
các khái niệm và mệnh đề suy lý của tư duy trừu tượng, hướng đến việc tìm
hiểu những vấn đề có tính bản chất và qui luật của ý thức thẩm mỹ và hoạt
động thẩm mỹ.
2. Đó là khoa học về hoạt động của tinh thần, ý thức con người trong
khi hướng tới thế giới; và chính mình. Như vậy mỹ học không nhằm nghiên
cứu vẻ dẹp của một dòng sông hay một bản nhạc mà nhằm nghiên cứu ý
thức của con người, trong khi phát hiện ra vẻ đẹp của dòng sông và sáng tạo
ra cái đẹp của nhạc phẩm, tới đó mà rút ra đặc điểm chung của phạm trù "cái
đẹp”...
3. Mỹ học gắn liền không chỉ với sự khám phá ra những giá trị đã có
trong thế giới hiện thực hay trong thế giới tâm linh của con người, mà còn với
sự phát minh, sáng tạo ra những giá trị mới. Như vậy mỹ học không thể bằng
lòng với lý luận phản ánh mà phải vươn tới lý luận về sự sáng tạo của con
người theo qui luật của cái đẹp.
4. Những giá trị nói ở đây là những giá trị được hình thành và phát
minh trên cơ sở qui luật của cái đẹp, tức là những giá trị thẩm mỹ. Nói đến giá
trị là nói đến cái nhìn, cách đánh giá, nghĩa là nói đến mối quan hệ. Chỉ có thể
khám phá, phát minh ra những giá trị thẩm mỹ nếu xác lập được cái nhìn
thẩm mỹ và mối quan hệ thẩm mỹ. Tư cách chủ thể của con người đối với thế
giới hiện ra trên nhiều mối quan hệ khác nhau: kinh tế, chính trị, đạo đức...
Quan hệ thẩm mỹ không nhất thiết đối lập với các quan hệ đó, nhưng nhất
thiết phải khác về bản chất với các quan hệ đó. Quan hệ thẩm mỹ không đặt
nền tảng trên sự thỏa mãn những động cơ về kinh tế, sự mưu cầu những lợi
ích về chính trị hay sự chiều theo những qui luật đạo đức hiện hành. Quan hệ
thẩm mỹ là quan hệ làm thanh lọc con người, tách con người khỏi những mối
ràng buộc có tính cách vật chất nhằm thiết lập một sợi dây tinh thần giữa con
người đối với thế giới và đối với chính mình trên cơ sở của cái đẹp.
5. Thừa nhận thiết kế mỹ thuật và những phương diện khác của đời
sống thẩm mỹ cũng là hoạt động khám phá và phát minh ra cái giá trị thẩm
mỹ, điều đó không có nghĩa là đánh đồng vai trò của chúng với vai trò của
nghệ thuật trong tư cách đối tượng nghiên cứu của mỹ học. Cần phải xem
nghệ thuật, là giá trị thẩm mỹ cao nhất bửoi vì ở đó qui luật về sự hài hòa -
tức là qui luật của cái đẹp - được thực hiện hoàn hảo hơn đâu hết. Không
phải ai khác mà chính những nghệ sĩ tài năng là thầy dạy cho công chúng biết
thế nào là giá trị thẩm mỹ. Mặt khác, với tư cách là đối tượng ưu tiên nhất của
nghiên cứu mỹ học, nghệ thuật không những tạo tiền đề cho sự thai nghén và
ra đời những tư tưởng mỹ học sâu sắc mà còn góp phần điều chỉnh, uốn nắn
những tư tưởng mỹ học đã lỗi thời và lạc hậu.
Với một quan niệm như vậy về đối tượng của mỹ học, cơ cấu của công
trình Mỹ học đại cương bao gồm các chương sau đây:
- Mỹ học là gì?: giải quvết vấn đề đối tượng và xác lập một định nghĩa
cho mỹ học.
- Ý thức thẩm mỹ: nghiên cứu những cấp độ hoạt động ý thức của con
người với tư cách là chủ thể thẩm mỹ.
- Các phạm trù thẩm mỹ: nghiên cứu các phạm trù thẩm mỹ như cái
đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài như là những công cụ của tư duy nhằm nhận
thức và đánh giá các hiện tượng thẩm mỹ trong đời sống và trong nghệ thuật.
- Nghệ thuật như một lĩnh vực thẩm mỹ nghiên cứu bản chất và đặc
trưng của ngnệ thuật, lãnh vực hoạt động trung tâm của sự sáng tạo ra những
giá trị theo qui luật của cái đẹp.
- Các Loại hình nghệ thuật: nghiên cứu đặc điểm của các loại hình
nghệ thuật (văn học, hội họa, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, điêu khắc...)
nhằm làm rõ bản chất và qui luật của sự khám phá và phát minh thẩm mỹ.
- Vấn đề giáo dục thẩm mỹ: trả lời câu hỏi có thể giáo dục thẩm mỹ cho
con người hay không và giáo dục bằng cách nào.
Chương 2. Ý THỨC THẨM MĨ
I. BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC THẨM MỸ
"Con người là một cây sậy, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ" (L.
Pascal): năng lực ý thức chính là dấu hiệu phân biệt con người với các động
vật khác. Ý thức con người là một hợp thể bao gồm nhiều phương diện đa
dạng như chính sự đa dang của hoạt động con người. Với tư cách một bộ
phận của ý thức nói chung, ý thức thẩm mỹ cũng là nền tảng tinh thần bảo
đảm cho sự thống nhất hài hòa và mối quan hệ nội tại giữa các phương diện
khác nhau đó trong đời sống tinh thần của con người và của cả xã hội. Mặc
dù có thể được trừu tượng hóa như một bộ phận độc lập, ý thức thẩm mỹ vẫn
có chức năng tổng hợp, điều phối các phương diện khác của ý thức nói
chung. Khái niệm chân lý và điều thiện không thể được quan niệm đầy đủ nếu
thiếu khái niệm về cái đẹp, và đến lượt nó, cái đẹp bộc lộ ra khi ý thức con
người tiếp cận với chân lý và ý chí con người vươn đến điều thiện.
Ý thức thẩm mỹ không chỉ ở dạng tiềm thể nơi những con người có văn
hóa thẩm mỹ mà còn được hiện thực hóa thông qua hoạt động thẩm mỹ.
Tuy nhiên, không nên quan niệm hoạt động thẩm mỹ như một lãnh vực
tách biệt một cách tuyệt đối khỏi các hình thức hoạt động khác của đời sống
con người. Thật ra trong bất kỳ hoạt động nào của con người và xã hội cũng
đều có những nhân tố tác động đến sự nảy sinh và phát triển của ý thức thẩm
mỹ. Những nhân tố thẩm mỹ đó với những mức độ quan trọng khác nhau, giữ
vai trò trong tất cả các lãnh vực của hoạt động sản xuất, hoạt động tinh thần,
hoạt động giao tiếp hằng ngày và đặc biệt là hoạt động sáng tạo và tiếp nhận
nghệ thuật.
Trong hoạt động sản xuất, con người tạo ra những sản phẩm không chỉ
mang giá trị sử dụng mà còn mang tính thẩm mỹ. Nhu cầu về cái đẹp của đồ
vật vừa biểu hiện lại vừa tác động đến ý thức của cả người sản xuất, chế tạo
ra đồ vật lẫn của người tiêu dùng. Sở dĩ như vậy là vì con người, ngay trong
quá trình sản xuất, có khả năng tách ra khỏi những nhu cầu thực dụng trực
tiếp của bản thân để vươn tới sự sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Điều này
đã được chính K. Marx nhấn mạnh trong Bản thảo kinh tế - triết học năm
1844: “Súc vật cố nhiên cũng sản xuất. Nó xây dựng tổ, chỗ ở cho nó như
con ong, con hải ly, con kiến v.v... Nhưng súc vật chỉ sản xuất cái mà bản
thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến, sản xuất một chiều; còn con người thì
sản xuất một cách phổ biến; súc vật chỉ sản xuất dưới sự thống trị của nhu
cầu vật chất trực tiếp, trong khi đó thì con người sản xuất ngay khi thoát khỏi
nhu cầu vật chất, và chỉ khi thoát khỏi nhu cầu đó thì mới sản xuất theo ý
nghĩa chân chính của chữ đó; súc vật chỉ tái sản xuất ra bản thân mình, còn
con người thì tái sản xuất ra toàn bộ tự nhiên; sản phẩm của súc vật trực tiếp
gắn liền với cơ thể vật chất của nó, còn con người thì đối lập một cách tự do
với sản phẩm của mình. Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu
cầu của giống loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo
của bất kỳ giống nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích dụng cho
đối tượng; do đó con người nào cũng nhào nặn vật chất theo qui luật của cái
đẹp".
Ý thức thẩm mỹ không bao giờ cắt đứt hoàn toàn mối quan hệ với ý
thức thường ngày. Một con người bình thường vẫn có thể có ý thức thẩm mỹ
tốt dựa trên kinh nghiệm sống của người ấy. Tuy nhiên, nếu ý thức thường
ngày bị giới hạn bởi lợi ích thực tiễn, thì ý thức thẩm mỹ lại thể hiện tính vô tư
và tầm bao quát hiện thực một cách rộng rãi, hướng tới những hiện tượng
không đụng chạm trực tiếp tới thực tiễn xã hội thông qua phương thức khai
thác và khám phá một cách toàn vẹn thế giới bên ngoài và bên trong con
người.
Ý thức, thẩm mỹ có thể xuất hiện trong từng hành vi tích cực của con
người, dù đó là nghiên cứu khoa học hay nhận thức xã hội, hoạt động sản
xuất hay sinh hoạt hằng ngày. Với cái nhìn thẩm mỹ, con người đánh giá bất
cứ hiện tượng khách quan nào được họ chứng kiến và đưa vào kho tàng kinh
nghiệm sống của họ.
Nghệ thuật, với tư cách lãnh vực hoạt động thẩm mỹ chuyên biệt, đã
biến ý thức thẩm mỹ từ một bộ phận hợp thành của ý thức con người nói
chung trở thành nhân tố chủ đạo và do đó cái đẹp trở thành cứu cánh của
nghệ thuật. Nghệ thuật là lãnh vực mà trong đó ý thức thẩm mỹ thực hiện trọn
vẹn nhất, là hình thái cao nhất của sự biểu hiện ý thức thẩm mỹ. Nói cách
khác, nghệ thuật là hình thức hoạt động triển khai đầy đủ nhất những đặc
trưng của ý thức thẩm mỹ xét trên bình diện xã hội lẫn trên bình diện cá nhân.
Trong lịch sử tư tưởng mỹ học đã hình thành hai quan niệm đối lập
nhau về bản chất của ý thức thẩm mỹ.
1. Quan niệm có tính chất bản thể luận, xem xét ý thức thẩm mỹ như là
sự phản ánh bản thân tồn tại bằng những nguyên tắc đặc biệt.
2. Quan niệrn có tính chất nhận thức luận, trái lại cắt nghĩa ý thức thẩm
mỹ như là một phẩm chất, thuộc tính của ý thức con người (chủ yếu biểu hiện
trong nghệ thuật - hình thức, đặc biệt của hoạt động con người) và bất cứ
những dự tính nào đưa cái đẹp trở về với thế giới khách quan cũng bị quan
niệm này xem là sự dung tục hóa cái đẹp, sự phủ nhận tính chất độc lập và tự
trị của nghệ thuật.
Thật ra cả hai quan niệm trên đều có tính chất cực đoan. Một mặt
những phẩm chất thẩm mỹ bao giờ cũng mang "tính người", nghĩa là có tính
chất nhận thức luận; do vậy mà không thể xem xét chúng như những yếu tố
nguyên ủy của thế giới hiện hữu không phụ thuộc vào con người. Vấn đề của
mỹ học là tìm hiểu các hiện tượng thẩm mỹ tồn tại như thế nào, đồng thời
được con người tiếp nhận ra sao. Sự hiện hữu của con người là điều kiện tất
yếu để biến những giá trị thẩm mỹ từ khả năng thành hiện thực. Chính trong ý
nghĩa đó mà Hegel đã nhấn mạnh rằng thiên - nhiên - tự - nó không bao giờ
tồn tại trong phạm trù của cái đẹp.
Nhưng mặt khác, sự phụ thuộc của các phẩm chất thẩm mỹ đối với con
người hoàn toàn không có nghĩa là những phẩm chất đó chỉ có thể bộc lộ
trong nghệ thuật, hoạt động thẩm mỹ đặc biệt của con người, mà thôi. Bởi vì
đối với chủ thể, thiên nhiên, tha nhân và tất cả những sản phẩm của hoạt
động con người đều có ý nghĩa biểu cảm về mặt thẩm mỹ. Các phẩm chất
thẩm mỹ, do vậy nói lên bản chất khách quan của mối quan hệ hỗ tương và
đa dạng giữa con người và thế giới. Theo ý nghĩa đó, các phạm trù thẩm mỹ
vừa mang tính chất khách quan, vừa là những phạm trù nhận thức luận.
Như vậy, bản chất của ý thức thẩm mỹ là một cái gì lưỡng tính, có mối
quan hệ biện chứng, phụ thuộc đồng thời vào cả chủ thể lẫn khách thể thẩm
mỹ. Chẳng hạn, sự phụ thuộc của cảm xúc thẩm mỹ với khách thể thẩrn mỹ
thể hiện ở chỗ cảm xúc đó chỉ xuất hiện với điều kiện có một nguồn kích thích
từ bên ngoài: một phong cảnh thiên nhiên, một khuôn mặt thiếu nữ hay một
tác phẩm nghệ thuật với một hình thức và chất liệu nhất định. Tính truyền
cảm của hình thức bên ngoài này là khởi nguyên của cảm xúc thẩm mỹ.
Ngược lại, cảm xúc thẩm mỹ cũng phụ thuộc vào chủ thể thưởng
ngoạn và điều này thể hiện ở chỗ trong khi đánh giá tính chất biểu cảm của
hình thức bên ngoài nơi đối tượng, chủ thể nhất thiết phải tăng cường sức
mạnh tinh thần để khám phá ý nghĩa bề sâu của nó. Đối tượng chỉ đạt đến
chất lượng biểu cảm khi nào nó không những được cảm nhận mà còn được
thức nhận với đầy đủ ý nghĩa của một hành vi thẩm mỹ. Bản thân đối tượng
phải được "nhân hóa", nghĩa là phải đi qua "lò luyện phản ứng" của tinh thần
con người để đạc đến một sự thức nhận thích hợp. Và chỉ trong trường hợp
hội đủ hai điều kiện là hình thức bên ngoài của đối tượng và ý nghĩa tinh thần
đã được nhân hóa của nó thì mới có thể nói đến một hiện tượng thẩm mỹ.
Cần phải nói thêm rằng trong hành vi nhận thức thẩm mỹ, không chỉ đối
tượng được nhân hóa mà cả chủ thể cũng được đối tượng hóa, hay nói đúng
hơn, hóa thân vào đối tượng. Trong khi khám phá ra ý nghĩa bên trong của
đối tượng, con người cũng dồng thời ban tặng cho thiên nhiên những mảnh
tinh thần của mình. Trong quan hệ thẩm mỹ, con người tự chiêm nghiệm
mình trong một thế giới do mình sáng tạo nên. Dưới hình thức, cụ thể và cảm
tính, bản chất con người được khách thể hóa trong tiến trình lao động nghệ
thuật và trong quá trình thưởng ngoạn thẩm mỹ những thành quả do lao dộng
nghệ thuật tạo ra. Trong khi tập trung sáng tạo và tái tạo thế giới các đối
tượng, con người đã truyền bản chất của mình cho các đối tượng ấy. Và đến
lượt chúng, những đối tượng ấy lại truyền cải bản chất người cho công chúng
quan tâm thưởng ngoạn và chiêm ngưỡng.
Ý thức thẩm mỹ có mối quan hệ phát sinh với sự phát triển của các
hình thức hoạt động và các mối giao tiếp của con người. Tuy nhiên, sẽ là sai
lầm nếu tuyệt đối hóa mối quan hệ đó, nếu xem mối quan hệ phát sinh này là
phổ quát trong toàn bộ đời sống thẩm mỹ. Tuy xuất hiện trong quá trình lao
động, nhưng càng về sau ý thức thẩm mỹ càng được giải phóng khỏi cội
nguồn sản sinh ra nó và trở nên độc lập đối với những hoạt động có mục đích
thực tiễn. Giá trị của xúc cảm thẩm mỹ không phải do nó đạt đến một mục
đích thực dụng trực tiếp nào đó. mà chính là một giá trị tự than. Điều đó, tất
nhiên, không có nghĩa là cái thẩm mỹ và cái công ích về nguyên tắc không thể
cùng dung hợp trong một đối tượng. Điều đó chỉ nhằm nói lên rằng không có
một mệnh lệnh nào có thể bắt buộc chúng ta phải xem cái đẹp chỉ như là cái
có ích hiển nhiên.
Ý thức thẩm mỹ chỉ có thể thực hiện thông qua hoạt động thẩm mỹ.
Đồng thời, ý thức thẩm mỹ cũng có tính độc lập tương đối so với hoạt động
thẩm mỹ và nghệ thuật, cũng như có đặc điểm riêng so với các hình thái ý
thức khác.
Với một trình độ tổng hợp cao. Ý thức thẩm mỹ luồn luôn hiện ra trong
hình thức cảm tính, trực tiếp, nối kết hình ảnh về thế giới được biến cải bởi trí
tưởng tượng với sự đánh giá từ một lý tưởng thẩm mỹ nhất định. Tuy mang
hình thức cảm tính, nhưng ý thức thẩm mỹ lại là một hiện tượng tinh thần nảy
sinh qua sự thống nhất và hòa hợp giữa chủ quan và khách quan, cảm xúc và
trí tuệ, tình cảm và ý chí, vô thức và ý thức, nghĩa là tất cả những lực lượng
tinh thần của con người trong thể toàn vẹn của chúng.
Qua khái niệm ý thức thẩm mỹ, chúng ta muốn nói đến thực thể tinh
thần đa dạng bao gồm nhiều thành tố có tác động và thẩm thấu với nhau tạo
thành một hệ thống nhất định. Những thành tố cơ bản hợp thành ý thức thẩm
mỹ là cảm xúc thẩm mỹ; thị hiếu thẩm mỹ, tư tưởng thẩm mỹ. Bên cạnh đó,
có những thành tố không cơ bản nhưng cũng góp phần tạo nên hệ thống ý
thức thẩm mỹ; như khát vọng về chân lý, ý thức trách nhiệm, lương tâm....
Ý thức thẩm mỹ bị qui định bởi nhu cầu và trình độ thẩm mỹ một thời
đại. Nhưng thông qua những cá nhân kiệt xuất - như những nhà tư tưởng;
những nghệ sĩ có tầm cỡ - nó có thể vượt qua giới hạn của một thời đại.
Ngược lại, ý thức thẩm mỹ của một thời đạị chỉ được thể hiện thông qua ý
thức của những cá nhân tiếp nhận và làm phong phú ý thức đó bằng những
kinh nghiệm sống của riêng mình. Ý thức thẩm mỹ của thời đại sẽ mất hết ý
nghĩa nếu không được thể nghiệm thông qua những cảm xúc thẩm mỹ cá
nhân.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức thẩm mỹ không chỉ
phản ánh tồn tại xã hội mà còn sáng tạo ra những giá trị mới và tác động tích
cực đối với sự phát triển của tồn tại xã hội. Ý thức thẩm mỹ không chỉ cung
cấp cho chúng ta một hình ảnh đúng đắn và gợi cảm về thế giới mà còn phác
họa và dự báo cho con người con đường vươn tới một thế giới mới đẹp hơn,
nhân đạo hơn. Như vậy, ý thức thẩm mỹ không chỉ là một hình thái nhận thức
thế giới mà là hình thái tự nhận thức và tự hoàn thiện của con người. Có thể
nói ý thức thẩm mỹ đã nối dài ý nghĩa sự hiện hữu của con người trên mặt đất
này.
II. CẢM XÚC THẨM MỸ
Đó là trạng thái xúc động trực tiếp nảy sinh khi con người tri giác các
khách thể thẩm mỹ: thiên nhiên, con người, các sản phẩm lao động, các công
trình nghệ thuật.
Cảm xúc thẩm mỹ có thể là niềm hân hoan, vui sướng, thích thú trước
cái đẹp; là nỗi đau xót, mến phục, thương tiếc trước cái bi; là niềm cảm phục,
tôn kính trước cái cao cả... Đó là dấu hiệu thường trực xác nhận sự có mặt
của quan hệ thẩm mỹ, là biểu thị đầu tiên của ý thức thẩm mỹ trước thế giới.
Đồng thời, cảm xúc thẩm mỹ cũng là bằng chứng nói lên khả năng cảm thụ
thẩm mỹ của con người trước các hiện tượng thẩm mỹ trong thiên nhiên, xã
hội và đời sống tâm linh, là bằng chứng xác nhận rằng con người không "tật
nguyền về cảm quan" trước cái đẹp! Qua cảm xúc thẩm mỹ con người khám
phá ra vẻ đẹp của thế giới và của chính mình, đồng thời bước đầu "nhân hóa"
thế giới và nhân hóa chính mình.
Khởi nguyên của cảm xúc thẩm mỹ là một nguồn kích thích mà đối
tượng gây ra cho chủ thể. Đối tượng thẩm mỹ tác động đến chủ thể sẽ tạo ra
sự tiếp nhận phản ứng về mặt tình cảm với hai khả năng tích cực hoặc tiêu
cực. Lúc cảm xúc thẩm mỹ xuất hiện cũng là lúc đối tượng không còn là sự -
vật - tự - nó mà trở thành sự - vật - cho - ta và ý thức trở thành ý - thức – về!
Không có nguồn kích thích của đối tượng thì tất nhiên không có cảm xúc thẩm
mỹ; nhưng nếu không có ý hướng của tinh thần về phía đối tượng thì cũng
không thể có cảm xúc thẩm mỹ.
Như vậy cảm xúc thẩm mỹ không chỉ đơn giản do các khách thể tương
ứng sinh ra, mà là kết quả sự nhập cảm của ý thức chủ thể vào đối tượng. Ý
thức thẩm mỹ dường như thâm nhập vào các đối tượng này, bộc lộ và phân
phát "bản chất người" của nó vào toàn bộ cấu trúc của đối tượng bằng một
sự thấm đẫm sâu sắc. Nói cảm xúc thẩm mỹ biến thế - giới - tự - nó thành thế
- giới - cho - ta là vì vậv.
Vấn đê khả năng nhập cảm của con người là nội dung của lý thuyết mỹ
học - tâm lý học với các nhà tư tưởng có tên tuổi như Fisher, Lipps... Các nhà
mỹ học này cho rằng sự nhập cảm là cơ sở của cảm xúc thẩm mỹ. Theo
Fisher, nhà mỹ học người Đức, sự nhập cảm chính là mối quan hệ giữa cảm
xúc nội tại với sự tri giác hình thức bên ngoài, là sự phản chiếu của tình cảm
trên những hình tượng được chủ thể tiếp nhận. Fisher còn đẩy ý tưởng đó đi
xa hơn đến chỗ cho rằng bản chất của đối tượng được tiếp nhận chính là kết
quả của sự di chuyển trạng thái tình cảm của chủ thể đến đối tượng. Như
vậy, thiên nhiên tự nó không vui không buồn, chỉ có con người đem cái buồn
của mình mà trải lên cảnh vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
(NGUYỄN DU)
hay:
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong
(THÂM TÂM)
Về phương diện tâm lý học, Lipps, nhà tư tưởng người Đức, xác định
mối quan hệ giữa cảm xúc thẩm mỹ với cơ chế cảm xúc của tâm lý con người
và khẳng định rằng con người chỉ nhận ra được các giá trị thẩm mỹ trong
những hình tượng cảm tính phản ánh chính bản thân mình, một sự phản ánh
trực tiếp và năng động của chủ thể. Theo Lipps, sự nhập cảm chính là một
tình cảm tự thân được đối tượng hóa. Trong sách Tâm lý văn nghệ, Chu
Quang Tiềm gọi đây là thuyết Di tình tác dụng hay là Vật ngã đồng nhất.
Sư kích thích của đối tượng làm nảy sinh ra cảm xúc thẩm mỹ hoàn
toàn khác với sự kích thích có tính chất sinh lý. Cảm xúc thẩm mỹ là nỗi xúc
động và niềm vui tinh thần, hoàn toàn khác với sự thỏa mãn của con người
khi đang lạnh mà được sưởi ấm, đang đói mà được cho ăn no. Bản chất của
cảm xúc thẩm mỹ là sự tổng hòa những yếu tố tinh thần bao gồm tình cảm,
nhận thức, cả truyền thống văn hóa mà một con người tiếp thu được.
Sự rung cảm của con người trước những ấn tượng thẩm mỹ nhận
được là một điều kiện không thể thiếu trong sáng tạo và thưởng ngoạn nghệ
thuật. Nếu không có cảm xúc, người sáng tác sẽ sản sinh ra những tác phẩm
nghèo nàn, mất máu, thiếu sức sống Nguyên lý này phù hợp không chỉ với
các thể loại trữ tình vốn bộc lộ tâm trạng con người, mà còn với tất cả các loại
hình nghệ thuật và thể loại văn học.
Về phía người thưởng thức và phê bình nghệ thuật, cảm xúc thẩm mỹ
cũng là một yếu tố tiên quyết để nắm bắt giá trị đích thực của tác phẩm. Ở
đây, các khái niệm lý luận, kiến thức khoa học... rất cần thiết để cảm thụ nghệ
thuật, nhưng nhiều khi không đủ để tiếp cận cái hay, cái độc đáo của tác
phẩm. Năng khiếu của nhà phê bình gắn liền với sự trực cảm, với những ấn
tượng tươi mới, những rung động xuất phát từ đáy sâu tâm hồn. Chúng ta
hiểu vì sao cho đến nay Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh vẫn được xem là
công trình phê bình xuất sắc nhất về phong trào Thơ Mới 1932 - 1945.
Tuy nhiên theo A. Buliough, nhà Mỹ học người Anh, cảm xúc thẩm mỹ
còn phụ thuộc vào một yếu tố quan trọng mà ông gọi là khoảng cách tâm lý
(distance psychologique). Một mặt, nếu giữa chủ thể thẩm mỹ và đối tượng
thẩm mỹ có một khoảng cách quá xa, thì chủ thể không thể lĩnh hội được giá
trị thẩm mỹ của đối tượng và không thể nào có thái độ cộng hưởng với cái
đẹp. Đó chính là trường hợp chủ thể đứng ngoài đời sống thẩm mỹ của đối
tượng, trở thành người bàng quan, dửng dưng không cảm xúc.
Mặt khác, nếu giữa chủ thể và đối tượng có một khoảng cách quá gần
thì dễ nảy sinh ra một động cơ thưởng ngoạn có tính chất thực dụng. Hậu
quả của tình trạng này là sự đồng nhất đối tượng thẩm mỹ với hiện thực, dẫn
đến lời phê bình chiếu nội dung nghệ thuật với thế giới thực tại, đồng nhất
nguyên mẫu với nhân vật, ngôn ngữ văn chương với ngôn ngữ toàn dân, thời
gian nghệ thuật với thời gian vật lý.
Trong nghệ thuật, khoảng cách tâm lý gắn liền với việc tổ chức tác
phẩm sao cho chủ thể tiếp nhận không có ảo tướng về tính hiện thực của nó
mà luôn luôn ý thức về tính ước lệ của sự sáng tạo. Chẳng hạn trong hội họa,
luật phối cảnh cho phép thể hiện không gian ba chiều của đối tượng lên mặt
tranh, đồng thời giới hạn bức tranh trong cái khung để tách nó ra khỏi không
gian hiện thực. Trong sân khấu, nhà đạo diễn, tác giả kịch bản, các diễn viên,
người hóa trang một mặt tạo cho khán giả ấn tượng về một thế - giới – giống
– như - thật đang diễn ra trước mắt mình; mặt khác lại phá hủy thế giới đó
thông qua những phương tiện như mặt nạ, cảnh trí, ánh sáng v.v... Với kịch
tự sự biện chứng của B. Brecht, nhà viết kịch người Đức, thì vai trò của
khoảng cách tâm lý này càng được nhấn mạnh bằng thủ pháp "lạ hóa" nhằm
"đánh thức" khán giả để họ tỉnh táo suy xét các hiện tượng đang xảy ra trước
mắt và giữ một khoảng cách cần thiết mà nhận định và phê phán các diễn
biến của vở kịch thay vì rơi vào ảo tưởng đồng nhất giữa sân khấu và cuộc
đời.
Nói theo L. Feuerbach, triết gia người Đức, nghệ thuật không bao giờ
đòi hỏi phải thừa nhận nó như là hiện thực. Vì vậy, khoảng cách tâm lý là một
điều kiện cần thiết để làm cho tác phẩm trở thành đối tượng của sự suy
ngảm, chiêm nghiệm, và cho phép chúng ta đánh giá sự tái hiện nghệ thuật
đối với thế giới cũng như tính cách của các nhân vật và quan niệm nghệ thuật
của tác giả. Đồng thời một khoảng cách tâm lý thích ứng cũng sẽ tạo nên hiệu
quả của việc "đồng sáng tạo" của công chúng đối với tác phẩm nghệ thuật,
làm cho họ có khả năng tiếp nhận tác phẩm từ cấu trúc bên trong và đưa tác
phẩm vận hành vào trong đời sống. Theo ý nghĩa đó, việc xem nhẹ vấn đề
khoảng cách tâm lý trong bất kỳ trường hợp nào cũng đều có hại cho nghệ
thuật.
Với tư cách là thành tố cơ bản của ý thức thẩm mỹ, cảm xúc thẩm mỹ
có quan hệ mật thiết với năng lực trực quan của con người. Nếu cảm xúc
thẩm mỹ là dấu hiệu về -sự giao tiếp của chủ thể với đối tượng, thì điểm xuất
phát của sự giao tiếp đó chính là cái nhìn có tính chất trực quan của chủ thể.
Điều này vô cùng quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật, bởi vì nếu cái nhìn
trực quan này mà chính xác thì người nghệ sĩ mới có cơ may đạt đến sự
phong phú và chân thực của hình tượng nghệ thuật. Nhà danh họa Matisse
từng nói: "Đối với người nghệ sĩ thì sự sáng tạo bắt đầu từ cái nhìn. Nhìn
chính là một hành động sáng tạo đòi hỏi sự căng - thẳng - của tư duy".
Trực quan thẩm mỹ còn có ý nghĩa như một hình thức độc lập của hoạt
động thẩm mỹ tinh thần. Hình thức này đặc biệt phát triển trong nền văn hóa
và nghệ thuật các nước phương Đông, nơi mà những yếu tố duy lý có vai trò
rất mờ nhạt trong sáng tạo nghệ thuật. Chúng ta không mấy khó khăn để
nhận ra điều đó qua tranh thủy mạc của Trung Quốc, thơ Thiền thời Lý - Trần,
thơ Tagore, tiểu thuyết Kawabata...
Nảy sinh trong quá trình khám phá thẩm mỹ đối với thế giới và con
người, cảm xúc thẩm mỹ đá tác động tích cực đến sự hình thành những đặc
điểm của con người phát triển toàn diện và hài hòa. Cảm xúc thẩm mỹ góp
phần quan trọng vào việc điều tiết các chức năng tâm lý và sinh lý của con
người, giúp con người được thanh lọc về mặt tình cảm, đạo đức và tâm linh
để vươn tới đỉnh cao về nhân cách. Vì vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
hình thành cảm xúc thẩm mỹ tích cực và năng lực trực quan thẩm mỹ nhạy
bén ở con người là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của văn hóa
thẩm mỹ. Điều này có ý nghĩa đặc biệt thời sự trong hoàn cảnh nhân loại
đang đứng trước nguy cơ của sự tàn phá môi trường sinh thái như hiện nay.
III. THỊ HIẾU THẨM MỸ
Là một bộ phận hợp thành của ý thức thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹv thể
hiện sự bằng lòng và hứng thú của chủ thể khi tiếp nhận và đánh giá các đối
tượng thẩm mỹ nhất định. Trong thị hiếu thẩm mỹ, những cảm xúc thường có
ở một con người đã đi vào thể ổn định và hợp thành một thực thể tương đối
bền vững để biến thành sở thích thẩm mỹ của người đó.
Thị hiếu thẩm mỹ là một hiện tượng xã hội - lịch sử, trong đó kết hợp
những yếu tố có tính nhân loại, những yếu tố thuộc về tầng lớp, giai cấp, giới
tính và những yếu tố cá nhân. Nhấn mạnh một yếu tố này mà xem nhẹ các
yếu tố kia đều rơi vào quan điểm phi lịch sử và phiến diện. Thị hiếu thẩm mỹ
của một thời đại, một cộng đồng người luôn luôn biểu hiện thông qua những
thị hiếu cá nhân đa dạng, riêng biệt, độc đáo. Về phần nó, thị hiếu thẩm mỹ cá
nhân hình thành trên cơ sở kinh nghiệm thẩm mỹ của nhân loại, thời đại và
cộng đồng; đồng thời bao hàm những kinh nghiệm mới mà chính cá nhân đó
nếm trải khi tiếp xúc với đời sống thẩm mỹ không ngừng biến đổi và phát
triển.
Nếu cảm xúc thẩm mỹ thiên về khía cạnh trực giác, cảm quan và tình
cảm; thì trong thị hiếu thẩm mỹ đã có sự hòa hợp và cân bằng giữa cảm tính
và lý tính, giữa trực giác tức thời và sự nghiền ngẫm lâu dài. Vì vậy, chỉ
những người có trình độ văn hóa sâu, có sự từng trải và kinh nghiệm phong
phú, có đời sống đạo đức - tinh thần lành mạnh mới có thể có thị hiếu thẩm
mỹ cao quí. Ngược lại, những kẻ què quặt về kiến thức và tâm hồn, nghèo
nàn về kinh nghiệm sống, buông thả về mặt đạo đức thì nhất định sẽ có thị
hiếu thẩm mỹ thấp kém.
Thị hiếu thẩm mỹ là một hình thái biểu hiện năng lực và nhu cầu tinh
thần của cá nhân. Và sở dĩ một cá nhân ưa thích những hiện tượng thẩm mỹ
nào đó là do người ấy đã tiếp nhận một nền giáo dục có những thói quen, tính
cách, kinh nghiệm sống và giao tiếp nhất định nào đó. Chính là dưới ảnh
hưởng từng bước, diễn ra hằng ngày của môi trường chung quanh, của lối
sống của những nhân tố thẩm mỹ trong lao động và sinh hoạt, và nhất là của
nghệ thuật, mà thị hiếu thẩm mỹ của một cá nhân được hình thành. Không
phải ai khác hơn là chính các nghệ sĩ, bằng hoạt động sáng tạo và những tác
phẩm nghệ thuật đích thực của mình, góp phần quyết định vào việc nâng cao
thị hiếu thẩm mỹ của công chúng. Theo ý nghĩa đó, thị hiếu nghệ thuật là biểu
hiện tập trung nhất, là hạt nhân của thị hiếu thẩm mỹ.
Những xã hội văn minh và dân chủ luôn luôn coi trọnc việc nâng cao thị
hiếu thẩm mỹ của con người, đồng thời với việc bảo vệ sự phát triển đa dạng
của thị hiếu đó. Một mặt cần phải đấu tranh chống lại sự thỏa hiệp với những
thị hiếu thấp kém, tầm thường làm mục ruỗng đời sống tinh thần của con
người. Không nên xem việc cho ra đời những cuốn sách nhạt nhẽo, những bộ
phim vô vị là chuyện bình thường. Tình trạng đó kéo dài và trở nên phổ hiến
như trong đời sống văn hóa nghệ thuật ở nước ta hiện nay cần phải xem như
một căn bệnh trầm kha sẽ kéo cả xã hội đi xuống vực thẳm của sự suy sụp về
tinh thần và đạo đức.
Mặt khác, phải kiên quyết bảo vệ sự tồn tại và phát triển hợp pháp của
các thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh đa dạng. Xã hội cũng sẽ rơi vào sự tàn tạ về
văn hóa nếu nó chứa đựng nguy cơ bào mòn tất cả mọi khía cạnh độc đáo
muôn màu muôn vẻ của thị hiếu, để chỉ còn một loại sở thích độc tôn. Đối với
một nền nghệ thuật, không có gì đáng sợ cho bằng khi nó bị đầu độc bởi sự
giáo điều và đơn điệu. Lúc đó, con người bị tước mất khả năng chọn lựa,
những khát vọng của nó về cái đẹp bị vo tròn cho vừa với những cái khôn
đóng sẵn giống như những cái giường của Procuste.
Trên lĩnh vực nghệ thuật, quan điểm "văn nghệ phục vụ công nông
binh" ngày nay đã không còn có sức thuyết phục nữa. Nói theo một nhà
nghiên cứu, văn hóa là "hóa thành văn", nghĩa là phải làm cho cuộc sống vật
chất và tinh thần của con người mang cái vẻ đẹp vẻ sáng của văn minh, chứ
không phải chỉ tạo ra những món ăn vừa khẩu vị của tầng lớp "công nông
binh". Mỗi nền văn hóa phong phú đa dạng mới dẫn đến sự phong phú, đa
dạng về thị hiếu, thẩm mỹ. Và ngược lại, có chấp nhận sự đa dạng, phong
phú của thị hiếu mới tạo điều kiện cho sự phát triển đa dạng, phong phú của
văn hóa... Một nền văn hóa khô cứng và công thức tất sẽ đẻ ra những thị hiếu
nghèo nàn, què quặt và ngược lại.
Vấn đề sự đa dạng của thị hiếu thẩm mỹ có liên quan tới một hiện
tượng tâm lý xã hội rất phức tạp và tế nhị là "mốt" (mode).
"Mốt" là hiện tượng thay đổi từng phần các hình thức biểu hiện của đời
sống văn hóa dưới ảnh hưởng của các nguyên nhân kinh tế, xã hội, tâm lý,
đạo đức, thẩm mỹ. Hiện tượng xã hội này diễn ra có tính chất định kỳ và
nhiều khi lặp đi lặp lại.
Phạm vi ảnh hưởng của "mốt" không chỉ hạn chế trong lĩnh vực y phục,
nơi "mốt" có một sức mạnh đăc biệt mà ai cũng thừa nhận. Nó xâm chiếm
ngay cả trong lĩnh vực sản xuất và chính trị, khoa học và nghệ thuật, tư tưởng
và tâm lý xã hội.
Trong khi thực hiện chức năng xã hội của mình, "mốt" đã góp phần làm
phong phú những hình thức truyền thống của đời sống văn hóa. Bằng cách
này hay cách khác, những tập quán tồn tại trong một xã hội nhất định vẫn
thường khúc xạ thông qua "mốt", đồng thời ngay trong những tập quán đó
vẫn lưu giữ những "mốt" bền vững nhất của quá khứ. Với tư cách là một hình
thức nhất thời trong ứng xử và hành vi của một cộng đồng người, "mốt" biểu
hiện phương thức, hành vi, chuẩn mực mà cộng đồng đó thực hiện trong một
khoảng thời gian nhất định.
Trong hệ thống các chuẩn mực xã hội - thẩm mỹ, vị trí của "mốt" chủ
yếu do tính chất của môi trường - xã hội qui định. "Mốt" luôn luôn được biểu
hiện, thông qua những hình thức đánh giá mang tính cụ thể - cảm tính, nhờ
vậy mà nó gây ảnh hưởng đến sinh hoạt của con người thông qua một kiểu y
phục, một kiểu tóc, một cách ứng xử... "Mốt", do đó, phản ánh trình độ và đặc
điểm về thị hiếu thẩm mỹ của công chúng trong một giai đoạn lịch sử nhất
định.
Giữa "mốt” và lối sống của con người có mối quan hệ rất chặt chẽ. Điều
này thể hiện ở chỗ "mốt" là dấu hiệu bên ngoài của một nội dung cuộc sống
đang vận động. Thông qua các sở thích về y phục, âm nhạc, các điệu vũ...
người ta có thể thấy được sự thay đổi về quan niệm sống, về mức sống và về
lối sống.
Sự xuất hiện của "mốt" trong đời sống xã hội nhiều khi là một phép thử
cần thiết về tính bảo thủ cứng rắn của xã hội đó hay về khả năng thích nghi
của nó. Những công dân, trong đó có cả những trí thức, đại diện cho sự trì trệ
của xã hội thường là dị ứng với những "mốt" mà lớp trẻ lại nhiều khi vồ vập.
Nhà văn Nga J. Bondarev, chẳng hạn, có những phản ứng rất tiêu cực với sự
xuất hiện của cái quần jeans: ông cho đó là biểu hiện của văn hóa tiêu dùng,
làm thui chột nền văn hóa Nga. Tương tự như vậy, đã từng có những phản
ứng rất quyết liệt và thiếu công bình đối với các loại nhạc pop, nhạc rock, xem
chúng như là sản phẩm của văn minh suy đồi phương Tây. Nhưng ngày nay
nhiều người đều thấy rằng cái quần jeans cũng như nhạc pop, nhạc rock,
không có tội lỗi gì. Thậm chí cần phải thấy may mắn khi những sản phẩm đó
đáp ứng được đòi hỏi của công chúng trẻ, dù chỉ là một bộ phận hạn chế đi
nữa.
Tóm lại, không nên xem "mốt" như một hiện tượng thẩm mỹ thuần túy
mà còn là một hiện tượng xã hội. Theo Kant, khi con người chạy theo "mốt" là
nhằm chứng tó rằng mình cũng đáng chú ý không kém gì kẻ khác, nhằm ganh
đua để vượt lên kẻ khác. Giản lược bản chất của "mốt" chỉ như hiện tượng
thẩm mỹ thuần túy cũng sẽ không cho phép chúng ta giải thích một cách
thuyết phục nguyên nhân và ý nghĩa xã hội của nhiều hiện tượng văn hóa.
Chẳng hạn sự phổ biến những hình thức văn hóa phản thẩm mỹ bằng
phương tiện nghệ thuật hay thái độ hư vô chủ nghĩa khi phủ nhận những giá
trị văn hóa đích thực.
Trong xã hội ngày nay, sự phát triển về "mốt" cần phải được căn cứ
trên hành vi có ý thức của những cá nhân có khả năng chọn lựa và quyết định
một cách tự do, để "mốt" có thể tác động tích cực vào sự hình thành thị hiếu
thẩm mỹ cao đẹp thể hiện trong hành vi và lối sống của con người.
IV. LÝ TƯỞNG THẨM MỸ
Con người là một sinh vật không bao giờ bằng lòng với những điều
đang có trước mắt. Nó luôn luôn có khát vọng vươn tới sự hoàn thiện hoàn
mỹ trong viễn cảnh tương lai. Sự hoàn thiện hoàn mỹ đó có thể con người sẽ
không bao giờ đạt tới nhưng bao lâu con người còn đứng trên đôi chân của
mình thì bấy lâu vẻ đẹp lý tưởng còn có sức vẫy gọi nó đi về phía trước,
Lý tưởng - đó là ý niệm về sự hoàn thiện, là ước mơ về tương lai. Lý
tưởng phát huy sức mạnh của trí tuệ và ý chí con người, làm cho hành động
của con người vươn tới một mục tiêu rõ rệt. Sự thể hiện và thực hiện lý tưởng
đòi hỏi một tiền đề tất yếu là con người phải có tự do trong tất cả những hoạt
động thực tế của mình. Trong những lĩnh vực hoạt động đa dạng của con
người có thể nói đến lý tưởng xã hội - chính trị, lý tưởng đạo đức, lý tưởng
thẩm mỹ, Lý tưởng xã hội - chính trị là quan niệm về một cơ cấu xã hội hoàn
chỉnh và một chế độ chính trị tiến bộ nhất. Lý tưởng đạo đức là quan niệm về
những chuẩn mực của hành vi con người. Còn lý tưởng thẩm mỹ là quan
niệm mang tính cụ thể - cảm tính về sự phát triển tự do và đầy đủ nhất những
khả năng thể chất và tinh thần của con người, về vẻ đẹp hài hòa của đời sống
thiên nhiên và xã hội, về chuẩn mực cao nhất của sự hoàn thiện hoàn mỹ và
con đường để vươn tới đó.
Nếu cảm xúc thẩm mỹ nảy sinh từ sự tiếp xúc với những cái đẹp thực
tế, thì lý tưởng thẩm mỹ lại hướng tới cái đẹp trong ước mơ và khát vọng của
con người. Nó nêu bật hình ảnh về những giá trị thẩm mỹ mà con người cho
rằng cần phải có, cần nên có. Nếu thị hiếu thẩm mỹ là kết quả sự tổng hợp
những kinh nghiệm thẩm mỹ còn mang nhiều tính chủ quan, thì lý tưởng thẩm
mỹ là sự đúc kết mang tính khách quan và sâu sắc những kinh nghiệm không
chỉ của một con người, một tầng lớp xã hội mà còn của cả một thời đại nhất
định.
Lý tưởng thẩm mỹ có hình thức biểu hiện rất đặc biệt. Các lý tưởng xã
hội - chính trị, đạo đức thường được diễn tả bằng những khái niệm, phạm trù
trừu tượng; chẳng hạn: "Lý tưởng của tôi là nước cộng hòa", "Lý tưởng đạo
đức của xã hội phong kiến là trung, hiếu, tiết, nghĩa"... Còn lý tưởng thẩm mỹ
thì có liên quan mật thiết đến quan hệ cảm tính của con người với môi trường
chung quanh, nên có hình thức biểu hiện mang tính cụ thể cảm tính, mà nếu
thiếu nó, sẽ không thể tạo ra ấn tượng về hình ảnh cái đẹp cần phải có, cái
đẹp trong ước mơ.
Trong lý tưởng thẩm mỹ, chiều sâu của sự nhận thức về qui luật phát
triển của cuộc sống, về viễn cảnh tương lai được kết hợp một cách hài hòa
với tính trực quan của hình tượng và sự cá thể hóa. Chẳng hạn lý tướng thẩm
mỹ của xã hội nguyên thủy được biểu hiện thông qua hình tượng con người
chinh phục các bộ lạc và giành được ngọn lửa thiêng trong tay thần linh. Lý
tưởng thẩm mỹ trong xã hội Hy Lạp thời cổ đại được nêu bật qua hình ảnh
nhà hiền triết thông thái hay người công dân anh hùng, gan dạ như Achille
trong Iliade. Đối với xã hội phong kiến thời Trung cổ, hiện thân của lý tưởng
thẩm mỹ là người hiệp sĩ và nhà tu hành. Thời Phục hưng để lại dấu ấn về lý
tưởng thẩm mỹ qua những cá tính phát triển hài hòa mà L. de Vinci, Rafael,
Michel Ange... đã xây dựng nên. Trong thời đại của chủ nghĩa cổ điển, lý
tưởng thẩm mỹ được phản ánh trong những hình tượng thể hiện quan niệm
cao cả về nghĩa vụ như những nhân vật trong kịch của Corneille, Racine...
Trong văn học thời đại Ánh sáng, lý tưởng thẩm mỹ gắn liền với những hình
tượng nhân vật đại diện cho lý trí như Faust của Goethe, Robinson của
Defoe...
Lịch sử tư tưởng mỹ học đã ghi nhận Vinckelmann và sau đó Lessing là
những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "lý tưởng thẩm mỹ". Nhưng bản
thân vấn đề lý tưởng thẩm mỹ thì Platon đã từng đặt ra khi ông nêu lên tiêu
chí của sự đánh giá thẩm mỹ gắn liền với những lý tưởng vĩnh cữu và bất
biến về cái đẹp. Những tiêu chí này thoát khỏi tính chất cảm tính và chủ quan
của cá nhân. Sau Platon, Aristote cho rằng người nghệ sĩ cần phải xây dựng
lý tưởng thẩm mỹ cho mình bằng cách bắt chước ở những mẫu người khác
nhau một số đặc điểm hoàn thiện nào đó. Trong xã hội Hy Lạp cổ, lý tưởng
thẩm mỹ có liên quan đến ý niệm về sự hài hòa giữa tâm hồn và "thể xác bên
trong" và bên ngoài. Nhưng đến mỹ học thời Trung cổ thì khái niệm lý tưởng
thẩm mỹ lại gắn liền với khái niệm tinh thần như là tiêu chí cao nhất để đánh
giá hoạt động nghệ thuật và được thể hiện thông qua nội dung mang tính chất
tôn giáo, đặc biệt là trong hội họạ và kiến trúc.
Sang thời đại Phục hưng, lý tưởng thẩm mỹ mang một nội dung mới khi
mà con người, với sự phong phú về tình cảm và khả năng nhận thức của nó
được xem là tiêu chuẩn lý tưởng của cái đẹp. Như Shakespeare đã khẳng
định, "Con người là vẻ đẹp của thế gian, là kiểu mẫu của muôn loài". Thời
Phục hưng đã chứng kiến sự ra đời một trào lưu triết học, văn hóa, nghệ
thuật tiến bộ hướng đến việc giải phóng cá tính con người khỏi những ràng
buộc và sự trì trệ về tư tưởng của chủ nghĩa phong kiến và thần học Ki- tô
giáo. Thời kỳ này việc nghiên cứu vấn đề lý tưởng thẩm mỹ đã tiến xa hơn
một bước trong sáng tác của các nghệ sĩ cũng như trong công trình của các
nhà lý luận nghệ thuật. Họ đã khẳng định mối quan hệ giữa hiện thực và lý
tưởng trong nghệ thuật; đã hoàn thiện cái – đang - có bằng cách sáng tạo cái
– phải – có, cái – cần - có.
Mỹ học thời khai sáng đã mở rộng khái niệm "bắt chước tự nhiên" mà
Aristote đề xướng, bao hàm trong đó cả môi trường xã hội. Diderot,
Winckelmann, Lessing... tiếp tục phát triển theo cách của mình tư tưởng về
mối quan hệ giữa lý tưởng và hiện thực, lý tưởng và chân lý. Diderot là người
đầu tiên nhấn mạnh chức năng nhận thức của lý tưởng. Winckelmann cũng
như Lessing đã chỉ ra vai trò và ý nghĩa của lý tưởng thẩm mỹ trong việc nhân
thức bản chất của nghệ thuật cổ đại, đồng thời vạch ra sự khác biệt giữa vẻ
đẹp hình thức bên ngoài với lý tưởng tâm hồn bên trong. Winckelmann xem lý
tưởng thẩm mỹ như là mục đích của sáng tạo nghệ thuật, ông đặt lý tưởng
cao hơn cả chân lý. Còn Lessing thì khẳng định quan niệm hiện thực về cái
đẹp, ông cho rằng lý tưởng thẩm mỹ phản ánh chân lý đời sống.
Triết học duy tâm cổ điển Đức gắn liền việc nghiên cứu lý tưởng thẩm
mỹ với những vấn đề nhận thức luận cơ bản. Baumgarten đã xem lý tưởng
như một cái gì hoàn thiện, ông yêu cầu người nghệ sĩ phải mô phỏng tự nhiên
để có thể tiếp cận được lý tưởng. Sau Baumgarten, mỹ học ngày càng phân
biệt rõ ràng hơn khái niệm lý tưởng thẩm mỹ với sự hoàn thiện nghệ thuật
cũng như chất lượng nghệ thuật của tác phẩm.
Khái niệm lý tưởng thẩm mỹ được nghiên cứu một cách sâu sắc trong
mỹ học Hegel nơi mà phạm trù lý tưởng trở thành vấn đề trung tâm và có
quan hệ với sự thay đổi của Ý thức thẩm mỹ được nhà triết học xem như một
tiến trình lịch sử có tính chất tất yếu. Hegel là người đầu tiên đã xem xét lý
tưởng thẩm mỹ như một thái độ sống được nhận thức và diễn tả thông qua
nghệ thuật. Và nghệ thuật được ông xác định là sự biểu hiện lý tưởng về cái
đẹp trong hình thức cụ thể - cảm tính của hình tượng. Hegel cho rằng Hy Lạp
cổ là nơi mà tình trạng thế giới phù hợp với lý tưởng và nghệ thuật Hy Lạp là
nền nghệ thuật thực sự mang tính cổ điển. Trong thời đại mới, theo tư tưởng
của nhà triết học, nội dung xã hội phải được chuyển sang phạm vi cá nhân,
cái tinh thần sẽ thống trị cái cảm tính, tư tưởng nghệ thuật sẽ có tính chất trừu
tượng. Điều này sẽ dẫn đến sự thống trị của cái duy lý so với cái thẩm mỹ và
hậu quả sẽ là sự hủy hoại của bản thân lý tưởng thẩm mỹ.
Quan niệm duy tâm trên đây về lý tưởng thẩm mỹ đối lập với lý luận
của các nhà dân chủ — cách mạng Nga vốn khẳng định sự gắn bó giữa nghệ
thuật và đời sống và xem lý tưởng thẩm mỹ như là phương thức cải tạo hiện
thực. Theo V. Bielinski, không nên xem lý tưởng như một cái gì đưa vào từ
bên ngoài mà cần phải rút nó ra từ chính hiện thực. Ông cho rằng "lý tưởng
không phải là trò chơi ngẫu hứng của trí tưởng tượng, không phải là điều bịa
đặt, là những giấc mơ; đồng thời lý tưởng cũng không phải là bản sao chép
của hiện thực mà là khả năng của một hiện tượng nào đó được trí tuệ phỏng
đoán và trí tưởng tượng cảm nhận ra".
Herzen và Tchernychevski cũng có những đóng góp đáng kể vào việc
nghiên cứu lý tưởng thẩm mỹ. Đối với hai ông, lý tưởng là sự phản ánh trong
ý thức con người những xu hướng nổi bật của cuộc sống và những khả năng
căn bản của sự phát triển. Tehernychevski xem xét vấn đề ý tưởng thẩm mỹ
trong mối quan hệ mật thiết với vấn đề nhân vật lý tưởng: Mâu thuẫn giữa
hiện thực và lý tưởng, giữa cuộc sống như nó đang tồn tại với cuộc sống như
nó phải phù hợp với quan niệm của con người cần được nhà văn giải quyết
không phải bằng cách biến lý tưởng phải phục tùng hiện thực mà bằng cách
miêu tả hiện thực với tinh thần phê phán, từ lập trường của lý tưởng dân chủ
- cách mạng.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx đã xem xét vấn đề lý tưởng
thẩm mỹ như là vấn đề mối quan hệ giữa lý tưởng và hiện thực trong điều
kiện xã hội có mâu thuẫn giai cấp đối kháng. Các mục tiêu lý tưởng và khát
vọng của con người lần đầu tiên đã được đặt ra trong mối quan hệ với những
nhiệm vụ thực tiễn nhằm cải tạo thế giới. Marx và Engels đã phê phán tính
chất ảo tưởng của các lý tưởng mà đằng sau nó không có sự hỗ trợ của
những lực lượng xã hội hiện thực đặt cơ sở trên sự nhận thức những quy luật
lịch sử khách quan. Hai ông chỉ ra rằng tất cả những lĩnh vực của ý thức xã
hội và hoạt động thực tiễn đều có liên quan với phạm trù lý tưởng. Marx viết:
"Không phải con người chỉ thực hiện sự thay đổi hình thức trong những vật
liệu do tự nhiên cung cấp mà thôi; đồng thời con người còn thực hiện mục
đích có ý thức của chính mình, mục đích này chính là quy luật quyết định
phương thức và tính chất hành động của con người, nó bắt ý chí của con
người phải phục tùng vào nó".
Theo quan điểm mác-xít, giá trị của lý tưởng phụ thuộc trực tiếp vào
khả năng thực hiện nó trong lịch sử. Và lý tưởng thẩm mỹ chỉ được thực hiện
trọn vẹn không phải trong quá khứ mà trong tương lai. khi mà "sự phát triển
tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người"
(K. Marx).
Trong khi giữ nội dung độc lập và đặc trưng riêng của nó, lý tưởng
thẩm mỹ vẫn có liên quan mật thiết với lý tưởng xã hội. M. Gorki từng khẳng
định một ý kiến cho rằng "mỹ học là đạo đức học của tương lai". Bằng
phương thức nghệ thuật, người nghệ sĩ khám phá ra những khuynh hướng
phát triển của đời sống, đặt vấn đề về cái cần phải có. Và cũng như lý tưởng
xã hội hay lý tưởng đạo đức, lý tưởng thẩm mỹ được hình thành trong một
thời đại nhất định và mang một nội dung xác định về mặt lịch sử. Lý tưởng
thẩm mỹ tiên tiến của mỗi thời đại luôn luôn dựa trên những khả năng và tiềm
lực khách quan của thực tế.
Nhưng nếu lý tưởng xã hội trước hết là mục đích cơ bản của vận động
xã hội, nếu lý tưởng đạo đức là phạm trù về chuẩn mực; thì lý tưởng thẩm mỹ
đại diện cho tính tất yếu, phổ quát của cái đẹp, đồng thời vẫn bao hàm những
nội dung chủ yếu của lý tưởng xã hội và lý tưởng đạo đức.
Lý tưởng thẩm mỹ nói lên phẩm chất trung thực của cái đẹp khi nó thể
hiện vẻ đẹp của tâm hồn con người và tầm cao của nhân dân. Những người
sáng tạo ra lý tưởng và đấu tranh để khẳng định nó trong cuộc sống. Và giá trị
cao nhất, của lý tưởng thẩm mỹ được tim thấy thông qua ý nghĩa toàn nhân
loại của nó.
Để phán xét một con người về mặt lý tưởng thẩm mỹ, có thể căn cứ
trên thái độ đối với thế giới, căn cứ trên hoạt động và hành vi của người đó.
Còn để diễn đạt lý tưởng thẩm mỹ ở một mức độ đầy đủ nhất và làm cho
người khác có thể tiếp nhận được, thì phải bằng con đường của nghệ thuật
nơi mà mọi hiện tượng của đời sống đều được nhìn thông qua lăng kính của
lý tưởng thẩm mỹ.
Như trên đã nói, lý tưởng thẩm mỹ là quan niệm nghệ thuật về sự hoàn
thiện hoàn mỹ, là việc miêu tả cái đẹp như nó cần phải có. Trong tác phẩm lý
tưởng thẩm mỹ bộc lộ trong thế giới nghệ thuật được xây dựng từ mối quan
hệ với đời sống như nó đang tồn tại và như nó phải tồn tại theo quan niệm
của nhà văn. Điều đó có nghĩa là hiện thực được miêu tả không chỉ theo quy
luật của tính tất yếu lịch sử mà còn theo quy luật của cái đẹp. Lý tưởng thẩm
mỹ diễn ra toàn vẹn đầy đủ nhất tất cả khát vọng của con người trong những
điều kiện lịch sử nhất định chính là phương thức khám phá ra sự đa dạng của
cuộc sống. Trong khi xây dựng hình tượng nghệ thuật, người nghệ sĩ luôn
luôn đánh giá cái được miêu tả, khẳng định hoặc phủ định nó. Lý tưởng thẩm
mỹ đòi hỏi gắn liền chân lý đời sống với quan niệm về mục đích của nghệ
thuật.
Lý tưởng thẩm mỹ không thể tách rời với sự bộc lộ tình cảm và ước mơ
của con người về một tương lai tươi đẹp. Được thể hiện trong nghệ thuật, lý
tưởng thẩm mỹ trở thành phương thức dự báo sự vận động tiến hóa của xã
hội, phương thức bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn cho con người. Hơn nữa,
lý tưởng thẩm mỹ còn có sức mạnh nêu gương, nó phác vẽ ra hoạt động cụ
thể của con người nhằm đạt đến những mục tiêu cao quý.
Vì vậy, trong nghệ thuật, lý tưởng thẩm mỹ của người nghệ sĩ thường
được hóa thân trong hình tượng những nhân vật tích cực (Prométhée trong bi
kịch của Eschille, Jean Valjean trong Những người khốn khổ của V. Hugo,
Dũng trong Đôi bạn của Nhất Linh...). Tuy nhiên, lý tưởng thẩm mỹ không
phải chỉ được khắc họa qua một hình tượng riêng biệt nào, mà bộc lộ trong cả
hệ thống tổ chức hình tượng - ngôn từ, trong toàn bộ cấu trúc nghệ thuật của
tác phẩm. Có những tác phẩm mà lý tưởng thẩm mỹ không phải là đối tượng
miêu tả trực tiếp, nhưng lại là mục đích của sự miêu tả. Dưới ánh sáng của lý
tưởng thẩm mỹ, những nhân vật và hình tượng tiêu cực đã bộc lộ ra sự tầm
thường, giả dối, ích kỷ, đê tiện của chúng. Như vậy, rõ ràng không phải tác
phẩm nào thiếu vắng những nhân vật mang lý tưởng thì tác phẩm đó cũng
thiếu vắng những nhân tố lý tưởng thẩm mỹ. Miêu tả những con người xa rời
khỏi lý tưởng, bóc trần sự suy đồi về nhân cách của họ, của nhà văn đã gợi
lên sự căm ghét và phản kháng đối với sự tàn phá cái đẹp, gợi lên nỗi buồn
về lý tưởng. Đó là công lao của Molierè, Gogol, Santykov – Sedrin, Nguyễn
Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Thiệp...
Đặc trưng của lý tưởng thẩm mỹ trong nghệ thuật là sự thuyết phục của
nó không chỉ tác động tới lý trí mà còn tạo ra những âm hưởng về cảm xúc,
làm rung động trái tim con người. Vì thế, trong khi miêu tả những hiện tượng
và tính cách, dù là tích cực hay tiêu cực, người nghệ sĩ chân chính luôn luôn
gợi lên sự đồng cảm với lý tưởng thẩm mỹ của mình, làm cho công chúng trở
thành người đồng hành và người kế tục lý tưởng mà mình đề cao. Đó cũng là
đóng góp của nghệ thuật trong việc giáo dục thẩm mỹ cho con người.
Lý tưởng thẩm mỹ là một phạm trù xã hội - lịch sử, quan niệm về cái
đẹp thay đổi tùy theo chỗ đứng của người bảo vệ quan niệm đó. Bản thân
cuộc đấu tranh vì lý tưởng thẩm mỹ tiên tiến cũng là cuộc đấu tranh vì tương
lai của nhân loại, vì con đường mà nhân loại phải dấn bước để thực hiện
những ước mơ và hoài bão của mình.
Chương 3. CÁC PHẠM TRÙ THẨM MỸ
Phạm trù thẩm mỹ là khái niệm thể hiện nhận thức khái quát của con
người về những hiện tượng thẩm mỹ trong tự nhiên và trong xã hội, ở con
người và trong nghệ thuật. Phạm trù rộng nhất là phạm trù cái thẩm mỹ được
xác định trong sự tồn tại cụ thể của các phạm trù hẹp hơn như: cái đẹp, cái bi,
cái hài, cái cao cả v.v... Theo ý nghĩa đó, cái thẩm mỹ là phạm trù chung nhất,
khái quát nhất bao gồm cả các phạm trù thẩm mỹ phổ biến (cái đẹp, cái cao
cà) tồn tại trong thiên nhiên, trong sản phẩm lao động, ở con người và trong
nghệ thuật; cũng như các phạm trù thẩm mỹ chỉ đặc trưng cho nghệ thuật (cái
bi, cái hài...). Hệ thống và số lượng các phạm trù thẩm mỹ cho đến nay vẫn là
vấn đề chưa được nghiên cứu đầy đủ và còn đang tranh cãi. Bên cạnh một số
phạm trù đã được thừa nhận rộng rãi từ lâu như cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái
hài, các phạm trù khác như: cái thẩm mỹ, cái anh hùng, cái toàn vẹn, cái hài
hòa v.v... cũng đang được khảo sát và đi dần vào các sách giáo khoa mỹ học.
Dưới đây, chúng ta chỉ dừng lại ở một số phạm trù chính.
I. CÁI ĐẸP
Cái đẹp là phạm trù trung tâm của mỹ học. Vị trí đó không phải do các
nhà lý luận xác lập mà do chính vai trò của cái đẹp trong đời sống quy định.
Điều đó cũng có nghĩa rằng cái đẹp trước hết chính là những đặc tính của thế
giới tồn tại trong thiên nhiên, trong xã hội, trong sản xuất vật chất và tinh thần,
trong nghệ thuật... Phạm trù cái đẹp bắt nguồn từ hiện thực, có cơ sở khách
quan trong đời sống, nhưng đồng thời nó cũng là một hình thức khái quát của
tư duy, thể hiện nhận thức của con người về loại đặc tính thẩm mỹ này của
các sự vật hiện tượng. Nhận thức này bao gồm nhiều mặt. Nhưng thông
thường nó bắt đầu bằng việc trả lời câu hỏi: cái đẹp là gì. Từ những quan sát
bình thường chỉ ra xem cái gì đẹp, cái gì xấu, đến chỗ rút ra xem cái đẹp là gì,
nhận thức con người phải trải qua một chặng đường dài từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng, từ cụ thể đến khái quát. Quá trình này vốn đã
hết sức phức tạp, lại trở nên phức tạp và khó khăn hơn đối với lĩnh vực cái
đẹp ít nhất cũng do hai nhân tố sau đây. Trước hết, cái đẹp bao gồm rất nhiều
hiện tượng thuộc các loại khác nhau. Có cái đẹp của ánh trăng, ngọn núi, có
cái đẹp của ánh mắt, tà áo, có cái đẹp của ngôi nhà, cái đẹp của lời nói, cử
chỉ, cái đẹp của tâm hồn, tư tưởng v.v... Có cái đẹp ở trong tự nhiên, có cái
đẹp trong xã hội, có cái đẹp do con người làm ra, có cái đẹp nằm ngay trong
chính bản thân con người. Đâu là mẫu số chung cho tất cả các hiện tượng ấy,
đâu là công thức đúng cho mọi cái đẹp? Mặt khác, cái đẹp thuộc loại hiện
tượng rất tinh tế, đến với con người trước hết qua cảm giác, trực giác. Có
người ví cái đẹp với tình yêu, cảm nhận thì được nhưng rất khó lý giải, cắt
nghĩa. Vậy có cần và có thể có được một khái niệm, một định nghĩa về cái
đẹp không, hay ở đây chỉ nên để mặc nó trong "vương quốc" của cảm giác,
dành hoàn toàn cho sự thưởng thức trực tiếp để khỏi phải phá vỡ tính toàn
vẹn, đánh mất vẻ tươi nguyên của nó, như một số người quan niệm?
Lịch sử tư tưởng thẩm mỹ của nhân loại chứng tỏ rằng con người luôn
luôn tìm cách khắc phục những khó khăn trên đây để nắm bắt bản chất cái
đẹp. Goethe đã từng khẳng định: "Có thể có được khái niệm về cái đẹp và có
thể diễn tả được "khái niệm ấy". Nhưng trong quá trình đi tìm lời giải cho bài
toán trên đây, do sự đa dạng của đối tượng cũng như do những quan niệm,
những cách tiếp cận khác nhau, đã có nhiều đáp số, nhiều định nghĩa khác
nhau về cái đẹp.
Chẳng hạn, nhà triết học cổ Hy Lạp Aristote viết: "Cái đẹp nằm trong
kích thước và trong trật tự. Bởi vậy không có vật nào quá nhỏ cũng như quá
lớn mà lại có thể được coi là đẹp".
Nhà lý luận Đức thế kỷ XVIII là Herder thì nói: "Cốt lõi của toàn bộ cái
đẹp là chân lý, bất kỳ cái đẹp nào cũng cần dẫn tới chân lý và điều thiện".
Còn Gorki thì xác định: "Cái đẹp là sự phối hợp các chất liệu khác nhau
cũng như các âm, màu, từ ngữ - sao cho tác phẩm tạo ra được một hình thức
có thể tác động lên tình cảm và lý trí như một sức mạnh khơi dậy ở con người
sự ngạc nhiên, lòng kiêu hãnh và niềm sung sướng trước khả năng sáng tạo
của mình”.
Còn có thể dẫn ra đây rất nhiều định nghĩa nữa về cái đẹp. Có trường
hợp nó được giải thích như cái có ích, có trường hợp nó được đồng nhất với
cái chân hay cái thiện, có trường hợp lại hiểu như sự cân đối, hài hòa... Vậy
bản chất của cái đẹp nằm ở đâu? Để lĩnh hội được bản chất này, tốt nhất là
xem xét đối tượng dưới góc độ triết học. Bởi vì chỉ trong bình diện này chúng
ta mới thoát khỏi ấn tượng về vô số biểu hiện cụ thể của cái đẹp để đạt tới sự
khái quát về nó. Nếu làm như vậy, ở đây thay vào câu hỏi: cái đẹp là gì? sẽ
xuất hiện câu hỏi khác: cái đẹp do đâu mà có? Một vật đẹp là do nó có những
phẩm chất gì đó hay do thiện cảm của con người.
Các nhà duy vật cho rằng cái đẹp bắt nguồn từ đời sống, toát ra từ
những phẩm chất vật lý, hóa học của sự vật, hiện tượng. Từ đây họ thường
nhấn mạnh đến các khái niệm và kích thước, mức độ, tỉ lệ... Chẳng hạn nhà
mỹ học thời Phục hưng ở Italia là Alberti viết: "Cái đẹp là sự phù hợp, sự hòa
nhịp như thế nào đó giữa các phần trong cái tổng thể mà chúng tạo thành, sự
hòa hợp và hòa nhịp này phải đáp ứng những số liệu chặt chẽ, đáp ứng sự tổ
chức và bài trí mà sự hài hòa - tức cái nguyên lý tuyệt đối và khởi nguyên của
tự nhiên - đòi hỏi".
Ngược lại, các nhà duy tâm thì xem cái đẹp chỉ như cái được mang từ
bên ngoài vào sự vật, chứ không có cơ sở khách quan. Người theo quan
điểm duy tâm chủ quan thì khẳng định: "Cái đẹp không phải là phẩm chất tồn
tại trong bản thân sự vật; nó tồn tại chủ yếu trong tâm linh người quan sát nó".
Còn đối với các nhà triết học duy tâm khách quan thì hoặc đó là hình
ảnh, hồi quang của một cái gì siêu nhiên, thần thánh (Platon) hoặc là phẩm
chất đặc biệt của ý niệm tuvệt đối khi nó đã tìm được hình thức thể hiện phù
hợp nhất. (Hegel).
Khi nghiên cứu bản chất của cái đẹp, rõ ràng chúng ta không thể bỏ
qua những tiền đề duy vật, khẳng định những cơ sở khách quan của các cảm
giác thẩm mỹ. Đồng thời cũng không nên tuyệt đối hóa vai trò của những
nhân tố khách quan tạo nên phẩm chất thẩm mỹ của sự vật, hiện tượng, xem
đó là nguồn gốc duy nhất quyết định vẻ đẹp của chúng. Cần chú ý rằng cái
đẹp là một phạm trù giá trị. Một vật được coi là đẹp hay xấu phụ thuộc không
chỉ vào những phẩm chất nó vốn có mà còn vào quan hệ của chúng với con
người, với sự đánh giá căn cứ vào những thước đo do thực tiễn xã hội trong
từng thời kỳ lịch sử đặt ra. Sự đánh giá này rõ ràng mang tính chủ quan - một
thứ chủ quan tất yếu mà nếu thiếu nó sẽ không có ngay cả thực tiễn xã hội
của con người - song đồng thời không phải là thứ chủ quan tùy tiện, bởi vì nó
gắn liền không phai với ý muốn của mọi cá nhân riêng lẻ mà với tiêu chuẩn xã
hội - thực tiễn có tính khách quan rõ rệt.
Thừa nhận cơ sở tự nhiên của cái đẹp tức là trước hết thừa nhận vẻ
dẹp khách quan của màu sắc, âm thanh, đường nét, mảng khối, nhịp điệu
v.v... Từ đây sẽ xuất hiện những khái niệm về tiêu chuẩn thẩm mỹ như: sự
cân đối, tỉ lệ phù hợp, tính chất có mức độ, sự hài hòa.... Các tiêu chuẩn này
về cái đẹp trong nhiều trường hợp thường có cả cơ sở sinh lý của nó. Chẳng
hạn, một bản nhạc êm dịu làm thần kinh bớt căng thẳng, một bức tranh có
màu sắc hài hòa, tươi mới làm cho con người thấy phấn khởi, dễ chịu. Điều
này giải thích vì sao có hiện tượng cây thích "nghe" nhạc, rắn nghe nhạc, cá
nhảy múa theo nhạc... Nếu căn cứ vào đây để nói rằng sinh vật cũng có cảm
giác thẩm mỹ thì điều đó mới chỉ đúng một phần nhỏ. Quả thật sinh vật cũng
"thích" cái đẹp, nhưng chúng chỉ thích những yếu tố tự nhiên nào phù hợp với
sinh lý, bản năng của chúng mà thôi.
Đối với con người không phải chỉ như vậy. Bằng cớ là có những cái rất
cân đối, hài hòa nhưng không gây nên cảm xúc thẩm mỹ; trong khi nhiều sự
vật, hiện tượng không mang đặc tính gì đặc biệt có thể gây nên cảm giác dễ
chịu về sinh lý thì vẫn được xem là đẹp. Plekhanov dẫn ra tài liệu của các nhà
dân tộc học kể lại rằng. Ở nhiều bộ lạc Châu Phi, phụ nữ thường đeo vòng
sắt ở tay và chân. Đôi khi các thiếu phụ nhà giàu còn đeo ở mình hơn 16kg
đồ trang sức loại đó. Khi có người hỏi vì sao đeo nhiều đồ như thế, họ trả lời:
để cho đẹp. Lại có trường hợp khác, ở miền thượng lưu sông Dămberơ,
người dân nào không bẻ gãy các răng cửa ở hàm trên thì bị coi là xấu xí.
Điều đó chứng tỏ rằng cái đẹp không phải chỉ có cơ sở tự nhiên mà còn có cơ
sở xã hội. Bản chất của cơ sở xã hội này nằm ở chỗ con người đánh giá sự
vật, hiện tượng theo quan niệm của mình. Nhà mỹ học dân chủ cách mạng
Nga nổi tiếng Tchernychevski đã phát biểu một tư tưởng rất sâu sắc: "Một tồn
tại được gọi là đẹp - Ông viết - là tồn tại trong đó chúng ta nhìn thấy cuộc
sống đúng như quan niệm của mình,...
Có thể xuất hiện câu hỏi: nếu cái đẹp là cái phù hợp với quan niệm con
người thì quan niệm đó là quan niệm nào? Bởi vì quan niệm của con người
rất nhiều mặt: cái đẹp có thể gắn với quan niệm về chân lý, về đạo đức, về sự
duyên dáng v.v... Thực tế cho thấy, quan niệm về cái đẹp là một quan niệm
có tínn tổng quát rất cao. Cái đẹp gắn liền với ý niệm về những điều mong
ước, về cái có tính lý tưởng. Những gì là hình ảnh, dấu hiệu biểu hiện của cái
mà con người thiết tha mong muốn, khao khát đạt tới thường gợi ra cảm xúc
về cái đẹp. Cánh đồng lúa chín vàng đẹp vì nó nằm trong liên tưởng về một
mùa bội thu hứa hẹn, về sự no đủ mà người làm ruộng hằng mong mỏi, chờ
đợi. Cái cây tươi tốt, cành lá xum xuê đẹp vì nó là hình ảnh của sự sống sung
mãn mà con người bao giờ cũng mơ ước đạt tới. Nhà văn pháp Stendhal nói:
"Cái đẹp là sự mời gọi hạnh phúc" có lẽ cũng chính trong nghĩa như vậy. Cái
đẹp là một hình thức của ước mơ, của lý tưởng, nó thường mang trong mình
những yếu tố của cái được đánh giá ở mức cao nhất, tức là những cái ít
nhiều mang tính chất lý tưởng.
Chính vì vậy cái đẹp gắn rất chặt với khái niệm về sự hoàn thiện. Hoàn
thiện là tiêu chuẩn cao nhất của cái đẹp. Những gì đạt tới sự phát triển cao
nhất, trình độ cao nhất so với sự vật, hiện tượng cùng loại với chúng, thường
gợi ra cái đẹp. Trong một hàng cây, cái cây đẹp là cây phát triển đầy đủ, dồi
dào sức sống. Trong nhiều người, người đẹp là người mà sự sống đạt tới
mức phát triển cao, khỏe mạnh, cân đối, hoàn thiện cả về hình thể và đời
sống tinh thần. Điều này cũng giải thích vì sao sự hài hòa thường được xem
là đẹp. Cấu trúc về sự hài hòa, chính là cấu trúc lý tưởng của tự nhiên và đời
sống xã hội. Không hài hòa là trạng thái tạm thời, còn hài hòa là nguyên lý
phổ biến của sự sống, là cái đích lý tưởng mà mọi cấu trúc, từ thế giới vô cơ
đến hữu cơ đều vươn tới. Một sự vật có hình dáng hoặc tổ chức bên trong
hài hòa thường khơi gợi cảm xúc thẩm mỹ có lẽ vì trong cơ sở sâu xa của
mình nó gợi ra ý niệm về sự hoàn thiện, về cái mang tính chất lý tưởng. Tính
lý tưởng là một trong những đặc điểm vô cùng quan trọng của cái đẹp.
Dostoievski có một câu nói nổi tiếng: "Cái đẹp cứu thế giới". Nó không cứu
thế giới bằng sức mạnh vật chất, nhưng nó cứu bằng cách làm cho nhân loại
không bao giờ mất lòng tin vào những điều tốt đẹp, vào tương lai. Còn mơ
ước, còn hy vọng, còn tin có tương lai, con người sẽ vượt qua khó khăn, cải
tạo hoàn cảnh, biến đổi thế giới. Ở đây, khi xác định cái đẹp như trên, chúng
ta sẽ giải quyết được vấn đề mối quan hệ giữa cái đẹp, cái chân và cái thiện.
Rõ ràng không thể đồng nhất cái đẹp với cái chân hoặc chỉ với cái thiện. Cái
đẹp gắn liền với cả hai. So với sự giả dối, chân lý là cái đẹp, cũng như so với
điều ác, cái thiện là đẹp. Còn trong nội bộ cái chân hoặc cái thiện thì cái đẹp
lại tùy thuộc vào mức độ tính hoàn thiện, sự hài hòa, tính lý tưởng của chúng.
Đồng thời, khi xem xét cái đẹp như một phạm trù giá trị gắn nó không
chỉ với những thuộc tính vật chất khách quan mà còn với quan niệm của con
người về cái mong ước. Chúng ta phải tính đến vai trò của các yếu tố xã hội -
lịch sử mà quan niệm này tất yếu phải có. Nói cách khác, nếu cái đẹp là ý
niệm thì nó nhất định có quan hệ thế này hoặc thế kia với các quan điểm
chính trị - xã hội, với đặc điểm tâm lý dân tộc, với sở thích cá nhân của mỗi
người cũng như với sự thay đổi của lịch sử. Trước hết, phải thừa nhận rằng ý
niệm về cái đẹp trong những mức độ khác nhau, thường mang dấu ấn quan
điểm chính trị - giai cấp của con người. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, bởi vì
một khi cái đẹp là sự đánh giá sự vật, hiện tượng theo tiêu chuẩn về mức độ
hoàn thiện và tính lý tưởng, thì trong một chừng mực nào đó quan niệm về sự
hoàn thiện và lý tưởng cũng có những nội dung rất khác nhau ở những người
có địa vị và quyền lợi xã hội khác nhau. Nói như vậy không có nghĩa là chúng
ta phủ nhận tất cả các yếu tố thẩm mỹ chung đối với mọi người và bao giờ
cũng phân định thật rạch ròi mọi hiện tượng theo ranh giới giai cấp để rồi từ
đó đi đến kết luận rằng cái đẹp đối với một giai cấp này không thể có bất cứ
khía cạnh nào đẹp với giai cấp khác.
Quan niệm về cái đẹp cũng mang sắc thái dân tộc rất rõ nét, nhất là ý
niệm về sự hài hòa cụ thể, về các phẩm chất tự nhiên của cái đẹp. Chẳng hạn
với dân tộc này màu vàng được ưa chuộng nhưng ở dân tộc khác, màu vàng
lại gắn liền với một định kiến nào đó không hay. Người nước này ưa cái đẹp
nhuần nhị kín đáo, người nước kia lại thích cái đẹp ồn ả, sôi động. Những
điều kiện tự nhiên - xã hội, tâm lý và tính cách dân tộc để lại dấu vết rất sâu
trong quan niệm về cái đẹp.
Riêng trong lĩnh vực thẩm mỹ, bên cạnh các yếu tố trên đây, cần phải
chú ý cả đến vai trò của sở thích cá nhân khi đánh giá cái đẹp. Người ta có
thể không thích cái mà mọi người thích, hoặc ngược lại, thích cái mà nhiều
người không ưa chuộng. Điều đó nên được tôn trọng. Song ở đây tuyệt nhiên
không được đồng nhất sở thích cá nhân với giá trị thẩm mỹ khách quan của
sự vật hiện tượng. Thích hay không thích tùy anh, nhưng không nên xem điều
đó đã là chân lý. Trong một bức thư gửi bạn. L. Tolstoi có lần viết: "Mấy hôm
rồi, để kiểm tra nhận xét của mình về Shakespeare tôi đọc "Vua Lia" và
"Hămlét" và nếu tôi đã từng có đôi chút hoài nghi rằng mình đã ghét
Shakespeare một cách không đúng, thì bây giờ sự nghi ngờ ấy đã hoàn toàn
biến mất. Hămlét quả thực là một tác phẩm thô bạo, phi đạo đức, bỉ ổi và vô
nghĩa". Chúng ta thấy rõ ràng ở đây nhà văn vĩ đại đã không đúng.
Cuối cùng là sự biến đổi lịch sử của quan niệm về cái đẹp. Một thể thơ
trước đây được xem là hay bây giờ không được ưa thích nữa. cách hát ấy
trước đây được ưa chuộng, ngày nay ít người còn thích. v.v... Điều đó hoàn
toàn hợp quy luật. Nó chỉ chứng tỏ sự phong phú và đa dạng của trí tuệ và
tâm hồn con người mà thôi. Có điều, ở đây cần lưu ý rằng, sự biến đổi của
quan niệm về cái đẹp không có nghĩa là cái đẹp sau cao hơn cái đẹp trước,
cái đẹp hôm nay cao hơn cái đẹp hôm qua. Vấn đề tiến bộ của các giá trị
thẩm mỹ hết sức phức tạp. Khi xem xét vấn đề này phải có quan điểm lịch sử
- cụ thể và phải nhìn con người như một chủ thể năng động, phong phú, luôn
luôn phát triển thông qua sự tác động qua lại với hoàn cảnh, qua thực tiễn.
Trong quá trình đó, những năng lực bản chất, những mặt khác nhau của con
người sẽ bộc lộ dần dần với tính chất độc đáo, không lặp lại nhưng đồng thời
cũng mỗi ngày một đa dạng hơn, sâu sắc hơn.
Cái đẹp là một trong những hiện tượng thẩm mỹ vô cùng phong phú và
có phạm vi bộc lộ rất rộng rãi. Nó bao gồm các lĩnh vực sau đây.
Thièn nhiên là nơi bắt đầu của mọi cái đẹp. Vẻ đẹp của mây, gió, trăng,
hoa, núi, sông là nguồn cảm hứng và đồng thời là đối tượng mô tả của nghệ
thuật. Vẻ đẹp của thiên nhiên ngày một phong phú là nhờ hoạt động thực tiễn
của con người. Chính trong mối quan hệ với thực tiễn đó, thiên nhiên mỗi
ngày lại có thêm nét đẹp mới. Nhiều hiện tượng thiên nhiên trở thành đối
tượng trực tiếp của cảm thụ thẩm mỹ, đi vào nghệ thuật là nhờ quan hệ của
chúng với thực tiễn. Chinh phục tự nhiên và bảo vệ thiên nhiên đang là một
trong những vấn đề sống còn của thời đại chúng ta và mai sau. Giữ gìn cái
đẹp của phong cảnh, môi trường là nghĩa vụ xã hội của mỗi công dân trong
thời đại hiện nay. Ở đây, thẩm mỹ đang trở thành đạo đức của ngay ngày
hôm nay.
Những sản phẩm do con người làm ra là "thiên nhiên thứ hai" (Gorki)
được sang tạo bằng bàn tay lao động của con người. Khác với cái đẹp của
thiên nhiên, cái đẹp của các sản phẩm, công trình có được không phải chỉ do
chúng gắn liền với những ý niệm nào đó về lý tưởng, về sự hoàn thiện mà vì
chính chúng được tạo ra theo những thước đo của sự hoàn thiện, theo những
khuôn mẫu lý tưởng. Cái đẹp này hết sức phổ biến, ở đâu có lao động là ở đó
cái đẹp có khả năng xuất hiện, bởi vì đây là quy luật chung của hoạt động
sáng tạo. Marx viết: "Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu cầu
của giống loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo của
bất cứ giống nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích dụng cho đối
tượng: do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”.
Nói như thế không có nghĩa là bất cứ sự lao động nào cũng tất yếu sinh
ra cái đẹp. Từ cái đẹp nảy sinh một cách tự phát bên cạnh cái có ích, người
ta dần dần có ý thức tạo ra những ngành sản xuất chuyên biệt về cái đẹp.
Hiện nay trên thế giới các ngành mỹ học kỹ thuật hay mỹ thuật công
nghiệp (design) đang phát triển rất mạnh. Việc sản xuất hàng loạt theo một
dây chuyền công nghệ đang tạo ra nguy cơ hạ thấp chất lượng thẩm mỹ của
các sản phẩm, làm cho cảm thụ thẩm mỹ của con người trở nên đơn điệu,
nghèo nàn. Bởi vậy việc nâng cao chất lượng thẩm mỹ của các sản phẩm
công nghiệp không phải chỉ có ý nghĩa kinh tế - thương mại mà còn có ý
nghĩa nhân văn sâu sắc. Tạo ra một môi trường thẩm mỹ không phải chỉ bằng
cây cối, chim muông mà còn bằng những sản phẩm đẹp do con người làm ra,
từ lọ hoa đến ngôi nhà hoặc cả thành phố, là nhiệm vụ rất quan trọng. Đó
cũng là một hình thức giáo dục thẩm mỹ, cải tạo thị hiếu và bồi dưỡng sự
phong phú thẩm mỹ cho con người.
Cái đẹp trong hoạt động của con người thể hiện ở tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, từ vui chơi, giải trí đến cưới xin, ma chay, từ thể thao, hội
hè đến lao động sản xuất, thậm chí ở cả hoạt động quân sự. Ngày nay người
ta đã bắt đầu nói đến mỹ học trong thương nghiệp, mỹ học y tế, mỹ học thể
thao, mỹ học quân sự, v.v... Cái đẹp trong lĩnh vực này rất phong phú, nhiều
màu nhiều vẻ, nó phối hợp được cả vẻ đẹp của màu sắc, âm thanh, hình
dáng, cả vẻ đẹp bên ngoài với vẻ đẹp bên trong bắt nguồn từ những quan
niệm chính trị - đạo đức, những truyền thống, phong tục v.v... Mỗi trường hợp
như vậy đều đòi hỏi phải xem xét cụ thể riêng.
Cái đẹp của con người cũng là một đối tượng khảo sát của mỹ học.
Con người là sản phẩm của tự nhiên nên cũng có những vẻ đẹp mang tính
vật chất. Có thể gọi đó là vẻ đẹp bên ngoài, thể hiện trên khuôn mặt, ở hình
thể (chân tay, mắt, mũi, vóc dáng v.v...) và trang phục (quần áo, mũ nón, đồ
trang sức v.v...). Coi nhẹ vẻ đẹp này là không đúng. Song ngoài cái đẹp trên
đây, con người này có một vẻ đẹp khác – vẻ đẹp bên trong - toát ra từ hành
vi, hoạt động và toàn bộ thế giới tinh thần của nó. Văn hóa thẩm mỹ của lời
nói, cách cư xử, hành động là một trong những biểu hiện cao của trình độ văn
hóa của con người. Vẻ đẹp tinh thần là vẻ đẹp không nhìn thấy nhưng có thể
cảm thấy và nhận thức được. Nó bộc lộ trong sự hoàn thiện của các phẩm
chất đạo đức, trong tính nhân đạo và tiên tiến của các quan điểm chính trị - xã
hộ, trong sự phát triển cao của các năng lực tinh thần, của trình độ văn hóa,
trong sự hài hòa giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài. Phấn đấu làm cho
con người ngày mỗi ngày thêm đẹp đẽ, có điều kiện phát triển đầy đủ và hài
hòa - đó là mục tiêu cao cả và nhân đạo của xã hội văn minh.
Cái đẹp trong nghệ thuật thể hiện tập trung nhất quan hệ thẩm mỹ của
con người với hiện thực. Nói cách khác, trong bất kỳ hoạt động nào con
người cũng đều sáng tạo theo quy luật của cái đẹp nhưng không ở đâu quy
luật ấy lại bộc lộ rõ nét, không ở đâu việc sáng tạo ra cái đẹp lại chiếm một vị
trí quan trọng như trong nghệ thuật. Ở đây tạo ra cái đẹp là một trong những
mục tiêu chủ yếu mà nghệ sĩ đặt ra từ đầu. Nghệ thuật không phải là nơi độc
quyền sản xuất ra cái đẹp, nhưng nó là hình thức chuyên nghiệp, chuyên môn
hóa cao nhất, tập trung nhất, lãnh trách nhiệm nặng nề nhất trong việc thỏa
mãn nhu cầu thẩm mỹ của xã hội.
Chính từ đây xuất hiện đặc điểm đầu tiên của cái đẹp trong lĩnh vực
này - đó là sự hoàn chỉnh; tính gợi cảm, trau chuốt của các yếu tố hình thức
trong tác phẩm nghệ thuật. Xét về sự phong phú, tươi mới, nguồn gốc và tính
có trước mà rõ ràng cái đẹp của tự nhiên cao hơn cái đẹp của nghệ thuật.
Nhưng đứng về phương diện khác, thì lại không thế. Nhờ quá trình sáng tạo
theo nguyên tắc điển hình hóa mà nhiều sự vật hiện tượng của đời sống khi
bước vào nghệ thuật như trải qua một khoảng cách thần diệu, cái bình
thường cũng thành đẹp đẽ, cái vốn đã đẹp thì lại càng đẹp hẳn lên. Nghệ sĩ
thường góp nhặt, thâu tóm cái đẹp khắp nơi để tạo ra cái đẹp cho tác phẩm
của mình, bởi vậy tác phẩm thường có được vẻ hoàn thiện và sự hấp dẫn.
Hoàng Đức Lương nói: "Đến như văn thơ, thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp,
vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem, miệng tầm
thường mà nếm được".
Đặc điểm thứ hai là so với cái đẹp trong thiên nhiên, thậm chí cả trong
lĩnh vực công nghiệp nữa. Các nhân tố vật chất tạo thành cái đẹp trong nghệ
thuật mang sắc thái biểu cảm rất rõ. Một màu hoa tự nhiên đẹp là do thuộc
tính vật lý của nó hoặc do những liên tưởng chủ quan mà người ngắm gán
cho nó. Còn trong bức tranh, một màu đẹp bên cạnh sắc độ dễ coi, thường
chứa đựng một điều gì đó mà nghệ sĩ chủ động, cố tình thể hiện trong nó. Bởi
vậy âm thanh tự nhiên và âm thanh âm nhạc, màu tự nhiên và màu hội họa
rất khác nhau.
Từ đây xuất hiện một đặc điểm quan trọng nữa của cái dẹp nghệ thuật
là sự thống nhất giữa nội dung được thể hiện và hình thức thể hiện nó. So với
cái đẹp trong tự nhiên, cái đẹp nghệ thuật là cái đẹp có tính nội dung. Tính nội
dung này thể hiện không phải chỉ ở chỗ cái đẹp trong nghệ thuật nằm cả trong
hình thức và nội dung được thể hiện, (cái đẹp thiên nhiên không có nội dung
này), mà còn ở chỗ, bản thân hình thức nghệ thuật cũng mang tính nội dung.
Đồng thời sự gắn bó giữa nội dung với hình thức ở đây chặt chẽ hơn so với
các sản phẩm khác do con người làm ra và cũng có cái đẹp. Nếu màu sắc
của chiếc máy cày chủ yếu mang tính trang trí, không phụ thuộc hoàn toàn
vào ý nghĩa, chức năng của nó và nếu thay đổi vẫn không ảnh hưởng đến
chức năng đó, thì ngược lại, trong tác phẩm nghệ thuật, thay màu này bằng
màu kia, thay âm này bằng âm khác, chữ này bằng chữ khác, đều làm biến
đổi tính chất và ý nghĩa của hình tượng. Ngược lại trong trường hợp nội dung
các phẩm sai lầm (chẳng hạn, tư tưởng được thể hiện là vô nhân đạo) chắc
lượng thẩm mỹ của nó cũng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng.
Cái đẹp trong nghệ thuật bộc lộ trước hết ở cái đẹp của hiện thực được
phản ánh. Đó có thể là vẻ đẹp của phong cảnh thiên nhiên, vẻ đẹp của con
người, của những hoạt động, của những tư tưởng, những tình cảm. Không
phải nghệ thuật chỉ truyền đạt cái đẹp. Nó viết, vẽ cả cái xấu. Song nói chung
cái đẹp vẫn là đối tượng chính của nghệ thuật. Nghệ sĩ nào cũng khao khát
ghi lại càng nhiều càng tốt, diễn tả càng đạt càng hay những cảnh đẹp, nét
đẹp trong cuộc sống, và thường thì những người sáng tác bao giờ cũng tìm
cách khuếch đại, phóng to lên để cái đẹp rực rỡ, lộng lẫy hơn.
Trong trường hợp phải mô tả cái xấu, cái ác, tác phẩm nghệ thuật vẫn
có thể trở thành đối tượng của sự cảm thụ thẩm mỹ nhờ hai cách. Thứ nhất là
nhờ vẻ đẹp của tư tưởng - tình cảm tác giả, vẻ đẹp của lý tưởng mà nhà văn
đã xuất phát khi mô tả, đánh giá cái xấu. Gogol, văn hào Nga thế kỷ XIX, tác
giả của vở kịch "Quan thanh tra", đã từng nói rằng trong tác phẩm này tất cả
các nhân vật đều là phản diện, chỉ có một nhân vật tích cực duy nhất - đó là
tiếng cười. Tiếng cười của nhà văn gắn liền với những lý tưởng xã hội tiến bộ,
xuất phát từ những tiêu chuẩn rất cao về con người, vì vậy nó cũng gắn liền
với sự hoàn thiện, với cái đẹp. Đồng thời, giá trị thẩm mỹ của tác phẩm, cũng
như trong bất kỳ trường hợp nào khác, không phụ thuộc toàn bộ vào đối
tượng mà nó miêu tả, đánh giá. Cái đẹp có thể toát ra từ bản thân hình thức
nghệ thuật của tác phẩm, trong kết cấu, bố cục, trong trình độ làm chủ chất
liệu, trong cách xây dựng nhân vật; tổ chức tác phẩm v.v... Tiêu chuẩn cơ bản
để xác định cái đẹp này là sự hoàn thiện về hình thức, kỹ thuật và sự hài hòa
của các phương tiện hình thức với nội dung cần thể hiện. Trong rất nhiều
trường hợp, đặc biệt là đối với những kiệt tác, sự hoàn thiện trình độ nghệ
thuật điêu luyện đem lại cho tác phẩm hiệu quả thẩm mỹ vô cùng to lớn.
Tuy nhiên không nên đồng nhất cái đẹp và nghệ thuật, không nên xem
xét cái đẹp chỉ trong nghệ thuật cũng như trong nghệ thuật chỉ thấy có vấn đề
cái đẹp. Đừng quên rằng nghệ thuật chỉ là một trong những lĩnh vực có cái
đẹp và ngbệ thuật không phải chỉ có nhiệm vụ tạo ra cái đẹp. Nghệ thuật là
một hoạt động tinh thần thực tiễn của con người, có nhiệm vụ góp phần thỏa
mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người, nhưng đồng thời cũng là một phương
tiện để giao tiếp, một hành động nhận thức, có khả năng tác động rất lớn đối
với con người và xã hội.
II. CÁI CAO CẢ, CÁI BI, CÁI HÀI.
1. Cái cao cả với tư cách là một phạm trù thẩm mỹ bước vào lịch sử mỹ
học khá muộn. Chỉ trong thời đại Khai sáng nó mới có được ý nghĩa độc lập,
mặc dù những hiện tượng cao cả đã được phản ánh trong nghệ thuật rất sớm
và ngay trong thời cổ La Mã đã có công trình Bàn về cái cao cả của Longinus
(213 - 273). Cái cao cả là đặc tính của các hiện tượng, sự vật khách quan hay
là sản phẩm thuần túy của đầu óc con người? Tùy theo quan điểm triết học
khác nhau, các nhà mỹ học đã trả lời theo cách khác nhau.
Cái cao cả tồn tại khách quan, vốn là đặc tính của các sự vật, hiện
tượng trong mối quan hệ của nó đối với con người. Cái cao cả là cái có tầm
vóc lớn lao, phi thường, có thể gây ra ở con người cảm giác choáng ngợp,
chiêm ngưỡng, kính phục, đôi khi pha lẫn chút bối rối, sợ hãi. Cái cao cả có
trong tự nhiên dông bão, thác đổ, núi cao, sông rộng, trời xanh, biển động
v.v...). Trong xã hội (các biến động lịch sử, chiến công các vĩ nhân, anh hung
và trong nghệ thuật (hình tượng Prométhée trong tác phẩm Eschille hay hình
tượng Thánh Gióng trong truyện cổ Việt Nam v.v...). Phạm trù cái cao cả
không chỉ liên quan đến đặc tính của các sự vật, hiện tượng khách quan mà
còn có quan hệ với tình cảm chủ quan của con người. Có cái cao cả của núi
ngất trời, nhưng đồng thời cũng có cái cao cả của tình cảm, khát vọng. Trong
nghệ thuật, cái cao cả được tạo thành bằng cả hai nguồn đó.
Cái cao cả có những điểm gần gũi với cái đẹp. (Hellgel cho rằng cái
đẹp ở mức tuyệt đỉnh - đó là cái cao cả). Nét tương đồng chủ yếu giữa hai
loại hiện tượng này là cả hai đều gợi ra những cảm giác tích cực. Cái đẹp là
ước mơ, lý tưởng gần gũi, dịu dàng. Cái cao cả là lý tưởng cao siêu, con
người chủ yếu chỉ chiêm ngưỡng, hướng tới nhưng dường như không dám
mơ ước đạt tới. Đồng nhất cái cao cả với cái đẹp là tước mất tầm vóc, sự kỹ
vĩ của nó. Ngược lại, đối lập hai cái với nhau sẽ lam cho cái cao cả chỉ còn là
cái gì ghê gớm, đáng sợ mất đi chất lãng mạn, vẻ huyền bí rất hấp dẫn.
Cái cao cả rất cần cho đời sống. Nó làm cho cuộc sống không bị tầm
thường và nhỏ bé đi, làm cho thế giới hiện ra lúc nào cũng to lớn, hùng vĩ,
khó khăn nhưng cũng đầy cảm hứng về những thử thách, chiến công, sự
phiêu lưu và những hành động phi thường. Cảm giác về cái cao cả biến đổi
lịch sử, trong quá trình chinh phục tự nhiên và xã hội của con người; dòng
sông hôm qua chảy xiết hung dữ nay đã trở nên hiền hòa, núi ngày xưa cao
hiểm trở, không có dấu chân người, nay đã có đường xe lửa chạy qua, nhà
mọc ngay trên đỉnh. Nhưng cái cao cả không bao giờ mất, lại sẽ xuất hiện,
những hiện tượng mới chưa bị chinh phục, chưa được nhận thức. Sự sùng
bái, khuất phục hoàn toàn cái cao cả dễ dẫn đến thủ tiêu óc sáng tạo, tính tích
cực chủ quan, đến sự phục tùng mù quáng. Đồng thời coi thường cái cao cả,
không xem có cái gì thiêng liêng nữa cũng sẽ làm cho cuộc sống trở nên
buông thả, tầm thường.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của nghệ thuật, nhất là nghệ
thuật trong những bước ngoặt trọng đại của lịch sử, là dấy lên ở con người
tình cảm cao cả, lớn lao: David của Michel Ange, Tự do trên chiến lũy của
Delacroix, Giao hưởng anh hùng của Beethoven, Hămlét của Shakespeare
v.v...
Nghệ thuật thấm nhuần chất lý tưởng nhưng không chấp nhận sự lý
tưởng hóa đơn điệu. Bằng cảm hứng anh hùng và lãng mạn chân chính, nó
chắp cánh cho con người bay tới những chiến công trong sự nghiệp cải tạo
hoàn cảnh và biến đổi thế giới.
2. Cái bi là một phạm trù thẩm mỹ, khác với bi kịch là một thể loại của
văn học kịch và sân khấu. Cái bi được đề cặp một cách sâu sắc và hệ thống
lần đầu tiên trong tác phẩm "Thi pháp học" của nhà lý luận cổ Hy Lạp Aristote.
Khi nói cái bi là một phạm trù thẩm mỹ, rõ ràng chúng ta thấy khái niệm
thẩm mỹ ở đây có nội dung rất khác với cái đẹp. Cái đẹp có cả trong tự nhiên
và xã hội, cái bi như một phạm trù thẩm mỹ chủ yếu chỉ có trong nghệ thuật.
Cái đẹp có cả trong nội dung và hình thức của nghệ thuật, còn cái bi chủ yếu
chỉ có trong nội dung tác phẩm. Cái đẹp thì vui, hào hứng, còn cái bi thì buồn,
đau thương, mất mát. Cái đẹp gắn với sự hài hòa, còn cái bi thì với sự xung
đột.
Bản chất của cái bi là sự xung đột. Nội dung cụ thể của xung đột này
thay đổi qua các thời kỳ lịch sử và có những biểu hiện độc đáo trong từng lĩnh
vực khác nhau. Chẳng hạn, trong nghệ thuật cổ Hy Lạp nó thường hiện ra
như mâu thuẫn giữa con người và định mệnh; trong chủ nghĩa cổ điển thì đó
là giữa dục vọng và nghĩa vụ; còn trong nghệ thuật phương Tây hiện đại thì
đó là xung đột giữa cá nhân và xã hội, con người và hoàn cảnh. Hoàn cảnh
này có thể được mô tả dưới dạng những lực lượng xã hội đen tối và độc ác
(như trong Chí Phèo của Nam Cao) hoặc những chuẩn mực đạo đức quan
phương trống rỗng, tàn nhẫn (như trong Anna Carenina của L.Tolstoi).
Do chỗ cái bi là sự xung đột giữa "tự do và tất yếu" nên nó không bị
hạn chế chỉ trong phạm vi cá nhân. Có những cái bi cá nhân (trong tình yêu,
gia đình) và có cả những cái bi lịch sử (như thất bại của phong trào yêu
nước). Trong lịch sử nghệ thuật thế giới, có những tác phẩm chủ yếu mô tả
số phận bi kịch của cá nhân, có những tác phẩm khác dành cho những xung
đột xã hội - lịch sử. Đồng thời cũng có những tác phẩm mà trong đó, đằng
sau cái bi cá nhân hiện ra cả những xung đột xã hội to lớn, mang tầm vóc lịch
sử. Hămlét của Shakespeare, chẳng hạn, là một trong các tác phẩm như vậy.
Cái bi thường gắn với sự mất mát, đau thương. Song không phải xung
đột nào dẫn đến mất mát đau khổ cũng đều mang tính bi. Nhà văn Anh thế kỷ
XIX. J.Ruskin có nói rằng thơ ca chỉ có thể lên tiếng về nỗi buồn của cô gái
khóc thương tình yêu trong trắng bị tan vỡ, chứ không thể viết về giọt nước
mắt của kẻ hà tiện đánh mất tiền. Cũng tương tự như vậy, nhân vật và lực
lượng bi kịch phải có sức mạnh lớn lao, phẩm chất cao cả, đại diện cho sự
phát triển tiến bộ của lịch sử, mang trong mình những lý tưởng đẹp đẽ, khát
vọng chân chính. Tính cách nhân vật bi kịch không thể yếu đuối, càng không
thể tiêu cực hoặc phản động. Sự kháng cự của những lực lượng đã mất hết ý
nghĩa tiến bộ, bị lịch sử bỏ rơi không còn chất bi, mà ngược lại chỉ mang tính
hài sâu sắc. Cái bi là sự mất mát, nhưng là sự mất mát của lý tưởng, của cái
cao cả, cái đẹp). Bởi vậy cái bi rất gần gũi với cái cao cả.
Việc thể hiện trong nghệ thuật những xung đột mang tính bi có ý nghĩa
nhận thức và giáo dục rất sâu sắc. Nó giúp chúng ta lĩnh hội cuộc sống trong
sự phong phú, phức tạp có thật của nó. Đồng thời khơi những tinh cảm cao
cả lành mạnh, kích thích những hành động mãnh liệt và sự tham gia tích cực
hoạt động thực tiễn.
3. Cái hài được nghiên cứu rất sớm. Các nhà tư tưởng thời cổ Hy Lạp
như Platon. Aristote đã xem xét và nêu lên những tư tưởng sâu sắc về đặc
điểm của cái hài. Quan niệm của Kant, Diderot, Schiller, Hegel,
Tchenychevski về cái hài, tuy ở mức độ khác nhau, nhưng đều chứa đựng
những kiến giải độc đáo. Nhiều điều cho tới ngày nay vẫn còn có giá trị. Việc
tìm hiểu cái hài thể hiện nguyện vọng muốn khám phá bản chất, của một kiểu
quan hệ đặc thù của con người đối với thế giới, một hình thức độc đáo của
nhận thức và đánh dấu hiện thực trong nghệ thuật, bởi vì khác với cái đẹp,
cái hài không phải là một phạm trù thẩm mỹ phổ biến mà trước hết là một
phạm trù thẩm mỹ của nghệ thuật.
Cái hài thường gắn bó với cái cười. Không thể hình dung cái hài thiếu
cái cười. Song cũng không phải cái cười nào cũng mang tính hài. Khi bị cù,
khi trong lòng cảm thấy sung sướng, thỏa mãn, người ta có thể cười. Đó là
cái cười thiên về bản năng sinh lý. Cái cười mang tính hài đòi hỏi trước hết
phải có một đối tượng cười, tức là cái có thể gây cười và bị cười. Vậy những
gì có thể gây cười? Trong cuộc sống rất nhiều hiện tượng có thể gây cười,
mỗi thứ một vẻ, hết sức đa dạng. Song nói chung những cái gây cười, xét về
bản chất là cái có mâu thuẫn hiểu như là sự đối lập, không cân xứng, không
hài hòa. Khái quát lại, đó có thể là mâu thuẫn giứa hình thức và nội dung,
giữa bộ phận với toàn thể, giữa ý nghĩa và phương tiện, giữa ước muốn và
khả năng thực tế, giữa cái được phép và cái không được phép, quen và
không quen, bình thường và không bình thường.
Có cái có thể gây cười rồi (đối tượng) lại còn phải có chủ thể cười. Đây
là mặt thứ hai - mặt chủ quan - của cái hài, không có nó, không có cái hài.
Bản thân đối tượng cười không thể gây nên tiếng cười nếu chủ thể không
nhận thức được những mâu thuẫn chứa đựng trong nó. Điều này giải thích vì
sao có người xem tranh vui, đọc truyện cười mà vẫn không cười, đến lúc hiểu
ra thì mới cười. Cái hài, do vậy là một kiểu nhận thức. Đặc điểm của loại nhận
thức gắn với tiếng cười là sự phát hiện ra một số loại mâu thuẫn nào đó trong
sự vật, hiện tượng và quan sát chúng ở một bình diện khác, từ một phía khác,
từ góc độ của cái buồn cười. Xét theo phép biện chứng, điều này có ý nghĩa
rất quan trọng. Platon đã từng viết: "Trong thực tế không thể nhận thức được
cái nghiêm chỉnh nếu thiếu cái buồn cười, và nói chung, cái đối lập được
nhận thức nhờ cái đối lập với nó!
Đồng thời, tiếng cười trong cái hài cũng mang khuynh hướng xã hội,
thể hiện không chỉ nhận thức mà còn cả thái độ. Cười là một hình thức chế
ngự cái xấu. Dám cười cái xấu tức là dám tin, tự khẳng định sự tốt đẹp của
mình hoặc ít ra thì cũng là tự thừa nhận ngẫm rằng cái xấu là xấu, là đáng
ghét, đáng cười. Cái hài là một hình thức đánh giá, thể hiện trình độ con
người làm chủ đối tượng, làm chủ bản thân mình - "Khi cười cái xấu, chúng ta
trở nên cao hơn nó”. Cái cười chân chính, bởi vậy không thể là vũ khí của kẻ
yếu, của những lực lượng đã mất hết vai trò lịch sử. Nó thuộc về chính nghĩa,
về tương lai.
Cái hài có nhiều loai. Sự đa dạng này phụ thuộc cả vào tính chất nhiều
màu nhiều vẻ của đối tượng có thể gây cười lẫn chủ thể cười. Nhìn chung có
mấy loại sau đây:
Hài hước: Ở đây cái cười xuất phát từ những mâu thuẫn bề ngoài và
mang tính chất nhẹ nhàng, thoải mái.
Dí dỏm: Cái hài ở đây có tính chất trí tuệ hơn, những sự đối lập gây
cười nằm sâu trong bản chất sự vật, hiện tượng hơn. Tiếng cười trong trường
hợp này có ý nghĩa nhận thức.
Châm biếm, mỉa mai: Tiếng cười ở đây bắt đầu mang màu sắc phê
phán nhưng mức độ còn nhẹ nhàng, không mang tính chất thù địch, nó dành
cho những hiện tượng buồn cười, thậm chí mù quáng nhưng có thể sửa chữa
được.
Đả kích: Loai hài này thể hiện khuynh hướng xã hội mạnh mẽ nhất. Sư
phê phán ở đây mang tính chất phủ định. Trong trường hợp này có thể không
có tiếng cười hoặc chỉ cười một cách nghiêm chỉnh.
Các loại cái hài trên đây đều có ý nghĩa xã hội riêng của mình. Không
nên coi thường tiếng cười hài hước, vui tươi nhẹ nhàng, xem nó như thứ gì
vô bổ. Mặt khác cũng phải chú ý sao cho tiếng cười không chỉ đa dạng phong
phú mà còn có ý nghĩa nhờ được có chất trí tuệ và khuynh hướng xã hội sâu
sắc.
Cái hài vượt ra ngoài khuôn khổ của nghê thuật. Nó thuộc lĩnh vực văn
hóa tinh thần chung của con người. Nghệ thuật là nơi tập trung cao nhất của
cái hài. Nhưng cũng có khi "văn hóa cười” (chữ dùng của các nhà bác học Xô
Viết M.Bakhtin) của xã hội không bộc lộ trong nghệ thuật chính thống mà thể
hiện rất phong phú trong các sinh hoạt văn hóa khác và một phần trong văn
học dân gian, như thời kỳ trong thế ky ở châu Âu. Vấn đề vị trí của văn hóa
cười dân gian trong đời sống tinh thần của xã hội, cũng như ảnh hưởng, mối
quan hệ của nó với văn học viết, với các nhà văn, nhà thơ trào phúng là một
vấn đề rất hấp dẫn. Trải qua nhiều thế kỷ phát triển, nghệ thuật đã làm cho cái
hài phong phú hơn rất nhiều. Loại hình nghệ thuật nào cũng có các thể loại
hài. Chẳng hạn thơ trào phúng, truyện tiếu lâm trong văn học, hài kịch trong
sân khấu, tranh châm biếm" đả kích trong hội họa, phim hài trong điện ảnh
v.v... Các thủ pháp tạo cái hài cũng đa dạng và mỗi ngày càng được hoàn
thiện dần (nói thêm, nói bớt, tạo kết cấu bất ngờ, chơi chủ sử dụng động tác
ngoại hình, cử chỉ, nét mặt v.v,...).
Cái hài có ý nghĩa xã hội rất quan trọng, bởi vì tiếng cười gắn với nó,
xuất phát từ nhận thức và đánh giá đối tượng; sẽ đem lại niềm vui, sự sảng
khoái và do đó cũng là sức khỏe cho con người. Tiếng cười thể hiện sự thông
minh, sức mạnh và phẩm chất của con người. Hơn nữa tiếng cười còn là một
vũ khí phê phán các thói hư tật xấu và đấu tranh chống các lực lượng kìm
hãm tự do và sự phát triển của con người. Mức độ phổ biến của cái hài là một
trong những biểu hiện nói lên nhu cầu và trình độ dân chủ hóa của xã hội.
Chương 4. NGHỆ THUẬT NHƯ MỘT LĨNH VỰC THẨM MỸ
I. NGHỆ THUẬT – ĐỈNH CAO CỦA QUAN HỆ THẨM MỸ CỦA CON NGƯỜI VỚI THẾ GIỚI
Như đã nói ở trên, cái đẹp có mặt trong nhiều lĩnh vực. Nhưng có lẽ
không ở đâu cái đẹp "hiện ra" đậm nét như là ở trong nghệ thuật. Nếu khi làm
một bộ bàn ghế, người ta quan tâm trước hết đến giá trị thực dụng của nó,
nghĩa là đến chỗ làm sao nó chắc chắn, ngồi không bị gãy, thuận tiện khi đọc
sách hay tiếp khách, rồi sau đó mới tính đến vẻ đẹp của nó, thì khi tạo ra một
tác phẩm nghệ thuật, sự việc diễn ra có hơi khác. Nghệ sĩ vẽ một bức tranh,
sáng tác một khúc nhạc hoặc viết một bài thơ, cuốn truyện, không phải chỉ
nhằm bộc lộ tình cảm, ý nghĩ của mình và ghi lại những sự kiện, những cảnh
đời mà còn muốn đồng thời, tạo ra một cái gì đẹp đẽ, gây được đến mức cao
nhất hứng thú thẩm mỹ, có sức hấp dẫn và lôi cuốn người xem, người nghe,
người đọc. Nói cách khác, việc đem lại một tác phẩm có tính thẩm mỹ cao đã
nằm ngay trong mục đích của sáng tạo nghệ thuật, trong ý định ban đầu của
nghệ sĩ. Người thợ thủ công khi đóng cái bàn, cái ghế cũng muốn làm cho nó
đẹp. Nhưng ở dây, cái ý muốn làm đẹp chỉ là một nhu cầu phụ, có tính chất
kèm theo. Công việc của thợ thủ công về cơ bản, bị chi phối không phải bởi
giá trị thẩm mỹ của đồ vật mà bởi giá trị sử dụng của nó. Còn đối với nghệ sĩ,
ý nghĩa thẩm mỹ nằm ngay trong giá trị chung của nó, là một thành phần tạo
nên giá trị chung đó.
Điều đó nói lên rằng sáng tạo nghệ thuật, dù cũng là một hoạt động
thẩm mỹ như nhiều hoạt động khác, nhưng ở nó "tỉ lệ" thẩm mỹ cao hơn, vị trí
của cái đẹp quan trọng hơn, quan hệ của cái đẹp với các chức năng khác
cũng bình đẳng hơn.
Cái đẹp là một trong những điều kiện đầu tiên của nghệ thuật. Dù đó là
bài thơ hay bức tranh, pho tượng hay vở kịch, điệu múa hay bài ca, dù đó là
câu chuyện về một cô công chúa tuyệt mỹ hay là về một mụ phù thủy ghê
tởm, dù đó là âm điệu du dương hát lên nỗi đắm say của tình yêu hạnh phúc,
hay khúc tưởng niệm bi thương trong tang lễ. Dù đó là bức tranh vẽ bông hoa
hồng đang chớm nở hay miêu tả một con cóc xấu xí, dù đó là vở kịch tràn đầy
niềm vui và chiến thắng của chính nghĩa hay dựng lên cảnh chết chóc hy sinh
v.v... tất cả đều phải đẹp. Một cái ghế, cái bàn đóng xấu xí có thể dùng được.
Một ngôi nhà xây không đẹp nhưng chắc chắn, rộng rãi thì vẫn là nơi ở tốt.
Còn những câu chữ xếp đặt vụng về thì không thể gọi là thơ. Bức vẽ không
đẹp thì sẽ không xứng là bức tranh. Những dòng nhạc viết ra không theo quy
luật của tiết tấu và hòa thanh sẽ chẳng thành nhạc. Chính trong ý nghĩa này,
V.G.Bielinski đã viết: "Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ
thuật. Nếu thiếu cái đẹp thì không có và khống thể có nghệ thuật, đó là một
định lý".
Nghệ sĩ chính là những người cảm thấy điều đó sâu sắc hơn ai hết. Vì
vậy, đối với nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ, việc trau dồi kỹ thuật để có thể đem lại
cho tư tưởng tình cảm của mình một hình thức hoàn chỉnh, có ý nghĩa thẩm
mỹ cao, bao giờ cũng là vấn đề đặt ra rất gay gắt. Nhà điêu khắc danh tiếng
Pháp Rodin đã nói: "Nghệ thuật không phải cái gì khác hơn là tình cảm.
Nhưng nếu không có các hiểu biết về khối hình, về sự cân xứng, màu sắc và
thiếu đi một cây bút điêu luyện, thì bất kỳ tình cảm sinh động nào cũng bị tê
liệt".
Danh họa Ý thời Phục hưng là Leonard de Vinci bao giờ cũng bộc lộ sự
khao khát không cùng đối với sự hoàn thiện, vẻ đẹp của tác phẩm. Riêng bức
Monna Lida (La Joconde) ông vẽ gần bốn năm trời. Có lẽ vì vậy mà hàng bao
thế kỷ về sau tranh của ông vẫn là những kiệt tác đạt đến sự hài hòà cao
không bị vượt qua.
Nghệ thuật là nơi hội tụ của cái đẹp. Điều đó biểu hiện không phải chỉ ở
chỗ, trong hoạt động này sự sáng tạo theo những quy luật của cái đẹp diễn ra
tập trung hơn cả, hoàn thiện hơn cả, mang tính chất có ý và chuyên nghiệp
hơn cả, mà còn thể hiện ở ngay bản thân nội dung của nghệ thuật.
Tác phẩm nghệ thuật, ngoài việc thể hiện vô vàn hiện tượng khác nhau
trong đời sống, bao giờ cũng quan tâm ghi lại những gì hài hòa, đẹp đẽ trong
cuộc đời. Và thường thì những cái trong hiện thực: vốn đã đẹp khi bước vào
tác phẩm lại trở nên đẹp đẽ hơn: Thậm chí từ những sự vật, hiện tượng mà
trong đời chỉ là bình thường, hay đẹp vừa vừa nhưng qua bàn tay của nghệ sĩ
lại hiện ra hết sức đáng yêu, kiều diễm. Tại sao vậy? Đây là một vấn đề thú vị
nhưng lý giải không dễ dàng.
Đúng là trong đời sống có biết bao nhiêu là cái đẹp và cái đẹp thực sự
nằm chính trong thiên nhiên, trong cuộc đời đang diễn ra hàng ngày trước
mắt chúng ta. Song không phải lúc nào chúng ta cũng có thể thưởng thức
được hiện thực đẹp đẽ đó. Ngoài những phút hiếm hoi khi vui sướng đến bất
chợt, như ánh sáng đột ngột bừng sang lên khiến ta thấy "thế giới xung quanh
bỗng hiện ra trong ánh hào quang rực rỡ, cái gì cũng trở nên đáng yêu, xinh
đẹp hay khiến chúng ta phát hiện ra vẻ lộng lẫy trong cái bình thường, cái
duyên dáng trong sự giản dị, cái sôi nổi, thiết tha trong sự âm thầm, ngoài
những giờ phút ấy ra, chúng ta ít có điều kiện để nhìn cho ra cái đẹp. Chúng
ta bị hạn chế ở góc độ nhìn hoặc chìm ngập trong các chi tiết, trong cái vụn
vặt, trong những ấn tượng bề bộn hàng ngày. Muốn phát hiện ra vẻ đẹp của
sự vật phải có một khoảng cách, một góc độ nhất định. Phải biết lùi ra xa một
chút giống như khi ngắm một bức tranh. Lúc đó, tất cả những gì gồ ghề,
những vết dơ, những cái tủn mủn, vặt vãnh mà khi ta ở trong cuộc, khi đứng
gần đập vào mắt sẽ bắt đầu nhòa đi, bị quên lãng, thậm chí hiện ra trong một
màu sắc khác. Lúc đó cái vốn dẹp đẽ thì trở nên đẹp đẽ hơn. Điều đó giải
thích vì sao kỷ niệm bao giờ cũng đẹp. Trong ánh hào quang của hồi ức đôi
khi cả nỗi khổ cũng trở nên đáng yêu, cả nỗi bất hạnh cũng có một phần thú
vị. Chúng ta nhớ về quá khứ như người lính nhớ lại những cuộc chinh chiến
của mình. Thời gian dường như đã xóa đi tất cả, chỉ để lại những kỷ niệm
ngọt ngào. Nơi đắng cay dẫu còn lại thì cũng đã có thể trở thành đối tượng
của thi ca. Kinh nghiệm sáng tác của nhiều nhà văn đã khẳng định điều này:
khó mà nói về nỗi đau hay diễn tả nó khi nó vừa mới xảy ra, khi nghệ sĩ còn
phải chịu đựng gánh nặng trực tiếp của nó. Muốn viết về nó phải có một
khoảng cách.
Có một khoảng cách về không gian và thời gian nhất định, đó chính là
một trong những điều kiện làm cho con người có khả năng nhìn ra vẻ đẹp của
sự vật hoặc khiến cho sự vật có được ý nghĩa thẩm mỹ trở nên đẹp đẽ và dễ
thương hơn trong cảm thụ của chúng ta. Từ đời sống bước vào nghệ thuật,
tất cả những gì được phản ánh trong tác phẩm đều đi qua khoảng cách ấy.
Trong ý nghĩa này có thể nói nghệ thuật đẹp hơn hiện thực.
Ai đã từng xem bức "Mùa thu vàng" của họa sĩ Nga Levitan đều kinh
ngạc về vẻ quyến rũ của nó và đều có cảm giác rằng hình như nó đẹp hơn cả
mùa thu thực. Vì tài nghệ của họa sĩ, vì cái khoảng cách thần diệu của nghệ
thuật, vì vẻ đẹp của mùa thu được trinh bày trong cái dạng tiêu biểu nhất, tập
trung nhất. Ở đây đã diễn ra một quá trình chung vốn là đặc tính của mọi hoạt
động sáng tạo nghệ thuật: nghệ sĩ lựa chọn trong muôn ngàn hiện tượng
giống nhau một cái tiêu biểu nhất để giới thiệu với công chúng, đồng thời
cũng cố gắng miêu tả cái tiêu biểu nhất đó sao cho thu hút mạnh mẽ. Đó
chính là quá trình kết tinh trong nghệ thuật. Nhờ đó, cái đẹp trong cuộc đời đi
vào nghệ thuật trở nên rực rỡ hơn và hấp dẫn hơn. Bức vẽ bông hoa hồng lôi
cuốn được là vì nó mang trong"mình vẻ đẹp của một trăm hay một ngàn bông
hồng khác mà họa sĩ đã quan sát, nghiên cứu tìm tòi và chọn lựa.
Hiện thực cuộc sống bao giờ cũng là nguồn nội dung vô tận của nghệ
thuật. Và xét trong toàn bộ, vẻ đẹp hiện thực bao giờ cũng là vẻ đẹp cao nhất,
bởi vì nó vô cùng phong phú, sinh động và trần thế. Nhưng trong nghệ thuật,
cái đẹp của đời sống được thể hiện tập trung hơn. Tác phẩm nghệ thuật
chính là nơi hội tụ cái đẹp của cuộc đời. Nếu cái đẹp của cuộc đời là quặng
vàng chì trong nghệ thuật nó đã biến thành vàng được luyện, thành vàng trên
huân chương, vàng trên đôi nhẫn cưới...
II. TÍNH CHẤT CỦA CÁI ĐẸP TRONG NGHỆ THUẬT
Con người bao giờ cũng sáng tạo theo "quy luật của cái đẹp". Nghĩa là
khi làm ra bất kỳ sản phẩm nào, trong đó có tác phẩm nghệ thuật, ngoài
những mục đích thiết thực khác, người ta luôn luôn nghĩ cách làm sao cho nó
vừa mắt, dễ coi. Cái đẹp mắt, dễ coi đó cũng là một phần của một cái đẹp. Ở
đây có thể nảy ra câu hỏi: nếu cái đẹp phổ biến như vậy, không chỉ có trong
nghệ thuật mà còn có cả trong rất nhiều hoạt động khác nữa của con người,
thì đặc điểm của cái đẹp trong nghệ thuật nằm ở đâu? Phải chăng cái đẹp
của bức tranh cũng giống như vẻ đẹp của phong cảnh được vẽ? Phải chăng
cái đẹp của bài thơ cũng giống như vẻ đẹp của ngôi nhà hay của bộ ghế mây
xuất khẩu?
Không hẳn như vậy. Cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật có nhiều điểm
khác với cái đẹp của thiên nhiên cũng như cái đẹp của các sản phẩm khác do
bàn tay con người tạo ra.
Trước hết, nếu chỉ xét về phương diện thẩm mỹ thì các phẩm nghệ
thuật là những công trình phức tạp, tinh vi nhất. Hãy thử so sánh màu sắc
chiếc lọ hoa bằng gốm Đồng Nai với màu sắc trên bức tranh "Thiếu nữ bèn
hoa huệ" của Tô Ngọc Vân mà xem. Trong trường hợp này, chúng ta gặp sự
phối trí hài hòa giữa các màu tự nhiên, để cạo ra cảm giác ưa nhìn và dễ
chịu. Trong trường hợp kia, chúng ta đứng trước sự tìm tòi thực sự về màu
sắc, về những khả năng kết hợp của nó, về hiệu quả sáng hoặc tối, dày hoặc
mỏng, ấm hay lạnh, cứng hay mềm của màu. Ở đây, toàn bộ bức tranh toát ra
một sắc độ nhẹ nhàng, mềm mại. Cả một mảng màu đơn giản của chiếc áo
dài buông xuống duyên dáng như tương phản, làm tôn lên những chi tiết
phong phú và màu sắc tươi tắn của lọ hoa huệ gây nèn ấn tượng sâu sắc về
một phong cách nghệ thuật đậm đà truyền thống dân tộc nhưng đồng thời
cũng rất mới mẻ, hiện đại.
Trong âm nhạc cũng vậy. So với vẻ đẹp của âm thanh tự nhiên, vẻ đẹp
của tác phẩm nhạc phức tạp hơn nhiều. Từ nhịp đi của bước chân con người,
từ nhịp đập của trái tim, nhịp thời gian thay đổi bốn mùa, những tiết tấu tự
nhiên đã đi vào âm nhạc, trở thành đủ loại nhịp khác nhau (nhịp 2/4, 3/4, 4/4,
6/8, 12/8 v.v...) thành các kiểu tiết tấu biến hóa vô cùng đa dạng (hành khúc,
van-xơ, tang-gô bô-lê-rô v.v...). Tác phẩm âm nhạc đặc biệt là tác phẩm giao
hưởng, nhạc có chương trình, là một bằng chứng thuyết phục nói lên tính
chất phức tạp, tinh vi của cái đẹp trong nghệ thuật, nói lên khả năng sáng tạo
vô biên của con người.
Thơ ca cũng là một lĩnh vực của lời nói. Nhà thơ không sử dụng những
từ ngữ nào khác hơn là những từ ngữ trong vốn từ vựng chung, trong ngôn
ngữ dân tộc, trong tiếng nói hàng ngày. Nhưng từ lời nói hàng ngày đến lời
thơ thì đó là cả một khoảng cách lớn. Câu thơ cũng là lời nói, nhưng là một
kiểu lời nói đặc biệt được tổ chức theo những quy luật của nghệ thuật và của
thẩm mỹ. Bởi vậy, vẻ đẹp của lời thơ là vẻ đẹp của vàng đã tinh luyện, của
ngọc đã mài, của nước nho đã chưng cất thành rượu. Điều đó giải thích vì
sao tuy cũng là những lời nhắn gửi bộc bạch tâm tình, mà những câu ca dao
như:
Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mũi trời không thấy người thương.
Hay:
Chàng ơi cho thiếp đi cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
bất chấp thời gian vẫn sống trong ký ức nhân dân từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
Song dù cả khi trau chuốt óng ả, cân đối, nhịp nhàng hay khi trần trụi,
đa dạng như chính bản thân cuộc sống, câu thơ lúc nào cũng giữ một khoảng
cách nhất định với lời nói bình thường. Lời nói hàng ngày cũng có vẻ đẹp
riêng của nó. Nhưng câu thơ hay hơn, đẹp hơn cái đẹp của nó và của ngôn
ngữ trong nghệ thuật nói chung tinh vi, phức tạp hơn vẻ đẹp của mọi lời nói
khác, dù đó là lời nói thường hay lời nói khoa học, báo chí, chính luận v.v...
Một đặc điểm quan trọng khác của cái đẹp trong nghệ thuật là tính biểu
cảm, sức truvền cảm của nó. Nói một cách đơn giản, cái đẹp của tác phẩm
nghệ thuật bao giờ cũng có hồn, chứa đựng một tư tưởng, tình cảm nào đó.
Ngắm một bông hoa rực rỡ sắc hương hay đứng trước dòng sông xanh
in bóng những hàng dừa, chúng ta đều thấy có một cảm giác dễ chịu, vui
tươi. Cái đẹp của sự hài hòa, của sự sống tiềm ẩn trong cảnh vật đã mang lại
cho con người khoái cảm thẩm mỹ. Nhưng bản thân cái đẹp của màu sắc và
âm thanh tự nhiên, của phong cảnh vẫn là cái đẹp của thế giới vô cơ, tự
chúng không chứa đựng một nội dung nào cả, cái đẹp loại này mang tính chất
trung tính. Bởi vậy nó phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng của con người
thưởng thức.
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
(NGUYỄN DU - TRUYỆN KIỀU)
Những nội dung tình cảm khác nhau, cái hồn của các hiện tượng thẩm
mỹ trong tự nhiên là do người ta gán vào, thổi vào sự vật.
Trong nghệ thuật không phải như vậy. Chúng ta hãy quan sát bức tranh
lụa "Chơi ô ăn quan" của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh. Sắc độ màu nâu trong
tác phẩm thật mềm mại, có sức hấp dẫn thẩm mỹ độc đáo. Nhưng rõ ràng ở
đây màu sắc không nhằm mục đích tự thân.
Nó truyền đạt một cảm giác dịu dàng, đằm thắm về làng quê. Vẻ đẹp
mượt mà của màu nâu và hòa sắc chung của bức tranh làm cho toàn bộ
khung canh được miêu tả bỗng như chìm trong kỷ niệm, như lùi ra xa, hiện
lên như một mảng của hồi ức, của tuổi thơ, của tình yêu quê hương, dân tộc
sâu kín, đậm đà.
Cái đẹp trong nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với tình cảm hay một tư
tưởng nào đó, bởi vì đây là cái đẹp nhân đạo, cái đẹp do nghệ sĩ tạo nên để
ghi lại cái đẹp trong đời, để diễn đạc cảm xúc thẩm mỹ đang dâng lên trong
lòng mình hoặc để mượn nó, thông qua nó mà gửi đến người khác những
điều mình đang nung nấu, yêu thương, căm thù hay đau khổ. Cũng chính ở
đây cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật phân biệt với cái đẹp của những sản
phẩm khác do con người làm ra. Như ta biết, các sản phẩm này cũng được
sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Nhưng vẻ đẹp của một bộ ấm chén chẳng
hạn, không thẻ gợi ra những rung động sâu xa, những tình cảm mãnh liệt như
bức họa "Guernica" của Picasso được.
Khi làm bộ ấm chén, bộ bàn ghế đẹp, khi cắt những bộ quần áo hợp
thời trang, dĩ nhiên người thợ cũng để lại trên các "tác phấm" ấy dấu ấn của
tài năng, thị hiếu thẩm mỹ của mình. Song khó mà có thể nói rằng họ đã gửi
gắm vào đấy niềm vui hay nỗi buồn gì, khó có thể biết họ làm các “tác phẩm”
ấy để nói lên cái gì, bênh vực ai, chống lại ai. Cả nghệ sĩ và người thợ thủ
công đều mang lại cái đẹp cho cuộc đời. Nhưng ngoài cái chung đó ra, mỗi
người phải theo đuổi mục đích riêng của mình. Và sự khác nhau đó đã tác
động trở lại sự giống nhau, làm cho cái đẹp giữa bức tranh và chiếc lọ gốm,
vốn cùng tuân theo quy luật chung của sự hài hòa, lại có thêm những nét
riêng biệt.
Vấn đề tính truyền cảm của cái đẹp liên quan trực tiếp tới đặc điểm của
các phương tiện hình thức trong tác phẩm nghệ thuật. Khi nghệ sĩ diễn tả trên
trang giấy, trên khung vải, trên tường, trên sân khấu hay trên màn ảnh những
điều mình muốn nói ra, thì khi đó các yếu tố hình thức phải đóng vai trò là
những phương tiện truyền đạt nội dung tình cảm ấy. Các phương tiện này
không chứa đựng nội dung theo kiểu vỏ chai dùng để đựng nước, mà chính là
những hình thức, những con đường mà qua đó nghệ sĩ vật chất hóa được
những điều mình rung động, suy nghĩ và cũng nhờ đó mà người đọc, người
xem, người nghe biết được, hiểu được những gì nghệ sĩ nung nấu, muốn thổ
lộ. Bởi vậy, phẩm chất cơ bản của các yếu tố hình thức là ở chỗ chúng diễn
đạt thành công đến mức nào điều mà nghệ sĩ cần nói với công chúng, với
người đọc, người xem.
Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức hiểu theo nghĩa đó làm cho cái
đẹp của các phương tiện có thêm đặc điểm mới. Ở đây, cái đẹp không phải
chỉ là sự hài hòa bình thường mà là hài hòa mang đầy sắc thái biểu cảm. Cái
đẹp gắn bó chặt chẽ với sức truyền cảm của nghệ thuật. Từ đây, chúng ta
hiểu vì sao tiếng đàn bầu chẳng hạn lại có thể gây ra những ấn tượng thẩm
mỹ mạnh mẽ đối với cả thính giả phương Đông và phương Tây. Cái hay của
đàn bầu không phái chỉ ở sự hài hòa âm thanh độc đáo mà là còn ở chỗ vẽ
đẹp của âm thanh quyện chặt với chất tình cảm thiết tha của tiếng đàn. Có lẽ
đàn bầu cũng là một tronc những nhac cụ mà khi chơi, người ta có khả năng
chuyển trực tiếp những rung động của mình lên tiếng đàn nhiều nhất. Cấu tạo
và cách chơi đàn bầu cho phép sử dụng và phát huy đến mức tối đa hiệu quả
của lối nhấn, láy, vuốt và sự tiếp xúc trực tiếp của ngón tay, bàn tay lên các
bộ phận rung của dây đàn, làm cho sắc thái tình cảm của tiếng đàn trở nên
hết sức tinh tế.
Tóm lại, cái đẹp trong nghệ thuật cũng như mọi cái đẹp khác trong đời,
nhưng lại không hoàn toàn giống với chúng. Bông hoa trong tranh không phải
là bông hoa ngoài vườn. Vẻ đẹp của bông hoa trong vườn cũng không giống
bức tranh đẹp vẽ bông hoa. Cái đẹp của tác phẩm ngnệ thuật lại cũng khác
với cái đẹp của các sản phẩm, các công trình do bàn tay con người tạo nên.
Có giống chăng thì nhiều nhất có lẽ vẫn là cái đẹp của nghệ thuật với cái đẹp
của chính con người, bởi vì tác phẩm nghệ thuật cũng là một cơ thể sống;
mang hơi thở linh hồn của con người và bản thân nó cũng sinh động, toàn
vẹn như con người vậy...
III. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CÁI ĐẸP TRONG TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT
Tìm cái đẹp trong nghệ thuật có nghĩa là xét xem trong nghệ thuật, cái
đẹp bộc lộ như thế nào, hiện ra ở đâu. Trước hết, chúng ta bắt đầu từ nội
dung của tác phẩm.
Nội dung nghệ thuật rất phong phú, bởi vì hiện thực mà nghệ thuật
nghiền ngẫm, tư tưởng mà nó thể hiện hết sức rộng lớn, đa dạng. Song có
thể nói rằng một trong những đối tượng bao trùm, đối tượng cơ bản được yêu
thích nhất của nghệ thuật chính là cái đẹp. Đó là cái đẹp tinh khiết của bông
hoa mùa xuân:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Nguyễn Du -Truyện Kiều)
Hay một buổi hoàng hôn bảng lảng, yên tĩnh:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Co em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.
(Hồ Chí Minh – Chiều tối)
Có thể nói tất cả những gì đẹp trong thế giới chúng ta, từ một chiếc lá,
một giọt sương đến một quảng trường, một phong cảnh, một ngày hội quần
chúng đều đi vào âm nhạc, thơ ca và hội họa, điêu khắc, sân khấu và điện
ảnh. Không có cái đẹp nào xa lạ với nghệ thuật.
Điều đó không có nghĩa là tác phẩm nghệ thuật không miêu tả cái xấu.
Trái lại, đưa cái xấu vào tác phẩm để phê phán, để phủ định nó - cũng là một
trong những nhiệm vụ quan trọng của nghệ thuật, đặc biệt là đối với những
giai đoạn lịch sử nhất định, khi trong xã hội cái xấu đang hoành hành, điều ác
đang tạm thời thắng thế. Song phải thừa nhận một thực tế là trong lịch sử mỹ
thuật, cái xấu bước vào khá muộn. Suốt mười mấy thế kỷ liên tục, nghệ thuật
thế giới chủ yếu hướng vào mô tả cái đẹp, cái cao thượng. Truyền thống đó
bắt nguồn từ nghệ thuật Hy Lạp, được tái sinh trong thời kỳ Phục hưng,
xuyên suốt chủ nghĩa cổ điển và tiếp tục phát huy với chủ nghĩa lãng mạn.
Trong giai đoạn này đôi khi việc miêu tả cái xấu lại trở thành điều cấm kỵ đối
với nghệ thuật. Điều đó giải thích vì sao hài kịch đã không được công nhận
trong chủ nghĩa cổ điển, vì sao các họa sĩ của châu Âu thế kỷ XVII - XVIII chỉ
chú ý tới cái đẹp, cái thanh cao. Khi vẽ cây chẳng hạn thì không bao giờ họ
vẽ cái gốc lởm chởm, xù xì hoặc nếu có thì cũng tìm cách làm cho nó khuất đi
sau những vật trang nhã khác.
Trong lịch sử văn chương, tấn bi kịch của lý tưởng nhân văn. sự khủng
hoảng của cái đẹp và hài hòa chỉ mới bắt đầu diễn ra chủ yếu từ hậu kỳ Phục
hưng với những tác phẩm của Shakespeare. Còn âm nhạc thì biết đến quá
trình này muộn hơn, vào những giai đoạn cuối của chủ nghĩa lãng mạn với
các tác phẩm của Beethoven. Trong lịch sử hội họa, những bức tranh trình
bày cái xấu trước đây rất ít ỏi.
Điều đó chứng tỏ rằng dẫu buộc phải nói đến cái xấu, nghệ thuật vẫn
dành ưu tiên cho cái đẹp. Cái đẹp vẫn là đối tượng cơ bản, lâu dài, xuyên
suốt của nghệ thuật. Trở về với sự hài hòa của thế giới và của con người, đó
chính là ước mơ, là sự phấn đấu, là cái đích cuối cùng của nhân loại. Và đó
cũng chính là tương lai của nghệ thuật, thể hiện chủ nghĩa nhân văn cao cả
của nó.
Thể hiện những rung động đẹp đẽ về hiện thực sẽ góp phần làm phong
phú thêm nội dung thẩm mỹ của nghệ thuật. Đứng trước một tác phẩm nghệ
thuật, nhiều khi chúng ta cảm thấy phấn chấn, thỏa mãn về mặt thẩm mỹ
không phải chỉ do cái đẹp của bản thân sự vật được mô tả, mà còn do tình
cảm của nghệ sĩ. Xúc cảm thẩm mỹ của nghệ sĩ truyền sang chúng ta, làm
cho chúng ta cũng có những rung động tương tự. Điều này bộc lộ rõ rệt trong
những trường hợp mà chúng ta gọi là "sự thi vị hóa cuộc sống".
Hãy lấy bức tranh "Tát nước đồng chiêm" của họa sĩ Trần Văn Cẩn làm
ví dụ. Trước mắt chúng ta là cảnh người nông dân đang tát nước. Đây là một
cảnh hết sức bình thường, bề ngoài không có gì là nên thơ cả. Song với con
mắt nghề nghiệp, họa sĩ đã phát hiện ra một số nét thi vị của đối tượng. Các
nét này lại được tô điểm, nhân lên nhờ xúc cảm thẩm mỹ tràn ngập trong lòng
người vẽ. Điều này làm cho cảnh vật được miêu tả trở nên sinh động và đẹp
đẽ hẳn lên: những tà áo và giải thắt lưng bay lên theo chiều gió như ca hát,
như hòa nhịp với những cánh tay đang kéo gầu nước bạc. Hình ảnh các bà,
các chị nghiêng ngả, tát nước mê say, toàn bộ khủng cảnh lao động toát lên
không khí, vui tươi, nhịp nhàng giống như một điệu múa vui sản xuất, nổi lên
giữa thiên nhiên bao đời nay gắn bó với con người.
Rõ ràng là cảm xúc của tác giả cũng là một trong những đối tượng của
thưởng thức nghệ thuật. Cùng với vẻ đẹp của bản thân cái được phản ánh
(cảnh vật, con người) cảm xúc này tạo thành mặt thẩm mỹ quan trọng của nội
dung tác phẩm.
Nhưng chẳng lẽ tác phẩm chỉ đẹp khi nó mô tả cái đẹp của cuộc sống
hay diễn đạt cảm xúc thẩm mỹ của nghệ sĩ? Nếu vậy thì ý nghĩa thẩm mỹ của
tác phẩm bộc lộ như thế nào, chẳng hạn như trong bức họa "Khúc khải hoàn
ca của chiến tranh" của họa sĩ V.Veresaghin. Trền khung vải chỉ có những
chiếc sọ người chất thành một đống cao với dàn quạ đen, con thì đậu, con
đang bay đến từ xa, nổi lên giữa cánh đồng hoang vắng trơ trọi. Tìm cái đẹp
ở đâu đây?
Nhà triết học Pháp Pascal nói: "Không một con rắn hay con quái vật
nào được nghệ thuật sửa sang mà không trở nên đẹp". Nhưng xin bạn chớ
vội nghĩ rằng như vậy là cái xấu khi bước vào nghệ thuật sẽ bớt xấu hơn, cái
ác sẽ trở nên bớt ghê tởm hơn, còn sự giả dối thì đáng khoan dung hơn.
Câu nói của Pascal liên quan đến một vấn đề quan trọng của mỹ học:
nghệ thuật không từ chối cái xấu, cái thô thiển, nhưng dù mô tả cái đẹp, cái
xấu hay cái thô thiển thì tác phẩm bao giờ cũng phải đẹp.
Điều này hoàn toàn dễ hiểu. Thực tế cho thấy vẽ cái xấu và vẽ xấu
không phải là một, cũng như vẽ cái đẹp và vẽ đẹp không phải bao giờ cũng
đồng nhất với nhau. Có khi người cầm bút vẽ một sự vật rất đẹp mà bức
tranh lại chẳng đẹp-chút-nào. Một nhân vật trong truvện "Kiệt tác chưa biết
đến" của Balzac có lần đã thay mặt nhà văn thốt lên rằng: "Nào bạn hãy dùng
thạch cao nặn y nguyên cánh tay người yêu của mình và đặt nó lên bàn mà
xem. Bạn sẽ chẳng thấy một chút giống nhau nào cả, đó sẽ là cánh tay của
một xác chết và lúc ấy bạn phải nhờ đến nhà điêu khắc là người không phải
mang lại một bản sao chính xác mà truyền đạt sự vận động vào cuộc sống".
Trong ý nghĩa này, lối phản ánh hiện thực theo kiểu tự nhiên chủ nghĩa
rõ ràng không phải chỉ làm cho giá trị tư tưởng của tác phẩm bị hạ thấp mà
còn tỏ ra kém cỏi về mặt thẩm mỹ. Bê nguyên xi tất cả những cái trong đời
vào nghệ thuật, dù là những cái hấp dẫn và xinh đẹp, đều không phù hợp với
quy luật sáng tạo nghệ thuật. Một cô gái hàng ngày trông rất đẹp nhưng nếu
bước lên sân khấu mà không trang điểm, sẽ trở nên vụng về và nhợt nhạt
giữa cảnh phông màu rực rỡ và dưới ánh sáng của hàng chục ngọn đèn.
Xét về phương diện hình thức, nghệ thuật bao giờ cũng phải đẹp.
Chính nhờ tài năng của nghệ sĩ mà ngay cả trong những trường hợp tác
phẩm trực tiếp mô tả cái xấu, cái ác. Chúng ta vẫn vui lòng thưởng thức, tác
phẩm và có được những rung cảm thẩm mỹ nhất định. Chằng hạn trong
Truvện Kiều, khi tả Tú Bà đánh đận Thúy Kiều, Nguyễn Du viết:
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,
Đang tay vùi Liễu dập hoa tơi bời.
Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau!
Hết lời thú phục khẩn cầu,
Uốn lưng thịt đỗ, dập đầu máu sa.
Đây là cảnh hành hạ con người bằng roi vọt, chửi mắng, chẳng đẹp đẽ
gì. Nhưng những câu thơ diễn tả cảnh khảo tra ấy lại rất hay và đẹp.
Cũng tương tự như vậy, có thể nói về giao hưởng số 5 cung Đô thứ
của Beethoven. Tiếng gõ cửa của thần chết, sự khủng khiếp của Định mệnh
đã được nhà soạn nhạc hình tượng hóa trong những âm thanh bất hủ. Còn
trong tác phẩm "Guernica", Picasso thể hiện sự hủy diệt tàn khốc mà bọn
phát xít đã gây ra trong một cuộc ném bom vào làng Guernica ở Tây Ban
Nha. Cao hơn nữa, họa sĩ muốn phác họa tội ác của chủ nghĩa phát xít và
tính chất khủng khiếp của chiến tranh. Tất cả những cảnh tượng và nội dung
đó rõ ràng không có cái gì chung với cái đẹp. Nhưng Picasso đã diễn tả nỗi
kinh hoàng ấy bằng một ngòi bút tuyệt vời, khiến cho "Guernica" cùng với bức
"Chim bồ câu" mãi mãi tượng trưng cho tiếng nói nhân đạo, tiếng nói chống
chiến tranh và nguyện vọng hòa bình của các dân tộc. Với "Guernica" và
"Chim bồ câu", Picasso đã đi bằng hai con đường khác nhau để đến cùng
một đích: ông vẽ cả cái xấu và cái đẹp, nhưng cả hai cùng chung một chủ đề
hòa bình, nhân đạo và cả hai đều là những kiệt tác về mặt thẩm mỹ.
Nói tóm lại, trong những trường hợp trên đây, ngoài cái đẹp của lý
tưởng xã hội, của tình cảm của nghệ sĩ (trong chừng mực lý tưởng và tình
cảm này gợi chúng ta quan niệm về cuộc sống, về sự hài hòa), phẩm chất
thẩm mỹ của các tác phẩm còn bộc lộ ở cái đẹp của hình thức nghệ thuật.
Tiêu chuẩn của cái đẹp này chính là sự hoàn thiện của các phương tiện
hình thức và sự phù hợp của chúng với nội dung cần diễn đạt.
Trước hết, hình chức tác phẩm muốn đẹp phải thật sự hoàn thiện,
nghĩa là phải hoàn hảo về mặt kỹ thuật, kỹ xảo. Yêu cầu này bắt buộc đối với
tất cả các yếu tố hình thức, kể từ việc lựa chọn một chữ hoặc một âm đến
việc tổ chức toàn bộ tác phẩm thành một chỉnh thể thống nhất. Ở đây quy luật
của sáng tạo thẩm mỹ đề ra những tiêu chuẩn hết sức nghiêm ngặt. Tác
phẩm không được thiếu mà cũng không được thừa. Mọi chi tiết đều phải
được cân nhắc, tính toán chặt chẽ. Các bản viết tay của La Fontaine đầy
ngập những chỗ gạch xóa. Có bài ngụ ngôn ông phải làm đi làm lại 12 lần.
J.J.Rousseau cũng thổ lộ: "Các bản viết tay của tôi có biết bao nhiêu chỗ
gạch xóa, bẩn, lộn xộn, khó đọc, nói lên công sức mà tôi phải bỏ ra. Không có
một tác phẩm nào mà tôi không phải chép lại tới bốn năm lần trước khi đưa
in". Flaubert viết lại tác phẩm "Bà Bovarv" mười lần. Pascal viết đi viết lại đến
mười lăm lần một số chỗ trong "Tập thư gửi người nhà quê" v.v... Tất cả
những cái đó nói lên nguyện vọng của nhà văn muốn đạt tới sự hoàn thiện,
tới cái đẹp.
Mặt khác, bản thân sự hoàn thiện của kỹ thuật, kỹ xảo sẽ giảm đi rất
nhiều ý nghĩa nếu nó không gắn với một nội dung cụ thể nào đó, không nhằm
diễn đạc một tư tưởng, một tâm trạng nào đó. Sức mạnh của hình thức không
phải chỉ phụ thuộc vào sự hoàn hảo của bản thân nó, mà còn toát ra từ quan
hệ của nó với nội dung. Quan hệ này có hai mặt. Thứ nhất đó là vấn đề: các
phương tiện hình thức có khả năng truyền đạt đầy đủ và chính xác đến đâu
cái mà nghệ sĩ cần diễn tả, biểu hiện. Ở đây phẩm chất thẩm mỹ của một hình
ảnh hay một tính từ chẳng hạn là ở chỗ chúng nói lên được hết những gì nhà
văn định gửi gắm. Mở đầu Truyện Kiều, khi tả mùa xuân, Nguyễn Du viết:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Câu thơ không chỉ phác ra cảnh tuyệt đẹp của trời đất ngày xuân mà
còn diễn tả cả vẻ tinh khiết của tiết thanh xuân. Lúc mà Thúy Kiều lần đầu tiên
bước ra với cuộc đời mang theo đôi mắt ngỡ ngàng, bỡ ngỡ và bao nhiêu
ước mơ cua người con gái ngây thơ, trong trắng. Đó là vẻ đẹp của thiên
nhiên, vẻ đẹp và tâm trạng của con người, mà cũng là cái yên lặng của đất
trời trước cơn dông, của một số phận tài hoa trước khi trở thành "bạc mệnh".
Câu tả cảnh vừa như là chuẩn bị như khúc dạo đầu của một bi kịch, vừa như
một vế của sự tương phản, làm nổi bật lên sự đối lập giửa hai không gian,
giữa hai nửa cuộc đời Kiều.
Ở chỗ khác, tả Sở Khanh lén lút chui vào lầu xanh để tính kế lừa dối
Kiều. Nguyễn Du viết:
Tường đông lay động bóng cành,
Rẽ song đã thấy sở Khanh lẻn vào.
Nhiều người cho rằng với từ "lẻn", nhà thơ đã giết chết nhân vật. Từ
này vừa diễn tả đúng hành động mờ ám của Sở Khanh, lại vừa nói lên đầy đủ
thái độ của tác giả đối với loại người như vậy.
Rõ ràng trong cả hai trường hợp trên đây, hình ảnh và từ ngữ đã làm
tròn chức năng của chúng.
Mặt thứ hai của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, bộc lộ ở chỗ:
vẻ đẹp của hình thức phụ thuộc rất nhiều vào tính đúng đắn hay lệch lạc của
nội dung được nó diễn tả. Nếu nội dung thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn sâu
sắc hay gắn liền với tư tưởng tiến bộ thì vẻ đẹp của hình thức tác phẩm sẽ
được nhân lên gấp nhiều lần. Ngược lại dù câu thơ có lộng lẫy đến mức nào
màu sắc và bố cục của bức tranh có đẹp đến đâu, nhưng nếu chúng nhằm
thể hiện một tư tưởng giả dối, ca ngợi tội ác, độc tài thì sức mạnh thẩm mỹ,
của chúng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng, hoặc có khi bị phá hủy hoàn toàn.
IV. PHÂN BIỆT HAI KHÁI NIỆM: CÁI ĐẸP VÀ NGHỆ THUẬT
Chủng ta nói nghệ thuật là nơi tập trung cao nhất quan hệ thẩm mỹ của
con người với hiện thực, và nói đã là nghệ thuật thì phải đẹp, không đẹp
không thành nghệ thuật. Nhưng tại sao lại không thể nói: cái đẹp là nghệ
thuật?
Đó là vì cái mệnh đề khá quen tai và tưởng như hoàn toàn tự nhiên,
hoàn toàn hợp lý kia có thể gây ra những hiểu lầm liên quan trực tiếp đến
cách nhìn nhận bản chất của cái đẹp và nghệ thuật, đến các hành động cụ
thể trong sáng tác và cảm thụ nghệ thuật, có thể dẫn đến sự lẫn lộn nghệ
thuật, với cái đẹp.
Nguyên nhân sự lẫn lộn này một phần là do từ ngữ tạo nên.
Trong tiếng Việt hiện đại, từ "nghệ thuật" được dùng ít nhất với ba
nghĩa sau đây:
a) Chỉ những hoạt động gì thật khéo léo, đạt đến trình độ điêu luyện,
tay nghề cao. Chúng ta vẫn thường nghe nói: "nghệ thuật mổ xẻ", "nghệ thuật
bắt rắn", "nghệ thuật lái xe", hay "một đường chuyền bóng nghệ thuật", "một
cú sút nghệ thuật" v.v... Có thể nói đây chính là nghĩa đen, nghĩa trực tiếp của
từ "nghệ thuật", bởi vì theo từ nguyên "thuật" là hoạt động, là kỹ thuật, còn
"nghệ" là tài năng, kỹ năng. Trong tiếng Pháp và tiếng Anh "art" đầu tiên cũng
có nghĩa là khéo léo, kỹ xảo, tài nghệ, sau mới có thêm nghĩa "mỹ thuật",
"nghệ thuật". Trong tiếng Nga cũng vậy.
b) Chỉ những hoạt động và sản phẩm, hài hòa, đẹp mắt, có thể mang,
lại cho người ta khoái cảm thẩm mỹ. Trong nghĩa này, chúng ta gọi một bộ
bàn ghế mây tre xuất khẩu, một chiếc thuyền bằng sừng để bàn, một cái gạt
tàn thuốc lá bằng gỗ sơn mài khảm xà cừ, một bộ quần áo thêu nhiều màu
của phụ nữ dân tộc ít người, một buổi đồng diễn thể dục v.v... là tác phẩm
nghệ thuật, là công trình nghệ thuật. Gần đây lại xuất hiện thêm các khái
niệm: "thể dục nghệ thuật, trượt băng nghệ thuật, bơi nghệ thuật"... "Nghệ
thuật" ở đây chính là đẹp.
c) Chỉ một loại hoạt động đặc thù của con người nhằm tạo ra một loại
sản phẩm đặc biệt, không phải chỉ đẹp mắt, êm tai, hài hòa mà còn có ý nghĩa
tư tưởng xã hội sâu sắc. Trong nghĩa này chỉ có hội họa, điêu khắc, múa, âm
nhạc, văn chương, sân khấu, điện ảnh, ảnh nghệ thuật và kiến trúc mới được
gọi là nghệ thuật.
Như vậy, trong thực tế từ "nghệ thuật" được dùng theo những nghĩa
khác nhau. Tình trạng những sự vật khác nhau được gọi chung bằng một tên
để tạo ra cảm giác rằng chúng là một, đặc biệt là đối với các hiện tượng thuộc
nghĩa thứ hai và thứ ba.
Song sự lẫn lộn giữa khái niệm nghệ thuật và cái đẹp còn có nguyên
nhân khác nữa, bắt nguồn sâu xa trong mỹ học. Trước Tchernychevski, mỹ
học chủ yếu là khoa học về cái đẹp của nghệ thuật. Mở đầu những bài giảng
về mỹ học nổi tiếng của mình. Hegel viết: "Những bài giảng này dành nói về
mỹ học, đối tượng của mỹ học và vương quốc bao la của cái đẹp, nói đúng
hơn là lĩnh vực của nghệ thuật, hay đúng hơn nữa, là lĩnh vực của sáng tạo
nghệ thuật". Quan niệm trên đây có truyền thống lâu đời, đạt đến sự phát triển
cao nhất trong hệ thống của Hegel và tồn tại mãi cho tới hiện nay.
Sau Hegel, mỹ học dần dần mở rộng phạm vi nghiên cứu của mình,
không còn hoàn toàn bị giới hạn trong lĩnh vực nghệ thuật. Tuy nhiên quan
niệm cũ vẫn chưa phải đã mất hẳn và thói quen hễ nói đến cái đẹp là nói đến
nghệ thuật vẫn làm cho người ta nghĩ rằng hai khái niệm này là tương trợ như
nhau, đồng nghĩa với nhau.
Thật ra, cái đẹp và nghệ thuật là hai khái niệm tuy có gần gũi nhau,
nhưng rất khác nhau.
Cái đẹp là phạm trù chỉ những giá trị thẩm mỹ tồn tại khắp nơi trong
thiên nhiên, trong xã hội, ở con người, trong sản phẩm vật chất và tinh thần,
trong nghệ thuật. Hoạt động thẩm mỹ là hoạt động nhằm tạo ra các giá trị
thẩm mỹ, đáp ứng nhu cầu của con người về cái đẹp. Hoạt động này rất đa
dạng, có mặt trong hầu hết các lĩnh vực thực tiễn của con người. Nó quy tụ
thành ba nhóm cơ bản:
a) Các hoạt động nhằm cải tạo thế giới vật chất, đem lại những sản
phẩm vật chất có giá trị sử dụng và giá trị thẩm mỹ. Việc tạo ra giá trị thẩm mỹ
(cái đẹp) tuy không phải là nhu cầu số một, nhưng cũng là nhu cầu nội tại của
các hoạt động này, nằm ngay trong khuynh hướng và mục đích của chúng.
Tiêu biểu cho các hoạt động này là: nghề thủ công, thiết kế mỹ thuật và kiến
trúc.
b) Các hoạt động hướng vào việc thay đổi, tô điểm, làm đẹp cho chính
bản thân con người, từ quần áo, giày dép và da dẻ, cơ thể đến cử chỉ, cách
ăn nói, đối xử và thế giới bên trong của con người. Nhóm này gồm các ngành
may mặc, trang phục, trang điểm, thể dục, thể thao, hùng biện, thẩm mỹ hành
vi, giáo dục nghệ thuật và giáo dục thẩm mỹ.
c) Sáng tạo nghệ thuật như một hoạt động đặc thù, tập trung cao nhất
quan hệ thẩm mỹ của con người với cuộc sống và thực hiện những chức
năng xã hội to lớn khác. Hoai động này bao gồm sáng tác hội họa, điêu khắc,
âm nhạc, múa, văn học, sân khấu, điện ảnh, ảnh nghệ thuật và kiến trúc nghệ
thuật.
Nghệ thuật là một phương cách tồn tại của ý thức con người, một hoạt
động sáng tạo độc đáo, một hình thức giao tiếp xã hội đặc biệt, một lĩnh vực
của cái đẹp.
Cũng như nhiều hình thái ý thức khác, nghệ thuật gắn chặt với hiện
thực khách quan tồn tại ngoài ý thức con người. Hiện thực đó trước hết là đời
sống xã hội với những cơ sở kinh tế, chính trị, pháp lý, đạo đức v.v... của nó
là sinh hoạt tinh thần của cộng đồng. Nghệ thuật của một xã hội bao giờ cũng
gắn liền với xã hội ấy. Bởi vậy, một khi đời sống xã hội thay đổi, nghệ thuật
cũng biến đổi theo, dù có thể là không cùng ngay một lúc.
Nghệ thuật, xét ở một phương diện khác, là một hoạt động sáng tạo
độc đáo của con người. Giống như các loại lao động khác, nghệ thuật cũng
đòi hỏi phải đổ mồ hôi, công sức và cũng đem lại những sản phẩm nhất định.
Có điều sáng tạo nghệ thuật không chỉ nhằm biến đổi trực tiếp thế giới khách
quan hay nhận thức các quy luật phát triển của nó mà còn có những mục đích
riêng khác.
Nhà thơ, nhà soạn nhạc v.v... sáng tác trước hết là để nói lên những
cảm xúc, tình cảm, tư tưởng, quan niệm của mình. Nguyễn Trãi đã từng viết:
Liêu bả tân thi tả ngả sầu.
(Hãy làm bài thơ mới nói lên nỗi buồn của ta)
Ông cũng lại viết:
Hảo bả tân thi chí hướng luân.
(Muốn làm bài thơ mới nói lên cái chí của mình).
Tác phẩm nghệ thuật có khi chỉ là một cảm xúc, một tâm trạng, có khi là
những quan niệm về vũ trụ, về cuộc đời, về chính trị, về nhân sinh v.v... Nó có
thể là tiếng nói tâm tình, là lời chia sẻ, giải bày, có thể là tiếng chim gọi đàn,
tiếng kèn tập hợp.
Đồng thời, bên cạnh việc thể hiện cảm xúc và quan niệm, nghệ sĩ còn
nói lên nhận thức, sự nghiền ngẫm của mình về cuộc đời, về hiện thực. Mở
đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Viết Truyện Kiều, nhà thơ không chỉ bày tỏ tấm lòng của mình mà còn
muốn nói về "những điều trông thấy", về hiện thực xã hội đương thời. Tự bản
thân bức tranh Nguyễn Du vẽ ra cũng đã có ý nghĩa nhận thức và giá trị nhân
văn sâu sắc.
Khác với các hoạt động khác, sức hấp dẫn của nghệ thuật thể hiện
không chỉ ở chiều sâu tư tưởng và ý nghĩa nhận thức của nó, mà nó còn có
sức mạnh tình cảm và tính hình tượng của tác phẩm.
Nghệ thuật là quy luật của tình cảm. Tình cảm là đối tượng miêu tả, là
nội dung biểu hiện của nghệ thuật. "Hơn thế nữa nó là chất men, là động lực
làm cho một cảm xúc bình thường, một ý nghĩ, một tư tưởng, một điều quan
sát được có thể chuyển thành bức tranh, lời thơ, nốt nhạc. Trong nghĩa đó, rõ
ràng không có tình cảm cũng sẽ không có nghệ thuật. Tình cảm vừa là chất
men sáng tạo, vừa là con đường nối liền tác giả với công chúng, đưa tác
phẩm đến với người đọc, người xem. Khả năng tác động vô cùng to lớn của
nghệ thuật sở dĩ có được một phần cũng là do nó gắn liền với tình cảm thông
qua tình cảm.
Đồng thời, sức lôi cuốn của nghệ thuật bắt nguồn cũng từ bản chất
hình tượng của nó. Tính hình tượng này một phần nằm ngay trong bản thân
cách cảm nghĩ của những người sáng tác, một phần là phương tiện mà nhà
văn, nhà thơ, họa sĩ v.v... dùng để diễn đạt tư tưởng, tình cảm của mình và
ghi lại bức tranh về cuộc sống. Khác với các loại hình tượng khác, hình tượng
nghệ thuật không dừng lại ở sự minh họa và cũng không đòi hòi phải giống y
như thật. Hình tượng nghệ thuật là kết quả sáng tạo của trí tưởng tượng của
nghệ sĩ. Chính bằng cách vẽ ra một bức tranh nào đó hoặc xây dựng những
nhân vật nào đó mà người sáng tác có thể diễn tả những cảm xúc và suy nghĩ
của mình được cụ thể hơn và dễ tác động đến người đọc, người xem hơn,
làm cho chúng trở nên dễ hình dung hơn, dễ nhớ và có sức khêu gợi tình
cảm hơn.
Tác phẩm nghệ thuật là phương tiện mang tiếng nói của nghệ sĩ đến
với cuộc đời. Mối quan tâm lớn nhất của mỗi người cầm bút là làm sao diễn tả
được hết ý mình cho người khác hiểu và thông cảm. Bởi vậy, có thể nói ngoài
quy luật của cái đẹp, tác phẩm nghệ thuật được tổ chức chủ yếu theo những
quy luật của sự tiếp nhận. Tất cả các biện pháp nghệ thuật, các hình thức thi
pháp và các yếu tố khác của tác phẩm đều được hướng vào thực hiện nhiệm
vụ ấy. Điều này đúng với từng câu thơ, từng bài hát cũng như với cả những
bộ tiểu thuyết dày hoặc những vở kịch diễn suốt nhiều đêm.
Nghệ thuật tự nó là một hoạt động đa chức năng. Ngoài chức năng
thẩm mỹ đã nói ở trên ra, nghệ thuật còn có nhiều chức năng khác như: giao
tiếp, nhận thức, giáo điều, giải trí, v.v...
Tác phẩm nghệ thuật là một trong những "kênh" giao tiếp của xã hội,
một trong những con đường dẫn con người đến với con người. Chừng nào
một tâm hồn này còn cần đến một tâm hồn khác, thì khi đó nghệ thuật còn
cần đến cho con người. Bằng những bài thơ, bản nhạc, bức tranh, pho tượng
hay vở kịch, người này sẽ thông báo với người kia, thời đại này sẽ lưu lại cho
thời đại khác tất cả những gì liên quan đến sự sinh tồn, đến hạnh phúc mà
mỗi người, mỗi thời đại xem là sâu xa, xúc động nhất, đến mức biến thành
cảm hứng, thành khát vọng tràn ngập trong lòng, đòi hỏi phải nói lên, phải
chia xẻ. Tác phẩm nghệ thuật, bởi vậy, trở thành một thứ thông điệp độc đáo,
mãnh liệt.
Nghệ thuật cũng chính là phương tiện nhận thức, giúp con người hiểu
được mình và thế giới đầy đủ hơn. Trong những thế kỷ gần đây chức năng
nhận thức của nghệ thuật càng ngày càng được đề cao. Điều đó dễ hiểu, bởi
vì thời đại chúng ta là thời đại của sự phân tích, thời đại trưởng thành của tư
duy, của trí tuệ. Trong bối cảnh đó, nghệ thuật hiện ra như sự khám phá,
nghệ sĩ hiện ra như nhà tư tưởng. Nghệ thuật của thế kỷ chúng ta đang đẩy
mạnh sự tim tòi cùng một lúc trên cả hai hướng: khám phá những quy luật
của hiện thực khách quan và đi sâu vào những bí ẩn của thế giới bên trong
của con người. Trên hướng thứ nhất, nó cố gắng khắc phục mọi biểu hiện
của chủ nghĩa tự nhiên hoặc minh họa để nhận thức đời sống cho sâu sắc,
chân thực. Trên hướng thứ hai, nghệ thuật thâm nhập vào các quá trình tư
tưởng - tình cảm vào đời sống bên trong của con người. Ở đây, nó biến thành
"biện chứng của tâm hồn", thành cuộc viễn du của tâm thức và nghệ sĩ thì
đóng vai trò của nhà thám hiểm, người phiêu diêu trong cõi tâm linh kỳ diệu
ấy.
Nghệ thuật không chỉ có giá trị thông báo, nhận thức mà còn có tác
dụng giáo dục hết sức sâu sắc. Bản thân hoạt động sáng tạo nghệ thuật như
là tiếng nói, sự chia sẻ tự nó đã bao hàm tính chất thuyết phục, kêu gọi sự
đồng tình, tập hợp đã chứa đựng ý nghĩa cải tạo. Nghệ thuật cải tạo con
người không phải bằng cách cưỡng bức mà bằng cách đưa ra những tấm
gương lớn. Tấm gương nghệ thuật phản chiếu cả những hình ảnh đẹp đẽ lẫn
những bóng dáng xấu xa của cuộc đời. Trong tấm gương ấy cả cái đẹp và cái
xấu đều được khuếch đại lên sao cho cái đẹp thì trở nên đẹp hơn, rực rỡ
hơn, biến thành lý tưởng còn cái xấu thì cũng hiện ra bần tiện và độc ác hơn
để con người thấy ghê tởm nó, từ bỏ nó và đấu tranh chống lại nó. Đồng thời
khi mang lại cho cuộc đời tấm gương của chính nó, nghệ thuật muốn mọi
người tự soi mình vào trong đó, đối chiếu mình với cái hay và cái dở của
người khác, kiểm tra lại mình. Cuộc đối thoại, bên trong con người chính là
quá trình tự giáo dục, tự cải tạo vô cùng sâu sắc. Nghệ thuật không trực tiếp
thay đổi thế giới, nhưng nó thay đổi tư tưởng, tình cảm của con người. Nghệ
thuật không trực tiếp tiêu diệt bọn xâm lược, chặn tay chủ nghĩa phát - xít hay
chấm dứt nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân, nhưng nó gieo vào
lòng nhân loại tình yêu tha thiết cuộc sống, lòng căm thù tội ác và chiến tranh.
Từ đấy lại sinh ra sức mạnh khổng lồ khác.
Có thể kể thêm những chức năng khác nữa của nghệ thuật, chẳng hạn
chức năng giải trí. Trong đời sống hàng ngày con người vẫn sử dụng nghệ
thuật như phương tiện để nghỉ ngơi. Sau giờ làm việc, người ta hát, múa, đi
xem kịch, đọc báo, xem phim, v.v... Nhưng bên cạnh những cách giải trí khác,
nghệ thuật là hình thức nghỉ ngơi đặc biệt của con người. Đặc biệt ở chỗ khi
tìm sự thoải mái, giải trí bằng cách ca hát, đọc sách, xem phim, vô tình con
người lại buộc phải tư duy, rung cảm. Vậy mà người ta vẫn bằng lòng, sẵn
sàng tìm đến với tác phẩm nghệ thuật bất kỳ lúc nào sau giờ làm việc. Giải
thích điều đó như thế nào đây? Dĩ nhiên, nghệ thuật là lĩnh vực của cái đẹp
và trong nghệ thuật có rất nhiều yếu tố giải trí thuần túy. Điều đó bao giờ cũng
hấp dẫn và làm vui con người. Song đó mới chỉ là một phần. Quan trọng hơn
là ở chỗ, nghệ thuật chính là một trong những hình thức nghỉ ngơi độc đáo
nhất, theo nguyên tắc: nghỉ ngơi là thay đổi hoạt động. Nói cách khác, con
người nhìn thấy ở nghệ thuật một trò chơi có ích. Giải trí bằng xem kịch cũng
tương tự như đánh cờ vậy. Đây không phải là những hình thức nghỉ ngơi
chân tay, mà còn là những cách giải trí trí tuệ. Trong ý nghĩa này, nội dung tác
phẩm càng sâu sắc và phong phú bao nhiêu thì nhu cầu giải trí của con người
càng được thỏa mãn đầy đủ bấy nhiêu. Đồng thời việc gia tăng yếu tố giải trí
của tác phẩm cũng không phải chỉ đáp ứng nhu cầu vui chơi của con người,
mà còn làm cho tư tưởng, nội dung của tác phẩm dễ đi vào lòng người, đọc,
người xem, thấm sâu vào họ. Coi thường chức năng giải trí của nghệ thuật là
coi thường ngay chính bản thân nhu cầu sinh tồn bình thường của con người,
là bỏ mất một khả năng tác động của nghệ thuật.
Như vậy, rõ ràng về một phương diện nào đó, cái đẹp rộng hơn nghệ
thuật. Cái đẹp không phải chỉ có trong nghệ thuật mà cả trong thiên nhiên,
trong đời sống, trong sản xuất. Sáng tạo nghệ thuật chỉ là một bộ phận trong
hoạt động thẩm mỹ của con người. Song đến lượt mình, nghệ thuật cũng
không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực cái đẹp, không phải chỉ là một hiện tượng
thẩm mỹ. Nó là một hoạt động đặc biệt của con người: Nó thấm nhuần cái
đẹp, đồng thời cũng chứa đựng nhữg ý nghĩa và chức năng xã hội khác như
vừa nói ở trên.
Đồng nhất cái đẹp với nghệ thuật sẽ dẫn đến những sai lầm cả trong
sáng tác và cảm thụ nghệ thuật.
Trước hết nó có thể tạo ra cơ sở lý luận cho quan niệm duy mỹ, coi
nghệ thuật chỉ có nhiệm vụ tạo ra cái đẹp, chủ yếu là cái đẹp của hình thức
mà thôi. Trong một mức độ nhẹ hơn nhưng lại phổ biến hơn, nó có thể dẫn
đến cách cảm thụ nghệ thuật một cách hời hợt, nông cạn. Đây chính là một
trong những nguyên nhân đã dẫn tới quan niệm xem nghệ thuật chủ yếu như
là thứ để thưởng thức, mua vui. Chúng ta vẫn thường nghe nói mấy tiếng
"thưởng thức nghệ thuật". Nhưng nghệ thuật phải chăng chỉ để thưởng thức?
Khi ngắm một bông hoa, một phong cảnh, một tòa nhà hay một chiếc bình
hoa sơn mài, đúng là chúng ta thưởng thức vẻ đẹp của chúng. Tác phẩm
nghệ thuật cũng mang lại cho ta những khoái cảm như vậy, song đó chưa
phải là tất cả. Bởi vậy, có lẽ cũng không nên ví nghệ thuật với một bông hoa,
cho dù bông hoa đẹp đến đâu. Nếu là hoa thì nghệ thuật cũng là loài hoa đặc
biệt, không phải chỉ có sắc thắm, hương thơm mà còn có sức cảm hóa được
con người.
Chỉ nghiên cứu cái đẹp của nghệ thuật, tất yếu sẽ dẫn đến coi thường
những vấn đề thẩm mỹ hết sức gần gũi và thiết thực đối với con người như
vẻ đẹp của sản phẩm lao động, của sinh hoạt, của cử chỉ, hành vi. Mỹ học vô
tình bỏ rơi mất khả năng tốt, để tìm hiểu cái đẹp của thế giới ngoài nghệ
thuật. Ngày nay vấn đề này đang được nhìn nhận lại một cách đầy đủ hơn.
Việc đồng nhất cái đẹp với nghệ thuật còn có thể đưa đến việc đồng
nhất giáo dục thẩm mỹ với giáo dục nghệ thuật. Giáo dục nghệ thuật như học
nhạc, học vẽ đọc sách, xem tranh, là một trong những con đường cơ bản và
có hiệu qủa nhất để nâng cao trình độ thẩm mỹ của con người. Song nhiệm
vụ và lĩnh vực của giáo dục thẩm mỹ rộng hơn, không chỉ bó hẹp trong giáo
dục nghệ thuật. Thực tế cho thấy là, để giúp trẻ em biết sống đẹp, bên cạnh
việc dạy cho các em biết ca hát, nhảy múa, biết vẽ, đọc thơ, cần phải hướng
dẫn cho các em biết mặc bộ quần áo cho ngay thẳng, biết thắt một cái nơ trên
tóc, biết nói năng nhã nhặn, lịch sự, biết trang trí góc học tập của mình. v.v...
Đây là những cái nhỏ, bình thường, gặp hàng ngày nhưng lại có ảnh hưởng
trực tiếp và không kém quan trọng đến sự hình thành nhân cách thẩm mỹ của
trẻ em. Bỏ qua những việc đó, chỉ tập trung vào việc dạy vẽ; dạy nhạc là bỏ
qua mất một cơ hội thuận tiện để đào tạo trẻ em thành những con người phát
triển toàn diện.
Tóm lại, nói đến nghệ thuật thì không thể không nói đến cái đẹp vì đã là
nghệ thuật thì phải đẹp. Song nghệ thuật cũng không phải chỉ có vấn đề cái
đẹp: nó phải vừa đẹp lại vừa hay, vừa sâu sắc. Đó chính là những điều rất
quan trọng nhưng cũng rất thường bị lẫn lộn.
Chương 5. CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT
I. NGHỆ THUẬT VÀ BẢNG PHÂN LOẠI NGHỆ THUẬT
Hệ thống hóa, phân loại các loại hình nghệ thuật và phân tích mối quan
hệ giữa các nghệ thuật, là một trong những đối tượng nghiên cứu quan trọng
của mỹ học. Nhưng muốn lập được bảng phân loại nghệ thuật trước tiên phải
xác định nghệ thuật là gì, đó là một tiên đề lý thuyết chưa bao giờ đạt được
sự nhất trí trong ngành mỹ học. Tuy nhiên, qua tất cả các định nghĩa về nghệ
thuật; vẫn có thể tìm thấy được tiếng nói chung: một sản phẩm, một vật
phẩm, được lọt vào vòng xem xét là nghệ thuật, hay không phải, chưa phải là
nghệ thuật, vẫn thuộc phạm trù cái đẹp, thuộc loại hoạt động sáng tạo thẩm
mỹ của con người. Một tòa nhà đẹp (kiến trúc), một cái gạt tàn thuốc đẹp (mỹ
thuật ứng dụng), một bức hình chụp đẹp (nhiếp ảnh nghệ thuật), một vũ điệu
trên băng (thể thao nghệ thuật)... là những sản phẩm, những hoạt động có khi
chưa được một trường phái mỹ học xem là nghệ thuật, vì các nhà mỹ học
thuộc trường phái này muốn hạn định, phạm trù nghệ thuật trong khuôn khổ
của những sáng tạo thuần túy tinh thần - thuần khiết, không liên quan với việc
sử dụng, với những mục đích, thực tế - vật chất. Nhưng trong đời sống,
những hoạt động nghê thuật thuần túy đó luôn luôn gắn với những hoạt động
thẩm mỹ khác, có khi kết hợp, hòa lẫn với nhau để cùng phục vụ nhu cầu
thẩm mỹ đa dạng của con người, ranh giới có khi khó phân biệt. Một kiệt tác
hội họa có khi xuất xứ từ một bức tranh vẽ đền thờ, theo yêu cầu của tôn
giáo, một giai điệu âm nhạc cổ điển có khi trở thành nhân tố tạo nên một
chương trình quảng cáo... Do đó, để tiến tới việc xây dựng một bảng danh
mục nghệ thuật, cần phải thừa nhận một phạm trù nghệ thuật theo nghĩa rộng
(bao gồm tất cả các loại hình sáng tạo thẩm mỹ ở trình độ cao), sau đó sẽ
phân biệt hai hệ thống, hai cấp độ khác nhau của các hoạt động đó, tạm gọi là
hai hình thái, hai quá trình thẩm mỹ hóa bậc 1 và bậc 2, đó là hai hệ thống
nghệ thuật: nghệ thuật thuần nhất và nghệ thuật ứng dụng
Trước khi lập bảng danh mục và phân loại nghệ thuật, nên xác định
những đặc trưng bản chất của nghệ thuật, nói cách khác, cần tìm một câu
định nghĩa về nghệ thuật. Như trên đã nói, có thể hình dung thực tiễn đời
sống thẩm mỹ như một sơ đồ có ba vòng tròn đồng tâm: vòng rộng nhất là
bao gồm mọi hoạt động lao động của con người, ở đâu dù ít nhiều, cũng đi
theo "quy luật của cái đẹp" (Marx). Từ vòng tròn thứ hai, hoạt động theo quy
luật của cái đẹp đạt đến một trình độ tập trung hơn, cao hơn, đó là bắt đầu
của thế giới nghệ thuật theo nghĩa rộng nhất của nghệ thuật. Vòng tròn thứ ba
trong cùng, là hoạt động nghệ thuật thuần nhất. Vậy cần có hai định nghĩa,
theo hai vòng tròn bên trong, một định nghĩa chung, và một định nghĩa chỉ
dành cho hoạt động nghệ thuật thuần nhất. Cũng nên nói trước, định nghĩa là
một thao tác khoa học rất khó, nhất là những phạm trù thuộc khoa học xã hội,
vì định nghĩa là đem nhốt cả sự sống phong phú vào một công thức dễ chủ
quan phiến diện. Nhưng làm lý luận không thế trốn tránh việc định nghĩa. Với
nghệ thuật, ngay trong vấn đề đang trình bày, định nghĩa nhằm định hướng
cho phân loại, và phân loại chứng minh cho định nghĩa. Chẳng hạn, có thể
dịnh nghĩa để xếp chung xiếc và nghệ thuật sân khấu kịch vào một loại,
nhưng cũng có thể định nghĩa để xếp chúng ở hai loại hoàn toàn khác nhau.
Trong lúc đó, có thể định nghĩa để xếp hai nghệ thuật tưởng chừng rất khác
nhau vào cùng một loại đó là mỹ nghệ và xiếc, kiến trúc và thể thao nghệ
thuật.
Vậy, theo ý nghĩa rộng rãi nhất, nghệ thuật là một hình thái ý thức xã
hội, là một loại hoạt động tinh thần - thực tiễn của con người, đi theo quy luật
của cái đẹp ở trình độ phát triển cao nhằm phục vụ cho con người một đời
sống tinh thần phong phú, đáp ứng những nhu cầu và khát vọng của con
người vươn tới những giá trị chân - thiện - mỹ.
Cùng mang tất cả những đặc điểm chung đó, loại nghệ thuật, thuần
nhất là hình thức sáng tạo đặc biệt, được tạo nên bởi người nghệ sĩ có cá
tính độc đáo, có tâm hồn giàu cảm xúc, có tài năng sáng tạo. Nghệ thuật ở
đây là tiếng nói tình cảm - tư tưởng của con người gửi đến con người, nhằm
biểu đồng tình, kêu gọi, tác động, định hướng cho con người đi vào chiêm
ngưỡng, chọn lựa những kinh nghiệm sống và kinh nghiệm tình cảm, thông
qua cái cấu trúc cảm tính sinh động đơn nghĩa và đa nghĩa, tả thực và ước lệ,
miêu tả và biểu hiện, tạo nên bởi tưởng tượng và hư cấu, đó là hình tượng.
Để tiến tới một bảng danh mục nghệ thuật với sự phân loại cụ thể, xuất
phát từ định nghĩa trên, tìm các tiêu chí, các bình diện để phân loại, xếp loại,
đó là công việc của khoa hình thái học nghệ thuật (morpholosrie de l’art). Tư
tưởng hình thái học có rất sớm từ trong mỹ học cổ đại và trước đó nữa là
trong tư duy thần thoại. Người Hy Lạp xưa có cả một gia hệ các nữ thần
(muses) tập hợp dưới trướng của Apollon, thần mặt trời, thần trí tuệ và thần
nghệ thuật. Tất cả có 9 nữ thần nghệ thuật tượng trưng cho 9 loại hình như
hoạt động, như sau: Clio (lịch sửj, Euterpe (âm nhạc), Thalie (hài kịch và thơ
điền viên) Melpomene (bi kịch), Terpsichorc (múa), Erato (oán thi), Polymnie
(thơ trữ tình), Uranie (thiên văn và hình học). Calliope (hùng biện và anh hùng
ca). Trong gia hệ các nữ thần này, con người cổ đại đã có Ý thức, kén chọn
những tinh hoa thuộc về đời sống trí tuệ và tâm hồn và coi trọng sự nhận thức
của con người cả về khoa học và nghệ thuật, chưa tách biệt nghệ thuật ra
khỏi khoa học, vẫn là mội khối nguyên hợp những sáng tạo tinh thần. Tuy
không có mặt trong gia hệ này nhưng kiến trúc và thủ công mỹ nghệ vẫn có
những vị thần bão trợ khác, đó là vị thần lửa, cũng là thần luyện kim
Ecphaislos, chuyên lo xây dựng cung điện và rèn vũ khí cho các thần, dạy
cho thế gian làm các lò rèn. Nữ thần Athéno con gái của Zeus cũng là một nữ
thần khoa học và nghệ thuật, chăm lo nghề kim chỉ thêu thùa và cả âm nhạc
dụng cụ. Căn cứ trên tư duy thần thoại đó, các nhà mỹ học về sau đã dựng
nên hai hệ thống nghệ thuật dưới sự chỉ đạo của hai vị thần: hệ thống Apollon
(các nghệ thuật tinh thần) và hệ thốnq Hephaistos (các nghệ thuật vật chất).
Thâu tóm những quan niệm phân loại - những tư tưởng hình thái học
qua các thời đại, có thể rút ra các cặp tiêu chí phân loại sau đây:
a. Tiêu chí bản thể (onthologie): NT không, gian NT thời gian hoặc: tĩnh/
động.
Xác định điều kiện tồn tại của tác phẩm nghệ thuật từ đó nảy sinh
những đặc trưng về phương thức sáng tác thể hiện.
b. Tiêu chí tâm lý: NT thính giác, NT thị giác.
Thính giác gắn liền với tiêu chí NT thời gian; tri giác gắn liền với NT
không gian. Cặp tiêu chí này phân chia nghệ thuật thành hai loại bị chi phối
bởi đặc trưng tâm - sinh lý sáng tác và cảm thụ là nghe và nhìn.
c. Tiêu chí ký hiệu (sémíologie): miêu tả/ không miêu tả.
Còn gọi miêu tả (description) hay tạo hình (figuratif) / biểu hiện
(expressif).
Do đặc điểm trực tiếp bộc lộ thái độ của chủ thể hay gián tiếp bộc lộ
chủ thể thông qua những hình ảnh tái tạo hiện thực nghệ thuật sẽ có hai loại
tác phẩm khác nhau, là thiên về chủ quan hay thiên về khách quan.
d. Tiêu chí tính năng: NT đơn tính (một tính năng) / NT lưỡng tính (hai
tính năng).
- Hoặc: NT thuần nhất / NT ứng dụng.
Đây là tiêu chí quan trọng nhất nhằm phân biệt hai hệ thống nghệ thuật
khác biệt nhau: hệ thống NT chuần nhất chỉ mang một tính năng - tính năng
thẩm mỹ; hệ thống nghệ thuật ứng dụng mang hai tính năng - tính năng ích
dụng và tính năng thẩm mỹ, trong đó tính năng ích dụng là cơ bản, tính năng
thẩm mỹ là thứ yếu.
Mỗi một loại hình nghệ thuật thường mang mấy đặc điểm phù hợp với
mấy tiêu chí khác nhau. Chẳng hạn, âm nhạc: NT thời gian, thính giác, không
miêu tả, một tính năng (hoặc hai tính năng, nếu là nhạc ứng dụng); hội họa:
NT không gian, thị giác, miêu tả (trừ thể loại trừu tượng), một tính năng (hoặc
hai tính năng, nếu là hội họa ứng dụng).
Cuối cùng, có những loại hình mang đặc trưng của nhiều nghệ thuật vì
sử dụng phương tiện của tất cả các nghệ thuật đó, gọi là nghệ thuật tổng hợp
(như sân khấu, điện ảnh, kiến trúc...) do đó có thể thêm một cặp tiêu chí thứ
5:
e. NT độc lập / NT tổng hợp, hoặc: NT độc lập/ NT liên kết: chỉ có hai
yếu tố như văn học với âm nhạc (ca khúc) múa và nhạc (múa).
Ngoài ra, người ta có thể kể các cặp tiêu chí khác, như trình diễn /
không trình diễn, ngôn ngữ / phi ngôn ngữ...
Sau đây, xin giới thiệu ba bảng danh mục:
- Bảng danh mục tổng quát bao gồm tất cả các loại hình.
- Bảng danh mục nghệ thuật đơn tính - NT thuần nhất.
- Bảng danh mục nghệ thuật lưỡng tính - NT ứng dụng.
Bảng I. DANH MỤC TỔNG QUÁT VỀ CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT
Hệ thống 1: NT đơn tính Hệ thống 2: NT lưỡng tính
1. Điêu khắc.
2. Hội họa – đồ họa
3. Văn chương
1. Kiến trúc
2. Đồ dùng - công cụ
3. Trang trí
4. Âm nhạc
5. Múa
6. Sân khấu
7. Phim (trong điện ảnh và truyền
hình)
4. Hoa văn
5. Điêu khắc ứng dụng
6. Hội họa – đồ họa ứng dụng
7. Nhiếp ảnh
8. Văn chương ứng dụng
9. Âm nhạc ứng dụng
10. Múa ứng dụng
11. Sân khấu ứng dụng
12. Màn ảnh ứng dụng
13. Xiếc
14. Thể thao nghệ thuật.
CT: Trình tự sắp xếp các nghệ thuật là theo quan điểm lịch sử lôgich,
các nghệ thuật có tính vật chất gắn với lao động sản xuất và xuất hiện sớm
hơn trong lịch sử thu xếp trước (nghệ thuật ứng dụng, kiến trúc, điêu khắc) và
theo các nghệ thuật độc lập (hội họa, âm nhạc) trước cá nghệ thuật tổng hợp
(sân khấu, màn ảnh).
Bảng II. NGHỆ THUẬT MỘT TÍNH NĂNG (Nhóm loại hình - Loại hình -
Loại thể)
Sáng tạo nghệ thuật - thuần nhất (Hệ thống NT I) NGHỆ THUẬT
MỘT TÍNH NĂNG
Nhóm miêu tả Nhóm không miêu tả
Nhóm
không gian
1. ĐIÊU KHẮC
- Điêu khắc tròn) – đắp nổi
- Tượng nhỏ.
- Tượng đài
- Điêu khắc không biểu hình
- Tượng hoành tráng
2. HỘI HỌA - ĐỒ HỌA
Tranh trên giá
- Tranh hoành tráng
- Tranh chân dung, phong
cảnh, "bố cục", tĩnh vật.
- Hội họa không biểu hình
Nhóm thời
gian
3. VĂN CHƯƠNG
- Tự sự: truyện ngắn, truyện
vừa, tiểu thuyết.
- Trữ tình: thơ trữ tình, tùy bút.
- Kịch: kịch bản.
4. ÂM NHẠC
- Thanh nhạc: ca khúc, tổ khúc,
Opéra.
- Khí nhạc: hòa tấu, étude,
sonata, concerto, symphonie
(giao hưởng)
Nhóm
không gian
- thời gian
(NT tổng
hợp và liên
kết
6. SÂN KHẤU KỊCH
- Kịch nói, kịch hát, kịch rối.
7. PHIM NGHỆ THUẬT (trong
điện ảnh và truyền hình)
- Phim truyện
- Phim tài liệu nghệ thuât
5. MÚA
- Múa biểu hiện
- Múa giao tế
- Kịch múa
Bảng III. NGHỆ THUẬT HAI TÍNH NĂNG (Nhóm loại hình - Loại hình -
Loại thể)
Sáng tạo thẩm mỹ - ứng dụng: (hệ thống NT II) NGHỆ THUẬT
HAI TÍNH NĂNG
Nhóm miêu tả Nhóm không miêu tả
Nhóm
không gian
5. ĐIÊU KHẮC ỨNG DỤNG 1. KIẾN TRÚC (KT)
- Tượng thờ
- Tượng giáo khoa
- Tượng đồ chơi (búp bê)...;
6. HỘI HỌA ỨNG DỤNG. ĐỒ
HỌA ỨNG DỤNG
- Tranh thờ - tranh thánh
- Tranh tuyên truyền - áp phích
- Quảng cáo
- Đồ họa thương nghiệp, tiền
tem.
- Minh họa sách báo...
7. NHIẾP ẢNH
Ảnh căn cước, ảnh kỷ niệm.
- KT dân dụng - KT công cộng.
- KT tôn giáo
- Công viên.
2. ĐỒ DÙNG – CÔNG CỤ
- Thủ Công
- Mỹ nghệ
- Mỹ thuật công nghiệp.
3. TRANG TRÍ
Trang trí kiến trúc – đồ dùng,
trang trí lễ...
4. HOA VĂN
Kỹ hà - hoa chim...
Nhóm thời
gian
8. VĂN CHƯƠNG ỨNG
DỤNG
- Văn tuyên truyền - chính luận
- thông tấn báo chí
- Văn chương minh họa (chính
trị, tôn giáo, đạo đức, khoa
học).
9. ÂM NHẠC ỨNG DỤNG
- Nhạc môi trường,
- Nhạc tôn giáo,
- Nhạc lễ binh, nhạc trị liệu.
Nhóm
không gian
- thời gian
11. SÂN KHẤU ỨNG DỤNG
Hoạt cảnh – diễu hành có hóa
trang
12. MÀN ẢNH ỨNG DỤNG
(Trong điện ảnh và truyền
hình)
10. MÚA ỨNG DỤNG
Múa tôn giáo - múa thể thao
(ba lê trên băng, thể dục nhịp
điệu) - múa kiếm - múa lân
13. XIẾC
14. THỂ THAO NGHỆ THUẬT.
- Phim thời sự
- Phim tài liệu (giáo khoa,
khoa học)
II. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT
1) Nhóm nghệ thuật thời gian không miêu tả: âm nhạc và múa. (Xem xét dạng, nghệ thuật thuần nhất - một tính năng)
* Đặc điểm chung: Là nghệ thuật thời gian, âm nhạc và múa có chung
sở trường là diễn đạt được sự biến đổi và phát triển, diễn đạt được tính quá
trình của tâm trạng và hành động. Từ phương thức xây dựng hình tượng đến
cấu trúc của thể loại và tác phẩm, kể cả ngôn ngữ đều tuân thủ và khai thác
tối đa quy luật thời gian, đều mang tính chất quá trình, tính phát triển.
Nhưng cũng vì mang tính thời gian, sở trường lại đi liền với sở đoản,
thiếu sự đứng yên, sự tĩnh tại trong không gian, phải khắc phục bằng cách tạo
ra các yếu tố kỹ thuật, tạo ảo giác về không gian, về sự tĩnh tại. Đó là lối xây
dựng hình tượng kiểu nhắc lại, trùng lặp theo hình trôn ốc, và dùng ngôn ngữ
đa thanh.
* Đặc điểm ngôn ngữ: Âm nhạc và múa có chung yếu tố ngôn ngữ là
nhịp điệu. Để đắp vào bộ khung nhịp điệu đó, âm nhạc có yếu tố giai điệu,
múa có yếu tố động tác. Do đặc trưng là nghệ thuật biểu hiện, không miêu tả,
nên ngôn ngữ của nhạc và múa đều mang tính ước lệ, không mô phỏng theo
âm thanh hay động tác có thật trong đời sống. Người cảm thụ cần phải hiểu
biết về ngôn ngữ, như trình thức của múa, giai điệu của âm nhạc trong đó bao
gồm cấu tạo âm nhạc, điệu thức, hòa thanh, phức điệu), đồng thời cần hiểu
các thể loại và phương tiện nhạc khí có tính năng gì.
* Thể loại âm nhạc: có hai nhóm thể loại: nhạc hát (thanh nhạc) nhạc
đàn (khí nhạc). Trong mỗi nhóm, kể từ thể loại nhỏ đến lớn có:
Thanh nhạc: làn điệu, ca khúc, nhạc kịch (ôpêra).
Khí nhạc: khúc luyện, sonat tổ khúc, concerto, symphonie.
Ngoài cách phân biệt trên đây còn có cách phân biệt theo quy mô dàn
nhạc như độc tấu, hòa tấu, giao hướng. Tính thời gian phản ánh trong cấu tạo
thể loại ở độ dài ngắn và sự biến đổi, sự luân chuyển các chương, đoạn có
tính chất khác nhau.
* Nhận xét chung về lịch sử: Âm nhạc và múa là hai loại nghệ thuật có
rất sớm trong lịch sử loài người, là những nghệ thuật mang tính dân tộc rõ rệt
nhất. Về lý luận, có thể tìm thấy trong nhạc và múa khá nhiều các đặc trưng
tiêu biểu của nghệ thuật. Sự phát triển của âm nhạc và múa lệ thuộc vào điều
kiện vật chất, mức sống, nhu cầu giao lưu về tinh thần... Ở các xã hội tiền
công nghiệp có hai hinh thức phổ biến là sinh hoạt vũ nhạc dân gian và quý
phái, cung đình. Trong các xã hội công nghiệp cận hiện đại, vũ, nhạc phát
triển mạnh mẽ cả về các thể loại, hình thức và phương tiện biểu diễn. Về cơ
bản Ở Việt Nam phổ biến nhất vẫn là các hình thức âm nhạc tiền công nghiệp
(dân ca, ca khúc, kịch hát). Các hình thức của âm nhạc thời đại công nghiệp
(như giao hưởng, nhạc kịch...) chỉ mới xuất hiện gần đây. Vẽ múa, tùy thuộc
vào hoàn cảnh sinh hoạt tinh thần, phong tục, địa lý mỗi dân tộc có những
hình thức múa khác nhau. Những hình thức, thể loại múa cũng gắn liền với
nhạc: múa dân gian, múa cung đình (thời tiền công nghiệp) múa giao tế, múa
biểu hiện, vũ kịch (như bale).
2) Nhóm nghệ thuật không gian - miêu tả và không miêu tả: Hội họa, đồ họa, điêu khắc (xem xét dạng nghệ thuật thuần nhất - một tinh năng).
* Đặc điểm chung: Là nghệ thuật không gian, nghệ thuật tĩnh, hay nghệ
thuật tạo hình, hội họa, điêu khắc có sở trường diễn đạt sự vật một cách cụ
thể - theo nghĩa nhìn thấy được trước mắt - và đứng yên. Khả năng này giúp
con người tạo nên môi trường không gian đẹp quanh mình, giúp cho người
thưởng ngoạn có điều kiện chiêm ngưỡng tác phẩm và hình tượng trong sự
tĩnh tại giúp cho sự lắng đọng cảm xúc. Ở đây, hình tượng được xây dựng
theo ấn tượng thị giác, phù hợp với cảm thụ thị giác, hấp dẫn về mặt thị giác.
Các hình thức thể loại cũng căn cứ vào những điều kiện không gian (về quy
mô, tầm cỡ) hay các loại đối tượng không gian (nhân vật, phong cảnh).
Nhưng tính không gian tĩnh lại hạn chế sự thể hiện tính phát triển, tính
quá trình, sự hoạt động, nên để khắc phục điều đó các nghệ thuật này phải
tìm mọi cách tạo nên ảo giác chuyển động trong hình thái đứng yên. Hội họa
là hình thức không gian phẳng, phải tìm cách tạo ảo giác về chiều sâu, về
không gian ba chiều, dựa vào thấu thị học và sắc độ...
* Đặc điểm ngôn ngữ: Ngoài các sự phân biệt cơ bản như không có
phiên bản hay có phiên bản, hội họa và đồ họa phần lớn còn khác nhau do
cách sử dụng ngôn ngữ nói riêng, cũng như sự sử dụng chất liệu nói chung.
Hội họa thường kén chọn chất liệu hơn vì phải tạo ra một bản duy nhất giữ
lâu, trong khi đó chất liệu của đồ họa giản dị hơn vì có thể được nhân bản với
số lượng lớn. Một số tác phẩm đồ họa nhằm chuẩn bị cho việc dựng tác
phẩm hội họa (ký họa, vẽ nghiên cứu). Đồ họa thường sử dụng ngôn ngữ,
màu sắc có tính chất đại chúng vì phải đáp ứng nhu cầu phổ biến rộng rãi. Ở
đây màu sắc mang nhiều tính ước lệ, tính trang trí. Màu sắc trong hội họa
mang đậm cá tính và gợi cảm xúc. Hội họa thiên về màu sắc, còn đồ họa
thiên về đường nét.
* Các yếu tố ngôn ngữ của hội họa và đồ họa:
- Dựng hình:
Hình ảnh sự vật được tái tạo trong tranh dựa trên cơ sở cơ thể học,
thấu thị học. Nhưng hội họa khác chụp hình, ở chỗ nó không chỉ đòi hỏi giống
như thực, mà phải diễn tả được cảm xúc của họa sĩ. Từ việc nắm vững yêu
cầu và nguyên tắc dựng hình cơ bản, họa sĩ đi vào sáng tạo lối ngôn ngữ
dựng hình của mình. Nhưng từ đầu thế kỷ XX trong hội họa xuất hiện các
trường phái không theo lối dựng hình cổ điển, gọi là hội họa phi biểu hình
(trước đây hội họa biểu hình). Từ đó HHBH và HHPBH phát triển song song,
HHBH xem như hội họa miêu tả. HHPBH xem như hội họa không miêu tả.
- Đường nét:
Là phương tiện cơ bản đầu tiên để tạo hình và biểu cảm. Chưa có màu,
đường nét vẫn có đủ khả năng miêu tả và biểu hiện, và ngay khi hội họa dùng
màu sắc làm phương tiện cơ bản, thì ở đó yếu tố đường nét vẫn quan trọng vì
nó vừa là đường viền, vừa là yếu tố tạo hình, dựng hình đi với màu sắc.
Đường nét được dùng thường xuyên hơn trong đồ họa. Có những thể loại đồ
họa chỉ sử dụng đường nét là chính như một số minh họa sách báo, tranh bút
sắt...).
- Màu sắc:
Còn gọi là hòa sắc (sự kết hợp các màu). Màu sắc là yếu tố ngôn ngữ
cực kỳ phong phú của hội họa. Sự biến hóa của màu trong họa không có đủ
từ ngữ để miêu tả, vì vốn từ của con người để gọi tên màu sắc là có hạn, có
sự phong phú của màu là vô hạn. Đầu tiên, màu lệ thuộc vào chất liệu để chế
màu và chất liệu mặt bằng của tranh: sơn dầu, bột màu, thuốc nước, phấn
màu, sơn mài, mực tàu... được vẽ trên vải, trên lụa, mặt giấy, mặt gỗ, mặt
tường... Trên cơ sở những chất liệu đó, tùy theo sở trường, sở thích và đề tài,
họa sĩ sẽ khai thác tính độc đáo và sức mạnh của màu thuộc về một chất liệu
nhất định.
Màu sắc là đặc trưng ngôn ngữ của một trường phái, một cá tính, và có
khi một dân tộc. Từ sự lựa chọn một màu thích hợp, đến chỗ kết hợp các
màu thành hòa sắc cho bức tranh (cũng như thao tác lựa chọn và kết hợp từ
ngữ âm thanh trong thơ ca, âm nhạc) là cả một sự sáng tạo. Trên bảng màu
(palette) của mình, họa sĩ sẽ chọn pha màu theo những hòa sắc, sắc độ khác
nhau, nhằm thể hiện cảm xúc của mình. Cũng như trong nhạc giọng trưởng,
giọng thứ, có âm chủ, âm át; ở đây cũng có các gam màu nóng, màu lạnh, có
màu sắc chủ đạo của tác phẩm. Trong hội họa biểu hình, màu sắc vừa để
miêu tả đối tượng vừa để thể hiện chủ đề; nhưng trong hội họa phi biểu hình,
màu sắc chủ yếu nhằm biểu hiện cảm xúc của họa sĩ. Ở đây màu giữ một vai
trò quan trọng như một yếu tố nội dung.
- Bố cục:
Bố cục trong hội họa bị chi phối bởi đặc điểm về thị giác, về điểm nhìn
khi xem tranh, tức là lệ thuộc vào các yêu cầu có tính chất tâm - sinh lý.
Những sự sắp xếp hình và màu sắc đó trên mặt khung tranh nhằm làm rõ
nhân vật và sự kiện chính phụ, nhấn mạnh trọng điểm và làm lu mờ điểm phụ.
Đó là các quy tắc thông thường trong bố cục của hội họa. Tuy nhiên từng thời
kỳ lịch sử, từng trường phái và từng nghệ sĩ lại vẫn có lỗi bố cục riêng như
một thứ ngôn ngữ riêng, chẳng hạn phép bố cục cân xứng hài hòa là của hội
họa Phục Hưng, lối tả thực chính xác theo thấu thị học là của hội họa hiện
thực, chủ nghĩa cổ điển. Sự đảo lộn những trật tự bố cục truyền thống, đi vào
biểu hiện chủ quan là của trào lưu hội họa hiện đại. Khác với phương Tây,
giữa các nước phương Đông (Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam...) có lối bố
cục khác hẳn.
- Thể loại và ngôn ngữ của điêu khắc:
Tượng là không gian khối, được chia thành hai loại chính: tượng toàn
khối là tượng tròn, tượng nửa khối gắn nổi lên mặt phẳng gọi là tượng đắp
nổi (phù điêu). Loại tượng tròn có nhiều nhân vật gọi là nhóm tượng. Ngoài ra
còn có cách gọi theo chức năng và quy mô như tượng đài, tượng trang trí (do
đặt nơi rộng rãi; ngoài trời, hay đặt trong nội thất). Chất liệu có ý nghĩa rất
quan trọng trong ngôn ngữ của điêu khắc. Câu "Tượng đồng bia đá" nói lên
tính chất vững bền của các chất liệu được dùng trong điêu khắc. Do đó, khi
không có đủ chất liệu chính thức, người ta dùng màu sơn để giả màu đồng,
đất hay cẩm thạch. Các trường phái dân gian và cổ đại từ Tây sang Đông đều
ưa tô màu giống thật, nhất là tượng tôn giáo. Nhưng theo thị hiếu hiện dại,
tượng chỉ một màu, đó là màu chất liệu. Mặt da tượng trơn mịn hay gân guốc,
sần sùi cũng là một hình thức biểu cảm. Khác hội họa, đề tài của điêu khắc
hẹp hơn, thường tập trung vào việc xây dựng hình tượng về các nhân vật,
nhất là nhân vật tích cực, lý tưởng hóa vẻ đẹp cơ thể và ngoại hình của con
người. Độc đáo của hình tượng điêu khắc thường thể hiện ở việc xây dựng tư
thế động tác điển hình có liên quan tới đặc trưng tính cách nhân vật.
- Hội họa và điêu khắc phi biểu hình:
Do những biến đổi và phát triển của đời sống kinh tế - xã hội nói chung,
do những quan niệm về triết học và nhất là do nhu cầu đi tìm những kiến thức
mới thúc đẩy sự chuyển biến trong sáng tạo nghệ thuật, các trường phái hội
họa và điêu khắc phi biểu hình đã ra đời và cho đến nay, vẫn phát triển song
song với nền hội họa biểu hình truyền thống. Khởi đầu từ trong trường phái
ấn tượng, dã thú, khuynh hướng xóa bỏ hình tả thực cổ điển phát triển trong
chủ nghĩa lập thể và tiếp tục mở rộng với các trường phái vị lai, biểu tượng,
đa đa, siêu thực, trừu tượng. Nói chung, hội họa phi biểu hình bác bỏ lối vẽ
mô phỏng hình ảnh của hiện thực, mà chủ yếu vẽ những hình tưởng tượng
chủ quan của họa sĩ. Điêu khắc phi biểu hình cũng không đi vào nhân vật như
trước, mà dùng những khối bất kỳ nào có thể xem là hình tượng, để thể hiện
tư tưởng của nhà điêu khắc.
Trên đây là nói về hội họa và điêu khắc nghệ thuật - một tính năng, còn
đối với hội họa và điêu khắc ứng dụng - hai tính năng chúng tôi sẽ trình bày
khi đề cập đến phần nghệ thuật ứng dụng ở mục sau.
3) Nhóm nghệ thuật tổng hợp: sân khấu, điện ảnh (xem xét dạng nghệ thuật thuần nhất - một tính năng).
Nghệ thuật tổng hợp vận dụng tất cả các phương thức và phương tiện
thể hiện của các nghệ thuật độc lập: văn học, âm nhạc, múa, hội họa, trang
trí, kiến trúc... Trong điện ảnh còn có quay phim, nhiếp ảnh.
Sân khấu kịch và phim truyện đều phải có cơ sở kịch bản văn học.
Nhân tố kịch hay kịch tính là nội dung thẩm mỹ quan trọng nhất của nghệ
thuật tổng hợp (NTTH). Đó cũng là chỗ phân biệt giữa nghệ thuật 1 tính năng
và 2 tính năng trong sân khấu và điện ảnh. Kịch tính là những mâu thuẫn,
xung đột giữa các tính cách, được kết thúc bằng sự thắng bại của bên này
hoặc bên kia, nhưng điều quan trọng là những va chạm xung đột ấy, dù bi
thảm hay trào lộng, cũng đều phải mang lại bài học tình cảm, nhân sinh đối
với con người (catharsis). Tính kịch là hạt nhân phân biệt nghệ thuật sân
khấu và phim truyện với các loại sân khấu và điện ảnh ứng dụng - hai tính
năng (như sân khấu hoạt cảnh, hóa trang, xiếc, phim tài liệu nhân vât, phim
phóng sự...).
Phương tiện ngôn ngữ của sân khấu là hành động (hành động hình thể,
hành động tâm lý, hành động ngôn ngữ), thông qua diễn xuất của diễn viên.
Hành động sân khấu là hành động kịch, hành động xung đột nhằm biểu hiện
tư tưởng của kịch chứ không phải bất kỳ hành dộng ngẫu nhiên nào. Do các
hành động trong kịch phải nhất quán nhằm biểu hiện một tư tưởng nhất định,
nên lý luận kịch gọi hành động này là "hành động thống nhất", "hành động
xuyên"... Ngoài nhân tố cơ bản là hành động kịch, nghệ thuật sân khấu còn có
những phương tiện âm nhạc, múa, trang trí, đạo cụ... hỗ trợ cho diễn xuất, ở
đây vai trò của diễn viên vô cùng quan trọng.
Phương tiện ngôn ngữ của điện ảnh có khác sân khấu, ở đây hành
động nhân vật vẫn là yếu tố hạt nhân, nhưng đồng thời nghệ thuật quay phim,
dựng hình cũng có một ý nghĩa quyết định: hình ảnh phim là hình ảnh được
đạo diễn và nghệ sĩ quay phim biến đổi liên tục theo những góc độ, tầm cỡ,
cự ly khác nhau để biểu đạt tư tưởng, tính cách, nhân vật. Cấu trúc của tác
phẩm lệ thuộc vào nghệ thuật dựng phim. Từ kịch bản văn học chuyển thành
kịch bản điện ảnh, kịch bản phân cảnh dến dựng phim đó là cả một quá trình
sáng tạo thể hiện ý đồ của đạo diễn trong việc tạo ra tác phẩm điện ảnh. Các
yếu tố nghệ thuật và kỹ thuật khác có vai trò hỗ trợ quan trọng: âm nhạc và
âm thanh nói chung, ánh sáng, hội họa, trang trí thiết kế nhân vật và bối
cảnh...
Thể loại sân khấu: kịch nói, kịch hát (hay ca kịch, tuồng, chèo, cải
lương, kịch dân ca) nhạc kịch, kịch rối, kịch truyền thanh, kịch câm...
Thể loại điện ảnh nghệ thuật: phim truyện, phim tài liệu, nghệ thuật.
4) Nhóm các nghệ thuật ứng dụng: Kiến trúc, mỹ thuật ứng dụng, trang trí, hoa văn, ảnh nghệ thuật
Khái niệm "ứng dụng" (còn được gọi là thực hành; từ chữ appliqué,
tiếng Pháp, có nghĩa là thực hành, ứng dụng). Đây có nghĩa là đưa những
phương thức và phương tiện thẩm mỹ vào thực tế đời sống. Khái niệm thực
hành, ứng dụng; ở đây liên quan với vấn đề tính lợi ích như một khái niệm mỹ
học. Cái đẹp và cái ích dụng, là hai khái niệm vừa đối lập vừa thống nhất, tùy
cách hiểu khái niệm ích dụng theo nghĩa hẹp (có ích về nhu cầu vật chất, nhu
cầu lý tính) hoặc theo nghĩa rộng (ngoài các nhu cầu trên, còn có nhu cầu về
đời sống tâm hồn, tình cảm). Cái đẹp về hình thức kết hợp với cái ích dụng
vật chất - lý tính, sản sinh ra các nghệ thuật, ứng dụng, trong đó có cả văn
học ứng dụng.
* Đặc điểm chung: Trong hai tính năng phục vụ lợi ích và thẩm mỹ, thì
tính năng phục vụ có ý nghĩa nội dung, mang tính mục đích, tính năng thẩm
mỹ mang ý nghĩa hình thức, mang tính phương tiện, do đó cái thứ nhất là
quyết định, chi phối cái thứ hai. Một thí dụ đơn giản, cái nhà trước hết để ở,
cái chén trước hết để ăn cơm còn đẹp như thế nào là nhu cầu đi sau. Con
người sáng tạo theo quy luật của cái đẹp, mỗi con người "là một nghệ sĩ".
Con người tạo nên thế giới đẹp nhân tạo hay gọi là "thiên nhiên thứ hai".
Nhưng để cho phạm trù nghệ thuật có một ý nghĩa hạn định, không mở rộng
đến vô tận, xem nghệ thuật, và mọi công việc, mọi sản phẩm lao động thô sơ
đồng nghĩa với nhau, cần quan niệm rằng sản phẩm lao động đạt đến trình độ
thẩm mỹ cao mới được coi là nghệ thuật ứng dụng: một cái nhà đẹp mới là
sản phẩm của nghệ thuật kiến trúc, một cái chén đẹp mới là sản phẩm của
mỹ thuật ứng dụng. Nghệ thuật ứng dụng lệ thuộc rất nhiều vào sự phát triển
kinh tế, vào mức sống, và trực tiếp là trình độ kỹ thuật.
* Đặc điểm ngôn ngữ: cũng tương tự như mỹ thuật - nghệ thuật, kiến
trúc và mỹ thuật - ứng dụng tác động, gợi ý nghĩa bằng đặc tính chất liệu của
nó: từ đất, đá, gỗ, tranh, tre, nứa lá, đất nung, gốm, gốm men, sứ, đến pha lê,
vàng, bạc, ngọc, ngà, sừng, xà cừ... Mỗi chất liệu đều có nội dung ý nghĩa
hay tính chất riêng: giản dị mộc mạc hay sang trọng cao nhã, sự vững chãi
lâu bền hay vẻ mềm mại yếu ớt, sự rắn rỏi cương nghị hay tính chất lãng
mạn, hồn nhiên... Giữa kiến trúc và mỹ thuật thực dụng có các yếu tố ngôn
ngữ chung. Vì vậy, người ta gọi các nghệ thuật này có kiến trúc tĩnh: đó là
tính tạo hình kiểu kiến trúc, bao gồm các yếu tố tỷ lệ, nhịp điệu và kiểu dáng,
tỷ lệ giữa chiều cao và chiều ngang, bộ phận và toàn thể, nhịp mau hay thưa,
khoan thai hay gấp gáp... Ngôn ngữ kiến trúc và mỹ thuật ứng dụng chịu ảnh
hưởng sâu sắc của các nhân tố đời sống vật chất, thiên nhiên, đời sống tinh
thần của mỗi dân tộc, nó thể hiện rất rõ bản sắc dân tộc và sắc thái địa
phương. Trên thế giới có nhiều trường phái khác nhau, bổ sung, kế thừa,
cạnh tranh, thay thế nhau trong lịch sử (như kiến trúc rômăng, gôtích, kiến
trúc Phật giáo và Bàlamôn giáo ở phương Tây và phương Đông).
* Thể loại: Kiến trúc thường được phân loại theo chức năng của công
trình: dân dụng, tôn giáo hoặc theo phương thức chế tác (đối với mỹ thuật
ứng dụng: thủ công, mỹ nghệ, mỹ thuật công nghiệp theo chất liệu (gỗ, sơn
mài, nhôm, sắt tráng men, nhựa, mây tre...).
Trang trí kiến trúc, trang trí nội thất và tạo dáng, tạo mẫu mã hàng hóa
nói chung, thuộc về mỹ thuật công nghiệp, có tên gọi quốc tế hiện nay là
ngành DESIGN. Trong xã hội hiện đại, Design ngày càng có vai trò quan
trọng trong việc làm đẹp thế giới đồ vật, làm đẹp môi trường sống của con
người.
Nói chung, nội dung của các loại nghệ thuật một tính năng thiên về
phản ánh mối quan hệ giữa người và người, đặc biệt là quan hệ tình cảm, nó
phân biệt với các loại nghệ thuật hai tính năng thiên về việc chứng minh, biểu
dương khả năng chinh phục, chế ngự của con người đối với những lực lượng
thiên nhiên, những quy luật của thiên nhiên. Với nội dung thứ hai này, kiến
trúc và xiếc là tiêu biểu nhất.
Chương 6. VẤN ĐỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ
I. MỤC TIÊU CỦA GIÁO DỤC THẨM MỸ
Từ khi người ta ý thức được vai trò và tác dụng của nghệ thuật đối với
đời sống con người, thì cũng đồng thời hình thành khái niệm giáo dục thẩm
mỹ. Cũng như mọi hoạt động thông tin, truyền bá và giáo dục khác, giáo dục
thẩm mỹ cũng được tiến hành bằng nhiều hình thức, vừa tự phát vừa có tổ
chức, ở mọi địa bàn và đối tượng khác nhau, vừa có thể do Nhà nước hay
các tổ chức xã hội đảm trách vừa do mỗi gia đình tự làm lấy. Con người được
hưởng thụ cái đẹp ngay từ khi còn nằm trong lòng mẹ, khi chào đời đã được
vỗ về bằng tiếng hát ru của mẹ và đến khi vĩnh biệt cuộc đời con người được
đưa tiễn bằng những khúc nhạc tang. Trong suốt cả cuộc đời, mỗi người ít
nhiều đều được hưởng thụ một nền văn hóa thẩm mỹ bên cạnh hai nền văn
hóa trí tuệ và văn hóa đạo đức. Ba nền văn hóa ấy được vun đắp từ ba nguồn
chất liệu mà các thế hệ tích lũy qua hàng ngàn năm, đó là những giá trị
CHÂN, THIỆN, MỸ. Nhân cách con người được hình thành và phát triển bằng
cả ba loại giá trị văn hóa đó. Như một thứ quy luật: nơi nào giáo dục bị mất
cân đối, nhân cách con người bị méo mó thì khi đó phải truy về sự thiếu hụt
của một trong ba nguồn giá trị kia. Vậy giáo dục thẩm mỹ không phải là một
việc làm thêm, một ngành "ăn theo", mà là một tất yếu của sự phát triển xã
hội là một trong ba chân kiềng của hệ thống giáo dục xã hội. Bao giờ người ta
cũng phải trả giá đắt khi không ý thức được tính quy luật đó.
Nhưng việc con người sống, ăn mặc, ở, đi lại, lao động và giải trí trong
môi trường thẩm mỹ, được hưởng thụ một nền văn hóa thẩm mỹ về vật chất
cũng như tinh thần, từ nhà cửa, đồ dung, y phục, xe cộ đến bài ca, điệu múa
bộ phim v.v... một cách ngẫu nhiên và thụ động khác với vấn đề đang được
đề cập ở đây, tức là giáo dục thẩm mỹ với tư cách là một hệ thống lý thuyết
về giáo dục cái đẹp và nghệ thuật, một loại hình hoạt động có tổ chức, có quy
trình nhất định. Hình thức giáo dục ngẫu nhiên, tự phát đã có từ xưa, nhưng
hình thức giáo dục đạt đến trình độ lý luận và tổ chức có hệ thống thi xuất
hiện trễ hơn.
Để xây dựng hệ thống lý thuvết về giáo dục thẩm mỹ cần giải quyết
trước hết những vấn đề về quan niệm, sau đó là những vấn đề nội dung và
phương pháp. Quan niệm về vai trò, vị trí, về tinh tất yếu của giáo dục thẩm
mỹ và đặc biệt quan trọng là vấn đề mục tiêu của giáo dục thẩm mỹ. Nội
dung, bao gồm những vấn đề kiến thức cơ bản về cái đẹp trong thiên nhiên,
trong xã hội, trong con người, trong nghệ thuật – những kiến thức mỹ học
nhằm hình thành phương diện lý tính trong phẩm chất, thẩm mỹ của con
người, về phương pháp, đó là những con đường để đưa toàn bộ những gì
thuộc về cái đẹp và nghệ thuật đến với từng loại đối tượng khác nhau, để
đồng hóa kiến thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo nhằm đạt được mục tiêu của
giáo dục thẩm mỹ.
Trước hết cần xác định giáo dục thẩm mỹ là một trong ba loại hình giáo
dục cơ bản; của bất kỳ thời đại nào và xã hội nào, đó là giáo dục trí tuệ, giáo
dục đạo đức và giáo dục thẩm mỹ. Đó là ba phương thức truyền thụ, bồi
dưỡng ba loại giá trị cơ bản. Vậy giáo dục thẩm mỹ không phải là một ngành
trong cơ chế nhà nước, như ngành văn hóa, ngành griáo dục, ngành du lịch...
Cũng không phải là một bộ môn giảng dạy tri thức và kỹ thuật như âm nhạc,
hội họa... (Nếu là lý thuyết đơn thuần, nó là một môn, hay phân môn của giáo
dục học, hay một phần trong lý thuyết mỹ học). Vì vậy mục tiêu của giáo dục
thẩm mỹ được đặt ra ở bất cứ nơi nào có tiến hành loại hình hoạt động giáo
dục này: nhà trường, gia đình, các tổ chức và đoàn thể xã hội. Ngay cả các
ngành văn hóa, văn nghệ, các trường nghệ thuật, như âm nhạc, mỹ thuật,
sân khấu... cũng phải đặt ra mục tiêu này, vì có kiến thức và kỹ năng về hoạt
động nghệ thuật chưa phải là mục tiêu cuối cùng của giáo dục thẩm mỹ. Cũng
như trường hợp một người có học thức chưa hẳn là một người có văn hóa.
Tất nhiên những kiến thức và kỹ năng là những điều kiện không thể thiếu đối
với một người có trình độ văn hóa, trình độ thẩm mỹ.
Những nhận xét và so sánh trên đây đã xuất phát từ quan điểm mỹ học
- lý luận về cái thẩm mỹ và cái đẹp. Trong bộ ba phạm trù CHÂN, THIỆN, MỸ,
thì cái MỸ hàm chứa cả nội dung hai cái kia. Một thí dụ đơn giản: một tác
phẩm nghệ thuật được gọi là kiệt tác, tất yếu phải có trình độ nghệ thuật cao,
nhưng đồng thời phải có giá trị nhân văn (cái thiện) và phải là một biểu hiện
chân thực về chủ thể và về xã hội (cái chân). Cũng với lôgic đó, người ta có
thể xem xét về một con người, một cuộc đời, một sản phẩm, một hoạt động.
Vậy mục tiêu của giáo dục thẩm mỹ là đem lại cho con người những giá
tri thẩm mỹ chân chính trên nền tảng của sự phát triển về mặt trí tuệ và đạo
đức, làm cho con người đồng hóa được những giá trị đó để có được một tình
độ văn hóa cao, một nhân cách hài hòa.
Khi đạt được mục tiêu đó theo một quan niệm tương đối, và trong một
hoàn cảnh lịch sử nhất định, một con người có thể biết ứng xử đẹp trong mọi
tình huống, biết giữ gìn và sáng tạo nên cái đẹp trong đời sống của bản thân
và của cộng đồng, của thiên nhiên, của môi trường xã hội và đặc biệt là của
nghệ thuật.
Với một mục tiêu như vậy, bất cứ người nào có nhu cầu cũng có khả
năng vươn tới được.
II. GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ - MỤC TIÊU TRỰC TIẾP VÀ NĂNG ĐỘNG NHẤT
1) Tình cảm và lý trí.
Người ta sinh ra không ai giống ai. Mỗi người có một nhu cầu, một sở
thích riêng. Trong một bữa cơm gia đình, có bao nhiêu người là bấy nhiêu
khẩu vị. Nhìn vào một phiên chợ, một cửa hàng bách hóa, có bao nhiêu
người là bấy nhiêu nhu cầu, bấy nhiêu sự ham thích lựa chọn. Trong hoạt
động tinh thần cũng vậy. Có người thích làm khoa học, có người thích làm
nghệ thuật. Riêng trong lĩnh vực thẩm mỹ và nghệ thuật, cứ đặt ra câu hỏi sẽ
tìm thấy trăm nghìn câu trả lời không giống nhau. Bạn thích loại hoa nào? Bạn
thích màu vải nào? Bạn thích kiểu áo nào? Bạn thích bộ ấm chén nào? Bạn
thích để tóc như thế nào? Và trong các nhà thơ bạn thích ai nhất? Bạn thích
loại sân khấu nào hơn cả? Bạn thích loại nhạc nào? Loại tranh nào? v.v... Tất
cả, ta sẽ nghe câu trả lời bắt đầu bằng hai tiếng "tôi thích", hoặc "tôi không
thích". Những sở thích riêng đó, trong lĩnh vực thẩm mỹ, gọi là thị hiếu thẩm
mỹ.
Hai tiếng "tôi thích" hàm hai ý nghĩa: đây là chuyện riêng và đây là vấn
đề tình cảm. Từ đó mà có người cho rằng lĩnh vực thị hiếu là không nên bàn
cãi.
Trước hết, cần phân biệt những sự ham thích đối với các món ăn (tức
khẩu vị) và những sự ham thích đối với cái đẹp trong sinh hoạt, trong nghệ
thuật. Những món ăn chủ yếu đáp ứng nhu cầu của cơ thể, nhu cầu sinh học.
Còn cái đẹp nghệ thuật đáp ứng nhu cầu về tâm lý, tình cảm của con người,
nó là một vấn đề xã hội. Vì vậy khi bạn thích ăn ớt, ăn tỏi hay không thích,
điều này chẳng ai quan tâm. Nhưng khi bạn say sưa suốt ngày với những sản
phẩm văn hóa đồi trụy thì người khác sẽ có quyền bàn với bạn.
Thị hiếu rất không giống nhau, mỗi người biểu lộ một vẻ, cũng như
khuôn mặt tính tình của một con người, chẳng có ai hoàn toàn giống ai. Đó có
phải là thiên tính, bẩm sinh hay nó là sự xuất hiện ngẫu nhiên, vào một thời
điểm nào đó trong mỗi con người? Không, thị hiếu thẩm mỹ, cũng như mọi
biểu hiện khác của những nhu cầu của con người, cũng như tính tình của con
người, đều có nguồn gốc sinh thành và quá trình phát triển của nó. Bác Hồ đã
viết trong Nhật ký trong tù:
... Hiên dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên.
Thị hiếu cũng vậy, nó được sinh ra trong điều kiện giáo dục nào đó,
được nuôi dưỡng trong một hoàn cảnh thích hợp nào đó, vừa do tác động
khách quan của hoàn cảnh, của giáo dục, vừa do điều kiện chủ quan của mỗi
người.
Trong tâm lý con người, mối quan hệ tình cảm và lý trí là mối quan hệ
phức tạp. Có những lúc lý trí và tình cảm gắn bó phù hợp với nhau, nhưng
cũng có lúc không ăn khớp. Có lúc lý trí làm sáng lên tình cảm đẹp, nhưng
cũng có lúc tình cảm không đẹp kéo theo cả lý trí. Trong sinh hoạt thẩm mỹ
cũng thường có hiện tượng phức tạp đó.
Tình cảm bao giờ cũng gắn với hành động là khâu tâm lý cuối cùng
được chuyển thành hành động. Tình cảm thường bộc lộ thành hành động,
ngược lại hành động bao giờ cũng do một động cơ tình cảm thúc đẩy. Vì vậy,
khi nói đến thị hiếu là nói đến hành động lựa chọn: lựa chọn một kiểu áo, một
cuốn sách, một tác phẩm âm nhạc... và mọi tình cảm, mọi hành động của con
người đều dựa trên cơ sở của lý trí nhất định. Sự yêu thích, sự lựa chọn cái
đẹp của một người bao giờ cũng xuất phát từ những tiêu chuẩn do người đó
đặt ra, xuất phát từ lý lẽ của người đó. Đó chính là lý trí. Vậy khi nói thị hiếu là
vấn đề tình cảm ta không quên cái lõi lý trí ở bên trong.
Trong sinh hoạt thẩm mỹ, nhiều trường hợp lý trí và tình cảm phù hợp
với nhau. Nhưng trong thực tiễn đời sống, trong sinh hoạt thẩm mỹ cũng có
khi ta thấy hiện tượng lý trí và tình cảm hoàn toàn không phù hợp. Có khi con
người có ít nhiều tình cảm tốt nhưng chưa có ánh sáng của tri thức, của tư
tưởng lý luận đúng đắn, nên tình cảm cũng trở thành bế tắc. Nhiều anh chị
em thanh niên tốt, nhưng ít được học hỏi, có khi không phân biệt được cái
đẹp cái xấu. Họ chạy theo những "mốt" sinh hoạt, những kiểu ăn mặc kệch
cỡm mà cứ tưởng là đẹp. Có khi đọc sách, nghe nhạc loại tầm thường thấp
kém một cách tự nhiên mà không biết. Đối với những anh chị em này nếu tập
thể kịp thời uốn nắn, bồi dưỡng cho họ tri thức thẩm mỹ mới thì họ sẽ thay đổi
thị hiếu không khó khăn lắm. Một bản chất tình cảm tốt, một bản chất tâm hồn
đẹp là yếu tố quan trọng, quyết định việc tiếp nhận những quan điểm thẩm mỹ
tiên tiến. Nó như mảnh đất tốt, khi những hạt chân lý gieo vào thì sẽ mọc
mầm xanh tươi nhanh chóng.
Trên đây là những biểu hiện khác nhau của mối quan hệ lý trí và tình
cảm trong thị hiếu thẩm mỹ. Những nhận xét đó đưa đến kết luận thực tiễn
trong công cuộc giáo dục thẩm mỹ của chúng ta, cần phải quan tâm nhiều
đến việc giáo dục tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh đi đôi với việc phổ
biến nâng cao tri thức về thẩm mỹ và nghệ thuật. Cần xây dựng cái nền tảng
lý trí cho thật vững để làm chỗ dựa chắc cho tình cảm thẩm mỹ. Ngược lại,
cần phát huy những nhân tố tích cực lành mạnh của tâm hồn, tình cảm để
làm mảnh đất tốt cho việc gieo những hạt giống tri thức thẩm mỹ mới. Nghĩa
là làm sao để có lý trí cao phù hợp với tình cảm đẹp, như có nhà thơ đã nói:
"sáng mắt, sáng lòng".
2) Cá nhân và xã hội.
Khi bàn đến những đặc điểm xã hội của thị hiếu, ta có thể nói về tính
giai cấp, tính dân tộc. Đó là những đặc điểm chung có tính chất phổ biến: Bất
kỳ một sự ưa thích, một sự lựa chọn nào trong lĩnh vực thẩm mỹ cũng mang
dấu vết xã hội.
Tuy nhiên, khi nói đến yếu tố xã hội, không thể không nói đến yếu tố cá
nhân. Nhất là trong lĩnh vực thẩm mỹ và nghệ thuật, vai trò của cá tính cũng
rất quan trọng. Ở đây, cần làm rõ hơn nội dung xã hội và nội dung; cá nhân
mà ta đang đề cập đến. Thực ra trong mọi hiện tượng tình cảm hay thị hiếu
thẩm mỹ, tính chất cá nhân và tính chất xã hội không thể tách rời được. Một
người thích hay không thích để tóc dài, tóc ngắn, vừa là hiện tượng có tính xã
hội vừa là hiện tượng có tính cá nhân. Trong một hoàn cảnh xã hội nào đó, từ
một lối sống xã hội như thế nào đó, mới xuất hiện những "mốt" đó. Đồng thời
cũng do điều kiện giáo dục, điều kiện nghề nghiệp, tâm lý riêng nên người
này mới thích cái mốt này mà người khác cũng vì điều kiện riêng nên không
thích, không theo. Vì vậy, mỗi một biểu hiện của thị hiếu vừa có tính chất cá
nhân, vừa có tính chất xã hội.
Nhưng nội dung xã hội và cá nhân ta muốn đề cập ở đây chủ yếu là:
xét xem trong hiện tượng thị hiếu, yếu tố nào có quan hệ đến những vấn đề
xã hội, có ảnh hưởng đến xã hội, còn yếu tố nào không quan hệ, không có
ảnh hưởng đến xã hội (xét về mặt chính trị, về đạo đức xã hội). Hay nói cách
khác, yếu tố nào thuộc phạm vi xã hội, và yếu tố nào thuộc phạm vi cá nhân.
Đây là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn trong việc giáo dục thị hiếu của xã hội và
sự tu dưỡng rèn luyện thị hiếu của bản thân mỗi người.
Khi nhận xét về thị hiếu thẩm mỹ ở một người, ta nên phát hiện yếu tố
xã hội chủ yếu ở mặt nội dung và yếu tố cá nhân chủ yếu ở mặt hình thức.
Thực chất là nội dung không tách rời hình thức, nhưng trong vận dụng thực
tiễn cũng có khi cần phân biệt.
Trong một hiện tượng thị hiếu, yếu tố nội dung thường thể hiện ở quan
điểm, lập trường tư tưởng trong khi lựa chọn cái đẹp và nghệ thuật, thể hiện
ở ý nghĩa, tác dụng của đối tượng ta yêu thích đối với đời sống xã hội, đối với
đạo đức, chính trị, thuần phong mỹ tục.
Biểu hiện về phương diện hình thức của thị hiếu thường là sự ham
thích loại hình, loại thể, nghệ thuật và phong cách, bút pháp, ngôn ngữ, chất
liệu. Thơ hay truyện, âm nhạc hay hội họa, nhạc hát hay nhạc đàn, tranh
phong cảnh hay tranh sinh hoạt, phong cách, bút pháp của nhà thơ, nhà văn
nào, màu sắc nào, v.v... Những biểu hiện hình thức này của thị hiếu thường ít
liên quan với những vấn đề xã hội, cho nên có thể xem là thuộc phạm vi tự do
sáng tạo, lựa chọn của cá nhân.
Những vấn đề nội dung ý nghĩa thường xuất phát từ nhân sinh quan,
đạo đức, lối sống của con người. Những vấn đề hình thức bút pháp thường
do đặc điểm riêng về năng lực, điều kiện giáo dục riêng, kinh nghiệm và cá
tính. Ý thích của mỗi người thường được hình thành trên những cơ sở kinh
nghiệm, những kỷ niệm riêng. Ngay cả mặt sinh lý, mặt di truyền cũng tạo ra
cái độc đáo cá nhân của thị hiếu. Do sức khỏe vốn ốm yếu, có thể có bạn ưa
những màu sắc nhẹ nhàng, không chói mắt hay những loại nhạc êm nhẹ,
những nhạc cụ ít tiếng vang, điều đó chẳng ai trách. Nhưng nếu chỉ chọn
những sản phẩm có nội dung tiêu cực, bệnh hoạn để phù hợp với cái tạng
gầy yếu của bạn thì lại là vấn đề khác. Những ý thích riêng do tâm sinh lý, do
điều kiện sống riêng tạo nên, cũng rất tương đối, vẫn có thể thay đổi trong
những hoàn cảnh và với biện pháp giáo dục nào đó. Nhu cầu và ý thích riêng
cũng có thể đi từ tiêu cực đến tích cực hay ngược lại, từ tích cực trở thành
tiêu cực. Có người từ chỗ thích phim truyện khiêu dâm, bạo lực đến chỗ ghét
các loại đó. Nhưng cũng có người trước chưa đọc, chưa xem khi tình cờ tiếp
xúc với nó đâm ra ham, tập thêm cho mình một thói quen xấu. Trong giáo dục
thẩm mỹ, cần chú ý khuyến khích sự phát triển nhu cầu, ý thích của cá nhân
đi theo hướng ngày càng tích cực và luôn đề phòng uốn nắn sự đi ngược
chiều. Mặt khác, luôn tìm cách bồi bổ, nâng cao trình độ hiểu biết của mọi
người để những sự ham thích không bị thành kiến, thiên lệch, phiến diện.
Thích nghệ thuật này, không thích nghệ thuật khác, nhiều khi chỉ vì sự hiểu
biết ít ỏi, phiến diện do thói quen và do thành kiến, chưa hẳn đã là một bản
lĩnh độc đáo, sâu sắc.
Tóm lại trong việc giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, ngoài việc bồi dưỡng lý
tưỡng thẩm mỹ cho xã hội, cần chú ý cả sự ổn định và phát triển của cá nhân.
Cần hướng dẫn thị hiếu cho mọi người mang nội dung xã hội tích cực, tiến bộ
theo một lý tưởng thẩm mỹ tiên tiến, nhưng mặt khác cũng cần chú ý đến đặc
điểm riêng của từng người, làm cho mỗi người có một cá tính đặc sắc trong
sự am hiểu, trong sự sáng tạo và thưởng thức cái đẹp. Đó là công việc khó
khăn của giáo dục và rèn luyện thị hiếu, nhằm xây dựng một vườn hoa rộng
lớn trăm bóng ngàn tía, trong đó mỗi một bông hoa đều có vẻ đẹp và hương
thơm riêng.
3) Hai khuyết tật cần ngăn ngừa.
Thị hiếu thẩm mỹ là sự ưa chuộng, sự ham thích đối tượng có mang
tính thẩm mỹ. Nó là vấn đề ý thức được cụ thể hóa bằng hành động, bằng vật
phẩm. Nó in dấu vết trên hầu khắp những gì do con người tạo ra trong môi
trường sống.
Những biểu hiện tiêu cực về mặt thị hiếu rất nhức tạp và đa dạng, như
trạng thái bệnh tật của cơ thể con người, không thể bắt mạch kê đơn chính
xác ngay từ đầu, mà cần phải qua một quá trình nghiên cứu phân tích dựa
vào lý luận khoa học và kinh nghiệm. Nhưng bước đầu ta có thể lần ra được
từ trong cái phức tạp đa dạng kia những quy luật chung, những bệnh trạng có
tính chất phổ biến. Trong việc sáng tạo thưởng thức cái đẹp và nghệ thuật,
trong nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ những biểu hiện xấu thường qui vào hai
hiện tượng sau đây: chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên.
Hai khái niệm chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên ở đây hiểu
theo nghĩa rộng, nó chỉ là hai loại bệnh trong sinh hoạt thẩm mỹ, chứ không
phải tên gọi của một trường phái hay một xu hướng nghệ thuật. Đó là hai
chứng bệnh chung thể hiện cả trong sáng tác nghệ thuật và trong sinh hoạt
thẩm mỹ trong đời sống hàng ngày. Nó có thể có những mức độ biểu hiện
khác nhau hoặc xuất phát từ những cơ sở triết học sâu xa, nhưng nó cũng có
thể là sự biểu hiện hoàn toàn của cảm tính, tự phát theo thói quen của những
người bình thường, không làm văn học nghệ thuật và không am hiểu mấy về
văn hóa, văn nghệ. Tóm lại, mỗi một biểu hiện xấu nào đó về mặt thị hiếu
thẩm mỹ, dù có ý thức hay không có ý thức rõ ràng đều có thể rơi vào một
trong hai cái bệnh chung đó.
Trong đời sống hàng ngày, những biểu hiện hình thức và tự nhiên trong
nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ thường phát sinh từ lối sống. Nhưng cũng có khi
vì ít học hỏi, ít hiểu biết, ham chạy theo cái mới, cái lạ mà bắt chước các xu
hướng tiêu cực một cách mù quáng. Vì vậy, bất cứ ai cũng có thể mắc phải
những thứ bệnh hình thức hay tự nhiên nếu không có sự tu dưỡng rèn luyện
một thị hiếu thẩm mỹ tiên tiến. Hàng ngày đi trên đường phố hay về các làng
mạc, vào một cơ quan hay một phòng ở của tư nhân, ta đều có thể nhận thấy
những biểu hiện khác nhau của thị hiếu thẩm mỹ: từ kiến trúc của những khu
phố, những cửa hàng, trang trí trong hội trường hay bày biện trong nhà ở,
những biển quảng cáo, những khẩu hiệu, đến những mẫu hàng hóa, những
bìa sách, từ lối ăn mặc, đi đứng đến lời ăn tiếng nói, đến câu văn chữ viết
v.v... đều thể hiện rõ đặc tính về thị hiếu thẩm mỹ của con người, ở tất cả các
hiện tượng đó, chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên đều có thể len lỏi
vào, nó không từ một khu vực nào, công cộng hay tư nhân, không từ một qui
mô nào, một tòa nhà hay một nét chữ trên vở học trò. Vì vậy, khi nói đến việc
tu dưỡng rèn luyện thị hiếu thẩm mỹ tiên tiến, cũng có nghĩa là luôn luôn đi
đôi với việc phê phán và tránh chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên, hai
thái cực của loại thị hiếu xấu.
Trước hết chúng ta hãy bàn về loại thị hiếu hình thức chủ nghĩa:
Quan điểm đúng đắn bao giờ cũng xem nội dung là yếu tố quan trọng
nhất, là mặt bản chất nhất. Hình thức tuy gắn bó với nội dung, không có hình
thức thì không có nội dung, nhưng hình thức vẫn là mặt thứ hai, phục tùng sự
chỉ đạo của nội dung.
Thí dụ: Tổ chức một buổi dạ hội mừng công cuối năm, trong đó nội
dung mừng công là có ý nghĩa quyết định, nhưng phải có treo đèn kết hoa, có
ca nhạc, nghĩa là có cả hình thức thì mới thành buổi dạ hội. Tuy nhiên nếu tổ
chức hình thức quá linh đình, tiệc tùng phung phí, trống dong cờ mở... sẽ trở
thành phản tác dụng mất ý nghĩa đúng đắn của nội dung. Qua đó ta thấy vấn
đề hình thức là vấn đề mức độ. Tính mực thước là một yêu cầu hết sức quan
trọng trong việc xử lý hình thức, ở đó sẽ có sự coi nhẹ hoặc phủ định nội
dung. Mực thước ở đây là đảm bào tính cân đối, hài hòa trong mối quan hệ
giữa hình thức và nội dung.
Đứng về bản chất xã bội mà nói., chủ nghĩa hình thức cực đoan bộc lộ
khi giai cấp thống trị cố tình lấy cái vỏ bên ngoài, lấy việc tô son trát phấn cho
bộ mặt để che đậy sự mục nát ở bên trong. Ngoài ra, ở những xã hội mà kinh
tế thương mại hoành hành, việc rao hang, quảng cáo trở thành cứu cánh, thì
những hình thức phô trương cũng được phát triển cao độ. Người ta luôn luôn
phải căng óc để phân biệt cái thật, cái giả, phải vận dụng bao nhiêu năng lực
của trí tuệ mới nhìn thấy giá trị thật của hàng hóa, của cái đẹp, của con
người.
Trong sáng tạo nghệ thuật, tuy ở mức độ và qui mô khác nhau, nhưng
chủ nghĩa hình thức có khi là quan niệm nghệ thuật nhưng cũng có khi là sự
khủng hoảng về tư tưởng. Nó thể hiện lẻ tẻ ở một vài người, nhưng cũng có
khi ở cả một trường phái. Trong xã hội ta xu hướng vọng ngoại lai căng hình
thức vẫn còn thấy đó đây.
Trong sinh hoạt thẩm mỹ của con người, những biểu hiện không lành
mạnh thường hay xuất hiện đồng thời, hiện tượng nọ liên quan với hiện
tượng kia. Khi chủ nghĩa hình thức xuất hiện, thì chủ nghĩa tự nhiên cũng có
mặt. Chủ nghĩa hình thức biểu hiện ở mặt xử lý, vận dụng hình thức một cách
quá mức, phô trương giả tạo, biểu hiện sự cực đoan của hình thức đi đến che
lấp nội dung và phủ định, xóa bỏ nội dung. Còn chủ nghĩa tự nhiên đi về một
hướng khác, biểu hiện sự cực đoan trong việc đề cao yếu tố tự nhiên, từ sao
chép máy móc thô thiển đến chỗ lặp lại và tô đậm những yếu tố bản năng của
con người.
Chủ nghĩa tự nhiên là một thứ bệnh khá phổ biến trong sinh hoạt văn
hóa thẩm mỹ, nhất là trong hoàn cảnh suy đồi về đạo đức và hoàn cảnh đời
sống vật chất và văn hóa còn thấp kém. Nó không chỉ thể hiện trong văn
chương nghệ thuật, từ người sáng tác đến người thưởng thức, mà còn thể
hiện trong các lĩnh vực khác của đời sống, từ việc sản xuất hàng hóa, từ
phong tục, nếp sống đến sinh hoạt giao tế và thời trang.
Tính chất tự nhiên sao chép ấu trĩ vẫn thường gặp trong những trường
hợp thị hiếu thẩm mỹ của con người chưa phát triển. Người ta ưa sáng tác và
thường thức lặp lại những chi tiết y hệt, tự nhiên, và người ta cho sự giống y
hệt đó là cái đẹp. (Ở đây cũng cần phân biệt thứ thị hiếu tầm thường đó với
yêu cầu nghiêm túc của sự tu dưỡng nghệ thuật là phải biết quan sát tỉ mỉ và
thể hiện chính xác các hiện tượng của đời sống một cách chọn lọc). Những
đồ sừng, đồ sơn mài, những tranh vẽ trên bìa, trên kính, những tranh khắc,
những đồ có chạm trổ, những bưu ảnh bưu phiếu với những phong cảnh
chim hoa tùng hạc tỉa tót từng cái lông cái vây, từng gân lá nụ hoa, những
tranh đàn bà Nhật, đàn bà Tàu tô vẽ từng sợi tóc, lông mi, nước da hồng, môi
son má phấn cố sao cho giống như thật tràn ra khắp thành thị và nông thôn,
gieo rắc thị hiếu tầm thường trong quần chúng. Nhưng hiện tượng trên đây
chỉ là việc của những người làm thủ công mỹ nghệ và mang tính chất thương
mại. Đáng buồn hơn nữa là những người tự xưng là nghệ sĩ, làm công việc
của nhà văn hóa, vì mục đích gọi là "sáng tạo nghệ thuật" hiện nay thịnh hành
ở Âu Mỹ. Nhân danh nghệ thuật "mô-đéc-nít", họ mang cả giẻ rách, ống bơ rỉ,
mang cả cuốc xẻng và cả những đống đất, hay dắt cả một đàn ngựa bày vào
phòng triển lãm. Thậm chí có những người như họa sĩ Ben người Pháp, trình
bày cả bản thân con người ông ta, bằng cách ngồi chễm chệ trên chiếc ghế
và mang trước ngực tấm biển đề: "Hãy nhìn tôi thế là đủ". Trong âm nhạc và
múa, những người theo xu hướng tự nhiên chủ nghĩa cũng khai thác triệt để
những tiết tấu, màu sắc, động tác kích thích bản năng, hoặc dùng những
tiếng động tự nhiên thay cho giai điệu âm nhạc. Đó là chưa kể những dàn
nhạc của trường phái "âm nhạc cụ thể", đã lấy những đồ vật tự nhiên như nồi
niêu soong chảo đem hòa tấu thành những "nhạc khúc" kỳ dị.
Những biểu hiện của chủ nghĩa tự nhiên ở hình thái trên đây cũng mới
chỉ làm méo mó thị hiếu, thẩm mỹ của quần chúng, kỳ thực nó chưa có tác hại
bằng thứ chủ nghĩa tự nhiên bản năng và đồi trụy.
Sau nhiều thế kỷ bị đè nén dưới ách phong kiến và thần quyền, con
người bị bưng bít và bị nô dịch bởi những thứ triết lý phản tự nhiên, bị kềm
hãm trong vòng u tối, không biết nhìn và không dám nhìn vào tự nhiên đầy
sức sống đang phát triển. Nhưng khi được giải phóng ra khỏi sự kềm kẹp
phong kiến u tối đó; thì một xu hướng khác trong xã hội tư bản lại đẩy con
người vào vòng u tối khác, chỉ nhìn thấy cái bàn năng tự nhiên mà không thấy
những giá trị xã hội, giá trị tinh thần cao quí khác.
Xuất phát từ quan điểm gọi là "khách quan", "phi chính trị”, một số nhà
văn tự trao cho mình nhiệm vụ nhà khoa học trong phòng thí nghiệm, viết văn
như làm thực nghiệm khoa học, chủ trương miêu tả không cần chọn lọc,
không cần hư cấu, như làm công việc chụp ảnh. Trong thời kỳ đầu, trường
phái tự nhiên có ít nhiều tác dụng trong việc chống lại những quan điểm duy
tâm tôn giáo. Nhưng thái độ làm thực nghiệm khoa học của những nhà văn
này chỉ chú trọng khai thác những biểu hiện tiêu cực bệnh hoạn về thể chất
và tinh thần của con người đã mở đầu cho xu hướng nghệ thuật đồi trụy. Từ
những trang sách, băng nhạc, từ những bộ phim độc hại này, con người hiện
ra với bộ mặt xấu xa thảm hại, mang rõ hai đặc tính dâm dật và tàn bạo.
Chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên là hai thái cực của những
loại thị hiếu xấu. Hai thứ bệnh này có khả năng xâm nhập và lan tràn ở mọi
nơi mọi lúc, xoắn vào nhau trong một sản phẩm, một hiện tượng, cho đến
phong cách thị hiếu của một con người và rộng ra là của xã hội.
Để bồi dưỡng thị hiếu tốt, không thể không chú ý gạn lọc ra khỏi đời
sống thẩm mỹ những nhân tố hình thức và tự nhiên chủ nghĩa và phải luôn
chú ý ngăn ngừa sự thâm nhập của hai khuyết tật đó.
4) Vài quy luật của thị hiếu.
Thị hiếu thẩm mỹ cũng như mọi hiện tượng khác đều mang tính chất
quy luật. Có nhiêều loại quy luật chi phối, nhưng có ba loại thường xuyên tác
động đến sự hình thành và phát triển của thị hiếu. Đó là quy luật xã hội học,
quy luật tâm lý học và quy luật thẩm mỹ học.
Quy luật xã hội học và quy luật tâm lí học có liên quan chặt chẽ với
nhau, nhiều khi cũng khó phân biệt. Còn quy luật thẩm mỹ học gần như là sự
tổng hòa các quy luật kia về nội dung.
Việc phân tích quy luật của thị hiếu là nhằm đi sâu thêm một bước, tìm
hiểu các yếu tố đã tạo nên sự đa dạng phong phú của thị hiếu, và từ đó tìm
cách giáo dục, tổ chức cho mọi người có thể phát triển những biểu hiện của
thị hiếu tốt và hạn chế, xóa bỏ các biểu hiện của thị hiếu xấu.
Đối với các mốt thời trang, có một quy luật xã hội là quy luật đổi mới
không ngừng. Hiểu được điều đó ta không xóa bỏ, tiêu diệt sự đổi mới, mà
tìm cách khống chế sự phát triển của các mốt xấu và lợi dụng quy luật đổi
mới để khuyến khích sáng tạo và hưởng ứng các "mốt" tốt, lành mạnh. Hoặc,
như sự ưa thích những tình huống hồi hộp trong thưởng thức nghệ thuật, là
một quy luật tâm lý của thị hiếu thẩm mỹ. Hiểu được điều đó, ta không xóa bỏ,
không tiêu diệt những tình huống hồi hộp, vì làm như thế nghệ thuật sẽ không
còn hấp dẫn nữa. Ta tìm cách hạn chế tình trạng gây hồi hộp một cách vô
nghĩa, rẻ tiền, thậm chí có hại, trong các tác phẩm nghệ thuật. Nhất là loại
truyện, phim khuếch trương bạo lực. Trái lại, ta khuyến khích việc sáng tạo
những tình huống hồi hộp để thu hút người xem vào những sự tích giáo dục
lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm.
Quy luật xã hội học của thị hiếu là quy luật của sự phát sinh, phát triển
và tiêu vong của các loại thị hiếu, của các loại "mốt".
Thị hiếu là sản phẩm tinh thần của một xã hội nhất định, xã hội thay đổi
thì thị hiếu cũng thay đổi. Mảnh đất sinh trưởng trực tiếp của thị hiếu là lẽ
sống, lối sống của con người. Đồng thời khi lối sống thay đổi thì thị hiếu cũng
sẽ bị tiêu vong. Người say mê lẽ sống, lối sống lành mạnh, tích cực thì cũng
có nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ trong sáng cao đẹp. Người ham lối sống lười
biếng, lười học hỏi và lao động thì sẽ nảy sinh những nhu cầu thẩm mỹ thấp
kém. Do đó, khi hiểu quy luật xã hội; trước hết là quy luật hình thành và tiêu
vong của thị hiếu, ta có thể biết được rằng muốn làm nảy nở hay tiêu diệt một
loại thị hiếu, một loại mốt nào đó; ta phải theo đúng quy luật, là đi từ gốc rễ.,
phải cải tạo xã hội và lối sống, hay ít ra cũng phải lấy việc giáo dục, cải tạo thị
hiếu. Không thể chỉ làm công việc phê phán thị hiếu đơn thuần, tách rời sự cải
tạo xã hội và lối sống, càng không thể chỉ làm biện pháp hành chính để tiêu
diệt thị hiếu xấu, làm như thế chẳng khác gì làm cỏ mà chỉ ngắt lá và ngọn cỏ.
Tóm lại, có thể thấy rằng, sự sinh thành, phát triển và tiêu vong của thị hiếu
nói cho cùng có quan hệ với lẽ sống và lối sống của con người.
Bên cạnh quy luật cơ bản đó, ta cần quan tâm đến những quy luật đặc
biệt như quy luật đổi mới không ngừng và quy luật lây lan của thị hiếu.
Xung quanh ta, thiên nhiên biến đổi không ngừng, màu sắc và ánh
sáng đổi thay theo mặt trời, theo mùa. Sự đổi thay của thời tiết khí hậu, của
đời sống động vật và thực vật, của sự sinh nở và héo tàn. Con người sống và
hoạt động trong bối cảnh thiên nhiên và xã hội đó, tất nhiên cũng có nhu cầu
đổi mới không ngừng đời sống của mình, trong đó có nhu cầu về thưởng thức
cái đẹp, nhu cầu tô điểm làm đẹp cuộc sống. Sự đổi mới thường xuyên của
các "mốt" trong sinh hoạt thẩm mỹ là biểu hiện của tình hình đó. Nó là một
quy luật khách quan, con người chỉ có thể lợi dụng nó để hướng dẫn, uốn nắn
sự đổi mới chứ không thể ngăn chặn sự đổi mới. Một bài hát dù hay đến đâu
cũng không thể hát mãi ngày nọ sang ngày kia. Từ chiếc áo, đôi dép, đôi giày,
đến hình dáng chiếc ô tô... đều luôn luôn phải được cải tiến, đổi mới.
Một quy luật xã hội có tính phổ biến của thị hiếu thẩm mỹ nữa là quy
luật về sự lây lan. Các mốt mới được sinh ra nhanh chóng là nhờ quy luật của
sự đổi mới, nhưng được truyền đi nhanh chóng là nhờ quy luật của sự lây
lan. Trên dãy Trường Sơn có thứ cây được đặt tên "cây cải bay", loại rau
rừng có thể ăn được, có mùi thơm như mùi cải cúc. Gọi là "cải bay" vì hoa và
hạt của nó bay đi rất nhanh. Nơi nào có một vài cây, lập tức mấy hôm sau cả
vùng đất trở thành một bãi mọc đầy "cải bay". Ta có thể hình dung sự lan
truyền của các "mốt" cũng như vậy. Đàn ông để tóc dài, quần ống loe, những
bản nhạc pha tiết tấu và âm sắc của người da đen, da đỏ vừa mới thịnh hành
ở một vài trung tâm Âu Mỹ, một vài năm sau đã lây lan khắp thế giới. Các
"mốt" cũng đi tìm bạn, tìm sự đồng điệu. "Mốt" Âu Mỹ lan rộng khắp mảnh đất
Âu Mỹ và đến các nước phụ thuộc một cách dễ dàng như đi vào nhà mình,
không cần hộ chiếu, thông hành gì hết.
Trong quy luật lây lan của "mốt", một hiện tượng dễ thấy là những "mốt"
không lành mạnh, không đẹp thường lan nhanh ở nơi nào con người thiếu đời
sống phong phú bên trong, thiếu óc thẩm mỹ đúng đắn. Khi đời sống bên
trong nghèo nàn, trống rỗng thì người ta tự làm phong phú mình bằng cái bên
ngoài.
Trong những điều kiện tạo nên sự lây lan của "mốt" có điều kiện lứa
tuổi, nghề nghiệp. Tuổi trẻ là lứa tuổi nhạy bén và vồ vập với cái mới nhiều
hơn lứa tuổi già. Những nghề nghiệp ít lam lũ có điều kiện tiếp thu "mốt"
chóng hơn.
Một biểu hiện có vẻ mâu thuẫn nhưng rất biện chứng của quy luật lây
lan là các "mốt" xấu thường xuất hiện ở những trung tâm "văn minh". Hiện
tượng đó nói lên rằng, các trung tâm gọi là văn minh, thường là nơi tập trung
nhiều mâu thuẫn đối lập của nền văn hóa, nơi tập trung của các đầu mối
thông tin liên lạc và giao tiếp, nơi trung tâm lan tỏa những gì tốt nhất và cả
những gì xấu nhất.
Sự lây lan không phải chỉ biểu hiện ở những loại thị hiếu xấu, các "mốt"
xấu. Sự ảnh hường lây lan của các "mốt" mới với vẻ đẹp trong sáng giản dị,
hài hòa, lành mạnh vẫn được phát triển trong lớp người mới, trong những con
người có cuộc sống lao động chân chính và lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp.
Những năm gần đây, tâm lý học đã đi sâu nghiên cứu những hiện
tượng tâm lý biểu hiện trong những loại hoạt động khác nhau của con người,
trong đó có tâm lý thẩm mỹ, tâm lý nghệ thuật. Thị hiếu thẩm mỹ là một mục
tiêu nghiên cứu của tâm lý học thẩm mỹ và tâm lý học nghệ thuật. Những
thành tựu mới nhất của các khoa học này về mặt thực nghiệm là những thành
tựu nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ. Ở đây, ta thử đi vào những khía cạnh
tâm lý: biểu hiện thành những quy luật tâm lý của thị hiếu thẩm mỹ.
Tâm lý con người cũng như bộ máy ra-đa phức tạp và bao giờ cũng
hoạt động định hướng. Sự định hướng về tâm lý là do nhu cầu bên trong của
con người muốn phản ánh hay tác động đến đối tượng bên ngoài. Nếu bắt
gặp đối tượng phù hợp với nhu cầu đó, lập tức "bộ máy ra-đa” đó hoạt động
mạnh mẽ để thu hút hình ảnh đối tượng vào mình. Quy luật tâm lý chính là
quy luật thích ứng giữa nhu cầu, tình cảm của con người và đối tượng bên
ngoài. Nói cụ thể hơn, về phương diện thẩm mỹ, đó là sở thích của con người
về cái đẹp, về tác phẩm nghệ thuật và những cái đẹp, những tác phẩm nghệ
thuật đó đã đáp ứng đúng theo sở thích của con người. Sở thích và đối tượng
hoàn toàn phù hợp, nhu cầu tình cảm được thỏa mãn. Đó là quy luật tâm lý
đang hoạt động thuận chiều. Nắm bắt và khai thác các quy luật tâm lý của con
người trong thưởng thức cái đẹp và nghệ thuật là việc làm của con người
sáng tác, người tổ chức chỉ đạo công tác văn hóa nghệ thuật. Ngay cả những
người làm công việc kinh doanh những hàng hóa có liên quan đến thẩm mỹ
cũng khai thác những quy luật tâm lý này. Một cuốn sách in hàng vạn bản,
mới ra đã bán hết, nhưng cũng có cuốn sách in rất ít nhưng bày trong tủ kính
hàng năm trời vẫn không ai hỏi đến. Có bộ phim người chen đầy cửa rạp để
mua vé, nhưng cũng có bộ phim khán giả chỉ ngồi xem trên năm ba hàng ghế.
Ta thấy quy luật tâm lý của thị hiếu thẩm mỹ cũng gần giống như thứ quy luật
cung cầu trên thị trường: cũng có sự hâm mộ, đắt hàng, hay sự lạnh nhạt, ế
ẩm. Và đã nói là quy luật thì ta không thể xử lý một cách chủ quan, bằng biện
pháp áp đặt.
Trong khi chọn món ăn hoặc tiêu dùng hàng hóa, con người ta có
những ý thích, những nhu cầu khác nhau. Trong thưởng thức cái đẹp và nghệ
thuật cũng có nhu cầu như vậy. Trong con người, các nhu cầu về tình cảm rất
phức tạp, nó là hiện tượng xã hội, gắn bó với đạo đức, với quan điểm chính
trị xã hội, và nó chia ra hai chiều hướng rõ rệt: nhu cầu - tình cảm cao thượng
và nhu cầu - tình cảm thấp kém. Do đó, khi nói đến sự vận dụng quy luật tâm
lý của thị hiếu thẩm mỹ, cần luôn luôn chú ý đến hai chiều hướng khác nhau
đó.
Một quy luật tâm lý phổ biến khác là sự say mê cái đẹp và nghệ thuật.
Những trang tiểu thuyết, những vở tuồng, những bộ phim, bài ca, bản nhạc,
cho đến những vẻ đẹp hình thức của con người và của mọi vật xung quanh
bao giờ cũng thu hút niềm say mê của con người. Niềm say mê đó là một quy
luật tâm lý. Quy luật say mê nghệ thuật trong tâm lý con người cũng là một
thực tế cần phải biết lợi dụng sức mạnh của nó theo chiều hướng có lợi. Từ
việc chăm lo đến vẻ đẹp hình thức của trang phục, nơi ăn chốn ở đến việc
sáng tác những tác phẩm nghệ thuật, đều thể hiện năng lực sáng tạo và nhu
cầu đó của con người. Vận dụng quy luật này, ta cần phải biết coi trọng hình
thức. Trong khi chủ trương nội dung là yếu tố cơ bản, ta vẫn không quên
chăm lo yếu tố hình thức. Không nên phân liều lượng dành công sức nặng
hay nhẹ cho nội dung hay hình thức, mà phải xem trọng việc chăm lo cả hai
mặt đó mới mong đạt tới sự hấp dẫn của nghệ thuật, mới thực hiện được
chức năng xã hội của nghệ thuật. Đó là nói về sự đáp ứng quy luật tâm lý ưa
chuộng hình thức đẹp, không phải chỉ trong nghệ thuật mà trong tất cả lĩnh
vực sinh hoạt thẩm mỹ, trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, chiều hướng
thứ hai, chiều hướng tiêu cực của loại quy luật tâm lý này, cũng cần phải thấy
rõ để tìm cách hạn chế. Đó là xu hướng sinh hình thức, cầu kỳ hoặc rối rắm,
phô trương, rơi vào chủ nghĩa hình thức.
Một loại quy luật tâm lý khác trong thị hiếu thẩm mỹ của con người là
sự ham thích những tình huống xung đột gay cấn trong nghệ thuật. Khi xem
truyện, xem kịch, xem phim hay cả trong khi xem xiếc, xem thể thao, người ta
thường muốn chứng kiến những phút giây hồi hộp căng thẳng của trạng thái
xung đột. Từ xưa tới nay, các loại nghệ thuật đã thường xuyên thay đổi các
yếu tố xung đột này để đáp ứng yêu cầu tâm lý đó. Tuy nhiên, quy luật này
cũng có hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Khi muốn vận dụng theo chiều
hướng tích cực, ta khai thác những xung đột kịch tính trong đời sống để đưa
vào tác phẩm nghệ thuật, nhưng cần lựa chọn những xung đột có ý nghĩa, có
tác dụng giáo dục tốt, như xung đột giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa thiện
và ác... nhằm khẳng định ca ngợi cái chính nghĩa, cái thiện. Trong điện ảnh
thương mại người ta thường lạm dụng, khai thác những "pha” gây hồi hộp
căng thẳng bằng những vụ tống tiền, cướp của, giết người.., Những phim,
truyện lạm dụng yếu tố bạo lực thường thu hút rất đông người xem. Chính vì
nó đã khai thác tối đa quy luật tâm lý trên. Bằng mọi giá, mọi thủ đoạn rẻ tiền,
những kẻ viết sách dựng phim và cho lưu hành loại này chỉ vì mục đích
thương mại đơn thuần nhờ lợi dụng yếu tố trong tâm lý cảm thụ thẩm mỹ của
công chúng. Trong ngành xiếc và võ thuật cũng vậy. Nếu chỉ vì mục đích hấp
dẫn để thu hút nhiều tiền, người ta tìm cách khai thác những thao tác đầy tính
chất mạo hiểm, lại không có bảo hiểm tương xứng, coi nhẹ tính mạng người
diễn viên, tạo ra sự hồi hộp kèm theo nỗi khiếp sợ có hại cho tâm lý người
xem. Nếu khai thác quy luật này theo chiều hướng tích cực, lành mạnh, người
ta sẽ biết tạo ra những thao tác gợi hứng thú về những hành động dũng cảm
gan dạ, gợi tình cảm khâm phục và quý trọng đối với diễn viên.
Ta có thể dẫn chứng thêm một loại quy luật tâm lý nữa là sự rung động
trước những câu chuyện tình yêu. Thật khó tưởng tượng một tác phẩm nghệ
thuật không có tình người: đó là tình yêu cha mẹ, anh em, tinh yêu bè bạn,
tình yêu nam nữ. Trong đó tình yêu nam nữ là một loại đề tài muôn thuở. Tình
yêu nói chung, tình yêu nam nữ nói riêng là nhu cầu, là quy luật tất yếu trong
thẩm mỹ và nghệ thuật. Hình ảnh người phụ nữ và những câu chuyện yêu
đương đã được các nghệ sĩ tìm cách miêu tả với nhiều xúc động say mê.
Người đọc, người xem cũng hưởng ứng với những xúc động, say mê như
vậy. Và ở đây cũng diễn ra hai chiều hướng khác nhau. Có loại nghệ thuật
phản ánh những tình yêu đẹp, giàu chất nhân bản. Có loại nghệ thuật miêu tả
những thư tình ái vô luân sa đọa, không nhằm phê phán. Loại văn hóa phẩm
thương mại thường khai thác những chuyện tình rẻ tiền và những hình ảnh
khiêu sợi nhục cảm, hủy diệt mỹ cảm của con người.
Ngoài những quy luật xã hội học và tâm lý học, còn cần chú ý đến
những quy luật thẩm mỹ học. Như trên đã nói, quy luật thẩm mỹ vận động
trên cơ sở xã hội và tâm lý có thể xem đây là sự tổng hòa những quy luật xã
hội học và tâm lý học. Việc phát triển hình thức ca khúc tuổi trẻ ở nhiều nước
trong những năm gần đây vừa là do tính năng động của hình thức sinh hoạt
văn hóa trong xã hội hiện đại. Trong những thành phố công nghiệp, vừa là
đáp ứng một nhu cầu tâm lý của công chúng, nhất là tuổi trẻ mong có một loại
thể nghệ thuật phản ánh nhanh và nhạy nhất tình cảm của con người. Tuy
nhiên, khi nói đến những quy luật thẩm mỹ; cần nhấn mạnh tính đặc thù của
nó so với những quy luật tâm lý và xã hội.
Một quy luật thẩm mỹ đáng lưu ý đầu tiên là quy luật của cái "hài hòa".
Trong lịch sử của cái đẹp và lịch sử nghệ thuật, sự phát triển của cái hài hòa
thường đi từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ
thể đến trừu tượng. Mặt khác, cái hài hòa luôn được điều chỉnh theo chiều
hướng tiến bộ, xét về mặt khoa học và lịch sử. Ở đây cũng có quy luật của sự
đào thải, như quy luật đào thải trong tự nhiên: cái gì không hài hòa trước sau
cũng bị hủy diệt. Nhìn vào lịch sử nghệ thuật tạo hình và lịch sử âm nhạc, ta
thấy rất rõ sự phát triển và biến đổi không ngừng của thị hiếu nghệ thuật -
cũng là sự biến đổi của cái hài hòa. Không thể lấy thị hiếu khi xem những pho
tượng Hy Lạp, xem tranh thời Phục hưng, nghe nhạc của trường phái cổ điển
thế kỷ XVIII để làm mẫu mực cho thị hiếu của con người hiện đại. Biết khai
thác quy luật phát triển hài hòa từ cụ thể đến trừu tượng, người sáng tác sẽ
biết nâng trình độ của tác phẩm nghệ thuật lên ngày càng cao đáp ứng được
nhu cầu của thị hiếu ngày một phát triển của con người. Nhưng cái hài hòa,
cái đẹp chỉ còn hài hòa nếu không xa rời cuộc sống. Nếu phát triển bằng con
đường xa rời cuộc sống, nghệ thuật sẽ khô cứng và trừu tượng. Cũng như
vậy, cần giải thích cho được cái hài hòa của những "mốt", những tiện nghi mà
thoạt nhìn chỉ thấy vẻ kỳ cục của nó. Ở đây cần có sự nhạy cảm và minh mẫn
về cái hài hòa để khỏi lẫn lộn vàng thau.
Về mặt thẩm mỹ, cũng cần chú ý đến quy luật chi phối, tác động lẫn
nhau giữa nội dung và hình thức. Vai trò chủ đạo của nội dung là điều tất yếu,
nhưng hình thức cũng có sức mạnh tự thân của nó, nếu không thì cần gì đến
hoạt động của mốt, cần gì những đội quân nhạc, cần gì những tấm huân
chương, hay những quân phục chính quy... Không thể hiểu máy móc thô thiển
theo lối: tóc tai quần áo là hình thức, đạo đức tư cách là nội dung, từ đó lấy
tóc tai để quy ra tư tưởng, đạo đức. Kinh nghiệm công tác văn hóa giáo dục ở
nước ta và nước ngoài cho thấy lối suy luận này đã đưa đến nhiều sự lầm lẫn
đáng tiếc. Nhiều trường hợp, sự suy đồi về đạo đức lại không bắt đầu từ tóc
dài tóc rối mà lại bắt đầu từ bộ tóc ngắn gọn gàng nghiêm chỉnh. Khi ta nhấn
mạnh vai trò quyết định của nội dung, thì lại quên mất vai trò độc lập tương
đối của hình thức, nghĩa là không phải lúc nào hình thức cũng chịu thuần
phục nội dung: có nhiều khi nó có ngôn ngữ riêng, không dễ dàng nhận ngay
ra được. Khi ta sử dụng bộ lông con hổ, đâu phải ta có tính ác.
Qua một số điều phân tích trên, ta thấy thứ quy luật nào của thị hiếu
thẩm mỹ cũng có hai mặt, hai chiều hướng tích cực và tiêu cực và sức mạnh
của hai chiều hướng đó đều rất lớn. Mỗi một cộng đồng, một nhóm, do mục
đích riêng của mình, đều khai thác một trong hai chiều hướng đó. Trong việc
xây dựng tư tưởng của tình cảm mới cho con người, chúng ta cần nghiên cứu
những quy luật trên trong sinh hoạt thẩm mỹ khai thác sức mạnh của nó theo
chiều hướng tích cực.
5) Để có một thị hiếu tốt.
Tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ là nét biểu hiện độc đáo của bản
chất con người. Ngoài khả năng lao động sáng tạo, ngoài những năng lực,
những phẩm chất về đạo đức thì tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ đã làm cho bản
chất con người phong phú thêm rất nhiều. Nhưng tình cảm và thị hiếu thẩm
mỹ không phải là cái bẩm sinh, cũng như mọi điều hiền dữ, xấu đẹp ở con
người đều phải kinh qua giáo dục và rèn luyện. Người ta vẫn thường nêu ba
yếu tố hình thành các phẩm chất của con người, đó là di truyền, giáo dục và
tự rèn luyện. Có người nhấn mạnh mặt này, coi nhẹ mặt khác. Thực ra, cả ba
yếu tố này đều quan trọng, trong đó yếu tố tự rèn luyện có tầm quan trọng đặc
biệt.
Yếu tố di truyền có vai trò nhất định trong việc hình thành và phát triển
thị hiếu thẩm mỹ. Nền tảng văn hóa chung, sự nhạy cảm trong thưởng thức
cái đẹp và nghệ thuật năng khiếu âm nhạc, hội họa của cha mẹ, của nhiều
đời kế tiếp trong gia đình, có ảnh hưởng rõ rệt đến thế hệ sau. Tuy vậv, yếu
tố di truyền chỉ là một tiền đề, một điều kiện đầu tiên, chưa đưa dến sự quyết
định tạo ra một năng lực thẩm mỹ. Cần phải có yếu tố giáo dục của xã hội,
của nhà trường và gia đình, thì những yếu tố di truyền, như những cái mầm
non đó mới lớn lên được. Giáo dục có vai trò rất lớn. Có khi cái mầm ấy về
năng lực đã có rồi nhưng không gặp được hoàn cảnh giáo dục tốt, cái mầm
đó bị thui chột, tàn lụi hoặc lớn lên theo chiều hướng xấu. Có những trẻ em từ
nhỏ khả năng nghệ thuật đã chớm nở nhưng do thiếu điều kiện để phát triển
nên cuối cùng lớn lên không còn khả năng đó nữa, hoặc bị ảnh hưởng của
hoàn cảnh xấu, phát triển những thị hiếu xấu, méo mó lệch lạc. Yếu tố giáo
dục vì thế đã trở thành yếu tố chủ đạo đối với sự phát triển của con người.
Nhưng dù có di truyền hay giáo dục mà bản thân con người không nỗ lực,
không tự tu dưỡng thì cũng không thể phát triển năng lực thẩm mỹ. Những
bậc thiên tài về khoa học hay nghệ thuật đã trải qua biết bao sự nỗ lực rèn
luyện gian khổ và đã từng khẳng định: thiên tài chỉ là kết quả của lao động.
Vậy đối với thị hiếu thẩm mỹ, nên chú ý giáo dục và rèn luvện như thế
nào?
Trước hết, nên hình dung cụ thể cấu tạo của thị hiếu thẩm mỹ có ba
chiều: chiều cao, chiều rộng và chiều sâu. Chiều cao của tư tưởng, chiều
rộng của sự hiểu biết nhiều mặt và chiều sâu của nhận thức, cảm xúc. Một thị
hiếu được phát triển đầy đủ bao giờ cũng phát triển cân đối cả ba phương
diện đó. Ngược lại một thị hiếu hình thành không cân đối sẽ là thị hiếu nghèo
nàn lệch lạc, méo mó.
Trong lúc giáo dục và rèn luvện thị hiếu thẩm mỹ, cũng như trong giáo
dục con người nói chung, yêu cầu đầu tiên là giáo dục lý tưởng thẩm mỹ tiến
bộ, đó là chiều cao của thị hiếu. Việc rèn luyện lý tưởng thẩm mỹ tất nhiên lệ
thuộc vào sự rèn luyện con người. Tất cả những nghệ sĩ sáng tác hay những
công chúng thưởng thức nghệ thuật với lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp, đã tạo ra
một lối sống đẹp, một nền nghệ thuật tiên tiến. Sự trùng hợp về lý tưởng xã
hội, đưa đến sự tri âm, tri kỷ trong lý tưởng thẩm mỹ. Tầm cao của lý tưởng
thẩm mỹ sẽ giúp người ta sáng mắt sáng lòng, biết lựa chọn, biết hướng cảm
tình về phía những cái đẹp chân chính, những tác phẩm có giá trị nhân đạo
của quá khứ cũng như hiện tại, những tinh hoa văn hóa văn nghệ của dân tộc
và của nhân loại.
Nói đến một thị hiếu thẩm mỹ có chiều rộng, là nói đến sự hiểu biết
nhiều mặt phong phú về đời sống, về văn hóa khoa học, về nghệ thuật, để
làm nền tảng cho nhận thức thẩm mỹ.
Chỉ xem việc tổ chức nơi ăn chốn ở cũng đủ đánh giá được trình độ
văn hóa thẩm mỹ và hiểu được tính cách của một con người. Đọc sách của
Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan, như trong Tắt đèn và Bước đường cùng,
ta thấy các nhà văn này đã miêu tả căn nhà của hai địa chủ Nghị Quế và Nghị
Lại. Những sự bày biện, những đồ dùng và tranh ảnh trong nhà bộc lộ rõ tính
cách "trưởng giả học làm sang", ngu dốt nhưng lại rất hợm hĩnh của những
tay trọc phú này.
Trong vốn tri thức cần thiết giúp cho sự hiểu biết rộng, thì tri thức về
nghê thuật có ý nghĩa trực tiếp nhất trong việc hình thành thị hiếu thẩm mỹ.
Trước hết là học tập các môn nghệ thuật, kiên trì rèn luyện các giác quan và
trau dồi năng khiếu, rèn luyện sự nhạy cảm trong khi tiếp xúc với cái đẹp và
nghệ thuật. K. Marx đã từng nói: "Muốn thưởng thức nghệ thuật thì phải được
giáo dục về mặt nghệ thuật”, "khiếu âm nhạc của con người chỉ do âm nhạc
thức tỉnh, bản nhạc hay nhất cũng không có ý nghĩa đối với cái tai không hiểu
âm nhạc". Có nghĩa là khả năng thưởng thức cái đẹp và nghệ thuật không
phải chỉ do trời phú cho, mà còn phải kinh qua học hỏi rèn luyện.
Sự hiểu biết hạn chế về nghệ thuật cản trở rất nhiều trong việc tiếp thu
toàn bộ những biểu hiện khác nhau của cái đẹp cũng như kho tàng phong
phú của văn hóa nghệ thuật trong và ngoài nước. Nhất là đối với những thể
loại nghệ thuật như tiểu thuyết, nhạc không lời, kịch hiện đại v.v... cần có trình
độ văn hóa và nghệ thuật ở mức độ nhất định mới hiểu hết nội dung của nó.
Cần phải biết đặc điểm của từng loại hình nghệ thuật, ngôn ngữ riêng của
từng loại nghệ thuật và nhất là lịch sử của các trào lưu, trường phái nghệ
thuật khác nhau, của các tác giả khác nhau. Muốn có được những hiểu biết
đó về nghệ thuật, điều trước tiên phải học văn hóa, phải xóa nạn mù chữ,
phải nâng cao trình độ văn hóa phổ thông.
Tất nhiên, trình độ học thức chỉ là cư xử đầu tiên, chưa phải quyết định
trình độ của thị hiếu thẩm mỹ, vì trong thực tế một số những người có học
thức cao nhưng thị hiếu thẩm mỹ vẫn nghèo nàn hay méo mó, lệch lạc. Vậy ta
có thể nói chiều rộng của thị hiếu thẩm mỹ chính là sự hiểu biết phong phú
của con người về cuộc sống, về văn hóa, khoa học và nhất là về nghệ thuật.
Ngoài chiều cao của lý tưởng, chiều rộng của hiểu biết, thị hiếu thẩm
mỹ còn thể hiện ở chiều sâu của nó. Trong thưởng thức cái đẹp và nghệ thuật
tư tưởng tình cảm đúng dắn và sự hiểu biết nhiều mặt vẫn chưa đủ. Cái clẹp
và nghệ thuật còn đòi hỏi sự sâu sắc. Trong sáng tạo cũng như thưởng thức
cái dẹp và nghệ thuật, người ta thường nói đến tính chất độc đáo, tính chất
gạn lọc và hàm súc, tính chất tinh tế và sâu sắc. Sự tinh tế và sâu sắc chính
là kết quả của sự học hỏi rèn luyện lâu dài. Mặt khác, nó cũng là bản lĩnh của
mỗi người về mặt tinh thần, tạo nên nét riêng biệt trong tính cách của người
đó.
Trong bối cảnh thế giới hiện đại, trong quá trình đổi mới xã hội, giáo
dục thẩm mỹ là một sự nghiệp lâu dài nhưng cấp bách, đầy khó khăn phức
tạp nhưng thật sự cao đẹp. vì đây là sự nghiệp gìn giữ và phát huy những giá
trị quý giá nhất của con người, của dân tộc và của nhân loại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chu Quang Tiềm. Tâm lý văn nghệ. NXB. Thành phố Hồ Chí Minh,
1991.
2. Đỗ Huy, Cái đẹp – một giá trị. NXB Thông tin lý luận, H. 1984.
3. Đỗ Văn Khang, Lịch sử Mỹ học, NXB Văn Hóa, H. 1983.
4. Đỗ Văn Khang, Đỗ Huy, Mỹ học Mác-Lênin. NXB ĐH và THCN, H.
1985.
5. Hoài Lam. Về biện chứng của đời sống thẩm mỹ và nghệ thuật. NXH
Thông tin - NXH Trẻ, 1991.
6. Lê Hữu Khải, Thẩm Mỹ học. NXB. Khai trí. S. 1973.
7. Lê Ngọc Trà (Chủ biên), Lâm Vinh, Huỳnh Như Phương. MỸ học đại
cương. NXB Văn hóa Thông tin. H. 1994.
8. Lukin lu., Xcacherơsicốp V. Nguyên lý Mỹ học Mác -Lênin. NXB Sách
giáo khoa Mác - Lênin. H. 1984.
9. Nguyễn Văn Xung. Thẩm mỹ học thông khảo. NXB Lửa thiêng, S.
1974.
10. M. Ovsannikov (chủ biên). Mỹ học Marx - Lênin. NXB Văn hóa. H.
1987.
11. Tạ Văn Thành, Nhập môn Mỹ học, Đại Học Mở - Bán Công, Tp
HCM 1995.
12. Vưgốtxki L., Tâm lý học nghệ thuật. NXB KHXH, H. 1995.
Người soạn: TS. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG.
MỤC LỤC
Chương 1. MỸ HỌC LÀ GÌ?
Chương 2. Ý THỨC THẨM MỸ
Chương 3. CÁC PHẠM TRÙ THẨM MỸ
Chương 4. NGHỆ THUẬT NHƯ MỘT LĨNH VỰC THẨM MỸ
Chương 5. CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT
Chương 6. VẤN ĐỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ
---//---
MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG
LÊ NGỌC TRÀ (Chủ biên)
LÂM VINH - HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
CHỊU TRÁCH NHIỆM BIÊN SOẠN
Chương một, chương hai: HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Chương ba, chương bốn: LÊ NGỌC TRÀ
Chương năm, chương sáu: LÂM VINH
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN – NĂM 1994
Chịu trách nhiệm xuất bản: QUANG HUY
Biên tập: PHAN THUẬN THẢO
Bìa và trình bày sách: TRẦN NHẬT THU
Sửa bản in: CHÂU KHOA
In 1.000 cuốn khổ 13 x 19cm tại Xưởng in Tuần báo Văn nghệ - TP. Hồ Chí
Minh. Giấy xác nhận đăng ký đề tài xuất bản số: 41CT/VHTT. CXB cấp ngày
17/5/94. In xong và nộp lưu chiểu tháng 5-1994.