Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN THẦN HỌC HỘI DÒNG XI-TÔ THÁNH GIA
Luận Văn Tốt Nghiệp
ƠN TIỀN ĐỊNH NƠI ĐỨC MARIA
Sinh Viên Thực HiệnM. GIUSE KHANG BÙI CÔNG VỤ, O.CIST.
Giáo Sư Hướng DẫnLM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH, O.CIST.
Niên khoá 2013 - 2017LỜI TRI ÂN
1
Trong tâm tình cảm tạ tri ân, con hết lòng tri ân quý cha viện phụ, quý cha bề trên trong hội dòng, cách riêng cha viện phụ M. Vianney Nguyễn Tri Phương, quý cha, quý thầy cùng toàn thể quý anh trong công đoàn Châu Sơn Đơn Dương đã tạo mọi điều kiện cho con được theo học các môn thần học tại Học Viện Thần Học của hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam trong thời gian qua.
Con xin chân thành tri ân cha giám đốc M. Biển Đức Nguyễn Văn Nghĩa, quý cha trong ban giám đốc cùng toàn thể quý cha, quý thầy trong ban giáo sư Học Viện Thần Học Xitô Thánh Gia đã tận tình nâng đỡ và truyền thụ cho con những kiến thức quý báu trong những năm con theo học tại học viện thần học của hội dòng.
Con xin chân thành tri ân cha phó giám đốc M. Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, là người đã trực tiếp hướng dẫn con trong việc tìm hiểu và hoàn thành luận văn nhỏ bé này.
Em cũng xin tri ân quý anh sinh viên cùng học trong học viện Thần Học Xitô Thánh Gia, đặc biệt quý anh cùng khoá học, đã tận tình nâng đỡ em trong suốt quá trình học tập.
Sau hết, nguyện xin Thiên Chúa, Mẹ Maria và thánh cả Giuse chúc lành và ban muôn ơn hồn xác trên quý cha viện phụ, quý cha bề trên, quý cha trong ban giám đốc, quý vị trong ban giáo sư Học Viện Thần Học Xitô Thánh Gia cùng toàn thể quý cộng đoàn trong hội dòng. Con xin hết lòng cảm tạ tri ân.
Con: M. Giuse Khang Bùi Công Vụ. O.cist
NHẬN XÉT CỦA GIÁO SƯ HƯỚNG DẪN
Hiểu biết và diễn tả về ơn tiền định đã khó, trình bày về «ơn tiền định
của Đức Maria» lại càng khó khăn hơn. Vì thế, việc sinh viên quyết định chọn
đề tài này để nghiên cứu đã là một sự can đảm và thành công rồi.
2
Về hình thức, sinh viên đã hoàn thành tiểu luận của mình đạt yêu cầu
theo phương pháp nghiên cứu biên soạn. Sinh viên đã bỏ nhiều thời gian và
công sức đầu tư cho công trình nghiên cứu của mình. Nguồn tài liệu sinh viên
thu thập được khá dồi dào phong phú, trích dẫn rõ ràng, lý luận chặt chẽ và có
sự liên kết xuyên suốt giữa các chương và các phần với nhau.
Về nội dung, luận văn của sinh viên thuộc về lãnh vực thần học tín lý.
Qua việc trưng dẫn Kinh Thánh, truyền thống giáo phụ, huấn quyền Hội thánh,
các nhà thần học và tu đức, sinh viên đã trình bày luận văn của mình rất mạch
lạc, sâu sắc và có nền tảng chắc chắn về ơn tiền định của Đức Maria trong
chương trình cứu độ và quan phòng của Thiên Chúa.
Chắc chắn rằng, sau khi hoàn thành luận văn này, bản thân sinh viên và
những ai đọc qua công trình nghiên cứu này sẽ xác tín hơn về chỗ đứng quan
trọng và địa vị cao sang của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa trong nhiệm
cục cứu độ. Đó cũng chính là ơn tiền định đặc biệt Thiên Chúa dành riêng cho
Mẹ Maria, người Trinh Nữ diễm phúc của muôn muôn thế hệ.
Đáng khen!
Điểm :
Châu Sơn, ngày 15/5/2017
Lm. M. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh
NỘI DUNG
DẪN NHẬP……………………………………………………………………..1
3
Chương I.
ƠN TIỀN ĐỊNH NƠI ĐỨC MARIAI. THIÊN CHÚA TIỀN ĐỊNH…………………………………………………………3
1. Khái Niệm Về Tiền Định………………………………………………………3
2. Thiên Chúa Tiền Định Trong Cựu Ước………………………………………..4
3. Thiên Chúa Tiền Định trong Tân Ước ………………………………………...6
II. SỰ TIỀN ĐỊNH NƠI ĐỨC MARIA………………………………………………...9
1. Đức Maria Được Thiên Chúa Tiền Định Từ Đời Đời…………………………9
2. Đức Maria Được Tiên Báo Trước Trong Cựu Ước…………………………..10
3. Đức Maria Trong Kế Hoạch Của Thiên Chúa………………………………..13
4. Đức Maria Với Sứ Mệnh Đặc Biệt…………………………………………...15
III. ƠN TIỀN ĐỊNH NƠI ĐỨC MARIA……………………………………………….17
1. Ơn Làm Mẹ Thiên Chúa……………………………………………………...17
2. Ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội…………………………………………………....19
3. Ơn Trọn Đời Đồng Trinh……………………………………………………..22
4. Ơn Hồn Xác Lên Trời………………………………………………………...26
Chương II.
TIỀN ĐỊNH VÀ TỰ DOI. TIỀN ĐỊNH VÀ TỰ DO…………………………………………………………….29
1. Khái Niệm Về Tự Do…………………………………………………………29
2. Ý Trí Tự Do Của Con Người Và Sự Tiền Định Của Thiên Chúa…………….30
3. Tiền Định Không Phá Huỷ Tự Do Của Con Người…………………………..32
4. Sự Tự Do Nơi Đức Maria…………………………………………………….35
II. NHỮNG NỖ LỰC NỘI TÂM CỦA ĐỨC MARIA ĐÓNG GÓP VÀO CÔNG
TRÌNH CỨU CHUỘC CỦA THIÊN CHÚA………………………………………38
1. Đức Maria Trinh Nữ Dâng Hiến……………………………………………..38
2. Đức Maria Trên Đồi Canve…………………………………………………..41
3. Đức Maria, Hiệp Thông Với Đau Khổ Và Sự Chết Của Chúa Kitô…………43
Chương III.
MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐỨC MARIA VÀ GIÁO HỘI
TRONG SỰ TIỀN ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA
I. ĐÚC MARIA VÀ GIÁO HỘI……………………………………………………...46
1. Đức Maria Được Tiền Định Làm Mẹ Của Giáo Hội………………………….46
4
2. Đức Maria Là Gương Thánh Thiện Cho Giáo Hội…………………………....49
3. Đức Maria Và Sự Hiệp Nhất Trong Giáo Hội………………………………...51
II. NOI GƯƠNG ĐỨC MARIA SỐNG ƠN TIỀN ĐỊNH ………………………….. 54
1. Chúng Ta Được Tiền Định Làm Nghĩa Tử Nhờ Đức Giêsu Kitô……………..54
2. Noi Gương Đức Maria, Chúng Ta Sống Nỗ Lực Trên Con Đường Hoàn Thiện
Như Đức KiTô Là Đấng Hoàn Thiện………………………………………….56
3. Noi Gương Đức Maria, Chúng Ta Sống Vâng Phục Theo Thánh Ý Của Thiên
Chúa…………………………………………………………………………....59
4. Lòng Tôn Kinh Đức Maria Trong Giáo Hội…………………………………..61
NHẬN ĐỊNH VÀ KẾT LUẬNNhận định……………………………………………………………………………64
Kết luận……………………………………………………………………………....67
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………..69
DẪN NHẬP
Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đức Maria đã được tiền định từ đời đời để
làm Mẹ Đấng cứu thế. Theo linh mục Frederick M. Jelly nói : ngay từ lúc đầu tiên được thụ
thai, Mẹ Maria đã được Thiên Chúa ban tràn đầy ân phúc để làm Mẹ Thiên Chúa. Từ thuở đời
5
đời, Thiên Chúa Cha đã tiền định cho Đức Maria làm Mẹ của Chúa Con của Người. Đức Maria
là một thành phần thân thương trong kế hoạch Thiên Chúa cứu độ nhân loại qua Ngôi Lời Nhập
Thể. Để tạo cho Đức Maria những đức tính xứng hợp gọi là mẹ Thiên Chúa, Chúa đã ban cho
Đức Maria những hồng ân cao quý nhất của Chúa Thánh Thần1.
Dựa trên tư tưởng của linh mục Frederick M. Jelly nói thì, ơn tiền định nơi Đức Maria
hết sức đặc biệt, vì đối tượng là Mẹ Thiên Chúa. Sự tiền định của Đức Maria bao hàm sự tiền
định của Đức Kitô. Đó là thiên ý nhiệm mầu mà như thánh Phaolô nói “Thiên ý này là kế
hoạch yêu thương người đã định từ trước trong Đức Kitô” (Ep 1, 9). Thánh Phaolô còn nói
“Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc, cho ta hưởng muôn vàn ân phúc
của Thánh Thần” (Ep 1,3). Từ lời huấn giáo trong thư Êphêsô cũng như các thư khác của
thánh Phaolô (x. Cl 1, 12 – 14; Rm 3, 24; Gl 3, 1 -3; 2Cr 5, 18 – 29) cho chúng ta biết, kế
hoạch ấy được liên kết với Đức Kitô từ muôn thuở. Kế hoạch này bao trùm toàn thể nhân loại,
nhưng dành riêng một chỗ đặc biệt cho người “phụ nữ”, sẽ là Mẹ của Đấng được Thiên Chúa
trao phó công trình cứu độ. Như công đồng Vaticano II viết: theo sách Sáng Thế (St 3, 15),
“người nữ này đã được phác hoạ trước trong lời hứa…mà tổ tông đã nhận được sau khi sa
ngã trong tội lỗi”; và theo như lời của ngôn sứ Isaia (x. Is 7, 14) “Bà là Trinh Nữ sẽ thụ thai
và sinh con và đặt tên cho Con là Emmanuel” (LG 55). Từ những câu Kinh Thánh trên cho
thấy: trong Cựu Ước cũng như Tân Ước đã chuẩn bị cho “sự viên mãn của thời gian”, khi
Thiên Chúa sai Con của Người đến, sinh bởi một phụ nữ… để chúng ta được ơn làm con
Thiên Chúa (x Gl 4, 4 – 5).
Như vậy, Trong nhiệm cục cứu độ, Thiên Chúa đã tiền định cho Ngôi Lời Nhập Thể
cách nhưng không, thì sự tiền định của Đức Maria cũng là ơn nhưng không, nghĩa là trước
những công nghiệp của Đức Maria mà Thiên Chúa có thể dự kiến, hay là không phải nhìn đến
những công nghiệp của Đức Maria mà Đức Maria đã đạt được mức độ tinh tuyền và thánh
thiện do ân sủng đã được ban cho Ngài cách nhưng không, hầu trở nên Mẹ Thiên Chúa cách
xứng hợp. Để Mẹ xứng hợp làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa đã ban cho mẹ nhiều đặc ân
cao quý khác đi kèm với ơn Làm Mẹ Thiên Chúa, là ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, ơn Trọn Đời
Đồng Trinh, và ơn Hồn Xác Lên Trời. Những ơn này các nhà thần học gọi chung là ơn tiền
định Thiên Chúa dành cho Mẹ.
Về ơn tiền định Thiên Chúa dành cho Mẹ, có những vấn đề được đặt ra là: nếu Thiên
Chúa đã tiền định và chuẩn bị cho Mẹ tất cả mọi thứ như vậy, thì thử hỏi Mẹ có còn tự do nữa
hay không? Nếu không, thì Mẹ có công trạng gì trước mặt Thiên Chúa, trước mặt Giáo Hội, vì
không có tự do mọi hành động của con người trở nên vô giá trị, vô thưởng và vô phạt, và trong
1X. Lm Frederick M. Jelly, O. P. Biên soạn, Tôn Sùng Đức Maria Trong Thánh Truyền Công Giáo, 2001, chuyển ngữ Gioan Baotixita Dũng Lạc Hồng Ân, p. 147.
6
nhiệm cục cứu độ đó, Mẹ khác chi một người hoàn toàn bị động, bị lệ thuộc vào trong chương
trình của Thiên Chúa. Còn nếu có, thì sự tự do đó được hiểu như thế nào? Mẹ đã nỗ lực để góp
phần vào nhiệm cục cứu độ đó ra sao? Để hiểu rõ tất cả những vấn đề này, người viết xin được
trình bày đề tài về: Ơn Tiền Định Nơi Đức Mariavới những nội dung chính như sau:
Chương I: Trình Bày Về Ơn Tiền Định Nơi Đức Maria
Chương II: Trình Bày Về Thiên Chúa Tiền Định Và Sự Tự Do Của Con Người
Chương III: Trình Bày Về Mối Liên Hệ Giữa Đức Maria Và Giáo Hội Trong Sự Tiền
Định Của Thiên Chúa
Với những nội dung chính nêu trên, người viết chỉ mong cố gắng tìm hiểu và làm sáng
tỏ phần nào về ơn tiền định nơi Đức Maria trong sự tiền định của Thiên Chúa đã được nói đến
trong Kinh Thánh và trong các Huấn giáo của Giáo Hội. Với đề tài này, người viết không có
tham vọng viết nhiều, hay viết dài, mà chỉ viết những gì trọng yếu có liên hệ và xoay quanh đề
tài ơn tiền định nơi Đức Maria, chứ không có ý mở rộng thêm hay giải thích những tín điều có
liên quan đến Đức Maria như : tín điều Mẹ Thiên Chúa, tín điều Đức Maria Trọn Đời Đồng
Trinh, tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, hay tín điều về Đức Maria Hồn Xác Lên Trời. Dù rằng,
trong bài viết có đề cập đến hay dẫn chứng một vài điểm trong tín điều, nhưng là để làm rõ hơn,
sáng tỏ hơn về ơn tiền định nơi Đức Maria mà thôi.
Với giới hạn của bản thân, người viết chủ yếu dựa vào nền tảng là Kinh Thánh, các
Huấn giáo của Giáo Hội như: công đồng Vaticano II, sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo,
những bài suy tư của các giáo phụ, các nhà thần học, các triết gia, cũng như thu thập các tài
liệu có liên quan để tổng hợp và hệ thống lại những tư tưởng đã có sẵn thành tư tưởng của
mình và bài viết của mình. Nhân cơ hội trình bày đề tài này, người viết có dịp đào sâu hơn về
môn Thánh Mẫu Học, về những bản văn Kinh Thánh, những Giáo Huấn của Giáo Hội nói về
Đức Maria trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Vậy, dựa vào tất cả những tài liệu kể
trên và với một chút kinh nghiệm có được từ bản thân, người viết xin được trình bày đề tài ơn
tiền định nơi Đức Maria cách cụ thể qua các chương sau đây.
Chương I
ƠN TIỀN ĐỊNH NƠI ĐỨC MARIA
Khi chúng ta nói đến ơn tiền định nơi Đức Maria, là nói đến ân sủng của Thiên Chúa
dành cho Mẹ.Từ đời đời, Đức Maria đã được tiền định làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ là người
7
như bao người khác, nhưng được Chúa đoái thương tuyển chọn để cưu mang và hạ sinh ra
Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai xuống thế làm người. Với ơn làm Mẹ Thiên Chúa, và để Mẹ
xứng đáng là Mẹ Thiên Chúa, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ những ơn cao trọng khác như: ơn
Trọn Đời Đồng Trinh, ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, và ơn Hồn Xác Lên Trời. Theo các nhà
thần học gia thì, đó làơn Tiền Định Thiên Chúadành sẵn cho mẹ. Vậy, tiền định là gì?Sự tiền
định Thiên Chúa dành cho Mẹ như thế nào, và ơn tiền định đó ra sao? Để giải quyết những
thắc mắc này người viết xin được trình bày như sau:
I. KHÁI NIỆM THIÊN CHÚA TIỀN ĐỊNH
1. Khái Niệm Về Tiền Định
Tiền định, theo nguyên ngữ la tinh: praedestinare, prae chỉ một liên quan với tương lai,
destinare là định một việc gì.
Tiền định, theo nguyên ngữ Hy Lạp: “próhοrízō", được tạo thành bởi hai từ: “pró” có nghĩa
là “trước” (before) và “hοrízō” có nghĩa là “định” (determine). Như vậy, “tiền định” là sự định trước.
Tiền định, theo anh ngữ: predestination, sự tiền định (nghĩa là mọi quyết định của
Thiên Chúa từ đời đời).
Tiền định, theo nghĩa hán việt: tiền, là trước, còn định, là đã quyết; tiền định có ngĩa là
việc đã quyết từ trước.
Nói chung, tiền định: praedestinare, próhοrízō,predestination, prédestination ; đều có
chung một nghĩa là:mọi việc đều đã được Tạo hóa quyết định và sắp xếp từ trước.Sự tiền định
là cái gì mà người ta được tiền định tới,hay nói cách khác, sự tiền định là việc Thiên Chúa đã
an bài từ muôn thuở, do kế hoạch yêu thương vô cùng của Ngài.
Nếu sự tiền định là việc Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn, thì con người không có gì
phải sợ hãi. Trái lại, con người vui mừng vì được Thiên Chúa ân cần săn sóc ngay từ trước khi
sinh ra. Do đó, họ càng phải nỗ lực đáp trả tình thương yêu của Ngài2.
Từ những ý tưởng trên cho thấy: Tiền định là sự định trước, bởi ý định lựa chọn tự do
của Thiên Chúa đối với từng mỗi cá nhân, đời sống, cũng như mỗi quốc gia, dân tộc và cả lịch
sử thế giới, như Kinh thánh có chép: “từ một người duy nhất, Thiên Chúa đã tạo thành toàn
thể nhân loại, để họ ở trên khắp mặt đất; người đã vạch ra những thời kỳ nhất định và những
ranh giới cho nơi ở của họ” (Cv 17, 26). “Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã
tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng
tử giữa một đàn em đông đúc. Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi;
2 X. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Tiểu Ban Từ Vựng, Từ Điển Công Giáo 500 Mục Từ, Nxb Tôn Giáo, ngày 19-4- 2011, p. 341.
8
những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người làm cho
nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang” (Rm 8, 29 – 30).
Như vậy, Thiên Chúa có sẵn mục tiêu, cùng đích cho vũ trụ là đưa vạn vật tới mức
trọn hảo và cho con người hưởng phúc vinh quang với Thiên Chúa trên Thiên Đàng. Mục tiêu
tối cùng này chính là sự tiền định của Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự tiền định này không đồng
nghĩa với tất định, hay mang tính ép buộc như có người lầm tưởng, mà con người vẫn có tự do
để đón nhận hay khước từ.
2. Thiên Chúa Tiền Định Trong Cựu Ước
Đọc trong Cựu Ước ta thấy, Kinh thánh nêu ra căn bản của tiền định: đó là hoạt động của
Thiên Chúa “tiền kiến” mọi sự và tác hợp mọi sự. Từ muôn thuởThiên Chúa đã có một chương
trình (x. Is 37, 26) mà Ngài thực hiện qua dòng lịch sử (x. Is 14, 24). Chính Thiên Chúa là Đấng
khởi xướng kế hoạch cứu độ, chính Người là Đấng đã nói lên lời hứa về một Giao ước vĩnh cửu.
Thật vậy, các bản văn Cựu Ước trình thuật lịch sử cứu độ, trong đó nhân loại được chuẩn bị dần dần
để đón ngày Đức Kitô đến.Trong Sáng Thế Ký, chúng ta thấy kinh nghiệm căn bản về sự quan tâm
của Thiên Chúa đối với công trình sáng tạo. Trong ý định yêu thương, Ngài đã tạo dựng vũ trụ và
con người. Ngài đi bước trước đến với con người, cho con người tham dự vào tình yêu, hạnh phúc
và vinh quang của Người: Thiên Chúa phán “chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng
ta, giống chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và
mọi giống vật bò dưới đất” (St 1, 26)3.
Việc tạo dựng con người và vũ trụ là một bằng chứng nói lên hoạt động của Thiên Chúa
“tiền kiến” mọi sự và tác hợp mọi sự. Một chương trình có từ muôn thuở như thánh Phaolô nói:
“Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho
chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người” (Ep 1,11). Từ điều này, thánh
Phaolô đã cho thấy ý định của Thiên Chúa khi tạo dựng vũ trụ và ban cho con người sứ mạng tiếp
tục thực hiện công trình ấy. Để tiếp tục thực hiện công trình này, Ngài đã tuyển chọn Abraham, và
từ nơi ông Thiên Chúa tuyển chọnmột Dân riêng để phục sự Ngài.
Thiên Chúa tuyển chọn Abraham làm tổ phụ một Dân mới:
Truyền thống về các tổ phụ (St 12-50) là cách dân Israel suy nghĩ về việc các tình huống
khiến mình được Thiên Chúa tuyển chọn và hiểu mình là dấu hiệu và là công cụ Thiên Chúa
dùng để thực hiện kế hoạch cứu độ đối với muôn dân. Nhân vật Abraham và cuộc đời của ông
không chỉ là một lịch sử cứu độ liên quan đến riêng cá nhân ông, bên cạnh hay bên trên lịch sử
nhân loại, mà là nguyên lý nội tại của lịch sử nhân loại vốn hướng tới tính phổ quát và mặc khải
cánh chung. Từ một cặp vợ chồng già Abraham và Xara, đã xuất hiện một dân tộc, một cộng
3 X. Peter Neuner, Ân Sủng Luận Qua Các Tác Giả, dịch theo Gnadenlehre, p. 37.9
đoàn tôn giáo. Thế là Thiên Chúa trung thành với lời Ngài đã hứa. Chỉ có điều là Ngài thực hiện
lời hứa qua gian khổ để con người biết vâng phục và tin cậy vào Thiên Chúa Quan Phòng.
Nhưng đã có lúc con người không hiểu, không tin và không làm. Đứng trước sự sa ngã của dân
Israel, Thiên Chúa vẫn một lòng yêu thương và tuyển chọn các ngôn sứ đến với họ.
Thiên Chúa kêu gọi và tuyển chọn các ngôn sứ.
Thiên Chúa đã tuyển chọn ông Môsê và trao cho ông sứ mạng là vị cứu tinh để giải cứu
Israel ra khỏi ai cập, là ngôn sứ của Thiên Chúa để thay mặt Thiên Chúa nói với dân và, ngược
lại thay mặt dân để nói với Thiên Chúa. Môsê cũng là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân
trong việc thiết lập Giao ước (x. Xh 3, 13-17).
Khi ôngMôsêquađời, Thiên Chúa đã chọn ông Giôsuê là người kế vị, với nhiệm vụ đưa
dân Israel vào đất hứa, “đất Canaan” (x. Gs 1, 1-13). Ở dây họ thành lập một quốc gia. Chế độ
của quốc gia này bắt đầu là thủ lãnh, rồi đến quân chủ. Những nhà vua đầu tiên của vương quốc
này được tuyển chọn là Saolo và Đavít. Riêng vua Đavít đã đánh lấy thành Giêrusalem, biến
thành này ra trung tâm chính trị và tôn giáo của vương quốc. Qua ngôn sứ Nathan, Thiên Chúa
còn hứa với vua Đavít một vương quốc vĩnh cửu và phổ quát.
Sau khi vua Đavit mất thì Salômôn được chọn làm vua (970). Vua Salômôm với một cuộc
đời danh tiếng nhưng tội lỗi, và sau khi vua băng hà thì Rơ-khóp-am lên kế vị, đất nước nam bắc
phân tranh (930). Ở miền bắc cũng như ở miền Nam, Thiên Chúa luôn sai ngôn sứ đếnđể cảnh
cáo, quở trách, ủi an và hướng dẫn.
Ở miền Bắc, hai ngôn sứ của Chúa là Elia và Elisavới sứ mệnh phải nhắc nhở dân từ
bỏ ngẫu tượng (x. 1V 16, 23; 2V 13, 21). Tiếp đó Thiên Chúa gọi hai ông Amốt Và Hôsê .
Ngôn sứ Amốtvới sứ mệnh là tố cáo xã hội và khuyên người ta ăn ở công bình, từ bỏ ngẫu
tượng. Còn Hôsê thì luôn nhắc dân nhớ lại tình thương của Chúa đối với dân như là chồng đối
với vợ mình. Thế nhưng, miền Nam cũng như miềm Bắc đã chẳng nghe theo, vì thế Thiên
Chúa đã trừng trị, họ phải lưu đầy Babilon.
Thời kỳ lưu đầy Babilon Chúa lại cho hai ngôn sứ: Ê-dê-ki-en và Isaia IIđến để ở cùng, để
răn dậy, vỗ về và đưa ra những đường lối mới mẻ cần thiết. Chẳng hạn, ngôn sứÊ-dê-ki-en nói về
trách nhiệm cá nhân trong đời sống (x. Ed 1, 1-3, 15; 36, 16-37, 14), ngôn sứ Isaia II nói tiên tri
về Người Tôi Trung Của Thiên Chúa (x. Is 42, 1-7; 49, 1-6; 50, 4-9).
Sau 49 năm lưu đầy, người dân Israel được về nước. Trong hoàn cảnh mới, cũng có
nhữngnhà lãnh đạo, như hai ông Nơ-khe-mi-a và Ét-rađể lo công việc hành chánh và tôn giáo.
Họ cũng có những ngôn sứ, như Ma-la-khi, để báo tin về Đấng Cứu Độ, hay nói đúng hơn về
Vị Tiền Hô Của Đấng Cứu Độ. Đang khi chờ đợi Vị Tiền Hô Của Đấng Cứu Độ đến, họ cố
gắng vâng giữ luật Thiên Chúa. Họ gắn bó đến nỗi dám đứng lên chống lại những chính
quyền bành trướng bách hại. Trong phong trào giành lại độc lập, họ có những nhà lãnh đạo 10
như gia đình Ma-ca-bê, họ có tác giả sách Đa-ni-ennâng đỡ. Khi mà lãnh đạo phản lại tinh
thần tôn giáo và dân tộc, họ chống đối bằng mọi hình thức. Do đó mà các phong trào lúc bấy
giờ, mọc lên như nấm, trong đó chúng ta biết được các nhóm Pha-ri-sêu, Xa-đốc, Ét-xen, quá
khích, v.v. Và Thiên Chúa đã chọn lúc ấy mà sai Ngôi Haixuống thế làm người, để mang ơn
cứu độ cho chúng ta4.
Tóm lại, trong Cựu Ước, cùng với chương trình tạo dựng và cứu độ, ơn tiền định là sự an
bài, sự chọn lựa từ đời đời của Thiên Chúa, một sự chọn lựa đầy tình hiền phụ, minh triết và tuyệt
đối, một lựa chọn do tình yêu thúc đẩy. Sự tiền định này xảy ra trong Chúa Con Hằng Hữu mà
chúng ta sẽ trình bầy trong phần dưới dây: Thiên chúa tiền định trong Tân Ước.
3. Thiên Chúa Tiền Định Trong Tân Ước
Nếu như trong Cựu Ước, Thiên Chúa tiền định qua việc tuyển chọn các tổ phụ là ông
Abraham, ông Isaac và Giacóp, hay qua dân riêng người là Israel, cũng như qua các vị ngôn sứ để
loan báo về ơn cứu độ của Thiên Chúa… thì trong Tân Ước, Thiên Chúa đã tiền định chính Con
Một của Người đến trong thế gian để cứu chuộc chúng ta. Như vậy, bản chất mầu nhiệm ơn tiền
định cốt ở điều này: ơn tiền định gắn liền với sự sống siêu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi cực
thánh. Ơn tiền định được Chúa Cha ấn định từ muôn thuở cùng với Chúa Con trong Chúa Thánh
Linh.Ơn tiền định là một chọn lựa, theo Thánh Phaolô, có trước việc tạo dựng vũ trụ, và con người
trong hoàn vũ (Eph 1,4). Theo ý nghĩa này ơn tiền định có trước “việc tạo dựng vũ trụ,” vì công
việc tạo dựng được thể hiện trong viễn cảnh ơn tiền định cho nhân loại. Do áp dụng những so sánh
tương tự tạm thời của ngôn ngữ loài người vào đời sống thần linh, chúng ta có thể nói Thiên Chúa
“trước hết” đã muốn thông ban thần tính của Ngài cho nhân loại, làm cho con người là hình ảnh và
giống Ngài trong thế giới thụ tạo. “Trước hết,” Thiên Chúa chọn con người, trong Chúa Con hằng
hữu và đồng bản tính, để tham gia vào quyền làm con nhờ ân sủng. Chỉ “sau đó” Thiên Chúa muốn
có vũ trụ muôn loài; Ngài muốn có thế giới mà nhân loại thuộc về (thế giới đó)5.
Trong Tân Ước chúng ta thấy có nói đến quyết định từ đời đời của Thiên Chúa về Đức Kitô.
Ep 3, 11 : đúng theo ý định Người đã có từ muôn đời và đã thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô: “Thiên
Chúa đã hành động như thế theo quyết định người đã có từ muôn thuở và đã thực hiện nơi Đức
Giêsu Kitô,Chúa chúng ta”. Đức Kitô là Đấng đã được tiền định từ trước tạo thiên lập địa và tỏ hiện
thời cánh chung vì anh em: “Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được
dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này…”(1Pr 1, 20).
4 X. Tanila Hoàng Đắc Ánh, OP, Lịch Sử Cứu Độ, Nxb Sài Gòn, 1994, p . 21 – 63.5 X. https://www.catholic.org.tw/vntaiwan/caotinh/29chucha.htm
11
Vậy, dựa trên cơ sở Tân Ước, nói về định lệnh6 của Thiên Chúa về Đức Kitô. Đức Kitô đã
được Thiên Chúa Cha tiền định là đầu, là thủ lãnh nhân loại7.
Về sự tiền định của Thiên Chúa nơi Đức Kitô, thánh Tôma Aquino trong tổng luận thần học
quyển 3, câu hỏi 24, cho chúng ta thấy rằng Đức Kitô đã được tiền định. Sự tiền định vĩnh cửu của
Thiên Chúa. Tức là từ đời đời Thiên Chúa đã định cho Ngôi Lời nhập thể, xuống thế làm người để
chu toàn công trình cứu chuộc. Vì Thiên Chúa đã tiền định một cách cụ thể, là Ngôi Lời nhận lấy bản
tính nhân loại. Như vậy sự phối hiệp hai bản tính trong ngôi vị Đức Kitô nằm trong sự sắp đặt trước từ
đời đời của Thiên Chúa. Công đồng Tolède XI dạy: “vì sự kiện Con Thiên Chúa sinh bởi Đức Mẹ
Đồng Trinh, mà phải tin rằng Ngài đã được sinh ra, được tạo thành và được tiền định” (DS 536/285).
Vì lý do này, Thánh Tôma khẳng định nơi Đức Kitô đã được tiền định theo một thể cách rất đặc biệt.
Cũng trong sự tiền định này Thánh Tôma trình bầy cho chúng ta thấy rằng: Đức Kitô
đã được tiền định với tư cách là Con Người. Thánh Tôma giải thích: người ta có thể cứu xét
hai phương diện trong sự tiền định. Trước tiên, về phía sự tiền định vĩnh cửu, bao hàm sự có
trước đối tượng của mình. Thứ đến, người ta có thể cứu xét hiệu quả trong thời gian của nó,
và hiệu quả này là một ân huệ của Thiên Chúa. Mà, ở hai phương diện này, sự tiền định được
chỉ về cho Đức Kitô vì bản tính nhân loại của Ngài mà thôi, bởi vì bản tình nhân loại này, đã
không luôn phối hiệp với Ngôi Lời; lại nữa, chính do ân sủng mà nó được phối hiệp với Con
Thiên Chúa trong ngôi vị. Do đó, sự tiền định chỉ thuộc về Đức Kitô vì bản tính nhân loại.
Như vậy, thánh Augustino đã nói “chúng tôi nói rằng Thiên Chúa Vinh Quang đã được tiền
định trong tư cách là Con Thiên Chúa đã được tạo thành là Con Người” (de praedest. Sanct.
15,44): “bản tính nhân loại là đối tượng của sự tiền định, sự nhận lấy bản tính nhân loại này
nhắc nó lên rất cao, rất cao siêu đến nỗi nó không có thể nhấc lên cao hơn nữa được”. Và
điều thích hợp cho một người nào vì bản tính nhân loại của mình thì được chỉ về cho họ trong
tư cách là con người; do đó người ta phải nói, Chúa Kitô, trong tư cách là Con Người, đã
được tiền định làm Con Thiên Chúa.
Hơn thế nữa, thánh Tôma còn cho chúng ta biết được rằng sự tiền định của Ngài là kiểu
mẫu cho sự tiền định của chúng ta. Thánh Tôma nói: sự tiền định của Đức Kitô là kiểu mẫu cho
sự tiền định của chúng ta. Sự tiền định được hiểu theo hai thể cách: trước tiên trong tư cách nó
biểu thị hành động của kẻ tiền định. Ở tương quan này, người ta không thể nói rằng sự tiền định
của Thiên Chúa là kiểu mẫu cho sự tiền định của chúng ta; bởi vì do cũng một hành động duy
nhất mà Thiên Chúa tiền định chúng ta và tiền định Đức Kitô. Như vậy người ta có thể hiểu, sự
tiền định là cái gì mà người ta được tiền định tới. Nghĩa là điểm tận cùng và hiệu quả của sự tiền
6 Định lệnh: là lệnh truyền của Thiên Chúa đã được quyết định (hay định liệu) từ đời đời. Chẳng hạn như: Thiên Chúa quyết định việc tạo dựng Đức Maria và việc Nhập Thể của Đấng Khôn Ngoan Thần Linh trong cùng một ý định từ trước muôn đời. Vì thế, hai việc tiền định này gắn liền với nhau. 7 X. Học Viện Châu Sơn, Giáo Trình Thánh Mẫu Học, p. 44-46.
12
định. Theo ý nghĩa này, sự tiền định của Đức Kitô là kiểu mẫu cho sự tiền định của chúng ta.
Nó là kiểu mẫu như thế trước tiên về sự tốt mà chúng ta được tiền định tới. Đức Kitô đã được
tiền định để làm Con Thiên Chúa theo bản tính; phần chúng ta, chúng ta được tiền định là con,
do sự nhận làm nghĩa tử, vì sự làm nghĩa tử là sự tương tự được tham dự vào tư cách con cái tự
nhiên (x. Rm 8,29). Điều đó còn đích thực đối với thể cách đạt được sự tốt này, và sự tốt này đạt
được do ân sủng. Đó là điều rõ ràng nhất đối với Đức Kitô, bởi vì bản tính nhân loại đã được
phối hiệp với Con Thiên Chúa mà nó đã không có công đức nào trước. Về phần chúng ta, chúng
ta tất cả đã được lãnh nhận từ sự sung mãn ân sủng của Ngài (x. Ga 1,16).
Cuối cùng, Thánh Tôma xác định sự tiền định của Đức Kitô là nguyên nhân cho sự
tiền định của chúng ta. Ngài nói nếu chúng ta cứu xét sự tiền định chính trong hành động của
nó, sự tiền định của Đức Kitô không phải là nguyên nhân cho sự tiền định của chúng ta, bởi vì
do cũng một hành động duy nhất mà Thiên Chúa tiền định: Chúa Kitô và chúng ta. Trái lại,
nếu người ta cứu xét sự tiền định trong điểm tận cùng của nó, trong trường hợp này sự tiền
định của Đức Kitô thực sự là nguyên nhân cho sự tiền định của chúng ta, bởi vì Thiên Chúa
đã ấn định từ vĩnh cửu sự cứu rỗi chúng ta được hoàn thành do Đức Kitô. Quả thế, sự tiền
định vĩnh cửu sắp đặt không những cái gì được thực hiện trong thời gian, mà còn sắp đặt thể
cách và trật tự mà điều đó được thực hiện8.
Tóm lại, nói về Thiên Chúa tiền định trong Tân Ước, thánh Tôma cho chúng ta thấy
rằng Chúa Kitô đã được tiền đinh. Sự tiền định vĩnh cửu của Thiên Chúa. Tức là từ đời đời
Thiên Chúa đã định cho Ngôi Lời nhập thể, xuống thế làm người để chu toàn công trình cứu
chuộc, trong tư cách là con người, đã được tiền định làm Con Thiên Chúa, sự tiền định của
Chúa Kitô là nguyên nhân và là kiểu mẫu cho sự tiền định của chúng ta. Điều này chúng ta có
thể thấy qua ơn tiền định của Đức Trinh Nữ Maria. Đặc biệt về Đức Maria: từ muôn thuở Đức
Maria đã có trong tư tưởng của Chúa Cha. Cũng như Chúa Giêsu, Đức Maria cũng đã được
chuẩn bị từ trước, và được Thiên Chúa tiền định từ đời đời.
II. SỰ TIỀN ĐỊNH NƠI ĐỨC MARIA
1. Đức Maria Được Thiên Chúa Tiền Định Từ Đời Đời
Từ những gì đã trình bày ở trên cho chúng ta thấy rằng, trong Kinh Thánh, từ Cựu
Ước đến Tân Ước có nói đến quyết định từ đời đời của Thiên Chúa về Đức Kitô. Tức là từ đời
đời Thiên Chúa đã định cho Ngôi Lời nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và “từ muôn đời
Đức Maria đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa qua sự liên kết với việc nhập thể của Ngôi
Lời Thiên Chúa. Và theo chương trình của Chúa Quan Phòng, trên trần gian Ngài đã trở nên
Mẹ cao trọng của Đấng Cứu Chuộc thần linh..” (LG số 61).
8 X. Toma Aquino, Tổng Luận Thần Học,Quyển 3, Questio 24, Sự Tiền Định Của Chúa Kitô.13
Vì thế việc tiền định cho Đức Maria không thể tách rời việc tiền định Đức Kitô. Thiên
Chúa đã tiền định việc Ngôi Lời mặc lấy bản tính nhân loại cách cụ thể bởi Đức Maria:
“nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một
người đàn bà và sống dưới lề luật…”(Gl 4,4). Vậy đứng trên quan điểm Kinh Thánh, nói đến
một định lệnh : Con Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria là hoàn toàn chính
đáng và có nền tảng. Vì Đức Kitô mà Đức Maria đã được tiền định từ đời đời cùng với sứ
mệnh của Đức Kitô.
Về sựtiền định này nơi Đức Maria,trong sắc chỉ Ineffabilis Deus (Đấng khôn tả),
đức Pio IX nói như sau: “Vì thế trong thần vụ và cử hành thánh lễ, Giáo hội áp dụng cho
Đức Maria và nguồn gốc của Ngài, cũng như lời mà Kinh Thánh dùng để nói về khôn
ngoan bất tạo, và mô tả nguồn gốc và vĩnh cửu của Ngài, bởi vì chính do cùng một định
lệnh tiền định mà Thiên Chúa quyết định việc tạo dựng Đức Maria và việc Nhập Thể của
Đấng Khôn Ngoan thần linh”.
Đức Pio XII trong tông huấn Munnificentissimus Deus, 1950 đã nói: “Mẹ Thiên
Chúa đã được liên kết một cách mầu nhiệm vớiĐức Giêsu Kitô từ muôn thuở bởi cùng một
định lệnh tiền định”.
Như vậy cả hai vị Giáo hoàng cho thấy: Đức Maria đã được Thiên Chúa Cha trao ban
Con của Người là Đức Giêsu Kitô, cùng một định lệnh9.
Cũng trong tư tưởng này, trong hiến chế Lumen Gentium số 56 nói rằng: “ Chúa Cha
giàu lòng thương xót đã muốn sự ưng thuận của người Mẹ được tiền định này phải đi trước
việc nhập thể, để nếu như trước kia một người nữ đã góp phần vào sự chết thì nay một người
nữ cũng góp phần vào sự sống. Điều này thật đúng với Mẹ của Đức Giêsu, người đã đem đến
cho thế giới chính sự sống đổi mới mọi sự, và là người được Thiên Chúa ban cho những ân
huệ tương xứng với một vai trò cao cả như thế”.
Qua đoạn trích trên, công đồng Vaticano II cho thấy, ơn tiền định của Đức Maria là
đặc biệt, vì là đối tượng làm Mẹ Thiên Chúa. Sự tiền định được bao hàm trong sự tiền định
của Đức Kitô. Mỗi người chúng ta được tiền định một cách bình thường có đối tượng để
tham dự vào vinh quang nước trời. Đức Maria cũng được tiền định hưởng vinh quang nước
trời, nhưng vinh quang của Đức Maria và các đặc ân khác được bao hàm trong ơn tiền định
của Đức Kitô. Vinh quang của Đức Maria và phận vụ phải thi hành ở dưới đất cũng như sau
này ở trên trời: đó là ơn tiền định của Đức Maria, là thượng trí của Chúa Cha từ đời đời. Đối
với Đức Maria thì ơn tiền định này đặc biệt hơn hết, vì Ngài là tạo vật đầu tiên ở trong ý
định và tình thương của Chúa Cha sau Chúa Kitô. Và vì Đức Kitô mà Đức Maria không thể
tách rời ra khỏi Đức Kitô được.Cũng như quyết định nhập thể có tính nhưng không, thì sự
9 X. Học Viện Châu Sơn, Giáo Trình Thánh Mẫu Học, p. 44-51.14
tiền định của Đức Maria cũng là ơn nhưng không, nghĩa là trước những công nghiệp của
Đức Maria mà Thiên Chúa có thể dự kiến, hay là không phải vì nhìn đến những công nghiệp
riêng của Đức Maria mà Đức Maria đã đạt được mức độ tinh tuyền và thánh thiện do ân
sủng đã được ban cho ngài cách nhưng không, hầu trở nên Mẹ Thiên Chúa cách xứng hợp.
Như thế mới có thể nói Đức Maria tràn đầy ân sủng, nghĩa là toàn thể trật tự những người
được cứu chuộc được tiền định và đồng thời được đưa đến thành tựu cá nhân cao cả, hoàn
hảo nhất nơi Đức Maria10.
Tóm lại, việc Đức Maria được Thiên Chúa tiền định từ đời đời là do sáng kiến trong
trật tự cứu độ bắt nguồn từ Chúa Cha, là Đấng tạo dựng, vì từ đời đời do tình thương của
Người đã ấn định cách tự do, là kêu gọi những tạo vật nào hiện hữu. Lúc nào ban cho những
ân huệ nào, thì dự định này trước hết bao hàm việc Ngôi Lời Nhập Thể trở nên thủ lãnh toàn
thể vũ trụ, cũng bao hàm Đức Maria làm Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể. Và toàn thể đời sống Đức
Maria được cùng với Ngôi Lời hiện hữu. Việc hiện hữu của Đức Maria chiếm một vị trí hết
sức quan trọng trong lịch sử cứu độ, khiến người ta có lý do để mà trông đợi, khám phá ra
trong Cựu Ước từ những lời tiên báo hay ít ra là những hình bóng tiên trưng báo trước cho sự
hiện hữu của Mẹ.
2. Đức Maria Được Tiên Báo Trước Trong Cứu Ước
Như chúng ta đã nói ở trên rằng Đức Maria được Thiên Chúa tiền định từ đời đời; vì
được tiền định nên Đức Maria cũng được tiên báo trước trong Cựu Ước.
Việc Đức Maria được tiên báo trước trong Cựu Ước, công đồng Vaticano II khẳng định:
“Thánh kinh Cựu Ước cũng như Tân Ước, và Thánh truyền đáng kính, trình bầy ngày một sáng
tỏ hơn vai trò của Mẹ Đấng Cứu Thế trong nhiệm cục cứu độ và đưa vai trò ấy ra cho chúng ta
chiêm ngắm. Thật vậy, sách Cựu Ước thuật lại lịch sử cứu rỗi, trong đó Chúa Kitô xuất hiện
trên thế giới được chuẩn bị cách tiệm tiến. Các tài liệu tiên khởi này, như Hội Thánh vẫn đọc và
về sau hiểu theo ánh sáng mặc khải trọn vẹn, dần dần cho thấy rõ ràng hơn hình ảnh của người
nữ Mẹ Đấng Cứu Thế.
Theo nguồn ánh sáng mặc khải, người nữ ấy đã được tiên báo trong lời hứa chiến
thắng con rắn, lời hứa mà Tổ Tông đã nhận được sau khi phạm tội (x. St 3, 15). Cũng thế,
Ngài là Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh người Con Trai được đặt tên là Emmanuel (x. Is 7,14;
x. Ml 5, 2-3; Mt 1, 22-23). Ngài trổi vượt trong số các kẻ khiêm nhu và người nghèo của
Chúa, những người trông đợi và lãnh nhận ơn cứu độ từ nơi Chúa trong niềm tin tưởng
tín thác. Cuối cùng với người Thiếu Nữ Sion tuyệt vời, sau thời gian lâu dài mong đợi lời
hứa được thực hiện, thời giờ đã mãn và nhiệm cục đã được thiết lập, khi Con Thiên Chúa
10 X. Học Viện Châu Sơn, Giáo Trình Thánh Mẫu Học, p. 48-49.15
nhận lấy bản tính nhân loại từ Người Thiếu Nữ ấy để giải thoát con người khỏi tội lỗi nhờ
các mầu nhiệm nơi thân xác Chúa.”11
Cũng trong tư tưởng này, Sách Giáo Lý Công Giáo,số 489 trình bày rõ cho chúng ta
thấy việc Đức Maria được tiên báo trước trong Cựu Ước như thế nào, đồng thời cũng kể rõ
những phụ nữ tiên trưng trong cựu ước.
“Suốt thời Cựu Ước, sứ mạng của Đức Maria đã được chuẩn bị trước nơi vai trò của
các phụ nữ thánh thiện. Khởi đầu là bà Eva, dù bà bất tuân phục, nhưng bà đã nhận lấy lời hứa
rằng một hậu duệ của bà sẽ chiến thắng ma quỷ (x. St 3,15) và bà sẽ là mẹ chúng sinh (x. St
3,20). Do lời hứa đó, bà Sara, mặc dù đã cao niên, vẫn thụ thai một người con trai (x. St 18, 10-
14; 21, 1-2). Trái với mọi niềm hy vọng nhân loại, Thiên Chúa đã chọn những gì bị coi như bất
lực và yếu đuối (x. 1Cr 1, 27) để chứng tỏ Ngài luôn trung tín với lời Ngài đã hứa: bà Anna, mẹ
của tiên tri Samuel (x. 1Sm 1), bà Đebôra, bà Ruth, bà Juđitha, bà Esther và nhiều phụ nữ khác.
Đức Maria “trổi vượt giữa những người khiêm hạ và nghèo nàn của Chúa, những người hy
vọng và đón nhận ơn cứu độ từ nơi Ngài với lòng tin tưởng. Cuối cùng, sau sự trông đợi lâu dài
lời Chúa đã hứa, thời gian đã đến hồi viên mãn và một nhiệm cục mới đã bắt đầu, với Đức
Maria, Người Con Gái Sion cao trọng nhất ( LG 55)”.
Như vậy, từ hai nguồn tài liệu đáng tin cậy là hiến chế Lumen Guntium,số 55 và Sách
Giáo Lý Công Giáo, số 489 cho ta thấy khá nhiều hình ảnh tiên trưng về Đức Maria trong Cựu
Ước. Tuy nhiên,ở đây chúng ta chỉ có thể giải thích vắn gọn về một vài hình ảnh quan trọng, để
hiểu rõ hơn vềĐức Maria.
Hình Ảnh Eva Mới (St 3,15)
Các Giáo phụ thường hay ví Đức Maria với bà Eva mới: Đức Maria đươc đem ra đối
chiếu với bà Eva, dựa theo sự song đối giữa Chúa Giêsu với Adam trong thư của thánh Phaolô
(x. Rm 5, 12-18; 1Cr 15, 21-22.45). Cũng như tội và sự chết từ một người (Adam) mà lan tràn
ra cả nhân loại thế nào, thì ân sủng và sự sống cũng từ một người (Đức Kitô) mà trào ra cho
hết mọi người. Một cách tương tự một người đàn bà (Eva) đã đồng loã với Adamtrong tội, thì
một người đàn bà (Đức Maria) đã hợp tác với Đức Kitô trong ân sủng. Vì sự bất tuân của Eva
mà nhân loại phải khổ; nhờ sự tuân phục Đức Maria mà nhân loại được cứu.
Thế nhưng, bà Eva không phải chỉ tượng trưng cho tội lỗi. Eva theo nguyên ngữ
cũng còn là “mẹ của các sinh linh” (x. St 3, 16.20). Vì thế, nhiều giáo phụ cũng ví Đức
Maria như “Eva mới” vì là mẹ của dòng dõi những người được tái sinh trong Đức Kitô
từCây Thập Giá (x. Ga 19, 25-27).
11 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Công Đồng Vativanô II, Lumen Gentium số 55.16
Hơn thế nữa, Đức Maria còn được gọi là Eva mới vì lời tiên báo trong sách Sáng Thế
3, 15 được ứng nghiệm: cuộc giao tranh giữa con rắn với người nữ, giữa dòng dõi con rắn với
dòng dõi người nữ kết thúc với thắng lợi về phía người nữ: bà sẽ đạp đầu con rắn. Quả thật,
trong quá khứ, thần học công giáo đã sử dụng bản dịch Vulgata, và coi Đức Maria như sự thể
hiện của người phụ nữ đạp dập đầu con rắn. Ngày nay (kể cả bản dịch Neo-Vulgata), đa số
các nhà chú giải nhận rằng chủ từ của động từ đạp là “dòng giống” (ipsum conteret). Thế
nhưng phải hiểu thế nào về dòng giống: đó là một tập thể, hay một cá nhân xuất thân từ dòng
giống ấy, nghĩa là Đấng Thiên Sai.
Dù giải thích thế nào đi nữa, tác giả của sách Sáng Thế nhìn nhận cho người đàn bà
một vai trò trong cuộc giao tranh với con rắn. Người đàn bà không chỉ bị con rắn lừa;
nhưng bà đã phản ứng lại để giao tranh với con rắn. Từ đó, các giáo phụ và nhà thần học
muốn dành cho Đức Maria một vai trò trong sự chiến đấu với con rắn. Người Mẹ của
Đấng Thiên Sai cũng dự phần trong cuộc giao tranh và chiến thắng quỷ dữ. Dù sao thì
xem ra thánh Gioan đã muốn áp dụng hình ảnh của bà Eva cho Đức Maria khi gọi người là
“đàn bà” (người nữ: x. Ga 2, 4; 19, 26)12.
Hình Ảnh Trinh Nữ Sinh Con (Is 7, 14)
“Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: này đây “thiếu nữ”
mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel”. Đây là đoạn nói về “Đấng Messia”
nổi tiếng nhất của ngôn sứ Isaia. Theo cách giải thích, nhiều người công nhận “dấu” mà
Thiên Chúa ban chính là một người con sắp sinh ra. Người con này được sấm ngôn long
trọng thông báo là Emmanuel. Lời hứa Đấng Emmanuel được Tân Ước (Mt 1, 23 trích Is
7,14; Mt 4, 15-16 trích Is 8, 23-9,1) và các Kitô hữu đều xem đó như lời hứa cho việc hạ
sinh Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Như trong Mt 1, 23 chúng ta thấy Kitô Giáo đã áp dụng
vào cuộc hạ sinh Chúa Giêsu mà cộng đoàn xem là Đấng Messia; vì thế cũng áp dụng cho
việc “đồng trinh sinh hạ” vào Đức Maria13.
Hình Ảnh Thiếu Nữ Sion
Công đồng Vaticano II đã gọi Đức Maria là Thiếu Nữ Sion ưu tú (praecelsa Filia Sion:
LG 55): cô đọng tinh hoa thời Cựu Ước chờ mong thời cứu độ, nhóm người khiêm nhường
khó nghèo, trinh tuyền thánh thiện. Thực ra công đồng xác nhận đường hướng khảo cứu của
các nhà chú giải Thánh Kinh bắt đầu từ thế chiến thứ hai (thí dụ S. Lyonet). Họ đã nhận thấy
Luca áp dụng cho Đức Maria nhiều tư tưởng mà Kinh Thánh nói về “con gái Sion”, nghĩa là
tượng trưng cho dân Israel mong đợi Chúa Cứu Thế. Đức maria đã kết tụ những tinh hoa của
dân Chúa, nhất là thành phần mệnh danh là “những người nghèo”14. 12 X. Lm. Phan Tấn Thành, Vầng Trăng Tuyệt Vời, p. 62-64.13 X. Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Thánh Mẫu Học, 2005, p. 53-55.14 X. Lm. Phan Tấn Thành, Vầng Trăng Tuyệt Vời, p. 66-67
17
Thật vậy, nếu ta đọc Xp 3, 14-17 và so sánh với Lc 1, 28-31 là phần trình thuật về
truyền tin cho Đức Maria ta thấy có điểm tương đồng như sau: ngôn sứ Xôphônia tuyên sấm:
“mừng vui lên hỡi thiếu nữ sion. Đức vua của Israel đang ngự giữa ngươi” (Xp 3, 14-15).
Mà, theo thánh Luca thì, khi vào nhà Đức Maria, thần sứ Gapriel nói: “kính chào Bà, Bà đầy
ơn sủng” (Lc 1,28). Muốn sát chữ phải dịch là: “mừng vui lên, hỡi Bà đầy ân sủng, Thiên
Chúa ở cùng Bà”. Vì thế, Đức Maria, Đấng đầy ơn sủng là Thiếu Nữ Sion vậy, người là Thiếu
Nữ Sion đúng nghĩa.
Tóm lại, từ những nhân vật vừa nêu trên nói lên khía cạnh tốt đẹp của Israel và Giuđa,
và chắc chắn những nhân vật này gắn liền với hình ảnh Mẹ của Đấng Messia, người đem lại ơn
cứu độ toàn vẹn và chung quyết cho những người Israel tín trung. Qua đó các thánh ký Phúc
Âm cũng ám chỉ về những nhân vật này là biểu tượng tiên trưng mỗi khi nói vềĐức Maria, Mẹ
Đức Giêsu Kitô,người mà luôn luôn có trong kế của Thiên Chúa.
3. Đức Maria Trong Kế Hoạch Của Thiên Chúa
Truyền thống Giáo hội luôn cho thấy Đức Maria có vai trò quan trọng trong kế hoạch
cứu độ của Thiên Chúa. Đó là “kế hoạch yêu thương” (x. Ep 1,9), kế hoạch này là một “ân sủng
được trao ban từ muôn thuở” (x. 2Tm 1, 9-10) xuất phát trực tiếp từ tình thương Ba Ngôi. Công
trình này được trải ra trong công cuộc sáng tạo, trong toàn bộ lịch sử cứu độ sau khi nguyên tổ
sa ngã, trong sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh thần mà Hội Thánh tiếp nối.
Trong kế hoạch ấy, tất cả chúng ta đều biết: Tổ Tông loài người đã dùng tự do của
mình để bất tuân lệnh Thiên Chúa và hất Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình. Thiên Chúa
có thể để mặc kệ nhân loại sống trong tình trạng mà họ đã trọn lựa, nghĩa là ngàn đời họ sẽ
không được Đấng Tạo Hoá ở với họ. Họ phải giải quyết lấy một mình những gì là đau khổ,
những gì là khắc khoải phi lý của cuộc đời. Nhưng Thiên Chúa đã không hành động như thế,
ngay sau khi con người khước từ Thiên Chúa, thì Người đã loan báo một chương trình, hay
một kế hoạch cứu vãn họ khỏi thảm trạng ấy. Người nhất định cho họ được hưởng hạnh phúc
mà Người đã ban cho họ trước khi họ khước từ Người. Đây là chương trình tình thương của
Thiên Chúa. Thiên Chúa nhất định thi hành tình thương này.
Sau một thời gian dài dùng các sứ giả trần gian để chuẩn bị cho chương trình này, thì
Thiên Chúa quyết định gửi một sứ giả đặc biệt, có khả năng nói lên ý định của Người. Sứ giả
đặc biệt đấy chính là Con của Thiên Chúa. Việc cho con mình xuống chung sống với loài
người là một quyết định cuối cùng, chung kết tất cả trong chương trình cứu chuộc. Và trong
muôn ngàn cách giáng trần, Thiên Chúa đã chọn cách “sinh ra từ một trinh nữ”.Đức Maria đã
được Thiên Chúa tuyển chọn giữa muôn vàn người thế để đảm nhận trách nhiệm cộng tác vào
việc Thiên Chúa giáng trần. 18
Trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đức Maria được mời gọi cộng tác vào nhiệm cục cứu
độ và người đã nhận lời. Qua người mà nhân loại sẽ đón nhận Thiên Chúa đích thân xuống
trần để nói cho họ biết những gì Thiên Chúa muốn cho họ hay, sẽ mặc khải cho họ những
điều chưa biết về Người, về tình thương của Người15.
Đối với Đức Maria, làm Mẹ Đức Kitô là một đặc ân, nhưng trước hết là một chức phận
để phục vụ công trình cứu độ. Chính vì thế mà Đức Maria xưng mình là nữ tỳ, là tôi trung của
Chúa. Nhờ nhập thể trong lòng Đức Maria, Đức Giêsu Kitô mới làm người và, từ đó, Người
vừa là tư tế, vừa là lễ tế. Mà muốn làm tư tế, thì phải là người phàm: tác giả Do thái viết:
“Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm và được đặt lên làm đại diện
loài người để dâng lễ phẩm cũng như lễ vật đền tội” (Dt 5,1). Vì thế, Thiên Chúa mời Đức
Maria cộng tác vào công trình của Đức Kitô, bắt đầu bằng việc ban cho Đức Kitô sự hiện hữu
của người phàm16.Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đúc kết nhiệm cục cứu độ để đưa đến vai
trò của Mẹ Maria như sau “chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì
Ngài đã chúc phúc cho chúng ta bằng tất cả mọi phúc lành linh thiêng trên trời trong Đức
Kitô” (Ep 1,3). Những lời thư Ephêsô đã tiết lộ kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa Cha,
chương trình cứu độ loài người trong Đức Kitô. Đó là chương trình phổ thể dành cho tất cả
loài người được sáng tạo theo hình ảnh giống như Thiên Chúa (x. St 1,26).
Theo huấn giáo trong thư trên và các thư khác của thánh Phaolô (Cl 1, 1-14; Rm 3, 24;
Gl 3, 1-3; 2Cr 5, 18-29), kế hoạch ấy được liên kết với Đức Kitô từ muôn thuở. Kế hoạch ấy
bao gồm toàn thể nhân loại, như dành riêng một chỗ cho người “phụ nữ” là Thánh Mẫu được
Chúa Cha uỷ thác trong công trình cứu độ.
Trong chương trình cứu độ, Thiên Chúa muốn cho Đức Maria được kết hợp trọn vẹn
vào cuộc sống diễm phúc của Người. Trong biến cố truyền tin, Đức Maria đã cộng tác trong
việc tạo thành Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc. Chẳng những người tạo thành thân xác của Đức
Kitô, mà người còn đồng ý về kế hoạch của Thiên Chúa với tất cả lòng tin cậy mến vô điều
kiện. Chẳng những người chấp nhận sinh hạ một Người Con Trai (Lc 1,30), mà người còn
chấp nhận sinh hạ một Đấng Cứu Độ và sống chết với Đấng Cứu Độ ấy17.
Tóm lại, theo ý định từ đời đời của Thiên Chúa, thì Con Một Ngài sẽ xuống trần gian
làm người để cứu chuộc nhân loại. Cũng theo kế hoạch ấy, thì người Con Một đó sẽ đầu thai
làm người trong lòng một Trinh Nữ, người Trinh Nữ ấy chính là Đức Maria. Đây là một biến
cố vô cùng quan trọng, một sự kiện cực kỳ trọng đại mà chúng ta gọi là mầu nhiệm truyền tin.
Biến cố truyền tin là một kế hoạch thập toàn thập mỹ của Thiên Chúa dành cho Đức Maria, và
qua lời truyền tin này, Đức Maria chấp nhận mang trong mình một sứ mệnh hết sức đặc biệt.15 X. Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP, Chia Sẻ Về Đức Maria, Nxb. Phương Đông, 2010, p. 100-103.16 X. Lm. Taqnila Hoàng Đắc Ánh, Thần Học Về Đức Maria, Nxb Tôn Giáo, 2008, p. 94-96.17 Ibid, p. 95
19
4. Đức Maria Với Sứ Mệnh Đặc Biệt
Có thểnói một trong những sứ mệnh đặc biệt nhất trong cuộc đời Đức Maria làviệc
cưu mang Đức Giêsu và sinh hạ Đấng Cứu Thế. Trong sự kiện này, đức Gioan Phaolô nói như
sau: đây là giây phút quyết định nhất trong chương trình cứu chuộc nhân loại.
Trước tiên Thiên Chúa công bố tỏ tường, thời điểm thực hiện lời hứa từ ngàn xưa. Đây
là thời gian viên mãn cho cuộc chờ đợi và cũng bắt đầu giây phút Thiên Chúa ở cùng chúng
ta; Thiên Chúa tha thứ cho loài người. Đây là phúc lành ban xuống cho tất cả mọi người trong
Đức Kitô và nhờ Đức Kitô trong lịch sử loài người cho đến tận cùng thời gian. Thiên Chúa
muốn sự cộng tác của thọ tạo trong công trình cứu chuộc của Người. Và con người đầu tiên
được tuyển chọn để cộng tác vào chương trình này là Đức Maria. Qua sự kiện truyền tin,
chúng ta được thấy sự tuyển chọn của Thiên Chúa nơi Đức Trinh Nữ Maria. Sự tuyển chọn từ
muôn thuở và việc giữ gìn trong ân sủng: “hỡi Đấng đầy ơn phúc”. Qua tiếng “thưa vâng” của
Đức Maria, Mẹ được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế và chương trình nhập thể bắt đầu. Từ khời
điểm đó, Đức Maria dứt khoát đón nhận một sứ mệnh đặc biệt trong huyền nhiệm Đức Kitô
giáng thế qua biến cố truyền tin (RM 8)18.
Thật vậy, trên quan điểm thần học và mặc khải, ý niệm chủ yếu của thánh mẫu học
nằm trong chức làm Mẹ của Đức Maria. Cũng vậy, trong viễn tượng lịch sử cứu độ được
nằm trong chính yếu tố truyền tin, nghĩa là trong sự kiện Đức Maria được kêu gọi làm Mẹ
Đức Kitô, mà chúng ta được nhìn thấy trong biến cố trung tâm và sứ mạng của Ngài.
Trong biến cố này, Đức Maria biết được việc Thiên Chúa tuyển trọn và trao sứ mạng cho
Ngài qua sứ điệp của thiên sứ được diễn tả trong Luca 1, 26-38. Biến cố loại này không
phải là hoạ hiếm trong Kinh thánh. Chẳng hạn, trong St 18, 15; 16,7; 22,11; Lc 1,5-25;
2,8-16; Mt 1,20; 2, 13; 2,19; 18,5 đã thuật lại. Chúng ta nêu ra những trường hợp trên để
dẫn chứng và một cách để minh chứng cho sự kiện truyền tin của Đức Trinh Nữ Maria.
Trong những trường hợp trên là cách sứ thần loan báo về một hành động của Thiên Chúa,
đặt con người trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Cũng trong biến cố này, Đức Maria bỗng nhiên có sự can thiệp của ý định cứu độ của
Thiên Chúa bằng một định lệnh, tạo nên chóp đỉnh và sự hoàn tất, nhắm đến việc nhập thể của
Đấng Messia qua việc làm Mẹ Đấng Messia.
Vậy trong đời sống Đức Maria, thì việc truyền tin trước hết là một mặc khải trong
Kinh Thánh, cho ta biết chính vào giây phút đó mà ơn tiền định và vị trí của Đức Maria trong
lịch sử cứu độ được tỏ bày cho Ngài trong suốt đời sống. Trước đó,Đức Maria, khuôn mẫu
hoàn hảo của sự tuyển chọn trong lịch sử cứu độ, có lẽ đã không biết vị trí của mình trong
18 X. Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Thánh Mẫu Học, 2005, p. 157-161.20
chương trình của Thiên Chúa. Nhưng hành động của Thiên Chúa không vượt lên trên Đức
Maria, xem Ngài như một dụng cụ bất động. Cũng như Abraham, Đức Maria được nâng lên
hàng một người đối thoại với Thiên Chúa, và do đó trở nên một trong lịch sử cứu độ19.
Cũng trong mầu nhiệm yêu thương của Người, Thiên Chúa chọn Mẹ Maria làm
phương thế để ban mình cho nhân loại. Từ thiên cung vô cùng cao thẳm, Thiên Chúa hạ cố
đồng cư với nhân loại, muốn chuyện vãn với các tôi tớ của Người, muốn cùng sống với
thọ tạo tội lỗi của Người. “Người đến không phải để cứu vớt thiên thần, nhưng để cứu vớt
dòng dõi Abraham” (Dt 2, 16). Như người khổng lồ đi đôi hia vạn dặm, Chúa vượt qua
các phẩm Thiên Thần như băng qua các rặng núi đồi (x. Dc 2,8) đi tìm kiếm bản tính nhân
loại mỏng giòn, coi thường án lệ sự chết, và nhờ Đức Maria kết hợp với loài người cả xác
và hồn, để chúng ta được hiệp thông với Người (x. 1Ga 1,3). Do đó, Mẹ Maria là mối dây
liên kết chúng ta với Chúa, vì Mẹ là phương thế, là đường lối để Chúa đến cùng chúng ta
trong mầu nhiệm nhập thể, và vì Mẹ đã được tiền định cùng với Đức Kitô trong chương
trình phục hồi nhân loại20.
Như vậy, chúng ta thấy, trọng tâm của chương trình cứu độ loài người chính là sự kiện
Đức Giêsu nhập thể giáng trần. Việc Chúa làm người không phải sự kiện đột biến, nhưng là
sự kiện có ý sắp sếp rõ ràng, có một sự chuẩn bị trong lịch sử. Đó là một quá trình dài để
chuẩn bị cho nhân loại, từ xã hội, tâm lý cho đến con người. Trong cuộc chuẩn bị đó, ngoài
Thiên Chúa là Đấng chủ động công cuộc cứu rỗi, ngoài Ngôi Lời là Đấng thực hiện ý định
của Cha, thì về phía loài người, do ân huệ của Thiên Chúa, có thể nói, trọng tâm của cuộc
chuẩn bị là Mẹ Maria. Mọi cuộc chuẩn bị từ xa đến gần đều tạo cho chức năng này được thể
hiện trọn vẹn và phát huy thật tốt bên cạch Chúa Giêsu. Nói chung, tất cả những điều này cho
thấy kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa có tính cách vĩnh cửu. Kế hoạch được mặc khải đầy đủ
cho chúng ta qua việc Đức Kitô ngự đến.
Trong hiến chế Lumen Gentium, thánh công đồng Vaticano II viết : theo ý định của
Chúa quan phòng, Đức Trinh Nữ đã nên người Mẹ cao trọng của Đấng Cứu Chuộc Thần Linh
trên trần gian, là cộng sự viên quảng đại đặc biệt hơn mọi người và là nữ tỳ khiêm hạ của
Chúa. Khi cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Đức Kitô, cũng như khi dâng Người lên Chúa
Cha trong đền Thánh và cùng đau khổ với Con mình chịu chết trên thập giá, Mẹ đã cộng tác
theo một cách thức hoàn toàn đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu Thế (x. LG số 61).
Tóm lại, như đức Pio XII nói: Đức Maria đã thể hiện cách trọn hảo sứ mệnh đặc biệt
của Thiên Chúa. Trong đức tin, Đức Maria đón nhận lời sứ thần Gabriel truyền tin cho Mẹ, và
Mẹ đã tỏ lòng quy phục sứ mệnh ấy với lời thưa “xin vâng”. Đó là giây phút trang trọng chiếu
19 X. Học Viện Châu Sơn, Giáo Trình Thánh Mẫu Học, p. 121-123.20 X. Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, tập I, p 161-164.
21
sáng thân thế và sứ mệnh của Mẹ21. Kể từ lúc đó Mẹ Maria là người được cho là diễm phúc
nhất trong hàng phụ nữ. Vậy Mẹ được những ơn phúc gì? Những ơn phúc đó cụ thể là những
ơn nào mà ngoài Mẹ ra không có người phụ nữ nào có được diễm phúc đó. Để trả lời cho câu
hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu phần tiếp theo về ơn tiền định nơiĐức Maria.
III. ƠN TIỀN ĐỊNH NƠI ĐỨC MARIA
1. Ơn Làm Mẹ Thiên Chúa
Đọc trong Kinh Thánh chúng ta biết rằng, MẹMaria là người diễm phúc nhất trong
hàng phụ nữ. Vì Mẹ được Thiên Chúa đoái thương tuyển chọn làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu
Thế. Chúng ta biết rằng, ngay từ thưở đời đời, Thiên Chúa đã dành cho Mẹ một địa vị cao
trọng bậc nhất ngay sau Đấng Cứu Thế, trong công trình khai sáng vũ trụ với ý định cho
Ngôi Hai giáng thế cứu chuộc nhân loại. Đó là ơn tiền định Thiên Chúa đã dành cho Mẹ.Ơn
này đã được ngôn sứ Isaia tiên báo trong cựu ước: “này trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con, và
bà sẽ gọi tên Con là Emmanuel” (Is 7, 14). Còn trong Tân Ước, tác giả thánh Mattheu viết:
Maria, Mẹ Ngài…Bà đã có thai do tự Thánh Thần…Bà sẽ sinh Con Trai, và ông sẽ đặt tên
là Giêsu (x. Mt 1, 18). Cũng vậy, thánh Luca viết: này nơi lòng dạ, Tôn Nương sẽ thụ thai
và sinh Con Trai, và Tôn Nương sẽ gọi tên Ngài là Giêsu (x. Lc 1, 31). Trong thư Galat,
thánh Phaolô trực tiếp nói về Đức Maria: “Con Thiên Chúa được sai đến và sinh bởi Người
Nữ” (Gl 4, 4). Thiên Chúa sai Thánh Linh Con Chúa đến trong lòng chúng ta, để chúng ta
có thể gọi Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta không còn là nô lệ, nhưng là con, là thừa kế của
Ngài. Thánh Phaolô cho chúng ta thấy rõ chương trình cứu rỗi của Chúa nhờ Mẹ Maria là
Mẹ Đấng Cứu Thế (Gl 4, 4-7)22.
Về ơn tiền định làm Mẹ Thiên Chúa nơi Đức Maria các thánh giáo phụ nói như sau:
thánh Bênađinô nói: theo lời tuyên bố của thiên thần, Mẹ Maria được đầy ơn như thế để Mẹ
xứng đáng trở thành Mẹ Thiên Chúa23.
Thánh Irênê nói: “Các tiên tri loan báo Emmanuel sinh bởi Trinh Nữ, diễn tảThiên
Chúa hợp với thụ tạo của người. Vì Ngôi Lời nhập thể, Con của Thiên Chúa sẽ làm con của loài
người, trong sạch mở cung lòng trong sạch làm cho loài người được sống trong Thiên Chúa”24.
Thành Grêgôriô Nyssa nói: “Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, bởi ý muốn của Thiên Chúa và
ân sủng của Thánh Linh, đã sinh ra Đấng Tạo Hoá của các thế hệ, là Ngôi Lời Thiên Chúa”25.
21 X. Enseignement Pontifical Notre – Dame (EPND), Huấn từ tại đền Thánh Phêrô, 1 -11- 1954, p. 416.22 X. Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, tập I, p 76-77.23 Trích dẫn trong Mary, Mother of God, Pustet, 1921.24 Trích lại trong Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, tập I, p 78.25 Ibid, p. 79.
22
Thánh Cyrillô Alexandria nói: “Thánh Athanasio luôn gọi Đức Maria là Mẹ Thiên
Chúa. Nhiều giám mục thời đó như Basilio, Gregorio, không sợ gọi Mẹ Maria là Mẹ Thiên
Chúa, vì Emmanuel là Thiên Chúa”26.
Thánh Đamascenô: “Người Con này là Thiên Chúa. Vậy người Mẹ sinh ra Thiên Chúa
sao không phải là Mẹ Thiên Chúa”?27
Cũng như lời các thánh đã nói ở trên, Huấn giáo của Giáo Hội cũng nói về ơn làm Mẹ
Thiên Chúa như sau: Đức Lêo XIII nói: “Giáo hội Công giáo luôn đặt tất cả niềm hy vọng tín
thác nơi Mẹ Thiên Chúa. Mẹ có thế lực và được sủng ái nơi Con của Mẹ, mà loài người và
thiên thần không bao giờ có được”28.
Đức Piô XI nói: “Nếu Con của Thánh Trinh Nữ Maria là Thiên Chúa, thì Đấng đã
sinh ra người đáng được quyền gọi là “Mẹ Thiên Chúa”. Nếu ngôi vị của Chúa Kitô là một
và là Thiên Chúa, thì không còn gì hồ nghi rằng mọi người phải gọi Mẹ Maria không những
là Mẹ Chúa Kitô mà còn là Mẹ Thiên Chúa”29.
Với tước hiệu Mẹ Thiên Chúa, chắc chắn đó là một đặc ân vô cùng cao quý không một
ai trên thế gian này diễm phúc như Mẹ. Vâng,lời bà Elisabeth là một xác nhận rõ ràng Maria
thật có phúc: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm tôi” (Lc 1, 49). Diễm phúc ấy quả là
một ân thưởng lớn lao, quý giá, Thiên Chúa tặng ban cho Mẹ Maria: “Phúc cho lòng dạ đã cứu
mang Con Thiên Chúa” (Lc 11, 28). Thánh Tôma quả quyết: Chức Mẹ Thiên Chúa là một chức
vô cùng cao cả, loài người chẳng tìm chức nào trọng hơn. Thiên Chúa dù toàn năng cũng không
thể dựng nên chức nào trọng hơn chức ấy.Thế nhưng, với tước hiệu này vào thế kỷ thứ V đã gặp
khó khăn khi giáo chủ Nestôriô chống đối, nhưng công đồng Êphêsô (431) với quyền chủ toạ
của thánh Syrillô, tuyên bố cất chức giáo chủ củaNestôriô và đánh đổ lạc thuyết của ông. Công
đồng Êphêsô đã tuyên xưng: “Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa, bởi vì người cũng đã
thực sự sinh ra Đấng Thiên Chúa làm người…ai nói ngược lại thì bị tuyệt thông”30. Tín điều
này được công đồng Chalcédoine (451) nhắc lại: định tín“Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa”
(Théotokos)31. Sau này công đồng Vaticano II cũng đã khẳng định: “Đức Maria là Mẹ thật của
Thiên Chúa và của Đấng Cứu Thế” và nói lên nhiệm vụ danh dự của Mẹ được làm “Mẹ Con
Thiên Chúa” (LG 53).
Ơn làm Mẹ Thiên Chúa,sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 466 - 467, nhắc đến
Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa khi nhắc lại ý tưởng của công đồng Êphêsô 431 và của công đồng
26 Ibid, p. 80. 27Oratio prima de Virginis Mariae Nativitate, 4, P. g. XCVI, 667.28EPND Thông điệpsupremi Apostolatus, 1-9-1883, p. 78.29EPND Thông điệp Lux Veritatis, 23-12-1931. P. 202.30 X. Bernard Sesboué Joseph Wolinsky, Lich Sử Tín Điều, Lm. Lê Văn Chính chuyển ý, 2006, p. 253-258.31 Ibid, p. 258-269.
23
Chalcédoine 45132. Cũng trong sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo,số 495 viết: “Hội Thánh
tuyên xưng Đức Maria thực sự là Mẹ Thiên Chúa” (Théotokos)33.
Tóm lại, Đức Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn cách hết sức đặc biệt, nên Mẹ được
những ơn cao quý nhất mà nhân loại không ai có được. Mẹ xứng đáng mang tước hiệu Mẹ Thiên
Chúa. Để xứng đáng là Mẹ sinh ra Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ những đặc ân khác
như: ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, ơn Trọn Đời Đồng Trinh và ơn Hồn Xác Lên Trời.
2. Ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội
Nếu Đức Maria là Theotokos như trên đã nói, làMẹ Thiên Chúa, thì Mẹ phải là Đấng
toàn thánh như Origène đã gọi Mẹ là Đấng “toàn thánh – panagia, tata sancta”. “Sự toàn
thánh của Mẹ bắt nguồn từ ơn cứu độ của Chúa Kitô, con của Mẹ”34.Thật vậy, ngay từ khi
tượng thai trong lòng mẹ (là bà Anna) Thánh Mẫu đã được gìn giữ khỏi Tội Tổ Tông và được
đầy tràn thánh sủng. Đó là ơn vô nhiễm nguyên tội, một tín điều đã được đức giáo hoàng Piô
IX công bố ngày 08 – 12 – 1854. Vì nguyên tắc chung là: Chúa đã đặt ai lên chức vụ nào thì
cũng ban đủ ân sủng cần thiết thích hợp cho chức vụ ấy. Điều này chúng ta nhận thấy trong
câu 33, 19 trong sách Xuất Hành : "Ta thương ai thì thương, xót ai thì xót". (Xh 33, 19)
Như thế, Đức Maria là lời công bố sống động và cụ thể rằng, ngay từ khởi thủy đã có
ân sủng trong các mối quan hệ giữa Thiên Chúa và thụ tạo của Người. Ân sủng là mảnh đất,
là nơi chốn thụ tạo có thể gặp được Ðấng dựng nên mình. Theo các thánh giáo phụ Bà là
người "Phụ nữ" sinh ra Đấng Cứu Thế (x. St 3:15). Bà là Evà mới đem đến sự sống cho nhân
loại, thay cho Evà cũ đã đem đến cái chết cho chính mình và cho nhân loại. Tin mừng Luca
(1:28) thiên thần Garbriel chào Bà:"Đấng Đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà".Tiếp đến, bà
Elizabet được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng:"Em được chúc phúc hơn mọi người
phụ nữ..." (Lc 1:42). Bởi quyền năng của Thiên Chúa, Đức Mẹ được ban một ân sủng đặc
biệt: Vô Nhiễm Nguyên Tội để làm Mẹ Thiên Chúa, nghĩa là Bà được ơn Vô Nhiễm ngay từ
giây phút Bà đậu thai trong cung lòng Mẹ mình là thánh Anna. Hay nói đúng hơn ngay từ
khởi thuỷ Đức Maria đã được Thiên Chúa tiền định cho ơn ấy. Sách Giáo lý Hội thánh Công
Giáo viết: "Đức Trinh Nữ Diễm Phúc Maria, đã được gìn giữ khỏi mọi tỳ ố nguyên tội ngay từ
lúc tượng thai, do ân sủng và tình thương đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công
32 X. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, số 466- 467.33 Ibid, số 495, 34 Trích lại trong Lm Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O.C, Thánh Mẫu Học, 2017, p. 192.
24
nghiệp của đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ loài người… Nhờ ân sủng của Thiên Chúa, Đức
Maria suốt đời vẫn tinh tuyền không hề phạm tội riêng nào".35
Thật vậy, khi nói vềơn vô nhiễm nguyên tội nơi Đức Maria, ngày 8 – 12 – 1854, tại
đền Thánh Phêrô, trước mặt 54 Hồng y, 42 Tổng Giám mục, 92 Giám mục, 300 các viên chức
sắc gồm cả ngoại giao đoàn, cùng với chừng 500000 ngàn linh mục, tu sĩ và giáo dân từ nhiều
quốc gia, đức Pio IX trịnh trọng tuyên bố thông điệp bất hủ “Inneffabilis Deus”, và với một
giọng cương quyết oai nghiêm, ngài tuyên tín: “Do uy quyền của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng
ta, cả hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và cả riêng Ta, Ta xác nhận, tuyên ngôn và định
tín rằng: Rất Thánh Trinh Nữ Maria ngay từ phút đầu thai đã được gìn giữ Vô Nhiễm khỏi
mọi vết nhơ nguyên tội, do đặc ân của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công nghiệp của Chúa
Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc nhân thế. Tín lý này đã được Thiên Chúa mặc khải. Do vậy, tất
cả mọi tín hữu phải tin kiên vững”36. Vì vậy, việc tôn sùng Đức Maria như là Đấng Vô Nhiễm
Nguyên Tội đưa đến một nhận định: Mẹ như “Người được cứu rỗi tiên khởi” được Chúa kêu
gọi nhằm phục vụ cho ơn cứu chuộc, Mẹ phân biệt với chính người Con của Mẹ không phải
bởi thứ bậc, nhưng bởi bản thể, đời sống và số mệnh của Người Con là điều kiện của sự tồn
tại đức tin của Đức Mẹ”37.
Sau bốn năm, kể từ ngày đức giáo hoàngPiô IX định tín, tín điều Đức Maria Vô Nhiễm
Nguyên Tội năm 1858, Đức Mẹ hiện ra với Thánh Bernađetta tại Lộ Đức nước Pháp. Mẹ xưng
mình “Ta Là Đấng Vô Nhiễm Thai” để xác nhận điều tuyên tín của Đức Piô IX38.
Về ý nghĩa phụng vụ: “Giáo hội long trọng mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm để cảm tạ Chúa Ba
Ngôi rất thánh đã tiền định tuyển chọn Mẹ với một đặc ân lạ lùng, chuẩn bị cho phẩm chức
và sứ mạng của Mẹ, đồng thời để ngợi khen chúc tụng Mẹ cao sang hơn mọi bậc thần thánh
và toàn thể loài người”39.
Xác tín về điều này, các thánh nhân nói như sau: thánh Irênê: “Thiên Chúa hoàn toàn
trong sạch phải xuất thân từ sự trinh trong nhất, từ trái tim trinh vẹn nhất”40.
Thánh Ambrôsiô: “Mẹ Maria là một Trinh Nữ không bị hư hỏng, một Trinh Nữ nhờ ơn
phúc được thoát mọi vết nhơ tội lỗi”41.
35 X. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, số 491.36Ineffabilis Deus, Unger transl. p. 21; Bourassé, vol. 7, col. 639.37 x. http://muoiman.net/index.php/vi/news/AVE-MARIA/Duc-Maria-vo-nhiem-Nguyen-toi-Immaculata-1199/38 Cf. New Catholic Encyclopedia, McGraw – Hill Co. (NCE), vol. XIII, P. 446-447.39 Trích lại trong Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, tập I, p. 15.40 Ibid, p. 20.41 Ibid, p. 20.
25
Thánh Augustinô: “Chúng ta có thể biết thế nào được ơn phúc lớn lao đã ban xuống
trên Mẹ để Mẹ hoàn toàn chiến thắng tội lỗi, khi Mẹ xứng đáng được chịu thai Đấng vô tội?”42.
Thánh Anselmô: “Rất xứng hợp là Mẹ được mặc lấy sự trinh trong, đến nỗi không ai
cao cả, lộng lẫy hơn dưới Thiên Chúa”43.
Thánh Anphong: “Mẹ Maria khỏi mắc lây tội tổ tông truyền là rất thích hợp quyền năng
của Chúa Cha, vì Maria là Nữ Tử ưu ái của Cha, hợp với quyền năng của Chúa Con vì Maria Mẹ
chí ái của con, hợp với quyền năng của thánh linh, vì Maria là Mẹ dấu yêu của Chúa”44.
Cùng nói về ơn vô nhiễm nguyên tội, giáo huấn của Giáo Hội nói như sau: đức thánh
cha Piô IXnói: “Mẹ luôn rực rỡ thánh thiện hoàn hảo nhất, Mẹ hoàn toàn được miễn trừ khỏi
vết nhơ tội tổ, và Mẹ toàn thắng con mãng xà”45.
Đức thánh cha Piô X nói: “Trước khi mặc bản tính loài người, Chúa Kitô đã ban cho
Mẹ mọi ân sủng và đặc ân miễn nhiễm mọi ôn dịch tội lỗi lúc đấu thai”46.
Đức thánh cha Gioan Phaolô II: Đặc ân vô nhiễm thai chứng tỏ một cách vô song và
tuyệt vời trung tâm xác thực và sứvụ cứu rỗi đại đồng của Chúa Kitô. Từ phẩm chức Thiên Mẫu
xuất phát tất cả mọi ơn phúc và được ban cho rất Thánh Trinh Nữ Maria, mà ơn đầu tiên là đặc
ân vô nhiễm (14-12-1982).
Công đồng Vatican II cũng xác quyết rằng: “Mẹ đem đến cho thế giới chính nguồn sống
cải tạo mọi sự, nên đã được Chúa ban cho nhiều ơn cân xứng với một vai trò cao cả như thế.
Do đó, không lạ gì khi các thánh giáo phụ đã thường ca tụng Mẹ Thiên Chúa là Đấng Thánh,
không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành,
tràn đầy thánh thiện có một không hai ngay từ lúc mới được thụ thai”47.
Sách Giáo Lý Công Giáo viết về Mẹ như sau: Sự thánh thiện sáng ngời và tuyệt đối độc
nhất này đã được ban cho Mẹ từ lúc khởi đầu được thụ thai đã hoàn toàn do Chúa Kitô: Mẹ đã
được cứu chuộc một cách tuyệt vời nhờ vào các công nghiệp của Con Mẹ. Hơn bất cứ tạo vật
nào khác, Mẹ đã được Chúa Cha chúc phúc bằng tất cả mọi thứ phúc lành thiêng liêng trên trời
trong Chúa Kitô (Ep 1,3). Trong Chúa Kitô, từ trước khi tạo thành trời đất, Thiên Chúa đã kén
chọn Mẹ là người thánh thiện và vô nhiễm trước mặt Người trong tình yêu (Ep 1,4).48
42 Ibid, p. 21.43 Ibid, p. 21.44 Thánh Anphong, VQĐM, tập 2, p. 11-12.45 Thông điệp Ineffabilis Deus, 8-12-1984, EPND, p. 42.46 Thông điệp Ad diem illum, 2-2-1904, EPND, p. 153.47 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Công Đồng Vativanô II, Lumen Gentium, số 56. 48 X. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, số 492.
26
Tóm lại, đối với việc cứu chuộc nhân loại, vai trò của Đức Maria quả là độc đáo,
cho nên không có gì là ngạc nhiên khi thấy Mẹ được cứu chuộc cũng thật độc đáo. Không
phải Mẹ đã được giải thoát khỏi tộiđã phạm, cũng chẳng phải Mẹ đã được tẩy sạch khỏi
tội đã bị lây nhiễm; nhưng là Mẹ đã được gìn giữ cho khỏi tội, Mẹ đã được ngăn ngừa
khỏi tội lây nhiễm của tội tổ tông ngay từ giây phút đầu tiên khi Mẹ được hình thành trong
bụng Mẹ mình. Đức Maria đã được thụ thai tinh tuyền trong bụng Mẹ, không vướng mắc
tội lỗi và được tràn đầy ân sủng của Đức Kitô nhờ công nghiệp đã được dự liệu do cuộc
khổ nạn và cái chết của Ngài.
3. Ơn Trọn Đời Đồng Trinh
Đức Maria trọn đời đồng trinh, là một đặc ân mà Thiên Chúa dành cho mẹ. Đặc ân này
được Giáo hội công nhận ngay từ lúc khởi đầu trong Kinh tin kính. Trong kinh này, tín điều
về chức làm Mẹ Thiên Chúa được nêu lên trong câu: “Sinh Bởi Trinh Nữ Maria” (ex Maria
virgine)49. Khi đọc câu này, Giáo hội luôn tin rằng Đức Maria đã giữ mình đồng trinh trọn
đời, nghĩa là: đồng trinh trước khi sinh, trong khi sinh và sau khi sinh (anté partum, in partu et
perpetuo post partum). Do đó, niềm tin vào sự đồng trinh trọn đời của đức Maria đã được phát
triển và chiếm ưu thế. Tuy nhiên, ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy rằng có nhiều ý kiến khác
nhau về vấn đền này.Ngay cả trong Kinh thánh Tân Ước xem ra cũng có nhiều chỗ gây thắc
mắc. Ví dụ: từ ngữ “con đầu lòng”. Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu và sau đó còn thêm
người con nào nữa chăng? Đâu là vấn đề cần phải lý giải? Để giải quyết vấn đề này chúng ta
cần phải khảo sát qua các bản văn Kinh thánh, qua huấn quyền, qua truyền thống và qua ý
kiến thần học về sự đồng trinh trọn đời nơi Đức Maria50.
Trong các bản văn Kinh thánh không dạy cho chúng ta biết một cách minh nhiên việc
Đức Maria giữ đồng trinh trọn đời và cũng không nói gì ngược lại sự kiện này. Thánh Luca
viết “Đức Maria đã hạ sinh Con Trai đầu lòng” (2,7). Đây là cách ám chỉ đến điều luật quy
định về luật con trai đầu lòng của một gia đình trào đời, ngay cả trong trường hợp cha mẹ
không sinh thêm được một người con nào khác nữa.
Thánh Mattheu viết: “Giuse không ăn ở với bà mãi cho đến khi bà hạ sinh Con là Đức
Giêsu” (1, 25). Cụm từ “mãi cho đến khi” trong tiếng Do thái không hề xác quyết gì về tương
lai. Chẳng hạn, trong 2Sm 6,23 có viết: “Bà Mikal son sẻ mãi cho đến khi qua đời” (chẳng lẽ
có ai đó lại hiểu rằng sau khi chết bà ấy lại có con).
Trong nhiều trường hợp, Phúc âm có đề cập đến “các anh em Chúa Giêsu” như
Giacôbê và Giuse (Mt 13, 35). Nhưng họ là con của một bà Maria khác mà Phúc âm nói rõ là 49 X. Karl Rahner, Maria Kẻ Đã Tin, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2004, p. 111.50 X. Học Viện Châu Sơn, Giáo Trình Thánh Mẫu Học, p. 168
27
“Mẹ của Giacôbê và Giuse” (Mt 27, 56). Bà Maria này không thể nào lẫn được với Đức
Maria Mẹ Chúa Giêsu hay với một bà Maria khác nữa là bà Maria Mađalêna.
Hơn nữa trong xã hội Do thái, cách xưng hô anh em cũng thường được dùng giữa các
người họ hàng, bè bạn. Ví dụ,Abraham nói với cháu mình là ông Lót: “chúng ta là anh em với
nhau” (St 13,8).
Thực sự, trình thuật tìm Chúa trong đền thờ và đặc biệt là trình thuật Chúa Giêsu
trối Đức Mẹ cho môn đệ trên núi Canvê (x. Ga 19, 25-27) dường như ám chỉ rằng Mẹ
Maria không có một người con nào khác. Lịch sử cũng cho thấy niềm tin truyền thống cổ
thời vào đức đồng trinh trọn đời của Mẹ Maria đã không hề bị nghi vấn trong khi “các anh
em của Chúa Giêsu” còn sống51.
Đức Maria trọn đời đồng trinh qua chứng từ của truyền thống và của giáo phụ như sau:
Mặc dù Đức Maria trọn đời đồng trinh ngay từ lúc khởi đầu không được tuyên xưng cách
thật sự mạnh mẽ. Nhưng theo lời các Giáo phụ thì: “Ngay từ đầu thế kỷ II thánh Ignatio thành
Antiokia đã nhắc nhở khi nói về Đức Giêsu là người thật thuộc dòng tộc Đavid và đã là Con
Thiên Chúa, thì Ngài cũng nói về Đức Mẹ: “Ngài đã thực sự được một Trinh Nữ sinh ra”52.
Có một số người đã giải thích và cho rằng một vài bản văn Cựu ước qui về sự đồng
trinh trọn đời của Đức Maria: Ez 4, 42: Cửa đóng kín; Dc 42,2: Vườn đóng kín; Nguồn suối
được niêm ấn. Một số khác lại dựa vào Lc 1, 34 thì nói: Đức Maria đã có một quyết tâm hữu
hiệu giữ đồng trinh trọn đời, thì Ngài vẫn đồng trinh.
Các giáo phụ cũng phi bác những người lạc giáo đưa ra quan niệm: “Đức Maria không
đồng trinh sau khi sinh, đây là một điều điên rồ”. Thánh Ambrosio gọi họ là phạm thánh,
thánh Augustinô gọi họ là lạc thuyết”53.
Ta cũng kể đến thánh Justino, thánh Irene, thánh Athanasio, thánh Cyrillo de
Jerusalem, đặc biệt là nơi thánh Hilario, thánh Jérôm, thánh Ephrem, thánh Cyrillo
Alexandria, thánh Phêrô Kim Ngôn đã nói rõ: Đức Maria trọn đời đồng trinh, trước khi sinh,
trong khi sinh và sau khi sinh.
Thánh Augustino nói: “Chúa Giêsu sinh ra do Chúa Thánh Thần và bởi Trinh Nữ
Maria, đó là điều phải tin như một tín lý, và xác nhận: trong khi sinh và sau khi sinh, đồng
trinh thụ thai, đồng trinh sinh con, đồng trinh trường cửu”54.
51 Chủ biên, Anphongso Bốt- Sa, S.M.M, Từ Điển Đức Mẹ, 1998, chuyển ngữ Matthias M. Ngọc Đính, C.M.C, p. 172-173.52 Trích lại trong Học Viện Châu Sơn, Giáo Trình Thánh Mẫu Học, p. 17653 Ibid, p. 176.54 Ibid, p. 177.
28
Thánh Césario thành Arles nói “hãy tin rằng, Ngài đã được thụ thai bởi Chúa Thánh
Thần và sinh ra bởi Đức Maria Đồng Trinh, là Đấng Đồng Trinh trước khi sinh và luôn luôn
đồng trinh sau khi sinh.”55
Trong phụng vụ: sự đồng trinh trọn đời nơi Đức Maria được thể hiện trong mọi phụng vụ
Công giáo và luôn được nhắc trong các bài Thánh ca, kinh nguyện như: “ Lạy Chúa, Con Một Chúa
đã hết tình yêu thương nhân loại, ước gì người ban ơn trợ giúp chúng con. Xưa khi người giáng sinh,
Đức Đồng Trinh Của Thánh Mẫu đã không vì thế mà tổn thương, nhưng đã được thánh hiến…”56.
Trong sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 496 khẳng định: “Hội thánh tuyên xưng
Đức Giêsu đã tượng thai trong cung lòng Trinh Nữ Maria chỉ do quyền năng Chúa Thánh
Thần, và cũng như vậy, khẳng định khía cạnh thể lý của biến cố này: Đức Giêsu được tượng
thai bởi Chúa Thánh Thần, không cần mầm giống nam nhân”57. Số 499 còn nói thêm: “khi
đào sâu đức tin về Đức Maria đồng trinh, Hội thánh đi đến chỗ tuyên xưng Đức Maria thật sự
trọn đời đồng trinh (DS427), ngay cả khi sinh Con Thiên Chúa làm người. Thật vậy, việc hạ
sinh Đức Kitô “ không làm suy giảm nhưng thánh hiến sự trinh khiết vẹn toàn” của Mẹ.
Phụng vụ Hội thánh luôn tôn vinh Mẹ là Đấng “trọn đời đồng trinh” ( LG 52.57)”58.
Như thế sau khi sinh con đầu lòng, Ngài đã không có hạ sinh người con nào khác, và
đã không hoàn hợp cuộc hôn nhân thành sự, không hoàn hợp (matrimonium ratum, non
consummatum)59
Trong cácgiáo huấn của Giáo hội về Đức Maria ta thấy như sau: từ thế kỷ IV, Giáo
hội luôn giảng dậy và tin Đức Maria trọn đời đồng trinh được khẳng định trong các Công
đồng như: Công đồng Constantinople năm 381 [DS 150], công đồng Chalcedon năm 451
[DS 301], hay Constantinople II năm 553 đã nhắc đến “Semper Virgi” [DS 427] 60. Mặc dù
tại các công đồng này không có bàn đến định tín đồng trinh trọn đời của Đức Maria, nhưng
các bản văn nói lên lòng tin chung của toàn thể Giáo Hội, mà chúng ta gặp cùng một công
thức trong bản tuyên tín của công đồng Latran, dưới trào đức giáo hoàng Martin I năm 649
[DS 503]: “Nếu ai không cùng với các giáophụ tuyên xưng Đức Maria thánh thiện, trọn đời
đồng trinh và vô nhiễm là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ đã thụ thai do Chúa Thánh Thần và không
có mầm giống của người nam và hạ sinh đồng trinh chính Ngôi Lời Thiên Chúa trong thời
cuối cùng này, Đấng đã được sinh ra từ muôn đời do Thiên Chúa, Đức Maria vẫn còn đồng
55 Ibid, p. 177.56 Lời nguyện tiến lễ của phần chung Đức Trinh Nữ Maria, Sách Lễ Rôma, p. 760-761.57 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, số 496.58 Ibid, số 499, p. 159.59 X. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Bộ Giáo Luật 1983, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2007, số 1061,1; 1134, p. 344,352.60 X. Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Thánh Mẫu Học, 2005, p. 224-225.
29
trinh cả sau khi sinh, kẻ ấy bị kết án – Incorruptibiliter eam genuisse, indissolubili
permanente et post partum eiusdem virginitate…”61.
Tóm lại, Giáo Hội luôn luôn tuyên xưng niềm tin vào sự đồng trinh trọn đời của Đức
Maria. Đó là ơn riêng Thiên Chúa dành cho Mẹ và chỉ mình Mẹ mới có được ơn ấy. Ơn lạ được
trinh khiết ấy, Đức Maria đã nhận được không những trước khi chịu thai, nhưng ngay cả sau khi
chịu thai nữa. Mãi mãi, Đức Maria chỉ làm một việc: mở lòng ra đón nhận ơn nhưng không từ
Thiên Chúa ban xuống. Trong việc ban phát hồng ân, Thiên Chúa có hoàn toàn tự do quyết định
và không có gì chi phối được người; chỉ một mình người định đoạt. Thiên Chúa luôn luôn là
Thiên Chúa của hồng ân. Đó là cách thức mà Thiên Chúa đã chọn để vào trần gian này. Còn Đức
Maria thuộc dòng giống chúng ta, đã trở nên cửa, đã mở rộng đón nhận lòng từ bi vĩnh cửu, là cửa
Thiên đàng mà qua đó ta được nhận hết ơn này đến ơn khác. Thánh Tôma tiến sĩ dựa vào lời sứ
thần nói “Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1, 28) đã xác quyết rằng
Mẹ là: “ Đấng ơn thánh viên mãn tràn trề”. Vì thế Mẹ là Đấng Đồng Trinh Vẹn Toàn.
4. Ơn Hồn Xác Lên Trời
Như trên đã tình bày: “từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên
Chúa cùng một lúc với việc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa, và theo chương trình của
Chúa Quan Phòng, Ngài trở nên Mẹ cao trọng của Đấng Cứu Chuộc Thần Linh trên trần gian,
và cách đặc biệt hơn mọi người khác, Ngài là cộng sự viên quảng đại và tôi tá khiêm tốn của
Chúa. Nhờ đó, Mẹ được Thiên Chúa ban cho đặc ân vô nhiễm nguyên tội, thân xác trinh trong
củaMẹ được thoát án lệ của tội tổ tông mà được sống lại vàlên trời cùng với linh hồn trong
sáng của Mẹ.Đặc ân Mẹ lên trời vinh quang cả hồn và xác chung qui mọi đặc ân của Mẹ và là
cùng đích trót cuộc sống, sứ mạng và huân công của Mẹ.
Có lẽ, trong những thế kỷ đầu, Hội thánh không quan tâm khảo cứu tiểu sử của Đức
Maria và ngoài một vài chi tiết còn ghi lại trong Tân Ước thì không còn mẩu chuyện nào khác
về cuộc đời Đức Maria. Nhưng theo sử tích, Thánh Mẫu lìa thế, thọ khoảng 65-70 tuổi tại
Giêrusalem cách êm ái như ngủ vậy.Hình như người ta né tránh cái chết thể lý của Đức Maria.
Vấn đề này được tranh luận rất nhiều: Đức Maria có chết như chúng ta hay không? Ngày nay
các thần học gia đều chấp nhận: Đức Maria cũng chết như chúng ta, như Đức Giêsu đón nhận
cái chết này. Người ta còn cẩn thận giải thích: vì được gìn giữ khỏi tì ố vết nhơ nguyên tội và
các lỗi lầm cá nhân, nên cái chết này của Đức Maria không phải là hậu quả của tội (x. D
1073). Nhưng theo sự bất toàn của thể xác thể lý, để đồng hình đồng dạng với Con của Mẹ
trong cái chết cứu độ.62Đó là lý do tại sao Đức Maria đã chết và cũng là lý do tại sao thân xác
61 Ibid, 225-22662 X. Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Thánh Mẫu Học, 2005, p. 283-284.
30
Mẹ không còn ở lại trong mồ. Là Eva mới, Đức Maria đã kết hợp với Đức Giêsu Kitô, Adam
mới, trong sự toàn thắng tội lỗi và hậu quả của nó-đặc biệt là sự chết. Bởi đặc ân vô nhiễm
nguyên tội, Mẹ đã chung phần với chiến thắng của Đức Kitô trên tội lỗi; và qua việc hồn, xác
lên trời, Mẹ đã chung phần với chiến thắng của Đức Kitô trên sự chết63.
Việc Đức Maria được cả hồn và xác về trời khác với việc lên trời của Chúa Giêsu,
theo Tin mừng Gioan viết: “không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống”
(Ga 3, 13). Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng đã từ trời xuống, nay Người trở về nơi
Người đã ở trước, tức là trở về vinh quang xưa của Người: “Vâng lạy Cha, giờ đây Con tôn
vinh Cha: xin ban cho Con vinh quang mà Con đã được hưởng bên Cha trước khi có thế
gian” (Ga 17, 5).Còn Đức Maria “hồn xác về trời” là một ân sủng; chính Thiên Chúa đã
đưa, đã ban cho Mẹ “ được hồn xác về trời”. Tin mừng thánh Gioan 14, 1- 3: “ Lòng anh em
đừng sao xuyến! hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà của Cha Thầy có nhiều
chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi
dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, thì anh em
cũng ở đó”. Như vậy, là Đức Maria được đặc ân về bên Thiên Chúa trước chúng ta 64.
Đức Maria được đặc ân về bên Thiên Chúa trước chúng ta qua lời của các thánh
nói như sau:
Thánh Bênađinô nói: “Sự tương đồng giữa Mẹ Thiên Chúa và Con Mẹ về phẩm giá
cao quí của thân xác và linh hồn đòi buộc Mẹ phải ở nơi Chúa Kitô ở”65.
Thánh Thêôđôrê nói: “Lạy Mẹ, Mẹ mãi mãi là một Trinh Nữ, vì Thiên Chúa là quả
phúc của lòng Mẹ. Và tại sao sự chết của Mẹ là sự sống, không như sự chết của chúng con, vì
Mẹ bất diệt trong thân xác và linh hồn”66.
Thánh Phanxicô Salêsio nói: “Mầu nhiệm cuối đời Đức Mẹ gồm 3 chân lý: sự chết, sự
sống lại, và lên trời. Ba chân lý khác nhau, nhưng liên kết với nhau”67.
Thánh Môđestô nói: “Kính mừng Mẹ rất thánh của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Con
Thiên Chúa là vua vinh quang đã tuyển chọn Mẹ là đền đài thiêng liêng của Ngài trên trái đất
này, đồng thời đã muốn có Mẹ cùng với Người trong Nước Trời thân xác vẹn toàn, hiển vinh
trên mọi thụ tạo, trong vinh quang Cha Người và Chúa Thánh Linh”68.
Thánh Anphong nói: “Có 3 yếu tố thường làm cho sự chết trở nên cay đắng. Đó là
sự lưu luyến của cải đời này, lương tâm cắn rứt và phần rỗi phấp phỏng. Nhưng cái chết
63 X. Norberto, Đức Maria Nữ Tỳ Của Thiên Chúa, 2006, p. 167-171.64 X. Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Thánh Mẫu Học, 2005, p. 286-287.65 Trích lại trong Lm Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, tập II, p. 274. 66 Ibid, p. 273.67 Ibid, p. 275. 68 Ibid, p. 272.
31
của Mẹ không hề vương vấn 3 yếu tố đó, mà lại có 3 ân sủng diệu kỳ làm cho trở nên vô
cùng êm dịu quý báu”69.
Sách Giáo Lý Công Giáo,số 969 viết về ơn hồn xác lên trời của mẹ như sau:“ Tình
Mẫu Tử của Mẹ Maria trong nhiệm cục ân sủng kéo dài không ngừng, khởi từ sự ưng thuận
Mẹ đã trung tín bầy tỏ trong cuộc truyền tin, và chịu đựng cách không do dự dưới chân thập
giá, cho tới sự hoàn tất vĩnh viễn của mọi người được tuyển chọn. Thật vậy sau khi Mẹ được
lên trời, nhiệm vụ cứu độ của Mẹ không chấm dứt, nhưng qua việc liên lỉ chuyển cầu của
mình, Mẹ tiếp tục đem lại cho chúng con những hồng ân của ơn cứu độ vĩnh cửu”70.
Đức Maria được phúc hồn xác lên trời,Hiến chế tín về Hội thánh của Công đồng
Vatican II viết như sau:
“Sau cùng, được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết nhơ nguyên tội, nên sau khi hoàn tất
cuộc đời dưới thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn
lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương Vũ Trụ, để nên giống Con Ngài trọn vẹn
hơn, là Chúa các Chúa (x. Kh 19, 16) cũng là Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết”71.
Trong thông điệp Munificentissimus Deus, ngày 11- 1- 1950,đức Pio XII nói:“Từ
muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân
mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để
chiêm ngưỡng đặc ân Mẹ Hồn Xác Lên Trời”. Cũng trong thông điệp này đức Pio XII long
trọng định tín như sau: “ Do uy quyền của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cả hai thánh tông
đồ Phêrô và Phaolô và với thẩm quyền của ta, ta phán quyết, tuyên ngôn, và định tín là tín
điều đã được mặc khải rằng: Đức Maria Mẹ Vô Nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh,
sau cuộc sống trần gian này, đã được phúc vinh quang thiên đàng cả hồn và xác. Nếu ai cả
dám tự tình chối bỏ hay nghi ngờ điều ta đã định tín thì họ phải biết rằng họ hoàn toàn phản
bội lại đức tin Công giáo của Thiên Chúa”72.
Tóm lại, Đức Maria hồn xác lên trời là một ơn nhưng không mà Thiên Chúa đã dành
sẵn cho Mẹ ngay từ thuở đời đời. Thật vậy, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền
định, Đức Maria đã được kết hợp với Đức Giêsu Kitô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi
đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã
chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng đã kết thúc mọi đặc ân
Ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã được gìn giữ khỏi bị hư nát ở trong mồ để nên giống
Con mình. Sau khi chiến thắng sự chết, Ngài cũng được đưa lên vinh quang trên trời cả hồn
lẫn xác. Biến cố này được đức Pio XII công nhận và định tín ngày 11-1- 1950, để mọi người
69 Thánh Anphong, VQĐM, tập 2, p. 164.70 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, số 969.71 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Công Đồng Vativanô II, Lumen Gentium số 59.72 EPND, p. 297- 318.
32
tôn vinh và chúc tụng Mẹ là Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử đến muôn thuở
muôn đời.
Chương II.
TIỀN ĐỊNH VÀ TỰ DO
Ở chương một, chúng ta nói đến ơn tiền định nơi Đức Maria. Đức Maria được tiền
định từ muôn đời để làm Mẹ Thiên Chúa qua việc liên kết với việc nhập thể của Ngôi Lời
Thiên Chúa, theo ý định của Chúa Quan Phòng. Vì thế Mẹ đã được Thiên Chúa ban cho
những đặc ân cao trọng hơn mọi người phụ nữ. Đó là ơn tiền định Thiên Chúa dành sãn cho
Mẹ. Vây, sự tiền định đó có làm mất đi sự tự do của Mẹ hay không? Nếu có, thì Mẹ có còn
được gọi là người có phúc nữa hay không, vì Mẹ đã mất đi quyền tự do nơi bản thân mình.
Còn nếu không, thì điều gì nói lên sự tự do nơi Mẹ, và những nỗ lực của Mẹ trong sự tự do ấy
như thế nào? Đó là những vấn đề mà người viết muốn làm sáng tỏ trong chương hai này.
I. TIỀN ĐỊNH VÀ TỰ DO
1. Khái Niệm Về Tự Do
Tự do: tiếng La tinh là libertas, tiếng Anh là freedom, tiếng Pháp là liberté. Theo ngôn
ngữ Hán việt: tự, là chính mình, do: là tuỳ ý. Tự do, là hành động tuỳ ý mình.
Tự do là khả năng bắt nguồn từ lý tri, ý chí, để hành động hay không hành động, làm
việc này hay việc nọ; nhờ đó con người có thể thực hiện những hành vi có ý thức và trách
nhiệm.73 Đó là một khái niệm khá phổ biến về tự do.
Theo tâm lý tự nhiên của con người, ai cũng muốn tự do, yêu thích tự do, nên luôn
khát vọng tự do. Khát vọng cơ bản nơi con người là được hạnh phúc, nhưng hạnh phúc không
thể tồn tại nếu không có tình yêu, cũng như không có tình yêu nếu không có tự do74.
Nói chung, trong thâm tâm của con người, ai cũng muốn được hoàn toàn tự do,
muốn được thoát ra khỏi tất cả sự ràng buộc gia đình, đoàn thể, xã hội, luật pháp, nhất là
những ràng buộc thuộc lãnh vực luân lý và đạo giáo, theo đúng phương thức “thích thì ở,
dở thì đi”. Con người muốn được tự do suy tư, tự do nói và tự do hành động tuỳ ý, chứ
73 x. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Tiểu Ban Từ Vựng, Từ Điển Công Giáo, Nxb Tôn Giáo, p. 368-369.74 x. Jack Philip, Tôi Muốn Sống Tự Do: Sức Mạnh Của Đức Tin, Đức Cậy Và Đức Mến, chuyển ngữ Nguyễn Ngọc Kính, O.F.M, Nxb Đông Phương, P. 11.
33
không bị cấm cách, ràng buộc bởi bất cứ quyền bính ngoại tại nào. Tiếng nói đầu tiên
được con người lắng nghe chính là tiếng nói của lòng mình. Con người quan tâm vào hàng
đầu tiếng nói của những sở thích và khát vọng của lòng mình và tìm mọi cách làm thỏa
mãn những đòi hỏi đó, bất chấp mọi cản trở và cấm đoán, kể cả những cấm đoán thuộc
lãnh vực luân lý và đạo giáo, vì mình coi đó là hạnh phúc.
Mặt khác, tự do còn có nghĩa là tự do nghĩ, tự do nói và tự do hành động như mình
muốn. Đó là quyền căn bản nhất của con người, đã được Thượng Đế ban tặng để con người
có thể sống với đầy đủ nhân phẩm của mình và vì thế không ai có quyền tước đoạt hay thu
hẹp tự do đó được. Không có tự do mọi hành động của con người trở nên vô giá trị, vô
thưởng và vô phạt75. Sách Giáo lý Công giáo nói rằng: “Tự do là nét đặc trưng của các
hành vi nhân linh. Vì, có tự do, con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi mình chủ ý
làm. Hành động chủ ý thuộc về chính tác giả”76.
Tóm lại, tự do là khả năng, bắt nguồn từ lý trí và ý chí, có thể hành đông hay không
hành động, có thể chọn điều tốt cũng như chọn điều xấu. Vì con người được dựng nên có tự
do trong sự quyết định và quyền trên chính mình. Vậy câu hỏi đặt ra là: có khi nào con người
bị mất tự do hay không? Ý chí tự do của con người và sự tiền định của Thiên Chúa phải hiểu
như thế nào?
2. Ý chí Tự Do Của Con Người Và Sự Tiền Định Của Thiên Chúa
Mặc khải kinh thánh cho biết: con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Đấng
sáng tạo (x. St 1, 26 – 27). Mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Hình ảnh ấy sáng rực
trong sự hiệp thông nhân vị, giống sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa. Con người là một
bản vị có lý trí, ý chí và tự do, đặc biệt nhất là con người được hưởng ân sủng, được thông
phần thiên tính trong Đức Kitô. Vì thế, con người là chóp đỉnh của tạo thành. (x. Tv 8, 7).
Con người được tiền định để họa lại hình ảnh của Con Thiên Chúa làm người, là hình ảnh của
Thiên Chúa vô hình để Chúa Kitô trở thành trưởng tử của muôn loài thọ tạo: “ Thánh Tử là
hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là Trưởng Tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo” (Cl 1, 15)77.
Như vậy, Thiên Chúa toàn năng đã tạo dựng con người chính trực, không có tội, với ý
chí tự do, và đã đặt con người trong vườn địa đàng: Người muốn con người giữ mãi sự thánh
thiện, đức công chính. Nhưng con người đã lạm dụng ý chí tự do của mình, đã phạm tội và đã
xa ngã, đã trở nên, “khối hư hỏng” của toàn thể nhân loại. Nhưng “Thiên Chúa vốn tốt lành và
công chính, theo sự tiền tri của Người, đã chọn trong cái khối hư hỏng đó những kẻ mà Người
75 X. Lm. Nguyễn Hữu Thy, Đức Maria Trong Kinh Nguyện Giáo Hôi, Xuất Bản: Trung Tâm Mục Vụ CGVN, Giáo Phận Trier, CHLB Đức, p. 277-285.76 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, số 1745.77 X. Peter Neuner, Đại Chủng Viện Thánh Giuse, Ân Sủng Luận Qua Các Tác Giả, lưu hành nôi bộ, p. 36.
34
đã lấy ân sủng mà tiền định (x Rm 8, 29; Ep 1, 11) cho được sống, và Người đã tiền định cho
họ sự sống vĩnh cửu; còn những kẻ khác, những kẻ mà phán quyết công minh của Người đã
để lại trong cái khối hư hỏng đó, Người đã biết trước là họ sẽ phải hư vong, nhưng Người
không tiền định cho họ hư vong; tuy vậy Người tiền định họ phải chịu một cực hình vĩnh cửu
vì Người là Đấng công minh. Chính vì thế, chúng ta chỉ nói một sự tiền định duy nhất, liên
quan đến việc Thiên Chúa ban tặng ân sủng hoặc đến thưởng phạt công bằng” (Dz 621)78.
Có lẽ ai cũng biết rằng, “trong con người đầu tiên của chúng ta đã đánh mất sự tự do
của ý chí, nhưng chúng ta đã nhận lại nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Sự tự do của ý
chí, chúng ta có cái đó để làm điều thiện khi chúng ta được ân sủng đón trước và trợ giúp;
nhưng chúng ta cũng có tự do của ý chí để làm diều ác, khi chúng ta bị ân sủng bỏ rơi. Mà
chúng ta có sự tự do của ý chí là vì nó đã được ân sủng giải phóng và từ chỗ hư hỏng được
chữa lành nhưng không” (Dz 622)79.
Theo tư tưởng thánh Phaolô, tự do không thể tách khỏi sự giải phóng. Tự do là một giá
trị thánh thiêng “chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitôđã giải thoát chúng ta” (Gal 5,1).
Là kế hoạch của Thiên Chúa đối với con người.Hãy nhớ“anh em được kêu gọi để sống tự do”
(Gal 5,13) vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống trong tự do. Tự do trở thành
ngẫu tượng khi tách tự do ra khỏi sự giải phóng. Tự do mà không có giải phóng chỉ dẫn đến
cá nhân chủ nghĩa, loại bỏ tha nhân như những kẻ làm vướng víu tự do của mình.
Tự do của con người, tự chúng là tự do thoát khỏi sự thống trị của tội lỗi. Đó là lý do
mà Sách Thánh thường cảnh báo chúng ta rằng đường lối của Thiên Chúa không phải đường
lối chúng ta. Tự do của ta sẽ nên trọn hảo nhất khi ta biết quay về với ước muốn căn bản của
Thiên Chúa khi Ngài tạo nên sự sống và tự do. Ước muốn ấy được mặc khải và tôn vinh nơi
Đức Giêsu. Bởi tự do, tự chúng là khả năng yêu thương, nên chúng ta sẽ tự do khi ta hoà vào
tiếng gọi yêu thương của Chúa trong sáng tạo, có nghĩa là ta sống trong thần khí. Nhìn vào
trong lịch sử cứu độ chúng ta thấy đầy dẫy những hình ảnh như thế. Đây là vấn đề của những
cảm nghiệm riêng tư, của mối tương quan cá nhân. Đức Chúa giải thoát dân khỏi ách nô lệ
bên Ai Cập và khuyến cáo họ từ bỏ ngẫu tượng vô tri để thờ phượng Ngài. “Ta sẽ là Chúa
của chúng và chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31, 33). Từ điểm này cho thấy, biến cố sáng tạo và
giao ước đã ký kết, tìm thấy sự hoàn trọn của mình nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã mặc khải ý
nghĩa của tình yêu giữa Thiên Chúa và nhân loại, sự trọn hảo ấy cũng được tìm thấy qua
Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã đổ đầy vào hồn chúng ta (x Rm 5, 5). “Ở đâu có Thần
Khí của Chúa ở đó có tự do” (2Cr 3, 17)80.
78 Trích lại trong Peter Neuner, Đại Chủng Viện Thánh Giuse, Ân Sủng Luận Qua Các Tác Giả, lưu hành nôi bộ, p. 86.79 Ibid, 86.80 X. John R . Sachs, SJ, Nhân Học Theo Kitô Giáo, 1991, chuyển ngữ Duy Khánh, OP, p. 117 – 122.
35
Rõ ràng là ý định và cách gọi cụ thể của Thiên Chúa thể hiện rằng Thiên Chúa ban ân
sủng đầy tràn cho mỗi người. Thiên Chúa không muốn điều gì xa lạ với con người. Ngài
muốn mỗi người và mọi người đều được sống. Vì thế trước khi ta tự hỏi Thiên Chúa muốn gì
trong hoàn cảnh của mình, có lẽ ta cần đặt mình trong dòng ý định của Thiên Chúa. Ý định
của Thiên Chúa muốn mỗi người và mọi người phải được xác định bằng sự tự do sung mãn.
Ngài đã dựng nên ta bằng tình yêu và bằng ước mong không phải điều gì khác là kiện toàn tự
do của con người trong tình yêu.
Nếu chúng ta sống trong mối tương quan với Thiên Chúa theo như cách thức kể trên,
lúc ấy sự biện phân Thánh Ý của Thiên Chúa trong mỗi hoàn cảnh sẽ ít đặt ra những nghi vấn
về sự xác định và tuân hành một cách cụ thể. Ta sẽ đưa ra những quyết định trong tự do theo
hình ảnh của Thiên Chúa trong Thần Khí. Có một điều quan trọng, gây kinh ngạc giữa mối
tương quan rất riêng của ta với Thiên Chúa đó là tính tương tác trong ân sủng. Thiên Chúa
Đấng Tạo Hoá và là Đức Chúa, Ngài tự ý chọn ta nên bạn nghĩa thiết và Ngài đã làm tất cả
những gì mà tình yêu đích thực đòi hỏi đó là sự hiệp thông trong sự tự do81.
Tóm lại, con người là chóp đỉnh của tạo thành. (x. Tv 8, 7).Con người được tiền định để
họa lại hình ảnh của Con Thiên Chúa làm người. Vì được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên
Chúa, con người cũng có phẩm giá là một nhân vị, không phải là một sự vật, nhưng là một con
người có khả năng tự biết mình, tự làm chủ lấy mình, tự do tự hiến và thông hiệp với người
khác. Con người đầu tiên không phải chỉ được sáng tạo tốt lành mà thôi, nhưng còn được đặt
trong tình thân với Đấng Sáng Tạo, hòa mình với chính mình và với vạn vật xung quanh. Nếu
chúng ta nhìn nhận nơi Thiên Chúa luôn hiện diện thứ tự do và yêu thương tuyệt đối, thì ta cũng
nhận ra rằng Thiên Chúa không ép buộc ta vào một quyết định nào ta phải làm hay phải chọn
lấy. Từ điều này cho thấy, sự tiền định của Thiên Chúa không phá huỷ sự tự do của con người.
3. Tiền Định Không Phá Huỷ Tự Do Của Con Người
Người ta thường nói: “Mọi sự đều do Chúa định” hay nói cách khác “Chúa kêu ai,
người ấy dạ”. Vậy, phải chăng con người không có tự do quyết định vận mệnh của mình ?
Phải chăng con người sẽ trở thành nô lệ cho một vị Thiên Chúa độc đoán, và họ chỉ còn biết ỷ
nại vào sự định đoạt của Thiên Chúa, mà không có thể vượt qua số phận bất hạnh gặp phải,
hầu đạt tới một cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn ?
Ở đây chúng ta lưu ý rằng, mặc dù Thiên Chúa đã tiền định, hay đã an bài cho con
người một con đường sống thế này hay thế kia, hoặc người muốn trao phó cho con người
số phận nào đó, cũng như việc người ban phát ân sủng cho người ấy, nhưng không nhất
thiết phải xảy ra như vậy. Bởi vì, con người còn có ý chí và tự do, một khả năng cao quý
81X. John R . Sachs, SJ, Nhân Học Theo Kitô Giáo, 1991, chuyển ngữ Duy Khánh, OP, p. 123.36
và một quyền lợi bất khả xâm phạm, nên con người có thể cộng tác vào chương trình đã
được Thiên Chúa an bài và hoạch định hay chối từ và chọn lựa cho mình một cuộc sống
theo ý mình muốn. Tất nhiên trong trường hợp này, con người phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm về sự quyết định tự do của mình. Để hiểu được điều đó, chúng ta có thể đưa ra một
ví dụ tượng trưng như sau: Thiên Chúa cũng tương tự như một người cha đầy nhân từ, khi
đứa con của mình cất tiếng khóc chào đời, vì thương con và muốn con sau này có được
hạnh phúc, nên ông có những dự định hay chương trình trong tương lai cho con. Nhưng
một khi đứa con khôn lớn và trưởng thành, thì rất có thể nó làm theo ý nguyện của ông
hay nó sẽ chọn cho mình con đường đi, một lối sống riêng. Tất cả đều tuỳ thuộc vào sự
lựa chọn của người con82.
Dĩ nhiên, trong ví dụ trên chúng ta cũng cần phân biệt sự tương đồng và sự khác biệt
giữa Thiên Chúa và người cha nhân hậu kia. Sự tương đồng là tình yêu thương: cả hai đều dự
định thế này thế kia cho con mình, vì các ngài chỉ muốn tốt, muốn điều thiện hảo và sự hạnh
phúc chân thật cho con cái mình; còn sự khác biệt cũng rất rõ rệt, đó là: nơi người cha trần
thế, ông chỉ dự đoán được thế này, thế kia là tốt cho con mình, và ông ước muốn được xảy ra
như vậy; trong khi đó, Thiên Chúa thì không cần phải suy nghĩ, dự đoán hay ước muốn nữa.
Những gì Ngài ước muốn hay thực hiện cho ta đều là sự thiện hảo và đem lại hạnh phúc chân
thật cho ta một cách chắc chắn, vì Người là Tạo Hoá toàn năng, Người nhìn thấy được tất cả
mọi sự trong chính bản chất của chúng. Vì thế, nơi Thiên Chúa, con người có thể nhắm mắt
tin tưởng và phó khác hoàn toàn, mà không sợ phải sai lầm và ân hận. Vì tuân phục Thiên
Chúa không có nghĩa là phá huỷ tự do con người.
Về sự tự do của chúng ta, chúng ta chỉ có thể hiểu được cho đúng đắn khi chúng được
nhìn dưới ánh sáng cách đối xử nhân từ của Thiên Chúa với gia đình nhân loại thông qua lịch
sử cứu độ. Qua lịch sử cứu độ, Thiên Chúa tiếp tục tôn trọng sự tự do của chúng ta. Ân sủng
của Ngài cũng không ép uổng tấm lòng chai đá ươn hèn. Lời Ngài cũng không phải là một
cơn bão lửa hay gió lốc, nhưng là một cơn gió nhẹ hiu hiu tìm cách phục hồi sự tự do đã bị
mất bởi tội lỗi. Thật vậy, như Péguy nhận xét, Thiên Chúa không cưỡng ép chúng ta quay về
với tình yêu Ngài, nhưng đúng hơn, Ngài hướng đưa chúng ta bằng tác động tự do của Ngài83.
Ân sủng của Thiên Chúa giống như một gia sư kiên nhẫn dạy chúng ta về sự tự do và hướng
chúng ta đến thỏa mãn lý do của sự tự do riêng của chúng ta.
Về điều này, sách Giáo lý Công giáo dạy ta biết Thiên Chúa Quan Phòng sắp xếp cho
ta có mặt ở trên đời, ban cho ta nhiều ơn lành trong đời sống để ta sống xứng đáng là con
Thiên Chúa, và cho ta biết luôn can đảm để chọn điều tốt. Giáo lý không cắt nghĩa tương quan 82 X. Lm. Nguyễn Hữu Thy, Đức Maria Trong Kinh Nguyện Giáo Hôi, Xuất Bản: Trung Tâm Mục Vụ CGVN, Giáo Phận Trier, CHLB Đức, p. 277 – 287.83 X. Von Balthasar, Glory Of The Lord, vol 3, p. 499.
37
biết trước việc xảy ra trong đời ta, và tự do ta sử dụng, nhưng giáo lý dạy ta tin rằng Thiên
Chúa ban cho ta tự do để quyết định, ngay cả quyết định phản bội Ngài. Nói khác đi, giáo lý
dạy ta tin rằng Thiên Chúa luôn quan tâm và săn sóc ta, và không hề tiền định số mạng đến
nỗi chúng ta không thể thay đổi chính mình được84.
Nếu thực sự Thiên Chúa định đoạt tất cả mọi việc lớn nhỏ trong vũ trụ thiên nhiên,
định đoạt số phận của nhân loại và cá nhân mỗi người… mà dù muốn dù không chúng ta buộc
phải chấp nhận, thì khi ấy con người không khác chi một cái máy vô hồn, hoặc như thú vật
hoạt động hoàn tòan theo bản năng hay như một trẻ thơ ấu trĩ chỉ biết hoàn toàn cậy nhờ vào
sự bao bọc của cha mẹ… đúng như có người đã chỉ trích ở trên.
Là con người, ta có quyền làm hay không làm, nhưng mọi việc ta thay đổi, Thiên Chúa
đều biết trước những thay đổi đó. Vì thế, việc Thiên Chúa biết trước hành động con người và
ý muốn tự do con người hoàn toàn không chống đối hay loại bỏ nhau. Nếu, tiền định là Thiên
Chúa cầm tay bắt ta làm điều này hay làm điều kia, thì chắc chắn là không. Vì, Thiên Chúa là
Thiên Chúa trung thành, Ngài ban cho con người có tự do và Ngài tôn trọng tự do đó.
Theo các bản văn sách Sáng Thế, do việc sáng tạo khởi đi từ tình yêu để mang lại trật
tự trong tình yêu, Thiên Chúa tạo nên con người chứ không phải tạo nên con rối. Điều này có
ý nói rằng tự do được chính kinh nghiệm của ta đón nhận như một sự thật. Nếu ta không có
khả năng làm theo ý mình và hành vi của ta hoàn toàn phụ thuộc vào một thế lực trấn áp, thì
hành vi ấy không thể được gọi là tự do. Nếu hành động của chúng ta không có ích gì cho
chính chúng ta và cho thế giới, thì cũng không thể gọi hành động ấy là tự do. Khách quan mà
nói, ta nhận thấy mọi hành vi của ta đều ẩn chứa ý hướng và chọn lựa ý thức. Đây là điểm
phân biệt ta với các loài thụ tạo khác. Con người không phải là đồ vật bị ném vào trong thế
giới này, không bị xác định bởi người khác, hay bị chi phối bởi ảnh hưởng khác. Con người là
chủ thể, chủ thể có trách nhiệm85.
Theo các nhà tư tưởng như Maurice Blondel, Karl Rahner, John Macmurray và Eric
Erikson, con người hình thành nên chính mình thông qua chọn lựa. Giá trị mà tôi chọn lựa để
“sống với” được thể hiện qua cách ứng xử với người xung quanh, với thế giới mà tôi không
thể xoay chuyển và với nghề nghiệp mà tôi cống hiến toàn bộ thời gian và sức lực. Đó là cách
thức mà tôi ứng xử với gia đình và đáp trả những nhu cầu của những người chung quanh tôi.
Tất cả đều ảnh hưởng trên tôi cũng như trên người khác. “Con người tôi cụ thể” này không bị
tiền định bởi những hằng số di truyền. Mỗi người chúng ta trở nên mình trong một dự phóng
hiện thực hoá bản thân, thể hiện qua những chọn lựa cụ thể trải dài trong suốt cuộc đời. Mặt
khác kinh nghiệm dạy chúng ta rằng, hành động của con người có ảnh hưởng bền vững và luỹ
84 X. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, số 600, 1037.85 X. John R. Sachs, S.J, Nhân Học Kitô Giáo, Chuyển ngữ Duy khánh OP, 1991, p. 31
38
tiến. Thông qua hành động, ta hình thành nên sự thiện hay sự ác; yêu thương hay ganh ghét.
Tự do luôn đặt ta trên đường đi tới. Nhờ hành động chúng ta sẽ thể hiện chất người nhiều hay
ít, thể hiện tính tự do nhiều hay ít trong việc trao tặng tình yêu với người khác, với Thiên
Chúa, Đấng tác thành nên ta86.
Tóm lại, từ những gì đã trình bày ở trên cho thấy: tiền định không phá huỷ tự do con
người mà càng làm cho sự tự do ấy thêm phần chính đáng và hoàn hảo hơn. Thật ra, vấn đề về
tự do con người và Thiên Chúa tiền định luôn là đề tài chứa nhiều bí ẩn. Nếu hiểu Thiên Chúa
quan phòng và tiền định cho ta có mặt trên đời (vì nếu ta không hiện hữu thì không có gì để
nói), và cho ta có lý trí tư duy và tự do chọn lựa (có vậy ta mới chịu trách nhiệm cho hành
động mình) thì hoàn toàn hợp lý. Nếu hiểu Thiên Chúa tiền định cho mọi hành động của ta,
hoặc Ngài định sẵn hay an bài tất cả mọi hành động của ta…thì cách hiểu này hoàn toàn sai
lạc vì Thiên Chúa tiền định cho con người hiện hữu, nhưng không tiền định cho từng hành
động con người làm. Với đức tin, ta không tin số mạng, không tin tiền định phá huỷ tự do,
không tin con người không thể quyết định cho mình. Ngược lại, với đức tin, ta tin là “ơn Cha
luôn đủ cho con” (2 Cor 12, 9) để trong mọi hoàn cảnh, ta vẫn có thể làm lại cuộc đời. Sự tự
do một khi được kính cẩn đón nhận với tất cả lòng biết ơn sâu xa như một hồng ân Thiên
Chúa ban, thì sẽ giúp ta thăng tiến và đủ nghị lực để thực hiện điều thiện hảo. Đây cũng là
một trong những nét nổi bật về sự tự do nơi Đức Maria.
4. Sự Tự Do Nơi Đức Maria
Có nhiều người cho rằng: vì ơn tiền định của Thiên Chúa dành cho Đức Maria, nên
Mẹ đã tỏ ra như một phụ nữ yếu đuối, thậm chí nhút nhát, sống cuộc sống theo chương trình
đã tiền định sẵn, trong đó Mẹ không hề cómột vai trò tích cực nào. Cho nên, Đức Maria được
xem như một phụ nữ thiếu tính cách tự do và xác thực.
Việc Đức Maria được Thiên Chúa tiền định từ đời đời87 là có thực và mọi kitô hữu đều
tin như vậy. Hiến chế Lumen Gentium, số 61 cũng khẳng định về ơn tiền định này: “Từ muôn
đời Đức Maria đuợc tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc nhập thể của Ngôi
Lời Thiên Chúa. Và theo chương trình của Chúa Quan Phòng nơi trần gian, trên trần gian
Mẹ đã trở nên Mẹ cao trọng của Đấng Cứu Chuộc Thần Linh…”.
Đúng là Mẹ đã được Thiên Chúa tiền định từ đời đời, nhưng nếu nói, vì sự tiền định
đó mà làm mất đi sự tự do của Mẹ, hay làm hạn chế bớt đi tính tự do của Mẹ thì thật là không
đúng. Như ta đã trình bầy ở trên về tiền định và tự do cho thấy: việc Thiên Chúa tiền định
không đánh mất hay phá huỷ tự do của con người. Chính vì thế, Đức Maria cũng không thể vì
86 Ibid, p. 33.87 X. Chương I Về Ơn Tiền Định Nơi Đức Maria.
39
ơn tiền định đó mà mất đi tự do thật sự của Mẹ. Đức Maria hoàn toàn tự do trong tất cả mọi
quyết định và hành động của mình.
Để chứng minh rằng Đức Maria thật sự là con người tự do, chúng ta cần phải tìm về
những trang Tân Ước của Tin Mừng thánh Luca 1, 26-38 trong “biến cố truyền tin”. Huyền
nhiệm của truyền tin thiết yếu là một huyền nhiệm của lời thưa “xin vâng”, nghĩa là của tiếp
nhận, sẵn sàng, cởi mở. Trong lời đáp trả của Đức Maria: “Vâng, Tôi đây là nữ tỳ của Chúa.
xin làm cho Tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38).
Từ lời thưa “xin vâng” cho thấy: việc Đức Maria đồng ý với điều Thiên Chúa yêu cầu
Mẹ, không pha chút miễn cưỡng nào; Mẹ đã trả lời với một niềm vui chỉ có trong một con
người có tự do thật. Niềm vui và sự tự do của Mẹ phát sinh từ cùng một nguồn gốc, đó là sự
đồng thuận của Mẹ với thánh ý Chúa. Ý muốn của Chúa không hề cưỡng ép ý muốn của Mẹ,
đúng hơn, ý muốn của Mẹ hoàn toàn hài hoà với ý muốn của Thiên Chúa88.
Ở đây chúng ta cần hiểu rằng, lời tiếp nhận không phải là một hành vi thụ động.
Không có đối lập với vâng lời và sáng kiến. Vâng lời và sáng kiến là hai mặt của cùng một
thực tại bởi vì Thiên Chúa sáng tạo sáng kiến, quyết định lựa chọn trong ta cũng như Người
đã sáng tạo mọi thứ khác. Thiên Chúa sáng tạo trong ta cả con người và hành động. Thay vì
cản trở, thay vì ức chế tự do, người sáng kiến chúng ta tự do. Cũng thế, không có đối lập giữa
ân phúc và tự do. Ân phúc là những gì làm cho tự do của chúng ta được phát triển sung mãn.
Thật sự việc tiếp nhận ân phúc từ Thiên Chúa không làm chúng ta mất đi tự do nhưng ngược
lại càng làm cho chúng ta tự do hơn. Để hiểu thêm về điều này, người viết xin lấy cái bóng
điện để làm thí dụ:
Sở dĩ bóng điện soi cho nhà ta sáng, ấy là nó ở trong thế tiếp xúc với nguồn điện. Nếu
nó bị cắt khỏi nguồn điện, vịn lý là để nó tự chiếu sáng một mình, thì lập tức nó trở thành bóng
tối. Chính hành vi chiếu sáng của nó là hoa quả của sự lệ thuộc của nó vào nguồn điện. Cho
nên, nếu ta cắt đứt quan hệ với Chúa, mọi sự sẽ sụp đổ, giống như nguồn điện sẽ tắt ngấm khi
nó thôi tiếp xúc với nguồn điện. Tự ta, không thể làm gì cả. Ta có làm gì, ấy là nhờ Chúa. Tự do
của ta được Chúa dựng nên, cho nên ta càng lệ thuộc vào Chúa, ta càng tự do.
Rốt cục lại thì nguồn điện là mặt bên kia của một lệ thuộc được chấp nhận. Cũng như
sáng kiến là mặt bên kia của tiếp nhận và tự do, tức là của lời thưa “xin vâng”. Chúa có sáng
kiến và Người đề nghị với ta tình yêu của Người. Người chờ ta nói lời “xin vâng”.Lời “xin
vâng” đó nói lên rằng, một đàng thì bao hàm tự do, đàng khác là một tiếp nhận ân tình; nghĩa
là một lệ thuộc tự do thực hiện. Khi Chúa xử sự với con người, Người muốn nhận được những
88 X. Lm. Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O.C, Thánh Mẫu Học, 2017, p. 7440
lời “vâng” tự do. Trong huyền nhiệm truyền tin, lời “vâng” của Đức Maria là một lời vâng
đích thực như ta vừa nói trên89.
Nhìn lại lời thưa “xin vâng” của Mẹ Maria ta thấy, Mẹ đã tự do ưng thuận những
đường lối của Thiên Chú đã mặc khải cho Mẹ giờ đây được tỏ lộ qua đời sống, gương
sáng và lời giáo huấn của Con Mẹ. Cũng như Mẹ đã cất giữ những biến cố mầu nhiệm về
cuộc sinh hạ và cuộc đời ẩn dật của Chúa Giêsu trong trái tim Mẹ, thì Mẹ cũng cất giữ
những giáo huấn của Ngài như vậy. Khi Chúa Giêsu ra đi rao giảng, chữa bệnh và mặc
khải các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, thì Mẹ Maria vẫn tiếp tục hiến dâng lời ưng thuận
đầy tình yêu và tự do. Được đầy ân sủng, Mẹ đã để cho Ân sủng nhập thể dậy dỗ và dẫn
dắt tới đỉnh cao Thập giá. Gần bên Thập giá Chúa Giêsu, người Mẹ vô tội của Thiên Chúa
đã làm chứng nhân cho căn nguyên của sự sống và sự tự do của chúng ta. Như vậy, Con
Mẹ đã đến trần gian để giải thoát chúng ta khỏi bị tội lỗi giam cầm và để ban cho chúng
ta” sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm 8, 21).
Theo logic Tin Mừng, sự hoà hợp với thánh ý Chúa là định nghĩa đích thực của sự tự
do. Những gì phản lại Thánh Ý Chúa đều phá huỷ phẩm giá con người và cuối cùng là phá
huỷ sự tự do của chúng ta. Hòa hợp với thánh ý Chúa luôn có nghĩa là chiến thắng tội lỗi ngay
khoảnh khắc đầu tiên. Đức Trinh Nữ vô tội là chứng cứ cho luật bất biến đó trong đời sống
kitô hữu. Việc Mẹ hoà hợp với thánh ý Chúa phụ thuộc vào ân sủng mà nhờ đó Mẹ được giữ
khỏi nhiễm lây nguyên tội và được giúp cho có thể duy trì mãi tình trạng vô tội. Chiến thắng
của Mẹ trên tội lỗi đạt được trên quan điểm sự cứu chuộc mà Con Mẹ muốn đạt tới bằng
Thánh giá và cuộc Phục sinh của Ngài.
Chúa Giêsu chết trên Thánh giá để chúng ta có thể vui hưởng sự tự do rất hiển nhiên
trong cuộc đời Mẹ Ngài. Từ Thập giá, Ngài đã chỉ định Đức Maria làm Mẹ Gioan: “này là mẹ
con”. Trong lúc ấy Đức Maria cũng trở nên Mẹ chúng ta, và từ ngày đó về sau, Mẹ, Đấng đã
tự do ưng thuận mọi điều Chúa đề nghị. Mẹ, Đấng tự do liên kết với đau khổ và cái chết của
Con Mẹ, đã muốn làm thầy dậy chúng ta trên những nẻo đường tự do90.
Tóm lại, qua biến cố truyền tin Đức Maria đã đáp lại lời đề nghị của Thiên Chúa trong
kế hoạch cứu độ nhân loại của Người bằng hai tiếng “xin vâng” trong bối cảnh Mẹ được
chính Thiên Chúa cung kính chào là Đấng đầy ơn phúc (x. Lc 1, 28.41).Nghĩa là Mẹ Maria đã
chấp nhận kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa trong tình trạng hoàn toàn an bình, thanh thản,
sáng suốt, tự do và nhất là rất xứng đáng với ơn tiền định của Thiên Chúa. Ơn tiền định của
Đức Maria là đặc biệt, vì là đối tượng được tuyển chọn làm Mẹ của Thiên Chúa. Sự tiền định
bao hàm sự tiền định của Đức Kitô. Tuy nhiên, ơn tiền định của Đức Maria không có tính tất
89 X. Lm. Mai Văn Hùng O.P, Linh Đạo Thánh Mẩu, Chân Dung Đức Maria Trong Tin Mừng, 1994, p. 11. 90 Trích lại trong Đ. H. Y James Hickey, Đức Maria Dưới Chân Thánh Giá, Dịch Giả Đức Giang, p. 98.
41
yếu và loại trừ mọi quyết định tự do của Mẹ. Mẹ không hoàn toàn thụ động như người ta đã
nói. Trái lại, với tất cả tự do và hành động, Mẹ đã đóng góp vào công trình cứu chuộc bằng
những nỗ lực nội tâm của Mẹ.
II. Những Nỗ Lực Nội Tâm Của Đức Maria Đóng Góp Vào Công Trình Cứu Chuộc
Của Thiên Chúa
1. Đức Maria, Trinh Nữ Dâng Hiến
Có nhiều bằng chứng cho thấy rằng cả cuộc đời của Đức Maria là một cuộc đời
dâng hiến. Theo tiền Phúc Âm của thánh Giacôbê cho biết: ngay từ lúc lên ba, Đức Maria
được cha mẹ là ông Gioan Kim và bà Anna đem lên đền Thờ để dâng hiến cho Thiên Chúa
theo luật Môsê91.
Sự kiện này cho biết, Đức Trinh Nữ Maria dâng mình để trọn đời hiến thân cho
Thiên Chúa, và phục vụ công trình cứu chuộc loài người.Việc Đức Maria dâng mình, Giáo
Hội cảm tạ Thiên Chúa đã tuyển chọn Đức Trinh Nữ Maria trong hàng con cái loài người.
Chuẩn bị Mẹ lên chức phẩm cao sang làm Mẹ Thiên Chúa, và cùng cộng tác trong công
cuộc cứu thế92.
Thánh Anphong nói: Mẹ Maria hiến dâng trót mình cho Thiên Chúa, đẹp lòng Người
qua hai điểm: Mẹ đã mau mắn hiến dâng không trì hoãn, và Mẹ đã tận tuyệt hiến dâng không
dành lại phần nào93. Theo công đồng Vaticano II: Đức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa,
phục vụ thân thế và sự nghiệp của Con Ngài, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, Mẹ
phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền năng và cùng với Con Ngài94. Từ dữ kiện này cho
thấy, Đức Maria dâng mình cho Chúa để thuộc trọn về Chúa, hoàn toàn vâng theo thánh ý và
dấn thân phụng sự Chúa. Mẹ hiến dâng cho Chúa cả hồn xác với mọi tư tưởng, mọi tình cảm,
mọi ước muốn, mọi hành động, mọi tài năng, mọi sự nghiệp, lòng tự do với các giác quan, để
Ngài làm chủ điều khiển theo Thánh Ý Chúa.
Việc tận hiến đời mình cho Thiên Chúa nơi Đức Maria chúng ta còn thấy rất rõ trong
biến cố truyền tin. Trong biến cố này ta thấy, Đức Maria tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa.
Mẹ tin Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, nên Mẹ chấp thuận cho Thiên Chúa can thiệp vào đời
mình. Và một khi chấp nhận cho Thiên Chúa thì không thể ngồi yên, chấp nhận Thiên Chúa là
chấp nhận lên đường; chấp nhận mọi rủi ro xảy đến trong cuộc đời Mẹ. Thật vậy, mọi sự bắt
đầu trở nên khó khăn hơn, ngay từ khi Chúa Giêsu chưa ra đời. Trước tiên, Mẹ phải hy sinh vị
hôn phu của mình, tiếp đến là sự nghi ngờ của thánh Giuse về đứa con trong bụng Mẹ. Mẹ bối
91 X. Lm Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, tập II, p. 444.92 X. Thánh Anphong, VQĐM, tập 2, p. 88-89.93 Ibid, p. 75.94 X. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Công Đồng Vaticanô II, Lumen Gentium số 56.
42
rối nhưng vẫn im lặng chấp nhận, Mẹ không nói một tiếng nào vì Mẹ biết đó là chương trình
của Thiên Chúa, Mẹ chỉ biết tin tưởng, tin tưởng và chờ đợi. Mẹ đã để cho chính Thiên Chúa
minh oan về Mẹ cho Thánh Giuse biết sự thật. Sự thật Mẹ đã dâng hiến hoàn toàn đời mình
cho Thiên Chúa95. Sự dâng hiến của Mẹ còn triệt để hơn nữa khi Đấng Cứu Thế ra đời.
Khi Chúa Giêsu ra đời một thời gian, cũng theo Luật Môsê, Đức Maria phải đem Con
mình dâng cho Thiên Chúa. Trong nghi lễ dâng Đức Chúa Giêsu trong đền Thánh ta thấy, đây
là một hành vi dâng hiến nội tâm của một người mẹ, một hành vi được cảm nghiệm và quyết
định cách sâu xa. Khi tiến về đền Thờ, Mẹ đã muốn nhìn nhận hoàn toàn quyền sở hữu của
Đấng Toàn Năng đối với Con của Mẹ, Mẹ muốn chứng tỏ với Thiên Chúa rằng mẹ coi mình
như được hiến cho Người. Mẹ hết lòng mong muốn dâng con cho Người để Người muốn định
gì về Con tuỳ ý Người.
Trong hành vi dâng hiến này, lòng quảng đại nồng nàn của Mẹ được diễn tả ra, vì
chúng ta biết Mẹ gắn bó với Chúa Giêsu hơn mọi sự ở đời này. Đức Giêsu là kho báu vĩ đại
của Mẹ. Kho báu này, Mẹ đã nhận được trực tiếp từ Thiên Chúa, nhờ việc cưu mang nhiệm lạ
do Thánh Linh thực hiện: nguồn gốc đáng kinh ngạc kỳ diệu này làm gia tăng giá trị của Con
Mẹ và làm cho Con trở nên quý hoá hơn đối với Mẹ. Do đó, việc dâng Con cho Thiên Chúa
càng là điều xót xa hơn đối với Mẹ, bởi như thế chính Mẹ đã không giữ lại cho mình, nhưng
là dâng tất cả tình thương của Mẹ cho Thiên Chúa96. Thánh Bênađô nói: “Từ lúc hiến dâng
Con mình, Mẹ có sống cũng là chết từng giây. Cứ nghĩ đến Chúa Giêsu chí ái của Mẹ phải
chết là Mẹ lại cảm thấy một nỗi đau thương tàn khốc hơn so với bất cứ cái chết nào”97.
Sự quảng đại này của trái tim một người mẹ đã làm cho lễ dâng của Mẹ thêm công
nghiệp hơn, vì như thánh Anphong nói “Mẹ Maria ý thức rằng Chúa Giêsu mà Mẹ dâng hiến
hôm nay làm lễ vật, một ngày kia sẽ chịu sát tế trên Thánh giá. Mẹ hy sinh sự sống con Mẹ
như vậy, chính là Mẹ tự hiến toàn thân cho Thiên Chúa bằng một sự hy sinh cao cả”98. Thánh
Anphong nói tiếp: “Mẹ Maria hiến dâng con chịu chết, không phải chỉ có một lần trong đền
thờ, nhưng là ở từng giây phút trong cuộc đời. Mẹ đã mặc khải cho thánh nữ Brigitta rằng
lưỡi gươm oan nghiệt cụ già Simêon tiên báo đã không bao giờ ngừng xuyên qua tâm hồn Mẹ,
cho đến ngàylinh hồn và xác lên trời”.99
Trong Huấn Giáo của Giáo Hội, Công Đồng Vatican II nói: Trong Đền Thánh, sau khi
dâng hiến lễ vật ấn định cho người nghèo, Đức Maria dâng con cho Thiên Chúa và đã nghe cụ
Simêon báo trước con Mẹ sẽ là dấu chỉ sự phản kháng, và một lưỡi gươn sẽ đâm thâu lòng
95 X. Lm Giacôbê Phạm Công Phượng, Chia Sẻ Về Đức Maria, Nxb Đông Phương, 2010, p. 147-149.96 X. Jean Galot S.J, Đấng đầy ơn phúc, Lm. Bênadô, CMC chuyển ngữ. Nxb Tôn Giáo- Hà Nội, p. 101-10697 Trích lại trong Lm Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, tập I, p. 106.98 Thánh Anphong, VQĐM, tập 2, p. 144.99 Ibid, p. 154.
43
Mẹ. Mẹ đã cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong Đền Thánh
và cùng đau khổ với Con chịu chết trên Thánh giá.100
Sự đau khổ của Đức Maria qua lời tiên báo của cụ già Simêon được Tin Mừng
thánh Luca viết như sau: “ Chính bà, một mũi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2, 35).
Lời này giải bày ra trước mắt Mẹ một cuộc khổ nạn chắc chắn trong tương lai của Chúa
Giêsu Con Mẹ, và gieo vào lòng Mẹ nỗi buồn sâu man mác. Mỗi lời của cụ già Simêon
giống như một lưỡi gươm phũ phàng đâm xé lòng bà mẹ trẻ trung mà linh hồn trắng trong
hơn tuyết, và trái tim tinh tế dịu dàng hơn tất cả các bà mẹ khác. Chưa khi nào Mẹ chứng
kiến và cảm nghiệm nỗi lòng như thế, nhưng Mẹ đã ưng thuận làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ
cũng biết rằng công cuộc cứu thế phải hoàn thành bằng khổ đau não nề, vì “không có đổ
máu, không có ơn tha thứ” (Dt 9, 22).
Lời “Con Mẹ sẽ nên dấu hiệu gây chống đối” càng làm cho lòng trinh trong đa cảm
của Mẹ sôi lên nỗi đau đớn bồi hồi, vì Mẹ yêu con như chưa từng có người mẹ nào yêu con
như thế. Khi nghĩ đến cuộc khổ nạn chắc chắn trong tương lai của Con Mẹ để cứu chuộc loài
người, lòng Mẹ héo hắt chẳng những xót xa cái đau của Con, mà cũng cảm nghiệm cái đau
của lòng Mẹ thương Con. Hai tấm lòng của hai Mẹ Con như tấm gương phản chiếu nhau,
trùng trùng, điệp điệp làm cho nỗi thươngđau ray rứt dập dồn101.
Tóm lại, suốt cuộc đời của Đức Trinh Nữ Maria là một cuộc đời dâng hiến. Việc
dâng hiến của Mẹ nói lên rằng; ngay từ lúc còn nhỏ Mẹ đã muốn mình thuộc trọn về Chúa
và để cho Chúa làm chủ hoàn toàn trên cuộc đời mình. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Mẹ
vẫn luôn kiên nhẫn, tin tưởng và hi vọng vào Chúa. Chính trong niềm tin đó đã giúp Mẹ
vượt qua rất nhiều nỗi đau thương trong cuộc đời. Trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thử
thách, Mẹ luôn nỗ lực cộng tác vào công cuộc cứu thế của Con Mẹ, đặc biệt là cuộc khổ
nạn của Chúa Giêsu trên đồi Canvê.
2. Đức Maria Trên Đồi Canvê
Lời thánh sử Gioan viết: “Đứng bên khổ giá Chúa Giêsu có Mẹ Người” (Ga 19, 25).
Lời của thánh Gioan chứng minh rằng;Mẹ luôn đồng hành với Chúa Giêsu trên đường khổ
nạn. Thật vậy, cuộc tiến bước của Đức Maria về núi sọ đã khởi sự rất sớm. Có thể nói là đã
100 X. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Công Đồng Vaticanô II, Lumen Gentium số57. 61.101 X. Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, tập I, p. 112-114.
44
được chuẩn bị trong tâm hồn Mẹ ngay từ lời tiên báo của cụ già Simêon. Như trên đã nói,
sau khi nghe lời báo trước về mũi gươm đau đớn, Mẹ không thể nào không nghĩ về kết cục
kinh khủng đó. Bình thường, Thiên Chúa không tỏ lộ trước những đau khổ mà mọi người
phải chịu. Với một người mẹ, Người không cho thấy sự khổ cực và hy sinh mà đứa con đã
bắt bà phải chịu, và càng ít cho thấy những tai hoạ xảy ra. Nhưng đối với Mẹ, Người đã có
một luật trừ. Hơn ba mươi năm về trước biến cố, Người đã cho Mẹ thoáng thấy tấm bi kịch
tại đồi Canvê.
Lý do của việc mặc khải này, đó là ngay từ khởi đầu cuộc sống của Đức Giêsu, Mẹ đã
phải hướng về hy tế cứu độ. Ngôi Lời đã Nhập Thể là để thực hiện Hy tế này. Ngài đã đến
trần gian vì giờ khổ nạn: “Lạy Cha xin cứu Con khỏi giờ này” (Ga 12, 27). Ý Thiên Chúa là
muốn liên kết Mẹ hết sức mật thiết với thân phận của Chúa Cứu Thế. Bởi đó,Người đã làm
cho tất cả cuộc sống Mẹ trở thành một cuộc tiến bước cùng với Đức Giêsu về núi sọ102.
Trên núi sọ, Mẹ Maria đã cùng chịu đau khổ với Chúa Giêsu. Như lời cụ gìa simeon
tiên báo Đức Giêsu sẽ trở thành “một dấu lạ cho người ta chống đối” và Đức Mẹ sẽ bị “một
lưỡi đòng đâm thấu trái tim Mẹ”(Lc 2, 34). Các sự ấy đã đạt tới đỉnh cao trên đồi Canvê, khi
Đức Mẹ đứng cạnh cây Thánh giá, chứng kiến cái chết đau đớn của con mình. Trên đồi
Canvê, Đức Maria đã hiến dâng của lễ lên Thiên Chúa, đã kết hợp với Chúa Giêsu trong hy lễ
tế của Chúa Giêsu. Đức Mẹ đã cùng đau khổ với Chúa Giêsu, và hiến dâng thân mình cùng
với Chúa Giêsu lên Chúa Cha103.
Ở Canvê, Mẹ kết hợp với Con mình trong tình yêu vừa siêu nhiên vừa tình mẫu tử.
Trong đức tin, Mẹ đã yêu thương người Con đang hấp hối của mình với một tình yêu của một
người mẹ. Mẹ đã cảm nghiệm thấy lòng nhân ái khôn tưởng đối với Con của Mẹ, Đấng do
tình yêu và lòng tuân phục Chúa Cha đã bỏ mạng sống mình. Do lòng nhân ái đó, Mẹ không
phẫn uất trước ý muốn của Cha trên trời; đúng hơn Mẹ muốn ôm ấp ý muốn đó. Vì Mẹ hiểu
được tình yêu của Cha đối với Con Ngài và đối với những người được cứu do cái chết của
Người Con ấy, lòng nhân ái của Mẹ phản ảnh rất rõ ràng tình yêu dịu dàng của Cha104.
Bởi đó sự hiện diện của Mẹ trên núi Sọ là một sự hiện diện tự ý. Bởi từ rất lâu trong
cuộc sống của Mẹ, Mẹ đã bước theo con đường tiến đến hy lễ chung cuộc, nên Mẹ muốn theo
con đường đó đến cùng, tận đến đỉnh núi Sọ. Mẹ đã cùng đi với Chúa Giêsu trên con đường
Ngài vác Thập giá, và đã ở sát kề Ngài lúc qụy ngã, và ở bên Ngài trong suốt cuộc khổ nạn.
Vì Mẹ muốn ở kề bên Chúa, nên Mẹ đã nhìn thấy đinh đâm vào tay chân Ngài, đã
cùng với Ngài nhận hết lời nhạo báng chửi rủa nhắm vào Ngài, đã chịu khổ bằng chính một
nỗi khổ của Ngài. Mẹ đã cho chúng ta thấy sự kiên cường của Mẹ, Mẹ đã đi đón lấy đau khổ, 102 X. Jean Galot S.J, Đấng Đầy Ơn Phúc, chuyển ngữ Lm. Bênađô, Nxb Hà Nội, 2009, p. 137103 X. Lm Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O.C, Thánh Mẫu Học, 2017, p. 90 - 91.104 X. Jame Cardinal Hickey, Đức Maria Dưới Chân Thánh Giá, Dịch giả Đức Giang. 113-121.
45
vì Mẹ muốn kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, Con của Mẹ. Thay vì thốt ra lời than vãn, Mẹ đã
tận tình dâng hy tế của Con mình. Lẽ ra Mẹ đã có thể kêu khóc, than vãn vì người ta đã cướp
đi Người Con duy nhất của Mẹ, Mẹ đã có thể phản đối, vì người ta đã sử tử Ngài trong khi
Ngài vô tội, và vì người ta áp dụng cho Ngài đủ thứ hình khổ trong khi Ngài chỉ thi thố quanh
mình bao nhiêu việc nghĩa. Mẹ đã có thể phẫn nộ chống lại sự bất công quái gở đó. Nhưng
cũng giống như Con của Mình, Mẹ đã im lặng đón nhận tất cả và nhìn nhận trong các biến cố
có ý Cha trên trời, cần phải tuân phục105.
Đúng là Mẹ luôn tuân phục Thánh Ý Chúa Cha, vì Chúa Cha muốn Mẹ cộng tác vào
công cuộc cứu độ của Con Ngài. Cùng với Chúa Giêsu, Mẹ đã công tác vào việc dâng lên Cha
một lễ tế đền tạ tội lỗi cho thế gian để nhận được ơn cứu rỗi cho nhân loại. Sau khi đã được
Đức Giêsu cứu chuộc nhờ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ đã có thể cộng tác với Ngài
trong việc cứu chuộc những kẻ khác. Hơn nữa, trong thực tế chính Con của Mẹ là Người đã
nâng đỡ lòng can đảm của Mẹ một cách bí nhiệm và giúp đỡ Mẹ có sức chịu đựng, có một
lòng đại độ hoàn toàn. Ngài làm cho Mẹ có khả năng cùng với Ngài có công đạt được sự tha
thứ tội lỗi và sự sống của ân sủng.
Dưới cây Thập giá lòng tin và lòng cậy trông của Mẹ luôn vững bền. Mẹ là người đầu
tiên đã tin vào Đức Kitô và luôn trông cậy nơi Ngài. Dưới cây thập giá đã có biết bao người
vấp ngã vì thiếu niềm tin và lòng trông cậy về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Thế nhưng, bất
chấp những dấu hiệu bên ngoài đáng nản đó. Mẹ vẫn xác tín là tấm bi kịch đang diễn ra trước
mắt mình đây sẽ kết thúc bằng sự vinh thắng của Con mình. Mũi gươm đau đớn, tuy đâm tận
đáy lòng Mẹ, vẫn không thể diệt được niềm hy vọng của Mẹ đối với Đức Giêsu. Khi thấy
Ngài chịu đau khổ và chịu chết, Mẹ đã phải đau đớn, nhưng vẫn đầy lòng trông cậy.
Đứng trên đồi Canvê, Mẹ đã dâng Con cho Chúa, Mẹ đã hứng chịu sự đau thương của
Con Mẹ, Mẹ đã kết hợp với sự đau thương ấy như là của lễ mà dâng lên Thiên Chúa Cha. Đức
thánh cha Gioan Phaolô II nói như sau: hiện diện để chứng kiến cuộc khổ nạn của Con Mẹ và
để đồng thụ nạn với Người, Mẹ Maria rất thánh đã đóng góp đặc biệt vào Phúc Âm khổ đau.
Mẹ đã thực hành trước khi thánh Phaolô quả quyết trong những lời ở những trang đầu của
Phúc Âm này. Thật vậy, Mẹ có thể quả quyết rằng Mẹ làm đầy đủ trong thân xác Mẹ, như Mẹ
đã làm trong trái tim Mẹ điều còn thiếu nơi những gian khổ của Chúa Kitô. Ánh sáng mẫu
gương vô đối của Chúa Kitô rõ ràng phản chiếu vào đời sống của người Mẹ106.
Tóm lại, qua cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu trên đồi Canvê cho thấy tình mẫu tử của Mẹ.
Mẹ đã xót xa khi thấy con mình chịu khổ nạn. Mẹ đã đau với cái đau của Con Mẹ, Trái Tim Mẹ
nát tan khi chứng kiến thảm cảnh đó. Một sự hy sinh quá sức đối với Mẹ như Công Đồng nói:
105 X. Jean Galot S.J, Đấng Đầy Ơn Phúc, chuyển ngữ Lm Bênađô, Nxb Hà Nội, 2009, p. 144.106 X. Une année avec Maria, p. 121.
46
“Đức Maria đã đau đớn chịu khổ cực với Con Một của mình và dự phần vào hy lễ của Con, với
tấm lòng của một người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế hy vật do lòng mình sinh ra”107. Như thế,
muốn trở thành hy lễ với Chúa Giêsu để dâng lên Thiên Chúa Cha, không những Mẹ đã sẵn
sàng tuân phục Thánh Ý Chúa Cha, mà còn sẵn sàng chịu đau khổ, sẵn sàng hiệp nhất với Đức
Kitô trong đau khổ và sự chết của Ngài.
3. Đức Maria Hiệp Thông Với Đau Khổ Và Sự Chết Của Chúa Kitô
Như trên đã nói, bên Thánh giá Chúa Giêsu, Mẹ đã chứng kiến cuộc khổ nạn của
Con Mẹ. Đó là nỗi khổ của một bà mẹ tận mắt nhìn thấy con hấp hối trong những tay hành
hung tàn ác nhất. Mẹ xúc động biết bao khi chứng kiến cảnh này. Mẹ đứng đó tâm hồn tê tái
sầu, lòng Mẹ như chết đi khi nhìn con dấu yêu vì nhân loại đang khổ sầu. Nỗi khổ đau của
Mẹ mênh mông, chứa chan lai láng như đại dương. Thánh Bênađô nói: “Nỗi khổ đau của
Mẹ mênh mông, lai láng, chứa chan như biển cả” cũng đủ nói lên tất cả những nỗi thống
khổ của Mẹ”108. Những nỗi thống khổ của Mẹ được thánh Bênađô coi như là cuộc tử đạo:
“Trong các cuộc tử đạo, lòng mến càng lớn lao, càng làm dịu bớt nỗi khổ đau. Còn nơi Mẹ,
Mẹ càng yêu Chúa, cuộc tử đạo của Mẹ càng đau đớn”109. Cũng trong tư tưởng đó thánh
Antonio nói: “ Trong khi các vị tử đạo hy sinh sự sống của mình, Rất Thánh Trinh Nữ chịu
tử đạo do hy sinh sự sống của Con Mẹ, một sự sống Mẹ dấu yêu hơn sự sống của Mẹ. Và
cuộc tử đạo của Mẹ vượt xa mọi khổ hình mọi người trên trần gian này phải chịu”110.
Trong một bài giảng, thánh Bênađô đã diễn giải về cuộc tử đạo của Đức Maria như sau:
Quả thật, ôi Mẹ diễm phúc, mũi gươm đã đâm thấu hồn Mẹ. Nó không đâm thấu hồn Mẹ sao
được khi nó đâm vào thân xác Con Mẹ! Thật vậy, Đức Giêsu tuy là của mọi người nhưng phải
nói đặc biệt là của Mẹ, khi người đã trút linh hồn thì lưỡi gươm tàn bạo không còn làm tổn
thương cho linh hồn Người nữa, nó không tha cho kẻ đã chết mà nó không còn làm hại gì được;
nó đâm thủng cạnh sườn Người, nhưng thực ra nó đã đâm thấu hồn Mẹ. Linh hồn Người không
còn ở đó nhưng tâm hồn Mẹ thì không sao tránh được. Sự đau đớn đã đâm thâu tâm hồn Mẹ,
khiến chúng con có thể nói một cách thích đáng rằng Mẹ còn hơn người tử đạo, vì nơi Mẹ niềm
cảm thông đau khổ của Con khiến Mẹ đau đớn hơn cả sự đau đớn trên thể xác111.
Thánh Phanxico Salesio nói: “Những mũi đanh đóng vào Con Mẹ thì cũng đóng vào trái
tim Mẹ. Những mũi gai đâm vào đầu Con thì cũng đâm vào tâm hồn Mẹ. Lưỡi gươm đâm thâu
107 GH 58; xem thêm Marialis cultus, 20108 Trích lại trong Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, tập II, p. 396.109 Thánh Anphong, VQĐM, tập 2, p. 223-224.110 Trích lại trong Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, tập II, p. 389.111 X. Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, Quyển 2, p. 1061 – 1062.
47
thân xác Con thì cũng đâm thâu trái tim Mẹ, hoàn hảo đến nỗi không có gì làm Con bị thương
mà không làm Mẹ bị thương”112.
Đức thánh cha Gioan Phaolô II chia sẻ về sự hiệp thông trong đau khổ và sự chết của
Chúa Giêsu như sau: bây giờ trong viễn cảnh phục sinh, chúng ta hãy trở lại dưới chân Thập
Giá, nơi người Mẹ “Đã đau đớn chịu khổ với con một của mình và dự phần vào hy lễ của con
với tấm lòng của một người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh ra” (LG 58).
Với những lời đó, Công Đồng nhắc chúng ta nhớ lại “lòng trắc ẩn của Đức Maria”; trong tim
Bà dội lại tất cả những gì Chúa Giêsu chịu đựng trong thân xác và linh hồn, đề cao lòng mong
muốn của Bà được chia sẻ với hy lễ cứu chuộc của Con Bà, và nối kết sự đau đớn tình Mẹ của
Bà với sự hiến dâng tư tế của Con Bà113.
Đức thánh cha Gioan Phaolô II giải thích bản văn Công Đồng và nhấn mạnh rằng sự
ưng thuận của Bà hiến tế Chúa Giêsu không phải là một sự chấp thuận thụ động, nhưng đó là
một hành động tình yêu đích thực, qua đó Bà dâng con mình như của lễ hy sinh đền tội toàn thể
nhân loại. Sau hết, hiến chế Lumen Gentium liên kết Đức Trinh Nữ rất thánh với Chúa Kitô.
Đấng giữ vai trò dẫn đầu trong công trình cứu chuộc. Công Đồng đã thấy rõ rằng khi “ dự phần
vào hy lễ Con mình” Bà vẫn phục tùng Con Thiên Chúa của Bà114.
Trong một lần khác, Đức thánh cha Gioan Phaolô II nói: Sự hợp tác của Đức Maria
là hoàn toàn có một không hai; nền tảng sự hợp tác kỳ diệu này là chức làm Mẹ Thiên Chúa
của Đức Maria và dự phần của Bà trong đời sống Chúa Giêsu, một dự phần tới cao điểm
dưới chân Thánh Giá. Đức thánh cha Gioan Phaolô II giải thích về sự hợp tác này của Đức
Maria: dọc qua các thế kỷ, Giáo Hội đã suy nghĩ về sự hợp tác của Đức Maria trong công
trình cứu rỗi, bằng cách phân tách sâu rộng sự dự phần của Bà với hy lễ cứu chuộc của Đức
Kitô. Thánh Augustino đã tặng Đức Trinh Nữ Rất Thánh tước hiệu “cộng sự viên” trong sự
cứu chuộc115. Do đó trong hiện tại giáo huấn của Giáo Hội phân định rõ rệt giữa Mẹ và Con
trong công trình cứu rỗi, giải thích sự tuỳ thuộc của Đức Trinh Nữ Rất Thánh như là người
hợp tác của Đấng Cứu Chuộc.
Đức Thánh Cha giải thích thêm rằng: vai trò của Đức Maria Rất Thánh như người hợp
tác, bắt nguồn trong chức làm Mẹ Thiên Chúa của Bà: nhờ sinh ra Đấng được chỉ định thực
hiện việc cứu rỗi con người, nhờ nuôi nấng Người, dâng Người trong Đền Thánh và đau khổ
với Người khi Người chết trên Thánh Giá, “Đức Maria đã cộng tác rất đặc biệt vào công trình
112 Trích lại trong Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, tập II, p. 389-390.113 X. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, 70 Bài Giáo Lý Về Đức Maria, chuyển ngữ Lm Phêrô Nguyễn Quang Sách, p. 134-135.114 Ibid, p. 135 – 136.115 X. De sancta Virginitate 6, Pl 40, 399
48
của Đấng Cứu Chuộc, thì sự dự phần của Mẹ Đấng Cứu Thế vào sự cứu rỗi nhân loại là một sự
kiện vô song và không tái diễn116.
Như vậy, sự đồng lòng thuận ý của Mẹ và của Chúa Giêsu với thánh ý Chúa Cha là một
như thánh Bônaventure nói: “Không phải nghi ngờ rằng với một tấm lòng mãnh liệt và một sự
quyết tâm bền vững, Mẹ Maria muốn trao phó Con Mẹ cho phần lỗi toàn thể loài người, đến
nỗi rằng Mẹ hoàn toàn tuân hợp với Thánh Ý Chúa Cha. Do vậy, điều chúng ta phải cảm mến,
ngợi khen Mẹ hơn hết là điều Mẹ đã vui lòng chấp nhận cho Con Một của Mẹ hy hiến để cứu
chuộc loài người”117.
Tóm lại, theo Sách Giáo Lý Công Giáo số 964 thì: “Sự liên kết của Đức Maria với
người Con trong công cuộc cứu độ được biểu lộ từ lúc Mẹ thụ thai Đức Kitô cách trinh khiết
cho đến lúc Chúa chịu chết. Trong giờ khổ nạn của Người, sự liên kết đó được biểu lộ cách
đặc biệt: trong cuộc lữ hành đức tin, và Mẹ đã trung thành gìn giữ sự hiệp nhất với Con cho
đến tận Thập Giá, Mẹ đứng đó không ngoài kế hoạch của Thiên Chúa, Mẹ đã cùng chịu đau
khổ cách khủng khiếp với Người Con Một của mình và liên kết với hy lễ của Người bằng tình
mẫu tử, đồng thuận cách yêu thương với lễ phẩm bị sát tế do lòng Mẹ sinh ra”. Mẹ đứng đó
cùng với Người và với toàn thể Giáo Hội trong mọi nỗi cay đắng, để nhân loại mà Mẹ đại
diện, được thông phần ơn cứu chuộc với Chúa Kitô. Từ điều này cho thấy, đó là mối dây liên
hệ mật thiết giữa Đức Maria và Giáo Hội trong sự tiền định của Thiên Chúa mà người viết
muốn trình bày ở chương sau.
Chương III.
MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐỨC MARIA VÀ GIÁO HỘI
TRONG SỰ TIỀN ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA
116X. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, 70 Bài Giáo Lý Về Đức Maria, chuyển ngữ Lm Phêrô Nguyễn Quang Sách, p. 136-137.117 St. Bonaventure, In I.D. 48a, 2g. 2ad ultin.
49
Trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, Ngài đã tiền định cho Đức Maria là Mẹ
Thiên Chúa và là Mẹ Của Giáo Hội. Trong mối dây liên kết này, Công Đồng Vaticano II nối
kết chặt chẽ với truyền thống đã soi rọi một ánh sáng mới lên vai trò của Thân Mẫu Đức Kitô
trong đời sống Hội Thánh: “Đức Trinh Nữ, nhờ ân huệ…làm Mẹ Thiên Chúa, nhờ đó mẹ
được liên kết với Con là Đấng cứu chuộc, và nhờ các ơn và nhiệm vụ đặc biệt khác, Mẹ còn
liên kết với Hội Thánh…Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Hội Thánh trên bình diện đức tin,
đức ái và hợp nhất hoàn hảo với Đức Kitô” (LG 63). Đây là vấn đề mà Công Đồng muốn
chúng ta học hỏi và xác định một cách rõ ràng hơn trong mối tương quan này.
I. ĐỨC MARIA VÀ GIÁO HỘI
1. Đức Maria Được Tiền Định Làm Mẹ Của Giáo Hội
Do sự tiền định đặc biệt của Thiên Chúa, Đức Maria đã trở nên Mẹ Chúa Giêsu do cùng
một định lệnh. Đức Pio XII trong Tông Huấn Munificentissimus Deus, 1950 nói rằng: “Mẹ
Thiên Chúa đã liên kết một cách mầu nhiệm với Đức Kitô từ muôn thuở bởi cùng một định lệnh
tiền định”. Vì thế việc tiền định cho Đức Maria không thể tách rời việc tiền định Đức Kitô.
Thiên Chúa đã tiền định cho Ngôi Lời mặc lấy bản tính nhân loại cách cụ thể bởi Đức Maria (x.
Gl 4, 4). Bởi lẽ nhờ việc Nhập thể, Đức Kitô mới có thể là Đầu và là Thủ lãnh của nhân loại.
Kết hợp nhân loại với Người thì được qua trung gian một Người Mẹ nhân loại. Hai việc tiền
định này gắn liền với nhau118. Như vậy, từ muôn thuở, Thiên Chúa đã tiền định cho Đức Maria
là Mẹ Thiên Chúa thì cũng tiền định cho Đức Maria là Mẹ nhân loại (Mẹ Hội Thánh), người
đầu tiên sát nhập với Đức Kitô một cách hoàn hảo và mang lại lợi ích cho con người119.
Nhắc lại Hiến Chế Lumen Gentium, số 61 để thấy rằng: “Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ
Maria đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa... Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa
Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong đền thờ và cùng đau khổ với Con mình chết trên
Thập giá, Đức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu Thế, nhờ
lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho
các linh hồn. Bởi vậy trên bình diện ân sủng ngài thật là Mẹ chúng ta, là Mẹ của Hội Thánh”.
Theo như Truyền thống và huấn quyền của Giáo Hội thì, ngay từ thế kỷ thứ II, dựa
trên nền tảng Kinh Thánh, các giáo phụ như thánh Jutin, và thánh Irénée đã coi Đức Maria
như là người Mẹ của nhân loại, Mẹ của Giáo Hội, khi so sánh Đức Maria là Evà mới, liên kết
với Đức Kitô là Adam mới. Mà chữ Evà trong Kinh Thánh có nghĩa là Mẹ của chúng sinh120.
Với tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, chúng ta thấy có sự tiến triển dần dần. Từ
công đồng Ephêsô đến thời Trung cổ, từ truyền thống cho đến các nhà thần học dựa vào tương 118 X. Học Viện Châu Sơn, Giáo Trình Thánh Mẫu Học, p.46.119 Ibid, p. 49.120 X. Lm. Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O.C, Thánh Mẫu Học, 2017, p. 224.
50
quan tam giác: Đức Kitô – Đức Maria – Hội Thánh, để nói về mẫu tính thiêng liêng của Đức
Maria với Hội Thánh, nhiệm thể Chúa Kitô. Nói như vậy để thấy rằng, tước hiệu Đức Maria
là Mẹ Hội Thánh đã có từ rất sớm, nhưng không được phổ biến trong thần học và trong đời
sống Giáo Hội121.
Nói về Đức Maria, Mẹ Hội Thánh, sách Giáo Lý Công Giáo số 963 nói như sau: “Thật
vậy, Đức Trinh Nữ Maria được nhận biết và tôn kính với tư cách là Mẹ thật của Thiên Chúa là
Đấng Cứu Chuộc, Mẹ cũng thật là Mẹ các chi thể của Đức Kitô bởi vì đã cộng tác bằng đức
mến để các tín hữu được sinh ra trong Hội Thánh, được là chi thể của Đức Kitô là Đầu của Hội
Thánh. Đức Maria là Mẹ Đức Kitô, cũng là Mẹ Hội Thánh.” Việc Đức Maria làm Mẹ Hội
Thánh, sách Giáo Lý Công Giáo, số 970 giải thích như sau: “Nhiệm vụ làm Mẹ của Đức Maria
đối với loài người… không hề làm lu mờ hay suy giảm sự trung gian duy nhất của Đức Kitô,
nhưng tỏ cho thấy uy lực của sự trung gian ấy. Thật vậy, mọi dòng chảy mang ơn cứu độ của
Đức Trinh Nữ…đều bắt nguồn từ công nghiệp đầy tràn chan chứa của Đức Kitô, dựa trên sự
trung gian của Người, hoàn toàn lệ thuộc vào sự trung gian đó, và múc lấy mọi sức mạnh từ
đó”. Vì vậy, dù Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, nhưng không ở ngoài hay ở trên Giáo Hội, mà là
phần tử của Giáo Hội, vả lại là phần tử cao vời, trổi vượt nhất của Giáo Hội. Với tư cách là Mẹ
Chúa Giêsu, Đức Maria đã góp phần ảnh hưởng ngay trong việc thành lập Giáo Hội122.
Trong giáo huấn của Giáo Hội: đức Benedictô XIV (tk 18) đã coi Đức Maria là Mẹ
Giáo Hội (TĐ “Gloriosae Dominae”, 1897). Đức Leo XIII cũng thế. Đức Gioan XXIII đã năm
lần gọi Mẹ Maria là Mẹ Giáo Hội trong các cuộc nói chuyện. Công đồng Vaiticano II dầu
không muốn chính thức tặng cho Đức Maria tước hiệu là Mẹ Giáo Hội, cũng đã khẳng định
rằng: Giáo Hội tôn kính Mẹ Maria như người ta tôn kính một người mẹ (x. LG 53). Chính đức
Phaolô VI long trọng tuyên bố ngay trong buổi họp công đồng chung Vaticano II để ban hành
Hiến Chế Tín Lý về bản chất Giáo Hội Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân) vào ngày
21/11/1964 như sau:
“Khi chúng ta xét đến những liên hệ chặt chẽ gắn bó Đức Maria và Giáo Hội, như
những mối liên hệ đã được diễn đạt hết sức rõ ràng trong hiến chế công đồng này, những mối
liên hệ này khiến chúng ta phán quyết, trong giây phút rất long trọng này đây, đặc biệt rất
thích đáng để làm mãn nguyện một ước vọng, một ước vọng chúng tôi bộc lộ ở vào lúc kết
thúc buổi họp cuối này, và cũng là uớc vọng của rất nhiều nghị phụ, khẩn khoản yêu cầu là
trong công đồng đây, vai trò từ mẫu mà Đức Trinh Nữ Maria thực hiện đối với Dân Kitô
Giáo cần phải được công bố bằng những từ ngữ rõ ràng. Vì lý do này, chúng tôi thấy rằng,
trong cuộc họp công khai này, chúng tôi phải chính thức công bố tước hiệu mà Đức Trinh Nữ
121 Ibid, p. 224.122 X. Học Viện Thần Học Thánh Gia, Giảng Trình Thần Học Về Đức Trinh Nữ Maria, Nk 2010 – 2012, p. 90-91.
51
Maria cần được tôn kính, tước hiệu đã được đệ xin từ nhiều nơi trong Giáo Hội hoàn vũ, và
cũng là một tước hiệu đối với chúng tôi đáng chấp nhận và khoả lòng cách đặc biệt; vì tước
hiệu này mang lại một cách xác thực tuyệt vời vị trí hiển nhiên xứng hợp với Mẹ Thiên Chúa
trong Giáo Hội được công đồng này công nhận. Bởi thế, để vinh danh Đức Trinh Nữ và để
chúng ta được an ủi, chúng tôi tuyên bố rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội, tức Mẹ của toàn
thể Dân Kitô Giáo, cả giáo dân lẫn mục tử, thành phần gọi người là một người Mẹ rất yêu
dấu; và vì thế chúng tôi truyền toàn thể Dân Kitô Giáo hãy dâng lên Mẹ Thiên Chúa một niềm
kính tôn hơn nữa và hãy nguyện cầu người bằng tên gọi rất ngọt ngào này”123.
Sau lời tuyên bố của đức Phaolô VI cho thấy: Hội Thánh không ngần ngại tuyên xưng
vai trò tuỳ thuộc này của Đức Maria; Hội Thánh cảm nghiệm điều này và khuyến khích các
tín hữu với lòng đạo đức gắn bó mật thiết hơn với Đấng trung gian và Đấng cứu độ, nhờ sự
nâng đỡ từ mẫu này. Để cho lòng tôn kính của các tín hữu đối với Đức Maria ngày một xác
tín hơn “sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã dành riêng 13 số (963 – 975) nói về vai trò
Đức Mria trong Hội Thánh. Đức Maria được đặt trong mối tương quan với Đức Kitô và Hội
Thánh: Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, Mẹ Hội Thánh”124.
Tóm lại, từ muôn đời Thiên Chúa đã muốn cho Đức Maria giữ một vị trí đặc biệt, vị
trí của một người mẹ. Sau khi đã ban cho chúng ta Con Thiên Chúa làm người, Mẹ còn mở
rộng sứ mệnh hiền mẫu của mình đến toàn thể Nhiệm Thể Chúa Kitô. Sự kiện đức Phaolô
VI công bố tước hiệu Đức Maria, Mẹ Giáo Hội là hết sức phù hợp vì, Đức Maria là hình ảnh
Giáo Hội do chức vị làm mẹ. Đức Maria đã chịu thai bởi phép Chúa Thánh Thần và đã sinh
con. Giáo Hội cũng sinh ra các nghĩa tử của Đức Chúa Cha nhờ nước và Thánh Thần. Chúa
Giêsu đã sinh ra do Đức Maria về phần xác và trở nên Đầu của chúng ta. Chúng ta được Mẹ
Giáo Hội sinh ra và trở nên chi thể Chúa Kitô. Mẹ là hình ảnh Giáo Hội vì là Mẹ Giáo Hội,
nên Mẹ cũng có ảnh hưởng khai sinh trong Giáo Hội. Hơn nữa, giữa Đức Maria và Giáo Hội
có rất nhiều điểm giống nhau, vì Giáo Hội của Chúa là Giáo Hội duy nhất, thánh thiện và
tinh tuyền. Cho nên Thiên Chúa đã muốn đặt Mẹ làm khuôn mẫu cho Giáo Hội, là gương
thánh thiện cho Giáo Hội.
2. Đức Maria Là Gương Thánh Thiện Cho Giáo Hội
Trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng rằng có một Giáo Hội Công Giáo Thánh
Thiện. Thật vậy, chúng ta có một Giáo Hội Thánh Thiện vì có Đức Kitô là Đấng Thánh, là
Đầu Hội Thánh. Trong Giáo Hội Thánh Thiện này chúng ta có Đức Maria luôn sống thánh
thiện theo lời kêu gọi của Thiên Chúa là : “Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”
123 Trích từ “Theotokos”, by Michael O’Carrol, C.S.Sp, Michael Glazier, Inc…third revised edition, 1988, p. 251.124 Lm. Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O.C, Thánh Mẫu Học, 2017, p. 225.
52
(1Pr 1, 16). Sự thánh thiện của Đức Maria là mẫu gương thánh thiện cho chúng ta và cho
toàn thể Giáo Hội.
Nói về sự thánh thiện của Đức Maria, Giáo Hội đã từng bước ý thức rằng sự thánh
thiện của Đức Maria thật hoàn hảo vì người là Mẹ Thiên Chúa, vì mối liên kết độc nhất và
trực tiếp của Người với Chúa Kitô là Đấng Thánh. Đấng Thánh đã được sinh ra từ một
người Mẹ vừa Đồng Trinh, vừa thánh thiện tinh tuyền. Như sách Giáo Lý Công Giáo, số
492 nói: “Mẹ có được sự thánh thiện tuyệt vời có một không hai, ngay từ lúc tượng thai” (x.
LG 56) hoàn toàn là do Đức Kitô”125. Cũng trong sách Giáo Lý Công Giáo, số 493 “các
Giáo phụ Đông Phương gọi Mẹ Thiên Chúa là Đấng Rất Thánh (Panaghia) và tôn vinh Mẹ
là “Đấng không hề vương nhiễm một tội nào, như một thụ tạo mới do Chúa Thánh Thần
nắn đúc và tác tạo” (x. LG 56), nhờ ân sủng Thiên Chúa, Đức Maria suốt đời vẫn tinh tuyền
không hề phạm tội riêng nào”126.
Hơn nữa, khi nói về sự thanh sạch và thánh thiện toàn hảo của Đức Maria, thánh
Ephrem xác quyết rằng: “Người và Mẹ Người, đẹp đẽ tuyệt vời; Lạy Chúa, nơi Người không có
tỳ vết, và nơi Mẹ Người cũng không có tỳ vết”127. Thánh Augustin xác nhận mọi người đều là tội
nhân, “trừ Đức Trinh Nữ Maria mà tôi phải bỏ ra vì danh Thiên Chúa, khi nói về tội lỗi”128.
Thật vậy, Sự thánh thiện của Đức Maria luôn được đề cao trong lòng Giáo Hội. Thế
nhưng, sự thánh thiện đó chỉ là hậu quả của ân sủng của người trong linh hồn và trong hành
động của người. Vì thế, chúng ta cần lưu ý rằng: chỉ có Đức Kitô là “Đấng Thánh”, Đức Kitô là
con đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha (x. Ga 14, 4 – 11). Đức Kitô là mẫu mực tuyệt vời mà
người môn đệ phải noi theo để sống (x. Ga 13, 15) cho đến khi cùng mang tư tưởng nơi Người
(x. Pl 2, 5), sống cuộc sống của Người và nhận lãnh thần khí của Người (x. Gl 2, 20; Rm 8, 10 –
11). Hội Thánh luôn huấn dạy như thế và không có gì có thể làm lu mờ giáo thuyết này, ngay cả
trong mục vụ. Nhờ Thánh Thần hướng dẫn và được hưởng bao kinh nghiệm trong nhiều thế kỷ.
Hội Thánh công nhận lòng nhiệt thành đối với Đức Trinh Nữ Maria, hoàn toàn tuỳ thuộc vào
liên hệ đến lòng tôn thờ Đấng Cứu Thế, rất hữu hiệu trong đời sống mục vụ, đồng thời cũng tạo
được sức mạnh để canh tân đời sống tín hữu.
Cũng trong tư tưởng đó, cha Laurentin khi diễn giải bản văn Công Đồng Vaticano II
về Đức Maria, nhận định rằng: Đức Maria luôn là người đi bên Đức Kitô trước Giáo Hội,
Giáo Hội chỉ thành hình để trở thành nhiệm thể Chúa Kitô vào ngày hiện xuống. Còn Đức
Maria thì đi trước Giáo Hội. Bởi là người đi trước, Đức Maria được coi là nguyên mẫu của
Giáo Hội, là khuôn mẫu mà tất cả những gì đến sau phải rập theo cho thật đúng. Đức Maria là
125 Trích lại trong Lm Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O.C, Thánh Mẫu Học, 2017, p. 206.126 Ibid, p. 206.127 Ibid, p. 202.128 Ibid, p. 202.
53
sự thành tựu đầu tiên và điển hình, làm chuẩn mực cho Giáo Hội. Đức Maria đã đạt tới đâu thì
Giáo Hội cũng đạt tới đó129.
Chính vì thế, đối với người tín hữu, lòng nhiệt thành đối với Mẹ Thiên Chúa là cơ hội
để phát triển trong ân sủng của Thiên Chúa. Mẫu gương thiện toàn của Đức Trinh Nữ Maria
lôi cuốn tín hữu “ngước mắt nhìn lên Đức Maria là một mẫu gương nhân đức sáng ngời cho
toàn thể cộng đoàn những người được tuyển chọn” (LG 65). Để từ đó, học theo các nhân đức
thánh thiện của Mẹ đã được nhắc đến trong các sách Phúc Âm như:
+ Đức tin thánh thiện và ngoan ngoãn chấp nhận Lời Chúa (x. Lc 1, 26 – 38; 1, 45; 11,
27 – 28; Ga 2, 5).
+ Vâng lời quảng đại (x. Lc 1, 38).
+ Khiêm nhường thành thật (x. Lc 1, 48).
+ Sự khôn ngoan trong suy tư (x. Lc 1, 29.34; 2, 19.33.51).
+ Lòng nhiệt thành đối với Thiên Chúa giúp Mẹ sốt sắng chu toàn các phận vụ Tôn
giáo (x. Lc 2, 21.22 – 40.41), tri ân khi nhận lãnh ân sủng (x. Lc 1, 46 – 49), hiến dâng trong
đền Thờ (x. Lc 2, 22 – 24), cầu nguyện giữa cộng đoàn (x. Cv 1, 12 – 14), tinh thần mạnh mẽ
trong cuộc di tản ( x. Mt 2, 13 – 23) trong đau thương (x. Lc 2, 34 – 35.49; Ga 19, 25).
+ Sự khó nghèo đầy phẩm cách và phó thác vào Thiên Chúa (x. Lc 1, 48; 2, 24).
+ Luôn dõi theo Con, chăm sóc Con từ lúc hạ sinh cho đến khi chết ô nhục trên Thánh
giá (x. Lc 2, 17; Ga 19, 25 – 27).
+ Tiên liệu tinh tế (x. Ga 2,1 – 11).
+ Trinh khiết vẹn tuyền (x. Mt 1, 18 – 25; Lc 1, 26 -38).
+ Tình yêu gia đình mãnh liệt và trong trắng (Lc 1, 28).130
Nói chung, sự thánh thiện của Đức Maria với các nhân đức của Mẹ sẽ điểm trang cho
đoàn con trung thành noi gương và chiếu giải tấm gương ấy trong cuộc sống của họ. Như công
đồng Vaticano II nói rằng: Đức Maria đã tham dự mật thiết vào lịch sử cứu độ và một cách
nào đó, ngài đã nối kết và làm vang vọng nơi mình những giáo lý đức tin cao cả nhất, khi các
tín hữu nghe rao giảng về ngài và sùng kính ngài, ngài mời gọi họ đến với Con ngài, và đến
với tình yêu của Chúa Cha. Trong cuộc sống, Đức Trinh Nữ Maria đã là tấm gương của tình
yêu thương mang đậm tính hiền mẫu, một tình yêu cần được thể hiện cách sống động nơi tất
cả những ai đang cộng tác vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội để tái sinh nhân loại131.
Tóm lại, sự thánh thiện mà Đức Maria đã sống trong thế gian là mẫu gương thánh
thiện cho Giáo Hội. Lý do đưa đến hiệu quả trên thật dễ hiểu khi xét đến các nhân đức đa
129 X. Lm Nguyễn Văn Tuyên, Đức Maria Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể, Nxb Tôn Giáo, 2000, p. 115.130 X. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Tông Huấn Marialis Cultus, Số 57, Về Việc Tôn Kính Đức Maria, ban hành ngày 2. 2. 1974.131 X. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Công Đồng Vativanô II, Lumen Gentium số 65.
54
dạng trong sứ mệnh của Đức Maria, và khi thấy các nhân đức ấy với hiệu quả riêng biệt
nhưng cùng hướng về một mục đích chung, đó là sinh lại những phẩm tính thiêng liêng của
Người Con Trưởng nơi đoàn con cái của Mẹ. Sứ vụ trung gian từ mẫu, đời sống thánh thiện
gương mẫu, và ơn thánh nơi Mẹ đã trở thành một lý do hy vọng lành thánh cho nhân loại, cho
Giáo Hội, và cho lý tưởng hiệp nhất trong Giáo Hội.
3. Đức Maria Và Sự Hiệp Nhất Trong Giáo Hội
Như Chúa Giêsu đã xin với Chúa Cha rằng: “Xin cho tất cả nên một, như Cha ở trong
Con và Con ở trong Cha” (Ga 17, 21). Đây là lời khẩn khoản nài xin của Chúa Giêsu về sự
hiệp nhất trong Giáo Hội. Với lời cầu xin này Giáo Hội không ngừng nỗ lực sống và rao giảng
về sự hiệp nhất trong Đức Kitô. Trong sự hiệp nhất đó, chúng ta có Đức Maria là mẫu gương
và là mối dây liên kết hoàn hảo nhất cho Giáo Hội.
Thật vậy, trong niềm tin của Đức Maria, khởi đầu từ truyền tin và được hoàn thành ở
dưới chân Thập giá, một không gian nội tâm trong một con người được mở ra, trong đó Thiên
Chúa Cha đổ tràn đầy tất cả mọi phúc lành thiêng liêng trong chúng ta: đó là không gian của
Giao Ước mới và vĩnh cửu132. Không gian này vẫn tồn tại trong Hội Thánh; một Hội Thánh
được xem như là một bí tích của sự kết hiệp mật thiết giữa Thiên Chúa và sự hiệp nhất của
toàn thể nhân loại133. Trong niềm tin đã được tuyên xưng vào giây phút truyền tin như là nữ tỳ
của Thiên Chúa, Đức Maria không ngừng đi trước Dân Thiên Chúa trên khắp mặt đất, đó là
Hội Thánh luôn nỗ lực quy tụ toàn thể nhân loại…dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô, trong
sự hiệp nhất của Thánh Thần Người134. Thánh Thần thúc giục hết thảy các môn đệ Chúa Kitô
ước muốn và hành động để tất cả được an bình hiệp nhất trong một đoàn chiên dưới quyền
một chủ chăn duy nhất, theo cách thức Chúa Kitô đã vạch ra135.
Nói về Đức Maria mẫu gương của sự hiệp nhất trong Giáo Hội, đức thánh cha Gioan
Phaolô II, trong thông điệp Redemptoris Mater, số 30 nói như sau: “trong trình thuật Đức
Maria ở giữa các Tông Đồ cầu nguyện chờ đợi Chúa Thánh Thần gợi lên một hình ảnh rất
đẹp về sự hiệp nhất, mà trước hết là sự đồng tâm nhất trí nơi cộng đoàn Hội Thánh tiên khởi
(x. Cv 1, 14). Thật vậy, ngay từ buổi bình minh của Hội Thánh, khởi đầu từ cuộc hành trình
trong đức tin, được khai mở nhờ ngày lễ Ngũ Tuần tại Giêrusalem, Đức Maria hiện diện cùng
với tất cả những người tạo thành nền tảng cho “dân Israel mới”. Mẹ hiện diện giữa họ như
chứng nhân đặc biệt cho mầu nhiệm Chúa Kitô. Hội Thánh kiên tâm cầu nguyện cùng với Mẹ,
đồng thời chiêm ngắm Mẹ trong vinh quang của Ngôi Lời nhập thể (x. LG 65). Mẹ trở nên
132 X. Sách Lễ Rôma, Lời Truyền Phép Rượu Trong Các Kinh Nguyện Thánh Thể. 133 X. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Công Đồng Vativanô II, Lumen Gentium, số 1.134 Ibid, LG, 13. 135 Ibid, LG, 15.
55
biểu tượng cho sự hợp nhất trong một chủ chiên duy nhất là Đức Kitô và đó cũng là tâm
nguyện của Đức Kitô khi cầu xin Chúa Cha cho mọi người luôn hiệp nhất nên một (x. Ga 17),
chỉ có thể tìm được sự hiệp nhất, khi dựa trên sự hiệp nhất đức tin. Trong cuộc lữ hành đức
tin, Đức Maria luôn là gương mẫu của sự hiệp nhất”136.
Tuy nhiên, trong cuộc lữ hành đức tin của Giáo Hội, chúng ta thấy có những lúc thăng
trầm, có những lúc bị hiểu lầm và chia lẽ. Điều này chúng ta có thể thấy rõ, khi nhìn vào Giáo
Hội duy nhất của Thiên Chúa, ngay từ buổi sơ khai đã xuất hiện ít nhiều rạn nứt (x. 1Cr 11,
18 – 19; Gl 1, 6 -9; 1Ga 2, 18 – 19) mà thánh Tông Đồ đã nghiêm khắc khiển trách như một
điều cần ngăn chặn (x. Cr 1, 11tt; 11, 22); rồi trong thời đại kế tiếp, lại nảy sinh nhiều phân rẽ
trầm trọng hơn và nhiều cộng đoàn lớn đã tách khỏi sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội
Công Giáo, đôi khi do sai lỗi của cả hai bên137.
Mặt khác, khi chúng ta trình bày về lòng tôn sùng và giáo lý về mối tương quan giữa
Đức Maria với Giáo Hội cũng có thể là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến mâu thuẫn chia rẽ
và tiếp tục chia rẽ các Kitô hữu. Đôi khi vai trò ấy có vẻ tiêu cực, trở thành tác nhân gây đối
kháng. Nhưng trên căn bản thì vai trò của Đức Maria vốn phục vụ một mục tiêu tích cực, soi
dẫn con đường các Kitô hữu không ngừng tiến đến hiệp nhất đức tin trong Chúa Giêsu Kitô.
Với ý thức rõ ràng và phổ biến, cần phải thể hiện sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu,
phong trào đại kết phải công nhận rằng, về phía Giáo Hội Công Giáo, điều này được diễn tả
thật minh bạch trong các tác phẩm của công đồng Vaticano II. “Người Kitô hữu phải đào sâu
“vâng phục đức tin” nơi bản thân cũng như nơi từng cộng đoàn, mà Đức Maria là mẫu
gương tiên khởi và sáng chói nhất. Chỉ vì Mẹ “chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững
vàng và niềm an ủi cho Dân Chúa đang lữ hành cho tới ngày Chúa đến (LG 68)138.
Vì vậy, các Kitô hữu biết rằng chỉ có thể tìm lại sự hiệp nhất, khi dựa trên sự hiệp
nhất đức tin. Họ phải vượt qua những khác biệt nghiêm trọng trên bình diện giáo lý về mầu
nhiệm và chức vụ của Hội Thánh và đôi khi về vai trò Đức Maria trong công cuộc cứu độ
(UR 20). Những cuộc đối thoại của Hội Thánh Công Giáo với các Giáo Hội và các cộng
đoàn Giáo Hội Đông Phương (UR 19), đã được bắt đầu, ngày càng quy về hai khía cạnh gắn
liền với nhau của một mầu nhiệm cứu độ. Nếu mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể hé mở cho
chúng ta thấy mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa và nếu việc chiêm ngắm Mẹ Thiên Chúa giúp
chúng ta hiểu sâu hơn Mầu Nhiệm Nhập Thể, thì điều này cũng đúng khi nói về mầu nhiệm
Hội Thánh và về vai trò của Đức Maria trong công trình cứu độ. Khi tìm hiểu sâu các mầu
nhiệm này và được mầu nhiệm này soi sáng mầu nhiệm kia, các kitô hữu ao ước thực thi điều
136 Trích lại trong Lm Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, O.C, Thánh Mẫu Học, 2017, p. 94.137 X. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Công Đồng Vativanô II,Unitatis Redintegratio, số 3.138 Trích lại trong Lm Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Huấn Quyền Về Đức Trinh Nữ Maria, Nxb Tôn Giáo, 2007, p. 141 – 142.
56
Chúa sẽ nói với họ, như Đức Maria căn dặn họ, để có thể cùng nhau tiến bước trong “cuộc lữ
hành đức tin”, mà Đức Maria luôn là gương mẫu: Mẹ sẽ dẫn họ đến sự hiệp nhất mà Chúa
duy nhất của họ ước muốn và tất cả những người chăm chỉ lắng nghe “điều Thánh Thần nói
với các Giáo Hội ngày hôm nay” (Kh 2, 7; 11, 17) cũng ước muốn mãnh liệt như thế139.
Về sự hiệp nhất này, “Thánh Công Đồng rất vui mừng và được an ủi khi thấy trong số
các anh em ly khai, không thiếu những người dâng lên Mẹ Chúa Cứu Thế vinh dự ngài đáng
được, nhất là Giáo Hội Đông Phương, những người sốt sắng và thành tâm tôn kính Thánh
Mẫu Thiên Chúa trọn đời đồng trinh. Tất cả các Kitô hữu hãy tha thiết khẩn nguyện Mẹ Thiên
Chúa cũng là Mẹ nhân loại, để như ngài đã được trợ giúp Giáo Hội sơ khai bằng lời cầu
nguyện, thì ngày nay, được tôn vinh trên trời, vượt trên các thánh và các thiên thần, ngài
cũng chuyển cầu cùng Con ngài trong sự hiệp thông của toàn thể các thánh, cho tới khi mọi
gia đình dân tộc, hoặc đã được mang danh hiệu Kitô hữu, hoặc chưa nhận biết Đấng Cứu
Chuộc mình, đều hân hoan đoàn tụ trong an bình và hoà thuận, họp thành đoàn Dân Thiên
Chúa duy nhất, để làm vinh danh một Chúa Ba Ngôi chí thánh”140.
Tóm lại, trong Kinh Tin Kính, chúng ta tin và tuyên xưng rằng chỉ có một Hội Thánh
duy nhất, thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Vì thế, Giáo Hội không ngừng nỗ lực sống
và rao giảng về sự hiệp nhất trong Đức Kitô. Như Thánh Phaolô nói trong thư gửi Êphêsô
rằng: “ cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết
Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm mức viên mãn của Đức Kitô”
(Ep 4, 13). Trong sự hiệp nhất này, chúng ta có Đức Maria vừa là tấm gương vừa là mối dây
liên kết trong sự hiệp nhất của Giáo Hội. Dù biết rằng, Mẹ đã được đầy tràn ân sủng và là Mẹ
Thiên Chúa, nhưng Mẹ vẫn là một phần tử của Giáo Hội và Mẹ phải tăng trưởng đức tin để
đạt tới chiều kích viên mãn trong sự hiệp nhất nơi Đức Kitô. Như vậy, trong sự tiền định của
Thiên Chúa thì Đức Maria chính là người cộng tác hoàn hảo nhất trong chương trình cứu độ
của Thiên Chúa. Vậy, noi gương Mẹ, chúng ta sống ơn tiền định này như thế nào?
II. Noi Gương Đức Maria, Chúng Ta Sống Ơn Tiền Định Như Thế Nào?
1. Chúng Ta Được Tiền Định Làm Nghĩa Tử Nhờ Đức Giêsu Kitô
Đọc trong Tân Ước ta thấy Thánh Phaolô trình bày về ơn tiền định của chúng ta như
sau:. “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô từ
cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ân phúc của Thánh Thần . Trong
Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở
139 Ibid, p. 142.140 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Công Đồng Vativanô II, Lumen Gentium, số 69.
57
nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của
Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô”(Ep 1, 4-5).
Theo lời trong thư của thánh Phaolô thì, trước khi ta có mặt trên hành tinh này, Cha đã
tiền định cho ta làm con Cha. Ở điều này, chúng ta phải biết rằng không phải vì ta có công
trạng gì mà Cha thương ta. Cha yêu ta chỉ do lòng nhân ái của Cha, chỉ do tình thương nhưng
không của Cha, bởi vì Cha là tình yêu. Cha thương ta bởi vì ta ở trong người Con chí ái là
Đức Kitô. Vì Cha thương ta mà ta trở thành quý giá trước mặt Cha.
Về tình thương của Chúa Cha đối với chúng ta, thánh sử Gioan viết: “Anh em hãy xem
Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu chúng ta đến nỗi cho chúng ta được gọi là con
Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa... Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là
con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bầy tỏ. Chúng ta biết
rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào chúng ta
cũng sẽ thấy người như vậy”(1Ga 3, 1-2).
Cũng trong tư tưởng đó, Thánh Công Đồng cho chúng ta biết rằng: “với ý định tự
do và nhiệm mầu đầy khôn ngoan nhân lành, Chúa Cha hằng hữu đã tạo dựng toàn thể vũ
trụ, Ngài đã quyết định nâng con người lên để chia sẻ sự sống thần linh, và đã không bỏ
mặc loài người xa ngã nơi nguyên tổ Adam, nhưng luôn giúp họ đón nhận ơn cứu rỗi nhờ
Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc, Đấng vốn là “hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng
tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo” (Cl 1, 15). Từ muôn thuở, Chúa Cha “đã kêu gọi và tiền
định để họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài để Người Con Một trở nên trưởng
tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8, 29)”141.
Về việc Thiên Chúa tiền định cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Con của
Người, công đồng Vatinano II, trong hiến chế Gaudium et Spes, cho biết thêm rằng: “chúng
takhi trở nên giống hình ảnh Chúa Con là Trưởng Tử trong đoàn anh em đông đảo, người
Kitô hữu nhận được “những hoa trái đầu mùa của Thánh Thần” (Rm 8, 23), nhờ đó họ có thể
chu toàn lề luật mới của tình yêu thương. Nhờ Thánh Thần “làm bảo chứng cho quyền thừa
tự” (Ep 1, 14), toàn thể con người được canh tân từ nội tâm, cho tới khi “thân xác được cứu
rỗi” (Rm 8, 23). “Nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết
cư ngụ trong anh em, thì Đấng đã làm cho Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết, cũng sẽ nhờ
Thánh Thần của Người đang ngự trong anh em, màlàm chothân xác hay hư nát của anh
emđược sống” (Rm 8, 11). Chắc chắn người Kitô hữu cần và có bổn phận chiến đấu chống
lại sự dữ khi phải trải qua nhiều gian nan và phải chấp nhận cả cái chết; nhưng vì tham dự
vào mầu nhiệm phục sinh, được đồng hoá với cái chết của Chúa Giêsu Kitô, đươc mạnh mẽ
nhờ đức cậy, họ sẽ được sống lại… Đó là tính chất và sự cao cả của mầu nhiệm con người,
141 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Công Đồng Vativanô II, Lumen Gentium, số 2.58
mầu nhiệm được mặc khải Kitô giáo soi sáng cho các Tín hữu. Vậy nhờ Chúa Kitô và trong
Chúa Kitô bí ẩn về đau khổ và sự chết được sáng tỏ, một bí ẩn sẽ đè bẹp chúng ta nếu không
có Tin Mừng của Người. Chúa Kitô đã sống lại,khi dùng cái chết của mình để huỷ diệt sự
chết, Người đã ban cho ta sự sống dồi dào để là những người con trong Chúa Con, chúng ta
kêu lên trong Thánh Thần: “Abba, Cha ơi!”142.
Như vậy, trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định
và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng ta đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của
Người (x. Ep 1, 11). Theo thánh Irénée khi trình bầy về kế hoạch của Thiên Chúa trong lịch
sử cứu độ, ngài nói: “Ý định cứu độ của Thiên Chúa mang tính phổ quát và đã khởi sự ngay
từ khi Thiên Chúa tạo thiên lập địa, đã phát triển trong thế giới cho đến khi Đức Kitô, trong
tính cách là Đầu, xuất hiện để đưa muôn vật muôn loài về một đầu mối (recapitulatio). Tội
lỗi đã khiến cho tính chất siêu nhiên của con người là giống Thiên Chúa (similitudo) bị xáo
trộn. Nhưng cơ sở của tính chất siêu nhiên đó (imago) vẫn còn tồn tại: Đức Kitô khôi phục
con người trong ân sủng uyên nguyên, thậm chí còn vượt quá nguyên trạng, đưa con người
vào quá trình thần thiêng hoá trong Thánh Thần là Đấng nâng đỡ và giúp con người sống
theo một nếp sống mới, bởi vì “Thiên Chúa đã trở thành người phàm để con người…trở
thành Thiên Chúa”, nghĩa là được Thiên Chúa ban cho ân sủng là thông phần vào bản tính
của Con Thiên Chúa” (x. Rm 8, 29)”143.
Về điều này, thánh Athanase (295-375) trình bày rõ hơn rằng: “Trong Đức Kitô đích
thân Thiên Chúa thật sự đến với chúng ta và vì thế, mà cũng chỉ vì thế chúng ta mới có thể đến
với Thiên Chúa. Ơn cứu độ đích thực có nguồn gốc và nền tảng trong bản tính thật sự thánh
thiêng (thiên tính) của Ngôi Lời Vĩnh Cửu, chính Người đã mặc lấy xác phàm của chúng ta.
Con Thiên Chúa đã thật sự đảm nhận bản tính con người của chúng ta để chúng ta “trở nên”
Thiên Chúa cùng với tất cả những thực tại thuộc bản tính người phàm chúng ta, nghĩa là để
chúng ta nhờ ân sủng mà được thông phần tương quan cha – con giữa Đức Giêsu Kitô và Thiên
Chúa Cha (được nhận vào hàng nghĩa tử). Ngôi lời chính là Thiên Chúa đích thật chứ không
phải là một Đấng thuộc quy chế thọ tạo, và chỉ như vậy Người mới có thể mặc lấy xác phàm để
“thần thánh hoá” chúng ta và ban cho chúng ta ân sủng được làm con cái Thiên Chúa”144.
Tóm lại, trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, “theo ý muốn và lòng nhân ái
của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1, 5). Trong Đức
Kitô, nhờ Máu Người đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tôi lỗi theo lượng ân
sủng rất phong phú của Ngài” (Ep 1, 7). Trong Đức Kitô chúng ta đã không lãnh nhận Thần
142 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Công Đồng Vativanô II, Gaudium et Spes, số 22.143 Trích lại trong. Peter Neuner, Đại Chủng Viện Thánh Giuse, Ân Sủng Luận Qua Các Tác Giả, lưu hành nôi bộ, p. 153 – 154.144 Ibid, p. 176.
59
Khí khiến chúng ta trở nên nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho chúng ta
thành nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên “Abba, Cha ơi!” (x. Rm 5, 15). Đó là ân huệ lớn
nhất của chúng ta, chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha. Vì được gọi Người là Cha, nên
chúng ta cũng được mời gọi để sống thánh thiện như Đức Kitô là Đấng hoàn thiện. Vậy, để
sống thánh thiện và luôn nỗ lực trên con đường hoàn thiện, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria
như là tấm gương sángngời cho chúng ta noi theo.
2. Noi Gương Đức Maria, Chúng Ta Sống Nỗ Lực Trên Con Đường Hoàn Thiện
Như Đức Kitô Là Đấng Hoàn Thiện
Trong Hiến Chế Lumen Gentium, công đồng Vaticano II trình bày: “Giáo Hội là nơi
mà trong Đức Kitô, tất cả chúng ta được mời gọi đến và ở đó chúng ta được nên thánh nhờ
ân sủng Chúa, Giáo Hội ấy chỉ thành toàn trong vinh quang trên trời”145. “Tuy nhiên, nếu
như Giáo Hội đã đạt tới sự toàn thiện trong Đức Trinh Nữ diễm phúc, nhờ đó không còn vết
nhơ hay vết nhăn (x. Ep 5, 27), thì các Kitô hữu vẫn còn phải cố gắng chiến thắng tội lỗi để
được tăng trưởng trong đời sống thánh thiện; vì thế, họ ngước mắt lên Đức Maria là mẫu
gương nhân đức sáng ngời cho toàn thể cộng đoàn những người được chọn”146.
Thật vậy, trong tất cả những người được tuyển chọn, Đức Trinh Nữ Maria là tấm
gương thánh thiện cho chúng ta. Vậy, tại sao chúng ta phải sống thánh thiện? Thánh Phêrô
nói: Vì “Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế” (1 Pr 2, 21).
Sở dĩ chúng ta được mời gọi nên thánh là vì chúng ta mang hình ảnh của Thiên Chúa nơi
thân mình chúng ta. Chúng ta biết rằng “hình ảnh Thiên Chúa trong con người khi con người
được tạo dựng đã cho con người ước muốn đi lên, ước muốn trở nên hoàn thiện, ước muốn đạt
đến tình trạng siêu nhiên – thánh thiện như chính Thiên Chúa. Hình ảnh Thiên Chúa trong con
người cho phép con người đi tìm Thiên Chúa để nhận diện Ngài một cách cụ thể, sống động, rõ
ràng, chính xác hơn. Hình ảnh buổi đầu tạo dựng sẽ sáng dần, rõ dần và dần dần biến đổi con
người bụi tro thành con người sống hoàn toàn sự sống thần linh của Thiên Chúa, biến đổi thân
xác thấp hèn, yếu đuối thành đền Thờ, nơi cư ngụ của Thiên Chúa Ba Ngôi”147.
Như vậy, hình ảnh Thiên Chúa trong con người là nền tảng tín lý về con người: con
người có khả năng nhận biết Thiên Chúa và được kêu gọi nên giống Ngài (x Rm 8, 29; Pl
3, 10. 21). Hình ảnh Thiên Chúa ấy cho phép con người đi vào tương quan với Thiên Chúa
và mở lối cho con người đến gặp Ngài. Nếu con người không mang hình ảnh Thiên Chúa
trong mình, con người sẽ vô phương nhận ra Ngài và gặp gỡ Ngài. Nhưng khi được kêu
gọi trở nên giống Ngài, con người phải chấp nhận lên đường thực hiện tự do của mình, vì 145 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Công Đồng Vativanô II, Lumen Gentium, số 48.146 Ibid, LG, số 65.147 Trích lại trongJorathe Nắng Tím, Tôi Tin, Nxb Tôn Giáo, Năm 2013, p. 229.
60
chỉ với tự do, con người mới biểu lộ đích thực và có giá trị tình yêu của mình dành cho
Thiên Chúa. Tự do đáp trả, tự do dấn thân, tự do cộng tác, tự do gắn bó nên một. Tự do
đòi tình yêu, cũng như tình yêu đòi tự do. Cả hai không thể rời nhau, vì người ta không thể
chọn người mà người ta không yêu; cũng không thể yêu người mà người ta không được tự
do chọn. Thiên Chúa đi vào lịch sử mỗi người qua nhịp cầu tự do và tình yêu, và nhịp cầu
này đã được chính Ngài xây dựng từ đời đời khi dựng nên con người giống hình ảnh Ngài
và Ngài còn tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Con Một dấu yêu của Ngài148.
Khi ý thức hình ảnh Thiên Chúa trong mình, mỗi người sẽ nhìn nhận hình ảnh
Thiên Chúa trong người khác. Một khi chân nhận Thiên Chúa ở trong mình và trong anh
em, ta sẽ khoan nhượng hơn trong nhận xét, nhân bản hơn trong phán đoán, bao dung hơn
trong ứng xử; vì biết rằng đã làm người, không ai được dựng nên trong tình trạng hoàn
hảo, nhưng tất cả đều được mời gọi trở nên hoàn hảo mỗi ngày, trở nên tốt hơn từng bước
một trên lối đi, đường về Tuyệt Đối. Sự tròn đầy hoàn hảo của con người; sự phong phú,
viên mãn của hạnh phúc “làm người” sẽ được thực hiện khi con người ý thức hoạt động
của “hình ảnh Thiên Chúa” trong mình và bổn phận làm cho hình ảnh Thiên Chúa thánh
thiện ấy được hiện thực hơn mỗi ngày149.
Để được như thế, chúng ta cần phải nỗ lực hết sức trên con đường hoàn thiện. Vì thế,
thánh Phêrô tông đồ khuyên chúng ta rằng: “Anh emhãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở,
để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em”(1Pr 1, 15-16) . Nói về đời sống thánh thiện
của chúng ta, chúng ta cũng cần biết rằng , “Thiên Chúa không tạo dựng con người như một
thực thể trọn vẹn, hoàn hảo ngay từ đầu; cũng không bắt con người phải tuyệt vời ngay lập
tức, nhưng tạo dựng con người để từng ngày, từng bước con người phát triển, đổi mới, “để
nên Thánh như Cha trên trời là Đấng Thánh” (1Pr 1, 16).Để nên thánh, ước muốn được nên thánh, và nỗ lực trên con đường nên thánh, đó là
nguyện vọng của chúng ta và cũng là ước muốn của Thiên Chúa muốn nơi con người chúng
ta. Nhưng, bên cạnh ước muốn của Thiên Chúa và ước nguyện chính đáng của con người, còn
có sức mạnh quậy phá của thần dữ và khuynh hướng đi xuống, thoái lui của con người do tội
lỗi gây ra. Tuy chúng ta đã được cứu thoát cho khỏi tội lỗi (x. Rm 8, 2) để trở nên thánh thiện,
chúng ta vẫn còn chiều theo các cơn cám dỗ và cuộc sống của chúng ta luôn thể hiện sự yếu
đuối, vì tất cả chúng ta còn thiếu xót nhiều điều (x. 1Gc 3, 2). Vì thế, ước muốn không luôn là
ước muốn thiện hảo, đi lên thẳng tiến; nhưng có thể là ước muốn hạ đẳng, bất xứng với nhân
phẩm, phá hoại nhân vị và triệt tiêu mục đích. Nếu chúng ta ý thức được sức quậy phá của
thần dữ và hậu quả khôn lường của tội lỗi trên ý muốn, con người có lý do để bám víu, trông
148 Ibid, p. 229-230.149 Ibid, p. 227.
61
cậy vào ân sủng của Thiên Chúa; và dù thế nào đi chăng nữa (bất chấp chúng ta là những kẻ
đã phạm tội, đang phạm tội hay sẽ còn mãi phạm tội) thì chúng ta vẫn luôn được mời gọi trở
nên thánh thiện, và mỗi ngày hãy cố gắng nỗ lực để đạt tới sự thánh thiện đáng ước ao ấy150.
Trong cuộc hành trình chiến đấu cam go để tiến đến sự hoàn thiện đó, chúng ta luôn
nhận được sự khích lệ, nâng đỡ tinh thần của Đấng là “khuân mẫu của mọi nhân đức”. Như
công đồng Vaticano II mách nước cho chúng ta rằng: “khi tưởng nhớ Đức Maria và chiêm
ngưỡng người dưới ánh sáng của Ngôi Lời làm người, chúng ta thâm nhập vào mầu nhiệm
cao cả của sự Nhập Thể một cách cung kính và sâu xa hơn, và cố gắng mỗi ngày trở nên
giống Đức Giêsu hơn” (LG 65). Vì không ai hiểu Chúa Giêsu cho bằng Đức Mẹ, không ai
cảm nghiệm Chúa Giêsu cho bằng Mẹ. Chỉ có Mẹ là Đấng duy nhất dạy chúng ta và giúp
chúng ta cảm nghiệm được Chúa Giêsu, yêu mến Chúa Giêsu và trở nên giống Chúa Giêsu
hơn hết. Vậy, để trở nên thánh thiện hơn trên con đường hoàn thiện chúng ta cần phải lắng
nghe và tuân phục thánh ý Chúa Cha như Đức Maria, là tấm gương sáng cho chúng noi theo.
3. Noi Gương Đức Maria, Chúng Ta Sống Vâng Phục Theo Thánh Ý Chúa Cha
Như chúng ta được biết, khi thiên sứ truyền tin cho Đức Maria, Mẹ đã trọn vẹn tự
hiến cho Thiên Chúa với sự quy phục hoàn toàn của lý trí và ý chí, chứng tỏ lòng tin vâng
phục Thiên Chúa nói qua sứ thần truyền tin cho Đức Maria. Qua biến cố truyền tin, Giáo
Hội mời gọi chúng ta theo gương “đức tin sống động” của Mẹ Maria, “đức tin quảng đại đón
nghe Lời Chúa, tiếp nhận thánh ý Chúa tỏ lộ ra bất cứ khi nào và cách nào; một đức tin mãnh
liệt” vượt thắng mọi khó khăn, mọi khủng hoảng; một “đức tin linh động” được ngọn lửa tình
yêu làm sáng lên để hăng say cộng tác với ý định của Thiên Chúa trên chúng ta. Từng người
và tất cả chúng ta phải trả lời như Mẹ “Này tôi là tôi tớ Chúa” trong đức tin và đức tuân phục,
để cộng tác xây dựng Nước Thiên Chúa, theo phạm vi trách nhiệm của mỗi người151.
Trong sách Giáo Lý Công Giáo và Kinh Thánh đã chú ý đến những nối kết đức tin và
sự vâng phục. Đức tin là vâng theo sự mời gọi của Thiên Chúa. “Bằng đức tin, con người đem
trí khôn và ý chí của mình quy phục Thiên Chúa cách trọn vẹn. Con người đặt trọn bản thân
quy phục Thiên Chúa, Đấng mặc khải. Kinh Thánh gọi việc đáp trả lại này của con người đối
với Thiên Chúa, Đấng mặc khải, là sự vâng phục của đức tin. Vâng phục bằng đức tin là tự
nguyện quy thuận Lời đã nghe, bởi vì chân lý của lời đó được Thiên Chúa là chính chân lý
bảo đảm. Thánh Kinh trưng dẫn tổ phụ Abraham như gương mẫu của sự vâng phục đó. Còn
Đức Trinh Nữ Maria là người thể hiện sự vâng phục đó cách hoàn hảo”152.
150 X. Lê Tiến, Đức Maria Mẫu Gương Tận Hiến, 2001, p. 113-114.151 X. Lm. Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, tập I, p. 156-157.152 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, số 143- 144.
62
Như lời Chúa Giêsu nói trong Phúc âm: “Ai làm theo ý Cha Ta ở trên trời, thì kẻ ấy là
anh em, chị em và là mẹ Ta vậy” (Mt 12, 50). Đó là những lời Chúa Giêsu mặc khải về mối
tương quan giữa Ngài và các đồ đệ trước sự hiện diện của dân chúng, và nhất là Ngài muốn
ám chỉ về Mẹ Maria. Hơn ai hết, Mẹ hiểu rõ Chúa Giêsu muốn nói gì. Vâng, đức tin đã linh
ứng cho Mẹ Maria vâng theo sự mời gọi của Thiên Chúa để trở thành Mẹ của Chúa Giêsu
Kitô. Mẹ đúng như một kiểu mẫu vâng lời cho chúng ta, và chúng ta bắt trước theo gương
Đức Maria, vâng theo thánh ý Chúa trong moi sự153.
Vậy thánh ý Chúa là gì? Thánh ý Chúa rõ rệt nhất, chắc chắn nhất, là hãy chu toàn bổn
phận mình. Mỗi ngày chúng ta đều có bổn phận đối với Chúa, đối với gia đình, đối với những
người xung quanh, đối với Xã hội, đối với Giáo hội, chúng ta hãy làm tốt những bổn phận đó
là chúng ta tuân phục theo thánh ý Chúa Cha.
Theo thánh Tôma Aquinô việc thực hành nhân đức vâng lời, là chúng ta khinh thường
ý muốn của chính mình vì Chúa. Nghĩa là ý muốn và tự do của chúng ta. Khi chúng ta vâng
lời, chúng ta làm một sự thiết lập ý muốn Thiên Chúa như là trung tâm đời sống chúng ta hơn
là ý muốn của chính chúng ta nữa.154
Nói về sự vâng phục của chúng ta Đức Hồng Y Terence Cooke viết như sau:
“Đối với những người tu sĩ thì sự vâng lời là thập giá mà Chúa chúng ta đã nói. “Ai
muốn theo Ta hãy từ bỏ chính mình vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16, 24). Trong cuộc
khảo luận về những lời khuyên Phúc âm: khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời. Thánh Tôma
Aquino kể nhân đức vâng lời là tuyệt hảo nhất. Sự vâng phục là nền tảng mọi nhân đức, tất cả
những nhân đức con người để thật sự là nhân đức phải có phẩm tính vâng phục Thiên Chúa.
Dĩ nhiên vâng lời cũng phải bao gồm cả vâng lời và đức ái nữa. Sự vâng phục là nguồn sức
mạnh của sự bình an, bảo đảm và tăng thêm công trạng nữa. Thật sự vâng lời đơn giản hoá
đời sống cách kỳ diệu. Sự vâng phục tóm gọn toàn thể những cách ăn ở cư xử của chúng ta để
chỉ quan sát về một bổn phận duy nhất đó là vâng lời”155.
“Còn trong đời sống dân sự, vâng phục được xem như là yếu tố quan trọng đầu tiên để
thành công nơi bất cứ công việc nào. Bắt đầu với gia đình, người cha được xem như gia
trưởng trong gia đình mà tất cả mọi phần tử trong gia đình phải vâng phục. Trong công việc
buôn bán giao dịch, người giám đốc được xem như người hướng dẫn tinh thần. Trong quân
đội thì vị tướng lãnh đạo được ban cho quyền tối cao để lãnh đạo quân nhân. Tất cả những thí
dụ này thì thích hợp với lời nói của Thánh Phaolô “mọi người hãy vâng phục những quyền
153 X. Fr. Oscar Lukefahr, C.M, Ánh Sao Mai, chuyển ngữ Thiên Minh, p. 190.154 X. Đức Hồng Y Terence Cooke, Những Bài Suy Niệm Về Mẹ Maria, Nguyên Tác Meditations On Mary, p . 60.155 Trích lại trong Đức Hồng Y Terence Cooke, Những Bài Suy Niệm Về Mẹ Maria, Nguyên Tác Meditations On Mary, p . 61
63
bính cao hơn, vì không có quyền bính nào mà không đến từ Thiên Chúa, những quyền bính ấy
hiện hữu và được thiết lập bởi Thiên Chúa” (Rm 13, 1)”156.
Chúng ta là những con cái của Mẹ Maria và là những người đi theo Chúa Kitô mỗi
ngày, chúng ta phải cố gắng làm cho đời sống của chúng ta trở thành một sự vâng phục đáng
yêu với ý muốn của Thiên Chúa và ý muốn của những người mà Thiên Chúa đã đặt lên làm
bề trên chúng ta. Sự vâng phục của chúng ta phải bắt trước Chúa Kitô trong khi vâng phục các
đấng bề trên hợp luật, đại diện của người. Sự vâng phục phải tràn đầy tin tưởng và trông cậy
vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa Kitô. Sự vâng phục của chúng ta không chỉ sẵn lòng
làm những gì mà chúng ta được nói, nhưng cũng sẵn lòng bị nói những gì chúng ta đã làm.
Thật vậy, giả như có một chân lý nào gọi là quan trọng nhất trong cuộc đời Đức
Mẹ, thì chân lý quan trọng đó là câu “xin tuân phục thánh ý Chúa”. Và nếu có một chân lý
nào quan trọng nhất của cuộc đời Chúa Giêsu, thì chân lý quan trọng ấy là “Con đến để
làm theo thánh ý Chúa Cha”. Nếu Chúa Giêsu vàĐức Maria đã chọn chân lý cho đời mình
là “ vâng phục thánh ý Chúa”, thì chân lý ấy cũng phải là một chân lý quan trọng nhất của
đời sống chúng ta157.
Tóm lại, qua mẫu gương tuân phục của Đức Maria, chúng ta được mời gọi noi theo gương
Mẹ để tuân phục thánh ý Chúa Cha. Trong đức tuân phục, chúng ta tham dự trọn vẹn vào công
cuộc cứu độ được mặc khải và được hoàn tất trong Chúa Kitô: giống như Đức Maria chúng ta
chịu trách nhiệm nối dài sứ mạng của Chúa Kitô trong việc dẫn đưa lịch sử đi lên, và sứ mạng đó
chỉ có thể tiếp tục trong đức tin vâng phục, một sự hiểu biết sâu xa về đường lối Chúa. Qua vâng
phục đức tin, chúng ta tin rằng, Đức Maria là quà tặng tinh tuyền và cao quý mà Chúa Kitô ban
cho chúng ta, ban cho Giáo Hội. Vì thế, việc tôn kính Đức Maria phải được đâm lễ sâu trong Kitô
giáo, trong Giáo Hội. Đây là điều mà Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, số 66 nói158.
4. Lòng Tôn Kính Đức Maria Trong Giáo Hội
Nói về lòng tôn kính Đức Maria trong Giáo Hội, công đồng Vaticano II khuyên bảo mọi
tín hữu hãy đẩy mạnh sự tôn kính này: “Thánh Công Đồng cố ý dạy Giáo Lý Công Giáo ấy,
đồng thời Giáo Hội cũng khuyến khích hết mọi con cái hãy nhiệt tâm phát huy lòng sùng kính
Đức Trinh Nữ Maria, nhất là trong phụng vụ, hãy coi trọng những việc thực hành và những việc
đạo đức nhằm suy tôn Người đã được Huấn quyền cổ võ qua các thế kỷ, cũng như hãy thành
156 Ibid, p. 61.157 X. Lm. Giacôbê Phạm Đăng Phượng OP, Chia Sẻ Về Đức Maria, Nxb Phương Đông, Năm 2010, p. 19- 20.158 Hiến chế Lumen Gentium số 66 nói “Nhờ ân sủng Thiên Chúa, Đức Maria, người đã tham dự vào các mầu nhiệm của Đức Kitô, được tôn vinh là Thánh Mẫu Thiên Chúa, vì thế Mẹ đáng được Giáo Hội tôn kính và sùng mộ cách đặc biệt”
64
tâm tuân giữ những quyết định trước đây liên quan đến việc tôn kính ảnh tượng Đức Kitô, Đức
Maria và các thánhh159.
Trong hiến Lumen Gentium số 66 cho biết, việc sùng kính Đức Maria đã có từ lâu đời.
Nhất là từ công đồng Ephêsô, lòng sùng kính của dân chúng càng gia tăng lạ thường bằng
những hình thức tôn kính, mến yêu, cầu khẩn và noi gương Ngài.
Cũng trong số này, Công Đồng cho ta biết rõ hơn về bản tính của việc sùng kinh
Đức Maria. Việc tôn sùng Đức Maria trong Giáo Hội là đặc biệt có một không hai, song
tự bản tính vẫn khác biệt với việc tôn thờ Ngôi Lời Nhập Thể, Ngôi Cha và Chúa Thánh
Thần160 . Ở đây chúng ta thấy có một sự khác biệt về việc tôn kính (tôn sùng) và tôn thờ.
Với Đức Maria, Công Đồng dùng từ tôn kính chứ không phải là tôn thờ; vì Đức Maria
không phải là Thiên Chúa. Chỉ có Chúa, chúng ta mới tôn thờ, còn tất cả các thánh chúng
ta chỉ có tôn kính mà thôi.
Thực vậy, “mục đích tối hậu của việc tôn sùng Đức Maria là tôn vinh Thiên Chúa và
đưa các Kitô hữu đến một đời sống hoàn hảo phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Vì thế việc tôn
sùng Đức Maria phụ thuộc vào việc tôn thờ Đức Kitô, tạo nên một sức mạnh để canh tân đời
sống kitô giáo, nghĩa là tạo lại những nét thiêng liêng của Người Con đầu lòng của Mẹ, và sứ
mạng từ mẫu của Mẹ, thúc đẩy Dân Thiên Chúa quay về với Đấng luôn sẵn sàng nhận lời các
con cái của Mẹ và trợ giúp hữu hiệu”161.
Như vậy, lòng sùng kính là nhiệt tâm phụng sự Chúa. Đó là hành vi nội tại của ý chí
muốn tự hiến cho Thiên Chúa cách quảng đại hăng say; những trạng thái tâm hồn phù hợp với
ý chí ấy và duy trì linh hồn trong tinh thần tự hiến ấy. Lòng sùng kính còn hướng đến hành vi
bên ngoài, nhưng chủ yếu vẫn mang tính nội tâm. Một hành vi sùng kính phải hàm chứa lòng
sùng kính. Mục đích của nó phải là phục vụ Thiên Chúa và giúp ta phát triển đến mức độ
trưởng thành viên mãn của Chúa Kitô. Do đó, lòng sùng kính Đức Maria là nhiệt tâm phụng
sự Mẹ cốt để phụng sự Chúa tốt hơn, trong khi đó “ những hành vi sùng kính” là những việc
làm thể hiện nhiệt tâm ấy162.
Những hành vi sùng kính Đức Maria nơi các tín hữu ta thấy cụ thể qua việc đeo ảnh
Mẹ, cầu nguyện cùng Mẹ, hay tổng quát hơn “tận hiến cho Mẹ”, qua đó tận hiến cho Chúa
Kitô và cho Thiên Chúa. Trên căn bản, tất cả những điều này minh chứng việc chúng ta hiến
mình phụng sự Thiên Chúa và Giáo Hội trong niềm vui.
Thánh Louis De Montfort (1712) nói: lòng tôn kính Đức Maria cách chân chính cũng
đòi việc dâng mình cho Mẹ. Có những địa phận, thành phố, quốc gia đã được dâng hiến cho 159 X. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Công Đồng Vativanô II, số 67.160 X. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, UBGLĐT, Công Đồng Vativanô II, số 66.161 Trích lại trong Học Viện Châu Sơn, Giáo Trình Thánh Mẫu Học, p. 282.162 X. Anphongso Bốt- Sa, S.M.M, TừĐiển Đức Mẹ , chuyển ngữ Matthias M. Ngọc Đính, C.M.C, năm 1998, p. 323-324.
65
Mẹ. Việc dâng mình đó có nghĩa là nhìn nhận quyền thế cao trọng của Mẹ, tự ý đặt mình dưới
quyền thế, sự che chở và lòng lo lắng mẫu tử của Mẹ; cậy trông vào Mẹ. Ý nghĩa của việc
dâng mình này phải được thể hiện trong đời sống hằng ngày, noi gương các nhân đức của Mẹ,
bắt đầu làm mọi sự nhờ Mẹ, và dưới sự hướng dẫn của Mẹ163.
Lòng tôn sùng chân chính được hiến chế Lumen Gentium nhắc nhở như sau: “lòng tôn
sùng chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin
phù phiếm, nhưng phát xuất từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận
địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi
gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67). Cảm tình chóng qua và nhẹ dạ vô bổ là
những cạm bẫy đối với lòng sùng kính. Chúng bộc lộ qua những thói lệ kỳ quặc hoặc cố chấp
những tập truyền không có nền tảng ( chẳng hạn như những cuộc linh khải không được công
nhận). Những quá lố ấy đã đưa một số người đến chỗ chống báng lòng sùng kính cũng như
các việc sùng kính. Nhưng một lòng sùng kính có nền tảng kinh thánh164 và phụng vụ, như lời
đức Phaolô VI nhận định, có thể dễ dàng được mọi người chấp nhận (ngay cả những anh chị
em ly khai) và đưa người tín hữu đến chỗ sống trọn vẹn đời sống kitô hữu165.
Tóm lại, trải qua hàng thế kỷ nay, lòng sùng kính Đức Maria lan rộng không ngừng.
Ngoài những ngày lễ phụng vụ theo truyền thống để kính nhớ Mẹ Thiên Chúa, đã trổ sinh vô
số cách thức diễn tả lòng sùng kính, thường được phê chuẩn và khuyến khích bởi huấn quyền
Giáo Hội. Đức Bênêdictô XV viết: “tất cả các ơn thánh…đều qua tay Đức Maria phân phát
theo chương trình đầy yêu thương của Chúa Quan Phòng. Chớ gì mọi người đều chạy đến
cùng trái tim Chúa Giêsu là ngai ân thánh, và đến gần ngai ân thánh ấy nhờ Mẹ Maria. Ước
gì lời cầu thánh thiện và hiếu thảo từ khắp nơi trên mặt đất đều hướng lên Mẹ Maria là Mẹ
của lòng thương xót và đầy quyền năng nhờ ơn thánh Ngài” (1917). Đức Phaolô VI cũng
khuyến khích các Giám Mục: “chư huynh đáng kính, ước gì mỗi người trong chư huynh quyết
tâm cổ võ nồng nhiệt hơn danh thánh và vinh hiển Mẹ Maria cho người Kitô hữu và thích lệ
họ noi theo gương Ngài (1964).
163 X. Học Viện Thần Học Thánh Gia, Giảng Trình Thần Học Về Đức Trinh Nữ Maria, nk 2010 – 2012, p. 114-115.164 Lòng sùng kính dựa trên nền tảng Kinh Thánh: khi Thiên sứ Gabriel chào Mẹ “đầy ơn phúc”. Bà Elisabeth chào Mẹ cách đặc biệt và gọi Mẹ là “ Người có phúc”; “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến cùng tôi”. Đức Maria nói: “ từ nay mọi thế hệ sẽ khen tôi có phúc”. (Lc 1, 26 -45).165 Trích lại trong Anphongso Bốt- Sa, S.M.M, TừĐiển Đức Mẹ , chuyển ngữ Matthias M. Ngọc Đính, C.M.C, năm 1998, p. 324 – 325.
66
NHẬN ĐỊNH VÀ KẾT LUẬN
NHẬN ĐỊNHKhi nói về ơn tiền định nơi Đức Maria, sinh viên thực hiện đề tài này có một vài nhận
định sau đây:
Trước tiên, nói về Thiên Chúa tiền định trong Cựu Ước: dựa vào nền tảng Kinh Thánh
và các Huấn giáo của Giáo Hội cho thấy: Thiên Chúa biết trước mọi sự và tiền định mọi sự.
Thật vậy, từ muôn thuở tất cả mọi người được tuyển chọn, Chúa Cha đã biết trước và đã tiền
định cho họ trở nên giống hình ảnh Con Chúa, hầu Người Con đó trở nên trưởng tử giữa một
đàn em đông đúc (x. Rm 8, 29). Cho nên, Từ nguyên thuỷ Giáo Hội được tiên báo bằng hình
bóng, được chuẩn bị kỳ diệu trong lịch sử dân Israel. Điều này ta thấy qua việc Ngài đã tuyển
chọn Abraham, và từ nơi ông Thiên Chúa tuyển chọn một Dân riêng để phụng sự Ngài.
Nếu như trong Cựu Ước, Thiên Chúa tiền định qua việc tuyển chọn các tổ phụ là ông
Abraham, ông Isaac và Giacóp, hay qua dân riêng người là Israel, cũng như qua các vị ngôn
sứ như ông Môsê, ông Elia … để loan báo về ơn cứu độ của Thiên Chúa… thì trong Tân Ước,
Thiên Chúa đã tiền định chính Con Một của Người đến trong thế gian để cứu chuộc chúng ta.
Về việc Thiên Chúa tiền định nơi Đức Kitô, không gì khác hơn là để quy tụ chúng ta,
cứu độ chúng ta và bày tỏ tình yêu và lòng nhân ái của Người cho chúng ta. Thánh Phêrô
nói “ Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người
đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này” (1Pr 1, 20). Theo ý định của Thiên Chúa
thì Đức Kitô đến trần gian theo kế hoạch yêu thương, để làm Đầu, làm Thủ Lãnh và quy tụ
muôn loài. Thánh Phaolô nói: “Thiên ý này là kế hoạch yêu thương, Người đã định từ trước
trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là qui tụ muôn loài trong trời đất dưới
quyền một Thủ lãnh là Đức Kitô…” (Ep 1, 9). Như vậy, để chu toàn thánh ý Chúa Cha,
67
Chúa Kitô đã khai nguyên nước Trời nơi trần gian, mặc khải cho chúng ta mầu nhiệm của
Ngài, và thực hiện việc cứu thế bằng sự vâng phục Chúa Cha. Trong chiều kích này của lịch
sử cứu độ không thể tách rời vai trò làm Mẹ của Đức Maria.Thiên Chúa đã tiền định việc
Ngôi Lời mặc lấy bản tính nhân loại cách cụ thể bởi Đức Maria.
Về sự tiền định nơi Đức Maria: Hiến chế Lumen Gentium cho biết: “Từ muôn đời
Đức Nữ Trinh đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của
Ngôi Lời Thiên Chúa, và theo chương trình của Chúa Quan Phòng, trên trần gian Ngài đã trở
nên Mẹ cao trọng của Đấng Cứu Chuộc thần linh…” (LG 61). Vì thế, chúng ta thấy, trong
Kinh thánh, Cựu Ước đã gợi lên hình ảnh tiên trưng của Đức Maria qua một vài phụ nữ như:
bà Eva (mẹ của chúng sinh), bà Sara vợ ông Abraham (gọi là mẹ của dân Israel), bà Ette, bà
Rút, bà Giuđitha…ngoài những nhân vật kể trên, Đức Maria còn được tiên báo như là Hòm
bia Giao ước, đền Thánh của Đấng tối cao… Rồi trong Tân Ước, qua biến biến cố truyền tin
cho thấy: khi quyết định cho Con của Người nhập thể và thực hiện qua trung gian một người
Mẹ nhân loại, thì Thiên Chúa cũng tiền định Đức Maria tiềm tàng do cùng một định lệnh, để
trở nên người Mẹ liên kết với Con là Đức Kitô. Vì Đức Kitô mà Đức Maria đã được tiền định
cùng với sứ mệnh của Người. Do đó, Mẹ trở nên cao trọng và đầy ơn phúc như lời sứ thần
nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà…thưa bà Maria, xin đừng
sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1, 28 - 30). Tiếp đến, khi Đức Maria đến viếng thăm bà
Êlisabét, bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần liền nói “Em được chúc phúc hơn mọi người
phụ nữ” (Lc 1, 41). Ở đây chúng ta thấy Mẹ Maria là một người phụ nữ như bao người khác,
nhưng được Chúa đoái thương tuyển chọn làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu Thế. Để xứng đáng làm
Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa đã tặng ban cho Mẹ những ân huệ đặc biệt khác như:ơn Trọn
Đời Đồng Trinh, ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, ơn Hồn Xác Lên Trời. Về các đặc ân này, các
nhà thần học gọi đó là ơn tiền định Thiên Chúa dành cho Mẹ. Các ơn tiền định này đã được
định tín bởi các vị Giáo Hoàng hợp pháp tuyên tín.
Vấn đề về ơn tiền định nơi Đức Maria, có người cho rằng về sự tiền định này mà Đức
Maria đã mất hết tự do của mình, và cũng vì sự tiền định này mà ân sủng của Thiên Chúa tràn đầy
trên Mẹ. Do đó, xét theo con người thì Mẹ chẳng có công nghiệp gì, vì tất cả những điều Mẹ có
đều do Thiên Chúa thực hiện nơi Mẹ. Trả lời cho vấn đề này người viết trình bày như sau:
Nếu nói rằng việc Thiên Chúa tiền định cho Đức Maria làm mất đi sự tự do của Mẹ, và
coi Mẹ như chẳng có công trạng gì trước mặt Thiên Chúa và toàn thể Giáo Hộithì quả thật là
không đúng. Vì, theo như những gì đã trình ở chương 2 về sự tiền định và tự do, thì ơn tiền
định của Đức Maria không có tính tất yếu và loại trừ mọi tự do nội tâm nơi Mẹ. Mẹ không
hoàn toàn thụ động như người ta đã nói. Trái lại, với tất cả tự do và hành động, Mẹ đã đóng góp
vào công trình cứu chuộc bằng những nỗ lực nội tâm của Mẹ. 68
Trong lời đáp trả của Mẹ: “Hãy làm cho tôi theo như lời Ngài nói” (Lc 1, 38), đã nói
lên tất cả những nỗ lực trong nội tâm muốn cộng tác của Mẹ. Sự mong đợi của Cựu Ước đã
đạt tới sự diễn đạt hoàn hảo. Thiên Chúa tự do ban phát ân sủng của Ngài. Ngài đã trọn Đức
Maria, đã chuẩn bị Mẹ, hướng dẫn Mẹ tới sự đồng ý nhân loại trọn vẹn . Việc Mẹ Maria đồng
ý với điều Thiên Chúa yêu cầu, không pha chút miễn cưỡng nào; Mẹ đã trả lời với một niềm
vui chỉ có thể có trong con người có tự do thật, niềm vui và sự tự do của Đức Maria phát sinh
từ cùng một nguồn gốc, đó là sự đồng thuận của Mẹ với thánh ý Chúa. Ý muốn của Thiên
Chúa không hề cưỡng ép ý muốn của Mẹ, đúng hơn ý muốn của Mẹ hoàn toàn hoà hợp với ý
muốn của Thiên Chúa. Nói đúng hơn, khi Mẹ được đầy ân sủng, Mẹ đã để cho ân sủng Nhập
Thể dậy dỗ và dẫn dắt đến đỉnh cao Thập Giá. Gần bên Thánh Giá Chúa Giêsu, người Mẹ vô
tội của Thiên Chúa đã làm chứng nhân cho căn nguyên sự sống và sự tự do của chúng ta.
Đối với ơn tiền định và sự tự do của chúng ta: Thánh Phaolô nói “ Theo ý muốn và
lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1,
5). Về việc chúng ta được làm con Thiên Chúa nhờ tình yêu và lòng nhân ái của Ngài, thánh
Gioan viết: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu chúng ta đến nỗi
cho chúng ta được làm con Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1Ga 3, 1).
Dựa trên các bản văn Kinh Thánh cho thấy việc sáng tạo khởi đi từ tình yêu Thiên Chúa,
Thiên Chúa tạo nên con người chứ không tạo nên con rối. Thiên Chúa cho con người tự do và
nâng niu tự do con người chứ không trấn áp hay ép buộc con người. Thánh Phaolô nói: “Thưa
anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là anh em đừng lợi dụng tự do để sống
theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau” (Gl 5, 13). Như vậy, người
tín hữu tin “Chúa định”, tin vào sự quan phòng, biết trước của Thiên Chúa không những
không làm cho con người ỷ nại vào sự sắp xếp của Thiên Chúa, nhưng trái lại, còn thúc đẩy
con người cố gắng làm việc nhiều hơn để làm chủ thiên nhiên và là chủ vận mệnh của mình
với tất cả lý trí, ý chí và tự do mà Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Sau cùng, chúng ta nói về người Mẹ của chúng ta, người Mẹ của Giáo Hội trong sự
tiền định của Thiên Chúa. Như đã trình bày ở trên, do sự tiền định đặc biệt của Thiên Chúa,
Thiên Chúa đã tiền định cho Đức Maria làm Mẹ Thiên Chúa thì cũng tiền định cho Mẹ làm
Mẹ của Giáo Hội trên bình diện ân sủng như hiến chế Lumen Gentium số 61 đã nói, và Sách
Giáo Lý Công Giáo số 963 cũng trình bầy tương tự như vậy khi nói về Đức Maria, Mẹ Giáo
Hội166. Tóm lại, từ muôn đời Thiên Chúa đã muốn cho Đức Maria giữ một vị trí đặc biệt, vị
trí của một người mẹ. Sau khi đã ban cho chúng ta Con Thiên Chúa làm người, Mẹ còn mở
rộng sứ mệnh hiền mẫu của mình đến toàn thể Nhiệm Thể Chúa Kitô. Do đó, “trong hoạt
động Tông đồ, Giáo Hội thật có lý khi nhìn lên người đã sinh ra Đức Kitô, Đấng đã thụ thai
166 X. Chương III, câu 1, Đức Maria được tiền định làm Mẹ Giáo Hội.69
bởi phép Chúa Thánh Thần và được Đức Trinh Nữ sinh ra và lớn lên trong lòng các tín hữu.
Trong cuộc sống, Đức Trinh Nữ đã là tấm gương của tình yêu thương mang đậm tính hiền
mẫu, một tình yêu cần được thể hiện cách sống động nơi tất cả những ai cộng tác vào sứ
mệnh tông đồ của Giáo Hội để tái sinh nhân loại” (LG 65).
KẾT LUẬN
Từ những gì đã trình bày ở trong bài cũng như trong phần nhận định cho thấy rằng:
Thiên Chúa nhân hậu và khôn ngoan muốn hoàn tất công trình cứu chuộc trần gian, “nên lúc
thời gian tới hồi viên mãn, đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà…để chúng ta
nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4, 4 – 5). Rõ ràng, vì yêu thương, Thiên Chúa đã trọn ta trong
Đức Kitô từ muôn thuở: để ta nên thánh, được làm con và ca tụng vinh quang Ngài. Để thực
hiện ý định đó, Ngài đã tiền định cho Ngôi Lời Nhập Thể đúng theo ý định Người đã có từ
muôn thuở (x. Ep 3, 11). Từ muôn thuở, nơi Thiên Chúa, ý định cứu độ và sự tiền định nơi
Đức Maria gắn liền với nhau trong một định lệnh. Chính do cùng một định lệnh tiền định ấy
mà Đức Maria được Chúa Cha tuyển chọn để làm Mẹ Thiên Chúa.
Với tước hiệu Mẹ Thiên Chúa, và để xứng đáng với tước hiệu Mẹ Thiên Chúa, Thiên
Chúa đã ban cho Mẹ những đặc ân cao quý khác đó là ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, ơn Trọn
Đời Đồng Trinh, ơn Hồn Xác Lên Trời. Với những đặc ân của Đức Maria, đức thánh cha Piô
XII long trọng tuyên bố vào ngày 01 / 1 / 1950 cho toàn thể thế giới rằng: “Thánh Mẫu Thiên
Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn đời
trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong Thiên Quốc”. Chỉ trong một lời tuyên tín
ngắn gọn và quan trọng để tuyên bố một tín điều, Đức Giáo Hoàng đã liệt kê cùng lúc đầy đủ
bốn đặc ân vô cùng cao cả, ngoài Đức Maria không có bất cứ ai có được.
Nói về ơn tiền định nơi đức maria, chúng ta phải khẳng định lại lần nữa rằng, ơn tiền
định nơi Mẹ tuyệt đối không mang tính tất định và loại trừ mọi quyết định tự do nội tâm.
Bằng chứng cho thấy, trong biến cố truyền tin, với lời thưa “xin vâng”, Mẹ đã trả lời với một
niềm vui chỉ có thể có trong một con người tự do thật sự.Thật sự, trong suốt cuộc đời Mẹ
Maria, Mẹ luôn nỗ lực cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn sống
theo Chúa Giêsu với con tim đau khổ, kết hợp với Con trên Thập Giá. Gần bên Thập Giá
Chúa Giêsu, người Mẹ vô tội của Thiên Chúa đã làm chứng cho căn nguyên sự sống và sự tự
do của chúng ta70
Vì thế, Chúng ta cần noi gương mẹ, chúng ta hãy sống tuân phục thánh ý Chúa với tất
cả sự tự do của chúng ta.Mẹ Maria dậy chúng ta rằng để tìm được tự do của mình, chúng ta
phải, trước hết, “đánh mất” nóđi bằng biệc tuân theo thánh ý Chúa. Vì mọi cái phản lại thánh
ý Chúa đều phá huỷ phẩm giá con người và phá huỷ sự tự do của chúng ta.
Thực ra, khi gắng sức noi gương Mẹ là chúng ta ý thức hoặc mặc nhiên để Mẹ hành
động trong cuộc sống chúng ta như một người mẹ, một người thầy. Chúng ta đặt mình dưới sự
hướng dẫn của Mẹ, khát mong bắt trước đức tin, đức ái của Mẹ, như thế chúng ta đang nói với
Mẹ rằng: xin dậy con tin, yêu và hợp nhất với Chúa Giêsu như Mẹ.
Như thế, khi trình bày về ơn tiền định nơi Đức Maria cho chúng ta nhận ra rằng: việc
Chúa định không có nghĩa với tất định như có người ta lầm tưởng, mà chỉ có nghĩa là sự quan
phòng của Thiên Chúa. Ngài tạo dựng muôn loài muôn vật và hằng quan tâm chăm sóc, ban
ơn giúp đỡ như một người cha yêu thương con cái để ban ơn cứu độ như Thánh Phaolô đã nói
trong thư Ti-mô-thê: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn mọi người cứu độ và
nhận biết chân lý” (1Tm 2, 4).
Tuy nhiên, dù muốn cứu độ hết mọi người, nhưng Thiên Chúa cũng muốn tôn trọng tự
do của con người, quyết định làm hay không làm, làm diều tốt hay điều xấu, nên họ phải chịu
trách nhiệm về việc làm của họ. Thánh Augustin nói: “Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta mà
không cần sự cộng tác của chúng ta; nhưng Ngài không thể cứu chúng ta nếu chúng ta không
cộng tác với Ngài”.
Từ câu nói này của thánh Augustin cho thấy, con người được mời gọi cách tự do đi
vào trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa. Con người được mời gọi không phải với
một thái độ đón nhận ơn quan phòng cách thụ động. Nhưng là một thái độ đón nhận trong
trách nhiệm, trong tự do sáng tạo và lớn lên.
Chúng ta biết rằng, khi sáng tạo con người và ban cho con người tự do, Thiên Chúa
muốn để cho con người tham dự vào trong chương trình cứu độ của Ngài. Thiên Chúa là
Đấng quan phòng, Ngài sẽ dẫn dắt con người đến sự toàn vẹn mà Ngài đã định sẵn bằng ơn
quan phòng của Ngài. Ơn quan phòng của Thiên Chúa luôn gìn giữ các thụ tạo, cho dù chúng
có nhận ra hay không nhận ra sự hiện diện của Đấng quan phòng. Thiên Chúa hiện diện trong
thế giới, không giống tư cách của một chủ nhân, nhưng với tư cách của một người cha.
Chính vì thế, Thiên Chúa mời gọi con người đi vào cộng tác với Ngài trong ý thức trách
nhiệm và tự do. Chính trong viễn cảnh của sự cộng tác nơi con người vào chương trình quan
phòng của Thiên Chúa cho thấy; vì tình thương Thiên Chúa không muốn để cho con người thụ
động trong chương trình của Ngài, nhưng là chủ dộng trong ý thức và trách nhiệm tự do. Có
71
nghĩa là Thiên Chúa muốn cho con người đặt phần của mình vào phần của Thiên Chúa, cho dù
những cái mà con người đặt vào này, cho tới cùng, cũng chỉ là những cái mà nó đã lãnh nhận từ
Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta xác tín rằng, tin Chúa định không những không làm cho con người
lười biếng, ỷ nại vào một quyền lực siêu phàm bên ngoài, mà trái lại, chính niềm tin ấy lại là
động lực thúc đẩy người tín hữu làm việc nhiều hơn để làm chủ thiên nhiên, và làm chủ vận
mệnh của mình với tất cả lý trí, ý chí và tự do mà Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Như vậy, từ việc tìm hiểu ơn tiền định nơi Đức Maria, mở ra cho chúng ta một cái nhìn
mới về sự quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa biết trước mọi sự, Ngài thấy trước tất cả,
“mọi sự đều trần trụi phơi bầy ra trước mắt Ngài” (Dt 4, 13). Mặt khác, vì vạn vật đang ở trong
một tiến trình tiến đến sự trọn hảo tối hậu do Thiên Chúa định sẵn, cho nên trong trí khôn của
mình, Thiên Chúa phải có sẵn và đúng hơn Ngài biết trước và xếp đặt mọi sự để hướng dẫn các
thụ tạo tới đích của chúng như ý Ngài muốn. Theo thánh Tôma, ơn quan phòng bao quát cả vũ
trụ tức là ơn này mang tính cách phổ quát, nhưng đồng thời ơn này cũng mang tính cách riêng
rẽ, có nghĩa là ơn này cụ thể cho từng thụ tạo167. Riêng đối với con người, vì là thụ tạo có lý trí
và ý chí, cho nên ơn quan phòng còn đòi hỏi ở mức độ mỗi cá nhân riêng biệt và ơn này được
dành cho con người cách đặc biệt, chẳn hạn như Đức Maria đã được tiền định cách đặc biệt
khác với chúng ta như đã trình bày ở trên.
Tóm lại, về ơn tiền định nơi Đức Maria, chúng ta nhận ra rằng, Mẹ đã sống ơn tiền định
của mình cách hoàn hảo. Mẹ đã tiến bước nơi cuộc sống trần thế trong sự cộng tác hoàn toàn
với chương trình của Thiên Chúa bằng một niềm tin kiên vững, lòng mến sắt son và một niềm
tuân phục, phó thác lạ lùng. Từ đây chúng ta ngước trông lên Mẹ như là mẫu gương của một
đời sống kitô hữu hoàn hảo nhất. Nơi Mẹ, người Kitô hữu không chỉ đón nhận những mẫu mực
cho đời sống đức tin mà còn học theo Mẹ để sống hoàn thiện hơn mỗi ngày trong đức tin và
trong sự tuân phục thánh ý của Thiên Chúa.
167 X. Toma Aquino, Tổng Luận Thần Học, phần I, vấn đề 22, mục II.72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anphongso Bốt- Sa, SMM, Từ Điển Đức Mẹ , chuyển ngữ Matthias M Ngọc Đính, CMC, 1998.
2. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, 70 Bài Giáo Lý Về Đức Maria, chuyển ngữ Lm.
Phêrô Nguyễn Quang Sách, 2000 .
3. Đức Hồng Y Terence Cooke, Những Bài Suy Niệm Về Mẹ Maria, Nguyên Tác
Meditations On Mary (không rõ năm)
4. E. Neuber, Đức Maria Trong Tín Lý, chuyển ngữ, Lm Bùi Quang Trung, 1953.
5. Fr. Oscar Lukefahr, CM, Ánh Sao Mai, chuyển ngữ Thiên Minh, 2002.
6. Giuse Phan Tấn Thành, OP, Mangificat, Học Viện Đa Minh, năm 2010.
7. Học Viện Châu Sơn, Giáo Trình Thánh Mẫu Học, lưu hành nội bộ.
8. Học Viện Thần Học Thánh Gia, Giảng Trình Thần Học Về Đức Trinh Nữ Maria, nk 2010 – 2012.
9. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Uỷ Ban Giáo Lý Đức Tin , Công Đồng Vativanô II, Nxb Tôn Giáo,
2012.
10. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Uỷ Ban Giáo Lý Đức Tin, Sách Giáo Lý Của Hội Thánh
Công Giáo, Nxb Tôn Giáo, 2012.
11. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Uỷ Ban Giáo Lý Đức, Tin Tiểu Ban Từ Vựng, Từ Điển
Công Giáo, Nxb Tôn Giáo, 2011.
12. Jean Galot SJ, Đấng Đầy Ơn Phúc, chuyển ngữ Lm Bênađô, Nxb Hà Nội, 2009.
13. John R . Sachs, SJ, Nhân Học Theo Kitô Giáo, 1991, chuyển ngữ Duy Khánh, OP.
14. Jame Cardinal Hickey, Đức Maria Dưới Chân Thánh Giá, dịch giả Đức Giang 1988.
15. Jorathe Nắng Tím, Tôi Tin, Nxb Tôn Giáo, 2013.
16. Judith A. Bauer, Sổ Tay Những Điều Cần Biết Về Đức Mẹ, 2004, chuyển ngữ,
Matthias M. Ngọc đính, C.M.C.
17. Jack Philip, Tôi Muốn Sống Tự Do: Sức Mạnh Của Đức Tin, Đức Cậy Và Đức
Mến, Nguyễn Ngọc Kính, OFM, chuyển ngữ, Nxb Đông Phương (không rõ năm).
73
18. Karl Rahner, Maria Kẻ Đã Tin, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2004.
19. Lm Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Huấn Quyền Về Đức Trinh Nữ Maria, Nxb Tôn Giáo, 2007.
20. Lm Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, Mẹ Maria Trong Phụng Vụ Công Giáo, TP HCM, tháng 9 / 2004.
21. Lê Tiến, Đức Maria Mẫu Gương Tận Hiến, đmhv, 2001.
22. Lm Lê Phú Hải, OMI, Đức Maria Tôn Sùng Và Cầu Nguyện, Nxb Tôn Giáo, 2014
23. Lm Giuse Hoàng Kim Toan, Đức Maria Trong Văn Hoá Đạo Mẫu, 2002.
24. Lm Phan Tấn Thành, Vầng Trăng Tuyệt Vời, lưu hành nội bộ.
25. Lm Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, OC, Thánh Mẫu Học, 2017.
26. Lm Phêrô, CMC, Những Ngày Của Mẹ, tập I và II, 1998 – 1999.
27. Lm Taqnila Hoàng Đắc Ánh, Thần Học Về Đức Maria, Nxb Tôn Giáo, 2008.
28. Lm Augustinô, Nguyễn Văn Trinh, Thánh Mẫu Học, 2005.
29. Lm Nguyễn Văn Tuyên, Đức Maria Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể, Nxb Tôn Giáo, 2000.
30. Lm Giacôbê Phạm Đăng Phượng OP, Chia Sẻ Về Đức Maria, Nxb Phương Đông, 2010.
31. Lm Mai Văn Hùng OP, Linh Đạo Thánh Mẫu, Chân Dung Đức Maria Trong Tin Mừng, 1994.
32. Lm Phêrô M, Ngô Minh Châu, CMC, Mẹ Maria Đồng Công, Trung Gian Và Trạng
Sư, Hiệu sách Regina, 2004.
33. Lm Nguyễn Hữu Thy, Đức Maria Trong Kinh Nguyện Giáo Hôi, Xuất Bản: Trung Tâm
Mục Vụ Công Giáo Việt Nam, Giáo Phận Trier, CHLB Đức.
34. Norberto, Đức Maria Nữ Tỳ Của Thiên Chúa, 2006.
35. Peter M. J. Stravinskas, Lời Kinh Cổ Xưa, Thế Giới Hiện Đại, Nxb Tôn Giáo, 2010.
36. Peter Neuner, Đại Chủng Viện Thánh Giuse, Ân Sủng Luận Qua Các Tác Giả, lưu hành nôi bộ.
37. Scott Hahn, Kính Trào Đức Nữ Vương, biên dịch Đa Minh M Nguyễn phúc lộc, CMC.
38. http://www.xuanha.net/S-Tinliconggiao/8thienchuatiendinh.htm
39. http://www.gotquestions.org/Viet/Tien-dinh.html
40. http://thanhlinh.net/node/38213
41. https://www.catholic.org.tw/vntaiwan/caotinh/29chucha.htm
42. http://linhthao.net/luutru/409
74