59
GIA TRI NHAN DAO CUA “VCAP” Vợ chồng A phủ là một trong những thành công lớn nhất của nhà văn Tô Hoài--là truyện ngắn rút ra từ tập" truyện Tây Bắc" viết vào năm 1953." Vợ chồng A Phủ" là tác phẩm lên tiếng vì con người, ca ngợi và bảo vệ con người và là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc Truyện viết về cuộc đời của Mị và A phủ ở vùng núi cao Tây Bắc trước và sau khi đến với CM và niềm cảm thông sâu sắc trước số phận khốn khổ ,bất hạnh tủi nhụckhi bị mất quyền sống của người dân lao động miền núi dưới ách thống trị của lũ chúa đất và bọn thực dân và qua đó ca ngợi tinh thần CM của họ. Đọc truyện ngắn ta thực sự xót xa xho Mị,một cô gái Mèo đẹp nết,đẹp người: cần cù,đảm đang, hiếu thảo, giàu lòng yêu đời... chỉ vì gia đình nghèo mà Mị phải đi làm con dâu gạt nợ ở nhà thống lí Patra.Cuộc sống ở đây đã biến một cô gái hồn nhiên, tràn đầy sức sống và giàu mơ ước trở thành một con người khắc khổ, sống lầm lũi như " con rùa nuôi trong xó cửa", thậm chí nhiều lúc Mị cảm thấy mình không bằng một con vật:" bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu , mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ ,biết đi làm mà thôi...con trâu con ngựa làm còn có lúc,đêm nó còn đc đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái trong cái nhà này thì vùi đầu vào làm việc cả ngày cả đêm"... ....Những ngày tết A sử đi chơi,Mị còn bị trói đứng trong buồng tối>vậy mà khi vừa được chị dâu cởi trói Mị lại phải đi hái lá thuốc cho chồng , nhỡ mệt thiếp đi thì lại bị A sử lấy chân đạp vào đầu. Danh nghĩa là con

NGU VAN 12

  • Upload
    gia-gia

  • View
    15

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: NGU VAN 12

GIA TRI NHAN DAO CUA “VCAP”

Vợ chồng A phủ là một trong những thành công lớn nhất của nhà văn Tô Hoài--là truyện ngắn rút ra từ tập" truyện Tây Bắc" viết vào năm 1953." Vợ chồng A Phủ" là tác phẩm lên tiếng vì con người, ca ngợi và bảo vệ con người và là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc Truyện viết về cuộc đời của Mị và A phủ ở vùng núi cao Tây Bắc trước và sau khi đến với CM và niềm cảm thông sâu sắc trước số phận khốn khổ ,bất hạnh tủi nhụckhi bị mất quyền sống của người dân lao động miền núi dưới ách thống trị của lũ chúa đất và bọn thực dân và qua đó ca ngợi tinh thần CM của họ. Đọc truyện ngắn ta thực sự xót xa xho Mị,một cô gái Mèo đẹp nết,đẹp người: cần cù,đảm đang, hiếu thảo, giàu lòng yêu đời... chỉ vì gia đình nghèo mà Mị phải đi làm con dâu gạt nợ ở nhà thống lí Patra.Cuộc sống ở đây đã biến một cô gái hồn nhiên, tràn đầy sức sống và giàu mơ ước trở thành một con người khắc khổ, sống lầm lũi như " con rùa nuôi trong xó cửa", thậm chí nhiều lúc Mị cảm thấy mình không bằng một con vật:" bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu , mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ ,biết đi làm mà thôi...con trâu con ngựa làm còn có lúc,đêm nó còn đc đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái trong cái nhà này thì vùi đầu vào làm việc cả ngày cả đêm"...

....Những ngày tết A sử đi chơi,Mị còn bị trói đứng trong buồng tối>vậy mà khi vừa được chị dâu cởi trói Mị lại phải đi hái lá thuốc cho chồng , nhỡ mệt thiếp đi thì lại bị A sử lấy chân đạp vào đầu. Danh nghĩa là con dâu nhà quan nhưng thực chất Mị cũng chỉ là một nô lệ làm việc không công.Mị không chỉ bị bố con A sử bóc lột về sức lao động mà còn bị chúng hủy hoại cả cuộc sông tinh thần, ngăn cấm và dập tắt mọi suy nghĩ cũng như nguyện vọng dù là rất nhỏ của cô gái trẻ>Đã mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc.Đã có lúc cô muốn tìm đến cái chết nhưng vì thương cha, lo cho người cha già yếu không lo nổi món nợ lớn nên cô không thể chết,đành quay lại cuộc đời nô lệ để trả nợ cho cha. Bị giam hãm đầy đọa trong cái địa ngục ấy, Mị đang chết dần với năm tháng,Mị gần như tê liệt sức sống. Mị không còn ý thức về không gian, thời gian và các mối quan hệ xã hội, không hiện tại và cũng ko có cả tương lai.Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen với cái khổ rồi.Cuộc đời của Mị chỉ thu lại qua khung cửa sổ nhỏ bằng bàn tay "mờ mờ". " trăng trắng không biết là sương hay nắng".Mị hầu như mất hết cả ý thức về bản thân và những mong muốn đổi thay cho số phận, thậm chí Mị còn

Page 2: NGU VAN 12

không có cả những ý nghĩ về cái chết nữa. Bên cạnh nhân vật Mị là nhân vật A phủ.A phủ vốn là một thanh niên tràn đầy sức sống, khỏe mạnh , gan dạ, lao động giỏi có lòng nhiệt huyết với công việc vậy mà chỉ vì một lần đánh nhau với A sử-con trai thống lí Patra. A phủ trở thành kẻ đi ở đợ cho nhà thống lí. Cũng như Mị những ngày sống ở nhà thống lí A phủ chịu biết bao sự đầy đọa nhục hình cả về thể xác lẫn tinh thần. Để rồi trong gian khổ hai con người này đã gặp nhau ở sự đồng cảm sâu sắc, ở tình thương con người cùng cảnh ngộ. Giá trị nhân đạo còn đc thể hiện ở chỗ nhà văn vạch trần những hành vi, việc làm bạo ngược, đầy bất công ngang trái của cha con nhà thống lí.Chỉ cần xem cách đối sử của A sử với Mị cũng thấy đc điều đó.Sau khi bị A phủ đánh chảy máu đầu, đc Mị bóp thuốc cho A sử ko những ko cảm kích mà ngược lại khi Mị mệt quá thiếp đi,A sử lại dùng chân đạp vào mặt Mị một cách tàn nhẫn...Mặt khác giá trị nhân đạo còn đc thể hiện ở sự cảm thông và thấu hiểu những tâm tư tình cảm,tâm trạng của những con người khốn khổ.Để rồi qua đó tác giả phát hiện ra sức sống tiềm tàng trong họ và phẩm chất tốt đẹp của họ.Tiếng khèn, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết bồi hồi.Với Mị , tiếng sáo là tín hiệu của tình yêu, hạnh phúc, tự do và cô khao khát đến cháy bỏng: " ngày trước Mị thổi sao giỏi... Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo.Có biết bao nhiêu người mê...".Mị sống lại những kỉ niệm đẹp đẽ, ngọt ngào với tiếng sáo, Mị trở về với niềm vui sống trong hiện tại.Mị muốn đi chơi. Lòng ham sống của Mị trỗi dậy mạnh mẽ. Quên đi những đau đớn thể xác, Mị đã "vùng bước đi". Dòng nước mắt lăn trên má Mị đã khơi dậy trong tâm hồn Mị niềm cảm thông sâu sắc khi thấy A phủ bị trói đứng. Càng thương mình Mị lại càng thưong người.Mị ko thể dửng dưng câm lặng đc nữa. Tình thương đã lấn áp cả nỗi sợ và cao hơn cả cái chết.Mị đã đi đến hành động cắt dây trói cho A phủ.Đây là quá trình tự phát nhưng nó là kết quả phát triển tất yếu của cả một quá trình sức sống ko ngừng trong con người Mị. Chính những phẩm chất tâm hồn tốt đẹp đã giúp cho Mị và A phủ có đủ sức sống và nghị lực để trỗi dậy, chạy trốn khỏi HỒNG NGÀI, đi tìm tự do cho chính mình.Mị và A phủ đã chạy đến PHIỀNG XA và giác ngộ CM. Từ trong tăm tối, đau thương Đảng đã dẫn đường chỉ lối cho họ, giúp họ tìm ra con đường mới: con đường CM Tóm lại " vợ chồng A phủ" mang ý nghĩa tư tưởng nhân đạo sâu sắc.Nó đc tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc với nỗi đau của con người, sự nâng niu nét đẹp tâm hồn mà hơn cả là sự hướng tới giải phóng cho con người tiêu biểu là số phận của

Page 3: NGU VAN 12

Mị và A phủ. (sưu tầm )

GIA TRI NHAN DAO CUA VCAP

 Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà

nhà văn Tô Hoài  đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây

dựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây Bắc" (1953) của Tô

Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc

(1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các

dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm

hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong "Vợ chồng A

Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là

do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng

A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó

nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành

động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật

sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành

động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta

thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Trong tác

phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình

ảnh của cô gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt

buồn rười rượi". Đó là nét tâm lý của một con người cam chịu,

buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở

dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức

giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời

ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân

nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý

Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là

con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là

một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị

khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết

thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen

Page 4: NGU VAN 12

khổ rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của

mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của

nó. Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người

yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống

đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa

xuân. Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo

những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung

bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm

thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm

đẹp thời xa xưa... Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị

muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào

cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ

không thể "trói" được tâm hồn của một cô gái đang hoà nhập với

mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với

Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm

cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt

lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình. Sau

đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế

nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục

mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm

tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi

đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp

Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác

phẩm ngời lên ở chỗ đó. Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó

chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc

đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị

cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó

Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế

nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay "dù A Phủ là cái xác chết

đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự

việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình

Page 5: NGU VAN 12

thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên

chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị

quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người

khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên

cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy

sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở,

một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen

lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái

chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan

chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước

một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử

trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng,

xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống

mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm

thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc

trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước

cũng ở trong cài nhà này”. Lí trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật

độc ác”. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong

rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên

khoẻ mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng

mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không

bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt

như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với

hiện tại, Mị đau khổ cay dắng cho thân phận của mình: “Ta là

thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn

biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến

A Phủ “có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau,

chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như

thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do

gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất

một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ

Page 6: NGU VAN 12

trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột

tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng

của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con

người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha

thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng

nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến

chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như

vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng

của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ,

Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra

bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận

của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến

cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị

đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A

Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó

phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi

cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một

chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi

Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng

tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của

Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ

hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi

thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng

Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần

quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm

hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu

tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi

đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao

tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và

làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân - hệ quả

của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình.

Page 7: NGU VAN 12

Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời

bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít,

còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai

người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía

trước ra sao họ cũng chưa biết đến… Rõ ràng, trong đêm mùa

đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan

trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình.

Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân

mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất

đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ

nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương

cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một

trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện

và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân

đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài

cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất

công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên

một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta

hiểu được nhiều điều trong cuộc sống. Với truyện ngắn “Vợ chồng

A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao

Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy.

Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ

chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã

hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây

Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội

nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A

Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những

giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó.

Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong

cách Tô Hoài. Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em

cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội

Page 8: NGU VAN 12

phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát

vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực

bởi nó đã góp phần nhân đạo hoá tâm hồn bạn đọc như Nam Cao

đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.

Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà

nhà văn Tô Hoài  đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây

dựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây Bắc" (1953) của Tô

Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc

(1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các

dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm

hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong "Vợ chồng A

Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là

do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng

A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó

nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành

động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật

sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành

động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta

thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Trong tác

phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình

ảnh của cô gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt

buồn rười rượi". Đó là nét tâm lý của một con người cam chịu,

buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở

dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức

giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời

ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân

nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý

Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là

con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là

một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị

khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết

Page 9: NGU VAN 12

thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen

khổ rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của

mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của

nó. Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người

yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống

đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa

xuân. Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo

những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung

bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm

thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm

đẹp thời xa xưa... Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị

muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào

cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ

không thể "trói" được tâm hồn của một cô gái đang hoà nhập với

mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với

Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm

cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt

lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình. Sau

đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế

nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục

mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm

tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi

đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp

Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác

phẩm ngời lên ở chỗ đó. Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó

chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc

đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị

cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó

Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế

nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay "dù A Phủ là cái xác chết

đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự

Page 10: NGU VAN 12

việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình

thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên

chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị

quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người

khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên

cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy

sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở,

một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen

lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái

chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan

chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước

một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử

trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng,

xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống

mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm

thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc

trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước

cũng ở trong cài nhà này”. Lí trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật

độc ác”. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong

rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên

khoẻ mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng

mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không

bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt

như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với

hiện tại, Mị đau khổ cay dắng cho thân phận của mình: “Ta là

thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn

biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến

A Phủ “có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau,

chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như

thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do

gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất

Page 11: NGU VAN 12

một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ

trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột

tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng

của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con

người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha

thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng

nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến

chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như

vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng

của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ,

Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra

bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận

của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến

cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị

đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A

Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó

phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi

cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một

chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi

Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng

tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của

Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ

hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi

thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng

Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần

quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm

hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu

tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi

đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao

tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và

làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân - hệ quả

Page 12: NGU VAN 12

của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình.

Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời

bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít,

còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai

người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía

trước ra sao họ cũng chưa biết đến… Rõ ràng, trong đêm mùa

đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan

trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình.

Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân

mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất

đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ

nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương

cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một

trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện

và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân

đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài

cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất

công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên

một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta

hiểu được nhiều điều trong cuộc sống. Với truyện ngắn “Vợ chồng

A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao

Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy.

Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ

chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã

hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây

Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội

nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A

Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những

giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó.

Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong

cách Tô Hoài. Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em

Page 13: NGU VAN 12

cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội

phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát

vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực

bởi nó đã góp phần nhân đạo hoá tâm hồn bạn đọc như Nam Cao

đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.

PHAN TICH TAM TRANG CUA MI TRONG DEM TINH MX

“ Vợ chồng A Phủ” là một trong ba truyện của tác phẩm “ Truyện Tây Bắc” đã đoạt giải nhất giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955. Là một truyện ngắn xuất sắc, “Vợ chồng A Phủ” càng biểu hiện sinh động và gây ấn tượng mạnh không phải chỉ qua nội dung mà còn do nghệ thuật miêu tả tâm lí rất tài tình và hấp dẫn của nhà văn. Trong tác phẩm, nhân vật Mị biểu hiện rất rõ khi cô có những biến đổi trong tâm lí trước hoàn cảnh sống và tìm cho mình một con đường hi vọng. Đặc biệt là diễn biến tâm lí của cô trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.

                       Những ngày đầu làm dâu, Mị thấm thía nỗi đau của một cuộc đời bị cướp đoạt, “đêm nào Mị cũng khóc”, Mị muốn tự tử. Bởi vì, Mị không muốn chấp nhận một cuộc sống chết mòn héo úa, điều này chứng tỏ trong con người Mị tiềm ẩn một sức sống mạnh liệt, muốn thoát khỏi cuộc sống nô lệ. Nhưng thương cha sẽ phải gánh chịu hậu quả về cái chết của mình, Mị đành vứt nắm lá ngón, trở lại nhà thống lí.

             Ngày lại ngày qua, nỗi khổ cùng cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng ấy vào tận đáy buồng tim Mị. Mị không nghĩ đến cái chết nữa. Mị bị biến thành một công cụ lao động cho nhà thống lí Pá Tra. Cuộc đời của Mị “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Mị bị đọa đày đến mức bị tê liệt về tinh thần, buông xuôi, phó mặc cho hoàn cảnh “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “biết đi làm mà thôi”. Mị còn phải chịu nỗi đau về tinh thần triền miên. Căn buồng của Mị ở là một thứ ngục thất giam cầm tù nhân “ Ở cái buồng Mị nằm, kín nút, có một…không biết là sương hay nắng”.

          Nhưng giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm là ở chỗ nhà văn đã nhìn thấy sức sống vẫn còn tiềm tàng trong Mị. Sức sống ấy sẽ vẫn bùng cháy khi có cơ hội. Và nó đã đến trong đêm tình mùa xuân.

Page 14: NGU VAN 12

Mùa xuân thường mang lại cho con người hi vọng, ước mơ, là mùa lễ hội, vui chơi, mùa của tình yêu.

Năm ấy ở Hồng Ngài gió và rét dữ dội. Mùa xuân đến mang theo âm thanh đặc trưng của nó. Âm thanh rộn rã của trẻ con chơi đùa, đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình hòa cùng màu sắc sặc sỡ của váy áo phơi trên những mỏm đá.  Đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình xuân tha thiết, bồi hồi vọng đến tai Mị. Tiếng sáo thấm vào trái tim Mị, thức tĩnh sự câm lặng bấy lâu nay. Từ trong tâm trạng lặng lẽ, u uẩn, một cuộc sống vô vị không có quá khứ, không có hiện tại và không có cả tương lai. Mị nghe tiếng sáo tha thiết gọi bạn mà hồi tưởng những ngày hồn nhiên, tươi trẻ thuở xưa. Ngày ấy Mị thổi sáo giỏi. Tiếng sáo giúp Mị nhận ra  một điều tưởng như đã chìm vào quên lãng.

       Mị  uống rượu “Mị lén lấy hủ rượu, cứ uống ức từng bát” . Cô đang uống đắng cay của cái phần đời đã qua và muốn thoát khỏi thực tại.

      Rượu làm thân xác cô say, nhưng tâm hồn cô lại tỉnh, Mị với cõi lòng phơi phới trở lại với thời con gái trẻ trung, hạnh phúc.Mị như sống lại, Mị thấy yêu đời. Không khí mùa xuân chỉ là một chất xúc tác, bởi vì nếu như sâu xa trong Mị không có một sưc sống tiềm tàng thì nó đã không thực dậy với bao điều tốt đẹp. “Mị thấy lòng mình vui sướng lại. Mị  trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ”.

       Cứ thế cho đến khi . Men rượu hay men cuộc đời đã nâng bỗng tâm hồn Mị trở về với ý thức sâu sắc của nhân phẩm.  Mị ý thức sự tồn tại của bản thân “ Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chớ không buồn nhớ lại nữa”. Nghịch lí trên cho thấy khi niềm khát khao sống hồi sinh, con người không chấp nhận cái trạng thái vô nghĩa lí của thực tại.

              Nếu như lúc trước Mị hoàn toàn mơ hồ về thời gian. Mị không nhớ mình về đây được mấy năm vì trước nay Mị đâu có mùa xuân. Nhưng giờ đây Mị muốn có cái quyền đơn giản như bao người khác: “Mị muốn đi chơi”. Có thể đối với Mị  là một sự thay đổi lớn lao và vẫn còn kịp lúc, tuy bắt nguồn từ cảm xúc nhất thời nhưng nó cũng chứng tỏ Mị vẫn còn đó bao khát khao. “Mị quấn lại tóc”. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách.

        Chính sự thay đổi đó làm cho A. Sử ngạc nhiên vì dưới mắt hắn Mị chẳng khác nào một nô lệ. Hành động trói Mị tàn nhẫn của hắn tuy giam

Page 15: NGU VAN 12

giữ được thể xác Mị, nhưng không thể giam giữ tâm hồn Mị: “ Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi.” Tâm hồn Mị giờ như chơi vơi trong mộng. Mị trở về thời xưa với bao ước vọng. Sức sống trổi dậy làm Mị phơi phới, mơ mộng trong thoáng chốc nhưng rồi Mị cũng trở về thực tại. Chính sức sống của Mị buộc cô phải nghĩ đến liệu cô có duy trì được nó hay không. Mị nhớ đến người chị dâu đã bị trói chết. Mị sợ. Một khi ta biết sợ chết thì người ta càng thêm yêu cuộc sống. Mị cũng vậy.

        Với ngôn ngữ lựa chon một cách tinh tế, nghệ thuật trần thuật đặc biệt là thể hiện sâu sắc diễn biến tâm lí nhân vật, tác giả làm cho người đọc cũng phải thổn thức, vui mừng đến xót xa cho số phận nhân vật.

        Mùa xuân rồi cũng qua đi nhưng sức sống tiềm tàng trong Mị đã được khơi dậy và chờ dịp bùng lên. Với nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế Tô Hoài đã đem đến cho nhân vật một hướng đi, một cuộc đời mới. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp của tác phẩm. Đồng thời cũng cho thấy tài năng của Tô Hoài cùng những đóng góp của ông cho văn học Việt Nam.

 

Đăng ký thành viên  |

PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TÂM LÍ CỦA MỊ TRONG ĐÊM TÌNH MÙA XUÂN Ở HỒNG NGÀI

Mở bài:- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.- Giới thiệu sơ lược về nhân vật MịThân bài:- Mị vốn là cô gái trẻ đẹp, yêu đời nhưng vì món nợ “truyền kiếp”, bị bắt làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra.- Khi về làm dâu nhà thống lí: Mị bị đày đọa, bị bóc lột sức lao động, bị tước đoạt quyền sống và đã từng nghĩ đến cái chết. Nhưng vì thương bố Mị không nỡ chết, lòng hiếu thảo đã khiến Mị

Page 16: NGU VAN 12

chấp nhận hi sinh khát vọng tự do, quay trở lại nhà thống lí tiếp tục kiếp làm dâu gạt nợ. Rồi ở lâu trong cái khổ Mị quen dần với cái khổ, Mị không còn nghĩ đến cái chết nữa => tưởng chừng như tâm hồn đã chai sạm. Nhưng không, Tô Hoài đã phát hiện ra bên trong”con rùa lùi lũi” ấy một khá vọng lớn lao, và diễn tả sự trỗi dậy mạnh mẽ bằng một quá trình phát triển tính cách với những diễn biến tâm lí vô cùng phong phú và phức tạp. Khát vong sống trong Mị vẫn như ngọn lửa âm ỉ chờ có dịp là bùng cháy.- Không khí rạo rực và rất đặc biêt của mùa xuân Hồng Ngài năm ấy là nguyên nhân chính khiến tâm hồn vốn đã chai sạm của Mị bỗng nhiên thúc tỉnh. Không khí tết được gợi về bởi:+ Thời tiết: gió và rét dữ dội (người miền núi ăn tết theo phong tục, cừ gặt hái xong là ăn tết, bất kể thời tiết).+ Âm thanh: tiếng trẻ con chơi đùa, tiếng chó sủa xa xa, tiếng sáo => Mị nhớ về quá khứ với cảm giác mình còn trẻ lắm..+ Màu sắc: màu sắc sặc sỡ của áo váy phơi trên mỏm đá => Tất cả đánh thức kỉ niệm trong tâm hồn Mị.- Đêm tình mùa xuân:+ Tiếng sáo gọi bạn:Đánh thức tâm hồn Mị “Mị ngồi nhẩm theo lời bài hát”, “lén lấy hũ rượu ra uống ực từng bát”.Cố nhớ về quá khứ, quên đi thực tai phũ phàng “lòng Mị đang sống về ngày trước”, “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”.Đánh thức sức sống tiềm tàng, mãnh liệt trong Mị “Mị thấy lòng phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng”, “Mị muốn đi chơi”.Vị ngọt ngào trong quá khứ lại gợi nhớ vị cay đắng trong hiện tại. Phản ứng đầu tiên trong tâm trí Mị là ý nghĩ “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Ý nghĩ về cái chết lúc này chứng tỏ Mị đã thức tỉnh trở lại hoàn cảnh đau xót của mình.+ Hành động: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sang”, “mị quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa” và “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo” => Câu văn rành rẽ, miêu tả các hành động gấp gáp thể hiện niềm khát khao tự do trong Mị.+ Bị A Sử trói đứng vào cột nhà “Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói”, “Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”

Page 17: NGU VAN 12

quên đi đau đớn thể xác. Niềm khát khao cuộc sống trở nên mãnh liệt “Mị vùng bước đi” => Cảm giác đau nhức về thể xác, cảm giác đau xót vì thấy mình không bằng con ngựa cứ đan xen với tâm trạng “nồng nàn tha thiết nhớ” trong suốt cả đêm => A Sử chỉ có thể trói được thể xác Mị chú không thể trói được niềm khát khao hạnh phúc, khát khao cuộc sống của Mị.+ Mị sợ chết “Mị cựa quậy xem mình còn sống hay chết” => tình yêu đời, yêu cuộc sống đã trỗi dậy trong Mị.- Nghệ thuật:+ Nghệ thuật xây dựng nhâ vật có nhiều điểm đặc sắc. Với nhân vật Mị thì chủ yếu là khắc họa tâm tư. Tác giả đã chọn điển nhìn từ bên trong để tái hiện quá trình diễn biễn tâm lí phong phú, phức tạp.+ Lối trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. Kể chuyện ngắn gon, dẫn dắt tình tiết khéo léo.+ Biệt tài miêu tả thiên nhiên, phong tục, tật quán của người miền núi.+ Ngôn ngữ sinh động và sang tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ.Kết luận: Đánh giá chung về nhân vật.

phan tich nhan vat Trang trong "vo nhat" cua Kim Lan15/12/2011 19:09  |  2,052 lượt xemI . Mở bài 

Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê , lam lũ hồn hậu , chất phác mà giàu tình yêu thương . Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông . Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng , một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu

Page 18: NGU VAN 12

thương , luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị , biết hướng tới tương lai tươi đẹp . 

II . Thân bài 

Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang viết sâu sắc, cảm động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí) được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại, Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật. Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật Tràng . 

Tràng được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945 . Những người năm đói được miêu tả với “khuôn mặt hốc hác u tối”, “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo , dở khóc , dở cười giữa Tràng và Thị , một mối duyên bắt nguồn từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói . 

Kim Lân đã tạo nên một tình huống độc đáo : Tràng nhặt được vợ để từ đó làm nổi bật khao khát hạnh phúc , tình yêu thương , cưu mang đùm bọc lẫn nhau của những con người đói . Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế : nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ .Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một

Page 19: NGU VAN 12

mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa.

Tình huống truyện trên đã khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật , đặc biệt là Tràng. 

Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi.. Chàng thanh niên nghèo khó “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. 

Mặc dù người vợ được hắn nhặt về , nhưng Tràng không hề rẻ rúng , khinh miệt thị . Trái lại , Tràng vô cùng trân trọng , coi chuyện lấy thi là một điều nghiêm túc . Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói “ đến thân còn chẳng lo nổi , lại còn đèo bòng” . Tràng chậc lưỡi “ kệ” cái đói , mua cho thị cái thúng con , vài xu dầu và dẫn thị về căn nhà lụp xụp rách nát của mẹ con mình . Tràng hồi hộp chờ câu đồng ý chấp thuận của bà cụ Tứ .

Buổi sáng hôm sau , Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra . Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng . Hắn thấy hắn nên người . Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ. 

Chi tiết: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: “hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng thật sự “phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc. 

Page 20: NGU VAN 12

Câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phớichứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn. 

III . Kết bài . 

Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân , là tác phẩm giàu giá trị hiện thực , nhân đạo ; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ , ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người . Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng , một người lao động nghèo khổ mà ấm áp tình thương , niềm hi vọng , lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu trở thành một nàng dâu hiền thục của bà cụ Tứ? 

1.Lai lịch, ngoại hình:

- Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế.

Page 21: NGU VAN 12

- Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc), nhưng gặp lần hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Chả trách anh cu Tràng không nhận ra thị là phải.

2.Tính cách:

- Khi mới gặp Tràng:

+ Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà thở.

+ Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được… ăn!

- Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng:

+ Trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai

Page 22: NGU VAN 12

mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nàh chồng (ai mà chẳng e thẹn!). Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận số phận khi đã đến bước đường cùng.

+ Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa ta y lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng ngiụ, chân nọ diíucả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của mọi người.

+ Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ. 

+ Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ , thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở thị: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói. Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để

Page 23: NGU VAN 12

chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân bản như thế!

Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.

3.Số phận:

- Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo đói, bị rẻ rúng.

- Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe doạ của sự đói khát, thì những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại.

4.Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

- Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức tỉ mỉ).

- Tác giả lại chú trọng khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc tự hiểu tâm trạng của người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón che mặt diễn tả tâm trạng xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ theo không về nhà chồng; hoặc thị nén một tiếng thở dài khi đảo mắt nhìn chung quanh căn nhà của Tràng; hay chi tiết thị đón lấy bát cháo cám, đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng là thái độ chấp nhận số phận khi đến bước đường cùng... Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói được khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con người.

5.Kết luận:

Page 24: NGU VAN 12

- Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy con người đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng, trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống, hướng tới tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy.

- Ba nhân vật chính trong Vợ nhặt đã được nhà văn xây dựng theo cách thức khác nhau. Chính sự khác nhau đó đã góp phần tạo nên giá trị đọc đáo của tác phẩm. Ba nhân vật trở thành ba mảng đời của một xã hội tối tăm, đói khát và cũng từ đó ánh lên tia sáng của chủ nghĩa nhân đạo cao cả.

1, Điểm giống nhau giữa hai tác phẩm:  - Ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc.  - Cùng viết về người nông dân nghèo trong cảnh ngộ khốn khổ.  - Hai tác phẩm cùng vẽ ra hành trình đến với cách mạng, đến với hạnh phúc của những con người tưởng như đã bị đẩy vào bước đường cùng. Chính hoàn cảnh tăm tối, cuộc sống nghiệt ngã đã viết nên thiên tình sử của Mị - A Phủ, Thị - Tràng.   - Chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc.

  2, Phân tích nhân vật:   a, A Phủ và Tràng:

      - Điểm giống:       + Đều là những người nông dân nghèo, thật thà, chất phác, giản dị, nuôi sống bản thân và gia đình bằng bàn tay lao động của mình.

Page 25: NGU VAN 12

       + Là những người cùng cảnh ngộ:         A Phủ từ nơi khác lưu lạc đến Hồng Ngài, làm thuê, làm mướn.         Tràng bị dồn đuổi bởi cái đói dừng chân, dựng nhà ở cuối xóm ngụ cư, bên mé bờ sông.         -> Cuộc sống của họ bấp bênh; do hoàn cảnh, do nghèo khó nên họ khó có thể lấy được vợ, có được vợ.

        + Bị đè nén bởi tư tưởng cai trị của giai cấp thống trị:          . Tràng không dám cướp thóc bỏ trốn khi có cơ hội.          . A Phủ không bước qua khỏi lời nguyền, trở thành kẻ ở gạt nợ cho thống lí Pá Tra; nhẫn nhục chịu đựng như con trâu, con ngựa.

        + Giàu ước mơ và khát vọng:          . Tràng vượt lên mọi hoàn cảnh:  Tàn khốc của XH; Khổ cực của bản thân; Tăm tối của cuộc sống để đến với hạnh phúc, đến với mái ấm gia đình, với thiên chức làm người cao cả "Trong một lúc Tràng như quên những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên". Tràng xôn xao, phấn khởi, sung sướng với hạnh phúc của đời mình. Khi cái đói đeo bám, cái chết đe doạ, Tràng vẫn không thôi nâng đỡ, tôn vinh những giá trị cao cả của cuộc sống.           . A Phủ: Dù khó lấy được vợ vì quá nghèo nhưng cái nghèo không kìm nén được bước chân của những con người biết tự mình vượt lên khỏi hoàn cảnh để được sống đúng ý nghĩa của cuộc sống. A Phủ cùng đám bạn rong ruổi theo những cuộc chơi khi mùa xuân về. Cùng thổi kèn thổi sáo; cùng réo rắt những bản tình ca gọi bạn đi chơi…Khi bị trói, nhận thức được cảnh ngộ của mình A Phủ đã khóc. Giọt nước mắt của sự cam chịu, bất lực, đồng thời cũng là giọt nước mắt khóc cho những ước vọng không thành, giọt nước của cuộc đời từ đây vĩnh biệt….Khi được Mị cắt dây trói, A Phủ khuỵ xuống, nhưng rồi khát vọng sống lại khiến anh quất sức, vùng lên chạy. Đó là sự tiếp sức của lòng ham sống của, của khát vọng tự do

           + Đều hướng về ánh sáng cách mạng:             . CM đã soi đường chỉ lối cho A Phủ, đến Phiềng Sa, A Phủ trở thành một anh du kích dũng cảm, kiên cường -> Anh có được tự do, hạnh phúc.             . Tràng chưa trở thành một anh du kích nhưng cuối tác phẩm tronh óc anh đã nghĩ tới đám người đói và lá cờ  đỏ sao vàng bay phấp phới-> Tác giả đã gieo hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, nhất định ngày mai trong đoàn quân của những người đói kéo nhau đi trên đê Sộp

Page 26: NGU VAN 12

sẽ có Tràng, bà cụ tứ và thị -> họ sẽ thoát khỏi đói nghèo và cuộ sống nô lệ.

      - Điểm khác:       + Trong Vợ nhặt Tràng là nhân vật chính còn trong đoạn trích học Vợ chồng A Phủ, A Phủ là nhân vật phụ.       + Tràng là anh nông dân nghèo trong nạn đói 1945 ở miền xuôi dưới sự cai trị trực tiếp của bọn thực dân, phát xít. A Phủ là người dân lao động miền núi, sống dưới sự cai trị của bọn chúa đất phong kiến, chúng lợi dụng cường quyền và thần quyền để biến những người dân nghèo thành nôlệ không công cho chúng, hết đời này sang đời khác.       + Tràng được tác giả tập trung khắc hoạ bởi những diễn biến tâm lí phức tạp còn A Phủ lại được nhà văn Tô Hoài miêu tả bằng những hành động cụ thể, sinh động.   b, Thị và Mị:     - Điểm giống:        + Cả hai đều là nhân vật điển hình cho thân phận, số phận những người phụ nữ dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Mị điển hình cho hoàn cảnh của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc, thị điển hình cho cảnh ngộ người phụ nữ trong nạn đói 1945.

        + Bị đẩy vào bước đường cùng:          . Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mị phải đau đớn chấp nhận phận làm dâu gạt nợ; Vì cha mẹ không có tiền trả cho nhà giàu, mị phải trả bằng cả tuổi trẻ, hạnh phúc, tự do của mình.         . Vì cái đói dồn đuổi, cái chết đeo bám, thị trở thành một người phụ nữ không có gì cả: không tên, không gốc gác, gầy vêu rách như tổ đỉa, không tư thế, không luôn cả tự trọng…

        + Giàu lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc:          . Mị yêu đời yêu cuộc sống tự do, không ham giàu sang phú quý: Xin bố đừng gả con cho nhà giàu, sẵn sàng làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Khi bị ép về nhà Pá tra, mị đã định quyên sinh bàng lá ngón để giải thoát khỏi cuộc sống tù túng, thiếu tự do và không có tình yêu đích thực.             Khi mùa xuân đến, Mị đã hồi sinh (….) và mị muốn đi chơi. Khi bị Ẳ trói đứng vào cột, Mị như không biết mình đang bị trói, vẫn thổn thức vẫn bồi hồi. Nhìn thấy dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đen xạm của A

Page 27: NGU VAN 12

Phủ, niềm khao khát tự do lại trỗi dậy mãnh liệt thôi thúc Mị cắt dây trói, cứu A Phủ và tự giải thoát cho cuộc đời.           . Đối với thị, lần đầu làm quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và bởi những lời trêu ghẹo của bạn bè, thị ton ton chạy lại đẩy xe cho tràng rồi liếc mắt cười tít -> Thị mong chờ một cái gì đó dù chỉ là mong manh cho tương lai tăm tối của mình.              Lần thứ hai gặp tràng, thị đã sẵn sàng bỏ qua ý thức về danh dự về nhân phẩm; thị chao chát chỏng lỏn, thị sấn sổ, thị trơ trẽn không biết xấu hổ là gì, thị xem miếng ăn là tất cả "cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng trò chuyện gì" rồi không băn khoăn, thị gật đầu theo không Tràng về làm vợ chỉ với một suy nghĩ cho khỏi đói, để được sống.                Sáng hôm sau thị trở thành một cô dâu hiền thục, dịu dàng, đúng mực và có trách nhiệm với gia đình: Thị bắt đầu vun vén cho tổ ấm " quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang nước". Tình người và những khao khát nhân bản đã làm nên điều kì diệu.

      + Tin tưởng vào ánh sáng CM:        . Mị rời khỏi Hồng Ngài được giác ngộ CM, trở thành du kích.        . Thị vững tin vào một ngày mai tươi sáng, yên ấm;  khi một ngày mới, một lá cờ đỏ tươi thắm, một chân trời mới đang dần hiện hữu.

      - Điểm khác:       + Vị trí nhân vật:  Mị là nhân vật chính được nhà văn Tô Hoài dày công khắc hoạ; Thị là nhân vật phụ, là hiện thân của nạn đói.       + Hoàn cảnh: Thị bị cái đói rình rập, dồng đuổi mà sẵn sàng bỏ qu tất cả, lại sẵn sàng làm một vật rẻ rúng để người ta đơn giản nhặt về làm vợ.. mị là người dân lao động nghèo miền núi, sống dưới ách thống trị cường quyền, thần quyền của bọn chúa đất phong kiến.        + Mị được nhà văn khám phá phát hiện và mô tả bằng những diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp. Nhân vật thị chủ yếu được khắc hoạ bằng ngoại hình và hành động.      1, Điểm giống nhau giữa hai tác phẩm:  - Ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc.  - Cùng viết về người nông dân nghèo trong cảnh ngộ khốn khổ.  - Hai tác phẩm cùng vẽ ra hành trình đến với cách mạng, đến với hạnh phúc của những con người tưởng như đã bị đẩy vào bước đường cùng. Chính hoàn cảnh tăm tối, cuộc sống nghiệt ngã đã viết nên thiên tình sử của Mị - A Phủ, Thị - Tràng.   - Chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc.

Page 28: NGU VAN 12

  2, Phân tích nhân vật:   a, A Phủ và Tràng:

      - Điểm giống:       + Đều là những người nông dân nghèo, thật thà, chất phác, giản dị, nuôi sống bản thân và gia đình bằng bàn tay lao động của mình.

       + Là những người cùng cảnh ngộ:         A Phủ từ nơi khác lưu lạc đến Hồng Ngài, làm thuê, làm mướn.         Tràng bị dồn đuổi bởi cái đói dừng chân, dựng nhà ở cuối xóm ngụ cư, bên mé bờ sông.         -> Cuộc sống của họ bấp bênh; do hoàn cảnh, do nghèo khó nên họ khó có thể lấy được vợ, có được vợ.

        + Bị đè nén bởi tư tưởng cai trị của giai cấp thống trị:          . Tràng không dám cướp thóc bỏ trốn khi có cơ hội.          . A Phủ không bước qua khỏi lời nguyền, trở thành kẻ ở gạt nợ cho thống lí Pá Tra; nhẫn nhục chịu đựng như con trâu, con ngựa.

        + Giàu ước mơ và khát vọng:          . Tràng vượt lên mọi hoàn cảnh:  Tàn khốc của XH; Khổ cực của bản thân; Tăm tối của cuộc sống để đến với hạnh phúc, đến với mái ấm gia đình, với thiên chức làm người cao cả "Trong một lúc Tràng như quên những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên". Tràng xôn xao, phấn khởi, sung sướng với hạnh phúc của đời mình. Khi cái đói đeo bám, cái chết đe doạ, Tràng vẫn không thôi nâng đỡ, tôn vinh những giá trị cao cả của cuộc sống.           . A Phủ: Dù khó lấy được vợ vì quá nghèo nhưng cái nghèo không kìm nén được bước chân của những con người biết tự mình vượt lên khỏi hoàn cảnh để được sống đúng ý nghĩa của cuộc sống. A Phủ cùng đám bạn rong ruổi theo những cuộc chơi khi mùa xuân về. Cùng thổi kèn thổi sáo; cùng réo rắt những bản tình ca gọi bạn đi chơi…Khi bị trói, nhận thức được cảnh ngộ của mình A Phủ đã khóc. Giọt nước mắt của sự cam chịu, bất lực, đồng thời cũng là giọt nước mắt khóc cho những ước vọng không thành, giọt nước của cuộc đời từ đây vĩnh biệt….Khi được Mị cắt dây trói, A Phủ khuỵ xuống, nhưng rồi khát vọng sống lại khiến anh quất sức, vùng lên chạy. Đó là sự tiếp sức của lòng ham sống của, của khát vọng tự do

Page 29: NGU VAN 12

           + Đều hướng về ánh sáng cách mạng:             . CM đã soi đường chỉ lối cho A Phủ, đến Phiềng Sa, A Phủ trở thành một anh du kích dũng cảm, kiên cường -> Anh có được tự do, hạnh phúc.             . Tràng chưa trở thành một anh du kích nhưng cuối tác phẩm tronh óc anh đã nghĩ tới đám người đói và lá cờ  đỏ sao vàng bay phấp phới-> Tác giả đã gieo hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, nhất định ngày mai trong đoàn quân của những người đói kéo nhau đi trên đê Sộp sẽ có Tràng, bà cụ tứ và thị -> họ sẽ thoát khỏi đói nghèo và cuộ sống nô lệ.

      - Điểm khác:       + Trong Vợ nhặt Tràng là nhân vật chính còn trong đoạn trích học Vợ chồng A Phủ, A Phủ là nhân vật phụ.       + Tràng là anh nông dân nghèo trong nạn đói 1945 ở miền xuôi dưới sự cai trị trực tiếp của bọn thực dân, phát xít. A Phủ là người dân lao động miền núi, sống dưới sự cai trị của bọn chúa đất phong kiến, chúng lợi dụng cường quyền và thần quyền để biến những người dân nghèo thành nôlệ không công cho chúng, hết đời này sang đời khác.       + Tràng được tác giả tập trung khắc hoạ bởi những diễn biến tâm lí phức tạp còn A Phủ lại được nhà văn Tô Hoài miêu tả bằng những hành động cụ thể, sinh động.   b, Thị và Mị:     - Điểm giống:        + Cả hai đều là nhân vật điển hình cho thân phận, số phận những người phụ nữ dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Mị điển hình cho hoàn cảnh của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc, thị điển hình cho cảnh ngộ người phụ nữ trong nạn đói 1945.

        + Bị đẩy vào bước đường cùng:          . Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mị phải đau đớn chấp nhận phận làm dâu gạt nợ; Vì cha mẹ không có tiền trả cho nhà giàu, mị phải trả bằng cả tuổi trẻ, hạnh phúc, tự do của mình.         . Vì cái đói dồn đuổi, cái chết đeo bám, thị trở thành một người phụ nữ không có gì cả: không tên, không gốc gác, gầy vêu rách như tổ đỉa, không tư thế, không luôn cả tự trọng…

Page 30: NGU VAN 12

        + Giàu lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc:          . Mị yêu đời yêu cuộc sống tự do, không ham giàu sang phú quý: Xin bố đừng gả con cho nhà giàu, sẵn sàng làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Khi bị ép về nhà Pá tra, mị đã định quyên sinh bàng lá ngón để giải thoát khỏi cuộc sống tù túng, thiếu tự do và không có tình yêu đích thực.             Khi mùa xuân đến, Mị đã hồi sinh (….) và mị muốn đi chơi. Khi bị Ẳ trói đứng vào cột, Mị như không biết mình đang bị trói, vẫn thổn thức vẫn bồi hồi. Nhìn thấy dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đen xạm của A Phủ, niềm khao khát tự do lại trỗi dậy mãnh liệt thôi thúc Mị cắt dây trói, cứu A Phủ và tự giải thoát cho cuộc đời.           . Đối với thị, lần đầu làm quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và bởi những lời trêu ghẹo của bạn bè, thị ton ton chạy lại đẩy xe cho tràng rồi liếc mắt cười tít -> Thị mong chờ một cái gì đó dù chỉ là mong manh cho tương lai tăm tối của mình.              Lần thứ hai gặp tràng, thị đã sẵn sàng bỏ qua ý thức về danh dự về nhân phẩm; thị chao chát chỏng lỏn, thị sấn sổ, thị trơ trẽn không biết xấu hổ là gì, thị xem miếng ăn là tất cả "cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng trò chuyện gì" rồi không băn khoăn, thị gật đầu theo không Tràng về làm vợ chỉ với một suy nghĩ cho khỏi đói, để được sống.                Sáng hôm sau thị trở thành một cô dâu hiền thục, dịu dàng, đúng mực và có trách nhiệm với gia đình: Thị bắt đầu vun vén cho tổ ấm " quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang nước". Tình người và những khao khát nhân bản đã làm nên điều kì diệu.

      + Tin tưởng vào ánh sáng CM:        . Mị rời khỏi Hồng Ngài được giác ngộ CM, trở thành du kích.        . Thị vững tin vào một ngày mai tươi sáng, yên ấm;  khi một ngày mới, một lá cờ đỏ tươi thắm, một chân trời mới đang dần hiện hữu.

      - Điểm khác:       + Vị trí nhân vật:  Mị là nhân vật chính được nhà văn Tô Hoài dày công khắc hoạ; Thị là nhân vật phụ, là hiện thân của nạn đói.       + Hoàn cảnh: Thị bị cái đói rình rập, dồng đuổi mà sẵn sàng bỏ qu tất cả, lại sẵn sàng làm một vật rẻ rúng để người ta đơn giản nhặt về làm vợ.. mị là người dân lao động nghèo miền núi, sống dưới ách thống trị cường quyền, thần quyền của bọn chúa đất phong kiến.        + Mị được nhà văn khám phá phát hiện và mô tả bằng những diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp. Nhân vật thị chủ yếu được khắc hoạ bằng ngoại hình và hành động.      

Page 31: NGU VAN 12

lập dàn ý Phân tích sức sống tiềm tàng của nv Mị trong “Vợ chồng A Phủ”

MB:

Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài tính đến nay đã già nửa thế kỉ. Hơn 60 năm cầm bút ông là tác giả của hàng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo, thể loại phong phú, đa dạng. Thế nhưng nhắc đến Tô Hoài ta ko thể quên đc tp “Dế mèn phiêu lưu kí”- tp tiêu biểu trước Cách mạng tháng 8. Sau Cách mạng, Tô Hoài lại nổi lên với tập truyện Tây Bắc mà linh hồn của nó là Vợ chồng A Phủ. Những năm gần đây người ta lại xôn xao nhớ đến Tô Hoài với tp “Cát bụi chân ai”… Cho đến nay, “Vợ chồng A Phủ” vẫn là cái mốc thách thức với chính Tô Hoài, truyện đc giải thưởng văn nghệ năm 1954-1955, một tp xuất sắc viết về đề tài miền núi. Truyện xoay quanh cuộc đời của Mị- 1 cô gái Mèo nghèo khổ, xinh đẹp, nết na được Tô Hoài xây dựng chân thực và sống động với sức sống tiềm tàng bất diệt. Thông qua sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, ngòi bút của Tô Hoài đã bộc lộ là 1 ngòi bút nhân văn, nhân đạo sâu sắc và cao cả. Văn hào Nga Sêkhốp đã từng nói: “ 1 người nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”. Tô Hoài là 1 nhà văn như vậy.

TB:

a. Trước hết là phản ứng của Mị khi biết tin mình là con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra

Như đã nói, Mị là 1 cô gái mèo xinh đẹp, nết na. Một người như Mị lẽ ra phải được sống cuộc đời hp, nhưng trái lại, cô đã khổ từ trong trứng nước. Ngày xưa khi cưới nhau đã ko có tiền, bố mẹ Mị đã phải vay của bố thống lí Pá Tra- tức ông của A Sử 10 đồng bạc trắng, mỗi năm fải trả lãi 1 nương ngô. Cho đến nay bố Mị đã già, mẹ Mị đã chết vậy mà món nợ ấy vẫn chưa trả được. Thống lí Pá Tra đến gạ bố Mị gả Mị cho A Sử con trai hắn làm con dâu gạt nợ. Biết vậy, Mị đã phản ứng lại ngay: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải ở nhà làm nương ngô trả nợ cho người ta. Bố

Page 32: NGU VAN 12

đừng bán con cho nhà giàu”. Đây chỉ là 1 câu nói bình thường nhưng đã toát ra cả 1 con người. Đó là con người có sức sống tiềm tàng bất diệt. Câu nói của Mị là 1 sự đánh tráo, đánh đổi: Mị thà ở nhà lao động cực nhọc trên nương rẫy để được sống 1 cuộc đời hp trong tự do còn hơn fải làm con dâu cửa nhà giàu, sống kiếp đời trâu ngựa, nô lệ. Sự đánh tráo, đánh đổi ấy chỉ có thể có được ở những con người mạnh mẽ, tự tin, biết quí trọng danh dự, nhân fẩm của chính bản thân mình. Có câu: “Thân gái như hạt mưa sa”, việc người con gai được sa vào cửa nhà giàu, đó là ước mơ, thậm chí còn là sự toan tính của nhiều người phụ nữ. Thế nhưng với Mị, 1 con người có sức sống tiềm tàng bất diệt thì Mị ko chấp nhận điều ấy bởi Mị hiểu rõ gia đình nhà Thống lí Pá Tra. Đó là nơi hang hùm nọc rắn, Mị hiểu rõ bản chất của cuộc hôn nhân gả bán này: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Rõ ràng chỉ là 1 câu nói giản đơn nhưng fần nào đã gợi mở cho người đọc thấy được ở Mị có sức sống tiềm tàng bất diệt.

b. Mị toan tự tử:

Mặc dù Mị phản ứng quyết liệt, Mị ko chấp nhận vào nhà thống lí Pá Tra thế nhưng Mị đang sống trong xã hội tiền quyền và thần quyền. Đó là xã hội phong kiến ở miền xuôi thế nên những người hiền lành nết na như Mị ko thoát đc. Mị bị bắt cóc, bị lường gạt về cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đó. Biết được điều này “có đến mất tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”. Mị ko chấp nhận cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra, ý định tự tử đã đến với Mị. Mị cầm nắm lá ngón trên tay về lạy chào cha để định quyên sinh. Nhưng khi về đến gia đình, Mị mới nhìn thấy rõ bi kịch gia đình mình, bố Mị nói như van xin trong làn nước mắt: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày mà chết rồi ko lấy ai làm nương ngô giả đc nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Ko đc, con ơi!”

Sau khi Mị nghe những lời nói như van xin của cha, cô đứng trước 1 hoàn cảnh éo le, oái oăm, cay cực. Mị sống ko muốn, Mị chết ko xong. Tuy nhiên việc Mị đã đến ý định tự tử lại thể hiện sức sống tiềm tàng, điều đó phải chăng là nghịch lý?

Mới nghe qua tưởng là nghịch lí nhưng ngẫm nghĩ lại trong hoàn

Page 33: NGU VAN 12

cảnh của Mị đó lại là 1 điều hợp lí sâu sắc bởi vì Mị muốn chết như 1 con người còn hơn fải sống như 1 con vật. Mị muốn chết ngay 1 lần để đc làm người còn hơn fải sống cs chết dần, chết mòn, chết khô, chết héo, chết cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhưng nếu làm theo sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng thì Mị fải trà đạp lên chữ “hiếu”, Mị ko thể giày xéo lên tình phụ tử. Vì chữ “hiếu” Mị đành vứt nắm lá ngón, gạt nước mắt quay trở lại nhà thống lí. Nhà thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài chả khác nào thiên la địa võng, dấn thân vào đó là dấn thân vào chỗ chết, vào địa ngục trần gian. Biết đc điều này nhưng Mị vẫn chấp nhận vì thương cha. Đọc đến đây ta nhớ đến bi kịch của Thuý Kiều hơn 200 năm trước “bán mình chuộc cha”. Hôm nay bi kịch ấy lại đổ dồn lên đôi vai gầy của người con gái Mèo nghèo khổ. Giữa những năm đó, miền Bắc nước ta đang tiến lên CNXH nhưng ánh sáng của Đảng chưa rọi tới cs của những người vùng cao. Là 1 chiến sĩ trên diễn đàn văn chương, nói như HCM: “VH nghệ thuật là 1 mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Tô Hoài thông qua “vợ chồng A Phủ” đem ánh sáng của Đảng rọi lên kiếp đời thổ ti lang tảo ở bản Mèo để “cứu đất cứu Mường”. Bđầu từ đây Mị sống khác hẳn, Mị ko khóc như trước nữa. “Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, như cái bóng, cái xác vô hồn trong địa ngục trần gian. Mị sống chẳng qua là kéo dài những ngày chưa chết đc, điều này đã được Tô Hoài thể hiện ngay ở mươi dòng đầu câu chuyện với những câu văn đầy tính tạo hình. Nhà văn đã dựng lên trước mắt chúng ta với sức sống tàn fai, mai một: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra…cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

c.Tất cả những gì tưởng đã chết trong lòng Mị thì bây giờ lại được hồi sinh, hồi sinh 1 cách chóng vánh khi mùa xuân đến.

Phải nói rằng những trang viết về mùa xuân là những trang tuyệt bút của nhà văn Tô Hoài. Ta bắt gặp ở 1 nhà văn hiện thực lại có những trang văn lãn mạn. “Vợ chồng A Phủ” xứng đáng là 1 minh chứng cho lời nhận định: “Văn học VN gđoạn 45-75 có sự kết hợp hài hoà giữa 2 nhân tố hiện thực và lãn mạn”. Nhưng điều cta quan tâm hơn cả là ngòi bút tâm lí của nhà văn Tô Hoài khi mô tả sự trỗi dậy sức sống tiềm tàng của Mị. Ông tỏ ra am hiểu những tâm lí phức tạp, âm thầm trong tâm hồn người fụ nữ:

Page 34: NGU VAN 12

Đầu tiên là sự thay đổi bên ngoài. Năm ấy mùa xuân về sớm hơn mọi năm. Tô Hoài mô tả những làn gió đem mùa xuân về trên khắp các bản làng. Những nương thuốc fiện đã nở hoa sặc sỡ, cả bản Mèo đều cuốn vào không khí của ngày hội. Trên những bản của người Mèo đó, trai gái đã mang váy áo ra fơi trên những mỏm đá trông sặc sỡ như những cánh bướm. Ban ngày trai gái mặc quần áo mới đến đánh quay, ném pao, tung còn,… Tất cả những hình ảnh này đã dội vào tâm hồn Mị- 1 tâm hồn khô cằn, nó làm cho sức sống của Mị bđầu có sự vận động, nó chẳng khác nào những nốt nhạc đầu tiên của bản nhạc tình ca thay đổi lớn sắp diễn ra trong lòng người đàn bà đã và đang fải chịu quá nhiều đau khổ.

Kế đó là tiếng sáo đêm tình mùa xuân. Trong không gian tiếng hát, tiếng sáo, tiếng khèn lá, khèn môi của trai bản gọi bạn tình cứ réo rắt nhau đi hết quả đồi này sang quả đồi khác. Nó đánh thức dậy những bài hát lâu nay tiềm ẩn sâu trong tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm lại những bài hát ngày xưa. Ngày xưa, Mị thổi sáo thật tài, chỉ cần uốn lá trên môi, cô thổi lá hay như thổi sáo:

“Anh ném pao

Em ko bắt

Em ko yêu

Quả pao rơi rồi”

Hay: “Mày có con trai, con gái rồi

Mày đi làm nương

Tao chưa có con trai, con gái

Tao đi tìm người yêu”

Nhưng điều đáng nói hơn cả là chính tiếng sáo ấy đã đánh thức dậy 2 tiếng “ngày xưa” từ trong lòng Mị. Kể từ ngày bước chân

Page 35: NGU VAN 12

vào nhà thống lí Pá Tra, Mị sống cđời phi ko gian, phi thời gian. Thế giới của Mị là 1 căn buồng tăm tối, nhìn ra bên ngoài qua ô cửa mờ mờ, trăng trắng, ko biết ngày hay đêm, sương hay nắng. Khi 1 người ko nhận thức đc ngày, đêm, sương, nắng nghĩa là ko nhận thức đc ko gian và thời gian, cũng đồng nghĩa với sức sống của họ đang tàn fai, mai một. Hnay thì khác, thời gian đã trở về với Mị, thời gian ấy cho Mị thấy hiện tại quá khổ đau, quá khứ ngày xưa mới là hp. Thế là Mị luôn hướng về ngày xưa, hướng về quá khứ, muốn kéo dài quá khứ, muốn vớt vát quá khứ để bù đắp những cay đắng trong hiện tại.

Mùa xuân năm ấy, khi sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy, nhà văn Tô Hoài rất khéo léo khi đưa bất cứ 1 hình ảnh nào đến với Mị thì hình ảnh ấy đều là chỗ dựa cho sức sống của Mị trỗi dậy. Nhất là bữa cơm tất niên trong gđ nhà thồng lí Pá Tra với hình ảnh của những người ốp đồng nhảy múa vui vẻ trong tiếng nhạc sinh tiền càng làm cho lòng Mị trở nên rộn ràng, náo nức. Niềm rộn ràng, náo nức ấy thực sự là nỗi thúc bách khi những người trong nhà thống lí mặc váy áo mới đi chơi. Như vậy, sức sống tiềm tàng của Mị đã trỗi dậy, nó trở thành đòi hỏi bên trong muốn cất cánh ra bên ngoài. Rồi Mị lén lấy hũ rượu, Mị uống ừng ực từng bát, Mị uống như nuốt những tủi hờn, cay đắng vào trong ***g ngực. Mị uống như nuốt hiện tại khổ đau để trước mắt Mị giờ đây chỉ còn là quá khứ hp. Thế là Mị đang sống lại ngày trước với quãng đời thiếu nữ tự do, với hp trong mối tình đầu. Việc làm tiếp theo của Mị khi cô bước vào căn buồng tăm tối ấy là Mị xắn 1 miếng mỡ để vào trong đèn cho đèn sáng hơn. Đây ko còn là chi tiết sinh hoạt nữa mà nó trở thành 1 chi tiết có chiều sâu nghệ thuật bởi trước đây ko thiết sống nên căn buồng của Mị tăm tối, hôi hám, luộm thuộm, ẩm thấp, bẩn thỉu… Mị cũng chẳng bận lòng. Hnay thì khác, lòng yêu đời vừa mới trở về với Mị. Mị muốn đời mình fải sáng sủa hơn. Thế nên hành động Mị xắn miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho đèn sáng hơn cũng đồng nghĩa với việc Mị thắp lên ngọn lửa trong lòng mình. Mị thấy mình trẻ đẹp, Mị muốn đi chơi hội như bao người đàn bà có chồng khác ở Hồng Ngài. Mị chuẩn bị, sửa soạn đi chơi. Mị tìm cái váy hoa đẹp nhất của mình vắt tít trên vách. Khi 1 người đàn bà khổ đau sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, như cái bóng, cái xác vô hồn giữa địa ngục trần gian bỗng 1 hôm thấy mình trẻ ra, đẹp hơn, muốn ăn mặc đẹp, đó là

Page 36: NGU VAN 12

dấu hiệu đầu tiên của sự tái xuân. Đó là lúc sức sống tiềm tàng trỗi dậy mạnh mẽ nhất trong lòng Mị. Thế nhưng sức sống ấy đã bị dập tắt ngay lập tức, A Sử đã vùi dập nó 1 cách fũ fàng, hắn trói Mị = 1 thúng dây đay từ chân lên đầu. Chưa bao giờ Mị lại cảm thấy nhục nhã như thế, sự so sánh đã bắt đầu xuất hiện trong Mị, Mị thấy mình ko bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra, khi mỏi còn đc đổi tàu, còn đc gãi chân, nhai cỏ, còn Mị khóc ko tự lau đc nước mắt. Cơ chừng sau lúc ấy sức sống tiềm tàng của Mị tắt hẳn.

d. Sức sống tiềm tàng thêm 1 lần nữa trỗi dậy khi gặp A Phủ

Cuộc đời của Mị sẽ cứ như thế cho đến chết nếu như Tô Hoài ko để cho Mị gặp đc 1 người. Người ấy đã tiếp cho Mị 1 sức mạnh vô cùng để 1 lần nữa sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy để giải thoát đời mình, giải thoát người cùng cảnh ngộ, đó là A Phủ. A Phủ bị trói, bị bỏ đói hàng tuần lễ giữa những ngày mùa đông đầy sương muối ở vùng cao. Đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa để hơ tay. Mị vẫn nhìn thấy A Phủ nhưng có lẽ sống lâu trong địa ngục trần gian, trong gia đình nhà thống lí mà việc đánh trói con người còn nhiều hơn cơm bữa nên lòng thương người của cô Mị nết na đã bị chai sạn, chai lì. Vẫn nhìn thấy A Phủ. Mị ko động lòng thương nhưng hnay thì khác. Chợt nghe thấy tiếng thở phì phì của A Phủ, Mị bất chợt nhìn sang và giật mình nhận thấy 1 chàng trai to khoẻ nhất bản giờ đây đã bị đánh đến tiều tuỵ, mặt sám lại, má hõm sâu, 2 con mắt trũng sâu đầy bóng tối. Và đúng lúc đó, 2 hàng nước mắt từ hai hố mắt lặng lẽ bò xuống hõm má. Mị cảm thấy ko thể đành lòng, niềm thương cảm chợt dâng lên trong lòng Mị, Mị nhớ đến mình ngày trước cũng bị trói, bị đánh như thế. Thương mình Mị lại thương người, Mị ném ra câu nói như thế này trong bóng tối: “Ta là thân đàn bà nó đã trình ma nhà nó chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đây, người kia việc gì fải chết…A Phủ”. Khi 1 người đàn bà khổ đau, sống lầm lũi trong bóng tối bỗng 1 hôm ném ra câu hỏi như thế, đó là khởi đầu của sự nổi loạn. Sức sống tiềm tàng đã trỗi dậy thành sức mạnh, sức mạnh ấy đã biến 1 người đàn bà yếu đuối thành 1 người can đảm, biến 1 người nhẫn nhục trở thành 1 người fản kháng. Chưa bao giờ người đọc lại thấy Mị liều lĩnh như thế. Nghĩ đến cái chết Mị cũng ko sợ nữa, ý định cứu A Phủ đã đến với Mị trong khoảnh khắc Mị rút dao cắt dây trói cho A Phủ. Cho đến

Page 37: NGU VAN 12

vòng dây cuối cùng được cắt đứt, A Phủ quỵ người xuống rồi lại quật người đứng dậy chạy băng băng vào trong bóng tối. Đến lúc này đây, Mị vẫn chỉ nghĩ đến việc cứu A Phủ. Đến khi A Phủ chạy xuống cái dốc, Mị nhìn lại thấy nguy cơ mình có thể bị chết thay vào đó, ý định tự cứu mình đã đến với Mị, Mị nói: “A Phủ! Cho tôi đi!”. Đây là 1 câu nói của lòng ham sống trong giờ fút nguy cấp để giải thoát đời mình. Thế là 2 người nô lệ giải thoát cho nhau, nương tựa vào nhau, trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa.

KB:

Việc Mị giải thoát cho A Phủ có thể coi như 1 chiếc bản lề khép mở 2 thế giới. Nó khép lại TG tăm tối với kiếp sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài, đồng thời nó mở ra TG mới- TG tươi sáng ở phía Phiềng Sa. Với hành động này của Mị, nó đã đưa “vợ chồng A Phủ” trở thành tp bản lề trên diễn đàn văn chương VN. Nó khép lại những hạn chế của 1 dòng văn học hiện thực fê fán 1 thời. Nó mở ra 1 hướng đi mới cho VH kháng chiến và đây nó trở thành mốc thách thức của chính nhà văn Tô Hoài. Đến Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã gặp được ánh sáng của Đảng, gặp được cán bộ CM A Châu. Và 2 người đã tham gia CM, chỉ có CM mới soi sáng được kiếp người trâu ngựa, nô lệ. Và cũng chỉ có Mị và A Phủ mới là những người cách mạng trung kiên. Nói như nhà thơ Tố Hữu:

“Đời CM từ khi tôi đã hiểu

Dấn thân vô là fải chịu khổ nhiều

Là gươm kề cổ, là súng kề tai

Là thân sống chỉ coi còn 1 nửa”

“Vợ chồng A Phủ” mô tả quá trình bừng thức, vùng lên của kiếp sống nô lệ này. Ngòi bút của Tô Hoài đã thể hiện là ngòi bút nhân văn, nhân đạo sâu sắc và cao cả. Và “vợ chồng A Phủ” mãi là bài ca ca ngợi tự do, lòng yêu đời

lập dàn ý Phân tích sức sống tiềm tàng của nv Mị trong “Vợ chồng A Phủ”

Page 38: NGU VAN 12

MB:

Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài tính đến nay đã già nửa thế kỉ. Hơn 60 năm cầm bút ông là tác giả của hàng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo, thể loại phong phú, đa dạng. Thế nhưng nhắc đến Tô Hoài ta ko thể quên đc tp “Dế mèn phiêu lưu kí”- tp tiêu biểu trước Cách mạng tháng 8. Sau Cách mạng, Tô Hoài lại nổi lên với tập truyện Tây Bắc mà linh hồn của nó là Vợ chồng A Phủ. Những năm gần đây người ta lại xôn xao nhớ đến Tô Hoài với tp “Cát bụi chân ai”… Cho đến nay, “Vợ chồng A Phủ” vẫn là cái mốc thách thức với chính Tô Hoài, truyện đc giải thưởng văn nghệ năm 1954-1955, một tp xuất sắc viết về đề tài miền núi. Truyện xoay quanh cuộc đời của Mị- 1 cô gái Mèo nghèo khổ, xinh đẹp, nết na được Tô Hoài xây dựng chân thực và sống động với sức sống tiềm tàng bất diệt. Thông qua sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, ngòi bút của Tô Hoài đã bộc lộ là 1 ngòi bút nhân văn, nhân đạo sâu sắc và cao cả. Văn hào Nga Sêkhốp đã từng nói: “ 1 người nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”. Tô Hoài là 1 nhà văn như vậy.

TB:

a. Trước hết là phản ứng của Mị khi biết tin mình là con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra

Như đã nói, Mị là 1 cô gái mèo xinh đẹp, nết na. Một người như Mị lẽ ra phải được sống cuộc đời hp, nhưng trái lại, cô đã khổ từ trong trứng nước. Ngày xưa khi cưới nhau đã ko có tiền, bố mẹ Mị đã phải vay của bố thống lí Pá Tra- tức ông của A Sử 10 đồng bạc trắng, mỗi năm fải trả lãi 1 nương ngô. Cho đến nay bố Mị đã già, mẹ Mị đã chết vậy mà món nợ ấy vẫn chưa trả được. Thống lí Pá Tra đến gạ bố Mị gả Mị cho A Sử con trai hắn làm con dâu gạt nợ. Biết vậy, Mị đã phản ứng lại ngay: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải ở nhà làm nương ngô trả nợ cho người ta. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Đây chỉ là 1 câu nói bình thường nhưng đã toát ra cả 1 con người. Đó là con người có sức sống tiềm tàng bất diệt. Câu nói của Mị là 1 sự đánh tráo, đánh đổi: Mị thà ở nhà lao động cực nhọc trên nương rẫy để được sống 1 cuộc đời hp trong tự do còn hơn fải làm con dâu cửa nhà giàu, sống kiếp đời

Page 39: NGU VAN 12

trâu ngựa, nô lệ. Sự đánh tráo, đánh đổi ấy chỉ có thể có được ở những con người mạnh mẽ, tự tin, biết quí trọng danh dự, nhân fẩm của chính bản thân mình. Có câu: “Thân gái như hạt mưa sa”, việc người con gai được sa vào cửa nhà giàu, đó là ước mơ, thậm chí còn là sự toan tính của nhiều người phụ nữ. Thế nhưng với Mị, 1 con người có sức sống tiềm tàng bất diệt thì Mị ko chấp nhận điều ấy bởi Mị hiểu rõ gia đình nhà Thống lí Pá Tra. Đó là nơi hang hùm nọc rắn, Mị hiểu rõ bản chất của cuộc hôn nhân gả bán này: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Rõ ràng chỉ là 1 câu nói giản đơn nhưng fần nào đã gợi mở cho người đọc thấy được ở Mị có sức sống tiềm tàng bất diệt.

b. Mị toan tự tử:

Mặc dù Mị phản ứng quyết liệt, Mị ko chấp nhận vào nhà thống lí Pá Tra thế nhưng Mị đang sống trong xã hội tiền quyền và thần quyền. Đó là xã hội phong kiến ở miền xuôi thế nên những người hiền lành nết na như Mị ko thoát đc. Mị bị bắt cóc, bị lường gạt về cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đó. Biết được điều này “có đến mất tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”. Mị ko chấp nhận cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra, ý định tự tử đã đến với Mị. Mị cầm nắm lá ngón trên tay về lạy chào cha để định quyên sinh. Nhưng khi về đến gia đình, Mị mới nhìn thấy rõ bi kịch gia đình mình, bố Mị nói như van xin trong làn nước mắt: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày mà chết rồi ko lấy ai làm nương ngô giả đc nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Ko đc, con ơi!”

Sau khi Mị nghe những lời nói như van xin của cha, cô đứng trước 1 hoàn cảnh éo le, oái oăm, cay cực. Mị sống ko muốn, Mị chết ko xong. Tuy nhiên việc Mị đã đến ý định tự tử lại thể hiện sức sống tiềm tàng, điều đó phải chăng là nghịch lý?

Mới nghe qua tưởng là nghịch lí nhưng ngẫm nghĩ lại trong hoàn cảnh của Mị đó lại là 1 điều hợp lí sâu sắc bởi vì Mị muốn chết như 1 con người còn hơn fải sống như 1 con vật. Mị muốn chết ngay 1 lần để đc làm người còn hơn fải sống cs chết dần, chết mòn, chết khô, chết héo, chết cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhưng nếu làm theo sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng thì Mị

Page 40: NGU VAN 12

fải trà đạp lên chữ “hiếu”, Mị ko thể giày xéo lên tình phụ tử. Vì chữ “hiếu” Mị đành vứt nắm lá ngón, gạt nước mắt quay trở lại nhà thống lí. Nhà thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài chả khác nào thiên la địa võng, dấn thân vào đó là dấn thân vào chỗ chết, vào địa ngục trần gian. Biết đc điều này nhưng Mị vẫn chấp nhận vì thương cha. Đọc đến đây ta nhớ đến bi kịch của Thuý Kiều hơn 200 năm trước “bán mình chuộc cha”. Hôm nay bi kịch ấy lại đổ dồn lên đôi vai gầy của người con gái Mèo nghèo khổ. Giữa những năm đó, miền Bắc nước ta đang tiến lên CNXH nhưng ánh sáng của Đảng chưa rọi tới cs của những người vùng cao. Là 1 chiến sĩ trên diễn đàn văn chương, nói như HCM: “VH nghệ thuật là 1 mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Tô Hoài thông qua “vợ chồng A Phủ” đem ánh sáng của Đảng rọi lên kiếp đời thổ ti lang tảo ở bản Mèo để “cứu đất cứu Mường”. Bđầu từ đây Mị sống khác hẳn, Mị ko khóc như trước nữa. “Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, như cái bóng, cái xác vô hồn trong địa ngục trần gian. Mị sống chẳng qua là kéo dài những ngày chưa chết đc, điều này đã được Tô Hoài thể hiện ngay ở mươi dòng đầu câu chuyện với những câu văn đầy tính tạo hình. Nhà văn đã dựng lên trước mắt chúng ta với sức sống tàn fai, mai một: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra…cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

c.Tất cả những gì tưởng đã chết trong lòng Mị thì bây giờ lại được hồi sinh, hồi sinh 1 cách chóng vánh khi mùa xuân đến.

Phải nói rằng những trang viết về mùa xuân là những trang tuyệt bút của nhà văn Tô Hoài. Ta bắt gặp ở 1 nhà văn hiện thực lại có những trang văn lãn mạn. “Vợ chồng A Phủ” xứng đáng là 1 minh chứng cho lời nhận định: “Văn học VN gđoạn 45-75 có sự kết hợp hài hoà giữa 2 nhân tố hiện thực và lãn mạn”. Nhưng điều cta quan tâm hơn cả là ngòi bút tâm lí của nhà văn Tô Hoài khi mô tả sự trỗi dậy sức sống tiềm tàng của Mị. Ông tỏ ra am hiểu những tâm lí phức tạp, âm thầm trong tâm hồn người fụ nữ:

Đầu tiên là sự thay đổi bên ngoài. Năm ấy mùa xuân về sớm hơn mọi năm. Tô Hoài mô tả những làn gió đem mùa xuân về trên khắp các bản làng. Những nương thuốc fiện đã nở hoa sặc sỡ, cả bản Mèo đều cuốn vào không khí của ngày hội. Trên những bản

Page 41: NGU VAN 12

của người Mèo đó, trai gái đã mang váy áo ra fơi trên những mỏm đá trông sặc sỡ như những cánh bướm. Ban ngày trai gái mặc quần áo mới đến đánh quay, ném pao, tung còn,… Tất cả những hình ảnh này đã dội vào tâm hồn Mị- 1 tâm hồn khô cằn, nó làm cho sức sống của Mị bđầu có sự vận động, nó chẳng khác nào những nốt nhạc đầu tiên của bản nhạc tình ca thay đổi lớn sắp diễn ra trong lòng người đàn bà đã và đang fải chịu quá nhiều đau khổ.

Kế đó là tiếng sáo đêm tình mùa xuân. Trong không gian tiếng hát, tiếng sáo, tiếng khèn lá, khèn môi của trai bản gọi bạn tình cứ réo rắt nhau đi hết quả đồi này sang quả đồi khác. Nó đánh thức dậy những bài hát lâu nay tiềm ẩn sâu trong tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm lại những bài hát ngày xưa. Ngày xưa, Mị thổi sáo thật tài, chỉ cần uốn lá trên môi, cô thổi lá hay như thổi sáo:

“Anh ném pao

Em ko bắt

Em ko yêu

Quả pao rơi rồi”

Hay: “Mày có con trai, con gái rồi

Mày đi làm nương

Tao chưa có con trai, con gái

Tao đi tìm người yêu”

Nhưng điều đáng nói hơn cả là chính tiếng sáo ấy đã đánh thức dậy 2 tiếng “ngày xưa” từ trong lòng Mị. Kể từ ngày bước chân vào nhà thống lí Pá Tra, Mị sống cđời phi ko gian, phi thời gian. Thế giới của Mị là 1 căn buồng tăm tối, nhìn ra bên ngoài qua ô cửa mờ mờ, trăng trắng, ko biết ngày hay đêm, sương hay nắng. Khi 1 người ko nhận thức đc ngày, đêm, sương, nắng nghĩa là ko nhận thức đc ko gian và thời gian, cũng đồng nghĩa với sức sống

Page 42: NGU VAN 12

của họ đang tàn fai, mai một. Hnay thì khác, thời gian đã trở về với Mị, thời gian ấy cho Mị thấy hiện tại quá khổ đau, quá khứ ngày xưa mới là hp. Thế là Mị luôn hướng về ngày xưa, hướng về quá khứ, muốn kéo dài quá khứ, muốn vớt vát quá khứ để bù đắp những cay đắng trong hiện tại.

Mùa xuân năm ấy, khi sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy, nhà văn Tô Hoài rất khéo léo khi đưa bất cứ 1 hình ảnh nào đến với Mị thì hình ảnh ấy đều là chỗ dựa cho sức sống của Mị trỗi dậy. Nhất là bữa cơm tất niên trong gđ nhà thồng lí Pá Tra với hình ảnh của những người ốp đồng nhảy múa vui vẻ trong tiếng nhạc sinh tiền càng làm cho lòng Mị trở nên rộn ràng, náo nức. Niềm rộn ràng, náo nức ấy thực sự là nỗi thúc bách khi những người trong nhà thống lí mặc váy áo mới đi chơi. Như vậy, sức sống tiềm tàng của Mị đã trỗi dậy, nó trở thành đòi hỏi bên trong muốn cất cánh ra bên ngoài. Rồi Mị lén lấy hũ rượu, Mị uống ừng ực từng bát, Mị uống như nuốt những tủi hờn, cay đắng vào trong ***g ngực. Mị uống như nuốt hiện tại khổ đau để trước mắt Mị giờ đây chỉ còn là quá khứ hp. Thế là Mị đang sống lại ngày trước với quãng đời thiếu nữ tự do, với hp trong mối tình đầu. Việc làm tiếp theo của Mị khi cô bước vào căn buồng tăm tối ấy là Mị xắn 1 miếng mỡ để vào trong đèn cho đèn sáng hơn. Đây ko còn là chi tiết sinh hoạt nữa mà nó trở thành 1 chi tiết có chiều sâu nghệ thuật bởi trước đây ko thiết sống nên căn buồng của Mị tăm tối, hôi hám, luộm thuộm, ẩm thấp, bẩn thỉu… Mị cũng chẳng bận lòng. Hnay thì khác, lòng yêu đời vừa mới trở về với Mị. Mị muốn đời mình fải sáng sủa hơn. Thế nên hành động Mị xắn miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho đèn sáng hơn cũng đồng nghĩa với việc Mị thắp lên ngọn lửa trong lòng mình. Mị thấy mình trẻ đẹp, Mị muốn đi chơi hội như bao người đàn bà có chồng khác ở Hồng Ngài. Mị chuẩn bị, sửa soạn đi chơi. Mị tìm cái váy hoa đẹp nhất của mình vắt tít trên vách. Khi 1 người đàn bà khổ đau sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, như cái bóng, cái xác vô hồn giữa địa ngục trần gian bỗng 1 hôm thấy mình trẻ ra, đẹp hơn, muốn ăn mặc đẹp, đó là dấu hiệu đầu tiên của sự tái xuân. Đó là lúc sức sống tiềm tàng trỗi dậy mạnh mẽ nhất trong lòng Mị. Thế nhưng sức sống ấy đã bị dập tắt ngay lập tức, A Sử đã vùi dập nó 1 cách fũ fàng, hắn trói Mị = 1 thúng dây đay từ chân lên đầu. Chưa bao giờ Mị lại cảm thấy nhục nhã như thế, sự so sánh đã bắt đầu xuất hiện trong Mị,

Page 43: NGU VAN 12

Mị thấy mình ko bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra, khi mỏi còn đc đổi tàu, còn đc gãi chân, nhai cỏ, còn Mị khóc ko tự lau đc nước mắt. Cơ chừng sau lúc ấy sức sống tiềm tàng của Mị tắt hẳn.

d. Sức sống tiềm tàng thêm 1 lần nữa trỗi dậy khi gặp A Phủ

Cuộc đời của Mị sẽ cứ như thế cho đến chết nếu như Tô Hoài ko để cho Mị gặp đc 1 người. Người ấy đã tiếp cho Mị 1 sức mạnh vô cùng để 1 lần nữa sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy để giải thoát đời mình, giải thoát người cùng cảnh ngộ, đó là A Phủ. A Phủ bị trói, bị bỏ đói hàng tuần lễ giữa những ngày mùa đông đầy sương muối ở vùng cao. Đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa để hơ tay. Mị vẫn nhìn thấy A Phủ nhưng có lẽ sống lâu trong địa ngục trần gian, trong gia đình nhà thống lí mà việc đánh trói con người còn nhiều hơn cơm bữa nên lòng thương người của cô Mị nết na đã bị chai sạn, chai lì. Vẫn nhìn thấy A Phủ. Mị ko động lòng thương nhưng hnay thì khác. Chợt nghe thấy tiếng thở phì phì của A Phủ, Mị bất chợt nhìn sang và giật mình nhận thấy 1 chàng trai to khoẻ nhất bản giờ đây đã bị đánh đến tiều tuỵ, mặt sám lại, má hõm sâu, 2 con mắt trũng sâu đầy bóng tối. Và đúng lúc đó, 2 hàng nước mắt từ hai hố mắt lặng lẽ bò xuống hõm má. Mị cảm thấy ko thể đành lòng, niềm thương cảm chợt dâng lên trong lòng Mị, Mị nhớ đến mình ngày trước cũng bị trói, bị đánh như thế. Thương mình Mị lại thương người, Mị ném ra câu nói như thế này trong bóng tối: “Ta là thân đàn bà nó đã trình ma nhà nó chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đây, người kia việc gì fải chết…A Phủ”. Khi 1 người đàn bà khổ đau, sống lầm lũi trong bóng tối bỗng 1 hôm ném ra câu hỏi như thế, đó là khởi đầu của sự nổi loạn. Sức sống tiềm tàng đã trỗi dậy thành sức mạnh, sức mạnh ấy đã biến 1 người đàn bà yếu đuối thành 1 người can đảm, biến 1 người nhẫn nhục trở thành 1 người fản kháng. Chưa bao giờ người đọc lại thấy Mị liều lĩnh như thế. Nghĩ đến cái chết Mị cũng ko sợ nữa, ý định cứu A Phủ đã đến với Mị trong khoảnh khắc Mị rút dao cắt dây trói cho A Phủ. Cho đến vòng dây cuối cùng được cắt đứt, A Phủ quỵ người xuống rồi lại quật người đứng dậy chạy băng băng vào trong bóng tối. Đến lúc này đây, Mị vẫn chỉ nghĩ đến việc cứu A Phủ. Đến khi A Phủ chạy xuống cái dốc, Mị nhìn lại thấy nguy cơ mình có thể bị chết thay vào đó, ý định tự cứu mình đã đến với Mị, Mị nói: “A Phủ! Cho tôi

Page 44: NGU VAN 12

đi!”. Đây là 1 câu nói của lòng ham sống trong giờ fút nguy cấp để giải thoát đời mình. Thế là 2 người nô lệ giải thoát cho nhau, nương tựa vào nhau, trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa.

KB:

Việc Mị giải thoát cho A Phủ có thể coi như 1 chiếc bản lề khép mở 2 thế giới. Nó khép lại TG tăm tối với kiếp sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài, đồng thời nó mở ra TG mới- TG tươi sáng ở phía Phiềng Sa. Với hành động này của Mị, nó đã đưa “vợ chồng A Phủ” trở thành tp bản lề trên diễn đàn văn chương VN. Nó khép lại những hạn chế của 1 dòng văn học hiện thực fê fán 1 thời. Nó mở ra 1 hướng đi mới cho VH kháng chiến và đây nó trở thành mốc thách thức của chính nhà văn Tô Hoài. Đến Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã gặp được ánh sáng của Đảng, gặp được cán bộ CM A Châu. Và 2 người đã tham gia CM, chỉ có CM mới soi sáng được kiếp người trâu ngựa, nô lệ. Và cũng chỉ có Mị và A Phủ mới là những người cách mạng trung kiên. Nói như nhà thơ Tố Hữu:

“Đời CM từ khi tôi đã hiểu

Dấn thân vô là fải chịu khổ nhiều

Là gươm kề cổ, là súng kề tai

Là thân sống chỉ coi còn 1 nửa”

“Vợ chồng A Phủ” mô tả quá trình bừng thức, vùng lên của kiếp sống nô lệ này. Ngòi bút của Tô Hoài đã thể hiện là ngòi bút nhân văn, nhân đạo sâu sắc và cao cả. Và “vợ chồng A Phủ” mãi là bài ca ca ngợi tự do, lòng yêu đời