Upload
others
View
7
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
NGUYỄN VĂN ĐÔNG
PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Thừa Thiên Huế, năm 2021
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
NGUYỄN VĂN ĐÔNG
PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Nganh: Luật kinh tế
Ma sô: 938.01.07
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. HÀ THỊ MAI HIÊN
2. TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN
Thừa Thiên Huế, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong
Luận án là trung thực. Kết quả nghiên cứu trong Luận án chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả Luận án
Nguyễn Văn Đông
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đến Cô PGS.TS.
Hà Thị Mai Hiên và Thầy TS. Nguyễn Văn Tuyến đã hướng dẫn tác giả tận tình, tận tâm
trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô giáo đã giảng dạy, phản biện, đánh
giá và nhận xét làm nền tảng cho tác giả hoàn thiện luận án.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu Trường Đại
học Luật - Đại học Huế, Quý Thầy, Cô giáo cùng gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, khích lệ, ủng hộ nhiệt tình trong thời gian tác giả thực hiện luận án.
Trân trọng!
Thừa Thiên Huế, tháng năm 2021
Tác giả luận án
Nguyễn Văn Đông
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 3
2.1. Mục đích ............................................................................................................................. 3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................................... 3
3. Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................................ 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 4
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ..................................................................... 5
6. Những điểm mới của luận án ............................................................................................ 5
7. Kết cấu của luận án ............................................................................................................ 6
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI VÀ CÁC VẤN
ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ....................................................................................... 7
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án .................................................... 7
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận về thu hồi đất nông nghiệp ......................... 8
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội ................................................................................................................. 11
1.1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật
về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ...................................................... 13
1.1.4. Nhóm các công trình nghiên cứu giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ....................................................................................... 16
1.2. Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài
luận án và những nội dung mà luận án sẽ kế thừa, phát triển ...................................... 19
1.2.1. Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án
.................................................................................................................................................. 19
1.2.2. Những nội dung mà luận án sẽ kế thừa và tiếp tục nghiên cứu ................................. 20
1.3. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu, lý thuyết nghiên cứu ......................... 21
1.3.1. Câu hỏi nghiên cứu ....................................................................................................... 21
1.3.2. Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................................... 22
1.3.3. Lý thuyết nghiên cứu .................................................................................................... 23
Kết luận Chương 1 ................................................................................................................ 23
CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ................. 25
2.1. Cơ sở lý luận về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ............... 25
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội.. 25
2.1.2. Bồi thường và hỗ trợ cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội ................................................................................................... 35
2.1.3. Cơ sở của việc Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ..... 38
2.1.4. Ý nghĩa của việc Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội . 40
2.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh đôi với hoạt động thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội .................................................................................. 42
2.2.1. Chế độ sở hữu đất đai và sự ảnh hưởng đối với chế định thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội ........................................................................................................ 42
2.2.2. Cơ cấu điều chỉnh pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
.................................................................................................................................................. 46
2.2.3. Các yếu tố tác động đến pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -
xã hội ........................................................................................................................................ 49
2.3. Pháp luật thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở một sô nước
trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam.................................................................... 54
2.3.1. Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội của Nga ............ 54
2.3.2. Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội của Hàn Quốc . 56
2.3.3. Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội của Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa ................................................................................................................ 59
2.3.4. Một số gợi mở cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của
pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ..................................... 60
Kết luận chương 2 ................................................................................................................. 62
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM ............................................................................................................... 63
3.1. Căn cứ thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam ......... 63
3.1.1. Quy định của pháp luật ................................................................................................. 63
3.1.2. Thực tiễn áp dụng ......................................................................................................... 66
3.2. Các quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp ........................... 67
3.2.1. Quy định pháp luật về quy hoạch ................................................................................ 67
3.2.2. Thực tiễn áp dụng ......................................................................................................... 69
3.3. Các quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã
hội ............................................................................................................................................. 71
3.3.1. Quy định của pháp luật ................................................................................................. 71
3.3.2. Thực tiễn áp dụng ......................................................................................................... 73
3.4. Các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -
xã hội ....................................................................................................................................... 75
3.4.1. Quy định của pháp luật ................................................................................................. 75
3.4.2. Thực tiễn áp dụng ......................................................................................................... 82
3.5. Các quy định về bồi thường và hỗ trợ người sử dụng đất khi Nha nước thu hồi
đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội .................................................................. 85
3.5.1. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội .... 85
3.5.2. Các quy định về hỗ trợ người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội ........................................................................................................ 94
Kết luận chương 3 ............................................................................................................... 103
CHƯƠNG 4. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ..................................................... 105
4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh
tế - xã hội ở Việt Nam ......................................................................................................... 105
4.2. Giải pháp chung về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ....... 110
4.2.1. Mở rộng việc áp dụng cơ chế thỏa thuận đối với các dự án thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội ................................................................................................. 110
4.2.2. Tiêu chí xác định thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội cần quy định
cụ thể theo hướng .................................................................................................................. 111
4.2.3. Về nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh
tế - xã hội ............................................................................................................................... 111
4.3. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội ............................................................................................................ 111
4.3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định về công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ........................................................................... 112
4.3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội .............................................................................................................. 114
4.3.3. Giải pháp hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội ...................................................................................................... 118
4.3.4. Giải pháp về xây dựng cơ chế xác định giá đất nông nghiệp khi thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ..................................................................................... 119
4.4. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ................................................................................ 129
4.4.1. Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đất đai nói chung và
các quy định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội nói
riêng ........................................................................................................................................ 129
4.4.2. Nâng cao năng lực, hiệu quả của Bộ máy quản lý đất đai và cán bộ trực tiếp thực
hiện công tác thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ................................. 131
4.4.3. Đẩy mạnh thực thi dân chủ, công khai, minh bạch quá trình thực hiện thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ........................................................................... 132
4.4.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát đối với việc thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ..................................................................................... 133
4.4.5. Tạo cơ chế để cộng đồng dân cư và người bị thu hồi đất tham gia trực tiếp vào quá
trình thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội ....................................................................................................................... 135
Kết luận chương 4 ............................................................................................................... 136
KẾT LUẬN CHUNG ......................................................................................................... 137
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ................ 139
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 140
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BLDS: Bộ luật Dân sự
HĐND: Hội đồng nhân dân
LĐĐ: Luật Đất đai
NSDĐ: Người sử dụng đất
KHSDĐ: Kế hoạch sử dụng đất
GCNQSDĐ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
QSDĐ: Quyền sử dụng đất
TN&MT: Tai nguyên va Môi trường
UBND: Ủy ban nhân dân
XHCN: Xa hội chủ nghĩa
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tai
Việt Nam hiện nay có trên 96 triệu dân và hơn 70% trong số đó sống bằng nghề
nông nghiệp [106]. Đất đai là một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý
giá, được coi là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng và không thể thay thế được trong sản
xuất nông nghiệp, đảm bảo nguồn thu nhập và tạo ra sản phẩm hàng hoá thiết yếu cho
toàn xã hội. Đất là nơi làm nhà, là nơi con người tạo ra của cải vật chất phục vụ cho bản
thân mình. Vì vậy, việc bảo vệ đất nông nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
người dân cũng như Nhà nước. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa tất yếu
sẽ dẫn đến quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng một bộ phận diện tích đất nông nghiệp
sang phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đô thị. Để thực hiện quá trình chuyển
hóa này, Nhà nước phải tiến hành thu hồi đất nông nghiệp của người dân. Việc thu hồi
đất không chỉ liên quan đến lợi ích thiết thực của người bị thu hồi đất mà còn đụng chạm
đến lợi ích của nhà đầu tư, của xã hội và cả Nhà nước. Đây là nhiệm vụ khó khăn và phức
tạp vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống của người nông dân và đồng thời cũng ảnh
hưởng đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa theo chủ trương của
Đảng và Nhà nước.
Luật Đất đai năm 2013 đã sửa đổi, bổ sung, khắc phục được nhiều điểm hạn chế
của LĐĐ năm 2003. Tuy nhiên, sau một khoản thời gian thi hành thì LĐĐ năm 2013 cũng
đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định. Việc thu hồi đất cũng phát sinh mâu thuẫn,
tranh chấp dẫn đến khiếu kiện kéo dài, phức tạp. Báo cáo tại Phiên họp thứ 37 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thanh tra Chính phủ cho biết, năm 2019, tình hình khiếu
nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực đất đai chiếm 67,7% các loại khiếu kiện [107]. Không
phải lúc nào giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người bị thu hồi đất cũng tìm được tiếng nói
chung. Những trường hợp bất đồng giữa các bên về việc thu hồi đất sẽ dẫn đến việc
người bị thu hồi đất khiếu kiện là việc hiển nhiên. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này,
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị quyết, chính sách và pháp luật về thu hồi
đất, trong đó quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, các mức bồi thường, tài
sản và các chính sách hỗ trợ, tái định cư nhằm đảm bảo quyền lợi của người bị thu hồi
đất, nhưng quá trình thực hiện vẫn nãy sinh nhiều vấn đề bất cập, hạn chế, thiếu sót,
chưa đồng bộ. Nhiều nội dung của pháp luật về thu hồi hồi đất nông nghiệp chưa phù
hợp với thực tiễn như: Khung giá đất, cơ chế, thời điểm, diện tích thu hồi đất, tái định
cư, giải quyết việc làm, hỗ trợ trong việc thu hồi đất, tiêu cực, tham nhũng len lỏi trong
quá trình thu hồi đất của người sử dụng. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
2
nêu rõ “Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, chính sách về đất đai nhằm đảm bảo hài hòa lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của người sử dụng đất, lợi ích của nhà đầu tư, tạo điều kiện
thuận lợi để sử dụng có hiệu quả nguồn đất đai cho sự phát triển; khắc phục tình trạng
lãng phí và tham nhũng đất đai” [1, tr.109-110]. Đặc biệt việc thu hồi đất được quy định
trong Hiến pháp năm 2013 tại Khoản 3 Điều 54 “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá
nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng,
an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải
công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật” [20].
Trong thực tế có những dự án Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, nhà đầu tư chấp
nhận bỏ ra các chi phí lớn hơn thậm chí là bồi thường rất hậu hĩnh, đặc biệt sử dụng
chính sách hỗ trợ khác đó là: Bên cạnh chính sách hỗ trợ ổn định cuộc sống, hỗ trợ về
đào tạo nghề còn có chính sách hỗ trợ khác do các địa phương vận động tốt được dự án
đầu tư với chủ đầu tư bỏ ra các khoản chi phí ngoài lề thậm chí doanh nghiệp bỏ tiền túi
của mình nhưng cảm thấy rất vui vẻ vì người dân nhanh chóng trả lại đất nông nghiệp
để chủ đầu tư thực hiện dự án.
Có thể khẳng định LĐĐ năm 2013 vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập và chưa phát huy
được vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền lợi chính đáng của người có đất nông
nghiệp bị thu hồi, chưa giải quyết được bài toán đảm bảo sự hài hòa lợi ích của Nhà
nước, nhà đầu tư và người có đất nông nghiệp bị thu hồi, chưa “hạ nhiệt” các khiếu kiện,
vấn đề công khai, minh bạch, dân chủ chưa thực sự được phát huy, vẫn còn lạm quyền
trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp và chưa phát huy hết tác dụng tích cực trong
việc bảo đảm sử dụng nguồn lực đất đai và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Do vậy, việc nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan các quy định của pháp
luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội là việc làm hết sức cần thiết
về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng. Đồng thời, thông qua đó kiến nghị sửa đổi,
bổ sung những quy định chưa phù hợp của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội nhằm hoàn thiện các quy định của LĐĐ về thu hồi đất cũng như
nâng cao chất lượng đời sống của nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp. Với lý do đó,
nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xa hội ở Việt Nam” để làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Luật kinh tế.
3
2. Mục đích va nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Luận án nhằm làm rõ cơ sở lý luận pháp luật và thực tiễn về thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội; phân tích thực trạng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội nhằm phát hiện những tồn tại, bất cập; trên cơ sở đó, luận án đề
xuất những định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội và nâng cao hiệu quả thực thi ở nước ta.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là:
- Luận án làm rõ thực trạng nghiên cứu những công trình tiêu biểu ở trong nước,
nước ngoài liên quan các nội dung của Luận án. Từ đó xác định những nội dung Luận án
sẽ kế thừa, những nội dung Luận án tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu để đạt được mục đích
nghiên cứu.
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế
- xã hội bao gồm quan điểm, đường lối của Đảng về thu hồi đất; chế độ sở hữu toàn dân về
đất đai và quyền tài sản của người sử dụng đất đối với quyền sử dụng đất; khái niệm, đặc
điểm, mục đích, ý nghĩa, cơ sở của việc nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh
tế - xã hội; cơ cấu điều chỉnh của pháp luật và các yếu tố tác động đến việc nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội; pháp luật của một số nước trên thế giới
về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá nội dung của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội và đánh giá thực trạng thi hành chế định pháp luật này ở Việt
Nam.
- Đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
3. Đôi tượng va phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Chính sách pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước của Nhà nước ta; trong đó có nội dung liên quan đến thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội.
4
- Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn có liên quan đến thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội. Luận án cũng nghiên cứu pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp của một số nước trên thế giới như: Nga, Hàn Quốc, Trung Quốc.
- Các công trình khoa học về thu hồi đất, trong đó có thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội đã được công bố trong thời gian qua ở trong và ngoài nước.
- Các số liệu, vụ việc thực tiễn về áp dụng các quy định của pháp luật về thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời gian từ năm 2014 đến năm
2020
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam là đề
tài có phạm vi nghiên cứu rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ luận án tiến sĩ luật học, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu ở một
số nội dung cụ thể sau:
- Về nội dung: Các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội;
các quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy định về nội dung, thẩm quyền trình
tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội; quy định về bồi thường và
hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội.
- Về không gian: Luận án nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi Việt Nam.
- Về thời gian: Luận án giới hạn nghiên cứu pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2014 đặt trong mối liên hệ, so sánh với LĐĐ năm 2003
và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình làm luận án, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản
sau đây: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
Chủ nghĩa Mác - Lê nin trong việc nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của sự vật, hiện tượng;
nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đặt trong mối quan hệ
tương tác với các sự vật, hiện tượng khác.
- Phương pháp so sánh, phương pháp đánh giá, phương pháp lập luận logic v.v..
được sử dụng tại Chương 1 khi nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý
thuyết của luận án.
5
- Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp đối chiếu v.v.. được sử
dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
- Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp
tổng hợp, phương pháp khảo sát, phương pháp nghiên cứu tình huống.v.v.. được sử dụng
tại Chương 3 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh
tế - xã hội ở Việt Nam.
- Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch v.v.. được
sử dụng tại Chương 4 khi nghiên cứu định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu
hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao hiệu quả thực thi ở Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học va thực tiễn của luận án
Về phương diện lý luận, luận án là công trình nghiên cứu lý luận có tính chuyên
sâu về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, trong đó tập
trung vào việc làm rõ những vấn đề về căn cứ để thu hồi đất nông nghiệp, trình tự, thủ
tục thu hồi đất nông nghiệp; các hậu quả về kinh tế và pháp lý của việc thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội.
Về phương diện thực tiễn, luận án là công trình đánh giá toàn diện đối với thực
trạng pháp luật Việt Nam về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội và
thực tiễn thực hiện các quy định này cùng với những tác động của nó đối với nền kinh
tế - xã hội Việt Nam. Đồng thời, luận án cũng chỉ ra những điểm hạn chế, bất cập của
pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng
dạy, học tập trong các Trường Đại học chuyên luật và không chuyên luật, hệ thống các
trường chính trị, cho những người trực tiếp làm công tác thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội.
6. Những điểm mới của luận án
Luận án là công trình khoa học nghiên cứu pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay. Luận án có những điểm mới sau đây:
Thứ nhất, hệ thống hóa, bổ sung, phát triển và làm sâu sắc hơn cơ sở lý luận về
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội và pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Thứ hai, làm rõ khái niệm, đặc điểm của thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội; tính tất yếu khách quan của việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
6
kinh tế - xã hội; hậu quả của việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
và trách nhiệm của nhà nước; ý nghĩa của việc Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội; các yếu tố tác động đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội; phân biệt được thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội với thu hồi đất nông nghiệp vì mục đích kinh
doanh của nhà đầu tư.
Thứ ba, đánh giá thực trạng pháp luật về thu hồi đất đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, từ đó chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật
hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng ở các địa phương.
Thứ tư, đưa ra định hướng và các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở
nước ta.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời cam đoan, danh mục các từ viết tắt, mục lục, mở đầu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo, luận án được bố cục với 04 chương cụ thể như sau:
- Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài và các vấn đề liên quan đến
luận án
- Chương 2. Những vấn đề lý luận pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- Chương 3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- Chương 4. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tai luận án
Thu hồi đất nói chung và thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở
Việt Nam là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước
trong lĩnh vực đất đai. Hoạt động này được tiến hành bởi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Thu hồi đất nông nghiệp đặt trong mối quan hệ tương quan giữa
một bên là phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới
là một xu hướng tất yếu với một bên là quyền lợi chính đáng của các chủ thể bị thu hồi
đất, nhưng đồng thời phải đảm bảo sự ổn định bền vững của đất nông nghiệp. Đồng thời
việc thu hồi đất nông nghiệp cũng liên quan đến nhiều cá nhân, tổ chức đặc biệt là người
nông dân trực tiếp sử dụng đất nông nghiệp để canh tác. Chủ thể sử dụng đất nông nghiệp
xem đất nông nghiệp quan trọng như “sinh mạng” của mình trong suốt quá trình quản
lý sử dụng để nuôi sống chính bản thân và gia đình. Trong quá trình thu hồi đất nông
nghiệp liên quan đến nhiều vấn đề như công tác quy hoạch, kế hoạch, kiểm kê, thực hiện
công tác bồi thường, giải tỏa, hỗ trợ việc làm cho người nông bị mất đất, công tác đào
tạo nghề để họ ổn định cuộc sống, công tác kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo đều
được Đảng và nhà nước quan tâm, đảm bảo. Trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp
cũng nảy sinh nhiều vấn đề nóng bỏng như khiếu kiện, khiếu nại tập thể, tham nhũng
ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Vì vậy, đã có nhiều
công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau về việc thu hồi đất. Việc nghiên cứu
các công trình khoa học liên quan đến việc thu hồi đất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và
có liên quan mật thiết đến luận án, là cơ sở để nghiên cứu, đánh giá cả vấn đề lý luận và
thực tiễn, những vấn đề còn để ngỏ, là những gợi mở, định hướng cho những vấn đề cần
nghiên cứu tiếp theo mà luận án cần tập trung giải quyết. Có thể khẳng định đây là những
tài liệu tham khảo quan trọng có giá trị khoa học cho nghiên cứu sinh trong quá trình
nghiên cứu, hoàn thành luận án tiến sĩ.
Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng đã có một số công trình nghiên cứu nổi bật có
liên quan đến một số khía cạnh khác nhau của luận án. Các công trình nghiên cứu này
có thể sắp xếp theo các nhóm nghiên cứu sau:
8
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận về thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội
- Cuốn sách: “Chuyên khảo Luật kinh tế” cuả tác giả Phạm Duy Nghĩa, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2004, trong phần “Pháp luật tài sản” đã nêu, QSDĐ của tổ
chức cá nhân là quyền tài sản tư cần được nhà nước tôn trọng và bảo hộ. QSDĐ là khái
niệm sở hữu kép, một khái niệm sở hữu đa tầng, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, song
QSDĐ lại thuộc về cá nhân hoặc tổ chức.
- Đề tài khoa học cấp bộ “Cơ sở pháp lý của quản lý NN đối với đất đai trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”, 2014 của Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam do tác giả Phạm Hữu Nghị làm chủ nhiệm. Đề tài đánh giá
thực trạng cơ sở pháp lý của quản lý Nhà nước đối với đất đai ở nước ta tại thời điểm
LĐĐ năm 2013 có hiệu lực, phân tích những thiệt hại do thu hồi đất trên các phương
diện kinh tế, phương diện xã hội và phương diện chính trị. Đồng thời, chỉ ra những tồn
tại, bất cập như giá đất bồi thường thấp so với giá thị trường, thời gian thực hiện thu hồi
và bồi thường kéo dài, thu hồi đất nông nghiệp tràn lan...là những lý do dẫn đến tình
trạng khiếu nại, tố cáo có chiều hướng gia tăng về số vụ và tính phức tạp.
Bài viết “Về giá đất làm căn cứ tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” của
tác giả Phạm Thu Thủy - Tạp chí Luật học, số 9/2012. Bài viết chỉ ra những hạn chế,
bất cập của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về giá đất làm căn cứ tính bồi
thường, như: Giá đất tính bồi thường là giá đất theo mục đích sử dụng tại thời điểm có
quyết định thu hồi, không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng,
đặc biệt là trong trường hợp thu hồi đất nông nghiệp để chuyển sang mục đích phi nông
nghiệp; thực tiễn giá đất bồi thường thấp hơn nhiều so với giá thị trường trong các giao
dịch dân sự về đất đai. Từ đó, tác giả đưa ra kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định
về giá đất làm căn cứ bồi thường như: Cần xem xét lại căn cứ và cơ chế áp dụng giá đất,
đào tạo đội ngũ cán bộ định giá đất chuyên nghiệp...
- Nghiên cứu về "Thị trường đất khu công nghiệp, thương mại tác động đến vấn
đề nghèo đói ở Việt Nam" do Ngân hàng Châu Á (ADB) thực hiện năm 2005 đã chỉ ra
những ưu điểm và hạn chế của quy trình thu hồi đất phục vụ cho các mục đích thương
mại, công nghiệp để đưa ra đề xuất nhằm tạo lập một thị trường đất khu công nghiệp,
thương mại minh bạch, hiệu quả và góp phần xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, tuy
nhiên nghiên cứu chưa có sự luận giải kiến nghị hoàn thiện về cơ chế chính sách thu
hồi đất.
9
- Các bài viết tại Hội thảo Kinh nghiệm Quản lý đất đai Hàn Quốc do Tổng cục
Quản lý đất đai (Bộ Tài nguyên và Môi trường) tổ chức tại Hà Nội ngày 16/12/2011 như:
Bài viết Quá trình đổi mới chính sách đất đai Hàn Quốc của TS. Soo Choi, Bài viết Hệ
thống định giá và hệ thống bồi thường Hàn Quốc của Ủy ban Định giá Hàn Quốc, Bài
viết Mô hình phát triển đất đai của Hàn Quốc của Park Hyun Young. Đây là những bài
viết cung cấp các thông tin về thu hồi đất, bồi thường và tái định cư ở các nước trong khu
vực như Singapore, Trung quốc, Thái Lan, Hàn Quốc. Những thông tin này sẽ có giá trị
hữu ích để Việt Nam tham khảo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất.
- Bài viết Đầu tư bất động sản ở Trung Quốc - Xem xét lại pháp luật và phân tích
sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài của Jieming Zhu, From land use right to land
development right: Institutional change in China’s urban development, Urban Studies,
Vol. 41, No. 7, 1249 - 1267, June 2004. Trong bài viết này tác giả phân tích về chính sách
sở hữu đất đai và vấn đề đầu tư bất động sản ở Trung quốc. Sở hữu đất đai tư nhân đã bị
bãi bỏ ở Trung Quốc. Theo Điều 10 của Hiến pháp 1982 của Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa, đất đô thị thuộc về nhà nước, đất nông thôn thuộc sở hữu của các tập thể. Do tập thể
nông thôn chịu sự quản lý hành chính của chính quyền trung ương và địa phương nên có
thể hiểu rằng tất cả quyền sở hữu đất đều do nhà nước chỉ huy. Theo Điều 13 của Quy chế
tạm thời năm 1990, việc mua bán trực tiếp quyền sử dụng đất thường có thể được thực
hiện thông qua thỏa thuận thương lượng và đấu giá công khai hoặc đấu giá. Quyền sử
dụng đất có thể tự động được nhà đầu tư nước ngoài mua lại trong trường hợp liên doanh
hoặc liên doanh hợp tác xã, nơi mà phía Trung Quốc cung cấp đất đai như một khoản
đóng góp đầu tư. Nếu điều này xảy ra, bất kể bên Trung Quốc có sở hữu đất tại thời điểm
đó hoặc có được đất bằng cách cho thuê gián tiếp từ bên thứ ba, thì liên doanh không còn
phải trả bất kỳ khoản phí sử dụng đất nào cho Chính phủ. Tức là, bên nước ngoài được sử
dụng đất do người Trung Quốc đóng góp. Về việc mua lại đất bằng phương thức thành
lập liên doanh hoặc liên doanh hợp tác, vấn đề nổi bật nhất hiện nay là việc sử dụng đất
công cộng và việc phi nông nghiệp chiếm đất nông nghiệp diễn ra tràn lan. Trong hoàn
cảnh như vậy, cả phía Trung Quốc lẫn nước ngoài đều không trả bất cứ khoản tiền nào
cho việc sử dụng đất. Do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hưởng các ưu
đãi so với các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là thuế, nhiều quỹ đầu tư bất động sản
và các liên doanh hợp tác xã được tạo ra hoàn toàn vì mục đích đầu cơ bất hợp pháp, trục
lợi và trốn thuế. Một lượng lớn đất bị bỏ hoang nhưng bị độc quyền bởi một số doanh
nghiệp chiếm giữ mà không có kế hoạch phát triển "cụ thể". Cuối cùng, giá đất tăng cao
10
bất hợp lý trên thị trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của nhà đầu tư nước
ngoài trung thực tuân thủ các quy định về đất đai, muốn phát triển bất động sản hợp pháp.
- Bài viết của tác giả Anthonygar-onYeh: Phát triển kinh tế và mất đất nông
nghiệp ở đồng bằng sông Châu Giang, Trung Quốc Economic Development and
Agricultural Land Loss in the Pearl River Delta, China, 2014. Trong bài viết này tác giả
phân tích mối quan hệ giữa sự phát triển kinh tế, phát triển đô thị với vấn đề mất đất
nông nghiệp của người nông dân ở đồng bằng sông Châu Giang. Tác giả khẳng định vấn
đề nông dân mất đất nông nghiệp là do sự phát triển đô thị, đặc biệt là các công trình
xây dựng khổng lồ do sự đầu cơ đất đai. Phát triển đô thị ở đồng bằng sông Châu Giang
cũng liên quan đến các yếu tố kinh tế khác như: Công nghiệp hóa nông thôn, giao thông
vận tải, thiếu hệ thống quản lý đất đai và giám sát. Vì vậy, tác giả cho rằng cần khẩn
trương phát triển một chiến lược phát triển đất đai bền vững để bảo vệ đất nông nghiệp
màu mỡ khỏi những thiệt hại không cần thiết, đặc biệt là do đầu cơ đất đai.
- Bài Nghiên cứu về Luật thu hồi đất ở Indonesia, tác giả Bagus S.D.Nur
Buwono, Bastaman Enrico Bagus và Bài Nghiên cứu về thu hồi đất ở Indonesia, tác
giả Hanafiah Ponggawa & Partners năm 2012. Nội dung của 2 bài báo đề cập đến các
vấn đề sau (Hanafiah and Partners, Global Business Guide Company, 2012; Bagus and
Bastaman Enrico Bagus Law Office, Indonesia, 2012): (1) Chính phủ Indonesia đã ban
hành Luật Thu hồi đất đai cho phát triển các mục đích công (Luật Thu hồi đất đai - Luật
số 02) ngày 14/1/2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Luật nêu rõ Chính phủ cần đảm bảo quỹ đất và nguồn tài chính để tạo quỹ đất
cho các mục đích công; đồng thời Chính phủ hoặc các doanh nghiệp Nhà nước sẽ chịu
trách nhiệm tạo quỹ đất này. Các mục đích công được quy định trong Luật bao gồm
đường bộ có thu phí, đường hầm; đường tàu hỏa, ga và các hạ tầng cho tàu hỏa; đê, đập,
hồ chứa, hệ thống thoát nước, tưới tiêu và các hạ tầng về nước khác; cảng, sân bay;...
Nguồn kinh phí cho thu hồi đất cũng được quy định chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước
và không có quy định cụ thể về sự tham gia của khu vực tư nhân. Theo quy định của
Luật này thì quy trình thu hồi đất sẽ kéo dài không quá 2 năm (583 ngày làm việc kể từ
ngày cơ quan có thẩm quyền nhận được quyết định thu hồi đất từ Chính phủ) và bao
gồm 4 bước, bắt đầu từ lập kế hoạch, chuẩn bị, triển khai tới thông báo kết quả. Ngoài
ra, thủ tục và yêu cầu về tiến hành đàm phán, thỏa thuận giữa các bên có liên quan
cũng được quy định cụ thể. Các khiếu nại liên quan đến thu hồi đất sẽ được giải quyết
ở các cấp, từ Tòa hành chính tới Tòa tối cao với thời gian xử lý khoản 4 tháng. Các
khiếu kiện liên quan đến bồi thường sẽ được thụ lý ở các cấp từ Tòa án địa phương
11
đến Tòa phúc thẩm, thời gian xử lý khoản 4 tháng. Quy trình thu hồi đất sẽ do Cơ
quan Đất đai quốc gia chủ trì, bao gồm các bước sau: (i) kiểm kê và xác định mục
đích sử dụng, tình trạng sở hữu, (ii) định giá để bồi thường, (iii) xác định mức bồi
thường, (iv) phân chia khoản bồi thường. Nội dung định giá bao gồm giá trị thửa đất,
diện tích phía trên và dưới mặt đất của thửa đất, công trình, cây cối trên đất hoặc các
thiệt hại khác có thể định giá. Kết quả định giá bởi tổ chức định giá sẽ được sử dụng
làm cơ sở cho việc đàm phán với chủ sở hữu và các bên khác có liên quan về giá trị
và hình thức bồi thường. Bồi thường có thể thực hiện bằng các hình thức tiền mặt,
đất, sở hữu cổ phần và các hình thức khác do các bên thỏa thuận.
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội
- Bài viết của Nguyễn Đức Biền, Thực trạng, những vướng mắc trong quá trình
nhà nước thu hồi đất để giao, cho thuê và tự thỏa thuận để có đất thực hiện dự án, tháng
7/2011, tại Hội thảo Tài chính: Đất đai, giá đất và cơ chế, chính sách trong bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư do Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách TM&MT thuộc Bộ
TN&MT tổ chức. Trong bài viết này tác giả chỉ ra những tồn tại, vướng mắc, bất cập
trong quá trình thu hồi đất để cho thuê hoặc thực hiện dự án. Đồng thời qua đó kiến nghị
các giải pháp để khắc phục thực trạng này.
- Bài viết của PGS.TS. Nguyễn Sinh Cúc, Phát triển khu công nghiệp vùng đồng
bằng sông Hồng và vấn đề nông dân mất đất nông nghiệp, Tạp chí cộng sản số 14/2008.
Trong bài viết này tác giả chỉ ra tình trạng nông dân bị thu hồi đất, mất tư liệu sản xuất,
trong đó nhiều người bị thất nghiệp, cuộc sống khó khăn, đồng thời tác giả đề xuất các
giải pháp giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất tạo điều kiện để học thích ứng
với cuộc sống mới.
- Bài viết “Bảo đảm tài sản là quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi -
nhìn từ quy định trong các bản hiến pháp và pháp luật đất đai” của tác giả Lê Ngọc
Thạnh - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/2013. Bài viết đưa ra khái niệm thu hồi
đất. Theo tác giả, thu hồi đất là việc Nhà nước lấy lại quyền sử dụng đất đã giao cho các
tổ chức, cá nhân sử dụng hoặc lấy lại quyền sử dụng đất do người khác lấn chiếm của
Nhà nước.
- Bài viết: “Bản chất, vai trò của hoạt động thu hồi đất trong điều kiện kinh tế thị
trường”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 15/2015 của Lưu Quốc Thái. Trong bài viết
này, tác giả khẳng định: Thu hồi đất là một quan hệ của thị trường bất động sản, tuy
12
nhiên nội dung này chưa được pháp luật đất đai giải quyết thỏa đáng bởi các lý do: (i)
Cơ chế xác định giá đất tính tiền bồi thường chưa phù hợp; (ii) Trách nhiệm bồi thường
chưa được quy định hợp lý; (iii) Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế
- xã hội chưa có cơ chế bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước do tác giả Vũ Văn Phúc làm chủ nhiệm “Sở hữu,
quản lý và sử dụng đất đai trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, 2015. Trong đề tài này, tác giả phân tích một số vấn đề nổi
cộm trong quá trình thu hồi đất: (i) Việc thu hồi đất, bồi thường chưa có một cơ chế giải
quyết rõ ràng, minh bạch, hài hòa lợi ích giữa NN, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi;
(ii) Chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa hợp lý, tính khả thi thấp; (iii) Nông
dân được hưởng lợi ít nhất từ đất đai khi thu hồi đất nông nghiệp do đền bù thấp dẫn đến
cuộc sống vẫn nghèo, thậm chí nghèo hơn trước khi thu hồi đất; (iv) Sau khi thu hồi đất
nông nghiệp và chuyển sang đất phi nông nghiệp có giá cao hơn nhiều lần nông nghiệp
nhưng khoản chênh lệch giá này điều tiết vào ngân sách nhà nước còn thấp, chủ yếu rơi
vào tay chủ đầu tư nhận đất và người đầu cơ đất; (v) Giá đất nhà nước sử dụng để đền
bù cho người bị thu hồi đất quá thấp so với giá giao dịch trên thị trường.
- Bài viết của tác giả P Woodhouse and A S Ganho, University of Manchester tại
Hội nghị Quốc tế về Đất toàn cầu năm 2011: Liệu nước có phải là một chương trình
nghị sự hóa trong việc thu hồi đất nông nghiệp ở vùng hạ Sahara ở Châu Phi?: Is Water
the Hidden Agenda of Agricultural Land Acquisition in sub-Saharan Africa?. Trong bài
viết này tác giả tập trung vào việc thu hồi đất ở tiểu vùng Sahara Châu Phi. Trong phạm
vi mà nhà đầu tư nước ngoài “lấy đất” từ các hợp đồng dẫn đến việc mở rộng hệ thống
tưới tiêu trong vùng Sahara Châu Phi, do đó họ có thể tăng tốc đáng kể sự phát triển của
cơ sở hạ tầng nước để làm giảm sự rủi ro vốn có trong phần lớn nông nghiệp châu Phi.
Nhà đầu tư nước ngoài có thể cạnh tranh với việc sử dụng nước hiện tại vì những giao
dịch về đất đai trong một số trường hợp bao gồm các điều khoản ưu tiên tiếp cận với
nước trong trường hợp khan hiếm. Khi mua lại đất nông nghiệp thì vấn đề quan tâm
hàng đầu và ưu tiên của nhà đầu tư là ở nơi đó có nguồn nước hay là không. Nên việc
sử dụng nguồn nước sẽ ảnh hưởng đáng kể đến việc thực hiện các giao dịch đất đai trên
thực tế.
- Bài viết của tác giả Abhirup Sarkar trên Tạp chí Economic and political weekly:
Development and Displacement: Land Acquisition in West Bengal, 2007. Trong bài viết
này tác giả phân tích những vấn đề liên quan đến quá trình mua lại đất nông nghiệp để
xây dựng cơ sở hạ tầng, các ngành công nghiệp và các dịch vụ khác nhau, trong quá
13
trình dời dân ra khỏi nghề truyền thống và sinh kế của họ. Cụ thể là việc xung đột ở Tây
Bengal do việc mua lại đất nông nghiệp ở khu vực này rất phức tạp. Tác giả cho rằng
mặc dù việc mua lại đất nông nghiệp là cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá và cho
sự phát triển dài hạn của Tây Bengal, nhưng thành công của nó phụ thuộc rất lớn vào
việc bồi thường và hỗ trợ cho người nông dân. Một trong những nguyên nhân dẫn đến
xung đột là do giá đất mua lại quá thấp so với thực tế và kinh tế của các hộ gia đình sau
khi bị mua lại đất nông nghiệp cũng không có gì khá hơn so với trước.
1.1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
- Cuốn sách: “Pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai ở Việt Nam”, của tác giả
Phan Trung Hiền chủ biên, Nxb.Đại học Cần Thơ, năm 2016. Trong cuốn sách này tác
giả nêu lên các vấn đề: (i) Thu hồi đất nông nghiệp không chỉ đơn thuần là gây thiệt hại
đến diện tích của một hộ nông dân nào đó, mà còn tác động trực tiếp đến sản xuất của
người nông dân; (ii) Thiệt hại đối với cây trồng không chỉ là vườn cây tại thời điểm thu
hồi, mà là thiệt hại đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp của người nông dân; (iii)
Việc xác định giá đất để tính bồi thường phải có sự tham gia của người nông dân cũng
như cần có bên thứ ba định giá đất độc lập; (iv) Cần xây dựng đạo luật riêng về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
- Cuốn sách “Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải phóng mặt bằng ở
Việt Nam” do tác giả Doãn Hồng Nhung chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp 2014. Trên cơ
sở phân tích LĐĐ năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, cuốn sách phân tích
một số vấn đề về giá đất, như khái niệm giá đất, bản chất của giá đất, các yếu tố ảnh
hưởng đến giá đất; phân tích các quy định và thực trạng định giá đất nói chung, định giá
đất trong bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nói riêng. Từ đó, tác giả chỉ ra những hạn
chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về giá đất phục vụ bồi thường như sự
chênh lệch quá lớn giữa giá đất tính bồi thường và giá thị trường, các phương pháp xác
định giá đất chưa hợp lý, bảng giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành sử dụng cho nhiều
mục đích là không hợp lý.
- Cuốn sách của TS. Doãn Hồng Nhung - Nguyễn Ngọc Hà, Pháp luật về định
giá đất trong bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam, NXB Tư pháp năm 2013.
Trong cuốn sách này tác giả phân tích bình luận một cách có hệ thống các quy định của
LĐĐ 2003 và các văn bản có liên quan về xác định giá đất để bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất, đồng thời tác giả cũng minh chứng bằng những vụ việc cụ thể.
14
- Cuốn sách “Báo cáo tổng hợp hỗ trợ tiếp cận các nguồn lực phát triển cho
người dân tái định cư thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế” của Trung tâm Nghiên
cứu và Tư vấn Quản lý tài nguyên. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển xã hội và Tổ
chức ICCO.Nxb Nông nghiệp, (2014). Cuốn sách nghiên cứu về hiện trạng xây dựng
các công trình thủy điện, các chương trình tái định cư, quy trình thu hồi đất và công tác
bàn giao đất trên địa bàn thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế; những tác động về
môi trường và xã hội của việc di dân tái định cư từ các công trình thủy điện.
- Luận án tiến sĩ luật học, Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp ở Việt Nam, năm 2014 của nghiên cứu sinh Phạm Thu Thủy. Trong Luận án tác
giả đưa ra cơ sở lý luận liên quan đến bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
và các quy định của LĐĐ năm 2003, đồng thời tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện như: Bổ sung cơ chế tham vấn cộng đồng ngay từ khi lập phương án bồi thường;
hoàn thiện quy định của pháp luật về cơ chế xác định giá đất; hoàn thiện pháp luật về cơ
chế chuyển dịch đất đai tự nguyện và bắt buộc; bổ sung quy định xây dựng cơ chế đồng
bộ trong đào tạo và chuyển đổi nghề nghiệp cho người nông dân bị thu hồi đất.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường của TS. Nguyễn Thị Nga, Pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất - thực trạng và hướng hoàn
thiện, năm 2013. Trong đề tài này tác giả minh chứng bằng những vụ việc có thật, chỉ
ra những tồn tại, bất cập, những bài học kinh nghiệm trong quá trình thực thi pháp luật
về bồi thường và bố trí tái định cư khi thu hồi đất. Qua đó, đề xuất các giải pháp hoàn
thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
- Đề tài khoa học cấp bộ: “Thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về thu hồi đất ở
Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, năm 2016 của Viện Khoa học
Thanh tra (Thanh tra Chính phủ) do tác giả Đinh Văn Minh làm chủ nhiệm. Trong đề
tài này, tác giả chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến khiếu nại khi thu hồi đất như: (i) Do
quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ làm cho nhu cầu về đất tăng lên thúc đẩy giá đất
tăng cao dẫn đến lợi ích liên quan đến đất lớn; (ii) Chính sách liên quan đến lợi ích người
sử dụng đất còn nhiều bất cập, nhất là giá đất chưa phù hợp và thường xuyên thay đổi;
(iii) Thu hồi đất nhưng không ưu tiên trả bằng đất mà trả bằng tiền, điều kiện tại khu tái
định cư không bằng khu dân cư có đất bị thu hồi; (iv) Ý thức chấp hành pháp luật của
một bộ phận người dân còn hạn chế nên đòi hỏi quyền lợi vượt quá quy định; (v) Công
tác thanh tra, kiểm tra chưa được chú trọng đúng mức và việc giải quyết khiếu nại từ cơ
sở đến các cấp chưa kịp thời, có trường hợp giải quyết không đúng hoặc không giải
quyết.
15
- Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam thực hiện đề tài: “Nghiên cứu về cơ chế xác
định giá đất phục vụ bồi thường giải phóng mặt bằng tại Việt Nam”, năm 2009. Trên
cơ sở phân tích hệ thống pháp Luật đất đai hiện hành của Việt Nam về xác định giá
đất bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, nhóm tác giả đã đề xuất một số giải pháp: (i) Đề xuất
về cơ chế thành lập và hoạt động của các hội đồng định giá đất đai và tài sản gắn liền
ở cấp quốc gia và cấp tỉnh độc lập với hệ thống hành chính, có thẩm quyền quyết định
về giá đất áp dụng cho tính toán bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, hoặc giải quyết các
tranh chấp về giá đất trên thị trường. (ii) Phát triển hoạt động cung cấp dịch vụ định giá
đất và tài sản gắn liền với đất do các định giá viên được cấp phép hành nghề thực hiện.
(iii) Giao cho Hiệp hội định giá đưa ra các tiêu chuẩn kĩ thuật quốc gia về định giá đất
và tài sản gắn liền với đất, hướng dẫn dịch vụ định giá thực hiện đúng các tiêu chuẩn
kỹ thuật này.
- Ngân hàng thế giới tại Việt Nam thực hiện đề tài: “Cơ chế Nhà nước thu hồi
đất và chuyển dịch đất đai tự nguyện ở Việt Nam: Phương pháp tiếp cận, định giá đất
và giải quyết khiếu nại của dân”, năm 2011. Nội dung nghiên cứu bao gồm: Đề xuất
hoàn thiện chính sách nhà nước thu hồi đất và cơ chế chuyển dịch đất đai tự nguyện ở
Việt Nam; Nghiên cứu cơ chế xác định giá đất phục vụ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
ở Việt Nam; Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại về bồi thường hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất tại Việt Nam.
- Bài viết của TS.Nguyễn Quang Tuyến, Công khai minh bạch bảo vệ quyền lợi
của người bị thu hồi đất, Tạp chí luật học số 03/2012. Trong bài viết này tác giả phân
tích, so sánh những tồn tại bất cập trong quá trình thu hồi đất, một số vấn đề tiêu cực có
thể nảy sinh trong quá trình thu hồi đất và những thuận lợi và khó khăn của người bị thu
hồi đất. Qua đó đề xuất một số giải pháp để bảo vệ người bị thu hồi đất cũng như kiến
nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về đất đai.
- Bài viết Mối liên hệ tam giác trong hệ thống đất đai ở Hàn Quốc: Quy
hoạch, phát triển và đền bù sử dụng đất của TS. Hee Nam Jung tại Hội nghị Khoa
học Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế nhằm xây dựng hệ thống quản lý đất đai hiện đại
tại Việt Nam do Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức tại Hà Nội, ngày 10/09/2010.
Tác giả đã chỉ ra kế hoạch phát triển đất bằng các biện pháp tái phát triển và phát triển
mới ở Hàn Quốc, phương pháp đổi đất, mua đứt một lần. Vì vậy, ông cho rằng: Việt
Nam cần phải đưa ra kế hoạch xây dựng nhà ở, phát triển khu dân cư một cách tổng thể;
lựa chọn nhà đầu tư từ chính quyền địa phương hay trung ương, các doanh nghiệp nhà
nước và điều quan trọng là cần đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai.
16
- Bài viết Ảnh hưởng của việc thu hồi đất đối với tương lai kinh tế của Trung
Quốc của tác giả Chengri Ding: Effects of Land Acquisition on China's Economic
Future, January 2004, English Appears in Land Lines. Trong bài viết tác giả phân tích
chính sách thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Chính phủ Trung Quốc, phân
tích những vấn đề bất cập trong quá trình thu hồi đất, những thiệt thòi mà người dân có
đất bị thu hồi phải gánh chịu như: Không có dữ liệu thị trường cho giá đất nông nghiệp
nên Chính phủ trả cho tập thể và nông dân một gói bồi thường bao gồm ba hợp phần:
Đền bù cho đất đai; trợ cấp tái định cư; và đền bù cho việc cải thiện đất và cho các loại
cây trồng trên đất bị trưng dụng. Luật pháp quy định bồi thường đất canh tác sẽ cao gấp
6 đến 10 lần giá trị sản lượng bình quân hàng năm của mảnh đất bị thu hồi trong ba năm
trước khi trưng dụng. Số tiền trợ cấp tái định cư phụ thuộc vào số người sống trên đất,
nhưng trợ cấp của mỗi người sẽ không vượt quá sáu đến mười lần mức lợi tức hàng năm
từ đất bị thu hồi. Tác giả phân tích một số vấn đề nổi cộm, chưa rõ ràng trong quá trình
thu hồi đất đó là: Thứ nhất khái niệm không rõ ràng về quyền sở hữu và quyền phát
triển: Ai là người có quyền lấy đất từ nông dân để phát triển đô thị? Hiện tại, bất kỳ chủ
thể nào cũng có thể có được đất đai từ nông dân miễn là nó có thể chứng minh lợi ích
công cộng hoặc mục đích. Thứ hai ai là người có quyền bồi thường? Thứ ba là sự công
bằng của bồi thường, bao gồm cả mức bồi thường cũng như các hình thức thanh toán
trong các tình huống khác nhau? Và tác giả cũng chỉ ra rằng những bất cập này dẫn đến
khiếu nại tập thể kéo dài gây bất ổn cho xã hội, tác động đến quá trình đô thị hóa và ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế của đất nước Trung Quốc.
1.1.4. Nhóm các công trình nghiên cứu giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu
hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
- Bài viết: “Triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với vấn đề hoàn thiện pháp
luật đất đai”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1/2015 của tác giả Lưu Quốc Thái. Tác
giả đã nêu một số vấn đề đặt ra cho pháp luật đất đai hiện hành như: Pháp luật chưa quy
định về việc sử dụng ý kiến đóng góp của người dân về quy hoạch, KHSDĐ trong trường
hợp đa số người dân trong khu vực lấy ý kiến không đồng tình với quy hoạch, KHSDĐ
dự kiến của nhà nước.
- Bài viết: “Pháp luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của
Singapore và Trung Quốc - Những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về
bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất: của TS. Nguyễn Quang Tuyến và
ThS.Nguyễn Ngọc Minh, Tạp chí Luật học, số 10/2010. Trong bài viết này các tác giả
phân tích chế độ sở hữu đất đai, công tác thu hồi, đền bù, bố trí tái định cư và cung cấp
17
nhà ở công (Singapore); đất đai thuộc chế độ công hữu đó là chế độ sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể, chỉ có Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương mới có quyền thu hồi đất, người nào sử dụng đất thì người đó có nghĩa vụ bồi
thường, số tiền bồi thường phải đảm bảo cho người dân bị thu hồi có chỗ ở bằng hoặc
cao hơn so với nơi ở cũ (Trung Quốc). Đặc biệt các tác giả đề xuất một số gợi mở cho
việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam như: Quan tâm giải quyết các vấn
đề xã hội phát sinh trực tiếp từ việc nhà nước thu hồi đất; tiền bồi thường phải đảm bảo
cuộc sống cho người bị thu hồi đất.
- Bài viết “Xác định giá đất để tính bồi thường khi nhà nước thu hồi đất” của tác
giả Phan Trung Hiền, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1+2 năm 2017. Trong bài viết
này, tác giả phân tích thực trạng pháp luật về nguyên tắc, phương pháp, chủ thể, quy
trình, tư vấn, thời điểm xác định giá đất; đối chiếu giá đất tính bồi thường, hỗ trợ và giá
đất khi tính tiền sử dụng đất để tái định cư. Trên cơ sở đó, tác giả để xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về cơ chế xác định giá đất để người dân tham gia vào quá trình xây
dựng giá đất, cơ chế xác định giá đất theo giá thị trường.
- Bài viết “Hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thu hồi đất vì mục đích quốc
phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam” của các tác giả Phan Trung Hiền
- Huỳnh Thanh Toàn - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12 (T6/2018). Trên cơ sở phân
tích khái niệm, đặc điểm và các quy định của LĐĐ năm 2013 trong quá trình thu hồi
đất, các tác giả kiến nghị bổ sung, sửa đổi các quy định về cưỡng chế khi thực hiện quyết
định thu hồi đất.
- Luận án tiến sỹ kinh tế của NCS.Nguyễn Văn Nhường, Chính sách an sinh xã
hội đối với người nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các cụm công nghiệp (nghiên
cứu tại Bắc Ninh), năm 2010. Tác giả đi sâu vào phân tích những nội dung lý luận về
chính sách an sinh xã hội, thực trạng đời sống người dân bị thu hồi đất nông nghiệp để
xây dựng các khu công nghiệp tại Bắc Ninh. Đồng thời chỉ ra những thành tựu, hạn chế
và nguyên nhân dẫn đến các hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính
sách về an sinh xã hội đối với người nông dân bị thu hồi đất để xây dựng các khu công
nghiệp.
Luận án tiến sĩ kinh tế của NCS.Nguyễn Dũng Anh “Việc làm cho nông dân bị
thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng”, năm
2014. Tác giả chỉ ra thực trạng còn nhiều hạn chế trong việc tạo việc làm cho người lao
động bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Từ những hạn chế này, tác giả đưa
ra các giải pháp để giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trên địa bàn thành
18
phố Đà Nẵng như: i) Rà soát, hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch đất nông nghiệp phải giải
tỏa; ii) Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa ngành, nghề đào tạo; iii) Hoàn thiện cơ chế
giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất; iv) Tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát
triển, từ đó giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất, tăng cường trách nhiệm cho
doanh nghiệp ở vùng thu hồi đất trong việc giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất.
- Bài viết của tác giả Xueying Zhang, Trường Đại học Công nghệ và Giáo dục
Thiên Tân, Bồi thường cho việc thu hồi đất bắt buộc ở Trung Quốc: Để xây dựng lại
sinh kế dài hạn của nông dân bị thu hồi, Compensation for Compulsory Land
Acquisition in China: To Rebuild Expropriated farmers’ Long-term Livelihoods, 2011.
Trong bài viết này tác giả khẳng định thu hồi đất bắt buộc là một hoạt động được Chính
phủ chi phối chuyển giao quyền sở hữu đất đai từ tập thể sở hữu nhà nước. Việc bồi
thường cho nông dân có đất bị thu hồi không dựa trên giá cả của thị trường nên họ phải
chịu rất nhiều thiệt thòi cũng như đối mặt với nguy cơ nghèo đói trong tương lai. Họ rất
khó khăn trong việc chuyển từ nông dân sang công dân đô thị khi việc bồi thường và hỗ
trợ của nhà nước thấp hơn nhiều so với chi phí sinh hoạt ở các thành phố. Vì vậy, tác
giả cho rằng trách nhiệm của Chính phủ là cải thiện tiền bồi thường và chính sách tái
định cư cho nông dân bị thu hồi đất một cách công bằng và phải đảm bảo hai vấn đề đó
là: Mục tiêu bồi thường cho nông dân bị thu hồi đất là gì? Chính phủ phải làm gì để giúp
họ xây dựng lại sinh kế bền vững, lâu dài?.
- Bài viết của tác giả Jianpeng CHU, People’s Republic of China, Trường Tài
nguyên và Kỹ thuật Môi trường, Đại học Công nghệ Sơn Đông: Land Expropriation
Compensation Based on the Price of Land Use Right Granting, 2009. Trong bài viết này
tác giả cho rằng cùng với sự phát triển của công cuộc xây dựng đất nước và sự đô thị
hóa, việc thu hồi đất là vấn đề tất yếu diễn ra nhưng phải giải quyết các vấn đề liên quan
đến quyền lợi của người dân bị thu hồi đất một cách hợp lý như: Bồi thường cho nông
dân bị mất đất, tái định cư và vấn đề hỗ trợ. Trong đó, mức bồi thường là vấn đề cốt lõi
của việc thu hồi đất đai. Hầu hết các mâu thuẫn trong quá trình thu hồi đất đều xuất phát
từ việc bồi thường không thỏa đáng. Vì vậy, làm thế nào để bù đắp cho nông dân bị mất
đất luôn là trọng tâm nghiên cứu. Hệ thống đền bù, hỗ trợ, tái định cư cho nông dân bị
thu hồi đất còn nhiều bất cập, hạn chế dẫn đến mâu thuẫn giữa phí bồi thường và thu
nhập từ việc mất đất cũng như sinh kế của họ. Tác giả đề xuất những gì chúng ta nên
làm bây giờ là chuẩn hóa việc chiếm hữu đất đai bằng cách thành lập công bằng các tiêu
chuẩn bồi thường giá đất theo giá thị trường để người sử dụng đất có thể lựa chọn giá
19
đất bằng các phương thức như: Thông qua phương thức đấu thầu, đấu giá, niêm yết…
để đảm bảo cho người dân bị thu hồi đất ổn định cuộc sống.
1.2. Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến
đề tai luận án va những nội dung ma luận án sẽ kế thừa, phát triển
1.2.1. Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến
đề tài luận án
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu lý luận về thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội. Các công trình đã nghiên cứu về chế độ sở hữu đất đai, quy hoạch,
quản lý quy hoạch; quan điểm, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng
và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất đai; việc giải quyết hài hòa lợi ích của
nhà nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi cũng được đặt ra trong quá trình nghiên
cứu. Một số công trình khẳng định QSDĐ là quyền tài sản, do vậy việc nhà nước thu
hồi đất phải đảm bảo quyền của NSDĐ nhưng chưa được quy định trong Hiến pháp năm
1992. Các công trình này có liên quan trực tiếp đến nội dung nghiên cứu của luận án.
Kết quả nghiên cứu của các công trình này có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, là nguồn
tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu sâu hơn những nội
dung mà luận án thực hiện.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu lý luận pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội. Các công trình đã xây dựng được các khái niệm thu hồi
đất, khái niệm trưng dụng, trưng mua, trưng thu đất; khái niệm bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất, hỗ trợ khi khi nhà nước thu hồi đất; phân biệt giữa thu hồi đất với trưng
dụng, trưng thu và trưng mua đất; các yếu tố chi phối khi nhà nước thu hồi đất, khung
giá đất làm căn cứ để bồi thường, dẫn chứng bằng các ví dụ cụ thể để chứng minh; cơ
chế đánh giá việc thu hồi đất. Các khái niệm trên được các tác giả chủ yếu xây dựng,
phân tích, so sánh trên cơ sở phân tích, tiếp cận LĐĐ năm 2003, BLDS năm 2005. Tuy
nhiên, hiện nay LĐĐ năm 2013 đã được ban hành và có hiệu lực, BLDS năm 2015 có
hiệu lực từ ngày 01/01/2017 nên cần tiếp cận và xây dựng các khái niệm này trên cơ sở
nghiên cứu LĐĐ năm 2013, BLDS năm 2015.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp
luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội. Các công trình đã phân
tích đánh giá những bất cập trong các quy định của pháp luật về thu hồi đất cũng như
tổng kết thực tiễn, trong đó nêu lên những tồn tại, bất cập trong quá trình thu hồi đất
nông nghiệp như nông dân mất đất, mất tư liệu sản xuất, tình trạng thất nghiệp, tệ nạn
xã hội. Chính sách về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất hiện nay chưa thực sự
20
thỏa đáng, giá đất thấp so với giá thị trường, chưa bù đắp được những thiệt hại mà người
có đất nông nghiệp bị thu hồi phải gánh chịu. Tuy nhiên, trên thực tế những tồn tại,
vướng mắc phát sinh trong quá trình nhà nước thu hồi đất còn đa dạng, phức tạp hơn
nhiều. Vì vậy, chúng cần được nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn để sát với thực tế cuộc
sống. Đây là những vấn đề mà nghiên cứu sinh mong muốn hướng đến trong quá trình
nghiên cứu.
Thứ tư, các công trình nghiên cứu giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội. Ở phạm vi và mức độ khác nhau, nhiều công
trình đã đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực thi và hoàn thiện pháp luật về
thu hồi đất nông nghiệp. Phần lớn các kiến nghị được đề xuất trên cơ sở phân tích những
hạn chế trong các quy định của LĐĐ năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành LĐĐ
năm 2003. Theo đó, một số kiến nghị đã được tiếp thu và ghi nhận trong LĐĐ năm 2013.
Tuy nhiên, LĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành LĐĐ năm 2013 đã được
ban hành song thực tế số lượng các tranh chấp, khiếu nại liên quan đến việc nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội vẫn còn rất nóng bỏng và số lượng
khiếu nại vẫn không giảm. Điều này tiềm ẩn nguy cơ để các thế lực xấu lợi dụng gây
mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Do đó, vấn đề này cần tiếp tục nghiên cứu
đề xuất những giải pháp hoàn thiện là rất cần thiết.
Như vậy, các công trình khoa học nói trên chủ yếu đi sau vào việc nghiên cứu,
phân tích các quy phạm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất, về sự bất cập của giá đất. Tuy nhiên, các tác giả chủ yếu nghiên cứu LĐĐ năm
2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, chưa phân tích các trường hợp thu hồi đất để
phát triển kinh tế - xã hội; trong đó có thu hồi đất nông nghiệp chính là một trong những
cơ sở pháp lý trực tiếp làm phát sinh thẩm quyền của cơ quan nhà nước, sự hạn chế của
việc áp dụng phương pháp định giá đất, các thủ tục hành chính khi tiến hành thu hồi đất
nông nghiệp; chưa đi sâu vào vấn đề “cốt lõi” đó là bản chất của việc thu hồi QSDĐ, sự
chia sẽ lợi ích giữa nhà nước, nhà đầu tư và người có đất nông nghiệp bị thu hồi, các
yếu tố tác động đến quá trình thu hồi đất nông nghiệp trên cơ sở tiếp cận từ việc đánh
giá thực tế bị thiệt hại của NSDĐ, lợi ích được thụ hưởng trên phạm vi rộng, không giới
hạn ở từng địa phương riêng lẻ,…
1.2.2. Những nội dung mà luận án sẽ kế thừa và tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả của các công trình đã nghiên cứu luận án
cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề sau:
Thứ nhất, về mặt lý luận cần tập trung nghiên cứu: Khái niệm pháp luật về thu
21
hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội; làm rõ tiêu chí phát triển kinh tế - xã
hội; luận giải cơ sở lý luận về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội;
Phân biệt thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội với thu hồi đất vì mục đích kinh doanh
của nhà đầu tư.
Thứ hai, nghiên cứu thực trạng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta như: Các quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thẩm
quyền, trình tự, thủ tục, nguyên tắc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ là những cơ sở pháp
lý rất quan trọng chi phối, đảm bảo tính đúng đắn, khả thi, khách quan trong quá trình
thu hồi đất, qua đó phát hiện những tồn tại, bất cập trong các quy định của pháp luật
hiện hành tác động đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như người có đất
nông nghiệp bị thu hồi. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở một số địa phương.
Thứ ba, nghiên cứu hạn chế, bất cập của việc áp dụng pháp luật về thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội; hiệu quả sau khi thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội; giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế -xã hội.
Thứ tư, trên cơ sở định hướng chính sách đất đai của Đảng và kết của nghiên cứu,
luận án sẽ đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thu
hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội.
Đặt vấn đề nghiên cứu trong bảng tổng kết thực tiễn thi hành LĐĐ và hướng tới
sửa đổi LĐĐ năm 2013 về tích tụ, tập trung đất đai, thực hiện Luật Đầu tư năm 2020 và
Luật Đấu thầu. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, tiếp tục phát triển các kết quả nghiên cứu
về thu hồi đất nông nghiệp dưới góc độ lý luận và thực tiễn cũng như đề xuất các giải
pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt
Nam là vấn đề cấp thiết và chưa trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã thực hiện trước
đây.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu, lý thuyết nghiên cứu
1.3.1. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án được triển khai với những câu hỏi nghiên cứu như sau:
- Về khía cạnh lý luận:
Thứ nhất, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội là gì? Đặc điểm
của thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội?
22
Thứ hai, các quy định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh
tế - xã hội? Tính tất yếu của việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế xã hội và
hậu quả của nó? Yếu tố nào tác động đến việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh
tế - xã hội? Vai trò, trách nhiệm của Nhà nước được thể hiện như thế nào thông qua
chính sách hỗ trợ liên quan đến việc ổn định đời sống, sản xuất, việc làm…. với tư cách
là người đại diện sở hữu đất đai
- Về khía cạnh pháp luật thực định: Nội dung và thực tiễn áp dụng pháp luật về
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội có vướng mắc bất cập gì cần được
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp?
- Về đề xuất, kiến nghị: Với những hạn chế bất cập nêu trên thì cần có những
định hướng, giải pháp nào để sửa đổi, bổ sung góp phần hoàn thiện pháp luật về thu hồi
đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội hiện nay?
1.3.2. Giả thuyết nghiên cứu
Từ các câu hỏi nghiên cứu trên, luận án đặt ra các giả thuyết nghiên cứu sau:
- Về khía cạnh lý luận:
+ Giả thuyết nghiên cứu: Sự tác động của chế độ nhà nước đại diện chủ sở hữu
và thống nhất quản lý đất đai đối với việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế
- xã hội chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ.
+ Giả thuyết nghiên cứu: Tính tất yếu khách quan phải điều chỉnh bằng pháp luật
đối với lĩnh vực này chưa được luận giải một cách rõ ràng, đầy đủ và các đề tài trong
nước chưa phản ánh một cách có hệ thống, chưa đánh giá được các yếu tố tác động đến
việc nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội.
- Về khía cạnh pháp luật thực định:
+ Giả thuyết nghiên cứu: Các quy định LĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng
dẫn thi hành có liên quan. Nhiều quy định trong đó đã bộc lộ những hạn chế, bất cập khi
áp dụng trong thực tiễn.
- Về đề xuất, kiến nghị:
+ Giả thuyết nghiên cứu: Hiện nay, LĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng dẫn
thi hành đang có hiệu lực và được áp dụng trong thực tế. Tuy nhiên, vẫn chưa khắc phục
được những hạn chế của LĐĐ năm 2003 và yêu cầu thực tiễn đặt ra, ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội cần phải được phân tích, đánh giá và kiến nghị phương hướng, giải
pháp phù hợp để hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -
xã hội và nâng cao hiệu quả thực thi ở Việt Nam.
23
1.3.3. Lý thuyết nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; đường lối, chủ trương, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về đất đai, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống
pháp luật đồng bộ, trong đó có bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất và các
chủ thể khác tham gia vào quan hệ đất đai nói chung và pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội nói riêng.
Lý thuyết về sự công khai, minh bạch: Theo tác giả dưới góc độ pháp lý thì công
khai, minh bạch được hiểu là: Mọi hoạt động của nhà nước phải được công bố hoặc phổ
biến, truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, làm cho mọi người dân có thể
tiếp cận được các quyết định của nhà nước một cách dễ dàng. Trong hoạt động thu hồi
đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội thì công khai minh bạch phải được đặt lên
hàng đầu để người dân, xã hội biết để thực thi, để theo dõi, giám sát để đảm bảo lợi ích
chính đáng cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi từ khâu lập quy hoạch, KHSDĐ
nông nghiệp; trình tự thủ tục, thẩm quyền thu hồi; phương án bồi thường, hỗ trợ phải
được công khai và lấy ý kiến của người có đất bị thu hồi. Có như vậy mới hạn chế được
tham nhũng, lãng phí trong quản lý sử dụng đất nói chung và thu hồi đất nông nghiệp
nói riêng đồng thời bảo đảm quyền lợi chính đáng của người có đất bị thu hồi.
Lý thuyết về sự công bằng: Theo tác giả, dưới góc độ pháp luật thì công bằng
được hiểu là trong những điều kiện, hoàn cảnh như nhau thì các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật có các quyền và nghĩa vụ như nhau. Trong thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội, QSDĐ nông nghiệp đã được trao cho người sử dụng đất
và được pháp luật bảo hộ thì khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp họ phải được bồi
thường theo giá thị trường để đảm bảo quyền lợi chính đáng của người dân, bên cạnh
đó họ còn được hỗ trợ để ổn định đời sống. Lý thuyết về sự công bằng được sử dụng để
luận giải về trách nhiệm của Nhà nước trong việc thu hồi đất phải theo đúng quy hoạch,
KHSDĐ, đúng trình tự, thủ tục luật định và bồi thường ngang giá cho người sử dụng
đất.
Kết luận Chương 1
1. Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta là
đề tài nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước ở những
cấp độ khác nhau. Các công trình đã phân tích, xây dựng được một số khái niệm trong
lĩnh vực thu hồi đất như: Khái niệm thu hồi đất, khái niệm bồi thường, khái niệm hỗ trợ,
24
khái niệm tái định cư, các yếu tố chi phối việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất,
khung giá đất làm căn cứ để bồi thường…
2. Các công trình nghiên cứu cơ sở lý luận của việc thu hồi đất, đất nông nghiệp
dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đất đai, bản chất ưu việt của chế độ; phân tích sự
chi phối của quan điểm của Đảng, quá trình hội nhập quốc tế, chênh lệch địa tô, cơ chế
quản lý kinh tế trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội.
3. Các công trình nghiên cứu nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến thu hồi
đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội như: Khái niệm thu hồi đất, khái niệm bồi
thường, hỗ trợ, khái niệm tái định cư, khái niệm học nghề. Đồng thời các tác giả cũng
phân tích những tồn tại bất cập, những “góc khuất” trong quá trình thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Những vấn đề nảy sinh hậu thu hồi
đất mà nhà nước và toàn xã hội phải chung tay giải quyết như: Thất nghiệp, tệ nạn xã
hội, ô nhiễm môi trường và nghèo đói. Các công trình đã đề xuất một số kiến nghị trong
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp.
4. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá các công trình khoa học liên quan đến đề tài
luận án, cũng như tiếp thu, kế thừa những tư tưởng khoa học, những kết quả nghiên cứu
của các công trình trước đó, luận án có nhiệm vụ tiếp tục nghiên cứu, lý giải một cách
sâu sắc hơn, toàn diện hơn cả về lý luận và thực tiễn pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội ở các chương tiếp theo, những vấn đề mà các tác giả chưa
nghiên cứu, tiếp cận hoặc nghiên cứu, tiếp cận chưa đầy đủ.
25
CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Cơ sở lý luận về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xa hội
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã
hội
2.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của đất nông nghiệp trong phát triển kinh
tế - xã hội
a. Khái niệm đất nông nghiệp
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quan trọng đối với đời sống của con
người cũng như toàn xã hội. Đất đai không những là địa bàn sinh sống của con người
mà còn là tư liệu sản xuất đặc biệt. Đất đai là nơi để xây dựng nhà cửa, là nơi để tạo ra
của cải vật chất phục vụ cho đời sống của con người cũng như nuôi sống toàn xã hội.
Để tồn tại và phát triển, con người cần phải thỏa mãn được các nhu cầu, mà trước hết là
các nhu cầu thiết yếu nhất của mình đó chính là lương thực, thực phẩm để duy trì sự
sống. Như vậy, từ thời xa xưa con người đã biết coi trọng giá trị của đất đai. Ở Việt
Nam, với tổng diện tích đất hơn 33 triệu ha được chia thành nhiều loại đất khác nhau
căn cứ vào mục đích sử dụng của chúng, đất nông nghiệp là một trong các loại đất nằm
trong vốn đất đai thống nhất của quốc gia.
Theo Từ điển Luật học: “Đất nông nghiệp: Tổng thể các loại đất được xác định
là tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ cho việc trồng trọt và chăn nuôi, nghiên cứu thí
nghiệm về trồng trọt và chăn nuôi, bảo vệ môi trường sinh thái, cung ứng sản phẩm cho
các ngành công nghiệp và dịch vụ” [88, tr.237-238].
Trong LĐĐ năm 1993, căn cứ vào mục đích sử dụng, đất đai được chia thành 6
loại bao gồm: Đất nông nghiệp; đất lâm nghiệp; đất khu dân cư nông thôn; đất đô thị;
đất chuyên dùng; đất chưa sử dụng. Tại Điều 42 LĐĐ năm 1993 quy định về đất nông
nghiệp: “Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông
nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về
nông nghiệp” [25].
Theo sự phân loại này đất nông nghiệp và đất lâm nghiệp được tách riêng thành
hai loại đất nằm trong sáu loại đất thuộc vốn đất quốc gia và được định nghĩa theo Điều
42 và Điều 43 của LĐĐ năm 1993. Tuy nhiên, sự phân loại này dựa trên nhiều tiêu chí
khác nhau, vừa căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, vừa căn cứ vào địa bàn sử dụng
26
đất dẫn đến sự đan xen, chồng chéo giữa các loại đất, không có sự tách bạch về mặt pháp
lý gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai. Theo quy định này thì đất nông nghiệp
chủ yếu dùng để sản xuất nông nghiệp hoặc thực hiện nghiên cứu thí nghiệm về nông
nghiệp. Quan niệm này hiện nay không còn phù hợp trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam khi đất nông nghiệp có thể dùng để
góp vốn kinh doanh vào các lĩnh vực như trang trại kết hợp giữa nông lâm ngư nghiệp
trong việc phát triển kinh tế. Điều này cho thấy sự cứng nhắc và quan niệm theo nghĩa
“hẹp” của LĐĐ năm 1993 về đất nông nghiệp.
LĐĐ năm 2003 đã khắc phục những hạn chế đó, cũng như tạo điều kiện thuận
lợi cho người sử dụng đất thực hiện các quyền của mình trong việc sử dụng đất nên chia
đất đai thành ba loại với tiêu chí phân loại duy nhất là căn cứ vào mục đích sử dụng chủ
yếu: Nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng. Như
vậy, ở đây đã mở rộng khái niệm đất nông nghiệp với tên gọi “nhóm đất nông nghiệp”
thay cho “đất nông nghiệp” trước đây. Theo quy định LĐĐ năm 2003 có thể hiểu nhóm
đất nông nghiệp là tổng thể các loại đất có đặc tính sử dụng giống nhau, với tư cách là
tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ cho mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp như trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, khoanh nuôi tu bổ bảo vệ rừng, nghiên cứu
thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 13 LĐĐ năm
2003 nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất sau: Đất trồng cây hàng năm gồm đất
trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác; đất trồng cây
lâu năm; đất rừng sản xuất; đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất nuôi trồng thuỷ
sản; đất làm muối; đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ.
Như vậy, có thể thấy nhóm đất nông nghiệp bao gồm những loại đất được sử
dụng chủ yếu vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp đó là diện tích trồng các
cây lương thực như lúa, ngô, khoai, sắn, đất trồng các cây lâu năm có giá trị kinh tế cao
như dừa, cam, chanh, bưởi…diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản; đất rừng sản
xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng trong đó có đất rừng tự nhiên và đất trồng
rừng.
Sự phân loại này hoàn toàn khác so với LĐĐ năm 1993, ở đây đã có sự mở rộng
và phù hợp hơn với thực tiễn, có sự đan xen giữa đất nông nghiệp với đất lâm nghiệp,
đất làm muối và nuôi trồng thủy sản. Quy định này vừa tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thống nhất quản lý đất đai từ các cơ quan quản lý ở trung ương cũng như các địa phương
trong việc kiểm tra, giám sát quá trình khai thác, sử dụng đất của các hộ gia đình, cá
nhân. Đồng thời cũng phù hợp với thực tiễn sử dụng đất của các hộ gia đình, cá nhân
27
bởi không có hộ gia đình nào chỉ sử dụng một loại đất duy nhất như đất trồng lúa, đất
rừng mà bao giờ họ cũng sử dụng xen kẽ, kết hợp giữa các loại đất khác nhau như: Trồng
lúa, trồng hoa màu, trồng rừng kể cả việc nuôi trồng thủy sản. Việc kết hợp sử dụng
nhiều loại đất này mang tính tất yếu khách quan, là nhu cầu thiết thực của các hộ gia
đình, cá nhân trong quá trình sản xuất để nâng cao đời sống của mình. Sự kết hợp này
hoàn toàn phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đó
là khuyến khích sản xuất nông nghiệp theo mô hình trang trại kết hợp nông - lâm - ngư
- diêm nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho các
hộ gia đình, cá nhân tham gia vào quá trình sản xuất hàng hóa, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của mình.
LĐĐ năm 2013 chia đất đai làm 3 loại cũng gần giống với LĐĐ năm 2003 đó là:
Nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng. Tuy nhiên
tại Khoản 1 Điều 10 LĐĐ năm 2013 quy định rõ nhóm đất nông nghiệp bao gồm: Đất
trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa và đất trồng cây hàng năm khác; đất trồng cây
lâu năm; đất rừng sản xuất; đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất nuôi trồng thủy
sản; đất làm muối; đất nông nghiệp khác gồm đất sử dụng để xây dựng nhà kính và các
loại nhà khác phục vụ mục đích trồng trọt, kể cả các hình thức trồng trọt không trực tiếp
trên đất; xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại động vật khác được
pháp luật cho phép; đất trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản cho mục đích học tập,
nghiên cứu thí nghiệm; đất ươm tạo cây giống, con giống và đất trồng hoa, cây cảnh.
Về cơ bản, cách hiểu đất nông nghiệp theo LĐĐ năm 2013 không có nhiều điểm
khác biệt so với LĐĐ năm 2003. LĐĐ năm 2013 không chỉ ra đất trồng cỏ là một loại
đất thuộc loại đất trồng cây lâu năm mà gộp loại đất này chung vào loại đất trồng cây
hằng năm khác, vì loại đất này không phổ biến và có chế độ quản lý như các loại đất
trồng cây hằng năm khác. Đặc biệt tránh cách hiểu hạn hẹp không bao quát được hết các
loại đất nông nghiệp, gây thiệt thòi cho người dân khi tiến hành bồi thường cũng như
giải quyết các chế độ, chính sách liên quan đến nó. LĐĐ năm 2013 luật hóa quy định về
đất nông nghiệp khác. Theo đó, cách hiểu đất nông nghiệp khác không còn mang nặng
ảnh hưởng về mặt địa lý, đó không chỉ là các loại đất chỉ có ở nông thôn mà còn là đất
xây dựng công trình để trồng trọt, chăn nuôi ở cả đô thị và nông thôn. Ngoài ra, theo
LĐĐ năm 2013 đất xây dựng không để trồng trọt, chăn nuôi trong các trạm, trại nghiên
cứu và cơ sở ươm tạo cây giống, con giống; nhà kho của dân để chứa nông sản, thuốc
bảo vệ thực vật, phân bón, máy móc, công cụ sản xuất nông nghiệp đồng thời thêm đất
trồng hoa, cây cảnh cũng không còn được coi là đất nông nghiệp khác.
28
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về đất nông nghiệp như sau: Đất
nông nghiệp là bộ phận đặc thù của tài nguyên đất đai, là phần đất có đặt tính giống nhau
có thể thực hiện các hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp như trồng trọt, chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng; khoanh nuôi tu bổ, bảo vệ rừng; bảo vệ môi trường
sinh thái, nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp.
Có thể khẳng định đất nông nghiệp được phân bố rộng khắp trong phạm vi cả
nước và chiếm một tỉ trọng tương đối lớn trong vốn đất đai của Việt Nam. Nhìn nhận
đất nông nghiệp theo khái niệm rộng hơn như ở trên là phù hợp với xu hướng phát triển
của nền kinh tế thị trường cũng như thực tiễn khai thác và sử dụng của các hộ gia đình,
cá nhân ở nước ta. Việc nhìn nhận này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác thu
hồi đất, giải tỏa đền bù, xác định là loại đất nào trong nhóm đất nông nghiệp để làm cơ
sở cho việc bồi thường và hỗ trợ. Vì khi thu hồi đất nông nghiệp của các hộ gia đình, cá
nhân mà là đất trồng lúa nước thì ngoài số tiền bồi thường Nhà nước phải có chính sách
hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi như: Chính sách đào tạo nghề, bố trí việc làm, chính
sách hỗ trợ ổn định cuộc sống… hoặc nếu đất bị thu hồi là đất rừng sản xuất, rừng phòng
hộ…đây cũng là loại đất thuộc nhóm đất nông nghiệp nhưng không được bồi thường về
đất mà chỉ xem xét bồi thường các tài sản trên đất phụ thuộc vào nguồn tiền đầu tư đó
thuộc nguồn vốn của Nhà nước hay của tổ chức, cá nhân. Việc nghiên cứu khái niệm
đất nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp các cơ quan Nhà nước xây dựng
chế độ chính sách, phân loại, xác định cách thức cũng như mức bồi thường, hỗ trợ cho
phù hợp đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất nông nghiệp bị thu hồi.
b. Đặc điểm của đất nông nghiệp
Ngoài các đặc điểm của đất đai nói chung như: Đất đai có tính cố định vị trí,
không thể di chuyển được, là tài sản không do con người tạo ra, chịu sự chi phối của các
yếu tố môi trường nơi có đất…. thì đất nông nghiệp còn có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể thay thế được
trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối và nuôi trồng thủy sản
Đây là đặc điểm quan trọng phân biệt đất nông nghiệp với đất phi nông nghiệp.
Không thể tiến hành sản xuất nông nghiệp nếu không có đất nông nghiệp. Đất nông
nghiệp là tổng thể các loại đất sử dụng trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Có loại đất
nông nghiệp sử dụng vào quá trình sản xuất nông nghiệp nhưng cũng có loại đất không
sử dụng cho mục đích kinh doanh nhưng nó là địa bàn để tạo ra các sản phẩm nông
nghiệp. Có loại đất dùng để trồng cây ngắn ngày nhưng cũng có loại đất nông nghiệp
dùng để trồng các loại cây lâu năm. Có loại đất nông nghiệp ban đầu dùng để trồng lúa,
29
hoa màu, trồng các loại cây lâu năm nhưng trong quá trình sử dụng các hộ gia đình, cá
nhân chuyển sang đất phi nông nghiệp như làm nhà ở, công trình xây dựng…Trong
trường hợp này việc nghiên cứu đất nông nghiệp với mục đích chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định nguồn gốc đất, loại đất để
có chính sách bồi thường, hỗ trợ một cách phù hợp.
Thứ hai, đối tượng sản xuất của đất nông nghiệp là các cây trồng, vật nuôi hoặc
các công trình nghiên cứu liên quan đến sản xuất nông nghiệp và thường có tính mùa
vụ
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật, các cơ thể sống. Chúng sinh
trưởng và phát triển theo các quy luật sinh học và chịu tác động rất lớn của quy luật tự
nhiên. Vì vậy, việc hiểu biết và tôn trọng các quy luật sinh học, quy luật tự nhiên là một
đòi hỏi quan trọng trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Cây trồng và vật nuôi với tư
cách là tư liệu sản xuất đặc biệt được sản xuất trong bản thân đất nông nghiệp bằng cách
sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được ở chu trình sản xuất trước làm tư liệu sản xuất cho
chu trình sản xuất sau.
Thứ ba, đất nông nghiệp là loại đất mà giá trị sử dụng phụ thuộc vào chất lượng
đất đai, độ phì nhiêu của đất
Đất nông nghiệp được sử dụng làm tư liệu sản xuất nên giá trị của nó phụ thuộc
vào chất lượng đất, các yếu tố nông, lý hóa và thổ nhưỡng như độ phì nhiêu, tầng dày
của lớp đất mặt, độ PH…Độ phì là thuộc tính tự nhiên của đất nông nghiệp nó quyết
định chất lượng đất. Trong quá trình sử dụng, độ màu mở của đất nông nghiệp có thể
tăng lên hoặc giảm đi phụ thuộc vào chủ thể sử dụng. Chất lượng đất nông nghiệp là
một trong những nhân tố quyết định năng suất cây trồng, vật nuôi cao hay thấp. Vì vậy,
các quy định của pháp luật hiện hành về hoạch, KHSDĐ, chuyển mục đích sử dụng đất,
các trường hợp thu hồi đất đối với đất nông nghiệp có giá trị cao được Nhà nước quy
định hết sức nghiêm ngặt và hạn chế thu hồi để đảm bảo an ninh lương thực của quốc
gia cũng như đảm bảo đời sống của người nông dân.
Thứ tư, đất nông nghiệp bao gồm nhiều loại đất có thể kết hợp sử dụng đan xen
trên một thửa đất. Vì vậy, đất nông nghiệp rất đa dạng, có tính năng sử dụng linh hoạt,
có thể tích tụ, tập trung ở quy mô lớn.
Thứ năm, chủ thể quản lý, khai thác, sử dụng đất nông nghiệp là các hộ gia đình,
cá nhân, tổ chức, Nhà nước. Trong đó người trực tiếp khai thác, sử dụng đất nông nghiệp
là các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức; người quản lý đất nông nghiệp là Nhà nước.
30
Tóm lại, đất nông nghiệp với những đặc điểm riêng của nó đã ảnh hưởng, chi
phối không nhỏ đến chính sách pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực đất đai nói chung
và lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. Vì vậy, pháp luật đất đai cần có những quy định chặt
chẽ, sát thực để kiểm soát việc chuyển đất nông nghiệp nhất là đất trồng lúa, đất trồng
rừng sang các mục đích khác để đảm bảo an ninh lương thực của quốc gia, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người nông dân cũng như bảo vệ môi trường sinh thái đang bị
xâm hại một cách nghiêm trọng như hiện nay. Mặc dù trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa việc thu hồi đất là cần thiết nhưng không có nghĩa là phát triển công nghiệp
bằng mọi giá mà không tính đến sự phát triển bền vững của đất nước. Khi thu hồi đất
nông nghiệp nhiều vấn đề xã hội đặt ra, không chỉ là vấn đề bồi thường, hỗ trợ mà còn
là vấn đề an sinh xã hội, cuộc sống ổn định, lâu dài của người nông dân bị mất đất.
2.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
a. Khái niệm pháp luật thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Ngược lại với giao đất, cho thuê đất - những hình thức pháp lý làm hình thành
một quan hệ pháp LĐĐ thì thu hồi đất là một biện pháp làm chấm dứt quan hệ pháp
LĐĐ bằng một quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Thu hồi
đất thể hiện rõ quyền định đoạt của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với
đất đai.
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học thì thu hồi đất là việc: “Cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm quy định về sử dụng
đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử dụng đất hợp pháp
bị lấn chiếm. Trường hợp cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử
dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng” [85]. Tuy nhiên, giải thích này chưa phản ánh hết các trường hợp thu hồi đất trên
thực tế như: Nhà nước thu hồi đất nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội chẳng hạn.
Tại Điều 14 LĐĐ năm 1987 không đưa ra khái niệm thu hồi đất nông nghiệp mà
chỉ liệt kê các trường hợp bị thu hồi đất [24]. Còn tại Điều 26 LĐĐ năm 1993 cũng quy
định các trường hợp Nhà nước thu hồi toàn bộ hoặc một phần đất đã giao sử dụng [25]
giống LĐĐ năm 1987 nhưng có mở rộng thêm một số trường hợp như không thực hiện
nghĩa vụ đối với Nhà nước, sử dụng đất không đúng mục đích mà cũng không đưa ra
định nghĩa thế nào là thu hồi đất.
LĐĐ năm 2003 ra đời, thuật ngữ thu hồi đất được giải thích tại Khoản 5 Điều 4
như sau: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử
dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản
31
lý theo quy định của luật này” [26]. Cách định nghĩa này không theo hướng liệt kê mục
đích của việc thu hồi đất mà cho thấy rằng bằng quyền lực chính trị, kinh tế và pháp
luật, cùng với vai trò của đại diện chủ sở hữu của mình, Nhà nước có quyền thu hồi đất.
Tuy nhiên, định nghĩa này vẫn chưa giải thích chính xác việc thu hồi đất. Cụ thể: Nhà
nước chỉ có thể thu lại đất đã giao cho các tổ chức, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
quản lý, còn các hộ gia đình, cá nhân thì sao? Đây mới là những chủ thể thực sự sử dụng
đất trên thực tế và có thể bị thu hồi.
Khi LĐĐ năm 2013 được đưa ra thảo luận, góp ý, lấy ý kiến của người dân, các
tổ chức cũng như các chuyên gia pháp lý thì khái niệm thu hồi đất được bàn luận rất
nhiều. Có quan điểm cho rằng: “Thu hồi đất” chỉ phù hợp trong trường hợp: Nhà nước
thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai và thu hồi do chấm dứt việc sử dụng đất theo
pháp luật hoặc tự nguyện trả lại đất cho Nhà nước. Còn trường hợp các tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hợp pháp thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư ghi
nhận quyền sử dụng đất của người sử dụng đất, là quyền tài sản theo quy định tại Điều
105 BLDS năm 2015 “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” [23]. Điều
115 BLDS năm 2015 tiếp tục quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền,
bao gồm quyền tài sản đối với quyền sở hữu trí tuệ, QSDĐ và các quyền tài sản khác”
[23]. Như vậy, dưới góc độ này, QSDĐ được coi là một loại quyền tài sản và loại tài sản
này luôn luôn gắn với một tài sản khác đó là đất đai. Chính vì coi QSDĐ là một loại tài
sản nên Hiến pháp, LĐĐ ghi nhận chủ sử dụng đất được thực hiện các giao dịch đối với
tài sản này. NSDĐ có quyền tự mình khai thác công dụng từ đất hoặc được thực hiện
các giao dịch đối với quyền sử dụng đất của mình, như chuyển nhượng, tặng cho, thế
chấp, để lại thừa kế… theo quy định của LĐĐ và BLDS. Điều 54 HP năm 2013 quy
định: “NSDĐ được chuyển QSDĐ, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của
luật. QSDĐ được pháp luật bảo hộ” [20]. Điều 167 LĐĐ năm 2013 quy định: “NSDĐ
được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế,
tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng QSDĐ theo quy định của Luật này” [27]. Như vậy,
QSDĐ là tài sản hợp pháp của người dân, được Nhà nước bảo hộ thì không thể tùy tiện
thu hồi mà Nhà nước chỉ được thu hồi trong những trường hợp luật định.
Tại Khoản 11 Điều 3 LĐĐ năm 2013 quy định: “Nhà nước thu hồi đất là việc
Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử
dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai” [27].
32
Từ những phân tích trên có thể hiểu khái niệm thu hồi đất như sau: “Thu hồi đất
là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại đất và quyền sử dụng đất để giao
cho các chủ thể sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai”.
Trên cơ sở phân tích các khái niệm thu hồi đất ở trên, nghiên cứu sinh có thể đưa
ra khái niệm về thu hồi đất nông nghiệp như sau: “Thu hồi đất nông nghiệp là việc Nhà
nước ra quyết định hành chính để thu lại đất nông nghiệp và quyền sử dụng đất nông
nghiệp đã giao cho hộ gia đình, cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật đất đai”.
Tóm lại theo nghiên cứu sinh: “Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -
xã hội là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại đất nông nghiệp và quyền
sử dụng đất nông nghiệp đã giao cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức theo quy định
của pháp luật đất đai vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội”.
Luật Đất đai năm 2013 không đưa ra khái niệm thu hồi đất vì mục đích phát triển
kinh tế mà chỉ dùng thuật ngữ thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội. Như
vậy, ở đây các thuật ngữ đưa ra khác nhau cơ bản về mục đích thu hồi hay nói cách khác
thu hồi đất để làm gì. Mục đích của việc thu hồi đất để phát triển kinh tế lấy lợi ích của
nhà đầu tư làm trung tâm. Hay nói cách khác vấn đề lợi ích được đặt lên hàng đầu trong
quá trình thu hồi đất.
Từ những quy định trên có thể đưa ra khái niệm thu hồi đất nông nghiệp nhằm
mục đích kinh tế như sau: Thu hồi đất nông nghiệp nhằm mục đích kinh tế là việc Nhà
nước ra quyết định hành chính để thu lại đất nông nghiệp và quyền sử dụng đất nông
nghiệp đã giao cho hộ gia đình, cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật đất đai
nhằm mục đích lợi nhuận.
Như vậy, thu hồi đất nông nghiệp nhằm mục đích kinh tế có nội hàm hẹp hơn so
với thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội. Thu hồi đất nông nghiệp nhằm
mục kinh tế có mục tiêu hàng đầu là đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Vì vậy, cơ chế
thu hồi đất cũng phải có sự khác biệt trong quá trình thu hồi.
Nhà nước chỉ được thu hồi đất của người dân nhằm mục đích phát triển kinh tế -
xã hội; bảo đảm lợi ích chung của quốc gia, công cộng. Đây là những yếu tố tạo thành
điều kiện cần thiết nhằm bảo đảm cho kinh tế quốc gia ngày càng phát triển, đời sống
vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.
b. Đặc điểm của việc nhà nước thu hồi đất nông nghiệp vì mục đích phát triển
kinh tế- xã hội
33
Về bản chất thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội là việc chuyển
quyền sử dụng đất nông nghiệp theo một cơ chế bắt buộc thông qua biện pháp hành
chính và có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội là việc nhà nước
ban hành quyết định hành chính của người có thẩm quyền nhằm chấm dứt quan hệ sử
dụng đất nông nghiệp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp.
Thứ hai, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội được tiến hành
theo quy hoạch đã được phê duyệt và theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ đã được quy
định trong luật. Nếu việc thu hồi đất không được quy định chặt chẽ, không được tiến
hành theo trình tự, thủ tục được quy định trong luật và không theo quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất đã được phê duyệt thì sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, tham nhũng, lợi ích
nhóm. Đồng thời, quy định như vậy để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có
đất nông nghiệp bị thu hồi cũng như giúp cho việc kiểm tra, giám sát chặt chẽ hơn, minh
bạch, khách quan hơn.
Thứ ba, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện bởi
nhiều chủ thể, đặc biệt là vai trò của Nhà nước trong quá trình thực hiện việc thu hồi
đất.
2.1.1.3. Tính tất yếu, khách quan của việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội
Thứ nhất, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội không chỉ phục vụ
cho việc phát triển công nghiệp mà còn phục vụ ngay cho việc phát triển sản xuất nông
nghiệp theo xu hướng công nghiệp hóa sản xuất nông nghiệp, phù hợp với xu hướng hiện
nay của nước ta đó là vấn đề tích tụ, tập trung ruộng đất. Để phát triển những cánh đồng
lúa lớn, để triển khai các ứng dụng của tiến bộ khoa học kỹ thuật để phát triển các nông
trang trại và chuyển dịch cơ cấu cây trồng ngay chính trong sản xuất nông nghiệp.
Thứ hai, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội để thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để phục vụ quá trình này sẽ kéo theo việc
chuyển dịch cơ cấu lao động, chuyển dịch việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông
nghiệp sang phi nông nghiệp thì tất yếu phải thu hồi đất nông nghiệp.
Thứ ba, trong các loại đất thì nhóm đất nông nghiệp chiếm trên 70%, đất phi nông
nghiệp chiếm khoản trên dưới 2% và còn lại là đất chưa sử dụng. Vì vậy, đất nông nghiệp
có nguy cơ bị thu hồi nhiều nhất là một tất yếu. Đồng thời, thu hồi đất nông nghiệp để
giảm gánh nặng cho nhà nước trong việc bồi thường.
34
Thứ tư, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội để nâng cao hiệu quả,
hệ số sử dụng đất nông nghiệp bởi vì nhiều diện tích đất nông nghiệp khai thác không
hiệu quả, phân tán, manh muốn, xé nhỏ; người dân bỏ ruộng đất hoang để lên đô thị tìm
việc làm khác trong khi đất dành cho công nghiệp hóa lại không có.
Thứ năm, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội để đặt trách nhiệm
cho Nhà nước trong công tác quy hoạch, KHSDĐ hợp lý, sử dụng đất có hiệu quả hơn
trong thực tiễn.
Thứ sáu, hiệu quả từ thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội thời gian
qua. Cùng với việc sửa đổi, bổ sung một cách hợp lý các quy định của pháp luật về thu
hồi đất trong chính sách và pháp luật đất đai cũng như việc chuyển dịch mạnh mẽ của cơ
cấu kinh tế cho thấy, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội đã phần nào
phù hợp với điều kiện mới của đất nước và đã được thực thi trong cuộc sống, thúc đẩy
phát triển kinh tế góp phần ổn định chính trị xã hội. Quản lý nhà nước về đất đai có phần
tiến bộ, phát huy tốt nguồn nội lực to lớn và quý giá của đất nước vào công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội và hội nhập của nước ta.
2.1.1.4. Hậu quả của việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
và trách nhiệm của Nhà nước
Thứ nhất, người dân mất đất, mất tư liệu sản xuất, mất việc làm, mất sinh kế…
Vì vậy, đặt ra vấn đề trách nhiệm của Nhà nước trong việc bồi thường về vật chất và
giải quyết các vấn đề an sinh xã hội như: Bù đắp những tổn thất, tái tạo việc làm mới,
ổn định cuộc sống, giải quyết những hậu quả xã hội do mất việc, tệ nạn xã hội nảy sinh...
Thứ hai, vì đất nông nghiệp có khả năng thu hồi được những diện tích lớn. Đây
là cơ hội mà các nhà đầu tư nhắm đến để có thể thâu tóm đất nông nghiệp nhằm mục
đích trục lợi cá nhân. Vì vậy, để tránh hiện tượng diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi
tùy tiện, lợi dụng dẫn đến đất nông nghiệp bị giảm nghiêm trọng cần:
Một là, trách nhiệm của nhà nước trong quy hoạch, KHSDĐ, đặc biệt là KHSDĐ
nông nghiệp hằng năm để tránh lạm quyền, tùy tiện, lợi ích nhóm.
Hai là, phân biệt rõ thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội theo cơ
chế hành chính tại Điều 62 và thu hồi đất theo cơ chế thỏa thuận tại Điều 73 LĐĐ năm
2013 để tránh sai phạm, mượn cớ thu hồi đất tại Điều 62 để thu hồi đất, áp giá bồi thường
thấp; sau đó xin sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch, điều chỉnh dự án đầu tư và
không còn thuộc diện thu hồi đất tại Điều 62 nữa.
Ba là, tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát để chống gian lận, tránh tình trạng
thâu tóm đất nông nghiệp, muốn vậy thì: (i) Kiểm soát tình trạng tích tụ và tập trung đất
35
nông nghiệp để thâu tóm đất nông nghiệp, núp dưới bóng của của các dự án nông nghiệp
xanh, nông nghiệp sạch, du lịch sinh thái mà thực chất là các dự án kinh doanh bất động
sản du lịch, khách sạn, homestay, vilage resort; (ii) Kiểm soát tình trạng gian lận chuyển
đất nông nghiệp trồng lúa sang đất nông nghiệp khác; (iii) Việc thực hiện thí điểm tích
tụ và tập trung đất đai cần được thực hiện một cách cẩn trọng, chặt chẽ để tránh trường
hợp tùy tiện, ảnh hưởng đến đời sống của người dân.
Bốn là, từ các vấn đề trên đặt ra yêu cầu đối với việc sửa đổi LĐĐ năm 2013
cũng như việc ban hành Nghị định quy định về tập trung, tích tụ đất đai cho sản xuất
nông nghiệp trong thời gian tới cần phải giữ lấy những mảnh đất “bờ xôi, ruộng mật”.
Bên cạnh đó cũng đặt ra trách nhiệm của Nhà nước trong việc bù đắp những thiệt
hại do thu hồi đất nông nghiệp; bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; tuân thủ đúng
trình tự, thủ tục khi thu hồi đất; công khai, minh bạch, dân chủ; đảm bảo công bằng
trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.2. Bồi thường và hỗ trợ cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội
Khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng mà không phải
do vi phạm các quy định của pháp LĐĐ thì phải bồi thường. Đặc biệt trong trường hợp
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -xã hội thì đương nhiên Nhà nước phải bồi
thường vì trong trường hợp này việc thu hồi đất không do lỗi của người sử dụng đất,
hơn nữa khi bị thu hồi đất, người sử dụng đất phải chịu những thiệt hại, thậm chí ảnh
hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống hiện tại. Vì vậy, việc Nhà nước bồi thường khi thu
hồi đất nông nghiệp của người sử dụng là việc làm phù hợp với quy định của pháp luật
về đất đai và phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
Tại Khoản 6 Điều 4 LĐĐ năm 2003 quy định: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho
người bị thu hồi đất” [26] và tại Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm
2004 của Chính phủ quy định: “Về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất”. Như vậy, LĐĐ năm 2003 và văn bản hướng dẫn có quy định việc bồi thường và
hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất. Quy định như vậy để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi, giúp họ ổn định cuộc sống.
Tại Khoản 12 Điều 3 LĐĐ năm 2013 quy định: “Bồi thường về đất là việc Nhà
nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng
36
đất” [27]. Còn vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được quy định thành
một chương riêng đó là chương 6 của LĐĐ năm 2013. Như vậy, “Bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất là việc Nhà nước bù đắp những tổn hại về đất và tài sản trên đất do
hành vi thu hồi đất gây ra cho người sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai để
sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát
triển kinh tế - xã hội”.
Có thể nêu khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp như sau:
“Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là việc Nhà nước bù đắp những tổn
hại về đất và tài sản trên đất do hành vi thu hồi đất nông nghiệp gây ra cho hộ gia đình,
cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật đất đai để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế - xã hội ”.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội như sau: “Bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội là việc Nhà nước bù đắp những tổn
hại về đất và tài sản trên đất do hành vi thu hồi đất nông nghiệp gây ra cho hộ gia đình,
cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật đất đai để phát triển kinh tế -xã hội”.
Đền bù là khái niệm dùng để chỉ sự “đền trả” lại những thiệt hại do một hoạt động
của một chủ thể gây ra. Khái niệm “đền bù” xuất hiện từ LĐĐ năm 1987 và LĐĐ năm
1993. Từ khi LĐĐ năm 1993 được sửa đổi, bổ sung năm 2001, Quốc hội đã thống nhất
cụm từ “bồi thường” thay cho “đền bù” và “đền bù thiệt hại”. Hiện nay, LĐĐ năm 2013
và các văn bản hướng dẫn không còn sử dụng khái niệm đền bù, mà thay vào đó là các
khái niệm bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
37
2.1.2.2. Hỗ trợ cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng thì: “Hỗ trợ: Giúp thêm, góp thêm vào” [89,
tr.332]. Như vậy, dưới góc độ ngôn ngữ thì hỗ trợ là sự trợ giúp, giúp đỡ của cộng đồng
nhằm chia sẻ bớt một phần khó khăn, rủi ro mà một người hoặc một nhóm người gặp
phải. Hoạt động hỗ trợ bao gồm hai hình thức: Hỗ trợ về mặt vật chất và hỗ trợ về mặt
tinh thần.
Tại Khoản 7 Điều 4 LĐĐ năm 2003 quy định: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề, bố trí việc làm
mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới” [26].
Khoản 14 Điều 3 LĐĐ năm 2013 quy định: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là
việc Nhà nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định cuộc sống, sản xuất và phát
triển” [27]. Có thể nói LĐĐ năm 2013 một lần nữa quy định chính sách hỗ trợ ngoài
việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng. Việc bồi thường, hỗ trợ
chỉ phát sinh khi quyết định thu hồi đất có hiệu lực pháp luật. “Hỗ trợ” góp phần xoa
dịu sự bất bình của người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi khi mà giá đất bồi thường
hiện nay chưa hợp lý, chưa thể bù đắp được các thiệt hại mà người nông dân phải gánh
chịu. Khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất nông nghiệp của người sử dụng thì thiệt hại
không chỉ là những mét vuông đất bị mất cùng với tài sản gắn liền trên đất như hoa màu,
cây trồng…. mà còn là việc mất tư liệu sản xuất không biết phải sống bằng nghề gì….
Việc quy định chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội nói riêng thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước ta, nó phản ánh đúng bản chất của nhà nước ta là “Nhà nước của dân, do dân và vì
dân”. Tuy nhiên, khái niệm “hỗ trợ” của pháp luật hiện hành là chưa đầy đủ và chưa phù
hợp. Vì theo quy định của LĐĐ năm 2013 thì các biện pháp hỗ trợ khi thu hồi đất bao
gồm: Hỗ trợ ổn định cuộc sống và sản xuất, hỗ trợ chuyển đổi và tạo việc làm và các
khoản hỗ trợ khác. Ngoài ra, khi thu hồi đất nông nghiệp còn có chính sách hỗ trợ đối
với đất nông nghiệp trong khu dân cư và vườn, ao không được công nhận là đất ở.
Từ phân tích trên có thể nêu khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế- xã hội là
việc Nhà nước giúp đỡ các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức có đất nông nghiệp bị thu hồi
bằng việc hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm
kiếm việc làm và các hỗ trợ khác”
38
2.1.3. Cơ sở của việc Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -
xã hội
2.1.3.1. Cơ sở pháp lý
Điều 4 LĐĐ năm 2013 khẳng định quan điểm: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý [27]. LĐĐ năm 2013 đã tiếp tục
hoàn thiện căn cứ thu hồi đất theo hướng cụ thể hơn. Mục đích quốc phòng an ninh đã
được diễn giải thành 10 trường hợp cụ thể, bao gồm các trường hợp: Làm nơi đóng quân,
trụ sở làm việc; xây dựng căn cứ quân sự; xây dựng công trình phòng thủ quốc gia, trận
địa và công trình đặc biệt về quốc phòng, an ninh; xây dựng ga, cảng quân sự; xây dựng
công trình công nghiệp, khoa học và công nghệ, văn hóa, thể thao phục vụ trực tiếp cho
quốc phòng, an ninh; xây dựng kho tàng của lực lượng vũ trang nhân dân; Làm trường
bắn, thao trường, bãi thử vũ khí, bãi hủy vũ khí; xây dựng cơ sở đào tạo, trung tâm huấn
luyện, bệnh viện, nhà an dưỡng của lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng nhà công vụ
của lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng cơ sở giam giữ, cơ sở giáo dục do Bộ Quốc
phòng, Bộ Công an quản lý. Ngoài nhóm căn cứ này, các căn cứ thu hồi đất khác như
“thu hồi do vi phạm pháp luật về đất đai”, “thu hồi do chấm dứt việc sử dụng đất theo
pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người” cũng được
LĐĐ năm 2013 quy định một cách cụ thể và chặt chẽ hơn so với các đạo luật trước. Tại
Điều 197 BLDS năm 2015 quy định tài sản thuộc sở hữu toàn dân gồm: “Đất đai, tài
nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên
nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” [23]. Sự xác lập hình thức
sở hữu nhà nước chính là phương thức thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai.
Với tư cách chủ sở hữu đại diện, Nhà nước thực hiện các hoạt động quản lý đất đai.
Về bản chất, quyền sử dụng đất mà các cá nhân, tổ chức Việt Nam hiện nay phải
nắm giữ nếu muốn tiếp cận, khai thác, sử dụng trên một thửa đất, là quyền do Nhà nước
trao cho họ bằng phương thức giao, cho thuê hoặc công nhận. Việc Nhà nước trao quyền
sử dụng đất cho người sử dụng không có nghĩa là Nhà nước hoàn toàn mất đi quyền này
mà chỉ cho phép người sử dụng đất có quyền khai thác, sử dụng đất trong phạm vi trao
quyền đã được giới hạn về không gian và thời gian nhất định.
39
2.1.3.2. Cơ sở thực tiễn
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của dân tộc ta, là hiện thân của chủ
quyền, của lãnh thổ quốc gia, là tư liệu sản xuất không gì có thể thay thế được trong sản
xuất nông nghiệp, là nguồn nội lực để phát triển đất nước. Việc thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề có tính tất yếu khách quan và cần thiết bởi các lý
do sau đây:
Thứ nhất, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội nhằm hiện thực
hóa mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI khẳng định: “Phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại” [1]. Để đạt được được điều đó, chúng ta cần tập trung
đẩy mạnh phát triển đất nước, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện
đại, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đi đôi với cải cách thể chế chính trị… Do
vậy, việc dịch chuyển đất nông nghiệp từ chủ thể này sang chủ thể khác, từ mục đích
này sang mục đích khác là điều không tránh khỏi. Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế -xã hội là biểu hiện cụ thể của việc dịch chuyển theo chủ trương này.
Thứ hai, nước ta với xuất phát điểm là nước nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu.
Để khắc phục nguy cơ tụt hậu và từng bước thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển
thì không có con đường nào khác Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hóa, chuyển đổi
cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang cơ cấu công nghiệp, thương mại, dịch vụ, muốn vậy
phải quy hoạch chuyển một phần quỹ đất nông nghiệp sang xây dựng các khu công
nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao. Phát triển khu công nghiệp là một trong những
phương thức cơ bản tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Thứ ba, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ cùng với sự tăng trưởng nhanh của
nền kinh tế. Do đó, Nhà nước cần phải xây dựng hệ thống hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ
thuật nhằm cải thiện, nâng cao đời sống cho người dân. Điều này dẫn đến việc Nhà nước
phải thu hồi đất nông nghiệp đang sử dụng để chuyển sang mục đích khác. Tuy nhiên,
vấn đề đặt ra cần phải giải quyết đó là việc thu hồi đất nông nghiệp phải được tính toán
một cách khoa học và dựa trên cơ sở quy hoạch; đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng kinh
tế với ổn định xã hội, giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ với bảo đảm an ninh lương
thực quốc gia và sự phát triển bền vững đất nước.
Thứ tư, thu hồi đất nông nghiệp nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về đất
cho các hoạt động đầu tư. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, đã và đang tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi,
40
tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới cho nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chính vì vậy, nhu
cầu về đất đai cho các dự án đầu tư trong và ngoài nước là một vấn đề rất cần thiết và
quan trọng. Việc thu hồi đất nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao cho các
dự án đầu tư nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế cũng là vấn đề cần thiết đặt ra và cần
phải thực hiện. Cùng với đó, điều không thể phủ nhận rằng, thu hồi đất cho các dự án
phát triển kinh tế cũng là một trong những phương thức chuyển dịch đất đai có hiệu quả,
nâng cao giá trị sử dụng đất, từng bước thực hiện thành công của chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp và thương mại dịch vụ.
2.1.4. Ý nghĩa của việc Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh
tế - xã hội
2.1.4.1. Về phương diện chính trị
Các chế độ, chính sách, pháp luật về đất đai tác động rất lớn đến đời sống chính
trị - xã hội. Chính sách, pháp LĐĐ đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cũng như nguyện
vọng của đại đa số người dân trong xã hội thì nó sẽ góp phần ổn định chính trị, tạo động
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ngược lại, chính sách pháp luật về
đất đai bất cập, thiếu ổn định, không phù hợp với lòng dân sẽ chứa đựng nguy cơ gây
mất ổn định chính trị, xã hội, mất lòng tin của nhân dân. Chính sách pháp luật về đất đai
liên quan đến việc thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã
hội nói riêng được cả xã hội quan tâm đặc biệt như: Chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư. Bởi khi Nhà nước thu hồi đất, không chỉ người nông dân bị mất diện tích đất
hiện có mà còn mất cả kế sinh nhai, mất nơi ở, mất tư liệu sản xuất, họ trở thành những
người tay trắng không nghề nghiệp, không cuộc sống… Người dân Việt Nam có quan
niệm: “Có an cư mới lạc nghiệp” thì việc mất đất nông nghiệp - tư liệu sản xuất quan
trọng nhất thực sự là một “cú sốc” đối với người nông dân bị thu hồi đất. Do vậy, việc
người nông dân phản ứng gay gắt, quyết liệt thông qua khiếu kiện tập thể, khiếu kiện
vượt cấp, kéo dài thậm chí chống trả như ở Tiên Lãng - Hải Phòng hoặc ở huyện Tuy
Đức tỉnh Đắc Nông khi không được bồi thường, hỗ trợ thỏa đáng. Các khiếu kiện về đất
đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng khi Nhà nước thu hồi liên quan đến việc bồi
thường, hỗ trợ tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị và dễ phát sinh thành các điểm
nóng. Vì vậy, giải quyết tốt việc bồi thường, hỗ trợ là thực hiện tốt chính sách an dân để
phát triển kinh tế - xã hội, góp phần vào việc duy trì sự ổn định về chính trị, xây dựng
đất nước ta ngày càng giàu mạnh.
41
2.1.4.2. Về phương diện kinh tế - xã hội
Thực tiễn cho thấy thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế- xã hội luôn là
công việc khó khăn, phức tạp. Các dự án chậm triển khai thực hiện theo tiến độ đề ra có
nguyên nhân do công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng không nhận được sự đồng
thuận từ phía người nông dân. Xét dưới góc độ kinh tế, dự án chậm triển khai thực hiện
ngày nào là chủ đầu tư, các doanh nghiệp bị thiệt hại đáng kể về lợi ích kinh tế do máy
móc, vật tư, thiết bị bị “đắp chiếu”, người lao động không có việc làm trong khi doanh
nghiệp vẫn phải trả lương, trả chi phí duy trì các hoạt động thường xuyên và trả lãi suất
vay vốn cho Ngân hàng… Vì vậy, thực hiện tốt công tác thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội là điều kiện để nhà đầu tư sớm có mặt bằng triển khai các dự án
đầu tư góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế và nâng cao tính hấp dẫn
của môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta. Hơn nữa, duy trì được tốc độ tăng trưởng
cao và bền vững sẽ có điều kiện để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, góp phần vào
công cuộc “xóa đói, giảm nghèo” và tạo tiền đề cho các bước phát triển tiếp theo.
Về phía người sử dụng đất, thực hiện tốt bồi thường, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất sẽ giúp cho họ và các thành viên khác trong gia đình nhanh chóng ổn định
cuộc sống để tập trung sản xuất góp phần cải thiện và nâng cao mức sống. Hơn nữa điều
này cũng giúp củng cố niềm tin của người nông dân có đất nông nghiệp bị thu hồi vào
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước, đồng thời loại trừ
cơ hội để kẻ xấu lợi dụng, tuyên truyền, kích động quần chúng nhân dân khiếu kiện, đối
đầu với chính quyền nhằm gây mất ổn định tình hình trật tự an toàn xã hội và làm đình
trệ sản xuất.
Về phía Nhà nước: Nhà nước có vai trò rất lớn trong quản lý xã hội. Nhà nước
thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư nhằm ổn định và phát triển đất nước. Thông
qua các cơ quan nhà nước, những lợi ích mà dự án thu hồi đất mang lại được xác định
trong các căn cứ thu hồi đất, mục đích thu hồi đất. Từ khi lập dự thảo, thẩm định, phê
duyệt quy hoạch, KHSDĐ, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cân nhắc đến tất cả
các yếu tố lợi ích về phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… một khi thực hiện
dự án. Các yếu tố này vẫn tiếp tục được xem xét trong quá trình phê duyệt những dự án
phù hợp với KHSDĐ hàng năm cũng như giám sát kiểm tra việc thực hiện dự án, bảo
đảm đúng với mục tiêu ban đầu. Một khoản tiền thuế thu được từ các dự án, từ việc
chuyển nhượng bất động sản được nộp vào ngân sách nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước
còn có các lợi ích kinh tế - xã hội khác do dự án thu hồi đất mang lại như có thêm hạ
42
tầng kỹ thuật, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị, xây dựng trường học, bệnh
viện, cầu cống, đường sá… để phục vụ dân sinh, phát triển kinh tế- xã hội.
Về phía chủ đầu tư: Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để giao hoặc cho các tổ
chức kinh tế thuê để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Xét về mặt kinh tế,
đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt nên người nào có nhiều quyền sử dụng đất sẽ có nhiều
lợi thế hoạt động sản xuất, kinh doanh. Khi đầu tư vào các dự án tại địa phương luôn có
mong muốn tạo ra lợi nhuận, bằng cách làm tăng giá trị của đất, xây dựng cơ sở hạ tầng
mới để đầu tư kinh doanh (làm nhà xưởng sản xuất, sân golf, các dự án bất động sản,
sân bay, bến cảng…).
Ngoài mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, việc thu hồi đất còn phải bảo đảm sự
ổn định về chính trị, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Muốn vậy, Nhà nước cần phải điều
tiết, giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người bị thu hồi đất, đây là
động lực của sự phát triển, nếu giải quyết tốt lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể này thì sẽ
tạo động lực cho sự phát triển của xã hội; ngược lại, chế định thu hồi đất để phát triển
kinh tế - xã hội sẽ là nguyên nhân của những đối kháng và mâu thuẫn xã hội.
2.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh đôi với hoạt động thu hồi
đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xa hội
2.2.1. Chế độ sở hữu đất đai và sự ảnh hưởng đối với chế định thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
2.2.1.1. Chế độ sở hữu đất đai và vấn đề thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội
Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai được ghi nhận lần đầu trong Hiến pháp năm
1980 và tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 mà Nhà nước là đại diện
cho chủ sở hữu; chính quyền các cấp thực hiện quyền quản lý, định đoạt, trong đó quan
trọng là quyền chuyển đổi mục đích sử dụng đất và thu hồi đất. Cần khẳng định rằng,
chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong giai đoạn hiện nay là cần thiết và phù hợp về
phương diện lý luận và thực tiễn. Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng
học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin, vì vậy việc xác lập chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất và chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là phù hợp về phương diện lý luận. Đồng
thời, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, tất yếu đòi hỏi phải dựa trên
nền tảng của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
Với chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước là đại diện của chủ sở hữu nên có đầy
đủ các quyền của chủ sở hữu đó là: Quyền chiếm hữu đất đai, quyền sử dụng đất đai và
43
quyền định đoạt đất đai.
Tại Điều 19 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ,
tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa, các xí nghiệp công
nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp quốc doanh; ngân hàng và
tổ chức bảo hiểm; công trình phục vụ lợi ích công cộng; hệ thống đường sắt, đường bộ,
đường sông, đường biển, đường không; đê điều và công trình thuỷ lợi quan trọng; cơ sở
phục vụ quốc phòng; hệ thống thông tin liên lạc, phát thanh, truyền hình, điện ảnh; cơ
sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, cơ sở văn hoá và xã hội cùng các tài sản khác mà pháp
luật quy định là của Nhà nước - đều thuộc sở hữu toàn dân” [18]. Điều 27 của Hiến pháp
năm 1980 chỉ quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng trong những
trường hợp được phép lao động riêng lẻ. Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của
công dân” [18]. Nhà nước không thừa nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân và các thành
phần kinh tế tương ứng. Hiến pháp quy định cá nhân, hộ gia đình không có quyền sở
hữu về đất đai nhưng có quyền sử dụng khai thác đất đai, có quyền chuyển nhượng tài
sản trên đất. Nếu trên đất không có tài sản thì không có quyền chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, kể cả việc thừa kế quyền sử dụng đất.
Điều 15 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước thực hiện nhất quán chính
sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là
nền tảng” [19] và Điều 17 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ,
nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời,
phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành
và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh
cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn
dân” [19]. Tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền sở hữu về
thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài
sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà
nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18. Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân” [19]. Như vậy, phạm vi quyền sở hữu
của công dân được mở rộng, nhất là quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất, điều mà Hiến
pháp năm 1980 đã không thừa nhận.
44
Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên
khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản
do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý” [21]. Như vậy, đất đai thuộc sở hữu toàn dân một lần
nữa được khẳng định trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất đó là Hiến pháp năm
2013. Trong chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và quá trình phát triển kinh tế thị trường,
chủ thể sở hữu đất đai luôn luôn tách rời khỏi người sử dụng đất. Nhà nước là đại diện
chủ sở hữu, cố gắng duy trì quyền sở hữu của mình bằng cách can thiệp vào quá trình
sử dụng, định đoạt đất đai. Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản
xuất đặc biệt, nguồn sống của người dân, tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước. Khẳng
định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất
quản lý”, đồng thời tại Điều 54 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai là tài nguyên
đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp
luật. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng
đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa
vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ” [21]. Các chủ thể
khi có quyền sử dụng đất, thì quyền đó cũng được coi như là một loại tài sản, hàng hóa
đặc biệt, được phép chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế.
Đối với đất nông nghiệp, gắn liền với nó là đối tượng nông dân - tầng lớp đông
đảo ở nước ta hiện nay, nguồn lợi sinh sống của họ chủ yếu dựa vào nguồn lực đất đai,
xử lý mối quan hệ về đất trong nông nghiệp không chỉ là quan hệ về kinh tế, mà còn là
biểu hiện mối quan hệ về chính trị giữa Nhà nước với nông dân, mối liên minh công -
nông. Nông dân là chủ thể thực tế của ruộng đất ở nông thôn, là những người đang khai
thác, sử dụng và tiếp tục làm giàu nguồn tài nguyên đất đai quý hiếm. Việc thu hồi đất
nông nghiệp của người dân để phát triển kinh tế - xã hội cần thực hiện những biện pháp
đồng bộ bảo đảm cho quá trình thay đổi sinh kế của họ diễn ra thuận lợi, đời sống của
họ phải tốt hơn sau khi bị thu hồi đất đất.
2.2.1.2. Sự tác động, chi phối của chế độ sở hữu đất đai đối với chế định thu hồi
đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Ở Việt Nam, chế độ sở hữu đất đai mang tính đặc thù: Đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước đại diện cho chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước đại diện chủ
sở hữu toàn dân nên có đầy đủ ba quyền: Chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đất đai.
Trong quyền định đoạt về đất đai có quyền thu hồi đất nông nghiệp đã giao cho các tổ
chức cá nhân sử dụng. Nếu đất đai thuộc sở hữu tư nhân thì Nhà nước không được quyền
45
thu hồi đất mà phải mua lại đất của các cá nhân tổ chức đang sử dụng theo nguyên tắc
thuận mua vừa bán và đương nhiên nếu người sử dụng đất không đồng ý thì Nhà nước
cũng không được quyền mua hoặc rất khó khăn trong việc mua lại đất để phục vụ mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội hay mục đích quốc phòng. Như vậy, sẽ dẫn đến quá trình
tích tụ đất đai - tư liệu sản xuất quan trọng nhất của người nông dân sẽ vào tay các nhà
tài phiệt, bản chất nhà nước ta cũng sẽ thay đổi. Chỉ khi đất đai thuộc sở hữu toàn dân
thì Nhà nước mới có quyền thu hồi. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai tác động đến nội
dung các quy định của pháp LĐĐ khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội nói riêng thể hiện:
Nhà nước chỉ thu hồi đất nông nghiệp của cá nhân, tổ chức trong trường hợp thật
sự cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, vì mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội....Trong những trường hợp này khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
thì bắt buộc các chủ thể đang sử dụng phải giao lại QSDĐ. Ở đây Nhà nước thu hồi chứ
không phải mua lại đất của các chủ sở hữu đất như ở các nước có chế độ sở hữu tư nhân
về đất đai. Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội thì Nhà
nước sẽ tiến hành theo trình tự, thủ tục được quy định trong LĐĐ hiện hành và các văn
bản hướng dẫn có liên quan.
Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của cá nhân, hộ gia đình, tổ chức đang sử
dụng để phát triển kinh tế - xã hội phải tiến hành theo đúng thẩm quyền. Ở đây khi thu
hồi đất nông nghiệp Nhà nước đã ủy quyền cho các cơ quan Nhà nước cụ thể được quyền
thay Nhà nước thu hồi đất. Không một tổ chức, cá nhân hay doanh nghiệp nào được
quyền thu hồi đất của người nông dân vì họ không phải là chủ sở hữu của đất đai mà chỉ
có Nhà nước mới có quyền này vì đất đai thuộc sở hữ toàn dân do Nhà nước thống nhất
quản lý và đại diện cho chủ sở hữu.
Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội thì Nhà nước
sẽ tiến hành bồi thường cho chủ thể đang sử dụng đất. Vì trong ba quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt đất đai Nhà nước giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng đất nông
nghiệp quyền quản lý ở phạm vi hẹp và quyền sử dụng. Tại Điều 115 BLDS năm 2015
cũng quy định quyền sử dụng đất là tài sản của người sử dụng: “Quyền tài sản là quyền
trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác” [23], nên khi thu hồi thì Nhà nước phải
bồi thường và hỗ trợ. Tuy nhiên, việc bồi thường quyền sử dụng đất hiện nay tính theo
giá đất do Nhà nước quy định tại thời điểm thu hồi mà không tính theo giá thị trường
46
bất động sản. Đây là thiệt thòi và cũng là nguyên nhân dẫn đến việc khiếu kiện tập thể,
kéo dài gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Không phải trường hợp nào khi thu hồi đất nông nghiệp cũng được bồi thường,
hỗ trợ mà chỉ những trường hợp được Nhà nước quy định trong luật thì mới được bồi
thường. Điều này cũng xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Nhà nước là chủ
sở hữu, khi giao đất cho các cá nhân tổ chức mà sử dụng không đúng mục đích, không
đúng quy định của nhà nước thì Nhà nước có quyền thu hồi và đương nhiên là không
bồi thường như các trường hợp vi phạm pháp LĐĐ...Hoặc nếu đất đai thuộc sở hữu tư
nhân thì Nhà nước đều phải thỏa thuận với chủ sở hữu và đương nhiên phải bồi thường
theo giá thị trường.
2.2.2. Cơ cấu điều chỉnh pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội
Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội có liên quan đến nhiều chế
định pháp luật quy định về cơ sở pháp lý để thu hồi đất nông nghiệp, các nội dung đảm
bảo thẩm quyền của Nhà nước và quyền lợi của người có đất nông nghiệp bị thu hồi.
Các nội dung cần xem xét khi thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội gồm:
(i) Nhóm quy phạm quy định về căn cứ pháp lý để thu hồi đất nông nghiệp; (ii) Nhóm
quy định về quy hoạch, KHSDĐ nông nghiệp; (iii) Nhóm quy phạm quy định về thẩm
quyền thu hồi đất nông nghiệp; (iv) Nhóm quy phạm quy định về nội dung, trình tự, thủ
tục thu hồi đất nông nghiệp và (v) Nhóm quy phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
2.2.2.1. Căn cứ pháp lý để thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Pháp luật hiện hành cho phép UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện là cơ quan có
thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp. Theo đó, UBND cấp tỉnh hoặc UBND cấp huyện
có thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội được quy định tại
Điều 62 LĐĐ năm 2013. Quy định này nhằm xác định rõ phạm vi và giới hạn của việc
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội tuân theo quỹ đạo, trật tự chung,
trên cơ sở kế hoạch cụ thể đã được phân định nhằm đảm bảo sự cân đối, hài hòa về nhu
cầu sử dụng đất của các ngành, các lĩnh vực. Pháp luật quy định căn cứ thu hồi đất nông
nghiệp để làm cơ sở pháp lý, hạn chế tình trạng tùy tiện và lạm dụng khi thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế xã hội, ảnh hưởng đến quyền lợi của người sử dụng
đất nông nghiệp. Mặt khác, cũng đặt ra yêu cầu cho các nhà đầu tư cần phải đảm bảo đó
là dự án đúng tiến độ đã được phê duyệt. Quy định này nhằm phòng tránh tình trạng các
dự án treo, quy hoạch treo làm lãng phí tài nguyên.
47
2.2.2.2. Quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội
Tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 3 LĐĐ năm 2013 quy định: Quy hoạch sử dụng đất là
việc phân bổ và khoanh vùng đất đai theo không gian sử dụng cho các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí
hậu trên cơ sở tiềm năng đất đai và nhu cầu sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực đối với
từng vùng kinh tế - xã hội và đơn vị hành chính trong một khoảng thời gian xác định.
Kế hoạch sử dụng đất là việc phân chia quy hoạch sử dụng đất theo thời gian để
thực hiện trong kỳ quy hoạch sử dụng đất.
Quy hoạch sử dụng đất là ý chí của Nhà nước được xây dựng trên cơ sở khoa
học, là công cụ pháp lý trong việc quản lý đất đai, nhằm phục vụ mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội. Đây là cơ sở phát sinh việc xây dựng KHSDĐ nhằm cụ thể hóa việc
thực hiện quy hoạch sử dụng đất và phân kỳ sử dụng đất trong một khoản thời gian nhất
định.
Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội là việc triển khai thực hiện
quy hoạch, KHSDĐ của Nhà nước. Quy hoạch, KHSDĐ do Nhà nước xây dựng và tổ
chức triển khai thực hiện trên thực tế. Điều này đặt ra vấn đề là cần tăng cường vai trò
giám sát của nhân dân, của các cơ quan quyền lực nhà nước đó là Quốc hội và HĐND
các cấp để tránh trường hợp tùy tiện, lợi ích nhóm trong việc lập quy hoạch, KHSDĐ.
Muốn vậy, Quốc hội và HĐND các cấp phải thực hiện quyền lực của mình trong công
tác lập quy hoạch, KHSDĐ từ khâu tham gia xây dựng, xét duyệt cũng như giám sát cả
quá trình triển khai thực hiện cụ thể: Về nội dung, trình tự, thủ tục lập phê duyệt quy
hoạch, KHSDĐ; quyền tham gia của người sử dụng đất với vai trò vừa là chủ thể QSDĐ
vừa là đối tượng bị tác động bởi chính sách đất đai chính là điều kiện quan trọng để đảm
bảo quyền lợi của NSDĐ.
2.2.2.3. Quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -
xã hội
Đây cũng là nhóm quy phạm không thể thiếu nhằm xác định rõ vai trò, trách
nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong thu hồi đất. Ở một khía cạnh khác, quy phạm
quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để phá triển kinh tế - xã hội còn nhằm
xác định rõ giới hạn thẩm quyền của cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất trong từng
trường hợp cụ thể. Giới hạn này nhằm đảm bảo, hạn chế và phòng ngừa tình trạng tùy
tiện, lạm quyền khi thu hồi đất nông nghiệp ở các địa phương và các biểu hiện của lợi
48
ích cục bộ, lợi ích nhóm. Sự vượt quá giới hạn thẩm quyền trong thu hồi đất đều là trái
pháp luật và phải chịu các hình thức trách nhiệm pháp lý
2.2.2.4. Quy định về nội dung, trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội
Về quy phạm nội dung, các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp phải được xem
xét, xuất phát từ yêu cầu của lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng hay phát triển kinh tế,
để Nhà nước có cách ứng xử phù hợp: Áp dụng biện pháp hành chính hay bằng biện
pháp thỏa thuận. Khi chưa xác định ranh giới giữa lợi ích công, tư hay đan xen cả lợi
ích công và tư một cách cụ thể thì sẽ dẫn đến phiến diện trong đánh giá và vai trò của
Nhà nước với tư cách người đại diện cho quyền lợi của nhân dân sẽ không còn thể hiện
tính khách quan, dễ bị lợi ích nhóm chi phối.
Về quy phạm hình thức, tức là những thủ tục được quy định khi tiến hành thu hồi
đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội, cách thức để thực hiện thẩm quyền của
từng cơ quan Nhà nước, cũng như cá nhân được trao quyền và trách nhiệm của cả NSDĐ
đều phải tuân theo, nhằm đảm bảo cho các quy phạm nội dung được thực hiện có hiệu
lực và hiệu quả theo yêu cầu đặt ra. Đây cũng chính là điều kiện để bảo đảm mở rộng
dân chủ và thể hiện tính công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước. Mọi
hoạt động, hành vi của cán bộ quản lý nhà nước về đất đai, của người có đất nông nghiệp
bị thu hồi, của chủ đầu tư và các chủ thể khác có liên quan đều phải tuân thủ theo quy
trình, thủ tục cụ thể. Theo đó, về phía các cơ quan nhà nước, các quy định về trình tự,
thủ tục mà Nhà nước phải thực hiện nhằm hướng tới đảm bảo tính minh bạch, dân chủ
và công khai về thu hồi đất, trên tinh thần tôn trọng và lấy dân làm gốc. Đảm bảo dân
được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra các công việc của Nhà nước liên quan đến
thu hồi đất. Quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất cũng giúp người dân nắm bắt được
những khâu, những công đoạn mà họ phải có trách nhiệm tham gia, phối hợp cùng với
nhà nước, nhà đầu tư trong việc thu hồi đất và giải phóng mặt bằng. Hơn thế, trình tự,
thủ tục thu hồi đất nông nghiệp còn là cơ sở, căn cứ để người dân kiểm tra, giám sát việc
thực thi pháp luật của nhà nước khi thu hồi đất. Trên thực tế, nhiều sai phạm và biểu
hiện của sự tùy tiện đã được phát hiện cũng chính từ một trong những lý do vi phạm quy
trình, thủ tục thu hồi đất.
2.2.2.5. Quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội
Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là một trong những nội
dung hết sức quan trọng, liên quan trực tiếp đến công tác thu hồi đất nông nghiệp. Thực
49
tế cho thấy, thu hồi đất nông nghiệp nhanh hay chậm, diễn ra thuận lợi hay vướng mắc,
đồng thuận hay không đồng thuận giữa Nhà nước với người dân xuất phát từ vấn đề bồi
thường và hỗ trợ. Vì vậy, xây dựng các quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp cần hướng đến lợi ích giữa các bên khi tham gia quan hệ pháp
luật đất đai sẽ là nhân tố quan trọng trong việc góp phần ổn định xã hội.
Hiến pháp hiện hành nước ta đã khẳng định, QSDĐ được pháp luật bảo hộ và
việc thu hồi đất nông nghiệp phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy
định của pháp luật. Nhà nước sẽ có trách nhiệm bồi thường tài sản của NSDĐ như thế
nào khi thu hồi đất với cách tiếp cận là chia sẻ lợi ích, giải quyết mối quan hệ hài hòa
về lợi ích giữa: Nhà nước, nhà đầu tư và người bị thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội. Đây là nội dung vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn đó là:
(i) Hiệu quả kinh tế mà nhà đầu tư kỳ vọng đạt được sau khi thực hiện dự án được thể
hiện trong Báo cáo đầu tư khi đệ trình cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, và (ii)
Hiệu quả cả về kinh tế - xã hội của một cộng đồng dân cư nào đó được thụ hưởng khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội. Ví dụ như khi xây dựng
công trình thủy lợi để phục vụ cho việc phát triển vùng chuyên canh cây cà phê thì đời
sống người dân sẽ được cải thiện cả về kinh tế lẫn môi trường sống; hoặc phục vụ cho
vùng chuyên canh lúa. Điều này sẽ làm tăng hệ số sử dụng đất từ 1 vụ thành 2 vụ lúa
nước do chủ động tưới tiêu,…
Xác định được nội dung trên, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp phải đáp ứng quyền lợi của người bị thu hồi đất; quyền lợi của nhà nước
với tư cách là chủ sở hữu trong việc thực hiện quyền điều tiết phần giá trị tăng thêm từ
đất mà không do đầu tư của NSDĐ mang lại; và đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư khi
bỏ vốn thực hiện dự án; hay nói cách khác, các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
phải phản ảnh hài hòa lợi ích của các bên.
2.2.3. Các yếu tố tác động đến pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội
2.2.3.1. Quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng và hoàn thiện
chính sách, pháp luật về đất đai nói chung và chính sách thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội nói riêng
Quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng là sự định hướng về mặt
chính trị cho hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước ta. Hay nói cách
khác đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam là kim chỉ nam cho mọi hoạt
động, đặc biệt vấn đề thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội được Đảng
50
ta quan tâm hàng đầu bởi sự ảnh hưởng, tác động, hệ quả của nó đối với xã hội. Trên cơ
sở đó Nhà nước thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng bằng các quy định của pháp
luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong từng lĩnh vực cụ thể trong đó có lĩnh vực đất
đại. Ngay từ Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 12 tháng 3 năm 2003 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp LĐĐ trong thời kỳ đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại đã nhấn mạnh:
Thứ nhất, chính sách đất đai phải đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu
tư và người bị thu hồi đất, trong đó chú trọng đúng mức lợi ích của nhà nước, của xã
hội.
Thứ hai, cần thực hiện tổng hợp các biện pháp phát triển ngành nghề, đào tạo
chuyển đổi nghề nghiệp, đổi mới cơ chế sản xuất nông nghiệp và những biện pháp hỗ
trợ khác để giải quyết cơ bản việc làm và thu nhập cho người nông dân có đất bị thu hồi
để sử dụng vào mục đích công cộng và phát triển kinh tế.
Thứ ba, khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình và cá nhân đang
sử dụng hợp pháp để phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng và phát triển kinh tế, Nhà nước phải thực hiện chế độ hỗ trợ phù hợp.
Như vậy, Đảng và nhà nước luôn quan tâm đến việc xây dựng chính sách, pháp
luật trong lĩnh vực đất đai để làm tiền đề cho việc phát triển kinh tế - xã hội, đi đôi với
việc bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo cuộc sống cho người dân. Nên quan
điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng tác động, chi phối các quy định của
chính sách và LĐĐ về thu hồi đất nông nghiệp.
2.2.3.2. Tính thống nhất, đồng bộ và ổn định của hệ thống pháp luật đất đai
Hệ thống pháp luật về đất đai phải mang tính thống nhất, đồng bộ và ổn định là
yếu tố quan trọng tác động đến việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã
hội. LĐĐ phải thống nhất áp dụng trong cả nước, tránh trường hợp mỗi địa phương áp
dụng mỗi kiểu sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân có đất nông
nghiệp bị thu hồi. Tất cả các văn bản hướng dẫn thi hành LĐĐ phải đảm bảo phù hợp,
với LĐĐ năm 2013 cũng như Hiến pháp năm 2013. Một số quy định trong LĐĐ năm
2013 mâu thuẫn hoặc không cụ thể nên khó khăn trong việc áp dụng. Đồng thời tính ổn
định của pháp LĐĐ cũng tác động rất lớn đến việc thu hồi đất. Thực tế khoảng 10 năm
lại phải ban hành LĐĐ mới cho phù hợp với thực tiễn xã hội như LĐĐ năm 1993, LĐĐ
năm 2003 và LĐĐ năm 2013. Điều này ảnh hưởng đến chế độ, chính sách khi thu hồi
đất nông nghiệp.
51
2.2.3.3. Cơ chế quản lý kinh tế và hội nhập quốc tế
Thứ nhất, cơ chế quản lý kinh tế: Trong nền kinh tế kế hoạch hóa, cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp thì đất đai không được coi là tài sản và đương nhiên không được
phép trao đổi, mua bán hay chuyển nhượng. Tại Điều 19 Hiến pháp năm 1980 quy định
đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Việc trưng mua, trưng
dụng, trưng thu tài sản của cá nhân, tập thể được quy định tại Điều 28 Hiến pháp năm
1980 như sau: “Khi thật cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước có thể trưng mua, trưng
dụng hoặc trưng thu có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc của tập thể. Thể thức trưng
mua, trưng dụng, trưng thu do pháp luật quy định” [18]. Lúc này, ở nước ta chỉ còn thừa
nhận một hình thức sở hữu duy nhất đối với đất đai đó là sở hữu toàn dân. Nhìn chung,
trong giai đoạn này mặc dù thu hồi đất nông nghiệp diễn ra ít chủ yếu là thu hồi đất sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp đang giao cho các hợp tác xã để xây dựng các công trình
thủy lợi, giao thông nông thôn và không phải bồi thường nhiều, chủ yếu bồi hoàn thành
quả lao động, hoa lợi và tài sản trên đất nhưng việc thu hồi đất có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong nền kinh tế kế hoạch hóa,
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Khi nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường với nhiều thành phần
kinh tế khác nhau cùng tham gia thì cơ chế quản lý kinh tế cũng thay đổi. Các thành
phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, quyền tự do kinh doanh của công dân được
pháp luật công nhận và bảo hộ… . . Nhà nước thừa nhận đất đai là một loại hàng hóa
đặc biệt và được trao đổi trên thị trường, thừa nhận khung giá đất... đất đai ngày càng
trở nên có giá. Tại Điều 23 Hiến pháp năm 1992 quy định “Tài sản hợp pháp của cá
nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi
thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua,
trưng dụng do luật định” [19]. Ngoài việc thu hồi đất phục vụ mục tiêu xây dựng cơ bản
thì Nhà nước còn thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội.
Bản thân đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng, có liên quan đến hầu hết
các hoạt động sản xuất kinh doanh nên đất đai phải được lưu chuyển linh hoạt, thường
xuyên theo nhu cầu xã hội. Thu hồi đất nông nghiệp chính là một công cụ đặc biệt có
thể giúp Nhà nước thực hiện điều này. Muốn vậy, các quy định về thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội phải thực sự phù hợp. Thu hồi đất phải được xem
là một loại “giao dịch”. Trong điều kiện kinh tế thị trường, nếu việc chuyển giao đất từ
Nhà nước đến NSDĐ là một “giao dịch” thì việc thu hồi đất nông nghiêp để phát triển
52
kinh tế - xã hội cũng phải được coi là “giao dịch” tương tự. Rõ ràng, trong trường hợp
Nhà nước giao đất, cho thuê đất, việc chuyển giao QSDĐ xuất phát từ nhu cầu của
NSDĐ; còn ở trường hợp Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất, việc dịch chuyển QSDĐ lại xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước. Nếu
như trong mối quan hệ thứ nhất NSDĐ phải trả tiền (tiền sử dụng đất, tiền thuê đất) cho
Nhà nước thì trong mối quan hệ thứ hai, Nhà nước phải trả tiền (bồi thường) cho NSDĐ
(người bị thu hồi đất). Từ đây có thể khẳng định, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội là một quan hệ của thị trường bất động sản. Vì thế, để đảm bảo tính thị
trường của quan hệ đất đai, quyền và lợi ích của người bị thu hồi đất nông nghiệp và của
các chủ thể có liên quan cần phải được đảm bảo một cách “sòng phẳng”. Yêu cầu nêu
trên, đến nay, vẫn chưa được pháp luật đất đai giải quyết một cách thỏa đáng bởi các lý
do: Cơ chế xác định giá đất chưa hợp lý; trách nhiệm bồi thường chưa được quy định
phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, việc thu hồi đất gặp nhiều khó khăn do người bị thu hồi
đất không đồng thuận với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, vượt cấp, phức tạp, tiềm ẩn
nguy cơ bất ổn xã hội, sẽ ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nông dân. Để duy
trì sự ổn định tình hình kinh tế - xã hội và phát triển đất nước, đảm bảo quyền và lợi ích
của người có đất nông nghiệp bị thu hồi, Nhà nước cần ban hành các quy định về bồi
thường, hỗ trợ để giải quyết vấn đề này. Đây chính là vấn đề mang tính thời sự và phức
tạp, vì vậy pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội phải được
thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu quản lý đất đai
trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, quá trình hội nhập quốc tế: Khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại
thế giới, chúng ta phải cam kết và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc, quy định của tổ
chức này đó là: Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong kinh doanh; nguyên
tắc công khai minh bạch; cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, thống nhất
thủ tục cho cả nhà đầu tư trong và ngoài nước khi thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu
tư, giá đất trong quá trình bồi thường, giải tỏa.....là những nội dung được sửa đổi bổ
sung vào các quy định của LĐĐ hiện hành cho thống nhất và phù hợp với thực tế của
các nước trong khu vực và trên thế giới. Ở một số nước vấn đề giải phóng mặt bằng
được thực hiện nhanh chóng, ít xảy ra khiếu kiện, phản đối từ người dân là do chính
sách bồi thường, hỗ trợ hợp lý kịp thời, đảm bảo quyền lợi cho người có đất bị thu hồi -
Đây là bài học quý giá cho Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2.3.4. Công tác quy hoạch sử dụng đất của địa phương
53
Quy hoạch sử dụng đất đai có ý nghĩa hết sức quan trọng để phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước cũng như của vùng, địa phương. Quy hoạch sử dụng đất đai là căn
cứ quan trọng của KHSDĐ hàng năm, trên cơ sở đó để thực hiện và vạch ra các kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của vùng hay địa phương. Quy hoạch sử dụng
đất đai sẽ hạn chế được tình trạng sử dụng đất tự phát không theo quy hoạch, gây nên
những hậu quả lãng phí về sức người sức của. Quy hoạch sử dụng đất đai tạo ra sự ổn
định về mặt pháp lý cho việc quản lý Nhà nước về đất đai, làm cơ sở cho việc giao đất,
cho thuê đất, thu hồi đất, đầu tư phát triển kinh tế xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và thực hiện nhiệm vụ công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp và công tác thu
hồi đất nông nghiệp, bồi thường, hỗ trợ có tác động qua lại lẫn nhau. Nếu công tác quy
hoạch hiệu quả, chính xác thì sẽ hạn tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thu hồi, bồi
thường, hỗ trợ và ngược lại.
2.2.3.5. Yếu tố giá đất và công tác định giá
Tại Khoản 19 Điều 3 LĐĐ năm 2013 quy định: “Giá đất là số tiền tính trên một
đơn vị diện tích đất” [27] do Nhà nước quy định hoặc được hình thành trong giao dịch
về quyền sử dụng đất. Giá đất là căn cứ quan trọng để tính giá bồi thường về đất cho
người bị thu hồi đất. Giá đất hợp lý đảm bảo cho việc bồi thường được chính xác, thuận
lợi và ngược lại. Trên thực tế, rất khó để xác định giá đất hợp lý bởi người dân luôn
muốn đất của mình có giá cao, còn giá bồi thường, hỗ trợ do Nhà nước quy định thường
thấp hơn so với giá thị trường. Mâu thuẫn về lợi ích (giá đất) ảnh hưởng lớn đến công
tác thu hồi đất nông nghiệp, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, là nguyên nhân
chủ yếu làm nảy sinh khiếu nại, khiếu kiện khi thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội.
Định giá đất nông nghiệp được hiểu là xác định giá trị của đất nông nghiệp, gắn
với một mục đích nhất định tại một thời điểm cụ thể. Định giá đất nông nghiệp ảnh
hưởng trực tiếp đến công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội. Để việc bồi thường được chính xác thì đòi hỏi công tác định giá
đất nông nghiệp phải chính xác, phù hợp với thực tế. LĐĐ năm 2013 quy định, trên cơ
sở khung giá đất do Chính phủ ban hành và bảng giá đất do UBND tỉnh ban hành định
kỳ 05 năm một lần, việc xác định giá đất cụ thể phải dựa trên cơ sở điều tra, thu thập
thông tin về thửa đất, giá đất thị trường và thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu đất
đai; áp dụng phương pháp định giá đất phù hợp. Căn cứ kết quả tư vấn xác định giá đất,
cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh trình Hội đồng thẩm định giá đất xem xét trước khi trình
54
UBND cùng cấp quyết định. Tuy vậy, việc xác định giá đất nông nghiệp thường không
phản ánh được giá trị thực tế của đất đai nên gây khó khăn cho quá trình bồi thường, hỗ
trợ của Nhà nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác thu hồi đất nông nghiệp. Vấn
đề đặt ra là phải có cơ chế phù hợp và thực thi nghiêm túc để người bị thu hồi đất nông
nghiệp không bị mất mát, tổn thương và đồng thuận với phương án bồi thường.
2.2.3.6. Phong tục, tập quán, trình độ dân trí, lợi ích, đạo đức cán bộ công chức
Tiếp cận đất đai luôn đòi hỏi sự nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề văn hóa,
xã hội, vì chính các yếu tố tự nhiên tạo ra sự khác biệt trong đời sống của con người, tạo
nên bản sắc riêng của từng dân tộc. Khi Nhà nước thu hồi đất, nhiều trường hợp người
nông dân có đất nông nghiệp bị thu hồi phải di chuyển đến nơi ở mới, vùng canh tác
mới để lập nghiệp điều này đồng nghĩa với việc thay đổi đặc tính, cách thức canh tác
cũng như phương thức sản xuất. Vì vậy, việc nghiên cứu phong tục, tập quán, văn hóa
là yếu tố không thể thiếu để ban hành chính sách hỗ trợ cho phù hợp với từng vùng, từng
địa bàn sinh sống, thành phần dân tộc để chuyển đổi nghề nghiệp, học nghề cho phù hợp
với người nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp là cần thiết. Có nhiều trường hợp phong
tục, tập quán của các dân tộc còn là nguồn của pháp luật, được Nhà nước thể chế hóa
thành các quy định cụ thể nếu nó phù hợp với pháp luật Việt Nam.
Trình độ dân trí, yếu tố lợi ích, đạo đức cán bộ công chức cũng chi phối tác động
đến pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội. Khi trình độ học
vấn của đại đa số người dân nói chung và người nông dân được nâng cao thì sự hiểu biết
về chính sách, pháp luật của Nhà nước về đất đai càng rõ ràng và đương nhiên điều này
sẽ tác động đến việc ban hành các quy phạm pháp luật về đất đai khi nhà nước lấy ý kiến
của người dân về dự thảo LĐĐ. Họ hiểu rõ mình đang cần gì và nghĩa vụ của họ khi
Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế- xã hội. Yếu tố lợi ích, đạo đức cán bộ, công
chức và cũng tác động rất lớn đến chính sách, LĐĐ. Nếu cán bộ chỉ nghĩ đến lợi ích
nhóm, lợi ích cá nhân trong công tác quy hoạch, giải tỏa bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất thì sẽ dẫn đến khiếu kiện, khiếu nại kéo dài, gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Ngược lại cán bộ, công chức có đức, có tâm, có tầm nhìn, vì lợi ích chung, lợi ích của
Nhà nước, lợi ích quốc gia thì công tác quy hoạch, thu hồi, giải tỏa, bồi thường, hỗ trợ
sẽ khách quan, phù hợp với đại đai số người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi.
2.3. Pháp luật thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xa hội ở một
sô nước trên thế giới va những gợi mở cho Việt Nam
2.3.1. Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội của Nga
Thứ nhất về các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -xã hội
55
Tại Điều 49 Bộ LĐĐ Liên bang Nga ngày 03/8/2013 quy định việc thu hồi đất
(trưng mua) do nhu cầu của bang, thành phố hoặc Liên bang được thực hiện trong các
trường hợp sau: “(i) Việc thực hiện các Điều ước quốc tế của Liên bang Nga; (ii) Xây
dựng, tái thiết các đối tượng có ý nghĩa của nhà nước (đối tượng tầm quan trọng của
liêng bang, đối tượng tầm quan trọng của khu vực) hoặc các đối tượng có tầm quan trọng
của địa phương trong trường hợp không có các lựa chọn xây dựng khác, xây dựng lại
các cơ sở này như: Các đối tượng của các hệ thống năng lượng liên bang và các đối
tượng của các hệ thống năng lượng có tầm quan trọng khu vực; Đối tượng sử dụng năng
lượng nguyên tử; Các đối tượng của quốc phòng và an ninh quốc gia, bao gồm các cơ
sở kỹ thuật, đường truyền thông và truyền thông được dựng lên vì lợi ích của việc bảo
vệ và bảo vệ biên giới tiểu bang của Liên bang Nga; Các đối tượng của giao thông liên
bang, phương tiện truyền thông có ý nghĩa liên bang, cũng như phương tiện vận tải,
phương tiện truyền thông có ý nghĩa khu vực, cơ sở hạ tầng giao thông đường sắt công
cộng; Đối tượng cung cấp các hoạt động không gian; Đối tượng tuyến tính có ý nghĩa
liên bang và khu vực đảm bảo hoạt động của các đối tượng độc quyền tự nhiên; Đối
tượng của hệ thống cung cấp điện và khí đốt, đối tượng của hệ thống cung cấp nhiệt, đối
tượng của hệ thống cấp nước nóng, cung cấp nước lạnh và thoát nước có ý nghĩa liên
bang, khu vực hoặc địa phương; Đường cơ giới của liên bang, khu vực hoặc
intermunicipal, ý nghĩa địa phương; (iii) Các căn cứ khác theo quy định của pháp luật
liên bang” [65].
Thứ hai, về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp: Chính quyền xã (khu dân cư
nông thôn) có quyền thu hồi đất nhưng phải đúng theo quy hoạch của địa phương; Chính
quyền thành phố có quyền thu hồi đất trừ đất dành cho việc phát triển kinh tế nông thôn,
đất xây dựng các công trình Liên bang, Các vùng, khu hoặc giữa các vùng với nhau;
chính quyền cấp huyện cũng tương tự chính quyền thành phố; chính quyền cấp tỉnh, các
khu vùng, các đơn vị tự trị có quyền thu hồi đất nhưng phải có sự đồng ý của chính
quyền cấp dưới.
Thứ ba, về trình tự thủ tục thu hồi đất nông nghiệp: Quá trình thu hồi đất nông
nghiệp phục vụ cho nhu cầu của nhà nước và địa phương (cơ chế chiếm giữ đất đai bắt
buộc để sử dụng vào mục đích công cộng khi đã giải quyết bồi thường cho người mất
đất) được quy định tại Điều 50 gồm: (i) Chuẩn bị và ban hành quyết định thu hồi đất;
(ii) Thông báo cho chủ sở hữu, nắm giữ, sử dụng hay thuê khu đất về vấn đề thu hồi đất;
(iii) Đăng kí nhà nước cho quyết định về thu hồi khu đất; (iv) Kí kết thỏa thuận với chủ
sở hữu hoặc người nắm giữ những quyền khác đối với khu đất sẽ thu hồi (từ 1-3 tháng);
56
(v) Đệ đơn lên tòa án về vấn đề thu hồi đất; (vi) Đăng kí nhà nước về chuyển nhượng
quyền sở hữu, chấm dứt quyền sử dụng vô thời hạn, sử dụng suốt đời theo thừa kế hoặc
thuê. Quá trình nhà nước chiếm giữ đất đai bắt buộc phải được thực hiện theo nguyên
tắc ngay thẳng, có lý, minh bạch, có trách nhiệm và có sự tham gia của cộng đồng. Ngoài
ra, một lô đất có thể bị tịch thu mà không phải bồi thường bởi quyết định của tòa án dưới
hình thức phạt vì phạm tội [65].
Thứ tư, về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất: Tại Điều 56.8 Bộ LĐĐ Liên bang
Nga năm 2013 quy định: Giá đất được xác định theo giá thị trường. Giá trị thị trường
của một thửa đất được thiết lập theo luật liên bang về các hoạt động định giá. Khi thực
hiện trưng mua đất nông nghiệp của chủ sở hữu, chính quyền Liên bang phải tiến hành
thỏa thuận với chủ sở hữu đất đai. Thỏa thuận này bao gồm một cam kết của chính quyền
Liên bang với chủ đất. Giá trưng mua bao gồm giá thị trường của đất và những tài sản
trên đất, cũng như tất cả các thiệt hại của chủ sở hữu khi bị trưng mua đất như: các thiệt
hại liên quan đến việc chấm dứt sớm nghĩa vụ của mình cho bên thứ ba và các khoản lợi
nhuận bị mất. Nếu chủ sở hữu đất không đồng ý với thỏa thuận của chính quyền liên
bang thì có quyền khởi kiện ra tòa án để yêu cầu được bồi thường. Số tiền bồi thường
được xác định tương ứng với giá thị trường của khu đất. Bên cạnh khoản bồi thường
tính theo diện tích của khu đất, chủ sở hữu cũ của khu đất còn có quyền được hưởng số
tiền cho: Hoa màu trên đất. Ngoài ra thay vì nhận tiền bồi thường chủ sở hữu có thể
chọn khu đất hoặc căn hộ chung cư có giá trị tương đồng. Nếu giá trị của bất động sản
mới có giá trị cao hơn thì chủ sở hữu phải trả thêm tiền. Khoản bồi thường được xác
định không muộn quá 60 ngày trước khi gửi đến chủ sở hữu bản thỏa thuận về thu hồi
đất [65].
2.3.2. Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội của
Hàn Quốc
Đạo Luật về Mua lại và Bồi thường đất cho các dự án công ích sửa đổi ngày 26
tháng 12 năm 2017 gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, về các trường hợp nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh
tế - xã hội: Thu hồi đất để phục vụ mục đích quốc phòng - an ninh; dự án đường sắt,
đường bộ, sân bay, đập nước thủy điện, thủy lợi; dự án xây dựng trụ sở cơ quan nhà
nước, nhà máy điện, viện nghiên cứu; dự án xây dựng trường học, thư viện, bảo tàng;
dự án xây dựng nhà, xây dựng cơ sở hạ tầng trong khu đô thị mới, khu nhà ở để cho thuê
hoặc chuyển nhượng.
57
Thứ hai, về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội: Tổ
chức Nhà ở Quốc gia (một tổ chức xã hội hoạt động như một nhà đầu tư độc lập) được
phép thu hồi đất theo quy hoạch để thực hiện các dự án xây nhà ở, cơ sở hạ tầng, các dự
án phục vụ công trình công cộng.
Thứ ba, về trình tự thủ tục thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế-xã hội:
Quy trình thu hồi đất (mua lại đất) được quy định tại Điều 22 Đạo Luật về Mua lại và
Đền bù đất đai cho dịch vụ công ngày 26 tháng 12 năm 2017 bao gồm các bước: Bộ
trưởng có trách nhiệm gửi công văn chính thức mời người có đất tới thảo luận về việc
bán đất cho nhà nước; khi thảo luận không có kết quả thì cơ chế chiếm giữ đất đai bắt
buộc bắt đầu được vận hành bằng việc công bố chính thức việc Nhà nước sử dụng đất
đó vào mục đích công cộng trên Công báo của Chính quyền, đất đó bắt đầu thuộc quyền
của Tổ quốc, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền mua lại đất; chủ đất cũ bắt đầu
thực hiện thủ tục đòi bồi thường về đất và tiến hành bồi thường; chủ đất nếu không đồng
ý với mức bồi thường được đưa ra thì có thể đưa lên tổ chức Trọng tài hoặc Tòa án để
giải quyết.
Thứ tư, về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp:
Về nguyên tắc bồi thường: (i) việc bồi thường khi mua lại đất do chủ dự án thực
hiện; (ii) việc bồi thường cho chủ đất và những người có liên quan khi mua lại đất phải
thực hiện trước khi triển khai dự án; (iii) việc bồi thường khi mua đất nông nghiệp được
trả bằng tiền mặt, bằng hình thức đất hoặc nhà ở xã hội hoặc trả bằng trái phiếu do chủ
dự án phát hành và được tiến hành đối với từng cá nhân có đất nông nghiệp bị mua lại;
(iv) việc bồi thường tiến hành theo phương thức bồi thường trọn gói.
Về phương thức bồi thường: Việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp được thực hiện theo phương thức tham vấn và cưỡng chế.
Phương thức tham vấn: Phương pháp này được thực hiện thông qua các cơ quan
công quyền thỏa thuận với người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi về phương án, cách
thức bồi thường theo trình tự sau: Thu thập, chuẩn bị các quy định của pháp luật về tài
sản và đất đai có liên quan đến việc Nhà nước thu hồi đất; xây dựng và công bố phương
án bồi thường; thành lập Hội đồng bồi thường; yêu cầu tham vấn bồi thường; hoàn tất
hợp đồng bồi thường. Quá trình thỏa thuận giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với
người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi thất bại nghĩa là không đạt được sự thỏa thuận
giữa hai bên thì Nhà nước sẽ thực hiện phương pháp cưỡng chế để thu hồi đất.
Phương thức cưỡng chế: Được áp dụng trong trường hợp phương thức tham vấn
thất bại. Tức là mọi thỏa thuận đều không đi đến thống nhất và đương nhiên người dân
có đất nông nghiệp bị thu hồi không chịu giao đất cho Nhà nước. Lúc này, Nhà nước sẽ
58
áp dụng phương pháp cưỡng chế để thu hồi đất nông nghiệp. Thực tế “ở Hàn Quốc chỉ
có 15% các trường hợp Nhà nước thu hồi đất phải áp dụng biện pháp cưỡng chế còn
85% áp dụng thành công phương pháp tham vấn trong quá trình thu hồi đất” [78].
Về giá bồi thường: Được xác định ít nhất bởi hai cơ quan định giá đất, có thể là
công ty cổ phần có chức năng tư vấn về giá đất hoặc tổ chức tư vấn về giá đất hoạt động
độc lập mà không phải là cơ quan Nhà nước. Trong trường hợp, người có đất nông
nghiệp bị thu hồi vẫn không đồng ý và yêu cầu xác định lại giá đất để bồi thường thì chủ
đầu tư sẽ thuê thêm một tổ chức tư vấn định giá thứ ba cùng định giá. Nếu lúc này giá
trị định giá cao nhất và thấp nhất chênh lệch 10% hoặc nhiều hơn, sẽ phải có chuyên gia
định giá khác thực hiện tiếp việc định giá, và từ đó, mức bồi thường sẽ được tính toán
cho tới khi đạt được sự đồng thuận cuối cùng giữa hai bên. Lúc này, giá đất được chọn
làm căn cứ để bồi thường là giá trung bình cộng của ba cơ quan cùng tham gia định giá.
Giá bồi thường của các đơn vị tư vấn được xác định theo giá thị trường.
Về bồi thường đất và tài sản trên đất nông nghiệp: Theo Đạo luật Công bố giá
bất động sản và Đánh giá thẩm định ngày 6 tháng 8 năm 2013 thì bồi thường đất nông
nghiệp dựa trên giá đất ở từng khu vực do Chính phủ công bố hằng năm. Lúc này, Tổ
chức định giá đất nông nghiệp được thuê làm tư vấn sẽ căn cứ vào khung giá đất ở khu
vực thực hiện dự án do Chính phủ quy định đồng thời xem xét các yếu tố như vị trí lô
đất, địa hình, thổ nhưỡng, môi trường xung quanh có ảnh hưởng đến giá trị lô đất, cũng
như tham chiếu thêm một hoặc hai mảnh đất khác so với mảnh đất cần định giá để tiến
hành định giá đất cho sát với thực tế.
Theo Đạo Luật về Mua lại và Bồi thường đất cho các dự án công ích ngày 26
tháng 12 năm 2017, thì tài sản trên đất nông nghiệp chủ yếu là cây trồng. Nếu khi mua
đất nông nghiệp mà chủ đất chưa thu hoạch hoa màu (do chưa đến thời điểm thu hoạch)
thì sẽ được bồi thường. Số tiền bồi thường của hoa màu dựa trên số hoa màu thực tế
được trồng tại thời điểm dự án được công bố. Khoản bồi thường này đủ để người nông
dân phục hồi lại sản xuất của mình và được tính trên cơ sở hai lần tổng thu nhập hằng
năm từ sản xuất nông nghiệp. Ngược lại, nếu hoa màu trên đất bị mua lại mà đã đến mùa
thu hoạch thì chủ đất phải thu hoạch số hoa màu này và sẽ không được bồi thường.
Ngoài ra còn bồi thường thiệt hại về thu nhập cho người lao động bị mất việc hoặc tạm
thời nghỉ việc do thu hồi đất gây ra. Quy định như vậy là hợp lý, phù hợp với thực tiễn
cuộc sống của người nông dân. Điều này khác với pháp Luật Việt Nam, chỉ bồi thường
giá trị của cây trồng vật nuôi trên đất theo khung giá hiện hành do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền quy định đó là UBND cấp tỉnh.
59
2.3.3. Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội của
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Theo Luật Quản lý đất đai Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sửa đổi năm 2014
quy định các nội dung sau:
Thứ nhất, về các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế-xã hội:
Theo Điều 8 Luật Quản lý đất đai thì Nhà nước trưng mua đất trong các trường hợp sau:
Quy định trưng mua nêu rõ các công trình phục vụ cho lợi ích công gồm quốc phòng và
ngoại giao; nhà nước xây dựng các công trình năng lượng, giao thông, bảo tồn tài nguyên
nước và công trình công cộng khác; nhà nước xây dựng các công trình khoa học, giáo
dục, văn hóa, y tế, thể thao, tài nguyên và môi trường, phòng ngừa thiên tai và phục hồi,
bảo tồn di tích văn hóa và các công trình dân sinh khác; nhà nước xây dựng nhà ở xã
hội; nhà nước xây dựng lại các tòa nhà đã xuống cấp đến mức nguy hiểm và các công
trình hạ tầng lạc hậu ở những địa bàn trước kia thuộc khu vực nông thôn theo yêu cầu
của Luật Quy hoạch Đô thị và Nông thôn; và các công trình công cộng khác theo quy
định của pháp luật [63].
Thứ hai, về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế-xã hội:
Quốc vụ viện (Chính phủ) và hệ thống chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương mới có thẩm quyền thu hồi đất. Chính phủ có thẩm quyền thu hồi đất nông
nghiệp từ 35 ha trở lên và đối với các loại đất khác là từ 70 ha trở lên. Dưới hạn mức
này việc thu hồi đất do chính quyền thành phố trực thuộc trung ương thực hiện. Ngoài
ra, công tác quản lý giải phóng mặt bằng sẽ được giao cho Cục Quản lý tài nguyên đất
đai tại các địa phương thực hiện.
Thứ ba, về trình tự thủ tục thu hồi đất nông nghiệp: Trình tự, thủ tục thu hồi đất
ở Trung Quốc bao gồm: Khảo sát về các điều kiện thu hồi đất (dân số nông nghiệp, đất
canh tác trên thu nhập đầu người, tổng sản lượng hàng năm, diện tích đất, loại đất và
vấn đề sở hữu của khu vực bị ảnh hưởng); Xây dựng dự thảo kế hoạch thu hồi đất; Cơ
quan quản lý đất đai báo cáo với chính quyền địa phương, trình kế hoạch thu hồi đất và
các tài liệu khác lên cấp cao hơn để kiểm tra, phê duyệt; Thông báo, công bố dự án sau
khi dự án được phê duyệt. Việc công bố phải được thực hiện kịp thời, cụ thể về kế hoạch
thu hồi và bồi thường. Chính quyền địa phương có trách nhiệm thông báo và giải thích
các vấn đề có liên quan. Sau ngày thông báo, các tài sản trong khu vực dự án sẽ không
được cải tạo, mở rộng.
Thứ tư, về bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp: Luật Quản lý đất đai Trung
Quốc sửa đổi năm 2014 quy định nguyên tắc bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp đó
là: Người nào sử dụng đất thì người đó có nghĩa vụ bồi thường. Khoản tiền bồi thường,
60
hỗ trợ cho người nông dân có đất nông nghiệp bị thu hồi phải đảm bảo cho họ có được
chỗ ở bằng hoặc cao hơn so với nơi ở cũ. Các khoản tiền mà người mà người sử dụng
đất phải trả cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi bao gồm: Tiền bồi thường về đất
nông nghiệp; tiền trợ cấp tái định cư; tiền bồi thường hoa màu trên đất. Cách tính tiền
bồi thường đất đai và tiền trợ cấp tái định cư căn cứ vào: Giá trị tổng sản lượng của đất
đai những năm trước đó rồi nhân với một hệ số do Nhà nước quy định. Còn tiền bồi
thường hoa màu và tài sản trên đất nông nghiệp thì xác định theo giá thị trường tại thời
điểm thu hồi đất. Ví dụ: Ở Bắc Kinh tiền bồi thường hoa màu được tính từ 6 - 10 lần sản
lượng trung bình của 3 năm trước đó cộng lại, tiền trợ cấp tái định cư bằng 4 - 6 lần sản
lượng bình quân của 3 năm trước đó, tuy nhiên tổng số tiền bồi thường hoa màu và trợ
cấp tái định cư này không được vượt quá 30 lần sản lượng bình quân của 3 năm trước
đó đối với thửa đất nông nghiệp bị thu hồi [93].
Bên cạnh đó, Nhà nước Trung Quốc cũng có chính sách hỗ trợ người nông dân
có đất nông nghiệp bị thu hồi giúp họ ổn định cuộc sống như: Đối với người già thì thực
hiện chế độ dưỡng lão: Đối với nam giới từ 50 tuổi trở lên và nữ giới từ 45 tuổi trở lên
được chi trả từ 90.000 - 110.000 nhân dân tệ/1 lần cho Cục Bảo hiểm xã hội và Cục Bảo
hiểm xã hội sẽ trả tiền dưỡng lão cho những người này; Đối với những người đang trong
độ tuổi lao động thì hỗ trợ cho họ từ 100.000 - 120.000 nhân dân tệ để họ tự tìm việc
làm mới [93].
2.3.4. Một số gợi mở cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện các quy
định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Từ việc nghiên cứu các mô hình, kinh nghiệm thu hồi đất nông nghiệp của các
nước trên thế giới có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm mang tính gợi mở cho Việt
Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp:
Thứ nhất, nên áp dụng nguyên tắc thu hồi đất như Trung Quốc, Hàn Quốc đó là:
Người nào sử dụng đất thì người đó có trách nhiệm chi trả tiền bồi thường cho người có
đất bị thu hồi. Quy định như vậy là công bằng và bình đẳng trong quá trình thu hồi đất,
thể hiện trách nhiệm của chủ đầu tư gắn với quyền lợi mà họ được hưởng khi sử dụng
đất đã được thu hồi. Các khoản bồi thường bao gồm: Lệ phí sử dụng đất phải nộp cho
ngân sách nhà nước và các khoản phải trả cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi. Các
khoản tiền mà người mà người sử dụng đất phải trả cho người có đất nông nghiệp bị thu
hồi bao gồm: Tiền bồi thường về đất nông nghiệp; tiền trợ cấp tái định cư; tiền bồi
thường hoa màu trên đất; tiền hỗ trợ người nông dân có đất nông nghiệp bị thu hồi giúp
họ ổn định cuộc sống. Cách tính tiền bồi thường đất đai và tiền trợ cấp tái định cư căn
cứ vào: Giá trị tổng sản lượng của đất đai những năm trước đó rồi nhân với một hệ số
61
do Nhà nước quy định. Còn tiền bồi thường hoa màu và tài sản trên đất nông nghiệp thì
xác định theo giá thị trường tại thời điểm thu hồi đất.
Thứ hai, nước ta cần xây dựng mô hình định giá đất phù hợp để thành lập cơ quan
định giá đất khoa học, chuyên nghiệp, hoàn toàn độc lập với cơ quan thu hồi đất để đảm
bảo tính khách quan trong việc bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp. Cơ quan định
giá đất phải bao gồm các chuyên gia đã được cấp chứng chỉ chuyên môn về định giá đất
để đảm bảo tính chính xác, khoa học góp phần bảo vệ quyền lợi của người có đất bị thu
hồi, đồng thời giảm thiểu khiếu kiện, khiếu nại khi nhà nước thu hồi đất. Về việc xác
định giá đất bồi thường, chi phí bồi thường được nhà nước Hàn Quốc chú trọng. Ví dụ:
Ở Hàn Quốc giá đất bồi thường do tổ chức tư vấn dịch vụ về định giá đất đưa ra chứ
không phải giá đất do nhà nước quy định như ở Việt Nam. Trong trường hợp người có
đất bị thu hồi không đồng ý và yêu cầu xác định lại giá đất để bồi thường thì chủ đầu tư
sẽ thuê thêm tổ chức tư vấn định giá cùng định giá. Nếu vẫn chênh lệch 10% giữa giá
cao nhất và thấp nhất thì sẽ mời chuyên gia khác định giá tiếp cho đến khi đạt được thỏa
thuận. Giá bồi thường là trung bình cộng của các cơ quan tham gia định giá và được tính
theo giá thị trường [63].
Thứ ba, cần đảm bảo quyền lợi của người có đất bị thu hồi: Ở Trung Quốc quy
định nguyên tắc chủ đạo trong việc thu hồi đất là phải đảm bảo cho người có đất bị thu
hồi có điều kiện tài chính ngang bằng với trạng thái cũ khi đất chưa bị thu hồi thậm chí
Trung Quốc còn quy định nơi ở mới phải bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Điều này hoàn
toàn hợp lý vì người có đất bị thu hồi sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc ổn định cuộc
sống như môi trường thay đổi, mất đất canh tác, khó tìm được việc làm phù hợp với
mình. Như Trung Quốc hỗ trợ cho người nông dân cao tuổi bị thu hồi đất nông nghiệp
mà không thể chuyển đổi ngành nghề đối với phụ nữ trên 45 tuổi và nam giới trên 50
tuổi từ 90.000 -110.000 nhân dân tệ/1 lần, còn đối với người trong độ tuổi lao động thì
hỗ trợ từ 100.000- 120.000 nhân dân tệ để họ tìm việc làm mới [63].
Thứ tư, Việt Nam cần áp dụng cả hai cơ chế thu hồi đất như ở Hàn Quốc đó là:
Cơ chế tham vấn (thỏa thuận) và cơ chế cưỡng chế thu hồi. Cơ chế tham vấn tạo sự đồng
thuận rất cao đối với người dân và giảm thiểu khiếu kiện, khiếu nại trong quá trình nhà
nước thu hồi đất. Ví dụ ở Hàn Quốc có đến 85% các trường hợp nhà nước thu hồi đất
bằng pháp pháp tham vấn và 15% thục hiện việc thu hồi đất theo phương pháp cưỡng
chế. Đây là kinh nghiệm quý báu gợi mở cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện cơ
chế thu hồi đất. Chúng ta nên ưu tiên áp dụng cơ chế tham vấn để tạo sự đồng thuận của
người dân và xã hội trong quá trình nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh
62
tế - xã hội và phục vụ các mục tiêu công cộng. Cơ chế cưỡng chế chỉ áp dụng trong
trường hợp cơ chế tham vấn không thể thực hiện được.
Kết luận chương 2
1. Đất nông nghiệp luôn là tư liệu sản xuất quan trọng nhất và không thể thay thế
của người nông dân, nó gắn chặt với đời sống của người nông dân và không thể tách rời.
Đất nông nghiệp vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của lao động. Đất nông
nghiệp giữ vai trò quan trọng vào việc ổn định an ninh lương thực của quốc gia. Tuy
nhiên, việc thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng là vấn đề tất yếu khách
quan trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế của đất nước. Với
đặc thù đất đai của nhà nước ta thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý
đã chi phối đến quan hệ quản lý, sử dụng đất nông nghiệp cũng như việc thu hồi đất.
Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế-xã hội phải điều tiết hài hòa
lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi để vừa giữ
vững ổn định chính tri, phát triển kinh tế - xã hội vừa đảm bảo đời sống của người nông
dân. Vì vậy, việc thu hồi đất, đất nông nghiệp đã được quy định trong văn bản có hiệu
lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp năm 2013 cũng như LĐĐ năm 2013 và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
2. Trong chương 2, nghiên cứu sinh đã làm rõ nội hàm những khái niệm cơ bản
như: Đất nông nghiệp; thu hồi đất nông nghiệp; thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội; bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội; tính tất yếu khách quan và hậu quả của việc thu hồi đất nông nghiệp;
các yếu tố tác động, chi phối đến các quy định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội; phân tích chế độ sở hữu đất đai và vấn đề tác động, chi
phối của nó đến việc thu hồi đất nông nghiệp; làm rõ cơ cấu điều chỉnh của pháp luật về
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội gồm: Căn cứ thu hồi đất nông
nghiệp, quy hoạch, KHSDĐ nông nghiệp, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thu hồi đất nông
nghiệp; bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -
xã hội.
63
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM
3.1. Căn cứ thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
3.1.1. Quy định của pháp luật
Sau 10 năm thực hiện LĐĐ năm 2003, những mâu thuẫn nảy sinh trong quan hệ
đất đai ngày càng trở nên gay gắt. Số lượng lớn các vụ khiếu nại, khiếu kiện với tính
chất ngày càng phức tạp liên quan đến đất đai nói chung và thu hồi đất, đất nông nghiệp
nói riêng đặt ra tính cấp thiết phải sửa đổi những hạn chế, bất cập của LĐĐ năm 2003.
LĐĐ năm 2013 với hy vọng về việc đổi mới và hoàn thiện pháp LĐĐ, trên cơ sở dung
hòa lợi ích giữa các nhóm chủ thể. Ở lần pháp điển hóa này, thu hồi đất đặc biệt được
quan tâm và được nhìn nhận như là một trong những vấn đề quan trọng nhất cần sửa
đổi.
Trước khi ban hành LĐĐ năm 2013, Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy định cụ
thể vấn đề thu hồi đất, căn cứ thu hồi đất. Điều 54 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà
nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do
luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy
định của pháp luật” [27]. Cụm từ “trong trường hợp thật cần thiết” nhấn mạnh việc thắt
chặt cơ sở pháp lý của việc thu hồi đất, nhằm giảm bớt tình trạng thu hồi đất tràn lan đã
diễn ra trong nhiều năm trở lại đây. Trên tinh thần đó của Hiến pháp, LĐĐ năm 2013 đã
có những sửa đổi khá mạnh mẽ so với LĐĐ năm 2003 trong quy định về thu hồi đất.
LĐĐ năm 2013 đã quy định chặt chẽ hơn về căn cứ thu hồi đất. Thay vì sử dụng các
cụm từ mang nghĩa chung như Khoản 1 Điều 38 LĐĐ năm 2003 “vì mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế” [26], LĐĐ năm
2013 đã quy định chi tiết bằng phương pháp liệt kê cụ thể trường hợp thu hồi đất vì mục
đích quốc phòng, an ninh và thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng. Đối với yếu tố “phát triển kinh tế - xã hội” là căn cứ dễ làm phát sinh mâu
thuẫn, tiêu cực trong thu hồi đất. Điều 62 LĐĐ năm 2013 quy định các trường hợp Nhà
nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng trong các
trường hợp sau đây:
64
Thứ nhất, thực hiện các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ
trương đầu tư mà phải thu hồi đất;
Thứ hai, thực hiện các dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu
tư mà phải thu hồi đất, bao gồm: (i) Dự án xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao, khu kinh tế; khu đô thị mới, dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA); (ii) Dự án xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; trụ sở của tổ chức nước ngoài có chức năng
ngoại giao; công trình di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng,
công viên, quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm, công trình sự nghiệp công cấp quốc
gia; (iii) Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật cấp quốc gia gồm giao thông, thủy lợi,
cấp nước, thoát nước, điện lực, thông tin liên lạc; hệ thống dẫn, chứa xăng dầu, khí đốt;
kho dự trữ quốc gia; công trình thu gom, xử lý chất thải;
Thứ ba, thực hiện các dự án do HĐND cấp tỉnh chấp thuận mà phải thu hồi đất
bao gồm: (i) Dự án xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội; công trình di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng,
công viên, quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm, công trình sự nghiệp công cấp địa
phương; (ii) Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật của địa phương gồm giao thông,
thủy lợi, cấp nước, thoát nước, điện lực, thông tin liên lạc, chiếu sáng đô thị; công trình
thu gom, xử lý chất thải; (iii) Dự án xây dựng công trình phục vụ sinh hoạt chung của
cộng đồng dân cư; dự án tái định cư, nhà ở cho sinh viên, nhà ở xã hội, nhà ở công vụ;
xây dựng công trình của cơ sở tôn giáo; khu văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí phục vụ
công cộng; chợ; nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng; (iv) Dự án xây dựng
khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn mới; chỉnh trang đô thị, khu dân cư nông thôn;
cụm công nghiệp; khu sản xuất, chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản, hải sản tập trung;
dự án phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; (v) Dự án khai thác khoáng sản được cơ
quan có thẩm quyền cấp phép, trừ trường hợp khai thác khoáng sản làm vật liệu xây
dựng thông thường, than bùn, khoáng sản tại các khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ
lẻ và khai thác tận thu khoáng sản.
Thứ tư, LĐĐ năm 2013 cũng quy định các trường hợp thu hồi đất khác đó là:
Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh (Điều 61); Thu hồi đất do vi
phạm pháp luật về đất đai (Điều 64); Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo
pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người (Điều 65).
Qua nghiên cứu căn cứ thu hồi đất quy định tại Điều 62 LĐĐ năm 2013 nghiên
cứu sinh rút ra một số nhận xét sau:
65
Một là, Điều 62 LĐĐ năm 2013 không đưa ra tiêu chí, khái niệm thế nào là thu
hồi đất vì mục đích kinh tế - xã hội mà chỉ liệt kê các trường hợp thu hồi đất vì mục đích
kinh tế - xã hội. Phương pháp liệt kê này đã hạn chế được tình trạng không rõ ràng trong
cách xác định trường hợp nào sử dụng đất vì mục đích phát triển kinh tế thuộc trường
hợp Nhà nước thu hồi và trường hợp nào chủ đầu tư phải tự thỏa thuận để nhận chuyển
nhượng, thuê quyền sử dụng đất hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất từ người
đang sử dụng. Ngoài các dự án đã được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, dự án
được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư, các trường hợp còn lại phải
được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét về sự cần thiết phải thu hồi đất. Tuy nhiên,
phương pháp này có thể dẫn đến một số bất cập sau: (i) Một số địa phương cho rằng thu
hồi đất cho “khu đô thị du lịch sinh thái” thuộc trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh
tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Thực chất, xây dựng khu đô thị sinh thái là
một dự án đầu tư, kinh doanh có lợi nhuận, không thể hiện công trình phục vụ cho cộng
đồng dân cư. Hoặc, có những dự án mà diện tích quy hoạch dành cho nhà ở xã hội và
tái định cư chiếm chưa đến 10% diện tích của dự án, còn lại hơn 90% diện tích quy
hoạch nhà ở kinh doanh gồm: Nhà ở chung cư, liên kế phố, liên kế sân vườn và biệt
thự... nhưng vẫn được một số địa phương cho rằng thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi
đất vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội; (ii) Trong quy định hiện hành có một số thuật
ngữ như “chỉnh trang đô thị, khu dân cư nông thôn”, “vùng phụ cận” … chưa được định
nghĩa, giải thích rõ ràng nên có thể dẫn đến sự khó khăn trong cách hiểu và áp dụng
hoặc tạo kẽ hở để vận dụng một cách tùy tiện.
Hai là, chưa xác định rõ quy mô dự án (về diện tích và vốn đầu tư) nào thì chủ
đầu tư phải thực hiện thỏa thuận sử dụng đất, dự án gì Nhà nước thu hồi. Luật Đầu tư
năm 2014 và Luật Đầu tư công năm 2014 đã có quy định về những dự án thuộc thẩm
quyền chấp thuận đầu tư của Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ, nhưng ở cấp tỉnh chưa
có quy định cụ thể. Từ đó, nếu những dự án có quy mô tương đối nhỏ, nhưng lại được
xác định là vì “quốc gia, công cộng” và cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra thu
hồi theo quy định của Điều 62 LĐĐ năm 2013, sẽ dẫn đến sự không đồng thuận cao từ
người bị thu hồi đất.
Ba là, chưa xác định rõ ranh giới giữa trường hợp Nhà nước thu hồi đất để tạo
quỹ đất sạch để đấu giá QSDĐ phục vụ sản xuất, kinh doanh, thương mại, dịch vụ với
trường hợp nhà đầu tư phải tự thỏa thuận nhận chuyển nhượng QSDĐ để sử dụng vào
mục đích sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, quy định hiện hành chưa xác định rõ ranh giới
giữa kêu gọi xã hội hóa thực hiện một số dự án của Nhà nước với việc thu hồi đất để
66
chủ đầu tư làm dự án. Mặc dù hiện nay cơ chế chuyển dịch đất đai tự nguyện đã được
điều chỉnh bởi Điều 73 LĐĐ năm 2013 và Điều 16 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP (được
bổ sung bởi Khoản 15 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP). Tuy nhiên, những quy
định trên còn mang tính chung chung và thiếu cơ sở pháp lý hướng dẫn việc phân định
rõ ràng trường hợp chủ đầu tư sử dụng đất phải thực hiện theo cơ chế thỏa thuận với
người đang sử dụng đất hoặc thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi. Thêm vào đó, chưa
có sự rõ ràng về điều kiện áp dụng cơ chế đầu tư khai thác quỹ đất của Tổ chức phát
triển quỹ đất và điều kiện về không còn quỹ đất tại địa phương để chủ đầu tư áp dụng
cơ chế thỏa thuận chuyển nhượng, thuê lại hoặc nhận góp vốn bằng QSDĐ.
3.1.2. Thực tiễn áp dụng
Đơn cử một ví dụ, đó là quy định cho phép thu hồi đất để phát triển, xây dựng
các dự án xây dựng khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn mới; chỉnh trang đô thị; cụm
công nghiệp; khu sản xuất… Phần lớn các hoạt động thuộc các lĩnh vực này đều do tư
nhân đảm nhiệm, nói cách khác, mục đích là thực hiện các dự án thương mại thuần túy,
không vì mục đích phục vụ lợi ích công. Thế nhưng, trong rất nhiều trường hợp trên
thực tế, việc thu hồi đất lại do chính quyền địa phương đứng ra đảm nhận để giao cho
doanh nghiệp, thay vì để doanh nghiệp tự thương lượng với từng người dân đang được
giao quyền sử dụng đất.
Việc thu hồi đất thông qua sử dụng quyền lực hành chính thường dẫn đến thua
thiệt cho người dân bởi hiếm khi quyền sử dụng đất được đền bù thỏa đáng theo giá thị
trường. Trong khi đó, các doanh nghiệp lấy được đất theo tiến trình này là những người
hưởng lợi nhiều nhất. Ví dụ dễ thấy nhất là các doanh nghiệp bất động sản. Ngay sau
khi nhận đất từ chính quyền, một động tác phân lô bán nền trên giấy thôi đã thu về nhiều
khoản tiền siêu lợi nhuận [104]. Hệ quả trực tiếp không thể tránh khỏi của tiến trình đó
là xung đột giữa một bên là số lượng lớn những người bị ép buộc thu hồi đất với giá trị
thấp với một bên là chính quyền và các doanh nghiệp.
Quy định thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc
gia, công cộng trên cơ sở cơ quan chấp thuận đầu tư là HĐND cấp tỉnh đối với dự án
này mà không quy định trên cơ sở chủ đầu tư là không phù hợp, bởi vì chủ đầu tư mới
là yếu tố quyết định do lợi ích của việc thu hồi đất mang lại cho họ. Hơn nữa, quy định
“Vì lợi ích quốc gia, công cộng” đối với các dự án này cũng không loại trừ lợi ích của
tư nhân trong đó. Cho nên các dự án này bị lợi dụng để “lồng” lợi ích của tư nhân vào
“lợi ích quốc gia, công cộng”. Đây cũng là lý do mà thời gian qua phát sinh nhiều vụ
khiếu kiện mà người bị thu hồi đất nông nghiệp cho rằng thu hồi đất nông nghiệp cho
67
tư nhân để thực hiện các dự án mang tính thương mại không thuộc căn cứ thu hồi đất
theo Điều 62 LĐĐ năm 2013 mà vụ án dưới đây là một ví dụ:
Ông Lê Văn Hồng có thửa đất nông nghiệp 998,2 m2 tại khối 1, phường Quán
Bàu, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Ngày 07/4/2015, UBND thành phố Vinh, tỉnh Nghệ
An ban hành Quyết định số 1821/QĐ-UBND thu hồi thửa đất trên để giao cho Công ty
TNHH MTV Vật liệu xây dựng và Xây lắp BMC thực hiện dự án “Xây dựng trung tâm
thương mại, văn phòng cho thuê và căn hộ cao cấp BMC Vinh - Plaza” và ban hành
Quyết định số 1822/QĐ-UBND về việc phê duyệt giá trị bồi thường, hỗ trợ giải phóng
mặt bằng cho ông Lê Văn Hồng. Ngày 08/01/2016, ông Hồng khởi kiện các Quyết định
1821/QĐ-UBND và Quyết định số 1822/QĐ-UBND của UBND thành phố Vinh đến
Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Vinh vì cho rằng dự án “Xây dựng trung tâm thương
mại, văn phòng cho thuê và căn hộ cao cấp BMC Vinh - Plaza” không thuộc trường hợp
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng mà
là dự án thương mại, xây dựng chung cư, phân lô bán nền vì lợi ích của chủ đầu tư. Tại
Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2016/HC-ST ngày 28, 29/6/2016, TAND thành phố
Vinh đã tuyên hủy một phần Quyết định số 1821/QĐ-UBND ngày 07/4/2015 của UBND
thành phố Vinh về việc thu hồi đất và hủy một phần Quyết định số 1822/QĐ-UBND
ngày 07/4/2015 của UBND thành phố Vinh về việc phê duyệt giá trị bồi thường, hỗ trợ
giải phóng mặt bằng cho ông Hồng với nhận định dự án này không thuộc các trường
hợp thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng nên không có căn cứ để thu hồi đất theo quy định tại Điều 62, Điều 63 LĐĐ
năm 2013 [27]. Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2016/HC-ST đã có hiệu lực pháp luật
do không bị kháng nghị, không có kháng cáo [108].
Từ vụ việc trên có thể thấy rằng những quy định về căn cứ thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội, nhất là thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng khu
đô thị mới, khu dân cư nông thôn mới; chỉnh trang đô thị, khu dân cư nông thôn đã và
sẽ dẫn đến có những cách hiểu khác nhau, từ đó lợi dụng chính các quy định này để thu
hồi đất cho tư nhân và mang lại lợi ích cho tư nhân.
3.2. Các quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp
3.2.1. Quy định pháp luật về quy hoạch
Việc lập quy hoạch sử dụng đất được thực hiện theo các cấp và do cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt với kỳ quy hoạch là 10 năm, kỳ KHSDĐ cấp quốc gia, cấp tỉnh
và kỳ KHSDĐ quốc phòng, đất an ninh là 05 năm, KHSDĐ cấp huyện được lập hằng
năm. Hệ thống quy hoạch, KHSDĐ gồm: Quy hoạch, KHSDĐ cấp quốc gia; quy hoạch,
68
KHSDĐ cấp tỉnh; quy hoạch, KHSDĐ cấp huyện; quy hoạch, KHSDĐ quốc phòng; quy
hoạch, KHSDĐ an ninh. Tại Điều 45 LĐĐ năm 2013 quy định: “Chính phủ tổ chức lập
quy hoạch, KHSDĐ cấp quốc gia và do Quốc hội quyết định, UBND cấp tỉnh tổ chức
lập quy hoạch, KHSDĐ cấp tỉnh, Bộ Quốc phòng tổ chức lập quy hoạch, KHSDĐ quốc
phòng, Bộ Công an tổ chức lập quy hoạch, KHSDĐ an ninh và đều do Chính phủ phê
duyệt (riêng đối với quy hoạch, KHSDĐ cấp tỉnh phải thông qua HĐND cùng cấp mới
trình Chính phủ phê duyệt); UBND cấp huyện tổ chức lập quy hoạch, KHSDĐ cấp
huyện và trình UBND tỉnh phê duyệt sau khi đã thông qua hội đồng nhân dân cùng cấp”
[27].
Về nguyên tắc lập quy hoạch, KHSDĐ được quy định tại Điều 35 LĐĐ năm
2013: “ (i) Phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh; (ii) Được lập từ tổng thể đến chi tiết; quy hoạch sử dụng đất
của cấp dưới phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất của cấp trên; Kế hoạch sử dụng
đất phải phù hợp với QHSDĐ đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
QHSDĐ cấp quốc gia phải bảo đảm tính đặc thù, liên kết của các vùng kinh tế - xã hội;
QHSDĐ cấp huyện phải thể hiện nội dung sử dụng đất của cấp xã; (iii) Sử dụng đất tiết
kiệm và có hiệu quả; (iv) Khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường;
(v) Bảo vệ, tôn tạo di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; (vi) Dân chủ và công
khai; (vii) Bảo đảm ưu tiên quỹ đất cho mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích
quốc gia, công cộng, an ninh lương thực và bảo vệ môi trường; (viii) quy hoạch, kế
hoạch của ngành, lĩnh vực, địa phương có sử dụng đất phải bảo đảm phù hợp với
QHSDĐ đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê duyệt [27].
Quá trình lập quy hoạch, KHSDĐ cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện có tổ chức
lấy ý kiến người dân. Sau khi quy hoạch được phê duyệt sẽ được công khai và phổ biến
đến nhân dân. Chính quyền các cấp có trách nhiệm tiếp thu, giải trình ý kiến nhân dân
về quy hoạch, KHSDĐ và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch đó. Đối với quy hoạch,
KHSDĐ quốc phòng, an ninh, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an chỉ lấy ý kiến UBND cấp
tỉnh mà không lấy ý kiến của người dân.
Có thể nói công tác quy hoạch, KHSDĐ từng bước được hoàn thiện bổ sung và
được cụ thể hóa trong LĐĐ năm 2013. Các quy định về công tác này đã mang lại nhiều
kết quả quan trọng như: Hoàn thành việc lập và điều chỉnh về quy hoạch, KHSDĐ cấp
quốc gia và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. LĐĐ năm 2013 cũng quy định
rất rõ về trách nhiệm của Chính phủ, UBND cấp tỉnh và cấp huyện trong việc tổ chức
lấy ý kiến của nhân dân về quy hoạch, KHSDĐ. Đối với quy hoạch, KHSDĐ sử dụng
69
đất cấp quốc gia, cấp tỉnh sẽ tiến hành thông qua hình thức công khai thông tin nội dung
quy hoạch, KHSDĐ trên trang thông tin điện tử của Bộ TN&MT, UBND cấp tỉnh. Còn
quy hoạch, KHSDĐ cấp huyện được tổ chức thông qua hình thức tổ chức hội nghị, lấy
ý kiến trực tiếp và công khai thông tin trên trang thông tin điện tử của UBND cấp tỉnh
và UBND cấp huyện để người dân nắm bắt thông tin về quy hoạch, KHSDĐ. Tại Khoản
1 Điều 43 LĐĐ năm 2013 quy định: “Cơ quan tổ chức lập quy hoạch, KHSDĐ quy định
tại khoản 1 và Khoản 2 Điều 42 của Luật này có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến đóng
góp của nhân dân về quy hoạch, KHSDĐ” [27]. Trong giai đoạn này UBND cấp huyện
có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về quy hoạch, KHSDĐ của
huyện mình trong thời gian là 30 ngày kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định tổ chức lấy ý kiến. Việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về quy hoạch,
KHSDĐ là bắt buộc và được thực hiện thông qua hình thức tổ chức hội nghị, lấy ý kiến
trực tiếp và công khai thông tin trên trang thông tin điện tử của UBND cấp tỉnh và UBND
cấp huyện. Quy định này đảm bảo cho người dân quyền tiếp cận thông tin khi nhà nước
thu hồi đất, đảm bảo tính công khai, minh bạch, dân chủ, công bằng khi nhà nước thu
hồi đất.
3.2.2. Thực tiễn áp dụng
Trong thực tiễn, việc quy định lấy ý kiến không cụ thể rõ ràng, chỉ quy định là tổ
chức hội nghị lấy ý kiến trực tiếp của người dân nhưng không quy định bao nhiêu %
người dân sinh sống ở khu vực nằm trong quy hoạch tham gia thì hội nghị mới được
xem là hợp lệ? Cũng không quy định bao nhiêu % người dân tham gia đồng ý hay phản
đối thì quy hoạch được thông qua hay phải điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp, rồi sau khi
điều chỉnh xong có tổ chức hội nghị lại hay không? Có quy định tỉ lệ phần trăm người
dân tham gia nữa hay không? Và bao nhiều lần không được thông qua thì quy hoạch bị
loại bỏ. Mặt khác, việc công khai quy hoạch theo quy định đã được thực hiện, nhưng
người dân khi xem các bản đồ còn khó hiểu vì họ không có chuyên môn, chưa kể mối
quan hệ phối hợp giữa quy hoạch, KHSDĐ với quy hoạch của các ngành, lĩnh vực khác;
giữa quy hoạch sử dụng đất của các cấp hành chính với quy hoạch đất quốc phòng, an
ninh vẫn còn nhiều bất cập và chưa đồng bộ, thống nhất. Vì vậy, có thể khẳng định việc
lấy ý kiến của người dân vào công tác quy hoạch, KHSDĐ chỉ mang tính hình thức,
chưa thực chất, nhiều địa phương tổ chức lấy ý kiến theo kiểu “qua loa, chiếu lệ”, chỉ
tập trung một số ít hộ gia đình, cá nhân tham gia để phù hợp với quy định của pháp LĐĐ
là có lấy ý kiến của người dân như trường hợp tại Thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương năm
2016 [95].
70
Qua khảo sát ý kiến của người dân bị thu hồi đất về nội dung lập quy hoạch,
KHSDĐ được thể hiện ở Phụ lục 2 mục 2.3 cho thấy: (i) Đa số đều cho rằng nhà nước
có tổ chức ấy ý kiến của người dân khi lập quy hoạch: 72%; (ii) Số người tham gia góp
ý tham gia quy hoạch chỉ ở mức trung bình: 50%; (iii) Ý kiến góp ý được nhà nước tiếp
thu là: 44%; (iv) Số người được hỏi có tìm hiểu công khai quy hoạch trên Internet là
40.5% và tìm hiểu qua các cụm pa nô là 41.3%. Tuy nhiên, số người hiểu về nội dung
quy hoạch còn khá khiêm tốn nếu không muốn nói là quá ít so với yêu cầu đặt ra (4.5%
đối với việc tìm hiểu trên internet và 9% đối với việc tìm hiểu trên các cụm pa nô); (v)
Số người được khảo sát đồng tình với việc quy hoạch được phê duyệt dẫn đến thu hồi
đất nông nghiệp của gia đình ở dưới mức trung bình là: 40.5% . Như vậy, có thể thấy
rằng cả hình thức và nội dung công khai quy hoạch, KHSDĐ đều chưa phù hợp để người
dân tiếp cận thông tin. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện kéo dài
trong quá trình thu hồi đất. Nếu công tác quy hoạch, KHSDĐ thực hiện dân chủ, công
khai, khoa học thì công tác thu hồi đất sẽ diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, quyền lợi của
người dân có đất bị thu hồi sẽ được đảm bảo, các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong
quá trình thu hồi đất sẽ giảm thiểu đồng thời việc khiếu nại, tranh chấp đất đai cũng sẽ
hạn chế.
Trên thực tế, nhiều địa phương không tuân thủ theo đúng quy định về quy hoạch,
KHSDĐ như trường hợp xảy ra tại UBND huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa năm
2015 cụ thể: Ngày 20/10/2015 UBND huyện Quảng Xương ra Quyết định số 3411/QĐ-
UBND thu hồi 30.650,6 m2 đất nông nghiệp tại thôn Kiều Đại 3 và thôn Xuân Phương
3, xã Quảng Châu (trong đó, đất của các hộ gia đình, cá nhân 29.609,3 m2, đất của
UBND xã quản lý 1.041,3 m2). Vị trí 1 ranh giới khu đất thu hồi được xác định theo
trích lục bản đồ địa chính số 81a/TBĐĐC tỷ lệ 1/2000 do Văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất huyện lập ngày 13/10/2015 dựa trên cơ sở Văn bản số 1077/UBND-VP ngày
30/9/2015 của UBND huyện Quảng Xương về việc thống nhất chủ trương QH đất ở khu
dân cư phía Nam Đại lộ sông Mã tại xã Quảng Châu và ngày 9/10/2015, UBND huyện
Quảng Xương đã lập ra mặt bằng QH số 91 và chia nhỏ ra làm 6 mặt bằng quy hoạch
(91A, 91B, 91C, 91D, 91E và 91F) với tổng diện tích của 6 mặt bằng là 32.901,9 m2,
chia thành 186 lô để bán đấu giá cho các hộ có nhu cầu về đất ở. Vấn đề ở đây là việc
UBND huyện Quảng Xương ban hành quyết định thu hồi đất nông nghiệp khi chưa được
UBND tỉnh Thanh Hóa phê duyệt QH và HDND tỉnh cũng chưa có Nghị quyết (Điều
58 LĐĐ năm 2013 quy định thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp dưới 10
ha thì phải có nghị quyết đồng ý của HĐND tỉnh) mà chỉ dựa vào Văn bản số
71
1077/UBND-VP ngày 30/9/2015 của UBND huyện Quảng Xương về việc thống nhất
chủ trương quy hoạch đất ở khu dân cư phía Nam Đại lộ sông Mã tại xã Quảng Châu là
hoàn toàn trái với quy định của pháp LĐĐ năm 2013 [98].
3.3. Các quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh
tế - xa hội
3.3.1. Quy định của pháp luật
Theo qui định tại Điều 24 LĐĐ năm 1993, thì thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp
được quy định như sau: “Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất nào thì
có quyền thu hồi đất đó” [25] và tại Điều 24 LĐĐ năm 2013 quy định về thẩm quyền
giao đất để sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp như sau: “UBND tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương giao đất cho các tổ chức; UNBD huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh giao đất cho các hộ gia đình và cá nhân” [27]. Như vậy, thẩm quyền thu hồi
đất nông nghiệp thuộc về UBND cấp huyện và UNBD cấp tỉnh.
Trên cơ sở quy định thẩm quyền giao đất, cho thuê đất tại Điều 37, Điều 44 LĐĐ
năm 2003 quy định thẩm quyền thu hồi đất như sau: “UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài (trừ trường hợp qui định tại Khoản 2 Điều này); UBND huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng dân cư; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở
gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam; Trường hợp thu hồi đất để giao, cho thuê
đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước
ngoài, cá nhân nước ngoài mà trên khu đất bị thu hồi đất có hộ gia đình, cá nhân đang
sử dụng hoặc có cả tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng thì UBND tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương quyết định thu toàn bộ diện tích đất. Căn cứ vào quyết định
thu hồi toàn bộ diện tích đất của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi diện tích đất cụ thể đối với
từng cá nhân” [26].
Giống như thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, thì thẩm quyền thu hồi đất không
được uỷ quyền theo quy định tại Khoản 3 Điều 44 LĐĐ năm 2003. Như vậy, các thẩm
quyền nói trên gắn với trách nhiệm trực tiếp của từng cấp chính quyền và có sự nhất
quán giữa thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất với
thu hồi đất.
Luật Đất đai năm 2013 về cơ bản thẩm quyền thu hồi đất theo hướng kế thừa quy
định của LĐĐ năm 2003. Tuy nhiên, Điều 66 của LĐĐ năm 2013 có sửa đổi thẩm quyền
72
thu hồi đất so với quy định hiện hành để cải cách hành chính khi thực hiện các dự án,
trong đó quy định UBND cấp tỉnh quyết định thu hồi đất đối với trường hợp khu đất thu
hồi có cả tổ chức và hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất.
Theo đó Điều 66 LĐĐ năm 2013 giao thẩm quyền cho UBND cấp tỉnh quyết
định thu hồi đất trong trường hợp đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn. Còn
UBND cấp huyện quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân
cư; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Đồng thời
UBND cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho UBND cấp huyện quyết định
thu hồi đất. Bổ sung quy định Chủ tịch UBND cấp tỉnh có thẩm quyền thu hồi đất nông
nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn để chuyển sang sử dụng vào mục
đích phi nông nghiệp.
Việc ra Quyết định thu hồi đất UBND có thẩm quyền không được ủy quyền cho
cơ quan chuyên môn thực hiện. Quy định này là hoàn toàn hợp lý vì việc thu hồi đất sẽ
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi. Vì vậy, có thể dẫn
đến tình trạng khiếu nại Quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
phát sinh trách nhiệm giải quyết thuộc về thẩm quyền của chủ thể ban hành quyết định.
Trong trường hợp này, nếu Sở TN&MT được ủy quyền thu hồi đất thì sẽ không đủ thẩm
quyền giải quyết theo Luật khiếu nại.
Tại Khoản 2 Điều 45 LĐĐ năm 2013 quy định Chính phủ phê duyệt quy hoạch,
KHSDĐ cấp tỉnh, còn việc thu hồi đất bao gồm cả đất nông nghiệp thì giao cho UBND
cấp tỉnh, UBND cấp huyện tùy thuộc vào đối tượng sử dụng đất. Nhưng tại Điều 58
LĐĐ năm 2013 quy định thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp của UBND cấp tỉnh,
UBND cấp huyện bị hạn chế bởi thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ, HĐND cấp
tỉnh. Đối với dự án có sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng vào
các mục đích khác mà không thuộc trường hợp được Quốc hội quyết định, Thủ tướng
Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được
quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất khi có một
trong các văn bản sau đây: (i) Văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ đối với
trường hợp chuyển mục đích sử dụng từ 10 héc ta đất trồng lúa trở lên; từ 20 héc ta đất
rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng trở lên; (ii) Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh đối với
trường hợp chuyển mục đích sử dụng dưới 10 héc ta đất trồng lúa; dưới 20 héc ta đất
rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng.
73
Quy định này là phù hợp với việc phân cấp quản lý, tăng cường quyền lực cho
cơ quan quyền lực ở địa phương, đồng thời duy trì sự kiểm soát của cơ quan hành chính
nhà nước cấp trên đối với cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới để hạn chế quyền lực
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thu hồi đất nông nghiệp. Và tại Khoản
4 Điều 5 Nghị định số 42/2012/NĐ-CP ngày 11/5/2012 của Chính phủ quy định về quản
lý sử dụng đất trồng lúa cũng hết sức nghiêm ngặt [7]: (i) Hộ gia đình, cá nhân khi
chuyển đất lúa khác sang trồng cây hàng năm phải báo cáo UBND cấp xã; (ii) Ngoài
trường hợp quy định tại Điểm a, khi chuyển đất lúa khác sang sử dụng vào mục đích
khác, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải báo cáo Bộ TN&MT, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ cho phép
trước khi UBND cấp có thẩm quyền quyết định việc chuyển mục đích sử dụng đất.
3.3.2. Thực tiễn áp dụng
Trong thực tiễn, việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội vẫn
chưa thực hiện đúng thẩm quyền mà pháp luật quy định, có thể kể đến một số vụ việc
cụ thể sau:
Tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang [99] đã vi phạm thẩm quyền trong quá
trình thu hồi đất nông nghiệp: Ngày 11/9/2011 UBND tỉnh Bắc Giang đã ban hành văn
bản số 1991/UBND-TN đồng ý cho UBND thành phố Bắc Giang làm chủ đầu tư Dự án
xây dựng khu dân cư tại xã Song Khê để giải quyết tồn tại về đất ở kinh doanh dịch vụ.
Ngày 27/5/2014 UBND thành phố Bắc Giang ban hành Quyết định số 340/QĐ-UBND
và Quyết định số 1903/QĐ-UBND thu hồi đất trồng lúa. Ngày 23/6/2014 Thủ tướng có
Công văn số 1023/TTg-KTN đồng ý cho tỉnh Bắc Giang chuyển mục đích sử dụng
551,975ha đất trồng lúa để thực hiện 370 công trình, dự án, trong đó có diện tích xây
dựng khu dân cư tại xã Song Khê. Qua vụ việc này ta thấy một số nội dung chưa phù
hợp, vi phạm quy định của pháp luật về thu hồi đất:
Thứ nhất, khi Thủ tướng Chính phủ chưa có văn bản đồng ý cho UBND tỉnh Bắc
Giang chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa để thực hiện dự án công trình mà UBND
thành phố Bắc Giang đã ra quyết định thu hồi đất là trái với Khoản 3 Điều 5 Nghị định
số 42/2012/NĐ-CP ngày 11/5/2012 của Chính phủ quy định thẩm quyền quyết định
chuyển mục đích sử dụng đất chuyên trồng lúa nước: “Trường hợp chuyển đất chuyên
trồng lúa nước sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp theo quy định tại Khoản 3
Điều 4 của Nghị định này, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải báo
cáo Bộ TN&MT, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét, trình Thủ tướng
74
Chính phủ cho phép trước khi UBND cấp có thẩm quyền quyết định việc chuyển mục
đích sử dụng đất”.
Thứ hai, đến ngày 26/6/2014 UBND tỉnh Bắc Giang mới ban hành văn bản số
1697/UBND-TN về việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa để thực hiện dự án,
công trình theo công văn số 1023/TTg-KTN của Thủ tướng Chính phủ nhưng ngày
27/5/2014, UBND thành phố Bắc Giang đã ban hành Quyết định số 340/QĐ-UBND và
Quyết định số 1903/QĐ-UBND thu hồi đất trồng lúa là trái với điểm a Khoản 1 Điều 5
Nghị định số 42/2012/NĐ-CP ngày 11/5/2012 của Chính phủ quy định điều kiện chuyển
mục đích sử dụng đất chuyên trồng lúa nước: “Phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất đã được xét duyệt và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép
chuyển mục đích sử dụng”.
Trường hợp tiếp theo xảy ra tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam [96] cũng
tiến hành thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội không đúng thẩm quyền:
Ngày 28/11/2013, UBND huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam ban hành Quyết định số:
757/QĐ-UBND về việc thu hồi đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích
công ích 5% do UBND xã Bình Trung quản lý để thực hiện dự án xây dựng mới chợ Kế
Xuyên với tổng diện tích thu hồi là là 30.526m2. Ngày 26/12/2013, UBND huyện Thăng
Bình lại ban hành Quyết định 1790/QĐ-UBND phê duyêt quy hoạch chi tiết xây dựng
tỉ lệ 1/500 dự án. Ngày 30/6/2014, UBND tỉnh Quảng Nam ban hành Quyết định số
2020/QĐ-UBND phê duyệt kế hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng
đất 5 năm kỳ đầu 2011-2015, trong đó có nội dung điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất
khu vực chợ Kế Xuyên. Qua vụ việc này ta thấy một số nội dung chưa phù hợp, vi phạm
quy định của pháp luật về thu hồi đất nôn g nghiệp:
Thứ nhất, việc UBND huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam ban hành Quyết định
số: 757/QĐ-UBND về việc thu hồi đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích
công ích 5% do UBND xã Bình Trung quản lý để thực hiện dự án xây dựng mới chợ Kế
Xuyên với tổng diện tích thu hồi là là 30.526m2 là trái với quy định tại Điểm b Khoản
1 Điều 66 LĐĐ năm 2013: “UBND cấp tỉnh quyết định thu hồi đất nông nghiệp thuộc
quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn” [27]. Như vậy, UBND cấp tỉnh mới có thẩm
quyền thu hồi đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích thuộc quỹ đất dự phòng
5% còn UBND cấp huyện không có thẩm quyền này. Nên UBND huyện Thăng Bình
ban hành Quyết định số: 757/QĐ-UBND thu hồi đất nông nghiệp là trái với quy định
của LĐĐ.
75
Thứ hai, UBND huyện Thăng Bình ban hành Quyết định số: 757/QĐ-UBND về
việc thu hồi đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích 5% do UBND
xã Bình Trung quản lý để thực hiện dự án xây dựng mới chợ Kế Xuyên với tổng diện
tích thu hồi là là 30,526m2 khi chưa được UBND tỉnh Quảng Nam phê duyệt KHSDĐ
là trái với quy định Khoản 1 Điều 31 LĐĐ năm 2003: “Căn cứ để quyết định giao đất,
cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất bao gồm: quy hoạch, KKHSDĐ
hoặc quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt” [26] và trái với quy định tại Khoản 2 Điều
63 LĐĐ năm 2013: “Căn cứ thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng là Kế hoạch sử dụng đất hàng năm của
cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt” [27].
3.4. Các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xa hội
3.4.1. Quy định của pháp luật
Trình tự, thủ tục thu hồi đất, đất nông nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
quá trình thực hiện công tác thu hồi đất. Nếu trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp
càng công khai, minh bạch, dân chủ thì càng tạo điều kiện cho công tác thu hồi đất thuận
lợi, giảm tải khiếu kiện, khiếu nại kéo dài. Đối với chủ thể thu hồi đất sẽ xác định rõ
nhiệm vụ, phạm vi, chức trách cụ thể của mình; đối với người có đất, đất nông nghiệp
bị thu hồi giúp họ hiểu được các quy định của pháp luật về thu hồi đất, hiểu được quyền
lợi của mình cũng như thực hiện việc giám sát đối với quá trình thu hồi; đối với nhà
nước trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp là cơ sở để nhà nước quản lý, giám sát
quá trình thu hồi đất nông nghiệp có thực hiện đúng hay không; là cơ sở pháp lý để cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giải thích rõ ràng với người dân có đất bị thu hồi, giảm
khiếu kiện, khiếu nại, tạo thuận lợi để người dân, nhà đầu tư và nhà nước dễ dàng đi đến
thống nhất cũng như dung hòa lợi ích.
“Trình tự là thứ tự thực hiện công việc có sắp xếp trước sau” [83, tr.960], để thực
hiện một công việc nhất định đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả. “Thủ tục là những
việc phải làm theo một trật tự nhất định để tiến hành một công việc theo tính chất chính
thức” [83, tr.960]. LĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng dẫn không đưa ra khái niệm
về trình tự, thủ tục thu hồi đất.
Theo nghiên cứu sinh: Trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh
tế - xã hội là tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành nhằm xác lập trình tự về không gian, về thời gian, là cách thức giải quyết công việc
76
của cơ quan có thẩm quyền phát sinh trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp. Các trường
hợp không có căn cứ thu hồi đất được pháp luật quy định thì không được áp dụng trình
tự, thủ tục thu hồi đất.
Về trình tự, thủ tục thu hồi đất thực hiện theo LĐĐ năm 2013, Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính phủ và Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT
ngày 02-6-2014 của Bộ TN&MT. Đối với trường hợp thu hồi đất thuộc nhóm 1, 2 để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng, LĐĐ năm 2013 quy định bổ sung trình tự, thủ tục thu hồi đất tại Điều 69, 70
và 71 quy định như sau:
Thứ nhất, thông báo thu hồi đất. Căn cứ Điều 67 LĐĐ năm 2013 thì trước khi có
quyết định thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông nghiệp, cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền phải thông báo thu hồi đất cho người có đất thu hồi biết. Nội dung thông
báo thu hồi đất bao gồm kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm. Theo
Điều 69 LĐĐ năm 2013 thì thông báo thu hồi đất phải được gửi đến từng hộ gia đình
thuộc diện thu hồi đất, họp và phổ biến đến người dân trong khu vực và thông báo trên
phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại UBND xã. Người có đất thu hồi có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng
trong quá trình điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, xây dựng phương án bồi thường,
hỗ trợ. Thông báo thu hồi bao gồm những nội dung theo Điều 17 Nghị định 43/2014/NĐ-
CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 như sau: Lý do thu hồi đất; diện tích, vị trí khu đất thu
hồi trên cơ sở hồ sơ địa chính hiện có hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; trường hợp thu hồi đất theo tiến độ thực hiện dự án
thì ghi rõ tiến độ thu hồi đất; Kế hoạch điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm; dự kiến về
kế hoạch di chuyển và bố trí tái định cư; giao nhiệm vụ lập, thực hiện phương án bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư. Trường hợp người sử dụng đất trong khu vực thu hồi đất
đồng ý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất trước thời hạn quy định tại thì
UBND cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất mà không phải chờ đến hết thời hạn
thông báo thu hồi đất.
Thứ hai, xây dựng thực hiện kế hoạch thu hồi, kiểm đếm, kiểm kê đất đai, tài sản
có trên đất. UBND cấp có thẩm quyền thu hồi đất ban hành thông báo thu hồi đất. Thông
báo thu hồi đất được gửi đến từng người có đất thu hồi, họp phổ biến đến người dân
trong khu vực có đất thu hồi và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, niêm
yết tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi;
UBND cấp xã có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng
77
mặt bằng triển khai thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm;
người sử dụng đất có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng thực hiện việc điều tra, khảo sát, đo đạc xác định diện tích đất, thống
kê nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất để lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;
trường hợp người sử dụng đất trong khu vực có đất thu hồi không phối hợp với tổ chức
làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong việc điều tra, khảo sát, đo đạc,
kiểm đếm thì UBND xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi
và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục
để người sử dụng đất thực hiện.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được vận động, thuyết phục mà người sử dụng
đất vẫn không phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì
Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định kiểm đếm bắt buộc. Người có đất thu
hồi có trách nhiệm thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc.
Việc đưa quy định kiểm đếm bắt buộc và quy trình cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc
chính là điểm mới trong LĐĐ năm 2013 so với LĐĐ năm 2003. Như vậy, việc bổ sung
nội dung điều tra, khảo sát, đo đạc kiểm đếm là phù hợp, cần thiết, nhằm thống nhất xác
lập số liệu về tài sản trên đất giữa NSDĐ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền để có cơ
sở lập Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chính thức. Đồng thời khắc phục tình
trạng một số trường hợp đã xảy ra: Người có đất nông nghiệp bị thu hồi không hợp tác
tham gia với Nhà nước trong việc xây dựng Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Trong trường hợp này, Nhà nước có cơ sở để cưỡng chế buộc các đối tượng có liên quan
chấp hành theo quy định pháp luật.
Về các nguyên tắc tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành quyết định kiểm đếm
bắt buộc Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ ban hành quyết định cưỡng chế thực hiện quyết
định kiểm đếm bắt buộc và tổ chức thực hiện cưỡng chế theo các nguyên tắc, điều kiện
được quy định tại Điều 70 LĐĐ năm 2013 đối với trường hợp người dân có đất bị thu
hồi vẫn chây ì, không chấp hành, cụ thể như sau: (i) Việc cưỡng chế phải tiến hành công
khai, dân chủ, khách quan, bảo đảm trật tự, an toàn, đúng quy định của pháp luật. (ii)
Thời điểm bắt đầu tiến hành việc cưỡng chế phải được thực hiện trong giờ hành chính
của Nhà nước.
Thứ ba, lấy ý kiến, lập và thẩm định Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập Phương án
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức
lấy ý kiến về Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo hình thức tổ chức họp trực
78
tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi, đồng thời niêm yết công khai Phương
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của
khu dân cư nơi có đất thu hồi. Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có
xác nhận của đại diện UBND cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
xã, đại diện những người có đất thu hồi. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng
mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến
đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với Phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư; phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức đối
thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư; hoàn chỉnh Phương án trình cơ quan có thẩm quyền; Cơ quan có thẩm quyền
thẩm định Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trước khi trình UBND cấp có thẩm
quyền quyết định thu hồi đất.
Thứ tư, Quyết định phê duyệt và niêm yết công khai Phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư; tổ chức chi trả bồi thường. UBND cấp có thẩm quyền quy định tại Điều
66 của LĐĐ năm 2013 quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt Phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày; tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã phổ biến và niêm yết công
khai quyết định phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở UBND
cấp xã và địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi; gửi quyết định
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đến từng người có đất thu hồi, trong đó ghi rõ về mức bồi
thường, hỗ trợ, bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền
bồi thường, hỗ trợ; thời gian bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có) và thời gian bàn
giao đất đã thu hồi cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng; tổ chức
thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư đã được phê duyệt; trường hợp người có đất thu hồi không bàn giao đất cho
tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì UBND cấp xã, Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường,
giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người có đất thu hồi thực hiện.
Trường hợp người có đất thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng không chấp hành
việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì Chủ
tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức thực hiện
việc cưỡng chế theo quy định tại Điều 71 của LĐĐ năm 2013. Đặc biệt là trình tự cưỡng
chế kiểm đếm để lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, trình tự cưỡng chế thu
hồi đất nhằm đảm bảo công khai, minh bạch và dân chủ; đảm bảo quyền lợi của người
79
có đất thu hồi; tăng cường hơn nữa sự tham gia trực tiếp của nhân dân; trách nhiệm đối
thoại và giải trình của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi người dân chưa có ý kiến
đồng thuận trong việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Qua nghiên cứu trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -
xã hội, nghiên cứu sinh rút ra một số nhận xét sau:
Một là, quy định về nội dung thông báo thu hồi đất chưa thống nhất, khó thực
hiện. Tại Khoản 1 Điều 67 LĐĐ năm 2013 quy định “Nội dung thông báo thu hồi đất
bao gồm kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm”. Trong khi đó tại
Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của LĐĐ năm 2013 như sau: “Cơ quan TN&MT trình UBND cùng cấp phê
duyệt kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm điếm, gồm các nội dung sau
đây: a) Lý do thu hồi đất; b) Diện tích, vị trí khu đất thu hồi trên cơ sở hồ sơ địa chính
hiện có hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt; trường hợp thu hồi đất theo tiến độ thực hiện dự án thì ghi rõ tiến độ thu hồi đất;
c) Kế hoạch, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm; d) Dự kiến về kế hoạch di chuyển và
bố trí tái định cư; đ) Giao nhiệm vụ lập, thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư”. Theo Khoản 2 Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP lại quy định: “Thông
báo thu hồi đất bao gồm các nội dung quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều
này” [8]. Như vậy, trong Khoản 2 Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP lại không có
điểm đ của Khoản 1. Điều này tạo nên sự bất cập, không thống nhất giữa văn bản luật
và Nghị định hướng dẫn. LĐĐ năm 2013 quy định thông báo thu hồi đất bao gồm toàn
bộ 05 nội dung đó là: Kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, trong
khi đó Nghị định 43/2014/NĐ-CP lại quy định chỉ có 04 nội dung.
Hai là, trình tự, thủ tục thu hồi đất, đất nông nghiệp theo LĐĐ năm 2013 không
quy định phải ghi nhận hiện trạng khu đất, đất nông nghiệp bị thu hồi tại thời điểm có
thông báo thu hồi đất. Tại Khoản 2 Điều 92 LĐĐ năm 2013 lại quy định: “Tài sản gắn
liền với đất được tạo lập trái quy định của pháp luật hoặc được tạo lập từ sau khi có
thông báo thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì không được bồi thường”
[27]. Vì vậy, việc ghi nhận hiện trạng khu đất, đất nông nghiệp tại thời điểm có thông
báo thu hồi đất đặc biệt quan trọng trong việc bồi thường tài sản gắn liền với đất, đất
nông nghiệp đó là các loại cây trồng hằng năm và các tài sản có giá trị khác. Trong thực
tế, khi có thông báo thu hồi đất, đất nông nghiệp rất nhiều cá nhân, hộ gia đình trong
một khoảng thời gian ngắn một mảnh vườn, mảnh ruộng trống đã hình thành hàng loạt
loại cây trồng có giá trị được phủ kín. Đương nhiên sau này khi tiến hành kiểm đếm tài
80
sản trên đất phải ghi vào biên bản để bồi thường, nhiều trường hợp dẫn đến tranh chấp,
khiếu nại kéo dài mà nguyên nhân chủ yếu là do không có bước ghi nhận hiện trạng khu
đất nông nghiệp khi có thông báo thu hồi để làm cơ sở cho việc bồi thường sau này và
đương nhiên những tài sản gắng liền trên đất có sau thông báo thu hồi thì không phải
bồi thường. Điều này chưa được quy định trong LĐĐ về trình tự, thủ tục thu hồi đất nên
cần phải bổ sung để áp dụng thống nhất trong phạm vi cả nước, tránh các trường hợp
tiêu cực, bắt tay giữ người dân với cán bộ làm công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng
để trục lợi.
Ba là, không quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và cơ chế phối hợp của Hội đồng
bồi thường và hỗ trợ tái định cư. Tại Khoản 1 Điều 68 LĐĐ năm 2013 quy định “Tổ
chức làm nhiệm vụ bồi thường giải phóng mặt bằng gồm tổ chức dịch vụ công về đất
đai, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư” [27]. Như vậy, Hội đồng bồi thường, tổ
chức phát triển quỹ đất là những cơ quan làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng
hết sức quan trọng trong quá trình thu hồi đất, đất nông nghiệp nhưng cho đến nay vẫn
chưa có bất cứ quy định nào về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức này cũng
như cơ chế phối hợp với các cơ quan khác trong quá trình thu hồi đất ở trong LĐĐ năm
2013 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành. Do đó, ở các địa phương Hội đồng này
được thành lập với thành phần và tổ chức, hoạt động theo các quy định cũ, trong khi đây
là chủ thể giữ vai trò quan trọng của quá trình thu hồi đất.
Bốn là, quy định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc vẫn chưa
chặt chẽ, tại Điểm b Khoản 5 Điều 71 LĐĐ năm 2013 quy định: “Ban thực hiện cưỡng
chế có trách nhiệm chủ trì lập phương án cưỡng chế và dự toán kinh phí cho hoạt động
cưỡng chế trình UBND cấp có thẩm quyền phê duyệt” [27]. Phương án cưỡng chế do
Ban thực hiện cưỡng chế lập không quy định chi tiết các nội dung cần thiết, trong khi
phương án này giữ vai trò quyết định và ảnh hưởng lớn đến kết quả công tác cưỡng chế.
Nếu phương án cưỡng chế lập chi tiết cụ thể, rõ ràng thì quá trình thực hiện sẽ mang lại
kết quả khả quan.
Năm là, LĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định
về việc lập phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà chỉ có lập phương
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và phải thông báo công khai, hoặc niêm yết. Đa số
người bị thu hồi đất tiếp nhận được thông tin về lý do thu hồi đất, số tiền bồi thường
được nhận cũng như thông tin về kế hoạch thu hồi đất. Nhưng những thông tin mà người
bị thu hồi đất thường quan tâm nhiều nhất thì ít người nhận được như phương án tái định
81
cư, phương án đào tạo nghề, chuyển đổi nghề, tìm việc làm. Điều này gây không ít khó
khăn cho họ trong quá trình ổn định cuộc sống.
Sáu là, sự tham gia của người dân vào quá trình lập phương án bồi thường, hỗ
trợ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa quy định cụ thể, chặt chẽ. Tại Điểm a
Khoản 2 Điều 69 LĐĐ năm 2013 quy định: “Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng có trách nhiệm lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và phối
hợp với UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư theo hình thức tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực có
đất thu hồi, đồng thời niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại
trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi. Việc
tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện UBND cấp xã,
đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, đại diện những người có đất thu
hồi. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp ý
kiến đóng góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng
ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; phối hợp với
UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến
không đồng ý về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; hoàn chỉnh phương án trình
cơ quan có thẩm quyền”.
Cũng như Điều 43 đã phân tích ở trên nhưng có quy định rõ hơn là tổ chức họp
trực tiếp với người dân có đất trong khu vực bị thu hồi, lập biên bản có xác nhận của
chính quyền địa phương và cả người dân có đất bị thu hồi, ghi rõ số lượng đồng thuận,
không đồng thuận, ý kiến khác với phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư nhưng cũng
không quy định là phải có bao nhiêu phần trăm hộ gia đình cá nhân tham gia thì mới
xem là hợp lệ và bao nhiêu phần trăm những người tham gia đồng ý hay phản đối, hay
ý kiến khác với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì phương án sẽ được thông
qua hay phải điều chỉnh lại. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
trường hợp này như thế nào?
Đồng thời về phương thức lấy ý kiến phải trực tiếp tại hội nghị, cũng như việc
niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở UBND cấp xã,
địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi có phần cứng nhắc. Vì trên
thực tế có nhiều trường hợp không có mặt tại địa phương hoặc không thể tham dự hội
nghị được do tàn tật, già yếu, sức khỏe không cho phép hoặc có trường hợp phải giải
quyết việc riêng như ma chay, hiếu hỷ. Đa số người nông dân có đất bị thu hồi ít có điều
kiện để học hành nên hiểu được phương án bồi thường, hỗ trợ được niêm yết tại UBND
82
cấp xã nơi có đất bị thu hồi là việc khó khăn. Như vậy, trong những trường hợp này họ
bị tước mất quyền đề đạt, yêu cầu của một người có đất bị thu hồi mà pháp luật quy
định. Quy định này hạn chế đi phần nào quyền và lợi ích hợp pháp của người dân có đất
bị thu hồi mà lẽ ra họ đương nhiên được biết và được hưởng. Khi việc tổ chức lấy ý kiến
của người dân không được đảm bảo và không giữ vai trò quyết định trong việc lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất cũng như phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư thì việc
niêm yết công khai tại UBND cấp xã cũng chỉ là hình thức và không có tác dụng gì đối
với người dân có đất bị thu hồi.
3.4.2. Thực tiễn áp dụng
Qua khảo sát ý kiến của người bị thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -
xã hội về nội dung trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp thể hiện ở Phụ lục 2 mục 2.4
cho thấy: (i) Đa số đều không biết các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội (80.8%); (ii) Phần lớn người thu hồi đất được hỏi cho rằng Nhà nước
nên thu hồi đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội (55.3%);
(iii) 50.2% người bị thu hồi đất được hỏi cho biết Nhà nước có lập phương án bồi thường,
hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội; (iv) Nhung chỉ có 16.3%
người bị thu hồi đất được hỏi cho biết Nhà nước có tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi
thường. Có thể thấy người dân có sự đồng thuận với Nhà nước trong việc thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội nhưng việc tổ chức lấy ý kiến về phương án
bồi thường, hỗ trợ còn bị hạn chế, tổ chức theo kiểu qua loa, chiếu lệ.
Trong thực tiễn, chính quyền ở một số địa phương đã áp dụng không đúng quy
định của pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã
hội chúng ta có thể lấy một số dẫn chứng cụ thể:
Trường hợp thứ nhất: Tại huyện Hoàng Hóa, tỉnh Thanh Hóa [102]: UBND
huyện Hoàng Hóa, tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định thu hồi 286,82 ha, trong đó có 35 ha
đất nông nghiệp tại xã Hoằng Đồng để mở rộng khu công nghiệp Hoằng Long. Tuy
nhiên, việc thông báo thu hồi đất đến người dân có đất bị thu hồi diễn ra quá nhanh chỉ
trong vòng có 3 ngày kể từ ngày họp dân. Sáng ngày 7/9/2015, tại Hội trường UBND
xã Hoằng Đồng diễn ra một cuộc họp dân, tối mùng 7 thông báo và đến sáng mùng 8,
toàn bộ nhân dân có trong danh sách thu hồi đất có mặt tại ủy ban xã để nhận tiền bồi
thường. Việc làm của UBND huyện Hoằng Hóa làm người dân ở đây hết sức bức xúc
vì đã vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều 67 LĐĐ năm 2013 về thời gian thông báo thu
hồi đất: “Trước khi có quyết định thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông
nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải
83
thông báo thu hồi đất cho người có đất thu hồi biết, nội dung thông báo bao gồm kế
hoạch thu hồi, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm...". Thông báo thu hồi phải được gửi
đến tận tay từng người có đất thu bị hồi, họp phổ biến người dân và có thông tin rõ ràng
trên phương tiện thông tin đại chúng. Mặc dù trái quy định của pháp LĐĐ năm 2013
nhưng vẫn diễn ra ở một số nơi làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi.
Trường hợp thứ hai: Tại huyện Tiên Du, Bắc Ninh [100]:
Ngày 01/9/2017, UBND tỉnh Bắc Ninh ban hành văn bản số 3011/UBND -XDCB
về việc giới thiệu địa điểm nghiên cứu lập hồ sơ đề xuất dự án đầu tư xây dựng xưởng
công nghiệp phụ trợ tại xã Đại Đồng. Ngày 06/10/2017, UBND huyện Tiên Du cấp tốc
ban hành Quyết định số 1820/QĐ-UBND ngày về việc Thành lập Hội đồng bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư thực hiện dự án đầu tư xây dựng xưởng công nghiệp phụ trợ tại xã
Đại Đồng, huyện Tiên Du. Ngày 08/03/2019, UBND huyện Tiên Du ban hành Quyết
định số 1820/QĐ-UBND về việc thành lập Hội đồng bồi thường rồi thông báo trên loa
phát thanh và yêu cầu người dân đi nhận tiền đền bù trong 1 ngày cho xong.
Như vậy, có thể thấy việc UBND huyện Tiên Du đã vội vã, tự ý ra Quyết định
Thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thực hiện dự án đầu tư xây dựng
Xưởng công nghiệp phụ trợ tại xã Đại Đồng, huyện Tiên Du là chưa phù hợp với quy
định của pháp luật. UBND huyện Tiên Du không thông báo thu hồi đất; không triển khai
thực hiện kế hoạch thu hồi đất; không lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư; không phê duyệt, phổ biến và niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư; không gửi quyết định thu hồi cho người có đất bị thu hồi. Như vậy về
trình tự, thủ tục thu hồi đất của UBND huyện Tiên Du đã vi phạm Điều 69 LĐĐ năm
2013. Tại Điều 69 LĐĐ năm 2013 quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất vì mục đích
quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng như sau:
“Xây dựng và thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm; Lập,
thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định; Việc quyết định thu hồi đất, phê duyệt
và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; Tổ chức làm nhiệm vụ
bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm quản lý đất đã được giải phóng mặt
bằng” [27].
Trường hợp thứ 3: Tại Thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai [92]: Ngày 05/4/2016
UBND phường Bình Minh lập Tờ trình số 16/TTr-UBND đề nghị UBND thành phố Lào
Cai thu hồi đất của 02 hộ gia đình là ông Hoàng Văn Liềng và ông Hoàng Văn Công để
phục vụ công tác đền bù giải phóng mặt bằng đáp ứng tiến độ thi công công trình: Tiểu
84
khu đô thị số 3, phường Bình Minh với tổng diện tích đề nghị thu hồi là 625m2, trong
đó hộ ông Hoàng Văn Công, vợ là Phạm Thị Hà bị thu hồi 367m2 đất (đất màu 54m2,
đất vườn tạp 313m2) thuộc thửa đất số 10, 11 tờ bản đồ P2-6 (đã được cấp GCNQSD).
Ngày 26/4/2016 UBND thành phố Lào Cai ban hành Quyết định số 708/QĐUBND về
việc thu hồi đất để thực hiện công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai -
Cam Đường, phường Bình Minh, thành phố Lào Cai đối với hộ ông Hoàng Văn Công,
bà Phạm Thị Hà.
Trong trường hợp này, UBND thành phố Lào Cai đã vi phạm trình tự, thủ tục thu
hồi đất theo quy định của LĐĐ năm 2013 đó là: Trước khi tiến hành thu hồi đất, UBND
thành phố Lào Cai không thông báo thu hồi đất; không triển khai thực hiện kế hoạch thu
hồi đất; không lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; không phê
duyệt, phổ biến và niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; không
gửi quyết định thu hồi cho người có đất bị thu hồi. Như vậy về trình tự, thủ tục thu hồi
đất của UBND thành phố Lào Cai đã vi phạm Điều 69 LĐĐ năm 2013 quy định về trình
tự, thủ tục thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi
ích quốc gia, công cộng như sau: “Xây dựng và thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra,
khảo sát, đo đạc, kiểm đếm; lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định; việc
quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư; tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm quản lý
đất đã được giải phóng mặt bằng” [27].
85
3.5. Các quy định về bồi thường va hỗ trợ người sử dụng đất khi Nha nước
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xa hội
3.5.1. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế
- xã hội
3.5.1.1. Quy định của pháp luật
Thứ nhất, các quy định về nguyên tắc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội:
Các nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội nói riêng là những định hướng vô cùng quan
trọng trong quá trình thu hồi đất để đảm bảo tính khách quan, minh bạch, công khai, dân
chủ, công bằng và đúng theo quy định của pháp luật hiện hành.
Tại Điều 74 LĐĐ năm 2013 quy định cụ thể các nguyên tắc bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất: “Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được
bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường; Việc bồi thường
được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu
không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại
đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất; Việc bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công
khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật” [27].
Nguyên tắc thứ nhất, người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều
kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của LĐĐ năm 2013 thì được bồi thường:
Nhà nước khi thu hồi đất nông nghiệp của các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức để phát triển
kinh tế - xã hội thì phải bồi thường nếu đảm bảo những điều kiện mà pháp luật đã quy
định. Hay nói cách khác nếu không thỏa mãn các điều kiện mà pháp luật quy định thì
các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức bị thu hồi đất nông nghiệp sẽ không được Nhà nước
bồi thường nhưng sẽ được xem xét để hỗ trợ. Việc hỗ trợ này thể hiện sự quan tâm của
Nhà nước đối với những người có đất nông nghiệp bị thu hồi để giúp họ vượt qua khó
khăn, ổn định cuộc sống. Đồng thời đây là nhiệm vụ chính trị của Nhà nước về an sinh
xã hội đối với người dân.
Nguyên tắc thứ hai, việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng
mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi
thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định
tại thời điểm quyết định thu hồi đất: Đây là nguyên tắc bồi thường “đất bằng đất”, để
giúp cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi nhanh chóng ổn định cuộc sống, đảm bảo
86
an ninh lương thực của quốc gia. Tuy nhiên, nguyên tắc này khó thực hiện trên thực tế
vì hầu hết diện tích đất nông nghiệp ở các địa phương đã giao cho các hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định, lâu dài và các địa phương cũng không còn đất nông nghiệp để
mà giao mà chỉ còn quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích không quá 5%
tổng diện tích đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản để
phục vụ cho các nhu cầu công ích của địa phương trong khi diện tích đất nông nghiệp
bị thu hồi trong thời gian qua là rất lớn.
Nguyên tắc thứ ba, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân
chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật: Đây là
nguyên tắc rất quan trọng đảm bảo việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -
xã hội diễn ra khách quan, công bằng đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư
và người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi. Tuy nhiên, trong thực tế việc thu hồi đất
nông nghiệp thường dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện kéo dài của người dân vì họ cho rằng
lợi ích của mình chưa đảm bảo. Điều này chứng tỏ nguyên tắc này chưa thực hiện tốt
trong thực tiễn mà cần phải tiếp tục nghiên cứu.
Thứ hai, các quy định về điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội:
Không phải bất kỳ trường hợp nào Nhà nước thu hồi đất cũng phải bồi thường
cho người sử dụng đất mà muốn được bồi thường thì phải đảm bảo những điều kiện nhất
định. Những điều kiện này là cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo sự công bằng trong quá
trình bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Các điều kiện bồi thường về đất khi Nhà
nước thu hồi đất nói chung được quy định tại Điều 75 LĐĐ năm 2013. Trong đó quy
định điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội bao gồm:
Một là, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê
đất hàng năm, có GCNQSDĐ hoặc có đủ điều kiện để cấp GCNQSDĐ nhưng chưa được
cấp.
Hai là, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng đang sử dụng đất mà không
phải là đất do Nhà nước giao, cho thuê và có GCNQSDĐ hoặc có đủ điều kiện để được
cấp GCNQSDĐ tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật mà chưa được
cấp.
Ba là, tổ chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả
tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; nhận thừa kế quyền sử dụng đất, nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp, tiền nhận chuyển nhượng đã trả
87
không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, có GCNQSDĐ hoặc có đủ điều kiện được
cấp GCNQSDĐ mà chưa được cấp.
GCNQSDĐ là căn cứ pháp lý quan trọng bảo đảm quyền lợi của người sử dụng
đất, là căn cứ pháp lý chứng minh tư cách sử dụng đất hợp pháp của người đang sử dụng.
Khi người nông dân được cấp GCNQSDĐ nông nghiệp nghĩa là họ đã được Nhà nước
bảo hộ về quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong đó có quyền được bồi thường và hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Trường hợp thứ hai chưa có GCNQSDĐ nông nghiệp
nhưng có đủ điều kiện để cấp GCNQSDĐ. Trong thực tế, có nhiều nguyên nhân dẫn đến
việc người nông dân chưa có GCNQSDĐ nông nghiệp mà họ đang sử dụng. Có thể là
do từ chính bản thân họ cũng có thể từ phía cơ quan Nhà nước như: chưa chủ động kê
khai để làm GCNQSDĐ, đất đang sử dụng không phù hợp với quy hoạch, chưa quan
tâm đến tính chất pháp lý của GCNQSDĐ, thủ tục phức tạp mất nhiều thời gian... Pháp
luật hiện hành vẫn quy định bồi thường cho người đang sử dụng đất có một trong những
giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất nông nghiệp như: Quyết định giao đất, GCNQSDĐ
tạm thời, giấy tờ hợp lệ về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất... quy định này hoàn
toàn phù hợp với thực tiễn nên nông nghiệp trồng lúa nước của nước ta, thực tiễn chiến
tranh chống giặc ngoại xâm cùng với việc chính sách pháp luật về đất đai cũng thường
xuyên sửa đổi, bổ sung. Trong nhiều trường hợp, việc chưa có GCNQSDĐ không hoàn
toàn do lỗi từ phía người sử dụng đất nông nghiệp như: Người sử dụng đất nông nghiệp
đã làm hồ sơ để được cấp GCNQSDĐ nhưng đang phải chờ cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền thẩm định, xem xét; đất nông nghiệp đang sử dụng nằm trong quy hoạch nên
không cấp GCNQSDĐ... Tuy nhiên, người sử dụng đất nông nghiệp khi bị thu hồi đất
mà không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như đã nêu ở trên cần phải đảm bảo
một điều kiện nữa mới được bồi thường đó là phải được UBND cấp xã xác nhận đất
đang sử dụng không có tranh chấp. Để bảo đảm quyền lợi của người sử dụng đất và giải
quyết những vấn đề do lịch sử quản lý đất đai để lại, Nhà nước quy định các căn cứ xác
định loại đất trong những trường hợp này. Cụ thể: Trường hợp đang sử dụng đất ổn định
mà không phải do lấn chiếm, chuyển mục đích sử dụng trái phép thì loại đất được xác
định theo hiện trạng đang sử dụng; trường hợp sử dụng đất do lấn, chiếm, chuyển mục
đích sử dụng đất trái phép thì loại đất được xác định căn cứ vào nguồn gốc, quá trình
quản lý, sử dụng đất; trường hợp Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất thì xác định loại đất căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây
dựng, quy hoạch đô thị, quy hoạch điểm dân cư nông thôn, quy hoạch xây dựng xã nông
thôn mới đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và dự án đầu tư [12].
88
Quy định về điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp như
trên là chặt chẽ nhưng đồng thời cũng thể hiện tính linh hoạt, mềm dẻo, nhân văn của
Pháp luật nước ta nhằm phù hợp với thực tiễn và quan trọng là bảo đảm quyền và lợi ích
của người có đất nông nghiệp bị thu hồi.
Thứ ba, các quy định bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp:
Việc bồi thường về đất được quy định tại Điều 77 và Điều 78 LĐĐ năm 2013
như sau:
- Bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân: Diện tích đất nông nghiệp được bồi thường bao gồm
diện tích trong hạn mức theo quy định tại Điều 129, Điều 130 của LĐĐ năm 2013 và
diện tích đất do được nhận thừa kế; đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức quy
định tại Điều 129 LĐĐ năm 2013 thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi
thường chi phí đầu tư vào đất còn lại: Tại Điều 129 LĐĐ năm 2013 quy định hạn mức
giao đất nông nghiệp như sau:
Một là, hạn mức giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm
muối cho mỗi hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp như sau: (i) Không
quá 03 héc ta cho mỗi loại đất đối với tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc khu
vực Đông Nam Bộ và khu vực đồng bằng sông Cửu Long; (ii) Không quá 02 héc ta cho
mỗi loại đất đối với tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác.
Hai là, hạn mức giao đất trồng cây lâu năm cho mỗi hộ gia đình, cá nhân không
quá 10 héc ta đối với xã, phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá 30 héc ta đối với xã,
phường, thị trấn ở trung du, miền núi.
Ba là, hạn mức giao đất cho mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá 30 héc ta đối
với mỗi loại đất: (i) Đất rừng phòng hộ; (ii) Đất rừng sản xuất.
Bốn là, trường hợp hộ gia đình, cá nhân được giao nhiều loại đất bao gồm đất
trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối thì tổng hạn mức giao đất
không quá 05 héc ta. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được giao thêm đất trồng cây lâu
năm thì hạn mức đất trồng cây lâu năm không quá 05 héc ta đối với xã, phường, thị trấn
ở đồng bằng; không quá 25 héc ta đối với xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi.
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được giao thêm đất rừng sản xuất thì hạn mức giao đất
rừng sản xuất không quá 25 héc ta.
Năm là, hạn mức giao đất trống, đồi núi trọc, đất có mặt nước thuộc nhóm đất
chưa sử dụng cho hộ gia đình, cá nhân đưa vào sử dụng theo quy hoạch để sản xuất nông
89
nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối không quá hạn mức giao đất quy
định tại một, hai, và ba ở trên và không tính vào hạn mức giao đất nông nghiệp cho hộ
gia đình, cá nhân quy định tại các mục một, hai và ba ở trên. UBND cấp tỉnh quy định
hạn mức giao đất trống, đồi núi trọc, đất có mặt nước thuộc nhóm đất chưa sử dụng cho
hộ gia đình, cá nhân đưa vào sử dụng theo quy hoạch, KHSDĐ đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt.
Sáu là, hạn mức giao đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, trồng cây lâu năm,
trồng rừng, nuôi trồng thủy sản, làm muối thuộc vùng đệm của rừng đặc dụng cho mỗi
hộ gia đình, cá nhân được thực hiện theo quy định tại 1, 2, 3, 4 và 5 ở trên.
Bảy là, đối với diện tích đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng
ngoài xã, phường, thị trấn nơi đăng ký hộ khẩu thường trú thì hộ gia đình, cá nhân được
tiếp tục sử dụng, nếu là đất được giao không thu tiền sử dụng đất thì được tính vào hạn
mức giao đất nông nghiệp của mỗi hộ gia đình, cá nhân. Cơ quan quản lý đất đai nơi đã
giao đất nông nghiệp không thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân gửi thông báo
cho UBND cấp xã nơi hộ gia đình, cá nhân đó đăng ký hộ khẩu thường trú để tính hạn
mức giao đất nông nghiệp.
Tám là, diện tích đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân do nhận chuyển
nhượng, thuê, thuê lại, nhận thừa kế, được tặng cho quyền sử dụng đất, nhận góp vốn
bằng quyền sử dụng đất từ người khác, nhận khoán, được Nhà nước cho thuê đất không
tính vào hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều này”. Điều 130 LĐĐ năm
2013 cũng quy định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia
đình, cá nhân như sau: “ (i) Hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của
hộ gia đình, cá nhân không quá 10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp của hộ gia đình,
cá nhân đối với mỗi loại đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 129 của Luật này. (ii)
Chính phủ quy định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia
đình, cá nhân phù hợp với điều kiện cụ thể theo từng vùng và từng thời kỳ” [27].
Đối với diện tích đất nông nghiệp do nhận chuyển quyền sử dụng đất vượt hạn
mức trước ngày LĐĐ năm 2013 có hiệu lực thì việc bồi thường, hỗ trợ được thực hiện
theo quy định của Chính phủ, cụ thể: Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp
vượt hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 do được
thừa kế, tặng cho, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ người khác theo quy định
của pháp luật mà đủ điều kiện được bồi thường thì được bồi thường, hỗ trợ theo diện
tích thực tế mà Nhà nước thu hồi. Đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng
đất nông nghiệp nhưng không có GCNQSDĐ hoặc không đủ điều kiện để được cấp
90
GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của LĐĐ
thì chỉ được bồi thường đối với diện tích đất trong hạn mức giao đất nông nghiệp. Đối
với phần diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức giao đất nông nghiệp thì không được
bồi thường về đất nhưng được xem xét hỗ trợ theo quy định tại Điều 25 của Nghị định
47/2013/NĐ-CP.
Đối với đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà người
sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không có Giấy
chứng nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này thì được bồi thường đối với
diện tích đất thực tế đang sử dụng, diện tích được bồi thường không vượt quá hạn mức
giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 của LĐĐ năm 2013.
Bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, cộng đồng dân
cư, cơ sở tôn giáo: Tổ chức kinh tế đang sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao
đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê,
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện
được bồi thường quy định tại Điều 75 của LĐĐ thì được bồi thường về đất; mức bồi
thường về đất được xác định theo thời hạn sử dụng đất còn lại. Tổ chức kinh tế, tổ chức
sự nghiệp công lập tự chủ tài chính đang sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước cho
thuê trả tiền thuê đất hàng năm khi Nhà nước thu hồi đất thì không được bồi thường về
đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại nếu chi phí này không có
nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Trường hợp đất nông nghiệp không phải là đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng
hộ, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên của tổ chức kinh tế đã giao khoán cho hộ gia đình,
cá nhân theo quy định của pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất thì hộ gia đình, cá nhân
nhận khoán không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào
đất còn lại. Tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định: “Chi phí đầu tư
vào đất còn là các chi phí mà người sử dụng đất đã đầu tư vào đất phù hợp với mục đích
sử dụng đất nhưng đến thời điểm cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi
đất còn chưa thu hồi hết” [9]. Chi phí đầu tư vào đất còn lại gồm toàn bộ hoặc một phần
của các khoản chi phí sau: (i) Chi phí san lấp mặt bằng; (ii) Chi phí cải tạo làm tăng độ
màu mỡ của đất, thay chua rửa mặn, chống xói mòn, xâm thực đối với đất sử dụng vào
mục đích sản xuất nông nghiệp; (iii) Chi phí khác có liên quan đã đầu tư vào đất phù
hợp với mục đích sử dụng đất.
91
Điều kiện xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại: (i) Có hồ sơ, chứng từ chứng
minh đã đầu tư vào đất. Trường hợp chi phí đầu tư vào đất còn lại không có hồ sơ, chứng
từ chứng minh thì UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là UBND
cấp tỉnh) căn cứ tình hình thực tế tại địa phương quy định việc xác định chi phí đầu tư
vào đất còn lại; (ii) Chi phí đầu tư vào đất không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Chi phí đầu tư vào đất còn lại được tính phải phù hợp với giá thị trường tại thời
điểm có quyết định thu hồi đất và được xác định theo công thức sau:
Trong đó:
P: Chi phí đầu tư vào đất còn lại;
P1: Chi phí san lấp mặt bằng;
P2: Chi phí cải tạo làm tăng độ màu mỡ của đất, thau chua rửa mặn, chống xói
mòn, xâm thực đối với đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp;
P3: Chi phí gia cố khả năng chịu lực chống rung, sụt lún đất đối với đất làm mặt
bằng sản xuất kinh doanh;
P4: Chi phí khác có liên quan đã đầu tư vào đất phù hợp với mục đích sử dụng
đất;
T1: Thời hạn sử dụng đất;
T2: Thời hạn sử dụng đất còn lại.
Đối với trường hợp thời điểm đầu tư vào đất sau thời điểm được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất thì thời hạn sử dụng đất (T1) được tính từ thời điểm đầu tư vào đất.
Trong thực tế đối với đất nông nghiệp, người sử dụng đất đầu tư các khoản như
san lấp mặt bằng, đầu tư rửa mặn, khử phèn, đầu tư để tăng độ phì nhiêu của đất thường
không có hồ sơ để chứng minh nên việc xác định chi phí còn lại hầu hết do UBND cấp
tỉnh quy định nhưng vẫn chưa sát với thực tế nên người nông dân có đất vẫn chịu thiệt.
Thứ tư, về giá đất nông nghiệp tính bồi thường:
Giá đất là giá trị của QSDĐ tính trên một đơn vị diện tích đất. Trong đó, giá trị
QSDĐ là giá trị bằng tiền của QSDĐ đối với một diện tích đất xác định trong thời hạn
sử dụng đất xác định. Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu của mình thông
qua việc quyết định giá đất. Theo Điều 113 và 114 LĐĐ năm 2013, những “loại” giá đất
làm cơ sở trực tiếp và gián tiếp để xác định giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất là: khung giá đất, bảng giá đất và giá đất cụ thể. Tại Khoản 3 Điều 114 LĐĐ năm
2013 quy định: “UBND cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể dưới sự tham mưu của cơ
92
quan quản lý đất đai cấp tỉnh. Trong quá trình thực hiện, cơ quan quản lý đất đai cấp
tỉnh được thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất để tư vấn xác định giá đất
cụ thể. Giá đất cụ thể được sử dụng để làm căn cứ tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất” [27].
Việc xác định giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nhằm
đảm bảo nguyên tắc “QSDĐ được pháp luật bảo hộ” được quy định tại Khoản 2 Điều
54 Hiến pháp năm 2013. Mặt khác, việc xác định giá đất cụ thể để tính tiền bồi thường
về đất nông nghiệp cũng hướng đến việc bảo đảm nguyên tắc “việc thu hồi đất phải công
khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật” quy định tại Khoản 3
Điều 54 Hiến pháp năm 2013. Khoản 3 Điều 112 LĐĐ năm 2013 quy định: “Giá đất của
Nhà nước phải phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường [27]. Khoản 3 Điều 3 Nghị
định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về giá đất: “Giá đất
phổ biến trên thị trường là mức giá xuất hiện với tần suất nhiều nhất trong các giao dịch
đã chuyển nhượng thành công trên thị trường, giá đất trúng đấu giá QSDĐ, giá đất xác
định từ chi phí, thu nhập của các thửa đất có cùng mục đích sử dụng tại một khu vực và
trong một khoảng thời gian nhất định [10]. Thực tế cho thấy, điểm khó nhất vẫn là xác
định giá đất phổ biến trên thị trường bởi thị trường đất đai ở Việt Nam, nếu có, là một
thị trường chưa hoàn chỉnh và nhiều biến động.
Trường hợp bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được xác
định là giá đất cụ thể - giá đất phù hợp thị trường tại thời điểm quyết định giá đất. LĐĐ
năm 2013 đưa ra quy trình định giá đất cụ thể, trong đó có những bước mấu chốt như:
Thuê định giá độc lập, thẩm định giá tại Hội đồng thẩm định giá cấp tỉnh và UBND cấp
tỉnh quyết định giá đất.
Thứ năm, bồi thường tài sản trên đất:
Xác định giá trị để bồi thường tài sản là cây trồng trên đất, vật nuôi là thủy sản.
Tại Điều 90 LĐĐ năm 2013 quy định về việc bồi thường tài sản là cây trồng trên đất,
vật nuôi là thủy sản khi thu hồi đất nông nghiệp như sau:
Một là, khi Nhà nước thu hồi đất mà gây thiệt hại đối với cây trồng thì việc bồi
thường thực hiện theo quy định sau đây: (i) Đối với cây hàng năm, mức bồi thường được
tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch. Giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được
tính theo năng suất của vụ cao nhất trong 03 năm trước liền kề của cây trồng chính tại
địa phương và giá trung bình tại thời điểm thu hồi đất; (ii) Đối với cây lâu năm, mức bồi
thường được tính bằng giá trị hiện có của vườn cây theo giá ở địa phương tại thời điểm
thu hồi đất mà không bao gồm giá trị quyền sử dụng đất; (iii) Đối với cây trồng chưa
93
thu hoạch nhưng có thể di chuyển đến địa điểm khác thì được bồi thường chi phí di
chuyển và thiệt hại thực tế do phải di chuyển, phải trồng lại; (iv) Đối với cây rừng trồng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, cây rừng tự nhiên giao cho tổ chức, hộ gia đình,
cá nhân trồng, quản lý, chăm sóc, bảo vệ thì bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của
vườn cây; tiền bồi thường được phân chia cho người quản lý, chăm sóc, bảo vệ theo quy
định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.
Hai là, khi Nhà nước thu hồi đất mà gây thiệt hại đối với vật nuôi là thủy sản thì
việc bồi thường thực hiện theo quy định sau đây: (i) Đối với vật nuôi là thủy sản mà tại
thời điểm thu hồi đất đã đến thời kỳ thu hoạch thì không phải bồi thường; (ii) Đối với
vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi đất chưa đến thời kỳ thu hoạch thì được bồi
thường thiệt hại thực tế do phải thu hoạch sớm; trường hợp có thể di chuyển được thì
được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại do di chuyển gây ra; mức bồi thường cụ
thể do UBND cấp tỉnh quy định”.
3.5.1.2. Thực tiễn áp dụng
Việc xác định giá trị đối với cây lâu năm trong thực tiễn là vấn đề vô cùng phức
tạp và khác nhau ở nhiều địa phương như: UBND tỉnh Quảng Ngãi đưa ra tiêu chí xác
định giá trị bồi thường đối với cây cà phê thành: “Loại cây mới trồng (20.000 đồng/cây),
loại cây chưa cho quả (80.000 đồng/cây) và loại cây đang cho quả (150.000 đồng/cây)”
[55]. Còn UBND tỉnh Đắk Lắk đưa ra tiêu chí xác định giá trị bồi thường đối với cây cà
phê thành giai đoạn thiết kế cơ bản và giai đoạn kinh doanh như sau: “Giai đoạn thiết
kế cơ bản (trồng mới và đang chăm sóc) loại A 69.400 đồng/cây, loại B 55.500 đồng/cây,
loại C 38.900 đồng/cây. Giai đoạn kinh doanh (năm thứ nhất và năm thứ 3) loại A
276.400 đồng/cây, loại B 221.100 đồng/cây, loại C 154.800 đồng/cây” [44]. Như vậy,
ở mỗi địa phương lại quy định một mức giá bồi thường khác nhau, thậm chí giá bồi
thường cao gấp đôi dẫn đến bất cập, không bình đẳng trong việc xác định giá cây trồng
để bồi thường khi nhà nước thu hồi đất.
Việc tính mức bồi thường trong thực tế cũng nảy sinh nhiều bất cập, tại điểm b
Khoản 1 Điều 90 LĐĐ năm 2013 quy định: “Mức bồi thường được tính bằng giá trị hiện
có của vườn cây...” [27]. Việc xác định “giá trị hiện có của vườn cây” không hề đơn
giản. Thực chất, vốn đầu tư ban đầu của một số cây quý như sa chi, mắc ca lên đến hàng
trăm triệu đồng cho mỗi ha. Như đối với cây mắc ca chi phí đầu tư vào khoảng 100 -
150 triệu đồng/ha. Tuy nhiên, số tiền quy định về bồi thường của các địa phương cho
thiệt hại về cây trồng nói chung và cây lâu năm nói riêng là rất thấp. Cụ thể như tại tỉnh
Lai Châu số tiền bồi thường cho diện tích cây mắc ca tương đương chỉ là 43.020.000
94
đồng- 55.020.000/ha8 cho diện tích canh tác [46]. Cách xác định giá trị hiện có của vườn
cây được xác định thế nào cho đúng quan điểm, thì vẫn chưa có sự thống nhất. Cụ thể:
Tại tỉnh Quảng Ngãi đưa ra tiêu chí nhằm xác định giá trị bồi thường của cây lâu năm
dựa trên căn cứ đơn vị diện tích, mật độ cây trồng mà UBND tỉnh này đưa ra [54]. Khi
đó tại Đắk Lắk, giá trị hiện có của vườn cây dựa vào 2 tiêu chí kết hợp là chỉ tiêu sinh
trưởng và năng suất dự kiến để phân loại cây vào các nhóm A,B,C,D; từ đó đưa ra giá
trị trên một cây trồng [43].
Qua khảo sát bảng giá đất giai đoạn 2015 - 2019 của 14 tỉnh thành ở các khu vực
của đất nước được công bố vào cuối tháng 12 năm 2014 Phụ lục 1 cho thấy: Việc xây
dựng giá đất ở các địa phương có sự khác nhau, không tuân theo một quy luật nào và
chênh lệch quá lớn như: Thành phố Đà Nẵng với tốc độ tăng trưởng kinh tế là 9.28%
nhưng giá đất nông nghiệp thuộc vào loại trung bình: Giá đất trồng cây hằng năm cao
nhất là 70.000 đồng/m2, giá đất trồng cây lâu năm cao nhất là 35.000 đồng/m2. Trong
khi đó ở Đồng Nai tốc độ tăng trưởng kinh tế là 11.55% nhưng giá đất cây trồng hằng
năm cao nhất là 350.000 đồng/m2, giá đất trồng cây lâu năm cao nhất là 350.000
đồng/m2, cao hơn cả giá đất ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tương tự, tỉnh Bắc
Giang và tỉnh Đắc Lắc có tốc độ tăng trưởng kinh tế giống nhau là 9,2% nhưng giá đất
nông nghiệp lại chênh lệch nhau: Ở tỉnh Bắc Giang giá đất trồng cây hằng năm cao nhất
là 60.000 đồng/m2, còn ở tỉnh Đắc Lắc giá đất trồng cây hằng năm cao nhất là 45.000
đồng/m2. Vì vậy, rất cần một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn
từ Chính phủ hoặc Bộ TN&MT hướng dẫn cụ thể để áp dụng thống nhất mức giá đền
bù cây trồng, vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trong phạm vi cả nước.
Qua khảo sát ý kiến của người bị thu hồi đất về bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp để phát triển kinh - tế xã hội ở Phụ lục 2 mục 2.5 cho thấy: Số người
đồng ý với phương án Nhà nước bồi thường bằng đất nông nghiệp là 56,8% nhưng chỉ
có 3,4% số người được hỏi đồng tình với phương thức nhà nước bồi thường bằng tiền.
Chỉ có 1% số người số người được hỏi đồng tình với giá đất nông nghiệp được Nhà
nước bồi thường, còn 87% không đồng tình với giá đất và 12% không có ý kiến. Việc
này cho thấy giá đất hiện nay để tính bồi thường cho người bị thu hồi đất nông nghiệp
là quá thấp, chưa phù hợp với giá đất trên thị trường chuyển nhượng.
3.5.2. Các quy định về hỗ trợ người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
3.5.2.1. Quy định của pháp luật
95
Hỗ trợ là biện pháp bổ sung cần thiết để làm trọn vẹn hơn mục đích bồi thường
khi nhà nước thu hồi đất nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của người dân có đất nông
nghiệp bị thu hồi, giúp họ giảm thiểu khó khăn, nhanh chóng ổn định cuộc sống. Biện
pháp hỗ trợ không những khắc phục những thiệt hại thực tế mà còn hướng tới bù đắp
những thiệt hại vô hình như môi trường sống, văn hóa, việc làm, vị trí địa lý cũng như
những tổn thất về mặt tinh thần do việc thu hồi đất gây ra. Tại Khoản 30 Điều 3 LĐĐ
năm 2013 quy định: “Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp là hộ gia đình,
cá nhân đã được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp;
nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp và có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất
nông nghiệp trên đất đó là đối tượng được nhà nước hỗ trợ khi thu hồi đất” [27]. Và
được cụ thể hóa tại Điều 19 Nghị định số: 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ bao gồm:
Thứ nhất, hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội.
Vấn đề hỗ trợ đời sống và sản xuất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đã được
Chính phủ hướng dẫn chi tiết tại Điều 19 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Nhà nước căn cứ
vào diện tích đất nông nghiệp của người dân bị thu hồi nhiều hay ít cũng như diện tích
đất nông nghiệp còn lại để hỗ trợ, bù đắp những thiệt thòi mà họ phải gánh chịu khi Nhà
nước thu hồi đất bao gồm:
Một là, đối tượng được hỗ trợ ổn định đời sống gồm: (i) Hộ gia đình, cá nhân
được Nhà nước giao đất nông nghiệp sử dụng ổn định, lâu dài kể từ khi thực hiện LĐĐ
năm 1993; (ii) Hộ gia đình cá nhân thuộc đối tượng đủ điều kiện để giao đất nông nghiệp
nói trên nhưng chưa được giao đất nông nghiệp và đang sử dụng đất nông nghiệp do
nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, được tặng cho, khai hoang theo quy định của pháp
luật và được UBND cấp xã nơi có đất thu hồi xác nhận là đang trực tiếp sản xuất trên
đất nông nghiệp đó; (iii) Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do nhận giao khoán đất
sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản (không bao gồm
đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ) của các nông, lâm trường quốc doanh là cán bộ, công
nhân viên của nông, lâm trường quốc doanh đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu, nghỉ mất
sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp đang trực tiếp sản xuất nông, lâm nghiệp;
(iv) Các nông, lâm trường quốc doanh hoặc công ty nông, lâm nghiệp được chuyển đổi
từ các nông, lâm trường quốc doanh đang trực tiếp sản xuất nông nghiệp và có nguồn
thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp trên đất đó; Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng
96
đất do nhận giao khoán đất của tập đoàn sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp
đang trực tiếp sản xuất nông nghiệp và có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông
nghiệp trên đất đó;
Hai là, điều kiện để được hỗ trợ, ổn định đời sống: (i) Đối với hộ gia đình, cá
nhân, tổ chức kinh tế đang sử dụng đất nông nghiệp thuộc đối tượng nói trên đã được
cấp GCNQSDĐ hoặc đủ điều kiện được GCNQSDĐ trừ trường hợp: Đối với đất nông
nghiệp đã sử dụng trước ngày 01/7/2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân
trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng GCNQSDĐ hoặc không đủ điều kiện cấp
GCNQSDĐ (Khoản 2 Điều 77 LĐĐ năm 2013); (ii) Đối với hộ gia đình, cá nhân đang
sử dụng đất do nhận giao khoán đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp,
nuôi trồng thủy sản (không bao gồm đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng) của các lâm
trường, nông trường thì phải có hợp đồng giao khoán sử dụng đất
Ba là, mức hỗ trợ ổn định đời sống: (i) Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất
nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ trong thời gian 6 tháng nếu không phải di
chuyển chỗ ở và trong thời gian 12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di
chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế
- xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 24 tháng; (ii) Đối với trường hợp
thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ trong thời gian
12 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong thời gian 24 tháng nếu phải di chuyển
chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn
hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 36
tháng.
Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu được tính bằng tiền tương đương 30kg gạo trong
01 tháng theo thời giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ của địa phương. Diện tích đất thu
hồi được xác định theo từng quyết định thu hồi đất của UBND có thẩm quyền. UBND
cấp tỉnh quyết định mức hỗ trợ, thời gian hỗ trợ, định kỳ chi trả tiền hổ trợ cho phù hợp
với thực tế ở địa phương.
Khi nghiên cứu các quy định của pháp luật, các văn bản hướng dẫn về hổ trợ ổn
định đời sống cũng như các quy định của các địa phương nghiên cứu sinh thấy rằng:
Một là, hầu hết các địa phương đều quy định hỗ trợ theo Nghị định số
47/2014/NĐ-CP của Chính phủ khi thu hồi diện tích đất nông nghiệp từ 30% trở lên.
như UBND tỉnh Đắk Lắk quy định tại Điều 17 Quyết định số 39/2014/QĐ-UBND khi
diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi dưới 30% thì không được hỗ trợ [43]. UBND tỉnh
97
Đồng Nai cũng quy định tại Điều 14 Quyết định số 54/2014/QĐ-UBND không hỗ trợ
đối với diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi dưới 30% [45].
Hai là, tại Điều 5 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP không quy định hỗ trợ cho người
có đất bị thu hồi dưới 30% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng và “Diện tích đất
nông nghiệp đang sử dụng là tổng diện tích đất nông nghiệp mà hộ gia đình, cá nhân có
trong phạm vi một xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi tại thời điểm có quyết định thu
hồi đất, không cộng dồn diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi của các quyết định thu hồi
trước đó” [9]. Nhưng trên thực tế có nhiều trường hợp bị thu hồi đất nông nghiệp nhiều
lần và lần nào cũng dưới 30% mà không được hỗ trợ thì quả là thiệt thòi cho người bị
thu hồi đất trong việc thụ hưởng chính sách. Tuy nhiên, tại Khoản 3 Điều 5 Thông tư số
37/2014/TT-BTNMT thì giao trách nhiệm này cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh: “Trường
hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất quy định tại khoản 2 Điều này bị thu hồi dưới 30%
diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng mà việc thu hồi đất ảnh hưởng đến đời sống, sản
xuất của người thu hồi đất thì Chủ tịch UBND cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tế tại địa
phương quyết định biện pháp hỗ trợ khác quy định tại Điều 25 của Nghị định số
47/2014/NĐ-CP cho phù hợp” [5].
Việc hỗ trợ ổn định sản xuất: Tại Điều 19 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP của
Chính phủ quy định: “(i) Hộ gia đình, cá nhân được bồi thường bằng đất nông nghiệp
thì được hỗ trợ ổn định sản xuất, bao gồm: Hỗ trợ giống cây trồng, giống vật nuôi cho
sản xuất nông nghiệp, các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ bảo vệ thực vật,
thú y, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi và kỹ thuật nghiệp vụ đối với sản xuất, kinh doanh
dịch vụ công thương nghiệp; (ii) Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do nhận
giao khoán đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản của
các nông, lâm trường quốc doanh thuộc đối tượng quy định nói trên thì được hỗ trợ ổn
định đời sống và sản xuất theo hình thức bằng tiền” [13]. Việc hỗ trợ ổn định sản xuất
được tính theo diện tích đất nông nghiệp được bồi thường chứ không phải diện tích đất
nông nghiệp bị thu hồi.
Tại Khoản 2 Điều 74 LĐĐ năm 2013 lại quy định: “Việc bồi thường được thực
hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất
để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do
UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất” [27].
Như vậy, khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp sẽ bồi thường theo hai phương
thức: Bồi thường bằng đất nông nghiệp hoặc bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể
của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quy định tại thời điểm thu hồi đất.
98
Thứ hai, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Khi thu hồi đất nông nghiệp mà hộ gia đình cá nhân trực tiếp sản xuất, ngoài tiền
Nhà nước bồi thường thì còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp được quy
định tại Khoản 1 Điều 20 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP bao gồm: “Hộ gia đình, cá nhân
trực tiếp sản xuất nông nghiệp quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều 19 của
Nghị định này (trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của nông
trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi
việc được hưởng trợ cấp) khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà được bồi thường
bằng tiền thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền đối với diện tích đất nông nghiệp thu
hồi còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm [9]. Hỗ trợ bằng tiền
không quá 05 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong bảng giá đất của địa phương đối
với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp thu hồi; diện tích được hỗ trợ không vượt quá hạn
mức giao đất nông nghiệp tại địa phương. Mức hỗ trợ cụ thể do UBND cấp tỉnh quy
định căn cứ điều kiện thực tế của địa phương.
Việc xây dựng phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm phải
lấy ý kiến của người có đất bị thu hồi. Tại Khoản 3 Điều 84 LĐĐ năm 2013 quy định
phương án này phải lấy ý kiến của người có đất thu hồi nhưng Khoản 3 Điều 20 Nghị
định số 47/2014/NĐ-CP lại quy định phương án này phải lấy ý kiến của người thu hồi
đất. Vậy giữa LĐĐ năm 2013 và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP lại mâu thuẫn nhau. Vậy
sẽ lấy ý kiến của ai? Một bên là lấy ý kiến của người có đất bị thu hồi, còn một bên là
lấy ý kiến của người thu hồi đất. Theo nghiên cứu sinh thì lấy ý kiến của người có đất
thu hồi là hợp lý, vì chỉ có họ mới ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hồi đất, đến việc bồi
thường và hỗ trợ. Đồng thời cũng chưa quy định về nội dung, hình thức, cũng như thời
điểm lấy ý kiến là khi nào?
3.5.2.2. Thực tiễn áp dụng
Trong thực tiễn, một số địa phương quy định mức hỗ trợ trực tiếp trong trường
hợp trên là rất khác nhau như: Tại Khoản 2 Điều 22 Quyết định số 43/2014/QĐ-UBND
của UBND tỉnh Quảng Nam quy định “Hỗ trợ đối với diện tích đất nông nghiệp bị thu
hồi từ 15% - đến dưới 30% nhưng không phải di chuyển là 30kg gạo cho một nhân khẩu
và thời gian hỗ trợ là 4 tháng. Trường hợp phải di chuyển chỗ ở: Di chuyển chỗ ở đến
nơi khác trong hoặc ngoài huyện, thành phố thuộc khu vực đồng bằng trong tỉnh: 08
tháng; di chuyển trong phạm vi các huyện thuộc khu vực miền núi trong tỉnh: 12 tháng;
di chuyển chỗ ở ra ngoài tỉnh, di chuyển chỗ ở ra ngoài huyện trong tỉnh thuộc khu vực
99
miền núi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn: 18 tháng” [53]. Hoặc tại Điều
3 Quyết định số 08/2015/QĐ-UBND của UBND tỉnh Nam Định quy định: “Diện tích
đất sản xuất nông nghiệp bị thu hồi dưới 30% nhưng không phải di chuyển chỗ ở là 30
kg gạo cho một nhân khẩu và thời gian hỗ trợ là 3 tháng. Trường hợp phải di chuyển
chỗ ở là 6 tháng” [51]. Hoặc tại Khoản 1 Điều 22 Quyết định số 54/2014/QĐ-UBND
của UBND tỉnh Nghệ An quy định: “Thu hồi dưới 30% diện tích đất nông nghiệp đang
sử dụng thì được hỗ trợ ổn định đời sống: Trong thời gian 3 tháng nếu không phải di
chuyển chỗ ở; trong thời gian 6 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di
chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế
- xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ là 12 tháng” [52]. Mức hỗ trợ cho một
nhân khẩu được tính bằng tiền tương đương 30 kg gạo/01 tháng, theo thông báo giá thị
trường hàng tháng của Sở Tài chính. Trường hợp tại thời điểm chi trả tiền bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư, giá gạo biến động tăng trên 20% thì điều chỉnh theo mức giá tại
thời điểm chi trả. Trong khi đó tại Khoản 5 Điều 4 Quyết định số 54/2014/QĐ-UBND
của UBND tỉnh Thái Bình lại quy định: “Trường hợp hộ gia đình cá nhân bị thu hồi đất
nông nghiệp nhiều lần mà các lần thu hồi không đạt tỷ lệ quy định từ 30% trở lên thì
cho phép cộng dồn diện tích thu hồi của các dự án để xác định tỷ lệ thu hồi trên tổng
diện tích đất nông nghiệp được giao và xét hỗ trợ theo mức quy định tại Khoản 1 Điều
này” [58]. Quy định này là trái với Điều 5 Thông tư 37/2014/TT-BTNMT nhưng xem
ra lại phù hợp với thực tiễn, phù hợp với nguyện vọng của nhiều người dân có đất nông
nghiệp bị thu hồi nhiều lần nhưng lần nào cũng không đủ 30% diện tích. Vì vậy, cần sửa
đổi Thông tư số: 37/2014/TT-BTNMT theo hướng quy định giống như quy đinh của
UNBD tỉnh Thái Bình thì hoàn toàn hợp lý. Nhưng về mặt pháp lý thì quy định này hiện
nay phải bị hủy vì nó trái với văn bản cơ quan nhà nước cấp trên.
Tại Điểm c Khoản 3 Điều 19 Nghị định số: 47/2014/NĐ-CP quy định mức hỗ trợ
cho một nhân khẩu: “Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu quy định tại Điểm a và Điểm b
Khoản này được tính bằng tiền tương đương 30 kg gạo trong 01 tháng theo thời giá trung
bình tại thời điểm hỗ trợ của địa phương” [9]. Nhưng nhiều địa phương lại quy định
khác nhau về cách tính như: (i) Nghệ An: Theo thời giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ
của địa phương; Quảng Nam; (ii) Bắc Cạn: Đơn giá gạo áp dụng theo giá gạo tẻ thường
theo báo cáo giá thị trường hàng tháng của Sở Tài chính tại thời điểm phê duyệt phương
án bồi thường giải phóng mặt bằng; (iii) Đắc Nông: Mức hỗ trợ theo giá do Sở Tài chính
công bố tại thời điểm hỗ trợ; (iv) Quảng Bình: Theo giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ
của địa phương; (v) Bạc Liêu được tính bằng tiền tương đương 30kg gạo/tháng theo loại
100
gạo tẻ thường do Sở Tài chính báo cáo giá thị trường hàng tháng tại thời điểm có quyết
định thu hồi đất; (vi) Quảng Ninh: Giá gạo tính hỗ trợ do UBND cấp huyện quy định;
(vii) Phú Yên: Theo thời giá trung bình trên địa bàn cấp huyện nơi có đất thu hồi tại thời
điểm hỗ trợ; (viii) Sóc Trăng: Giá gạo trung bình được căn cứ vào giá gạo trung bình
trên địa bàn tỉnh do Cục Thống kê tỉnh thống kê và báo cáo hàng tháng. Như vây, việc
tính giá gạo trung bình và thời điểm tính ở các địa phương có sự quy định khác nhau
đồng thời nhiều địa phương quy định cách tính trái với quy định hiện hành là UBND
cấp tỉnh mới có quyền quản lý nhà nước về giá chứ không phải Sở Tài chính, UBND
cấp huyện hay Cục Thống kê như các địa phương đã làm, tại Khoản 4 Điều 8 Luật Giá
quy định: “UBND cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá tại địa phương theo quy định
của pháp luật” [28].
Về hỗ trợ ổn định sản xuất: Một số địa phương quy định không hỗ trợ ổn định
sản xuất khi nhà nước bồi thường bằng tiền và chỉ hỗ trợ ổn định sản xuất trên cơ sở
diện tích đất nông nghiệp được giao mới như tỉnh Kon Tum, Quảng Nam, Vĩnh Long,
Phú Yên, Bình Phước. Việc Hỗ trợ này được xác định theo tinh thần Khoản 4 Điều 19
Nghị định số: 47/2017/NĐ-CP của Chính Phủ. Đa phần các địa phương đều dựa vào
diện tích đất nông nghiệp thực tế bị thu hồi để hỗ trợ sản xuất nhưng không được vượt
quá hạn mức giao đất theo quy định tại Điều 129 LĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng
dẫn. Việc quy định như vậy theo nghiên cứu sinh là phù hợp với thực tế.
Một số địa phương quy định cụ thể mức hỗ trợ và thấp nhất là 1.000 đồng/1m2
đối với diện tích đất bị thu hồi như tỉnh Bình Thuận được quy định tai Khoản 3 Điều 23
Quyết định số 08/2015/QĐ-UBND [31], một số địa phương thì chia ra mức hỗ trợ đối
với từng loại đất như tỉnh Bắc Giang quy định tại Khoản 1 Điều 19 Quyết định số
869/2014/QĐ-UBND: “Hỗ trợ đối với đất sản xuất nông nghiệp trồng cây hàng năm,
đất nuôi trồng thuỷ sản và đất nông nghiệp khác: 10.000 đồng/m²; Hỗ trợ đối với đất
trồng cây ăn quả, cây lâu năm: 7.000 đồng/m²; Hỗ trợ đối với đất rừng sản xuất đã trồng
cây với mật độ quy định và chiều cao cây đạt trên 1,2 m: 5.000 đồng/m²; đối với rừng
nghèo kiệt: 1.500 đồng/m²” [30]. Đối với tỉnh Quảng Nam lại quy định hỗ trợ tại Khoản
4 Điều 22 Quyết định số 43/2014/QĐ-UBND như sau: “Hỗ trợ giống cây trồng, phân
bón: Mức hỗ trợ là: 1.000 đồng/m2 theo diện tích đất sản xuất nông nghiệp được giao
mới; hỗ trợ giống vật nuôi cho sản xuất nông nghiệp: 5.000.000 đồng/hộ; hỗ trợ các dịch
vụ khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y, kỹ thuật trồng trọt, chăn
nuôi: 1.000.000 đồng/hộ; hỗ trợ kỹ thuật nghiệp vụ đối với sản xuất kinh doanh dịch vụ
101
công thương nghiệp: 1.000.000 đồng/hộ” [53]. Tỉnh Gia Lai quy định mức hỗ trợ
6.000.000 đồng/ha [46].
Về hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm ở các địa phương
Nghiên cứu sinh rút ra một số nhận xét sau:
Một là, các địa phương quy định mức hỗ trợ rất khác nhau và chênh lệch khá cao
như tỉnh Gia Lai: Mức hỗ trợ 2,5 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trên phạm vi toàn
tỉnh trừ thành phố Pleiku là 3 lần; tỉnh Hà Nam: Mức hỗ trợ bằng 02 lần giá đất nông
nghiệp cùng loại theo bảng giá đất quy định của tỉnh đối với diện tích đất nông nghiệp
bị thu hồi; tỉnh Hậu Giang: Mức hỗ trợ bằng 02 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong
bảng giá đất do UBND tỉnh quy định nhưng không thấp hơn 60.000 đồng/m2 đối với
toàn bộ diện tích nông nghiệp thu hồi; diện tích hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất
nông nghiệp theo quy định; tỉnh Lai Châu: Mức hỗ trợ đất trồng lúa nước 02 vụ trở lên
bằng 4,0 lần giá đất cùng loại; đối với đất trồng lúa nước 01 vụ bằng 3,5 lần giá đất cùng
loại; đối với đất trồng cây hàng năm, đất nương rẫy, đất trồng cây hàng năm khác, đất
nuôi trồng thủy sản, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất bằng 3,0 lần giá đất cùng
loại; tỉnh Quảng Nam: Mức hỗ trợ đất trồng lúa, đất trồng cây hằng năm khác và đất làm
muối: 3 lần, đất nuôi trồng thủy sản: 2,5 lần, đất trồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng
cây công nghiệp lâu năm, đất trồng cây ăn quả lâu năm: 2 lần, đất trồng rừng sản xuất,
đất rừng trồng sản xuất, đất trồng cây lâu năm khác, đất nông nghiệp khác: 1,5 lần. Tỉnh
Vĩnh Long: Mức hỗ trợ 3 lần giá đất nông nghiệp cùng loại đối với các xã thuộc huyện,
4 lần giá đất nông nghiệp cùng loại đối với các xã thuộc thị trấn và 5 lần giá đất nông
nghiệp cùng loại đối với các phường thuộc thành phố, thị xã.
Hai là, việc hỗ trợ cho các đối tượng bị thu hồi đất chủ yếu dưới hình thức hỗ trợ
tiền, chưa có giải pháp hiệu quả để đào tạo việc làm, ổn định đời sống cho người bị thu
hồi đất. Việc chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm do người dân tự lo, chưa thực hiện
được chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho đối tượng bị thu hồi đất trong độ tuổi lao động
và có nhu cầu đào tạo nghề, giải quyết việc làm. Thực tế, không ít gia đình cầm một
khoản tiền bồi thường xong chỉ một vài năm lại rơi vào tình cảnh khó khăn, buộc phải
ly hương đi làm ăn xa vì thiếu đất sản xuất. Theo báo cáo giám sát của HĐND tỉnh
Quảng Ngãi trong 5 năm 2014-2019 [97]: Toàn tỉnh có tỉnh có 819 dự án thu hồi đất,
tổng diện tích đất đã thu hồi hơn 3.434ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp hơn
2.862ha, hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất, đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc
làm cho người lao động khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh cho 36.993 đối tượng
với tổng số tiền trên 1.822 tỷ đồng với 1.671 phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
102
đã được UBND các huyện, thành phố lập, phê duyệt và thực hiện nhưng chỉ có một
phương án đào tạo, chuyển đổi ngành nghề được lập và phê duyệt là Phương án đào
tạo, chuyển đổi ngành nghề cho các hộ dân thuộc diện di dời giải tỏa Dự án nâng cấp,
mở rộng Nhà máy lọc dầu Dung Quất do Trung tâm Đào tạo và cung ứng nguồn lao
động Dung Quất lập và UBND huyện Bình Sơn phê duyệt với 153 người lao động đăng
ký học nghề như: Hàn kỹ thuật cao, may công nghiệp, nấu ăn, trồng rau an toàn, thú y,
lái xe với kinh phí đào tạo dự kiến 2,189 tỷ đồng, nhưng đến nay chưa thực hiện.
Việc quy định hỗ trợ bằng tiền thực tế không đem lại hiệu quả vì người dân có
đất nông nghiệp bị thu hồi hầu như không dùng khoản tiền này để đầu tư, sản xuất hoặc
chuyển đổi nghề nghiệp mà thường dùng cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày như mua sắm
xe cộ, đồ dùng trong nhà… Khi tiêu hết số tiền này thì họ lại trở thành những người
không nghề nghiệp, không thu nhập, cuộc sống lại khó khăn hơn trước khi bị thu hồi đất
nông nghiệp. Vì vậy, nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ như thế nào để việc hỗ trợ mang lại
hiệu quả.
Qua khảo sát ý kiến của người thu hồi về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội thể hiện ở Phụ lục 2 mục 2.6 cho thấy: (i) Có 56.8%
người bị thu hồi đất nông nghiệp đồng tình với phương thức Nhà nước bồi thường đất
nông nghiệp bị thu hồi bằng quỹ đất nông nghiệp khác nhưng chỉ có 3.4% có đồng tình
với phương thức Nhà nước bồi thường đất nông nghiệp bị thu hồi bằng tiền; (ii) Chỉ có
1% người bị thu hồi đất nông nghiệp đồng ý với mức giá đất do Nhà nước bồi thường
và có đến 87% người bị thu hồi đất nông nghiệp không đồng ý với mức giá này; (iii) Có
đến 86,8% người bị thu hồi đất nông nghiệp cho rằng chương trình hỗ trợ đào tạo nghề
của Nhà nước đối với người có đất nông nghiệp bị thu hồi hiện nay không thiết thực với
họ trong tìm kiếm việc làm. Vì vậy, Nhà nước cần phải quan tâm thực sự đến đời sống
của người dân sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp và chú ý hơn nữa đến nguyện vọng
chính đáng của họ.
Qua nghiên cứu nội dung các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội cả về lý luận cũng như
thực tiễn áp dụng, nghiên cứu sinh nhận thấy một số vấn đề cần phải giải quyết bên cạnh
những vấn đề bất cập đã nêu ở trên: Về bồi thường, hỗ trợ khu thu hồi đất nông nghiệp
được thực hiện bằng hai cách :
Bồi thường về đất nông nghiệp = đất: Khả năng không thực hiện được
Và bồi thường đất nông nghiệp = tiền: Giá đất thấp nên mượn cơ chế hỗ trợ để
bù đắp. Tuy nhiên, khi thực hiện cơ chế bồi thường, hỗ trợ cũng gặp những khó khăn
103
nhất định:
Khó khăn thứ nhất là về đất: Vì hỗ trợ chính bao gồm đào tạo nghề và ổn định
cuộc sống nhưng mức hỗ trợ quá thấp vì vậy, cần áp dụng cơ chế linh hoạt là hỗ trợ khác
đó là mức hỗ trợ từ ngân sách của các địa phương và mức hỗ trợ vận động từ các doanh
nghiệp. Nếu làm được như vậy thì người có đất nông nghiệp bị thu hồi sẽ đồng thuận,
song lại tạo ra những hệ lụy tiếp theo là các dự án khác sẽ khó khăn bởi vì nếu ngân sách
địa phương hết hoặc không huy động được các doanh nghiệp hỗ trợ.
Khó khăn thứ hai là bồi thường tài sản trên đất: Như xây dựng nhà ở trên đất
vườn ao; xây dựng các công trình khác; hành lang bảo vệ công trình thì không được bồi
thường cả đất và nhà. Tài sản là cây hằng năm: Thì giữa các loại cây trồng, chủng loại
có giá trị khác nhau song địa phương lại áp dụng giá đồng loạt.
Kết luận chương 3
1. Đất nông nghiệp luôn là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, không thế tách rời
hay thay thế của người nông dân. Đất nông nghiệp giữ vai trò quan trọng vào việc ổn
định an ninh lương thực của quốc gia. Tuy nhiên, việc thu hồi đất nói chung và đất nông
nghiệp nói riêng là vấn đề tất yếu khách quan trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển kinh tế của đất nước. Với đặc thù đất đai ở nhà nước ta thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước thống nhất quản lý đã chi phối đến quan hệ quản lý, sử dụng đất nông
nghiệp cũng như việc thu hồi đất. Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội phải điều tiết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người dân có
đất nông nghiệp bị thu hồi để vừa giữ vững ổn định chính tri, phát triển kinh tế - xã hội
vừa đảm bảo đời sống của người nông dân. Vì vậy, việc thu hồi đất, đất nông nghiệp đã
được hiến định trong văn bản có hiệu lưc pháp lý cao nhất là Hiến pháp năm 2013 cũng
như LĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
2. Trong chương 3 nghiên cứu sinh cũng đã phân tích các trường hợp nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội; bất cập trong các quy định của
pháp luật hiện hành về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội như: Quy
hoạch, KHSDĐ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, bồi thường, hỗ trợ, giải quyết khiếu nại,
tố cáo, tranh chấp khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Thông qua việc nghiên cứu các
quy định của pháp luật hiện hành về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã
hội, nghiên cứu sinh nhận thấy rằng: Để công tác thu hồi đất nông nghiệp có hiệu quả
thì ngay từ khâu lập quy hoạch, KHSDĐ phải đảm bảo tính khách quan, khoa học, dân
chủ và công khai minh, bạch cho đến khi triển khai thực hiện việc thu hồi đất phải đúng
quy định của pháp luật, đúng mục đích, đúng thẩm quyền cũng như cần dung hòa lợi ích
104
của nhà nước, nhà đầu tư và người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi, đồng thời hạn chế
đến mức thấp nhất những bất cập trong các quy định của pháp luật về thu hồi đất nói
chung và thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội nói riêng thì công tác thu
hồi đất mới thật sự đạt kết quả tốt.
3. Các quy định của LĐĐ năm 2013 và các văn bản có liên quan đến quá trình
nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi theo
hướng bảo vệ quyền lợi của NSDĐ, dung hòa được một phần lợi ích của nhà nước, nhà
đầu tư và người có đất nông nghiệp bị thu hồi. Tuy nhiên, vẫn còn một số quy định
chồng chéo, chưa rõ ràng, bất cập từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch, thẩm quyền thu hồi
đất, trình tự thủ tục thu hồi đất, phương án bồi thường, hỗ trợ đào tạo nghề, giá đất,
phương pháp xác định giá đất... cho đến việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Đồng
thời qua thực tiễn thu hồi đất ở một số địa phương cũng nãy sinh nhiều mâu thuẫn, bất
cập và tồn tại cần phải sửa đổi bổ sung cho phù hợp, đảm bảo các quyết định thu hồi đất
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được thực thi một cách nghiêm túc cùng với việc
đảm bảo quyền lợi của người có đất nông nghiêp bị thu hồi.
105
CHƯƠNG 4
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ TỔ
CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
4.1. Định hướng hoan thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xa hội ở Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu những ưu điểm cũng như hạn chế trong các quy định của
pháp luật về thu hồi đất và thực tiễn thực thi đòi hỏi cần phải hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội dựa trên những định hướng
chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
phải dựa vào quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về quản lý đất
đai.
Pháp luật là sự thể chế hóa quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng. Chính vì
vậy, khi xây dựng và hoàn thiện bất kỳ ngành luật nào cũng đều dựa trên nguyên tắc
này. Ngày 12/3/2003 Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị Ban Chấp hành Trung
trung ương Đảng khóa IX được ban hành khẳng định tiếp tục đổi mới chính sách pháp
luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã xác định: Đất
đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý; Nhà
nước giao đất, cho thuê đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu
dài hoặc có thời hạn theo quy định của pháp luật. Nhà nước không thừa nhận việc đòi
lại đất đã được nhà nước giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng trong quá trình thực hiện
các chính sách đất đai. Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cũng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt, là nguồn nội lực và nguồn vốn to lớn của đất nước. Quyền sử dụng đất là hàng
hóa đặc biệt. Chính sách đất đai phải chú ý đầy đủ tới các mặt kinh tế, chính trị, xã hội;
đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà nước, người đầu tư và người sử dụng đất, trong đó cần
chú trọng đúng mức lợi ích của nhà nước, của xã hội. Tăng cường trách nhiệm và nghĩa
vụ của mọi thành viên trong xã hội đối với việc quản lý và sử dụng đất.
Để tiếp tục khẳng định quan điểm trên, ngày 01 tháng 01 năm 2012 Ban chấp
hành trung ương Đảng khóa XI (Hội nghị lần thứ VI) ban hành Nghị quyết số 19-
NQ/TW về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại đã xác định rõ phương hướng để làm cơ sở hoàn thiện
106
pháp luật về thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng cần phải tập trung vào
những nội dung cơ bản sau:
(i) Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất
quản lý. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt, nhưng không phải
là quyền sở hữu, được xác định cụ thể phù hợp với từng loại đất, từng đối tượng và hình
thức giao đất, cho thuê đất; (ii) Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu thông qua
việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cho phép chuyển mục đích sử dụng
và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết
phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra; trao quyền sử dụng
đất và thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế, xã hội theo quy định của
pháp luật; (iii) NSDĐ được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ để sử
dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn và có các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và được
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, tuỳ theo từng loại đất và nguồn gốc sử dụng đất
theo quy định của pháp luật. NSDĐ có nghĩa vụ phải đăng ký QSDĐ, sử dụng đất đúng
mục đích, tuân thủ quy hoạch, trả lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất, chấp
hành pháp luật về đất đai; (iv) Chính sách, pháp luật về đất đai phải góp phần ổn định
chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hội
nhập quốc tế; huy động tốt nhất nguồn lực từ đất để phát triển đất nước; bảo đảm hài
hoà lợi ích của Nhà nước, của NSDĐ và của nhà đầu tư; bảo đảm cho thị trường bất
động sản, trong đó có quyền sử dụng đất, phát triển lành mạnh, ngăn chặn tình trạng đầu
cơ. Sử dụng có hiệu quả các công cụ về giá, thuế trong quản lý đất đai nhằm khắc phục
tình trạng lãng phí, tham nhũng, khiếu kiện; (v) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về đất đai; đẩy mạnh cải cách hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch trong
quản lý đất đai. Phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ về đất đai. Xây dựng hệ thống
quản lý đất đai tiên tiến, ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, hạ tầng thông
tin đất đai hiện đại.
Những nội dung có liên quan đến thu hồi đất trong Hội nghị lần thứ VI ở trên
được làm rõ như sau:
Một là, Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu và không
thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai. QSDĐ là một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt.
Hai là, công tác quy hoạch, KHSDĐ phải đổi mới, nâng cao tính liên kết, đồng
bộ giữa quy hoạch, KHSDĐ với quy hoạch xây dựng, quy hoạch ngành, lĩnh vực khác
107
có sử dụng đất theo hướng quy hoạch sử dụng đất phải tổng hợp, cân đối, phân bổ hợp
lý, sử dụng hiệu quả đất đai cho các ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ và đơn vị hành chính.
Quy hoạch xây dựng và quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất phải phù hợp với các
chỉ tiêu, tiến độ sử dụng đất được phân bổ trong quy hoạch, KHSDĐ.
Ba là, Nhà nước chủ động thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất hằng năm đã
được xét duyệt. Quy định rõ ràng và cụ thể hơn các trường hợp Nhà nước thực hiện việc
thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế, xã hội.
Bốn là, việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo
đảm dân chủ, công khai, khách quan, công bằng và đúng quy định của pháp luật. Việc
thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thuộc trách nhiệm của UBND các cấp và có
sự tham gia của cả hệ thống chính trị. Kiện toàn, nâng cao năng lực của tổ chức có chức
năng phát triển quỹ đất để bảo đảm thực thi nhiệm vụ bồi thường giải phóng mặt bằng,
đấu giá quyền sử dụng đất. Tổ chức thực hiện có hiệu quả phương án đào tạo nghề, tạo
việc làm, tổ chức lại sản xuất và bảo đảm đời sống của nhân dân ở khu vực có đất bị thu
hồi. Nghiên cứu phương thức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ để bảo đảm ổn định đời
sống lâu dài cho người có đất bị thu hồi.
Năm là, giá đất do Nhà nước quy định theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm
định giá, bảo đảm nguyên tắc phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Cơ quan tham mưu xây dựng giá đất và cơ quan thẩm định giá đất là hai cơ quan độc
lập.
Sáu là, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai. Các cơ quan có
thẩm quyền phải tập trung giải quyết kịp thời, dứt điểm các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo
về đất đai theo đúng quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, tố tụng hành chính, tố
tụng dân sự; công bố công khai kết quả giải quyết.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế-
xã hội phải đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người có đất nông
nghiệp bị thu hồi
Khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế-xã hội, quốc
phòng, an ninh; lợi ích quốc gia; lợi ích công cộng đều tác động đến các bên có liên
quan nên dễ dẫn đến xung đột về lợi ích. Bởi quyền sử dụng đất nông nghiệp là tài sản
của người sử dụng đất. Vấn đề là khi bị thu hồi đất thì họ sẽ được bồi thường như thế
nào? Có thỏa đáng hay không? Vì người có đất nông nghiệp bị thu hồi không chỉ mất tư
liệu sản xuất, thiệt hại về hoa màu, tài sản trên đất mà lâm vào tình trạng khó khăn, trở
108
thành người không có nghề nghiệp. Nhà nước có đất để sử dụng vào mục đích chung
cho cộng đồng, xã hội. Doanh nghiệp có diện tích đất sạch để phục vụ cho việc phát
triển kinh tế - xã hội. Cũng có nhiều trường hợp việc thu hồi đất kéo dài do sự chống
đối của người dân khi đền bù chưa thỏa đáng làm cho dự án bị đội vốn, gây thiệt hại cho
nhà đầu tư. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khác quan thì người có đất nông nghiệp bị
thu hồi vẫn chịu nhiều thiệt thòi nhất do giá đất bồi thường thấp hơn giá trên thị trường
(do UBND cấp tỉnh quy định tại thời điểm thu hồi đất) nên dẫn đến tình trạng khiếu kiện
kéo dài, vượt cấp, đông người của người có đất bị thu hồi gây bất ổn xã hội thậm chí có
địa phương sử dụng phương pháp cưỡng chế để giải quyết khiếu kiện càng làm cho vấn
đề nghiêm trọng và phức tạp hơn. Còn nhà đầu tư nhìn chung là được lợi nhiều nhất vì
khi thu hồi đất nông nghiệp với giá rất rẻ chỉ vài chục nghìn đồng/1m², sau khi đầu tư
sang lấp mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng thì họ bán lại với giá khoản 5 triệu thậm chí
10 triệu/1m². Nhà nước thu được một khoản tiền tương đối cho ngân sách của địa phương
mình. Vì vậy, cần phải dung hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư với người có đất nông
nghiệp bị thu hồi. Cần coi quyền sử dụng đất là quyền tài sản tồn tại song song với quyền
sở hữu toàn dân về đất đai để ứng xử phù hợp với người dân có đất nông nghiệp bị thu
hồi, có chính sách bồi thường thỏa đáng đồng thời tránh lợi ích nhóm trong thu hồi đất,
tránh thu hồi đất nông nghiệp một cách tùy tiện. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về
thu hồi đất nông nghiệp phải đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và
người có đất bị thu hồi. Có như vậy mới đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước
và đảm bảo sự công bằng trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp phải gắn với việc hoàn
thiện pháp luật đất đai nói chung và các đạo luật khác có liên quan đến Luật Đất đai
Pháp luật thu hồi đất nông nghiệp có liên quan mật thiết đến các chế định khác
của Luật đất đai như chế định về các trường hợp thu hồi đất, thẩm quyền, trình tự thủ
tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất. Vì vậy, việc hoàn thiện chế
định thu hồi đất nông nghiệp phải đặt trong sự hoàn thiện các chế định khác của luật đất
đai để tạo nên sự thống nhất và đồng bộ, thuận tiện hơn trong quá trình áp dụng. Đồng
thời thu hồi đất nông nghiệp cũng liên quan đến nhiều ngành luật khác như: Luật Xây
dựng, Luật Nhà ở, Luật Đầu tư, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Dân sự, Luật Tố
tụng dân sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Tố tụng hành chính... Để nâng cao
hiệu quả thực thi trong thực tiễn thì LĐĐ cần phải đồng bộ, thống nhất cũng như tương
thích với các ngành luật có liên quan để tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn. Đây là những
định hướng quan trọng cần được nghiên cứu, tiếp thu trong quá trình soạn thảo, sửa đổi,
109
bổ sung các quy định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã
hội.
Thứ tư, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội cần tham khảo kinh nghiệm thu hồi đất cũng như các chế định
pháp lý của các nước trên thế giới
Quan điểm chủ đạo, xuyên suốt, bất biến là hội nhập kinh tế quốc tế luôn luôn
dựa trên tiền đề, điều kiện: giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng và giữ vững
nền kinh tế độc lập, tự chủ; hội nhập vì lợi ích đất nước, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Kết luận số 58-KL/TW năm 2013 của Bộ Chính trị chỉ rõ:“Trên cơ sở thực hiện
các cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế,
cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Ðảng và Nhà nước”
[3]. Nghị quyết 06 HNTW4, khóa XII nói rõ hơn: “Bảo đảm đồng bộ giữa đổi mới và
hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách; chủ động xử lý các vấn đề nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu quả
quá trình thực hiện cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là
trong những lĩnh vực, vấn đề liên quan đến ổn định chính trị - xã hội” [2].
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi chúng ta phải cam
kết tuân thủ các quy định của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Muốn vậy, nước ta phải không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và luật
đất đai nói riêng để phù hợp với các quy tắc và luật lệ chung của quốc tế. Đồng thời
trong quá trình thực thi pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã
hội ở Việt Nam cũng khác so với nhiều nước trên thế giới. Bởi Việt Nam thực hiện chế
độ sở hữu toàn dân về đất đai do nhà nước đại diện chủ sở hữu nên việc thu hồi đất nói
chung và đất nông nghiệp để phát triển kinh tế- xã hội nói riêng “đụng chạm” đến lợi
ích của nhiều đối tượng như nhà nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi. Vì vậy,
việc nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các quy định pháp lý và kinh nghiệm thu hồi đất
của các nước trên thế giới là đòi hỏi khách quan, cần thiết để áp dụng vào điều kiện,
hoàn cảnh thực tế ở Việt Nam trong xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay.
110
4.2. Giải pháp chung về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
4.2.1. Mở rộng việc áp dụng cơ chế thỏa thuận đối với các dự án thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam cần áp dụng cả hai cơ chế thu hồi đất như ở Hàn Quốc và Australia đó
là: Cơ chế tham vấn (thỏa thuận) và cơ chế cưỡng chế thu hồi. Cơ chế tham vấn tạo sự
đồng thuận rất cao đối với người dân và giảm thiểu khiếu kiện, khiếu nại trong quá trình
nhà nước thu hồi đất. Ví dụ ở Hàn Quốc có đến 85% các trường hợp nhà nước thu hồi
đất bằng phương pháp tham vấn và 15% thực hiện việc thu hồi đất theo phương pháp
cưỡng chế. Ở Australia thì tỉ lệ này còn cao hơn rất nhiều đó là 95% các trường hợp nhà
nước thực hiện thu hồi đất bằng phương pháp tham vấn và chỉ có 5% thực hiện bằng
phương pháp cưỡng chế. Đây là kinh nghiệm quý báu gợi mở cho Việt Nam trong quá
trình hoàn thiện cơ chế thu hồi đất. Chúng ta nên ưu tiên áp dụng cơ chế tham vấn để
tạo sự đồng thuận của người dân và xã hội trong quá trình nhà nước thu hồi đất để phát
triển kinh tế - xã hội và phục vụ các mục tiêu công cộng. Cơ chế cưỡng chế chỉ áp dụng
trong trường hợp cơ chế tham vấn không thể thực hiện được. Hiện nay ở nước ta, pháp
luật về đất đai quy định cụ thể về hai trường hợp thu hồi đất:
Thứ nhất, là nhà nước thu hồi đất đối với các dự án sử dụng đất để phát triển kinh
tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Cụ thể, Nhà nước chỉ thu hồi đất đối với các
dự án đã được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư; dự án được Thủ tướng Chính phủ
chấp thuận, quyết định đầu tư và một số trường hợp được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
xem xét thông qua chủ trương thu hồi đất.
Thứ hai, là cơ chế nhà nước không thu hồi đất mà chủ đầu tư và người sử dụng
đất tự thỏa thuận việc sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh thông qua hình thức nhận
chuyển nhượng, thuê, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Trường hợp sử dụng đất
thực hiện dự án sản xuất, kinh doanh không thuộc các trường hợp Nhà nước thu hồi đất
mà chủ đầu tư và người sử dụng đất tự thỏa thuận thông qua hình thức nhận chuyển
nhượng, thuê, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì thực hiện theo quy định.
Trên thực tế hầu hết các dự án thu hồi đất đều để phát triển kinh tế - xã hội nên
không áp dụng cơ chế thỏa thuận, còn các dự án áp dụng cơ chế thỏa thuận rất ít. Đây
cũng chính là nguyên nhân vì sao khiếu kiện đất đai nhiều như vậy, trong khi các nước
áp dụng cơ chế tự thỏa thuận thì khiếu kiện, khiếu nại về đất đai rất ít. Vì vậy, cần bổ
sung thêm các trường hợp thuộc diện thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng mà thực hiện giao đất, cho thuê đất không thông qua hình
111
thức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng, nếu có nhu cầu thì được
thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận với người sử dụng đất.
4.2.2. Tiêu chí xác định thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
cần quy định cụ thể theo hướng
Thứ nhất, cần định nghĩa rõ khái niệm “Thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội”,
giúp xác định đúng các trường hợp áp dụng theo cơ chế này, trong đó cần bảo đảm yếu
tố thu hồi đất thật sự cần thiết vì lợi ích quốc gia, công cộng. Khi liệt kê danh sách các
trường hợp thu hồi đất theo mục đích đặt ra, cần giải thích rõ các khái niệm trong danh
sách đó, nhằm bảo đảm hiểu đúng và thống nhất, giúp phân loại chính xác các dự án
phát triển kinh tế - xã hội cho mục đích quốc gia, công cộng. Đồng thời, cần loại bỏ các
dự án kinh tế vì lợi ích thuần túy của nhà đầu tư ra khỏi phạm vi các dự án phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích công, nhất là các khái niệm dự án dễ bị lạm dụng, như khu
công nghệ cao, khu kinh tế, khu đô thị mới,...
Thứ hai, xây dựng tiêu chí để xác định các trường hợp “Thu hồi đất để phát triển
kinh tế - xã hội”. Việc xác định rõ và thắt chặt các trường hợp thu hồi đất với các tiêu
chí đã xây dựng là căn cứ giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền lựa chọn, phê duyệt
đúng các dự án cần thu hồi đất, có cơ sở xem xét từ giai đoạn giám sát, phê duyệt dự án,
đánh giá hiệu quả dự án, kiểm tra các dự án khi hoàn thành và đưa vào hoạt động, cũng
như trong hoạt động giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, hoạt động thanh tra, kiểm tra.
Thứ ba, xác định rõ dự án thuộc Khoản 3 Điều 62 LĐĐ năm 2013 có quy mô
diện tích và mức vốn đầu tư như thế nào thì thuộc thẩm quyền chấp thuận thu hồi đất
của HĐND cấp tỉnh. Nếu các dự án đầu tư không bảo đảm đúng mục đích sẽ chuyển
sang cơ chế thỏa thuận giữa chủ đầu tư và người dân theo Điều 73 LĐĐ năm 2013.
Đồng thời, xác định rõ ranh giới áp dụng cơ chế chuyển dịch đất đai bắt buộc với cơ chế
chuyển dịch đất đai tự nguyện, trong trường hợp dự án phù hợp với QH, KHSDĐ.
4.2.3. Về nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội
Nên áp dụng nguyên tắc thu hồi đất: Người nào sử dụng đất thì người đó có trách
nhiệm chi trả tiền bồi thường cho người có đất bị thu hồi. Quy định như vậy là công
bằng và bình đẳng trong quá trình thu hồi đất, thể hiện trách nhiệm của chủ đầu tư gắn
với quyền lợi mà họ được hưởng khi sử dụng đất đã được thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội.
4.3. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội
112
4.3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định về công tác quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Quy hoạch, KHSDĐ là cơ sở pháp lý đầu tiên và vô cùng quan trọng trong công
tác thu hồi đất nói riêng và công tác quản lý đất đai nói chung. Việc quy hoạch cho việc
sử dụng đất nông nghiệp để chuyển sang mục đích phi nông nghiệp cần phải được cân
nhắc kỹ lưỡng, lâu dài và phải đặt trong quy hoạch chung của tỉnh và của cả nước.
Thứ nhất, hiện nay, việc lập quy hoạch, KHSDĐ chủ yếu xuất phát từ các nhu
cầu trước mắt của các cơ quan hành chính nhà nước, các bộ ngành nên không tránh khỏi
lợi ích cục bộ địa phương dẫn đến chất lượng quy hoạch, KHSDĐ thấp, thiếu đồng bộ,
thiếu bền vững nên gặp khó khăn trong việc triển khai thực hiện. Đồng thời theo nguyên
tắc quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch cấp dưới phải phù hợp và căn cứ vào phân bổ chỉ
tiêu các loại đất trong quy hoạch sử dụng đất của cấp trên. Do đó, việc phê duyệt quy
hoạch sử dụng đất nông nghiệp của cấp dưới chỉ được thực hiện sau khi quy hoạch của
cấp trên được phê duyệt, làm chậm tiến độ thực hiện công tác lập quy hoạch sử dụng đất
các cấp. Bên cạnh đó, trong nguyên tắc lập quy hoạch, KHSDĐ cũng không quy định
về mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất của các cấp hành chính với quy hoạch sử
dụng đất quốc phòng, an ninh. Vì vậy, cần bổ sung quy định về mối quan hệ giữa quy
hoạch sử dụng đất của các cấp hành chính với quy hoạch sử dụng đất quốc phòng an
ninh và phải thống nhất với quy hoạch sử dụng đất của địa phương đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt. Bổ sung Khoản 2 Điều 35 LĐĐ năm 2013 như sau:
Điều 35. Nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
“2. Được lập từ tổng thể đến chi tiết: Quy hoạch sử dụng đất của cấp dưới phải
phù hợp với quy hoạch sử dụng đất của cấp trên: Quy hoạch, KHSDĐ của các cấp hành
chính phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất quốc phòng an ninh và phải thống nhất
với quy hoạch sử dụng đất của địa phương đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt. Đối với kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh phải phù hợp với phương án phân bổ,
khoanh vùng đất đai trong quy hoạch tỉnh...”.
Thứ hai, về thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, KHSDĐ: Ở nước ta, cơ quan quyền
lực nhà nước bao gồm Quốc hội và HĐND các cấp. Quốc hội có quyền quyết định những
vấn đề quan trọng nhất của cả nước, còn HĐND có quyền quyết định những vấn đề quan
trọng ở địa phương bằng việc ban hành các Nghị quyết. Một số Nghị quyết của HĐND
trong lĩnh vực đất đai dường như là chỉ là thủ tục “trung gian”, phải chờ đến cơ quan
113
hành chính nhà nước cùng cấp hay cấp trên ban hành Quyết định thì Nghị quyết đó mới
phát sinh hiệu lực. Trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện
chủ sở hữu ở nước ta hiện nay, để tránh việc tập trung quyền lực vào các cơ quan hành
chính nhà nước hay người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước quyết định những vấn
đề liên quan đến đất đai dẫn đến việc sử dụng đất bừa bãi, tham ô, tham nhũng, lãng phí,
chi phối quy hoạch sử dụng đất. Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung quy hoạch, KHSDĐ theo
hướng: (i) UBND có thẩm quyền tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, KHSDĐ rồi xin
ý kiến cơ quan có thẩm quyền chuyên môn quản lý đất đai cấp trên về: sự phù hợp quy
hoạch, KHSDĐ cấp trên, ranh giới quy hoạch, KHSDĐ, tính khả thi.... và cho ý kiến
bằng văn bản. Trên cơ sở đó UBND trình HĐND quy hoạch, KHSDĐ cùng cấp; (ii)
HĐND cùng cấp quyết nghị quy hoạch, KHSDĐ của UBND trên cơ sở xem xét cả ý
kiến của cơ quan chuyên môn quản lý đất đai cấp trên; (iii) Nghị quyết của HĐND về
quy hoạch, KHSDĐ có hiệu lực thi hành mà không phải chờ UBND cùng cấp ban hành
văn bản.
Thứ ba, về sự tham gia của người dân vào công tác lập quy hoạch, KHSDĐ, lập
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa
quy định cụ thể, chặt chẽ. Qua nghiên cứu pháp luật một số nước như Hàn Quốc,
Australia, Nga cho thấy sự tham gia của đại đai số người dân vào công tác lập quy hoạch,
KHSDĐ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Chúng ta cũng có quy định lấy ý kiến của người
dân vào việc lập quy hoạch, KHSDĐ tuy nhiên chỉ mang tính hình thức mà chưa đi vào
thực tế như: Tại Khoản 1 Điều 43 LĐĐ năm 2013 quy định: “Cơ quan tổ chức lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 42 của Luật này có
trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về quy hoạch, KHSDĐ” [27].
Trong giai đoạn này UBND cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến đóng
góp của nhân dân về quy hoạch, KHSDĐ của huyện mình trong thời gian là 30 ngày kể
từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định tổ chức lấy ý kiến. Việc lấy ý kiến
đóng góp của nhân dân về quy hoạch, KHSDĐ là bắt buộc và được thực hiện thông qua
hình thức tổ chức hội nghị, lấy ý kiến trực tiếp và công khai thông tin trên trang thông
tin điện tử của UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện. Quy định này đảm bảo cho người
dân quyền tiếp cận thông tin khi nhà nước thu hồi đất, đảm bảo tính công khai, minh
bạch, dân chủ, công bằng khi nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, trong quy định này không
nêu rõ việc tổ chức lấy ý kiến phải có sự tham gia bao nhiêu phần trăm của tổng số hộ
dân có đất bị thu hồi thì mới xem là hợp lệ. Đồng thời khi lấy ý kiến của người dân cũng
114
không quy định tỉ lệ bao nhiêu phần trăm trong tổng số hộ gia đình, cá nhân có đất bị
thu hồi đồng thuận thì thì quy hoạch, KHSDĐ được thông qua, bao nhiêu phần trăm
phản đối thì phải sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch. Vì vậy, nhiều địa phương tổ
chức lấy ý kiến theo kiểu “qua loa, chiếu lệ”, có thể tập trung một số ít hộ gia đình cá
nhân tham gia để phù hợp với quy định của pháp luật đất đai là có lấy ý kiến của người
dân như trường hợp tại Thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương năm 2016 [95]. Đây là một trong
những nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện kéo dài trong quá trình thu hồi đất.
Tại Khoản 1 Điều 43 LĐĐ năm 2013 quy định: “Cơ quan tổ chức lập quy hoạch,
KHSDĐ quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 42 của Luật này có trách nhiệm tổ chức
lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về quy hoạch, KHSDĐ”. Quy định này không mang
tính khả thi vì mới chỉ dừng lại ở chỗ có trách nhiệm, không có giá trị bắt buộc nên lấy
ý kiến cũng được mà không lấy ý kiến không làm cũng không sao. Trong luật chưa có
các chế tài cần thiết đối với tổ chức liên quan không lấy ý kiến của nhân dân, hoặc không
thực hiện đúng quy định, trình tự, thủ tục lấy ý kiến nhân dân. Do vậy, nghiên cứu sinh
đề nghị thay cụm từ "có trách nhiệm" bằng cụm từ "có nghĩa vụ" vào Khoản 1 Điều 43
như sau: “quy hoạch, KHSDĐ không có hiệu lực thực hiện khi không được đưa ra lấy ý
kiến của nhân dân, hoặc thực hiện không đúng quy trình, trình tự thủ tục lấy ý kiến người
dân". Có như vậy thì việc lấy ý kiến mới thực sự thiết thực và việc khiếu nại tố cáo sẽ
giảm thiểu. Bổ sung Điểm a Khoản 2 Điều 43 LĐĐ năm 2013 như sau:
Điều 43. Lấy ý kiến về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
“2. Việc lấy ý kiến của nhân dân về quy hoạch, KHSDĐ có thể lấy ý kiến trực
tiếp tại hội nghị hoặc lấy ý kiến bằng văn bản nhưng phải đảm bảo tối thiểu có 75% tổng
số hộ dân có đất bị thu hồi tham gia và quy hoạch, KHSDĐ được thông qua phải được
ít nhất 65% tổng số hộ dân có đất bị thu hồi tham gia ý kiến tán thành. Nếu không đạt tỉ
lệ này thì phải điều chỉnh lại quy hoạch, kế hoạch”.
Thứ tư, cần công khai quy hoạch sử dụng đất nói chung và đất nông nghiệp nói
riêng; thực hiện tốt KHSDĐ cấp huyện đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc sửa đổi, bổ
sung, điều chỉnh quy hoạch, KHSDĐ. Làm tốt được việc này sẽ giảm thiểu được tình
trạng tiêu cực, lợi ích nhóm trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh
tế - xã hội.
4.3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Thứ nhất, cần sử dụng các thuật ngữ pháp lý về “thu hồi đất” cho phù hợp
115
Tại Điều 23 Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam ghi nhận việc bảo hộ quyền sở
hữu tài sản hợp pháp của tổ chức và cá nhân: “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức
không bị quốc hữu hoá. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và
vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá
nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định”
[19]. Như vậy, Hiến pháp năm 1992 đã quy định cụ thể thủ tục trưng dụng, trưng mua,
trưng thu do luật định. Quy định này được giao cho cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất là Quốc hội ban hành mà không giao cho các cơ quan hành chính nhà nước để tránh
sự lạm quyền trong quá trình thực hiện. Điều 5 Luật Trưng mua, Trưng dụng tài sản quy
định điều kiện nghiêm ngặt khi trưng mua, trưng dụng tài sản: “Việc trưng mua, trưng
dụng tài sản chỉ được thực hiện khi Nhà nước có nhu cầu sử dụng tài sản mà các biện
pháp huy động khác không thực hiện được, thuộc một trong các trường hợp vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia hoặc đối phó với nguy cơ hoặc để khắc phục thảm họa do
thiên tai, dịch bệnh gây ra trên diện rộng hoặc nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ gây hậu
quả nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà
nước” [29].
Đây là trường hợp đặc thù không liên quan đến các trường hợp thu hồi đất theo
pháp luật đất đai. Tại Khoản 3, 4 Điều 54 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước thu
hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì
mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp
luật. Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết do luật định để thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp,
phòng, chống thiên tai” [20]. Như vậy, lần đầu tiên việc thu hồi đất được quy định trong
Hiến pháp và đất đai lại thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý nhưng
quyền sử dụng đất giao cho các cá nhân tổ chức lại là tài sản của người sử dụng đất. Tại
Khoản 11 Điều 3 LĐĐ năm 2013 quy định: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước
quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất
hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai” [27]. Như vậy, nhà
nước sử dụng các quyết định hành chính, biện pháp hành chính để định đoạt tài sản là
quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình và tổ chức.
Về mặt ngữ nghĩa, “thu hồi” là thu về lại cái trước đó đã đưa ra, đã cấp phát hoặc
bị mất vào tay người khác như: thu hồi giấy phép kinh doanh, thu hồi vốn [84] . Như
vậy, thu hồi đất là việc nhà nước lấy lại quyền sử dụng đất đã giao cho các tổ chức, cá
116
nhân sử dụng hoặc lấy lại quyền sử dụng đất hiện do người khác lấn chiếm đất một cách
bất hợp pháp. Theo cách hiểu này thì việc thu hồi đất chỉ phù hợp khi nhà nước giao đất
không thu tiền sử dụng đất cho các tổ chức, cá nhân; còn đối với các trường hợp được
nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thông qua đấu giá, đấu thầu dự án thì
thuật ngữ “thu hồi đất” có vẻ như chưa phù hợp bởi vì quyền sử dụng đất là tài sản vốn
dĩ của họ được hình thành trên cơ sở ý chí của nhà nước.
Ở nước ta thuật ngữ “thu hồi đất” trải qua các giai đoạn: “tịch thu”, “trưng thu”,
“trưng mua”. “Trưng dụng” đất đai được ghi nhận từ rất sớm tại Điều 1 Nghị định số
151/TTg ngày 14 tháng 4 năm 1959 của Hội đồng Chính phủ quy định tạm thời về trưng
dụng ruộng đất như sau: “Để đáp ứng nhu cầu xây dựng của Nhà nước, đồng thời chiếu
cố đúng mức quyền lợi của người có ruộng đất, nay quy định thể lệ tạm thời về trưng
dụng ruộng đất cần thiết cho việc xây dựng những công trình do Nhà nước quản lý như
sau: Đối với những công trình thuộc lợi ích của từng địa phương mà địa phương xây
dựng, thì việc lấy ruộng đất do cơ quan phụ trách địa phương cùng những người sở quan
giải quyết trên cơ sở cùng nhau thương lượng và thoả thuận”. Tại Điều 20 Hiến pháp
năm 1959 quy định: “Chỉ khi nào cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước mới trưng mua,
hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành thị và
nông thôn, trong phạm vi và điều kiện do pháp luật quy định” [17]. Điều 28 Hiến pháp
năm 1980 quy định: “Khi thật cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước có thể trưng mua,
trưng dụng hoặc trưng thu có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc của tập thể. Thể thức
trưng mua, trưng dụng, trưng thu do pháp luật quy định” [18]. LĐĐ năm 1987, LĐĐ
năm 1993, LĐĐ năm 2003, LĐĐ năm 2013 tiếp tục sử dụng thuật ngữ “thu hồi đất”. Có
thể thấy rằng thuật ngữ này được sử dụng từ năm 1987 trở lại đây và nó chỉ phù hợp
khi quyền sử dụng đất chưa phải là tài sản của người sử dụng đất và cũng chưa phải là
hàng hóa. Còn hiện nay, việc “thu hồi đất”, cần được xem xét lại cho thấu đáo, cho phù
hợp. Theo nghiên cứu sinh việc nhà nước thu QSDĐ của cá nhân, tổ chức đang sử dụng
hợp pháp cần nhìn nhận qua các trường hợp sau:
Một là, trong trường hợp các tổ chức, cá nhân được nhà nước giao đất có thu tiền
sử dụng đất hay không mà vi phạm pháp luật đất đai thì sử dụng thuật ngữ thu hồi đất
Hai là, trong trường hợp các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp... được nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất
thì vẫn sử dụng thuật ngữ “thu hồi đất” khi nhà nước sử dụng vào mục đích quốc phòng,
an ninh; phát triển kinh tế-xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng.
117
Ba là, trong trường hợp các tổ chức được nhà nước giao đất, cho thuê đất có thu
tiền sử dụng đất; hộ gia đình, cá nhân được nhà nước công nhận QSDĐ, giao đất có thu
tiền sử dụng đất hay không thu tiền sử dụng đất, thuê đất thì sử dụng thuật ngữ “trưng
thu quyền sử dụng đất” khi nhà nước lấy QSDĐ của cá nhân, hộ gia đình, tổ chức để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế-xã hội vì lợi ích quốc gia
công cộng. Quy định như trên tỏ ra phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống.
Từ phân tích trên tác giả đề nghị sửa đổi bổ sung Điều 54 Hiến pháp năm 2013
như sau: Điều 54.
“3. Nhà nước thu hồi đất hoặc trưng thu đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng
trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh
bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”.
Đồng thời điều chỉnh các quy định về thu hồi đất trong LĐĐ năm 2013 cho phù
hơp với Hiến pháp năm 2013.
Thứ hai, về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -xã hội
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Hội nghị lần thứ VI) ban hành Nghị
quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại đã xác định rõ phương hướng để làm cơ sở
hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng cần phải tập
trung vào những nội dung cơ bản sau: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại
diện chủ sở hữu và không thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai; chính sách pháp luật về
đất đai phải đảm bảo sự quản lý chặt chẽ thống nhất của Trung ương, đồng thời phân
cấp phù hợp cho địa phương; Nhà nước chủ động thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất
hằng năm đã được xét duyệt. Quy định rõ ràng và cụ thể hơn các trường hợp Nhà nước
thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, trên sở đó
nghiên cứu sinh đề nghị sửa đổi quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội như sau: (i) Xác định thẩm quyền thu hồi đất là của tập thể cơ quan
hành chính nhà nước theo địa bàn hành chính dựa trên tiêu chí về quy mô diện tích đất
thu hồi và số hộ gia đình bị tác động, không phân biệt người sử dụng đất bị thu thu hồi
là hộ gia đình, cá nhân hay tổ chức để tránh việc ban hành quyết định thu hồi đất nhiều
lần trên cùng 1 dự án; (ii) Cơ quan thanh tra thực hiện việc xem xét các quyết định thu
hồi đất của cấp dưới có hợp pháp hay không. HĐND cấp huyện và HĐND cấp tỉnh giám
sát các quyết định thu hồi đất của UBND cùng cấp, Quốc hội giám sát các quyết định
118
thu hồi đất của UBND cấp tỉnh, cấp huyện theo quy định của pháp luật để tránh các
trường hợp vi phạm thẩm quyền, nội dung, trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp.
Theo quy định của LĐĐ năm 2013, việc thu hồi đất thuộc thẩm quyền Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh. Tuy nhiên, trong thực tế với hàng ngàn, hàng vạn dự án khác nhau,
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh không thể có điều kiện xem xét quyết định, nhất là các dự
án trong diện chỉnh trang đô thị, khu dân cư nông thôn, dự án công ích. Vì vậy, trong
thực tế quyền thu hồi đất này chỉ nằm ở một số đơn vị tham mưu và người có chức có
quyền thiếu hẵn quy chế công khai minh bạch, dân chủ, giám sát của cộng đồng. Nhiều
trường hợp thực hiện theo cơ chế xin - cho không đấu thầu gây tổn thất rất lớn, tạo điều
kiện cho tham ô, tham nhũng và lợi ích nhóm.
4.3.3. Giải pháp hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Thứ nhất, về nội dung Thông báo thu hồi đất chưa thống nhất, khó thực hiện: như
đã phân tích ở chương 3 những vấn đề bất cập trong thông báo thu hồi đất nghiên cứu
sinh kiến nghị sửa đổi Khoản 2 Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP về nội dung thông
báo thu hồi đất “Thông báo thu hồi đất bao gồm các nội dung quy định tại các Điểm a,
b, c và d Khoản 1 Điều này”. Thành: Điều 17.
“2. Thông báo thu hồi đất bao gồm các nội dung quy định tại các Điểm a, b, c d
và đ Khoản 1 Điều này”. Cho thống nhất với Khoản 1 Điều 17 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP đã nêu ở trên để tránh sự mâu thuẫn. Trong thông báo thu hồi đất cũng
không có phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư
nên tạo ra lỗ hổng trong quá trình thu hồi đất cũng như xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người có đất bị thu hồi nên cần bổ sung phương án này vào cho phù hợp.
Sửa đổi bổ sung Khoản 1 Điều 67 LĐĐ năm 2013 như sau:
Điều 67. Thông báo thu hồi đất va chấp hanh quyết định thu hồi đất vì mục
đích quôc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xa hội vì lợi ích quôc gia, công cộng
“1. Trước khi có quyết định thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất trồng
cây hằng năm, đất nuôi trồng thủy sản, 180 ngày đối với đất trồng cây lâu năm …cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo thu hồi đất cho người có đất thu hồi biết.
Nội dung thông báo thu hồi đất bao gồm kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc,
kiểm đếm và phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư”.
Thứ hai, trình tự, thủ tục thu hồi đất, đất nông nghiệp theo LĐĐ năm 2013 không
quy định phải ghi nhận hiện trạng khu đất nông nghiệp bị thu hồi tại thời điểm có
thông báo thu hồi đất. Vì vậy, bổ sung vào trong LĐĐ quy định hiện trạng khu đất bị
119
thu hồi tại thời điểm có thông báo thu hồi đất để thuận lợi cho công tác kiểm đếm làm
cơ sở cho việc bồi thường các tài sản gắn liền với đất đai. Cụ thể: Bổ sung Khoản 2 Điều
92 LĐĐ năm 2013 về trường hợp nhà nước thu hồi đất không được bồi thường tài sản
gắn liền với đất như sau: “Tài sản gắn liền với đất trái quy định của pháp luật hoặc được
tạo lập từ sau khi có thông báo thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì
không được bồi thường” Thành: Điều 92.
“2. Tài sản gắn liền với đất trái quy định của pháp luật hoặc được tạo lập từ sau
khi có thông báo thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì không được bồi
thường. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ sau ngày họp dân, Tổ chức làm nhiệm
vụ bồi thường và UBND xã, phường, thị trấn tổ chức quay phim để thể hiện hiện trạng
sử dụng đất. Kết quả (hình ảnh) phim làm cơ sở xác định hiện trạng sử dụng đất của
các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có đất và tài sản gắn liền với đất thuộc phạm vi thu hồi
đất”.
Thứ ba, cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và cơ chế phối hợp của Hội
đồng bồi thường và hỗ trợ tái định cư với các các cơ quan, tổ chức có liên quan trong
quá trình thu hồi đất để thống nhất trong phạm vi cả nước vì hiện nay các tổ chức này
vẫn hoạt động theo các quy định cũ.
Thứ tư, quy định một cách chi tiết công tác cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm
đếm bắt buộc. Trong đó quy định rõ về phương án cưỡng chế, quy trình và chủ thể thực
hiện việc cưỡng chế. Điều này sẽ đảm bảo tính thống nhất và chặt chẽ trong cưỡng chế
thực hiện quyết định thu hồi đất nói chung và thu hồi đất nông nghiệp nói riêng
Trình tự, thủ tục thu hồi đất nói chung và thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế- xã hội nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình thu hồi đất. Là
nhân tố quyết định sự thành công của công tác thu hồi đất. Giảm thiểu khiếu kiện, khiếu
nại của người có đất nông nghiệp bị thu hồi, rút ngắn thời gian bàn giao mặt bằng để
triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
4.3.4. Giải pháp về xây dựng cơ chế xác định giá đất nông nghiệp khi thu hồi
đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Ở nước ta có 6 vùng thời tiết, địa lý, địa hình đất đai rất khác nhau nhưng chỉ có
3 vùng đất để định giá là: Đồng bằng, trung du và miền núi nên nhiều trường hợp giá trị
đất rất khác nhau giữa các vùng và các địa phương mà đền bù lại tương tự nhau dẫn đến
mất công bằng cho người dân có đất bị thu hồi. Một trong những nguyên tắc định giá
đất theo Điểm c Khoản 1 Điều 12 LĐĐ năm 2013 là phải “phù hợp với giá đất phổ biến
120
trên thị trường” [27] nhưng trên thực tế thực hiện, hầu như lại thoát ly khỏi giá cả thị
trường. Trên thực tế, khung giá đất của Nhà nước chỉ bằng khoảng 20% - 30% khung
giá đất thị trường. Tương tự thế, khung giá đất của cấp tỉnh chỉ bằng từ 30% - 60% giá
đất thị trường tại địa phương. Giá đất cụ thể do UBND cấp tỉnh quyết định theo Điểm c
Khoản 1 Điều 112 LĐĐ năm 2013 thì: “Cùng thời điểm, các thửa đất liền kề nhau có
cùng mục đích sử dụng, khả năng sinh lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như
nhau thì có mức giá như nhau” [27]. Trên thực tế ở nhiều địa phương, chỉ cách nhau một
con đường nhỏ, nhưng giá đất hai bên đường đã khác nhau xa. Điều này dẫn đến bất cập
khi thu hồi đất, giá đền bù quá xa giá thị trường. Do vậy, công tác giải phóng mặt bằng
gặp khó khi giá đền bù quá chênh lệch với giá thị trường khiến người bị thu hồi đất thiệt
thòi và không đồng thuận. Vì thế, khi thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội, mặt
bằng luôn là một trong những “điểm nghẽn” khiến các công trình chậm tiến độ. Đồng
thời, toàn bộ quy trình định giá đất đều do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện, người
bị thu hồi đất đứng ngoài quy trình này mặc dù Điều 115 và Điều 116 có nói đến tư vấn
giá đất nhưng cũng chưa có quy định bảo đảm cho tổ chức tư vấn giá đất thực sự có vị
trí độc lập... do vậy giá đất mang nặng tính “áp đặt”. Bên cạnh đó phương pháp xác định
giá đất vẫn còn hạn chế. Trong lĩnh vực giá đất vẫn còn một số tồn tại như: Quy định về
phương pháp định giá đất chưa phù hợp thực tiễn có thể kể đến phương pháp định giá
đất theo hệ số điều chỉnh giá đất; một số loại đất, khu vực không có thông tin về giá đất
chuyển nhượng trên thị trường hoặc nơi có thị trường nhưng thông tin giá đất thị trường
độ tin cậy không cao gây khó khăn trong việc định giá đất; chưa có dữ liệu về giá đất
thị trường để thuận lợi cho thực hiện xác định giá đất. Có thể nói tất cả các trường hợp
giá đất đều thấp xa so với giá thị trường ở mọi thời điểm. Trước đây, theo LĐĐ năm
2003, chỉ đầu mối là Sở Tài chính chủ trì toàn bộ công tác xác định và thẩm định giá đất
cụ thể. Còn theo LĐĐ năm 2013 và Nghị định số: 44/2014/NĐ-CP của Chính phủ, công
tác này được phân chia cho 2 đầu mối: Sở TN&MT lập kế hoạch định giá đất cụ thể và
tổ chức thực hiện việc xác định giá đất cụ thể; Sở Tài chính làm thường trực Hội đồng
Thẩm định giá đất cấp tỉnh để thẩm định phương án giá đất. Qua đó ta thấy có hai vấn
đề:
Một là, Sở TN&MT có thể xác định và trình giá đất do mình xác định chứ không
bắt buộc phải thuê một tổ chức cung cấp dịch vụ định giá đất độc lập.
121
Hai là, Hội đồng thẩm định giá các tỉnh không có quy định cụ thể tỷ lệ bao nhiêu
% là thành viên thuộc khu vực Nhà nước và bao nhiêu % thuộc khu vực ngoài Nhà nước.
Cơ chế này đã dẫn đến quy trình hành chính xác định giá đất cụ thể để tính tiền
sử dụng đất thiếu tính minh bạch, thiếu tính liên thông, có sơ hở tạo ra cơ chế xin - cho,
nhũng nhiễu, dẫn đến thất thu ngân sách Nhà nước và ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường
kinh doanh. Ở các nước như Hàn Quốc, Nga, Úc khung giá đất do tổ chức tư vấn dịch
vụ về giá đất đưa ra, trên cơ sở đảm bảo hài hòa với mức giá đất theo khung giá đất của
Chính phủ. Việc xác định giá bồi thường được chủ dự án thuê tổ chức tư vấn định giá
đất độc lập thực hiện và phải thuê ít nhất 2 tổ chức tư vấn định giá đất để đảm bảo tính
khách quan, chính xác trong việc xác định giá đất để bồi thường. Còn ở Singapore, nếu
người có đất bị thu hồi không đồng ý với mức bồi thường do nhà nước đưa ra, thì họ có
quyền thuê một tổ chức định giá đất tư nhân để định giá lại các chi phí thiệt hại và chi
phí thuê tổ chức định giá lại này do nhà nước chi trả. Trên cơ sở phân tích những bất
cập về xác định giá đất nêu trên, nghiên cứu sinh đề nghị:
Thứ nhất, đổi mới về phương pháp xác định giá đất phù hợp thị trường theo
hướng: Giao cho Hiệp hội định giá quy định về tiêu chuẩn định giá và phương pháp định
giá
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống khung pháp luật cho hoạt động cung cấp dịch vụ
định giá đất theo hướng: (i) Chính phủ thành lập Hội đồng định giá đất đai và bất động
sản cấp quốc gia có thẩm quyền ban hành quyết định giải quyết lần cuối với tranh chấp
giá đất đai, bất động sản, quyết định cấp chứng chỉ hành nghề cho định giá viên bậc cao
về đất đai, bất động sản và UBND cấp tỉnh thành lập Hội đồng định giá đất đai và bất
động sản cấp tỉnh có thẩm quyền ban hành quyết định về giá đất đai, bất động sản và
ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đối với tranh chấp giá đất đai, bất động
sản, quyết định cấp chứng chỉ hành nghề cho định giá viên về đất đai, bất động sản mới
đăng ký hành nghề. (ii) Hội đồng có chủ tịch, một số phó chủ tịch, thư ký và các ủy viên
hội đồng. Trong đó ủy viên được lựa chọn từ các nhà quản lý, nhà khoa học, định giá
viên, nhà đầu tư...có trình độ cao. Chủ tịch Hội đồng định giá cấp quốc gia là Thứ trưởng
của Bộ có chức năng quản lý về giá đất, giá bất động sản; Chủ tịch Hội đồng định giá
cấp tỉnh là một Phó chủ tịch UBND cấp tỉnh; (iii) Hội đồng định giá đất đai và bất động
sản cấp tỉnh
122
Thứ ba, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục thực hiện định giá đất, quyết định
về giá đất phục vụ tính bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: (1) Quy định áp dụng cơ chế bắt
buộc về việc giao cho một tổ chức cung cấp dịch vụ định giá đất thực hiện việc định giá
đất phục vụ tính bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; tổ chức định giá được lựa chọn trên cơ
sở sự đồng thuận giữa người bị thu hồi đất và tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư; (2) Quy định hình thức gặp gỡ, thảo luận trực tiếp về giá đất và phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư giữa những người bị thu hồi đất và tổ chức được giao thực
hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; (3) Quyết định giá đất áp dụng cho tính giá trị bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư thuộc thẩm quyền của Hội đồng định giá bất động sản cấp
tỉnh; (4) Việc giải quyết khiếu nại của người bị thu hồi đất về giá đất, do Hội đồng định
giá bất động sản quốc gia giải quyết.
Cần sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 114 LĐĐ năm 2013 về bảng giá đất và giá
đất như sau: Điều 114.
“1. Khi định giá đất trong trường hợp thu hồi đất phải có sự thỏa thuận của bên
có đất bị thu hồi. Trường hợp không thỏa thuận được thì người bị thu hồi đất có quyền
yêu cầu cơ quan thẩm định giá độc lập thẩm định lại. Chi phí cho việc thẩm định lại giá
đất do nhà nước chi trả”.
Về lâu dài phải xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu định giá đất; phải thường
xuyên cập nhật sự biến động giá đất trong cả nước và theo vùng, miền, địa phương để
làm cơ sở thực tiễn, làm căn cứ khoa học cho mỗi 5 năm một lần xây dựng lại (điều
chỉnh) khung giá đất, tránh tình trạng ước lệ, phỏng chừng.
4.3.5. Giải pháp hoàn thiện các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp
Thứ nhất, khái niệm bồi thường trong LĐĐ năm 2013: “Bồi thường về đất là việc
Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử
dụng đất” [31], chưa phản ánh hết mức độ thiệt hại của người có đất bị thu hồi nên cần
bổ sung vào Khoản 12 Điều 3 LĐĐ năm 2013 như sau: Điều 3. Giải thích từ ngữ:
“12. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả cho người có đất
thu hồi và các chủ thể có liên quan bị thiệt hại trong quá trình thu hồi đất những thiệt
hại về quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu, sử dụng đối với công trình, vật kiến trúc,
cây trồng, vật nuôi và những thiệt hại khác liên quan do việc thu hồi đất gây ra”. Đây là
khái niệm được xây dựng dựa trên góc độ thiệt hại của người có đất bị thu hồi và các
chủ thể có liên quan phải gánh chịu.
123
Thứ hai, LĐĐ năm 2013 không quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và cơ chế phối
hợp của Hội đồng bồi thường và hỗ trợ tái định cư. Cụ thể theo Điều 68 LĐĐ năm
2013 quy định: “Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường giải phóng mặt bằng gồm tổ chức
dịch vụ công về đất đai, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư” [31]. Như vậy, Hội
đồng bồi thường, tổ chức phát triển quỹ đất là những cơ quan làm nhiệm vụ bồi thường,
giải phóng mặt bằng hết sức quan trọng trong quá trình thu hồi đất, đất nông nghiệp
nhưng cho đến nay vẫn chưa có bất cứ quy định nào về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của tổ chức này cũng như cơ chế phối hợp với các cơ quan khác trong quá trình thu hồi
đất ở trong LĐĐ năm 2013 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành. Do đó, ở các địa
phương Hội đồng này được thành lập với thành phần và tổ chức, hoạt động theo các
quy định cũ, trong khi đây là chủ thể giữ vai trò quan trọng của quá trình thu hồi đất.
Vì vậy, cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, thành phần tham gia và cơ chế
phối hợp của Hội đồng bồi thường và hỗ trợ, tái định cư với các các cơ quan, tổ chức
có liên quan trong quá trình thu hồi đất để thống nhất trong phạm vi cả nước. Hội đồng
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được thành lập theo từng dự án để thực hiện nhiệm vụ
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn cấp huyện cụ thể: Chủ tịch hội đồng là phó
chủ tịch UBND cấp huyện, Giám đốc trung tâm phát triển quỹ đất cấp tỉnh là phó chủ
tịch hội đồng thường trực, lãnh đạo Phòng TN&MT là phó chủ tịch hội đồng, lãnh đạo
các đơn vị và cá nhân có liên quan là ủy viên như: Phòng Tài chính- Kế hoạch, Phòng
Quản lý đô thị, Phòng Lao động thương binh và xã hội, chủ tịch UBND cấp xã nơi có
đất thu hồi, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi, đại
diện hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi. Hội đồng bồi thường làm việc theo nguyên
tắc tập thể và quyết định theo đa số; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện
theo phía có ý kiến của Chủ tịch Hội đồng. Chủ tịch Hội đồng bồi thường được sử dụng
con dấu của UBND cấp huyện; Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng được sử dụng con
dấu của đơn vị mình trong quá trình hoạt động. Hội đồng bồi thường tự chấm dứt nhiệm
vụ sau khi hoàn thành việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và bàn giao đất cho chủ đầu
tư dự án.
Thứ ba, quy định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc vẫn chưa
chặt chẽ, cụ thể theo Điểm b Khoản 5 Điều 71 LĐĐ năm 2013 quy định: “Ban thực
hiện cưỡng chế có trách nhiệm chủ trì lập phương án cưỡng chế và dự toán kinh phí cho
hoạt động cưỡng chế trình UBND cấp có thẩm quyền phê duyệt” [27]. Phương án cưỡng
chế do Ban thực hiện cưỡng chế lập không quy định chi tiết các nội dung cần thiết, trong
khi phương án này giữ vai trò quyết định và ảnh hưởng lớn đến kết quả công tác cưỡng
124
chế. Nếu phương án cưỡng chế lập chi tiết cụ thể, rõ ràng thì quá trình thực hiện sẽ
mang lại kết quả khả quan.
Vì vậy, cần quy định một cách chi tiết công tác cưỡng chế thực hiện quyết định
kiểm đếm bắt buộc. Trong đó quy định rõ về phương án cưỡng chế, quy trình và chủ
thể thực hiện việc cưỡng chế. Điều này sẽ đảm bảo tính thống nhất và chặt chẽ trong
cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng.
Thứ tư, LĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định
về việc lập phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà chỉ có lập phương
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và phải thông báo công khai, hoặc niêm yết. Đa số
người bị thu hồi đất tiếp nhận được thông tin về lý do thu hồi đất, số tiền bồi thường
được nhận cũng như thông tin về kế hoạch thu hồi đất. Nhưng những thông tin mà người
bị thu hồi đất thường quan tâm nhiều nhất thì ít người nhận được như phương án tái định
cư, phương án đào tạo nghề, chuyển đổi nghề, tìm việc làm. Điều này gây không ít khó
khăn cho họ trong quá trình ổn định cuộc sống. Vì vậy, Chính phủ cần quy định bổ sung
Phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để thông báo đến người dân khi
triển khai thông báo thu hồi đất. LĐĐ không quy định rõ tỉ lệ bao nhiêu % ý kiến người
bị thu hồi đất đồng ý với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì được coi là đồng
tình, bao nhiêu phần trăm ý kiến người bị thu hồi đất không đồng ý với phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư thì được coi là không đồng tình và trong trường hợp đa số ý
kiến người bị thu hồi đất không đồng tình với phương án bồi thường, hỗ trợ thì phương
án đó có được điều chỉnh, sửa đổi hay không? Trường hợp nào thì điều chỉnh toàn bộ
phương án, trường hợp nào điều chỉnh một phần phương án bồi thường…? Bên cạnh đó
LĐĐ năm 2013 cũng không quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong trường hợp không thay đổi phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi đại đa số ý kiến của người dân không đồng tình với phương án này [81]. Việc quy
định không rõ ràng và cụ thể này đã dẫn đến phương án bồi thường, hỗ trợ chỉ mang
tính hình thức vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung quy định này theo hướng:
Một là, cần quy định việc tổ chức cuộc họp lấy ý kiến của người có đất nông
nghiệp bị thu hồi đối với phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ là bắt buộc. Trong
đó cần quy định rõ phải có ít nhất 75% tổng số người dân có đất bị thu hồi tham gia cuộc
họp thì mới hợp lệ và phải có ít nhất 70% tổng số người tham gia biểu quyết tán thành
thì phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ mới được thông qua và nếu không đạt tỉ lệ
này thì phải sửa đổi, bổ sung lại phương án tổng thể cho phù hợp. Quy định này là cần
125
thiết và đảm bảo sự đồng thuận, tự nguyện cũng như thể hiện quyền dân chủ của người
dân có đất nông nghiệp bị thu hồi.
Hai là, cần quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
trường hợp không điều chỉnh phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ khi đại đa số
người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi không đồng ý hoặc không tổ chức lấy ý kiến
của người dân theo quy định của pháp luật. Như vậy sẽ tạo được sự đồng thuận cao giữa
nhà nước, doanh nghiệp và người dân có đất bị thu hồi và cũng giảm thiểu tỉ lệ khiếu
nại, khiếu kiện của người dân trong thực tế.
Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung Điều 69 LĐĐ năm 2013 như sau:
Điều 69. Trình tự, thủ tục thu hồi đất vì mục đích quôc phòng, an ninh; phát
triển kinh tế - xa hội vì lợi ích quôc gia, công cộng.
“2. Việc lấy ý kiến của nhân dân về phương án tổng thể bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư có thể lấy ý kiến trực tiếp tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản nhưng phải
đảm bảo tối thiểu có 75% tổng số hộ dân có đất bị thu hồi tham gia và phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư được thông qua phải được ít nhất 70% tổng số hộ dân có đất
bị thu hồi tham gia ý kiến tán thành. Nếu không đạt tỉ lệ này thì phải điều chỉnh lại
phương án”.…
“4. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng chịu trách nhiệm
trong việc lấy ý kiến về phương án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và có trách nhiệm quản
lý đất đã được giải phóng mặt bằng”.
Thứ năm, hoàn chỉnh các nguyên tắc trong bồi thường về tài sản gắn liền với đất,
bổ sung Khoản 3 Điều 88 LĐĐ năm 2013.
Luật Đất đai năm 2013 chỉ quy định nguyên tắc bồi thường về đất tại Điều 88
nhưng không quy định nguyên tắc về bồi thường tài sản gắn liền trên đất. Vì vậy, cần
bổ sung vào Điều 88 LĐĐ năm 2013 như sau: Điều 88. Hỗ trợ khi Nha nước thu hồi
đất:
“3. Việc bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất
phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và tương xứng với
tất cả các thiệt hại do hoạt động thu hồi đất gây ra”. Nguyên tắc này là cơ sở quan trọng
đảm bảo việc bồi thường diễn ra khách quan, công bằng, đúng pháp luật khi Nhà nước
thu hồi đất của người dân.
Thứ sáu, về cách tính bồi thường tài sản là cây trồng trên đất, vật nuôi
Nhiều quy định trong LĐĐ năm 2013 còn nhiều bất cập gây khó khăn trong việc
bồi thường cây trồng trên đất bị thu hồi như: Việc xác định thế nào là cây hàng năm, thế
126
nào là cây lâu năm quả thật không dễ dàng, theo Khoản 8 Điều 2 Nghị định số
35/2015/NĐ-CP quy định: “Cây hàng năm được hiểu là loại cây được gieo trồng, cho
thu hoạch và kết thúc chu kỳ sản xuất trong thời gian không quá 01 năm, kể cả cây hàng
năm lưu gốc để thu hoạch không quá 05 năm” [11]. Còn tại điểm 6 Khoản 2 Điều 21
Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT của Bộ TN&MT thì quy định: “Để phân loại, cây
hằng năm sẽ bao gồm các loại cây có thời gian sinh trưởng từ khi gieo trồng tới khi thu
hoạch không quá một năm [6]. Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 90 của LĐĐ
năm 2013 thì việc bồi thường cho cây hằng năm quy định: “Mức bồi thường được tính
bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch. Giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được tính
theo năng suất của vụ cao nhất trong 03 năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa
phương và giá trung bình tại thời điểm thu hồi đất” [27]. Quy định trên đây khi áp dụng
vào thực tiễn gặp một số vướng mắc sau:
Một là, “mức bồi thường được tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch”, quy
định như vậy là chưa hợp lý. Việc bồi thường được tính bằng giá trị sản lượng của vụ
thu hoạch là quá thấp, không đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người nông
dân. Chúng ta có thể so sánh với nguyên tắc bồi thường cây trồng từ Ngân hàng thế giới:
“Đối với cây cối, hoa màu bị ảnh hưởng, bất kể tình trạng sở hữu, người bị ảnh hưởng
sản xuất trên đất đó sẽ được bồi thường đầy đủ theo chi phí thay thế. Cây bị ảnh hưởng
có thể di dời và vận chuyển được thì sẽ hỗ trợ chi phí vận chuyển và trồng lại” [91]. Vì
vậy, cần sửa đổi quy định này theo hướng: cân nhắc, tính toán lại mức bồi thường, có
thể là tương đương với một phần lợi nhuận trong sản lượng thu hoạch của cả thời gian
mà người sử dụng đất đã được giao đất thì mới đảm bảo quyền lợi của người có đất nông
nghiệp bị thu hồi.
Hai là, căn cứ tính bồi thường được xác định là giá trung bình tại thời điểm thu
hồi đất cũng là vấn đề nan giải khi áp dụng trong thực tiễn. Bởi giá trung bình là giá đặc
thù của quá trình mua vào hay quá trình bán ra của sản phẩm cây trồng. Đồng thời “giá
tại thời điểm thu hồi” cũng cần phải làm rõ vì thực tế hiện nay, các địa phương đều áp
dụng các văn bản quy định về bồi thường từ một vài thậm chí là nhiều năm trước đó cụ
thể là dựa và các Quyết định bồi thường của UBND cấp tỉnh ban hành năm 2014, 2015
và có nơi áp dụng cho cả năm 2018. Như vậy, tính kịp thời không còn vì giá cả luôn
luôn biến động, điều này ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu
hồi đất.
Ba là, tại Điểm c Khoản 1 Điều 90 LĐĐ năm 2013 quy định: “Đối với cây trồng
chưa thu hoạch nhưng có thể di chuyển đến địa điểm khác thì được bồi thường chi phí
127
di chuyển và thiệt hại thực tế do phải di chuyển, phải trồng” [27]. Quy định này cũng
chưa “lường” hết được các tình huống có thể xảy ra như: trường hợp khi di chuyển đến
vùng đất mới, không phù hợp với điều kiện canh tác, thì việc di dời cây trong trường
hợp này hoàn toàn vô nghĩa.
Bốn là, mức bồi thường được tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch. Giá
trị sản lượng của vụ thu hoạch được tính theo năng suất của vụ cao nhất trong 03 năm
trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và giá trung bình tại thời điểm thu hồi
đất: Như vậy, đối tượng bồi thường không phải là loại cây mà người sử dụng đất trồng
trên đất bị thu hồi mà là cây trồng chính tại địa phương. Trong thực tế việc xác định thế
nào là cây trồng chính ở địa phương không phải dễ dàng và nếu sản lượng cây trồng
chính ở địa phương thấp hơn sản lượng cây trồng thực tế ở địa phương thì người có đất
bị thu hồi sẽ khiếu nại và ngược lại thì có lợi cho người sử dụng đất.
Về vấn đề này chúng ta có thể học tập kinh nghiệm “trưng thu” hoặc “trưng dụng”
đất của Trung Quốc liên quan đến vấn đề bồi thường đất nông nghiệp và cây trồng trên
đất gồm: tiền bồi thường về đất nông nghiệp; tiền trợ cấp tái định cư; tiền bồi thường
hoa màu trên đất. Cách tính tiền bồi thường đất đai và tiền trợ cấp tái định cư căn cứ
vào: Giá trị tổng sản lượng của đất đai những năm trước đó rồi nhân với một hệ số do
Nhà nước quy định. Còn tiền bồi thường hoa màu và tài sản trên đất nông nghiệp thì xác
định theo giá thị trường tại thời điểm thu hồi đất. Như ở Bắc Kinh tiền bồi thường hoa
màu được tính từ 6 - 10 lần sản lượng trung bình của 3 năm trước đó cộng lại, tiền trợ
cấp tái định cư bằng 4 - 6 lần sản lượng bình quân của 3 năm trước đó, tuy nhiên tổng
số tiền bồi thường hoa màu và trợ cấp tái định cư này không được vượt quá 30 lần sản
lượng bình quân của 3 năm trước đó đối với thửa đất nông nghiệp bị thu hồi [63].
Như vậy, Luật Quản lý đất đai Trung Quốc dựa trên thu nhập trung bình hằng
năm của tài sản là cây trồng trên đất. Quy định này phù hợp với nguyện vọng của những
người nông dân đang canh tác trên đất nông nghiệp. Vì vậy, kiến nghị sửa đổi Điểm a,
c Khoản 1 Điều 90 LĐĐ năm 2013 như sau:
Điều 90. Bồi thường đôi với cây trồng, vật nuôi
“1. Khi Nhà nước thu hồi đất mà gây thiệt hại đối với cây trồng thì việc bồi
thường thực hiện theo quy định sau đây:
a) Đối với cây hàng năm, mức bồi thường được tính bằng giá trị sản lượng của
vụ thu hoạch. Giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được tính theo năng suất của vụ cao
nhất trong 03 năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương hoặc theo sự lựa
chọn của người bị thu hồi đất và giá trung bình tại thời điểm thu hồi đất;
128
....
c. Đối với cây trồng chưa thu hoạch nhưng có thể di chuyển đến địa điểm khác
thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại thực tế do phải di chuyển, phải trồng
lại theo sự thỏa thuận của người bị thu hồi đất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”
Thứ bảy, quy định mức hỗ trợ cho một nhân khẩu
Tại Điểm c Khoản 3 Điều 19 Nghị định số 47/2014NĐ-CP quy định “Mức hỗ
trợ cho một nhân khẩu quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này được tính bằng tiền
tương đương 30 kg gạo trong 01 tháng theo thời giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ của
địa phương” [9]. Quy định này tưởng chừng như hợp lý nhưng ở các địa phương lại quy
định khác nhau về đơn giá gạo trung bình và thời điểm tính đơn giá gạo. Có địa phương
căn cứ vào giá bán gạo tẻ thường bình quân 6 tháng đầu năm hoặc 6 tháng cuối năm, tại
Điểm a Khoản 1 Điều 17 Quyết định số 22/2014/QĐ-UBND của UBND tỉnh Bắc Cạn
quy định: “Tính giá gạo từ thời điểm phê duyệt dự án bồi thường và đơn giá gạo theo
báo cáo giá hàng tháng của Sở Tài chính” [38], còn tại Điểm c Khoản 1 Điều 18 Quyết
định số 12/2015/QĐ-UBND ngày 10/02/2015 của UBND tỉnh Lâm Đồng quy định:
“Tính giá gạo tẻ do Phòng Tài chính - Kế hoạch cấp huyện [64], tại Khoản 3 Điều 22
Quyết định số 17/2015/QĐ-UBND ngày 02/04/2015 của UBND tỉnh Tây Ninh quy
định: “Tính giá gạo trung bình do sở Tài chính công bố vào thời điểm lập phương án
[57]. Còn tại Điểm c Khoản 3 Điều 15 Quyết định số 34/2014/QĐ-UBND ngày
31/12/2014 của UBND tỉnh Sóc Trăng quy định: “Tính giá gạo trung bình do trong tỉnh
do Cục Thống kê tỉnh thống kê và báo cáo hàng tháng [56]. Quy định này tạo ra sự
không thống nhất và bất bình đẳng về mức hỗ trợ cho một nhân khẩu. Đồng thời Sở Tài
chính hay phòng Tài Chính - Kế hoạch, Cục thống kê công bố giá gạo bình quân là trái
với quy định của Luật Giá năm 2012. Cụ thể:
Tại Khoản 4 Điều 8 Luật Giá năm 2012 quy định “ UBND cấp tỉnh trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý nhà nước
trong lĩnh vực giá tại địa phương theo quy định của pháp luật”. Như vậy, chỉ có UBND
cấp tỉnh mới có quyền công bố giá gạo bình quân tại địa phương mình chứ không phải
bất kỳ cơ quan nào khác. Vì vậy, sửa đổi, bổ sung Điểm c Khoản 3 Điều 19 Nghị định
số 47/2014NĐ-CP quy định “Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu quy định tại Điểm a và
Điểm b Khoản này được tính bằng tiền tương đương 30 kg gạo trong 01 tháng theo thời
giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ của địa phương”. Thành: Điều 19.
“3.c. Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này
được tính bằng tiền là một tháng lương cơ sở trong 01 tháng cho mỗi nhân khẩu. Nhân
129
khẩu được xác định trong sổ hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú dài hạn”. Quy định theo
hướng này sẽ áp dụng thống nhất mức hỗ trợ trong phạm vi cả nước đồng thời đảm bảo
phần nào cuộc sống cho hộ gia đình, cá nhân có đất nông nghiệp bị thu hồi đang gặp rất
nhiều khó khăn.
Thứ tám, sửa đổi và ban hành các quy định chi tiết về lấy ý kiến Phương án đào
tạo nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm do Phương án này hiện nay được lập cùng lúc với
Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nên bị mờ nhạt, do người dân chủ yếu quan
tâm mức bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, quy định cụ thể trong Phương án tổng thể các
vấn đề sau:
Một là, đối với nông dân không còn đất nông nghiệp để sản xuất phải hỗ trợ học
nghề, giải quyết việc làm theo hai nhóm đó là: Nhóm nông dân trong độ tuổi lao động
và nhóm nông dân ngoài độ tuổi lao động. Đối với nhóm trong độ tuổi lao động sẽ được
nhà nước hỗ trợ học nghề để chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm mới giúp họ ổn
định cuộc sống. Đối với nhóm ngoài độ tuổi lao động họ không thể học nghề được vì
tuổi quá lớn thì các doanh nghiệp ưu tiên tuyển dụng vào các vị trí như giữ xe, bảo vệ,
chăm sóc cây, công nhân vệ sinh môi trường và sẽ được cấp thẻ Bảo hiểm y tế miễn phí
để giúp họ yên tâm hơn khi tuổi già. Nếu người dân bị thu hồi đất đi xuất khẩu lao động
ở nước ngoài theo hợp đồng, sẽ được hỗ trợ 100% học phí học nghề, đào tạo ngoại ngữ,
bồi dưỡng kiến thức cần thiết, 100% chi phí khám sức khỏe, làm hộ chiếu, visa và lý
lịch tư pháp, được vay vốn ưu đãi để chi trả các chi phí cần thiết trước và khi xuất khẩu
lao động.
Hai là, được vay vốn ưu đãi tại ngân hàng chính sách xã hội với mức 40 tháng
lương cơ sở tại thời điểm vay. Thời hạn vay 10 năm, mức lãi suất 3%/năm để phát triển
sản xuất, đầu tư kinh doanh, giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm ở nơi tái định cư mới.
4.4. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thu hồi
đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xa hội
4.4.1. Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đất đai
nói chung và các quy định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội nói riêng
Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật luôn giữ vị trí quan trọng trong
đời sống xã hội, là một bộ phận không thể tách rời với quá trình xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật. Công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật là giai đoạn đầu
tiên trong quá trình thực hiện pháp luật, là công cụ để đưa pháp luật đến gần hơn với
nhân dân. Muốn pháp luật đi vào đời sống xã hội, ngoài yêu cầu bảo đảm tính đồng bộ,
130
thống nhất, phù hợp, khả thi và công tác tổ chức thực hiện một cách nghiêm minh thì sự
hiểu biết pháp luật của người dân cũng giữ vai trò hết sức quan trọng. Thông qua công
tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật, tất cả các chủ thể từ áp dụng pháp luật
đến chấp hành pháp luật đều nắm được nội dung của quy định pháp luật, trình tự thủ tục
áp dụng pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia để từ đó thực hiện các hành
vi trong chuẩn mực mà pháp luật cho phép góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước
nói chung và công tác quản lý trong lĩnh vực đất đai nói riêng.
Qua thực tiễn thu hồi đất nông nghiệp tại các địa phương cho thấy rằng việc áp
dụng pháp luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
cán bộ công chức có thẩm quyền trong nhiều trường hợp chưa chính xác, chưa đúng quy
định của pháp luật như như vụ thu hồi đất nông nghiệp ở huyện Thăng Bình - Tỉnh
Quảng Nam, huyện Hoàng Hóa - Tỉnh Thanh Hóa, huyện Tiên Du - Tỉnh Bắc Ninh,
thành phố Bắc Giang - Tỉnh Bắc Giang… đã phân tích ở chương 3 của Luận án. Đây
cũng chính là lý do để người bị thu hồi đất nông nghiệp khiếu kiện, khiếu nại kéo dài
nhưng có cơ sở và đúng quy định của pháp luật xuất phát từ việc thực hiện pháp luật, áp
dụng pháp luật không đúng của các chủ thể có thẩm quyền. Nhưng cũng có nhiều trường
do không am hiểu pháp luật nên bị kẻ xấu lôi kéo, xúi dục, kích động khiếu kiện tập thể,
khiếu kiện vượt cấp nhưng không có cơ sở pháp lý gây mất an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội tại địa phương cũng như trong phạm vi cả nước. Vì vậy, để LĐĐ năm 2013
và các văn bản hướng dẫn đi vào cuộc sống tạo sự đồng thuận của người dân đối với
vấn đề thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước thì các cấp
chính quyền địa phương phải tăng cường công tác phổ biến tuyên truyền giáo dục chính
sách pháp luật đất đai đặc biệt tập trung vào các nội dung: Quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất, đất nông nghiệp; công tác quy hoạch, KHSDĐ nông nghiệp, quy định về
giá đất, quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất; chính sách bồi thường, hỗ trợ khi nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp, quy định về khiếu nại tố cáo liên quan đến việc thu hồi
đất để người dân tiếp cận, hiểu rõ quy định của pháp luật, đánh giá được các thông tin
mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp liên quan đến các dự án mà họ có đất bị
thu hồi. Bên cạnh đó, phải chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến
thức pháp luật về đất đai cho đội ngũ làm công tác thu hồi đất tại địa phương mình vì
đây chính là đội ngũ trực tiếp tham gia vào quá trình thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ cho
người có đất nông nghiệp bị thu hồi. Đồng thời, Chính phủ, UBND cấp tỉnh phải thường
xuyên kiểm tra, giám sát việc phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật nói chung và
131
pháp luật đất đai nói riêng của UBND cấp dưới để tránh trường hợp làm qua loa chiếu
lệ, hình thức.
Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đất đai trong đó có chế định
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội không những nâng cao được hiệu
quả pháp luật, giúp cho pháp luật dễ dàng đi vào cuộc sống mà còn tạo điều kiện cho họ
nhận thức được mục đích, ý nghĩa cũng như lợi ích về nhiều mặt từ việc thu hồi đất. Từ
đó, để mọi người dân hiểu và chấp hành pháp luật, đảm bảo các nguyên tắc, thể chế quy
định, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thông qua
đó, nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, giúp cho người dân tin tưởng vào sự công bằng và tính đúng
đắn của pháp luật về thu hồi đất.
4.4.2. Nâng cao năng lực, hiệu quả của Bộ máy quản lý đất đai và cán bộ trực
tiếp thực hiện công tác thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Đối với người cán bộ, nếu có ý thức pháp luật tốt, phẩm chất tốt, việc áp dụng
các quy định của pháp luật mới có hiệu quả, không bị cám dỗ về mặt vật chất, tinh thần
dẫn đến làm sai luật hay áp dụng không đầy đủ quy định của pháp luật làm giảm hiệu
quả áp dụng pháp luật trên thực tế. Trình độ, năng lực của Bộ máy quản lý đất đai, đội
ngũ cán bộ thực thi pháp luật còn hạn chế, để xảy ra tình trạng sai sót, tiêu cực, nhũng
nhiễu, tham nhũng… trong thực tế là nguyên nhân gây mất lòng tin của nhân dân, phát
sinh khiếu nại, khiếu kiện phức tạp đều có phần nguyên nhân từ năng lực của cán bộ
thực thi pháp luật. Vì vậy, bên cạnh việc xử lý nghiêm những trường hợp tiêu cực, nhũng
nhiễu, tham nhũng của cán bộ thực hiện công tác thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội thì cần:
Thứ nhất, kiện toàn hệ thống bộ máy tổ chức ngành quản lý đất đai đồng bộ từ
Trung ương đến địa phương, đảm bảo chức năng thống nhất quản lý nhà nước về đất đai
trên phạm vi cả nước, có sự phân công, phân cấp rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đầu tư trang thiết bị, ứng dụng tiến bộ khoa học
công nghệ ngang tầm trình độ tiên tiến của các nước trong khu vực nhằm phát huy cao
nhất năng lực thể chế và hiệu quả của công tác quản lý đất đai trên phạm vi cả nước
Thứ hai, thường xuyên nâng cao trình độ, mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp thường xuyên cho đội ngũ cán bộ làm công tác
thực thi pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất; đồng thời cần bố trí và tạo điều kiện cho các cán bộ làm công
tác có liên quan và trực tiếp thực hiện việc áp dụng pháp luật về thu hồi đất tham gia bổ
132
sung nâng cao kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ
có đủ trình độ và năng lực thực thi các nhiệm vụ trong việc chỉ đạo, hướng dẫn và thực
hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, từ đó đẩy
nhanh được tiến độ thực hiện việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, tổ chức trang thông tin điện tử về hướng dẫn nghiệp vụ quản lý đất đai,
phổ biến kinh nghiệm quản lý, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, kinh nghiệm thu hồi
đất, mở diễn đàn trao đổi kinh nghiệm quản lý trong toàn ngành quản lý đất đai.
4.4.3. Đẩy mạnh thực thi dân chủ, công khai, minh bạch quá trình thực hiện
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Một trong những nguyên nhân lớn làm phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -xã hội là do cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền không công khai, minh bạch trong quá trình tổ chức thực hiện nên không
nhận được sự đồng thuận của người dân. Ở nhiều nơi, việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ
diễn ra không rõ ràng, minh bạch; yếu tố công khai, minh bạch dường như chỉ dừng lại
ở quy định pháp luật, hiệu quả thực tế không cao. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thường không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về quy trình thu hồi đất như:
thông báo cho người sử dụng đất biết lý do thu hồi, thời gian thu hồi, giá đất, phương
án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ. Vị trí, vai trò của người dân tham gia vào quá trình
thu hồi đất nông nghiệp bị xem nhẹ, người dân bị hạn chế quyền đề xuất, thể hiện tâm
tư nguyện vọng của mình khi Nhà nước thu hồi đất. Chính những điều này đã gây nên
những nghi ngờ về sự không công tâm của các cán bộ thực thi pháp luật. Việc bồi
thường, hỗ trợ không công khai và thiếu sự minh bạch cũng là nguyên nhân làm phát
sinh tham nhũng, tiêu cực, bớt xén trong quá trình thu hồi đất.
Phát huy dân chủ, công khai minh bạch chính là định hướng chung về cải cách
hành chính, tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, quá trình thực hiện quy định pháp
luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội cần đảm bảo minh bạch,
công khai ở tất cả các khâu, các công đoạn. Yêu cầu công khai, dân chủ, minh bạch đòi
hỏi phải xuyên suốt cả quá trình từ khâu: Lập quy hoạch, KHSDĐ, đặt biệt KHSDĐ chi
tiết hằng năm và việc sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch; trình tự, thủ tục, thẩm
quyền thu hồi đất (Thông báo thu hồi đất, diện tích đất bị thu hồi, tiến độ thực hiện dự
án); phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; quyết định thu hồi đất; giải quyết khiếu
nại, tố cáo…LĐĐ năm 2013 đã có nhiều sửa đổi theo hương tăng cường vai trò của
người dân tham gia vào quá trình thu hồi đất của Nhà nước. Yêu cầu đặt ra là hiện thực
hóa các quy định của pháp luật vào thực tiễn đời sống. Thực hiện tốt những vấn đề trên,
133
sẽ đảm bảo tốt nhất quyền lợi của các bên có liên quan, làm giảm thiểu tranh chấp và
khiếu kiện về thu hồi đất; đồng thời giúp ngăn ngừa tham nhũng, tiêu cực trong quá trình
nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội.
4.4.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát đối với việc thu hồi
đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Thứ nhất, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong quản lý đất đai và thu hồi đất của người nông dân, góp phần
xử lý kịp thời những khuất tất, vi phạm pháp luật trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp
và giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ; hạn chế tối đa các khiếu nại, tố cáo của
người dân nhằm phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai phạm; thành lập Ban chỉ đạo ở
cấp huyện để chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc thu hồi đất; kiện toàn tổ chức bộ máy,
cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra, đặc biệt là thanh tra tài nguyên và môi trường,
xây dựng để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; có cơ chế, chính sách khuyến khích, khen
thưởng đối với các tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân chủ động, tích cực bàn
giao mặt bằng, chấp hành tốt quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đồng
thời, tìm ra những thiếu sót, bất cập giữa các quy định pháp luật và thực tiễn trong quá
trình thực thi để kịp thời sửa chữa, bổ sung hoặc thay thế các quy định chưa phù hợp với
thực tiễn.
Thư hai, tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân
và các tổ chức đoàn thể, xã hội
Mặt trận Tổ quốc với vai trò là “cầu nối” giữa Nhà nước và nhân dân, giúp truyền
tải những chủ trương, chính sách, quy định của Nhà nước đến người dân và phản ánh
tâm tư, nguyện vọng chính đáng của người dân đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong quá trình Nhà nước thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thông qua hoạt
động của mình, Mặt trận tổ quốc thực hiện chức năng giám sát và phản biện đối với cả
chủ thể thu hồi đất và chủ thể có đất bị thu hồi, nhằm đảm bảo pháp luật được thực hiện
nghiêm minh, hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, người dân và chủ đầu tư. Hiến pháp năm
2013, Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam năm 2015 xác định rõ chức năng giám sát và
phản biện là hai chức năng cơ bản, quan trọng của Mặt trận. Trong quá trình thu hồi đất
nói chung và thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội, sự giám sát và phản
biện của Mặt trận là rất quan trọng và cần thiết. Nhưng trên thực tế, Mặt trận tổ quốc và
các tổ chức đoàn thể chưa phát huy được vai trò chính yếu là giám sát, phản biện mà
134
chủ yếu hiện nay chỉ thực hiện công tác vận động. Đồng thời trách nhiệm giám sát, phản
biện của Mặt trận vẫn chưa được quy định rõ ràng trong các bước thực hiện thu hồi đất
như: Trong quá trình lập và thông qua quy hoạch, KHSDĐ đặc biệt kế hoạch sử dụng
đất hằng năm của cấp huyện; vai trò của Mặt trận trong Hội đồng bồi thường, hỗ trợ tái
định cư. Vì vậy, để Mặt trận tổ quốc thực hiện chức năng giám sát có hiệu quả cần:
Một là, pháp luật về đất đai cần quy định rõ vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của
Mặt trận tổ quốc trong quá trình cơ quan có thẩm quyền lập, lấy ý kiến và thông qua quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Hai là, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ tái định cư phải tổ chức hoặc phối hợp tổ
chức tập huấn pháp luật có liên quan đến quá trình nhà nước thu hồi đất nông nghiệp,
bồi thường, hỗ trợ cho các thành viên trong Hội đồng đặc biệt là các thành viên Mặt
trận, vì chỉ khi thành viên Mặt trận hiểu đúng pháp luật thì mới thực hiện việc giám sát
và phản biện hiệu quả.
135
4.4.5. Tạo cơ chế để cộng đồng dân cư và người bị thu hồi đất tham gia trực
tiếp vào quá trình thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Hiện nay, hầu hết các trường hợp thu hồi đất bắt buộc đều do Hội đồng bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư do UBND cấp huyện thành lập triển khai thực hiện trên
thực tế từ khâu thu hồi đất tới khâu bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi
đất. Từ thực tế triển khai, có thể thấy hoạt động của các Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư dựa chủ yếu vào các quy tắc hành chính, rất nhiều nơi đã áp dụng biện pháp
cưỡng chế người bị thu hồi đất phải thực hiện quyết định hành chính về thu hồi đất, nhận
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Trong triển khai còn thiếu quá trình vận động nhân dân
trên cơ sở động viên sự tham gia của cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội và tham gia
trực tiếp của những người bị thiệt hại. Cách triển khai hiện tại thường dẫn tới xung đột
giữa chính quyền và người dân, người bị thu hồi đất luôn coi mình là nạn nhân của chính
sách của Nhà nước. Trình tự, thủ tục thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư hiện nay được áp dụng gần như giống nhau ở tất cả các địa phương và cho tất cả các
dự án đầu tư. Cách làm như vậy chưa tạo được tính phù hợp đối với từng hoàn cảnh kinh
tế - xã hội của địa phương, từng đặc trưng dân tộc của các dân tộc thiểu số.
Bên cạnh đó, cần thực hiện thực chất cơ chế tham gia của cộng đồng dân cư nơi
có đất và người bị thu hồi đất vào quá trình thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư. Sự tham gia như vậy sẽ giúp họ sớm đạt được tính đồng thuận, hạn chế khiếu
kiện của người bị thiệt hại về đất và tạo được mối quan hệ tốt giữa chính quyền và nhân
dân. Hơn nữa, khi thực hiện trên thực tế cần có phân tích kỹ lưỡng điều kiện kinh tế, xã
hội, văn hóa, tập quán của địa phương, của nhóm cư dân để đưa ra giải pháp triển khai
phù hợp. Để đảm bảo sự tham gia của cộng đồng dân cư và người dân có đất nông nghiệp
bị thu hồi thì cần: Quy định rõ sự tham gia của người bị thu hồi đất vào trong LĐĐ năm
2013; phân tích cụ thể các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, tập quán, v.v. của cộng
đồng dân cư tại khu vực đất bị thu hồi, nhất là cần phân tích kỹ đói nghèo và các ảnh
hưởng xã hội để đưa ra phương án thực hiện cụ thể; đại diện do cộng đồng dân cư giới
thiệu và những người bị thu hồi đất tham gia thực chất vào quy trình thu hồi đất từ khâu
lập quy hoạch, KHSDĐ đến phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; việc hỗ trợ cần
tính toán đủ các thiệt hại sẽ xảy ra đối với người bị thu hồi đất, cả những thiệt hại không
tính được bằng tiền và những thiệt hại dài hạn nhằm mục tiêu khôi phục lại đời sống,
việc làm như trước khi bị thu hồi đất.
136
Kết luận chương 4
Trên cơ sở phân tích những tồn tại bất cập trong các quy đinh của pháp luật về
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội và qua thực tiễn áp dụng tại các
địa phương, tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội bao gồm:
1. Đánh giá những ưu điểm của nội dung của LĐĐ năm 2013 và các yêu cầu khi
hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội gồm: việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật vể thu hồi đất nông nghiệp phải dựa vào quan
điểm, đường lối, chủ tương, chính sách của Đảng về quản lý đất đai; phải đảm bảo hài
hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người có đất nông nghiệp bị thu hồi; phải gắn
với việc hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung và các đạo luật khác có liên quan đến
LĐĐ; cần tham khảo kinh nghiệm thu hồi đất cũng như các chế định pháp lý của các
nước trên thế giới.
2. Đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật về công tác quy hoạch, KHSDĐ;
thẩm quyền, trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội như:
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của HĐND các trong việc tỉnh giám sát các quyết định
thu hồi đất của UBND cùng cấp; trong việc quy định cụ thể tỉ lệ phần trăm số người bị
thu hồi đất tham gia lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất nông
nghiệp; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và cơ chế phối hợp của Hội đồng bồi thường
và hỗ trợ tái định cư với các các cơ quan, tổ chức có liên quan trong quá trình thu hồi
đất nông nghiệp; xây dựng cơ chế xác định giá đất bồi thường theo giá thị trường để
đảm bảo quyền lợi của người có đất nông nghiệp bị thu hồi.
3. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội như: Mở rộng việc áp dụng cơ chế thỏa thuận
đối với các dự án thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường công
tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đất đai nói chung và các quy định của pháp
luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội nói riêng; nâng cao năng
lực, hiệu quả của Bộ máy quản lý đất đai và cán bộ trực tiếp thực hiện công tác thu hồi
đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
và giám sát đối với việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội…
137
KẾT LUẬN CHUNG
1. Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, việc thu hồi đất nói
chung và đất nông nghiệp nói riêng để phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề tất yếu khách
quan. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà các quy định của pháp luật đất
đai hiện hành và các văn bản pháp luật có liên quan vẫn chưa thực sự phù hợp với thực
tiễn, chưa giải quyết được mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích của nhà nước, nhà đầu tư và
người có đất nông nghiệp bị thu hồi.
2. Luận án “Pháp luật thu hồi đất nông nghiêp để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt
Nam” đã giải quyết những vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Luận án đã làm sáng tỏ những đặc
trưng của việc nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, các nhân tố tác động đến quá trình nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp, vai trò, ý nghĩa của việc nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội, giải thích các nội dung về thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội như: Công tác quy hoạch, KHSDĐ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục
thu hồi đất nông nghiệp, công tác bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp.
3. Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những sửa
đổi bổ sung các quy định của pháp luật về thu hồi đất nói chung và thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội nói riêng theo hướng đảm bảo tính công khai, minh
bạch, dân chủ, phù hợp với quy hoạch, KHSDĐ…Những thay đổi này góp phần bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất nông nghiệp bị thu hồi, giảm thiểu
khiếu kiện, khiếu nại, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cũng như cả
nước.
4. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển kinh tế - xã hội đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập trong công tác quy hoạch,
KHSDĐ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thu hồi đất, sự tham gia của người dân vào quy
trình thu hồi đất nông nghiệp chưa thiết thực, giá đất bồi thường chưa phù hợp với thực
tế, xác định thiệt hại và bồi thường thiệt hại chưa chính xác, nguyên tắc “đất đổi đất”
không khả thi, xây dựng phương án bồi thường và giải quyết quyền lợi bồi thường trong
một số trường hợp còn hạn chế, áp dụng quy định của pháp luật về thu hồi đất chưa
chính xác, sai thẩm quyền….đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người có đất nông nghiệp bị thu hồi, cản trở phát triển kinh tế - xã hội, chưa phát
huy tối đa hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai. Đây chính là những nguyên nhân dẫn đến
138
tình trạng khiếu kiện đông người, kéo dài, vượt cấp ảnh hưởng đến môi trường đầu tư
và gây nguy cơ bất ổn xã hội.
5. Trong thời gian tới, các quy định của pháp luật về thu hồi đất nói chung và thu
hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội nói riêng cần được hoàn thiện theo
hướng: (1) Căn cứ vào quan điểm, đường lối, chủ tương, chính sách của Đảng về quản
lý đất đai; (2) Phải đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người có đất
nông nghiệp bị thu hồi; (3) Hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp phải gắn
với việc hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung và các đạo luật khác có liên quan đến
LĐĐ; (4) Hoàn thiện các quy định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội cần tham khảo kinh nghiệm thu hồi đất cũng như các chế định pháp lý
của các nước trên thế giới.
6. Luận án cũng đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội như: Hoàn thiện các quy định về công tác quy hoạch,
KHSDĐ nông nghiệp; hoàn thiện các quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp;
hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp; hoàn thiện cơ chế
xác định giá đất nông nghiệp; hoàn thiện các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp; hoàn thiện các quy định về khiếu nại khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp. Đồng thời, luận án cũng đề xuất đồng bộ các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
như: Mở rộng việc áp dụng cơ chế thỏa thuận đối với các dự án thu hồi đất nông nghiệp;
tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đất đai nói chung và các
quy định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp nói riêng; nâng cao năng lực, hiệu
quả của Bộ máy quản lý đất đai và cán bộ trực tiếp thực hiện công tác thu hồi đất nông
nghiệp; đẩy mạnh thực thi dân chủ, công khai, minh bạch quá trình thực hiện thu hồi đất
nông nghiệp; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát đối với việc thu hồi
đất nông nghiệp; tạo cơ chế để cộng đồng dân cư và người bị thu hồi đất được tham gia
trực tiếp vào quá trình thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ.
139
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội và hỗ trợ tái định cư: Những vướng mắc và một số giải pháp - Hội
thảo quốc tế, Chính sách pháp Luật về tái định cư: Từ Lý thuyết đến Thực tiễn, Trường
Đại học Luật - Đại học Huế, năm 2017.
2. Kinh nghiệm thu hồi đất nông nghiệp ở một số nước trên thế giới - Tạp chí Giáo dục
và Xã hội số tháng 01/2019.
3. Kinh nghiệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở một số nước trên
thế giới - Tạp chí Giáo dục và Xã hội số tháng 02/2019.
4. Một số yếu tố tác động đến việc nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đến phát triển kinh
tế - xã hội - Tạp chí Giáo dục và Xã hội số tháng 4/2019.
5. Cơ sở để nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nhằm phát triển kinh tế - xã hội - Tạp chí
Giáo dục và Xã hội số tháng 01/2020.
6. Các yêu cầu đặt ra khi xây dựng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội - Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Xã hội và Nhân văn
Tập 129, số 6C/2020 (http://jos.hueuni.edu.vn/index.php/HUJOS-SSH/article/view/5681).
7. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội-Tạp chí Giáo dục và Xã hội số tháng 9/2020
8. Về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế, xã hội - Cơ sở chính trị, pháp lý và
ý nghĩa thực tiễn - Tạp chí Kiểm sát số 17/2020.
9. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội - Tạp chí Giáo dục và Xã hội số tháng 11/2020.
10. Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã
hội: Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện - Tạp chí Giáo dục và Xã hội số tháng 01/2021.
11. Đề tai nghiên cứu khoa học cấp cơ sở: Pháp luật thu hồi đất nông nghiệp ở Việt
Nam và một số nước trên thế giới - Dưới góc độ so sánh, Trường Đại học Luật - Đại học
Huế, Mã số: ĐHL2018-NCS-03, Chủ nhiệm.
12. Đề tai nghiên cứu khoa học cấp cơ sở: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội tại huyện Hòa Vang - Thành
phố Đà Nẵng, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, Mã số: T2020-KN02, Chủ
nhiệm.
140
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn kiện của Đảng va văn bản quy phạm pháp luật
[1] Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI (2011), Văn kiện đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI, tr109-110.
[2] Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (2016), Nghị quyết 06 về thực hiện
có hiệu quả tiến trình hội nhập Kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã
hội trong bối cảnh nước ta tham gia các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới
[3] Bộ Chính trị (2013), Kết luận số 58-KL/TW sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa x) về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát
triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế
giới
[4] Bộ Tài nguyên và Môi Trường (2014), Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT quy định
về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất; Hà
Nội.
[5] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT quy định
chi tiết về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
[6] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT Quy định
chi tiết một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Nghị định số
44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ
[7] Chính phủ (2012), Nghị định số 42/2012/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 2012 của
Chính phủ quy định về việc quản lý sử dụng đất trồng lúa.
[8] Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một
số điều của LĐĐ, Hà Nội.
[9] Chính phủ (2014), Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội.
[10] Chính phủ (2014), Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ
quy định về giá đất; Hà Nội.
[11] Chính phủ (2015), Nghị định số 35/2015/NĐ-CP về quản lý, sử dụng đất trồng
lúa
[12] Chính phủ (2017), Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 sửa đổi, bổ
sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai.
[13] Chính phủ, Nghị quyết số 07/NQ-CP ngày 22/1/2014 ban hành chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 của BCH
Trung ương Đảng khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong
141
thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Hà Nội.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, X – Nxb. Chính trị quốc gia.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII, NXB. Chính
trị Quốc gia, tr.102.
[16] Quốc hội (1946), Hiến pháp.
[17] Quốc hội (1959), Hiến pháp.
[18] Quốc hội (1980), Hiến pháp.
[19] Quốc hội (1992), Hiến pháp.
[20] Quốc hội (2013), Hiến pháp.
[21] Quốc hội (1995), Bộ Luật Dân sự.
[22] Quốc hội (2005), Bộ Luật Dân sự
[23] Quốc hội (2015), Bộ Luật Dân sự.
[24] Quốc hội (1987), Luật Đất đai.
[25] Quốc hội (1993), Luật Đất đai.
[26] Quốc hội ( 2003), Luật Đất đai.
[27] Quốc hội (2013), Luật Đất đai.
[28] Quốc Hội (2012), Luật Giá.
[29] Quốc hội (2008), Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản.
[30] UBND tỉnh Bắc Giang (2014), Quyết định số 869/2014/QĐ-UBND về việc quy
định chi tiết một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, ngày 31/12.
[31] UBND tỉnh Bình Thuận (2015), Quyết định số 08/2015/QĐ-UBND về việc quy
định chi tiết một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận, ngày 02/3
[32] UBND thành phố Cần Thơ (2014), Quyết định số 15/2014/QĐ-UBND Quy định
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đối với các nội
dung thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ, ngày 13/11.
[33] UBND thành phố Đà Nẵng (2015), Quyết định số 06/2015/QĐ-UBND Về việc
Ban hành Quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, ngày 14/3.
142
[34] UBND tỉnh Đồng Nai (2014), Quyết định số 54/2014/QĐ-UBND ban hành quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
tỉnh Đắc Lắc, ngày 20/11
[35] UBND thành phố Hà Nội (2014), Quyết định số 23/2014/QĐ-UBND Ban hành
Quy định các nội dung thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội do LĐĐ 2013 và các Nghị định của Chính phủ giao cho về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội, ngày
20/6.
[36] UBND thành phố Hải Phòng (2014), Quyết định số 2970/2014/QĐ-UBND Ban
hành Quy định về bảng giá đất thành phố Hải Phòng 05 năm (2015 - 2019),
ngày 25/12.
[37] UBND thành phố Hồ Chí Minh (2015), Quyết định số 23/2015/QĐ-UBND Ban
hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15/5.
[38] UBND tỉnh Bắc Kạn (2014), Quyết định số 22/2014/QĐ-UBND Quy định một
số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn tỉnh Bắc Kạn, ngày 22/10.
[39] UBND tỉnh Bắc Giang (2014), Quyết định số 869/2014/QĐ-UBND Ban hành
Quy định một số điểm cụ thể về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, ngày 31/12.
[40] UBND tỉnh Bắc Ninh (2014), Quyết định số 528/2014/QĐ-UBND Ban hành
Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và thực
hiện trình tự thu hồi đất, giao đất, cho thuế đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, ngày 22/12.
[41] UBND tỉnh Bình Định (2014), Quyết định số 34/2014/QĐ-UBND Ban hành
bảng giá các loại đất năm 2015 (định kỳ 5 năm) trên địa bàn tỉnh Bình Định,
ngày 22/12.
[42] UBND tỉnh Cao Bằng (2014), Quyết định số 42/2014/QĐ-UBND Về việc Ban
hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, ngày 19/12.
[43] UBND tỉnh Đắc Lắc (2014), Quyết định số 39/2014/QĐ-UBND Về việc Ban
hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk, ngày 10/11.
143
[44] UBND tỉnh Đăk Lăk (2017), Quyết định số 14/2017/QĐ-UBND của Ủy ban
nhân dân tỉnh Đắc Lắc quy định giá bồi thường cây trồng, hoa màu gắng liền
với đất.
[45] UBND tỉnh Đồng Nai (2014), Quyết định số 54/2014/QĐ-UBND Ban hành Quy
định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai, ngày 20/11.
[46] UBND tỉnh Gia Lai (2014), Quyết định số 21/2014/QĐ-UBND Về việc Ban
hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn tỉnh Gia Lai, ngày 12/9.
[47] UBND tỉnh Hậu Giang (2014), Quyết định số 39/2014/QĐ-UBND Ban hành
quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn tỉnh Hậu Giang, ngày 19/12.
[48] UBND tỉnh Khánh Hòa (2014), Quyết định số 29/2014/QĐ-UBND Ban hành
Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn tỉnh Khánh Hòa, ngày 21/12.
[49] UNBD tỉnh Lai Châu (2017), Quyết định số 30/2017/QĐ-UBND ban hành đơn
giá bồi thường về nhà, công trình xây dựng trên đất, cây trồng vật nuôi và các
tài sản gắn liền với đất khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu
[50] UBND tỉnh Lâm Đồng (2015), Quyết định số 12/2015/QĐ-UBND bổ sung một
số nội dung của bảng giá các loại đất trên địa bàn thành phố đà lạt, tỉnh lâm
đồng ban hành kèm theo Quyết định số 69/2014/QĐ-UBND ngày 19/12/2014
của ubnd tỉnh lâm đồng ban hành bảng giá các loại đất trên địa bàn các huyện,
thành phố Bảo Lộc và thành phố Đà Lạt - tỉnh Lâm Đồng.
[51] UBND tỉnh Nam Định (2015), Quyết định số 08/2015/QĐ-UBND về việc ban
hành quy định cụ thể một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Nam Định.
[52] UBND tỉnh Nghệ An (2015), Quyết định số 58/2015/QĐ-UBND Ban hành Quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
tỉnh Nghệ An, ngày 13/10.
[53] UBND tỉnh Quảng Nam (2014), Quyết định số 43/2014/QĐ-UBND Ban hành
Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam, ngày 22/12.
144
[54] UBND tỉnh Quảng Ngãi (2015), Quyết định số 13/2015/QĐ-UBND Ban hành
Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất áp dụng
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, ngày 05/3.
[55] UBND tỉnh Quảng Ngãi (2017), Quyết định số 69/2017/QĐ-UBND của Ủy ban
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về mật độ và đơn giá cây trồng thực hiện việc bồi
thường.
[56] UBND tinh Sóc Trăng (2014), Quyết định số 34/2014/QĐ-UBND về việc ban
hành quy định một số chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
[57] UBND tỉnh Tây Ninh (2015), Quyết định số 17/2015/QĐ-UBND ban hành quy
định một số chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
[58] UBND tỉnh Thái Bình (2014), Quyết định số 54/2014/QĐ-UBND về việc ban
hành quy định một số chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thái Bình, ngày 30/6.
[59] UBND tỉnh Thừa Thiên Huế (2014), Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND Ban
hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, ngày 05/8.
[60] Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Krông Ana, tỉnh Dak Lak (2007 -2015),
Tài liệu điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn huyện.
II. Luật nước ngoai
[61] Australia (2014), Đạo Luật Công trình công cộng.
[62] Australia (2017), Luật Quản lý đất đai.
[63] Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (2014), Luật Quản lý đất đai.
[64] Hàn Quốc (2017), Đạo luật Mua lại và Đền bù đất đai cho dịch vụ công.
[65] Liêng bang Nga (2013), Bộ Luật Đất đai.
III. Các công trình nghiên cứu trao đổi
[66] Nguyễn Đức Biền (2011), Thực trạng, những vướng mắc trong quá trình Nhà
nước thu hồi đất để giao, cho thuê và tự thỏa thuận để có đất thực hiện dự án,
Báo cáo tại Hội thảo về các nội dung liên quan đến sửa đổi Luật Đất đai năm
2003, Hà Nội 06/2011.
[67] Trần Kim Chung (2012), “Định giá đất và phân cấp trong việc định giá đất;
cập nhật, quản lý hệ thống thông tin về giá đất, đáp ứng yêu cầu quản lý của
Nhà nước và góp phần phát triển thị trường bất động sản ở nước ta”, Kỷ yếu
145
hội thảo Thi hành pháp luật về đất đai ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và
những giải pháp hoàn thiện do Viện Nghiên cứu lập pháp và Viện ROSA
Luxemburg (Cộng hòa Liên bang Đức) tổ chức, Nhà Xuất bản Đại học Kinh
tế Quốc dân, Hà Nội, tr. 149 - 168.
[68] Nguyễn Thị Dung (2014), “Về giá đất trong Luật Đất đai năm 2013”, Tạp chí
Luật học, (số 11), tr. 12 - 20.
[69] Trần Minh Đạo (2013), “Những nguyên tắc xác định giá trị bồi thường quyền
sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, (số 01),
tr. 37 - 41.
[70] Ph. Dương (2007), Thiếu nhà đất để tái định cư, Thời báo Kinh tế Việt Nam số
9.
[71] Nguyễn Văn Giàu (2014), “Cụ thể hóa các quy định về đất đai trong Hiến
pháp sửa đổi năm 2013”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 02+02), tr. 12 -
18.
[72] Nguyễn Phi Hùng (2009), Quy định mới về thu hồi đất nông nghiệp: bồi thường
một, hỗ trợ năm, Báo điện tử sàn giao dịch bất động sản, ngày 19/8/2009.
[73] Đặng Đức Long (2009), “Giải bài toán lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể:
Nhà nước, người có đất bị thu hồi và chủ đầu tư khi bị thu hồi đất”, Tạp
chí Tài nguyên và Môi trường, (số 5).
[74] Nguyễn Thắng Lợi (2008), “Kinh nghiệm của Trung Quốc trong hoạt động thu
hồi đất nông nghiệp”, Tạp chí Cộng sản điện tử.
[75] Hoàng Lộc (2005), “Nông dân góp vốn bằng đất: Giải pháp đột phá trong
đền bù, giải tỏa”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, (số 253).
[76] Nguyễn Thị Nga (2014), Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất - Thực trạng và hướng hoàn thiện, Đề tài khoa học cấp trường,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
[77] Phạm Mai Ngọc (2016) Thu hồi đất- kinh nghiệm của một số nước và thực tiễn
tại Việt Nam.
[78] Park Hyun Young (2011), Mô hình phát triển đất đai của Hàn Quốc, Hội thảo
“Kinh nghiệm quản lý đất đai Hàn Quốc” do Tổng cục Quản lý Đất đai (Bộ
Tài nguyên và Môi trường) tổ chức tại Hà Nội.
[79] Soo Chol - Ph.D (2010), Quá trình đổi mới chính sách đất đai của Hàn Quốc,
Hội thảo Kinh nghiệm quản lý đất đai Hàn Quốc ngày 16/12/2011 do Bộ Tài
nguyên và Môi trường tổ chức tại Hà Nội.
146
[80] Lê Ngọc Thạnh (2009), "Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp", Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, (kỳ
1), tháng 6.
[81] Nguyễn Quang Tuyến (2016), Vấn đề lấy ý kiến đóng góp của nhân dân theo
quy định của LĐĐ năm 2013, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 4.
[82] Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
[83] Từ Điển Tiếng Việt (2004), Nxb. Đà Nẵng.
[84] Từ điển Tiếng Việt (2011), Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội.
[85] Trường Đại học Luật Hà Nội, (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học về
LĐĐ, Luật Lao động, Tư pháp Quốc tế, Nxb công an nhân dân, Hà Nội.
[86] Ủy ban định giá Hàn Quốc (2011), Hệ thống định giá và hệ thống bồi thường
Hàn Quốc, Hội thảo “Kinh nghiệm quản lý đất đai Hàn Quốc” do Tổng cục
Quản lý Đất đai (Bộ Tài nguyên và Môi trường) tổ chức tại Hà Nội ngày
16/12/2011.
[87] Hoàng Việt, Hoàng Văn Cường (2008), Bình ổn giá quyền sử dụng đất đô thị
ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[88] Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển
Bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội.
[89] Nguyễn Như Ý (2001), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[90] Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2014), LĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng
dẫn thi hành, Hà Nội.
IV. Các bài trên website tham khảo
[91] http://documents.worldbank.org/curated/en/945311507891019030/pdf /SFG
3199-RP-VIETNAMESE-P163146-Box405303B-PUBLIC-Disclosed-10-13-
2017.pdf, ngày 18/9/2019
[92] http://amilawfirm.com/wp-content/uploads/2019/07/4Thu-h%E1%BB%93i,
ngày 16/12/2019.
[93] https://cafeland.vn/quy-hoach/vu-thu-hoi-dat-o-van-giang-hung-yen-bai-1-v i-
sao-nguoi-dan-quyet-liet-bam-giu-dat-23655.html, ngày 05/9/2019.
[94] https://baodauthau.vn/phap-luat/quang-nam-ra-quyet-dinh-thu-hoi-dat-sai-q
uy-dinh-huyen-thua-kien-115581.html, ngày 17/9/2019.
[95] https://baomoi.com/di-an-binh-duong-du-an-thu-hoi-dat-ep-dan-ra-nghia-di a-
song/c/20518146.epi, ngày 02/02/2020.
147
[96] https://baoquangnam.vn/toa-soan-ban-doc/201603/du-an-xay-dung-co-ke-x
uyen-thang-binh-nhieu-sai-pham-665004, ngày 15/8/2019.
[97] http://baoquangngai.vn/channel/2024/201912/tao-viec-lam-cho-nguoi-dan-co-
dat-bi-thu-hoi-con-nhieu-han-che-2979915, ngày 18/8/2019
[98] https://baotainguyenmoitruong.vn/quang-xuong-thanh-hoa-quy-hoach-mat-
bang-mot-dang-thu-hoi-dat-mot-neo-235224.html, ngày 16/10/2019.
[99] https://baotainguyenmoitruong.vn/bac-giang-sai-pham-nghiem-trong-nghi-
dinh-cua-chinh-phu-tat-ca-cung-nhau-rut-kinh-nghiem-271673.html, ngày
18/11/2019
[100] https://www.doisongphapluat.com/xa-hoi/tien-du-bac-ninh-nhung-dau-hieu-
thu-hoi-dat-chua-dung-quy-dinh-a268474.html, ngày 17/12/2019.
[101] https://nongnghiep.vn/vi-sao-116-ho-dan-chu-se-khieu-kien-d255279.html,
ngày 16/9/2018.
[102] https://thuonghieucongluan.com.vn/hoang-hoa-thanh-hoa-thu-hoi-dat-chop -
nhoang-a25348.html, ngày 05/3/2018.
[103] http://baohoabinh.com.vn/278/130543/viec-lam-cho-lao-dong-mat-dat-lam -gi-
de-nguoi-nong-dan-khong-bi-bo-roi.htm, ngày 09/8/2017.
[104] https://nhandan.com.vn/ban-doc-viet/thu-hoi-dat-de-phan-lo-ban-nen-gay-
khieu-kien-326327, ngày 18/8/2018.
[105] https://dantri.com.vn/bat-dong-san/chuyen-gia-gia-truoc-va-gia-bat-dong-s an-
sau-du-an-co-the-chenh-lech-toi-700-lan-20190825090444751.htm, ngày
15/5/2017.
[106] https://www.sggp.org.vn/phai-thay-doi-tu-duy-lam-nong-nghiep-493547.h tml,
ngày 06/7/2016.
[107] http://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.as
px?UrlListProcess=/content/tintuc/Lists/News&ItemID=41808,ngày 14/3/2017.
[108] Nguyễn Duy, Yêu cầu Chủ tịch HĐND tỉnh Nghệ An nhanh chóng làm rõ việc
thu hồi đất của dân!, https://dantri.com.vn/ban-doc/yeu-cau-chu-tich-hdnd-tinh-
nghe-an-nhanh-chong-lam-ro-viec-thu-hoi-dat-cua-dan, truy cập 08/5/2018.
P.1
BẢNG TỔNG HỢP CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bảng giá đất nông nghiệp được công bố theo Luật Đất đai năm 2013 giai
đoạn 2015-2019 ở một số tỉnh thành phố của Việt Nam.
Phụ lục 2.1: Phiếu khảo sát thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội.
Phụ lục 2.2: Kết quả xử lý dữ liệu SPSS.
Phụ lục 2.3: Ý kiến về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Phụ lục 2.4: Ý kiến về nội dung, trình tự thủ tục, thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp
để phát triển kinh tế - xã hội.
Phụ lục 2.5: Ý kiến về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội.
Phụ lục 2.6: Ý kiến về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh
tế - xã hội.
Phụ lục 2.7: Tổng hợp nhóm diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi theo khu vực
P.2
PHỤ LỤC 1
BẢNG GIÁ ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐƯỢC CÔNG BỐ THEO LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM
2013 GIAI ĐOẠN 2015-2019 Ở MỘT SỐ TỈNH THÀNH PHỐ CỦA VIỆT NAM
STT ĐỊA
PHƯƠNG
GIÁ ĐẤT
MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH
TẾ NĂM 2014 ĐẤT TRỒNG LÚA
VÀ CÂY HÀNG NĂM CÂY LÂU NĂM
ĐẤT NUÔI TRỒNG
THỦY SẢN
RỪNG PHÒNG HỘ,
RỪNG ĐẶC DỤNG,
RỪNG SẢN XUẤT
Thấp
nhất
(1.000
đ)
Cao nhất
(1.000 đ)
Thấp nhất
(1.000 đ)
Cao nhất
(1.000 đ)
Thấp
nhất
(1.000
đ)
Cao nhất
(1.000 đ)
Thấp nhất
(1.000 đ)
Cao nhất
(1.000 đ)
Thu NS trên
địa bàn
(Tỷ đ)
Tốc độ
tăng
trưởng
kinh tế
(%)
1 Hà Nội 56,8 252 54,4 252 36 252 30 60 130.100 8,8
2 Hải Phòng 60 100 66 110 102 396 42 70 9.300 8,53
3 Bắc Giang 50 60 42 55 33 50 7 17 3.445,9 9,2
4 Bắc Ninh 50 70 50 70 50 70 30 30 12.440 8,6
5 Thừa
Thiên Huế 11,4 23,3 11,4 23,3 9,4 18 2 3,8 4.652 8,23
6 Đà Nẵng 42 70 12 35 20 40 10 10 11.589 9,28
7 Quảng
Nam 8 76 8 85 4 85 2 42 8.230 11,51
8 Bình Định 16 58 8 37 16 58 1.5 6.5 4.941 9,34
9 Đắc Lắc 8 45 8 50 10 30 3 15 3.300 9,2
10 Đắc Nông 11 20 13 21 8 21 9 9 1.354 12,1
11 Cần Thơ 60 162 90 250 60 162 7.525 12,05
12 Hậu Giang 25 65 35 72 25 65 15 20 5.792,855 12,5
13 TP.Hồ Chí
Minh 58 162 68 190 58 162 43,2 72 252.186 9,5
14 Đồng Nai 10 350 10 350 8 240 8 240 36.385,957 11,55
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Quyết định ban hành giá đất và tài liệu của UBND các tỉnh, thành
phố công bố trên website của các địa phương.
P.3
PHỤ LỤC 2
2.1. PHIẾU KHẢO SÁT
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Tôi là Nguyễn Văn Đông hiện là NCS tại Trường Đại học Luật - Đại học Huế,
đang thực hiện đề tài luận án tiến sĩ “Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội ở Việt Nam”, rất mong Ông/Bà dành chút thời gian quí báu để trả lời
giúp những câu hỏi dưới đây. Toàn bộ thông tin thu được từ Ông/Bà hoàn toàn bảo mật,
chỉ dùng cho mục đích nghiên cứu hoàn thành luận án của tác giả và sẽ không dùng vào
bất kỳ mục đích nào khác.
Cảm ơn sự hợp tác của Ông/Bà!
Phần I. Thông tin cá nhân
1. Họ và tên Quý Ông/Bà: …………………………………………………(có thể không
ghi).Tỉnh/Thành phố: ………………………………………………………....
2. Khu vực Quý Ông/Bà ở thuộc: Nông thôn Đô thị
3. Diện tích đất nông nghiệp của Quý Ông/Bà bị thu hồi :
< 500 m2 500 m2 - < 1000 m2 Từ 1000 m2 trở lên
Phần II. Thông tin chung
Câu 1. Xin Quý Ông/Ba vui lòng cho biết ý kiến của mình về các câu hỏi dưới đây
bằng cách đánh dấu X vào ô tương ứng.
TT NỘI DUNG KHẢO SÁT Ý kiến
1 2 3
I Về Quy hoạch, Kế hoạch sử dụng đất
1 Khi lập Quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ) nhà nước có tổ
chức lấy ý kiến của Ông/Bà
2 Ông/Bà có góp ý khi lập QHSDĐ
3 Nhà nước có tiếp thu ý kiến tham gia của Ông/Bà về
QHSDĐ
4 Ông/Bà có biết việc công khai QHSDĐ trên trang web của
chính quyền địa phương
5 Ông/Bà có hiểu được nội dung QHSDĐ trên trang web của
chính quyền địa phương
6 Ông/Bà có tìm hiểu QHSDĐ được công khai trên các cụm
pa - nô, áp - phích
7 Ông/Bà có hiểu được nội dung QHSDĐ được công khai trên
các cụm pa nô, áp - phích
1 2 3
Có Không Không quan tâm
P.4
8 Ông/Bà có được biết Kế hoạch SDĐ hàng năm của địa
phương mình
9 Ông/Bà có đồng tình với QHSDĐ được phê duyệt dẫn đến
thu hồi đất nông nghiệp của gia đình mình
II Về nội dung, trình tự thủ tục, thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để
phát triển KTXH
10 Ông/Bà có biết các trường hợp nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp để phát KT-XH
11
Ông/Bà có được thông báo trước khi thu hồi đất nông
nghiệp để sử dụng để phát triển KT-XH trong thời hạn 90
ngày
12
Ông/Bà có phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khi điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm khi bị thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển KT-XH
13 Nhà nước có lập phương án bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi
đất nông nghiệp để phát triển KT-XH
14 Nhà nước có tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi thường và
Ông/Bà tham gia ý kiến
15 Ý kiến của Ông/Bà có được nhà nước tiếp thu
16
Phương án bồi thường hỗ trợ có được niêm yết công khai
tại trụ sở chính quyền địa phương hay địa điểm sinh hoạt
chung của khu dân cư
17 Theo Ông/Bà, Nhà nước có nên thu hồi đất nông nghiệp để
sử dụng vào mục đích phát triển KT-XH
III Về bồi thường khi Nha nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
KTXH
18 Ông/Bà có đồng tình với phương thức Nhà nước bồi thường
đất nông nghiệp bị thu hồi bằng quỹ đất nông nghiệp khác
19 Ông/Bà có đồng tình với phương thức Nhà nước bồi thường
đất nông nghiệp bị thu hồi bằng tiền
20
Ông/Bà có đồng tình với mức giá đất nông nghiệp được Nhà
nước bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp của Ông/Bà
để phát triển KT-XH
21
Theo Ông/Bà, có sự khác biệt trong việc bồi thường giá đất
nông nghiệp giữa công trình do Nhà nước hoặc doanh
nghiệp làm chủ đầu tư theo hướng tăng lên nếu doanh
nghiệp làm chủ đầu tư so với Nhà nước làm chủ đầu tư
P.5
22 Ông/Bà có đồng tình với việc nhà nước bồi thường cây
trồng theo đơn giá từng cây như hiện nay
23
Ông/Bà có đồng tình với việc nhà nước bồi thường cây
trồng theo sản lượng cây trồng bình quân trong ba năm nhân
với số năm còn lại thu hoạch theo chu kỳ sản xuất
IV Về hỗ trợ khi Nha nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH
24
Ông/Bà có đồng tình với cơ sở để Nhà nước hỗ trợ khi thu
hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH là % diện tích đất
bị thu hồi
25
Ông/Bà có đồng ý với cơ sở để Nhà nước hỗ trợ khi thu hồi
đất nông nghiệp để phát trển KT-XH là diện tích đất thực tế
bị thu hồi
26
Chương trình hỗ trợ đào tạo nghề của Nhà nước đối với
người có đất nông nghiệp bị thu hồi hiện nay có tác dụng
đối với Ông/Bà trong việc tìm kiếm công việc mới cho gia
đình mình
27 Gia đình Ông/Bà có chuyển đổi nghề nghiệp sau khi bị thu
hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH
Câu 2. Ngoai những thông tin trên, Ông/Ba vui lòng cho biết thêm ý kiến của mình
về việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH ?
…………………………………………………………………………………….......
…………………………………………………………………………………….......
…………………………………………………………………………………….......
…………………………………………………………………………………….......
…………………………………………………………………………………….......
…………………………………………………………………………………….......
…………………………………………………………………………………….......
Trân trọng cảm ơn!
P.6
2.2. KẾT QUẢ XỬ LÝ DỮ LIỆU SPSS
P.7
Tinh/Thanh pho
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Tp. Ho Chi Minh 98 8.4 8.4 8.4
Dong Nai 96 8.2 8.2 16.7
Can Tho 97 8.3 8.3 25.0
Hau Giang 93 8.0 8.0 33.0
Dac Lac 98 8.4 8.4 41.4
Dac Nong 100 8.6 8.6 50.0
Kon Tum 98 8.4 8.4 58.4
Quang Nam 95 8.2 8.2 66.6
Da Nang 94 8.1 8.1 74.7
Thua Thien - Hue 99 8.5 8.5 83.2
Bac Giang 100 8.6 8.6 91.8
Ha Noi 96 8.2 8.2 100.0
Total 1164 100.0 100.0
Khu vuc
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Nong thon 873 75.0 75.0 75.0
Do thi 291 25.0 25.0 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND1
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Co 838 72.0 72.0 72.0
Khong 274 23.5 23.5 95.5
Khong quan tam 52 4.5 4.5 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND2
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Co 594 51.0 51.0 51.0
Khong 466 40.0 40.0 91.1
Khong quan tam 104 8.9 8.9 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND3
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Co 512 44.0 44.0 44.0
Khong 419 36.0 36.0 80.0
Khong quan tam 233 20.0 20.0 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND4
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Co 472 40.5 40.5 40.5
Khong 506 43.5 43.5 84.0
Khong quan tam 186 16.0 16.0 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND5
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Co 53 4.6 4.6 4.6
Khong 911 78.3 78.3 82.8
P.8
Khong quan tam 200 17.2 17.2 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND6
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Co 481 41.3 41.3 41.3
Khong 456 39.2 39.2 80.5
Khong quan tam 227 19.5 19.5 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND7
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Co 105 9.0 9.0 9.0
Khong 831 71.4 71.4 80.4
Khong quan tam 228 19.6 19.6 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND8
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Co 472 40.5 40.5 40.5
Khong 541 46.5 46.5 87.0
Khong quan tam 151 13.0 13.0 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND9
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Co 469 40.3 40.3 40.3
Khong 555 47.7 47.7 88.0
Khong quan tam 140 12.0 12.0 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND10
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Co 61 5.2 5.2 5.2
Khong 940 80.8 80.8 86.0
Khong quan tam 163 14.0 14.0 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND11
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Co 294 25.3 25.3 25.3
Khong 815 70.0 70.0 95.3
Khong quan tam 55 4.7 4.7 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND12
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Co 765 65.7 65.7 65.7
Khong 329 28.3 28.3 94.0
Khong quan tam 70 6.0 6.0 100.0
Total 1164 100.0 100.0
P.9
ND13
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 667 57.3 57.3 57.3
Khong 281 24.1 24.1 81.4
Khong quan tam 216 18.6 18.6 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND14
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 190 16.3 16.3 16.3
Khong 794 68.2 68.2 84.5
Khong quan tam 180 15.5 15.5 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND15
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 870 74.7 74.7 74.7
Khong 119 10.2 10.2 85.0
Khong quan tam 175 15.0 15.0 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND16
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 61 5.2 5.2 5.2
Khong 934 80.2 80.2 85.5
Khong quan tam 169 14.5 14.5 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND17
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 644 55.3 55.3 55.3
Khong 421 36.2 36.2 91.5
Khong quan tam 99 8.5 8.5 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND18
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid Co 661 56.8 56.8 56.8
Khong 412 35.4 35.4 92.2
Khong quan tam 91 7.8 7.8 100.0
P.10
Total 1164 100.0 100.0
ND19
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 40 3.4 3.4 3.4
Khong 1004 86.3 86.3 89.7
Khong quan tam 120 10.3 10.3 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND20
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 934 80.2 80.2 80.2
Khong 90 7.7 7.7 88.0
Khong quan tam 140 12.0 12.0 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND21
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 155 13.3 13.3 13.3
Khong 908 78.0 78.0 91.3
Khong quan tam 101 8.7 8.7 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND22
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 934 80.2 80.2 80.2
Khong 108 9.3 9.3 89.5
Khong quan tam 122 10.5 10.5 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND23
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 142 12.2 12.2 12.2
Khong 911 78.3 78.3 90.5
Khong quan tam 111 9.5 9.5 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND24
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
P.11
Valid Co 922 79.2 79.2 79.2
Khong 116 10.0 10.0 89.2
Khong quan tam 126 10.8 10.8 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND25
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 167 14.3 14.3 14.3
Khong 817 70.2 70.2 84.5
Khong quan tam 180 15.5 15.5 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND26
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 154 13.2 13.2 13.2
Khong 1010 86.8 86.8 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND27
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 981 84.3 84.3 84.3
Khong 183 15.7 15.7 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND28
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 818 70.3 70.3 70.3
Khong 235 20.2 20.2 90.5
Khong quan tam 111 9.5 9.5 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND29
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 852 73.2 73.2 73.2
Khong 217 18.6 18.6 91.8
Khong quan tam 95 8.2 8.2 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND30
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
P.12
Valid Co 445 38.2 38.2 38.2
Khong 582 50.0 50.0 88.2
Khong quan tam 137 11.8 11.8 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND31
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 842 72.3 72.3 72.3
Khong 270 23.2 23.2 95.5
Khong quan tam 52 4.5 4.5 100.0
Total 1164 100.0 100.0
ND32
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Co 224 19.2 19.2 19.2
Khong 911 78.3 78.3 97.5
Khong quan tam 29 2.5 2.5 100.0
Total 1164 100.0 100.0
Case Processing Summary
Cases
Valid Missing Total
N Percent N Percent N
Perce
nt
Khu vuc * Dien tich dat thu
hoi 1164 100.0% 0 .0% 1164
100.0
%
Khu vuc * Dien tich dat thu hoi Crosstabulation
Count
Dien tich dat thu hoi
Total <500 m2 500-1000m2 Tu 1000m tro len
Khu vuc Nong thon 495 230 148 873
Do thi 172 51 68 291
Total 667 281 216 1164
Case Processing Summary
Cases
Valid Missing Total
N Percent N Percent N
Perce
nt
Khu vuc * Dien tich dat thu
hoi 1164 100.0% 0 .0% 1164
100.0
%
P.13
Case Processing Summary
Cases
Valid Missing Total
N Percent N Percent N
Perce
nt
Khu vực, Diện tích đất thu hồi
Dien tich dat thu hoi
Total
<500 m2
500-
1000m2
Tu
1000m
tro len
Khu vuc Nong thon Count 495 230 150 873
% within Dien tich dat
thu hoi 74.2% 81.9% 68.5% 75.0%
Do thi Count 172 51 68 291
% within Dien tich dat
thu hoi 25.8% 18.1% 31.5% 25.0%
Total Count 667 281 218 1164
% within Dien tich dat
thu hoi 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
P.14
2.3. Ý LIẾN VỀ QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT
TT NỘI DUNG
Ý kiến đánh giá
1
2
2 3
Sô
phiếu
TL
(%)
Sô
phiếu
u
TL
(%)
Sô
phiếu
TL
(%)
1 Khi lập Quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ) nhà
nước có tổ chức lấy ý kiến của Ông/Bà không
838 72 274 23.5 52 4.5
2 Ông/Bà có góp ý khi lập QHSDĐ 594 51 466 40 104 9.0
3 Nhà nước có tiếp thu ý kiến tham gia của
Ông/Bà về QHSDĐ 512 44 419 36 233 20
4 Ông/Bà có biết việc công khai QHSDĐ trên
trang web của chính quyền địa phương 472 40.5 506 43.5 186 16
5 Ông/Bà có hiểu được nội dung QHSDĐ trên
trang web của chính quyền địa phương được
nội dung QHSDĐ hay không
53 4.5 911 78.3 200 17.2
6 Ông/Bà có tìm hiểu QHSDĐ được công khai
trên các cụm pa - nô, áp - phích 481 41.3 456 39.2 227 19.5
7 Ông/Bà có hiểu được nội dung QHSDĐ được
công khai trên các cụm pa nô, áp - phích hiểu
được nội dung QHSDĐ hay không
105 9.0 831 71.4 228 19.6
8 Ông/Bà có được biết Kế hoạch SDĐ hàng
năm của địa phương mình 472 40.5 541 46.5 151 13
9 Ông/Bà có đồng tình với QHSDĐ được phê
duyệt dẫn đến thu hồi đất nông nghiệp của gia
đình mình
469 40.3 555 47.7 140 12.0
(Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu SPSS)
P.15
2.4. Ý KIẾN VỀ NỘI DUNG, TRÌNH TỰ THỦ TỤC, THẨM QUYỀN THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN KT - XH
TT NỘI DUNG
Ý kiến đánh giá
1
2
2 3
Sô
phiếu
TL
(%)
Sô
phiếu
TL
(%)
Sô
phiếu
TL
(%)
1 Ông/Bà có biết các trường hợp nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp để phát KT-XH 61 5.2 940 80.8 163 14
2
Ông/Bà có được thông báo trước khi thu hồi đất
nông nghiệp để sử dụng để phát triển KT-XH
trong thời hạn 90 ngày
294 25.3 815 70 55 4.7
3
Ông/Bà có phối hợp với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khi điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm
đếm khi bị thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
KT-XH
765 65.7 329 28.3 70 6
4
Nhà nước có lập phương án bồi thường, hỗ trợ
khi thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-
XH
584 50.2 492 42.3 88 7.5
5 Nhà nước có tổ chức lấy ý kiến về phương án
bồi thường và Ông/Bà tham gia ý kiến 190 16.3 794 68.2 180 15.5
6 Ý kiến của Ông/Bà có được nhà nước tiếp thu 870 74.8 119 10.2 175 15
7 Phương án bồi thường hỗ trợ có được niêm yết
công khai tại trụ sở chính quyền địa phương
hay địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư
61 5.3 934 80.2 169 14.5
8 Theo Ông/Bà, Nhà nước có nên thu hồi đất
nông nghiệp để sử dụng vào mục đích phát
triển KT-XH
644 55.3 421 36.2 99 8.5
(Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu SPSS)
P.16
2.5. Ý KIẾN VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI DẤT
NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN KT - XH
TT NỘI DUNG
Ý kiến đánh giá
1
2
2 3
Sô
phiếu
TL
(%)
Sô
phiếu
TL
(%)
Sô
phiếu
TL
(%)
1
Ông/Bà có đồng tình với phương thức Nhà
nước bồi thường đất nông nghiệp bị thu hồi
bằng quỹ đất nông nghiệp khác
661 56.8 412 35.4 91 7.8
2
Ông/Bà có đồng tình với phương thức Nhà
nước bồi thường đất nông nghiệp bị thu hồi
bằng tiền
40 3.4 1004 86.3 120 10.3
3
Ông/Bà có đồng tình với mức giá đất nông
nghiệp được Nhà nước bồi thường khi thu hồi
đất nông nghiệp của Ông/Bà để phát triển KT-
XH
12 1 1012 87 140 12
4
Theo Ông/Bà, có sự khác biệt trong việc bồi
thường giá đất nông nghiệp giữa công trình do
Nhà nước hoặc doanh nghiệp làm chủ đầu tư
theo hướng tăng lên nếu doanh nghiệp làm chủ
đầu tư so với Nhà nước làm chủ đầu tư
155 13.3 908 78 101 8.7
5
Ông/Bà có đồng tình với việc nhà nước bồi
thường cây trồng theo đơn giá từng cây như
hiện nay
934 80.2 108 9.3 122 10.5
6
Ông/Bà có đồng tình với việc nhà nước bồi
thường cây trồng theo sản lượng cây trồng bình
quân trong ba năm nhân với số năm còn lại thu
hoạch theo chu kỳ sản xuất
142 12.2 911 78.3 111 9.5
(Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu SPSS)
P.17
2.6. Ý KIẾN VỀ HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
ĐỂ PHÁT TRIỂN KT - XH
TT NỘI DUNG
Ý kiến đánh giá
1
2
2 3
Sô
phiếu
TL
(%)
Sô
phiếu
TL
(%)
Sô
phiếu
TL
(%)
1 Ông/Bà có đồng tình với cơ sở để Nhà nước hỗ
trợ khi thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
KT-XH là % diện tích đất bị thu hồi
922 79.2 116 10 126 10.8
2 Ông/Bà có đồng ý với cơ sở để Nhà nước hỗ
trợ khi thu hồi đất nông nghiệp để phát trển KT-
XH là diện tích đất thực tế bị thu hồi
167 14.3 717 70.2 180 15.5
3
Chương trình hỗ trợ đào tạo nghề của Nhà nước
đối với người có đất nông nghiệp bị thu hồi
hiện nay có tác dụng đối với Ông/Bà trong việc
tìm kiếm công việc mới cho gia đình mình
154 13.2 1010 86,8 0 0
4 Gia đình Ông/Bà có chuyển đổi nghề nghiệp
sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
KT-XH
981 84.3 183 15.7 0 0
(Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu SPSS)
P.18
2.7. TỔNG HỢP NHÓM DIỆN TÍCH ĐẤT NÔNG NGHIỆP BỊ THU HỒI
THEO KHU VỰC
Khu vực bị
thu hồi đất
Tổng sô < 500 m2
(1)
500 m2 – <
1000 m2 (2)
Từ 1000 m2 trở
lên (3)
Sô
phiếu
Tỷ lệ
(%)
Sô
phiếu
Tỷ lệ
(%)
Sô
phiếu
Tỷ lệ
(%)
Sô
phiếu
Tỷ lệ
(%)
Khu vực 1164 100 667 57.3 279 24 218 18.7
N 873 75.0 495 56.7 230 26.3 148 17
2 291 25.0 172 59.1 51 17.5 68 23.4
(Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu SPSS)