Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
NGÀNH HÀNG CÀ PHÊ THÁNG 03/2010
NHỮNG NỘI DUNG NỔI BẬT
Cà phê Tây Nguyên đối mặt với hạn hán
Sâu lạ tàn phá vườn cà phê
Các cơ quan chức năng ra sức hỗ trợ
Xuất khẩu 3 tháng đầu năm giảm so với cùng kỳ năm 2009
DN nội thiếu vốn. Nguy cơ DN ngoại nắm giữ thị phần cà
phê trong nước
Xuất khẩu cà phê của một số nước trên thế giới
Triển vọng thị trường
Trung tâm thông tin PTNNNT–Viện chính sách và chiến lược PTNNNT–Bộ Nông nghiệp & PTNT
P16-Thụy Khuê-Tây Hồ-Hà Nội – Tel: (84.4)9725153 – Fax: (84.4)9725153
Email: [email protected] – Website: http://www.agro.gov.vn
1.THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC
1.1.Cà phê Tây Nguyên đối mặt
với hạn hán
Thời tiết khô hạn thời gian
vừa qua đã gây ra không ít khó khăn
cho các hộ trồng cà phê khu vực Tây
Nguyên. Hàng ngàn hecta cà phê ở
Đắc Lắc đang đứng trong tình trạng
khô héo do thiếu nước tưới. Hiện tại
các hồ chứa nước cũng khô kiệt.
Anh Nguyễn Văn Pháp – Trưởng
phòng Nông nghiệp huyện Krông
Buk, tỉnh Đắc Lắc cho biết, hiện nay
trên địa bàn huyện đã có 5 hồ chứa
cạn nước. Toàn tỉnh Đắk Lắk có
khoảng 520 công trình thủy lợi, chỉ
đảm bảo nước tưới cho khoảng 50%
diện tích cây trồng.
Để cứu cà phê, nhiều hộ đã
phải thuê người đào, khoan giếng
sâu đến 50-60m. Nhiều hộ khoan
đến một vài giếng mà vẫn không có
nước. Một số hộ khác dùng tớ ,
năm chiếc máy bơm để đưa nước từ
những khu vực xa về nhằm duy trì
sự sống cho càphê. Tuy nhiên,
những cố gắng trên không thể đáp
ứng hết được nhu cầu nước tưới
nước cho cà phê.
Theo ông Nguyễn Đức Luyện,
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Đắk Nông, hiện
hàng trăm ngàn héc ta cà phê tại Tây
Nguyên chỉ còn trông chờ vào mưa
để cứu hạn vì mực nước ngầm tại
các tỉnh này đã ở mức thấp không
thể đáp ứng được nhu cầu từ 500-
600 lít/gốc/lần tưới theo chu kỳ 30
ngày tưới một lần được.
Hạn hán hiện vẫn đang hoành
hành dữ dội ở địa bàn các huyện
Krông Buk, Ea H’leo, Krông Ana,
Krông Bông, Krông Pắk, Krông
Năng và đang tiếp tục lan rộng đến
các địa phương còn lại.
1.2.Sâu lạ tàn phá vườn cà phê
Bên cạnh những khó khăn do
khô hạn gây ra, nông dân trồng cà
phê còn phải đối mặt với sâu bệnh.
Thời gian gần đây, khoảng 500ha cà
phê địa bản tỉnh Gia Lai bị sâu bệnh
cắn phá nghiêm trọng.
Theo báo cáo của Chi cục Bảo
vệ thực vật tỉnh Gia Lai, toàn tỉnh có
gần 25.000 ha cà phê bị nhiễm sâu
bệnh, trong đó 7.300 ha bị nhiễm rệp
sáp, 7.700 ha bị rệp vảy xanh, 8.000
ha bị bệnh rỉ sắt…Tuy nhiên đây là
những bệnh thường gặp sau mỗi đợt
tưới cà phê, nông dân có thể xử lý,
khống chế. Điều đáng lo ngại nhất
về sâu bệnh hại cà phê hiện nay là
đối phó với sâu bệnh lạ. Theo báo
cáo của ngành Nông nghiệp – Phát
triển Nông thôn tỉnh Gia Lai, đã có
khoảng 480ha cà phê ở 3 huyện xuất
hiện sâu lạ tấn công cà phê, 65ha ở
huyện Chư Prông, 15ha ở huyện
Đức Cơ và 400ha ở huyện Ia Grai
(trong đó cà phê của Nông trường
706 bị 300ha, Nông trường Ia Sao
100ha).
Ông Hà Ngọc Uyển- Chi cục
trưởng Chi cục Bảo vệ Thực vật tỉnh
Gia Lai cho biết: Loại sâu này chưa
có một tên khoa học cụ thể. Nguyên
nhân xuất hiện của loại sâu này là do
nắng hạn kéo dài. Đặc điểm của
chúng là sinh sống theo từng đàn
nên thường cắn phá cà phê cục bộ ở
từng vùng. Hiện tại, Chi cục đã gửi
mẫu ra Cục Bảo vệ thực vật (Bộ
NN-PTNT) cùng các cơ quan
chuyên môn để giám định.
Ông Lê Bảo- người trồng cà
phê ở xã Ia Sao (huyện Ia Grai) cho
biết: “Loài sâu này giống một loài
sâu mà nông dân hay gọi là sâu
khoai, chúng chỉ ăn lá khoai, lá dâm
bụt, một số lá cây rừng. Còn bây
giờ, chúng lại ăn đọt non của cây cà
phê, sau đó ăn dần đến lá, khiến cây
cà phê mất dần sức, sinh trưởng phát
triển kém”. Suốt từ nhiều ngày nay,
gia đình ông Bảo phải thức
cùng sâu lạ trên 2ha cà phê của gia
đình bởi loại sâu này chỉ cắn phá cà
phê vào chiều tối hoặc sáng sớm.
Chính vì vậy mà việc phòng trừ gặp
nhiều khó khăn.
Ông Phạm Văn Tân (thôn
Chánh Trạch 2, thị trấn Ia Kha,
huyện Ia Grai) cho biết: Đây là lần
đầu tiên thấy loại sâu này, chúng cắn
phá cà phê với mật độ 3- 5 con mỗi
cây. Nhiều vườn cà phê bị cắn trụi
lá, chỉ còn trơ lại quả non”.
1.3.Các cơ quan chức năng ra sức
hỗ trợ
Để hỗ trợ nông dân thoát khỏi
những khó khăn trên, các cơ quan
chức năng đã có nhiều biện pháp can
thiệp. Cụ thể, tại địa bàn tỉnh Gia
Lai, Hội nông dân tỉnh đã phối hợp
với Ngân hàng Chính sách và Ngân
hàng thương mại đứng ra tín chấp
đẩy mạnh việc cho vay vốn trong
thời điểm này, tạo điều kiện thuận
lợi cho nông dân có vốn để chăm
sóc vườn cây trong mùa khô kéo dài.
Trong 3 tháng đầu năm 2010,
Chi nhánh ngân hàng Chính sách xã
hội và Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh
đã cho hàng chục ngàn hộ vay vốn
với tổng số tiền hơn 500 tỷ đồng,
bình quân mỗi hộ được vay từ 20
đến 30 triệu đồng.
Ngày 15/03, tại Lâm Đồng,
Trung tâm đào tạo cho nông dân
trồng cà phê đạt các chứng chỉ quốc
tế đã được thành lập. Đây là kết quả
của sự hợp tác giữa tổ chức Tài
Chính Quốc Tế (IFC), thành viên
của nhóm Ngân hàng thế giới (WB)
và Công ty TNHH Thương phẩm
Atlantic Việt Nam (thuộc tập đoàn
ECOM) nhằm đào tạo cho nông dân
ở các nước đang phát triển. Mục tiêu
hoạt động của Trung tâm là hỗ trợ
nông dân trồng cà phê đạt được các
chứng chỉ quốc tế về trồng cà phê
bền vững cũng như cải thiện năng
suất, giúp tăng thu nhập cho các hộ
trồng cà phê.
Để giúp đỡ nông dân về giá,
Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam
đã có đề xuất mua tạm trữ 200 nghìn
tán cà phê nhằm ngăn tình trạng giá
giảm. Biện pháp này không chỉ có
tác dụng đẩy giá trong nước mà còn
góp phần thúc đẩy giá cà phê thế
giới tăng lên.
Tại Đắk Lắk, Phòng Nông
nghiệp huyện Krông Bông, có kế
hoạch hỗ trợ hơn 5.000 lít dầu cho
người dân bơm nước chống hạn
nhưng chỉ cấp cho người dân được
gần 1.000 lít dầu thì phải dừng lại vì
các nguồn nước của huyện này đều
cạn nước.
Trước tình hình nắng hạn kéo dài, UBND
tỉnh Đắk Nông vừa ban hành chỉ thị bắt buộc các
huyện phải quản lý và phân phối nước tưới; các
phòng nông nghiệp huyện, thị xã phải có kế hoạch
chống hạn tại những khu vực dễ bị khô hạn vào
cuối vụ.
1.4.Diễn biến giá
Thời gian qua, diễn biến giá trên thị trường
cà phê thế giới, đặc biệt là sàn giao dịch cà phê
Robusta Luân Đôn đã tác động không nhỏ đến giá
cà phê trong nước và giá cà phê xuất khẩu của Việt
Nam.
Hình 1: Tương quan biến động giá giữa cà phê
tại cảng Sài Gòn và giá giao dịch trên thị trường
Luân Đôn (USD/tấn)
Nguồn: AGROINFO
Nửa đầu tháng
3/2010 giá cà phê
nhân xô trong nước
biến động trong
khoảng 22000-23000
đ/kg. Nửa cuối tháng
mức giá bắt đầu diễn
biến theo khuynh
hướng tăng. Đến cuối
tháng giá cà phê nhân
xô tại các thị trường
Đắc Lắc, Lâm Đồng,
Đắc Nông, Gia Lai
dao động trong
khoảng 24000-
25000đ/kg.
Hình 2: Diễn biến giá cà phê tại Đắc Lắc và Gia
Lai (đồng/kg)
So với tháng trước mức giá đã được phục
hồi đáng kể. Tuy vậy, tình hình thời tiết khô hạn
kéo dài đang là mối đe dọa sản xuất của những
người trồng cà phê.
1.5.Xuất khẩu cà phê
Xuất khẩu 3 tháng đầu năm giảm so với cùng
kỳ năm trước
Theo Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam,
trong 3 tháng đầu năm 2010, Việt Nam đã xuất
khẩu được khoảng 330.000 tấn cà phê với kim
ngạch đạt 461 triệu USD. So với cùng kỳ năm
trước xuất khẩu cà phê 3 tháng đầu năm đã giảm
25,3% về lượng và giảm 31% về giá trị.
Thời gian qua, thị trường cà phê diễn biến
phức tạp gây nhiều khó khăn cho người sản xuất
cũng như các đại lý và
các doanh nghiệp
trong ngành. Mức giá
xuất khẩu bình quân
tháng 1 đạt 1297
USD/tấn; tháng 2
giảm xuống còn 1214
USD/ tấn; tháng 3 giá
xuất khẩu bình quân
vẫn ở mức thấp và đạt
khoảng 1202USD/tấn.
So với các năm trước
giá xuất khẩu cà phê
hiện đang ở mức thấp.
Hình 3: Diễn biến giá cà phê từ ngày 12/03/2007
đến ngày 09/03/2010(USD/tấn)
Nguồn: giacaphe.com
Tuy vậy, sự gia tăng về giá nửa cuối tháng
3/2010 đang là dấu hiệu đáng mừng cho những
người trồng cà phê cũng như các doanh nghiệp
trong ngành. Tính đến ngày 31/03 giá xuất khẩu tại
cảng Sài Gòn đã đạt mức 1300 USD/tấn.
Hình 4: Diễn biến giá cà phê xuất khẩu tại cảng
Sài Gòn (USD/tấn)
Nguồn: AGROINFO
Ông Đỗ Hà
Nam – Phó chủ tịch
Hiệp hội Cà phê Ca
cao Việt Nam
(Vicofa) cho biết với
giá xuất khẩu cà phê
bấp bênh như thời
gian qua thì kim
ngạch xuất khẩu cà
phê của Việt Nam
trong năm 2010 chỉ
vào khoảng 1 tỷ đô la
Mỹ, giảm 40% so với
năm 2009.
DN nội thiếu vốn.
Nguy cơ DN ngoại
nắm giữ thị phần cà
phê trong nước
Hiện tại các
doanh nghiệp cà phê
trong nước đang đứng
trước những khó khăn
về vốn. Ông Vũ Đức
Tiến, Giám đốc Công
ty cổ phần đầu tư và
xuất khẩu cà phê Tây
Nguyên, cho biết trước đây cứ đến vụ cà phê công
ty ông được ngân hàng cho vay 400- 500 tỉ đồng
để thu mua cà phê. Nhưng năm nay, công ty chỉ
được vay 100 tỉ đồng từ ngân hàng. Chính vì vậy,
để thu mua cà phê cho người dân, ông phải đi vay
ở ngoài 50 triệu đô la Mỹ để giải quyết vấn đề
thiếu vốn. Trước tình trạng khó khăn về vốn, thời
gian qua mặc dù giá cà phê giảm nhưng doanh
nghiệp trong nước khó có thể mua được nhiều
hàng thì rất nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu
nước ngoài tràn vào mua cà phê tại Tây Nguyên
với số lượng rất lớn.
Ông Nguyễn Công Hoàng, Phó tổng giám
đốc Tổng công ty cà phê Việt Nam (Vinacafe)
cũng cho biết tình trạng doanh nghiệp nước ngoài
vào mua bán cà phê trực tiếp với nông dân đã xuất
hiện từ khá lâu. Ở thời điểm giá thấp, doanh nghiệp
trong nước thiếu vốn không thể mua vào thì các
doanh nghiệp nước ngoài sẵn sàng trả với mức giá
cao hơn hẳn.
Theo Hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam
(Vicofa), có khoảng 5 trên 10 nhà kinh doanh cà
phê nguyên liệu lớn nhất thế giới đã có mặt tại thị
trường Việt Nam dưới hình thức liên doanh hoặc
độc lập, số cà phê mà họ thu chiếm tới 30% tổng
sản lượng cà phê của Việt Nam.
Trước tình trạng các
doanh nghiệp trong
nước gặp khó khăn về
vốn, doanh nghiệp
nước ngoài mua cà
phê với số lượng lớn,
ông Nam nhận định:
“Với tình hình này,
chỉ trong vòng vài
năm nữa công ty xuất
khẩu cà phê trong
nước có thể bị xóa sổ
hoàn toàn vì thiếu
nguồn lực tài chính để
cạnh tranh với công ty
xuất nhập khẩu cà phê
nước ngoài”.
2.THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI
2.1. Tình hình sản xuất
Brazil
Tình trạng mưa nhiều thời kỳ
cuối năm 2009 trong lúc cà phê đang
ra hoa đã khiến hoa nở thất thường
khiến cà phê chín không đều, xuất
hiện hiện tượng lẫn lộn quả chín đỏ,
ươm vàng và quả xanh. Hơn nữa,
thời tiết khô ráo và thiếu mưa trong
tháng 3 – thời điểm cà phê Brazil bắt
đầu chín có thể ảnh hưởng đến chất
lượng và sản lượng cà phê của
Brazil trong niên vụ này.
Ông Joaquim Goulait, một
nhà nông học tại Cooxupe, hợp tác
xã cà phê lớn nhất thế giới, bang
Minas cho rằng năm nay Brazil sẽ
có vụ thu hoạch có trái xanh chiếm
tỷ lệ cao.
Colombia
Tại Colombia, sản lượng cà
phê trong thời gian qua giảm mạnh.
Liên đoàn những người trồng cà phê
nước này cho biết xuất khẩu cà phê
trong tháng 2/2010 giảm 41% trong
khi sản lượng giảm 25% xuống còn
648.000 bao. Trong tháng 4 và tháng
5 tới, nước này sẽ bước vào vụ thu
hoạch mới. Colombia cũng như
những khách hàng của mình đang hi
vọng vụ thu hoạch sắp tới này sẽ
góp phần làm tăng nguồn cung cà
phê của Colombia.
Các nước Trung Mỹ
Tháng 3 là thời điểm diễn ra
hoạt động thu hoạch cà phê của các
nước Trung Mỹ. Nhưng tình trạng
thời tiết ẩm ướt và không khí lạnh
bất thường trong tháng có thể làm
gián đoạn công tác thu hoạch cà phê
tại quốc gia này.
Ấn Độ
Tại Ấn Độ, do ảnh hưởng của
mưa trái mùa, sản lượng cà phê của
nước này có thể sẽ giảm xuống so
với mức dự đoán 289600 tấn mà Ủy
ban cà phê Ấn Độ đưa ra thời gian
trước.
Ông Milan Shah, giám đốc
điều hành công ty NKG Javanti
Coffee Private Ltd – một trong
những công ty xuất khẩu cà phê lớn
nhất của Ấn Độ cho biết mưa trái
mùa cuối tháng 12/2009 và đầu
tháng 01/2010 đã ảnh hưởng tới các
khu vực trồng cà phê. Ông cho rẳng
trong niên vụ này sản lượng cà phê
của Ấn Độ sẽ chỉ đạt 275.000 tấn.
Zambia
Sản lượng cà phê năm 2010
của Zambia cũng được dự báo sẽ
giảm. Ông Joseph Taguma, Tổng
giảm đốc điều hành Hiệp hội Những
người trồng Cà phê Zambia (ZCGA)
cho biết do phải đóng cửa nông trại
vì thiếu nguồn tài chính nên sản
lượng cà phê năm 2010 sẽ giảm
xuống mức 20.833 bao so với mức
27.383 bao cùng kỳ năm ngoái.
Indonesia
Tại Indonesia, tình trạng thời
tiết ẩm ướt đã làm gián đoạn việc
thu hoạch cà phê tại nước này.
Tháng 3 là giai đoạn cao điểm trong
việc thu hoạch cà phê tại miền nam
Sumatra – khu vực trồng cà phê
chính của Indonesia. Nhưng do thời
tiết quá ẩm ướt nên công tác thu
hoạch phải trì hoãn đến cuối tháng
tư hoặc đầu tháng 5.
2.2. Diễn biến giá
Thị trường cà phê thế giới
tháng 3 biến động khá mạnh. Nửa
đầu tháng giá cà phê biến động theo
xu hướng giảm nhưng đến nửa cuối
tháng mức giá lại diễn biến theo
khuynh hướng tăng. Những ngày
cuối tháng giá cà phê tăng lên mức
cao nhất so với hai tháng đầu năm.
Cà phê Arabica
Do diễn biến thời tiết ảnh
hưởng đến sản lượng cà phê Arabica
tại Braxin, Colombia và các nước
Trung Mỹ nên giá cà phê Arabica ở
các thị trường diễn biến theo xu
hướng tăng mạnh.
Hình 5: Diễn biến giá cà phê Arabica giao dịch
tại New York (Ucent/lb)
Nguồn: AGROINFO
Tại NewYork, trong tháng 3 giá cà phê
Arabica tăng khoảng 4,03% chủ yếu do việc giảm
nguồn cung của các nước xuất khẩu hàng đầu về
loại cà phê này như: Colombia, Braxin, các nước
Trung Mỹ… Giá các lọại cà phê Arabica cao cấp
của Mexico, Peru, Honduras và Guatemala liên tục
tăng do các nhà rang xay chuyển hướng sang các
thị trường này để bù đắp lượng thiếu hụt từ
Colombia.
Cà phê Robusta
Giá cà phê Robusta tại Luân Đôn biến động
mạnh nhất trong các thị trường. Nửa đầu tháng giá
cà phê giảm mạnh và đến ngày 16/03 giá cà phê
Robusta đã giảm xuống mức thấp nhất trong 3 năm
trở lại đây ở mức
1201USD/tấn. Tuy
vậy, chỉ sau phiên
giao dịch ngày 16/03,
mức giá đảo chiều
biến động theo
khuynh hướng tăng.
Nhiều ý kiến cho
rằng, nguyên nhân
của sự tăng giá này là
do thông tin Việt Nam
sẽ cho phép một số
công ty vay tiền để
mua tạm trữ 200.000
tấn cà phê của nông
dân nhằm hỗ trợ nông
dân trong điều kiện
giá cà phê trên thị
trường sụt giảm và
nhằm đẩy giá thị
trường thế giới lên.
Tính đến cuối tháng
3/2010 giá đã tăng
5,6% và chốt phiên
ngày 31/03 ở mức
1356USD/tấn. Tính
chung quý I/2010, giá
cà phê Robusta đã
tăng 1,8% tương đương 24USD/tấn.
Hình 6: Giá cà phê Robusta kỳ hạn tháng 5 năm
2010 tại thị trường Luân Đôn(USD/tấn)
2.3. Xuất khẩu cà phê của một số nước trên thế
giới
Theo số liệu thống kê từ Hiệp hội Cà phê thế
giới (ICO), xuất khẩu cà phê toàn thế giới trong
tháng 2/2010 đạt 7.100.000 bao thấp hơn so với
mức 8.700.000 bao của tháng 02/2009. Tổng số
tích lũy cho 5 tháng đầu năm cà phê 2009/2010 (từ
tháng 10/2009 đến tháng 02/2010) là 35,6 triệu bao
so với mức 40 triệu bao cùng kỳ niên vụ
2008/2009.
So sánh số lượng xuất khẩu cà phê từ tháng
10 đến tháng 2 niên vụ 2008/2009 và 2009/2010,
xuất khẩu cà phê ở hầu hết các thị trường lớn đã
giảm đi đáng kể. Cụ
thể ở một số thị
trường như sau:
Bảng: Xuất khẩu cà phê 5 tháng đầu năm cà phê
tại một số nước(Nghìn bao)
Nước xuất
khẩu
2008/2009 2009/2010 Thay
đổi(%)
Brazil 14211 12678 -10,79
Việt Nam 7808 6256 -19,88
Colombia 4572 3070 -32,85
Indonesia 2042 1975 -3,28
Peru 1684 1288 -23,54
Uganda 1395 1236 -11,43
Mexico 859 909 5,83
Guatemala 897 1007 12,19
Honduras 811 1030 27,05
Nguồn: Hiệp hội Cà phê thế giới
Tại một số thị trường xuất khẩu cà phê có sự
gia tăng như Hondura, tăng 27,05%, Guatemala
tăng 12,19% và đạt 1,007 triệu bao,…Thông tin cụ
thể về xuất khẩu cà phê ở một số thị trường được
cụ thể dưới đây:
Indonesia
Theo Hiệp hội các Nhà xuất khẩu Cà phê
Indonesia, lượng cà phê vối xuất khẩu tháng 3 của
nam Sumatra, vùng trồng cà phê chủ yếu của nước
này tăng 21% lên mức
133.400 bao 60 kg so
với mức 110.116 bao
của tháng trước.
Lượng xuất khẩu
tháng 3 năm 2010
giảm 35% so với mức
205.383 bao cùng kỳ
vụ trước. Mùa vụ này
đang bị trì hoãn do
mưa lớn trong khi đó
vào mùa vụ trước tình
hình thu hoạch đã
được bắt đầu trong
tháng 3, điều này dẫn
đến việc khác nhau xa
về con số xuất khẩu từ
năm này qua năm
khác.
Guatemala
Theo Hiệp hội
Cà phê Guatemala
(Anacafe), lượng cà
phê xuất khẩu tháng 3
tăng 8,8% lên mức
508.869 bao 60kg so
với mức 467.643 bao
cùng kỳ năm ngoái.
Tính từ đầu vụ 2009/2010 đến hết
tháng 3 lượng cà phê xuất khẩu tăng
1,19% lên mức 1.526.985 bao so với
mức 1.634.147 bao cùng kỳ vụ
trước.
Honduras
Theo Viện Cà phê quốc gia
Honduras, trong tháng 3 vừa qua
nước này đã xuất khẩu được
688.780 bao cà phê loại 60kg, tăng
tới 48% so với 464.506 bao trong
tháng 3/09. Tính chung từ đầu niên
vụ 2009/10 đến hết tháng 3/10, tổng
khối lượng cà phê xuất khẩu của
Honduras đạt 1.718.615 bao, tăng
35% so với cùng kỳ năm trước.
Viện cho biết sở dĩ lượng xuất
khẩu tháng này tăng mạnh vì vụ thu
hoạch mới được cung cấp ra thị
trường sớm hơn so với trước đây.
3.TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG
3.1. Triển vọng thị trường thế giới
Do nguồn cung khan hiếm,
giá cà phê thế giới có thể sẽ tăng
trong thời gian tới. Giám đốc điều
hành Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO),
ông Nestor Osorio, dự báo cung cà
phê thế giới có thể giảm khoảng
3,2% trong niên vụ này, xuống
khoảng 124 triệu bao, do thời tiết bất
lợi làm giảm sản lượng ở một số
quốc gia xuất khẩu cà phê lớn như
Braxin, Colombia,… Trong khi đó,
tiêu thụ cà phê sẽ tăng lên 132 triệu
bao trong năm nay, chủ yếu nhờ tiêu
thụ mạnh ở các thị trường như Nga,
Ukraina,…
Dự trữ cà phê ở các nước
nhập khẩu có thể tăng lên 27 triệu
bao, so với 25 – 26 triệu bao niên vụ
trước. Tuy nhiên, dự trữ cà phê ở
các nước sản xuất hiện còn không
đáng kể.
Ông Nestor Osorio cũng cho
biết cà phê Robusta được sử dụng
trong các sản phẩm uống liền và hòa
tan đang nắm giữ thị phần của mình
một cách chắc chắn, bất chấp sự
quan tâm ngày càng nhiều của người
tiêu dùng đối với các sản phẩm chất
lượng cao làm từ cà phê arabica.
Đây sẽ là cơ sở để thị trường
Robusta vững giá trong thời gian tới.
Hiện nay trên thế giới khoảng
40% nguồn cung cà phê là loại
robusta, 60% còn lại là arabica,
được gia tăng trồng như một loại cà
phê đặc biệt. Mười năm trước, chỉ
30% cà phê được trồng là loại
robusta và 70% còn lại là arabica.
Brazil – nước sản xuất cà phê
lớn nhất thế giới, sẽ cung cấp
khoảng 39 triệu bao cà phê trong
niên vụ này, so với 46 triệu bao niên
vụ trước. Tại Colombia – nước sản
xuất arabica chất lượng cao lớn nhất
thế giới, sản lượng niên vụ vừa qua
đã giảm xuống mức thấp nhất của 35
năm, là nguyên nhân chính đẩy giá
Arabica tăng trong năm nay. Việc
thiếu mưa ở nước này sẽ tiếp tục ảnh
hưởng tới sản lượng trong niên vụ
hiện tại. Năm trước, Colombia đã
vượt qua Indonesia trở thành nước
sản xuất cà phê lớn thứ 3 thế giới.
Sản lượng của Colombia niên vụ
này sẽ đạt koảng 9 – 10 triệu bao,
tăng so với 8,5 triệu bao niên vụ
trước, song vẫn là con số rất thấp.
Tại nhiều nước sản xuất có
dân số đông như Brazil và
Indonesia, tiêu thụ cà phê đang tăng
mạnh, khiến lượng dư cung dành
cho xuất khẩu giảm sút. Các nước
sản xuất hiện chiếm khoảng 26%
tiêu thụ cà phê thế giới.
3.2. Triển vọng thị trường Việt
Nam
Tình hình sản xuất cà phê
Việt Nam đang đứng trước những
khó khăn nhất định. Tình trạng hạn
hán trong thời gian này đang là mối
đe dọa lớn đến sản lượng cà phê
Việt Nam. Ông Nestor Osorio cũng
cho biết, Việt Nam – nước sản xuất
lớn thứ 2 thế giới, có thể sẽ bị giảm
20% sản lượng trong niên vụ này,
xuống 17,5 triệu bao (khoảng 1,05
triệu tấn). Mức dự báo trung bình về
sản lượng cà phê Việt Nam do hãng
Bloomberg đưa ra là khoảng 1,08
đến 1,2 triệu bao.