18
Nhu cu tham vấn tâm lý của trvthành niên vi phm phạm pháp luật Trường Giáo dưỡng Lê Thu Trang Trường Đại hc Khoa học Xã hội và Nhân văn Luận văn ThS. ngành: Tâm lý học; Mã số: 60 31 80 Người hướng dn: GS.TS. Trn ThMinh Đức Năm bảo v: 2012 Abstract. Hthống hóa các cơ sở lý luận vnhu cu, nhu cu tham vn ca trvthành niên vi phạm pháp luận trường giáo dưỡng. Nghiên cứu thc trng nhn thc ca trvthành niên vi phạm pháp luật vscn thiết phi tham vấn tâm lý, mức độ mong muốn được tham vấn tâm lý và hành vi để thỏa mãn nhu cầu tham vn tâm lý ở các em. Đưa ra một skiến nghnhằm đáp ứng hiu qunhu cu tham vn ca trvthành niên ở trường giáo dưỡng. Keywords. Tâm lý học; Trvthành niên; Vi phạm pháp luật; Trường Giáo dưỡng Content MĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong quá trình phát triển đất nước, mặt trái của nn kinh tế thtrường và tác hại của các tnạn xã hội đã làm phát sinh tình trạng mt bphn trvthành niên vi phạm pháp luật, làm đau đớn và nhức nhối cho gia đình và xã hội. Trem mc phi nhng tội nghiêm trọng như cướp ca, giết người, vn chuyển ma túy… Năm 2006, theo số liu thống kê của Vin kim sát nhân dân tối cao riêng trẻ em dưới 14 tuổi có 7000 vụ vi phm, chiếm đến 70% ti phm vthành niên dưới 18 tui. Con snày là một li cảnh báo về tình trạng trvthành niên phm ti. Trvthành niên ở la tui mun tkhẳng định mình, không muốn phthuộc và dbtác động, rrê, lôi kéo bởi các đối tượng xu. Nhiu em bảnh hưởng tâm lý từ các loại phim, nh bo lc, văn hoá phẩm đồi trutrên mạng Internet và ngoài xã hội. Trong khi đó, nhiu bc phhuynh không chú ý đến sphát triển tâm, sinh lý của con cái, nuông chiều con cái, không nghiêm khắc trong vic dy bảo con em mình mà mải lo công việc, kiếm tin. Mt strem phi sống trong hoàn cảnh mcôi bố hoc m, cha mbất hoà, ly thân, ly hôn dẫn đến sthiếu ht vmặt tình cảm, sphát triển lch lạc. Hơn nữa do thiếu schbảo, quan tâm

Nhu cầu tham vấn tâm lý của trẻ vị thành niên

  • Upload
    others

  • View
    0

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Nhu cầu tham vấn tâm lý của trẻ vị thành niên

vi phạm phạm pháp luật ở Trường Giáo dưỡng

Lê Thu Trang

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

Luận văn ThS. ngành: Tâm lý học; Mã số: 60 31 80

Người hướng dẫn: GS.TS. Trần Thị Minh Đức

Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Hệ thống hóa các cơ sở lý luận về nhu cầu, nhu cầu tham vấn của trẻ vị

thành niên vi phạm pháp luận ở trường giáo dưỡng. Nghiên cứu thực trạng nhận

thức của trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật về sự cần thiết phải tham vấn tâm lý,

mức độ mong muốn được tham vấn tâm lý và hành vi để thỏa mãn nhu cầu tham vấn

tâm lý ở các em. Đưa ra một số kiến nghị nhằm đáp ứng hiệu quả nhu cầu tham vấn

của trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng.

Keywords. Tâm lý học; Trẻ vị thành niên; Vi phạm pháp luật; Trường Giáo dưỡng

Content

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong quá trình phát triển đất nước, mặt trái của nền kinh tế thị trường và tác hại của các

tệ nạn xã hội đã làm phát sinh tình trạng một bộ phận trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật, làm

đau đớn và nhức nhối cho gia đình và xã hội. Trẻ em mắc phải những tội nghiêm trọng như

cướp của, giết người, vận chuyển ma túy… Năm 2006, theo số liệu thống kê của Viện kiểm

sát nhân dân tối cao riêng trẻ em dưới 14 tuổi có 7000 vụ vi phạm, chiếm đến 70% tội phạm

vị thành niên dưới 18 tuổi. Con số này là một lời cảnh báo về tình trạng trẻ vị thành niên

phạm tội. Trẻ vị thành niên ở lứa tuổi muốn tự khẳng định mình, không muốn phụ thuộc và

dễ bị tác động, rủ rê, lôi kéo bởi các đối tượng xấu. Nhiều em bị ảnh hưởng tâm lý từ các loại

phim, ảnh bạo lực, văn hoá phẩm đồi truỵ trên mạng Internet và ngoài xã hội. Trong khi đó,

nhiều bậc phụ huynh không chú ý đến sự phát triển tâm, sinh lý của con cái, nuông chiều con

cái, không nghiêm khắc trong việc dạy bảo con em mình mà mải lo công việc, kiếm tiền. Một

số trẻ em phải sống trong hoàn cảnh mồ côi bố hoặc mẹ, cha mẹ bất hoà, ly thân, ly hôn dẫn

đến sự thiếu hụt về mặt tình cảm, sự phát triển lệch lạc. Hơn nữa do thiếu sự chỉ bảo, quan tâm

của gia đình nên số thanh, thiếu niên này dễ bị kẻ xấu lợi dụng và lôi kéo vào con đường phạm

tội.

Trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật được đưa vào trường giáo dưỡng hầu như đã bị tổn

thương về nhiều mặt. Các em thiếu tình yêu thương và sự chăm sóc của cha mẹ, gia đình dẫn

tới sự lệch lạc trong cấu trúc nhân cách, rối nhiễu tâm lý, rối loạn hành vi… Hầu hết các em

đều có nhu cầu được chia sẻ những tâm tư nguyện vọng và vượt qua những trở ngại tâm lý,

nhất là trong quãng thời gian nhận sự quản lý, giáo dục ở trường giáo dưỡng. Để các em có

thể yên tâm ở trường học tập, lao động, phấn đấu…, thầy cô giáo phải giúp các em tháo gỡ

những vướng mắc tâm lý, ổn định tinh thần, tư tưởng.

Trong những năm qua, Tổng cục VIII, Bộ công an đã đưa vào thử nghiệm hoạt động

tham vấn cho học sinh trong các trường giáo dưỡng và đã đạt được những kết quả bước đầu

đáng khích lệ. Thực chất công tác giáo dục trong trường giáo dưỡng là giúp trẻ em có hành vi

vi phạm pháp luật thay đổi những cảm xúc - nhận thức - hành vi sai lệch, hình thành cho các

em những phẩm chất tâm lý mới, hành vi mới phù hợp với yêu cầu xã hội.

Thực tế cho thấy, hoạt động tham vấn kịp thời có thể giúp các em vượt qua khủng hoảng

tâm lý, giúp các em nhìn nhận rõ hơn vấn đề của mình và tự giải quyết vấn đề theo hướng

tích cực hơn. Khi nhà tham vấn nhận thấy những biểu hiện bất thường ở trẻ, kịp thời có sự hỗ

trợ tâm lý cho các em thì sẽ giảm bớt nhiều hậu quả xấu và đưa lại những kết quả về mặt kinh

tế, giáo dục, thậm chí còn ngăn chặn, phòng ngừa những rối loạn hành vi trong các em như:

giận dữ, đánh nhau, bỏ ăn, tự sát...

Chúng tôi thiết nghĩ rằng, với những trẻ vị thành niên có nhu cầu cần được hỗ trợ tâm lý,

nếu công tác tham vấn được đưa vào trường giáo dưỡng một cách đồng bộ, chuyên biệt thì

chắc hiệu quả giáo dục sẽ rất cao. Nhằm đi sâu tìm hiểu nhu cầu tham vấn của trẻ vị thành

niên ở trường giáo dưỡng, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nhu cầu tham vấn của trẻ

vị thành niên vi phạm pháp luật ở trường giáo dưỡng”.

2. Đối tƣợng nghiên cứu

Nghiên cứu mức độ thỏa mãn nhu cầu tham vấn tâm lý của trẻ vị thành niên vi phạm

pháp luật sống trong trường giáo dưỡng

3. Mục đích nghiên cứu

Chỉ ra thực trạng nhận thức về sự cần thiết phải được tham vấn tâm lý, về mức độ mong

muốn và mức độ thỏa mãn nhu cầu tham vấn tâm lý của trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật ở

trường giáo dưỡng. Trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn

tâm lý của các em.

4. Khách thể nghiên cứu

- Nghiên cứu 141 trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật ở trường giáo dưỡng số 2 - Ninh

Bình

- 02 cán bộ lãnh đạo trường giáo dưỡng

- 02 cán bộ quản lý học sinh trường giáo dưỡng

- 23 thầy cô giáo làm tham vấn các trường giáo dưỡng trong cả nước (4 trường)

5. Giả thuyết nghiên cứu

Chúng tôi cho rằng, sau khi được tham vấn tâm lý, nhìn chung nhu cầu tham vấn tâm lý

của đa số trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật ở trường giáo dưỡng đều được thỏa mãn.

6. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hóa các tài liệu liên quan đến nội dung đề tài nhằm xây dựng cơ sở lý thuyết

cho đề tài.

- Nghiên cứu thực trạng nhận thức của trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật về sự cần thiết

phải tham vấn tâm lý, mức độ mong muốn được tham vấn tâm lý và hành vi để thỏa mãn nhu

cầu tham vấn tâm lý ở các em.

- Đưa ra một số kiến nghị nhằm đáp ứng hiệu quả nhu cầu tham vấn của trẻ vị thành niên

ở trường giáo dưỡng

7. Giới hạn nghiên cứu

- Nội dung nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu nhu cầu tham vấn của trẻ vị thành

niên ở trường giáo dưỡng về những khó khăn tâm lý mà các em gặp phải trong thời gian học

tập và rèn luyện ở trường.

- Địa bàn nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu ở trường giáo dưỡng số 2 – Ninh Bình

8. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:

- Phương pháp điều tra bảng hỏi (an két)

- Phương pháp phỏng vấn sâu

- Phương pháp quan sát

- Phương pháp thảo luận nhóm

- Phương pháp thống kê toán học

(Các phương pháp nghiên cứu này sẽ được chúng tôi trình bày cụ thể ở chương 2)

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Một số nghiên cứu về tham vấn tâm lý trên thế giới

1.1.2. Sự phát triển tham vấn ở Việt Nam

1.1.3. Một số nghiên cứu về nhu cầu

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Nhu cầu

Nhu cầu chính là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả mãn để tồn tại và

phát triển, là sự biểu hiện của mối quan hệ qua lại giữa con người với những điều kiện cụ thể,

luôn biến đổi của đời sống. Nhu cầu là một thuộc tính tâm lý nằm trong cấu trúc xu hướng

của nhân cách.

1.2.2. Khái niệm trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật

Trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật là những người có hành vi vi phạm các quy định của

pháp luật ở các mức độ khác nhau nhưng chưa đến mức bị coi là phạm tội, chưa phải chịu

trách nhiệm hình sự.

Trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật được đưa vào trường giáo dưỡng có độ tuổi từ 12

đến dưới 18 tuổi. Thời gian sống trong trường của các em từ 6 đến 24 tháng. Trong quá trình

phấn đấu tu dưỡng trong trường, các em có thể được giảm án (các em sau khi đã ở trường

được 1/2 thời gian sẽ được xét giảm và thời hạn giảm tối đa là 1/3 thời hạn ghi trong quy

định)

Từ gọi thông thường với trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật là trẻ em làm trái pháp luật,

người chưa thành niên vi phạm pháp luật.

1.2.3. Khái niệm trường giáo dưỡng

Trường giáo dưỡng là một mô hình trường nội trú “ đặc biệt”, đã có lịch sử hình thành và

phát triển hơn 40 năm qua. Trường giáo dưỡng có nhiệm vụ quản lý, giáo dục đạo đức, pháp

luật, hướng nghiệp, dạy văn hóa, dạy nghề, tổ chức lao động, sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi

người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháo luật nhằm giúp đỡ các em sửa chữa những vi

phạm của mình, học tập, rèn luyện tiến bộ, phát triển lành mạnh về thể chất, tinh thần, trí tuệ để

trở thành công dân lương thiện, có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.

1.3. Nhu cầu tham vấn của trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật ở trƣờng giáo dƣỡng

1.3.1. Một số đặc điểm của trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật ở trường giáo dưỡng

1.3.1.1. Phát triển tâm - sinh lý ở lứa tuổi vị thành niên có ảnh hưởng tới hành vi vi phạm

pháp luật

1.3.1.2. Một số đặc điểm tâm lý của trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật

1.3.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hành vi vi phạm pháp luật ở trẻ vị thành niên

1.3.2. Nhu cầu tham vấn của trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật ở trường giáo dưỡng

1.3.2.1. Đặc điểm nhu cầu tham vấn của trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật ở trường giáo

dưỡng

1.3.2.2. Mức độ nhu cầu tham vấn của trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật

1.3.2.3. Mối quan hệ của nhu cầu với hứng thú và hoạt động

1.3.2.4. Nội dung tham vấn cho học sinh trường giáo dưỡng

CHƢƠNG 2

TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Tổ chức nghiên cứu

2.1.1. Giai đoạn 1: Nghiên cứu lý luận

2.1.2. Giai đoạn 2: Khảo sát thử

2.1.3. Giai đoạn 3: Khảo sát chính thức

Các em học sinh ở trường giáo dưỡng được đưa vào trường trong nhóm tuổi từ đủ 12 đến

dưới 18. Có nghĩa là không ít em vào trường từ lúc còn là trẻ em - 12 tuổi và có những em khi

ra trường đã trở thành người lớn trên 18 tuổi.

Số trẻ em được đưa vào trường giáo dưỡng tập trung nhiều ở nhóm từ 14 đến 18 tuổi. Thời

kì mà các em đang hình thành bản sắc cá nhân. Ở giai đoạn này, nếu trẻ em thiếu vắng sự

hướng dẫn, dạy dỗ và tình yêu thương của gia đình; thiếu vắng sự kiểm soát xã hội sẽ gây ra

không ít những trở ngại cho quá trình trưởng thành của các em.

Xét từ khía cạnh giới tính, số trẻ em được đưa vào các trường giáo dưỡng đa phần là nam

giới - chiếm 85,82%. Các em nữ chỉ chiếm 14,18%. Điều này phản ánh một thực tế là các em

gái ít có hành vi vi phạm pháp luật hơn các em trai.

Bảng 2.1. Một số đặc điểm của học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

Đặc điểm Số lƣợng Tỷ lệ (%)

Giới tính

Nam 121 85,82%

Nữ 20 14,18%

Độ tuổi

Từ 12 đến dưới 14 28 19,86%

Đủ 14 đến dưới 16 55 39,01%

Đủ 16 đến dưới 18 58 41,13%

Trình độ học vấn

Tiểu học 37 26,24%

Trung học cơ sở 104 73,76%

Thời gian vào trƣờng

Dưới 6 tháng 56 39,72%

Từ 6 đến 12 tháng 39 27,66%

Từ 12 tháng đến hết thời hạn

chấp hành 47 32,62%

Tổng số 141 100%

Số khách thể còn lại là 02 cán bộ lãnh đạo, 02 cán bộ quản lý học sinh trường giáo dưỡng

số 2 và 23 giáo viên mà chúng tôi lựa chọn nghiên cứu. Những ý kiến của họ giúp cho kết

quả nghiên cứu của chúng tôi có độ tin cậy và khách quan hơn. Cụ thể:

Bảng 2.2. Một số đặc điểm của giáo viên trƣờng giáo dƣỡng

Đặc điểm Số lƣợng Tỷ lệ (%)

Giới tính

Nam 15 65,22%

Nữ 8 34,78%

Ngành học

Sư phạm 11 47,83%

Bác sỹ 2 8,70%

Cảnh sát 5 21,74%

Luật 3 13,04%

Tâm lý - Giáo dục 2 8,70%

Công việc chính

Giảng dạy văn hóa 9 39,13%

Giáo vụ hồ sơ 2 8,70%

Quản lý giáo dục 5 21,74%

Dạy nghề 5 21,74%

Y tế 2 8,70%

Thời gian làm việc ở

trƣờng giáo dƣỡng

Dưới 1 năm 3 13,04%

Từ 1 - 3 năm 11 47,83%

Trên 3 - 5 năm 5 21,74%

Trên 5 năm 4 17,39%

Tổng số 23 100%

2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu

2.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (ankét)

2.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu

2.2.4. Phương pháp thảo luận nhóm

2.2.5. Phương pháp quan sát

2.2.6. Phương pháp thống kê toán học

2.3. Tiến độ nghiên cứu

CHƢƠNG 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Nhận thức của trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật ở trƣờng giáo dƣỡng về nhu cầu

tham vấn tâm lý

3.1.1. Nhận thức của trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng về tham vấn tâm lý

Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 95% học sinh hiểu rằng, tham vấn tâm lý là quá trình

trao đổi, chia sẻ giữa nhà tham vấn và thân chủ, giúp thân chủ nói ra và hiểu được những khó

khăn tâm lý của mình, nhận thấy tiềm năng của bản thân và tự tìm ra hướng giải quyết vấn đề

của mình.

Biểu đồ 3.1. Nhận thức về tham vấn tâm lý

3.1.2. Nhận thức của trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng về sự cần thiết của tham vấn

tâm lý

Kết quả điều tra cho thấy có đến 80,1% em cho rằng tham vấn tâm lý rất cần thiết đối với

học sinh ở trường giáo dưỡng, 17% em cho là tương đối cần thiết, 2,2 % em thấy có cũng

được không có cũng được và chỉ có rất ít em (0,7%) cho rằng tham vấn tâm lý là không cần

thiết. Nghiên cứu trên cho thấy rằng, nhu cầu được tham vấn tâm lý đối với học sinh trường

giáo dưỡng ở mức độ rất cao.

Biểu đồ 3.2. Nhận thức về sự cần thiết phải tham vấn tâm lý

3.1.3. Nhận thức của trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng về lợi ích của tham vấn tâm lý

11,3%5,0%

95,0%

0%

20%

40%

60%

80%

100%

Một dịch vụ cho lời khuyên

Quá trình NTV trò chuyện, khai thác thông tin

Quá trình trao đổi, chia sẻ

80,1%

17,0%

0,7%2,1%

Rất cần thiết Tương đối cần thiết

Có cũng được, không có cũng được Không cần thiết

Biểu đồ 3.3. Nhận thức về lợi ích của tham vấn tâm lý

Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 85,1% học sinh cho rằng tham vấn tâm lý giúp các em

giải toả được những bức xúc.

Có 43,3% trẻ cho rằng tham vấn tâm lý đã giúp các em có cơ hội trò chuyện, nói lên những

tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của mình.

Có 39,7% trẻ vị thành niên cho rằng tham vấn tâm lý giúp cho các em có nhận thức và

lối sống tích cực.

Kết quà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, có 33,3% trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng

nhận thấy tham vấn tâm lý đã giúp các em có thêm hiểu biết về nhiều lĩnh vực của cuộc sống.

Nhìn chung trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng thiếu hụt hiểu biết về nhiều vấn đề trong

cuộc sống. Thông qua quá trình tham vấn, trò chuyện và giảng dạy những bài học văn hóa, thầy

cô đã giúp các em tháo gỡ những vướng mắc về giao tiếp ứng xử trong môi trường mới, những

vấn để tình yêu – bạn bè, những kiến thức sức khỏe tình dục… Điều này có ý nghĩa rất lớn đối

với sự trưởng thành mọi mặt ở các em.

3.1.4. Nhận thức của trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng về những phầm chất quan

trọng của nhà tham vấn

Việc trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng nhận thức được những phẩm chất tâm lý quan

trọng của nhà tham vấn có ý nghĩa rất lớn, thể hiện mong muốn của các em về hình ảnh thầy

cô:

Bảng 3.1. Những phẩm chất tâm lý quan trọng của nhà tham vấn

Phẩm chất

nhà tham vấn

Giá trị

trung bình

Thứ

bậc

Mức độ

quan trọng

Năng lực chuyên môn 3,18 2 Quan trọng

Thấu hiểu 2,62 1 Rất quan

trọng

Chân thành 3,26 3 Quan trọng

Chấp nhận thân chủ 3,77 5 Quan trọng

Tin tưởng thân chủ 3,64 4 Quan trọng

Không định kiến 5,40 6 Ít quan trọng

Có tinh thấn khỏe

mạnh 6,13 7 Ít quan trọng

85,1%

33,3%

43,3% 39,7%

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

90%

Giải tỏa bức xúc Có thêm kiến thức

Được trò chuyện Có nhận thức và lối sống tích cực

Các em cho rằng, thấu hiểu là phẩm chất tâm lý quan trọng nhất của nhà tham vấn (xếp ở

thứ bậc 1≈ 2,6). Sự thấu hiểu giúp thầy cô đánh giá được cảm xúc, tâm trạng, mong muốn

của các em mà không quá gắn cảm xúc của mình vào vấn đề của các em, để những nhận xét

của bản thân thầy cô được khách quan hơn.

Yếu tố năng lực chuyên môn của thầy cô cũng được các em đề cao (xếp bậc 2 ≈ 3,18).

Việc lựa chọn năng lực chuyên môn của thầy cô là phẩm chất tâm lý quan trọng bậc 2 cho thấy

các em đã nhận thức được vai trò của yếu tố này.

Các em cũng đề cao phẩm chất chân thành của thầy cô (bậc 3 ≈ 3,26). Bởi sự chân thành

là cơ sở để tạo dựng niềm tin ở các em khi chia sẻ vấn đề của mình.

Tin tưởng vào khả năng tự giải quyết vấn đề của thân chủ là một trong những phẩm

chất tâm lý quan trọng của nhà tham vấn, đây cũng là yếu tố được xếp ở bậc 4 (≈ 3,64)

mà trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng cho là cần thiết.

Hầu hết trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng cho rằng yếu tố tinh thần khoẻ mạnh ít cần

thiết hơn so với những yếu tố khác. Điều này không có nghĩa là phẩm chất này ít quan trọng

mà các em nghiễm nhiên cho rằng, các thầy cô - những người tham vấn cho các em trước hết

phải là những người cân bằng, có tinh thần khoẻ mạnh mới có thể trợ giúp cho các em được.

Đó là yếu tố bắt buộc giúp nhà tham vấn có thể suy nghĩ và hành động một cách hữu hiệu.

3.1.5. Nhận thức của trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng về những vấn đề cần được

thầy cô tham vấn

Đa phần trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng đã hoặc đang gặp những khó khăn tâm lý

khác nhau, do đó các em nhận thức rất rõ những vấn đề cần được thầy cô giúp đỡ. Dưới đây

là những vấn đề trẻ vị thành niên thường gặp:

Bảng 3.3. Nhận thức về những vấn đề cần đƣợc thầy cô tham vấn

STT Nội dung Trẻ

VTN

Tỉ lệ

%

1 Lo lắng về gia đình 92 65,2

2 Ứng xử trong trường 58 41,1

3 Lo lắng khi trở về cộng đồng 64 45,4

4 Không có hiểu biết về SKTD 28 19,9

5 Lo lắng về chỉ tiêu LĐ, học tập 53 37,6

6 Lo lắng về công việc, tương lai 60 42,6

7 Bạn bè, người yêu bỏ 28 19,9

8 Lo sợ quay lại con đường cũ 68 48,2

Phần lớn trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng đều cảm thấy lo lắng cho gia đình và

người thân (chiếm 65,2%).

Trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng lo lắng về chỉ tiêu lao động, vấn đề học nghề, vấn

đề giảm án cũng chiếm tỷ lệ khá cao (37,6%). Điều các em cũng rất quan tâm là công việc mà

các em sẽ làm trong tương lai (chiếm 42,6%). Các em lo lắng sẽ được học những nghề gì,

liệu nó có ứng dụng trong cuộc sống khi các em ra trường và phục vụ cho việc mưu sinh của

các em sau này hay không. Các em lo sợ khi ra trường không có công ăn việc làm, không có

tay nghề kiếm sống, phải “ăn bám” gia đình nên dễ bị sa ngã vào con đường cũ. Đây cũng là

mong muốn hết sức chính đáng của các em.

Không có hiểu biết về sức khỏe tình dục và lo sợ bạn bè, người yêu bỏ cũng là những

vấn đề mà một số trẻ vị thành niên quan tâm, lo lắng (chiếm 19,9%). Ngoài ra, một số em

cũng gặp phải những vấn đề như lo sợ bạn bè, người yêu bỏ, đây là những vấn đề liên quan

đến ứng xử trong các mối quan hệ tình bạn, tình yêu… các em mong muốn được thầy cô tháo

gỡ.

Lo lắng không được cộng đồng chấp nhận là vấn đề mà các em mong muốn được tham

vấn ở mức độ cao (45,4%). Bên cạnh đó, các em có một nỗi lo lắng chung là sợ không đương

đầu được với cuộc sống. Đây là vấn đề băn khoăn mà đa số các em muốn được thầy cô tham

vấn (chiếm 48,2%). Đặc biệt là sợ không có công ăn việc làm và sợ sẽ đẩy đến nguy cơ trở lại

con đường cũ.

Như vậy, con đường đến trường giáo dưỡng của các em rất khác nhau nhưng vào trường

các em luôn mong mỏi, khát khao sự đồng cảm của thầy cô, sự tin tưởng của bạn bè, sự quan

tâm của gia đình và cái nhìn độ lượng từ mọi người cho những sai lầm mà các em lỡ mắc

phải.

3.2. Nhu cầu tham vấn tâm lý của trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật ở trƣờng giáo

dƣỡng

3.2.1. Mức độ mong muốn được tham vấn tâm lý của trẻ vị thành niên ở trường giáo

dưỡng

Biểu đồ 3.6. Mức độ mong muốn đƣợc tham vấn tâm lý

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng rất muốn được thầy cô

tham vấn tâm lý chiếm tỷ lệ cao (59,6%). Trong điều kiện sống mới chịu nhiều áp lực, nhiều

em rơi vào trạng thái tâm lý chán nản, sợ hãi, lo lắng… vừa tổn hại cho sức khỏe vừa gây khó

khăn cho việc chấp hành những yêu cầu của trường giáo dưỡng và tiếp nhận những tác động

giáo dục của nhà trường. Các em cần được tham vấn tâm lý để thực hiện tốt hơn nghĩa vụ của

mình, thay đổi bản thân và có cái nhìn tích cực hơn về tương lai.

Mức độ mong muốn được tham vấn tâm lý của trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng còn

thể hiện rõ hơn khi không có vấn đề khó khăn gì, các em vẫn mong muốn được tham vấn.

Biểu đồ 3.7. Mức độ mong muốn tham vấn khi không gặp phải vấn đề

59,6%

32,6%

6,4%

1,4%

Rất muốn

Muốn

Không muốn

Không biết

Có 64,5% trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng cho rằng, khi không có vấn đề gì, các

em vẫn muốn được tham vấn, Tham vấn không chỉ giúp các em giải quyết các vấn đề khó

khăn về tâm lý mà quan trọng hơn cả nó đã có ý nghĩa bổ trợ và nâng đỡ tinh thần cho các

em.

Số những em cho rằng không cần thiết phải tham vấn khi không có vấn đề gì chiếm

35,5%, những em này lý giải rằng, khi không có vấn đề gì thì không cần thiết thầy cô giúp đỡ

vì lúc đó các em có tư tưởng ổn định và xác định được những việc mình phải làm. Điều này

cho thấy một số trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng đã có sự nhận thức khá rõ về vấn đề

của mình và phạm vi giúp đỡ của thầy cô trong quá trình tham vấn cho các em.

3.2.2. Mức độ e ngại của trẻ vị thành niên khi nói ra vấn đề của mình

Biểu đồ 3.8. Mức độ e ngại khi tham vấn

3.2.3. Mong muốn của trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng về những vấn đề thầy cô có

thể giúp đỡ

Những vấn đề các em cho rằng thầy cô có thể giúp được là: Giải toả những bức xúc,

vướng mắc tâm lý; giúp các em có lối sống tích cực, có thêm hiểu biết về giáo dục giới tính,

sức khỏe tình dục và những kỹ năng sống.

Khi bàn về những vấn đề các em cho rằng thầy cô không giúp được, hầu hết các em đều cho

rằng thầy cô ở trường không thể giúp đỡ các em về nhu cầu vật chất, tiền bạc, không thể giúp các

em ra trường trở về với gia đình, gặp gỡ người thân, bạn bè, người yêu… Các em cũng nhận thức

được thầy cô không thể giúp đỡ các em giải quyết một số nhu cầu cá nhân như: “Những sở thích

cá nhân vi phạm nội quy nhà trường”, “Thầy cô không thể giúp chúng em trở về nhà ngay

được”…

Vấn đề mà số đông trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng cho rằng thầy cô không giúp

được là bị các bạn đánh đập, đe nẹt. Ở các em tồn tại tâm trạng thiếu an toàn - luôn lo sợ, các

em có nhu cầu được chở che, bảo vệ. Sự “nổi loạn” ngầm hay ương bướng, chống đối, thậm

chí xuất hiện một vài dấu hiệu bệnh lý tâm thần trong môi trường này là do cơ chế tâm lý

phòng vệ nhằm bảo vệ sự tồn tại của các em. Do vậy, tác động tâm lý, giáo dục ở trường giáo

dưỡng cần chú ý tới đặc điểm này.

64,5%

35,5%

Không

18,4%

29,8%

51,8%

Rất e ngại

E ngại

Không e ngại

3.2.4. Những khó khăn trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng gặp phải nếu không được

tham vấn tâm lý

Nhìn chung, các em đều gặp phải rất nhiều những khó khăn tâm lý nếu không được tham

vấn. Điều này cho thấy nhu cầu được tham vấn tâm lý phát triển mức độ rất cao ở các em học

sinh trường giáo dưỡng. Các em mong chờ được thầy cô đón nhận với những chia sẻ, bao

dung, mong được sự quan tâm của gia đình và cái nhìn độ lượng từ xã hội cho những sai lầm

mà các em lỡ mắc phải.

Từ những vấn đề trẻ em trường giáo dưỡng nhận thức được về khả năng, phạm vi giúp đỡ

của thầy cô và những khó khăn gặp phải nếu không được tham vấn, chúng tôi muốn tìm hiểu

sâu hơn những thuận lợi và khó khăn từ phía thầy cô trong công tác tham vấn trợ giúp cho các

em.

Nhìn chung, thầy cô giáo ở trường giáo dưỡng khi làm tham vấn tâm lý đã nhận thức rất

rõ những thuận lợi và khó khăn của mình trong quá trình tham vấn cho các em.

3.2.5. Tâm trạng của trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng khi không được tham vấn

Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 45,4% trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng cảm thấy

chán nản khi không được thầy cô tham vấn, 24,8% cảm thấy rất chán nản và số em cảm thấy

bình thường chiếm tỷ lệ ít 29,8%.

Biểu đồ 3.9. Tâm trạng học sinh nếu không đƣợc tham vấn

Trên thực tế, vì một số lý do khách quan và chủ quan, một số em chưa được tham vấn,

do số lượng đăng ký đông trong khi thầy cô không thể sắp xếp để tham vấn tất cả các em,

cũng có thể do các em mong muốn được tham vấn nhưng không dám đăng ký vì có những

vấn đề sâu kín, tế nhị các em không thể bày tỏ lòng mình. Như vậy, số đông trẻ vị thành niên

ở trường giáo dưỡng đều cảm thấy chán nản nếu không được thầy cô tham vấn. Từ tâm trạng

chán nản, các vấn đề vướng mắc không được giải quyết bị đè nén trong khi khả năng nhận

thức và đương đầu của các em còn hạn chế có thể dẫn các em đến những hậu quả tiêu cực

như trầm cảm, rối nhiễu tâm lý, thậm chí gây nên những bệnh lý về tâm thần.

3.3. Sự thoả mãn nhu cầu tham vấn tâm lý của trẻ vị thành niên ở trƣờng giáo dƣỡng

3.3.1. Hành vi tìm đến tham vấn của trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng

Những hành vi để thoả mãn nhu cầu tham vấn của các em thể hiện rất rõ đặc điểm tâm lý

của trẻ vị thành niên phạm pháp. Trên đây, chúng tôi đưa ra bốn cách thức khác nhau để các

em lựa chọn: Chờ thầy cô hỏi đến, làm phiếu đăng ký, gặp trực tiếp nhờ giúp đỡ, nhờ bạn bè

nói giùm… Kết quả nghiên cứu cho thấy, trẻ vị thành niên gặp trực tiếp thầy cô nhờ giúp đỡ

chiếm tỷ lệ cao nhất (55,3%).

24,8%

45,4%

29,8%

Rất chán nản

Chán nản

Bình thường

Biểu đồ 3.10. Hành vi tìm đến tham vấn của trẻ vị thành niên

Đặc trưng ở trường giáo dưỡng là, đa phần thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy văn hóa cho

các em ở trên lớp cũng vừa làm tham vấn tâm lý cho các em, do đó, do đó khi thầy trò gặp

nhau luôn có sự gần gũi, thoải mái và hiểu biết khá rõ về nhau, các em có thể tự nhiên đề cập

những khó khăn tâm lý của mình với thầy cô và cũng nhận được những chia sẻ chân thành từ

phía thầy cô.

Có 31,9% trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng đã chọn việc làm phiếu đăng ký để được

tham vấn tâm lý. Các em nhận thức được rằng, số lượng giáo viên ở tổ tham vấn còn hạn chế

không đủ đáp ứng cho nhu cầu của số đông học sinh ở trường. Việc làm phiếu đăng ký sẽ đem lại

sự khách quan và công bằng cho tất cả học sinh trong trường.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, có 24,8% học sinh chờ thầy cô hỏi đến khi muốn

được tham vấn và 4,3% học sinh nhờ bạn bè nói giùm để được tham vấn. Cách lựa chọn này

chủ yếu tập trung ở những em mới vào trường bởi những em này mong muốn được thầy cô

giúp đỡ nhưng do tâm lý bỡ ngỡ, mới vào trường, chưa thiết thiết lập được các mối quan hệ

nên thường tự ti, rụt rè khi đề cập vấn đề của mình.

3.3.2. Tần suất được tham vấn của trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng

Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 15,6% học sinh chưa lần nào được thầy cô tham vấn, số em

được tham vấn từ 1 đến 2 lần chiếm 63,8%, có 15,6% em được tham vấn 3 đến 4 lần và số

em được tham vấn từ 5 lần trở lên chiếm 5%.

Bảng 3.5. Số lần trẻ đƣợc tham vấn

STT Nội dung Trẻ VTN Tỉ lệ %

1 Chưa lần nào 22 15,6

2 Từ 1 – 2 lần 90 63,8

3 Từ 3 – 4 lần 22 15,6

4 Từ 5 lần trở lên 7 5

Số em được tham vấn từ 1 đến 2 lần chiếm tỷ lệ cao, thể hiện rõ nhu cầu của các em

đã trở thành động lực thúc đẩy hành vi tìm đến nhà tham vấn. Tuy nhiên, mức độ được

tham vấn tâm lý không đồng đều ở các em, có 15,6% em chưa lần nào được tham vấn,

trong khi đó có 5% số em được tham vấn tâm lý từ 5 lần trở lên. Trên thực tế, mức độ

được tham vấn tâm lý không đồng đều ở các em, một phần xuất phát từ những lý do chủ quan

và khách quan từ các em nhưng phần khác do vai trò kiêm nhiệm của các thầy cô ảnh hưởng

phần nào đến thời gian cũng như số lần được tham vấn cho các em.

24,8%

31,9%

55,3%

4,3%

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

Chờ thầy cô đến hỏi Làm phiếu đăng ký

Gặp trực tiếp nhờ giúp đỡ Nhờ bạn bè nói giùm

3.3.3. Sự thoả mãn nhu cầu tham vấn của trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng thể hiện

qua việc lựa chọn hình thức tham vấn

Biểu đồ 3.12. Mức độ của các hình thức tham vấn

Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, có 70,9% học sinh thích hình thức tham vấn cá nhân

nhất. Hình thức cá nhân có nghĩa là chỉ một người trong vai trò là thân chủ, nghĩa là chỉ một

người là “đơn vị chú ý”. Trong thuật ngữ chuyên môn, công việc này được gọi là “một với

một”, nói cách khác một học sinh trò chuyện với một thầy cô.

Có 30,8% học sinh thích hình thức sinh hoạt ngoại khóa, chiếm tỷ lệ khá cao. Đây là

hình thức tham vấn lồng ghép, các em thoải mái đưa ra những vấn đề của mình và thầy cô,

các bạn cùng nhau phân tích vấn đề và giải toả tâm lý cho số đông các em.

Nhìn chung, hầu hết học sinh trường giáo dưỡng (70,9%) đều lựa chọn hình thức tư vấn

cá nhân là hình thức tham vấn phù hợp nhất với các em. Các em cho rằng, tham vấn cá nhân

là sự giao tiếp giữa hai người sẽ khiến bản thân thấy thoải mái và không e ngại, có cảm giác

thân mật và riêng tư. Điều lý giải trên cho thấy, các em thường cảm thấy rụt rè, e ngại khi đối

diện với thầy cô, nhất là kể về những sai lầm mắc phải, những vấn đề mà chính các em cảm

thấy mặc cảm, tự tị. Do vậy mong muốn được thầy cô giữ bí mật là một nhu cầu chính đáng

của các em, đây cũng là một nguyên tắc quan trong trong tham vấn tâm lý, giúp các em có

tâm trạng thoải mái và cảm giác được tin tưởng khi làm tham vấn.

3.3.4. Mức độ thoả mãn nhu cầu tham vấn tâm lý của trẻ vị thành niên ở trường giáo

dưỡng

Đa số trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng có cảm nhận tích cực sau khi tham vấn, số

em cảm thấy rất hài lòng chiếm 58,8%, có 26,1% em cảm thấy hài lòng và số em có cảm

nhận bình thường chiếm tỷ lệ ít 15,1%.

Biểu đồ 3.13. Mức độ thoả mãn nhu cầu tham vấn tâm lý

Đa số thầy cô ở trường giáo dưỡng đều có tâm trạng vui vẻ, thoải mái sau khi làm tham

vấn tâm lý cho các em (chiếm 73,9%), họ cho rằng sở dĩ có tâm trạng như vậy vì đã giúp các

em giải toả tâm lý.

34,8%

16,3%

70,9%

3,5%

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

Sinh hoạt ngoại khóa Tư vấn nhóm Tư vấn cá nhân Hình thức khác

58,8%26,1%

15,1%

Rất hài lòng

Hài lòng

Bình thường

Số ít thầy cô cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi, hoặc nặng nề sau khi tham vấn. Trường hợp

này xảy ra khi vấn đề của các em quá phức tạp hay vấn đề liên quan trực tiếp tới gia đình mà

bản thân thầy cô không thể liên lạc hay kết nối với gia đình để có sự phối hợp, giúp đỡ các

em.

Biểu đồ 3.14. Cảm xúc của thầy cô sau khi tham vấn

Tìm hiểu đánh giá của thầy cô về mức độ hài lòng của trẻ em trường giáo dưỡng sau khi

được tham vấn, kết quả cho thấy: Số em cảm thấy hài lòng sau khi được tham vấn chiếm tỷ lệ

cao (78,3%).

Biểu đồ 3.15. Mức độ hài lòng của thầy cô sau khi làm tham vấn

Các thầy cô đều cho rằng, đa số học sinh được giải toả cảm xúc của mình sau khi được

tham vấn, các em vui vẻ, thoải mái hơn (biểu lộ qua nét mặt), các em tự tin hơn khi nhận biết

được vấn đề, nhiều em mong muốn lần sau được gặp lại nhà tham vấn. Thông qua quá trình

tham vấn, thầy cô giúp các em hiểu được bản chất của sự việc, cái gì nên và không nên, có sự

thay đổi tích cực về nhận thức, xúc cảm, tình cảm, hành vi, từ đó các em hòa đồng, hăng hái

học tập và rèn luyện hơn.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có số ít giáo viên (8,7%) cho rằng các em cảm thấy

bình thường sau khi tham vấn, nghĩa là có ít sự thay đổi ở các em so với trước khi tham vấn.

Họ cho rằng, học sinh đa số hài lòng với kết quả tham vấn song có một số em khi tham vấn

xong vẫn cảm thấy bình thường và ít khi thực hiện theo những định hướng của mình trong

quá trình tham vấn.

3.3.5. Những đề xuất của trẻ vị thành niên trường giáo dưỡng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu

tham vấn của các em

Nhìn chung, khi đề xuất những kiến nghị với nhà trường, hầu như trẻ vị thành niên ở

trường giáo dưỡng đều mong muốn được đáp ứng các điều kiện về ăn uống, vật chất, sinh

hoạt. Các em cũng mong muốn thầy cô giúp đỡ giải quyết các mối quan hệ bạn bè, hiện

tượng chèn ép trong phòng ở. Đặc biệt các em mong muốn nhà trường xây dựng và trang bị

26,1%

8,7%4,3%

73,9%

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

Hứng thú Căng thẳng, mệt mỏi Nặng nề Vui vẻ, thoải mái

13,0%

78,3%

8,7%

Rất hài lòng

Hài lòng

Bình thường

cơ sở vật chất cho phòng tham vấn khang trang hơn. Tuy nhiên, hầu hết các em cảm thấy hài

lòng về điều kiện sinh hoạt và nội quy của nhà trường. Chỉ có một số các em có tư tưởng

hưởng thụ, có sự hụt hẫng với điều kiện cuộc sống bên ngoài so với khi vào trường nên nảy

sinh những đòi hỏi vượt quá giới hạn đáp ứng ở trường giáo dưỡng

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

1.1. Đa số trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng đều cho rằng tham vấn tâm lý rất cần

thiết cho học sinh trường giáo dưỡng. Các em nhận thức rất rõ về những khó khăn tâm lý và

hiểu được vai trò, lợi ích của tham vấn tâm lý trong việc trợ giúp học sinh trường giáo dưỡng

giải quyết những khó khăn gặp phải.

1.2. Nhu cầu tham vấn tâm lý của trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng là rất lớn, đó là

nhu cầu tham vấn hỗ trợ giải quyết các vấn đề về gia đình, các quan hệ ứng xử trong trường,

vấn đề ăn uống sinh hoạt, các kiến thức sức khỏe tình dục, định hướng nghề nghiệp và sự

chấp nhận của cộng đồng khi các em trở về. Đặc biệt, những học sinh mới vào trường và

những em sắp ra trường có nhu cầu trợ giúp cao để giải quyết những khó khăn này.

1.3. Kết quả khảo sát thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của trẻ vị thành niên ở trường

giáo dưỡng đã chứng minh được giả thuyết khoa học của đề tài. Học sinh trường giáo dưỡng

có rất nhiều khó khăn, bức xúc trong cuộc sống cần phải giải quyết, nhu cầu tham vấn tâm lý

ở các em là rất lớn. Nhìn chung, trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng đều cảm thấy hài lòng

sau khi được tham vấn. Các em có sự nhìn nhận vấn đề, tìm thấy tiềm năng của bản thân và

có hướng giải quyết vấn đề một cách tích cực. Đề tài cũng đưa ra những giải pháp nhằm tăng

cường hiệu quả và đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của trẻ vị thành niên ở trường giáo

dưỡng số 2 nói riêng và tất cả các trường giáo dưỡng khác nói chung.

2. Kiến nghị

2.1. Đối với lãnh đạo, cơ quan chức năng trực thuộc Bộ Công an

2.2. Đối với nhà trường và thầy cô giáo

2.3. Đối với gia đình

2.4. Đối với trẻ vị thành niên ở trường giáo dưỡng

References

A. Tài liệu tiếng Việt

1. Nguyễn Ngọc Bích (1998), Tâm lý học nhân cách - Một số vấn đề lý luận, NXB

ĐHQGHN

2. Bộ Công an (2005), Cẩm nang pháp luật về Quyền trẻ em – dùng cho trại giam và

trường giáo dưỡng, Hà Nội.

3. Bộ GD & ĐT (2006), Kỷ yếu hội thảo: Xây dựng phát triển và mạng lưới tham vấn

trong trường học.

4. Bradon Marian, Gillian Schofield, liz Trinder (Nguyễn Thị Nhẫn dịch) (2001),

Công tác xã hội với trẻ em, Ban xuất bản Đại học Mở bán công Thành phố Hồ Chí

Minh.

5. Nguyễn Thị Chính, Phương Hoài Nga (2009), Hỗ trợ tâm lý thông qua giáo dục kỹ

năng sống cho học sinh trường giáo dưỡng, Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế: Nhu

cầu định hướng và đào tạo tâm lý học đường tại Việt Nam.

6. Côvaliov A.G, Tâm lý học cá nhân, NXB Giáo dục

7. Lê Minh Công (2009), Nghiện internet - game online ở thanh thiếu niên: báo cáo

qua ba trường hợp lâm sàng, Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế: Nhu cầu định

hướng và đào tạo tâm lý học đường tại Việt Nam.

8. Cục V26, Bộ Công an (2004), Tư vấn với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở

trường giáo dưỡng, NXB Chính trị Quốc gia.

9. Daniel O’Donnel, Hướng dẫn tìm hiểu Công ước về quyền trẻ em, NXB Anvil.

10. Vũ Dũng chủ biên (2008), Từ điển Tâm lý học, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

11. Trần Thị Minh Đức, Chủ trì đề tài: Thực hành tham vấn và trị liệu tâm lý - Thực

trạng và giải pháp, Đề tài cấp Đại học Quốc gia, Hà Nội, Mã số QX.2007.

12. Trần Thị Minh Đức, Đỗ Hoàng, Tham vấn học đường - Nhìn từ góc độ Giới, Tạp

chí Tâm lý học, số 11/2006.

13. Trần Thị Minh Đức (2009), Giáo trình tham vấn tâm lý, Nhà xuất bản Đại học Quốc

gia Hà Nội.

14. Trần Thị Minh Đức (2010), Kĩ năng tham vấn cho người chưa thành niên vi phạm

pháp luật, Bản quyền của tổ chức Plan tại Việt Nam

15. Trần Thị Minh Đức (2002), Một số vấn đề cơ bản của Tâm lý học, Đề tài nghiên

cứu, ĐHQGHN.

16. Trần Thị Minh Đức (2009), Nhận biết tâm lý trẻ em qua tranh vẽ, Nhà xuất bản

Khoa học và kĩ thuật - Cục V26 Bộ Công an, Hà Nội.

17. Trần Thị Minh Đức (2002), Quan niệm về tư vấn tâm lý, Tạp chí ĐH & GD chuyên

nghiệp (số 6)

18. Lưu Song Hà (2009), Một số giải pháp tâm lý nhằm hạn chế và khắc phục hành vi

lệch chuẩn của học sinh trung học phổ thông, Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế:

Nhu cầu định hướng và đào tạo tâm lý học đường tại Việt Nam.

19. Phạm Minh Hạc (2002), Tuyển tập Tâm lý học, NXB Giáo dục

20. Đỗ Thị Lệ Hằng (2009), Các tác nhân gây stress và cách ứng phó với stress của trẻ

vị thành niên, Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế: Nhu cầu định hướng và đào tạo

tâm lý học đường tại Việt Nam.

21. Phạm Thị Lệ Hằng (2009), Nhu cầu giáo dục giới tính của học sinh trung học phổ

thông ở Hòa Bình, Luận văn thạc sỹ Tâm lý học, Trường Đại học Khoa học xã hội

và Nhân văn Hà Nội.

22. Hiệp định Cảnh sát Quốc Gia - Pêru Radda Barnen, Chăm sóc và đối xử với trẻ em

thanh thiếu niên, tài liệu do trường giáo dưỡng số 2 cung cấp.

23. Học viện Cảnh sát nhân dân - Bộ môn Tâm lý (2010), Những vấn đề tâm lý cơ bản

trong hoạt động quản lý, giáo dục phạm nhân, trại viên và học sinh trường giáo

dưỡng.

24. Triệu Thị Hương (2006), Nhu cầu tham vấn tâm lý của sinh viên Học viện Cảnh sát

nhân dân, Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

25. Đỗ Văn Giảng (2009), Về sự không tương thích giữa giáo dục gia đình với lớp trẻ

hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế: Nhu cầu định hướng và đào tạo tâm lý

học đường tại Việt Nam.

26. Kathryn Geldard và David Geldard (2000) (Nguyễn Xuân Nghĩa, Lê Lộc dịch),

Công tác tham vấn trẻ em - Giới thiệu và thực hành, Tập 1, 2, trường Đại học Mở

bán công Thành phố Hồ Chí Minh.

27. Kathryn Geldard và David Geldard (2002) (Nguyễn Xuân Nghĩa, Lê Lộc dịch),

Tham vấn thanh thiếu niên, Trường Đại học Mở bán công Thành phố Hồ Chí Minh

(Lưu hành nội bộ).

28. Lê Khanh (2006), Bài giảng Tâm lý học nhân cách, Trường ĐH KHXH&NV

29. Leonchiep A. N (1989), (Phạm Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia, Phạm Huy Châu dịch),

Hoạt động, ý thức, nhân cách, NXB Giáo dục.

30. Nguyễn Hồi Loan (2009), Rối nhiễu tâm lý của trẻ em vị thành niên ở các trường

phổ thông trên địa bàn Hà Nội (thực trạng - nguyên nhân - giải pháp), Kỷ yếu hội

thảo khoa học Quốc tế: Nhu cầu định hướng và đào tạo tâm lý học đường tại Việt

Nam.

31. Nguyễn Văn Lũy và Lê Quang Sơn (đồng chủ biên - 2009), Từ điển Tâm lý học,

Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội.

32. Bùi Thị Xuân Mai (2007), Một số kỹ năng tham vấn cơ bản của cán bộ xã hội, Luận

án tiến sĩ, Viện Tâm lý học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.

33. Bùi Thị Xuân Mai (2006), Thực trạng nhu cầu tham vấn chon học sinh, sinh viên

hiện nay - Những khuyến nghị, giải pháp”, Kỷ yếu hội thảo: Xây dựng và phát triển

mạng lưới tham vấn trong trường học, Bộ GD và ĐT Hà Nội.

34. Đỗ Hạnh Nga (2009), Những vấn đề nảy sinh trong đời sống tâm lý - xã hội của

học sinh tuổi vị thành niên và nhu cầu tư vấn tâm lý hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa

học Quốc tế: Nhu cầu định hướng và đào tạo tâm lý học đường tại Việt Nam.

35. Chu Thị Hương Nga (2010), Nhu cầu tham vấn tâm lý của sinh viên ở một số

trường Đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Tâm lý học,

trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội.

36. Phan Trọng Ngọ - Nguyễn Đức Hướng (2003), Các lý thuyết phát triển tâm lý

người, NXB ĐHSP Hà Nội

37. Tổng cục Thống kê, Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam (2000), Phân tích

kết quả điều tra đánh giá mục tiêu thập kỷ về trẻ em, NXB Thống kê.

38. Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam - Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển

(1996), Tài liệu tham khảo về công tác với trẻ em làm trái pháp luật, Hà Nội.

39. UNICEP Hà Nội (2000), Tài liệu tập huấn về công tác tham vấn.

40. Nguyễn Khắc Viện (2000), Từ điển Tâm lý học, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin,

Hà Nội.

B. Tài liệu tiếng Anh

41. Corey.G (1991), Theory and Practice of Counseling & Phsychotherapy, Books/Cole

Publishing Company.

42. Counseling for Investment in Health Promotion/CIHP, Workshop, Febaruary 2003.

43. Narayana S. Counseling Psychology, McGraw-Hill Publishing Company.

44. Neukrug E.D., The world of the Counselors, Books/ Cole Publishing Company, 1999.

45. Oxford wordpower (2000), Dictionary, Oxford.

C. Một số trang Web

46. Giaoduc.edu.vn

47. Tamlyhoc.net

48. Thamvantamly.com

49. Tuvantamly.vn