Upload
dokhuong
View
215
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ XUÂN DIỆU GIAI ĐOẠN 1932 - 1945
NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ XUÂN DIỆU GIAI ĐOẠN 1932 - 1945
Tác giả: Lê Tiến Dũng
LỜI GIỚI THIỆU
Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới (1932-
1945). Ông đóng vai trò quyết định trong cuộc cách tân hiện đại hóa thơ ca
Việt Nam. Do vậy nghiên cứu thơ Xuân Diệu trong giai đoạn sáng tác trước
cách tháng Tám rất quan trọng chẳng những đối với bản thân Xuân Diệu mà
còn đối với thơ ca hiện đại Việt Nam nói chung.
Lâu nay đã có nhiều công trình viết có giá trị về thơ Xuân Diệu, nhưng
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về tư
duy thơ mới mẻ của ông. Chuyên luận của Lê Tiến Dũng đã đặt và giải quyết
vấn đề này. Điều đó nói lên ý nghĩa quan trọng và bức thiết của chuyên luận
này.
Bố cục của cuốn sách được bố trí rất hợp lí, đã đi từ gốc đến ngọn của
vấn đề. Các chuyên mục có quan hệ gắn bó, hài hòa, soi sáng lẫn nhau.
Qua ba chương sách của phần nội dung chuyên luận, nhiều luận điểm
của tác giả tuy không phải chưa có người đã phát biểu trước đó, nhưng tác
giả cũng đã có đóng góp mới mẻ nhờ sự khảo sát có hệ thống một cách
nghiêm túc thơ Xuân Diệu và đặc là nhờ sự suy nghĩ có chiều sâu. Có thể nói
toàn bộ cuốn sách lấp lánh những phát hiện sắc sảo, thú vị, hấp dẫn chứng tỏ
người viết vừa có khả năng thẩm thơ khá chắc chắn, vừa có khả năng khái
quát, tổng hợp vững vàng, cuốn sách là một công trình khoa học nghiêm túc,
công phu.
Xin trân giới thiệu cùng bạn đọc.
Hà Nội, tháng 3 năm 1998
GS. Nguyễn Đăng Mạnh
DẪN NHẬP
1. Trong sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu là một
nhà thơ lớn. Tác phẩm của ông thật phong phú và đa dạng: thơ ca, văn xuôi,
nghiên cứu, phê bình văn học… Trong sự nghiệp văn học của ông, thơ ca
chiếm một vị trí quan trọng. Đặc biệt thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932-1945
không chỉ có ý nghĩa với sự nghiệp văn học của ông mà còn đối với lịch sử
văn học nói chung. Sự xuất hiện của ông đã góp phần quyết định thắng lợi
của phong trào Thơ mới. Nhiều người đã xem ông là “Người mới nhất trong
các nhà Thơ mới“ (Hoài Thanh), “Là người mang đến cho Thơ mới nhiều cái
mới nhất“ (Vũ Ngọc Phan). Cho nên để hiểu sâu hơn, toàn diện hơn về thơ
Xuân Diệu và Thơ mới, không thể không nghiên cứu những đổi mới về nhiều
mặt trong thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932-1945.
Mục đích của chuyên luận, do vậy sẽ khảo sát một cách có hệ thống,
những cách tân của thơ Xuân Diệu giai đoạn này. Trên cơ sở đó xác lập kiểu
tư duy nghệ thuật của thơ ông, xác định những đóng góp của thơ Xuân Diệu
giai đoạn này trong quá trình cách tân thơ Việt Nam hiện đại.
2. Xuân Diệu là một nhà thơ được nghiên cứu từ rất sớm. Khi ông chưa
kịp thành tác giả đã có những bài viết, những ý kiến khen chê khác nhau về
ông. Có thể chia quá trình nghiên cứu về Xuân Diệu thành các giai đoạn
chính như sau:
Thứ nhất, những ý kiến về Xuân Diệu trước 1945
Thứ hai, những ý kiến về Xuân Diệu từ 1945-1985
Thứ ba, những ý kiến về Xuân Diệu từ 1985 đến nay.
2.1 Trước năm 1945.
Khi Xuân Diệu vừa mới xuất hiện (Bài thơ đầu tiên của Xuân Diệu đăng
báo là bài Với bàn tay ấy, 1935) thì gần như ngay đồng thời đã có ý kiến đánh
giá về thơ ông. Người ta khen ông cũng nhiều và chê ông cũng không ít.
Mùa xuân 1937 trên báo Ngày nay số 46 (số Tết) Thế Lữ đã có bài giới
thiệu Xuân Diệu với lời lẽ rất trân trọng. Ông cho rằng cái “Thiên tài khép nép“
của Xuân Diệu hồi nào giờ đây đã thực sự nảy nở với những “mầm đậm đà“,
những “ánh sán lạn“. Ông cho là “Một thi sĩ mới đã xuất hiện“. Ông gọi đó là
“Thi sĩ của tuổi xuân, của lòng yêu và ánh sáng“ (141). Kể ra đánh giá một tài
thơ 21 tuổi, với chỉ qua một số bài thơ đăng báo như thế là rất cao. Nhưng
quả là Thế Lữ đã tinh nhạy và công bằng. Tháng năm trôi qua đã xác nhận
những điều ông viết về Xuân Diệu là đúng.
Rồi chỉ mấy năm sau, năm 1941, Hoài Thanh đã đưa Xuân Diệu vào
Thi nhân Việt Nam với tư cách là một tác giả chủ chốt và với lời đánh giá rất
trân trọng, mặc dù lúc này Xuân Diệu chỉ mới xuất bản tập thơ Thơ (1938).
Hoài Thanh cho rằng “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới“.
Cái mới của Xuân Diệu theo nhà nghiên cứu là “một nguồn sống rào rạt chưa
từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này“, là ở “những rung động tinh vi”, ở
những câu văn “không thể đi theo những đường có sẵn” (210; tr.116 và 119).
Một năm sau đó, 1942, Vũ Ngọc Phan lại đưa Xuân Diệu vào Nhà văn
hiện đại với lời đánh giá không kém phần rực rỡ: “Xuân Diệu là người đem
đến cho thơ ca Việt Nam nhiều cái mới nhất“. Theo ông những cái mới đáng
chú ý ở Xuân Diệu là “Những nguồn hứng và ý tưởng rất mới“. Và ông cho
rằng còn phải chú ý những chữ, những câu, những điệu trong những bài thơ
ấy để hiểu lấy “cái nhạc điệu mới nữa“ (182; tr.715, 716).
Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn sử học yếu (1942), cũng đánh
giá cao Xuân Diệu. Trong mục thứ 6, thiên thứ 5 Các nhà Thơ mới ông chỉ
chọn viết riêng về ba nhà thơ là: Hàn Mặc Tử, Thế Lữ và Xuân Diệu. Trong
phần viết về Xuân Diệu dù chưa đầy hai trang sách, tác giả đã chỉ ra một số
nét đáng chú ý của Xuân Diệu. Theo ông thơ Xuân Diệu là thơ của “Một tâm
hồn đầy thơ mộng“, “Khao khát yêu thương“, “Hay tả những cảnh gây nên sự
mơ màng“, “Chứa chan tình cảm lãng mạn trong đó có nhiều từ mới lạ“.
Nhưng cũng theo nhà nghiên cứu thì Xuân Diệu “Cũng có nhiều câu vụng về,
non nớt, chứng rằng tác giả chưa lão luyện về kĩ thuật của nghề thơ“ (73; tr.
441, 442).
Tuy nhiên bên cạnh nhiều ý kiến khẳng định cái mới của Xuân Diệu
cũng không ít ý kiến chê bai, bài bác ông. Chẳng hạn, Thái Phỉ trong một bài
đăng trên báo Tin Văn xuất bản ở Hà Nội đã mạt sát Xuân Diệu không tiếc lời.
Ông viết: “Chẳng hạn như thơ của Xuân Diệu, ông này được coi như là một
tay kiện tướng của phong trào này (Thơ mới - LTD), thơ của ông ta được kể
là khá nhất đám nhưng chẳng ra gì. Thơ với thẩn, đọc qua nhiều bài của ông
chúng ta phải bắt cười vì thơ thì chẳng ra thơ, Tây cũng chẳng phải Tây, mà
Tàu lại cũng chẳng phải là Tàu“ (134; quyển thượng; tr.616). Theo Thái Phỉ
đọc những bài như Tương tư chiều, Hoa đêm của Xuân Diệu “Không tìm
được một chút cảm hứng nào cả“. Và theo ông “Một khi thơ không còn gây
được cảm hứng thì tốt hơn là đừng làm thơ. Nếu làm thơ thì phải có hồn và
điệu, thế thì mới đáng gọi là thơ“ (134; quyển thượng; tr. 619).
2.2. Từ 1945 - 1985
Sau cách mạng tháng Tám có giai đoạn do những điều kiện lịch sử
nhất định, Thơ mới ít được nghiên cứu rộng rãi, thậm chí có lúc còn bị phê
phán nặng nề. Thơ Xuận Diệu cũng không nằm ngoài tình trạng này. Có lúc
chính Xuân Diệu cũng đã phải tự phủ nhận mình như trong bài Dứt khoát mà
ông đã cho đăng trên Tạp chí Văn nghệ số 41 năm 1953. Nhưng nói như Lê
Đình Kỵ, đó chẳng qua là “Gặp thời thế, thế thời phải thế”.
Thơ mới nói chung, thơ Xuân Diệu nói riêng do vậy chủ yếu chỉ được
đề cập đến trong những công trình có tính chất học thuật như các bộ lịch sử
văn học, các giáo trình đại học, các chuyên luận khoa học…
Trước hết đáng chú ý là các giáo trình đại học.
Trong giáo trình Văn học Việt Nam 1930 - 1945; 2 tập (1961), của
trường Đại học Tông hợp Hà Nội, do Bạch Năng Thi và Phan Cư Đệ biên
soạn thì Xuân Diệu được đề cập đến như là một tác giả tiêu biểu của văn học
lãng mạn giai đoạn 1936 - 1939. Trong sách này, Thơ thơ của Xuân Diệu
được viết thành một mục riêng. Bạch Năng Thi nhận xét: Thơ thơ có đem đến
cho thi ca Việt Nam nhiều cái mới: hình ảnh, táo bạo, chữ dùng cụ tượng, có
sức mạnh gợi hình, gợi cảm dễ diễn đạt những cảm giác tinh vi, những tình ý
nồng nàn, rất mới hồi ấy. Bút pháp của Xuân Diệu táo bạo đến nỗi ở thời gian
đầu, người ta chỉ trích rất nhiều“ (216; tập I; tr.157). Tuy nhiên do khuôn khổ
của một giáo trình đại học, nhà nghiên cứu chưa đi sau phân tích một cách cụ
thể những cái mới đó.
Trong bộ giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam của Đại học Sư phạm,
giai đoạn 1930 - 1945 được viết thành một tập riêng gồm 2 cuốn (tập V). Ở
sách này Nguyễn Hoành Khung đã dành một tiết riêng viết về Xuân Diệu (hơn
5 trang in) với những đánh giá một cách toàn diện. Ở đây nhà nghiên cứu chủ
yếu đi vào phân tích những đặc điểm chung của thơ Xuân Diệu như “Sức hấp
dẫn của thơ Xuân Diệu trước hết là ở chủ nghĩa ái tình“ (Tr. 124) “Thơ Xuân
Diệu mang cái buồn vô cớ“, “Tâm trạng cô đơn trong thơ Xuân Diệu đã trở
thành một cảm giác nhục thể, rất trực tiếp thấm thía“ (Tr.127). Về nghệ thuật,
do tính chất của một giáo trình nên nhà nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở những
nhận xét chung như cho Xuân Diệu “Có nhiều tìm tòi, đổi mới và một phong
cách hấp dẫn độc đáo. Cái nổi bật trong phong cách đó là một cảm hứng
mãnh liệt chân thành. Nhiều bài thơ của Xuân Diệu có mạch thơ cuồn cuộn,
khai triển vô tận một tứ thơ mới mẻ, với một ngôn ngữ táo bạo, nhạc điệu sôi
nổi, thích hợp, tạo nên một âm hưởng nhất quán có sức truyền cảm trực tiếp“
(Tr.129). Nguyễn Hoành Khung cũng cho rằng do ảnh hưởng của thơ tượng
trưng Pháp, Xuân Diệu đặc biệt đi sâu vào cái “huyền diệu bên trong“ của con
người, cảnh vật “Xuân Diệu có những cảm thụ tinh vi về những trạng thái mơ
hồ, mong manh của âm thanh, màu sắc, tình cảm“ (145; tr.130).
Một công trình phải kể đến nữa là Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam
1930 - 1945 của Viện Văn học (1964). Ở công trình này trong mục “Một số
nhà thơ mới tiêu biểu“ của giai đoạn Văn học thời kì Mặt trận dân chủ, Xuân
Diệu được nhắc đến cùng với Chế Lan Viên, Huy Cận, Nguyễn Bính, Anh
Thơ… Tuy nhiên trong phạm vi hơn một trang in các tác giả của công trình
này cũng chỉ dừng lại ở việc nêu lên một số nhận xét chung như cho rằng
Xuân Diệu là “một tâm hồn nhạy bén và giàu mơ mộng”; “có một niềm đau xót
nhất định đối với cuộc sống của những người xấu số”; “nhà thơ muốn sống và
ham sống nhưng chưa tìm được con đường sống sáng sủa” (255; tr.1 56,157)
…Còn những đổi mới của thơ Xuân Diệu giai đoạn này, các tác giả của công
trình hầu như không đề cập đến.
Trong giai đoạn trước 1975, nhiều công trình của các nhà nghiên cứu
miền Nam cũng đề cập đến Xuân Diệu. Ở đây chỉ xin lược thuật một số.
Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ
(1965) Xuân Diệu là một trong năm tác giả của Thơ mới được viết thành mục
riêng (Cùng với Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Tú Mỡ). Trong phần viết về
Xuân Diệu, Phạm Thế Ngũ cho rằng Xuân Diệu đã “Tạo ra một hướng thơ
thật là mới, có thể gọi là thơ nội quan. Thi sĩ lấy chính cái nội tâm của mình
làm đề tài“ (170; tr.572). Theo nhà nghiên cứu, cái mới của Xuân Diệu không
phải ở thể cách mà ở ngôn ngữ: “Xuân Diệu đa nói một ngôn ngữ phá vỡ
những lề thói về trước, gây sửng sốt, gây bất bình nữa” (170; tr.574).
Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam (1967) khi viết về
các nhà Thơ mới giai đoạn sau 1932 đã chọn ba nhà thơ tiêu biểu viết thành
mục riêng là: Xuân Diệu, Thế Lữ và Hàn Mặc Tử. Trong hơn một trang in viết
về Xuân Diệu, ông khẳng địng rằng “Xuân Diệu sống bằng cái mới, say sưa đi
tìm cái mới. Bởi thế sau khi thích Lamartine, Xuân Diệu lại yêu Verlaine, yêu
Rimbaud và tự khuôn nắn nghệ thuật của ông theo các thi nhân tượng trưng
Pháp. Ông yêu thích những hình ảnh lạ lùng, những hình ảnh đã được tạo ra
do sự phối hợp mới mẻ và đột ngột giũa những hiện tượng bề ngoài xem ra
đối lập, nguyền rủa nhau.
Văn Xuân Diệu vì thế, có tính cao quí, nhưng mơ hồ và phảng phất.
Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (121; tr.805).
Nguyễn Tấn Long - Nguyễn Hữu Trọng trong Việt Nam thi nhân tiền
chiến (1968) cũng đã dành cho Xuân Diệu khá nhiều trang in của sách này.
Chỉ tiếc rằng với gần bốn mươi trang in hai ông chủ yếu nói về nội dung thơ
Xuân Diệu mà không đề cập gì đen những cách tân nghệ thuật của nhà thơ
(xem 134; quyển thượng; tr.611-648).
Sau ngày giải phóng miền Nam (1975) cho đến trước khi Xuân Diệu
mất (1985), có một số bài viết có tính chất tổng kết về sự nghiệp văn học của
ông. Đáng chú ý là các tiểu luận của Hà Minh Đức, Hoàng Trung Thông, Mã
Giang Lân, Nguyễn Đăng Mạnh. vv…
Ở tiểu luận Xuân Diệu trong Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975, tập I,
(1979) với hơn 30 trang in Hà Minh Đức chủ yếu viết về sự nghiệp của ông từ
sau cách mạng. Phần sáng tác trước cách mạng không được đề cập đến,
nếu có chỉ là những liên hệ có tính chất tạt ngang (59; tr.591-621).
Hoàng Trung Thông trong Lời giới thiệu Tuyển tập Xuân Diệu (1983) đã
dành gần 60 trang in tổng kết sự nghiệp văn học của ông. Tuy không có phần
viết riêng về nghệ thuật thơ Xuân Diệu trước cách mạng, nhưng ông cũng có
nhận xét đáng chú ý. Ông cho rằng Xuân Diệu “Say mà không đắm, mơ mà
không màng. Dẫu có thoát li thực tế nhưng anh (Xuân Diệu - LTD) không đi
vào siêu hình. Anh thiên về cảm xúc, cảm tính nên cũng có nhà phê bình cho
anh là duy giác chủ nghĩa (Sensualisme). Nhưng nếu như cảm giác là bắt
nguồn cho thơ, thì Xuân Diệu rất tinh tế về cảm giác; mà thơ anh vươn lên
tình cảm trí tuệ, mặc dù tính cảm giác ở thơ anh rất đậm“ (257; tr.54).
Mã Giang Lân trong bài viết Xuân Diệu sách Tác gia thơ Việt Nam
(1984) có nói đến cách tân nghệ thuật của Xuân Diệu. Theo ông “Nét nổi bật
xuyên suốt cả thời kì sáng tạo đó là tiếng nói sôi nổi thiết tha bộc trực, trẻ
trung, một năng lực cảm thụ tinh tế, dồi dào“. Và một nét nữa là “Phong cách
thơ Xuân Diệu giàu hương vị cuộc đời gây tác động mạnh bằng cảm giác“
(123; tr.118,119). Tuy nhiên do là một bài viết có tính chất chân dung, nên tác
giả chưa kịp luận giải một cách đầy đủ nhận xét trên.
2.3. Từ 1985 đến nay
Sau ngày Xuân Diệu mất (12-1985) cũng là giai đoạn đổi mới văn học
nên việc nghiên cứu Xuân Diệu được tâp trung chú ý nhiều hơn. Một loạt các
sách chuyên khảo về Xuân Diệu đã liên tiếp được xuất bản như Xuân Diệu,
nhà thơ lớn của dân tộc, Thu Hoài - Nguyễn Đức Quyền biên soạn, Hội Văn
học Nghệ thuật Nghĩa Bình xuất bản, 1986; Xuân Diệu, con người và tác
phẩm, Hữu Nhuận biên soạn, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987; Xuân Diệu
một đời người, một đời thơ, Lê Tiến Dũng biên soạn, NXB Giáo dục, 1993;
Xuân Diệu, thơ và đời Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, NXB Văn học, 1995; Xuân
Diệu tình đời và sự nghiệp, Xuân Tùng sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn, NXB
Hội Nhà văn, 1996,vv… Bên cạnh đó còn hàng chục bài nghiên cứu, hồi ức,
kỉ niệm về Xuân Diệu của các nhà thơ, nhà nghiên cứu như: Nam Chi, Huy
Cận, Hoàng Cát, Phan Huy Dũng, Lê Tiến Dũng, Hà Minh Đức, Nguyễn Lệ
Hà, Tế Hanh, Đoàn Thị Đặng Hương, Đoàn Trong Huy, Lê Quang Hưng, Lê
Đình Kỵ, Mã Giang Lân, Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh, Vũ Quần
Phương, Lữ Huy Nguyên, Trần Đình Sử, Lưu Khánh Thơ, Lí Hoài Thu, Đỗ Lai
Thúy, Nguyễn Quốc Túy.v.v…
Tuy nhiên do những yêu cầu khác nhau, không phải bài viết nào cũng
đề cập đến cách tân nghệ thuật của tư duy thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932 -
1945. Ở đây có một số bài đáng chú ý:
Nguyễn Đăng Mạnh trong tiểu luận Tư tưởng và phong cách một nhà
thơ lớn (1987) đã tổng kết những đặc điểm tư tưởng và phong cách nghệ
thuật của Xuân Diệu trong toàn bộ sáng tác của ông. Riêng thời kì trước 1945
nhà nghiên cứu cũng cho rằng Xuân Diệu có cái nhìn mới. Theo ông, một đặc
điểm độc đáo của thi pháp Xuân Diệu là lấy “Vẻ đẹp của con người làm chuẩn
mực cho vẻ đẹp của thế giới, của vũ trụ“. Và ông cho rằng nguyên tắc mĩ học
này “là cả một cuộc đổi mới đáng kể trong thi ca Việt Nam hiện đại“ (155;
tr.106).
Lê Đình Kỵ trong bài viết Xuân Diệu sách Thơ mới, những bước thăng
trầm (1988) cũng đã chỉ ra nhiều cách tân tư duy thơ quan trọng của Xuân
Diệu. Ông cho rằng Xuân Diệu mới ở tư duy, mới ở cảm xúc và mới ở cả
ngôn ngữ. Và ông khẳng định cho đến bây giờ “Xuân Diệu vẫn còn là mới và
rất sáng tạo, chẳng trách mà đương thời có người chê Xuân Diệu là Tây, là
lai căng, mất gốc” (1 17; tr.202, 205).
Đỗ Lai Thúy trong bài Xuân Diệu, nỗi ám ảnh thời gian (1992) thì cho
rằng “thời gian không chỉ là cảm xúc, là thi hứng, mà còn là nhân tố kiến trúc
của tác phẩm nghệ thuật” theo tác giả “Xuân Diệu nhìn đời bằng con mắt thời
gian; “chất Xuân Diệu“, phong cách thơ ông là ở đó” (236; tr.51).
Trong Thơ mới, bình minh thơ Việt Nam hiện đại (1994), Nguyễn Quốc
Túy đã dành chương X viết về những đổi mới của Xuân Diệu. Tác giả cho
rằng “Trữ tình cảm xúc, tràn đầy cảm giác, luôn luôn thức nhọn giác quan“ là
nét riêng và mới của Xuân Diệu. Tuy vậy, nét mới này theo tác giả không chỉ
ở Xuân Diệu mà còn ở nhiều người khác. Có điều ở Xuân Diệu “nổi bật lên“
thể hiện ở cả hai phương diện: chất thơ và ngôn ngữ“ (260; tr.120). Ở
phương diện chất thơ nét riêng này theo tác giả là Xuân Diệu sáng tạo ra
“một thế giới nghệ thuật riêng: tràn đầy cảm xúc, cảm giác“. Ở phương diện
ngôn ngữ thơ nét riêng này được biểu hiện ở chỗ “Nhà thơ dùng rất nhiều lần
các từ biểu hiện cảm xúc, cảm giác như “run”, “rợn”, “nức” vv… (260; tr.122).
Ở một phía khác Lý Hoài Thu trong Thế giới không gian nghệ thuật của
Xuân Diệu qua “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió” (1996) lại cho rằng khảo
sát quá trình sáng tác của Xuân Diệu “Người ta dễ dàng tìm thấy những điểm
tương đồng đối xứng giữa hai trục thời gian và không gian trên đồ thị vận
động của hình tượng thơ“ (235; tr.41).
Lưu Khánh Thơ trong một loạt các bài viết về thơ tình Xuân Diệu đã đề
cập đến những đổi mới của ông. Tác giả tập trung vào việc phân tích cái mới
của cái tôi trữ tình và câu tứ của Xuân Diệu trong thơ tình. Trong bài Cái tôi
trữ tình và phương thức biểu hiện cái tôi tình yêu trong thơ Xuân Diệu trước
cách mạng (1994), tác giả cho rằng cái tôi trữ tình của Xuân Diệu xuất hiện
dưới các dạng như: “nhập thân vào đối tượng phản ánh“, “được biến hóa qua
nhiều hình ảnh“ và “đồng nhất với thiên nhiên“ (232; tr.24,25,27). Trong bài
Nghệ thuật cấu tứ trong thơ tình Xuân Diệu (1994), tác giả cho rằng có những
bài “tứ thơ được định hình ngay từ đầu“, có bài “tứ thơ bộc lộ ở phần kết“, lại
có những bài có “tứ ngầm không bộc lộ trong bài“ (231; tr.35,36).v.v…
Có thể nhận xét một cách khái quát là việc nghiên cứu những cách tân
của Xuân Diệu đã được đặt ra từ rất sớm. Từ gần 60 năm nay các thế hệ
nghiên cứu đã đưa ra nhiều kiến giải có giá trị. Những cách tân của thơ Xuân
Diệu đã được soi rọi dưới nhiều góc độ: cái mới về nội dung, cái mới về nghệ
thuật, cái mới về cảm xúc, về hình thức biểu hiện…; từ nhiều cách tiếp cận:
lịch sử - miêu tả, thi pháp học, phong cách học, v.v…
Tuy nhiên trên bình diện tư duy nghệ thuật thơ còn ít công trình đề cập,
do việc nghiên cứu của các công trình vừa kể có mục đích khác. Những ý
kiến có đề cập chủ yếu cũng dừng ở những nhận định khái quát, gợi mở
những cách tiếp cận nhiều hơn là lí giải, phân tích một cách cụ thể. Do vậy
chuyên luận sẽ cố gắng đưa ra một cách nhìn toàn diện về tư duy nghệ thuật
thơ của Xuân Diệu giai đoạn trước 1945. Những ý kiến của các thế hệ đi
trước sẽ được kế thừa, bổ sung và tham khảo trong chuyên luận.
3. Đối tượng khoa học mà chuyên luận đề cập đến chính là đặc điểm
của tư duy nghệ thuật thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932 - 1945. Từ đó có thể
thấy được sự vận động của tư duy nghệ thuật thơ Xuân Diệu trong quá tình
cách tân thơ Việt Nam hiện đại. Chuyên luận ít nhiều có đề cập đến những
vấn đề nội dung của thơ Xuân Diệu, nhưng chủ yếu là để làm rõ cách tư duy
nghệ thuật của ông về nội dung, chứ không đi sâu phân tích nội dung cụ thể.
Ở đây chủ yếu sẽ nghiên cứu cách thức, phương thức thể hiện, các cách
thức, phương thức chiếm lĩnh hiện thực của nhà thơ.
Với một đối tượng khoa học như vậy, đối tượng tác phẩm khảo sát sẽ
gồm hai tập thơ của ông đã xuất bản trong giai đoạn này là Thơ thơ, NXB Đời
nay, 1938 và Gửi hương cho gió NXB Thời đại, 1945. Về văn bản, chúng tôi
dựa vào văn bản xuất bản lần đầu, khi thật cần thiết mới dựa vào các văn bản
xuất bản về sau của hai tập thơ này.
Để có cái nhìn tổng quát hơn, ở một số phần chúng tôi khảo sát thêm
những tác phẩm của tác giả cùng thời, trước và sau ông. Đồng thời cũng mở
rộng ra phạm vi tác phẩm của ông ở các giai đoạn khác.
Chuyên luận ngoài phần mở đầu va kết luận có ba chương chính.
Chương một: Những đổi mới của Xuân Diệu giai đoạn 1932 - 1945
trên bình diện quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người.
Chương hai: Những cách tân của Xuân Diệu giai đoạn 1932 - 1945
trên bình diện nội dung trữ tình và phương thức trữ tình.
Chương ba: Những cách tân của Xuân Diệu giai đoạn 1932 - 1945 trên
bình diện thể thơ và ngôn ngữ thơ.
Chuyên luận đã được GS. Hoàng Như Mai, GS. Lê Đình Kỵ, GS.
Nguyễn Đăng Mạnh, GS. Hà Minh Đức, GS.TS Nguyễn Văn Hạnh, GS.
Phong Lê, GS. Nguyễn Đình Chú, GS. Lương Duy Thứ, GS.TSKH Lê Ngọc
Trà, PGS. Nguyễn Lộc, PGS. Trần Thanh Đạm, PGS. Mai Cao Chương,
PGS. Lương Duy Trung, PGS. TS Trần Hữu Tá, GS. TS Trần Đăng Xuyền,
PGS.TSKH Bùi Mạnh Nhị, TS Huỳnh Vân, PGS.TS. Huỳnh Như Phương,
PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân, PGS.TS. Nguyễn Phong Nam, TS. Tôn
Thất Dụng, TS. Hoàng Đức Khoa… và nhiều nhà nghiên cứu, đồng nghiệp,
bạn bè đọc và góp ý. Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, chúng tôi xin trân
trọng cám ơn.
Chương 1. NHỮNG ĐỔI MỚI CỦA XUÂN DIỆU GIAI ĐOẠN 1932-1945 TRÊN BÌNH DIỆN QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ THẾ GIỚI VÀ CON NGƯỜI.
Khi nghiên cứu sự đổi mới của một thời đại văn học hay của một tác
giả không thể không xem xét đến quan niệm nghệ thuật của tác giả đó, thời
đại đó về thế giới và con người. Bởi lẽ, nhà văn quan niệm về thế giới và con
người như thế nào thì sẽ miêu tả như thế. Có đổi mới về quan niệm nghệ
thuật thì mới có sự đổi mới trên các bình diện khác. Nghiên cứu thơ Xuân
Diệu trong tiến trình hiện đại hóa thơ Việt Nam cũng không nằm ngoài quy
luật này.
Quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người của nhà văn theo
chúng tôi thực chất là cái nhìn của nhà văn về thế giới và con người. Mỗi nhà
văn sẽ có một cái nhìn thế giới khác nhau và do đó sẽ có một thế giới nghệ
thuật khác nhau. Do vậy, nghiên cứu quan niệm nghệ thuật sẽ chỉ ra được
chiều sâu của thế giới và con người mà nhà văn thể hiện trong tác phẩm. Nói
cách khác, nắm được quan niệm nghệ thuật cũng có nghĩa là nắm được
chiều sâu và giới hạn thực tế của tư duy nghệ thuật của một hiện tượng văn
học nào đó. Từ đây có thể giúp để giải thích các nguyên tắc nghệ thuật của
một hiện tượng văn học. Nhờ đó mà có thể thấy được những cách tân của
hiện tượng văn học đó trong tiến trình lịch sử văn học.
Vấn đề đặt ra ở đây là trong tiến trình hiện đại hóa thơ Việt Nam, quan
niệm nghệ thuật của Xuân Diệu có những đặc điểm gì và đã có những biến
đổi như thế nào so với thơ ca trước đó và đương thời?
Đã có một vài ý kiến đây đó đề cập đến quan niệm nghệ thuật của
Xuân Diệu trong giai đoạn này. Những ý kiến đó thường rút gọn quan niệm
nghệ thuật của ông thânh quan niệm nghệ thuật về con người. Từ đó cho
rằng quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ ông là con người cô đơn,
con người mộng tưởng, con người chân thành, con người khát khao sống
v.v… Thật ra đó là những đặc điểm của nhân vật trữ tình trong thơ Xuân Diệu
hơn là quan niệm nghệ thuật, nghĩa là hệ quả chứ chưa phải là bản thân của
quan niệm nghệ thuật.
Nghiên cứu quan niệm nghệ thuật của Xuân Diệu nghĩa là phải nghiên
cứu cái nhìn, cách cắt nghĩa của ông về thế giới và con người. Tất nhiên,
cách cắt nghĩa này không phải la những định đề lí luận, mà phải toát lên ở hệ
thống hình tượng mà nhà thơ miêu tả, ở lí tưởng thẩm mĩ mà nhà thơ hướng
đến, ở khát vọng mà nhà thơ bày tỏ.
Chúng tôi cho rằng quan niệm nghệ thuật của Xuân Diệu giai đoạn
1932-1945 đã có những thay đổi căn bản so với thơ ca trước đó va có những
biến đổi so với thơ ca đương thời. Những thay đổi đó đã tạo nên những nét
đặc sắc riêng trong thơ ông giai đoạn này.
1. Quan niệm thế giới đổi thayCon người là trung tâm của thế giới nhưng con người tồn tại trong thế
giới nào? Theo Xuân Diệu đó là một thế giới đầy biến dời, đổi thay. Đây cũng
chính là quan niệm nghệ thuật đáng chú ý trong thơ ông.
Trong thơ cổ điển, nhà thơ nhìn thế giới trong sự vĩnh hằng của nó.
Trong thế giới đó, có thay đổi, có vận động nhưng là đổi thay, vận động trong
sự vĩnh hằng của muôn đời, trong nhịp điệu đều đặn của thời gian. Hết xuân
sang hạ, hết hạ sang thu, hết thu sang đông, cứ thế lặp lại một cách tuần
hoàn. Nhà thơ bằng lòng với việc của “muôn đời”. Người ta nói đến “trăm năm
trong cõi người ta” (Truyện Kiều - Nguyễn Du), “nghìn năm mây trắng bây giờ
còn bay” (Hoàng hạc lâu - Thôi Hiệu)… Người ta có thể nói đến một “thế sự
du du”, một thiên địa “vô cùng” (Y câu thơ Đặng Dung: Thế sự du du nại lão
hà, Vô cùng thiên địa nhập hàm ca - Cảm hoài), thậm chí có thể khẳng định
“hoa đào năm ngoái còn cười gíó đông” (Truyện Kiều - Nguyễn Du) v.v…
Trong cái thế giới vĩnh hằng đó người đọc nhận ra tâm thế ung dung tự tại
của thi nhân trước mọi biến dời của thế sự trước mắt.
Trong thơ Xuân Diệu vẫn còn bóng dáng của cách nhìn này. Đây đó
trong thơ ông, người đọc vẫn nhận ra những “ham muốn vô biên và tuyệt
đích”, những hình bóng của muôn đời “Trăng vú mộng đã muôn đời thi sĩ”,
những khát vọng của ngàn năm: “Hôm nay tôi đã chết trong người, Xưa hẹn
ngàn năm yêu mến tôi”…
Nhưng có lẽ nhiều hơn, cái nhìn của Xuân Diệu là một cái nhìn nghiêng
về quan niệm thế giới đổi thay. Trong quan niệm của ông hình như không có
gì là vĩnh cửu mà tất cả điều có thể biến dời, từ thiên nhiên cho đến lòng
người; từ cỏ hoa cho đến tình yêu. Trong bài thơ Đi thuyền ông ví cuộc đời
này cũng giống như con thuyền đang trôi, mọi vật đổi thay đến không ngờ:
Thuyền qua, mà nước cũng trôi,
Lại thêm mây bạc trên trời cũng bay;
Tôi đi trên chiếc thuyền này
Giòng mơ tơ tưởng cũng thay khác rồi.
Cái bay không đợi cái trôi;
Từ tôi phút trước, sang tôi phút này…
Đi thuyền
Những cái thuộc về thế giới khách thể đổi thay trong dòng tuôn chảy
của thời gian: “thuyền qua”, mà “nước cũng trôi”, lại thêm mây bạc trên trời
“cũng bay”. Những cái thuộc về chủ thể cũng không đứng yên “Giòng mơ tơ
tưởng cũng thay khác rồi”. “Cái bay”, “cái trôi” là nh ững phạm vi vận động
khác nhau, vận động theo quy luật tất yếu, chứ không phụ thuộc vào cái này
hay cái kia. Hình tượng “tôi phút trước” và “tôi phút này” không phải chỉ là sự
phân thân, mà ẩn chứa quan niệm đầy tính chất triết học về đổi thay: có “tôi
phút trước”, có “tôi phút này“ như những chủ thể độc lập. Bài thơ Đi thuyền
tuy ngắn, nhưng đã hàm chứa khá đầy đủ ý vị triết học trong quan niệm đổi
thay của Xuân Diệu.
Từ cái nhìn đầy tính chất triết học như vậy, cái nhìn nghệ thuật của
Xuân Diệu sẽ hướng nhiều hơn đến khía cạnh đổi thay của thế giới. Đó sẽ là
những hình tượng thơ được xây dựng từ cảm xúc về sự biến dời của thế giới,
của con người.
Ông cay đắng nhận ra sự đổi thay nơi tuổi trẻ:
Tóc ngời mai mốt không đen nữa
Tuổi trẻ khô đi, mặt xấu rồi.
Hư vô
Ông ngẩn ngơ trước sự thay đổi của một sắc hoa:
Mùa cúc năm nay sắc đã già
Ai tìm ta hộ dáng thu qua
Ngẩn ngơ
Ông nhận ra thiêng liêng như tình yêu mà cũng thay đổi đến không
ngờ:
Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết
Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt
Giục giã
Và ông sợ cả lòng mình không vĩnh viễn trước thời gian:
Gấp đi em anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn
Giục giã
Xuân Diệu sợ cả “Sự thật ngày nay không thật đến ngày mai” (Phải
nói). Sự đổi thay với ông có khi chỉ là trong chớp mắt:
Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh
Quay mặt lại: cả lầu chiều đã vỡ
Giục giã
Với cái nhìn này Xuân Diệu nhận ra mọi cái tươi xanh mơn mởn của
cuộc đời chẳng mấy chốc mà tàn tạ, mà khô héo. Ông nhận ra trong tiếng
chim “reo thi” kia có “độ phai tàn sắp sửa“, trong cái tươi xanh của mùa xuân
kia đã ẩn chứa sự “nhạt màu“, “phai bông“, trong cái tươi trẻ của những “mái
xanh“ kia chẳng mấy chốc mà “sương đầy“… Không có gì đứng yên, không
có gì vĩnh viễn. Điệp khúc ấy vang lên trong thơ ông như một nỗi niềm, như
một lời nhắn nhủ: cái tươi xanh sẽ qua mau, cái tàn tạ, già nua là vĩnh viễn:
Vĩnh viễn già nua, xuân ngắn ngủi
Mái xanh hương đượm chốc sương đầy
Kẻ đi đày
Trước sự thật ấy, nhà thơ không còn cái cốt cách của những thi nhân
ngày xưa lúc nào cũng an nhiên, tự tại trước mọi biến dời nữa, mà phấp
phỏng lo âu, hốt hoảng vội vàng. Đúng như Hoài Thanh nhận xét: “Thi nhân
cơ hồ đã mất hết cái cốt cách hiên ngang ngày trước. Chữ ta với họ rộng quá.
Tâm hồn của họ chỉ vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi. Đừng có tìm ở họ cái
khí phách ngang tàng của một thi nhân đời xưa như Lí Thái Bạch, trong trời
đất chỉ biết có thơ. Đến chút lòng tự trọng cần để khinh cảnh cơ hàn, họ cũng
không có nữa: Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt - Cơm áo không đu a với khách
thơ. Không biết trong khi rên rỉ như thế, Xuân Diệu có nghĩ đến Nguyễn Công
Trứ, một người đồng quận chẳng những đã đùa cảnh nghèo mà còn lấy cảnh
nghèo làm vui“ (210; tr.53).
Một cái nhìn thế giới đầy đổi thay như vậy tất yếu sẽ dẫn đến hệ quả là
hốt hoảng, “vội vàng“ trong ứng xử. Thế giới đổi thay, đời người ngắn ngủi,
cho nên phải “vội vàng“. Hơn một lần Xuân Diệu đã giải thích điều này:
Men trời sực nức nên mau tạ
Biết trước cho nên đã “vội vàng“
Trò chuyện với Thơ thơ
Sự “biết trước“ mà nhà thơ nói ở đây là gì? Đó là “biết trước“ rằng “Tuổi
trẻ chẳng hai lần thắm lại” (Vội vàng), là “Mười chín tuổi chẳng hai lần hoa
nở” (Đẹp). Đó là sự “biết trước“ về một điều hiển nhiên: “Còn trời đất nhưng
chẳng còn tôi mãi” (Vội vàng)… Như vậy “vội vàng“ là “vội vàng“ của một
quan niệm, của một nhận th ức, chứ không phải vội vàng của một thái độ
“sống gấp” tiêu cực như có khi ngư ời ta đã gán cho ông.
Chính quan niệm này đã tạo nên những cảm giác đầy “vội vàng“ trong
thơ Xuân Diệu. Đọc thơ ông người ta nhận ra những trạng thái của vội vàng
như: “vội vội”, “mau mau”, “mau lên”, “gấp đi”, “vụt”, “liền”, “ngay”, “vừa”,
“chốc”… tràn ngập.
Mau với chứ vội vàng lên với chứ
Giục giã
Mau đi thôi! mùa chưa ngã chiều hôm
Vội vàng
Ôi vội vàng là những phút trao yêu
Tặng thơ
Chong chóng ngày thơ vụt đến xuân
Mau mau ngày mạnh yếu phai dần
Ngày già vội vội mang sương đến
Tuổi chết đây rồi! bóng lụt chân
Hư vô
Muốn gấp đi cho xương rờn tốc độ;
Cho văng xé tay chân, cho rã riêng đầu cổ
Mái chèo đập mau! ta thoát ngoài ta!
Chín con rồng! nổi gió để buồm xa!
Sầu
Ta hăng máu chạy tìm duyên trẻ mạnh
Tay thoắt mở đôi hồi nghe nẩy cánh
Mênh mông
Chèo năm tháng vội đưa ta tới bến
Để đến ngày thanh niên vội lên yên.
Thanh niên
v.v…
Xuân Diệu vội vàng yêu, vội vàng trao gửi để rồi cũng vội vàng đắng
cay:
Ta ngây thơ vội tưởng họ yêu mình
Ta dâng vội cả ân tình thứ nhất
Đương vương chủ ta bỗng thành hành khất
Chỉ vì nghe một lời hứa như chim
Yêu mến
Vì vội kiếm tìm nhau, tôi sẽ
Chỉ thấy người thương, nhưng chẳng thấy tình thương
Dối trá
Thơ Xuân Diệu ít khi bình yên, thư thái. Những phút giây thiêng liêng
của “những chiều không dám nói“, những khi thư thả đắm mình trong tiếng
nhạc tuyệt vời để nhận ra “Gió nhịp theo đêm không vội vàng“ thật hiếm hoi.
Mà ta thấy thơ ông lúc nào cũng gấp gáp, lúc nào cũng hối hả: “vội dâng”, “vội
tưởng”, “vội kiếm tìm”, “vội đưa”, “vội gặp”, “vội chia xa”, “vội cả buồn vui”
(Anh vui liền nhưng lại buồn ngay - Xa cách)… Cho đến cả con người, cả
cảnh vật trong thơ ông cũng mang trạng thái “vội vàng“ đó: “Anh sắp giận. Em
mim cười vội va” (Xa cách), “Gió vừa chạy, vừa rên, vừa tắt thở” (Tiếng gió),
“Thu sang chim trắng vội bay ngừa” (Lưu học sinh), “Mây biếc về đâu bay gấp
gấp” (Thơ duyên), “Lá úa cành khô vẫn rụng dồn” (Núi xa)… Trong thơ ông
không có gì đứng yên, không có gì không vội vã. Ông triết lí rằng ngọn núi
nhìn xa tưởng đứng yên như một miếng bìa, nhưng thật ra “núi không hề
đứng thản nhiên“. Con người, sự vật cũng vậy thôi, luôn luôn gấp gáp trong
vòng quay của cuộc đời:
Lẫn với đời quay tôi cứ đi
Người ngoài không thấu giữa lòng si
Cũng như xa quá nên ta chỉ
Thấy núi yên như một miếng bìa
Núi xa
2. Khẳng định hiện tại, khẳng định thực tạiÝ thức về sự đổi thay, không có gì là vĩnh viễn sẽ dẫn đến một quan
niệm khác trong thơ Xuân Diệu là khẳng định thực tại, khẳng định hiện tại.
Bởi lẽ mọi vật, mọi sự đều biến dời, thì cái thực tại và hiện tại có ý nghĩa nhất.
Mĩ học của chủ nghĩa lãng mạn nói chung là phủ nhận thực tại, phủ
nhận hiện tại để hoặc là quay về quá khứ, hoặc hướng đến tương lai, đem lý
tưởng đối lập với thực tại.
Văn học lãng mạn Việt Nam cũng như Thơ mới nói riêng không nằm
ngoài qui luật này. Với các nhà Thơ mới, thực tại mà họ đang sống, nói như
Vũ Hoàng Chương, là chẳng qua do “đầu thai nhầm thế kỉ“. Thi nhân muốn
trốn khỏi cái thực tại đó. Người ta trốn vào giấc mơ tiên, vào bóng giai nhân,
vào rượu, hay như Chế Lan Viên ước ao được nương vào “một tinh cầu giá
lạnh, một vì sao trơ trọi cuối trời xa” để “Nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh,
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo”. Cảm giác “lạc loài” hiện lên rất rõ
trong Thơ mới. Hiện tại thì bơ vơ, tương lai thì mơ hồ, nên đa phần họ quay
về quá khứ. Một cái “ngày xưa” mơ hồ nào đó đã được lí tưởng hóa, thơ
mộng hóa để trở thành nỗi mong ước khôn nguôi của thi nhân. Thế Lữ ví
mình như con hổ trong vườn bách thú “nhớ rừng” xưa. Vũ Đình Liên nhớ về
bóng dáng của những ông đồ viết câu đối Tết thủa nào với một niềm da diết:
“Những người muôn năm cũ - Hồn ở đâu bây giờ?”. Nguyễn Nhược Pháp có
hẳn cả một tập thơ lấy tên là Ngày xưa nhằm “làm sống lại cả một thời xưa”
với “màu sắc tươi vui, hình dáng ngộ nghĩnh” (Hoài Thanh). Còn Nguyễn Bính
thì van em “giữ nguyên quê mùa” như hôm qua, như thuở trước. Cả Xuân
Diệu trong văn xuôi cũng là một Xuân Diệu da diết với ngày xưa. Truyện cái
giường diễn tả một hoài vọng về quá khứ. Cái giường mong lửa hồng thiêu
mình để thành khói mà bay về rừng xưa…
Ấy thế mà trong thơ chúng ta lại có một Xuân Diệu khác, một Xuân
Diệu khát khao với hiện tại, với thực tại, dù đó là một hiện tại mong manh
“Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt”, một thực tại đầy trắc trở: “Chiều tứ bề
không phá nổi trùng vây”…
Trong thơ Xuân Diệu đôi lúc cũng nhớ về “ngày xưa”, cái “ngày xưa”
gắn với kỉ niệm như “Nguôi làm sao được buổi Thơ thơ” (Trò chuyện với Thơ
thơ), hay một cái “ngày xưa”, gắn với khung trời tuổi nhỏ mà bây giờ trở nên
da diết:
Cho ta xin, cho ta xin sắc đỏ,
Xin màu xanh về tô lại khung đời…
Trời ơi, trời ơi, đâu rồi tuổi nhỏ?
Hôm xưa đâu rồi, trời ơi! trời ơi!
Xuân đầu
Cũng có lúc ông đã từng “mơ xưa”, một cái “ngày xưa” phảng phất như
trong huyền thoại, trong cổ tích, trong một quá vãng xa xôi với “Những Chiêu
dương, những Hậu đình tráng lệ”, những “Cung nhà Tần trùng điệp mái lâm
li”, với những “gót sen vàng liễu yếu chạy về đâu?”, để tạo nên một nét u hoài
không dễ quên trong thơ mình:
Mà nhớ điều chi? hay nhớ ai?
Cũng không biết nữa - Nhớ nhung hoài!
Những trời xa lắm, xưa, xưa quá,
Đến nỗi trong lòng sắc đã phai.
Nhớ mông lung
Ai có nhớ những thời hương phảng phất
Hạc theo trăng, tiên còn lẫn với người;
Những thời xưa chim phượng xuống trần chơi,
Hoa cúc nở có người chờ đợi trước.
Mơ xưa
Những thoáng “mơ xưa” như thế không nhiều trong thơ Xuân Diệu.
Nhiều hơn, ông sống với “thì” hiện tại mà “ngày trước” với “mai sau” đều
không đáng kể:
Kể chi chuyện trước với ngày sau
Tình trai
Cần chi biết ngày mai hay bữa trước?
Gần hôm nay thì yêu dấu là nên.
…
Gặp nhau đây, ai biết tự thời nào;
Xa nhau nữa, ai đoán ngày tái hội!
Mời yêu
Ông chiêu hồn những năm tháng đã qua trở về với hiện tại:
Hỡi năm tháng vội đi làm quá khứ!
Trở về đây! và đem trở về đây
Rượu nơi mắt với khi nhìn ướm thử,
Gấm trong lòng và khi đứng chờ ngây.
Xuân đầu
Ông khấn nguyện cho tương lai đừng đến vội, thậm chí có khi ông còn
hoảng sợ trước tương lai:
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai
Giục giã
Nếu trong thơ các nhà thơ cách mạng giai đoạn này, “ngày mai” là ngày
của hi vọng, của tự do, hạnh phúc (Tiến lên mở một ngày mai - Ngày mai tươi
sáng cả trời Việt Nam - Nguyễn Văn Năng; Ngày mai bao lớp đời dơ, Sẽ tan
như đám mây mờ đêm nay - Tố Hữu v.v…) thì đối với Xuân Diệu “ngày mai”
là ngày của “độ phai tàn sắp sửa”, cho nên nhà thơ “sợ ngày mai”, ngày của
tàn héo nhạt phai:
Ngày mai nắng mọc mưa rơi hết
Mắt lặng cơn điên, lòng cạn hồ
Ta sẽ thôi yêu như đã dấu
Không hề oán giận lá khoai khô
Nước đổ lá khoai
Xuân Diệu say sưa với hiện tại. Ông đếm từng giây, từng phút của hiện
tại, vồ vập nó, hưởng thụ nó:
Em vui đi răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự
Giục giã
Với nhiều nhà thơ khác “tương lai là chuỗi huyệt chưa thành”, hiện tại
cũng chỉ là những nấm mồ chôn tuổi trẻ:
Và Hiện Tại, biết cùng chăng hỡi bạn,
Cũng đương chôn lặng lẽ chuỗi ngày xanh
CHẾ LAN VIÊN - Những nấm mồ
Đối với Xuân Diệu thì hiện tại là “phút huy hoàng“, là “giờ họp mặt“, là
“phút trao yêu“. Khổ đau, buồn vui của ông đều chìm đắm vào trong những
giây phút mong manh của hiện tại. Thậm chí ông còn rút gọn hiện tại vào
“phút”, “giây”, lấy phút giây làm đại lượng để đo đếm cảm xúc:
Một phút gặp thôi là muôn buổi nhớ
Vài giây trông khơi mối vạn ngày theo
Yêu mến
Nhịp nhàng mắt đẹp nhìn trong mắt
Một phút gần nhau hương thoảng đưa
Tình cờ
Chim giữa nắng sao mà kêu đến chói!
Ôi vô cùng trong một phút nhìn nhau!
Xuân đầu
Ôi ngắn ngủi là những giờ họp mặt!
Ôi vội vàng là những phút trao yêu!
Kỉ niệm
Giờ biệt li cứ đến gần từng phút
Chúng tôi đã thấy xa nhau một chút
Biệt li êm ái
Để dành một phút thương ai với
Ôi! biết bao nhiêu kẻ đợi chờ
Những kẻ đợi chờ
Say sưa với hiện tại thơ Xuân Diệu có khuynh hướng “vĩnh cửu hóa”
thời hiện tại, mong giữ tất cả lại đừng trôi đi. Ông đã tư ng thể hiện khát vọng
đó qua việc “muốn tắt nắng đi”, “muốn buộc gió lại” để tất cả nguyên vẹn trong
cái mơn mởn của sự sống thời hiện tại:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Vội vàng
Trong thơ Xuân Diệu người đọc nhận ra có cái cảm giác lúc nào cũng
“vội vàng” để tận hưởng hết thời hiện tại, lại có cái cảm giác mong mỏi hiện
tại đừng trôi đi. Một mặt nhà thơ giục giã “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ”
(Giục giã), một mặt khác lại thảng thốt “Sao mà vội và đi nhanh quá” (Trò
chuyện với Thơ thơ); một mặt “Chớ nên tiết kiệm hỡi em yêu, Ta được em
chăng lại mất liền” (Vô biên), mặt khác “Ôi vội vàng là những phút trao yêu”
(Kỉ niệm) v.v…
Bao nhiêu nhà thơ cùng thời với ông đã chối bỏ hiện tại để quay về với
những ngày xưa, bao nhiêu người lấy việc ra đi chối bỏ thực tại để làm cảm
hứng. Đúng như Hoàng Như Mai nhận xét: “Ở Thâm Tâm, Nguyễn Bính và ở
nhiều người khác nữa vang lên một điệp khúc Ra đi, Ta đi, Người đi… Đi, từ
chối; từ bỏ cái xã hội này, cái hiện tại này” (149; tr.71). Chỉ có ông là người
bám riết lấy hiện tại, bám riết lấy thực tại như một kẻ say đời. Ông là nhà thơ
của hiện tại, của trần gian, là con người “không muốn đi, mãi mãi ở vườn
trần” (Thanh niên) là kẻ quyết “Hai tay chín móng bám vào đời”. Đúng như
Thế Lữ đã nhận xét về ông: “Xuân Diệu là người của đời, một người ở giữa
loài người. Lầu thơ của ông xây trên đất của một tấm lòng trần gian: ông đã
không trốn tránh mà quyến luyến cõi đời” (142; bản in 1992; tr.9). Đây cũng
chính là một nét đáng chú ý nữa trong quan niệm nghệ thuật của Xuân Diệu ở
giai đoạn này.
3. Khẳng định cái đẹp tươi nguyên, mới mẻ, đầu tiênVới cái nhìn đầy lãng mạn, Xuân Diệu nhìn thấy vẻ đẹp của thế giới
tràn đầy nơi con người, nơi tạo vật, nơi cỏ hoa… Nhưng cái đẹp trong mắt
ông phải là cái tươi nguyên, mới mẻ, đầu tiên. Chính quan niệm này đã tạo
nên cái nhìn rất trẻ trung trong thơ ông.
Đọc thơ Xuân Diệu ng ười đọc ngạc nhiên sao mà ông hay nói đến
“Tình thứ nhất”, “Xuân đầu”, “Đêm thứ nhất” rồi những “thanh tân”, “trinh
bạch”, “trai tơ”, “mới nụ”, “ban sơ”… nhiều đến như thế? Đó không chỉ cách
nói mà biểu hiện của một quan niệm: những gì mới mẻ, nguyên vẹn mới đẹp.
Với ông, vẻ đẹp của cái thanh tân, trinh bạch, ban sơ có thể làm lu mờ cả trời
đất. Hãy nghe ông ca ngợi vẻ đẹp của “tình thứ nhất”:
Hoa thứ nhất có một mùi trinh bạch
Xuân đầu mùa trong sạch vẻ ban sơ
Hương mới thấm bền ghi như thiết thạch
Sương nguyên tiêu trời đất cũng chung mờ
Tình thứ nhất
Với ông trời đất có đẹp là ca i đẹp ở cái son sẻ, trẻ trung:
Son sẻ trời như mười sáu tuổi
Má hồng phơn phớt, mắt long lanh
Rạo rực
Xuân Diệu say sưa, ngây ngất với những vẻ đẹp ban đầu:
Sao buổi đầu xuân êm ái thế
Nụ cười xuân
Say người như rượu tối tân hôn
Huyền diệu
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Vội vàng
Mười chín tuổi mặt trời đang óng ả
Ánh sáng ca, lanh lảnh tiếng đời ngân;
Bông hạnh cười; mười chín tuổi thanh tân
Gánh nhẹ nhõm trên thân hình măng mọc
Đẹp
Trăng gió ban đầu dễ ngẩn ngơ
Trò chuyện với Thơ thơ
Điều đáng nói là có những cái không phải là “đầu tiên”, “thứ nhất”
nhưng khi cần ca ngợi ông đưa về ngôi thứ nhất cả: “Đêm thứ bảy cũng là
đêm thứ nhất” (Đêm thứ nhất). Ai cũng biết Xuân Diệu tự nhận mình là kẻ “dại
khờ”, “ngu ngơ”, “không biết gì”, “chỉ biết yêu nhiều” mà thôi. Thậm chí ông
còn tâm sự: “Mỗi lần đưa tay lên nén ngực, Lại nghe tình nhiều hơn số ngón
tay” (Thở than). Ông xem mình là người “Gặp kẻ nào đâu anh cũng mê”. Vậy
mà lúc nào ông cũng xưng xưng “Anh chỉ có tình yêu thứ nhất” (Tình thứ
nhất). Vì sao vậy? Vì tình thứ nhất mới đẹp. Đúng như ông đã giải thích:
Ta còn yêu dấu đến cùng hơi
Nhưng nghĩa đầu tiên chỉ một người
Chỉ một thơ đầu lông tuyết phủ,
Như đầu xuân chỉ một hoa tươi
Trò chuyện với Thơ thơ
Từ quan niệm nghệ thuật này chúng ta nhận thấy hình như “cây đàn
muôn điệu” của Thơ mới mà Thế Lữ nêu lên trước đó, đến Xuân Diệu đã bắt
đầu có giới hạn. Nhà thơ chỉ có thể rung động với những vẻ đẹp tươi nguyên,
mới mẻ, trẻ trung. Xuân Diệu hướng lòng mình ra với con người, cảnh vật thì
cũng sẽ lấy cái ban đầu, cái tươi nguyên để ca ngợi. Ông khoe “Thơ ta hơ hớ
chưa chồng” (Mùa thi). Ông bâng khuâng vì “Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu
thương” (Chiều). Ông ao ước: “Hái một mùa hoa lá thủa măng tơ” (Giục giã).
Ông tiếc cho sự già cỗi nhạt phai “Ta tiếc theo sau những đóa hồng, Những
nàng con gái sớm phai bông” (Ngẩn ngơ). Ông quyết trẻ mãi không già: “Họa
có ta còn quyết trẻ trai“ (Trò chuyện với Thơ thơ).
Xuân Diệu viết nhiều về mùa xuân và mùa thu. Vì sao? Bởi như ông
nói: “Với lòng tôi chỉ có hai mùa Xuân và Thu, hai mùa đặc biệt ý nhị, hai mùa
có bình minh… Xuân với Thu là hai bình minh trong một năm, sự thay đổi hệ
trọng nhất của tâm hồn. Và bởi vậy Thu cũng là một mùa xuân. Đầu Xuân là
bình minh ấm của lòng tôi, đầu Thu là bình minh mát của lòng tôi“ (Thu,
Trường ca). Như vậy, theo Xuân Diệu mùa thu cũng là sự bắt đầu, vì đó là
nơi bắt đầu bình minh mát của lòng người. Mà Xuân hay Thu, với Xuân Diệu
phải là khi bắt đầu mới đẹp. Đây mùa thu tới là một dẫn chứng.
Ở bài thơ này, Xuân Diệu tả mùa thu, nhưng không phải mùa thu chung
chung, mà chớm thu. Mọi tín hiệu thẩm mĩ của bài thơ đều gợi cho người đọc
không khí ngày mới bắt đầu thu. Ở mùa thu ấy” Hơn một loài hoa đã rụng
cành“ chứ không phải là tất cả, nghĩa là mới bắt đầu rơi rụng. Ở mùa thu ấy
“sắc đỏ” đang rũa dần sắc xanh chứ chưa phải là tất cả lá đỏ để chuyển sang
sắc vàng của rơi rụng. Ở mùa thu ấy cũng chỉ mới “Đội nhánh khô gầy xương
mỏng manh“, chỉ mới “vắng người sang những chuyến đò“ chứ chưa phải là
tất cả… Nghĩa là tất cả những tín hiệu ấy đều gợi cho người đọc một không
khí của đất trời khi mới vào thu.
Xuân Diệu cũng là người viết nhiều về tuổi trẻ, vì trong quan niệm của
ông tuổi trẻ cũng là nơi bắt đầu của đời người, và cũng chính là vẻ đẹp của
cuộc đời. Ông ca ngợi tuổi trẻ không tiếc lời:
Phố đẹp, người xinh là đời bánh mật;
Mặt tươi, môi đậm là gã trai tân
Rộn tuổi trẻ dưới ánh đèn ngây ngất,
Reo ái tình trong nhịp máu phân vân.
Đêm thứ nhất
Ông xao xuyến, xúc động vì tuổi trẻ. Ông đưa tuổi thanh niên ra làm đối
tượng trữ tình của lòng mình:
Ngươi xôn xao như một vạn cây rừng
Nao lòng ta bằng muôn cánh yêu đương
Thanh niên
Cái đẹp thanh khiết của tuổi trẻ làm ông ngây ngất:
Em thanh thơi như buổi sáng đầu ngày
Đẹp
Có thể nói trong cái nhìn của Xuân Diệu cái đẹp là cái trẻ trung, tươi
mới, vẹn nguyên. Đó cũng chính là lí do đọc thơ ông ta thấy hồn thơ ông rất
trẻ. Đó cũng là lí do tại sao tuổi trẻ lại say mê Xuân Diệu đến như thế!
4. Đề cao con người cá nhânLà thi sĩ của thời đại, Xuân Diệu không thể không nhìn thế giới bằng cái
nhìn của thời đại mình. Đó là cái nhìn nghiêng về đề cao con người cá nhân.
Đây không phải là một quan niệm chỉ có ở Xuân Diệu mà hầu hết ở các
nhà Thơ mới. Hoài Thanh đã từng cho rằng để phân biệt giữa thơ cũ và Thơ
mới đại thể “có thể gồm lại trong hai chữ “tôi” và “ta”. Ngày trước là thời chữ
ta, bây giờ là thời chữ tôi (210; tr.51). Ông viết: “Ngày thứ nhất ai biết đích
ngày nào - chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như
lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo quan niệm chưa từng thấy ở xứ này:
quan niệm cá nhân. Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn
thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc cá nhân chìm
đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nư ớc trong biển cả” (210; tr.52).
Quả đúng như vậy, trong thơ cổ điển chưa có quan niệm con người cá
nhân, mà con người chỉ được xem như một phần trong vạn vật nhất thể của
vũ trụ. Con người xuất hiện trong thơ chủ yếu xuất hiện trong tư thế đó. Con
người chưa có “cái tôi” cá thể mà chìm lần vào vũ trụ. Đây đó ta gặp một “lữ
khách” thấp thoáng trên đường, một “ai đó” “đăng sơn”, một “ai đó” “tựa gối
ôm cần” nơi ao thu lạnh lẽo hay bè bạn với “mây khách khứa, nguyệt anh
tam”. Nếu muốn “nói chí” thì cũng phải “đứng trong trời đất”, muốn khóc than
thì phải “vật mình vẫy gió, tuôn mưa”, kêu lên một tiếng thì cũng mong “lạnh
cả trời”. Con người “tương thông” với vạn vật, đôi khi ước ao trở thành vạn
vật: “kiếp sau xin chớ làm người - Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”
(Nguyễn Công Trứ). Sống, chết, tồn tại đều được suy tư, chiêm nghiệm trong
quan niệm hòa nhập với vũ trụ.
Nói cho công bằng, đây đó thi thoảng cũng có người muốn lộ mình ra.
Thi thỏang cũng có người xưng “tớ”, xưng “tôi” với thiên hạ như Hồ Xuân
Hương, như Nguyễn Khuyến, như Tú Xương… Nhưng nhiều hơn, nói như
Hoài Thanh, “họ không tự xưng, hoặc họ ẩn mình sau chữ “ta ”, một chữ có
thể chỉ chung cho nhiều người” (210; tr.52).
Đến Thơ mới nhất là ở Xuân Diệu ý thức về con người cá nhân phát
triển hơn bao giờ hết. Con người trở thành trung tâm của vũ trụ. Nếu ngày
xưa con người lẫn vào hoa cỏ, núi non thì bây giờ con người, nói như Xuân
Diệu, “Đi giữa thiên nhiên để kiếm mình” (Lưu học sinh). Nếu ngày xưa con
người là một phần bé nhỏ trong cái thực thể vũ trụ mênh mông thì bây giờ
trong thơ Xuân Diệu con người cá nhân đầy ý thức về sự tồn tại của mình:
Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
Hi - Mã - Lạp - Sơn
Lòng rộng quá chẳng chịu khung nào hết
Chân tự do đạp phăng cả hàng rào;
Ta mang hồn trèo lên những đỉnh cao
Để hóng gió của ngàn phương gửi tới
Mênh mông
Đó là con người ý thức đến độ nghênh ngang, ngạo nghễ giữa đời:
“Chân vồng thành những bước nghênh ngang”, “liếc đời bằng những khóe
ham mê”. Đó là con người “ham muốn vô biên và tuyệt đích”, “lòng bốn phía
mở cho trăng”… Đó là con người khát khao sống, không lùi bước trước cuộc
đời, là con người biết “cuộc đời thường đạm bạc” nên “mang theo từng suối
rượu, nguồn tình” để làm rung động cuộc đời. Nói khác đi, đó là con người
đầy ý thức về cá nhân, về sự tồn tại của mình.
Từ quan niệm khẳng định con người cá nhân, Xuân Diệu khẳng định
con người là trung tâm của thế giới. Do vậy nếu ngày xưa thế giới được xem
là chuẩn mực cho con người, thì bây giờ trong cái nhìn của Xuân Diệu, con
người cũng thành chuẩn mực cho thế giới.
Trong một tiểu luận nghiên cứu về Xuân Diệu, Nguyễn Đăng Mạnh cho
rằng: “Xuân Diệu đã lấy con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của thế giới,
của vũ trụ” và nhận xét: “Nếu chúng ta nhớ rằng trong văn chương xưa,
người ta thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người thì
mới thấy nguyên tắc mĩ học trên của Xuân Diệu là cả một cuộc đổi mới trong
thơ Việt Nam hiện đại” (155; tr.106). Ông cho rằng thơ xưa ví mặt đẹp như
hoa phù dung, lông mày như lá liễu, rồi nào là mắt phượng, mày ngài, làn thu
thủy, nét xuân sơn… Bây giờ Xuân Diệu đem so sánh ngược lại: Lá liễu dài
như một nét mi, Trăng vú mộng đã muưn đời thi sĩ, Hơi gió thổi như ngực
người yêu đến, Mây đa tình như thi sĩ thời xưa… (155; tr. 106).
Phát hiện trên của Nguyễn Đăng Mạnh là đúng. Tuy nhiên có thể bổ
sung thêm là trong thơ Xuân Diệu một mặt ông lấy con người làm chuẩn mực
cho thiên nhiên, tạo nên cách tân chưa từng có như Nguyễn Đăng Mạnh nhận
xét; nhưng một mặt khác rất nhiều khi Xuân Diệu cũng lấy thiên nhiên làm
chuẩn mực cho con người như trong thơ xưa. Một mặt ông viết: “Lá liễu dài
như một nét mi” (Nhị hồ), nhưng mặt khác lại viết: “Cặp mày xanh như rừng
biếc chen cây” (Đẹp). Một mặt là: “Mây đa tình như thi sĩ thời xưa” (Tình mai
sau), nhưng mặt khác: “Một bài thơ mênh mông như vũ trụ” (Biệt ly êm ái).
Một mặt: “Trăng vú mộng đã muôn đời thi sĩ” (Ca tụng) nhưng mặt khác:
“Lòng tôi đó một vườn hoa cháy nắng” (Tặng thơ). Một mặt: “Đất nồng thơm
dương tráng tựa chàng trai” (Mênh mông), nhưng mặt khác: “Tôi run như lá,
tái như đông” (Hư vô) v.v… Rất nhiều khi ông ví lòng mình với tạo vật, thiên
nhiên:
Rồi khi khúc nhạc đã ngừng im
Hãy vẫn ngừng hơi nghe trái tim
Còn cứ run hoài như chiếc lá
Sau khi trận gió đã im lìm
Huyền diệu
Và đêm nay lòng tôi lạnh lẽo
Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ
Thở than
Lòng tôi rung động như
Hoa hồng trong cốc nước
Chiều đợi chờ
Ý tôi là những cành trinh nữ
Ý thoáng
Cũng như rất nhiều khi ông lấy tạo vật ví với con người:
Lá như con mắt cụm cây nhìn;
Trái tựa hình tim, chim hót xin.
Lưu học sinh
Ôi trời xa, vừng trán của người yêu
Xa cách
Những dẫn chứng trên không nhằm nêu lên đặc điểm của so sánh
trong thơ Xuân Diệu, mà cơ bản hơn cho thấy quan niệm nghệ thuật vừa mới
mẻ, vừa truyền thống của Xuân Diệu. Nếu như trong thơ xưa con người chìm
lẫn vào vũ trụ, thì trong thơ Xuân Diệu con người có một vị trí riêng, có thể trở
thành chuẩn mực của thế giới, cũng như thế giới có thể là chuẩn mực cho
con người.
Đề cao con người cá nhân, lấy con người làm trung tâm, thế giới thơ
Xuân Diệu đầy “thanh sắc trần gian” của người đời chứ không phải là một cõi
mông lung của vũ trụ với mây gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông… tứ quí, tứ linh
xa xăm đâu đó. Đây sẽ là thế giới của “tháng giêng ngon như một cặp môi
gần”, của “sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, của “ngực nóng khúc đê mê”, của
“Em đẹp khi em phồng nét ngực”, của “má kề bên gối sánh”…, với những
“uống hồn em”, “riết mây đưa và gió lượn”, “tuôn âu yếm, lùa mơn trớn” v.v…
Bao nhiêu cảnh sắc của thiên nhiên, của vũ trụ mà người xưa chỉ “nhìn ngắm”
thì bây giờ Xuân Diệu kéo lại gần mà thụ hưởng trong cái thế giới trần gian
của mình. Chẳng hạn với “vầng trăng”, người xưa sẽ là “vọng nguyệt” còn với
Xuân Diệu thì xem “Trăng vú mộng đã muôn đời thi sĩ” và “Giơ hai tay mơn
trớn vẻ tròn đầy” (Ca tụng). Hay với “mặt trời”, người xưa chỉ dám cảm nhận
qua vài ánh “triêu dương”, vài bóng “tà huy” thì Xuân Diệu sẵn sàng tuyên bố
“Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời” (Hư vô). Cảnh vật trong thơ ông do đó dường
như cũng thấm đẫm chất sống của cuộc đời: “Gió vừa chạy, vừa rên, vừa tắt
thở“, “Nắng mọc chưa tin hoa rụng không ngờ”, “Sắc hạ rung rinh bốn phía
hè”, “Nước suối đã lờ đờ khép mắt”, “Gió khuya dậy cơn buồn lá úa” v.v…
Cách nhìn mới này đã làm thay đổi cả hệ thống đề tài, cả bút pháp, đem đến
những phát hiện tinh tế trong thơ Xuân Diệu.
Trở lên là những quan niệm nghệ thuật của Xuân Diệu giai đoạn 1932 -
1945. Những quan niệm này cho thấy Xuân Diệu đã vượt khỏi phạm trù của
thơ cổ điển, ở đỉnh cao của thơ lãng mạn.
Những quan niệm mới mẻ này đã góp phần mang đến cái nhìn mới về
thế giới và đổi mới tư duy nghệ thuật của thơ Xuân Diệu thời kỳ này mà
chúng tôi sẽ phân tích tiếp theo sau đây.
Chương 2. NHỮNG CÁCH TÂN CỦA XUÂN DIỆU GIAI ĐOẠN 1932 - 1945 TRÊN BÌNH DIỆN NỘI DUNG TRỮ TÌNH VÀ PHƯƠNG THỨC TRỮ TÌNH
1. Nội dung trữ tìnhSự đổi mới thi ca bao giờ cũng gắn liền với việc đổi mới chất thơ, đổi
mới phẩm chất trữ tình của thơ. Mỗi thời đại thi ca đều có những nội dung trữ
tình chính yếu của thời đại mình. Mỗi nhà thơ cũng có nội dung trữ tình riêng.
Thơ mới, với tư cách là một cuộc cách mạng vĩ đại trong thi ca dân tộc
đã tạo được nội dung trữ tình mới so với thi ca trước đó. Việc đổi mới này đã
trở thành gần như tôn chỉ mục đích của Thơ mới. Ngay từ khi mới hình thành,
nhiều người trong phong trào Thơ mới đã khẳng định sự đổi mới cuả chất thơ
như là một nguyên tắc. Có thể trích ra đây ý kiến của nhà thơ Lưu Trọng Lư
trong buổi diễn thuyết tại Hội Khuyến học Quy Nhơn tháng 6 năm 1934 như
một ý kiến tiêu biểu: “Có một điều chắc chắn là những điều kiện bên ngoài đã
biến thiên thì tâm hồn của con người cũng đổi thay. Những sự đau thương
buồn chán, vui mừng, yêu ghét của chúng ta không còn giống những sự đau
thương, buồn chán, vui mừng, yêu ghét cuả ông cha ta nữa, đó là một sự
thật. Các cụ ta xưa sống trong một cuộc đời giản dị êm đềm, sinh hoạt dễ
dàng, tiếp xúc ít ỏi, nên tâm hồn các cụ cũng đơn sơ, nghèo nàn, phẳng lặng
khô khan như cuộc đời các cụ, gia dĩ văn hóa Tàu tràn sang, đưa đến cho ta
những kỉ luật nghiêm khắc, hẹp hòi của Khổng giáo…
Các cụ ta chỉ thích cái bóng trăng vàng rọi ở trên mặt nước; ta lại thích
cái ánh mặt trời buổi sáng lấp lánh, vui vẻ ở đầu ngọn tre xanh. Các cụ ta ưa
màu đỏ choét; ta lại ưa những màu xanh nhạt… Các cụ bâng khuâng vì một
tiếng trùng đêm khuya, ta nao nao vì một tiếng gà đúng ngọ. Nhìn một cô gái
xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi; ta thì cho là mát mẻ
như đứng trước một cánh đồng xanh ngắt. Cái ái tình của các cụ là hôn nhân,
nhưng đối với ta thì trăm hình, muôn trạng, cái tình say đắm, cái tình thoáng
qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình chân thật, cái tình ảo mộng, cái
tình ngây thơ, cái tình già dặn, cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu”
(137; tr.279).
Ngoại trừ những chỗ thái quá, ý kiến của Lưu Trọng Lư đã nói rõ quan
niệm thẩm mĩ của Thơ mới: thay đổi cảm xúc thơ, thay đổi nội dung trữ tình.
Sáu mươi năm sau, Huy Cận, một tác giả tiêu biểu của phong trào Thơ mới
nhìn lại cũng cho rằng, đổi mới cảm xúc là ý nghĩa cách mạng trước hết của
phong trào này. Ông viết: “Vì sao Thơ mới được tiếp nhận nhanh chóng và
mau đi vào cuộc sống tinh thần, tình cảm cuộc sống bên trong của các thế hệ
cho đến ngày nay, vì sao? Vì Thơ mới đã đổi mới cảm xúc, đa tạo ra một cảm
xúc mới trước cuộc đời, thiên nhiên, vũ trụ. Điều này cực kỳ quan trọng. Nhìn
và cảm nhận cuộc đời, nhìn và cảm nhận thiên nhiên tạo vật không còn như
cũ nữa, mà với những rung động mới, rung động của trái tim và khối óc của
những con người cảm nhận rõ vận mệnh, sự sống của mình có nhiều liên hệ
tinh vi và chặt chẽ với cuộc đời rộng lớn, với tạo vật muôn trù ng, với thời gian
vô tận. Tạo ra cảm xúc mới là cực kỳ quan trọng, mở rộng chân trời sáng tạo
thơ ca. Ý nghĩa sáng tạo của Thơ mới là ở điểm này trước hết, chứ không
phải ở chỗ sáng tạo ngôn từ mới, hoặc đổi mới và sáng tạo các thể loại thơ.
Tất nhiên ngôn từ rất quan trọng, nhưng có cảm xúc mới mới có ngôn từ mới
được” (10; tr.9). Là một người am hiểu Thơ mới, trong công trình nghiên cứu
của mình, Lê Đình Kỵ cũng cho rằng sở dĩ Thơ mới được xem là cách mạng
trong tiến trình thơ Việt Nam là vì đã“ đổi mới cả mặt biểu hiện cũng như mặt
cảm hứng của thơ ca” (117; tr.136).
Như vậy, đổi mới phẩm chất trữ tình đã được thừa nhận như là một tất
yếu của Thơ mới. Là một nhà thơ được xem là mới nhất trong phong trào
Thơ mới, dĩ nhiên chất thơ Xuân Diệu cũng đổi mới rất nhiều. Sau này có dịp
nhìn lại thơ mình trước 1945, trong một bài viết cho tạp chí Những vấn đề văn
học (Liên Xô) Xuân Diệu đã tự nhận xét: “Trong thơ tôi đã có những hình ảnh
mới, một phong cách mới, có những ước mơ, nguyện vọng và tất cả những
cái đó không giống với thơ truyền thống”(50; tr.17).
Vậy nội dung trữ tình của thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932-1945 có những
đặc điểm gì mới so với thơ ca truyền thống cũng như so với thơ ca đương
thời?
Để lý giải điều này, thiết tưởng cũng nên nhắc lại một số đặc điểm nội
dung trữ tình của Thơ mới.
Thơ mới là thơ của những “cây bút muôn màu“ là tiếng ngân của những
“cây đàn muôn điệu“ (chữ dùng của Thế Lữ) cho nên nội dung trữ tình đa
dạng và phong phú. Thi nhân đưa vào thơ những thi đề đã có và chưa từng
có với một cảm xúc mới mẻ. Nhà thơ có thể rung động cùng mây, gió, trăng,
hoa như thơ xưa mà cũng có thể bộc lộ những cảm xúc “điên cuồng“ nhất của
lòng mình. Nhà thơ có thể đề cập đến muôn cảnh của xã hội cũng như muôn
sắc của trời đất mà không bị gò bó bởi những quy tắc định săn như thơ cổ.
Tuy nhiên theo nhiều nhà nghiên cứu như Hoài Thanh, Dương Quảng Hàm,
Phan Cự Đệ, Phạm Thế Ngũ, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức… thì nội dung trữ
tình của Thơ mới tập trung vào một số điểm sau đây:
Thứ nhất, Thơ mới là thơ của “cái tôi” với “một quan niệm chưa từng
thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân” (Hoài Thanh; 210; tr.52). Đó là một cái tôi
thể hiện “cái thế nhị nguyên của chủ nghĩa lãng mạn”; một mặt là “cái tôi cá
nhân” tự khẳng định, biểu hiện ra bằng niềm vui, mơ ước, khát vọng thấy đời
dù sao cũng đáng sống đáng yêu”; một mặt là cái tôi “mang nỗi niềm cô đơn
thuộc một cái gì như là nghiệp dĩ như là gắn liền với số phận con người” (Lê
Đình Kỵ; 117; tr.45 và 55). Nội dung trữ tình của các nhà thơ sẽ xoay quanh
một cái tôi “nhị nguyên” như vậy với những sắc thái khác nhau.
Thứ hai, Thơ mới là thơ của mơ mộng, “đặt ưu tiên vào mơ mộng” (Lê
Đình Kỵ; 117; tr.39) mà mỗi nhà thơ có một sắc đo khác nhau như Hoài
Thanh nhận xét: “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu diêu trong trường
tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta
đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên
cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy
Cận” (210; tr.54). Tuy nhiên đây cũng chính là nội dung trữ tình mà Thơ mới
bị xem là “thoát ly trốn đời” như một số người nhận xét, mà theo họ những
nẻo khác nhau của nó là “trốn vào tình yêu”, “ngược về quá khứ xa xôi” và
“con đường nguy hiểm nhất là trốn vào trụy lạc” (Phan Cự Đệ; 50; tr.93).
Thứ ba, Thơ mới thường hướng đến cái buồn, cô đơn và cái buồn cô
đơn đã “trở thành nét chung của nhiều nhà thơ” (Lê Đình Kỵ; 117; tr.58) và
“thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế“ (Hoài
Thanh; 210; tr.54).
Những nội dung trữ tình vừa nêu khi thể hiện ở những nhà thơ khác
nhau lại có những đặc điểm khác nhau. Chẳng hạn với Lưu Trọng Lư sẽ là
những gì tạo nên cái mơ màng ngơ ngác trước cuộc đời; với Nguyễn Bính sẽ
là những câu chuyện tình “chân quê“ dang dở, với Chế Lan Viên sẽ là nỗi đau
của một “bóng ma Hời sờ soạng đêm mơ”, với Huy Cận sẽ là những vần thơ
nối với “mạch sầu nghìn năm trước vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này”…
Với Xuân Diệu, nội dung trữ tình của ông có thể khái quát vào hai loại
chính là:
Thứ nhất, thơ Xuân Diệu là thơ của một khát vo ng sống mãnh liệt và
nồng nàn.
Thứ hai, thơ Xuân Diệu là nỗi băn khoăn về con người và cuộc đời.
Sau đây chúng tôi sẽ lần lượt phân tích các nội dung trữ tình trên của
Xuân Diệu.
1.1. Thơ Xuân Diệu là thơ của một khát vọng sống mãnh liệt và nồng nàn
1.1.1. Xuân Diệu tự ví mình như “con chim đến từ núi lạ, ngứa cổ hát
chơi” khi gió sớm, lúc trăng khuya. Con chim đến từ núi la ấy không mong vì
tiếng hót của mình mà hoa nở, không mong vì tiếng hót của mình, mà trái
chín. Nhưng nguyện thề rằng đó phải là tiếng hót thiết tha, nồng nàn, đến độ
có thể vỡ cổ, có thể trào máu. Có lẽ vì thiết tha đến nhường ấy mà tiếng hót
ấy đã đọng lại được trong bầu trời thi ca Việt Nam, tạo được một cung bậc
riêng, một giọng điệu riêng, càn g nghe càng lảnh lót, càng nghe càng đắm
say, đó là tiếng lòng của một khát vọng sống mãnh liệt và nồng nàn.
Năm 1941, khi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã nhận xét về tiếng
hót của con chim đến từ núi lạ đó như sau: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn
sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn non nước lặng lẽ này. Xuân Diệu say
đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận
hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình“ (210; tr.116). Một năm sau, trong Nhà
văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan cũng nhận xét như vậy “người ta thấy thơ Xuân
Diệu đằm thắm, nồng nàn nhất trong các nhà thơ mới” (182; tập 2; tr.7). Và cả
Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu cũng ghi nhận: “Tác giả
tập Thơ thơ là một thiếu niên có tâm hồn đầy thơ mộng, khát khao sự yêu
thương“ (73; tr.441). Mấy chục năm sau khi có điều kiện để nhìn lại Xuân
Diệu một cách đầy đủ hơn, nhiều nhà nghiên cứu khác cũng nhận xét như
vậy. Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng Xuân Diệu là nhà thơ của “niềm khát khao
giao cảm với đời” và ông cho rằng niềm khát khao giao cảm ấy “không chỉ ở
trong thơ mà còn tràn ra ngoài thơ thành văn xuôi, bút ký, tùy bút, truyện
ngắn, thành cả phê bình, nghiên cứu văn học… Nó còn tràn cả ra ngoài sự
nghiệp viết văn, làm sách nữa, thành những cuộc nói chuyện trực tiếp với
công chúng. Có thể nói trên đời này có bao nhiêu cách tiếp xúc với đời, để tìm
sự giao cảm với đời; Xuân Diệu đều không bỏ qua và khai thác triệt để“ (153).
Lê Đình Kỵ trong chuyên luận Thơ mới những bư ớc thăng trầm đã xem Xuân
Diệu cùng với Tản Đà là hai nhà thơ thi sĩ nhất trong các nhà thơ Việt Nam
hiện đại và khẳng định: “Xuân Diệu xuất hiện trong phong trào Thơ mới với tất
cả lòng say mê yêu đời” (117; tr.194)…
Dường như không một ai lại không nói đến “nguồn sống rào rạt”, “lòng
say mê yêu đời”, “niềm khát khao giao cảm với đời”, độ “nồng nàn, tha
thiết”… trong thơ Xuân Diệu. Chính khát vọng sống mãnh liệt này đã mang
đến cho thơ Xuân Diệu một phẩm chất trữ tình quyến rũ lạ lùng.
Trong thơ xưa, người ta hay triết luận về sống, chết, mất, còn, danh,
lợi… nhưng ít ai đưa lòng ham song làm một nội dung trữ tình chính yếu. Với
quan niệm “sống gửi, thác về” người ta ung dung, bình thản trong sự vần
xoay của vũ trụ, trong “chớp bóng” của đời người. Thậm chí nhiều khi còn
đưa chữ “nhàn”, đưa thú điền viên ra để ngợi ca. Bao nhiêu bậc quân tử đã
từng bộc lộ trong thơ một nỗi lòng hằng mến một nếp nhà thông, một ngõ trúc
mà ngại chen nơi cửa mận, tường đào.
Với Xuân Diệu lòng ham sống được bộc lộ một cách tha thiết, cuồng
nhiệt, nếu không nói là đã trở thành một nội dung chính, một cảm hứng chủ
đạo của thơ ông.
Ngay từ bài đầu tiên của tập thơ đầu tiên của ông là bài Cảm xúc đã
cho thấy bao nhiêu khát khao của lòng ham sống. Ông ước được “ru với gió”
được “mơ theo trăng”, được “vơ vẩn cùng mây”, được “ràng buộc với muôn
dây”, được “chia sẻ với trăm tình yêu mến”… bao nhiêu trạng thái của hành vi
sống trở thành trạng thái của cảm xúc trong thơ ông:
Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây.
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây,
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến.
Cảm xúc
Chưa hết ông tuyên bố rằng được sống là nhất. Ngay ở bài mở đầu tập
Gửi hương cho gió ông đã viết như vậy:
Nhưng nghĩ lại: sống vẫn là hơn chết;
Gần hơn xa, yêu mến ngọt ngào thay!
Lời thơ vào tập Gửi hương
Và ở bài thơ cuối cùng của tập thơ này, trong bài Thanh - niên ông tổng
kết sự sống trong thơ mình bằng một thứ triết lý, một thứ tuyên ngôn “rất
Xuân Diệu”:
Sống toàn tim! toàn trí! sống toàn hồn!
Sống toàn thân! và thức nhọn giác quan,
Và thức cả trong giấc nồng phải ngủ;
Sống, tất cả sống, chẳng bao giờ đủ
Chất chen kho mộng chắc với tình bền,
Để đến ngày thanh - niên vội lên yên
Nghe nhạc hòa, tưởng còn mãi Thanh - Niên!
Thanh - Niên
Có lẽ không cần bình luận thêm cũng đủ cho thấy sự sống có ý nghĩa
như thế nào trong cảm xúc của Xuân Diệu. Đọc cả hai tập thơ của ông bất cứ
bài nào dù là trực tiếp hay gián tiếp, đều thấy ông bộc lộ cảm xúc thiết tha với
cuộc sống.
Mà không chỉ ở giai đoạn này, trong thơ sau cách mạng của ông cũng
rạt rào nguồn sống như vậy, vì như ông viết “sự sống chẳng bao giờ chán
nản” (tên một bài thơ của Xuân Diệu).
Đưa lòng ham sống thành một nội dung trữ tình, thơ Xuân Diệu đã thể
hiện sự sống như một niềm mê say. Nói khác đi, lòng ham sống trong cảm
xúc của thơ ông đã trở lòng “say sống“. Thơ ông rất nhiều cung bậc để diễn tả
niềm say mê ấy. Ông như “mê man”, “chìm”, “đắm”, “say”, “ngất ngây” với
muôn ngàn biểu hiện của sự sống: “Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi, Tôi mê Ly Cơ
hình nhịp nhàng” (Nhị hồ), “Tôi như con bướm đắm tình thương” (Phơi trải),
“Chỉ là tình nhưng tôi rất mê man” (Chỉ ở lòng ta)… Một cuộc gặp tình cờ
cũng khiến ông “mê man”: “Một chớp mê man hồn gặp hồn, lòng chưa kịp
hiểu mắt trao hôn” (Tình cờ). Một bóng ai lướt qua cũng khiến lòng ông như
mê, như say “Tôi trải yêu thương dưới gót giày, Ôm chừng bóng lạ giữa mê
say” (Tình qua). Cho đến một thoáng nhìn cũng là cái nhìn của say mê “Rồi
ngó mê nhau, ta mỉm mắt cười” (Kỉ niệm), một phút giây của yêu đương cũng
là phút giây của chìm đắm trong mê say: “Chúng ta chìm trong biển ái ân,
Chúng ta say trong chén rượu tuyệt trần, Mà tình ái rót đầy dâng bạn mới” (Kỉ
niệm). Và đến cả khổ đau, cũng là khổ đau của đam mê: “Lòng vỡ tung, ta
say khướt đau thương” (Sầu). v.v…
Có thể nói thế giới thơ Xuân Diệu là thế giới của sự sống tràn trề, mạnh
mẽ, hăng say và đầy rạo rực:
Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời.
Hư vô
Ta mang hồn trèo lên những đỉnh non cao
Để hóng gió của ngàn phương gửi tới
Mênh mông
Lòng tôi bốn phía mở cho trăng
Khách lại mười phương cũng đãi đằng
Phơi trải
Thậm chí mạnh mẽ đến mức điên cuồng:
Tôi là một kẻ điên cuồng
Yêu những ái tình ngây dại
Thở than
Tôi điên cuồng tất nhiên phải khổ đau
Dối trá
Bỗng thấy lòng cuồng yêu ngẩn ngơ
Muộn màng
Còn nếu lòng không còn đủ “điên cuồng” nữa thì cũng xem như không
còn sống nữa:
Ngày mai nắng mọc, mưa rơi hết
Mắt tạnh cơn điên, lòng cạn hồ,
Ta sẽ thôi yêu như đã dấu,
Không hề oán hận lá khoai khô.
Nước đổ lá khoai
Xuân Diệu ví lòng mình như “một cơn mưa lũ” (Lòng ta là một cơn mưa
lũ - Nước đổ lá khoai), như “ngựa trẻ không cương“ (Và lòng ta như ngựa trẻ
không cương - Mênh mông) như một “vườn hoa cháy nắng“ vì “mang phải
sắc lòng tươi quá“ (Lòng tôi đó một vườn hoa cháy nắng - Tặng thơ), thậm
chí như mặt trời chói lọi (Tôi có sẵn một mặt trời giữa ngực - Chỉ ở lòng ta)…
Tất cả những ví von ấy đều cho thấy đó là nỗi lòng của một con người lúc nào
cũng hăm hở, lúc nào cũng rạo rực; nỗi lòng của một người khát sống và say
sống. Hình như ở ông không bao giờ nguôi nỗi khát thèm được sống, như
biển kia không bao giờ nguôi nỗi khát thèm được vỗ sóng vào bờ:
Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi, ta muốn uống hồn em!
Vô biên
Với Xuân Diệu bao giờ cũng “chưa đủ”, bao giờ cũng phải “thêm”,
“thêm nữa”. Ông muốn thu vào, ôm vào vòng tay hăm hở của mình tất cả đất
trời, tất cả sự sống:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bư ớm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơ m, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Vội vàng
Ông muốn trút nỗi mê say của mình vào muôn sự sống: “Ta trút bâng
quơ một trận lòng” (Nước đổ lá khoai). Ông muốn “ôm choàng“, “ôm riết“ sự
sống, muốn cánh tay mình “làm rắn“, “làm dây da quấn quít cả mình xuân“
(Thanh - Niên).
Trong thơ mình và hình như cả trong đời mình nữa, Xuân Diệu bao giờ
cũng thể hiện một chất sống mãnh liệt, dào dạt như thế. Với ông không có sự
thờ ơ nguội lạnh đã đành, mà ngay cả sự nhàn nhạt một cách đơn điệu “trung
bình“ ông cũng không chịu được. Xem cái cách ông tả một căn phòng, một
đường phố trong truyện ngắn Tỏa nhị Kiều có thể thấy ông khó chịu như thế
nào về sự “vừa phải” của con người và sự vật: “Đoạn đường chạy qua đó
không đủ rộng để làm một đường phố, không đủ hẹp để làm một ngõ hẻm; đá
không chỉ lớm chởm mà hơi gập ghềnh. Nhà không chịu xấu, không chịu
nghèo mà lại trưng ra vẻ phong lưu nghèo một ít. Anh sáng không chịu sáng;
giữa hai dãy lầu khéo đứng để ngăn mặt trời, cả ngày chỉ là một buổi chiều
dài”. Và trong căn phòng thì: “Mọi vật đều buồn một cách lưng chừng xui lòng
tôi cũng không đủ cớ mà buồn nữa kia, phải chịu ngùi ngùi một cách vô lý”.
Theo ông, cái tẻ nhạt của sự đều đặn vừa phải chẳng khác gì lầu Đồng Tước
xưa định làm nơi “khóa xuân” hai Kiều vậy. Xuân Diệu không chịu được sự
trung bình, đều đều, phẳng lặng. Với ông:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Giục giã
Đấy là hai câu thơ rất nổi tiếng của Xuân Diệu. Không phải là hai câu
thơ của sự hưởng lạc, sống gấp như có người đã nhận xét, mà là hai câu thơ
của lòng ham sống, say sống giữa đời với độ nồng nàn. Cái chói chang của
sự sống cũng giống như cái chói chang của ánh sáng thà bùng lên huy hoàng
mà tắt, còn hơn cái leo lét của trăm năm.
Chính độ nồng nàn, mãnh liệt này đã khiến cho Xuân Diệu nhìn mọi cái
trong đời không đứng yên mà luôn luôn vận động, khiến cho thơ ông có
những phát hiện thật lạ lùng. Một cánh cò lặng lẽ của nghìn năm trước bỗng
trở nên “phân vân” trong thơ ông để cho ta những câu thơ tuyệt hay:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Thơ duyên
Hoài Thanh nhận xét rằng so với cánh cò của Vương Bột thì cánh cò
của Xuân Diệu “có sự cách biệt của hơn một nghìn năm và hai thế giới” (210;
tr.117). Đúng như vậy đó là hai thế giới: một thế giới lăng lẽ, bình an và một
thế giới luôn luôn gấp gáp, vội vàng.
Những ngọn gió muôn đời trong thơ Xuân Diệu không thổi nữa, mà
“mơn” qua bầu trời những vuốt ve của ái tình, tạo nên những câu thơ đầy
cảm giác:
Gió thanh chia mình
Trong cành lá biếc
In như ái tình
Mơn qua trời thiếc
Tiếng không lời
Cũng chỉ đến Xuân Diệu mới thấy được hình hài của cái lạnh đang luồn
trong gió:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đây mùa thu tới
Có thể nói thế giới nghệ thuật của Xuân Diệu là một thế giới “động”, rạo
rực, không có gì đứng yên, từ ngọn gió cho đến ánh trăng, từ con đường cho
tới hàng cây… Tất cả phải “bùng lên” trong khát khao được sống, khát khao
được “giao cảm” (Chữ dùng của Nguyễn Đăng Mạnh) của trái tim thi nhân.
Ánh trăng kia không được lặng lẽ mà phải “tỏ ngời” (Thu lạnh càng thêm
nguyệt tỏ ngời - Nguyệt cầm); ngọn gió kia dù có vô hình cũng phải hiện ra
mà “xiêu xiêu” (Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu - Thơ duyên); cây kia cũng
phải vì nắng mà “lả lả cành hoang” cho chiều dịu lại (Lả lả cành hoang nắng
trở chiều).
Thế giới của Xuân Diệu là thế giới động như vậy, sự sống tuôn chảy
dạt dào, tìm mọi cách mà hiển hiện ra. Ông kêu gọi “hãy nói”, “hãy ke ”, “hãy
sát”, “hãy khắng khít”, “hãy dâng”, “hãy uống”, “hãy quấn riết”, “hãy yêu tôi”,
“hãy cầm tay anh”, “hãy đốt đời ta”, “hãy tuôn âu yếm” v.v… Ông bắt buộc
“phải nói yêu”, “phải mặn nồng”, “phải ấm lên”… Ông khuyên ngăn “chớ lạnh
như đông”, “chớ thản nhiên bên một kẻ cháy lòng”, “chớ yên ổn như mặt hồ
nước ngủ”, “chớ tiết kiệm”, “chớ chia rẽ”v.v… Ông khao khát được “ôm”,
được “riết”, được “bấu”, được “say”, được “ghì”, được “trút”, được “hút”…
Ông khấn nguyện “cho lòng xin chút hương”, “xin chút lửa”, “xin chút thương”,
“xin chút nữa”v.v. và v.v… Nghĩa là tất cả dù ở dạng nào cũng phải được tỏ
bày, được giao cảm, được gắn bó; nếu ngược lại là “chết ”, là “không sống”.
Đúng như ông đã quan niệm, nếu yêu mà không bộc lộ thì cũng như không;
và sắc đẹp kia chỉ còn là lạnh lẽo của đá:
Nếu yêu mà chỉ để trong lòng
Không tỏ hay, yêu mến cũng là không
Và sắc đẹp chỉ làm bằng cẩm thạch
Phải nói
Cho nên “Phải nói, phải nói, và phải nói”. “Phải nói” ở đây không có
nghĩa là chỉ bằng lời, mà có thể là bằng “cuối mắt, đầu mày“, “bằng nét vui”,
“bằng vẻ thẹn“, bằng “chiều say“, bằng “đầu ngả“, bằng “miệng cười, tay riết”,
thậm chí bằng cả “im lặng” và “bằng chỉ anh có biết“, nghĩa là bằng tất cả
những gì có thể biểu hiện được.
Với một lòng ham sống thiết tha đến như vậy nhà thơ sẽ là người lăn
xả vào cuộc đời mà sống. Điều thú vị là ta bắt gặp trong thơ Xuân Diệu tư thế
“dấn thân”, dù đó là dấn thân của một kẻ “dại khờ“ như ông tự nhận:
Dấn thân mãi để kiếm trời dưới đất
Dại khờ
Từ “dấn thân” sẽ dẫn đến một quan niệm khác: “chấp nhận”. Cứ sống,
cứ dấn thân, chấp nhận sai lầm, chấp nhận sự ghẻ lạnh của người đời, vì
như thế mới là sống:
Ta trút bâng quơ một trận lòng,
Biết rằng đau khổ giữa hư không.
Khóc mình uổng lệ rơi vô lí,
Mưa vẫn cần rơi lệ vạn dòng
Nước đổ lá khoai
Tôi lắng đợi! nhịp lòng tôi dừng lại!
Tôi cần tin! tôi khao khát được nhầm!
Cho tôi mơ một ảo tưởng thâm trầm,
Và mặc kệ, nếu đó là dối trá!
Mời yêu
Biết khóc là “uổng lệ rơi vô lí” mà vẫn cứ rơi lệ! Ngay cả khi tình dối trá
cũng cứ khao khát được nhầm. Đó là một thái độ, thậm chí là triết lí “chấp
nhận” chưa từng thấy có trong thơ ca trước đó. Nó chỉ có thể là sản phẩm
của một tâm hồn khát khao được sống đến mức sẵn sàng chấp nhận tất cả.
Đúng như Thế Lữ nhận xét: “Là người sinh ra để mà sống, Xuân Diệu rất sợ
chết, sự im lặng và bóng tối hai hình ảnh của hư vô” (142; tr.9). Con chính
Xuân Diệu thì tâm sự: “Tôi nói chuyện mà người nghe im lặng thì sợ lắm.
Phải tỏ cho người ta biết là mình thích nghe chứ. Vợ chồng nói chuyện với
nhau ban đêm, vợ nói chồng thỉnh thoảng cũng ờ lên chứ, để chứng tỏ mình
chưa ngủ, vẫn nghe” (dẫn theo 153). Lòng ham sống là một nhiệt tình phủ
nhận cái chết, phủ nhận cái nhạt nhẽo tầm thường vô vị trong cuộc đời. Vì
lòng ham sống mãnh liệt đến nhường ấy mà ta nhận thấy trong thơ Xuân
Diệu dù có buồn, cô đơn, thậm chí khổ đau, rên rỉ nhưng không có chỗ nào
ông lại tỏ ra là chán chường cả, một loại cảm xúc đầy rẫy trong Thơ mới. Hay
nói như Hoài Thanh: “Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha
thiết“ (210; tr.116). Do vậy ở đây ta nhận ra một nhân sinh quan tích cực trong
nội dung trữ tình của Xuân Diệu bên cạnh cái độc đáo, đặc sắc của nó.
1.1.2. Thơ Xuân Diệu có cái rạo rực của lòng khát khao được sống,
được giao cảm với cuộc đời. Mà cái khát kh ao ấy nói như Thế Lữ, còn gì làm
cho “đầy đủ hơn là Xuân và Tình. Cho nên Xuân Diệu đắm say với tình yêu
và hăng hái với mùa xuân” (142; tr.10). Sau này Lê Đình Kỵ cũng nhận xét
như vậy. Ông cho rằng lòng say mê yêu đời ở Xuân Diệu “đã trút hết vào tình
yêu và thiên nhiên” (117; tr.195; bản in 1988). Nói khác đi, tình yêu trong thơ
Xuân Diệu là biểu hiện tập trung nhất, mãnh liệt nhất của lòng ham sống. Đây
cũng chính là một nội dung trữ tình quan trọng trong thơ ông, thơ của một “thi
sĩ tình yêu”, của một “ông hoàng thơ tình”…
Lần giở lại những trang thơ cổ điển Việt Nam cũng như Trung Quốc
chúng ta thấy tình yêu không phải là cảm hứng chủ đạo, nhưng không phải
đến nôi là không có. Không kể các truyện thơ đầy rẫy những câu chuyện tình
với những gặp gỡ, thề bồi, đính ước…, thì ngay trong thơ trữ tình cũng hiện
ra muôn nẻo của tình yêu. Cứ lấy thơ thời Đường mà xét chẳng hạn. Tuy bị
bao ràng buộc của lễ giáo phong kiến mà hai chữ “ái tình” vẫn cứ muốn trồi
lên giữa những con chữ khô cứng dưới dạng này hay dạng khác. Ta nhận ra
trong thơ Đường có tình yêu son sắt thủy chung như trong Vọng phu thạch
của Vương Kiến, với hình ảnh một người phụ nữ đợi chờ đã hóa đá. Hòn đá
mong chồng, dằng dặc bên sông, từ khi hóa đá không biết quay đầu. Bao
nhiêu ngày tháng đứng đội mưa gió lặng im nơi đầu non. Nỗi lòng câm lặng
ấy chỉ có thể cất lên thành tiếng khi người đi trở về:
Vọng phu thạch,
Giang du du.
Hóa vi thạch,
Bất hồi đầu.
Sơn đầu nhật nhật phong hòa vũ,
Hành nhân qui lai thạch ưng ngữ.
(Hòn đá mong chồng,
Bên sông dằng dặc
Từ khi hóa đá,
Không hề quay đầu.
Đầu non ngày ngày gió và mưa,
Người đi mà trở về, có lẽ đá sẽ bật lên thành tiếng nói).
VƯƠNG KIẾN - Vọng phu thạch
Bài thơ diễn tả một tình yêu im lặng mà sâu xa, mà xúc động vì lòng
son sắt thủy chung.
Ta cũng nhận ra trong thơ Đường có tình nồng nàn tha thiết, có tình
thoáng qua, tình “không dám thốt” của những nàng cung nữ trong thơ Chu
Khánh Dư.
Hòa tình dục thuyết cung trung sự
Anh vũ tiền đầu bất cảm ngôn.
(Mối tình canh cánh bên lòng, muốn kể với nhau chuyện trong
cung
Thấy chim anh vũ trước mặt không dám thốt nên lời.)
CHU KHÁNH DƯ - Cung từ
Thậm chí có cả những cảm xúc của tình yêu “ngoài chồng, ngoài vợ”
như trong bài Tiết phụ ngâm của Trương Tịch mà Ngô Tất Tố đã dịch rất hay
như sau:
Chàng hay em có chồng rồi
Yêu em chàng tặng một đôi ngọc lành
Vấn vương những cảm mối tình
Em đeo trong áo lót mình màu sen
Nhà em vườn ngự kề bên
Chồng em cầm kích trong đền Minh Quang
Như gương, vâng biết lòng chàng
Thờ chồng quyết chẳng phụ phàng thề xưa
Trả ngọc chàng, lệ như mưa
Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.
TRƯƠNG TỊCH - Tiết phụ ngâm
v.v…
Nhưng cảm hứng tình yêu trong thơ cổ điển phương Đông dù đa thanh,
đa sắc đến đâu cũng không thoát khỏi vòng trói buộc của tư tưởng phong
kiến. Cho nên chúng ta dễ nhận thấy đó là thơ tình yêu gắn với con người
“bổn phận” trong cái quan hệ của “tam cương”, “ngũ thường”.
Tình yêu trong thơ Xuân Diệu mang một sắc thái khác, một quan niệm
khác. Đó là tình yêu của con người sống giữa đời chứ không phải tình yêu
đạo đức trong sách vở. Đó là thứ tình yêu vừa có cái cao khiết của tâm hồn,
vừa có cái cường tráng lành mạnh của nhục thể. Đó là thứ tình yêu rất trần
thế mà không bị trần tục hóa. Xin đọc một vài câu:
Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!
Những cánh tay! hãy cuốn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!
Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt
Xa cách
Chúng ta đau, thôi em tới đây mà!
Mơn man nào, em đừng khóc đôi ta
Thế, riết thế, hãy vòng tay chặt nữa
Cho em hút những chút hồn đã rữa
Cho em chuyền hơi độc rất tê ngon
Sầu
Xuân Diệu là người đưa nhục thể vào thơ một cách đầy tinh tế. Trong
thơ cổ chưa có cảm giác này. Nhiều lắm như Nguyễn Du cũng chỉ ngắm nhìn
“dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên“ mà thôi. Ngay đến người “quá quắt, da
diết và táo tợn” (chữ dùng của Nguyễn Lộc - 135; tập 2; tr.460) như Hồ Xuân
Hương thì cũng chỉ dừng ở những hình ảnh mang tính chất “ám tượng”. Thơ
mới buổi đầu trong Mấy vần thơ của Thế Lữ hay Tiếng thu của Lưu Trọng Lư
cũng chưa có cảm giác này. Chỉ đến Xuân Diệu nhục thể trong tình yêu mới
được đưa vào một cách táo bạo mà cũng đầy tinh tế. Nhục thể trong tình yêu
Xuân Diệu là nhục thể của một tâm hồn “mang sắc lòng tươi quá”, nhưng lại
không thô tục. Ông đã diễn tả bao nhiêu sắc độ của tình yêu với những trạng
thái mạnh mẽ như muốn “ôm”, muốn “riết”, muốn “say”, muốn “cắn”, muốn
“ngoàm”, muốn “hút”… mà không gợi lên sự sống sượng của xác thịt, trái lại
chỉ gợi cảm giác nồng nàn, tha thiết của tình yêu:
Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi, ta muốn uống hồn em
Vô biên
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi
Vô biên
Em vui đi răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhụy mỗi giờ tình tự
Giục giã
Nghiêng đầu bên trái hãy kề nghe
Những ngón tay thần sẽ vuốt ve
Cho điệu lòng anh thêm ấm dịu;
Sờ xem ngực nóng khúc đê mê
Có những bài thơ
Cảm xúc nhục thể trong thơ Xuân Diệu rất đời mà cũng rất thơ. Nó
không “thơ quá” để đến mức chỉ là cảm xúc sách vở, nhưng cũng không đến
mức “đời quá” để chỉ còn cảm giác xác thịt. Điều này khác với nhiều người c
ùng thời với ông, chẳng hạn như Bích Khê. Trong thơ Bích Khê như Hàn Mặc
Tử nhận xét, có khi “sự trần truồng dâm đãng nhường lại cho ý vị nên thơ của
hương, của nhạc, của trăng của tuyết” (248; tr.14) như ở bài Tranh lõa thể.
Nhưng cũng có khi “ở địa hạt cuồng dâm này, ta thấy thi sĩ Bích Khê hoàn
toàn là Baudelaire. Vì trong tác phẩm chàng gợi dục tình thì ít, mà làm cho
người ta ghê rợn đến gớm giếc cái cảnh trần truồng khả ố thì nhiều“ (248;
tr.22). Chẳng hạn một đoạn trong Xác thịt trích theo đây:
Tôi vồ người như một miếng mồi ngon;
Miệng ngậm hờn riết chặt lấy môi son;
Mắt đổ lửa lườm qua làn sóng sắc…
Tôi giật nẩy rồi cười lên sằng sặc,
Hai tay cào đôi vú trắng như bông
BÍCH KHÊ - Xác thịt
Cảm xúc nhục thể trong thơ Xuân Diệu hiện ra với tất cả sự cao cả và
trần thế của nó, là biểu hi ện của một khát vọng sống, của chất sống chứ
không phải là một cảm giác “xác thịt” thuần túy.
Cảm xúc tình yêu trong thơ Xuân Diệu có một nét ít được ai nhắc đến
nhưng vẫn hiển hiện nơi trang thơ của ông. Đó là cảm xúc về “tình trai”.
Không chỉ ở bài Tình trai mà nhiều người đã biết, Xuân Diệu còn một loạt bài
nói về cảm xúc này như Viễn khách (tặng Nguyễn Nhược Pháp), Biệt ly êm ái
(tặng Nguyễn Xuân Khoát), Với bàn tay ấy (tặng Huy Cận), Dối trá (tặng
Lương Xuân Nhị)… Ở những bài này chủ thể trữ tình không còn xưng “anh”
như các bài thơ viết về tìn h yêu thông thường, mà thường là xưng “tôi”,
“chúng tôi”, “họ”… Đều đặc biệt cảm xúc của “tình trai” lại được nhà thơ diễn
tả như tình yêu nam nữ. Chẳng hạn ở bài Biệt ly êm ái nhà thơ nói rõ “chúng
tôi” là những người bạn trai đang chia tay nhau (Giờ biệt ly cứ đến gần từng
phút, Chúng tôi thấy đã xa nhau một chút). Nhưng đọc kỹ cả ba chúng ta lại
tưởng như nhà thơ tả tình yêu lứa đôi:
Chúng tôi ngồi, vây p hủ bởi trăng thâu,
Tay trong tay, đầu dựa sát bên đầu
Tình yêu bảo: “thôi các người đừng khóc
Các người sẽ đoàn viên trong mộng ngọc”.
Cứ nhìn nhau rồi lại vẫn nhìn nhau
Hạnh phúc ngừng giữa đôi trái tim đau.
Biệt ly êm ái
Hay ở bài Viễn khách (Tặng Nguyễn Như ợc Pháp) nhà thơ tả cảm xúc
của đôi bạn trai tạm biệt nhau mà cứ như một đôi nam nữ đang chia tay nhau:
Mắt nghẹn nhìn thâu dạ;
Môi khô hết níu lời…
Chân dời, tay muốn rã…
Kẻ khuất… kẻ trông vời…
Hôm nào như hôm qua
Má kề trên gối sánh?
Anh đi đường có hoa…
Tôi nằm trong tuổi lạnh.
Viễn khách
Đọc những bài thơ này của Xuân Diệu người đọc nhận ra chất hồn
nhiên trong thơ ông. Hình như ông không hề dấu giếm bất cứ cái gì. Nỗi lòng
ông thế nào thì trào ra ngọn bút thế ấy. Xuân Diệu mê hoặc người đọc bằng
sự say mê, bằng sự chân thật và hồn nhiên của lòng mình.
Một nét đặc sắc nữa trong cảm xúc tình yêu của thơ Xuân Diệu là ông
đã nâng tình yêu lên thành triết lí về sự sống. Nhiều người đã nói về sự đa
thanh, đa sắc trong tình yêu của Xuân Diệu. Nhưng có lẽ điều đáng nói nhất ở
đây lại chính là ở chỗ Xuân Diệu xem tình yêu cao hơn chính nó, đó không
chỉ là tình yêu nữa, mà là sự sống.
Ngay từ khi mới bập bẹ viết những dòng thơ đầu tiên trong cuộc đời
mình Xuân Diệu đã dành nói về tình yêu. Bài thơ đầu tiên của ông, Bài thơ
tuổi nhỏ, viết 1933 khi ông vừa 17 tuổi là một bài thơ tình đầy rạo rực, ẩn
chứa triết lí về sự sống và tình yêu:
Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào
Hãy đốt đời ta muôn thứ lửa
Cho bừng tia mắt, đọ tia sao
Bài thơ tuổi nhỏ
Trước ông chưa ai quan niệm như vậy cả. Cùng thời với ông người ta
không quan niệm như thế. Thơ mới tôn thờ tình yêu, xem tình yêu như
phương cách để thoát khỏi thực tại, thậm chí tôn thờ như tôn giáo. Nhưng
mấy ai xem tình yêu là chất sống, là sự sống như Xuân Diệu, thậm chí xem
nó thứ có thể “ăn” được, “uống” được như một phần vật chất tạo nên sự sống
ở đời. Ông nhận mình là “Kẻ uống tình yêu dập cả môi”. Ông ao ước: “Trời ơi
ta muốn uống hồn em”v.v…
Với quan niệm như vậy cho thấy dù viết về gì cuối cùng Xuân Diệu gần
như đều hướng ve tình yêu. Ông tự nhận mình là “nòi tình“ (Ta, nòi tình, giá
ngắt vì sương - Thanh niên) là kẻ “đa tình” đến mức “Gặp kẻ nào đâu anh
cũng mê“ (Giới thiệu). Thậm chí còn sáng chế ra cả tên gọi mình là “người-
chỉ-biết-yêu“:
Quá thật thà nên hóa dại khờ
Bắt đầu người - chỉ - biết - yêu lo
Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ
Giới thiệu
Xin lưu ý là những gạch nối trong cụm từ “người-chỉ-biết-yêu” là trong
nguyên bản của tác giả. Ông cố ý định danh cho mình như vậy. Ở một số bài
khác ông đã giải thích điều này rõ hơn:
Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá
Chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì
Vì sao
Tôi không biết, không biết gì nữa cả,
Chỉ yêu nhiều là tôi biết mà thôi
Tặng thơ
Con người “chỉ biết yêu” ấy luôn luôn khát khao sống cho nên sẽ luôn
luôn khát khao yêu, bao giờ cũng thấy chưa đủ:
Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ
Phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần
Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm xuân
Đem chim bướm thả trong vườn tình ái.
Phải nói
Đó là con người tuyên bố yêu từ khi chưa có tuổi, cho đến khi không
còn trên đời này nữa. Đó la con người yêu lúc sống và yêu cả khi chết rồi:
Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi
Lúc chưa sinh, vơ vẩn giữa dòng đời
Tôi đã yêu khi đã hết tuổi rồi
Không xương vóc, chỉ huyền bồ bóng dáng
và:
Kẻ đa tình không cần đủ thịt da
Khi chết rồi tôi sẽ yêu ma
Đa tình
Có thể nói tình yêu trong thơ Xuân Diệu chính là một biểu hiện tập
trung nhất của khát vọng sống nơi ông.
Nếu nói về lòng ham sống của thơ ông mà không nói đến tình yêu thì
cũng như chưa nói gì cả. Nếu nói về tình yêu trong thơ ông mà không hiểu
rằng đó là biểu hiện của một khát vọng sống thì cũng chưa hiểu Xuân Diệu.
1.2. Thơ Xuân Diệu là nỗi băn khoăn về con người và cuộc đời.
1.2.1. Hình như trong sâu thẳm của lòng khát khao được sống, được
“giao cảm”, thơ Xuân Diệu còn ẩn chứa bao nhiêu lo âu, bao nhiêu băn
khoăn. Đó chính là một phía khác của cảm xúc thơ ông. Cho nên không phải
ngẫu nhiên mà khi nhận xét về các nhà Thơ mới bên cạnh việc khẳng định
hồn thơ “rộng mở” của Thế Lữ, “mơ màng” của Lưu Trọng Lư, “hù ng tráng”
của Huy Thông, “trong sáng” của Nguyễn Nhược Pháp, “ảo não” của Huy
Cận, “quê mùa” của Nguyễn Bính, “kì dị” của Chế Lan Viên… thì Hoài Thanh
lại khẳng định hồn thơ của Xuân Diệu là “thiết tha, rạo rực, băn khoăn” (210;
tr.29). Đúng như vậy, niềm “băn khoăn” đã tạo nên một mặt khác của nội
dung trữ tình trong thơ Xuân Diệu bên cạnh lòng khát khao ham sống của
ông.
Đọc thơ Xuân Diệu đầy những câu hỏi thảng thốt, lo âu, những câu hỏi
ẩn chứa bao nhiêu nỗi băn khoăn trước cuộc đời:
Vì sao giáp mặt buổi đầu tiên
Tôi đã đày thân giữa xứ phiền?
Vì sao
Ờ nhỉ? Sao hoa lại phải rơi?
Đã xa, sao lại hứa yêu hoài?
Thực là dị quá! - Mà tôi nữa
Sao nghĩ làm chi chuyện nhạt phai?
Ý thu
Tôi buồn không hiểu vì sai tôi buồn
Chiều
Hồn lạc rồi không biết ngõ nào ra
Sương mờ
Đường đi không biết đâu nơi
Cỏ xuôi nương dõi bước người viễn vông
Ngã ba
Biết bao lần trong thơ ông vang lên điệp khúc của những câu hỏi “vì
sao”, “làm sao”, “nơi đâu”, “chốn nào”, “có ai”, “có biết”… Những câu hỏi đọng
lại thành nỗi suy tư, niềm trăn trở trong thơ Xuân Diệu, khiến cho thơ ông có
cái day dứt, băn khoăn rất sâu sắc. Ông băn khoăn về đời, về người và nhiều
hơn là về chính mình. Những băn khoăn ấy có phần như ông thú nhận sau
này bắt nguồn từ những trang văn đầy thảng thốt của Đoàn Như Khuê, Từ
Trẩm Á, của Tàn Đà mà ông thuộc lòng từ khi mới “em thiếu nhi chớp hàng
mi nhìn ra cuộc đời đã thấy một giọt lệ”. Ông viết: “Sao mà văn thơ cứ tiếc
nuối một cái gì. Có một cái gì đó bình rơi gương vỡ, rụng cải rơi kim ở trong
văn học“ (Những bước đường tư tưởng của tôi). Một mặt khác, những băn
khoăn của thơ ông cũng chính là băn khoăn của một thời, của một thế hệ. Có
điều những băn khoăn ấy ở Xuân Diệu không còn là băn khoăn của tư tưởng
nữa, mà trở thành cảm xúc của thi ca, để tạo nên một nội dung trữ tình rất
đặc sắc trong thơ ông.
1.2.2. Cái băn khoăn lớn nhất ảm ảnh trong mỗi hình tượng thơ Xuân
Diệu là sự bất lực, hữu hạn của con người trước cái vô hạn của cuộc đời.
Trước hết, đó là sự đối lập giữa cái khoảng khắc của đời người với cái
tuôn chảy của thời gian. Ông cay đắng nhận ra đó là giới hạn mà con người
không thể vượt qua. Cảm thức về một “thời gian không đứng đợi”, về một
“tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” luôn luôn ám ảnh ông, ta o nên những tứ thơ
đầy băn khoăn, trăn trở như ở Vội vàng, Giục giã, Hư vô, Đẹp, Tặng bạn bây
giờ…
Ở đây Xuân Diệu đã hoảng hốt thật sự trước một sự thật rành rẽ mười
mươi.
Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Vội vàng
Mười chín tuổi, hỡi những nàng má ngọc,
Ríu rít chim là tuổi ước mơ hoa
Hỡi chàng trai kiều diễm mãi vui ca,
Mười chín tuổi chẳng hai lần hoa nở!
Đẹp
Chỉ mấy năm thôi đủ phận chồng
Chàng trai tơ mởn đã thành ông.
Tặng bạn bây giờ
Xuân Diệu nhận ra cái khách quan đến dửng dưng của thời gian. Ánh
chiếu của thời gian không phải chỉ khắc nghiệt với tuổi trẻ mà với muôn loài.
Thời gian hiện lên nơi hoa: “Chẳng hái mà hoa cũng hết dần“ (Ý thu) “Hoa thu
không nắng cũng phai màu” (Hoa nở để mà tàn); thời gian đóng dấu già nua
lên tuổi xuân:“Mái xanh hương đượm chốc sương đầy” (Kẻ đi đày). Thời gian
chia lìa những lứa đôi: “Ôi ngắn ngủi là những giờ họp mặt. Ôi vội vàng là
những phút trao yêu! Vừa nắng mai sao đã đến sương chiều“ (Kỉ niệm) v.v…
Cảm nhận được cái nghi ệt ngã này của thời gian, thơ Xuân Diệu đầy
những tiếc nuối. Tiếc những giờ, những phút trao yêu quá ngắn ngủi. Tiếc
cho tuổi trẻ chẳng mấy chốc mà “má hóp”, “mắt phai”. Tiếc cho “những nàng
con gái sớm phai bông”. Tiếc cho cả chính mình một kẻ ham sống như thế
mà cũng phải chết, cũng phải đối diện với nhng “bờ lạnh lẽo của hư không”:
Nhưng mà tôi sẽ chết, than ôi!
Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời,
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời.
Kẻ uống tình yêu dập cả môi
Nhưng mà tôi sẽ chết, than ôi!
Hư vô
Những phảng phất của những nuối tiếc, những buồn đau như thế hiện
lên khắp những trang thơ ông. Chúng ta nhận ra đó là cái bất lực của lòng
ham sống trước cái vô cùng của thời gian. Ông đã từng khắc phục bằng sự
“vội vàng”, bằng sự níu kéo “thì hiện tại”, nhưng đó chỉ là giả định có tính chất
lí tưởng mà thôi. Cho nên ông vẫn không thể giấu được nỗi buồn đằng sau sự
cuồng nhiệt của mình. Hay nói như Thế Lữ “nụ cười rung ở miệng” mà “nước
mắt ứa dưới hàng mi”, “buồn tịch mịch ngay trong những điều nóng ấm reo
vui” (142; tr.10).
Thứ hai, băn khoăn của thơ Xuân Diệu là ở những “khoảng cách” đời
người mà không dễ gì khắc phục được.
Càng ham sống càng mong được chia sẻ, mong được cảm thông xóa
bớt khoảng cách. Ông như muốn ôm vào vòng tay của mình cả đất trời, cả sự
sống. Đồng thời ông cũng như muốn tan ra, hòa vào đất trời như hoa kia “gửi
hương cho gió” vậy. Xuân Diệu tư ví mình như cây kim bé nhỏ mà vạn vật là
những thỏi nam châm. Khát khao được hút vào vạn vật cũng là khát khao xóa
bớt khoảng cách. Với ông, phải luôn luôn:
Gần thêm nữa, thế vẫn còn xa lắm!
Xa cách
Thế nhưng gần như là nghịch lí, hình như càng muốn gần gũi thì ông
thấy càng trở nên xa cách. Con người trở thành những tiểu vũ trụ, giữa họ
mãi mãi là bức tường câm lặng của Vạn Lý Trường Thành không thể vượt
qua.
Em là em: anh vẫn cứ là anh.
Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật
Xa cách
Con người luôn luôn “xa cách” như vậy cho nên trong thơ Xuân Diệu
thấm nỗi cô đơn đến rợn ngợp: “Anh là con chim bơ vơ, lạnh lùng bay giữa
gió, sương, mưa” (Muộn màng), “Tôi là kẻ bơ vơ, yêu những ái tình quạnh
quẽ”; “Tôi là chiếc thuyền không bến đỗ”; “Tôi là con chim không tổ” (Dối trá),
“Ta như cô khách khoảng đìu hiu” (Nước đổ lá khoai), “Ta nằm đây như một
ải quan xa” (Riêng tây) v.v… Cái cảm giác bơ vơ, lạc bước, cô đơn ngay bên
cạnh nhau thật thấm thía trong thơ ông. Đôi khi chính nhà thơ tự hỏi: “Không
biết lòng đi tới chốn nào” (Hết ngày, hết tháng). Con người yêu người, yêu đời
càng muốn xích lại, càng thấy xa cách, càng xa cách càng thấy cô đơn. Ông
bỗng thấy trơ trọi như Hi Mã Lạp Sơn:
Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
Hi Mã Lạp Sơn
Hai câu thơ này có phần khẳng định cái tôi của nhà thơ. Nhưng có lẽ
nhiều hơn đây là một nỗi cô quạnh, cô quạnh như chính ông đã cảm nhận
“Lạnh lùng chăng sầu một đỉnh chon von”, “Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng
thê nguyệt, Cô đơn muôn lần, muôn thủa cô đơn”. Nỗi cô đơn trong thơ ông
dâng đến tận cùng như cô kĩ nữ nhìn sông trôi mà bất giác kêu lên bi thiết:
Chớ để riêng em gặp phải hồn em
Lời kĩ nữ
Còn nỗi cô đơn nào thấm thía hơn khi mình phải đối diện với chính lòng
mình. Và ở đây nhà thơ nhận thấy “khoảng cách” trong chính mình:
Linh hồn ta u ẩn tựa ban đêm
Ta chưa thấu nữa là ai thấu rõ.
Xa cách
Nhà thơ như tách ra khỏi “mình”, tìm hiểu chính mình:
Đã nghìn lần anh bắt được anh mơ
Tình thứ nhất
cũng như tìm hiểu người khác:
Anh muốn vào dò xét giấc mơ em
Xa cách
Để cuối cùng nhận ra: “Em là em: anh vẫn cứ la anh”, “Hai người
nhưng chẳng bớt bơ vơ “, để rồi cuối cùng chỉ còn đọng lại trong tâm khảm
của một nỗi buồn cô đơn: “Trái tim buồn như một bãi tha ma” mà thôi. Sự bất
lực trước những khoảng cách của con người, của cuộc đời và của chính mình
đã khiến cho con người yêu đời yêu người ấy có khi phải thốt lên:
Cuộc đời cũng đìu hiu như dặm khách
Mà tình yêu như quán trọ bên đường
Chỉ ở lòng ta
Và tự nhận:
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối.
Khi chiều giăng lưới
Càng buồn, càng cô đơn, càng muốn thoát ra khỏi nó. Nhưng mà biết
đâu khi mà “chiều tứ bề không phá nổi trùng vậy” của cuộc đời, đành làm con
nai bị chiều đánh lưới, đứng sầu muộn giữa cuộc đời. Hình ảnh “con nai bị
chiều đánh lưới” ẩn chứa là tất cả những ray rứt và băn khoăn của một tâm
hồn không có lối ra trước cuộc đời.
Với những nội dung trữ tình như đã phân tích, thơ Xuân Diệu có một
cung bậc riêng, một giọng điệu riêng trong tiến trình hiện đại hóa thơ Việt
Nam. Những nội dung ấy cũng tạo nên một phong cách, một “chất Xuân Diệu”
trong thơ, xác lập một vị trí quan trọng của ông trong thơ Việt Nam hiện đại.
2. Phương thức trữ tìnhCùng với việc đổi mới nội dung trữ tình thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932-
1945 còn mang đến nhiều đổi mới ở phương thức trữ tình, tư duy nghệ thuật
và phương thức xây dựng hình tượng thơ. Thơ ông mang đến những cách
tiếp cận mới mẻ về thế giới.
2.1. Trước hết phương thức trữ tình của Xuân Diệu là trữ tình của một chủ thể bộc lộ trên cơ sở cảm nhận chủ quan về thế giới
2.1.1. Đây là lối trữ tình khác với thơ cổ điển. Trong thơ cổ điển do
quan niệm con người là một phần trong “vạn vật nhất thể” cho nên nhà thơ
thường ẩn mình sau thiên nhiên, tạo vật. Phương thức trữ tình của thơ cổ do
vậy chủ yếu là trữ tình của một chủ thể “ẩn”. Với phương thức này, nhà thơ
thường lùi lại, lẫn vào vạn vật mà bộc lộ cảm xúc. Nhà thơ thể hiện cảm xúc
của mình mà như của “ai đó” trong trời đất. Chẳng hạn như bài thơ Nôm sau
đây của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Thị phi chẳng quản mặc chê khen
Ngu dại trần trần tính đã quen
Cảnh cũ điền viên tìm chốn cũ
Khách nhàn thân thể dưỡng thân nhàn
Nhà thông, đường trúc lòng hằng mến
Cửa mận, tường đào bước ngại chen
Thế sự tuần hoàn hay đắp đổi
Từng xem thua được một hai phen
NGUYỄN BỈNH KHIÊM, Thơ Nôm, Bài 41
Trong bài thơ nhà thơ bày tỏ nỗi lòng của mình trước thế sự. Đó là nỗi
lòng của một con người lấy cảnh điền viên làm chốn vui để lúc nào cũng giữ
được cái cốt cách thanh cao của bậc quân tử trước thị phi của thế gian, trước
tuần hoàn đắp đổi của thế sự. Vậy mà đọc lên cứ như đang nói về nỗi lòng
của một khách nào đó (Khách nhàn thân thể dưỡng thân nhàn).
Hay một bài thơ chữ Hán của Đặng Dung
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma
ĐẶNG DUNG - Cảm hoài
Trong bài thơ có “nỗi lòng“ của người anh hùng “ẩm hận đa“ trước “thế
sự du du”, “vô cùng thiên địa”. Những mong “trí chủ” “phù địa trục” mà thấy
mình già mất rồi; có nỗi canh cánh của người đầu bạc mà chưa đền xong nợ
nước. Bài thơ nói lên nỗi niềm ấy của chính nhà thơ vậy mà cứ như của “ai
đó”.
Trong thơ cổ, nhà thơ ẩn mình đi, tự “khách quan hóa” mình đi để thành
ra “khách”, ”thi nhân”, “người lữ thứ”, “lão”v.v… Đôi khi nhà thơ có xưng “ta”
nhưng “ta” đó là chung cho nhiều người, chứ chưa phải là “tôi” như ở Thơ
mới. Nói chung trong thơ cổ xuất hiện chủ thể ẩn khách quan.Ví như Nguyễn
Khuyến tự gọi mình là “lão” dưới đây:
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng hay,hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè
NGUYỄN KHUYẾN - Thu ẩm
Còn Bạch Cư Dị trong Tì bà hành lại gọi mình là “quan tư mã Giang
Châu”:
Tọa trung khấp hạ thùy tối đa
Giang Châu tư mã thanh sam thấp
(Trong đó ai khóc nhiều hơn cả?
Quan tư mã Giang Châu vạt áo xanh ướt đẫm)
BẠCH CƯ DỊ - Tì bà hành
Đôi khi nhà thơ cũng xuất hiện dưới dạng bộc lộ như trong một số bài
thơ của Hồ Xuân Hương (Này của Xuân Hương mới quệt rồi - Mời trầu), của
Nguyễn Khuyến (Bác gìa tôi cũng già rồi, Biết thôi biết thế thì thôi mới là -
Khóc Dương Khuê), của Trần Tế Xương (Trời không chớp bể chẳng mưa
nguồn, Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn - Đêm hè) v.v… Tuy nhiên loại này
chiếm một tỷ lệ rất ít trong thơ cổ điển; nhiều hơn vẫn là dạng chủ thể “ẩn”
như vừa nói ở trên.
2.1.2. Với quan niệm đề cao con người cá nhân, xem con người là
trung tâm của thế giới, cái tôi trong thơ Xuân Diệu được khẳng định. Chủ thể
trữ tình trong thơ ông do vậy thường xuất hiện dưới dạng bộc lộ trực tiếp là
“tôi”, là “anh”, là “em”, là “chúng tôi“… theo kiểu như:
- Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ
- Tôi dạo tìm thơ gặp li biệt
- Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi
- Anh muốn vào dò xét giấc mơ em
- Lòng anh rạo rực không duyên cớ
- Gặp kẻ nào đâu anh cũng mê
- Lòng ta là một cơn mưa lũ
- Ta bá cổ những con rồng gió lớn
- Chúng tôi ngồi vây phủ bởi trăng thâu…
Phương thức trữ tình này rất phổ biến trong Thơ mới cũng như trong
thơ Xuân Diệu, nhưng không phải bất cứ nhà thơ nào cũng sử dụng. Xin nên
vài thông số: với Xuân Diệu ở tập Thơ thơ là 37/46 bài, Gửi hương cho gió là
39/51 bài trữ tình theo phương thức này. Ở Điêu tàn của Chế Lan Viên tỉ lệ đó
là 33/35 bài. Còn ở Bức tranh que của Anh Thơ thì không có bài nào.
Với phương thức này, thơ Xuân Diệu không còn trữ tình theo kiểu “vô
chủ” của ai đó nữa như trong thơ cổ điển mà là thứ tiếng nói có chủ. Nó cũng
không còn là thứ tiếng nói mang tính chất suy tư bên trong không định hướng,
mà hướng đến những đối tượng nhất định, dù đối tượng đó không phải bao
giờ cũng rõ ràng. Chính tính chất này đã ta o nên tính “đối thoại” trong thơ
Xuân Diệu cũng như Thơ mới nói chung mà thơ cổ điển không có. Nhà thơ
dường như bao giờ cũng đang bộc lộ, giải bày thuyết phục với ai đó. Chẳng
hạn nói với “em”:
Em phải nói, phải nói và phải nói
Bằng lời riêng nơi cuối mắt đầu, đầu mày
Bằng nét vui, bằng vẻ thẹn, chiều say
Bằng đầu ngả, miệng cười tay riết
Bằng im lặng, bằng chỉ anh có biết
Phải nói
“Nói” với bạn đọc vô hình:
Chủ nhật còn nguyên, còn trọn vẹn
Tôi chưa tiêu mất một giờ nào
Như đứa trẻ con ôm cái bánh
E dè tôi muốn giữ cho lâu
Giờ tàn
v.v…
2.1.3. Điều đáng nhấn mạnh ở đây là với lối trữ tình này Xuân Diệu đã
tạo được một cách tiếp cận mới, một cách xây dựng hình tượng kiểu mới,
một kiểu Thơ mới. Đó là thơ chủ quan.
Đã có một vài ý kiến về thơ “chủ quan” “thơ hướng nội” “thơ nội
quan”… của Xuân Diệu mà ý kiến của Phạm Thế Ngũ là một trong những ý
kiến khá tiêu biểu. Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên Phạm Thế
Ngũ cho rằng Xuân Diệu đã tạo được một hướng thơ thật mới, là thơ nội
quan, ông viết: “Xuân Diệu hay đưa chúng ta vào thăm bên trong ông, tạo ra
một hướng thơ thật là mới, có thể gọi là thơ nội quan. Thi sĩ lấy chính nội tâm
mình làm đề tài. Khi nhân nghe đàn (Nhị hồ, Nguyệt cầm). Khi nhân một buổi
trời mưa gió, thi sĩ đóng cửa tâm hồn lại, nằm nghe ngóng và gặm nhấm
những buồn thương của mình (Riêng tây). Khi hướng nội tự quan kỹ lưỡng
hơn ông tả cho ta thấy những ý thoáng hiện lên màn ý thức bằng hình ảnh
thơ” (Ý thoáng; 170; tập 3; tr.573*). Như vậy theo quan niệm của nhà nghiên
cứu thơ Xuân Diệu được gọi là thơ nội quan là do hướng nội, lấy chính nội
tâm mình làm đề tài.
Ở đây chúng tôi gọi thơ Xuân Diệu là thơ chủ quan không phải vì
“hướng nội” mà vì nguyên tắc miêu tả nghệ thuật trong trong thơ ông. Đó là
nguyên tắc lấy cảm nhận chủ quan của mình để miêu tả thế giới, tức là chủ
quan của phương thức chiếm lĩnh hiện thực, ở phương thức tư duy nghệ
thuật của nhà thơ, chứ không phải ở phạm vi đề tài.
Thơ cổ điển chưa biết tới phương thức tư duy này. Trong thơ cổ điển
nhà thơ nhấn mạnh đến “chí” (thi dĩ ngôn chí), lấy chí ma suy. Cho nên nhiều
nhà nghiên cứu đã cho rằng “các nhà thơ cổ không vẽ cảnh thiên nhiên mà
chỉ vẽ lòng mình“ (Phan Huy Dũng; 46; tr.3) và đó là “một thế giới ý tượng
hơn là hình tượng“ (Trần Đình Sử; 198; tr.120). Các nhà thơ cổ điển miêu tả
thế giới bằng ý niệm là chủ yếu, Nhữ Thành trong một công trình nghiên cứu
về thơ Đường cũng đã khẳng định điều này. Theo ông thơ Đường tả núi cao,
nhưng không gợi được cao một cách cụ thể, do vậy phải miêu tả bằng cách
thống nhất chiều rộng và chiều cao. Muốn tả “cao“ thì nói “rộng“: lên núi tầm
nhìn thấy càng xa, thì chứng tỏ núi cao. Ở đây “ý tượng“ về núi, chứ chưa có
“hình tượng“ về núi.
Xuân Diệu cũng như nhiều nhà Thơ mới đã tuân thủ nguyên tắc chủ
quan một cách triệt để. Nhà thơ miêu tả thế giới không phải bằ ng ý niệm về
nó, mà bằng cảm xúc về nó, cho phép người đọc cảm nhận th ế giới ở cấp
“hình tượng” chứ không phải ở cấp “ý tượng”, nghĩa là có thể hình dung thế
giới một cách cụ thể cảm tính chứ không phải ở quan niệm, nhận thức về nó.
Nhưng hình tượng cụ thể cảm tính ở đây không phải là bức tranh hiện thực
về thế giới, mà phụ thuộc vào cảm xúc chủ quan của tác giả, vì thế gọi là thơ
của chủ quan. Chẳng hạn khi Xuân Diệu viết “Gió vừa chạy vừa rên vừa tắt
thở” thì ta nhận thấy ở đây tất cả cái cảm tính cụ thể về một ngọn gió mang
cái bi ai, vội vàng, gấp gáp của cảm xúc thi nhân, chứ không phải là một ngọn
gió thực nào đó.
Do vậy nguyên tắc chủ quan này cũng không phải là nguyên tắc “tả
chân” như một số người quan niệm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thơ lãng
mạn đã đem lại một nguyên tắc miêu tả mới là tả chân sự vật bằng trực cảm
mang nội dung tâm lý và tưởng tượng, và xem đó là dấu hiệu của một khả
năng mà Thơ mới mang đến cho thơ hiện đại.
Quả đúng là nguyên tắc tả chân chủ yếu mới xuất hiện trong Thơ mới
như Hoài Thanh đã khẳng định, nhưng chưa hẳn đã trở thành một nguyên tắc
nghệ thuật của phong trào này. Trong Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh xác
nhận tính chất mới mẻ của nguyên tắc nghệ thuật này nhưng ông không đánh
giá cao và cũng không xem đó là phương thức phổ biến. Trong mục viết về
Nam Trân ông nhận xét: “Lối thơ tả cha n vốn xưa ta không có, đây đó rải rác
cũng nhặt được một đôi câu, nhưng đến Nam Trân mới biệt thành một lối”
(210; tr.182). Trong tiểu luận Một thời đại trong thi ca ông cũng viết gần như
vậy: “Cùng ra đời một lần với Xuân Huy (Xuân Diệu - Huy Cận - LTD) nhưng
kém thanh thế hơn nhiều là thơ tả chân. Thơ mới vốn ưa tả chân hơn thơ cũ,
nhưng làm những bài tả chân biệt hẳn ra một lối chỉ có Nam Trân, Đoàn Văn
Cừ, Anh Thơ. Cũng có thể kể cả Bàng Bá Lân và Thu Hồng” (210; tr.32,
chúng tôi nhấn mạnh - LTD). Cùng chia sẻ quan niệm này của Hoài Thanh,
hơn 40 năm sau trong Thơ mới, những bước thăng trầm, Lê Đình Kỵ cũng
khẳng định: “Tiêu biểu nhất cho Thơ mới không phải là lối thơ tả thực hay lối
ca dao không hơn không kém, mà là Thế Lữ, Lưu Trọng Lư và nhất là Xuân
Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên” (117; tr.109). Như vậy có thể nói
theo các nhà nghiên cứu vừa trích, “tả chân” chỉ là một bộ phận nhỏ của Thơ
mới và cũng không phải là tiêu biểu nhất của phong trào này. Điều này la phù
hợp với đặc đi ểm loại hình của phong trào Thơ mới. Loại hình của Thơ mới
cơ bản thuộc phạm trù của chủ nghĩa lãng mạn, mà đã là thơ lãng mạn thì sẽ
đề cao “mộng tưởng”. Do vậy nếu hiểu nghĩa “tả chân” như Hoài Thanh thì rất
khó có thể tán đồng quan niệm cho “tả chân” như một nguyên tắc quan trọng
và chính yếu của Thơ mới.
Thơ Xuân Diệu có tả chân nhưng rất ít (chẳng hạn như: Hương bưởi
thơm rồi, đêm đã khuya, Mây theo chim về dãy núi xanh…), cơ bản hơn là
theo nguyên tắc chủ quan như đã đề cập ở trên. Theo nguyên tắc này nhà
thơ không miêu tả sự vật như trong hiện thực mà như mình cảm xúc. Có điều
cảm xúc này đã chuyển hóa thành những hình tượng mang tính chất cá thể
hóa, chứ không còn mang tính chất “ý tượng” như trong thơ cổ điển. Miêu tả
theo nguyên tắc này hình tượng thơ không nhất thiết phải tương đồng với
hiện thực, nhưng lại cho người đọc cảm nhận tươi rói cụ thể về nó. Theo đó
càng chủ quan thì càng lãng mạn. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà nhiều
người xem Xuân Diệu là nhà thơ “rất lãng mạn” hay “lãng mạn nhất”. Có thể
phân tích một vài hình tượng thơ để làm sáng tỏ điều này. Trong bài Thơ
duyên Xuân Diệu viết:
Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Ở đây mới đọc ta tưởng nhà thơ “tả chân” nhưng đọc kỹ sẽ thấy không
phải như vậy. Có con đường, có gió, cành cây, có nắng chiều… Nhưng cảnh
ấy nhòe đi theo trái tim xúc động của thi nhân để không còn cảnh thực nữa,
mà cảnh của một nỗi lòng. Hay như Hoài Thanh đã nhận xét: “Chính là hai
câu tả cảnh. Nhưng cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Nó chỉ mất đi một
tí rõ ràng để thêm được rất nhiều mơ mộng” (210; tr.155). Điểm khác nhau ở
đây giữa Xuân Diệu cũng như các nhà Thơ mới nói chung với thơ cổ điển là
ở chỗ thơ cổ điển dựng lên hình ảnh hiện thực theo ý niệm của nhà thơ còn
Thơ mới dựng lên hình ảnh với tất cả sự sinh động, cảm tính của nó.
Xin nêu thêm một ví dụ khác để rõ hơn. Cũng ở bài Thơ duyên này, khi
miêu tả một hiện tượng rất quen thuộc là trời xanh thì Xuân Diệu viết một câu
thơ rất lạ:
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Trước Xuân Diệu đã có biết bao thi nhân vẽ màu của bầu trời xanh. Đó
là màu trời xanh thanh khiết không một gợn mây trong thơ Lí Bạch “Thanh
thiên vô phiến vân” (Trời xanh ngắt không một gợn mây - Dạ bạc Ngưu Chữ
hoài cổ). Đó là màu xanh làm cho bầu trời trở nên thăm thẳm trong thơ
Nguyễn Khuyến “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” (Thu vịnh) v.v… Nhưng
mấy ai đủ dạt dào như Xuân Diệu để cảm nhận cái sắc trời muôn đời ấy như
đang tuôn chảy vào lòng người. Mà nào đâu chỉ tuôn chảy, nhà thơ viết là “đổ
trời” kia mà! Nghĩa là màu xanh của trời cao không chảy mà như đổ xuống ào
ạt. Câu thơ thật táo bạo, thật mãnh liệt và cũng thật là tinh vi. Màu xanh kia là
màu của tấc lòng, của cảm xúc chứ đâu là màu của “thiên thanh”, “ngọc bích”
như trong thi ca xưa nữa. Xuân Diệu đã không miêu tả sắc màu bằng cái nhìn
thị giác đã bị ước lệ hóa như người xưa, mà ông đã tả màu trời bằng tất cả
cái nôn nao, dào dạt của cảm xúc. Ta cảm nhận ở đây không chỉ sắc màu mà
còn như có cả âm vang của nó tạo nên giữa cõi lòng. Thi nhân như đưa lòng
mình mà hứng lấy sắc màu của trời cao. Thật là một câu thơ có một không
hai. Đó cũng là một cái nhìn “rất Xuân Diệu”.
2.1.4. Với nguyên tắc chủ quan Xuân Diệu đã cấp cho sự vật muôn vàn
ý nghĩa mà ở thơ ước lệ cổ điển không có được. Nói cách khác Xuân Diệu đã
rời bỏ tư duy “ước lệ” trong thơ cổ chuyển sang tư duy cá thể hóa.
Cái hay của thơ cổ điển là ở tính hàm súc uyên thâm nói ít mà gợi
nhiều. Để đạt được điều này thường dẫn đến ước lệ trong miêu tả. Nhữ
Thành cho rằng đạt được trình độ ước lệ là đỉnh cao của nghệ thuật Đường
thi so với trước đó. Nhà nghiên cứu cho là từ bao nhiêu chữ như “sóc“,
“vọng”, “lạng”, “đồng”, “phỉ”, “mông”… trong Kinh Thi thi nhân mới “cô” lại
trong một chữ “nguyệt” trong Đường thi; từ bao nhiêu chữ như “dĩ“, “hỗ“,
“nghiễn” trong Kinh Thi… mới đúc lại thành chữ “sơn” trong Đường thi (213)…
Lương Duy Thứ cũng có nhận xét như vậy khi nghiên cứu thơ cổ điển Trung
Quốc. Ông viết: “Thơ cổ Trung Quốc thường chỉ gợi mà không ta, không nghị
luận phân tích, nhà thơ thường ít khi nói rõ, nói hết ý mình mà thường chỉ
dựng dậy các mối quan hệ để độc giả tự luận ra theo dụng ý của tác giả, để
độc giả tự cảm nhận lấy theo đôi mắt và trái tim của mình. Đặc điểm này thấy
rõ nhất trong cấu tứ thơ Đường… Hầu như đến thơ Đường mọi chi tiết rườm
rà của Kinh Thi, Sở Từ đều được xén gót và thăng hoa theo chiều hướng
biểu tượng” (237; tr.26; Chúng tôi nhấn mạnh - LTD). Những khái quát trên
cũng đúng cho cả đặc điểm của thơ cổ điển Việt Nam, một nền thơ chịu ảnh
hưởng của thơ cổ điển Trung Quốc rất sâu sắc. Nói rõ hơn, nguyên tắc ước
lệ cũng đã trở thành một nguyên tắc nghệ thuật quan trọng của thơ cổ điển
Việt Nam.
Đến thời kỳ Thơ mới, bộ y phục “ước lệ” của nghìn năm trước bỗng trở
nên chật chội với một thế hệ thi sĩ mới có Tây học. Bởi lẽ bên cạnh cái hay
của tư duy ước lệ là hàm súc, uyên thâm, nói ít gợi nhiều thì kiểu tư duy này
cũng có những hạn chế nhất định. Kiểu tư duy ước lệ dễ dẫn đến sự gò bó,
công thức, sáo mòn. Mặc khác kiểu tư duy này ít gợi cho người đọc cảm
nhận sự vật đối tượng miêu tả một cách cụ thể. Cho nên các thi nha n của thế
hệ mới muốn phá bỏ những lề thói cũ, những qui phạm cũ để tạo nên cách
tân tư duy mới mẻ hơn.
Thật ra không phải đến các nhà thơ mới mới thấy được hạn chế của
kiểu tư duy ước lệ mà ngay từ thế kỷ XVIII nhiều nhà thơ cũng đã cảm nhận
thấy sự gò bó của nó. Chí nh Cao Bá Quát trong Lời tựa truyện Hoa tiên cũng
đã phải cho rằng: “Nếu việc nào cũng bắt chước cũ, câu nào cũng học theo
người, đầu thôn tạm biệt đã hát câu “chén rượu Dương Quan”, xóm cạnh qua
chơi đã ngâm câu “tiếng gà điếm cỏ” thì “tuy có hệt được cái mặt ngoài của lối
chữ Lan Đình cũng chẳng ai thèm kể vào đâu. Tô Đông Pha bàn về cách viết
có nói: “Không học là hơn”. Ai hiểu được ý ấ y, thì có thể cùng nói chuyện về
việc làm thơ được” (242; tr.152, 153)… Tuy nhiên, phải đến thế hệ các nhà
Thơ mới mới thật sự có cuộc cải cách tư duy thơ mà Xuân Diệu là một trường
hợp tiêu biểu.
Trong hệ thống thi liệu của Xuân Diệu cũng như của các nhà Thơ mới,
hệ thống ước lệ của thơ cổ điển không được tôn sùng nữa. Nhà thơ đã sáng
tạo ra hệ thống thi liệu mới theo cái nhìn chủ quan của mình. Những tùng,
cúc, trúc, mai, những long, li, qui, phượng không còn là “tứ quý”, “tứ linh“
trong thơ ông. Tất nhiên nhà thơ không thể sáng tạo ra một trời đất khác, một
thiên nhiên khác mà sáng tạo ở đây là ở chỗ cấp cho chúng nh ững ý nghĩa
mới. Trong thơ cổ điển nói trăng, gió, núi, sông thì thơ Xuân Diệu cũng có
trăng, gió, núi, sông. Nhưng đó là trăng, gió, núi, sông của cái nhìn Thơ mới,
chứ không phải là trăng gió núi sông của cái nhìn thơ cổ điển. Ở đây chúng
tôi xin điểm qua một số ví dụ:
Chẳng hạn như trong thơ cổ điển “gió” chỉ là “gió”, là “phong”. Nếu nhà
thơ mở rộng nữa thì cũng la chỉ đến mức “trận gió cu ốn cờ“, “gió đông“, “gió
đàn“, “gió gác, trăng sân ”, “gió trúc, mưa mai”… Còn ở thơ Xuân Diệu gió có
bao nhiêu là sắc thái: gió hây, gió sợi, gió mờ, gió mau, gió thanh, gió thơm,
gió câm, gió kêu, gió kiều, gi ó rủi, gió người, con rồng gió, gió se, gió sương,
gió đào v.v… Rồi có cả “thân gió“ (Rồi khi nghỉ nhọc trong thân gió), “hồn gió“
(Đã in vết nơi hồn của gió), có cả nước mắt gió rơi, “mồ hôi gió rớt” (Và mưa
kia là nước mắt gió rơi, Và sương ấy là mồ hôi gió rớt). Trong thơ ông có cả
những cơn gió xinh của muôn đời (Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc), mà
cũng có “những luồng run rẩy“ (Những luồng run rẩy rung rinh lá), những
“luồng tái tê“ (Khắp xương nhánh chuyển một luồng tái tê). Trong thơ ông có
“ruộng gió, đồng trăng” của trời đất (Ruộng gió đồng trăng ấy anh đi) mà cũng
có những ngọn gió của tình yêu (Tình thổi gió màu yêu lên phấp phới), gió
của bóng người lướt qua (Tâm trí còn kinh trận gió người), gió của bàn chân
hăm hở (Chân nổi gió cứ mặt trời thẳng đến)… Trong thơ ông có ngọn gió vô
hình của thiên nhiên mà cũng có ngọn gió hữu hình của cảm xúc (Con đường
nho nhỏ, gió xiêu xiêu), có ngọn gió vô tri của tạo vật mà cũng có ngọn gió
biết khổ đau (Có nhiều lúc gió kêu tha thiết quá). Trong thơ ông có “gió nhớ
qua sông“ (Nghe chừng gió nhớ qua sông) có “gió nhẹ thẩn thơ bay“ (Một tối
trăng cao gieo mộng tưởng, Vào lòng gió nhẹ thẩn thơ bay) mà cũng có “Gió
hung dữ, gió sát sanh, gió cuồng” v.v… Có thể nói trong thơ Xuân Diệu gió có
biết bao nhiêu là sắc thái khác nhau với biết bao ý nghĩ khác nhau, diễn tả
được bao nhiêu là trạng thái cảm xúc của thi nhân.
Khảo sát một số thi liệu khác trong thơ Xuân Diệu chúng tôi cũng thấy
như vậy, thậm chí ở cả những thi liệu được dùng rất ít trong thơ như “liễu”
chẳng hạn. Trong thơ xưa “liễu” là một thi liệu được sử dụng rất nhiều. Chỉ
trong một truyện thơ như Truyện Kiều mà Đào Duy Anh nêu lên cho thấy có
đến 24 lần Nguyễn Du dùng thi liệu này (1; tr.221). Đến Thơ mới, do đổi mới
hệ thống miêu tả, thi liệu này được dùng rất ít, chúng tôi thống kê trong một
số tập thơ tiêu biểu thấy như sau: trong Mây của Vũ Hoàng Chương dùng 4
lần, trong Hoa niên của Tế Hanh 3 lần, trong Gái quê của Hàn Mặc Tử 4 lần,
trong Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính 2 lần, trong Mấy vần thơ của
Thế Lữ 6 lần, ở Bức tranh quê của Anh Thơ không sử dụng một lần nào.v.v…
Cách dùng nói chung của các nhà Thơ mới vừa nêu la mượn ý nghĩa ước lệ
sẵn có trong thi liệu này để miêu tả. Chẳng hạn như ở Vũ Hoàng Chương:
“Vóc liễu y thường hoa phấp phới” (Tình Liêu trai), “Liễu xinh thon dáng, liễu
cong đôi mày” (Dâng tình), “Sợi nhỏ thon mềm dáng liễu” (Nửa truyện Hồ Li),
“Trăng phới hài ngân liễu rướn cao” (Giang Nam người cũ). Ở Tế Hanh là:
“Nghìn năm trước tôi sinh bên khóm liễu” (Nhớ) “Ngồi điên dại sầu như cây
liễu” (Ao ước) “Hàng liễu bơ phờ cảm động lây” (Trường xưa). Ở Huy Cận là:
“Mê giai nhân, liễu mãnh với hồ đầy” (Trò chuyện), “Tóc rũ bờ tơ sợi liễu
mành” (Hồn xuân). Ở Hàn Mặc Tử là: “Dầu ai bên bờ liễu” (Tình quê), “Trăng
nằm sóng soãi trên cành liễu” (Bẽn lẽn), “Em gầy hơn gốc liễu” (Nhớ nhung),
“Em có gầy như liễu” (Lòng quê). Ở Nguyễn Bính là: “Lấy tơ liễu làm mành”
(Hôn nhau lần cuối), “Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ” (Viếng hồn trinh nữ).
Ở Thế Lữ là: “Gió đào mơn mởn liễu buông tơ. Lợi oanh trên liễu, yến bên
hồng” (Vẻ đẹp thoáng qua), “Óng ả như mình liễu” (Mộng ảnh), “Dưới bóng
liễu đang thở than cùng Quân Thụy” (Hoa thủy tiên), “Cao như thông vút,
buồn như liễu” (Tiếng gọi bên sông). Với những liệt kê vừa nêu trên một số
trường hợp nhà thơ mở rộng nghĩa, còn về cơ bản là vẫn dùng với ý nghĩa
vốn có cuả thi liệu này.
Xuân Diệu là người dùng “liễu” với nhiều sắc thái nhất, mặc dù trong cả
hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió ông cũng chỉ sử dụng có 9 lần. Nếu
ngày xưa liễu được dùng chủ yếu để chỉ mùa xuân với “oan h vàng, liễu biếc”;
với người đẹp một cái đẹp mong manh “liễu yếu đào tơ” và nhất là để miêu tả
cảnh biệt ly… thì bây giờ Xuân Diệu cấp cho “liễu” bao nhiêu là nghĩa mới.
Liễu có thể dùng để tả mùa xuân như thơ xưa (Tóc liễu buông xanh quá mỹ
miều - Nụ cười xuân) mà cũng có thể dùng để tả mùa thu tê tái (Rặng liễu đìu
hiu đứng chịu tang - Đây mùa thu tới). Liễu có thể là vẻ đẹp của những giai
nhân ngày xưa (Gót sen vàng liễu yếu chạy về đâu - Mơ xưa) mà cũng có thể
là vẻ đẹp của ngày hiện tại (Bước em đẹp vừa gởi tới đây, Chim hoa ríu rít,
liễu vui vầy - Dâng). Liễu có thể tả ngọn gió nhớ nhung (Gió liễu chiều còn
nhớ kẻ dương quan - Mơ xưa) mà cũng có thể tả hình bóng người đẹp hiện
lên trong tiếng đàn (Lá liễu dài như một nét mi - Nhị hồ). Liễu có thể là bóng
người (Cho liễu người khô, ngọc mắt phai - Kẻ đi đày) mà cũng có thể là bóng
cảnh (Tơ liễu giong gần, tơ liễu êm; Chim lẻo không im, liễu cứ gầy - Rạo
rực). Có thể nói, với cái nhìn cá thể hóa, Xuân Diệu đã mang đến cho những
thi liệu rất cũ, rất cổ điển bao nhiêu ý nghĩa mới, bao nhiêu cảm xúc mới, vượt
ra ngoài ước lệ vốn có.
Hay như chỉ với hình tượng “hoa” ma Xuân Diệu đã miêu tả với bao
nhiêu dáng vẻ khác nhau. Theo nghiên cứu của Hoàng Như Mai, “hoa thơ”
của Xuân Diệu có loài “rất cả thẹn”, có loài biết “làm duyên, làm dáng một
chút”, có loài mang “tính cách quý phái” nhưng cũng có loài chỉ là “hoa của
đồng nội xanh rì”, có loài “thơm đến rợn người” mà cũng có loài “chen giao
cùng trái độc”… (146; tr. 7 - 12). Những nhận xét này cho thấy tư duy ca thể
hóa của Xuân Diệu đã phát triển đến mức nào.
Sẽ thiếu sót nếu như không đề cập đến hệ thống thi liệu mang đặc
trưng “nghe, nhìn” của thơ cổ điển đã được sử dụng như thế nào trong thơ
Xuân Diệu? Người ta thường nói “trong thơ có nhạc, trong thơ có họa” là để
khái quát tính chất “nghe”, “nhìn” của thơ cổ, do vậy hệ thống màu sắc và âm
thanh rất được chú ý trong thơ cổ. Hệ thống này ở thơ Xuân Diệu được dùng
như thế nào? Trước hết chúng ta thử so sánh bảng màu của thơ cổ và bảng
màu của thơ Xuân Diệu.
Bảng màu của thơ cổ chủ yếu là những màu “ước lệ”. Nhiều nhà
nghiên cứu đã thừa nhận như vậy. Nghiên cứu thơ Đường, Lương Duy Thứ
khẳng định thế giới trong thơ Đường chỉ hiện lên như “một nét phác họa mờ
ảo của tranh thủy mặc” không phải là “những bức tranh với đầy đủ màu sắc
và đường nét chi tiết” (237; tr.25). Còn Nhữ Thành th ì cho rằng màu sắc
trong thơ Đường chỉ là màu của những “quan hệ hóa” chứ không phải là gam
màu cá biệt. Ông làm thống kê cho thấy trong thơ Đường có 19 chữ “sắc”
khác nhau (sơn sắc, thụ sắc, thu sắc, dương liễu sắc, quan tái sắc) nhưng
không chỉ màu sắc: “Trong hội họa có màu xanh, màu đỏ chứ làm gì có màu
núi (sơn sắc), màu thu (thu sắc), màu quan tái (quan tái sắc)… Vậy sắc đó là
cái gì? Đó là tồn tại, thu sắc là tồn tại của mùa thu, sơn sắc là sự tồn tại của
núi. Màu da cam là một màu có thực, nhưng “dương liễu sắc” lại là một “màu
nội tâm, màu li biệt” (213; tr.26) v.v… Nghiên cứu thơ Đường cũng như thơ cổ
điển nói chung, chúng tôi cũng thấy rất nhiều trường hợp như vậy. Chẳng hạn
khi nhà thơ viết “Mộ tòng bích sơn bá” (Chiều từ núi biếc xuống - Lí Bạch) ta
tưởng “bích sơn” (núi biếc) ở đây là rất cụ thể, nhưng thật ra không phải như
vậy. Ta có thể gặp bao nhiêu là “bích”: bích thủy (nước biếc), bích sa (cát
biếc), bích khê (khe biếc),… rồi là “khói biếc”, “cành biếc”, “nước biếc” v. v…
Đó cũng là một màu ước lệ.
Nói như thế không có nghĩa là trong thơ cổ hoàn toàn vắng bóng tư duy
cá thể hóa. Đây đó chúng ta vẫn bắt gặp kiểu tư duy này. Chẳng hạn trong
bảng màu của thơ Hồ Xuân Hương theo nghiên cứu của Nguyễn Lộc thì cũng
có nhiều màu cụ thể chứ không chỉ là ước lệ như trắng phau phau, đỏ lòm
lòm, đỏ loét, xanh rì, trong leo lẻo, chín mõm mòm… (135; tập 1; tr.474). Tuy
nhiên đây không phải là khuynh hướng chính. Khuynh hướng chủ yếu vẫn là
tư duy ước lệ như nói ở trên.
Thoát khỏi những qui phạm của thơ cổ điển, hệ thống màu sắc trong
thơ Xuân Diệu thật phong phú. Thơ ông có những gam màu tự nhiên như “La
úa cành khô vẫn rụng dồn” (Núi xa), “Vàng tươi thược dược cánh hơi xòe”
(Lạc quan), “Này đây hoa của đồng nội xanh rì” (Vội vàng), “Vui mừng em
thấy má em hồng” (Đơn sơ) v.v… Đây đó cũng thấp thoáng những sắc màu
như trong thơ cổ nơi “mày xanh” (Lạnh lẽo mày xanh phản má đào - Gửi trời),
“núi biếc” (Êm êm núi biếc xanh như ngọc - Núi xa), “trăng vàng” (Vua trần
hậu chúa ngó trăng vàng - Nhị hồ), “trời xanh” (Dịu dàng tỏa xuống tự trời
xanh - Lạc quan)v.v… Nhưng có lẽ nhiều hơn là những gam màu của cảm
xúc. Xuân Diệu có những gam màu rất lạ. Đó là nhưng màu sắc của âm
thanh: màu “hường” của nhạc (Hãy tự buông cho khúc nhạc hường - Huyền
diệu), màu mực đậm của tiếng bước chân (Tiếng rắn rỏi có pha màu mực
đậm - Sắt). Đó là những sắc màu biết nói, biết kêu: “Của xanh thắm thấy luôn
màu nói sẽ” (Cảm xúc), “Bên màu hoa mới thắm như kêu” (Nụ cười xuân). Đó
là những sắc màu biết đi “theo nắng nhạt“ (Và như màu theo nắng nhạt, như
hương - Theo gió mất, tình người đà tản mác - Dối trá); là những sắc màu
biết “rũa” (Trong vườn sắc đó rũa màu xanh - Đây mùa thu tới) v.v… Trong
bảng màu của ông có những màu mà nếu không dựa vào cảm xúc của thi tứ
thì không hiểu được như “màu yêu”, “màu mơ phai”, “màu êm”, “màu li biệt”,
“sắc yêu kiều”:
- Tình thổi gió màu yêu lên phấp phới
- Với áo mơ phai dệt lá vàng - (Đây mùa thu tới)
- Ngươi (tức là trăng) hương thơm bằng ánh sáng
- Ru màu êm, mà gọi thức lòng ngây (Ca tụng)
- Nước đuợm màu li biệt (Viễn khách)
- Ta thấy gì đâu sau sắc yêu kiều (Xa cách)
Có thể nói, thế giới sắc màu của Xuân Diệu đa dạng, phong phú có
những gam màu thực, mà cũng có những màu hư, có những màu tự nhiên
mà cũng có những màu cảm xúc… Nói chung khuynh hư ớng dùng màu của
nhà thơ là theo hướng cá biệt hóa. Điều này góp phần tạo nên thế giới “đa
sắc” trong thơ ông.
Thứ hai, xét xem hệ thống âm thanh của thơ Xuân Diệu so với thơ cổ
điển như thế nào?
Trong thơ cổ điển những âm thanh được miêu tả thường là tiếng chim
hót, tiếng sáo bay, tiếng mưa rơi, gió thổi, tiếng chuông chùa xa hay tiếng côn
trùng rỉ rả đêm khuya, tiếng bước chân người hay một tiếng gà điểm nguyệt,
một tiếng chiêng dậy đất hay những tiếng chày đập áo v.v… Thế giới âm
thanh ấy nói như nhiều nhà nghiên cứu nhận xét, thi nhân “hầu như chỉ cảm
nhận cái vang vọng của nó hơn là miêu tả chính nó” (Lương Duy Thứ; 237;
tr.25). Cái thế giới âm thanh ấy cũng như các thi liệu khác của thơ cổ điển
đều hướng đến làm biểu tượng cho những ý tình nhất định, nghĩa la hướng
đến cái uyên thâm của những ước lệ. Tả tiếng chân người đẹp thường phải là
“tiếng sen”, tả cái gì trong trẻo phải là “tiếng hạc”, tả chiều sẽ là “tiếng sáo
mục đồng”… Những âm thanh sinh động của cuộc đời đã được “chuẩn hóa”
thành những thước đo cố định của cảm xúc.
Trong thơ Xuân Diệu hệ thống âm thanh của ông không còn tuân theo
những khuôn mẫu có sẵn mà đầy sáng tạo, mang tính chất “đa thanh”. Trong
thơ ông những âm thanh được miêu tả khi thực, khi hư, lúc như có, lúc như
không, có khi được miêu tả rất rõ nét mà có khi chỉ là những cảm nhận mơ hồ
của nỗi lòng. Trong thơ ông có “Tiếng cò nay vương nắng xưa” (Lưu học
sinh), có “Tiếng gà gáy nghe buồn như máu ứa” (Hè), mà cũng có những
tiếng người tình sôi nổi tha thiết “Phải nói yêu trăm bận đến ngàn lần” (Phải
nói). Trong thơ ông có “Tiếng trúc từ đâu than tịch mịch” (Bài thứ năm) mà
cũng có cả tiếng của ánh trăng đang “Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh, cho
gió du dương điệu múa cành” (Trăng). Ông lắng nghe những âm thanh vang
động nhất và cả những âm thanh mơ hồ nhất.
Đó là tiếng tỉ tê của những bụi bờ lau lách:
Âm thầm có những câu than thở
Trong rặng lau phơ chấm bụi vàng
Buổi chiều
Chân nổi gió cứ mặt trời thẳng đến
Quên lắng nghe bờ bụi tỉ tê nhau
Mênh mông
Đó là những tiếng “chơi vơi” đâu đó trong gió, trong mây mà phải tinh tế
lắm mới cảm nhận được:
Trong gió? trong mây? trong nắng ngả?
Từ đâu đưa lại tiếng chơi vơi!
Nhớ mông lung
Trong thơ Xuân Diệu còn có những âm vang của “ánh sáng ca, lanh
lảnh tiếng đời ngân” (Đẹp), dư vang của những “lời tình” (Cho dư âm vang
động của lời tình - Mời yêu), có lời của trăng (Bao lời van vĩ, Của nguyệt đêm
hè), “tiếng gió” (Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc - Vội vàng), và có cả “tiếng
huyền” của muà thu (Thu đến nơi nơi động tiếng huyền - Thơ duyên) v.v…
Trong thơ ông có cả những âm thanh mong manh đến không ngờ của m ột
bông hoa nở, một cánh hoa tàn:
Hoa muôn năm nghe nở tiếng thần tiên
Kỉ niệm
Bông hoa rứt cánh rơi không tiếng
Ý thu
Xuân Diệu đã tả được những âm vực cao nhất đến những âm vực thấp
nhất của những tiếng đời, của những tiếng lòng.
Tóm lại trữ tình từ góc độ một chủ thể bộc lộ Xuân Diệu đã thay đổi
phương thức trữ tình so với thơ ca trước đó. Với phương thức trữ tình này
thơ Xuân Diệu thời kỳ này đã bước sang phạm trù của thơ hiện đại về mặt tư
duy.
2.2. Trữ tình của Xuân Diệu là trữ tình của một chủ thể nghiêng về cảm giác thế giới
Một nét độc đáo nữa trong phương thức trữ tình của Xuân Diệu là ông
đã cảm nhận thế giới nghiêng về cảm giác, nghiêng về cảm tính chứ không
phải lý tính.
Một trong những nguồn mạch nuôi dưỡng Thơ mới nói chung, thơ
Xuân Diệu nói riêng là thơ tượng trưng Pháp. Thơ tượng trưng Pháp đã góp
phần đáng kể trong việc cách tân của Thơ mới. Điều này đã được nhiều nhà
nghiên cứu và bản thân các nhà thơ khẳng định, thiết tưởng không cần phải
nhắc lại.
Ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đối với Thơ mới trên nhiều bình
diện, đặc biệt là trên bình diện tư duy nghệ thuật, tạo nên đổi mới quan trọng
của thơ. Thơ mới với ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đã chuyển từ tư
duy “ý tưởng” trong thơ cổ sang tư duy bằng cảm giác, ấn tượng… Nhờ đó đã
mở rộng khả năng liên tưởng của thơ, tạo cho trường n gữ nghĩa của thơ
vượt ra ngoài nghĩa của từ ngữ, hình ảnh cụ thể để đi đến trường ngữ nghĩa
do cảm giác, ấn tượng tạo nên. Chúng ta thấy những vần thơ đầy cảm giác,
đầy ấn tượng trong Thơ mới của Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê… đặc
biệt là Xuân Diệu.
2.2.1. Với Xuân Diệu xây dựng hình tượng thơ dựa trên sự cảm giác
trực tiếp thế giới là một nguyên tắc nghệ thuật. Ông đã từng lấy câu thơ nổi
tiếng của Baudelaire làm đề từ cho bài Huyền diệu của mình như một tuyên
ngôn nghệ thuật, đó là câu “les parfums, les couleurs et les sons se
répondent” (Những mùi hương, những màu sắc va những âm thanh đáp ứng
với nhau). Theo ông, cảm giác thế giới là một cách cảm nhận thế giới tinh vi,
sẽ đưa thơ đi đến những chỗ có khả năng khơi gợi nhiều nhất, tránh cho thơ
rơi vào lý trí. Sau này có lần chính ông đã phân tích rất kỹ điều này. Ông nói:
“Làm thơ phải thường xuyên rèn luyện cảm xúc, hay đúng hơn, cảm giác.
Rèn luyện cảm giác chứ không phải tri giác. Nói cảm giác là nói đến các giác
quan. Rèn luyện trí não như tập phân tích, tổng hợp, nhận xét, đúc kết, tưởng
tượng… Rèn luyện các giác quan như mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm,
tay sờ v.v… Dĩ nhiên rèn luyện trí não la rất cần, nhưng làm thơ mà luyện trí
rành thì sẽ rationel mất, mà thơ thì nhiều lúc cần phải irrationel, cần cái hình
như là phi lý. Điều quan trọng trong thơ là phải khơi gợi. Mà muốn khơi gợi
cho men rụng động dâng nổi lên phải bắt đầu từ cảm giác. Buổi sáng ra ngõ,
ngoảnh nhìn về phía núi Hồng Lĩnh, thấy cảnh mặt trời mọc lên ở phương
Đông, nếu thiên về luyện tri giác sẽ tưởng tượng nhiều đến chân trời, liên
tưởng tới cái mới mẻ, cái non trẻ…; trái lại, nếu thiên về luyện cảm giác sẽ
chú ý nghe xung quanh có những âm thanh gì, nhìn xem màu sắc tia nắng lúc
đầu ra sao, rồi về sau biến đổi dần ra sao, cảm giác bằng làn da (da mặt, da
tay) xem không khí ban mai lúc ấy nó man mác như thế nào, mũi ngửi thấy
những mùi vị, nồng độ ra sao v.v…“ (dẫn theo 245; chúng tôi có lược bớt vài
từ - LTD).
Như vậy, trong ý thức nghệ thuật của mình Xuân Diệu luôn luôn chú ý
đến cảm giác. Nhờ đó, ông mang đến cho người đọc những vần thơ phập
phồng hơi thở cuộc sống với những cảm giác tươi rói chứ không ép thành
những xác chữ khô khan.
2.2.2. Điều dễ nhận thấy trước hết là Xuân Diệu đã mở rộng đến tận
cùng phạm vi các giác quan đe cảm nhận thế giới. Điều này mới nhìn qua
tưởng như không có gì đáng kể. Song nếu lần ngược trở lại thi ca dân tộc thì
mới thấy đó là một trong những điểm mà Xuân Diệu cũng như phong trào
Thơ mới đã mang lại là mới mẻ.
Trước Thơ mới, thơ cổ chủ yếu cảm nhận thế giới bằng “nghe, nhìn”:
thính giác, thị giác và một ít khứu giác. Nhà thơ do vậy thường cấu tứ theo
kiểu “nghe thấy”, “nhìn thấy” rồi nghĩ đến mà cảm xúc. Cho nên người ta hay
nói đến kiểu “tức cảnh sinh tình”. Trong thơ cổ rất nhiều bài cấu tứ theo kiểu
“nghe, nhìn” như: “vọng”, “đăng”, “h ành”, “quá”, “cảm”, “hứng”, “hoài” v.v…
Có thể nêu tên một số bài thơ cấu tứ theo kiểu này qua các thời đại như Dã
vọng của Đỗ Phủ, Sơn hành của Đỗ Mục, Đăng U Châu đài ca của Trần Tử
Ngang, Nam hành biệt đệ của Vi Thừa Khánh, Thiên trường vãn vọng của
Trần Nhân Tông, Đăng Thạch Môn sơn lưu đề của Phạm Sư Mạnh, Cảm hoài
của Đặng Dung, Quá Thần Phù hải khẩu của Nguyễn Trãi, Quá Hải Vân sơn
của Trần Bích San…
Xuân Diệu không dừng lại ở cái nhìn thị giác, thính giác mà ông cảm
nhận thế giới bằng mọi giác quan: cả xúc giác, cả vị giác, cả khứu giác:
- Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi
Vội vàng
- Hương hiu hiu nên gió cũng ngọt ngào
Hoa đêm
- Em vui đi răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhụy mỗi giờ tình tự
Giục giã
- Nghe chiều âu yếm lấn vô người
Gặp gỡ
Không chỉ mở rộng mà ông “cấp” cho các giác quan những cảm giác rất
mới mẻ. Cũng là “nhìn“ nhưng người xưa là “vọng ”, là “kiến”… còn Xuân
Diệu ngoài cái nhìn thị giác (Cứ nhìn nhau rồi lại vẫn nhìn nhau - Biệt li êm ái)
còn có cả cái nhìn xúc giác với “mắt trao hôn”, “mắt mơn da”… như chạm vào
da thịt:
Đầu nghiêng, môi gượng, mắt mơn da
Hết ngày hết tháng
Bước đi giữa trời đất mà nhà thơ sung sướng tưởng như da thịt mình
chạm được vào cây cỏ, đất đai, ngàn dặm xa xôi:
Tôi để da tay ý diụ tràn
Gửi vào cây cỏ chút mơn man
Chân trần sung sướng nghe da đất
Tôi nhận xa xôi của dặm ngàn
Đi dạo
Đấy là những bước chân đầy cảm giác mà chúng ta không thể tìm thấy
trong những “quá”, “hành”, “đăng”… của người xưa.
Trong thơ xưa có biết bao nỗi buồn của thi nhân đã đọng lại được
những câu thơ tuyệt hay. Nhưng buồn đến mức “rợn làn da” như Xuân Diệu
thì chưa có. Đó là một nỗi buồn đầy cảm giác:
Đôi khi ngày nhạt, tiếng chim qua
Xui ngước đầu lên để nhớ xa.
Cánh mất, còn lưa đường rẽ trắng;
Nghĩ buồn quan ải, rợn làn da
Lưu học sinh
Việc mở rộng các giác quan mở ra những khả năng cảm nhận khác mà
ở thơ tư duy “nghe, nhìn” chưa có.
Với thế giới người xưa chỉ ngắm nhìn, nhiều lắm là ao ước mình hòa
nhập vào cái vô cùng của trời đất. Xuân Diệu như muốn kéo cả thế giới vào
vòng tay đầy cảm giác của mình với những “ôm”, “ri ết”, “thâu”, “say”, “cắn”,
“ăn”, “nhắm nhía”, “hút”, “uống”… Nếu làm một thống kê chúng ta sẽ thấy thơ
Xuân Diệu đầy những động từ cảm giác mà thường là những cảm giác mạnh,
tạo nên cái ào ạt mạnh mẽ trong thơ ông:
Giơ tay muốn ôm cả trái đất
Ghì trước trái tim, ghì trước ngực
Bài thơ tuổi nhỏ
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Vội vàng
Hãy sát đôi đầu hãy ke đôi ngực
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài
Những cánh tay! hãy quấn riết đôi vaí!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt
Hãy khắng khít những cập môi gắn chặt
Xa cách
Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ
Phải nói yêu trăm bận đến ngàn lần
…
Bằng đầu ngả, miệng cười, tay riết
Phải nói
Thanh niên hỡi! lòng ngươi thơm mát quá
Ta uống me vào hơi thở của ngươi:
Ta bấu vào da thịt của đời
Ngoàm sự sống để làm êm đói khát
Muôn nỗi ấm với ngàn muôn nỗi mát
Ta đều ăn, nhắm nhía rất ngon lành
Ngực thở trời, mình hút nắng trời xanh
Ta góp kết những vòng hoa mới lạ
Thanh niên
Ta bá cổ những con rồng gió lớn
Sầu
Mơn man nào em đừng khóc đôi ta
Thế, riết thế, hãy vòng tay chặt nữa
Sầu
Ta hăng máu chạy tìm duyên trẻ mạnh
Mênh mông
Với những vần thơ đầy cảm giác như thế Xuân Diệu đã mang đến cho
thơ cái nồng nàn, mạnh mẽ, tươi rói của cuộc đời. Thơ Xuân Diệu không chỉ
hay ở câu chữ, ý tứ, mà còn ở cảm giác, ở không khí do thơ gợi ra.
2.2.3. Không chỉ mở rộng phạm vi các giác quan Xuân Diệu còn chú ý
đến sự “tương ứng giữa các giác quan” một quan niệm của Baudelaire có ảnh
hưởng quan trọng đối với các nhà Thơ mới lúc bấy giờ. Sự tương ứng này
của Xuân Diệu đôi khi được bộc lộ bằng “chuyển đổi cảm giác” tạo nên những
câu thơ rất lạ chưa từng có trước đó:
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
…
Hãy tự buông cho khúc nhạc hường…
Huyền diệu
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
…
Sương bạc làm thinh khuya nín thở
Nguyệt cầm
Lá hơi úa và mùi hoa hơi đắng
Tặng thơ
Cùng với sự “chuyển đổi cảm giác” ở Xuân Diệu là khả năng “cảm giác”
sự vật vượt ra bên ngoài giới hạn của khuôn khổ thông thường. Nhà thơ cảm
giác được một cách cụ thể cả những cái vô hình, trừu tượng, tạo nên một
nguyên tắc khá độc đáo trong thơ ông mà chúng tôi tạm gọi là nguyên tắc
“hữu hình hóa”, “vật chất hóa” những cái vô hình, trừu tượng. Trong thơ Xuân
Diệu những cái vô hình như “hồn”, “mùa xuân”, “khí trời”… đều có thể được
“vật chất hóa” thành ra những thứ có thể “ăn”, “uống”, “cắn”, “riết”… một cách
cụ thể như:
Trời ơi ta muốn uống hồn em
Vô biên
- Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi
Vội vàng
Tội hớp trong tay những vốc trời
Đi dạo
Bằng cảm giác Xuân Diệu muốn người đọc cảm nhận một cách cụ thể
những cái vô hình trừu tượng. Ngọn gió vô hình muôn đời bỗng hiện ra đầy
cảm giác trong thơ ông “Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối” (Tương tư
chiều). Không gian vô hình trong thơ Xuân Diệu tưởng như cầm nắm được
“Không gian như có dây tơ, Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu” (Chiều). Những
khái niệm trừu tượng như hạnh phúc, tình yêu, khổ đau trong thơ Xuân Diệu
cũng có hình hài, kích thước: “Kẻ uống tình yêu dập cả môi” (Hư vô), “Hạnh
phúc vờn trong buổi nắng mai, Vừa tầm vói bắt của tay người” (Lạc quan).
Đến cả âm thanh là thứ không thể nhìn thấy được, vậy mà Xuân Diệu vẫn
nhận ra “màu hường” của nhạc (Hãy tự buông cho khúc nhạc hường - Huyền
diệu) “màu mực đậm” của tiếng bước chân người lạnh lẽo (Đất đen kêu như
sắt dưới chân giày, Tiếng rắn rỏi pha màu mực đậm - Sắt) rồi cả cái “long
lanh” của tiếng sỏi (Long lanh tiếng sỏi vang vang hận - Nguyệt cầm), cái “ánh
ỏi” của tiếng chim ca (Giữa vườn ánh ỏi, tiếng chim vui - Nụ cười xuân) v..v..
đều có thể hiện ra lồ lộ trong cái nhìn đầy cảm giác của Xuân Diệu. Thật ra
trong phong trào Thơ mới, không phải chỉ có Xuân Diệu mới có cách cảm giác
này, mà chúng ta thấy xuất hiện ở nhiều nhà thơ khác. Người đọc đã từng
biết đến một tiếng sáo “vắt vẻo” bên bờ cây xanh của Thế Lữ (Khi cao vút tận
mây mờ, khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh - Tiếng sáo thiên thai), một “hớp
nhạc đầy hương” trong thơ Bích Khê (Ô nàng tiên nương! hớp nhạc đầy
hương - Nhạc), một câu thơ “trào máu” trong thơ Hàn Mạc Tử (Anh cắn lời
thơ để máu trào - Lưu luyến) v.v… Nhưng có lẽ biểu hiệu tập trung nhất, rõ
nét nhất vẫn là ở Xuân Diệu. Với cách cảm giác này, Xuân Diệu đã tạo nên
được một cách tiếp cận thế giới đầy ấn tượng.
Chú ý đến sự tương ứng của các giác quan đã tạo cho thơ Xuân Diệu
thường là một “phức hợp cảm giác” hơn là một cảm giác cụ thể nào đó theo
kiểu thính giác, thị giác, khứu giác, vị giác… Chẳng hạn đọc một đoạn thơ
ông:
Bâng khuâng chân tiếc giậm lên vàng
Tôi sợ đường trăng dậy tiếng vang
Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá
Và làm sai lỡ nhịp trăng đang
Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh
Trăng
Ở đây khó có thể cắt nghĩa là biểu hiện của một cảm giác đơn lẽ nào
đó, mà đó là tất cả sự cảm nhận tinh vi của một tâm hồn trước vẻ đẹp huyền
diệu, e ấp và mờ ảo. Có những cái tưởng như nhìn thấy rõ (trăng, hoa, lá) và
có những cái tưởng như mơ hồ (giậm lên vàng, đường trăng dậy tiếng vang,
ngơ ngác hoa duyên, nhịp trăng…) Nhưng dù mơ hồ hay sáng tỏ tất cả đều
gợi lên một không khí huyền diệu, e ấp. Cái cảm giác ấy, cái ấn tượng ấy khó
có thể cắt nghĩa là đã được gợi lên từ một cảm giác cụ thể nào đó.
2.2.4. Như vậy đóng góp của Xuân Diệu không dừng lại ở việc mở rộng
phạm vi và chiều kích của cảm giác; cũng không chỉ dừng lại ở một vài cách
nói có tính chất chuyển đổi cảm giác một cách khác lạ (như gió thơm, nhạc
hồng, mùi hoa hơi đắng) mà quan trọng hơn là ông gợi được cảm giác, ấn
tượng về thế giới.
Thơ cổ thường tư duy trên cơ sở “nghe nhìn” và ghi lại cảm xúc gợi lên
từ sự nghe nhìn này. Do vậy người đọc sẽ nhận được những nỗi niềm da
diết, những ý tứ thâm trầm, thâm thúy nhiều hơn là cảm giác về sự vật. Bà
Huyện Thanh Quan “nhìn” cái vắng vẻ của Đèo Ngang mà chạnh lòng thấy
mình cô đơn “Một mảnh tình riêng ta với ta”. Nguyễn Du rơi lệ trên nấm mồ
Tiểu Thanh mà chạnh lòng thương mình: “Ba trăm năm nữa ta đâu biết, Thiên
hạ ai người khóc Tố Như”. Thôi Hộ “nhìn” kh ói sóng trên sông mà bâng
khuâng nhớ nhà “Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng
cho buồn lòng ai?”v.v… Trong thơ cổ nhà thơ nghiêng về tri giác thế giới
nhiều hơn là cảm giác về thế giới. Ở đó có cảnh vật, có đất trời mà người đọc
lại nhận thấy ý tưởng về cảnh vật, về đất trời nhiều hơn là hình tượng của
chúng.
Trong thế giới Xuân Diệu ta cũng nhận thấy cảnh vật, con người, cảm
xúc được gợi lên từ những cảnh vật ấy, con người ấy. Nhưng ông không
dừng lại ở “tả chân” về thế giới. Thơ ông còn miêu tả cả cái ấn tượng, cả cảm
giác về thế giới. Cho nên khi miêu tả sư vật, Xuân Diệu không chú trọng miêu
tả sự vật đó là gì mà chủ yếu miêu tả cảm giác gợi lên từ sự vật, ấn tượng do
sự vật để lại nhiều hơn. Đọc ông, do vậy mới hiểu vì sao ông “mơ theo trăng
và vơ vẩn cùng mây”. Khi đọc thơ Xuân Diệu không chỉ đọc ở phía ý tưởng,
cảm xúc mà cần phải đọc cả phiá cảm giác, ấn tượng nữa. Khi Xuân Diệu viết
“Những luồng run rẩy rung rinh lá” cần phải hiểu ông không nhằm tả gió, mà
gợi lên cảm giác, một ấn tượng về gió: gió lạnh. Hay khi ông viết: “Đã nghe
rét mứơt luồn trong gió” thì ở đây ông cũng không nhằm tả rét mà tạo ấn
tượng về rét: chớm rét. Có những câu đọc lên như là ông tả cảnh “Trong
vườn sắc đỏ rũa màu xanh”, nhưng đọc kỹ thì đây vẫn là tả ấn tượng. Nhà
thơ không tả màu sắc của vườn, mà tả ấn tượng màu xanh đang bị màu đỏ
lấn dần khi thu sang, gợi lên cảm giác về sự rũa nát. Có lần trên báo Ngày
nay, Thế Lữ đã sửa câu thơ “Hơn một loài hoa đã rụng cành” thành “Đã mấy
loài hoa rụng dưới cành” để rõ ý hơn. Sau này Xuân Diệu đã phục hồi lại như
cũ vì cho rằng rõ ý la mất đi cảm giác, ấn tượng. Ông nói: “Hơn một”… có
nghĩa là không phải một và không biết bao nhiêu. Nếu viết “mấy loài” thì limité
quá!” (62; tr.8). Ở đây Xuân Diệu không tả hoa rụng như thế nào mà tạo ra
cảm giác, ấn tượng về sự rơi rụng khi bắt đầu thu.
Vì Xuân Diệu chú ý đến cảm giác, ấn tượng cho nên nhiều bài thơ ông
không thể cắt nghĩa theo lối thông thường như đối với thơ cổ: tìm nghĩa của
ngôn từ và sức gợi của hình ảnh. Ở Xuân Diệu ngoài nghĩa của từ và sức gợi
của hình ảnh còn có nh ững ý nghĩa bên ngoài câu chữ do cảm giác mang lại.
Vì thế ở thơ ông có rất nhiều nét nghĩa mơ hồ, có nhiều câu, nhiều bài không
phải dễ hiểu. Hoàng Ngọc Hiến đã có nhận xét xác đáng khi đọc hai câu: “Vì
nghe nương tử trong câu hát, Đã chết đêm rằm theo nước xanh” (Nguyệt
cầm): “Đến bây giờ tôi vẫn chưa hiểu nghĩa hai câu này nhưng ngày càng
thấy hay” (87; tr.157). Ở nhiều bài khác của Xuân Diệu cũng có hiện tượng
như vậy. Chẳng hạn khi đọc những câu như “Thu đến nơi nơi động tiếng
huyền” (Thơ duyên) hay “Đây mùa thu tới - mùa thu tới, Với áo mơ phai dệt lá
vàng” (Đây muà thu tới) thì thật khó mà cắt nghĩa cho rạch ròi, nhưng ngườì
đọc vẫn nhận ra điều gì đó nơi “tiếng huyền” của mùa thu, nơi “áo mơ phai“
của sắc thu.
Từ đây có thể nói rằng không thể phân tích thơ Xuân Diệu chỉ dưạ trên
logic của sự miêu tả theo kiểu lý tính mà cần phải dựa trên cảm giác, ấn
tượng mà thơ gợi ra nữa. Chẳng hạn với bài Vội vàng nếu phân tích th eo
kiểu duy lý thì chỉ được một triết lý nhân sinh mà người ta đã nói đầy rẫy trong
văn học Đông, Tây, cổ kim: thời gian có hạn nên người ta phải vội vàng! Thật
ra, cần hiểu hình tượng thời gian ở đây như một “ám tượng”. “Ám tượng” về
giới hạn của thời gian hiện ra ở cái trực cảm của cảm giác: trong cái mơn
mởn của cuộc sống đã thấy cái tàn phai sắp sửa. Ở đây là ấn tượng về sự
“tàn phai sắp sửa” chứ chưa phải bản thân sự tàn phai. Nhờ đó mới có thể
cảm giác được hết cái “vội vàng” của bài thơ.. Ở bài thơ này nhân vật trữ tình
là “tôi”. Cảm xúc của nhân vật này là nỗi băn khoăn trước “lượng trời vĩnh
cữu” và “sự sống” trần thế cụ thể của “tôi”. Lượng trời thì mênh mông ma sự
sống thì ngắn ngủi. Đưa một cái hữu hạn ra đối chọi với cái vô hạn, nhà thơ
diễn tả cái bất lực của con người trước lượng trời.
Sự sống trong cách nhìn của Xuân Diệu là non tơ, mơn mởn tươi mới
và dồi dào. Ông không đưa ra một “sự sống” có tính chất ước lệ chung chung
để đối lặp với “cái chết” như trong thơ cổ, mà sự sống của ông đưa ra rất cụ
thể dồi dào, tươi non.
Cụ thể vì đó là sự sống của “tuần tháng mật ”, những tháng ngày vui
sống. Dồi dào vì nó đủ hương, đủ sắc mà nhà thơ không kể hết được, đành
phải liệt kê “này đây”, “này đây” rồi “và “này đây nữa ”…
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thân Vui hằng gõ cửa;
Sự sống ấy không chỉ dồi dào, cụ thể mà còn tươi non mơn mởn. Một
loạt tính từ như “xanh rì”, “cành tơ”, “đương non”… diễn tả điều này.
Đó là một thế giới trần gian, no nê thanh sắc, và nhất là có thể hưởng
thụ được chứ không mông lung, xa vời như trong thơ cổ. Đó là một thế giới
sự sống nồng nàn rất Xuân Diệu.
Nhưng sự sống mơn mởn, no nê, dồi dào lại nằm trong vòng quay của
“lượng trời ”, nó sẽ rơi rụng, tàn phai. Cái lượng trời khắc nghiệt ấy trong cái
nhìn của Xuân Diệu hiện ra muôn nơi. Nhà thơ đã “trần thế hóa” lượng trời
mông lung, trừu tượng ấy bằng những hình ảnh rất cụ thể.
Cụ thể ở chỗ nhìn thấy cái tàn tạ ngay trong cái tươi non, cái nhạt phai
trong cái rực rỡ. Đúng như nhà thơ nói: “không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Không chờ đến mùa hạ mới nhớ mùa xuân, mà ngay trong “mùa xuân” đã
thấy mùa xuân mất rồi. Nhớ mùa xuân ngay cả khi đang là mùa xuân. Như
vậy là cảm giác về sự tàn phai sắp sửa chứ chưa phải sự tàn phai.
Cảm giác ấy hiện ra nơi mùa xuân
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Điệp từ “nghĩa là” được nhắc đi nhắc lại như có vẻ giải thích nhưng
nhiều hơn là bộc lộ một nỗi lo âu phấp phỏng trước tàn phai.
Cảm giác ấy hiện ra nơi muôn loài:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Một loạt những liệt kê qua việc điệp lại cái oái ăm nghiệt ngã của
“lượng trời” hiện diện ra một cách lạnh lùng. Từ đó dẫn đến cảm xúc: bâng
khuâng, đau đớn (rớm vị chia phôi) than thầm, hờn dỗi, đắng cay… Nhà thơ
viết: “Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời ”. Nhưng người đọc lại thấy không
chỉ “tôi” mà cả cỏ cây, chim chóc, hoa lá đều tiếc…
Như vậy “lượng trời” kia không chỉ hiện ra trong tôi mà trong tháng
năm, sông núi, trong gió, trong hoa la, trong tiếng chim… Đến mức nhà thơ
tuyệt vọng kêu lên:
Chẳng bao giờ! Ôi! chẳng bao giờ nữa
Xuân Diệu cho chúng ta cảm nhận lượng trời một cách cụ thể, rất Xuân
Diệu. Nó có mặt khắp nơi, cảm thấy được, nhận biết được mà đành bất lực.
Nhưng Xuân Diệu là nhà thơ của khát vọng sống mãnh liệt, nên ông
không đầu hàng, không buông xuôi mà khắc phục cái giới hạn ấy bằng cách
“vội vàng ”:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngã chiều hôm
Trong lúc “vội vàng” nhà thơ đã bộc lộ hết tất cả lòng ham sống bằng
những động từ đầy cảm giác: ôm, riết, say, thâu, cắn v.v…:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bư ớm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
…
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Để vượt qua giới hạn của thời gian, nhà thơ đã vội vàng. Chúng ta
không ngạc nhiên khi thấy trong thơ Xuân Diệu dùng nhiều đề bài như Giục
giã, Vội vàng… đến thế…… Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy trong
thơ Xuân Diệu lúc nào cũng vội vàng, cũng hối hả. Sự vội vàng trong thơ
Xuân Diệu là sự vội vàng của người ý thức được giới hạn của con người, của
cuộc đời. Sự vội vàng đó là sự tích cực sống chứ không phải sống gấp. Nhà
thơ vội vàng để chiếm lấy những vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời, của con
người. Ý thức về sức sống mãnh liệt ấy đã trào lên thành khát vo ng muốn
được “ôm ”, được “riết ”, được say với cuộc đời, từ “sự sống mới bắt đầu
mơn mởn” cho đến cánh bướm, tình yêu, cỏ cây, non nước…
Có thể nói, Xuân Diệu qua bài thơ không chỉ sống hay ham sống mà
ông “say sống”, sống mãnh liệt, hối hả. Đó là một nhân sinh quan lành mạnh.
Nó khác với sự nguội lạnh, hờ hững, lạt lẽo. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp
trước “thanh sắc trần gian” một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán
sống.
Hay ở bài Xa cách cũng vậy. Nếu phân tích theo kiểu logic thì sẽ được
ý nghĩa: gần như vậy mà vẫn còn xa lắm, hãy xích lại gần hơn nữa. Trong khi
đó cái cảm giác “xa cách” mà hình tượng thơ tạo ra nhiều hơn lại là cảm giác
về sự bơ vơ, cô đơn của con người ngay cả khi bên cạnh nhau.
Có thể nói, tư duy bằng cảm giác, bằng ấn tượng Xuân Diệu cùng các
nhà thơ mới khác đã mở rộng kh ả năng chiếm lĩnh thế giới của thi ca, đổi
mới đáng kể tư duy nghệ thuật, góp phần quan trọng trong sự phát triển của
thi ca dân tộc.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬ P:
1. Những nét mới trong nội dung thơ Xuân Diệu?
2. Phân tích ý kiến cho rằng thơ Xuân Diệu dựa trên sự cảm giác trực
tiếp thế giới.
Chương 3. NHỮNG CÁCH TÂN CỦA XUÂN DIỆU GIAI ĐOẠN 1932 - 1945 TRÊN BÌNH DIỆN THỂ THƠ VÀ NGÔN NGỮ THƠ
1. Thể thơKhi nhà thơ lựa chọn một thể nào đó để sáng tác cũng có nghĩa là lựa
chọn một khả năng diễn đạt phù hợp với điệu thức tâm hồn mình, phù hợp
với cảm xúc cần bộc lộ. Do vậy đề cập đến thể thơ cũng là đề cập đến một
phương diện của tư duy nghệ thuật.
Xét trên bình diện rộng cách tân về loại thể cũng là một cách tân quan
trọng của Thơ mới. Ở đây không chỉ là vấn đề hình thức, mà quan trọng hơn
là ở chỗ bằng sự cách tân này Thơ mới mở rộng khả năng diễn đạt phong
phú hơn để thể hiện cảm xúc của thời đại mới. Nói về tính tất yếu của sự
cách tân này, Lưu Trọng Lư, một chủ soái buổi đầu của Thơ mới trong một
bài viết trên Tiểu thuyết thứ bảy về “Phong trào Thơ mới” đã cho rằng: “Cái
tình cảm của người đời bây giờ dồi dào, phiền phức như thế, liệu có khép vào
trong những niêm luật khắc nghiệt được khôn g?” Ông Lanson chẳng đã nói
rằng: “Với những cái tâm trạng mới, phải có những văn thể mới (À des états
dõâme nouveaux, des genres nouveaux) thì trong văn học ta bây giờ mà có
cái phong trào “Thơ mới” cũng là lẽ tất nhiên vậy” (137; tr.279).
Thực tế đã chứng minh rằng phong trào Thơ mới là cả một cuộc cách
mạng về thể loại. Những thể thơ mới ra đời, những thể thơ cũ được cải tiến…
Xin nhắc lại một ý kiến quan trọng của Hoài Thanh về vấn đề này. Trong Thi
nhân Việt Nam Hoài Thanh cho rằng “Phong trào thơ mới đã vứt đi nhiều
khuôn phép xưa, song cũng nhiều khuôn phép nhân đó mà thêm bền vững”.
Ông đã liệt kê ra những thể cách phát triển và những thể cách ít được sử
dụng trong Thơ mới. Theo ông, “thơ Đường luật vừa động đến là tan. Những
bài Đường luật của Quách Tấn dẫu được hoan nghênh cũng khó làm sống lại
phép đối chữ, đối câu cùng cái nội dung chặt chẽ của thể thơ”. Các thể thức
mới mà không phù hợp cũng “bị tiêu trầm như thơ tự do, thơ mười chữ, thơ
mười hai chữ, hay đang sắp sửa tiêu trầm như những cách gieo vần phỏng
theo thơ Pháp”. Và theo Hoài Thanh, những thể loại phát triển của Thơ mới là
thất ngôn, ngũ ngôn, tám chữ, lục bát. Ông viết: “Thất ngôn và ngũ ngôn rất
thịnh. Không hẳn là cổ phong. Cổ phong ngày xưa đã thúc lại thành Đường
luật. Thất ngôn và ngũ ngôn bây giờ lại do luật Đường giãn và nới ra. Cho
nên êm tai hơn. Cũng có lẽ vì nó ưa vần bằng hơn vần trắc.
Ca trù biến thành thơ tám chữ. Thể thơ này ra đời từ trước 1936, nghĩa
là trước khi ông Thao Thao đề xướng. Yêu vận mất. Phần nhiều vần liên
châu.
Lục bát vẫn được trân trọng: Ảnh hưởng Truyện Kiều và ca dao. Song
thất lục bát cơ hồ chết, không hiểu vì sao.
Thơ bốn chữ trước chỉ thấy trong những bài vè, nay cất lên hàng
những thể thơ nghiêm chỉnh.
Lục ngôn thể trước chỉ thấy trong Bạch vân thi tập thỉnh thoảng cũng
được dùng.
Từ khúc mà hồi đau người ta toàn đưa làm thể chính thức của Thơ mới
đã chết dần cùng với thơ tự do”. (210; tr.43)
Những nhận xét súc tích của Hoài Thanh cơ hồ đã nêu khá đầy đủ diện
mạo của các thể thơ trong phong trào Thơ mới. Sau này, nhiều công trình
nghiên cứu về Thơ mới cũng thống nhất với những nhận xét ban đầu này của
Hoài Thanh. Chẳng hạn Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt Nam hình thức và thể
loại (viết chung với Bùi Văn Nguyên) cũng khẳng định: “Thơ mới đã vận dụng
nhiều hình thức nhưng phổ biến hơn cả là thể thơ 5 từ, 7 từ và 8 từ” (171;
tr.289). Phan Cự Đệ trong “Phong trào Thơ mới 1932-1945” cũng có nhận xét
tương tự. Chúng tôi xin lược trích một số ý ở hai trang 167, 168 của công
trình này như sau: “Thất ngôn và ngũ ngôn rất thịnh. Nhưng nó gần với lối cổ
phong liên vận… Thất ngôn, ngũ ngôn của Thơ mới mềm mại, uyển chuyển
hơn thơ cổ phong. Nó ưa vần bằng hơn vần trắc… Ca trù biến thành thơ tám
chữ. Yêu vận mất. Phần nhiều biến thành vần liên châu… Lục bát vẫn được
nâng niu… Song thất lục bát không mất hẳn, nhưng ít được dùng hơn trước”.
(Ở giữa những dấu… là phần triển khai và dẫn chứng, chúng tôi lươc bớt -
LTD; 50; tr.168). Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên
dành hẳn một tiết của chương IV, thiên thức ba (tập 3) để nói về “sự đổi mới
về thể cách” của Thơ mới. Theo ông trong quá trình phát triển những thể
được khẳng định là 5, 7, 8 chữ. Ông viết: “Về sau thơ phá thể làm ra ngày
càng ít, người ta tự nhiên đi vào mấy điệu đều đặn và cố định là 5 chữ, 7 chữ,
8 chữ” (chúng tôi nhấn mạnh - LTD; 170; tr.554). Ông nói thêm “lục bát về sau
được đưa lên chỗ danh dự”, song thất lục bát “bị sa thải”, “thơ hát nói biến
thành lối thơ 8 chữ. Thế Lữ khai trương rồi trở thành một sở trường của Xuân
Diệu và những nhà viết kịch thơ sau này” (170; tr.152).
Như vậy các nhà nghiên cứu đều thống nhất nhận định thể cách của
thơ mới là các thể 5 tiếng, 7 tiếng, 8 tiếng rất phát triển; các thể thơ khác có
biến đổi nhất định.
Một cái nhìn tổng quát như vậy để có tiền đề đánh giá sử dụng thể loại
của Xuân Diệu ở thời kỳ này:
1.1. Các thể thơ chủ yếu của Xuân Diệu.
Nhận xét đầu tiên của chúng tôi là những thể loại Xuân Diệu sử dụng
rất đặc trưng cho các thể thịnh hành trong Thơ mới. Để thấy rõ hơn kết luận
này chúng ta hãy so sánh những thể loại được dùng nhiều trong Thơ mới với
các thể thơ được dùng trong thơ Xuân Diệu.
Thống kê 12 tập thơ được xem là tiêu biểu cho phong trào Thơ mới mà
Hội Nghiên cứu và Giảng dạy văn học cùng NXB Văn học đã chọn in lại trong
dịp kỷ niệm 60 năm phong trào Thơ mới 1992 (gồm các tập sau đây: Tiếng
sóng - Yêu đương (1934) của Phạm Huy Thông, Mấy vần thơ (1935) của Thế
Lữ, Gái quê (1936) của Hàn Mặc Tử, Điêu tàn (1937) của Chế Lan Viên, Thơ
thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945) của Xuân Diệu, Tiếng thu (1939) của
Lưu Trọng Lư, Lửa thiêng (1940) của Huy Cận, Lỡ bước sang ngang (1940)
của Nguyễn Bính, Bức tranh quê (1941) của Anh Thơ, Mây (1943) của Vũ
Hoàng Chương và Hoa niên (1945) của Tế Hanh; từ đây trở đi chúng tôi sẽ
gọi là “12 tập thơ”) chúng tôi thấy các thể loại được phân bố như sau (Xem
bảng 1):
T
T
TẬP THƠ /
THỂ THƠ
4
tiến
g
5
tiến
g
7
tiến
g
8
tiến
g
12
tiến
g
Lụ
c
bá
t
Son
g
thất
lục
bát
Tự
do
và
hợp
thể
CỘ
NG
1 Tiếng sóng- Yêu
đương
5 4 1 2 3 8 23
2 Mấy vần thơ 1 8 5 2 1 11 28
3 Gái quê 3 16 1 1 21
4 Điêu tàn 4 32 36
5 Thơ thơ 2 4 22 11 4 3 46
6 Gửi hương cho
gió
1 25 21 3 1 51
7 Tiếng thu 1 2 25 6 18 52
8 Lửa thiêng 2 5 19 16 8 50
9 Lỡ bước sang
ngang
2 23 9 34
10 Bức tranh quê 44 1 45
11 Mây 24 3 8 36
12 Hoa niên 1 3 21 10 5 40
TỔNG CỘNG 6 21 192 146 1 41 4 51 462
TỈ LỆ 1% 5% 42
%
31
%
9
%
1% 11
%
100
%
BẢNG 1: CÁC THỂ THƠ TRONG 12 TẬP THƠ TIÊU BIỂU CỦA
PHONG TRÀO THƠ MỚI
Thống kê thể loại thơ trong “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, được
xem là đã chọn được những bài, những tác giả tiêu biểu nhất của Thơ mới,
chúng tôi thấy các thể loại được phân bố như sau (Xem bảng 2):
THỂ
THƠ
2
tiếng
4
tiếng
5
tiến
g
7
tiếng
8
tiếng
12
tiến
g
Lục
bát
Song
thất
lục
bát
Tự
do và
hợp
thể
TỔNG
CỘNG
SỐ
BÀI
1 1 15 77 41 25 8 168
TỈ LỆ 0,5% 0,5% 9% 46% 24% 15% 5% 100%
BẢNG 2: CÁC THỂ THƠ TRONG THI NHÂN VIỆT NAM.
Tách riêng hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió của Xuân Diệu chúng
tôi thấy phân bố về thể loại như sau (Xem bảng 3):
THỂ
THƠ
2
tiến
g
4
tiến
g
5
tiến
g
7
tiến
g
8
tiến
g
12
tiến
g
Lụ
c
bá
t
Song
thất lục
bát
Tự do
và hợp
thể
TỔN
G
CỘN
G
SỐ BÀI 2 5 47 32 7 4 97
TỈ LỆ 2% 5% 48
%
33
%
7
%
4% 100
%
BẢNG 3: CÁC THỂ THƠ TRONG THƠ XUÂN DIỆU GIAI ĐOẠN 1932 -
1945.
Nhìn vào ba bảng thống kê chúng ta nhận thấy rằng trong thơ Xuân
Diệu có hầu hết các thể thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới với một tỉ lệ
tương ứng. Chẳng hạn thơ 7 tiếng của 12 tập thơ là 42%, của Thi nhân Việt
Nam là 46% thì của Xuân Diệu là 48%; hay thơ 8 tiếng cũng một tỉ lệ tương
ứng như vậy (31%; 24% và 33%) Xuân Diệu khác với một số nhà thơ khác là
chỉ tập trung vào một số thể nào đấy. Chẳng hạn Anh Thơ chuyên thơ 8 tiếng
(98%) Chế Lan Viên chỉ dùng 2 thể 7 và 8 tiếng (11%, 89%), Lưu Trọng Lư
chủ yếu là 7 tiếng và tự do (48% và 35%) v.v… Trong khi đó sự phân bố thể
loại của Xuân Diệu rất tương ứng với phong trào trên bình diện chung. Do vậy
chúng tôi cho rằng thể thơ Xuân Diệu rất đặc trưng cho các thể thơ của Thơ
mới.
1.2. Những cách tân của Xuân Diệu về mặt thể thơ.
Đi sâu vào phân tích các thể thơ chúng tôi thấy Xuân Diệu cũng có
những cách tân quan trọng.
1.2.1. Thứ nhất, thơ Xuân Diệu chủ yếu là các thể có số câu đều đặn, ít
bài có số câu dài ngắn khác nhau. Cả hai tập thơ của Xuân Diệu chỉ có 4 bài
theo lối hợp thể (4%). Ngay trong 4 bài này cũng chủ yếu là loại câu đều đặn.
Ở bài “Khi chiều giăng lưới” nói là hợp thể nhưng thực ra chỉ có 4 câu 4 tiếng
còn lại là 15 câu 8 tiếng. Bài “Vội vàng” có 40 câu thì đã có tới 33 câu 8 tiếng,
chỉ xen vào 5 câu 4 tiếng, 1 câu 3 tiếng và 1 câu 10 tiếng. Bài “Hoa nở để mà
tàn” có 6 câu thì 2 câu thất ngôn và 4 câu ngũ ngôn. Bài “Thở than” có 22 câu
thì 11 câu 8 tiếng, 9 câu 6 tiếng và 1 câu 3 tiếng, 1 câu 7 tiếng… Điểm đáng
lưu ý ở đây là thơ tự do trong bu ổi đầu của Thơ mới rất được coi trọng. Các
chủ soái thời kỳ đầu của phong trào này sử dụng rất nhiều chẳ ng hạn ở Lưu
Trọng Lư là 35%, ở Thế Lữ là 39%; ở Huy Thông là 35%…, thì Xuân Diệu lại
gần như không sử dụng. Điều này chứng tỏ những cách tân của Xuân Diệu
đã khá ổn định, chứ không còn là những thể nghiệm ban đầu nữa.
1.2.2. Thứ hai, đi sâu vào phân tích các thể thơ mà Xuân Diệu sử dụng
nhiều cho thấy có những điểm rất đáng chú ý.
THƠ BẢY TIẾNG là thể thơ mà Xuân Diệu sử dụng nhiều nhất trong
thời kỳ trước 1945. Ở hai tập thơ của ông trong thời kỳ này có đến 47/97 bài
7 tiếng, chiếm tỉ lệ 48%. (Tỉ lệ này ở Huy Thông là 22%, Thế Lữ là 29%; Hàn
Mặc Tử là 76%; Chế Lan Viên là 11%; Lưu Trọng Lư là 48%; Huy Cận là
38%; Nguyễn Bính là 68%; Anh Thơ là 0%; Vu Hoàng Chương là 67% và Tế
Hanh là 53%). Đây cũng là thể thơ mà Xuân Diệu sử dụng với tỷ lệ vào loại
cao nhất trong sáng tác của ông sau 1945. Chẳng hạn, ở tập Một khối hồng
(NXB Văn học, Hà Nội, 1964) có 49 bài thì 7 tiếng là 13 bài, chiếm tỷ lệ 26 %
(trong khi đó, các thể khác là: tự do: 14 bài; lục bát: 10 bài; 8 tiếng: 4 bài; 5
tiếng: 7 bài; 4 tiếng: 1 bài); ở tập Hai đợt sóng (NCB Văn học, Hà Nội, 1967)
có 40 bài thì 7 tiếng là 14 bài chiếm tỷ lệ 35% (các thể khác là tự do: 11 bài; 8
tiếng: 5 bài; lục bát: 5 bài; 5 tiếng: 4 bài; 6 tiếng: 1 bài); ở tập Thanh ca (NXB
Tác phẩm mới, Hà Nội, 1970) có 50 bài thì 7 tiếng là 24 bài chiếm tỷ lệ 48%
(các thể khác là: 5 tiếng: 13 bài; tự do: 8 bài; 8 tiếng: 4 bài; 6 tiếng: 1
bài).v.v…
Tuy cùng khuôn hình với thơ thất ngôn cổ điển, nhưng thơ 7 tiếng của
Xuân Diệu có nhiều điểm khác. Nếu thất ngôn cổ điển bị ràng buộc bởi những
niêm luật chặt chẽ thì ở Xuân Diệu rất tự do. Bài thất ngôn cổ điển có những
giới hạn về số câu (tứ tuyệt, bát cú) thì ở Xuân Diệu có thể là 4 câu, 8 câu mà
cũng có thể là 16, 20, 32 câu, thậm chí có bài đến 48 câu (“Trò chuyện với
Thơ thơ”). Cách diễn đạt ý tình cũng không còn bị ràng buộc vào “đề, thực,
luận, kết” như trong thơ xưa.
Tuy nhiên, dấu ấn của thể thất ngôn cổ điển vẫn còn hằn lên thể 7 tiếng
của Xuân Diệu khá rõ. Điều dễ nhận thấy nhất là gần như tất cả các bài 7
tiếng của Xuân Diệu đều được chia thành khổ, mỗi khổ 4 câu như một bài tứ
tuyệt. Thống kê cả 47 bài 7 tiếng của Xuân Diệu chúng tôi thấy như sau: 1 bài
1 khổ (4câu); 1 bài 2 khổ (8 câu); 6 bài 3 khổ (12 câu); 15 ba i 4 khổ (16 câu);
12 bài 5 khổ (20 câu); 5 bài 6 khổ (24 câu); 1 bài 7 khổ (28 câu); 2 bài 8 khổ
(32 câu); 2 bài 9 khổ (36 câu); 1 bài 12 khổ (48 câu). Chỉ có duy nhất m ột bài
không hoàn toàn theo qui luật chia khổ nói trên. Đó là bài Buổi chiều. Ở bài
này nhà thơ chia làm 8 khổ gồm 5 khổ 4 câu và 3 khổ một câu; hai loại khổ
này xen nhau.
Điều đáng nói ở các khổ thơ này, ông lại tổ chức gieo vần chủ yếu theo
kiểu một bài tứ tuyệt: “bốn câu, ba vần”
Ví dụ:
Gió lạnh rồi đây! sắp nhớ nhung
Sương the lảng đảng bạc cây tùng
Từng nhà mở cửa tương tư nắng
Sắp sửa lòng ta để lạnh lùng!
Mùa cúc năm nay sắc đã già.
Ai tìm ta hộ dáng thu qua?
Những buồn xưa cũ, nay đâu mất?
Ôi! phượng bao giờ lại nở hoa!
Ngẩn ngơ
Trong 47 bài 7 tiếng của Xuân Diệu có 226 khổ 4 câu thì đã có tới 199
khổ (88%) gieo vần theo lối thất ngôn tứ tuyệt “bốn câu ba vần”. Chỉ có 27 khổ
(chưa tới 12%) là gieo vần theo kiểu khác, như vần ôm:
Tiếng đàn thầm dịu dẫn tôi đi,
Qua những sân cung rộng hải hồ.
Có phải A Phòng hay Cô Tô?
- Lá liễu dài như một nét mi.
Nhị hồ
vần gián cách:
Gió sáng bay về, thi sĩ nhớ;
Thương ai không biết đứng buồn trăng
Huy hoàng trăng rộng nguy nga gió
Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng
Buồn trăng
v.v…
Do vậy, đọc thơ 7 tiếng của Xuân Diệu ta có cảm tưởng như đó là
những bài tứ tuyệt cổ điển được nối liền lại.
Điều đáng nói nữa là cách ngắt nhịp trong thơ 7 tiếng của Xuân Diệu
rất gần với cách ngắt nhịp của thất ngôn cổ điển. Thơ 7 tiếng của Xuân Diệu
có cách ngắt nhịp rất đa dạng: có nhịp 4/3; nhịp 2/5; nhịp 5/2; nhịp 2/2/3; thậm
chí cả nhịp 1/6 (xin xem thêm ở phần “câu thơ”). Nhưng nhịp phổ biến, chiếm
tỉ lệ lớn nhất, gần như tuyệt đối lại là nhịp 4/3, tức la cùng khuôn nhịp đặc
trưng của thơ thất ngôn cổ điển.
Qua phân tích trên cho thấy thể 7 tiếng của Xuân Diệu vừa rất mới mẻ,
lại cũng vừa rất cổ điển. Điều này cho thấy cách tân của Xuân Diệu được dựa
trên cơ sở truyền thống rất vững chắc.
THỂ TÁM TIẾNG: Đây là thể thơ được các nhà nghiên cứu xem như
một sáng tạo độc đáo của pho ng trào Thơ mới. Các nhà nghiên cứu từ Hoài
Thanh cho đến Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Phạm Thế Ngũ, Lê Đình Kỵ v.v…
đều thống nhất nhận xét chung cho thơ tám tiếng của Thơ mới là thoát thai từ
loại câu 8 trong ca trù. Chẳng hạn: Hoài Thanh “Ca trù biến thà nh thơ tám
chữ” (Thi nhân Việt Nam, tr.48); Phan Cự Đệ: “Ca trù biến thành thơ tám chữ”
(Phong trào thơ mới 1932-1945, tr.168); Hà Minh Đức: “Các nhà Thơ mới đã
sáng tạo được thể thơ tám từ trên cơ sở khai thác và thừa kế hình thức hát
nói của thơ ca dân tộc” (Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại, tr.86); Phạm
Thế Ngũ: “Thơ hát nói biến thành lối thơ 8 chữ” (Việt Nam văn học sử giản
ước tân biên, tr.552) v.v…
Thật ra, thơ tám tiếng đã từng tồn tại trước phong trà ở Thơ mới không
chỉ ở dạng câu như trong ca trù, hay ở “các đoạn nói sử, nói lệch, nói đếm,
nói hạnh trong chèo” (Văn Tâm; 190; tr.9)… mà đã có xuất hiện ở dạng bài
hoàn chỉnh.
Trong Phan Bội Châu toàn tập (tập 5) Chương Thâu đã công bố 56 bài
tám tiếng của Phan Bội Ch âu sáng tác trong các năm 1926-1927. Các bài
này đầu tiên được in trên báo Tiếng dân năm 1926, sau đó được Giác quần
thư xã xuất bản thành sách. Đó là các tập Nam quốc dân tự trị (Quốc dân
nam giới cần biết), 24 bài (1926), Nữ quốc dân tự trị (Quốc dân nữ giới cần
biết), 25 bài (1929). Ngoài ra có 7 bài tám tiếng trong Thuốc chữa dân nghèo
do Chương Thâu sưu tầm. Xin dẫn ra đây một bài tám tiếng trong tập Nam
quốc dân tự trị.
Bề ngoài hình thức, ai khác gì ai?
Vì có tính người, khác hơn mọi giống.
Da hùng lông phụng, nó cũng vẻ vang
Bởi không thiêng liêng mới ra cầm thú
Tính ta trời phú, có trí có nhân
Nhân biết yêu người, trí hay học thánh
Lại thêm dũng mãnh, chẳng rụt chẳng kinh
Đủ mọi tính lành, là người cao thượng.
PHAN BỘI CHÂU - Tình người (13; tr.12)
Điều đáng chú ý lànhững bài tám tiếng này của Phan Bội Châu không
giống những bài tám tiếng của Thơ mới. Tất cả 56 bài ở các tập trên, câu thơ
đều được ngắt nhịp 4/4 và gieo vần lưng ở tiếng thứ 4 và tiếng thứ 8. Do vậy
chúng tôi cho rằng câu 8 loại này là do hai câu 4 tiếng ghép lại chứ không
phải câu 8 kiểu ca trù như trong Thơ mới.
Ngoài ra trong Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại, Bùi Văn Nguyên
cũng đã dẫn ra hai bài 8 tiếng, một của ca dao, một của Phan Bội Châu (171;
tr.171). Đặc điểm của hai bài này cũng giống như các bài ma chúng tôi đã
phân tích ở trên. Đây là bài tám tiếng của ca dao:
Con gái đang thì đã nên con gái
Cái áo em mặc chải chải hoa hồng
Trong yếm dải hồng, chuỗi xe con toán
Cái quai dấu chạm em đội trên đầu
Cái nhôi dấu gấp quấn vào đỏ chói
Lỗ miệng em nói có hai đồng tiền
Như cánh hoa sen giữa ngày mới nở,
Mẹ em đi chợ, có kẻ gánh gồng
Anh đứng anh trông, má hồng đỏ thắm
Anh đứng anh ngắm, đẹp đẽ làm sao
- Con cháu ông nao chân đi đẹp đẽ!
Anh có vợ rồi chẳng lẽ anh sêu?
Còn đây là bài của Phan Bội Châu:
Góp nghìn ức nhà, mới gây nên nước
Nước có quyền nước, mới giữ được nhà,
Nước tức là nhà, nhà tức là nước,
Vậy nên nhà nước hai chữ liền nhau
Nước là nhà to, nhà là nước nhỏ
Cơ đồ tiên tổ thà nh quách non sông
Xương trắng, máu hồng, gây nên gấm vóc,
Con Hồng cháu Lạc, nối nghiệp đời đời
Ruộng ta ta cày, rẫy ta ta phở
Nhà ta ta ở, của ta ta ăn
Ta là quốc dân, nghĩa chung thờ nước
Mất còn sống thác, cùng nước thủy chung…
PHAN BỘI CHÂU - Nghĩa vụ đối với quốc gia
Phải đến phong trào Thơ mới, thể tám tiếng mới có một vị trí quan
trọng, mới thật sự trở thành một thể thơ có ý nghĩa. Trong 12 tập thơ đã đề
cập có đến 146 bài thể tám tiếng (khoảng 31%). Ve mặt số lượng thể này chỉ
đứng sau thể 7 tiếng (192 bài; 42%). Không chỉ các nha Thơ mới, mà các nhà
thơ cách mạng cũng sử dụng nhiều. Chẳng hạn ở Tố Hữu thể tám tiế ng cũng
là chiếm tỉ lệ lớn nhất. Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Hạnh thì thể này ở
Tố Hữu trong tập Từ ấy là 30/65 bài; khoảng 46% (trong khi các thể khác là: 7
tiếng: 14 bài; lục bát: 11 bài; 5 tiếng: 8 bài; 4 tiếng: 1 bài; Song thất lục bát: 1
bài) (83; tr.48).
Ở Xuân Diệu tỉ lệ bài 8 tiếng cũng tương đối cao, chỉ sau thơ 7 tiếng.
Thể này ở Xuân Diệu có 32/97 bài, chiếm tỉ lệ khoảng 33% (tỉ lệ này ở Huy
Thông là 17%; Thế Lữ là 18%; Hàn Mặc Tử la 0%; Chế Lan Viên la 89%; Lưu
Trọng Lư là 0%; Huy Cận là 32%; Nguyễn Bính là 0%; Anh Thơ là 98%; Vũ
Hoàng Chương là 8%; và Tế Hanh là 25%). Càng về sau Xuân Diệu càng
nghiêng về sử dụng thể tám tiếng này. Ở Thơ thơ có 11/46 bài 8 tiếng (24%)
thì ở Gửi hương cho gió có 21/51 bài 8 tiếng (41%). Sau cách mạng tháng
Tám, thể 8 tiếng ở Xuân Diệu đ ược dùng ít đi. Ở tập Một khối hồng chỉ có
4/49 bài, tập Hai đợt sóng chỉ có 5/40 bài, tập Thánh ca chỉ có 4/50 bài…
Cấu trúc bài 8 tiếng của Xuân Diệu về cơ bản là tổ chức theo lối tự do
và thường là những bài dài. Bài ngắn nhất ở thể này của ông là 15 câu (Yêu)
cũng có nhiều bài dài trên dưới 60 câu như Dối trá (63 câu) Lời vào tập Gửi
hương (64 câu), Thanh niên (65 câu)… Nếu ở bài 7 tiếng Xuân Diệu chỉ mới
dừng lại ở chia khổ thì ở bài 8 tiếng này ông đa có thêm khái niệm “đoạn thơ”.
Trong 32 bài 8 tiếng của ông chỉ có 13 bài chia khổ, còn 19 bài chia thành
từng đoạn. Ví dụ: “Phải nói” có 4 đo ạn (4 câu - 8 câu - 12 câu - 1 câu);
“Tương từ chiều” có 3 đoạn (9 - 7 - 6); “Giục giã” có 2 đoạn (12 - 18); “Kỷ
niệm” có 4 đoạn (4 - 12 - 4 - 4); “Yêu mến” có 4 đoạn (2 - 14 - 6 - 2) v.v…
Về gieo vần thể 8 tiếng của Xuân Diệu hoàn toàn phỏng theo cách gieo
vần của thơ Pháp như vần liền (25 bài), vần gián cách (5 bài), vần ôm (1 bài;
Tặng thơ), vừa vần gián cách vừa vần liền (1 bài; Sương mờ). Ví dụ: Vần
liền:
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến.
Đây là quán tha hồ muôn khách đến;
Đây là bình thu hợp khí muôn phương;
Đây là vườn chim nhả hạt mười phương,
Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc…
Đôi giếng mắt đã chứa trời vạn hộc;
Cảm xúc
v.v…
vần giãn cách:
Vâng, đáng lẽ làm xong tôi giữ lấy;
Vui gì đâu là đưa đẩy dương tranh,
Nhưng, cũng lạ! nỗi tình đau khổ ấy,
Để riêng tây, nhưng có chỗ không đành
Lời thơ vào tập Gửi hương
vần ôm:
Tiếc nhau chi, mai mốt đã rồi;
Xa là chết; hãy tặng tình lúc sống.
Chớ chia rẽ - dễ gì ta gặp mộng!
Những dòng đời muôn kiếp đã chia trôi.
Tặng thơ
kết hợp vừa vần liền, vừa giãn cách:
Sương lan mờ, bờ sông tưởng gần nhau,
Sương lan mờ, mà hồn tôi nghe đau.
Sương bạc lấp cả một trời trắng sữa;
Sương mông lung như giữa khoảng giang hà.
Mắt tuy mở mà lòng không thấy nữa,
Hồn lạc rồi; không biết ngõ nào ra.
Sương mờ.
Trong khi đó ngắt nhịp ở thơ tám tiếng của Xuân Diệu lại trùng với nhịp
của ca trù. Trong ca trù câu 8 tuy không ch iếm tỉ lệ lớn nhất, nhưng về tiết
điệu khá ổn định với khuôn nhịp đặc trưng là 3/2/3 hoặc 3/3/2, đôi khi có nhịp
4/4 song không đáng ke (xin xem miêu tả ở ở phần “câu thơ”). Thơ 8 tiếng
của Xuân Diệu hầu như toàn bộ ngắt nhịp theo khuôn nhịp này.
Từ những phân tích trên cho thấy khuynh hướng cách tân của Xuân
Diệu về thể loại có đặc điểm rất rõ là: một mặt những thể mà ô ng sử dụng dù
đã có hoặc chưa có trong thơ ca dân tộc, đến ông đều có những biến đổi,
cách tân mới mẻ; một mặt khác, trong chiều sâu của tư duy loại thể, ông vẫn
giữ những nét rất truyền thống của dân tộc. Cho nên chúng ta nhận thấy
Xuân Diệu vừa rất mới mà cũng rất cổ điển.
2. Ngôn ngữ2.1. Lời thơ
Luận điểm nổi tiếng của F. de Saussu re đưa ra trong “Gia o trình ngôn
ngữ học đại cương” về sư phân biệt giữa ngôn ngữ và lời nói có ý nghĩa quan
trọng trong việc nghiên cứu ngôn ngữ văn học nói chung, ngôn ngữ thơ nói
riêng. Theo nhà nghiên cứu, ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu bao gồm cái
biểu đạt và cái được biểu đạt. Hệ thống này tồn tại trong ý thức của một cộng
đồng người nào đó, nhờ người đó mà người ta có thể giao tiếp được với
nhau. Còn lời nói là ngôn ngữ trong hành động, là sản phẩm của cá nhân.
(195; tr.119-127).
Nhà văn khi sáng tạo nên tác phẩm, bên cạnh việc sáng tạo ra hệ thống
nhân vật, hệ thống hình tượng, thế giới nghệ thuật… thì cũng đồng thời sáng
tạo hệ thống lời văn, lời thơ. Do vậy, nghiên cứu hệ thống lời thơ hay lời văn
của một tác giả có ý nghĩa quan trọng, vì qua đấy có thể chỉ ra được những
đặc điểm nghệ thuật riêng.
Vấn đề đặt ra ở đây là lời thơ Xuân Diệu có gì đặc sắc?
2.1.1. Nét đặc sắc dễ thấy nhất ở Xuân Diệu là ông đã đưa vào lời thơ
của mình một hệ thống từ vựng mới và cách sử dụng mới. Đó là hệ thống từ
vựng mang đầy tính cá thể hóa chứ không còn nặng về ước lệ như thơ cổ
điển. Hệ thống từ vựng của Xuân Diệu mới đến nỗi nhiều người không chấp
nhận được và xem là “ngô nghê”, “quái gở”. Ngay cả những người ủng hộ
ông cũng phải dè dặt. Chính Hoài Thanh đã từng cho là: “Ngay lời văn Xuân
Diệu cũng có vẻ chơi vơi. Xuân Diệu viết văn tựa trẻ con học nói hay như
người ngoại quốc mới võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ”. Nhưng rồi
cũng chính Hoài Thanh khẳng định: “Cái dáng bỡ ngỡ ấy chính là chỗ Xuân
Diệu hơn người” (210; tr.119).
Lướt qua các bài thơ của Xuân Diệu chúng ta sẽ nhận thấy ông đã đưa
vào nhiều từ mới và cách dùng rất lạ. Chẳng hạn:
- Đôi giếng mắt đã chứa trời vạn hộc.
- Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá
- Nghe chiều âu yếm lấn vô người
- Vườn cười bằng bướm hót bằng chim
- Hãy tuôn âu yếm, lùa mơn trớn.
- Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
- Hương ngây tội lỗi rải mơ màng.
- Chiều góa không em lạnh lẽo sao
- Mặt trời vừa mới cười trời xanh
- Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
v.v…
Thậm chí ông đưa cả cách diễn đạt của câu văn Pháp vào lời thơ của
mình. Những cách nói định lượng về những cái trừu tượng vốn không có
trong tiếng Việt, bây giờ xuất hiện trong thơ Xuân Diệu rất tự nhiên.
- Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm
- Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu
- Lại nghe tình nhiều hơn số ngón tay
- Vài miếng đêm, u uất, lẫn trong cành
Hoặc
- Hơn một loài hoa đã rụng cành
Rồi một loạt những kiểu diễn đạt rất “tây” xuất hiện dày đặc trong thơ
Xuân Diệu như: “vườn anh rất đợi chờ”, “nhan sắc ơi ”, “bình minh quá”,
“nguy nga gió”, “tịch mịch đời”, “chiều lỡ thì”, “sương bám hồn”, “biển pha lê”,
“đêm thủy tinh” v.v…
Hệ thống ngôn từ với cách sử dụng mới mẻ đã khiến cho những câu
thơ của Xuân Diệu trở nên đầy ấn tượng và nhiều khi đã đạt được giá trị nghệ
thuật cao. Chẳng hạn nếu nhà thơ viết: “Chiều vắng không em lạnh lẽo sao”
thì người đọc có thể nhận được một nỗi buồn, nỗi lạnh lẽo của “chiều vắng
không em”. Nhưng Xuân Diệu lại viết “Chiều góa không em”, thì không chỉ là
nỗi buồn, sự lạnh lẽo, mà còn gợi được sư bơ vơ giữa cuộc đời. Do vậy câu
thơ cũng ấn tượng hơn.
Có người cho rằng trong câu thơ “Khói đùn mây bạc, lệ lên ngươi” của
Xuân Diệu hình ảnh “lệ lên ngươi” là phi lí, không đúng sự thật: “Sự thật là “lệ
tràn mi, nước mắt chảy dài trên má” chứ làm gì có “lệ lên ngươi”. Đây là câu
thơ tả cảnh chia lìa, kẻ ở người đi. Người đi “mưa phủ, khuất ân tình”. Kẻ ở
lòng rưng rưng một nỗi nhớ thương. Nếu viết thành “lệ tràn mi” thì câu thơ
diễn tả được nước mắt của cuộc chia li, nhưng lại ra chiều cải lương mất.
Còn viết “lệ lên ngươi” thì đâu phải là tả người khóc, mà tả một ánh nhìn đầy
nước mắt. Aãnh nhìn đầy nước mắt ấy nói được bao xót đau, nhớ thương
của cảnh chia lìa. Cái hay, cái tài tình của Xuân Diệu là ở đó.
Tất nhiên, không phải bao giờ những cách dùng mới lạ này của Xuân
Diệu cũng thành công. Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là Xuân Diệu
luôn luôn có ý thức tìm tòi, đổi mới “khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen”. Hay
đúng như có lần ông đã viết: “Chúng ta phải tạo thêm, phải bày đặt ra những
cách dùng mới mà xưa kia các cụ ta không chịu tìm; vả lại chúng ta ở thế kỷ
XX, chúng ta có những cái phức tạp mà các cụ không có” (21; tr.9). Giải thích
về cách viết quá mới của mình, ông nói: “Tôi xin lỗi ông Hoài Thanh vì đã nói
“đại dương của thương nhớ, sa mạc của cô đơn”. Tôi nhận rằng chữ “của”
ngô nghê thật. Song le nếu nói nếu nói “nỗi thương nhớ mênh mông như đại
dương” thì hai câu rất khác nhau. Câu dưới là một sự so sánh (une
comparaison), câu có chữ “của” là một sự chung hợp, một sự lẫn lộn (une
métaphore). Ý của tôi phải dùng một cái métaphore mới ta được; thì tôi phải
dùng chữ “của” dầu cái ý ấy nghe không quen tai” (21; tr.9). Xuân Diệu chấp
nhận sự “không quen tai” này ở người đọc để tạo ra một hệ thống lời thơ thật
mới, đưa đến cải cách quan trọng trong hệ thống ngôn từ của thơ ông.
Nói hệ thống ngôn từ của thơ Xuân Diệu có những cải cách quan trọng
không có nghĩa là ông hoàn toàn đoạn tuyệt với hệ thống ngôn từ cũ. Trong
thơ ông hệ thống này vẫn tồn tại, song đã được đổi mới cách dùng. Bên cạnh
những ngôn từ rất mới, rất lạ người đọc vẫn có thể bắt gặp trong thơ Xuân
Diệu những ngôn từ rất cổ điển, quen thuộc như: “Chiếc én lưu li”, “mộng lưu
li”, “người du tử”, “thân lữ cô”, buồn “tiếu tao”, “ta như cô khách”, buồn “cô
liêu”, cao “chín bệ” v.v… Xuân Diệu không quay lưng lại với quá khứ, mà trái
lại ông dựa vào quá khứ để làm giàu thêm ngôn ngữ của thơ mình. Ông
mượn nỗi buồn tiêu tao của thơ xưa để diễn tả nỗi buồn của ngày hôm nay:
Bụi mưa mờ cũ gương trong
Hoa lau trắng đã kết bằng tiêu tao
Bụi mưa mờ cũ
Hoặc:
Gió mưa, mưa gió âm u
Dưới trần mà đã nghe thu lạnh rồi
Càng cao càng lạnh chao ôi
Trên cung xanh vắng lặng thôi mấy chừng
Bụi mưa mờ cũ
Những từ “tiêu tao” (buồn bã), “cung xanh” (tức là “thanh cung”, chỉ
cung thái tử) vốn là những từ cổ được Xuân Diệu dùng diễn tả cái không khí
của “bụi mưa mờ cũ” rất đắc địa.
Hoặc ở bài “Cặp hài vạn dặm” Xuân Diệu dùng lại hình ảnh “lưu li” (chỉ
sự trôi nổi, xa lìa quê hương) viết nên những câu thơ thật da diết:
Nếu ta có cặp hài tiên
Ta đi khắp xứ, khắp miền khắp nơi
Ta đi, đi tận phương trời
Đi cùng phương đất, xa vời ta đi
In như chiếc én lưu li
In như chiếc lá hết thì tươi xanh
Cặp hài vạn dặm
Thủa xưa khi đỗ đạt, Kim Trọng nhớ Kiều đã lạc bước nơi đất khách
quê người, Nguyễn Du viết:
Ngọn bèo chân sóng lạc loài
Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu li
NGUYỄN DU, Truyện Kiều
Còn ở đây Xuân Diệu dùng “lưu li” để ví mình như một cánh én lẻ loi,
đơn chiếc và lạc loài. Hai chữ “lưu li” ở đây do vậy có một sức gợi rất lớn.
Cũng có khi Xuân Diệu dùng một từ rất cũ để diễn tả một cảm xúc rất
mới. Chẳng hạn ở bài Kỉ niệm nhà thơ đã dùng từ “chín bệ” (chỉ ngôi vua) để
diễn tả cái cao cả của tình yêu lên ngôi:
Chúng ta say trong chén rượu tuyệt trần
Mà tình ái rót đầy dâng bạn mới
Anh gọi nhỏ kề tai em: “Em hỡi!”
Trên tay anh em bèn viết: “Anh ơi”.
Rồi ngó mê nhau ta mỉm mắt cười
Và lặng lẽ thấy lòng cao chín bệ
Kỉ niệm
Trong lời thơ của thơ cổ điển nói chung rất nhiều điển tích, điển cố với
quan niệm cho rằng càng nhiều điển thì càng uyên thâm, càng hay. Trái lại
trong lời thơ Xuân Diệu hệ thống điển tích, điển cố này rất ít. Trừ những bài vì
lí do đề tài mà phải dùng điển như: Nhị hồ, Mơ xưa, Bụi mưa mờ cũ…, còn
nói chung Xuân Diệu ít dùng điển cố.
Tuy ít, song những điển cố nào được sử dụng đều được Xuân Diệu
dùng rất sáng tạo, chứng tỏ ông rất hiểu điển cố đó, nhưng lại không theo lối
mòn của thơ xưa. Chẳng hạn trong bài Mơ xưa ông viết:
Thương là vậy, ai phụ thề cho đặng
Hễ xa nhau thôi thương nhớ võ vàng
Gió liễu chiều còn nhớ kẻ dương quan
Đưa nước mắt hàng dương về một phía
Mơ xưa
“Dương Quan” trong đoạn thơ trên là một điển cố. Nguyên từ này là tên
một cửa ải ở tỉnh Cam Túc, Tây Bắc Trung Quốc. Vương Duy đời Đường đã
có những câu thơ: “Vị Thành triêu vũ ấp thanh trần - Khách xa thanh thanh
liễu sắc tân - Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu - Tây xuất Dương Quan vô
cố nhân” (Đất Vị thành mưa sớm làm ẩm bụi trong - Chốn quán trọ xanh xanh
màu cây liễu thắm - Khuyên người hãy uống cạn chén rượu này - Đi về phía
tây ra khỏi Dương Quan sẽ không có ai là bạn cũ). Văn học cổ hay nhắc đến
Dương Quan để chỉ cảnh li biệt như Nguyễn Du:
“Sông Tần một dải xanh xanh - Lôi thôi bờ liễu mấy cành Dương Quan”
(108; tr.117) Xuân Diệu dùng lại điển này nhưng có sáng tạo. “Dương Quan”
ở đây không còn là cảnh, mà người của buổi biệt li. Nhà thơ hỏi “gió liễu
chiều” còn nhớ chăng kẻ “dương quan” thủa trước, tức là người biệt li ngày
xưa. Câu thơ gợi một không khí u hoài không dễ quên.
Hay ở bài Nhị hồ cách dùng điển cố của Xuân Diệu cũng đầy sáng tạo
như vậy. Trong bài này nhà thơ dùng một loạt các điển tích như: “Lộng Ngọc
lấy Tiêu Lang”, “Bao Tự mặt sầu bi”, “Li Cơ hình nhịp nhàng”, “Đường Minh
Hoàng nhớ Dương Quí Phi” v.v… Những điển ấy đều chỉ những mối tình thời
xa xưa. Những mối tình của ngày xưa ấy bây giờ bỗng sống lại trong tiếng nhị
hồ của ngày hôm nay. Vậy ra ở đây nhà thơ tả tiếng đàn. Tiếng nhị hồ kia mới
tha thiết, réo rắt đến như vậy. Bao nhiêu cuộc đời, bao nhiêu số phận, bao
nhiêu cảm xúc hiện lên nơi một tiếng đàn kia. Xuân Diệu đã dùng điển để tả
tiếng đàn thật hay.
Cho nên có thể nói hệ thống lời thơ của Xuân Diệu là một hệ thống
mới, nhưng không hoàn toàn đoa n tuyệt với he thống cũ.
2.1.2. Lời thơ của Xuân Diệu là một hệ thống lời thơ giàu nhạc điệu
Nhạc điệu của bài thơ được tạo nên bởi nhiều yếu tố. Nhạc điệu đó
được tạo ra ở cảm xúc, ở kĩ thuật phối thanh ngắt nhịp, hiệp vần v.v…
Trong thơ ca cổ điển do là thơ cách luật, bị gò bó bởi những niêm luật
chặt chẽ, nên tính nhạc của thơ cổ điển rất hạn chế. Thậm chí có người như
Nhữ Thành còn cho “thơ Đường không có nhạc điệu gì… Nhạc điệu của thơ
Đường chỉ vừa đủ cho nó khỏi là một bài văn xuôi” (213; tr.28). Đó là một ý
kiến cực đoan, nhưng không phải không có chỗ hợ p lí của nó.
Đến Thơ mới, câu thơ được giải phóng, do vậy tính nhạc đã trở thành
một đặc điểm quan trọng như nhiều nhà nghiên cứu nhận xét (88; tr.137-138).
Lời thơ của Xuân Diệu là lời thơ giàu nhạc tính. Trư ớc hết đó là nhạc
điệu của một tâm hồn lúc nào cũng nồng nàn, lúc nào cũng tha thiết với
người, với đời cho nên nhạc điệu của thơ ông lúc nào cũng là thứ nhạc nồng
nàn, thiết tha và say đắm lòng người.
Nhưng tạo nên tính nhạc của thơ ông còn là ở việc hiệp vần, phối
thanh, ngắt nhịp v.v… mà chúng tôi sẽ phân tích dưới đây.
Trước hết, nói về hiệp vần. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định vần là
một yếu tố quan trọng tạo nên nhạc điệu của thơ. Nguyễn Văn Hạnh cho rằng
vần là một yếu tố vừa có “chức năng cấu trúc”, vừa là “yếu tố tạo nhịp”, đồng
thời cũng có khả năng “tăng tính nhạc, tăng sự cộng hưởng giữa các bộ phận
trong bài thơ” (84; tr.83). Quả đúng như vậy. Vần thực chất là những khuôn
âm giống nhau hoặc gần giống nhau được lặp lại ở những tiếng giữa các câu
thơ hay trong cùng một câu thơ. Sự lặp lại này (gọi là gieo vần) sẽ làm cho
câu thơ âm vang hơn, do đó có khả năng tạo được tính nhạc. Chẳng hạn khi
Tố Hữu viết: “Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan - Đường bạch dương sương trắng
nắng tràn” thì việc lặp lại các khuôn âm “an”, “ương”, “ăng” trong các dòng thơ
hay cùng một dòng thơ đã tạo cho câu thơ âm vang đến không ngờ. Chúng ta
gọi đó là những câu thơ giàu nhạc điệu.
Câu thơ Xuân Diệu cũng là câu thơ giàu nhạc điệu. Trước hết là do
được gieo vần dày đặc, gần như câu nào cũng có vần.
Như chúng tôi đã phân tích ở những phần trước, thơ 7 tiếng của ông
gieo vần theo kiểu cứ 4 câu 3 va n như thơ tứ tuyệt cổ điển. Như vậy ở thể
này vẫn chiếm tuyệt đối ở các khổ thơ. Mà thể này lại chiếm tới 48% thơ ông.
Tiếp đó là thể 8 tiếng cứ hai câu gieo vần bằng, tiếp đến hai câu gieo vần
trắc, thêm 33% nữa. Tổng cộng cả hai loại bài này có tới 81% số bài gieo vần
dày đặc. Vấn đề còn xét thêm là ở 18 bài còn lại gieo vần như thế nào. Trong
18 bài còn lại, có 7 bài lục bát được nhà thơ gieo vần tuân thủ tuyệt đối qui
luật của thể này. Hai bài 4 tiếng thì bài Thời gian có 6 khổ 4 câu (24 câu) gieo
vần theo kiểu bài tứ tuyệt (4 câu 3 vần), bài Tiếng không lời có 18 câu thì tất
cả đều gieo theo lối gián cách (Mây lưng chừng hàng - Về ngang lưng núi -
Ngàn cây nghiêm trang - Mơ màng theo bụi…). Năm bài 5 tiếng chỉ có bài
Mười chữ (gồm 2 câu) là không gieo vần. Bốn bài còn lại đều gieo vần dày
đặc theo kiểu vần gián cách (Chiều đợi chờ, Viễn khách), vần liền xen với vần
giãn cách (Chiếc lá), vần hỗn hợp (Cha ng sầu). Bốn bài hợp thể (chủ yếu là
câu 8, 7, 5 tiếng) đều gieo vần liên tiếp, một ít vần gián cách…
Qua phân tích cho thấy hầu như mỗi câu thơ của Xuân Diệu dường
như đều có vần. Ông chủ yếu dùng vần chân, ít khi dùng vần lưng. Vần lưng
trong thơ ông chủ yếu ở thể lục bát và thể 8 tiếng còn ở các thể khác hầu như
không đáng kể. Ngay ở thể 8 tiếng số vần lưng được dùng so với vần chân
cũng rất ít. Có một số bài vần lưng được dùng nhiều như Lời thơ vào tập Gửi
hương, Lời kỹ nữ… thì cũng chỉ có trên độ mươi vần. Chẳng hạn:
Vâng đáng lẽ làm xong tôi giữ lấy;
Vui gì đâu mà đưa đẩy dương tranh,
Nhưng, cũng lạ! nỗi tình đau khổ ấy,
Đẩ riêng tây, như có chỗ không đành.
Lời thơ vào tập Gửi hương
Hay:
Khách ngồi lại cùng em! đây gối lả
Tay em đây, mời khách ngả đầu say
Lời kỹ nữ
Ở một số bài thư 8 tiếng khác như Chỉ ở lòng ta, Giục giã, Tình thứ
nhất, Xuân đầu, Sương mờ, Yêu mến, Mơ xưa, Riêng tây… thì vần lưng cũng
chỉ có dăm ba vần. Trong khi đó, như phân tích ở trên, vần thơ Xuân Diệu chủ
yếu là vần chân.
Xét về thanh điệu, thì Xuân Diệu dùng vần bằng nhiều hơn vần trắc.
Vần trắc chủ yếu ở thể 8 tiếng, độ trên 400 vần chiếm tỷ lệ khoảng 25%. Với
lối gieo vần dày đặc và thiên về vần bằng như vậy đã làm cho lời thơ Xuân
Diệu đầy âm vang và nói như cách nói của Hoài Thanh la “êm tai” hơn.
Thứ hai, nói về nhịp điệu. Ở đây chủ yếu nói về ngắt nhịp. Ngắt nhịp tạo
nên tiết tấu của câu thơ, tức là một phần tạo nên tiết tấu của nhạc thơ. Một
điều rất lạ là nếu ở nhiều phương diện khác Xuân Diệu đổi mới rất rõ, thì ở
ngắt nhịp này Xuân Diệu lại rất truyền thống. Như đã phân tích ở trên, câu thơ
7 tiếng của Xuân Diệu dù rất phong phú về cách ngắt nhịp, song cơ bản lại
ngắt theo nhịp 4/3 là nhịp rất đặc trưng của câu thơ thất ngôn cổ điển. Ở câu
8 của thơ 8 tiếng khuôn nhịp cơ bản của ông lại là 3/2/3 hoặc 3/3/2, tức là
hoàn toàn trùng với khuôn nhịp của lời thơ ca trù.
Ở câu thơ lục bát của ông cũng có hiện tượng như vậy. Chỉ có một đôi
câu đổi nhịp, còn về cơ bản là ngắt nhịp theo lối nhịp chẵn của lục bát cổ
điển. Ví dụ:
Sương bay… / trời đục, / cây mờ;
Tình riêng lẩn khuất / như bờ vi lau.
Im lặng
Phải chăng chính những cách ngắt nhịp này đã tạo cho hơi thơ Xuân
Diệu rất gần gũi với hơi thơ truyền thống của dân tộc.
Thứ ba, về sự trùng điệp. Trong thơ cổ điển, nhất là ở thơ Đường luật
do quan niệm “đúc chữ” nên không đề cao tính chất trùng điệp. Theo quan
niệm này trùng điệp sẽ lặp từ, lặp ý; mà lặp từ, lặp ý là “ít chữ”, là chữ “nước”
nhiều. Cho nên lặp từ là điều tối kị.
Tuy vậy ở một số tác phẩm cũng có hiện tượng trùng điệp, song không
phổ biến. Chẳng hạn theo nghiên cứu của Phan Ngọc trong Truyện Kiều,
Nguyễn Du đã biết đến phép “lặp từ trong câu” để đem đến cho câu thơ một
sức nặng đặt biệt. Sức nặng đó theo nhà nghiên cứu là để diễn tả “nội tâm
tràn đầy cảm xúc” (169; tr.229). Ví dụ:
- Giật mình, mình lại, thương mình xót xa
- Nghĩ đòi cơn lại sụt lùi đòi cơn
- Một ngày nặng gánh tương tư một ngày
v.v…
Trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi cũng có hiện tượng lặp từ,
hoặc lặp một đoạn câu của bài trên với bài dưới tạo th ành dạng bài “thủ vĩ
liên hoàn”. Chẳng hạn ở Tích thị cảnh có 8 bài, Tùng có 3 bài, Trúc thi có 3
bài, Đào hoa thi có 6 bài, Mai thi có 3 bài dùng “thủ vĩ liên hoan” (241; tr.107-
117).
Ví dụ:
Danh quân tử tiếng nhiều ngày,
Báo khách tri âm mới biết hay.
Huống lại dửng dưng sinh biến tục
Trượng phu tiết cứng khác người thay
NGUYỄN TRÃI - Quốc Âm thi tập, Bài 222, Trúc thi
Trượng phu tiết cứng khác người thay,
Dưỡng dụ trời có ý vay
Từ thuở hóa rồng càng lạ nữa
Chúa xuân gẫm càng xưa thay
NGUYỄN TRÃI - Quốc Âm thi tập, Bài 223, Trúc thi
Ở đây “lặp” theo qui luật: câu cuối của bài trên được nhắc lại trong câu
đầu của bài dưới.
Sự lặp từ, lặp câu như vừa nêu tuy có song không phổ biến, và cũng
chưa thật sự trở thành hiện tượng trùng điệp trong thơ cổ điển.
Đến Thơ mới, cũng như thơ Xuân Diệu, nhà thơ đã biết tư duy lặp từ,
thậm chí lặp đoạn câu, hoặc cả câu, tạo nên tính trùng điệp nhạc thơ. Phép
trùng điệp trong thơ Xuân Diệu được dùng ở tất cả các cấp độ.
Điệp từ:
Đây là quán tha hồ muôn khách đến
Đây là bình thu hợp trí muôn phương
Đây là vườn chim nhả hạt mười phương
Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc
Cảm xúc
Những lời huyền bí tỏa lên trăng
Những ý bao la rủ xuống trần
Những tiếng ân tình hoa bảo gió
Gió đào thỏ thẻ bảo hòa xuân
Với bàn tay ấy
Điệp đoạn câu:
Sương lan mờ, bờ sông tưởng gần nhau
Sương lan mờ, và hồn tôi nghe đau
Sương mờ
Khí trời quanh tôi làm bằng tơ
Khí trời quanh tôi làm bằng thơ
Nhị hồ
Điệp câu và đơn vị trên câu:
Trăng, vú mộng đã muôn đời thi sĩ
Giơ hai tay mơn trớn vẻ tràn đầy,
Trăng, hoa vàng lay lắt cạnh bờ mây;
Trăng, đĩa ngọc giữa mâm trời huyền bí;
Trăng vú mộng đã muôn đời thi sĩ
Giơ hai tay mơn trớn vẻ tràn đầy.
Ca tụng
Yêu, là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?
Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu:
Người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết
Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt,
Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
- Yêu, là chết ở trong lòng một ít.
Yêu
Từ điệp âm, điệp vần, điệp từ, điệp câu… đã góp phần đáng kể trong
việc tạo nên việc nhấn mạnh những cảm xúc, những ý tưởng nhất định. Đồng
thời cũng tạo nên âm vang mạnh hơn, tức là tăng thêm tính nhạc cho thơ.
Tính chất trùng điệp này tạo nên âm hưởng của những điệp khúc mà trong
thơ cổ chưa có.
Có thể nói, lời thơ Xuân Diệu là lời thơ đầy âm vang của nhạc điệu xét
cả trên bình diện cảm xúc, lẫn bình diện kĩ thuật.
2.1.3. Xuân Diệu cũng là người sử dụng rộng rãi các biện pháp nghệ
thuật như so sánh, ẩn dụ, đảo ngữ… để tăng cường tính nghệ thuật của lời
thơ.
Trước hết nói về so sánh. Trần Đình Sử cho rằng “Thơ ca lãng mạn
vốn thiên về ẩn dụ mà ít dùng ví von” (196; tr.269). Còn Hà Minh Đức thì gần
như quan niệm ngược lại. Ông viết: “Thơ mới cũng vận dụng nhiều cách sử
dụng ngôn ngữ phong phú từ những lối so sánh bình thường đến cách lối ẩn
dụ, hoán dụ, nhân hóa. Có những so sánh mới lạ ít thấy trong thơ cũ, hoặc từ
cụ thể đến trừu tượng: “Cánh buồm giương to như mảnh hồn lặng” (Tế
Hanh); hoặc từ trừu tượng đến cụ thể: “Sáng hôm nay hồn em như tủ áo - Ý
trong veo là lượt xếp từng đôi” (Huy Cận) (171; tr.83, 84).
Nghiên cứu cụ thể thơ Xuân Diệu chúng tôi thấy ông dùng so sánh khá
nhiều. Có những so sánh rất cụ thể:
Những chồng sách nặng khô như đá
Giới thiệu
Lá liễu dài như một nét mi
Nhị hồ
Đôi mắt của người yêu ôi vực thẳm
Ôi trời xa vừng trán của người yêu
Xa cách
Cũng như có nhiều so sánh lại rất trừu tượng:
Sự sống đi như hương bỏ hoa chiều
Thanh niên
Tóc liễu buông xanh quá mĩ miều
Bên màu hoa mới thắm như kêu
Nụ cười xuân
Trăng của xa xôi, trăng của hão huyền
Ngươi vĩnh viễn như lòng trăng ý gió
Ca tụng
Đặc biệt so sánh trong lời thơ Xuân Diệu nghiêng nhiều về tả cảm xúc.
Rất nhiều trạng thái cảm xúc trừu tượng qua so sánh trở nên cụ thể:
Lòng ta trống lắm, lòng ta sụp
Như túp nhà không bốn vách xiêu.
Bên ấy bên này
Và đêm nay, lòng tôi lạnh lẽo…
Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ.
Thở than
Ngày muốn hết buồn như đời muốn hết
Sắt
Dịu dàng như có, như không có
Nhớ mông lung
Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa,
Chết không gian khô héo cả hồn cao!
Thắm tuyệt vọng hai hàng bông phượng lửa;
Thê lương đời như trải mấy binh đao.
Hè
Ta buồn bã riêng tây như đứa nhỏ
Mẹ bỏ đi vò võ kiếm đồ chơi
Riêng tây
Cốt nhất em chớ lạnh như đông
Chớ thản nhiên bên một kẻ cháy lòng
Chớ yên ổn như mặt hồ nước ngủ
Phải nói
Cùng với so sánh, ẩn dụ được dùng dày đặc trong thơ Xuân Diệu. Lời
thơ của ông là lời thơ của một cảm xúc chủ quan cho nên dùng nhiều ẩn dụ
tả tâm trạng, cảm xúc qua những sự vật tưởng như vô tri. Ẩn dụ trong thơ
Xuân Diệu bộc lộ qua nhiều hình thức khác nhau như nhân hóa, tượng trưng,
định ngữ, vị ngữ, trạng ngữ… Trong đó nhân hóa là nhiều hơn cả:
Cánh hồng kết những nụ cười tươi
Nụ cười xuân
Tiếng đàn thầm dịu dẫn tôi đi
Nhị hồ
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới
Chắc rằng gió cũng đau thương chớ
Gió vỡ ngoài kia, thu có nghe
Ý thu
Gíó qua như một khách thừa lương
Lay nắng trên mình lá loáng sương
Lạc quan
v.v…
Đặc biệt trong lời thơ Xuân Diệu đã xuất hiện loại ẩn dụ mang tính chất
chuyển đổi cảm giác như “nhạc thơm”, “nhạc hường”, “xem” trong nhạc,
“uống” trong nhạc…tạo nên những câu thơ tuyệt vời như:
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
Nguyệt cầm
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Huyền diệu
Nắng hồng nung, mây bạc chảy ngân nga
Hè
Chính những ẩn dụ loại này đã làm cho tư duy cảm giác trong thơ Xuân
Diệu trở nên phong phú và đa dạng như chúng tôi đã phân tích ở chương
trước. Mặt khác cũng làm cho tính cá thể hóa và sức gợi của lời thơ ông
được tăng cường.
Đảo ngữ cũng là một biện pháp Xuân Diệu hay sử dụng. Thực ra biện
pháp này không phải đến Xuân Diệu mới có. Trong thơ xưa người ta đã biết
tới cách dùng này. Chẳng hạn ở thơ Hồ Xuân Hương rất nhiều loại này. Ví
dụ: “Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom” (Tự tình I), “Ánh khuya văng vẳng
trống canh dồn” (Tự tình II), “Mùa hè hây hẩy gió nồm đông” (Thiếu nữ), “Trai
du gối hạc khom khom cật, Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng” (Đánh đu)
(xem 104;)… Điều đặc biệt ở Xuân Diệu là ông thường đảo những tính ngữ,
động từ, trạng từ chỉ cảm giác, cảm xúc lên trước để gây ấn tượng về cảm
giác. Chẳng hạn:
Đêm qua mưa gió lạnh lùng trời
Anh ở, em đi lạnh lẽo người
Hết ngày, hết tháng
Huy hoàng trăng rộng, nguy nga gió
Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng
Buồn trăng
Lạnh lẽo chân qua để bụi mờ
Thờ thẫn cây đa trên bến cũ
Đêm đêm như nhớ chị đò xưa
Buổi chiều
Long lanh tiếng sỏi, vang vang hận
Nguyệt cầm
Sao xuyên trời mộng, mong manh sáng
Mặt ngẩng nhìn cao, vơ vẩn thu
Ý thoáng
Cho liễu người khô, ngọc mắt phai
Kẻ đi đày
v.v…
Trên đây là một số đặc điểm của lời thơ Xuân Diệu. Qua những đặc
điểm này chúng tôi muốn nhấn mạnh tới tư duy thơ của ông trên cấp độ ngôn
ngữ, chứ không phải thuần túy nghiên cứu ngôn ngữ thơ ông.
Tư duy nghệ thuật của thơ Xuân Diệu qua ngôn ngữ còn được thể hiện
rõ ở “câu thơ”, mà chúng tôi tách riêng ra cho tiện trình bày dưới đây.
2.2. Câu thơ:
2.2.1. Câu thơ giữ một vị trí quan trọng trong thơ. Trong đời sống hàng
ngày, để diễn đạt cho người khác hiểu, người ta phải tổ chức vốn từ thành
câu, dù là câu đầy đủ hay câu rút gọn. Trong thơ khi có ý thơ, hình tượng thơ
nhà thơ phải diễn đạt qua câu thơ. Khi viết nên một câu thơ, nhà thơ xác lập
một khả năng “diễn đạt”. Do vậy ở mỗi thời đại, ở mỗi nhà thơ đều có những
loại, những kiểu câu thơ nhất định, tương ứng với những khả năng “diễn đạt”
nhất định. Xác lập loại hình câu thơ của một thời đại, một tác giả cũng có
nghĩa là xác lập một phương diện về khả năng “diễn đạt ý của tác giả đó, thời
đại đó, phản ánh được trình độ tư duy nghệ thuật của tác giả và thời đại đó.
Khái niệm câu thơ hiện nay ở ta vẫn chưa được quan niệm thống nhất.
Về mặt lý thuyết, các nhà nghiên cứu đều phân biệt câu thơ với dòng thơ căn
cứ vào ý nghĩa. Nguyễn Xuân Nam cho rằng “Dòng thơ cũng là câu thơ khi nó
diễn đạt trọn vẹn một ý. Thơ xưa, thơ cổ điển thường như thế. Thơ ngày nay,
có khi hai ba dòng mới thành một câu trọn nghĩa”. Và ông cho rằng dòng thơ
dễ nhận diện, còn “phải từ nội dung, ý nghĩa mới nhận ra câu thơ” (165;
tr.201, 202).
Nhưng về mặt thực tiễn thì hầu hết các nhà nghiên cứu lại mặc nhiên
coi dòng thơ như là câu thơ. Chẳng hạn Phan Ngọc trong “Tìm hiểu phong
cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” thì xem mỗi dòng là một câu và nhất loạt
gọi “câu lục”, “câu bát” (Xin xem chương VII của sách này: “Câu thơ truyện
Kiều” từ tr.199 - 225). Hà Minh Đức - Bùi Văn Nguyên trong “Thơ ca Việt Nam
- Hình thức và thể loại”, hay Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam”… khi
nghiên cứu cụ thể đều xem dòng là câu thơ.
Để tiện cho việc khảo sát, khái niệm câu thơ mà chúng tôi nói ở đây
trùng với dòng thơ. Sở dĩ quan niệm như vậy là có lý do. Mỗi bài thơ được tạo
nên bởi các dòng thơ. Phân dòng là cách tổ chức đặc biệt của thơ. Thoạt
nhìn vào cách phân dòng này có thể nhận diện đó là thơ. So với ngôn ngữ tự
sự hay kịch, sự phân dòng của thơ làm cho nó có nhiều “khoảng trắng” hơn.
Người ta đọc thơ đọc theo dòng ch ứ không ai đọc theo ý nghĩa của câu thơ
ngữ pháp cả, kể cả câu “vắt dòngõ chưa trọn nghĩa. Chẳng hạn câu thơ “vắt
dòng” sau đây của Xuân Diệu mà đọc theo ý nghĩa của câu ngữ pháp thì chỉ
được một câu văn xuôi, chứ không còn là một câu thơ nữa:
Vì vội kiếm tìm nhau, tôi sẽ
Chỉ thấy người thương nhưng chẳng thấy tình thương
Và như màu theo nắng nhạt, như hương
Theo gíó mất, tình người đà tản mác
Dối trá
Do vậy theo chúng tôi, quan niệm “câu” là “dòng” có ý nghĩa đặc trưng
của nó. Điều này hình như cũng đã được phản ánh trong quan niệm của
người xưa. Trong thơ xưa người ta gọi “thất ngôn bát cú”, “ngũ ngôn bát
cú”… thì khái niệm “cú” ở đây lại là câu, tương ứng với dòng.
2.2.2. Nghiên cứu câu thơ Xuân Diệu của như câu thơ Thơ mới nói
chung, chúng tôi thấy đã có những biến đổi quan trọng so với thơ trước đó.
Những biến đổi này đã đưa lại cho câu thơ Xuân Diệu cũng như Thơ mới
“hình dáng” khác với câu thơ cổ điển. Có thể khái quát về mặt loại hình của
câu thơ của Xuân Diệu bao gồm hai đặc điểm sau:
Thứ nhất, câu thơ Xuân Diệu có tính chất “đều đặn hóa” về mặt loại
hình và tiết điệu.
Thứ hai, câu thơ Xuân Diệu có tính chất tự do hóa về mặt cấu trúc cũng
như về mặt ý nghĩa.
2.2.2.1. Tính chất đều đặn của câu thơ Xuân Diệu
Nghiên cứu câu thơ không thể không đề cập đến số tiếng (trước đây
gọi là chữ) trong câu. Mỗi câu thơ đều được tạo bởi số tiếng nào đó. Mở rộng
hay giới hạn số tiếng tạo nên khả năng diễn đạt khác nhau; âm điệu, tiết tấu
khác nhau… Cho nên trong thơ nhiều khi người ta đã thấy số tiếng để gọi tên
thể thơ như: ngũ ngôn, thất ngôn, lục bát, song thất lục bát v.v…
Trong thơ cách luật cổ điển số tiếng trong câu cũn g như quan hệ giữa
các tiếng, các câu đều được qui định chặt chẽ. Trừ một vài ngoại lệ, nói
chung dạng câu phổ biến la từ 5 đến 8 tiếng và các câu thường lặp lại đều
đặn những số tiếng nhất định như 5 tiếng (ngũ ngôn), 7 tiếng (thất ngôn), 6 và
8 tiếng (lục bát) v.v…
Đến thời kỳ Thơ mới, số tiếng trong câu không còn nằm trong qui phạm
như thơ cổ điển nữa. Người ta có thể viết câu 27 tiếng (như Nguyễn Thị
Manh Manh), 12 tiếng (như Huy Thông) hay 2 tiếng (như Nguyễn Vĩ). v.v…
Đặc biệt sự phối hợp các câu có đo dài ngắn khác nhau tạo nên thể thơ “tự
do” khá mới mẻ dù chưa thật phổ biến lúc bấy giờ, nhưng lại là thể thơ chủ
yếu ở các giai đoạn về sau. Tuy vậy càng về sau Thơ mới càng đi vào loại bài
thơ có câu thơ đều đặn nhiều hơn. Thống kê 12 tập thơ được coi là tiêu biểu
của phong trào Thơ mới với tổng số 462 bài cho thấy số bài có câu thơ đều
đặn chiếm tỉ lệ lớn 413 bài/ 462 bài (chiếm 89%); còn số bài có câu thơ không
đều đặn (tự do và hợp thể) chỉ có 49/ 462 bài (11%). Xin xem bảng 4 dưới
đây:
LOẠI
BÀI
LOẠI BÀI CÓ CÂU THƠ ĐỀU ĐẶN LOẠI BÀI
CÓ CÂU
THƠ
KHÔNG
ĐỀU ĐẶN
TỔNG
CỘNG
THỂ
THƠ
4
tiếng
5
tiếng
7
tiến
g
8
tiếng
12
tiếng
Lục
bát
Song
thất lục
bát
SỐ
BÀI
6 21 194 146 1 41 4 49 462
TỈ LỆ 1% 5% 42% 31% 9% 1% 11% 100%
BẢNG 4: LOẠI HÌNH CÂU THƠ CỦA THƠ MỚI.
Như đã nói ở trên Xuân Diệu xuất hiện khi phong trào Thơ mới đã đi
vào ổn định. Câu thơ của ông do vậy cũng đã được định hình nhanh chóng.
Trong số 97 bài của hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió chỉ có 4 bài tự do
và hợp thể, nghĩa là chỉ có khoảng 4% số bài có câu thơ không đều đặn; còn
lại 93 bài có câu thơ đều đặn, khoảng 96%.
Như vậy xét về tổng số bài thì thơ Xuân Diệu nghiêng về loại câu đều
đặn.
Mặt khác, trong các loại câu thơ ma Xuân Diệu sử dụng ở thời kì này
cũng chủ yếu nghiêng về một số loại câu nhất định. Xin xem bảng phân loại
dưới đây (Bảng 5):
LOẠI
CÂU
1
tiế
ng
2
tiế
ng
3
tiế
ng
4
tiến
g
5
tiế
ng
6
tiến
g
7
tiến
g
8
tiến
g
9
tiế
ng
10
tiế
ng
Lụ
cBát
TỔN
G
CỘ
NG
Thơ
thơ2 42 60 9 406 325 5 1 17 17 884
Gửi
hươ
ng
cho
gió
1 2 8 22 504 638 24 24122
3
TỔN
G
CỘN
G
1 4 50 82 9 910 963 5 1 41 41210
7
TỈ LỆ2,3
%
3,9
%
0,4
%
43,
1%
45,7
%
1,9
%
1,9
%
100
%
BẢNG 5: LOẠI HÌNH CÂU THƠ XUÂN DIỆU.
Qua bảng thống kê cho thấy, thơ Xuân Diệu chủ yếu nghiêng về loại
câu 7 và 8 tiếng. Hai loại câu này đã chiếm tới gần 90% tổng số câu thơ.
Trong đó càng về sau ông càng nghiêng về loại câu 8 tiếng (ở Thơ thơ câu 8
tiếng là 37% thì ở Gửi hương cho gió là 52%).
Nhìn rộng ra cả phong trào Thơ mới chúng tôi cũng thấy khuynh hướng
tương tự. Thống kê loại hình câu thơ trong 12 tập thơ đã nêu với 10099 câu
cho thấy kết quả cũng tương ứng như vậy. (Xem bảng 6).
Ở bảng thống kê này chúng ta thấy loại câu 7 và 8 tiếng (tổng số là
3936 câu và 3882 câu; tỉ lệ 39 và 38%). Tuy nhiên sự phân bố ở các nhà thơ
cụ thể lại khác nhau. Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, nghiêng về dùng câu thơ 7
tiếng kiểu thất ngôn (Nguyễn Bí nh loại này 64% không c ó 1 câu 8 tiếng nào;
Lưu Trọng Lư câu 7 tiếng là 52%, câu 8 tiếng lại chỉ có 1,6%). Ngược lại Chế
Lan Viên, Anh Thơ lại thiên về câu 8 tiếng (Chế Lan Viê n câu 8 tiếng là 91%
câu 7 tiếng lại chỉ có 8%; Anh Thơ câu 8 tiếng là 99%; câu 7 tiếng chỉ có 1%).
Xét về mặt loại hình, câu thơ Xuân Diệu theo lối đều đặn, chứ không
phải câu dài ngắn xen nhau. Cấu trúc này gần với cấu trúc của loại hình câu
thơ cổ điển. Về mặt tiết điệu của câu thơ Xuân Diệu cũng được tổ chức như
vậy. Ngắt nhịp của thơ ông tuân thủ một số quy luật nhất định. Chúng tôi chọn
câu 7 tiếng và tiếng 8 để phân tích điều này.
Câu thơ 7 tiếng của Xuân Diệu như đã nói ở trên rất tự do. Ngắt nhịp
loại câu này của ông rất phong phú. Có thể là nhịp 4/3 như thất ngôn cổ điển:
Gió sáng bay về, / thi sĩ nhớ
Thương ai không biết,/ đứng buồn trăng
Huy hoàng trăng rộng,/ nguy nga gíó
Xanh biếc trời cao,/ bạc đất bằng
Buồn trăng
Nhưng cũng có thể là nhịp 2/5, 5/2 xen với 4/3
Cơm xong,/ chén nước chờ bên cạnh (2/5)
Em bế thằng con/ được mấy năm (4/3)
Tặng bạn bây giờ
Có kẻ trèo cây,/ kẻ ngắt hoa (4/3)
Đủ rồi,/ lần lượt kéo đi xa (2/5)
Phơi trải
Nhưng mà tôi sẽ chết,/ than ôi (5/2)
Tóc ngời,/ mai mốt không đen nữa, (2/5)
Tuổi trẻ khô đi mặt xấu rồi (4/3)
Hư vô
Ái tình đến đó/ soi gương nước (4/3)
Đã biến / Sao phai dưới nét mày (2/5)
Tình cờ
Thậm chí có cả nhịp 2/2/3 và nhịp 1/6:
Rồi hết thần tiên,/ bỡ ngỡ xa (4/3)
Đời thường,/ tẻ nhạt,/ lại trôi qua (2/2/3)
Thu
Những buồn xưa cũ,/ nay đâu mất (4/3)
Ôi! / phượng bao giờ lại nở hoa (1/6)
Ngẩn ngơ
Tuy nhiên xét trên tổng thể thì chủ yếu ông dùng nhịp 4/3 là nhịp đặc
trưng của thất ngôn cổ điển. Điều này cho thấy câu thơ 7 tiếng của Xuân Diệu
là câu thơ tự do, nhưng lại mang hơi thở của thơ thất ngôn cổ điển. Do vậy dù
ông rất mới, mà người đọc vẫn nhận ra một cái gì đó rất gần gũi.
Câu thơ 8 tiếng của Xuân Diệu và Thơ mới nói chung là câu thơ đầy
sáng tạo. Tuy nhiên về nhịp điệu chúng tôi lại thấy trùng với ngắt nhịp của ca
trù.
Thống kê 106 bài ca trù trong “Tuyển tập thơ ca trù” do Ngô Linh Ngọc
và Ngô Văn Phú biên soạn (NXB Văn h ọc, Hà Nội, 1987) chúng tôi thấy có
438 câu 8 tiếng (không kể câu bát trong lục bát) trên tổng số 1638 câu, chiếm
tỷ lệ 27%. Trong 438 câu 8 tiếng này chủ yếu được ngắt làm 3 tiết điệu với
khuôn nhịp là 3/2/3 hoặc 3/3/2 hoặc có thể rút gọn lại là nhịp 3/5.
Ví dụ:
Nợ tang bồng/ phải trả/ mới là trai
Mảnh áo xiêm/ buộc lấy/ cái hình hài
CAO BÁ QUÁT - Thanh nhàn là lãi
Nợ đèn sách/ đem nghiên bút/ trả xong
Cầu xe ngựa / lúc đi về / mới tỏ
NGUYỄN CÔNG TRỨ - Nợ tang bồng
Nhịp cơ bản của câu 8 ca trù là 3/2/ 3. Tuy nhiên câu 8 ca trù cũng có
cách ngắt nhịp khác, song không đáng kể. Chẳng hạn nhịp 4/4, 2/2/2/2… Ví
dụ:
Này suối Giải Oan,/ này chùa Cửa Võng
Này hang Phật Tích,/ này động Tuyết Quynh
CHU MẠNH TRINH - Hương Sơn phong cảnh
Khi ca,/ khi tửu,/ khi cắc,/ khi tùng
NGUYỄN CÔNG TRỨ - Ngất ngưởng
Chén chú/ chén anh/ chén tôi/ chén bác
NGUYỄN KHUYẾN - Hỏi phỗng đá
Nhịp chẵn loại này chỉ có 8 câu trong 438 câu nói trên (1,8%). Câu thơ
tám tiếng của Xuân Diệu cũng được ngắt thành ba tiết điệu như ca trù. Tuy
nhiên nếu ở ca trù chủ yếu là 3/2/3, ít câu loại 3/3/2 thì ở Xuân Diệu hai loại
này đều phổ biến. Ví dụ:
Em phải nói/ phải nói,/ và phải nói: (3/2/3)
Bằng lời riêng/ nơi cuối mắt,/ đầu mày, (3/3/2)
Bằng nét vui,/ bằng vẻ thẹn,/ chiều say, (3/3/2)
Bằng đầu ngả,/ bằng miệng cười,/ tay riết, (3/3/2)
Bằng im lặng,/ bằng chỉ anh có biết (3/5)
Phải nói
Bữa nay lạnh/ mặt trời/ đi ngủ sớm (3/2/3)
Anh nhớ em,/ em hỡi!/ anh nhớ em (3/2/3)
Không gì buồn/ bằng những/ buổi chiều êm (3/2/3)
Mà ánh sáng/ đều hòa cùng/ bóng tối (3/3/2)
Tương tư chiều
Ngoài ra, cũng như ca trù, Xuân Diệu thỉnh thoảng có sử dụng nhịp 4/4.
trong tổng số 963 câu 8 có 59 câu (ở Thơ Thơ là 16 câu; Gửi hương cho gió
là 43 câu) ngắt nhịp theo kiểu này, chiếm tỷ lệ khoảng 6%, tức là khoảng 100
câu thì có 6 câu ngắt nhịp 4/4. Ví dụ:
Vừa xịch gối chăn,/ mộng vàng tan biến; (4/4)
Dung nhan xê động,/ sắc đẹp tan tành (4/4)
Giục giã
Sương mới mùa thu/ giăng cửa sông mờ;
Nắng cũ mùa vàng/ sa mặt sông thơ
Tuyết bay mùa đông/ trắng phơ tựa biển;
Mơ xưa
Sông núi phơi xa,/ đường sá vươn dài
Mênh mông
Nhưng anh giấu em/ những mộng không ngờ
Cũng như em giấu/ những điều quá thực…
Hãy sát đôi đầu!/ Hãy kề đôi ngực!
Xa cách
Trừ một vài ngoại lệ không đáng kể (như nhịp 2/6: “Ngó ra/ rung rinh lệ
ngọc hai hàng” - Riêng tây; nhịp 1/3/4: “Sống,/tất cả sống,/ chẳng bao giờ đủ”
- Thanh niên…) nói chung nhịp điệu của câu 8 trong thơ Xuân Diệu là cùng
khuôn nhịp với câu 8 trong ca trù.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là, nếu câu tám trong ca trù thường có cách
ngắt nhịp là 3/2/3 hoặc 3/3/2 thì câu tám của Xuân Diệu ngoài ngắt nhịp lối
này nhiều khi còn được tổ chức theo lối hai tiết điệu với cách ngắt nhịp là 3/5
hoặc 5/3. Chẳng hạn:
Tim ngừng đập,/ để thu hồn nghe lắng (3/5)
Máu ngừng chạy,/ để cho lòng bớt nặng. (3/5)
Tôi biết rằng,/ chỉ cách một ngày sau, (3/5)
Cây bên đường,/ sẽ trông thấy tôi sầu. (3/5)
Từ những phân tích trên cho thấy câu thơ Xuân Diệu về mặt loại hình
nghiêng về loại câu đều đặn, và nhịp điệu nghiêng về nhịp điệu ổn định, đều
đặn gần với nhịp điệu của các thể thơ ca truyền thống. Nhờ đó, ta thấy thơ
Xuân Diệu một mặt rất mới, nhưng mặt khác rất gần gũi với truyền thống.
2.2.2.2. Thứ hai, câu thơ Xuân Diệu có tính chất tự do hóa về mặt cấu
trúc cũng như ngữ nghĩa.
Như đã phân tích ở trên, nếu xét về mặt loại hình nhiều loại câu thơ
Xuân Diệu trùng với loại hình câu thơ cổ điển như câu 5 tiếng, 7 tiếng, 8
tiếng…, Tuy nhiên về cấu trúc thì đây lại là những câu thơ mang tính chất tự
do chứ không phải là loại câu cách luật như thơ cổ điển.
Tính chất tự do trước hết thể hiện ở mặt ý nghĩa. Trong câu thơ cổ
điển, mỗi dòng thơ như vậy thường trọn một ý. Chẳng hạn:
Dửng dưng mọi sự gác bên ngoài
Dẫu được, dẫu thua, ai mặc ai
NGUYỄN BỈNH KHIÊM - Thơ Nôm, bài 40
Trong thơ Xuân Diệu không còn sự tương ứng này nữa, ý thơ có thể
trùng với dòng thơ và cũng có thể không. Có khi ghép hai ba dòng mới được
một ý. Chẳng hạn:
Rồi khi khúc nhạc đã ngừng im
Hãy vẫn ngừng hơi nghe trái tim
Còn cứ run hoài, như chiếc lá
Sau khi trận gió đã im lìm
Huyền diệu
Thậm chí có nhiều câu thơ được viết theo kiểu “vắt dòng”, ý nghĩa của
dòng này nối kết với ý nghĩa của dòng khác, tạo nên hiện tượng rất mới lạ lúc
bấy giờ. Ví dụ:
Lòng tôi rung động như
Hoa hồng trong cốc nước
Chiều đợi chờ
Số anh là khổ, phận anh là
Suốt đời nuốt lệ vào trong ngực,
Đem ái tình dâng kẻ phụ ta
Ngậm ngùi
Chỉ có mơ màng một bãi xa
Tuyệt mù chỉ có nhạt phai và
Véo von tiếng chở lưu li mộng
Trong khoảng đêm trường ma gọi ma
Bài thứ năm
Thứ hai, Xuân Diệu đưa các yếu tố của lời nói vào thơ, tạo nên thứ câu
thơ mang tính chất của “lời nói”, “văn xuôi”. Giải thích khuynh hướng này ở
Thơ mới, Hoài Thanh cho rằng đó là “cuộc xâm lăng của văn xuôi: văn xuôi
tràn vào địa hạt thơ phá phách tan tành” (210; tr.38). Còn Trần Đình Sử thì
xem đó là sự chuyển giọng từ “thơ trữ tình điệu ngâm” sang “thơ trữ tình điệu
nói” (198; tr.109).
Là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới, câu thơ Xuân Diệu không
nằm ngoài quy luật này. Câu thơ ông có khuynh hướng tự do hóa rất rõ.
Nhiều bài thơ rất gần với lời nói. Chẳng hạn:
Có một bận anh ngồi xa em quá
Anh bảo em xích lại gần hơn
Em xích lại gần hơn một chút: anh hờn
Em ngoan ngoãn xích lại gần hơn chút nữa
Xa cách
Quan hệ giữa các câu thơ không còn quan hệ bởi niêm, luật, đối… chặt
chẽ như thơ cổ điển mà thay vào đó là các quan hệ từ, các hư từ như “mà”,
“thì”, “tuy thế”, “vì vậy”, “cho nên”, “nhưng”… Đó là những từ ta o nên ngữ
điệu của lời nói. Chẳng hạn:
Tuy thế bài thơ sẽ dở dang
Vì lời không đủ vẻ huy hoàng
…
Có những bài thơ rất thắm tươi
Nhưng mà chỉ nở giữa lòng người
Có những bài thơ
Ta thấy em xinh khẽ lắc đầu
Bởi vì ta có được em đâu
Bên ấy, bên này
Anh biết yêu em đã muộn màng
Nhưng mà ai cưỡng được tình thương!
ngậm ngùi tặng trái tim lưu lạc
Anh chỉ xin về một chút hương
Muộn màng
Thậm chí, Xuân Diệu còn đưa cả những câu thoại vào thơ dưới dạng
những câu thơ có gạch đầu dòng; một loại câu mang hình thức lời nói rất rõ
(dạng câu đối thoại) mà thơ trữ tình cổ điển chưa có với một số lượng khá lớn
(35 câu/97 bài). Chẳng hạn:
“- Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
“- Họa có ta còn quyết trẻ trai”
“- Thế rồi họ khóc không nghe tiếng”
“- Thi sĩ đi đâu cũng thấy cười”.
v.v…
Chính những yếu tố của lời nói này đã làm cho thơ Xuân Diệu cũng
như Thơ mới nói chung gần với lời nói, vì thế có người đã gọi đây là “thơ trữ
tình điệu nói” (Trần Đình Sử; 198; tr.109)
Thật ra, trong tiến trình phát triển của thi ca dân tộc câu thơ “điệu nói”
này không phải chỉ mới xuất hiện trong phong trào Thơ mới. Trong ca dao,
trong thơ cổ điển của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…đã từng tồn tại nhiều câu thơ loại này
bên cạnh những câu thơ “điệu ngâm”. Ví dụ:
Bớ anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại cho em than đôi lời
CA DAO
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm, với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
HỒ XUÂN HƯƠNG - Bánh trôi nước
Có ý kiến cho rằng sỡ dĩ câu thơ cổ mang tính chất điệu ngâm vì các
quan hệ từ bị “tẩy sạch”. Nhưng thật ra nếu xem xét kỹ, chúng ta sẽ thấy có
rất nhiều bài đầy đủ các quan hệ từ, hư từ mang dấu hiệu của lời nói. Chẳng
hạn như trong thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm đầy những câu loại này:
Đã khuất bao nhiêu thì lại duỗi
Đạo trời lồng lộng chẳng hề sai
NGUYỄN BỈNH KHIÊM - Thơ Nôm bài 2
Chín mươi thì kể xuân đã muộn
Xuân ấy qua thì xuân khác còn
NGUYỄN BỈNH KHIÊM - Thơ Nôm bài 29
Tuy mang dấu hiệu lời nói, nhưng loại câu thơ này vẫn nằm trong quan
hệ của câu thơ cổ, nghĩa là vẫn bị câu thúc bởi niêm luật nhất định. Trái lại
câu thơ Xuân Diệu lại là câu tự do. Bởi vậy chúng tôi xem đây là khuynh
hướng “tự do hóa ở câu thơ, chớ không chỉ mang tính chất “điệu nói”. Câu
thơ “tự do” này không chỉ khác câu thơ “điệu ngâm”, mà cũng khác với câu
thơ “điệu nói” cổ điển.
Có thể nói về mặt ngôn ngữ, lời thơ và câu thơ Xuân Diệu đều có
những cách tân quan trọng. những cách tân ấy cũng như ở các phương diện
khác của thơ ông, một mặt vừa mới mẻ, một mặt vẫn rất cổ điển.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP:
1. Hãy nêu những nét đổi mới của Xuân Diệu về ngôn ngữ thơ và thể
loại thơ.
2. Vị trí của Xuân Diệu trong sáng tạo ra thể thơ tám tiếng.
PHẦN KẾT LUẬN1. Cho đến nay tư duy nghệ thuật thơ Xuân Diệu chưa được đặt ra
thành một vấn đề nghiên cứu có tính chất chuyên biệt. Nhiều ý kiến có đề cập
tới, song chủ yếu dưới dạng nhân bàn về Thơ mới, hay bàn về các vấn đe
khác của thơ Xuân Diệu. Tuy vậy cũng có thể thấy các ý kiến về vấn đề này
tập trung vào hai khuynh hướng sau đây.
1.1. Thứ nhất, cho rằng thơ Xuân Diệu thuộc phạm trù của chủ nghĩa
lãng mạn. Các ý kiến của các nhà nghiên cứu như Phan Cự Đệ, Hà Minh
Đức, Hoàng Trung Thông, Mã Giang Lân, Nguyễn Hoành Khung, Lê Đinh Kỵ,
Trần Đình Sử, Đặng Thị Thanh Hương… Tuy mức độ có khác nhau nhưng về
cơ bản đều xem Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu của chủ nghĩa lãng mạn.
Phan Cự Đệ trong công trình “Phong trào thơ mới 1932 - 1945” nhất
loạt từ đầu đến cuối gọi là “Thơ mới lãng mạn”. Tuy vậy ông cũng có nói rõ
thêm: “Nếu đứng về trường phái mà nói thì đại đa số là lãng mạn, nhưng
cũng có tượng trưng và siêu thực. Nguyễn Xuân Sanh (trong Xuân Thu nhã
tập) và Bích Khê (trong Tinh huyết) chính là đại biểu cho khuynh hướng
tượng trưng… Khuynh hướng lãng mạn trong phong trào Thơ mới chiếm ưu
thế. Nhưng nó cũng không thuần nhất. Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư,
Xuân Diệu, Huy Cận…cũng rất khác với Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng” (50;
tr.43, 44).
Hoàng Trung Thông trong “Lời giới thiệu Tuyển tập Xuân Diệu” (tập I)
cho rằng: “Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn chủ nghĩa” và trong lãng mạn
của Xuân Diệu “có yếu tố hiện thực” (260; tr.51).
Trần Đình Sử trong nhiều bài viết trước sau đều khẳng định Xuân Diệu
là nhà thơ lãng mạn. Trong bài “Hành trình thơ Việt Nam hiện đại” ông cho
rằng: “Tinh thần lãng mạn đề cao cá tính không cho phép các nhà Thơ mới
tiếp nhận lối tượng trưng, siêu thực. Yêu mến Baudelaire, Verlaine, Rimb aud,
Xuân Diệu chủ yếu chỉ tiếp thu nguyên tắc tương giao cảm giác như một thủ
pháp nghệ thuật đơn thuần” (197). Sau đó trong “Những thế giới nghệ thuật
thơ” ông cũng khẳng định như vậy: “Xuân Diệu viết bài Huyền diệu với lời đề
từ lấy từ thơ Baudelaire, nhưng chẳng có chút bi phẫn nào của “ông tổ tượng
trưng”, ngược lại bài thơ lồ lộ một cái tôi khát khao giao cảm và chứa chan
cảm xúc lãng mạn ngọt ngào, với tình cảm bộc trực” (198; tr.81).
Ngay cả Bích Khê là người mà nhiều nhà nghiên cứu cho có khuynh
hướng tượng trưng thì Trần Đình Sử cũng khẳng định: “Hồn thơ Bích Khê
căn bản vẫn là lãng mạn. Nhiều bài có dáng tượng trưng, nhưng thực ra vẫn
là lãng mạn. Ví dụ bài “Tranh lõa thể” (198; tr.185). Theo ông: “Có lẽ thơ
tượng trưng hiện đại Việt Nam chỉ bắt đầu với Xuân Thu nhã tập. “Buồn xưa”
của Nguyễn Xuân Sanh và “Mà u thời gian” của Đoàn phú Tứ là những bài
thơ tiêu biểu” (198; tr.87).
1.2. Thứ hai, khác với khuynh hướng trên, nhiều nhà nghiên cứu không
khẳng định thơ Xuân Diệu là thơ lãng mạn. Tiêu biểu cho khuynh hướng này
là Hoài Thanh, Nguyễn Lương Ngọc, Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Lai Thúy…
Trước hết là Hoài Thanh. Đọc kỹ Hoài Thanh trong bài “Một thời đại
trong thi ca” chúng tôi thấy không hề một chỗ nào ông gọi Thơ mới là thơ lãng
mạn, trước sau nhất mực ông chỉ gọi là “Thơ mới”. Nhà nghiên cứu cho rằng:
“Tinh thần lãng mạn Pháp đã gia nhập vào văn học Việt Nam từ trước 1932
cùng một lần với Tuyết hồng lệ sử, Tố Tâm và Giọt lệ thu. Cho nên trong thời
đại này nó chỉ còn phảng phất. Thơ tượng trưng được người ta thích hơn,
nhất là Baudelaire, người đầu tiên đã khơi nguồn thơ ấy. Có thể nói các nhà
thơ kể trên, không nhiều thì ít đều bí ẩn ám ảnh vì Baudelaire”(210; tr.34).
Trước đó, ông nói rõ hơn: “Từ Xuân Diệu, Huy Cận, thơ Việt Nam đã có tính
cách của thơ Pháp lối tượng trưng. Nhưng còn dè dặt. Bích Khê và ít người
nữa như Xuân Sanh, muốn đi đến chỗ mà người ta thường cho la cao nhất
trong thơ t ượng trưng: Mallarmé, Valéry.
Ta vừa lần theo dòng thơ mạ nh nhất trong những dòng thơ đi xuyên
qua thời đại. Riêng về dòng này, thơ Việt đã diễn lại trong mười năm cái lịch
sử một trăm năm của thơ Pháp lãng mạn đến Thi Sơn, tượng trưng và những
nhà thơ sau tượng trưng” (210; tr.33).
Nhà nghiên cứu Nguyễn Lương Ngọc trong tập hồi ký Nhớ bạn có nêu
một nhận xét đáng chú ý. Ông cho biết theo dõi các cuộc nói chuyện thơ, đọc
các bài viết của Xuân Diệu ông tâm đắc một điều là ít khi Xuân Diệu dùng các
tính từ nói về phương pháp sáng tác như lãng mạn, hiện thực, hiện thực phê
phán. Theo ông có lẽ Xuân Diệu “phải có chủ đích” của mình. Ông nói thêm:
“Các nhà phê bình gọi anh (tức Xuân Diệu - LTD) là nhà thơ mới thì đúng
thôi: mới so với thơ cũ, mới so với cách dùng từ đặt câu của người trước.
Còn bảo anh là nhà văn, nhà thơ lãng mạn thì có lẽ còn phải bàn” (168;
tr.178).
Hoàng Ngọc Hiến trong tiểu luận “Baudelaire, chủ nghĩa tượng trưng và
Thơ mới” đã đặt ra vấn đề để khẳng định ảnh hưởng của thơ tượng trưng
Pháp với Thơ mới và cho rằng ảnh hưởng đó đã làm cho Thơ mới có được
mặt bằng sau Baudelaire chứ không phải chủ nghĩa lãng mạn. Ông viết: “Có
thể đặt câu hỏi giả sử như những người làm Thơ mới dừng lại ở chủ nghĩa
lãng mạn, dừng lại ở Lamartine, Victor Hugo… Giả sử họ không biết
Baudelaire và chủ ngh ĩa tượng trưng, không biết thơ Pháp hậu lãng mạn…
thế thì phong trào Thơ mới sẽ ra sao? Trên thực tế với Thơ mới, thơ hiện đại
Việt Nam đã có được mặt bằng nghệ thuật “sau Baudelaire” (có lẽ gọi là “hậu
tượng trưng”) (87; tr.151). Kết luận tiểu l uận này nhà nghiên cứu viết: “Những
nhà thơ trẻ bấy lâu nay làm quen gián tiếp với ngôn ngữ thơ tượng trưng như
qua ca tư Trịnh Công Sơn chẳng hạn, giờ đã có sách để đọc: đó là những
tuyển tập tương đối đầy đủ thơ Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan
Viên, Hoàng Cầm… xuất bản những năm gần đây”(87; tr.159).
Có thể nói, ở khuynh hướng này, tuy cách viết có khác nhau; nhưng
các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở chỗ là không khẳng định thơ Xuân Diệu
là thơ lãng mạn chủ nghĩa.
2. Từ những ý kiến trên, căn cứ vào những đặc điểm cụ thể của thơ
Xuân Diệu mà chúng tôi đã phân tích có thể rút ra những kết luận chủ yếu về
kiểu tư duy nghệ thuật của thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932 - 1945.
Như đã phân tích ở các phần trên, chúng tôi thấy tư duy nghệ thuật của
thơ Xu ận Diệu không hoàn toàn trùng khít với với tư duy nghệ thuật lãng
mạn chủ nghĩa. Nghĩa la trong tư duy nghệ thuật thơ ông vừa có yếu tố của
lãng mạn chủ nghĩa, vừa có yếu tố vượt ra ngoài hệ thống đó.
Khác với thơ cổ điển đầy rẫy ước lệ, thơ Xuân Diệu hướng đến tính cá
thể hóa cao độ. Mà tính cá thể hóa này lại là một nguyên tắc tư duy của chủ
nghĩa lãng mạn. Như vậy xét ở cấp độ này Xuân Diệu rất lãng mạn.
Phương thức trữ tình với “cái tôi bộc lộ” trên nhiều cấp độ của Xuân
Diệu cũng là một đặc điểm của tư duy lãng mạn chủ nghĩa. Ở phương thức
trữ tình này, nhà thơ bộc lộ cái nhìn chủ quan với hiện thức, nghĩa là một cái
nhìn rất lãng mạn…
Nhưng một mặt khác, tư duy nghệ thuật của Xuân Diệu lại vượt ra
ngoài h ệ thống tư duy lãng mạn chủ nghĩa. Nếu tư duy lãng mạn chủ nghĩa là
chối bỏ th ực tại để hướng đến tương lai hay quay về quá khứ, thì trái lại
Xuận Diệu lại khẳng định hiện tại, khẳng định thực tại.
Hay như tư duy nghệ thuật nghiêng về cảm giác thế giới ở Xuân Diệu
vượt lên trên tư duy cá thể hóa của chủ nghĩa lãng mạn. Ở kiểu tư duy này,
nhà thơ vượt lên sự nhận chân thế giới như một khách thể, mà cảm nhận thế
giới nhiều hơn về phía ấn tượng.
Tất cả những điều này cho thấy về mặt tư duy nghệ thuật, rõ ràng một
mặt Xuân Diệu tuân thủ những nguyên tắc lãng mạn chủ nghĩa; một mặt khác
lại vượt ra bên ngoài nguyên tắc đó. Từ đây có thể rút ra đặc điểm thứ hai
của tư duy nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là có nhiều yếu tố không thuộc
phạm trù lãng mạn.
Trước khi đi sâu vào những yếu tố không thuộc phạm trù lãng mạn,
trong thơ Xuân Diệu tưởng cũng cần nhắc qua những nguồn ảnh hưởng đối
với tư duy thơ Xuân Diệu.
Trước khi trở thành nhà thơ của phong trào Thơ mới, Xuân Diệu đã có
mười na m học làm thơ cũ. Mười năm học làm thơ cũ ấy, theo Nguyễn Đăng
Mạnh cho biết đã để lại cho Xuân Diệu bốn năm quyển vở học sinh đầy
những bài thơ “thất ngôn bát cú niêm luật chỉnh tề, nào là thơ tứ tuyệt, thơ
trường thiên cổ thể, thơ lục bát, so ng thất lục bát. Cả văn tế, hát nói, hát
xẩm, ca dao”… (153). Cho nên chúng ta hiểu tại sao âm điệu thơ Xuân Diệu
rất gần gũi với thơ ca truyền thống. Thậm chí có những câu, những ý là từ
thơ cổ điển mà ra. Chẳng hạn khi Xuân Diệu viết:
Tơ liễu giong gần tơ liễu êm
Bướm bay lại sánh bướm bay kèm
Rạo rực
Chúng tôi thấy rất gần gũi với câu thơ Trịnh Cốc:
Dương Tử giang đầu dương liễu xuân
Dương hoa sầu sát độ giang nhân
(Bên sông Dương Tử, dương liễu đượm màu xuân
Hoa dương liễu làm cho người qua sông buồn muốn chết)
TRỊNH CỐC - Hoài thượng biệt hữu nhân
Hay câu thơ tuyệt hay của Xuân Diệu:
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền
Thơ duyên
như vẫn phảng phất hơi thơ của Liễu Tông Nguyên hơn nghìn năm trước:
Thu lai xứ xứ cát sầu trường
(Mùa thu tới, đâu đâu cũng cắt dạ sầu thương)
LIỄU TÔNG NGUYÊN - Dữ hạo sơ thượng nhân đồng khán sơn…
Trong tứ thơ của bài Ý thu của Xuân Diệu:
Bông hoa rứt cánh rơi không tiếng
Ý thu
Gợi cho ta một liên tưởng với tứ thơ của Vi Thừa Khánh:
Lạc hoa tương dữ hận
Đáo địa nhất vô thanh
(Hoa rụng dường cùng nhau chia hận
Rơi xuống mặt đất không một tiếng gì)
VI THỪA KHÁNH - Nam hành biệt đệ
Những ảnh hưởng như thế trong thơ Xuân Diệu không ít. Nhưng còn
một nguồn ảnh hưởng khá quan trọng khác trong thơ Xuân Diệu nữa là thơ
Pháp. Vẫn theo Nguyễn Đăng Mạnh, Xuân Diệu “tập theo thơ truyền thống,
rồi lại tập theo thơ Tây. Từ dịch đến mô phỏng đến sáng tác. Con chim non
vẫy vẫy đôi cánh vụng về tập theo mẹ, rồi cứ chuyền xa, chuyền xa dần, cuối
cùng cất mình bay vào không trung” (153). Còn chính Xuân Diệu nhiều lần chỉ
rõ ở những bài nào, câu nào ông chịu ảnh hưởng của thơ Pháp. Xin trích một
đoạn trong bài viết cuối cùng của đời ông, bài “Sự uyên bác với việc làm thơ”.
Ông viết rằng bài thơ “Yêu” của ông, ông vay mượn của ba thi sĩ Pháp: “Nhà
thơ Pháp Eat mông Haruc ua (Edmont Haroucourt) có bài thơ ngắn rất nổi
tiếng Partir, cõe st mourir un peu= Đi là chết ở trong lòng một ít; đúng quá,
những đôi lứa muôn đời đứt gan, đứt ruột ph ải biệt xa nhau; khoảng 1934 -
1935, tôi đang yêu bèn vận vào mình và chuyển sang:
Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?
Cho rất nhiều, song chẳng nhậnbao nhiêu
Câu thứ ba tôi lấy dáng dấp một câu trong bài thơ tình duy nhất không
tiền khoáng hậu của Fêlix Arơve (Félix Arvers - 1806 - 1850) tất cả sự nghiệp
sáng tác của ông đã vào trong lãng quên, duy có bài thơ thất tình, thơ tuyệt
vọng của ông: Mon âme a son secret - Lòng ta chôn một mối tình, là còn sống
mãi hơn 150 năm nay đến nỗi tự vị La rút sờ (Larousse) cũng phải nhắc đến;
trong đó có câu: Dù anh có đi trọn con đường trần thế của mình, Nõosant rien
demandé. et nõayant rien recu - Chẳng dám xin và chưa hề nhận được gì, tôi
chuyển câu này thành “Cho rất nhiều, nhưng nhận chẳng bao nhiêu”; và bao
trùm là tôi đã làm theo điệu thơ rông đô (rondeau) của nhà thơ Saclơ
Đóclêăng (Charles dõ Or léans) thế kỷ 15, vịnh mùa xuân, láy câu thứ nhất,
thứ hai, làm câu thứ ba, thứ tư: (dịch)
Thời tiết đã bỏ chiếc áo ngoài
Bằng gió, bằng mưa, bằng giá rét
Và khoác mặc lên mình gấm vóc
Khoác áo mặt trời xinh, sáng, tươi.
Không một loài vật hay loài chim
Mà chẳng khề khà kêu hoặc hát
Thời tiết đã bỏ chiếc áo ngoài
Bằng gió, bằng mưa, bằng giá rét
Tôi cũng láy lại theo điệu rông đô như Saclơ Đóclêăng:
Yêu, là chết trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu
Người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết
Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt
Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Yêu, là chết trong lòng một ít
Và ở cuối đoạn thứ ba, câu thơ thứ 13 là câu cuối cùng, láy lại câu thứ
nhất. Và có thể nói một cách chân thật: Saclơ Đóclêăng khi láy lại đã tạo
được một nhạc điệu rất hay; tuy nhiên không đắc thế bằng tôi khi láy lại các
câu, vì mùa xuân không luẩn quẩn, còn tình yêu khi không được chia sẻ, thì
người đang yêu như con tằm rứt ruột tự giam thân, vướng vít ở trong cái kén
đan khổ bịt bùng” (34; tr.125).
Như vậy về mặt ảnh hưởng, tư duy nghệ thuật thơ Xuân Diệu có sự tác
động của thơ cổ điển, thơ Ph áp, của ca trù, ca dao v.v… Tuy ảnh hưởng
nhiều mặt nhiều nguồn như vậy, nhưng về mặt hình thức mà nói, Xuân Diệu
vừa có yếu tố của lãng mạn, có yếu tố của tượng trưng, ấn tượng và sau
tượng trưng. Hay nói như Hoài Thanh mà chúng tôi vừa trích là trong thơ
Xuân Diệu diễn lại “cái lịch sử một trăm năm của thơ Pháp từ lãng mạn đến
Thi sơn và những nhà sau tượng trưng”.
Vấn đề chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là những ảnh hưởng đó thể
hiện trong thơ Xuân Diệu như là những thành tố hợp thành tư duy thơ ông,
chứ không chỉ như là những thủ pháp.
Chủ nghĩa tượng trưng ra đời như là một sự khắc phục những hạn chế
của chủ nghĩa lãng mạn. Các nguyên tắc miêu tả bộc lộ trực tiếp của chủ
nghĩa lãng mạn có khi dẫn đến sự quá rõ ràng, khiến cho hình tượng đôi khi
thiếu tính uyên thâm. Các nhà tượng tr ưng muốn khắc phục, nói như Hoàng
Ngọc Hiến, bằng “một loại hình tượng tạo ra nhiều liên tưởng xa xôi, bất ngờ,
có sức ám gợi những hàm nghĩa sâu xa, ám gợi những tâm trạng. Tượng
trưng được sáng tạo trong sự siêu nghiệm có nội dung huyền bí” (87; tr.155).
Hay như Baudelaire giải thích: “Trong một số trạng thái tâm hồn có tính chất
siêu nhiên, chiều sâu cuộc sống bộc lộ toàn vẹn trong một cảnh tượng bày ra
trước mắt con người, có thể là hết sức tầm thường. Cảnh tượng này là tượng
trưng của sự sống” (87; tr.155). Hoặc nói khái quát hơn như các tác giả Thuật
ngữ nghiên cứu văn học thì nguyên tắc mĩ học cơ bản của chủ nghĩa tượng
trưng là “tính cách biểu trưng nghệ thuật cho các vật tự nó” và “các ý niệm
nằm ngoài giới hạn của tri giác cảm tính” (74; tr.67). Chủ nghĩa tượng trưng
rất gần gũi với chủ nghĩa ấn tượng ở chỗ đều lấy “cái thoáng qua không thể
nắm bắt được, không thể diễn đạt được bằng bất cứ cái gì, ngoại trừ cảm
giác” để làm thước đo giá trị. Từ đó đề cao trực giác, ấn tượng, biểu tượng
trong việc khám phá thế giới (74; tr.45).
Trên cơ sở một quan niệm như vậy chúng tôi thấy tư duy nghệ thuật
thơ Xuân Diệu bên cạnh những yếu tố rất lãng mạn, có nhiều yếu tố tượng
trưng.
Trước hết là ở tư duy cảm giác của ông. Một mặt lối tư duy này khắc
phục được hạn chế của tư duy ước lệ trong thơ cổ ở chỗ là cảm giác trực tiếp
sự vật, với tất cả sự cảm tính cụ thể của nó.
Nhưng một mặt khác, hình như ở đây nhà thơ còn muốn vượt lên sự
cảm nhận có tính chất kinh nghiệm, mà hướng đến cái siêu nghiệm. Xin lấy
bài Đi thuyền làm ví dụ:
Thuyền qua, mà nước cũng trôi
Lại thêm mây bạc trên trời cũng bay
Tôi đi trên chiếc thuyền này
Giòng mơ tơ tưởng cũng thay khác rồi
Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi phút trước sáng tôi phút này.
Ở bài thơ này mới đọc qua người đọc dễ lầm tưởng là tác giả tả việc “đi
thuyền” nhất là trong thanh âm của lời thơ lục bát nữa. Nhưng đọc kỹ, chúng
ta thấy “đi thuyền” ở đây như là một tượng trưng. Ở câu đa u tiên “Thuyền
qua” theo tư duy thông thường khi nối với các từ như “mà”, “cũng” thì sẽ là:
“Thuyền qua mà nước cũng qua”. Nhưng ở đây tác giả lại viết là “trôi”. Như
vậy cái ý niệm mà nhà thơ hướng đến không phải là hình thức, mà bản chất,
tức là cả hai “thuyền” và “nước” đều vận động. Ở các câu dưới thêm “mây
bay”, “tôi đi” nghĩa là cũng những hình thức kh ác nhau của vận động. Lại
thêm “cái bay”, “cái trôi”, “từ”, “sang” v.v… tất cả đều gợi lên ấn tượng của
vận động khách quan trong thế giới. Như vậy bài thơ không phải tả cảnh đi
thuyền, mà hướng đến một ý niệm về thế giới, về cuộc đời. Nếu hiểu như học
giả Mỹ L. Perine “tượng trưng là cái vật nào đó có một ý nghĩa rộng lớn hơn
chính nó” (dẫn theo 198; tr.65), thì bài Đi thuyền của Xuân Diệu là một bài thơ
rất tượng trưng.
Hoặc bài Nguyệt cầm chúng tôi thấy tư duy tượng trưng lấn át hẳn tư
duy lãng mạn. Ở đây tác giả không tả đàn, tả trăng nữa, mà “đàn trăng” như
một ấn tượng để gợi mở đến những ý niệm khác v.v…
Tuy nhiên, những bài mang tính chất tư duy tượng trưng hoàn toàn như
thế không nhiều. Điề u đáng nói hơn tư duy đó xâm nhập vào tư duy thơ
Xuân Diệu ở cấp độ thành tố, tạo nên những hình tượng vừa lãng mạn, vừa
phả ng phất phong cách tượng trưng.
Cũng như chủ ng hĩa tượng trưng, chủ nghĩa ấn tượng, tư duy nghệ
thuật thơ Xuân Diệu thường hướng đến cái “thoáng qua”, cái “chốc lát” như là
một nguyên tắc cấu tứ. Ví dụ:
- Một thoáng hương xưa chứa mộng đầy
- Một chớp mê man hồn gặp hồn
- Một thoáng cười yêu thỏa khát khao
- Như thoảng đưa mùi hương mến yêu
- Bỗng lướt qua tôi một bóng hồng
- Bỗng thấy lòng yêu cuồng ngẩn ngơ
- Ý tôi là một thoáng qua mau
- Bóng chiều đi vụt bỗng đêm nay.
v.v…
Một khoảng khắc mơ hồ của “buồn trăng”, một chớp mê man “tình cờ”
của “hồn gặp hồn”, một bóng ai như “luồng ánh sáng xô qua mặt”… đã để lại
trong thơ ông những hình tượng thơ đầy ám ảnh tượng trưng.
Tuy nhiên, Xuân Diệu chưa bước hẳn sang địa hạt của tượng trưng
như Bích Khê, Hàn Mặc Tử ở giai đoạn sau. Ông vẫn nghiêng về tư duy lãng
mạn nhiều hơn. Hình tượng thơ của ông vẫn lôi cuốn người đọc ở những cảm
xúc bộc lộ trực tiếp của tư duy lãng mạn chủ nghĩa, chứ không phải là những
ám gợi xa xôi của chủ nghĩa tượng trưng. Thành ra tư duy tượng trưng, ấn
tượng ở trong thơ ông chỉ mới như những yếu tố mà thôi.
Nếu chỉ xét trên bình diện này thì Xuân Diệu không mới bằng Hàn Mặc
Tư, Bích Khê. Tư duy thơ của Hàn Mặc Tử, Bích Khê đã vượt qua giới hạn
“rõ ràng” của tư duy lãng mạn, để hướng đến tư duy tượng trưng, thậm chí là
siêu thực nữa.
***
Thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932 - 1945 đã có những cách tân quan trọng
trong tiến trình phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại. Tư duy nghệ thuật của
thơ ông đã thực sự đổi mới trên nhiều bình diện so với thi ca trước đó.
Trước hết đó là một cái nhìn nghệ thuật mới mẻ. Nếu trước đây trong
thơ có con người được xem là một phần nhỏ bé trong “vạn vật nhất thể” của
vũ trụ, thì bây giờ trong quan niệm của Xuân Diệu con người là trung tâm của
thế giới. Do vậy, cũng như các nhà Thơ mới, con người cá nhân được khẳng
định trong thơ Xuân Diệu.
Cái nhìn nghệ thuật mới của Xuân Diệu còn được thể hiện ở chỗ nhìn
thế giới trong sự vận động, trong sự thay đổi đến không ngờ. Chính quan
niệm này đã tạo nên ứng xử “vội vàng” trong cảm xúc thơ Xuân Diệu. Kiểu thi
nhân của thơ ông là kiểu thi nhân lúc nào cũng vội vàng, lúc nào cũng hốt
hoảng trước cuộc đời, chứ không còn là kiểu thi nhân an nhiên, tự tại trước
mọi biến dời của thế sự như trong thơ xưa.
Thơ Xuân Diệu cũng phản ảnh cái nhìn hướng về hiện tại, lấy hiện tại
làm lý tưởng thẩm mỹ, tạo nên chất thơ khác với thơ các lãng mạn đương
thời.
Xuân Diệu cũng là người khẳng định cái đẹp của thế giới là những gì
mới mẻ, nguyên vẹn, đầu tiên chính điều này đã tạo cho chất thơ Xuân Diệu
đầy tính trẻ trung, sôi nổi. Với những cách nhìn như vậy, đã góp phần tạo nên
những biến đổi, những cách tân đáng kể trong tư duy nghệ thuật thơ Xuân
Diệu.
Cách tân của Xuân Diệu còn thể hiện ở việc tạo nên một nội dung trữ
tình, một phương thức trữ tình mới. Ông là người đưa lòng ham sống, đưa
nỗi băn khoăn về giới hạn của con người trước cái vô hạn của cuộc đời làm
nội dung trữ tình chính yếu tạo nên chất thơ, chất trữ tình độc đáo.
Phương thức trữ tình của thơ Xuân Diệu là trữ tình của một chủ thể bộc
lộ. Đó là một kiểu trữ tình rất mới mẻ. Ông đã thoát khỏi những quy phạm
ước lệ của thơ cổ để tạo nên một thứ thơ mới rất mới đó là thứ thơ mới mang
cái nhìn cá thể hóa về thế giới. Trữ tình của thơ Xuân Diệu là trữ tình của một
chủ thể cảm giác thế giới, nghiêng về cảm tính chứ không phải lý tính. Do đó,
ông đã dựng nên một thế giới nghệ thuật của thơ mình đầy ấn tượng, đầy
“thanh sắc trần gian”, phập phồng hơi thở sự sống chứ không phải ở những ý
niệm về thế giới. Cảm giác trực tiếp về thế giới đã trở thành một nguyên tắc
nghệ thuật quan trọng của tư duy thơ Xuân Diệu, giúp ông khám phá thế giới
trong một chiều sâu mới mà thi ca trước đó chưa có được.
Xuân Diệu cũng có những cách tân quan trọng về thể thơ và ngôn ngữ
thơ. Thể thơ Xuân Diệu rất đặc trưng cho các thể của Thơ mới. Ở những thể
ông sư dụng đều có những nét mới mẻ, đồng thời cũng rất truyền thống, tạo
cho thơ ông vừa rất hiện đại mà cũng rất cổ điển.
Xuân Diệu là người đã sáng chế ra một hệ thống ngôn từ và cách sử
dụng mới mẻ, tạo cho lời thơ có những nét độc đáo rất đặc sắc. Câu thơ
Xuân Diệu hiện đại ở khuynh hướng tự do hóa về mặt tổ chức, cấu trúc; mặt
khác lại rất cổ điển trong việc phối thanh, ngắt nhịp, tổ chức tiết điệu… Do vậy
đọc thơ ông người ta thấy như Hoài Thanh nhận xét vừa có bộ “y phục tối
tân” đồng thời lại thấy ở ông vẫn có “tình đồng hương rất nặng”.
Tư duy nghệ thuật thơ Xuân Diệu là một kiểu tư duy thật mới so với
trước đó. Tư duy nghệ thuật thơ của ông có những yếu tố của kiểu tư du y
lãng mạn mà cũng có những yếu tố của kiểu tư duy tượng trưng, kiểu tư duy
ấn tượng, kiểu tư duy cổ điển… Có thể nói ông đã tiếp nhận sáng tạo các
thành tựu của thi ca dân tộc, nhân loại để tạo nên kiểu tư duy nghệ thuật đặc
sắc của thơ mình.
Trong tiến trình phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại, thơ Xuân Diệu
thời kỳ 1932 - 1945 có ý nghĩa rất quan trọng. Nó không chỉ góp phần khẳng
định thắng lợi của phong trào Thơ mới mà còn góp phần quan trong đưa tư
duy Việt Nam sang phạm trù hiện đại. Có lẽ vì thế dù đã hơn 60 năm trôi qua,
mà nay đọc lại thơ ông vẫn thấy mới mẻ. Thơ ông sẽ trường tồn trong tiến
trình phát triển của thi ca dân tộc.
Sài gòn, tháng 9 – 1996
L.T.D
TÀI LIỆU THAM KHẢO1. ĐÀO DUY ANH - Từ điển Truyện Kiều, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1974.
2. LẠI NGUYÊN ÂN - Cuộc cải cách của phong trào Thơ mới và tiến
trình thơ tiếng Việt, Tạp chí Văn học số 1/1993, in lại trong “Nhìn lại một cuộc
cách mạng trong chi ca”, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.
3. LẠI NGUYÊN ÂN - Biên tập sách của Xuân Diệu, Tạp chí Văn học số
12.1995.
4. NGUYỄN DUY BÌNH - Xuân Diệu trong Hai đợt sóng, Tạp chí Văn
học, số 5/1968.
5. NGUYỄN DUY BÌNH - Tâm hồn thơ Xuân Diệu, Văn nghệ, số
373.1970.
6. NGUYỄN BÍNH - Lỡ bước sang ngang, NXB Hội Nhà văn, Hội
Nghiên cứu Giảng dạy Văn học TP.Hồ Chí Minh, 1992; in lại theo đúng bản in
lần đầu, 1940.
7. NGUYỄN PHAN CẢNH - Ngôn ngữ thơ, NXB Đại học và Giáo dục
chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987.
8. HUY CẬN - Lửa thiêng, NXB Hội Nhà văn - Hội Nghiên cứu và Giảng
dạy Văn học TP.H ồ Chí Minh, 1992; in lại theo đúng bản in lần đầu, NXB Đời
nay, Hà Nội, 1940.
9. HUY CẬN - Thơ tình Xuân Diệu trong sách “Xuân Diệu, con người và
tác phẩm”, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
10. HUY CẬN - HÀ MINH ĐỨC (Chủ biên) - Nhìn lại một cuộc cách
mạng trong thi ca, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.
11. HOÀI CHÂN - Nhìn lại phong trào Thơ mới - Tạp chí Văn học số
6.1995.
12. PHAN BỘI CH ÂU - Lối thi từ mới, Văn học tuần san, số 2 ngày 1-
10-1933.
13. PHAN BỘI CHÂU - Toàn tập, tập 5, NXB Thuận Hóa, Huế, 1990.
14. NGUYỄN HUỆ CHI - Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam thời kì cổ cận đại,
NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1983.
15. NAM CHI - “Trường hợp Xuân Diệu” trong sách “Xuân Diệu con
người và tác phẩm”, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
16. HỒNG CHƯƠNG - “Anh đã đi đúng hướng” trong sách “Văn nghệ
cách mạng và cách mạng không ngừng”, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1959.
17. VŨ HOÀNG CHƯƠN G - Mây, NXB Hội Nhà văn - Hội Nghiên cứu
và Giảng dạy Văn học TP.Hồ Chí Minh, 1992; in lại đúng bản in lần đầu, NXB
Đời nay, 1943.
18. VŨ HOÀNG CHƯƠN G - Thơ say, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1992.
19. VŨ HOÀNG CHƯƠNG - Ta đã làm chi đời ta, NXB Hội Nhà văn, Hà
Nội, 1993.
20. XUÂN DIỆU - Thơ thơ, NXB Hội Nhà văn - Hội Nghiên cứu và
Giảng dạy Văn học TP.Hồ Chí Minh, 1992; in lại theo đúng bản in lần đầu,
NXB Đời nay, Hà Nội, 1938.
21. XUÂN DIỆU - Tính cách An Nam trong văn chương, Ngày Nay, số
146, ngày 28-1-1939; in lại trong “13 năm tranh luận văn học”, tập III, NXB Hội
Nhà văn - Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP.Hồ Chí Minh, 1995.
22. XUÂN DIỆU - Mở rộng văn chương, Ngày Nay, số 148, ngày
4.2.1939; in lại trong “13 năm tranh luận văn học”, tập III, NXB Hội Nhà văn -
Hội Nghiê n cứu và Giảng dạy Văn học TP.Hồ Chí Minh, 1995.
23. XUÂN DIỆU - Công của thi sĩ Tản Đà, Ngày Nay, số 166, ngày
17.6.1939 in lại trong “1 3 năm tranh luận văn học” tập III, NXB Hội Nhà văn -
Hội Nghiê n cứu và Giảng dạy Văn học TP.Hồ Chí Minh, 1995.
24. XUÂN DIỆU - Phấn thông vàng, NXB Đời Nay, 1939.
25. XUÂN DIỆU - Trường ca, NXB Thời đại, 1945.
26. XUÂN DIỆU - Gửi hương cho gió, NXB Hội Nhà văn - Hội Nghiên
cứu và Giảng dạy Văn học TP.Hồ Ch í Minh, 1992; in lại theo đúng bản in của
NXB Thời đại, Hà Nội, 1945.
27. XUÂN DIỆU - Dứt khoát, Tạp chí Văn nghệ số 41 tháng 7.1953.
28. XUÂN DIỆU - Và cây đời mãi mãi xanh tươi, NXB Văn học, Hà Nội,
1971.
29. XUÂN DIỆU - Mài sắt nên kim, NXB Văn học, Hà Nội, 1977.
30. XUÂN DIỆU - Lượng thông tin và những kĩ sư tâm hồn ấy, NXB Tác
phẩm mới, Hà Nội, 1978.
31. XUÂN DIỆU - Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, 2 tập, NXB Văn học,
Hà Nội, 1987; in lần đầu 1981.
32. XUÂN DIỆU - Tuyển tập, 2 tập, NXB Văn học, Hà Nội, 1983 (tập 1)
1984 (tập 2).
33. XUÂN DIỆU - Công việc làm thơ, NXB Văn học, Hà Nội, 1984.
34. XUÂN DIỆU - Sự uy ên bác với việc làm thơ, Tạp chí Văn học số
1.1986.
35. PHẠM TIẾN DUẬT - Nhà thơ Xuân Diệu, trong sách “Xuân Diệu,
con người và tác phẩm”, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
36. LÊ TIẾN DŨNG - Xuân Diệu với việc phê thơ, Kiến thức ngày nay,
số 50, tháng 12-1990.
37. LÊ TIẾN DŨNG - Xuân Diệu, một đời người, một đời thơ, NXB Giáo
dục, 1993.
38. LÊ TIẾN DŨNG - Vài nét về thi pháp thơ Xuân Diệu thời kỳ Thơ mới
(1932 - 1945). Tập san Khoa học, Đại học Sư phạm Huế, số 8-1993
39. LÊ TIẾN DŨNG - Loại hình câu thơ của Thơ mới, Tạp chí Văn học,
số 1-1994.
40. LÊ TIẾN DŨNG - “Khi duyên tình nên thơ”, trong sách “Tiếng nói tri
âm”, NXB Trẻ, TP.Hồ Chí Minh, 1994.
41. LÊ TIẾN DŨNG - Xuân Diệu nhà thơ của cảm giác, Tập san Khoa
học, Đại học tổng hợp TP. Ho Chí Minh, số 1-1995.
42. LÊ TIẾN DŨNG - Sự đổi mới tư duy nghệ thuật của Xuân Diệu trên
bình diện câu thơ, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí
Minh, 1995.
43. LÊ TIẾN DŨNG - Thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932-1945: cái nhìn
nghệ thuật mới về thế giới và con người, Tạp chí Văn học, số 9-1997.
44. PHAN HUY DŨNG - Giá trị thẩ m mỹ đích thực của “Vội vàng”, Báo
Văn nghệ, số 30-1992.
45. PHAN HUY DŨNG - “Thơ duyên” sự tác hợp của cơ trời trong con
mắt Xuân Diệu trong sách “Tiếng nói tri âm”, NXB Trẻ, TP.Hồ Chí Minh,1994.
46. PHAN HUY DŨNG - Thiên nhiên như một biểu hiện của cái tôi trữ
tình trong Thơ mới, Tạp chí Văn học, số 6-1994
47. TRẦN THANH ĐẠM - “Thơ mới” (1930 - 1945) và thơ hôm nay, Văn
nghệ, số 45, ngày 5-11-1994.
48. ĐĂNG ANH ĐÀO - Những điểm hẹn, những cuộc gặp gỡ, (Văn học
Việt Nam 1930 - 194 5 và Văn học Ph áp) trong sách “Tài năng và người
thưởng thức”, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1994.
49. HỮU ĐẠT - Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1996.
50. PHAN CỰ ĐỆ - Phong trào Thơ mới 1932 - 1945 NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1982; Bản in lần đầu 1966.
51. PHAN CỰ ĐỆ - “Tập thơ Riêng chung của Xuân Diệu” trong sách
“Cuộc sống và tiế ng nói nghệ thuật, NXB Văn học, Hà Nội, 1972.
52. PHAN CỰ ĐỆ - HÀ MINH ĐỨC - Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975,
NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1979.
53. PHAN CỰ ĐỆ - “Một bước tiến của thi ca Việt Nam trên con đường
hiện đại hóa” trong sách “Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca”, NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1993.
54. PHAN CỰ ĐỆ (Chủ biên) - Thơ văn Hàn Mặc Tử, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 1993.
55. PHAN CỰ ĐỆ - HÀ VĂN ĐỨC - NGUYỄN HOÀNH KHUNG - Văn
học Việt Nam 1930-194 5, NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội,
1988.
56. ANH ĐỨC - Anh ra đi rồi, nhưng cả một đời thơ anh còn đó, Báo
Văn nghệ số 52, tháng 12.1985.
57. HÀ MINH ĐỨC - Xuân Diệu và những chặng đường thơ cách
mạng, Tạp chí Văn học số 2.1975.
58. HÀ MINH ĐỨC - “Về một hương đi trong thơ” trong sách “Thực tiễn
cách mạng và sáng tạo thi ca”, NXB Văn học, Hà Nội, 1977.
59. HÀ MINH ĐỨC - “Xuân Diệu”, trong sách “Nhà văn Việt Nam 1945 -
1975”, Tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1979.
60. HÀ MINH ĐỨC - “Anh đã sống hết mình cho cuộc sống và cho thơ”,
Tạp chí Va n học số 1/1987, in lại trong “Xuân Diệu con người và tác phẩm”,
NXB Tác phẩm mới 1987.
61. HÀ MINH ĐỨC - Giá trị nhân bản của phong trào Thơ mới trong
sách “Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca”, NXB Giáo dục, Hà Nội,
1993.
62. HÀ MINH ĐỨC - Xuân Diệu nói về “Đây mùa thu tới” trong sách
“Nhà văn nói về tác phẩm”, NXB Văn học, Hà Nội, 1994.
63. HÀ MINH ĐỨC (Chủ biên) - Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 27,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
64. HÀ MINH ĐỨC - Xuân Diệu nói về hai tập “Thơ thơ” và “Gửi hương
cho gió”, Tạp chí Văn học số 12.1995.
65. DIMITROVA B. - Xuân Diệu, trong sách “Xuân Diệu con người và
tác phẩm”, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
66. GANCHÈNE. M - Một nhà thơ lớn đã đi xa, trong sách “Xuân Diệu
con người và tác ph ẩm”, NXB Tác phẩm mới 1987.
67. ĐOÀN LÊ GIANG - Bình bài “Thơ duyên” và “Nguyệt cầm” của
Xuân Diệu trong sách “Xuân Diệu một đời người một đời thơ”, NXB Giáo dục,
TP. Hồ Chí Minh, 1993.
68. LÊ NHUỆ GIANG - Tập thơ “Một khối hồng”, của Xuân Diệu, Báo
Văn nghệ số 164, tháng 6.1966.
69. ĐOÀN GIỎI - Xuân Diệu - Huy Cận, một tình bạn keo sơn. Báo Văn
nghệ TP Hồ Chí Minh số 439, tháng 7.1976.
70. NGUYỄN LỆ HÀ - Đọc bài thơ “Huyền diệu” của Xuân Diệu và quan
niệm tương ứng các giác quan của Ba udelaire, Tạp chí Văn học số 10.1994.
71. TỊNH HÀ - Tuổi trẻ Xuân Diệu, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1989.
72. TỊNH HÀ - Đi hoang, NXB Văn học, Hà Nội, 1989.
73. DƯƠNG QUẢNG HÀM - Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc gia
Giáo dục xuất bản, Hà Nội, 1950.
74. LÊ BÁ HÁN - TRẦN ĐÌNH SỬ - NGUYỄN KHẮC PHI (Chủ biên) -
Thuật ngữ nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1992.
75. TẾ HANH - Hoa niên, NXB Hội nhà văn - Hội nghiên cứu và giảng
dạy văn học TP Hồ Chí Minh, 1992 in lại theo đúng bản in lần đầu của NXB
Đơ i nay, Hà Nội, 1945.
76. TẾ HANH - Nhà thơ quần chúng. Văn nghệ số 52.1985.
77. TẾ HANH - Kỉ niệm xa - kỉ niệm gần trong sách “Xuân Diệu, con
người và tác phẩm”, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
78. TẾ HANH - Kỉ niệm về tác phẩm đầu tiên trong sách “Nhìn lại một
cuộc cách mạng trong thi ca”, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.
79. TẾ HANH - Thơ Xuân Diệu và âm nhạc trong sách “Xuân Diệu, thơ
và đời”, NXB Văn học, Hà Nội, 1995.
80. TẾ HANH - Đời va thơ Xuân Diệu - đôi điều nhớ và cảm nhận, Tạp
chí Văn học số 12.1995.
81. TẾ HANH - Nhớ lại một tập thơ trong dự định của Xuân Diệu, Báo
Văn nghệ số 50, ngày 16.12.1995.
82. THẠCH HÃN - “Những bước đường tư tưởng của tôi”, (Tiểu luận và
phê bình của Xuân Diệu), Báo Văn nghệ số 1, tháng 10.1958.
83. NGUYỄN VĂN HẠNH - Thơ Tố Hữu tiếng nói đồng ý, đồng tình,
đồng chí, NXB Thuận Hóa, Huế, 1985.
84. NGUYỄN VĂN HẠNH - HUỲNH NHƯ PHƯƠNG - Lí luận văn học,
vấn đề và suy nghĩ, NXB Giáo dục, TP Hồ Chí Minh, 1995.
85. ĐẶNG THỊ HẠNH - LÊ HỒNG SÂM - Văn học lãng mạn và văn học
hiện thực phương Tây thế kỷ XI X, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp,
Hà Nội, 1985.
86. HEGEL. G. F. W - Mỹ học, bản dịch của Phan Ngọc, NXB Văn học,
Hà Nội, 1999.
87. HOÀNG NGỌC HIẾN - Baudel aire chủ nghĩa tượng trưng và thơ
mới, trong sách Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca, NXB Giáo dục, Hà
Nội, 1993.
88. ĐỖ ĐỨC HIẾU – Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học xã hội,
NXB Mũi Cà Mau, Hà Nội, 1993.
89. ĐÔNG HOÀI - Đọc lại “Dao có mài mới sắc của Xuân Diệu”, Báo
Văn nghệ số 7, tháng 6.1963.
90. THU HOÀI - Nhà thơ của trí tuệ và tâm hồn lớn, Văn nghệ Nghĩa
Bình, số 11, 1986.
91. TÔ HOÀI - Nhớ lại một kỉ niệm, Báo Văn nghệ, số 52, 1985, in lại
trong sách “Xuân Diệu con người và tác phẩm”, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội,
1987.
92. TÔ HOÀI - Các bụi chân ai, NXB Hội Nhà văn, 1991.
93. XUÂN HOÀI - Những kỉ niệm nhỏ về một nhà thơ lớn, Báo Văn
nghệ số 16.1991.
94. XUÂN HOÀNG - Nhớ anh trong sách “Xuân Diệu, con người và tác
phẩm”, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
95. PHẠM HỔ - Hiểu được anh cặn kẽ, trong sách “Xuân Diệu, con
người và tác phẩm”, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
96. PHẠM HỔ - Nỗi đau và niềm vui trong thơ Xuân Diệu, Tạp chí Tác
phẩm Văn học số 5-6, năm 1989.
97. MINH HUỆ - Anh Xuân Diệu ơi…, Báo Văn nghệ số 52.1985.
98. ĐOÀN TRỌNG HUY - Chân thật Xuân Diệu, Báo Văn nghệ số
16.1993.
99. HOÀNG HƯNG - Thơ mới và thơ hôm nay, Tạp chí Văn học, số 2,
1993, in lại trong sách “Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca”, NXB Giáo
dục, Hà Nội, 1993.
100. LÊ QUANG HƯNG - Cảm xúc thời gian trong thơ Xuân Diệu, Tạp
chí Văn học số 1/1987.
101. LÊ QUANG HƯNG - Cái tôi độc đáo - tích cực của Xuân Diệu
trong phong trào Thơ mới, Tạp chí Văn học số 5.1990.
102. LÊ QUANG HƯNG - Tinh thần phục hưng trong lí tưởng thẩm mĩ
của Xuân Diệu trước 1945, Tạp chí Văn học số 7.1994.
103. ĐOÀN THỊ ĐẶNG HƯƠNG - Xuân Diệu, hoàng tử của thi ca Việt
Nam hiện đại, Tạp chí Tác phẩm văn học, số 5-6-1989.
104. HỒ XUÂN HƯƠNG - Thơ, Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987.
105. TRẦN ĐÌNH HƯỢU - “Cái mới của Thơ mới từ xung khắc đến hòa
giải với truyền th ống” trong sách “Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca”,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.
106. ILINSKI. M - Cuộc gặp gỡ với nhà thơ Xuân Diệu, Tạp chí Văn học
nước ngoài số tháng 9.1985, in lại trong “Xuân Diệu, con người và tác phẩm”,
NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
107. NGUYỄN THỤY KHA - Những kỷ niệm nhỏ với một nhà thơ lớn
trong sách “Xuân Diệu, thơ và đời” NXB Văn học, Hà Nội 1995.
108. ĐINH GIA KHÁNH (chủ biê n) - Điển cố văn học, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1977.
109. NGUYỄN THANH KIM - Một lời nói thật, trong sách “Xuân Diệu,
thơ và đời”, NXB Văn học, Hà Nội, 1995.
110. LÊ TRÀNG KIỀU - Thơ mới, Hà Nội Báo số 14 ngày 8-4-1936.
111. LÊ TRÀNG KIỀU - Thơ mới, Hà Nội Báo, số 18 ngày 6-5-1936.
112. BÍCH KHÊ - Tinh huyết, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1996.
113. KHRAVTSENCO. M - Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát
triển văn học, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1978.
114. NGUYỄN HOÀNH KHUNG - Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ
mới, trong sách “Xuân Diệu, thơ và đời”, NXB Văn học, Hà Nội, 1995.
115. TRẦN ĐĂNG KHOA - Vài kỷ niệm nhỏ với nhà thơ Xuân Diệu”,
Văn học và Tuổi trẻ, tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1994.
116. LÊ ĐÌNH KỴ - Xuân Diệu và những áng thơ hay, Tạp chí Tác
phẩm mới, số 24 năm 1973, in lại trong các sách “Thơ với Xuân Diệu, Hoài
Than h, Chế Lan Viên”, NXB Cửu Long, 1988 và “Trên đường văn học”, tập I,
NXB Văn học, TP.Hồ Chí Minh, 1995.
117. LÊ ĐÌNH KỴ - Thơ mới, những bước thăng trầm, NXB TP. Hồ Chí
Minh, 1988, tái bản có bổ sung và sửa chữa năm 1993.
118. LÊ ĐÌNH KỴ - Thơ với Xuân Diệu, Hoài Thanh, Chế Lan Viên,
NXB Cửu Long, 1988.
119. LÊ ĐÌNH KỴ - Trên đường văn học, 2 tập, NXB Văn học, TP. Hồ
Chí Minh, 1995.
120. BÙI KỶ - Quốc văn cụ thể, NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1956.
121. THANH LÃNG – Bảng lược đồ văn học Việt Nam, NXB Trình bày,
Sài Gòn, 1967.
122. THANH LÃNG - 13 năm tranh luận văn học, 3 tập, NXB Văn học,
Hội nghiên cứu và Giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh, 1995.
123. MÃ GIANG LÂN - “Xuân Diệu” trong sách “Tác gia thơ Việt Nam”,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1984. Cũng bài này có sữa chữa hoặc rút gọn
in thành các bài “Xuân Diệu” in trong sách “Nghệ Tĩnh, gương mặt nhà văn
hiện đại”, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1990; “Sự đa dạng của Xuân Diệu” trong
“Xuân Diệu, con người và tác phẩm”, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội 1987; “Sức
bền của thơ”, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 1993. v.v…
124. MÃ GIANG LÂN - “Xuân Th u nhã tập”, một hướng tìm tòi cuối
cùng của Thơ mới, trong sách “Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca”,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.
125. PHONG LÊ. Thập kỷ Thơ mới trong thế kỷ XX của nền thơ Việt
Nam, in trong“Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca”, NXB Giáo dục, Hà
Nội, 1993.
126. MAI QUỐC LIÊN - Nghìn sau còn nhớ, trong sách Xuân Diệu con
người và tác phẩm, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
127. MAI QUỐC LIÊN - Xuân Diệu qua Thi hào dân tộc Nguyễn Du,
trong sách Xuân Diệu, tình đời và sự nghiệp, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1996.
128. VŨ ĐÌNH LIÊN - ĐỖ ĐỨC HIỂU - LÊ TRÍ VIỄN - TRƯƠNG
CHÍNH - LÊ THƯỚC - Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập III, NXB Xây
Dựng, Hà Nội, 1957.
129. LISEVICH I.S - Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa, TRẦN
ĐÌNH SỬ dịch, Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, 1993.
130. NGUYỄN VĂN LONG - Các mục “”Xuân Diệu”, “Thơ thơ”, “Riêng
chung”, trong Tư điển văn học, ta p II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1984.
131.NGUYỄN VĂN LONG - Lời giới thiệu trong sách Thơ Xuân Diệu,
NXB Giáo dục, Hà Nội 1993.
132. NGUYỄN VĂN LONG - Lời bình “Thơ duyên”, “Tương tư chiều”,
“Quả sấu non trên cao”, trong sách “Thơ Xuân Diệu”, NXB Giáo dục, Hà Nội,
1993.
133. PHẠM QUANG LONG - Sự trở về cái tôi - một đóng góp của Thơ
mới lãng mạn, trong sách, “Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca”, NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1993.
134. NGUYỄN TẤN LONG, NGUYỄN HỮU TRỌNG - Việt Nam, thi
nhân tiền chiến, ba quyển, NXB Sống mới, Sài Gòn, 1968.
135. NGUYỄN LỘC - Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu
thế kỷ XIX, 2 tập, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, TP. Hồ Chí Minh,
1992.
136. PHẠM LUẬN - Thể loại thơ trong “Quốc Âm thi tập” và thi pháp
Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 4.1991
137. LƯU TRỌNG LƯ - Phong trào Thơ mới, Tiểu thuyết thứ bảy, số
27 ngày 1.12.1934.
138. LƯU TRỌNG LƯ - Tiếng thu, NXB Hội Nhà văn - Hội Nghiên cứu -
Giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh, 1992 in lại theo đúng bản in lần đầu,
Editions Librairie Centrale, Hà Nội, 1939.
139. LƯU TRỌNG LƯ - Nhân đọc một bài thơ tình của Xuân Diệu, Tạp
chí Văn học số 4 năm 1963.
140. THẾ LỮ - Mấy vần thơ, NXB Hội Nhà văn - Hội Nghiên cứu -
Giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh, 1992 in lại theo đúng bản in đầu của
NXB Đời nay, Hà Nội, 1935.
141. THẾ LỮ - “Một thi sĩ mới: Xuân Diệu”, Báo Ngày nay số 46 năm
1937.
142. THẾ LỮ - “Lời tựa” tập “Thơ thơ”, NXB Đời nay, Hà Nội, 1938.
143. PHƯƠNG LỰU - Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1985.
144. PHƯƠNG LỰU - (Chủ biên) Lý luận văn học, 3 tập, NXB Giáo
dục, Hà Nội, 1986 - 1988.
145. HUỲNH LÝ - HOÀNG DUNG – NGUYỄN HOÀNH KHUNG –
NGUYỄN ĐĂNG MẠNH – NGUYỄN TRÁC – Lịch sử văn học Việt Nam, tập
V: 1930 - 1945, Phần 1, in lần thứ 5, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1978.
146. HOÀNG NHƯ MAI - Hoa thơ, (Thơ về hoa của Xuân Diệu) trong
sách “Thơ một thời”, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1979.
147. HOÀNG NHƯ MAI - Xuân Diệu, trong sách “Văn học 11”, NXB
Giáo dục, TP.Hồ Chí Minh,1990.
148. HOÀNG NHƯ MAI - Lời bình bài “Vội vàng” của Xuân Diệu trong
sách“Xuân Diệu - Huy Cận”, NXB Tổng hợp Khánh Hòa, 1992.
149. HOÀNG NHƯ MAI - Chặng đường Văn học 1940-1945, Tập san
Khoa học, Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh số 1.1995.
150. THIẾU MAI - “Người anh lớn” trong sách “Xuân Diệu, thơ và đời”,
NXB Văn học, Hà Nội, 1995.
151. THIẾU MAI - “Nhà thơ thân thiết của chúng ta” trong sách “Xuân
Diệu, tình đời và sư nghiệp”, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1996.
152. NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - Đọc “Tôi giàu đôi mắt”, tạp chí Tác phẩm
mới, số 9 năm 1970; in lại trong “Nhà văn, tư tưởng và phong cách”, NXB Tác
phẩm mới, Ha Nội, 1979.
153. NGUYỄN ĐĂNG MA NH - Xuân Diệu và niềm khát khao giao cảm
với đời - Báo Văn nghệ số 29-1985.
154. NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - Lời giới thiệu trong sách Tuyển tập Xuân
Diệu, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1987.
155. NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - Tư tưởng và phong cách một nhà thơ
lớn, trong sách “Chân dung văn học”, NXB Thuận Hóa, Huế, 1990.
156. NGUYỄN ĐĂNG MA NH - Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học,
Đại học sư phạm Hà Nội I xuất bản, 1993.
157. NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - Bình giảng các bài thơ “Đây mùa thu tới”
và “Vội vàng” của Xuân Diệu, trong sách Thơ Xuân Diệu, NXB Giáo dục, Hà
Nội, 1993.
158. NGUYỄN ĐĂN G MẠNH - NGUYỄN TRÁC - TRẦN HỮU TÁ -
NGUYỄN VĂN LONG - ĐOÀN TRỌNG HUY – Văn học Việt Nam 1945-1975,
hai tập, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1988, 1990.
159. NAM MỘC - Phê bình, giới thiệu thơ Xuân Diệu, Tạp chí Văn học
số 4 năm 1960.
160. THÉP MỚI - Là thi sĩ… nghĩa là lao động, Báo Nhân dân số
11493, in lại trong “Xuân Diệu, nha thơ lớn của dân tộc”, Hội Văn học Nghệ
thuật Nghĩa Bình, 1986.
161. NGUYỄN PHONG NAM - “Biển” của Xuân Diệu, Báo Văn nghệ, số
15.1987.
162. NGUYỄN PHONG NAM - Lời bình bài thơ “Mũi Cà Mau” của Xuân
Diệu, trong sách “Xuân Diệu, một đời người, một đời thơ”, NXB Giáo dục, TP.
Hồ Chí Minh, 1993.
163. NGUYỄN THỊ HO NG NAM - Quan niệm nghệ thuật về con người
trong thơ Xuân Diệu, Tạp chí Văn học số 12/1995.
164. NGUYỄN XUÂN NAM - Đọc “Và cây đời mãi mãi xanh tươi” của
Xuân Diệu, Báo Văn nghệ số 463, tháng 8/1972.
165. NGUYỄN XUÂN NAM - Lý luận văn học, tập II (viết chung), NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1987.
166. NGUYỄN XUÂN NAM - Thơ, tìm hiểu và thưởng thức, NXB Tác
phẩm mới, Hà Nội, 1985.
167. ANH NGỌC - Nhà thơ gần gũi nhất với tâm hồn tôi, Tạp chí Văn
nghệ Quân đội, số 3 năm 1986.
168. NGUYỄN LƯƠNG NGỌC - Xuân Diệu, trong sách Nhớ bạn, NXB
Văn học, Hà Nội, 1992.
169. PHAN NGỌC - Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện
Kiều, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985.
170. PHẠM THẾ NGŨ - Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III,
Quốc học tùng thư xuất bản, Sài Gòn, 1969.
171. BÙI VĂN NGUYÊN - HÀ MINH ĐỨC - Thơ ca Việt Nam, hình thức
và thể loại, NXB Khoa học và xã hội, Hà Nội, 1968.
172. LỮ HUY NGUYÊN - Những kỷ niệm riêng chung, trong sách “Xuân
Diệu, con người và tác phẩm”, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
173. LỮ HUY NGUYÊN - Kỷ niệm với Thơ mới trong sách “Nhiẵn lại
một cuộc cách mạng trong thi ca”, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.
174. VƯƠNG TRÍ NHÀN - “Xuân Diệu: chưa ai thông cảm hết nỗi cô
độc của tôi” trong sách Những kiếp hoa dại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 1994.
175. VƯƠNG TRÍ NHÀN - “Sự kiện in dấu vào thơ Việt Nam thế kỷ XX”
trong sách Những kiếp hoa dại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 1994.
176. VƯƠNG TRÍ NHÀN - Khả năng tỏa sáng trong sách “Xuân Diệu,
thơ và đời”, NX B Văn học, Hà Nội, 1995.
177. VƯƠNG TRÍ NHÀN - Xuân Diệu và việc tìm hiểu gia tài văn học
của cha ông trong sác h “Xuân Diệu, tình đời và sự nghiệp”, NXB Hội Nhà
văn, Hà Nội, 1996.
178. PHÙNG QUÝ NHÂM - Thẩm định văn học, NXB Văn nghệ TP. Hồ
Chí Minh, 1992.
179. HOÀNG NHÂN - Xuân Diệu và Baudelaire, Tạp chí Văn học, số 4
năm 1996.
180. Ý NHI - Một khoảng trống có thật trong sách “Xuân Diệu, con
người và tác phẩm”, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
181. VŨ NHO - Bình bài thơ “Tình qua” của Xuân Diệu, trong sách “Thơ
chọn và lời bình”, NXB Văn học, Hà Nội, 1993.
182. VŨ NGỌC PHAN - Nhà văn hiện đại, NXB Tân Dân, Hà Nội, 1942;
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tái bản, 1989.
183. VŨ ĐỨC PHÚC - Cái chung và cái riêng của tập thơ “Riêng
chung”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 10/1961.
184. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG - Dẫn vào tác phẩm văn chương, Đại học
Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 1986.
185. VŨ QUẦN PHƯƠNG - Vài kỷ niệm với anh. Báo Văn nghệ, số
52/1995.
186. VŨ QUẦN PHƯƠNG - “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu, trong
sách “Thơ với lời bình”, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1990.
187. VŨ QUẦN PHƯƠNG - Nhìn lại tiến trình thơ hiện đại, Báo Văn
nghệ số 47 - 1995.
188. VŨ QUẦN PHƯƠ NG - Thơ tình Xuân Diệu nồng và trẻ, Tạp chí
Văn học số 12-1995; Báo Văn nghệ số 50-1995.
189. NGUYỄN ĐỨC QUYỀN - Bài thơ “Biển” của Xuân Diệu, Báo Văn
nghệ số 8-1987.
190. NGUYỄN ĐỨC QUYỀN - Lần cuối cùng gặp Xuân Diệu, trong
sách “Xuân Diệu, nhà thơ lớn của dân tộc”, Hội Văn học nghệ thuật Nghĩa
Bình, 1986.
191. ĐÀO XUÂN QUÝ - “Sự sống còn của một nhà văn là ở tác phẩm”,
in trong sách “Xuân Diệu, thơ và đời”, NXB Văn học, Hà Nội, 1995.
192. ĐOÀN RẠNG - VŨ QUÝ MÃO -TRẦN NHƯ THUẦN - ĐỖ QUANG
GIAI - Mười thế ky văn chương Pháp, Hai quyển, Nhà sách Khai Trí Xuất bản,
Sài Gòn, 1961-1962.
193. NGUYỄN XUÂN SANH - “Nghĩ đôi điều về thơ mới” trong sách
“Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca”, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.
194. NGUYỄN XUÂN SANH - Xuân Diệu, đôi suy nghĩ về tình bạn, Tạp
chí Văn học số 12/1995.
185. SAUSSURE-F. - Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1973.
196. TRẦN ĐÌNH SỬ - Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Tác phẩm mới, Hà
Nội, 1987.
197. TRẦN ĐÌNH SỬ - Hành trình thơ Việt Nam hiện đại, Báo Văn nghệ
số 41-1994.
198. TRẦN ĐÌNH SỬ - Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 1995.
199. TRẦN ĐÌNH SỬ - Một hồn thơ còn vọng mãi, Báo Văn nghệ số 50-
1995.
200. TRẦN ĐÌNH SỬ - Lý luận, phê bình văn học, NXB Hội Nhà văn,
Hà Nội, 1996.
201. TRẦN HỮU TÁ (viết chung) - Lịch sử Văn học Việt Nam 1945 -
1975, 2 tập, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1988, 1990.
202. VĂN TÂM - Giảng văn văn học Việt Nam 1930-1945, tập I, Văn
học lãng mạn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1991.
203. VĂN TÂM - Giới thuyết Thơ mới, Tạp chí Văn học, số 6/1992. in lại
trong sách “Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca”, NXB Giáo dục, Hà Nội,
1993.
204. TCASEV. M - Một tài năng tươi sáng và phong phú, trong sách
“Xuân Diệu, con người và tác phẩm”, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
205. BÙI ĐỨC TỊNH - Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ
mới, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1992.
206. THANH TỊNH - Tưở ng nhớ anh Xuân Diệu thân yêu, Tạp chí Văn
nghệ Quân đội số 3 năm 1986.
207. THUẬN THẢO - Nhà thơ Xuân Diệu trong lòng anh chị em văn
nghệ sĩ thành phố, Báo Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, số 413 năm 1986.
208. KHÂU CHẤN THANH - Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung
Quốc, NXB Gi áo dục, Hà Nội, 1994.
209. HOÀI THANH - Thơ mới, Tiểu thuyết thứ bảy số 31 ra ngày 29-12-
1934.
210. HOÀI THANH - HOÀI CHÂN - Thi nhân Việt Nam, Nguyễn Đức
Phiên xuất bản, Huế, năm 1942; theo bản in của NXB Hoa tiên, Sài Gòn,
1967.
211. HOÀI THANH - Tuyển tập, 2 tập, NXB Văn học Hà Nội, 1982.
212. NGUYỄN BÁ THÀNH - Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt
Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 1995.
213. NHỮ THÀNH - Thử tìm hiểu tứ thơ của thơ Đường, Tạp chí Văn
học số 1-1982.
214. BÙI CÔNG THÀNH - Xuân Diệu, nhà thơ lớn của nền thơ Việt
Nam hiện đại, Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 3-1986.
215. ÁI THI - Chữ và nghĩa trong thơ Xuân Diệu, Báo Văn nghệ TP.Hồ
Chí Mi nh, số 413-1986.
216. BẠCH NĂNG THI - PHAN CỰ ĐỆ - Văn học Việt Nam 1930-1945,
2 tập, NXB Giáo dục, Hà Nội 1961.
217. NGUYỄN THÀNH THI - Lời bình bài thơ “Vội vàng” của Xuân
Diệu, trong sách “Phân tích tác phẩm văn chương trong nhà trường”, NXB
Tổng hợp Khánh Hòa, 1991.
218. HỮU THỈNH - Kỷ niệm cuối cùng về anh, Báo Văn nghệ số 52-
1985.
219. HỮU THỈNH - Tưởng nhớ anh Xuân Diệu, Báo Văn nghệ số
50.1995.
220. PHẠM HUY THÔNG - Tiếng sóng - Yêu đương, NXB Hội Nhà văn
- Hội Nghiên cứu - Giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh, 1992; in lại theo đúng
bản in lần đầu của nhà in Tân Dân, Hà Nội, 1934.
221. VŨ DUY THÔNG - Đôi điều nhớ và nghĩ về Xuân Diệu, Báo Văn
nghệ số 50 - 1985.
222. HOÀNG TRUNG THÔNG - Lời giới thiệu trong sách Tuyển tập
Xuân Diệu, tập I, NXB Văn học, Hà Nội, 1983; trước đó đã in trên Tạp chí Văn
học số 2-1982, số 1/1983 và nhiều tuyển tập khác.
223. HOÀNG TRUNG THÔNG - Mãi mãi tưởng nhớ anh, Báo Văn nghệ
số 52-1985.
224. Thơ Đường, 2 tập NXB Văn học, Hà Nội, 1987.
225. Thơ Ngô Thì Nhậm, Vũ Khiêu chủ biên, NXB Văn học, Hà Nội,
1986.
226. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đinh Gia Khánh chủ biên, NXB Văn
học, Hà Nội, 1983.
227. Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Trương Chính biên soạn, NXB Văn
học, Hà Nội, 1993.
228. Thơ văn Nguyễn Khuyến, Hoàng Hữu Yên biên soạn, NXB Giáo
dục, Hà Nội, 1994.
229. ANH THƠ - Bức tranh quê, NXB Hội Nhà văn - Hội Nghiên cứu -
Giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh, 1992; in lại theo đúng bản in lần đầu của
NXB Đời nay, Hà Nội, 1941.
230. ANH THƠ - Vài kỷ niệm với Xuân Diệu, Tạp chí Văn học, số 12-
1995.
231. LƯU KHÁNH THƠ - Nghệ thuật cấu tứ trong thơ tình Xuân Diệu,
Tạp chí Văn học, số 4-1994.
232. LƯU KHÁNH THƠ - Cái tôi trữ tình và phương thức biểu hiện của
cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng, Tạp chí Văn học, số 10-
1994.
233. LƯU KHÁNH THƠ - Thơ tình Xuân Diệu trước và sau cách mạng
tháng Tám 1945, Tạp chí Văn học số 9-1995.
234. LÝ HOÀI THU - Nỗi buồn và sự cô đơn trong thơ Xuân Diệu trước
năm 1945, Tạp chí Văn học số 5-1995.
235. LÝ HOÀI THU - Thế giới không gian nghệ thuật qua “Thơ thơ” và
“Gửi hương cho gió”, Tạp chiã Văn học số 1-1996.
236. ĐỖ LAI THÚY - Con mắt thơ, NXB Lao động, Hà Nội, 1992.
237. LƯƠNG DUY THỨ - Thi pháp thơ Đường, Đại học Tổng hợp TP.
Hồ Chí Minh, 1996.
238. LÊ NGỌC TRÀ - Lý luận và văn học, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh,
1990.
239. NGUYỄN TRÁC - Xuân Diệu, trong sách “Văn học Việt Nam 1945-
1975”, tập II. NXB Giáo dục, 1990.
240. NGUYỄN TRÁC - HOÀNG DUNG - NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - Giáo
trình lịch sử Văn học Việt Nam, tập 5, 1930-1945, NXB Giáo dục, Hà Nội,
1962.
241. NGUYỄN TRÃI - Quốc Âm thi tập, Vũ Văn Kính phiên soạn, NXB
Trẻ TP. Hồ Chí Minh, 1995.
242. Từ trong di sản, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1981.
243. NGUYỄN NGUYÊ N TRỨ - Lời bình bài “Nguyệt Cầm” của Xuân
Diệu trong sách “Thơ và thẩm bình thơ”, NXB Giáo dục, 1991.
244. HÀ XUÂN TRƯƠ NG - Một cây lớn nằm xuống cả khoảng trời
trống vắng, Báo Văn nghệ số 52-1985.
245. XUÂN TỬU - Nhớ anh Xuân Diệu, báo Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh,
số 414-1986.
246. Tuyển tập Ca trù, Ngô Linh Ngọc và Ngô Văn Phú biên soạn, NXB
Văn học, Hà Nội, 1987.
247. HÀN MẶC TỬ - Gái quê, NXB Hội Nhà văn - Hội Nghiên cứu -
Giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh, 1992; in lại theo đúng bản chép tay của
Chế Lan Viên, 1936.
248. HÀN MẶC TỬ - Bích Khê, thi sĩ của thần linh, trong sách “Bích
Khê - Tinh huyết”, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995.
249. VAXILIEV. A - Tôi là trái cam, hãy vắt kiệt lấy nước của nó, trong
sách “Xuân Diệu, con người và tác phẩm”, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
250. HUỲNH VÂN - Quan hệ văn học hiện thực và vấn đề tác động,
tiếp nhận và giao tiếp thẩm mỹ, trong sách “Văn học và hiện thực”, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1990.
251. CHẾ LAN VIÊN - Điêu tàn, NXB Hội Nhà văn - Hội Nghiên cứu -
Giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh, 1992; in lại theo đúng bản in lần đầu của
NXB Thái Dư ơng, Hà Nội, 1937.
252. CHẾ LAN VIÊN - Đọc “Những bước đường tư tưởng của tôi”,
trong sách “Phê bình văn học”, NXB Văn học, Hà Nội, 1962.
253. CHẾ LAN VIÊN - Đọc tập “Lượng thông tin và những kỹ sư tâm
hồn ấy” của Xuân Diệu, trong sách “Xuân Diệu, tình đời và sự nghiệp”, NXB
Hội Nhà văn, Hà Nội, 1996.
254. CHẾ LAN VIÊN - Rồi đây vĩnh viễn, Báo Văn nghệ, số 52, 1985.
255. VIỆN VĂN HỌC - Sơ thảo lịch sử Văn học Việt Nam 1930-1945,
NXB Văn học, Hà Nội, 1964.
256. LÊ TRÍ VIỄN - Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, NXB Đại học
và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987.
257. Xuân Diệu, nhà thơ lớn của dân tộc, Thu Hoài - Nguyễn Đức
Quyền biên soạn, Hội Văn học nghệ thuật Nghĩa Bình, 1986.
258. Xuân Diệu con người và tác phẩm, Hữu Nhuận biên soạn, NXB
Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
259. Xuân Diệu - Huy Cận, Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn, NXB Khánh
Hòa, 1992; NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, tái bản có sửa chữa bổ sung
năm 1995.
260. Xuân Diệu, thơ và đời, Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, NXB Văn học,
Hà Nội, 1995.
261. Xuân Diệu, tình đời và sự nghiệp, Xuân Tùng biên soạn. NXB Hội
Nhà văn, Hà Nội, 1996.
262. Xuân thu nhã tập, Nguyễn Bao giới thiệu, sưu tầm, biên soạn,
NXB Văn học, Hà Nội, 1991.
263. TRẦN ĐĂNG XUYỀN - Nhân đọc “Thanh ca” nghĩ về một vài khía
cạnh thơ Xuân Diệu, Báo Văn nghệ số 7-1984.
MỤC LỤCLời giới thiệu
Dẫn nhập
Chương I. Những đổi mới của thơ Xuân - Diệu giai đoạn 1932-1945
trên bình diện quan niệm nghê thuật về thế giới và con người
1. Quan niệm thế giới đổi thay
2. Khắng định hiện tại, khẳng định thực tại
3. Khẳng định cái đẹp tươi nguyên, mới mẻ, đầu tiên.
4. Đề cao con người cá nhân
Chương II. Những cách tân của thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932-1945
trên bình diện nội dung trữ tình và phương thức trữ tình
1. Nội dung trữ tình
2. Phương thức trữ tình
Chương III. Những cách tân của thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932-1945
trên bình diện thể thơ và ngôn ngữ thơ
1. Thể thơ
2. Ngôn ngữ
Kết luận
Tài liệu tham khảo
---//---
NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ XUÂN DIỆU
GIAI ĐOẠN 1932 – 1945
Tác giả: Lê Tiến Dũng
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
Khu phố 6, phường Linh Trung, quận Thủ Đức, TP.HCM
ĐT: 7 242 181, 7 242 160 + (1421, 1422, 1423, 1425, 1426)
Fax: 7 242 194 - Email: [email protected]
Chịu trách nhiệm xuất bản: PGS. TS. NGUYỄN QUANG ĐIỂN
Biên tập: TRẦN THỊ LY
Sửa bản in: PHẠM VĂN THỊNH
Trình bày bìa: XUÂN THẢO
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5 cm. Tại Công ty In Hưng Phú. Giấy phép xuất
bản số: 19/1731/XB-QLXB do Cục Xuất bản cấp ngày 01/12/2004. Giấy trích
ngang số 139/KHXB do NXBĐHQG - HCM ký ngày 11/03/2005. In xong và
nộp lưu chiểu tháng 05 năm 2005.