30
PHÂN TÍCH CHI TIÊU CÔNG (CBA) I. DAĐT nói chung và DAĐT công: 1. Dự án đầu tư: 1.1. Định nghĩa: Xét trên giác độ tổng thể chung của quá trình đầu tư thì: Dự án đầu tư được hiểu là một tập tài liệu tổng hợp bao gồm các luận chứng cá biệt được trình bày một cách có hệ thống, chi tiết về một kế hoạch đầu tư nhằm đầu tư các nguồn tài nguyên của một cá nhân, tổ chức vào một lĩnh vực hoạt động nào đó của xã hội để tạo ra một kết quả kinh tế, tài chính kéo dài trong tương lai. Trên giác độ nội dung Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động cụ thể, có mối quan hệ biện chứng nhân quả với nhau của các vấn đề để đạt được mục đích nhất định trong tương lai. Trước hết: Dự án đầu tư phải thể hiện được mục tiêu của hoạt động đầu tư là gì? Thứ hai: Phải xác định và thể hiện được nguồn lực và cách thức để đạt được mục tiêu đầu tư là gì? Thứ ba: Phải xác định được thời hạn có thể thực hiện được mục tiêu và ai là người thực hiện hoạt động đầu tư này? Theo quy định hiện hành… 1

Phân tích chi tiêu công

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Phân tích chi tiêu công

PHÂN TÍCH CHI TIÊU CÔNG (CBA)

I. DAĐT nói chung và DAĐT công:

1. Dự án đầu tư:

1.1. Định nghĩa:

Xét trên giác độ tổng thể chung của quá trình đầu tư thì:

Dự án đầu tư được hiểu là một tập tài liệu tổng hợp bao gồm các luận chứng cá

biệt được trình bày một cách có hệ thống, chi tiết về một kế hoạch đầu tư nhằm

đầu tư các nguồn tài nguyên của một cá nhân, tổ chức vào một lĩnh vực hoạt động

nào đó của xã hội để tạo ra một kết quả kinh tế, tài chính kéo dài trong tương lai.

Trên giác độ nội dung

Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động cụ thể, có mối quan hệ biện chứng

nhân quả với nhau của các vấn đề để đạt được mục đích nhất định trong tương lai.

Trước hết: Dự án đầu tư phải thể hiện được mục tiêu của hoạt động

đầu tư là gì?

Thứ hai: Phải xác định và thể hiện được nguồn lực và cách thức để đạt

được mục tiêu đầu tư là gì?

Thứ ba: Phải xác định được thời hạn có thể thực hiện được mục tiêu

và ai là người thực hiện hoạt động đầu tư này?

Theo quy định hiện hành…

Ở Việt Nam, dự án đầu tư được hiểu là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ

vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự

tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch

vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định (luật đầu tư 2005)

1.2. Dự án đầu tư công:

Dự án đầu tư công là dự án đầu tư sử dụng toàn bộ hoặc một phần vốn đầu tư công

Vốn đầu tư công quy định tại Luật này gồm: vốn ngân sách nhà nước, vốn công

trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa phương,

vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước

ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư từ nguồn thu để lại 1

Page 2: Phân tích chi tiêu công

cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản vốn vay

của ngân sách địa phương để đầu tư..( Luật đầu tư công 2014)

II. Phân tích chi phí lợi ích:

2.1. Định nghĩa:

Phân tích lợi ích và chi phí (cost & benefit analysis - CBA).Phân tích lợi ích

và chi phí là gì? Theo Frances Perkins (1994): CBA là phân tích mở rộng của phân

tích tài chính, được sử dụng chủ yếu bởi các chính phủ và cơ quan quốc tế để xem

xét một dự án hay chính sách có làm tăng phúc lợi cộng đồng hay không.

Boardman (2001) cũng giải thích: CBA là một phương pháp đánh giá dự án, trong

đó giá trị của tất cả các kết quả dự án đối với mọi thành viên trong xã hội nói

chung được lượng hóa bằng tiền. Lợi ích xã hội ròng là thước đo giá trị của chính

sách. Như vậy, có thể hiểu CBA là một phương pháp thường được tiến hành trong

quá trình ra quyết định nên chấp nhận hay loại bỏ một chính sách kinh tế - xã hội

dựa trên tính hiệu quả của nó, hoặc quyết định lựa chọn giữa hai hay nhiều các

chính sách có tính chất loại trừ lẫn nhau.

Phân tích lợi ích-chi phí là một phương pháp đánh giá sự mong muốn tương

đối giữa các phướng án cạnh tranh nhau, khi sự lựa chọn được đo lường bằng giá

trị kinh tế tạo ra cho toàn xã hội.

Phương pháp này tìm ra sự đánh đổi giữa các lợi ích mà xã hội có được từ một

phương án cụ thể với các nguồn tài nguyên thực mà xã hội phải từ bỏ để đạt được

nó.

Nói rộng hơn, phân tích lợi ích-chi phí là một khuôn khổ nhằm tổ chức

thông tin, liệt kê những thuận lợi và bất lợi của từng phương án xác định các giá trị

kinh tế có liên quan, và xếp hạng các phương án dựa vào các tiêu chí giá trị kinh

tế. Vì thế phân tích lợi ích-chi phí là một phương thức để thực hiện sự lựa chọn

chứ không phải chỉ là một phương pháp để đánh giá sự ưa thích.

2.2. Quy trình tổng quát:

Về cơ bản, phân tích lợi ích-chi phí bao gồm 3 bước:

Liệt kê tất cả các chi phí và lợi ích của dự án được đánh giá. (Bao gồm yếu

tố hữu hình và vô hình);2

Page 3: Phân tích chi tiêu công

Đánh giá giá trị lợi ích và chi phí dưới dạng tiền tệ;

Chiết khấu lợi ích ròng trong tương lai. Điều này cho phép quy đỏi chi phí

và lợi ích trong tương lai về giá trị hiện tại để so sánh với số tiền của ngân

sách cần thiết để tài trợ dự án;

Mặc dù các bước trên dường như có vẻ là đơn giản nhưng cũng đủ đáp ứng nhu

cầu phân tích. Phân tích chi phí lợi ích luôn đi theo một nối tiếp các bước đơn giản,

và toàn bộ quá trình này dựa trên phương pháp giải quyết vấn đề một cách khoa

học. Có thể đi sâu hơn vào phân tích lợi ích-chi phí bằng quy trình bao gồm 8 bước

lần lượt như sau:

Phân tích lợi ích và chi phí thường được tiến hành qua các bước như sau:

a. Xác định rõ chỗ đứng/vị thế khi phân tích: dự án đang xem xét là của ai, chi

phí do ai chịu, ai được hưởng lợi ích.

b. Xác định những phương án thay thế: Để giải quyết một vấn đề, có thể có

nhiều phương án được đưa ra. Một dự án được ban hành bao giờ cũng nhằm vào

việc giải quyết một vấn đề.

Người phân tích cần đưa được các lựa chọn thay thế tương ứng vào phân tích. Mốc

chuẩn để so sánh là hiện trạng (chưa có chính sách) so với kết quả khi thực hiện dự

án.

c. Nhận dạng chi phí &lợi ích của mỗi dự án đầu tư: đây là bước rất quan trọng

và không đơn giản đối với người phân tích. Trong bước này, người phân tích cần

liệt kê đầy đủ và chính xác các lợi ích và chi phí mà dự án đem lại. Nếu người

phân tích thiếu trách nhiệm hoặc thiếu sự khách quan, họ có thể bỏ sót những lợi

ích/chi phí có thể dẫn đến sự lựa chọn khác với mục đích cá nhân hoặc đem lại kết

quả bất lợi cho một nhóm người nào đó. Chi phí và lợi ích không chỉ được xác

định dựa vào sự tăng thêm các yếu tố đầu vào/ đầu ra, mà còn có thể từ việc giảm

đầu vào ( tăng lợi ích) hoặc giảm đầu ra (giảm lợi ích). Bên cạnh những kết quả có

giá thị trường, một số kết quả của dự án có thể không có giá thị trường như chất

3

Page 4: Phân tích chi tiêu công

lượng không khí, bảo tồn văn hóa, giảm stress ...Những lợi ích và chi phí này cũng

cần được nhận dạng và đưa vào phân tích.

d. Đánh giá lợi ích và chi phí của dự án: Sau khi nhận diện tất cả các chi phí và

lợi ích của chính sách, người phân tích sẽ tìm cách lượng hóa và đánh giá chúng.

Cụ thể, người phân tích sẽ sử dụng sự sẵn lòng trả (WTP -willing to pay) để đánh

giá lợi ích của chính sách và chi phí cơ hội để đánh giá chi phí nguồn lực được sử

dụng để thực hiện chính sách. WTP là khoản tiền mà một người sẵn lòng chi trả

hoặc nhận để có thể bang quan giữa tình trạng hiện tại và tình trạng khi có chính

sách đi kèm với khoản tiền này. Lợi ích của một chính sách là sự sẵn lòng trả của

mọi người cho chính sách đó (có hoặc không có). Chi phí cơ hội đo lường giá trị

của những gì mà xã hội phải từ bỏ để sử dụng các yếu tố đầu vào cho việc thực

hiện dự án.

e. Chiết khấu các giá trị lợi ích và chi phí trong tương lai để có được giá trị của

chúng ở thời điểm hiện tại : Do những giá trị lợi ích và chi phí có thể xuất hiện ở

những thời điểm khác nhau, nên để có thể so sánh chúng, người phân tích cần đưa

về một thời điểm, và thời điểm được sử dụng phổ biến nhất là thời điểm hiện tại.

Với một mức lãi suất là r, thì 1 đồng bỏ ra ở thời điểm hiện tại để đầu tư sẽ có giá

trị sau n năm là (1+r)n đồng. Do đó số tiền phải bỏ ra từ bây giờ để đem lại 1 đồng

sau n năm trong tương lai là (1+ r)- n đồng. Đây chính là giá trị hiện tại của 1 đồng

có thể sử dụng sau n năm trong tương lai. (1+ r)- n được gọi là hệ số chiết khấu ở

năm thứ n. Khi lấy giá trị của một khoản lợi ích xuất hiện vào năm thứ n trong

tương lai nhân lên với hệ số chiết khấu ở năm thứ n, ta sẽ có giá trị hiện tại của

khoản lợi ích. Áp dụng tương tự như vậy đối với chi phí.

f. So sánh lợi ích và chi phí: Sau khi có được giá trị hiện tại của các khoản chi phí

và lợi ích, việc tiếp theo là so sánh chúng với nhau để xác định lợi ích ròng hoặc hệ

số lợi ích/chi phí . Lợi ích ròng của dự án bằng tổng giá trị hiện tại của các lợi ích

trừ đi tổng giá trị hiện tại của các chi phí; Hệ số lợi ích/chi phí được tính bằng tổng

4

Page 5: Phân tích chi tiêu công

giá trị hiện tại các lợi ích chia cho tổng giá trị hiện tại các chi phí. Một chính sách

có kết quả lợi ích ròng dương sẽ tương đương với hệ số lợi ích/chi phí >1.

g. Xác định rủi ro và lý giải nguyên nhân: Mặc dù kết quả phân tích cho thấy

dự án có lợi ích ròng dương, nhưng để đảm bảo cho sự thận trọng khi quyết

định,người phân tích cần nhận diện những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực

hiện dự án và đánh giá mức độ quan trọng của chúng. Những rủi ro này có thể xảy

ra do nhiều nguyên nhân, liên quan tới những dự báo về môi trường kinh tế, xã hội

hay tự nhiên. Chẳng hạn, chính sách miễn phí khám chữa bệnh cho trẻ em trong

thành phố có thể bị thất bại do dân số tăng bất thường, hay do sự xuất hiện của

những căn bệnh mới…

Khi đưa yếu tố rủi ro vào phân tích, chúng ta sẽ có được những kết quả khác nhau

về giá trị lợi ích ròng. Bằng kỹ thuật phân tích độ nhạy, hay phân tích mô phỏng,

người phân tích có thể xác định được mức độ quan trọng của các yếu tố đầu vào

cũng như tính toán được giá trị ròng của chính sách trong điều kiện có rủi ro. Kết

quả phân tích rủi ro còn giúp cho người làm dự án có thể đưa ra các đề xuất (nhằm

vào nguyên nhân gây ra rủi ro) để hạn chế tối đa những bất trắc có thể xảy ra đối

với dự án.

h. Kết luận về việc lựa chọn dự án: Nếu lợi ích ròng (sau khi xác định rủi ro) là

một số dương, hoặc hệ số lợi ích/chi phí lớn hơn 1 thì đây là dấu hiệu cho thấy

chính sách có hiệu quả và đáng được thực hiện. Nếu có nhiều dự án đầu tư được

đưa ra phân tích, thì phương án chính sách nào có lợi ích ròng dương lớn nhất sẽ

được lựa chọn. Phân tích để đưa ra quyết định dự án là một quá trình phức tạp và là

nghệ thuật. Cũng từ đó, đòi hỏi các nhà quyết định chính sách cần có đủ thông tin

để làm chính sách đúng, đặc biệt là đối với chính sách công, vì tác động của chúng

thường có phạm vi rộng lớn, liên quan tới nhiều nhóm người trong xã hội. Quyết

định dự án dựa trên những phân tích logic, khoa học là hết sức cần thiết để tránh

những thiệt hại kinh tế, cải thiện phúc lợi xã hội.

5

Page 6: Phân tích chi tiêu công

2.3. Mục đích và ý nghĩa của phân tích lợi ích-chi phí

Phân tích chi phí lợi ích là “cơ sở thông tin cho việc lựa chọn tốt hơn”

Phương pháp này giúp các nhà làm quyết định so sánh các phương án, và sau đó

lựa chọn

Phân tích lợi ích chi phí áp dụng lý thuyết kinh tế để lựa chọn thông qua

phương pháp giải quyết vấn đề một cách khoa học. Như chúng ta đã chỉ ra, các

phương pháp phải được xác định, các kết quả phải được nhận định và định giá, và

tổng lợi ích ròng đối với xã hội được tính toán và so sánh. Sử dụng phương pháp

này sẽ khuyến khích việc sử dụng bản chất hệ thống của quá trình một cách rộng

rãi hơn trong suốt toàn bộ quá trình ra quyết định.

Phân tích lợi ích chi phí đôi khi có thể làm giảm tính phức tạp của mỗi quyết

định đến mức có thể quản lý được. Ví dụ, các kết quả theo nhiều chiều đôi khi có

thể được phối hợp thành một chiều, và đoi khi chúng có thể được định giá bằng

tiền. Hoặc cấu trúc của một dự án luôn luôn được làm rõ khi lợi ích, chi phí của nó

được nhận dạng, và khi dòng lợi ích ròng theo thời gian được xem xét

Phân tích lợi ích chi phí là một phương pháp hữu ích và logic để nghĩ về các

vấn đề và giải quyết các vấn đề. Các bước riêng biệt của phương pháp giúp ta hiểu

vân đề và các cách giải quyết chúng. Trong dài hạn, sự đóng góp của phương pháp

đối với cách hiểu vấn đề có lẽ là sự đóng góp quan trọng nhất.

Nhìn chung, phân ích lợi ích chi phí cung cấp một phương cách để đánh giá giá

trị kinh tế của các dự án , chương trình và chính sách theo một cách sao cho có thể

đơn giản logic và tương thích. Không phương pháp nào khác có thể cung cấp

những điều thuận lợi này, và không có cách đánh giá thay thế nào cho tiêu chuẩn

lợi ích ròng xã hội.

III. Đánh giá DAĐT:

3.1. Phương pháp đánh giá dự án đầu tư:

Để đánh giá dự án đầu tư, chúng ta có các phương pháp sau:

a. Thẩm định dự án đầu tư theo phương pháp lợi ích-chi phí;

6

Page 7: Phân tích chi tiêu công

Dự án đầu tư chỉ được chấp nhận khi có thu nhập ròng dương, tức là lợi ích lớn

hơn chi phí. Nếu cả hai dự án đều có thu nhập ròng dương thì nhà đầu tư sẽ chọn

dự án có thu nhập ròng lớn hơn.

Nguyên tắc lựa chọn là các sự án sẽ được đưa về giá trị hiện tại, lúc này các dự án

đều được định giá theo giá trị hiện tại nên có thể sử dụng nguyên tắc được áp dụng

đối với dự án đầu tư phát sinh thu nhập tức thời để thẩm định các dự án.

Công thức

Tiêu chí giá trị hiện tại để thẩm định dự án được xác định theo nguyên tắc:

Một dự án đầu tư chỉ có thể được chấp nhận khi giá trị hiện tại của nó

dương;

Nếu hai dự án phải loại trừ nhau thì dự án được chọn là dự án có giá trị hiện

tại lớn hơn;

b. Theo tỷ suất hoàn vốn nội bộ;

Nếu một dự án tạo ra một dòng thu nhập là (B) và chi phí đầu tư là (C) trong thời

gian T, thì tỷ suất hoàn vốn nội bộ (ŋ) hay gọi là tỷ suất nội hoàn, được xác định

thông qua phương trình sau:

Công thức

7

PV x=(B0x−¿C0x )+∑i=1

T

(B1x−C1x )

∑i=1

T

(1+ ri )i

¿

0=(B0x−¿C0x )+∑i=1

T

(Bi x−Ci x )

∑i=1

T

(1+ n )i

¿

Page 8: Phân tích chi tiêu công

Tỷ suất nội hoàn là tỷ suất chiết khấu làm cho giá trị hiện tại của dự án bằng

không.

Một dự án hiển nhiên được chấp nhận nếu (ŋ) lớn hơn chi phí cơ hội r.

c. Theo tỷ suất lợi ích và chi phí trong dự án đầu tư;

Một dự án đầu tư có dòng lợi ích được tạo ra là B0, B1, B2,…, BT và dòng chi phí là

là C0, C1, C2,…, CT.Giá trị hiện tại các dòng lợi ích là :

Công thức:

Một dự án để được chấp nhận yêu cầu tỷ suất lợi ích-chi phí sao cho phải lớn hơn

1, nghĩa là B-C >0. Điều này tương đương với tiêu thức giá trị hiện tại trong việc

lựa chọn dự án.

Qua 3 phương pháp đánh giá dự án trên qua các trường hợp thực tế chỉ có phương

pháp đánh giá theo giá trị hiện tại là tỏ ra đáng tin cậy nhất trong thẩm định dự án.

IV. Đánh giá dự án đầu tư công:

4.1. Tỷ suất chiết khấu của khu vực công

Việc tính toán chi phí lợi ích và tỷ suất chiết khấu trong khu vực công không giống

như khu vực tư. Như đã biết, ở khu vực tư việc lựa chọn tỷ suất chiết khấu phản

ảnh tỷ suất lợi nhuận mà từng dự án mang lại. Trong khi việc lựa chọn tỷ suất chiết

khấu đối với các dự án đầu tư công thường ít đạt được sự nhất trí giữa các nhà

hoạch định chính sách. Tuy nhiên có một số cách lựa chọn tỷ suất chiết khấu:

a. Xác định tỷ suất chiết khấu dựa vào tỷ suất lợi nhuận của khu vực tư.

Trường hợp khu vực tư sử dụng toàn bộ thu nhập để đầu tư: tỷ suất lợi nhận

trước thuế đối với cơ hội đầu tư của khu vực tư là thước đo quan trọng để

thẩm định các dự án công.

8

BC

=B 0+¿¿¿¿¿

Page 9: Phân tích chi tiêu công

Trường hợp khu vực tư sử dụng một phần thu nhập để đầu tư và một phần

thu nhập để tiêu dùng: với giả thiết này số tiền mà chính phủ lấy đi để đầu tư

vào các dự án công thể đem sử dụng cho cả tiêu dùng lẫn đầu tư. Trường

hợp này, tỷ suất chiết khấu dùng để thẩm định dự án công tùy thuộc vào

quyết định của khu vực tư trong việc phân phối thu nhập.

Nếu khu vực tư dành hết thu nhập cho đầu tư, thì tỷ suất lợi nhuận trước

thuế của dự án đầu tư là tỷ suất chiết khấu thích hợp cho sự lựa chọn thẩm

định dự án công.

Còn nếu toàn bộ thu nhập của khu vực đem sử dụng cho tiêu dùng thì chi

phí cơ hội cho mỗi đồng tiêu dùng trong hiện tại có thể sử dụng làm tỷ suất

chiết khấu để thẩm định dự án công.

b. Tỷ suất chiết khấu xã hội

Tỷ suất chiết khấu là tỷ lệ phần trăm của lãi suất lũy tích dùng để điều chỉnh

để đưa các lợi ích và chi phí trong tương lai về giá trị hiện tại tương đương .

Quá trình điều chỉnh này gọi là chiết khấu.

Hay nói cách khác tỷ suất chiết khấu xã hội là tỷ suất mà ở đó xã hội đánh

đổi tiêu dùng hiện tại để có được tiêu dùng trong tương lai. Như vậy, suất

chiết khấu xã hội phản ánh mức lợi nhuận có thể thu được từ các nguồn lực

nếu như được khu vực tư khai thác và sử dụng.

Bản chất của tỷ suất chiết khấu xã hội thể hiện chi phí cơ hội của các quỹ

tiền tệ được chính phủ đầu tư vào các dự án công. Và để tránh lãng phí

những nguồn lực mà khu vực tư có thể kiếm được với tỷ suất lợi nhuận cao

thì không nên chuyển sang cho khu vực công.

Tuy nhiên, tỷ suất chiết khấu xã hội trong các dự án công thường có tỷ suất

chiết khấu nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận thị trường . Có thể liệt ra một vài

nguyên nhân sau:

Sự quan tâm đến thế hệ tương lai: các nhà hoạch định chính sách

công là luôn quan tâm đến phúc lợi xã hội không chỉ quan tâm đến

thế hệ hiện tại mà còn cả thế hệ tương lai khác hẳn với khu vực tư

9

Page 10: Phân tích chi tiêu công

chỉ quan tâm đến lợi nhuận nên suất chiết khấu rất cao đối với các

khoản thu nhập trong tương lai.

Thuyết phụ quyền: chính phủ mong muốn người dân tiêu dùng ít

thu nhập ở hiện tại để có nhiều lợi ích hơn trong tương lai vì họ

cho rằng người dân có “sự khiếm khuyết về tầm nhìn xa” nên họ

tính chiết khấu các khoản lợi ích trong tương lai với tỷ suất rất cao.

Tính kém hiệu quả của thị trường: chính phủ muốn dùng tỷ suất

chiết khấu thấp để khắc phục tính kém hiệu quả của thị trường.

4.2. Đánh giá các yếu tố vô hình trong dự án công.

Đánh giá yếu tố vô hình trong dòng lợi ích và chi phí của các dự án công là rất

khó và có thể nói đây là trở ngại lớn nhất trong thẩm định dự án công.

Các yếu tố vô hình có thể làm sai lệch đánh giá các dự án công theo phương

pháp chi phí và lợi ích.

Công cụ phân tích chi phí lợi ích đôi khi còn có những khiếm khuyết trong việc

đánh giá các yếu tố vô hình.

Có thể dùng phương pháp khác như phân tích chi phí hiệu quả để tính ngược

dòng chi phí của một dự án công, nó giúp nghiên cứu một cách hệ thống dòng

chi phí và từ đó tìm ra phương án rẻ nhất để dự án có thể chấp nhận được.

4.3. Đánh giá các khía cạnh phân phối trong các dự án công

Mục tiêu của chính phủ trong các dự án công là tối đa hóa phúc lợi xã hội,

nên hàm ý phân phối của các dự án công cần phải quan tâm đặc biệt đến vấn

đề này. Cách duy nhất để giải quyết vấn đề phân phối là yêu cầu chính phủ

phải điều chỉnh có hiệu quả các khía cạnh phân phối bất hợp lý của một dự

án bằng cách tạo ra sự chuyển giao hợp lý thu nhập giữa những người được

lợi và những người bị tổn thất. Chính phủ phải kiên trì chính sách như vậy

cho đến khi nào đạt được tính tối ưu trong phân phối thu nhập

4.4. Đánh giá tính không chắc chắn trong các dự án công

Khi phân tích chi phí và lợi ích của một dự án rủi ro, chúng ta nên biến đổi thành

giá trị tương đương chắc chắn. Giá trị tương đương chắc chắn là số lượng thu nhập

10

Page 11: Phân tích chi tiêu công

chắc chắn mà một cá nhân sẵn lòng đánh đổi cho tập hợp các kết quả không chắc

chắn phát sinh từ dự án. Việc tính toán giá trị tương đương chắc chắn đòi hỏi phải

có thông tin về phân phối thu hập của dự án và mức độ không ưa thích rủi ro của

các đối tương liên quan

V. Các cạm bẫy trong BCA DAĐT công.

a. Phản ứng có tính dây chuyền:

Nhìn chung, vấn đề phản ứng dây chuyền coi sự thay đổi lợi ích chỉ là một sự

chuyển giao. Sự tăng giá hàng hóa làm chuyển giao thu nhập từ những người tiêu

dùng hàng hóa đến tay nhà sản xuất, Điều này không phải là khoản lợi ích ròng của

dự án. Vì vậy khi đưa ra dự án đầu tư cần phải xem xét đến những vấn đề phân

phối thu nhập. Nếu như có tính đến các lợi ích dây chuyền của dự án thì cũng phải

quan tâm đến những tổn thất dây chuyền mà dự án gây ra.

b. Việc làm của người lao động

Giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động cũng là một trong những tiêu thức

quan trọng để đánh giá dự án công. Tiền lương trả cho người lao động được xem

như lợi ích của dự án. Điều này cần cân nhắc bởi lẽ tiền lương thuộc về yếu tố chi

phí chứ không phải khía cạnh lợi ích.

c. Sự trùng lắp trong tính toán:

Ta có thể thấy nếu chính phủ tiến hành giải tỏa, đền bù một khu đất có dân cư sinh

sống để tiến hành xây dựng thành một khu dân cư tập trung và cho người dân có

quyền sinh sống trong khu tái định cư của dự án. Lợi ích của dự án này là làm

tăng : giá trị hiện tại của mảnh đất và làm tăng chất lượng của cuộc sống khi sống

trong khu dân cư tập trung này.

Vấn đề được đặt ra ở đây là người dân trong trường hợp này phải lựa chọn hoặc

chờ để có được căn hộ trong khu tái định cư hoặc bán mảnh đất đó cho người khác

theo giá thị trường. Tuy nhiên người dân không thể thực hiện đồng thời cả hai bên

nếu tính cả hai lựa chọn thì có sự tính trùng về lợi ích.

VI. Liên hệ thực tế hiệu quả đầu tư công Việt Nam.

11

Page 12: Phân tích chi tiêu công

4.1. Thực trạng đầu tư từ nguồn vốn nhà nước ở Việt Nam

Trong thời gian qua, hoạt động đầu tư phát triển (ĐTPT) của khu vực kinh tế

nhà nước (KTNN) đã góp phần quan trọng trong thúc đẩy và phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, thực tế nguồn vốn này vẫn chưa phát huy

hiệu quả cao. Cơ chế phân bổ và thực hiện vốn vẫn tập trung quá nhiều vào

lĩnh vực hạ tầng cơ sở, chưa đầu tư thoả đáng cho các dự án có khả năng thu

hồi vốn, trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá làm tăng GDP. Bài viết phân tích,

thực trạng hoạt động đầu tư từ nguồn vốn nhà nước ở Việt Nam thời gian

qua.

Quy mô, cơ cấu vốn đầu tư

Quy mô vốn đầu tư

Trong thời gian từ 2005 đến 2012, tỷ trọng vốn ĐTPT toàn xã hội luôn chiếm rất

cao trong GDP (cao nhất là năm 2007 với 46,52%). Tuy nhiên, tỷ trọng này đang

có xu hướng giảm mạnh, đến năm 2012 chỉ còn 33,5% trong GDP. 

Trong thời gian từ 2009-2012, tỷ trọng vốn đầu tư trong GDP theo 3 khu vực sở

hữu đều giảm (KTNN - 11%; khu vực kinh tế ngoài nhà nước -3,96% và khu vực

kinh tế có vốn FDI -18,54%). Sự sụt giảm tỷ trọng vốn đầu tư/GDP của khu vực

KTNN là do chủ trương cắt giảm đầu tư công trong thời gian qua. 

12

Page 13: Phân tích chi tiêu công

Số liệu tại bảng 1 cho thấy, tổng vốn ĐTPT toàn xã hội đã liên tục tăng từ 343.135

tỷ đồng năm 2005 lên 989.300 tỷ đồng năm 2012 (tăng lên 2,88 lần). Trong đó,

khu vực vốn FDI tăng nhanh nhất (4,5 lần); tiếp đến là khu vực kinh tế ngoài nhà

nước (2,95 lần) và cuối cùng là khu vực KTNN 2,32 lần. Nhìn chung, quy mô vốn

cho ĐTPT đều tăng trong thời gian từ 2005 - 2012, tuy nhiên có xu hướng chững

lại trong tất cả các khu vực (năm 2012 chỉ cao hơn so với năm 2011 là 64.805 tỷ

đồng), đặc biệt là trong 2 năm gần đây, tổng vốn đầu tư nhà nước đã không còn

chiếm ưu thế mà đứng sau khu vực kinh tế ngoài nhà nước. 

Điều này một phần là do trong năm 2011, Chính phủ thực hiện rà soát, cắt giảm,

điều chuyển vốn đầu tư nhằm sử dụng hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí theo

tinh thần Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 và năm 2012 triển khai thực

hiện Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng

cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước (NSNN) và vốn trái phiếu chính

phủ.

Cơ cấu vốn đầu tư

Vốn ĐTPT từ khu vực KTNN có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong toàn bộ giai

đoạn 2005-2012 từ 47% xuống còn khoảng 37%. Vốn ĐTPT từ khu vực ngoài nhà

nước giữ nguyên tỷ trọng trong giai đoạn này. Khu vực FDI có sự gia tăng đóng

13

Page 14: Phân tích chi tiêu công

góp cho vốn ĐTPT được coi là một tín hiệu đáng mừng. Tỷ trọng đóng góp vốn

ĐTPT của khu vực này tăng từ 14,89% năm 2005 lên 23,2% năm 2012.

Trong tổng vốn, giá trị vốn đầu tư nhà nước từ 2005 - 2012, vốn đầu tư từ NSNN

luôn tăng và đứng đầu qua các năm. Điều này phản ánh thực tế gia tăng chi tiêu

công của Nhà nước cho phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua.

Trong thời gian 2005 - 2012, tỷ lệ giữa vốn đầu tư từ NSNN/tổng vốn đầu tư của

Nhà nước luôn chiếm tỷ trọng cao nhất tuy tăng giảm không đều (năm 2005 - 2010

chiếm bình quân tới 55,6%, thậm chí năm 2008, 2009 là trên 60%, năm 2010 là

44,8%, năm 2011 là 52,1 và năm 2012 là 54,8%) (Hình 1). 

Hiệu quả vốn đầu tư

Hiệu quả kinh tế

Quy mô đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước trong thời gian qua duy trì tăng

trưởng ở mức 2 con số và có sự chậm lại trong những năm gần đây (mức tăng

trung bình giai đoạn 2001 – 2005 đạt 12,68%/ năm, giai đoạn 2006 – 2010 là

11,54%/năm và xuống khoảng 6% trong năm 2011 - 2012).

Qua các số liệu ở trên có thể thấy, trong tổng vốn đầu tư của khu vực nhà nước từ

năm 2005 - 2012, vốn đầu tư từ NSNN luôn chiếm tỷ khối lượng lớn nhất so với 14

Page 15: Phân tích chi tiêu công

các nguồn vốn khác. Điều này phản ánh thực tế gia tăng chi tiêu công của Nhà

nước cho phát triển kinh tế - xã hội. Tuy vậy, nếu so sánh với những nỗ lực cắt

giảm chi tiêu công qua NSNN thì mục tiêu này chưa đạt được hiệu quả khi năm

2012, tỷ trọng vốn đầu tư từ NSNN vẫn lên tới 54,8%.

Mô hình tăng trưởng của Việt Nam dựa quá nhiều vào vốn ĐTPT và phát triển

theo chiều rộng. Các nhân tố phát triển theo chiều sâu ngày càng bị lấn át. Trong

toàn bộ giai đoạn 2001-2010, sự đóng góp của vốn vào tăng trưởng chiếm tỷ trọng

trung bình tới 55,65%, tỷ trọng đóng góp cao nhất vào năm 2009 với 72,37%. 

Trong khi đó, sự đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng chiếm trung bình

25,21% trong giai đoạn 2001-2010, cao nhất vào năm 2009 với 34,02%. Mức độ

đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng chiếm

tỷ trọng nhỏ nhất với 19,15%. Đóng góp của yếu tố TFP này không ổn định, biểu

hiện qua sự “biến động” của nền kinh tế thế giới trong năm 2008 - 2009 với mức

độ đóng góp tương ứng là 7,29% và -6,39%. 

15

Page 16: Phân tích chi tiêu công

Trong giai đoạn 2000-2006, TFP đóng góp vào tăng trưởng kinh tế 11,6%, trong

đó khu vực KTNN đóng góp 4,5%; kinh tế ngoài Nhà nước: 5,4% và kinh tế có

vốn FDI chỉ đạt 1,7%.

Đến giai đoạn 2007-2012, yếu tố TFP chỉ đóng góp vào tăng trưởng 6,4%. Trong

đó, khu vực KTNN đóng góp 2,2%, ngoài Nhà nước: 3,0% và kinh tế có vốn FDI:

1,2%. Như vậy, sự đóng góp của TFP vào nền kinh tế theo các phân tích này đều

nhỏ, trong đó có khu vực KTNN, chứng tỏ tính hiệu quả chưa cao của khu vực

này.

Bức tranh tổng thể về ĐTPT trong những năm vừa qua ở nước ta có biểu hiện chưa

tích cực, trong đó ĐTPT của khu vực KTNN có một vị trí, vai trò rất quan trọng.

Nguồn vốn này góp phần thu hút được nhiều nguồn lực trong nước và ngoài nước

cho ĐTPT, góp phần tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế quan trọng. Bên

cạnh những thành tích đã đạt được, hiệu quả đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước

trong thời gian qua chưa cao.

Chỉ số ICOR của kinh tế Việt Nam từ mức 3,3 giai đoạn 1991 - 1995 đã tăng lên

đến mức 7,04 giai đoạn 2001 - 2005 và mức 6,18 giai đoạn 2006 - 2010. Nhờ vào

những biện pháp tái cơ cấu, tập trung vào nâng cao hiệu quả đầu tư, hệ số ICOR

trong hai năm 2011 - 2012 đã giảm đáng kể, đạt mức khoảng 4,6. Xét về từng dự

án, còn không ít dự án đầu tư có hiệu quả thấp, không đáp ứng được yêu cầu phát

triển kinh tế và xã hội, cá biệt có những dự án, nội dung đầu tư trùng lắp, chồng

chéo, hoặc gây cản trở, làm mất hiệu quả của các dự án đã được đầu tư trước đó.

Qua các số liệu tính toán trên, ta thấy hiệu quả đầu tư từ khu vực Nhà nước có thể

được chia thành hai thời kỳ:

Từ 2005-2009, hệ số ICOR tăng dần. Mặc dù tỷ lệ đầu tư từ khu vực Nhà nước so

với GDP khu vực Nhà nước không tăng mà còn giảm đi trong giai đoạn này nhưng

việc tạo ra giá trị gia tăng đã giảm sút, dẫn tới giá trị hệ số ICOR khu vực này tăng

lên nhanh chóng, bất chấp nỗ lực cắt giảm, hạn chế đầu tư công của khu vực Nhà

nước. Trong đó, vốn đầu tư từ NSNN có tỷ trọng lớn nhất cũng chính là một trong

16

Page 17: Phân tích chi tiêu công

những nguyên nhân dẫn tới sự kém hiệu quả của đầu tư khu vực nhà nước nói

chung. 

Từ 2010-2012, ICOR có xu hướng giảm dần, chứng tỏ được hiệu quả đầu tư của

khu vực KTNN đã dần được cải thiện theo hướng tích cực. Tuy nhiên, tính chung

cho giai đoạn 2005-2012, hiệu quả đầu tư của khu vực KTNN vẫn rất thấp khi giá

trị hệ số ICOR là 8,58.

Nhìn chung trong cả giai đoạn 2000-2012, ĐTPT từ nguồn vốn NSNN không hiệu

quả nếu xét theo khía cạnh tạo việc làm cho lao động. Tuy nhiên, điều này có thể

được giải thích như sau: theo xu hướng thì khu vực Nhà nước cần giảm dần về tỷ

trọng trong GDP, vốn và lao động do tính mở của cơ chế thị trường và các quy tắc

ràng buộc khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Khu vực Nhà nước

vốn mang đặc trưng kém hiệu quả, linh hoạt. Vì vậy, lao động được rút ra khỏi khu

vực này chưa hẳn là một dấu hiệu tiêu cực.

Hiệu quả xã hội

Giảm nghèo là một trong những mục tiêu ưu tiên ở nước ta. ĐTPT có hiệu quả thể

hiện ở việc giảm tỷ lệ hộ nghèo qua các năm được xem xét qua hệ số co giãn

(HSCG)

Để đo lường sự tác động của ĐTPT vào giảm đói nghèo có thể xem xét mối quan

hệ giữa tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư của khu vực KTNN và tốc độ giảm tỷ lệ hộ

nghèo. Qua số liệu trên, HSCG giữa đầu tư của khu vực KTNN và giảm nghèo

mang giá trị âm, điều này chứng tỏ đầu tư của khu vực này có tác động tích cực tới

17

Page 18: Phân tích chi tiêu công

giảm nghèo. Giá trị tuyết đối của hệ số này đã tăng lên từ 1,19 tới 1,67 chứng tỏ

tác động tích cực của vốn ĐTPT tới giảm nghèo của giai đoạn sau so với giai đoạn

trước.

4.2. Một số đề xuất trong giai đoạn tới

Bên cạnh những kết quả tích cực mang lại, thực tế đầu tư từ nguồn vốn Nhà nước

vẫn mang tính kém hiệu quả, dàn trải, chưa đồng đều, do đó kết quả mang lại chưa

như mong đợi… Để có thể khắc phục được hạn chế này, tác giả đề xuất một số vấn

đề sau:

Thứ nhất, khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải và chậm tiến độ trong đầu

tư xây dựng: Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan đã được phân cấp trong quản

lý, phân bổ vốn đầu tư. Ban hành các quy định cụ thể, có chế tài ràng buộc trách

nhiệm bảo đảm vốn và phê duyệt dự án đầu tư. Nâng cao trình độ xây dựng, phân

tích, thẩm định và quản lý dự án của cán bộ các cấp. Xây dựng các tiêu chí lựa

chọn dự án đầu tư để hạn chế việc can thiệp, chi phối, đưa ra quá nhiều dự án,

không phù hợp với khả năng nguồn vốn. Tổ chức tốt công tác giải phóng mặt bằng

để đảm bảo tiến độ xây dựng. Đơn giản hoá thủ tục đầu tư và đấu thầu. 

18

Page 19: Phân tích chi tiêu công

Thứ hai, nâng cao hiệu suất, hiệu quả của công trình, dự án: Nâng cao chất lượng

của báo cáo nghiên cứu khả thi của các dự án đầu tư; thuê các tư vấn giỏi để hỗ trợ

trong các khâu tư vấn dự án, tư vấn thiết kế, lập tổng dự toán. Nghiên cứu, khảo sát

kỹ trước khi quyết định đầu tư. Quy định rõ trách nhiệm của người quyết định đầu

tư đối với kết quả thực hiện dự án; Thực hiện tốt công tác chuẩn bị thực hiện dự

án; tính toán đầy đủ các yếu tố và điều kiện khai thác, sử dụng để có thể vận hành,

đưa công trình vào sử dụng ngay sau khi hoàn thành.

Thứ ba, tăng cường công tác theo dõi, đánh giá và kiểm tra, thanh tra đầu tư từ

NSNN: Thực hiện theo dõi, đánh giá dựa trên kết quả đối với các dự án đầu tư.

Các bộ, ngành, địa phương thực hiện giám sát ngay từ khâu lập dự án, thẩm định,

bố trí vốn đầu tư, đảm bảo tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch được duyệt.

19

Page 20: Phân tích chi tiêu công

Khẩn trương triển khai công tác giám sát cộng đồng đối với đầu tư bằng nguồn vốn

nhà nước để góp phần làm nguồn vốn này được quản lý và sử dụng một cách công

khai, minh bạch, chống được thất thoát, lãng phí và tham nhũng; Thực hiện có hiệu

quả công tác giám sát, phối hợp sự tham gia của các bên hữu quan đối với các dự

án đầu tư công, đầu tư có nguồn từ NSNN đảm bảo công khai, minh bạch cao.

Điều này sẽ có tác động tích cực tới không chỉ đầu tư của khu vực công, NSNN mà

còn có tác động tới hiệu quả của đầu tư tư nhân; Có cơ chế phối hợp giữa các cơ

quan có liên quan trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, trong giám sát và kiểm

soát các dòng lưu chuyển vốn.

20